luẬn vĂn -...
Post on 05-Sep-2019
6 Views
Preview:
TRANSCRIPT
LUẬN VĂN:
Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp
luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại
Tòa án nhân dân Việt Nam hiện nay
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu và hội nhập quốc tế, vấn đề bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ (QSHTT) trở nên đặc biệt quan trọng và là mối quan tâm hàng đầu của các
quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế. Trên thực tế, ở Việt Nam chưa bao giờ vấn đề bảo
hộ QSHTT lại được coi trọng như hiện nay. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(CNH, HĐH) đất nước với rất nhiều cơ hội và thách thức đòi hỏi chúng ta phải có cơ chế,
chính sách thúc đẩy hoạt động sáng tạo và bảo hộ QSHTT. Việc thể chế hoá các quan
điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về sở hữu trí tuệ (SHTT), xây dựng cơ
chế bảo hộ QSHTT hữu hiệu là những yếu tố quan trọng, mang tính quyết định đến sự
thành công của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là sau khi Việt Nam là thành viên
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Theo tinh thần của Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị
"Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" và Nghị quyết số 48-
NQ/TW ngày 24-5-2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020", thì việc hoàn thiện pháp
luật bảo hộ QSHTT, hình thành và phát triển thị trường khoa học - công nghệ theo hướng
mở rộng phạm vi các đối tượng được bảo hộ QSHTT phù hợp yêu cầu của WTO và các
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên là việc làm cấp bách. Báo cáo của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX ngày 10-4-2006 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xó hội 5 năm 2006-2010 cũng khẳng định:
Thực hiện tốt Luật sở hữu trí tuệ và Luật chuyển giao công nghệ, đổi
mới quản lý nhà nước đối với thị trường khoa học, công nghệ; khuyến khích,
hỗ trợ các hoạt động khoa học và công nghệ theo cơ chế thị trường; bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ đối với các công trỡnh khoa học và hoạt động sáng tạo
[33].
Việc ban hành đồng bộ những văn bản quy phạm pháp luật về SHTT như Bộ luật
dân sự (BLDS), Luật SHTT, Luật chuyển giao công nghệ và các luật có liên quan như
Luật khoa học và công nghệ, Luật hải quan, Luật thương mại, Luật cạnh tranh, Bộ luật tố
tụng dân sự (BLTTDS)… để tham gia các điều ước quốc tế, thực hiện các yêu cầu gia
nhập WTO là những nỗ lực lớn lao của Chính phủ Việt Nam nhằm tạo hành lang pháp lý
cho việc bảo hộ QSHTT. Có thể nói rằng, chúng ta đã ban hành được một hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật về nội dung điều chỉnh về lĩnh vực SHTT. Tuy nhiên, pháp luật về
thủ tục bảo vệ QSHTT cũng như thực tiễn giải quyết các xâm phạm về QSHTT tại Tòa án
nhân dân (TAND) còn nhiều bất cập. Trờn thực tế, tỡnh hỡnh vi phạm về QSHTT diễn ra
ngày càng phổ biến, trờn khắp đất nước, nhưng trái ngược với thực tiễn đó, các xâm phạm về
QSHTT lại ít được giải quyết bằng một phán quyết của Toà án. Theo thống kê của Tũa án
nhân dân tối cao (TANDTC) thỡ từ năm 2000 đến năm 2005, toàn ngành Toà án thụ lý để
giải quyết 93 vụ tranh chấp về QSHTT theo thủ tục tố tụng dân sự (bao gồm 32 vụ về
quyền tác giả (QTG), 18 vụ về quyền liên quan đến QTG, 43 vụ tranh chấp về quyền sở
hữu công nghiệp (QSHCN), trong đó: 11 vụ về QTG, 22 vụ về QSHCN, đây là điều bất
hợp lý, cần sớm tỡm ra nguyờn nhõn và lý giải nguyờn nhõn đó.
Trong thời gian qua đó cú một số cụng trỡnh nghiờn cứu liờn quan về QSHTT.
