1. ĐẶt vẤn ĐỀbomonnoiydhue.edu.vn/upload/file/chuyen_de_ncs/danhgiachucnangthatphai.pdf ·...
TRANSCRIPT
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Các kết quả của nhiều nghiên cứu trong ba thập kỷ gần đây đã thừa nhận
tầm quan trọng của chức năng tâm thất phải (RV) trong tim mạch. Những ảnh
hưởng của rối loạn chức năng thất phải trong bệnh cơ tim giãn và thiếu máu
cục bộ đã được chứng minh [9], đặc biệt đối với bệnh tim bẩm sinh, rối loạn
chức năng thất phải đóng vai trò chủ chốt trong quá trình diễn tiến của rất
nhiều các bệnh lý tim bẩm sinh phức tạp.Ngày nay, tỷ lệ tử vong sớm sau
phẫu thuật sữa chữa đã giảm xuống mức rất thấp, và sự quan tâm đã chuyển
sang cải thiện kết quả lâu dài và bảo tồn chức năng tâm thất phải. Thay đổi
chăm sóc của chúng tôi đối với tứ chứng Fallot sau phẫu thuật sữa chữa
hoàn toàn là một minh chứng cụ thể. Tỷ lệ bệnh nhân sau phẫu thuật sữa
chữa hoàn toàn tứ chứng Fallot có suy chức năng thất phải chiếm một tỷ lệ
đáng kể. Đa số các bệnh nhân thường không có biểu hiện triệu chứng lâm
sàng rõ rệt. Để đánh giá chức năng thất phải ở bệnh nhân tứ chứng Fallot sau
phẫu thuật sữa chữa hoàn toàn nói riêng và các bệnh tim mạch khác, thường
có một số phương pháp đánh giá chức năng thất phải như:
Điện tâm đồ,X quang tim phổi,Cộng hưởng từ,Chụp cắt lớp vi tính,Siêu âm
tim,Thông tim…
Tuy nhiên, Siêu âm tim nổi bật lên như là một kỹ thuật đơn giản, và
được thực hiện dễ dàng, nhanh ngay tại giường bệnh nhân ở nhiều bệnh viện,
đồng thời nó cũng là một trong những phương tiện khá quan trọng trong việc
đánh giá rối loạn chức năng thất phải ở các bệnh lý tim mạch có liên quan,
đặc biệt là các bệnh cơ tim thiếu máu cục bộ, tâm phế mạn, tứ chứng Fallot,…
Phương pháp nghiên cứu giải phẫu tim bằng siêu âm cho thấy có
nhiều ưu điểm hơn các phương pháp cổ điển. Đó là phương pháp thăm dò
hình thái và huyết động không chảy máu, không gây biến chứng và có thể
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
lặp đi lặp lại nhiều lần, thuận tiện cho việc chẩn đoán cũng như theo dõi
tiến triễn của nhiều bệnh tim mạch [17] . Siêu âm Doppler rất có ích để
khảo sát hình thái của buồng tim, cơ tim, các van tim và hệ thống mạch
máu. Không những thế, nó còn cho ta một đánh giá khá chính xác về chức
năng của bơm tim, gồm cả chức năng tâm thu và tâm trương. Trong đó
hình thái và chức năng tâm thu thất phải cũng là những chỉ số khá quan
trọng, giúp người thầy thuốc có một cách xử trí đúng đắn trước những bệnh
lý có ảnh hưởng đến tim phải [19].Nhằm tìm hiểu kỹ thêm về kỹ thuật đo
chức năng thất phải và giá trị của nó trong việc đánh giá chức năng thất phải ở
các các bệnh tim mạch, tôi tiến hành viết chuyên đề: đánh giá chức năng thất
phải bằng siêu âm tim trong bệnh lý tim mạch.
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Sơ lược về lịch sử siêu âm tim
- Spallanzani (1729-1799) đã phát hiện ra sóng siêu âm. Dussik KT
(1941) là người đầu tiên áp dụng sóng siêu âm trong chẩn đoán y khoa.
Edler I và Hertz CH là những người đầu tiên sử dụng sóng siêu âm để
khám tim, họ đã ghi lại được hình ảnh siêu âm tim M-mode lần đầu tiên
vào năm 1953 [1],[2],[5].
- Năm 1960 đánh dấu một tiến bộ lớn trong việc phát minh ra siêu âm
hai bình diện theo thời gian thực tại Nhật Bản và Châu Âu. Griffith và Henry
W (1974) đã đưa ra đầu dò quét cơ học và cũng cùng năm Thurstone FJ và
Von Ramm ứng dụng đầu dò quạt điện tử. Doppler CA (1803-1853) đã phát
hiện ra hiệu ứng âm học được đặt tên ông là hiệu ứng Doppler. Satomura
(1957) là người đầu tiên nghiên cứu hiệu ứng Doppler đo vận tốc vận động
của tim và của hồng cầu. Barber FE (1974) đã nghiên cứu sử dụng phối hợp
Doppler với hình ảnh siêu âm hai bình diện gọi là kiểu Duplex. Brandestini
MA (1978) đã tạo ra dụng cụ cho phép nhìn thấy hình ảnh Doppler màu ở
chế độ thời gian thực.
- Ngày nay siêu âm M-mode, 2D, Doppler xung, liên tục, màu và
Doppler mô tim được hợp nhất trong một cấu hình máy siêu âm chẩn đoán là
một phương pháp thăm dò huyết động và hình ảnh học không xâm lấn
[1],[2],[5],[6],[7].
2.2. Nguyên lý của siêu âm Doppler tim
Siêu âm là một dạng năng lượng gây ra bởi những xung động cơ học
có tần số trên 20.000 Hertz. Siêu âm được tạo thành từ điện năng là do một
bộ phận nhận biến bằng chất áp điện. Sóng siêu âm được phát ra đều đặn
và đi vào các tổ chức của cơ thể. Khi gặp các tổ chức, sóng siêu âm phản
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
xạ trở lại và đến bộ phận nhận biến rồi được chuyển thành điện năng, được
khuyếch đại và hiện lên màn hình. Quan sát màn hiện sóng, người ta biết
được các vị trí tương ứng của những thành phần nằm trong môi trường có
chùm siêu âm đi qua [1], [5].
Hiệu ứng Doppler được tìm ra vào năm 1842 bởi nhà toán học người Áo
Christian Johann Doppler (1803 - 1853), lúc đó ông dùng để giải thích hiện
tượng lệch màu sắc của các ngôi sao đang chuyển động. Hiệu ứng Doppler
đúng với tất cả các loại sóng, trong đó có cả sóng siêu âm. Hiệu ứng Doppler
sử dụng trong phương pháp siêu âm Doppler xảy ra khi sóng siêu âm được
phản hồi từ các vật thể chuyển động, như các tế bào hồng cầu, thành mạch, cơ
co…, khi đó tần số sóng phản hồi sẽ khác với tần số của sóng tới, và hiệu của
hai tần số gọi là độ lệch Doppler hay tần số Doppler. Tần số Doppler ∆f của
tín hiệu hồi âm từ tế bào máu đang chuyển động so với tần số phát lúc ban
đầu được xác định bởi công thức: ∆f = fTX - fRX = 2ˣfTXˣvˣcosθ/c. Trong đó c
là vận tốc lan truyền trong mô của sóng âm (# 1540 m/s), v là vận tốc dòng
cần khảo sát, fTX là tần số sóng phát, θ là góc tạo giữa trục của chùm tia siêu
âm và dòng chảy. Từ công thức trên nhận thấy tần số Doppler phụ thuộc vào
góc θ, ∆f lớn nhất khi trục chùm tia siêu âm có phương song song với phương
của dòng chảy, khi trục chùm tia siêu âm vuông góc với phương dòng chảy
cosθ = 0 thì không ghi nhận được tín hiệu Doppler.
Hiệu ứng Doppler làm tăng hoặc giảm tần số của tín hiệu phản hồi so với
tín hiệu phát một khoảng ∆f phụ thuộc vào chiều của dòng chảy. Khi đánh giá
tín hiệu phản hồi của dòng chảy: Các vận tốc của dòng chảy hướng về phía
đầu dò sẽ được biểu thị trên đường zero của phổ Doppler (∆f có giá trị dương)
và được mã hóa màu đỏ trên hình Doppler màu, các vận tốc của dòng chảy
hướng ra xa đầu dò sẽ được hiển thị bên dưới đường zero (∆f có giá trị âm) và
được mã hóa màu xanh trên hình Doppler màu [5],[19].
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
2.3. Các loại siêu âm Doppler tim được sử dụng
Siêu âm kiểu A: Đây là kiểu siêu âm cổ điển nhất, ngày nay chỉ còn sử
dụng trong phạm vi hẹp, như chuyên khoa mắt với mục đích đo khoảng cách,
vì nó rất chính xác trong chức năng này. Các tín hiệu thu nhận từ đầu dò được
biến thành những xung có đỉnh nhọn, theo nguyên tắc biên độ của sóng siêu
âm phản xạ càng lớn, biên độ của xung càng cao và ngược lại. Như vậy trên
màn hình chúng ta không nhìn thấy hình ảnh mà chỉ thấy các xung. Thời gian
xuất hiện các xung sẽ phản ánh chính xác khoảng cách từ các vị trí xuất hiện
sóng siêu âm phản xạ.
