a vĂn phÒng chÍnh phỦ cỤc kiỂm soÁt thỦ tỤc hÀnh...
TRANSCRIPT
a
VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ
CỤC KIỂM SOÁT THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
ĐIỂM BÁO
Ngày 22 tháng 12 năm 2017
Bộ, ngành
1. Tin học Tài chính góp sức phục vụ tốt người dân, doanh nghiệp
2. Khen thưởng cần kịp thời, chính xác, công khai, minh bạch
3. EVN công bố “Cung cấp 100% dịch vụ điện trực tuyến”
4. Từ 1/1/2018, Cục Đăng kiểm dừng đăng kiểm ô tô không “chuẩn” mức khí thải
5. Cục trưởng Cục điều tra chống buôn lậu thua kiện
6. Thiếu đất xây 800m đường: Đại gia ô tô ngoại gửi đơn kêu xin
7. Thay đổi chính sách để gỡ vướng cho doanh nghiệp KHCN
8. Kho bạc Nhà nước: Thời gian một giao dịch thu ngân sách chỉ còn 5 phút
9. Sắp có quy định mới về nhập khẩu thiết bị cũ
10. Phát triển ngân hàng số: Quan trọng nhất là hành lang pháp lý
11. Tạo đà cho kinh tế tư nhân bứt phá
Địa phương 12. Hoạt động khởi nghiệp còn nhiều trở ngại
13. Xây dựng các thương hiệu mạnh cho hàng hóa Thủ đô
14. Lạng Sơn: Cải cách thủ tục hải quan từ khâu tiếp người dân
15. Cộng đồng doanh nghiệp Nhật Bản tại TPHCM chưa hài lòng với lĩnh vực môi trường, đời sống
1. Tin học Tài chính góp sức phục vụ tốt người dân, doanh nghiệp
Tính đến ngày 19/12, Cục Tin học và Thống kê Tài chính hoàn
thành 105 đề án, dự án, nhiệm vụ; tiếp nhận hơn 5.900 văn bản đến,
trình Bộ 193 tờ trình, ban hành 300 quyết định và có 1.130 công văn
gửi các đơn vị.
Thứ trưởng Vũ Thị Mai phát biểu chỉ đạo tại hội nghị tổng kết năm 2017
của Cục Tin học và Thống kê tài chính. Ảnh: Đức Minh
Chiều ngày 20/12/2017, Cục Tin học và Thống kê tài chính (THTKTC) đã
tổ chức hội nghị tổng kết công tác năm 2017 và chương trình công tác
năm 2018 của đơn vị. Thứ trưởng Bộ Tài chính Vũ Thị Mai tới dự và
phát biểu chỉ đạo.
Báo cáo tại hội nghị, Phó Cục trưởng Nguyễn Việt Hà cho biết, năm
2017, Cục THTKTC đã hoàn thành tốt kế hoạch công tác, từng bước
hoàn thành mục tiêu chung “Đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công
nghệ thông tin (CNTT) để giải quyết các thủ tục hành chính, rút ngắn
thời gian xử lý hồ sơ, giảm chi phí hoạt động; tăng tính minh bạch trong
hoạt động của cơ quan nhà nước, tạo thuận tiện cho người dân, doanh
nghiệp và xây dựng Bộ Tài chính điện tử”.
Trong đó, theo ông Nguyễn Việt Hà, công tác xây dựng và hướng dẫn
cơ chế chính sách luôn luôn được Cục THTKTC quan tâm và chủ động
triển khai, bám sát các quy định hiện hành về triển khai ứng dụng CNTT,
thống kê và thực tế triển khai CNTT của Bộ Tài chính để hướng dẫn kịp
thời cho các đơn vị, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong hoạt
động triển khai ứng dụng CNTT và thống kê tài chính từ trung ương đến
địa phương.
Cục THTKTC cũng phối hợp chặt chẽ trong triển khai nhiệm vụ chung
toàn ngành, xây dựng phương án, báo cáo Bộ để thống nhất triển khai
thực hiện: Bản quyền phần mềm; các ứng dụng dùng chung nội bộ
ngành... đảm bảo rõ về nội dung, phù hợp với phân cấp chung của
ngành và đáp ứng được yêu cầu triển khai, vận hành.
Cùng với đó, công tác an toàn thông tin đã được các cấp lãnh đạo quan
tâm đúng mức, tổ chức triển khai một cách bài bản và toàn diện, các
hoạt động đảm bảo an toàn thông tin đã được tích hợp trong tất cả các
công đoạn liên quan đến thông tin và hệ thống thông tin; thường xuyên
phân tích các sự kiện, sự cố có khả năng tác động đến hệ thống thông
tin của Bộ Tài chính để có phương án ứng phó phù hợp.
Nhờ vậy, trong năm 2017 Cục THTKTC không để xảy ra hiện tượng thất
thoát thông tin, bí mật của ngành Tài chính qua môi trường mạng, không
xảy ra tình trạng bị tấn công làm ngừng trệ hoạt động của hệ thống.
Công tác thống kê và cơ sở dữ liệu được tập trung triển khai và có nhiều
đổi mới, bên cạnh việc tiếp tục triển khai các công việc thường xuyên,
duy trì và đảm bảo cung cấp kịp thời các thông tin về kinh tế, xã hội phục
vụ công tác quản lý điều hành của Bộ Tài chính, đơn vị cũng tiếp tục
triển khai thực hiện theo đúng lộ trình, kế hoạch Đề án Cơ sở dữ liệu
quốc gia về tài chính.
Cũng theo ông Nguyễn Việt Hà, trong năm, Cục THTKTC đã tập trung
mọi nguồn lực, phối hợp với các đơn vị liên quan hoàn thành được khối
lượng công việc rất lớn. Chỉ tính đến ngày 19/12, Cục THTKTC đã hoàn
thành 105 đề án, dự án, nhiệm vụ (bao gồm 11 văn bản hướng dẫn cơ
chế, chính sách; 16 nhiệm vụ trong chương trình công tác, 32 nhiệm vụ
phát sinh và 46 nhiệm vụ của Cục THTKTC); tiếp nhận hơn 5.900 văn
bản đến, trình Bộ 193 tờ trình, ban hành 300 quyết định và có 1.130
công văn gửi các đơn vị.
Đáng chú ý, năm 2017 là năm thứ năm liên tiếp Bộ Tài chính tiếp tục duy
trì vị trí thứ nhất trong khối các cơ quan bộ, ngành về kết quả mức độ
sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin (Vietnam ICT
Index 2017).
Tham gia ý kiến tại hội nghị, đại diện các đơn vị thuộc Bộ và đơn vị hệ
thống như Kho bạc Nhà nước, Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan,...
đều tán thành với kết quả báo cáo công tác năm 2017 và kế hoạch triển
khai nhiệm vụ năm 2018 của Cục THTKTC.
Đại diện các đơn vị cũng đánh giá, năm 2017, Cục Tin học và Thống kê
tài chính đã hoàn thành khối lượng công việc rất lớn, bao gồm cả việc
quản lý nhà nước về CNTT và các công việc tham gia dự án cụ thể.
Phát biểu chỉ đạo hội nghị, Thứ trưởng Vũ Thị Mai đã biểu dương những
nỗ lực, cố gắng của toàn thể đội ngũ cán bộ của Cục THTKTC và các hệ
thống lớn thuộc Bộ trong lĩnh vực CNTT.
Đối với nhiệm vụ năm 2018, Thứ trưởng yêu cầu, công tác triển khai
ứng dụng CNTT và thống kê năm 2018 của toàn ngành nói chung và
của Cục Tin học và Thống kê tài chính nói riêng cần tập trung vào một
số nhiệm vụ cụ thể, trong đó: Cục THTKTC khẩn trương trình Bộ ban
hành định hướng ứng dụng CNTT trong ngành Tài chính nhằm tăng
cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
Trên cơ sở định hướng ứng dụng CNTT trong ngành Tài chính, các đơn
vị rà soát, đề xuất các nhiệm vụ triển khai cho giai đoạn đến năm 2020,
tổng hợp báo cáo Bộ các nội dung điều chỉnh kế hoạch 5 năm CNTT giai
đoạn 2016 - 2020, phù hợp với các định hướng ứng dụng CNTT toàn
ngành...
Thứ trưởng nhấn mạnh, Cục THTKTC tăng cường vai trò quản lý nhà
nước về công nghệ thông tin, thống kê nhằm tạo hành lang pháp lý đồng
bộ, thống nhất và khả thi trong triển khai ứng dụng CNTT thống kê toàn
ngành Tài chính.
Thứ trưởng cũng yêu cầu đơn vị bám sát chủ trương của Chính phủ,
chiến lược, kế hoạch của ngành để cụ thể hóa, xác định đúng các nhiệm
vụ trọng tâm, nhiệm vụ ưu tiên cần tập trung triển khai; nắm bắt kịp thời
các thay đổi về nghiệp vụ để xây dựng định hướng, kế hoạch phát triển
ứng dụng CNTT, thống kê phù hợp.
Cục THTKTC chủ trì phối hợp với các đơn vị nghiên cứu, xây dựng
khung Chính phủ điện tử ngành Tài chính, tổ chức triển khai và hướng
dẫn các đơn vị, hệ thống thực hiện thống nhất trong toàn ngành.
Đồng thời Thứ trưởng giao Cục THTKTC chủ trì, phối hợp với các đơn vị
xây dựng kiến trúc Cơ sở dữ liệu quốc gia (CSDL QG) về Tài chính một
cách khoa học, hiện đại, có định hướng và được quy hoạch trong một
chỉnh thể thống nhất nhằm tạo nền tảng xây dựng Chính phủ điện tử và
hướng tới xây dựng Chính phủ số.
Kiến trúc CSDL QG về Tài chính phải đảm bảo bao quát đầy đủ các yêu
cầu về mô hình nghiệp vụ của ngành Tài chính, các yêu cầu về thông
tin, số liệu phục vụ nghiệp vụ quản lý của đơn vị thuộc Bộ, công tác chỉ
đạo điều hành của Lãnh đạo Bộ, phục vụ số liệu phân tích vĩ mô, đánh
giá tác động chính sách; đảm bảo tính liên kết, tích hợp, khả năng kết
nối, chia sẻ thông tin giữa các đơn vị trong và ngoài ngành Tài chính;
đảm bảo tiếp cận với các xu hướng công nghệ mới tiên tiến, hiện đại
trên thế giới như dữ liệu tài khóa mở, dữ liệu lớn và phân tích dữ liệu,
điện toán đám mây, tạo nền tảng tiến tới tiếp cận với cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ 4.
"Thời gian tới Bộ Tài chính phải là đơn vị đi đầu trong việc tiếp cận với
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0", Thứ trưởng nêu rõ mục tiêu phấn
đấu.
Thứ trưởng cũng yêu cầu Cục THTKTC và các đơn vị hệ thống thuộc Bộ
cần tăng cường phối hợp Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông,
các tổ chức an toàn thông tin, các chuyên gia trong và ngoài nước theo
dõi, nắm bắt các sự kiện, sự cố, cảnh báo về an toàn thông tin trên thế
giới và tại Việt Nam để có đề xuất, phản ứng kịp thời đảm bảo an ninh,
an toàn các hệ thống thông tin dữ liệu của ngành Tài chính.
Triển khai xây dựng Bộ Tài chính điện tử với mục tiêu xây dựng tối đa
các dịch vụ điện tử trong ngành để phục vụ tốt người dân, doanh nghiệp
và các cơ quan nhà nước; Cổng thông tin điện tử của Bộ và các Tổng
cục là nơi cung cấp đầy đủ dịch vụ công mức độ 3, 4 và công khai thông
tin.
Bên cạnh đó, các đơn vị cũng cần đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên
truyền giúp cho người dân, doanh nghiệp và cộng đồng xã hội hiểu và
tính cực hưởng ứng, tham gia các dịch vụ công trực tuyến của ngành
Tài chính, thông qua đó góp phần thực hiện thành công mục tiêu xây
dựng Bộ Tài chính điện tử./.
Theo thoibaotaichinhvietnam.vn
2. Khen thưởng cần kịp thời, chính xác, công khai, minh bạch
Đây là ý kiến của Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực
Chính phủ Trương Hòa Bình tại hội nghị toàn quốc tổng kết 13 năm
thi hành Luật Thi đua khen thưởng và triển khai công tác thi đua
khen thưởng năm 2018 tổ chức tại Hà Nội, sáng 21/12.