Tuy nhiờn, cỏc cụng trỡnh đó mới chỉ nghiên cứu ở cấp độ lý luận về nội dung QSHTT,
về hoạt động xét xử nói chung của TAND hoặc nghiờn cứu về nõng cao vai trũ và năng
lực của TAND trong việc thực thi QSHTT, các công trỡnh nghiờn cứu đó chưa chuyên
sâu vào hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND. Trước tình hình đó, tác
giả đó chọn đề tài: "Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án nhân dân Việt Nam hiện nay" để làm luận văn tốt
nghiệp cao học luật, chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới, vấn đề bảo hộ QSHTT nói chung và thủ tục bảo hộ QSHTT tại
TAND nói riêng đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Tuy nhiên, ở Việt Nam, vấn đề
này còn khá mới mẻ cả về lý luận và thực tiễn, vì vậy, việc nghiên cứu về QSHTT đã và
đang được giới luật gia hết sức quan tâm. Trong những năm gần đây, đã có một số công
trình tiêu biểu như sau: "Những vấn đề pháp lý cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế" do
Tiến sĩ Đặng Quang Phương biên soạn, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005; "Đổi mới và hoàn
thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ" do Tiến sĩ, Luật sư Lê Xuân Thảo biên soạn, Nxb Tư
pháp, Hà Nội, 2005; "Nâng cao vai trò và năng lực của Toà án trong việc thực thi quyền
sở hữu trí tuệ ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn", Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp bộ, Viện Khoa học xét xử, TANDTC chủ trì, 1999; "Đổi mới và hoàn thiện cơ
chế điều chỉnh pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam", Luận án tiến sĩ luật học của Lê Xuân Thảo, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, 1996...
Bên cạnh đó còn có một số tài liệu hội thảo khoa học có liên quan như: Tài liệu
hội thảo về đề tài nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp quốc gia về "Cơ chế thực thi pháp
luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam" (mã
số QGTĐ.03.05) do Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện; Tài liệu hội thảo về thực thi
Luật SHTT do Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID), Dự án Hỗ trợ thúc đẩy
thương mại (STAR VIETNAM) và TANDTC tổ chức, tháng 8-2006…
Nhìn chung, các công trình nêu trên đã đề cập đến việc đổi mới và hoàn thiện cơ chế
điều chỉnh pháp luật về SHTT trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, trong đó có đề cập
đến việc nghiên cứu cơ chế quản lý và thực thi SHTT, nội dung quản lý nhà nước về SHTT
bằng pháp luật; về vị trí, vai trò của Toà án trong việc bảo vệ QSHTT… Các công trình
nghiên cứu khoa học nêu trên là cơ sở khoa học để tác giả kế thừa và phát triển trong đề
tài nghiên cứu của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Vấn đề về bảo hộ và thực thi QSHTT có đối tượng và phạm vi nghiên cứu rất
rộng, nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật như dân sự, thương mại,
hành chính, hình sự...; do đó, nếu muốn nghiên cứu một cách toàn diện thì đòi hỏi phải có
sự đầu tư nghiên cứu kiến thức liên quan đến nhiều ngành luật khác nhau. Tuy nhiên, với
một luận văn tốt nghiệp cao học luật, tác giả chỉ giới hạn đối tượng và phạm vi nghiên
cứu ở cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND
Việt Nam hiện nay, trong đó tập trung làm rõ thực trạng và vai trò giải quyết tranh chấp
QSHTT của TAND theo thủ tục tố tụng dân sự, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp
luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Vấn đề bảo hộ, thực thi QSHTT có thể được nghiên cứu dưới nhiều góc độ, với
nhiều mục đích nhằm giải quyết các vấn đề trong mối quan hệ pháp luật giữa các cơ quan
quản lý nhà nước và cơ quan tư pháp về bảo hộ QSHTT. Bằng việc đề xuất những giải
pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND, luận văn góp phần làm rõ
cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND Việt
Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ:
Từ mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận chung và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về thủ tục
bảo vệ QSHTT tại TAND;
- Phân tích thực trạng pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT và vai trò giải quyết
tranh chấp QSHTT tại TAND;
- Đề xuất một số giải pháp có cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về
thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, trên cơ sở lý luận của khoa học chuyên ngành về
SHTT, đồng thời vận dụng những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về phát
triển khoa học - công nghệ và SHTT trong các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung của triết học duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử như: phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp kết hợp giữa lý luận với
thực tiễn, phương pháp phân tích, tổng hợp và sử dụng số liệu thống kê, phương pháp so
sánh luật, trên cơ sở xem xét tính phổ biến của pháp luật trong khu vực cũng như pháp