Siêu âm kiểu 2D: Hay còn gọi là siêu âm 2 bình diện, kiểu siêu âm này
hiện nay đang được sử dụng phổ biến nhất trong tất cả các chuyên khoa.Có
thể nói chính siêu âm 2D là một cuộc cách mạng trong ngành siêu âm chẩn
đoán. Vì đây là lần đầu tiên chúng ta có thể nhìn được các cấu trúc bên trong
của cơ thể và sự vận động của chúng, chính vì vậy nó đã mở ra thời kỳ ứng
dụng rộng rãi của siêu âm trên lâm sàng. Nguyên lý của siêu âm 2D như sau:
những tín hiệu siêu âm phản xạ được đầu dò tiếp nhận sẽ biến thành dòng
điện xoay chiều, dòng điện này sẽ mang theo 2 thông tin về mức độ chênh
lệch trở kháng tại biên giới giữa các cấu trúc khác nhau và khoảng cách của
các cấu trúc này so với đầu dò. Dòng điện sau đó được xử lý biến thành các
chấm sáng có mức độ sáng khác nhau tuỳ theo dòng điện lớn hay nhỏ và vị trí
của chúng theo đúng khoảng cách từ đầu dò đến mặt phân cách có phản hồi
âm. Như vậy các thông tin này sẽ được thể hiện trên màn hình thành vô vàn
những chấm sáng với cường độ khác nhau, được sắp xếp theo một thứ tự nhất
định tái tạo nên hình ảnh của các cơ quan, cấu trúc mà chùm tia đã đi qua. Để
nghiên cứu các cấu trúc có vận động trong cơ thể như tim và các mạch máu
người ta chế tạo các đầu dò có thể ghi lại rất nhiều hình ảnh vận động của
chúng ở các thời điểm khác nhau trong một đơn vị thời gian (> 24 hình/ giây)
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
và như vậy những vận động của các cơ quan này sẽ được thể hiện liên tục
giống như vận động thực của nó trong cơ thể và người ta gọi là siêu âm hình
ảnh thời gian thực (real time). Tất cả các máy siêu âm hiện nay đều là hình
ảnh thời gian thực [2], [5].
Siêu âm kiểu TM: Để đo đạc các thông số siêu âm về khoảng cách, thời
gian đối với những cấu trúc có chuyển động, nhiều khi trên siêu âm 2D gặp
nhiều khó khăn. Do đó để giúp cho việc đo đạc dễ dàng hơn người ta đã cho
ra đời kiểu siêu âm M mode hay còn gọi là TM (Time motion), đó là kiểu siêu
âm vận động theo thời gian, ở đó chùm tia siêu âm được cắt ở một vị trí nhất
định, trục tung của đồ thị biểu hiện biên độ vận động của các cấu trúc, trục
hoành thể hiện thời gian. Như vậy những cấu trúc không vận động sẽ thành
những đường thẳng, còn những cấu trúc vận động sẽ biến thành những đường
cong với biên độ tuỳ theo mức độ vận động của các cấu trúc này. Sau đó khi
dừng hình chúng ta có thể dễ dàng đo được các thông số về khoảng cách, biên
độ vận động, thời gian vận động...Kiểu TM được sử dụng nhiều trong siêu âm
tim mạch [2], [5].
Siêu âm Doppler: Đây cũng là một tiến bộ lớn của siêu âm chẩn đoán vì
nó cung cấp thêm những thông tin về huyết động, làm phong phú thêm giá trị
của siêu âm trong thực hành lâm sàng, đặc biệt đối với siêu âm tim mạch.
Bằng hiệu ứng Doppler, người ta đã đưa vào sử dụng Doppler xung, Doppler
liên tục, Doppler màu, Doppler mô giúp cho khảo sát được biến đổi hình thái,
chức năng và huyết động của tim.
Siêu âm kiểu 3D: Trong những năm gần đây siêu âm 3D đã được đưa
vào sử dụng ở một số lĩnh vực, chủ yếu là sản khoa. Hiện nay có 2 loại siêu
âm 3D, đó là loại tái tạo lại hình ảnh nhờ các phương pháp dựng hình máy
tính và một loại được gọi là 3D thực sự hay còn gọi là Live 3D. Siêu âm 3D
do một đầu dò có cấu trúc khá lớn, mà trong đó người ta bố trí các chấn tử
nhiều hơn theo hình ma trận, phối hợp với phương pháp quét hình theo chiều
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
không gian nhiều mặt cắt, các mặt cắt theo kiểu 2D này được máy tính lưu
giữ lại và dựng thành hình theo không gian 3 chiều. Ngày nay có một số máy
siêu âm thế hệ mới đã có siêu âm 3 chiều cho cả tim mạch, tuy nhiên ứng
dụng của chúng còn hạn chế do kỹ thuật tương đối phức tạp và đặc biệt là giá
thành cao [2], [5],[30].
2.4. Giải phẫu thất phải Bình thường thất phải có hình dạng trăng lưỡi liềm ôm thất trái( nếu nhìn
trên mặt cắt ngang) và hình tam giác (nếu nhìn từ bên) và không thấy hết ở bất
cứ mặt cắt 2D nào. Hình ảnh thất phải cũng bị ảnh hưởng bởi vị trí của vách
liên thất. Trong trạng thái tải bình thường và điện học bình thường thì vách liên
thất lồi về phía thất trái cả hai kỳ tâm trương và tâm thu. Theo Goor và Lillehi
thì có thể chia thất phải ra làm 3 thành phần :1) đường vào gồm van 3 lá, dây
chằng và cơ nhú; 2) cơ bè vùng mỏm; 3) phễu hay cổ là vùng cơ trơn đường ra.
Cách chia này thích hợp trong bệnh tim bẩm sinh. Mặc khác, cũng có thể phân
chia thất phải theo thành trước, bên , dưới và các phân vùng đáy, giữa và mỏm.
Có ba dải cơ nổi trội trong thất phải: dải thành, dải vách bờ, dải giữa. Dải vách
bờ trải dài xuống dưới và nối với dải giữa. Dãi giữa dính vào đường ra thất phải
chạy từ vách liên thất tới thành trước thất phải. Trong trường hợp bệnh lý hay
phì đại, dải vách bờ chia thất làm hai buồng ( thất phải hai buồng). Phần mỏm
thất phải bè hóa mạnh và thực chất là phần không có vận động. Một đặc tính
nữa của thất phải là có nếp gấp phễu thất phân chia van ba lá và van động
mạch phổi, khác với thất trái là van động mạch chủ và van ba lá nối liên tục với
nhau qua tổ chức xơ. Nhận diện đâu là thất phải quan trọng trong bệnh tim bẩm
sinh có thể nhờ vào các đặc tính sau: 1) lá vách van ba lá bám thấp hơn lá trước
van hai lá. 2) có dải cơ giữa. 3) có hơn 3 cơ nhú. 4) bè hóa thô. 5) hình dạng ba
lá van của van 3 lá dính vào cơ nhú vách. Hình thái bè hóa thất trái cũng gặp
trong bệnh cơ tim thất trái không kết khối hoặc chuyển vị mạch máu lớn có
điều chỉnh ( giải phẫu là thất phải) [8] [9].
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
Đánh giá cấu trúc thất phải bao gồm: thể tích thất phải, hình dạng thất
phải và kiến trúc bên trong, khối cơ thất và tình trạng phì đại, đặc tính tổ chức
học, các khối u có thể có. Do hình dạng phức tạp của thất phải cho nên khó
đánh giá chính xác thể tích thất phải, trong đó thể tích vùng đường ra chiếm
khoảng 20-30% của thất phải. Có mối tương quan tốt giữa thể tích thất phải
và đo trên mặt phẳng đơn đường kính trục ngang cực đại và diện tích thất phải
trên mặt cắt 4 buồng. Tuy vậy, có vùng chồng chéo giữa bình thường và tăng
thể tích vừa và nhẹ. Nhiều nghiên cứu cho thấy phương pháp chiều dài-diện
tích sử dụng kiểu hình tháp hoặc elip cho kết quả tốt hơn phương pháp
Simpson [8],[9].
Hình 1: Hình ảnh giải phẫu thất phải bình thường [9].
2.5. Đánh giá thất phải bằng siêu âm Doppler tim
Trong nhiều thập kỷ, từ khi siêu âm tim được ứng dụng trong lĩnh vực
tim mạch, đã có nhiều nghiên cứu đánh giá hình thái và chức năng tim.
Đường ra
Đường vào
Cơ bè vùng mỏm
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
Nhưng hầu hết các nghiên cứu này đều tập trung vào việc đánh giá hình thái
và chức năng tim trái mà bỏ qua chức năng của tim phải. Vào nữa sau thế kỷ
20, sau khi nhận ra vài trò của thất phải trong các tình trạng sinh lý cũng như
bệnh lý thì người ta mới tập trung vào nghiên cứu thất phải nhiều hơn. Khi
nghiên cứu hình thái và chức năng thất phải bằng siêu âm tim, thách thức lớn
nhất là liên quan đến vị trí của thất phải trong lồng ngực, kích thước cũng như
hình dạng của nó [8], [9], [25].
2.5.1. Các mặt cắt siêu âm cơ bản đánh giá thất phải
Để có được sự đánh giá chính xác hình thái và chức năng tâm thu thất
phải cần phải đạt được những mặt cắt chuẩn sau
* Mặt cắt cạnh ức trục dọc về phía thành trước thất phải: trên mặt cắt này
đo được chiều dày thành cơ thất phải và kích thước đường ra thất phải (RVOT)
* Mặt cắt cạnh ức trục dọc về phía đường ra thất phải và động mạch
phổi: nhìn thấy được chiều dọc đường ra thất phải, van động mạch phổi và
thân động mạch phổi
Hình 2. Mặt cắt cạnh ức trục dọc về phía thành trước thất phải và về phía
đường ra thất phải (LV thất trái, RV thất phải, LA nhĩ trái, AO động mạch
chủ, RVOT đường ra thất phải, PA động mạch phổi) [9].