Tham dự Hội nghị có Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh, Phó Chủ
tịch thứ nhất Hội đồng Thi đua khen thưởng Trung ương, lãnh đạo các
bộ, ngành, địa phương.
Còn tình trạng vận dụng và đề nghị mức khen chưa đúng quy định,
nể nang, cào bằng
Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình nêu rõ qua 13 năm thực
hiện Luật Thi đua khen thưởng (TĐKT), chúng ta đã đạt được những kết
quả đáng ghi nhận. Từ khi có Luật, vai trò, tác dụng của công tác TĐKT
tiếp tục được khẳng định. Bộ Chính trị, cấp ủy các cấp, các ngành đã
ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết quan trọng về TĐKT, đặc biệt là Chỉ
thị số 39-CT/TW năm 2004 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, đẩy
mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và
nhân rộng điển hình tiên tiến; Chỉ thị số 34-CT/TW năm 2014 của Bộ
Chính trị về tiếp tục đổi mới công tác TĐKT. Đây là những chủ trương,
định hướng quan trọng, là cơ sở cho việc thực hiện hoàn thiện thể chế
về công tác TĐKT.
Bộ Nội vụ (Ban TĐKT Trung ương) với vai trò là cơ quan thường trực
của Hội đồng TĐKT Trung ương và phụ trách công tác TĐKT, đã tham
mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành và trình cấp có
thẩm quyền hệ thống văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở quản lý
Nhà nước về công tác TĐKT. Công tác TĐKT đã có nhiều tiến bộ, đổi
mới, góp phần đẩy mạnh các phong trào thi đua phát triển kinh tế-xã hội,
bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, sau 13 năm thực hiện, Luật đã có những bất cập cần được
nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cho phù hợp thực tiễn. Các văn bản hướng
dẫn Luật TĐKT còn chưa kịp thời, có nhiều văn bản hướng dẫn chưa rõ
ràng. Một số phong trào thi đua còn hình thức, chưa có tiêu chuẩn cụ
thể, chưa thường xuyên liên tục, chưa chú trọng chỉ đạo điểm, thiếu
kiểm tra, phát hiện, nhân rộng các điển hình tiên tiến, sơ kết, tổng kết
công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về TĐKT chưa được chú trọng
đúng mức, thiếu thiết thực, hiệu quả.
Luật TĐKT có đối tượng điều chỉnh rộng liên quan đến các cơ quan
trong hệ thống chính trị, các đối tượng khác nhau về độ tuổi, thành phần,
địa bàn… nhưng điều kiện tiêu chuẩn khen thưởng tập trung vào cán bộ,
công chức, lực lượng vũ trang, một số tiêu chuẩn khen thưởng được
hướng dẫn bằng văn bản dưới luật. Còn có tình trạng vận dụng và đề
nghị mức khen chưa đúng quy định, nể nang, cao bằng, mang tính luân
phiên. Công tác thẩm định hồ sơ khen thưởng còn thiếu chặt chẽ, chưa
đánh giá đúng thành tích dẫn đến có trường hợp tổ chức, cá nhân có vi
phạm không xứng đáng lại được khen thưởng với mức cao. Những điều
này cần sớm được nghiên cứu khi sửa đổi Luật.
Luật quy định thành tích đến đâu thì khen thưởng đến đó, nhưng tiêu
chuẩn để xét khen thưởng lại tính theo niên hạn, cộng dồn thành, phải
có hình thức khen thưởng thấp mới xét khen thưởng cao, số lượng các
hình thức khen thưởng còn nhiều. Điều kiện và tiêu chuẩn xét khen
thưởng thành tích đột xuất chưa quy định cụ thể, dẫn đến việc lạm dụng,
thiếu công bằng, một số quy định về hồ sơ, thủ tục còn rườm rà, phức
tạp, chưa đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính.
Trên cơ sở tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện Luật, cần nghiên cứu
kỹ các cơ sở lý luận và căn cứ thực tiễn, làm rõ những nội dung còn bất
cập, những tồn tại, hạn chế, đánh giá đúng nguyên nhân tồn tại, đề xuất
sửa đổi cho phù hợp. Theo đó, tiêu chuẩn khen thưởng phải bảo đảm
tính định lượng, sát với thực tiễn và phù hợp với hình thức khen thưởng,
thành tích đến đâu khen đến đó. Khen thưởng phải đạt được mục đích
động viên, thực chất và nêu gương trong xã hội.
Nâng cao trách nhiệm của Hội đồng TĐKT các cấp; đổi mới, sắp xếp cơ
cấu tổ chức công tác TĐKT tinh gọn, hiệu quả, bố trí đúng cán bộ có
phẩm chất và năng lực, thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ làm công
tác TĐKT. Quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu
trong việc TĐKT và đề nghị cấp trên khen thưởng. Tăng cường cải cách
thủ tục hành chính về thủ tục, hồ sơ, ứng dụng công nghệ thông tin
trong công tác quản lý, điều hành.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kịp thời phát hiện, chấn
chỉnh, xử lý các sai phạm
Về kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2017, Phó Thủ tướng Thường
trực Chính phủ biểu dương và đánh giá cao những kết quả đạt được của
toàn ngành. Phong trào thi đua và công tác khen thưởng đã góp phần
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Công tác TĐKT đã bám sát và góp phần thực hiện tốt các chủ trương,
đường lối của Đảng, phù hợp với trọng tâm chỉ đạo, điều hành phát triển
kinh tế-xã hội của đất nước. Các bộ ngành, địa phương đã chủ động,
tích cực triển khai và phát động các phong trào thi đua phù hợp với đặc
điểm, tình hình của ngành, địa phương và cơ quan mình. Công tác tuyên
truyền, nhân rộng các điển hình tiên tiến được quan tâm và chú trọng
hiệu quả thực chất. Các cơ quan truyền thông đã góp phần giới thiệu,
tuyên truyền, động viên, đẩy mạnh phong trào thi đua, cổ vũ nhân tố
mới, tạo động lực cho việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị.
Bên cạnh những kết quả đạt được, Phó Thủ tướng Thường trực cũng
chỉ rõ những hạn chế cần khắc phục. Đó là hiệu quả một số phong trào
thi đua còn chưa cao, còn nặng tính hình thức, chưa gắn với thực hiện
nhiệm vụ chính trị, công tác tuyên truyền, nhân rộng điển hình chưa đáp
ứng yêu cầu đề ra. Đối tượng khen thưởng là công nhân, người lao
động trực tiếp chưa nhiều. Vẫn còn có những tập thể, cá nhân được
khen thưởng nhưng thành tích chưa thật sự tiêu biểu.
Về nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới, Phó Thủ tướng Thường trực
đề nghị công tác TĐKT cần tập trung vào một số nhiệm vụ sau: Tiếp tục
tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến, quán triệt và tổ chức thực
hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về TĐKT; đổi mới
mạnh mẽ công tác TĐKT. Hệ thống cơ quan tham mưu cần tăng cường
hơn nữa trách nhiệm, vai trò trong công tác TĐKT trên cả nước, chú ý
phát hiện, bồi dưỡng, nhân rộng các điển hình có tính đột phá.
Tổ chức các phong trào thi đua có tính thiết thực, cụ thể, gắn liền với
thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, đơn vị. Công tác
TĐKT cần góp phần tôn vinh giá trị xã hội, chú trọng các lĩnh vực bảo
đảm an sinh xã hội, chăm lo người nghèo, bảo vệ môi trường, phòng
chống thiên tai, phục vụ người dân và doanh nghiệp.
“Công tác TĐKT phải kịp thời, chính xác, công khai, minh bạch, đúng
người, đúng việc, lấy kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác
chuyên môn làm thước đo khen thưởng, chú trọng khen thưởng công
nhân, nông dân, người lao động trực tiếp ở cấp cơ sở”, Phó Thủ tướng
Thường trực Chính phủ nhấn mạnh.
Chú ý khen thưởng, vinh danh các nhà khoa học nhằm thúc đẩy, đổi mới
sáng tạo, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, phát triển khoa học công
nghệ, lao động giỏi, lao động sáng tạo, nhằm nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả, góp phần xây dựng và phát triển đất nước.
Quan tâm khen thưởng, tôn vinh doanh nghiệp có nhiều thành tích phát
triển kinh tế-xã hội, đóng góp cho cộng đồng nhằm khuyến khích phong
trào khởi nghiệp. Việc khen thưởng, tôn vinh cần bảo đảm khách quan,
chính xác và có tham vấn đánh giá của cộng đồng xã hội.
Đối với hệ thống cơ quan Nhà nước, Phó Thủ tướng Trương Hòa Bình
đề nghị các phong trào thi đua cần gắn với xây dựng người cán bộ, công
chức, viên chức “trung thành, sáng tạo, tận tuỵ, gương mẫu”, góp phần
nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, xây dựng
Chính phủ liêm chính, kiến tạo, phát triển, phục vụ người dân và doanh
nghiệp.
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ nhấn mạnh cơ quan và cán bộ
làm công tác TĐKT cần làm tốt công tác tham mưu, đề xuất khen
thưởng bảo đảm khách quan, chất lượng, chỉ đạo công tác tổ chức bình
chọn khen thưởng phải dân chủ, công bằng, chính xác, khách quan,
đúng người, đúng thành tích, dựa vào tập thể từ cơ sở, chủ yếu tập
trung khen thưởng cho cán bộ chiến sĩ tham gia công tác chiến đấu, lao
động trực tiếp có thành tích xứng đáng.
Đặc biệt, Ban TĐKT Trung ương cần chú ý chất lượng thẩm định đối với
khen thưởng Nhà nước, cần nêu rõ chính kiến dựa trên căn cứ pháp
luật, các quy định về điều kiện, tiêu chuẩn, tránh việc bị trả lại hồ sơ,
hoặc để sót lọt khen thưởng cho đối tượng không xứng đáng, tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, xử lý
các sai phạm, vi phạm trong công tác TĐKT.
Phó Thủ tướng cũng đề nghị Ban TĐKT Trung ương hoàn thiện kế
hoạch tổ chức hoạt động chào mừng kỷ niệm 70 năm Ngày Chủ tịch Hồ
Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc (11/6/1948-11/6/2018) theo chỉ
đạo của Bộ Chính trị, kế hoạch của Hội đồng TĐKT Trung ương và Chỉ
thị của Thủ tướng Chính phủ.
Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân cho biết, trong
những năm qua, Đảng, Nhà nước luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các
phong trào thi đua yêu nước và thực hiện chính sách khen thưởng. Từ
khi Quốc hội thông qua Luật TĐKT (năm 2003) đến nay, các chủ trương
chính sách về TĐKT dần được hoàn thiện. Công tác TĐKT đã có sự đổi
mới, gắn với các quy định của pháp luật, kịp thời hướng về những người
trực tiếp lao động sản xuất, công tác; tồn đọng khen thưởng kháng chiến
cơ bản được giải quyết…
Theo Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng Ban TĐKT Trung ương, Phó Chủ
tịch thường trực Hội đồng TĐKT Trung ương Trần Thị Hà, công tác khen
thưởng đã cơ bản phục vụ kịp thời nhiệm vụ chính trị của đất nước và
các bộ, ngành, địa phương. Khen thưởng cá nhân trực tiếp lao động,
công tác, chiến đấu, phục vụ chiến đấu... đã có nhiều chuyển biến tích
cực, góp phần động viên tập thể, cá nhân trong thực hiện nhiệm vụ…
Ban TĐKT Trung ương đã phối hợp với các địa phương tập trung chỉ
đạo, tháo gỡ khó khăn vướng mắc và cơ bản đã giải quyết xong khen
thưởng tồn đọng kháng chiến. Khen thưởng thực hiện nhiệm vụ chính
trị, khen thưởng đối ngoại, khen thưởng quá trình cống hiến, khen
thưởng niên hạn được triển khai bảo đảm kịp thời, đúng quy định, gắn
với cải cách thủ tục hành chính.
Nhiều bộ ngành, địa phương đã đề ra biện pháp tăng tỷ lệ khen thưởng
cho các đơn vị cơ sở, công nhân, nông dân, người trực tiếp lao động,
công tác, chiến đấu và phục vụ chiến đấu ở vùng sâu, vùng xa, biên giới,
hải đảo; nhiều nơi tỷ lệ khen cho người lao động trực tiếp đạt trên 70%.