luật trên thế giới về bảo vệ QSHTT tại hệ thống Toà án.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Trong lĩnh vực bảo hộ QSHTT, việc bảo vệ QSHTT tại TAND bằng các hình
thức nào, trình tự thủ tục ra sao, thực tiễn như thế nào... chưa được nghiên cứu, đây là
công trình nghiên cứu đầu tiên về cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về thủ
tục bảo vệ QSHTT tại TAND ở nước ta trong tình hình hiện nay. Luận văn góp phần
hoàn thiện cơ sở lý luận về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND; phân tích thực trạng pháp
luật về trình tự, thủ tục tố tụng (hành chính, hình sự, dân sự) và phân tích thực trạng giải
quyết các vụ án về QSHTT tại TAND, nêu ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân
của chúng; từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ
QSHTT tại TAND.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là một công trình nghiên cứu có hệ thống về lý luận và thực tiễn hoàn
thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND Việt Nam. Luận văn có ý nghĩa góp
phần tăng cường pháp chế về lĩnh vực SHTT và đổi mới, hoàn thiện pháp luật về thủ tục
bảo vệ QSHTT tại TAND Việt Nam hiện nay. Luận văn có thể làm tài liệu cho những
người quan tâm nghiên cứu về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND. Những đề xuất có thể
tham khảo trong việc hoàn thiện pháp luật, hướng dẫn thi hành pháp luật và nâng cao
hiệu quả bảo vệ QSHTT tại TAND.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
những vấn đề lý luận
về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
1.1. những vấn đề lý luận chung về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
1.1.1. Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ
Những thành quả do trí tuệ con người tạo ra thông qua hoạt động sáng tạo được
thừa nhận là tài sản trí tuệ. Tài sản trí tuệ thường tồn tại dưới dạng những thông tin kết
hợp chặt chẽ với nhau, được thể hiện trong những vật thể hữu hình và bản thân vật mang
thông tin đó có khả năng xuất hiện trong cùng một thời điểm với số lượng bản sao không
giới hạn ở những địa điểm khác nhau trên thế giới. Quyền sở hữu trong trường hợp này
không phải là quyền sở hữu bản thân các bản sao hữu hình mà chính là quyền sở hữu
hình thức thể hiện những thông tin chứa đựng trong các bản sao đó [40].
Tài sản trí tuệ có khả năng chia sẻ và mang tính xã hội rất cao. Mỗi thành quả
được tạo ra từ hoạt động trí tuệ của con người sẽ đem đến cho toàn xã hội, toàn nhân loại
những giá trị mới về tinh thần, về tri thức. Thuộc tính vô hình của loại tài sản này khiến
cho việc sử dụng, khai thác sản phẩm trí tuệ từ người này không làm hao giảm hoặc ảnh
hưởng đến việc sử dụng của người khác cũng như của những người sáng tạo ra chúng. Vì
vậy, tài sản trí tuệ sẽ đem lại lợi ích hoặc về khía cạnh tinh thần và tri thức hoặc khía
cạnh kinh tế cho mọi người và toàn xã hội. Tuy nhiên, cũng xuất phát từ tính đặc biệt này
của tài sản trí tuệ nên nó không thể bị chiếm hữu về mặt thực tế, song khả năng lan
truyền sự chiếm hữu đó lại rất nhanh và rất khó kiểm soát. Mặt khác, khi đã được công
bố, nó cũng dễ dàng bị sao chép, sử dụng và khai thác một cách rộng rãi ở bất kỳ nơi nào
bởi bất kỳ ai... [50].
Tuy những thành quả do trí tuệ con người tạo ra thông qua hoạt động sáng tạo
mặc nhiên được thừa nhận là tài sản trí tuệ, nhưng cần phải phân biệt giữa QSHTT và
quyền sở hữu tài sản. Nếu như quyền sở hữu tài sản bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử
dụng, quyền định đoạt của chủ sở hữu, thì QSHTT có nội hàm rộng hơn. Theo khái niệm
chung nhất, trong Công ước thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO) ký tại
Stockholm ngày 14-7-1967:
Quyền sở hữu trí tuệ bao gồm các quyền liên quan đến các tác phẩm
văn học, nghệ thuật và khoa học, các sáng chế trong các lĩnh vực hoạt động
của con người, các khám phá khoa học, các kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu
hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ, tên và chỉ dẫn thương mại, bảo hộ chống cạnh
tranh không lành mạnh cũng như tất cả các quyền khác bắt nguồn từ các hoạt
động trí tuệ trong các lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học hay nghệ thuật
[18].
Theo đó, người ta phân biệt đối tượng QSHTT gồm: các tác phẩm văn học, nghệ
thuật và khoa học; các chương trình biểu diễn, phát thanh, ghi âm, truyền hình...; sáng
chế/giải pháp hữu ích; kiểu dáng công nghiệp; nhãn hiệu hàng hoá; tên thương mại; tên gọi
xuất xứ hàng hoá, chỉ dẫn địa lý; bí mật kinh doanh; thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn;
giống cây trồng mới; chống cạnh tranh bất hợp pháp. Hai nhóm phổ biến nhất của QSHTT
là QTG và quyền sở hữu công nghiệp (QSHCN). Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của
khoa học - kỹ thuật, thì các quyền mới như thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, các quyền
về giống cây trồng mới cũng được pháp luật bảo hộ như các tài sản trí tuệ.