* Mặt cắt cạnh ức trục dọc của đường vào thất phải: đánh giá thành trước
và thành dưới thất phải, lá trước và lá sau của van ba lá. Đồng thời còn thấy
được cơ nhú, dây chằng và nơi đổ vào của tĩnh mạch chủ dưới gồm cả van
của tĩnh mạch
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
Hình 3. Mặt cắt cạnh ức trục dọc của đường vào thất phải
(RA nhĩ phải, EV van tĩnh mạch chủ dưới) [9].
* Mặt cắt cạnh ức trục ngắn phía đáy thất phải: thấy được thành trước
phần đáy thất phải, đường ra thất phải, van ba lá, van động mạch phổi và nhĩ
phải. Mặt cắt này dùng để đo kích thước đường ra thất phải
* Mặt cắt cạnh ức trục ngắn về phía động mạch phổi và các nhánh: thấy
được động mạch phổi và các nhánh. Mặt cắt này đo vận tốc dòng qua van
động mạch phổi, kích thước vòng van phổi, thân động mạch phổi và đường ra
thất phải phần ngọn
Hình 4. Mặt cắt cạnh ức trục ngắn phía đáy thất phải và động mạch phổi [9].
* Mặt cắt cạnh ức trục ngắn qua van hai lá: nhìn thấy được thành trước,
thành dưới và thành bên thất phải ở phần đáy
* Mặt cắt cạnh ức trục ngắn qua cơ nhú thất trái: thấy được phần giữa
của thành trước, thành dưới và thành bên thất phải [9].
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
Hình 5. Mặt cắt cạnh ức trục ngắn qua van hai lá và cơ nhú [9]
* Mặt cắt 4 buồng ở mỏm tim: mặt cắt này để đo các kích thước của hình thái và chức năng thất phải. Bên cạnh đó có hai dạng cải biên của mặt cắt 4 buồng là mặt cắt 4 buồng với chùm tia siêu âm tập trung vào thất phải và mặt cắt 4 buồng bên tim phải
Hình 6. Mặt cắt 4 buồng ở mỏm tim và các mặt cắt cải biên (khi chùm tia
siêu âm tập trung vào thất phải ở hình dưới bên trái, và 4 buồng bên tim phải ở hình dưới bên phải) [9].
* Mặt cắt 5 buồng ở mỏm tim và mặt cắt xoang vành: để đánh giá thành trước bên của thất phải và để bộc lộ xoang vành. Hai mặt cắt này thường không dùng để đo các kích thước thất phải vì nó làm ngắn các kích thước hơn so với giá trị thực [9].
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
Hình 7. Mặt cắt 5 buồng ở mỏm tim và mặt cắt xoang vành [9]
* Mặt cắt dọc và ngang dưới sườn: trên mặt cắt dọc dưới sườn là thuận
lợi nhất để đo bề dày thành cơ thất phải [9].
Hình 8. Mặt cắt dọc và ngang dưới sườn (hình dọc dưới sườn bên trái và
ngang dưới sườn bên phải) [9].
2.5.2. Đánh giá hình thái thất phải
2.5.2.1. Cấu trúc thất phải
* Kích thước đường ra thất phải (RVOT)
Đường ra thất phải bao gồm cả phần phểu thất phải và van động mạch
phổi. Phần phểu thất phải là một cấu trúc cơ hình nón, kéo dài từ thất phải đến
van động mạch phổi, phần này nhìn rõ trên giải phẫu khi thất phải giãn. Sự co
bóp của đường ra thất phải xảy ra sau thất phải đã góp phần vào nhu động co
bóp bình thường của mẫu thất phải, và giúp cho quá trình tống máu thất phải.
Các kích thước của đường ra thất phải bao gồm đường ra thất phải dọc
gốc, đường ra thất phải ngang gốc, và đường ra thất phải phần ngọn.
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
Hội siêu âm tim Hoa kỳ khuyến cáo: ở các bệnh nhân có tim bẩm sinh
hoặc rối loạn nhịp nghi ngờ liên quan đến đường ra thất phải thì nên đo kích
thước đường ra thất phải.
Đường ra thất phải được nhìn rõ nhất từ mặt cắt cạnh ức trái và mặt cắt
dưới sườn, nhưng cũng có thể nhìn được từ mặt cắt ở mỏm tim trong vài
trường hợp đặc biệt hoặc ở người lớn với khoản gian sườn rộng. Kích thước
đường ra thất phải được đo tại thời điểm cuối tâm trương. Đường ra thất phải
dọc gốc được đo trên mặt cắt cạnh ức trục dọc. Còn trên mặt cắt cạnh ức trục
ngắn, đường ra thất phải được đo tại hai vị trí: thành trước của gốc động mạch
chủ đến thành tự do của thất phải trên gốc van động mạch chủ (đường ra thất
phải ngang gốc), và tại dưới gốc của van động mạch phổi (đường ra thất phải
phần ngọn) vị trí này là nơi tiếp nối của phểu thất phải với vòng van động
mạch phổi. Đường ra thất phải được đo không chính xác ở trường hợp dị dạng
lồng ngực và cột sống ngực [9].
Hình 9. Minh họa cách đo kích thước đường ra thất phải (RVOT),
hình A đường ra thất phải dọc gốc trên mặt cắt cạnh ức trục dọc,
hình B và C là đường ra thất phải ngang gốc và phần ngọn trên mặt cắt
cạnh ức trục ngắn [9].
* Các đường kính thất phải
Một cách định tính thông thường thất phải phải nhỏ hơn thất trái, và
thường thì thất phải không lớn hơn 2/3 thất trái trên mặt cắt 4 buồng chuẩn ở
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
mỏm tim. Nếu thất phải lớn hơn thất trái ở mặt cắt này thì đó là dấu hiệu của
giãn thất phải. Điều này có thể được áp dụng trong trạng thái bình thường,
cũng như trong các trường hợp quá tải áp lực hoặc thể tích thất phải nghiêm
trọng. Trên mặt cắt 4 buồng chuẩn ở mỏm tim, thất trái tạo nên hình dạng
mỏm của thất. Khi thất phải lớn, nó sẽ lấn về phía thất trái và chiếm toàn bộ
mỏm tim. Dấu hiệu này chứng minh rằng ít nhất thất phải đã giãn vừa phải
[9]. Trên đây là các dấu hiệu định tính kích thước thất phải.
Việc định lượng thất phải cần dựa vào các đường kính đáy thất phải,
đường kính giữa thất phải và đường kính đáy mỏm thất phải. Trên siêu âm 2D
kích thước thất phải được đánh giá từ mặt cắt 4 buồng ở mỏm tại thời điểm
cuối tâm trương. Một hạn chế lớn của hình ảnh thất phải bằng siêu âm ngoài
thành ngực là hình ảnh thất phải thiếu các điểm mốc cố định để đảm bảo hình
ảnh thất phải được tối ưu hóa. Kết quả là sẽ có hình ảnh thất phải qua nhiều
mặt cắt, kích thước thất phải có thể bình thường, lớn hoặc nhỏ hơn. Từ đó để
có hình ảnh thất phải tối ưu yêu cầu chùm sóng âm từ mặt cắt 4 buồng ở mỏm
tim phải tập trung vào thất phải. Để tránh ước lượng quá mức kích thước thất
phải đầu dò phải được đặt ngay trên mỏm tim với thanh cắt xuyên qua giữa
thất trái. Cần phải đảm bảo rằng không được tạo hình ảnh mặt cắt 5 buồng ở
mỏm [8], [9].
Hội siêu âm tim Hoa kỳ khuyến cáo ở các bệnh nhân siêu âm tim có
bằng chứng của bệnh lý tim phải hoặc có tăng áp lực động mạch phổi thì
nên đo các kích thước thất phải trên mặt cắt 4 buồng ở mỏm tim với chùm
sóng âm tập trung vào thất phải. Các kích thước của thất phải nên so sánh
với thất trái để giải thích cho sự giãn của thất phải, trong một số trường
hợp thất phải vẫn giãn mặc dù các thông số đo thực tế vẫn nằm trong giới
hạn bình thường [9].
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
Hình 10. Hình ảnh mặt cắt 4 buồng ở mỏm với chùm sóng âm tập trung vào thất
phải (1*) và các vị trí cắt khác nhau tạo hình ảnh thất phải khác nhau [9].
Các kích thước thất phải bao gồm đường kính đáy thất phải, đường kính
giữa thất phải, và đường kính đáy mỏm thất phải (đường kính dọc thất phải).
Đường kính đáy thất phải là đường kính lớn nhất trên trục ngắn của thất phải,
được đo tại 1/3 đáy của thất phải. Đường kính giữa thất phải đo ở 1/3 giữa của
thất phải tại mức cơ nhú của thất trái. Đường kính đáy mỏm thất phải được đo
từ đường ngang qua vòng van ba lá đến mỏm thất phải [8], [9].
Hình 11. Minh họa cách đo các đường kính thất phải [9].