Theo baochinhphu.vn
3. EVN công bố “Cung cấp 100% dịch vụ điện trực tuyến”
Sáng 21/12, tại Hà Nội, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã tổ
chức Lễ công bố ”Cung cấp 100% dịch vụ điện trực tuyến”.
Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu bước tiến lớn trong dịch vụ kinh
doanh điện năng, phù hợp với chủ trương của Chính phủ trong việc thực
hiện chủ trương hiện đại hóa các dịch vụ công và đẩy mạnh việc xây
dựng nền kinh tế số.
Đây cũng là nội dung thiết thực trong việc triển khai chủ đề năm 2017
của EVN là "Đẩy mạnh khoa học công nghệ", thể hiện hình ảnh một Tập
đoàn kinh tế Nhà nước hướng tới chuyên nghiệp, thân thiện và hiện đại.
Tại lễ công bố, ông Võ Quang Lâm, Phó Tổng Giám đốc EVN cho biết,
tính đến thời điểm hiện nay, EVN đang cung cấp điện trực tiếp tới trên
25,6 triệu khách hàng trên cả nước với 99,98 % xã/phường/thị trấn có
điện và 11 huyện đảo đã được EVN cung cấp điện trực tiếp qua điện
lưới Quốc gia hoặc các nguồn năng lượng tái tạo tại chỗ như điện mặt
trời, điện gió.
Theo Phó Tổng Giám đốc Võ Quang Lâm, với mục tiêu đưa các dịch vụ
điện năng đến gần hơn, thuận tiện hơn với tất cả khách hàng sử dụng
điện trong cả nước theo phương châm “Điện lực đến với khách hàng”,
từ ngày 21/12, để tiếp cận các dịch vụ của ngành Điện cung cấp, các
khách hàng chỉ cần truy cập vào website Chăm sóc Khách hàng (CSKH)
của các Trung tâm CSKH hoặc Chuyên mục “EVN & Khách hàng” tại
website của Tập đoàn.
EVN công bố “Cung cấp 100% dịch vụ điện trực tuyến”.
Ngoài ra, các khách hàng sử dụng điện còn có thể truy cập vào Cổng
giao tiếp điện tử của 63 tỉnh, thành phố trong cả nước được kết nối với
hệ thống CSKH của ngành Điện, yêu cầu của khách hàng sẽ ngay lập
tức được chuyển đến các Công ty Điện lực để xử lý, giải quyết các bước
tiếp theo.
Theo Quyết định số 505/QĐ-EVN ngày 15/5/2017 do Tập đoàn Điện lực
Việt Nam ban hành, 20 dịch vụ điện năng do EVN cung cấp sẽ được
thống nhất triển khai cung cấp trực tuyến qua 5 Website CSKH của các
Trung tâm CSKH và tại Chuyên mục “EVN&Khách hàng” của Website
Tập đoàn Điện lực Việt Nam: www.evn.com.vn.
Thông qua quy định này, Tập đoàn Điện lực Việt Nam cam kết đáp ứng
mọi yêu cầu cung cấp dịch vụ điện hợp pháp của khách hàng, đúng chất
lượng công bố, đúng nội dung và thời gian yêu cầu; Thực hiện theo “cơ
chế 1 cửa” từ khi tiếp nhận đến kết thúc dịch vụ, khách hàng đến địa
điểm giao dịch không quá 1 lần; Đơn giản, thuận tiện, công khai, dễ kiểm
tra, giám sát.
Như vậy trong năm 2017, những nỗ lực cải thiện tích cực về chất lượng dịch vụ cung cấp điện năng của EVN đã được xã hội và cộng đồng ghi nhận thông qua hàng loạt các chỉ số đều có chuyển biến tích cực như: chỉ số hài lòng của khách hàng, chỉ số tiếp cận điện năng. Ngoài ra, các chỉ số về độ tin cậy cung cấp điện như SAIDI, SAIFI năm 2017 của toàn Tập đoàn đều thực hiện tốt hơn so với kế hoạch đề ra.
Kết quả thực hiện đánh giá độc lập cho thấy, mức độ hài lòng của khách hàng bình quân toàn EVN đã tăng dần qua theo thời gian. Nếu năm 2013 điểm bình quân là 6,45 điểm, năm 2014 là 6,9 điểm, năm 2015 là 7,27 điểm thì đến năm 2016 là 7,69/10 điểm. Với mức điểm từ 7 điểm trở lên được ghi nhận đã tạo được sự hài lòng của khách hàng.
EVN cho biết, Chỉ số Tiếp cận điện năng năm 2017 của Việt Nam tăng 32 bậc so với xếp hạng năm 2016 đứng ở vị trí 64 trong số 190 quốc gia, vùng lãnh thổ, là năm có thứ bậc tăng cao nhất từ năm 2013 đến nay. Việt Nam là nền kinh tế có Chỉ số Tiếp cận điện năng cải thiện vị trí nhiều nhất trong khu vực ASEAN.
Với mức độ tin cậy cung cấp điện và minh bạch giá điện thì Việt Nam được đánh giá 6/8 điểm - tăng 3 điểm theo đánh giá của nhóm tư vấn Doing Business - Ngân hàng Thế giới WB. Đây là ghi nhận của Doing Business thể hiện qua các cải cách của EVN trong việc cung cấp điện với chất lượng tin cậy, ổn định và công khai, minh bạch về dịch vụ cung cấp điện.
Ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) nhận xét: Qua khảo sát của VCCI trong năm 2017, doanh nghiệp hài lòng về ngành điện cung cấp dịch vụ là 69%, cao hơn nhiều so với các dịch khác khác.
Ngành điện không chỉ hưởng ứng sự tích cực và tạo sự tiếp cận gần gũi đối với doanh nghiệp bằng việc dần cải thiện chất lượng dịch vụ và hình ảnh thân thiện mà mục tiêu phấn đấu của ngành là còn gắn với sự hài lòng của khách hàng, đó là yếu tố quan trọng nhất.
Theo EVN, cải cách thủ tục hành chính và ứng dụng công nghệ trong giao dịch khách hàng được đẩy mạnh, nhất là trong khâu cấp điện mới. Qua đó rút ngắn thời gian cấp điện mới cho khách hàng sinh hoạt khu vực thành phố/thị xã/thị trấn là 2,07 ngày, khu vực nông thôn là 2,71 ngày và khách hàng ngoài sinh hoạt là 2,9 ngày./.
Theo bnews.vn
4. Từ 1/1/2018, Cục Đăng kiểm dừng đăng kiểm ô tô không “chuẩn” mức khí thải
Kể từ ngày 1/1/2018, Cục Đăng kiểm Việt Nam sẽ dừng mọi thủ tục đăng kiểm đối với ô tô chạy bằng nhiên liệu diesel không đáo ứng được mức khí thải theo quy định.
Cục Đăng kiểm Việt Nam vừa có công văn yêu cầu các cơ sỏ sản xuất, lắp ráp xe ô tô, các doanh nghiệp nhập khẩu xe ô tô thực hiện nghiêm lộ trình áp dụng tiêu chuẩn khí thải đối với xe ô tô theo Quyết định số 49/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Từ 1/1/2018, Cục Đăng kiểm dừng đăng kiểm ô tô không đáp ứng được mức khí thải. Ảnh: Báo Hải Quan
Rà soát lại toàn bộ các kế hoạch thực hiện sản xuất, lắp ráp, nhập khẩu các xe ô tô sử dụng động cơ diiesel mức 2 và đảm bảo việc nhập khẩu, sản xuất, lắp ráp, xuất xưởng và đưa ra thị trường trước ngày 31/12/2017. Sau thời điểm này nếu không hoàn thành phải có kế hoạch tái xuất hoặc xuất khẩu.
Đặc biệt, kể từ ngày 1/1/2018, Cục Đăng kiểm Việt Nam sẽ dừng mọi thủ tục đăng kiểm và cấp phiếu kiểm tra chất lượng xuất xưởng đối với ô tô chạy bằng nhiên liệu diesel không đáo ứng được mức khí thải theo quy định tại Quyết định số 49/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Theo doisongphapluat.com
5. Cục trưởng Cục điều tra chống buôn lậu thua kiện
Tịch thu lô rượu trị giá 3,7 tỉ đồng không có cơ sở, Cục trưởng Cục
Điều tra chống buôn lậu, Tổng cục Hải quan bị, tòa bác đơn kháng
cáo.
Bà Phan Thị Hương Thủy (đại diện ủy quyền của nguyên đơn) tại tòa
phúc thẩm ngày 21-12- Ảnh: T.L
Ngày 21-12, TAND cấp cao tại Hà Nội đã mở phiên xét xử phúc thẩm vụ
kiện giữa nguyên đơn là Công ty Camellia Trading International INC
(Belize) đối với cục trưởng Cục Điều tra chống buôn lậu, Tổng cục Hải
quan.
Trước đó, Công ty Camellia Trading International INC đã gửi vào kho
ngoại quan của Công ty TNHH quốc tế Sao Bắc toàn bộ lô hàng rượu
gồm 349 kiện, trị giá 3,7 tỉ đồng.
Công ty Sao Bắc được ủy quyền nhận hàng, làm thủ tục khai báo hải
quan, nhập lô hàng về cảng Hải Phòng.
Chiều 21-6-2013, toàn bộ lô hàng đã được nhập kho dưới sự kiểm tra,
giám sát của Chi cục hải quan cảng Cái Lân thuộc Cục Hải quan tỉnh
Quảng Ninh.
Tuy nhiên, sau đó Chi cục hải quan cảng Cái Lân đã không làm thủ tục
xuất lô hàng ra khỏi kho ngoại quan với lý do: Đội kiểm soát chống buôn
lậu khu vực phía Bắc, Cục Điều tra chống buôn lậu, Tổng cục Hải quan
đề nghị tạm thời chưa làm thủ tục để chờ kết quả kiểm tra xác minh hồ
sơ hải quan của lô hàng.
Tháng 10-2013, Cục Điều tra chống buôn lậu ra quyết định phong tỏa lô
hàng, sau đó ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và chuyển Cơ quan
Cảnh sát điều tra Bộ Công an giải quyết theo quy định.
Tuy nhiên, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã ra quyết định đình
chỉ điều tra vụ án, chuyển tài liệu và tang vật đề nghị Cục điều tra chống
buôn lậu, Tổng Cục hải quan xử lý hành chính.
Năm 2015, Cục Điều tra chống buôn lậu ra quyết định tịch thu toàn bộ lô
hàng nêu trên với lý do tịch thu tang vật vi phạm hành chính không xác
định được chủ sở hữu.
Sau khi bị tịch thu lô hàng, Công ty Camellia làm đơn khởi kiện đến
TAND TP Hà Nội và yêu cầu hủy hai quyết định do cục trưởng Cục Điều
tra chống buôn lậu ban hành vì hai quyết định này xâm phạm đến quyền
và lợi ích hợp pháp của công ty.
Quá trình tham gia tố tụng, đại diện ủy quyền của cục trưởng Cục Điều
tra chống buôn lậu cho rằng quyết định tịch thu lô hàng nói trên hoàn
toàn đúng thẩm quyền, đúng quy định.
Tuy nhiên, khi xét xử sơ thẩm, TAND TP. Hà Nội đã tuyên hủy quyết
định tịch thu lô rượu của Cục trưởng Cục điều tra chống buôn lậu.
Lý do theo tòa, sau khi lô rượu bị thu giữ, phía nguyên đơn đã liên hệ
Tổng Cục hải quan cung cấp nhiều văn bản, chứng cứ chứng minh chủ
sỡ hữu đối với lô hàng này.
Lô rượu được nhập về VN có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Tuy nhiên Cục
điều tra chống buôn lậu lại tịch thu lô hàng với lý do không rõ chủ sở
hữu. Theo tòa, quyết định này là vượt thẩm quyền ban hành và chưa đủ
căn cứ vững chắc.
Chính vì vậy, TAND TP Hà Nội đã tuyên hủy toàn bộ quyết định xử phạt
hành chính, giao trả lô hàng cho Công ty Camellia Trading International
INC.
Sau phiên tòa sơ thẩm Cục trưởng Cục điều tra chống buôn lậu đã làm
đơn kháng cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 21-12, cục trưởng Cục điều tra chống
buôn lậu đã xin xét xử vắng mặt.
Xét quyết định xử phạt hành chính của Cục trưởng Cục điều tra chống
buôn lậu có nhiều sai phạm, tòa phúc thẩm quyết định bác kháng cáo
của bị đơn, y án sơ thẩm.