Sau 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, chính sách SHTT ngày càng được củng cố và phát triển. Bên cạnh
đó, việc hoàn thiện về hệ thống, về tổ chức cũng như năng lực các cơ quan quản lý nhà
nước về SHTT là một trong những mục tiêu bước đầu đã đạt được. Nhà nước Việt Nam
công nhận quyền sở hữu tư nhân đối với các đối tượng QSHTT, coi trọng chính sách pháp
luật về bảo hộ QSHTT, coi đó là một chính sách quan trọng trong chiến lược phát triển
lâu dài. Với mục tiêu xây dựng một hệ thống bảo hộ QSHTT đầy đủ, hiện đại và có hiệu
quả nhằm thúc đẩy sáng tạo khoa học, công nghệ và kinh doanh của xã hội, thu hút đầu
tư nước ngoài, đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế nhằm thực hiện công cuộc CNH,
HĐH đất nước, Điều 60 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Công dân có quyền nghiên cứu
khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất,
sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hoá khác. Nhà nước
bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp" [34]. Việc "hoàn thiện pháp luật bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ, hình thành và phát triển thị trường khoa học - công nghệ theo hướng
mở rộng phạm vi các đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với yêu cầu
của WTO và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên" [30] và việc "hoàn thiện
pháp luật về khoa học công nghệ... thực hiện tốt chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ" [30] là
một trong những định hướng được nêu tại mục 3 phần II của Nghị quyết số 48-NQ/TW
ngày 24-5-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
Trên bình diện chung, thực chất của quá trình cải cách kinh tế của Việt Nam
nhằm hướng đến xây dựng hệ thống thị trường toàn diện theo nguyên lý của kinh tế thị
trường (điều kiện quan trọng để hội nhập kinh tế toàn cầu và gia nhập WTO). Có thể nói
rằng, từ năm 1986 đến nay, Chính phủ Việt Nam đã thể hiện sự quyết tâm "mở cửa" để
gia nhập WTO và việc gia nhập WTO đang được thực hiện theo đúng lộ trình.
Theo pháp luật Việt Nam, QSHTT là chế định pháp luật dân sự, thuộc quan hệ
pháp luật dân sự, trong đó các yếu tố cấu thành bao gồm chủ thể, khách thể và nội dung.
QSHTT là một phạm trù pháp lý trong quyền sở hữu dân sự nói chung, giống như các
quyền dân sự khác, các quy phạm pháp luật về QSHTT bao gồm những nhóm quy phạm
về: các hình thức sở hữu; căn cứ phát sinh, chấm dứt quyền sở hữu; cách thức, biện pháp
dịch chuyển quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu. Tuy nhiên, QSHTT là quyền sở hữu
đối với tài sản vô hình, là các sản phẩm sáng tạo của trí tuệ con người; do đó, nội dung
của QSHTT không hoàn toàn giống quyền sở hữu tài sản hữu hình khác do thuộc tính của
đối tượng sở hữu. Vì vậy, quyền năng quan trọng nhất của nội dung QSHTT là quyền sử
dụng các đối tượng SHTT. Theo cách hiểu tổng quát thì QSHTT là một phạm trù pháp lý,
là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ SHTT.
Trong Luật SHTT, "quyền sở hữu trí tuệ" được định nghĩa như sau: "Quyền sở
hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và
quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây
trồng" (khoản 1 Điều 4) [64]. Trong Hiệp định TRIPs, thuật ngữ "quyền sở hữu trí tuệ"
đề cập đến tất cả các loại tài sản trí tuệ là đối tượng được ghi nhận từ Điều 1 đến Điều 7
của Phần 2: QTG và các quyền liên quan (Điều 1); nhãn hiệu hàng hoá (Điều 2); chỉ dẫn
địa lý (Điều 3); kiểu dáng công nghiệp (Điều 4); sáng chế (Điều 5); thiết kế bố trí mạch
tích hợp (Điều 6); bảo hộ thông tin bí mật (Điều 7).
* Quyền tác giả:
Thuật ngữ "tác giả" có nguồn gốc Hán Việt, "tác" có nghĩa là "làm", cũng có
nghĩa là "sáng tác tác phẩm", "giả" có nghĩa là "kẻ, người", cho nên "tác giả" có nghĩa là
"người làm ra một tác phẩm, người tạo nên một tác phẩm". Như vậy, tác giả được hiểu là
người sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật của mình để trực tiếp sáng tạo
tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học hoặc tác phẩm phái sinh.