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
* Chiều dày thành cơ thất phải
Chiều dày thành cơ thất phải có ích để đánh giá sự phì đại thất phải,
thông thường do quá tải áp lực tâm thu thất phải. Chiều dày thành cơ gia tăng
có thể là dấu hiệu của bệnh cơ tim phì đại. Chiều dày thành tự do thất phải
được đo tại cuối tâm trương bằng siêu âm M mode hoặc siêu âm 2D từ mặt
cắt dưới sườn tại ngay mức đỉnh của lá trước van ba lá hoặc trên các mặt cắt
cạnh ức trái. Từ mặt cắt dưới sườn lái chùm tia siêu âm vuông góc với thành
tự do thất phải, loại bỏ các dây chằng và cơ nhú của thất phải, chỉ lấy từ nội
mạc thất phải [8], [17], [9].
Đặt chùm tia hội tụ vào thành tự do thất phải, giảm độ xuyên sâu sẽ làm rõ
nét nội mạc thất phải. Lưu ý cần loại bỏ lớp mở trên màng ngoài tim để tránh
làm dày quá mức thành cơ của thất phải, đồng thời khi hình ảnh cơ bản đã đạt
được thì không cần thiết dùng hình ảnh hòa âm mô vì dể làm tăng bề dày thành
thất [8], [8], [9].
Hình 12. Cách đo bề dày thành cơ thất phải [9].
2.5.2.2. Kích thước và áp lực nhĩ phải
Áp lực đổ đầy thất phải thông qua nhĩ phải theo ba cơ chế: (1) nhĩ phải
như một bể chứa trong sự hồi lưu của hệ thống tĩnh mạch khi van ba lá đóng,
(2) hoạt động bị động trong giai đoạn làm đầy máu nhanh ở thời kỳ đầu tâm
trương khi van ba lá mở, (3) hoạt động chủ động ở thời kỳ sau của tâm trương
khi nhĩ co.
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
Mặt cắt siêu âm cơ bản cho hình ảnh của nhĩ phải là mặt cắt 4 buồng ở
mỏm tim. Các kích thước của nhĩ phải được đo là đường kính dọc nhĩ phải,
đường kính ngang nhĩ phải và diện tích nhĩ. Đường kính dọc nhĩ phải được đo
từ trung tâm của mặt phẳng vòng van ba lá cho đến giữa thành đáy nhĩ phải,
tức song song với vách liên nhĩ. Đường kính ngang nhĩ phải được đo từ giữa
của thành tự do nhĩ phải đến vách liên nhĩ, tức vuông góc với đường kính dọc
nhĩ phải. Diện tích nhĩ phải được đo tại thời điểm cuối tâm thu, được vẽ từ
phần bên của vòng van ba lá đến vách liên nhĩ, loại trừ khoản trống giữa các
lá van và vòng van, đi theo nội mạc của nhĩ phải, không kể tĩnh mạch chủ
dưới, tĩnh mạch chủ trên và tiểu nhĩ phải. Lưu ý rằng đường kính nhĩ phải
không chính xác ở những trường hợp có dị dạng lồng ngực và cột sống ngực
[8], [9]. Hội siêu âm tim Hoa kỳ không khuyến cáo dùng thông số thể tích nhĩ
phải, vì thiếu các giá trị tham khảo chuẩn trên siêu âm 2D.
Áp lực nhĩ phải được tính thông thường nhất dựa vào đường kính tĩnh
mạch chủ dưới và mức độ xẹp khi hít vào. Khi áp lực nhĩ phải tăng gây ảnh
hưởng đến tĩnh mạch chủ dưới, làm giảm mức độ xẹp khi hít vào và gây giãn
tĩnh mạch chủ dưới. Khi kết hợp hai thông số này sẽ ước tính được áp lực nhĩ
phải ở đa phần các trường hợp. Cụ thể là các thông số này ước lượng tốt áp
lực nhĩ phải thấp hoặc cao, còn các giá trị trung gian không được chính xác. Ở
các bệnh nhân thở oxy áp lực dương độ xẹp của tĩnh mạch chủ dưới không
được dùng để ước lượng áp lực nhĩ phải, và trong trường hợp này được tính
bằng phương pháp đặt catheter đường tĩnh mạch trung tâm.
Mặt cắt dưới sườn là hữu ích nhất để thấy được cả trục dài của tĩnh mạch
chủ dưới. Nên đo đường kính tĩnh mạch chủ dưới ở cuối thì thở ra và tại đoạn
gần với vị trí đổ vào của các tĩnh mạch trên gan tức khoản chừng 0,5 - 3 cm
cách gốc chổ đổ vào nhĩ phải của tĩnh mạch chủ dưới. Tĩnh mạch chủ dưới có
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
thể giãn lớn ở vận động viên trẻ, và trong trường hợp này nó không phản ánh
có tăng áp lực nhĩ phải [9].
Các dấu hiệu khác của tăng áp lực nhĩ phải trên siêu âm 2D là nhĩ phải
giãn và vách liên nhĩ lồi về phía nhĩ trái suốt chu kỳ tim.
Hội siêu âm tim Hoa kỳ khuyến cáo: khi đường kính tĩnh mạch chủ dưới
≤ 21 mm và mức độ xẹp khi hít vào > 50% thì áp lực nhĩ phải xem như bình
thường 0 - 5 mmHg, trung bình 3 mmHg. Khi đường kính tĩnh mạch chủ dưới
> 21 mm và mức độ xẹp < 50% chứng tỏ áp lực nhĩ phải tăng cao 10 - 20
mmHg, trung bình 15 mmHg. Ở các trường hợp đường kính tĩnh mạch và
mức độ xẹp không đủ tiêu chuẩn trên thì áp lực nhĩ phải ở mức trung gian 5 -
10 mmHg, trung bình 8 mmHg. Đồng thời trong trường hợp này cần căn cứ
thêm vào các dấu hiệu thứ phát của tăng áp lực nhĩ phải như: giảm sóng tâm
trương bên tim phải, tỷ số E/E’ van ba lá > 6 (E’ là sóng E của Doppler mô),
dòng tâm trương ưu thế ở tĩnh mạch trên gan, hoặc phân suất làm đầy tâm
trương của tĩnh mạch trên gan < 55%. Đối với các bệnh nhân không hít vào
sâu được, mức độ xẹp của tĩnh mạch chủ dưới khi thở
Hình 13. Cách đo các kích thước nhĩ phải từ mặt cắt 4 buồng ở mỏm tim [9].
Đánh giá mức độ xẹp của tĩnh mạch chủ dưới, tức sự thay đổi đường
kính tĩnh mạch khi hít vào tối đa. Đo đường kính tĩnh mạch lúc hít vào sâu.
Khi đó mức độ xẹp của tĩnh mạch chủ dưới được tính bằng (đường kính tĩnh
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
mạch chủ dưới - đường kính tĩnh mạch lúc hít vào)/đường kính tĩnh mạch chủ
dưới * 100. Để đo chính xác nhất đường kính tĩnh mạch chủ dưới nên đặt
thanh đo vuông góc với trục dọc của tĩnh mạch này.
Hình 14. Cách đo đường kính tĩnh mạch chủ dưới [9].
2.5.2.3. Doppler dòng chảy qua van ba lá và van động mạch phổi
Trên mặt cắt 4 buồng ở mỏm tim, chùm Doppler được chỉnh song song
thẳng hàng với dòng chảy vào thất phải. Vị trí đặt xung Doppler là đỉnh của lá
van ba lá. Khi đó thu được phổ Doppler của dòng qua van ba lá gồm hai sóng
dương E và A. Sóng E cao hơn tương ứng với thời kỳ đổ đầy máu nhanh qua
van ba lá (Ve), sóng A thấp hơn tương ứng với thời kỳ nhĩ phải thu (Va). Với
kỹ thuật này vận tốc của dòng qua van ba lá được đo trong hầu hết các trường
hợp với sai số thấp. Khi có hở ba lá từ vừa đến nặng hoặc có rung nhĩ kèm
theo, thì có thể không đo được các thông số này [9].
Để đo vận tốc dòng chảy qua van động mạch phổi dùng mặt cắt cạnh ức
trục ngắn ngang qua động mạch chủ nhưng tập trung vào thân động mạch
phổi. Vị trí đặt xung Doppler là giữa lá van động mạch phổi và nơi phân
nhánh của thân động mạch phổi. Khi đó phổ Doppler của dòng qua van động
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
mạch phổi là một sóng âm (Vp). Bằng phương trình Bernoulli tính được độ
chênh áp qua van động mạch phổi (PG) [7].
2.5.3. Đánh giá chức năng tâm thu thất phải
Các thông số đánh giá chức năng tâm thu thất phải cũng tương tự như thất
trái, tuy nhiên có nhiều thách thức hơn. Thất phải có lớp cơ vòng ở ngoài giúp
cho sự co cơ theo trục ngang, và lớp cơ dọc ở trong giúp co thất phải theo trục
dọc từ đỉnh đến đáy. So với thất trái thì sự co ngắn theo chiều từ đỉnh đến đáy
giúp làm trống thất phải (tức tống máu thất phải). Các phương pháp đánh giá
chức năng toàn bộ thất phải gồm phân suất diện tích thất phải, chỉ số vận động
cơ tim (MPI - myocardial performance index) hay còn gọi là chỉ số Tei, tỷ lệ
dP/dt của thất phải (RV dP/dt), và phân suất tống máu thất phải. Các phương
pháp đánh giá chức năng tâm thu vùng gồm vận động vòng van ba lá trên M
mode (TAPSE - tricuspid annular plane systolic excursion), sóng S tâm thu của
Doppler mô vận động vòng van ba lá, và sức căng thành thất trên Doppler mô và
hình 2D [13]. Mỗi phương pháp cũng có những hạn chế như của thất trái, ví dụ
như phân suất tống máu thất phải không đặc trưng cho sự co bóp của thất phải
trong trường hợp hở ba lá nặng. Sóng S Doppler mô vận động vòng van ba lá và
chỉ số TAPSE là sự vận động của một vùng cơ tim không đánh giá được chức
năng toàn bộ thất phải.