Theo tuoitre.vn
6. Thiếu đất xây 800m đường: Đại gia ô tô ngoại gửi đơn kêu xin
Hiệp hội Các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA) vừa có công văn
lần thứ 4 gửi lên Văn phòng Chính phủ và các bộ ngành nhằm kiến
nghị về việc thực hiện Nghị định 116/2017/NĐ-CP liên quan tới các
quy định vềnhập khẩu xe ô tô. Trong đó có nhiều lý do được chính
các doanh nghiệp trong ngành cho rằng chưa hợp lý.
Nghị định 116 yêu cầu 100% xe sản xuất ra phải chạy thử trên đường thử.
Ngoại xin ưu đãi vì… không thể đáp ứng
Đáng lưu ý, về yêu cầu về đường thử bắt buộc đối với nhà sản xuất, lắp
ráp xe ô tô trong nước theo quy định tại Nghị định 116, VAMA kiến nghị
Chính phủ không áp dụng hồi tố đối với các nhà sản xuất đang hoạt
động tại Việt Nam.
"Đây là yêu cầu bắt buộc đối với nhà sản xuất trong nước phải sở hữu
hoặc thuê đường thử dài 800m. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, chưa có
thành viên VAMA nào có sẵn đường thử như vậy. Điều này có nghĩa là
mỗi thành viên VAMA cần phải xin thêm đất và đầu tư thêm nhiều tiền
vào việc xây dựng đường thử mới, hoặc mở rộng đường thử hiện tại,
hay phải thuê đường thử", VAMA cho biết.
Đồng thời, khẳng định VAMA không thể đáp ứng được yêu cầu này do...
không có đủ đất cho việc xây dựng đường thử mới hoặc mở rộng đường
thử. Việc thuê đường thử cũng được cho biết là không khả thi do chi phí
thuê và vận chuyển xe từ nhà máy đến đường thử và ngược lại rất cao
vì Nghị định 116 yêu cầu 100% xe sản xuất ra phải chạy thử trên đường
thử.
Trên thực tế, trong khi VAMA với các thành viên chủ yếu là những "ông
lớn" trong lĩnh vực sản xuất ô tô như Toyota Việt Nam, Ford Việt Nam...
còn đang "bận" gửi công văn để xin ưu đãi thì phía các nhà sản xuất
trong nước lại "âm thầm" bỏ tiền bỏ sức đầu tư nhằm thực hiện đúng
quy định, đảm bảo chất lượng cho những sản phẩm được bán ra thị
trường.
Theo Nghị định 116, đường thử xe có chiều dài tối thiểu 800m, bảo đảm
yêu cầu kỹ thuật để kiểm tra được chất lượng của xe sản xuất, lắp ráp
trước khi xuất xưởng: Việc chạy thử xe sau khi được sản xuất, láp ráp là
một việc rất quan trọng, đảm bảo cho xe chất lượng ổn định trước khi
xuất xưởng, nếu đường thử xe không đáp ứng được tiêu chuẩn, không
bố trí được các địa hình thử theo quy định sẽ ảnh hưởng đến chất lượng
của xe xuất xưởng.
Nội âm thầm đầu tư tiền của
Đường thử xe có chiều dài tối thiểu là 800m, bao gồm: đường bằng
phẳng 400m (200m để kiểm tra tăng tốc theo quy định, 200m còn lại thử
các tính năng khác như kiểm tra số, ổn định lái khi tốc độ cao, tiếng kêu
ở tốc độ cao…); đường sỏi đá 25m; đường gồ ghề 25m; đường gợn
sóng 25m; đường dốc 30m; đường trơn ướt 25m (đối với xe ô tô chở
người dưới 9 chỗ ngồi, để kiểm tra hệ thống chống trượt ngang khi
phanh-ESP); đường cua; đoạn đường còn lại là khoảng cách giữa các
đường địa hình, đường chờ trước khi tăng tốc. Xe trước khi xuất xưởng
phải được kiểm tra trên tất cả các loại đường này để bảo đảm yêu cầu
kỹ thuật và chất lượng của xe.
Cũng trong một văn bản gửi lên các cơ quan quản lý, một nhà sản xuất
trong nước là Công cổ phần ô tô Trường Hải (Thaco) nhấn mạnh: "Nếu
không áp dụng quy định về đường chạy thử đối với các nhà sản xuất
đang hoạt động tại Việt Nam thì sẽ tạo ra không công bằng giữa nhà sản
xuất mới và nhà sản xuất đang hoạt động".
Phía Thaco cũng thừa nhận rằng, để có thời gian cho các doanh nghiệp
trong nước chuẩn bị, Nghị định 116 thậm chí đã có quy định điều khoản
chuyển tiếp đối với doanh nghiệp đang hoạt động và áp dụng sau 18
tháng kể từ ngày Nghị định có hiệu lực, tức là sẽ áp dụng từ ngày
18/4/2019.
"Tuân thủ các quy định pháp luật của nhà nước, THACO đã mạnh dạn
đầu tư trang thiết bị không chỉ có đường thử xe mà còn cả những cơ sở
bảo hành, bảo dưỡng, … đáp ứng quy định tại Nghị định 116 và đã
được các cơ quan ban ngành kiểm tra, đánh giá và cấp Giấy chứng
nhận đủ điều kiện sản xuất lắp ráp ô tô cho Nhà máy sản xuất xe Bus
Thaco. Bên cạnh đó, đối với ô tô nhập khẩu, THACO đã và đang thực
hiện hồ sơ trình Bộ Công Thương cấp Giấy phép kinh doanh nhập khẩu
ô tô để tiếp tục nhập khẩu ô tô từ ngày 01/01/2018", Thaco khẳng định.
Một nhà sản xuất trong nước khác là Công ty Cổ Phần Tập đoàn Thành
Công cũng thừa nhận, các điều kiện về đường thử dài tối thiểu 800m
được đưa ra nhằm mục đích bảo đảm yêu cầu kỹ thuật để kiểm tra chất
lượng xe xuất xưởng
Theo Thành Thành Công, các quy định về đường thử ô tô cũng như các
yêu cầu chung về nhà xưởng, dây chuyền công nghệ lắp ráp, dây
chuyền hàn, dây chuyển sơn, dây chuyền kiểm tra chất lượng sản phẩm
là các yêu cầu rất cơ bản mà các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp cần đạt
được để đảm bảo tối ưu hóa các công đoạn sản xuất, kiểm tra thử
nghiệm sản phẩm, đảm bảo chất lượng đầu ra.
“Yêu cầu về đường thử có chiều dài tối thiểu là 800m là đặc biệt quan
trọng bởi xe trước khi xuất xưởng phải được kiểm tra trên tất cả các loại
đường này để bảo đảm yêu cầu kỹ thuật và chất lượng của xe”, Thành
Thành Công cho biết. Thành Thành Công cũng khẳng định đáp ứng
được tối đa các điều kiện theo Nghị định.
Không thể bỏ rơi quy định an toàn
Ngoài quy định liên quan tới đường thử 800m, tại công văn kiến nghị lần
này, VAMA còn xin hoãn thi hành hàng loạt quy định đối với việc nhập
khẩu xe tại Nghị định 116 trong ít nhất 6 tháng với lý do quá trình từ khi
đặt hàng, sản xuất, vận chuyển xe ô tô từ nước xuất khẩu đến Việt Nam
sẽ mất một thời gian dài.
Theo VAMA, mỗi doanh nghiệp nhập khẩu xe ô tô cũng cần thêm thời
gian để xin giấy phép nhập khẩu xe ô tô theo yêu cầu của Nghị định
116. VAMA cũng muốn chỉ áp dụng thử nghiệm an toàn và khí thải với lô
hàng đầu với lý do “không thể đáp ứng được yêu cầu này khi cùng kiểu
loại xe ở các lô hàng khác nhau nhưng vẫn phải thử nghiệm đi thử
nghiệm lại về khí thảo và an toàn”. Đồng thời cho rằng, việc kiểm nghiệm
tất cả các lô hàng sẽ “không có nhiều ý nghĩa về mặt quản lý nhà nước
mà chỉ làm gia tăng thời gian chờ đợi lên thêm 2 tháng và chi phí lên
thêm 10.000 USD để thử nghiệm đối với mỗi kiểu loại xe trong lô hàng”.
Tuy nhiên, nhiều ý kiến của các nhà kinh tế, các chuyên gia, người tiêu
dùng và doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước cho rằng những
kiến nghị của VAMA đang đi ngược lại lợi ích của người tiêu dùng. Trên
thực tế, Nghị định 116 ra đời, được đánh giá là dựa trên tiêu chí bảo vệ
quyền lợi của người tiêu dùng cũng như sự công bằng giữa các doanh
nghiệp đầu tư sản xuất, lắp ráp trong nước với các nhà nhập khẩu, từ đó
tạo điều kiện để phát triển một nền công nghiệp ô tô thực sự.
Theo VAMA, mỗi doanh nghiệp nhập khẩu xe ô tô cũng cần thêm thời
gian để xin giấy phép nhập khẩu xe ô tô theo yêu cầu của Nghị định 116.
Một số nhà sản xuất trong nước như Thaco hay Thành Thành Công kể
trên nhiều lần bày tỏ hoàn toàn đồng thuận với các quy định được nêu
trong Nghị định 116 và mong muốn cùng với Chính phủ Việt Nam phát
triển ngành sản xuất ô tô trong nước thành ngành kinh tế chủ lực và
hướng đến xuất khẩu ô tô theo Chiến lược phát triển ngành công nghiệp
ô tô Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 của Chính phủ.
Lãnh đạo một hãng sản xuất xe khẳng định: “Là một doanh nghiệp hoạt
động lâu năm trong lĩnh vực sản xuất lắp ráp ô tô, chúng tôi ý thức được
trách nhiệm của mỗi nhà phân phối bất kể hoạt động ở lĩnh vực nào
(nhập khẩu, sản xuất lắp ráp hay bảo hành bảo dưỡng) đều phải làm
tròn trách nhiệm của mình, thể hiện qua việc tuân thủ các quy định của
Pháp luật, cạnh tranh trong một môi trường minh bạch, lành mạnh,
không thực hiện các hành vi gian lận thương mại nhằm trục lợi bất
chính”.
Không những vậy, vị này còn cho rằng, các doanh nghiệp còn phải tự ý
thức được trách nhiệm của mình với mỗi người tiêu dùng do đặc thù sản
phẩm ô tô rất phức tạp, đòi hỏi phải tuân theo các quy định về tiêu chuẩn
kỹ thuật chặt chẽ. Trong đó, việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là vấn
đề tối quan trọng nhằm đảm bảo sự phát triển của ngành công nghiệp ô
tô trong dài hạn.
Theo vietnamnet.vn
7. Thay đổi chính sách để gỡ vướng cho doanh nghiệp KHCN
Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khoa
học và công nghệ (DN KHCN) như: Vốn vay lãi suất thấp, miễn giảm
tiền sử dụng đất, miễn giảm thuế thu nhập DN và một số ưu tiên
khác phục vụ việc nghiên cứu. Đồng thời, Bộ KHCN cũng đang
hoàn thiện Nghị định DN KHCN nhằm khắc phục vướng mắc về
KHCN trong phát triển doanh nghiệp.
Theo Thứ trưởng Bộ KHCN Trần Văn Tùng, chiến lược phát triển KTXH
giai đoạn 2011-2020 đã đặt ra cho ngành KHCN nhiều nhiệm vụ tập
trung cần giải quyết để đạt được mục tiêu Việt Nam có vị trí cao trong
khu vực về ứng dụng KHCN, trong đó đặc biệt ưu tiên các lĩnh vực công
nghệ thông tin, điện tử, cơ khí chính xác, tự động hóa… Đây cũng chính
là những công nghệ, định hướng mà Bộ KHN ưu tiên phát triển.
Theo thống kê, hiện cả nước có trên 300 DN KHCN, trong đó có nhiều
DN có hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo trong các lĩnh vực như giao
thông, xây dựng, y tế, nông nghiệp, đặc biệt là lĩnh vực công nghệ cao,
là lĩnh vực được Bộ KHCN ưu tiên triển khai trong thời gian tới. Tổng
doanh thu của các DN này trong năm 2016 đạt hơn 14.400 tỉ đồng, lợi
nhuận sau thuế gần 1.300 tỉ đồng.