* Phân suất diện tích thất phải
Phân suất diện tích thất phải được tính bằng: (diện tích thất phải cuối tâm
trương - diện tích thất phải cuối tâm thu)/diện tích thất phải cuối tâm trương * 100.
Đây là phương pháp có tương quan với phân suất tống máu thất phải trên MRI [9].
Hội siêu âm tim Hoa kỳ khuyến cáo dùng thông số này để định lượng
chức năng tâm thu của toàn bộ thất phải [8], [9].
Phân suất tống máu thất phải trên siêu âm 2D được tính bằng (thể tích
cuối tâm trương - thể tích cuối tâm thu)/thể tích cuối tâm trương. Tuy nhiên
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
hội siêu âm tim Hoa kỳ lại không khuyến cáo dùng phân suất tống máu thất
phải trên 2D.
Sự ra đời của siêu âm 3D đã giúp đánh giá thể tích và phân suất tống máu
thất phải chính xác hơn, tuy nhiên vấn đề vẫn còn đang tiếp tục nghiên cứu.
Các diện tích thất phải tính được trên mặt cắt 4 buồng ở mỏm khi chùm
sóng âm tập trung vào thất phải tương tự như cách đo các đường kính thất
phải, bằng cách vẽ theo nội mạc thất phải từ vòng van ba lá theo thành tự do
thất phải đến mỏm, rồi trở về vòng van theo vách liên thất [8], [9].
Hình 15. Minh họa cách đo phân suất diện tích thất phải, ED - cuối tâm
trương, ES - cuối tâm thu [9].
* Chỉ số Tei
Một chu kỳ tim được phân thành các thời kỳ liên tiếp nhau gồm tống máu
tâm thu, giãn đồng thể tích, làm đầy máu tâm trương, co đồng thể tích và đến
chu kỳ tiếp theo [15]. Năm 1995 Tei và cộng sự đã đưa ra phương pháp đo các
khoản thời gian trong chu kỳ tim để tính sự vận động của cơ tim. Đây là phương
pháp đánh giá chức năng tâm thu cũng như tâm trương của toàn bộ thất phải. Nó
dựa trên liên quan giữa thời gian tống máu và không tống máu của tim.
Chỉ số được tính bằng tổng thời gian đồng thể tích chia cho thời gian
tống máu, hay [(IRT + ICT)/ET] trong đó IRT là thời gian giãn đồng thể tích,
ICT là thời gian co đồng thể tích, ET là thời gian tống máu [15], [17], [9]. Chỉ
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
số này phụ thuộc vào tình trạng gánh (tiền gánh và hậu gánh) cũng như khi có
sự tăng áp lực nhĩ phải.
Với chỉ số Tei của thất phải có thể tính được bằng hai cách Doppler xung
quy ước và Doppler mô. Với Doppler quy ước thời gian tống máu được tính
bằng Doppler xung tại dòng ra thất phải (thời gian từ lúc bắt đầu đến lúc kết
thúc dòng chảy), và thời gian đóng mở van ba lá cũng tính bằng Doppler xung
tại đường vào thất phải (thời gian từ khi kết thúc sóng A đến khi bắt đầu sóng
E), hoặc Doppler liên tục của dòng hở ba lá (từ khi bắt đầu đến khi kết thúc
dòng chảy). Với phương pháp Doppler mô các khoảng thời gian được tính
trong một chu kỳ tim khi cổng lấy mẫu Doppler tại vòng van ba lá. Các
phương pháp khác nhau sẽ cho hình ảnh và kết quả khác nhau, cần tiến hành
đo ở nhiều chu kỳ tim với khoản R-R như nhau để chỉ số được chính xác.
Ưu điểm của phương pháp này là có thể đo được trên các bệnh nhân có
hoặc không có hở ba lá, tránh được hình dạng phức tạp của thất phải, bằng
Doppler mô cho phép đo chỉ số Tei và cả các sóng S, E, và A.
Nhược điểm là không chính xác khi nhịp tim không đều như rung nhĩ…,
phụ thuộc vào gánh và áp lực nhĩ phải.
Hội siêu âm tim Hoa kỳ khuyến cáo không nên dùng chỉ số này đơn
thuần mà nên phối hợp với các phương pháp khác để đánh giá chức năng thất
phải [9].
Siêu âm Doppler dòng chảy qua van ba lá
Dòng chảy qua van ba lá được ghi với cửa sổ Doppler xung nằm ở giữa
vòng van ba lá (trên bờ tự do của các lá van) bằng mặt cắt mỏm 4 buồng và
hoặc mặt cắt dưới sườn. Nếu ở mặt cắt mỏm 4 buồng không lấy được dòng
chảy qua van 3 lá thì được lấy bằng cửa sổ dưới sườn trục lớn chéo trái hoặc
phải, sao cho góc tạo bởi hướng của dòng chảy qua van 3 lá và hướng của
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
chùm tia siêu âm gần song song với nhau, nơi có phổ Doppler rõ nét nhất về
hình ảnh và âm thanh. Khi ghi được dòng chảy đổ đầy qua van ba lá vào
menu chọn cách đo, chúng tôi đánh giá các thông số sau:
- Vận tốc tối đa của dòng đổ đầy nhanh được đo tại đỉnh sóng E:
VE(cm/s).
- Vận tốc tối đa của dòng nhĩ thu, được đo tại đỉnh sóng A: VA(cm/s).
- Từ đó tính VE/VA.
- Thời gian giảm tốc sóng E, đo từ điểm chiếu của đỉnh sóng E đến kết
thúc sóng E: DTE(ms).
- Thời gian tống máu thất phải (ETp )
Sau khi ghi được phổ dòng đổ đầy qua van ba lá, đo từ điểm bắt đầu đến
điểm kết thúc của phổ Doppler tống máu thất phải ta được thời gian tống máu
thất phải.
Khi có được phổ dòng máu ĐMP, lấy đỉnh sóng R trên ECG làm mốc
bắt đầu gióng xuống đường cơ bản để xác định điểm đầu tiên, tiếp tục đưa con
trỏ đến điểm kết thúc của bao phổ ta đo được khoảng thời gian gọi là "thời
gian R-ĐMP".
Sau khi có được phổ dòng đổ đầy qua van ba lá, chuyển con trỏ đến đỉnh
sóng R trên ECG gióng xuống đường cơ bản, tiếp tục đưa con trỏ đến điểm
khởi đầu của sóng E của dòng đổ đầy qua van ba lá của chu chuyển tim kế
tiếp ta được khoảng thời gian gọi là “thời gian R_E” được tính bằng mili giây
(ms). Khoảng thời gian này bao gồm IRT và ICT.
- IRT3 = Thời gian R_E - Thời gian R_ĐMP (ms).
- ICT3 = Thời gian R_ĐMP - ETp (ms).
Các thông số siêu âm Doppler dòng đổ đầy qua van ban lá và dòng tống
máu thất phải được ghi ở cuối thì thở ra.
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
- Chỉ số Tei thất phải
Chúng tôi áp dụng cách đo của Tei C và cs (1996). Chỉ số Tei được tính
như sau:
Chỉ số Tei thất phải Tei3 = (ICT3 + IRT3)/ETP
ICT3: thời gian co đồng thể tích thất phải đo ở van 3 lá
IRT3: thời gian giãn đồng thể tích thất phải đo ở van 3 lá
ETP: thời gian tống máu thất phải đo ở van động mạch phổi
Hình 16. Phương thức đo chỉ số Tei [15].
* Vận động vòng van ba lá trên M mode (TAPSE)
TAPSE là phương pháp đo khoảng cách vận động tâm thu của vòng van ba
lá trên trục dọc ở mặt cắt 4 buồng mỏm tim bằng M mode. Kaul và cộng sự cho
thấy TAPSE có tương quan mạnh với phương pháp chụp đồng vị phóng xạ.
Hội siêu âm tim Hoa Kỳ và châu âu khuyên dùng TAPSE như là một chỉ
số thông lệ đánh giá chức năng thất phải. Chỉ số này có ưu điểm là dễ đo và
đo nhanh, không lệ thuộc vào chất lượng hình ảnh. Tuy nhiên có thể lệ thuộc
vào góc đo và tình trạng gánh [8], [17], [9].
Chỉ số TAPSE được đo trên mặt cắt 4 buồng ở mỏm tim, bằng cách lấy
M mode tại vị trí vòng van bên của van ba lá. Và định lượng bằng độ dịch
chuyển theo trục dọc của vị trí này trong kỳ tâm thu [22].
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
Hình 17. Cách đo chỉ số TAPSE [9].
* Sóng S tâm thu của Doppler mô vận động vòng van ba lá
Các vùng để đánh giá thất phải là vòng van ba lá và đáy của thành tự do
thất phải, các vùng này có thể đánh giá bằng Doppler mô xung hoặc Doppler
mô màu để đo vận tốc vận động trên trục dọc, vận tốc này được ký hiệu là
sóng S trong kỳ tâm thu. Dùng mặt cắt 4 buồng ở mỏm tim với cổng lấy mẫu
Doppler tại vòng van ba lá hoặc ở giữa đoạn đáy của thành tự do thất phải.
Hội siêu âm tim Hoa Kỳ và châu âu khuyên dùng Doppler xung mô đo
sóng S để đánh giá chức năng đoạn đáy của thành tự do thất phải và nên dùng
thông số này trong đánh giá chức năng tâm thu thất phải [8], [17], [9].
Dùng mặt cắt 4 buồng ở mỏm tim, hình ảnh Doppler mô với cổng lấy
mẫu Doppler tại vòng van bên của van ba lá. Cần chỉnh góc của hướng cắt
nhỏ tối đa để thu được vận tốc lớn nhất. Các sóng Doppler gồm sóng S dương
của thì tâm thu và hai sóng âm E, A của thì tâm trương. Vận tốc sóng S là
thông số đánh giá chức năng tâm thu thất phải, sóng S được chọn khi vận tốc
tâm thu có được giá trị lớn nhất.
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
Hình 18. Hình ảnh Doppler mô vòng van bên của van ba lá [9].
Tóm lại để đánh giá chức năng tâm thu thất phải, phương pháp nhìn thất vận động cho đánh giá định tính khởi đầu. Tuy nhiên, cần đo các thông số trên để có được sự lượng giá chính xác, sự phối hợp các thông số sẽ cho kết quả đáng tin cậy hơn rất nhiều. 2.5.4. Chức năng tâm trương thất phải
- Nghiên cứu bằng siêu âm Doppler tim đặc biệt là siêu âm Doppler xung, qua sự nghiên cứu nhiều thông số siêu âm Doppler xung của dòng chảy đổ đầy tâm trương qua van 3 lá và nhiều thông số siêu âm Doppler xung khác.
- Dòng chảy này có thể nhận được ở cửa sổ cạnh ức trái trục nhỏ thấp, mỏm, trong mỏm và dưới sườn, trong đó các đường mỏm, trong mỏm và dưới sườn thường nhận được dòng chảy với chất lượng tốt, cửa sổ Doppler xung được đặt ở giữa vòng van (bờ tự do các lá van). Bình thường dòng đổ đầy thất phải tâm trương bao gồm 2 hợp phần tâm trương là sóng E đổ đầy thất phải và sóng A của nhĩ co. Tốc độ đỉnh của VE thường cao hơn tốc độ đỉnh của VA và VE/VA > 1, khi tuổi càng cao thì VE có xu hướng giảm trong khi VA tăng dẫn đến VE/VA giảm [8].
-VE/VA được nhiều nghiên cứu dùng để đánh giá có rối loạn chức năng tâm trương thất phải.
- Phân độ suy chức năng tâm trương thất phải như sau: tỉ lệ E/A <0,8 là suy khả năng giãn; tỉ E/A 0,8-2,1 với E/E’> 6 hoặc trội dòng chảy tâm trương
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
tĩnh mạch gan gợi ý mẫu giả bình thường; tỉ lệ E/A >2,1 và thời gian giảm tốc <120ms gợi ý mẫu hạn chế [8].
- Kỹ thuật ghi: để đo tỉ E/A dòng chảy van ba lá, cổng lấy mẫu đặt tại đỉnh van đo cuối kỳ thở ra và/ hoặc lấy trung bình ít nhất 5 chhu chuyển tim kế tiếp. Hở van ba lá vừa – nặng hoặc rung nhĩ có thể làm ảnh hưởng tới các thông số đánh giá chức năng tâm trương và vì lẽ đó có nhiều nghiên cứu loại bỏ các yếu tố gây nhiễu này [8]. *Đo thời gian giãn đồng thể tích thất phải (IRT):
IRT là một thông số siêu âm Doppler được nhiều tác giả dùng để đánh giá chức năng tâm trương thất phải. IRT bằng hiệu số của thời gian từ đỉnh sóng R trên ECG gióng xuống đường cơ bản cho đến khởi đầu sóng E của chu chuyển tim sau (Thời gian A-E) và khoảng thời gian từ đỉnh sóng R trên ECG gióng xuống đường cơ bản cho đến kết thúc thời gian tống máu thất phải (Thời gian R-ĐMP). IRT tăng theo tuổi, giá trị bình thường của nhóm người bình thường < 50 tuổi là 21 ± 17ms, > 50 tuổi là 33 ± 19ms. Theo Nguyễn Cửu Long IRT là 38,02 ± 5,27ms [3].
* Đo thời gian tống máu thất phải (ET): Đo từ điểm bắt đầu đến điểm kết thúc của phổ Doppler tống máu thất phải ta được thời gian tống máu thất phải.
* Đo thời gian co đồng thể tích thất phải (ICT): Đo từ đỉnh sóng R trên ECG gióng xuống đường cơ bản cho đến bắt đầu của phổ Doppler tống máu thất phải ta được thời gian co đồng thể tích thất phải.
2.6. Siêu âm Doppler mô (Tissue Doppler Imaging) Kiểu Doppler này cho biết chức năng của thành tim trong các kỳ tâm thu
và tâm trương. Tốc độ vận động của mô thấp hơn nhiều so với tốc độ vận động của dòng máu chảy (5-20cm/s), vì vậy người ta sẽ đặt bộ lọc sao cho thu được những tín hiệu có vận tốc thấp từ cấu trúc đặc của cơ tim chẳng hạn thành tim bị giảm thiểu thông qua Doppler xung hoặc màu. Doppler mô vòng van 2 lá là kỹ thuật tốt đánh giá khả năng giãn của cơ tim và không như Doppler qui ước dòng chảy qua van 2 lá, Doppler mô ít chịu ảnh hưởng của
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
tiền gánh hoặc hậu gánh. Ứng dụng hiện nay: nhận diện mẫu Doppler giả bình thường của giảm chức năng tâm trương thất, phân biệt viêm màng ngoài tim co thắt với bệnh cơ tim hạn chế, chẩn đoán sự mất đồng vận của thất.
Các thông số Doppler mô được các nghiên cứu trên thế giới áp dụng để đánh giá: Chức năng tâm trương thất phải bằng Doppler xung mô cũng được đánh giá giống như chức năng tâm trương thất trái bao gồm các thông số sau E3m; A3m ; E3m/ A3m ; E/E3m; A/A3m; S3m; chỉ số Tei thất phải. Vị trí đo thường ở thành bên vòng van 3 lá thất phải.
Chỉ số Tei thất phải ở siêu âm doppler mô: Tei3m = (ICT3m + IRT3m)/ETp Các rối loạn chức năng thất phải được đánh giá như Doppler xung mô
thất trái [8] ,[15], [22]. Bảng 1: Các thông số siêu âm tâm thất phải ( khuyến cáo ASE 2010) [22]
Thông số Trung bình
Giới hạn dưới
Giới hạn trên
Đường kính đáy thất phải(mm) 33 24 42 Đường kính giữa thất phải(mm) 28 20 35 Đường kính đáy mỏm(mm) 71 56 86 Chiều dày cơ thất phải trục dọc(mm) 3 2 5 Đường kính ĐRTP dọc gốc(mm) 25 18 33 Đường kính ĐRTP ngang phần ngọn(mm) 22 17 27 Đường kính nhĩ phải trục dọc(mm) 44 34 53 Đường kính nhĩ phải trục ngang(mm) 35 26 44 Diện tích nhĩ phải cuối tâm thu (cm2) 14 10 18 TAPSE(mm) 23 16 30 Vận động vòng van Doppler xung mô (cm/s) 15 10 19 Vận động vòng van Doppler màu mô (cm/s) 10 6 14 Chỉ số Tei Doppler xung 0,28 0,15 0,4 Chỉ số Tei Doppler xung mô 0,39 0,24 0,55 Phân suất diện tích thất phải(%) 49 35 63
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
3. Ý NGHĨA LÂM SÀNG
Đánh giá kích thước và chức năng RV đã được chứng minh là có giá trị
lâm sàng quan trọng trong một số bệnh lý tim mạch và hô hấp. Nhiều nghiên cứu
đã chứng minh vai trò của chức năng thất phải trong tiên lượng bệnh lý [22].
Bình thường, tâm thất phải thích nghi với trở kháng phổi thấp do đó
kích thước các thành tâm thất phải thường mỏng . Do đó, đối với những
trường hợp làm tăng trở kháng phổi , chẳng hạn như thuyên tắc phổi, dẫn đến
sự gia tăng kích thước RV trước tiên và tăng áp lực động mạch phổi, mà cuối
cùng có thể dẫn đến phì đại thất phải . Dãn Thất phải là điểm đánh dấu đầu
tiên của sự gia tăng của trở kháng phổi. Cơ thất phải dày lên để thất phải co
bóp nhằm vượt qua trở kháng phổi cao, kích thước thất phải được đo bằng
đường kính hoặc thể tích và độ dày thành thất phải tự do tăng lên một cách tối
đa trong hẹp đường ra thất phải. Ở những bệnh nhân bị thuyên tắc phổi cấp
tính, gia tăng ban đầu về thể tích và đường kính thất phải thường đi kèm với
hình ảnh cụ thể của chuyển động bất thường thành tim , trong đó thành tự do
thất phải có rối loạn vận động liên quan với vùng đáy và mỏm tim [24].
Những phát hiện này có ý nghĩa tiên lượng quan trọng ở những bệnh nhân bị
thuyên tắc phổi [29] và hoàn toàn đảo ngược với những thay đổi trong huyết
động ở phổi [26].