Trao Giấy chứng nhận cho DN có thành tích xuất sắc trong ứng dụng và
phát triển KHCN. Ảnh: PV
Nhiều DN KHCN đã có doanh thu lớn, sản phẩm chất lượng cao, đáp
ứng được nhu cầu trong nước và vươn ra thị trường quốc tế, tham gia
vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu như: Cty CP Robot Tosy được đăng
ký bảo hộ tại 21 nước trên thế giới; hay Cty CP Dược phẩm Hanvet xuất
khẩu sản phẩm cho gần 20 nước trên thế giới.
Bên cạnh đó, các DN KHCN cũng quan tâm đầu tư đổi mới công nghệ,
nghiên cứu phát triển sản phẩm công nghệ, công nghệ cao thông qua
việc tái đầu tư, dành những nguồn lực xứng đáng cho nghiên cứu khoa
học và phát triển công nghệ của DN. Tuy nhiên, số lượng DN KHCN
những năm qua vẫn còn ít so với tiềm năng và mục tiêu đề ra bởi cách
tổ chức thực hiện chính sách có nhiều hạn chế. Một số nơi, việc cấp
phép đầu tư và công nhận họ là DN KHCN còn thiếu thống nhất giữa
các sở, ngành liên quan.
"Sắp tới, các thủ tục hành chính cho DN KHCN, các thủ tục chứng nhận
loại hình DN này sẽ đơn giản hóa. Căn cứ vào kết quả nghiên cứu, các
sản phẩm mà DN đó làm chủ, những phương án khả thi đưa vào sản
xuất trong tương lai... để công nhận họ là DN KHCN, giúp họ được
hưởng ưu đãi", ông Tùng nhấn mạnh. Đồng thời cam kết trong thời gian
tới, sẽ phối hợp với các bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố và các sở
KHCN đẩy mạnh công tác tuyên truyền và hướng dẫn các chính sách
của Nhà nước về vấn đề này, trong đó ưu tiên cho mạng xã hội bởi đây
là kênh thông tin lan tỏa mạnh mẽ.
Theo laodong.vn
8. Kho bạc Nhà nước: Thời gian một giao dịch thu ngân sách chỉ còn 5 phút
Chiều ngày 21/12/2017, Kho bạc Nhà nước (KBNN) đã tổ chức họp
báo thông tin về kết quả công tác trọng tâm và cải cách hành chính
của cả hệ thống kho bạc trong năm 2017. Phó Tổng Giám đốc
Nguyễn Quang Vinh chủ trì cuộc họp.
Phó Tổng Giám đốc Nguyễn Quang Vinh chủ trì cuộc họp.
Ông Nguyễn Quang Vinh cho biết, xác định mục tiêu lấy khách hàng,
người dân và các đơn vị sử dụng ngân sách là trọng tâm của công tác
cải cách thủ tục hành chính (TTHC), hướng tới giảm thiểu chi phí, tiết
kiệm thời gian và vật chất cho xã hội, trong năm 2017, toàn hệ thống
KBNN đã quyết liệt triển khai đồng bộ nhiều giải pháp để cải cách, hoàn
thiện các cơ chế chính sách, quy trình nghiệp vụ. Trong đó, trọng tâm là
cải cách quy trình TTHC về thu, chi NSNN theo hướng đơn giản, công
khai, minh bạch nhằm giảm thiểu thời gian, thủ tục và chi phí thực hiện
TTHC cho các đơn vị dự toán ngân sách, chủ đầu tư và người dân trong
quá trình giao dịch thu, chi NSNN với các đơn vị trong hệ thống KBNN.
Cụ thể, KBNN tiếp tục tổ chức phối hợp thu NSNN giữa KBNN với các
cơ quan thu và các ngân hàng thương mại (NHTM); triển khai thanh toán
điện tử tập trung với Ngân hàng Nhà nước và các NHTM. Đồng thời,
ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) tiên tiến vào quy trình quản lý thu
NSNN.
Việc triển khai tích cực các dự án cải cách, hiện đại hóa đã góp phần tập
trung nhanh, đầy đủ các khoản thu của NSNN, đáp ứng kịp thời cho các
nhu cầu chi tiêu của NSNN. Đồng thời, tạo điều kiện cho người nộp
thuế, giảm thiểu thời gian và thủ tục nộp tiền (thời gian thực hiện 1 giao
dịch thu NSNN rút xuống còn khoảng 5 phút, so với trước đây là 30
phút). Bên cạnh đó, KBNN đã chỉ đạo các đơn vị KBNN địa phương phải
mở rộng tài khoản chuyên thu và thực hiện ủy nhiệm thu NSNN bằng
tiền mặt cho NHTM đảm nhận…
Toàn cảnh buổi họp báo
Ông Vinh cho biết, với việc thực hiện các cải cách trên, một mặt giúp tập
trung nhanh, đầy đủ, kịp thời các khoản thu vào NSNN, mặt khác, góp
phần mở rộng không gian và thời gian cho người nộp thuế. Theo đó,
người nộp thuế có thể thực hiện nộp tiền tại nhiều địa điểm khác nhau,
nơi có trụ sở KBNN hoặc chi nhánh, điểm giao dịch của NHTM; hoặc có
thể nộp tiền ngoài giờ hành chính, nộp vào ngày nghỉ; qua các dịch vụ
thanh toán điện tử do NHTM cung cấp,… Đồng thời, giảm thiểu số thu
bằng tiền mặt, tạo điều kiện cho người nộp thuế tiếp cận với các hình
thức thu, nộp NSNN văn minh, hiện đại (như nộp thuế qua Internet,
ATM...).
Tính đến hết ngày 15/12/2017, tổng thu NSNN đạt 1.222.567 tỷ đồng.
Trong đó, thu cân đối NSNN đạt 1.099.586 tỷ đồng, xấp xỉ 91% dự toán
năm.
Về công tác kiểm soát chi NSNN, KBNN đã thường xuyên hoàn thiện cơ
chế, quy trình kiểm soát chi (KSC) theo hướng đơn giản, rõ ràng, minh
bạch về hồ sơ, chứng từ, nội dung kiểm soát; đồng thời, phân định rõ
trách nhiệm, quyền hạn của các đơn vị, cá nhân có liên quan. Cụ thể, đối
với chi đầu tư đã rút ngắn thời gian kiểm soát chi (từ 7 ngày xuống còn
khoảng 3 ngày làm việc), đơn giản hóa yêu cầu đối với hồ sơ đề nghị
thanh toán, giảm số lượng mẫu biểu chứng từ thanh toán...
Đối với chi thường xuyên, đã bước đầu xây dựng ngưỡng để thực hiện
KSC theo cơ chế khoán đối với cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị
sự nghiệp công lập, bỏ thủ tục KSC liên quan đến nhu cầu chi quý, xây
dựng và triển khai quy trình KSC “một cửa” theo nguyên tắc mỗi giao
dịch viên là một cửa, trừ các khoản chi bằng tiền mặt. Ngoài ra, KBNN
đã thực hiện rà soát những văn bản không còn hiệu lực để loại bỏ, đơn
giản hóa các TTHC thuộc lĩnh vực kho bạc.
Bằng các biện pháp trên, tính đến hết năm 2017, hệ thống KBNN kiểm
soát chi thường xuyên ước đạt 824.517 tỷ đồng, bằng 91,3% dự toán
năm; kiểm soát chi đầu tư xây dựng cơ bản ước đạt trên 304.295 tỷ
đồng, bằng 89,5% so với kế hoạch năm./.
Theo thoibaotaichinhvietnam.vn
9. Sắp có quy định mới về nhập khẩu thiết bị cũ
Ngày 20-12, Hội nghị bàn tròn doanh nghiệp (DN) Nhật Bản 2017 tại
TP HCM do Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP HCM
(ITPC) phối hợp với Hiệp hội DN Nhật Bản tại TP HCM (JBAH) tổ
chức đã giải đáp nhiều thắc mắc, kiến nghị của các DN Nhật.
Về ý kiến của JBAH muốn biết diễn biến mới liên quan kiến nghị của tổ
chức này đối với quy định hạn chế nhập khẩu máy móc, thiết bị đã qua
sử dụng trên 10 năm vào Việt Nam gây cản trở hoạt động đầu tư, mở
rộng sản xuất của các DN Nhật trong thời gian qua, ông Nguyễn Khắc
Thanh, Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP HCM, cho rằng
việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử
dụng được quy định cụ thể tại Thông tư 23 ban hành năm 2015 nhằm
hạn chế tình trạng nhập khẩu máy móc, thiết bị quá cũ vào Việt Nam.
Ngay từ khi ban hành, quy định này đã vấp phải sự phản ứng của DN
trong nước cũng như DN có vốn đầu tư nước ngoài, vì vậy Phó Thủ
tướng Trịnh Đình Dũng đã chỉ đạo Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp
với Bộ Công Thương nghiên cứu đưa các nội dung quy định nhập khẩu
máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng vào dự thảo
Nghị định hướng dẫn Luật Quản lý ngoại thương cho phù hợp thực tế,
tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho DN.
Nghị định mới được soạn thảo theo hướng bỏ quy định "tuổi" chung cho
tất cả các loại máy móc, thiết bị nhập vào Việt Nam mà sẽ có tiêu chuẩn
riêng cho từng loại. Các bộ, ngành sẽ đề xuất "tuổi" cho máy móc, thiết
bị ngành mình sử dụng, những máy móc, thiết bị không thuộc sự quản lý
của bộ, ngành sẽ áp dụng theo Thông tư 23. Chẳng hạn, máy móc, thiết
bị cho ngành cơ khí và công cụ có thể đã qua sử dụng đến 20 năm; máy
móc, thiết bị ngành chế biến lương thực, thực phẩm thì không quá 10
năm…
Đông đảo doanh nhân Nhật tham dự Hội nghị bàn tròn doanh nghiệp
Nhật Bản 2017
Ngoài vướng mắc về việc nhập khẩu máy móc, thiết bị đã qua sử dụng,
nhiều vấn đề liên quan đến các lĩnh vực môi trường - đời sống, pháp luật
- lao động, thuế, hải quan cũng được trao đổi, giải đáp trực tiếp hoặc ghi
nhận để kiến nghị lên cấp trên.
Theo đánh giá của JBAH, các cơ quan chức năng TP HCM đã phản hồi
nhanh, tích cực và có chấn chỉnh, cải thiện những bất hợp lý do các DN
Nhật phản ánh. Cụ thể, hải quan đã xử lý tốt kiến nghị cung cấp danh
mục cấm nhập khẩu và địa điểm cung cấp thông tin về danh mục cấm
nhập khẩu, giúp giảm các trường hợp bị xử lý không hợp lý và đã cải
thiện tình trạng thu lệ phí không chính thức khi thông quan. Riêng lĩnh
vực thuế, vẫn còn nhiều DN gặp khó khăn liên quan đến các yêu cầu bất
hợp lý của nhân viên thuế trong thủ tục hoàn thuế.
Hội nghị bàn tròn DN Nhật Bản là hoạt động thường niên giữa chính
quyền TP HCM và JBAH đã được duy trì suốt 16 năm qua nhằm hiện
thực hóa chủ trương cải cách thủ tục hành chính, hoàn thiện môi trường
đầu tư của TP HCM, qua đó góp phần tạo thuận lợi cho hoạt động của
các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có Nhật Bản.
Tại hội nghị, Phó Chủ tịch UBND TP HCM Trần Vĩnh Tuyến cho biết TP
HCM không chỉ kêu gọi đầu tư mà còn hỗ trợ các DN trong suốt quá
trình hoạt động tại TP.
Chính quyền TP HCM luôn sẵn sàng lắng nghe, chia sẻ những khó
khăn, vướng mắc, những ý kiến đóng góp của cộng đồng DN Nhật Bản,
vì lợi ích của các DN và sự phát triển chung của TP.
Theo ông Tuyến, Nhật Bản là một trong những đối tác quan trọng hàng
đầu trong nhiều lĩnh vực. Nhật Bản hiện là thị trường xuất nhập khẩu lớn
thứ ba và là nhà đầu tư lớn thứ 6 tại TP HCM với 1.110 dự án còn hiệu
lực, tổng vốn đầu tư đạt 3,95 tỉ USD.