Ở những bệnh lý tim – phổi mạn tính hoặc các hình thức khác của tăng
áp phổi thứ phát (bao gồm: bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, khí phế thủng, hoặc
các hình thức khác của bệnh nhu mô phổi),tâm thất phải có xu hướng phì đại
và thể tích bình thường ở giai đoạn đầu và cuối cùng là dãn toàn bộ.
Kích thước và chức năng thất phải cũng có thể bị ảnh hưởng bởi các
bệnh lý tâm thất trái. Bệnh nhân có rối loạn chức năng LV thứ phát sau nhồi
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
máu cơ tim hoặc suy tim có nguy cơ gia tăng phì đại RV và rối loạn chức
năng thất phải,[11],[16]. Thật vậy, rối loạn chức năng thất phải là một trong
những dự đoán độc lập mạnh nhất về kết quả sau nhồi máu cơ tim [10],[31].
Các kết quả tương tự đã được thể hiện ở những bệnh nhân bị suy tim mãn tính
sau một năm bị khi nhồi máu cơ tim [ 30].
Phân tích dữ liệu từ Nghiên cứu Đánh giá suy tim sung huyết và hiệu
quả của đặt ống thông động mạch phổi (ESCAPE) cho thấy áp lực phổi tăng
trực tiếp có thể góp phần thay đổi trong kích thước và chức năng thất phải ở
những bệnh nhân suy tim [21]. Hơn nữa, hội chứng ngưng thở khi ngủ ở
bệnh nhân suy tim cũng có thể góp phần đáng kể để thay đổi trong chức năng
và kích thước thất phải [28] những dữ liệu này cho thấy rằng đánh giá lâm
sàng thất phải góp phần để đánh giá tiêu chuẩn siêu âm tim ở bệnh nhân bị
bệnh tim thất trái.
Kích thước và chức năng thất phải cũng có thể bị ảnh hưởng bởi các
bệnh lý hở van ba lá quan trọng. Bao gồm bệnh carcinoid , trong đó có lá van
ba lá có thể teo lại và suy giảm chức năng van ba lá, bệnh thấp tim ba lá ;
thoái hóa cột cơ của van ba lá, hoặc bất kỳ tình huống nào dẫn đến van ba lá
trở nên không hoàn thành chức năng của nó. Quá tải thể tích kết hợp với hở
ba lá dẫn đến giãn nở của tâm thất phải, mà bản thân nó có thể dẫn đến làm
gia tăng mức độ hở ba lá [12],[14],[25].
Bất thường tim bẩm sinh phổ biến nhất ảnh hưởng đến tâm thất phải ở
bệnh tim mạch người lớn là thông liên nhĩ. Dòng chảy tăng do shunt có thể
dẫn đến tăng áp lực phổi và giãn nở thất phải. Đối với bệnh nhân tứ chứng
Fallot sữa chữa hoàn toàn với hở phổi nặng có biểu hiện giãn nở thất phải
nặng và chức năng thất phải ngày càng giảm. Đối với các bất thường tim bẩm
sinh khác, chẳng hạn như Ebstein có thể ảnh hưởng đến tâm thất phải.
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
Bảng 2: Các bệnh lý liên quan đến suy giảm chức năng thất phải [22]
Các bệnh lý liên quan đến suy giảm chức năng thất phải
Thuyên tắc động mạch phổi
Tăng áp lực động mạch phổi
Hút thuốc
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
Nhồi máu cơ tim hoặc thiếu máu cơ tim do tổn thương động mạch vành phải
Sau phẫu thuật sữa chữa hoàn toàn tứ chứng Fallot.
Sau phẫu thuật chuyển vị đại động mạch
Suy tim mạn
Ghép tim
Bệnh cơ tim phì đại
Bệnh chagas
Hẹp động mạch chủ
Hở động mạch chủ
Hẹp van hai lá
Lớn tuổi
Thấp tim
Bệnh lý hệ thống
Đái tháo đường thể 2
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
4. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
TRONG NƯỚC
- Nguyễn Cửu Long nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa chức năng thất
trái, thất phải và áp lực động mạch phổi ở những bệnh nhân bị bệnh phổi tắc
nghẽn mạn tính bằng siêu âm Doppler tim đã nhận xét: Có mối liên hệ giữa
suy chức năng tâm trương thất trái với suy chức năng thất phải và Tăng áp
phổi [3].
- Nguyễn Anh Vũ và cộng sự đã đưa ra các thông số trong đánh giá
chức năng tâm thu thất phải như sau: Kích thước đường ra thất phải dọc gốc
25,99 ± 3,499 mm; đường ra thất phải ngang gốc 23,79 ± 3,711 mm; đường ra
thất phải phần ngọn 21,4 ± 2,958 mm.Các đường kính đáy thất phải 29,5 ±
5,179 mm; đường kính giữa thất phải 22,6 ± 4,026 mm; đường kính đáy mỏm
thất phải 64,69 ± 8,465 mm.Tỷ lệ đường kính giữa thất phải và đường kính
giữa thất trái trên mặt cắt 4 buồng chuẩn ở mỏm tim là 0,49 ± 0,030. Chiều
dày thành cơ thất phải 2,89 ± 0,553 mm.Diện tích thất phải cuối tâm trương
15,34 ± 2,653 cm2; diện tích thất phải cuối tâm thu 7,71 ± 1,674 cm2; phân suất
diện tích thất phải 49,76 ± 7,328 %Chỉ số TAPSE (vận động vòng van ba lá
trên M mode) 22,5 ± 2,597mm.Vận tốc sóng S của Doppler mô vòng van bên
van ba lá 13,8 ± 2,138 cm/s.Thời gian co đồng thể tích 58 ± 7,284 ms; thời gian
giãn đồng thể tích 72,74 ± 9,251 ms; thời gian tống máu thất phải 275,39 ±
25,550 ms; chỉ số Tei thất phải của Doppler xung mô 0,47 ± 0,049 [4].
- Phạm Nguyên Sơn và cộng sự trong nghiên cứu “ Chỉ số Tei sửa đổi
(Tei’)- một chỉ số đánh giá chức năng thất phải ở bệnh tứ chứng Fallot đã đưa
ra kết luận: chỉ số Tei thất phải đo bằng phương pháp Doppler mô cơ tim ở
bệnh nhân T4F tăng so với trẻ không có bệnh tim mạch.
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
NƯỚC NGOÀI
- Theo nghiên cứu của Kambiz Norozi và cộng sự, nghiên cứu: “Đánh giá
NT-proBNP và khả năng gắng sức ở bệnh nhân lớn tuổi sau phẫu thuật hoàn
toàn tứ chứng Fallot có rối loạn chức năng tâm thất theo chỉ số Tei” đã đưa ra
kết quả : Ở Bệnh nhân T4F cho thấy : chỉ số Tei LV và RV lớn hơn có ý
nghĩa so với những bệnh nhân thông liên thất (chỉ số Tei thất trái: 0,50± 0,09
so với 0,34± 0,05, chỉ số Tei thất phải : 0,37± 0.1 so với 0,25 ±0,06; P
<0,0001).Mức oxy tối đa đã được giảm đáng kể ở những bệnh nhân T4F
(25± 6 so với 32 ± 6ml .kg-1 ·phút- 1, p <0,0001) và tương quan nghịch với chỉ
số Tei thất trái (r=- 0,61, p <0,0001).NT-proBNP đã được tăng lên đáng kể ở
những bệnh nhân T4F (150±141 so với 57±39 pg / ml, p <0,0001) và rút ra
kết luận là:Đối với những bệnh nhân T4F không có triệu chứng hoặc ít biểu
hiện triệu chứng, rối loạn chức năng hai thất được phát hiện bằng chỉ số Tei.
Chỉ số suy tim ở những bệnh nhân có NT-proBNP tăng và suy giảm sự hấp
thu oxy tối đa. Vấn đề kết hợp 3 yếu tố này cho phép xác định các bệnh tim
bẩm sinh với suy chức năng tim trước khi có triệu chứng lâm sàng[21].
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
5. KẾT LUẬN
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều kỹ thuật xâm nhập và không xâm
nhập nhằm đánh giá hình thái và chức năng thất phải như : siêu âm tim, cộng
hưởng từ, chụp buồng thất, …Tuy nhiên siêu âm tim là kỹ thuật được thực
hiện dễ dàng, nhanh chóng có thể ngay tại giường bệnh nhân ở nhiều bệnh
viện, Siêu âm Doppler tim là phương pháp thăm dò không chảy máu, khá rẻ
tiền nhưng lại có thể phát hiện sớm và chính xác những biến đổi về thông số
chức năng tâm trương và tâm thu thất phải ở bệnh nhân nên cần được chỉ định
rộng rãi.
Hình thái và chức năng tâm thu thất phải là những thông tin cần thiết
trong chẩn đoán và điều trị do vậy cần phải được quan tâm nghiên cứu sâu
hơn trên nhiều bệnh lý khác nhau để tiện việc sử dụng rộng rãi trên lâm sàng.
Mỗi phương pháp đánh giá đều có những ưu và nhược điểm vì vậy
không nên dùng đơn độc một phương pháp nào để đánh giá chức năng thất
phải, mà cần phối hợp nhiều phương pháp và nhiều chỉ số để việc đánh giá
được chính xác.
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu trong nước
1. Nguyễn Phú Kháng (2000), “Siêu âm tim mạch”, Lâm sàng tim mạch,
Nxb Y Học, trang 48-84.
2. Phạm Nguyễn Vinh (2003), “Các phương pháp cận lâm sàng khảo sát
chức năng và hình thái hệ tim mạch”, Siêu âm tim và bệnh lý tim mạch,
Nxb Y Học, thành phố Hồ Chí Minh, tập 2, trang 45 - 52.
3. Nguyễn Cửu Long (2004), “Nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa chức
năng thất trái, phải và áp lực động mạch phổi ở những bệnh nhân bị bệnh
phổi tắc nghẽn mạn tính bằng siêu âm Doppler tim”, Tạp chí tim mạch
học Việt Nam, 37, trang 60 - 65.
4. Võ Đăng Nhật (2012), Đánh giá hình thái và chức năng tâm thu thất phải
bằng siêu âm Doppler tim ở người lớn bình thường, Luận án thạc sĩ Y
học, Đại học Y Dược Huế.
5. Nguyễn Anh Vũ (2008), “Đại cương siêu âm tim, kỹ thuật ghi Doppler
siêu âm tim”, Siêu âm tim từ căn bản tới nâng cao, Nxb Đại học Huế,
trang 9-46.
6. Nguyễn Anh Vũ (2008), “Đánh giá chức năng thất và huyết động bằng
siêu âm Doppler”, Siêu âm tim từ căn bản tới nâng cao, Nxb Đại học Huế,
trang 145-168.
7. Nguyễn Anh Vũ (2010), “Kỹ thuật ghi siêu âm Doppler tim”, Siêu âm tim
cập nhật chẩn đoán, Nxb Đại học Huế, trang 30-52.
8. Nguyễn Anh Vũ (2010), “Đánh giá chức năng thất và huyết động bằng
siêu âm Doppler”, Siêu âm tim cập nhật chẩn đoán, Nxb Đại học Huế,
trang 201-247.
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
Tài liệu nước ngoài
9. Andrew N. Redington (2002), “Right ventricular function”, CardiolClin ,
20, pp 341–349.
10. Anavekar NS, Skali H, Bourgoun M, Ghali JK, Kober L, Maggioni AP, et
al (2008), “ Usefulness of right ventricular fractional area change to
predict death, heart failure, and stroke following myocardial infraction
(from the VALIANT ECHO study)”, Am J Cardiol ,101, pp 607-612.
11. Berger PB, Ruocco NA Jr., Ryan TJ, Jacobs AK, Zaret BL, Wackers FJ
(1993), “The TIMI Research Group. Frequency and significance of right
ventricular dysfunction during inferior wall left ventricular myocardial
infarction treated with thrombolytic therapy (results from the
Thrombolysis In Myocardial Infarction [TIMI] II trial”, Am J Cardiol, 71
, pp 1148-1152.
12. Bhattacharyya S, Toumpanakis C, Burke M, Taylor AM, Caplin ME,
Davar J (2010), “Features of carcinoid heart disease identified by 2- and
3-dimensional echocardiography and cardiac MRI”, Circ Cardiovasc
Imaging ,3,pp 103-111.
13. Carrie P. Aaron, Harikrishna Tandri et al (2011), “Physical activity and
right ventricular structure and function”, American journal of respiratory
and critical care medicine, 183, pp 396 - 404.
14. Callahan JA, Wroblewski EM, Reeder GS, Edwards WD, Seward JB,
Tajik AJ (1982), “Echocardiographic features of carcinoid heart disease”,
Am J Cardiol ,50,pp 762-768.
15. Chuwa Tei, Yutaka Otsuji (2008), Evaluation of Tei Index in Heart
Failure, Diastology, pp 193-201.
16. Di Salvo TG, Mathier M, SemigranMJ, Dec GW (1995), “Preserved right
ventricular ejection fraction predicts exercise capacity and survival in
advanced heart failure”. Am J Cardiol, 25, pp 1143-1153.
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
17. Doan Hoa Do, Judith Therrien et al (2010), “Right atrial size relates to
right ventricular end diastolic pressure in an adult population with
congenital heart disease”, Echocardiography, 28, pp 109 - 116.
18. J. G. Coghlan, J. Davar (2007), “How should we assess right ventricular
function in 2008?”, Eropean heart journal supplements, 9, pp H22 - H28.
19. James A. Goldstein, James S. Tweddell et al (1992), “Importance of left
ventricular function and systolic ventricular interaction to right ventricular
performance during acute right heart ischemia”, Journal of the American
college of cardiology, 3 (19), pp 704 - 711.
20. John A. Sallach, W. H. Wilson Tang et al (2009), “Right atrial volume
index in chronic systolic heart failure and prognosis”, Journal of the
American college of cardiology, 5 (2), pp 527 - 534.
21. Kambiz Norozi, Reiner Buchhorn, Dietmar Bartmus et al (2006),
“Elevated Brain Natriuretic Peptide and Reduced Exercise Capacity in
Adult Patients Operated on for Tetralogy of Fallot Is Due to
Biventricular Dysfunction as Determined by the Myocardial
Performance Index”, Am J Cardiol ,97,pp1377–1382
22. Khush KK, Tasissa G, Butler J, McGlothlin D, De Marco T (2009),
“ESCAPE Investigators. Effect of pulmonary hypertension on clinical
outcomes in advanced heart failure: analysis of the Evaluation Study of
Congestive Heart Failure and Pulmonary Artery Catheterization
Effectiveness (ESCAPE) database” , Am Heart J, 157, pp 1026-1034.
23. Lawrence G. Rudski, Wyman W. Lai et al (2010), “Guidelines for the
echocardiographic assessment of the right heart in adults: A report from
the American society of echocardiography, endorsed by the European
association of echocardiography, a registered branch of the European
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
society of cardiology, and the Canada society of echocardiography”, J am
soc echocardiography, 23, pp 685 - 713.
24. Lillehei CW, Varco RL, Cohen M, Warden HE, Gott VL, DeWall RA,
Patton C, Moller JH (1986), The first open heart corrections of tetralogy
of Fallot: a 26-31 year follow-up of 106 patients, Ann Surg, 204(4), pp.
490 - 502.
25. McConnell MV, Solomon SD, Rayan ME, Come PC, Goldhaber SZ,Lee
RT (1996), “ Regional right ventricular dysfunction detected by
echocardiography in acute pulmonary embolism” , Am J Cardiol,78, pp
469-73.
26. Mittal SR, Goozar RS(2001), “Echocardiographic evaluation of right
ventricular systolic functions in pure mitral stenosis”, Int JCardiovasc
Imaging ,17, pp 13-18.
27. Nass N, McConnell MV, Goldhaber SZ, Chyu S, Solomon SD (1999),
“Recovery of regional right ventricular function after thrombolysis for
pulmonary embolism” , Am J Cardiol,83, pp 804-806.
28. Pamela S. Douglas, Mario J. Garcia et al (2011), “ACCF/ ASE/ AHA/ ASNC/
HFSA/ HRS/ SCAI/ SCCM/ SCCT/ SCMR 2011 Appropriate use criteria for
echocardiography”, J am soc echocardiographic, 24, pp 229 - 267.
29. Romero-Corral A, Somers VK, Pellikka PA, Olson EJ, Bailey KR,
Korinek J, et al (2007), “Decreased right and left ventricular myocardial
performance in obstructive sleep apnea” , Chest ,132, pp 1863-1870.
30. Scridon T, Scridon C, Skali H, Alvarez A, Goldhaber SZ, Solomon SD
(2005), “ Prognostic significance of troponin elevation and right
ventricular enlargement in acute pulmonary embolism”, Am J Cardiol
,96, pp 303-305.
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
31. Skali H, Zornoff LA, Pfeffer MA, ArnoldMO, Lamas GA, Moye LA, et al
(2005), “ Prognostic use of echocardiography 1 year after a myocardial
infarction”, Am Heart J , 150, pp 743-749.
32. Zornoff LA, Skali H, Pfeffer MA, St John SM, Rouleau JL, Lamas GA, et
al(2009), “Right ventricular dysfunction and risk of heart failure and
mortality after myocardial infarction”, Am J Cardiol,39, pp 1450-1455.
Huế, ngày 01 tháng 3 năm 2013
Người thực hiện
ĐOÀN CHÍ THẮNG
Người hướng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN CỬU LONG TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
MỤC LỤC
Trang
1. ĐẶT VẤN ĐỀ............................................................................................ 1
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ........................................................................... 3
2.1. Sơ lược về lịch sử siêu âm tim ........................................................... 3
2.2. Nguyên lý của siêu âm Doppler tim ................................................... 3
2.3. Các loại siêu âm Doppler tim được sử dụng ...................................... 5
2.4. Giải phẫu thất phải............................................................................. 7
2.5. Đánh giá thất phải bằng siêu âm Doppler tim ................................... 8
2.6. Siêu âm Doppler mô (Tissue Doppler Imaging) ............................... 27
3. Ý NGHĨA LÂM SÀNG ................................................................................... 29
4. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC ............................................... 32
5. KẾT LUẬN .............................................................................................. 33
TÀI LIỆU THAM KHẢO
NCS: ĐOÀN CHÍ THẮNG. NHD: TS. NGUYỄN CỬU LONG-TS NGUYỄN TÁ ĐÔNG
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AO: Động mạch chủ.
ET: Thời gian tống máu thất phải.
ICT: Thời gian co đồng thể tích thất phải.
IRT: Đo thời gian giãn đồng thể tích thất phải.
LV : Thất trái.
RV: Thất phải.
RVOT: Đường ra thất phải.
TAPSE: Chức năng tâm thu vùng gồm vận động vòng van ba
lá trên M mode.