Theo nld.com.vn
10. Phát triển ngân hàng số: Quan trọng nhất là hành lang pháp lý
Cung cấp dịch vụ ngân hàng số không phải là một lựa chọn, mà là
sự cần thiết phải thực hiện để phù hợp với xu thế phát triển. Tuy
nhiên, thách thức đã và đang song hành với thuận lợi trong quá
trình chuyển đổi sang ngân hàng số của các ngân hàng…
Đẩy mạnh triển khai hệ thống căn cước công dân điện tử
Tại Hội thảo “Hành lang pháp lý cho ngân hàng số tại Việt Nam” do
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa tổ chức, bà Nguyễn Thùy Dương,
Phó tổng Giám đốc EY Việt Nam nhận định, có rất nhiều cơ hội và tiềm
năng để phát triển ngân hàng số tại Việt Nam, nhưng việc ứng dụng
công nghệ trong cung cấp dịch vụ tài chính tới khách hàng vẫn gặp
nhiều khó khăn do một số bất cập trong quy định hiện hành.
Đảm bảo an ninh không gian mạng là một phần không thể thiếu để bảo
vệ khách hàng/ngân hàng khi sử dụng ngân hàng số
“Chẳng hạn như quy định về nhận diện và xác minh thông tin khách
hàng (KYC), việc tiến hành gặp mặt trực tiếp để thực hiện thủ tục KYC
sẽ hạn chế khả năng lan tỏa của dịch vụ tài chính”, bà Dương nói.
Theo Luật Phòng chống rửa tiền và các quy định liên quan, đối với các
nghiệp vụ như mở tài khoản ngân hàng hay mở tài khoản ví điện tử, thẻ
định danh phi vật lý, hay thiết lập quan hệ lần đầu với các tổ chức tài
chính, hoặc tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính công nghệ mới, thì các tổ
chức này phải gặp mặt trực tiếp khách hàng để xác minh thông tin.
Ông Đặng Đức Huy, Phó giám đốc Khối Ngân hàng bán lẻ SCB chia sẻ,
để thực hiện kế hoạch thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam, đặc biệt
là tài chính số, đòi hỏi giao dịch của khách hàng phải diễn ra mọi lúc-mọi
nơi, thay vì bắt buộc khách hàng đến trực tiếp các chi nhánh ngân hàng
để làm thủ tục.
Đồng quan điểm này, ông Nguyễn Hưng, Tổng giám đốc TPBank cho
rằng, các quy định chặt chẽ về định danh khách hàng đã và đang hỗ trợ
hiệu quả các nhà quản lý trong công tác phòng, chống rủi ro về tội phạm
tài chính. Tuy nhiên, trong kỷ nguyên công nghệ số, những quy định
truyền thống về định danh khách hàng đã không còn phù hợp.
Theo ông Huy, trong thời gian tới, để giảm thiểu các thủ tục hành chính,
Chính phủ cần nhanh chóng đẩy mạnh triển khai đồng bộ hệ thống căn
cước công dân điện tử (eID, eKYC).
“Một khi hệ thống này được triển khai trên diện rộng, các thủ tục hành
chính sẽ được rút ngắn rất nhiều. Khi đó, các ngân hàng sẽ kết nối trực
tiếp với các trung tâm dữ liệu về căn cước công dân của Chính phủ, xác
thực chữ ký điện tử, hoặc so sánh các thông tin sinh trắc học của khách
hàng, đồng thời liên kết với trung tâm thông tin tín dụng để có thể nhận
biết khách hàng và phân tích lịch sử tín dụng của khách hàng trực
tuyến”, ông Huy nhấn mạnh.
Chia sẻ thông tin để siết chặt an ninh mạng
Một vấn đề cũng được đề cập tại Hội thảo, đó là việc ứng dụng công
nghệ số hóa đang phải đối diện với nhiều thách thức như bảo mật, an
toàn thông tin, sự cố kỹ thuật, rủi ro mạng, gian lận... Bởi theo các
chuyên gia, an ninh không gian mạng (cybersecurity) là một phần không
thể thiếu để bảo vệ khách hàng/ngân hàng khi sử dụng ngân hàng số.
Theo thống kê trên toàn cầu, từ năm 2014 đến nay, các cuộc tấn công
mạng tăng nhanh chóng cả về số lượng lẫn tính phức tạp, nhằm vào mọi
tổ chức, bao gồm cả các tổ chức tài chính, cho dù đã được đầu tư rất
lớn về công nghệ thông tin để đảm bảo an toàn, an ninh hệ thống.
ThS. Đỗ Giang Tĩnh, Giám đốc Trung tâm Công nghệ thông tin Agribank
cho rằng, ngân hàng phải tự quản lý và tự chịu trách nhiệm hoạt động an
toàn thông tin mạng. Song, để triển khai được đồng bộ và hiệu quả, thì
cần có sự vào cuộc nhiều cơ quan, ban ngành.
“Vấn đề kỹ thuật để đảm bảo tính bảo mật, an toàn cho giao dịch điện tử
là một thách thức rất lớn, phụ thuộc vào công nghệ và cách thức sử
dụng công nghệ của cả bên cung cấp và bên sử dụng. Trong môi trường
điện tử, cần cơ chế để chống gian lận và có cơ sở pháp lý vững chắc để
xử lý trường hợp tranh chấp xảy ra, nhất là khi sử dụng chữ ký điện tử,
nghĩa là đồng thời cả về kỹ thuật và cơ sở pháp lý”, ông Tĩnh nói.
Để giải quyết vấn nạn trên, qua đó siết chặt anh ninh, an toàn trong môi
trường điện tử, bà Dương gợi ý, Việt Nam cần chủ động hơn nữa trong
việc chia sẻ thông tin với các tổ chức liên quan trong khu vực, cũng như
toàn cầu về những đe dọa an ninh mạng.
“Các ngân hàng và tổ chức tài chính Việt Nam cần tham gia vào cuộc
chiến chống tội phạm an ninh mạng bằng việc thường xuyên nâng cao
nhận thức của nhân viên về những nguy cơ tiềm ẩn trên mạng và những
hành động đáng ngờ, đặc biệt là trong việc nhận thức những nguy hiểm
đính kèm với các thư điện tử...”, bà Dương nói.
Theo tinnhanhchungkhoan.vn
11. Tạo đà cho kinh tế tư nhân bứt phá
Trong 11 tháng năm 2017, cả nước có 116.045 doanh nghiệp (DN)
thành lập mới với số vốn đăng ký 1.131.819 tỷ đồng, tăng 14,1%
về số DN và 41,9% về số vốn đăng ký so cùng kỳ năm 2016. Bên
cạnh đó, có 24.349 DN quay trở lại hoạt động, nâng tổng số DN
lên 140.400 DN. Đây là tín hiệu tích cực từ những thay đổi chính
sách của Đảng, Quốc hội và Chính phủ đối với khối DN tư nhân.
Đã có nhiều thay đổi chính sách nhằm phát triển kinh tế tư nhân.
Cải thiện môi trường kinh doanh
Thời gian vừa qua, hàng loạt chủ trương, chính sách của Đảng, Quốc
hội và Chính phủ đã tạo đường hướng thúc đẩy phát triển DN, cải
thiện môi trường kinh doanh của quốc gia. Hội nghị T.Ư 5 đã ban hành
Nghị quyết (NQ) 10 về kinh tế tư nhân (KTTN). Luật Hỗ trợ DN nhỏ và
vừa được ban hành. Nhiều NQ của Chính phủ nhằm thúc đẩy sự phát
triển DN, nâng cao năng lực cạnh tranh và cải thiện môi trường kinh
doanh quốc gia như: NQ 19 hay NQ 35. Thủ tướng Chính phủ trực
tiếp ban hành những chỉ thị cụ thể như Chỉ thị 20 về giảm công tác
thanh tra, kiểm tra DN vào tháng 5-2017…
Cùng với sự quyết tâm từ Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương cũng
có những chuyển biến rõ rệt về thủ tục hành chính và điều kiện kinh
doanh. Cụ thể, Bộ Công thương đã đưa ra lộ trình cắt bỏ 675 điều
kiện kinh doanh, nhiều bộ, ngành cũng đang cố gắng đưa ra các
chương trình đột phá. Các tỉnh, thành phố đều đặt ra và cam kết thực
hiện bằng được mục tiêu thúc đẩy thành lập DN mới.
Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Vũ Tiến
Lộc nhận định, có thể nói, chưa bao giờ vai trò của DN được nhấn
mạnh và đề cao như hiện nay. Lần đầu tiên KTTN được coi là một
động lực quan trọng.
Về mặt chính sách, tuy đã có nhiều cải thiện nhưng ông Vũ Tiến Lộc
vẫn cho rằng: “Các bộ, ngành chưa chuyển động được như mong
muốn. Nhiều bộ, ngành chần chừ trong cắt giảm thủ tục kiểm tra
chuyên ngành. Môi trường đầu tư kinh doanh còn nhiều trở ngại,
chuẩn mực OECD vẫn là khoảng cách khá xa.
Cần có giải pháp mạnh hơn nữa
Tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF) kỳ cuối năm 2017 - cơ
chế đối thoại chính sách lớn nhất giữa Chính phủ và DN, nhiều ý kiến
đã được đưa ra nhằm cải thiện tình hình tài chính và môi trường kinh
doanh, tạo điều kiện cho DNTN bứt phá.
Thẳng thắn đặt vấn đề về một số vướng mắc trong môi trường kinh
doanh tại Việt Nam khiến DN và đặc biệt là DN nước ngoài vẫn phải
mất nhiều thời gian và chi phí, Chủ tịch Hiệp hội DN Nhật Bản tại Việt
Nam (JCCI) Hiroshi Karashima cho rằng: “Dù Hội đồng Tư vấn cải
cách thủ tục hành chính đã làm việc rất tích cực nhưng chúng tôi vẫn
muốn đề xuất xây dựng một “Cơ chế xử lý khiếu nại do Thủ tướng
trực tiếp quản lý” thuộc Hội đồng. Chính phủ Việt Nam cần phải đưa ra
những biện pháp mạnh mẽ hơn nữa để giải quyết vấn đề này”.
Về môi trường kinh doanh, ông Mark Gillin, Trưởng nhóm Hải quan và
thuế VBF, cho biết, có nhiều trường hợp DN đã được cấp giấy phép
với mức ưu đãi theo quy định nhưng khi cơ quan thuế vào kiểm tra thì
lại từ chối áp dụng, phủ nhận. Trong một số trường hợp, cơ quan thuế
cho rằng, cơ quan cấp phép đã làm sai khi cấp những ưu đãi đó cho
nhà đầu tư, yêu cầu DN nộp thuế bổ sung, lãi chậm nộp và thậm chí
còn yêu cầu DN nộp phạt do kê khai sai thuế. Thực tế, các DN đang
gặp phải những vướng mắc, thiệt hại do quy định của pháp luật thuế
thay đổi liên tục nhưng không rõ ràng.
Ông Mark Gillin kiến nghị: “Pháp luật về thuế hiện nay nên ban hành
quy định cụ thể và chế tài xử lý đối với cán bộ có hành vi ban hành
văn bản, quyết định, công văn sai luật, sai thẩm quyền, mâu thuẫn lẫn
nhau. Cần có một đường dây nóng và thật sự nóng để tiếp nhận phản
ánh cũng như giải đáp khúc mắc cho DN”.
Trăn trở với ước vọng đưa DN ra biển lớn
Đồng Chủ tịch VBF Hirohide Sagara cho rằng, bên cạnh việc Chính
phủ Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa để tạo điều
kiện cho khu vực KTTN phát triển thì cần phải duy trì được môi trường
kinh doanh với các điều kiện kinh doanh tốt, giảm chi phí, tiếp tục đầu
tư cho cơ sở hạ tầng. Đó là những giải pháp thúc đẩy khu vực tư nhân
phát triển.
Trước những tâm tư, kiến nghị của cộng đồng DN, phát biểu ý kiến tại
VBF, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chia sẻ, làm sao đưa DN Việt
Nam sớm lớn mạnh để có thể vươn ra biển lớn là câu hỏi trăn trở đối
với Chính phủ. Thời gian tới, để cùng chung tay cùng cộng đồng DN
phát triển, tạo đà bứt phá cho KTTN, Chính phủ sẽ tập trung ưu tiên
đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giúp tạo ra các kết nối “thông minh”,
hiệu quả, giảm chi phí giao dịch, nâng cao tính cạnh tranh của DN,
nhà đầu tư và nền kinh tế.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khẳng định, trong ngắn hạn Chính phủ
sẽ tiếp tục sử dụng linh hoạt các công cụ tài khóa và tiền tệ để nâng
đỡ nền kinh tế, thúc đẩy công ăn việc làm và cải thiện thu nhập cho
người dân. Tập trung cải thiện chất lượng thể chế, pháp luật theo
hướng tăng tính minh bạch, lành mạnh; nâng cao năng lực quản trị
Nhà nước và quản lý kinh tế vĩ mô nhằm duy trì sự tăng trưởng, kéo
tầng lớp thu nhập thấp tiến lên hội tụ với nhóm thu nhập trung bình và
khá.
Theo nhandan.com.vn
12. Hoạt động khởi nghiệp còn nhiều trở ngại
TP HCM có nhiều tiềm năng, lợi thế cho hoạt động khởi nghiệp
nhưng vẫn còn thiếu nhiều điều kiện để trở thành trung tâm khởi
nghiệp của cả nước. Các nhà khoa học cho biết như vậy tại hội
thảo Tìm kiếm giải pháp đưa TP HCM trở thành trung tâm khởi
nghiệp của cả nước do Viện Nghiên cứu TP HCM tổ chức ngày 21-
12.
Theo các chuyên gia kinh tế, TP HCM đang làm tốt công tác tuyên
truyền về khởi nghiệp nhưng chưa có căn cơ cho khởi nghiệp, chưa tạo
ra môi trường thúc đẩy kinh doanh làm ăn chân chính. Số liệu của
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng Việt Nam
trong danh sách 20% quốc gia có tinh thần khởi nghiệp hăng hái nhất
nhưng cũng trong tốp 20% doanh nghiệp (DN) có chất lượng khởi
nghiệp thấp nhất thế giới, cho thấy phong trào khởi nghiệp đang chạy
theo quá nhiều về số lượng, nên hãm số lượng mà đẩy mạnh chất
lượng.
ThS Nguyễn Anh Ngọc, Trường ĐH Văn Lang (TP HCM), cho biết hệ
thống pháp lý và cơ quan thực hiện kích thích khởi nghiệp của TP đã
hình thành nhưng chưa tạo được nét đặc thù nên phong trào khởi
nghiệp vẫn chưa khởi sắc như kỳ vọng. Các hệ thống hỗ trợ khởi nghiệp
như cơ quan quản lý nhà nước, định chế hỗ trợ tài chính, các viện
trường, vườn ươm tạo DN… cũng chưa thật sự vào cuộc một cách chủ
động để hỗ trợ khởi nghiệp thiết thực nhất. Theo ông Nguyễn Anh Ngọc,
trước mắt cần thêm những tác động kích thích mạnh hơn nữa để biến
TP HCM thành trung tâm khởi nghiệp.
Theo đó, cần tăng tính chủ động của đơn vị chủ trì chương trình khởi
nghiệp của TP, tăng cường hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp. Nên chuyển
từ tư duy thụ động chờ nhà khởi nghiệp tìm đến sang chủ động săn tìm
người khởi nghiệp; nghiên cứu, đề ra những chính sách đột phá, ưu tiên
cho khởi nghiệp như Hàn Quốc, Singapore đã từng làm trong nhiều năm
trước và nghiên cứu cơ chế kích thích các DN đang hoạt động sáng tạo
hoặc cải tiến. Song song đó, kiến nghị cải cách hành chính, xóa bỏ
những rào cản trong lĩnh vực khởi nghiệp.
TS Huỳnh Thanh Điền, Trường ĐH Nguyễn Tất Thành, dẫn một kết quả
khảo sát 104 công ty khởi nghiệp tại TP HCM cho thấy động cơ chính
dẫn đến ý định khởi nghiệp là khát vọng làm giàu, niềm đam mê, cảm
hứng từ các hình mẫu doanh nhân… Tuy nhiên, 80% cá nhân có quyết
định khởi nghiệp là do mất việc, thay đổi công ty, dư thừa thời gian,
không hài lòng với công việc; chỉ 10% sinh viên được khảo sát cho biết
có ý định khởi nghiệp, phần lớn sinh viên mong muốn có được việc làm
ổn định và thăng tiến sau khi tốt nghiệp. Những người đã tốt nghiệp đi
làm 4-5 năm có công việc ổn định lại ngại khởi nghiệp.
Từ khảo sát trên, TS Huỳnh Thanh Điền cho rằng đối tượng khởi nghiệp
ở Việt Nam chủ yếu là người có kiến thức, kỹ năng thấp, không có nhiều
cơ hội xin việc làm, tình thế bắt buộc họ trở thành những người chủ; còn
người có kiến thức, kỹ năng, khả năng khởi nghiệp thành công cao lại
định hướng đi làm thuê.
Theo nld.com.vn
13. Xây dựng các thương hiệu mạnh cho hàng hóa Thủ đô
Từng bước xây dựng Hà Nội thành trung tâm tài chính - ngân hàng
trong khu vực theo hướng bền vững, chất lượng, gắn với hội nhập.
Khuyến khích phát triển thị trường hàng hoá - dịch vụ và nâng cao
sức cạnh tranh của hàng hoá - dịch vụ, xây dựng các thương hiệu
mạnh cho hàng hóa Thủ đô.
Thủ tướng Chính phủ nhận được Phiếu chất vấn của đại biểu Quốc
hội Đỗ Đức Hồng Hà đại biểu Quốc hội Khóa XIV, Đoàn đại biểu Quốc
hội thành phố Hà Nội. Nội dung chất vấn như sau: “Đề nghị Chính phủ
đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết 11-NQ/TW ngày 06/1/2012 của
Bộ Chính trị (về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội giai
đoạn 2011-2020), nguyên nhân và giải pháp thực hiện Nghị quyết này”.
Sau khi nghiên cứu nội dung chất vấn, Thủ tướng Chính phủ trả lời chất
vấn của đại biểu Đỗ Đức Hồng Hà như sau: Về đánh giá tình hình thực
hiện Nghị quyết 11-NQ/TW ngày 06/01/2012 của Bộ Chính trị, trong giai
đoạn 2012-2016 kinh tế của Thủ đô tăng trưởng nhanh và bền vững,
quy mô chiếm 13% cả nước; đóng góp hơn 15% tổng thu ngân sách của
cả nước; GRDP bình quân đầu người đến năm 2016 đạt 79,4 triệu đồng;
cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực (dịch vụ 67,09% - công
nghiệp, xây dựng 29,69% - nông nghiệp 3,22%); là một trong 5 địa
phương dẫn đầu cả nước về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI); năm 2016 chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) Hà Nội xếp
thứ 14, vượt 10 bậc so với năm 2015; hệ thống kết cấu hạ tầng giao
thông được đầu tư phát triển đồng bộ và từng bước hiện đại hóa. Lĩnh
vực văn hóa - xã hội tiếp tục phát triển, đã hình thành hệ thống quy tắc
ứng xử nhằm xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh; chất lượng
giáo dục luôn dẫn đầu cả nước; đời sống của nhân dân ngày càng được
nâng cao. Chính trị - xã hội, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội
được tăng cường, bảo vệ an toàn cho các cơ quan đầu não của Đảng,
Nhà nước, các sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại diễn ra trên
địa bàn Thủ đô.
Bên cạnh kết quả đã đạt được, kinh tế phát triển chưa tương xứng với
tiềm năng, thế mạnh Thủ đô; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh nhìn
chung còn thấp; một số chỉ tiêu chủ yếu chưa đạt kế hoạch đề ra; còn
hiện tượng quy hoạch treo, quy hoạch chồng chéo, mâu thuẫn; chỉ số
năng lực cạnh tranh cấp tỉnh tuy đã có chuyển biến nhưng vẫn còn thấp;
tình trạng tắc đường và ô nhiễm môi trường vẫn tiếp tục gia tăng; một số
dự án nêu trong Nghị quyết 11 vẫn còn chậm...
Nguyên nhân chủ yếu là thủ đô luôn chịu sức ép lớn về tốc độ đô thị hóa
mạnh và tăng dân số cơ học nhanh. Sự phối hợp quản lý, điều hành
giữa một số Bộ, ngành trung ương và thành phố trong một số việc chưa
kịp thời, chưa chặt chẽ. Một số cơ chế chính sách thiếu đồng bộ hoặc
chậm ban hành, có nội dung không còn phù hợp với thực tiễn của Thủ
đô…
Một số cấp, ngành, lĩnh vực còn thiếu năng lực quản lý, lãnh đạo, tính
năng động, sáng tạo, công tác dự báo chưa tốt. Một bộ phận đảng viên,
công chức làm việc còn thiếu trách nhiệm, đùn đẩy. Năng lực của một số
chủ đầu tư, nhà thầu, tư vấn còn yếu, dẫn đến chậm tiến độ dự án,...
Giải pháp thực hiện trong thời gian tới
Giải pháp thực hiện trong thời gian tới là cần rà soát, hoàn thiện, thực
hiện đồng bộ, có hiệu quả các quy hoạch phát triển thành phố Hà Nội.
Phát huy tinh thần “Hà Nội vì cả nước”, gắn quy hoạch xây dựng Thành
phố với phát triển không gian của vùng Thủ đô Hà Nội, Bắc Bộ và cả
nước. Quy hoạch, xây dựng và phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng giao
thông ở ngoại thành để thực hiện di dời các cơ sở công nghiệp, trường
đại học, các trung tâm, viện nghiên cứu và cơ sở y tế ra khỏi khu vực nội
thành.
Chủ động phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan để kịp thời tháo
gỡ vướng mắc trong triển khai các quy hoạch ngành, chuyên ngành.
Công bố công khai rộng rãi các quy hoạch chung và quy hoạch chi tiết
theo quy định. Phối hợp với các bộ, ngành Trung ương triển khai đồng
bộ, có hiệu quả các công trình trọng điểm quốc gia trên địa bàn.
Rà soát, đánh giá lại và sửa đổi ngay các cơ chế, quy chế hỗ trợ sản
xuất kinh doanh phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đảm bảo
thiết thực và hiệu quả hơn để khuyến khích huy động và sử dụng có
hiệu quả các nguồn vốn tư nhân và nhà nước, trong nước và quốc tế
cho phát triển kinh tế-xã hội Thủ đô; tiếp tục rút ngắn thời gian khởi sự
doanh nghiệp, hỗ trợ phát triển mạnh mẽ các doanh nghiệp vừa và nhỏ
bằng nguồn vốn tư nhân, tạo ra một mạng lưới các vệ tinh sản xuất và
xuất khẩu cho các công ty lớn.
Từng bước xây dựng Hà Nội thành trung tâm tài chính - ngân hàng trong
khu vực theo hướng bền vững, chất lượng, gắn với hội nhập. Khuyến
khích phát triển thị trường hàng hoá - dịch vụ và nâng cao sức cạnh
tranh của hàng hoá - dịch vụ, xây dựng các thương hiệu mạnh cho hàng
hóa Thủ đô.
Phấn đấu tăng thu ngân sách nhà nước, tăng cường công tác chống
chuyển giá, chống thất thu, xử lý nghiêm các trường hợp trốn lậu thuế,
gian lận thương mại; đảm bảo thu đúng, đủ và kịp thời vào ngân sách
nhà nước. Về bố trí chi ngân sách, Thành phố cần ưu tiên vốn đầu tư từ
ngân sách nhà nước để tập trung đầu tư các công trình, dự án cơ sở hạ
tầng đô thị, thoát nước, khắc phục xử lý ô nhiễm môi trường, các cơ sở
hạ tầng xã hội thiết thực phục vụ nhu cầu xã hội (giáo dục, y tế, ...).
Đồng thời, tiếp tục cân đối, bố trí ngân sách để thực hiện các chính sách
an sinh xã hội, cải thiện, nâng cao đời sống của người dân, nhất là đối
với người nghèo, hộ gia đình chính sách. Tăng cường công tác kiểm
soát chi, đảm bảo sử dụng có hiệu quả nguồn ngân sách cho phát triển
kinh tế - xã hội.
Đẩy mạnh và quyết liệt thực hiện cải cách hành chính, trọng tâm là cải
cách thủ tục hành chính và công tác cán bộ. Nghiên cứu, xây dựng mô
hình tổ chức bộ máy chính quyền quận, huyện, phường, xã, thị trấn phù
hợp với đặc thù đô thị, nông thôn. Thực hiện triệt để việc giải quyết thủ
tục hành chính theo nguyên tắc “một cửa”, “một cửa liên thông”, bảo
đảm công khai, minh bạch, đúng luật, dễ hiểu, dễ thực hiện, tiết kiệm
thời gian. Xây dựng Chính quyền điện tử ở Thủ đô mà trước hết là củng
cố cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông cơ bản cần thiết
cho chính quyền điện tử, chuyển đổi và làm cho các dịch vụ và hoạt
động của chính quyền trở thành dịch vụ và hoạt động điện tử, kết nối và
liên kết các sở, ban, ngành, quận, huyện và các dịch vụ, hướng tới xây
dựng một cơ quan xúc tiến đầu tư duy nhất, chuyên nghiệp.
Thực hiện có hiệu quả cơ chế hợp tác giữa Hà Nội và các cơ quan đại
diện ngoại giao của Việt Nam tại các nước nhằm khai thác và đẩy mạnh
cung cấp thông tin thị trường, xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch. Kết
hợp công tác xúc tiến quảng bá điểm đến và quảng bá sản phẩm du lịch
trên thị trường du lịch quốc tế.
Công khai, minh bạch các giao dịch đất đai, loại bỏ cơ chế xin - cho
trong tiếp cận đất đai. Kiên quyết thu hồi đất đã giao nhưng không triển
khai thực hiện đúng thời gian qui định. Tháo gỡ về thủ tục cho các nhà
đầu tư trong nước trên tất cả các lĩnh vực để đẩy nhanh thu hút đầu tư
nội địa.
Ưu tiên đầu tư hệ thống hạ tầng giao thông phục vụ phát triển đô thị,
nhất là các dự án, công trình trọng điểm, chương trình mục tiêu của
Thành phố. Tập trung đầu tư dứt điểm để hoàn thành những công trình
trọng điểm có tác dụng thúc đẩy sự phát triển đột phá của Thủ đô. Tập
trung phát triển giao thông công cộng, xây dựng lộ trình từng bước hạn
chế phương tiện giao thông cá nhân sau năm 2020 nhằm giảm ùn tắc
giao thông.
Tiếp tục hoàn thiện, thực hiện tốt chính sách thu hút nhân tài và nguồn
nhân lực có trình độ cao ở trong nước, nước ngoài phục vụ sự nghiệp
xây dựng, phát triển Thủ đô. Xây dựng Hà Nội trở thành trung tâm sáng
tạo, ứng dụng, chuyển giao công nghệ hàng đầu của cả nước và có vị trí
cao về một số lĩnh vực trong khu vực; trong đó, đặc biệt quan tâm khai
thác, phát huy tiềm năng “chất xám” của đội ngũ trí thức, các trường đại
học, viện nghiên cứu trên địa bàn Thủ đô.
Xây dựng, thực hiện đồng bộ, có hiệu quả chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý các loại tài nguyên đất, khoáng
sản, nước, rừng, nguồn lợi thủy sản, năng lượng tái tạo. Nghiên cứu,
ứng dụng công nghệ mới để sản xuất các loại nguyên, nhiên, vật liệu
mới có thể thay thế các loại vật liệu truyền thống. Phối hợp với các tỉnh
lân cận triển khai chương trình hành động vì môi trường và khuyến khích
đầu tư bảo vệ môi trường bằng nguồn vốn xã hội hóa. Từ đó đưa Hà Nội
trở thành một đô thị xanh, sạch và sáng tạo, tạo sức cạnh tranh trong thu
hút đầu tư./.
Theo baochinhphu.vn
14. Lạng Sơn: Cải cách thủ tục hải quan từ khâu tiếp người dân
Đối với lực lượng hải quan, song song với đấu tranh chống buôn
lậu thì công tác cải cách thủ tục hành chính cũng được chú trọng.
Bởi lẽ, đây là lực lượng thường xuyên phải tiếp xúc trực tiếp với
người dân, với doanh nghiệp đến làm thủ tục khai báo và xuất nhập
hàng hóa.
Cửa khẩu Cốc Nam, tỉnh Lạng Sơn mỗi ngày, có hàng chục trường hợp
đến làm thủ tục xuất nhập khẩu hàng hóa qua biên giới.
Trao đổi với phóng viên, chị Tâm khẳng định, làm thủ tục thông quan
hàng hóa rất đơn giản và có sự giúp đỡ rất nhiều từ phía lực lượng hải
quan cửa khẩu.
Chị Hoàng Thị Tâm, Doanh nghiệp xuất nhập khẩu cho biết: "Các anh chị hải quan trên cửa khẩu rất hỗ trợ doanh nghiệp, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa đúng giờ, đúng quy định. Mọi khó khăn thì các anh chị hải quan và ban ngành đều giúp đỡ để tháo gỡ khó khăn."
Anh Hoàng Trường Thành, Doanh nghiệp xuất nhập khẩu cho biết: "Thủ tục nhanh gọn để cho cả 2 bên, bên em và hải quan đều thuận lợi. Không bị gò bó như nhiều nơi khác."
Kể từ khi hệ thống thông quan điện tử VNACCS/VCIS được áp dụng, các doanh nghiệp đã giảm bớt được nhiều thời gian đăng ký thủ công, xếp hàng chờ đợi và công di chuyển. Điều này cũng đồng nghĩa với việc lực lượng hải quan sẽ phải tiếp cận, kiểm tra và đối chiếu giấy tờ của rất nhiều doanh nghiệp trong cùng một thời điểm. Áp lực là vậy, song thái độ tiếp dân của cán bộ, công chức hải quan luôn đúng mực.
Anh Nguyễn Thành Đạt, Đội trưởng đội nghiệp vụ - Hải quan cửa khẩu Cốc Nam cho biết: "Tổng cục Hải quan luôn luôn chấn chỉnh cũng như ra các văn bản để nâng cao trình độ nghiệp vụ cũng như ý thức trách nhiệm của công chức hải quan. Và chúng tôi cũng tích cực thực hiện các phương châm của ngành quy định về ứng xử và thực hiện phương châm chuyên nghiệp, minh bạch và hiệu quả."
Theo một thống kê mới đây từ Tổng cục Hải quan, trong năm 2017, hơn 8,86 triệu tờ khai đã được xử lý trên hệ thống VNACCS/VCIS với khoảng 74.600 doanh nghiệp tham gia. Rõ ràng, các doanh nghiệp đã đồng thuận với những phương án cải cách của lực lượng hải quan bằng việc chấp nhận sử dụng các công cụ hiện đại, tân tiến chính bởi những tiện ích mà nó mang lại.
Ông Nguyễn Văn Chương, Chi Cục trưởng Chi cục Hải quan Cốc Nam, Lạng Sơn cho biết: "Năm nào hải quan Lạng Sơn cũng tổ chức những đợt thi sát hạch, rà lại để xem trình độ cán bộ công chức chuyên sâu đến đâu, nâng cao đến đâu để đáp ứng được. Và thực chất, qua đợt kiểm tra, dù tôi đã làm rất tốt nhưng trong đơn vị vẫn còn một vài trường hợp chưa đạt yêu cầu. Đây là phản ánh rất khách quan. Nhưng mà song song với nâng cao trình độ, phải giáo dục đạo đức nghề nghiệp, giáo dục trách nhiệm cán bộ công chức trước cái công việc của mình."
Đánh giá từ Bộ Tài Chính mới đây cho thấy, lực lượng hải quan nói chung và hải quan các cửa khẩu nói riêng đã và đang làm tốt công tác chuyên môn và tích cực trong cải cách thủ tục hải quan. Tuy nhiên, để vươn ra đến tầm thế giới, cán bộ, công chức hải quan vẫn còn phải đổi mới và hoàn chỉnh rất nhiều thứ, trong đó, phải bắt đầu từ khâu tiếp người dân chu đáo.
Theo antv.gov.vn
15. Cộng đồng doanh nghiệp Nhật Bản tại TPHCM chưa hài lòng với lĩnh vực môi trường, đời sống
Ngày 20-12, tại TPHCM đã diễn ra hội nghị bàn tròn giữa chính
quyền TPHCM với cộng đồng doanh nghiệp (DN) Nhật Bản 2017 do
Trung tâm Xúc tiến thương mại và Đầu tư TPHCM (ITPC) phối hợp
với Hiệp hội DN Nhật Bản tại TPHCM (JBAH) tổ chức.
Đây là hoạt động thường niên trong 16 năm qua nhằm hiện thực
hóa chủ trương cải cách thủ tục hành chính, hoàn thiện môi trường
đầu tư của TPHCM, tạo thuận lợi cho hoạt động của các nhà đầu tư
nước ngoài, trong đó có Nhật Bản.
Theo ITPC, đến giữa tháng 10-2017, có 50 câu hỏi được chuyển đến
các sở, ban ngành liên quan, xoay quanh 4 nhóm vấn đề: môi trường,
đời sống; pháp luật; lao động; thuế và hải quan.
Theo ghi nhận của PV Báo SGGP, tại hội nghị bàn tròn của nhiều năm
trước, có 2 lĩnh vực được các DN Nhật Bản quan tâm hàng đầu là thuế
và hải quan, thủ tục đầu tư, thì hội nghị năm nay được đánh giá đã có
sự cải thiện đáng kể, tạo sự hài lòng cho DN. Thay vào đó, các nội dung
về môi trường, đời sống; pháp luật và lao động đã và đang trở thành tâm
điểm quan tâm của các DN Nhật.
Cụ thể, các đại biểu đã kiến nghị xem xét lại nội dung Dự thảo nghị định
sửa đổi các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường; xác
nhận sự cần thiết của thủ tục đăng ký góp vốn theo điều 26 của Luật
Đầu tư đối với trường hợp nhà đầu tư nước ngoài (đã có giấy chứng
nhận đăng ký đầu tư - IRC) tăng vốn; quy định về hạn chế nhập khẩu
máy móc thiết bị cũ theo Thông tư 23; quy định về việc tham gia bảo
hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc với người lao động nước ngoài; quy định
về thủ tục đăng ký sử dụng máy photocopy màu mỗi khi DN chuyển địa
điểm làm việc cũng cần phải xem lại.
Theo các DN, Dự thảo nghị định liên quan đến việc người lao động nước
ngoài tham gia BHXH bắt buộc đi vào thực thi, sẽ làm tăng gánh nặng về
tiền bảo hiểm cho nhà tuyển dụng lao động. Liên quan đến Thông tư 23
về nhập khẩu máy móc cũ sẽ hạn chế đầu tư của các DN Nhật Bản tại
Việt Nam, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang có chủ trương phát triển
ngành công nghiệp hỗ trợ, vì vậy cần có sự hợp tác của các DN nhỏ và
vừa nước ngoài.
Về vấn đề này, Sở Khoa học và Công nghệ cho biết, Bộ Khoa học và
Công nghệ đang phối hợp với Bộ Công thương và các bộ chuyên ngành
lập phương án sửa đổi Thông tư số 23 theo chỉ đạo của Chính phủ để
kịp thời tháo gỡ vướng mắc cho DN.
Trường hợp JBAH cho rằng DN Nhật Bản gặp khó khăn với quy định về
khoảng cách giữa hai bậc lương liền kề ít nhất 5% trên thang, bảng
lương và có nguyện vọng bãi bỏ quy định trên, Sở Lao động - Thương
binh và Xã hội ghi nhận, báo cáo UBND TPHCM xem xét, trình Chính
phủ.
Phát biểu tại hội nghị, Phó Chủ tịch UBND TPHCM Trần Vĩnh Tuyến
nhận định, với các hoạt động và nỗ lực cải tiến môi trường đầu tư mà TP
đã, đang và sẽ thực hiện, quan hệ kinh tế TPHCM - Nhật Bản sẽ được
tăng cường và số lượng các nhà đầu tư Nhật Bản mở rộng sản xuất,
hoạt động thành công tại TP sẽ nhiều hơn nữa. Chính quyền TPHCM
sẵn sàng lắng nghe, chia sẻ những khó khăn, vướng mắc, những ý kiến
đóng góp của cộng đồng DN Nhật Bản.
Cùng quan điểm trên, ông Kadowaki Keiichi, Chủ tịch JBAH tại TPHCM,
cho biết, hiện số hội viên của JBAH đã lên tới 944 DN (chiếm 70% tổng
số DN Nhật Bản đang hoạt động tại TPHCM), đứng thứ 3 sau các hiệp
hội DN Nhật Bản trên thế giới. Việc tham gia vào JBAH cũng đồng
nghĩa, các DN Nhật Bản mong muốn có cơ hội đề xuất các kiến nghị
thông qua hội nghị bàn tròn với chính quyền TPHCM, từ đó tháo gỡ
nhanh, kịp thời những khó khăn cho DN, hướng về mục đích chung là
thúc đẩy kinh tế TPHCM phát triển mạnh mẽ.
Theo sggp.org.vn