Theo quy định tại Điều 745 của BLDS năm 1995, "tác giả" là người trực tiếp
sáng tạo toàn bộ hoặc một phần tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học. Người dịch tác
phẩm từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác là tác giả tác phẩm dịch đó; người phóng tác
từ tác phẩm đã có, người cải biên, chuyển thể tác phẩm từ loại hình này sang loại hình
khác, là tác giả của tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể đó; người biên soạn, chú
giải, tuyển chọn tác phẩm của người khác thành tác phẩm có tính sáng tạo, là tác giả của
tác phẩm biên soạn, chú giải, tuyển chọn đó cũng được công nhận là tác giả.
Có thể nói rằng, khái niệm này chưa có tính khái quát, mới mang tính thống kê
nhưng không đầy đủ. Khái niệm "tác giả" đã được hoàn thiện hơn tại Điều 736 của BLDS
năm 2005; theo đó, người sáng tạo tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học (sau đây gọi
chung là tác phẩm) là tác giả của tác phẩm đó; trong trường hợp có hai người hoặc nhiều
người cùng sáng tạo ra tác phẩm thì những người đó là các đồng tác giả; người sáng tạo
ra tác phẩm phái sinh từ tác phẩm của người khác, bao gồm tác phẩm được dịch từ ngôn
ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú
giải, tuyển chọn là tác giả của tác phẩm phái sinh đó. Theo chúng tôi, việc đưa khái niệm
tác giả vào BLDS năm 2005 là hoàn toàn cần thiết và phù hợp với thông lệ quốc tế. Khi
được công nhận là tác giả thì sẽ có quyền tương ứng gọi là QTG. QTG là một trong
những quyền con người được quy định trong Tuyên ngôn chung về Nhân quyền và tại
các Thỏa ước quốc tế của Liên Hợp Quốc, đồng thời QTG cũng là một quyền pháp lý rất
quan trọng nhằm bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật [66, tr. 10]. Tác phẩm văn học,
nghệ thuật là tất cả các sản phẩm sáng tạo của con người để làm giàu cho trí tuệ và tâm
hồn con người, bao gồm tất cả các loại hình văn học (như: tiểu thuyết, thơ, kịch bản...),
các loại hình nghe nhìn (như: hội họa, âm nhạc, điện ảnh...) và các thành quả nghiên cứu
khoa học.
Luật SHTT định nghĩa: "Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác
phẩm do mỡnh sỏng tạo ra hoặc sở hữu" (khoản 2 Điều 4) [64]. QTG bao gồm quyền
nhân thân và quyền tài sản. Quyền nhân thân bao gồm các quyền: đặt tên cho tác phẩm;
đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm
được công bố, sử dụng; công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;
bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc
tác phẩm dưới bất kỳ hỡnh thức nào gõy phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả
(Điều 19 của Luật SHTT). Quyền tài sản bao gồm các quyền: làm tác phẩm phái sinh;
biểu diễn tác phẩm trước công chúng; sao chép tác phẩm; phân phối, nhập khẩu bản gốc
hoặc bản sao tác phẩm; truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến,
vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác; cho thuê bản
gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trỡnh mỏy tớnh. Các quyền quy định tại khoản
1 Điều 19 của Luật SHTT do tác giả, chủ sở hữu QTG độc quyền thực hiện hoặc cho
phép người khác thực hiện theo quy định của Luật này. Tổ chức, cá nhân khi khai thác,
sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 19
của Luật SHTT phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác
cho chủ sở hữu QTG.
Đối tượng QTG bao gồm mọi sản phẩm sáng tạo trong các lĩnh vực văn học,
nghệ thuật, khoa học được thể hiện dưới bất kỳ hình thức và bằng bất kỳ phương tiện
nào, không phân biệt nội dung, giá trị và không phụ thuộc vào bất kỳ thủ tục nào (Điều
737 của BLDS năm 2005). Đó là quyền đối với tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu;
đối với chương trỡnh mỏy tớnh, sưu tập dữ liệu; đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật
dân gian; đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học (các điều 21, 22, 23 và Điều
24 của Luật SHTT).
* Quyền liên quan đến quyền tác giả:
"Quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi là quyền liên quan) là quyền của tổ
chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hỡnh, chương trỡnh phỏt súng, tớn
hiệu vệ tinh mang chương trỡnh được mó húa" (khoản 3 Điều 4 của Luật SHTT) [64].
Đối tượng quyền liên quan bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hỡnh,
chương trỡnh phỏt súng, tớn hiệu vệ tinh mang chương trỡnh được mó hoỏ. Quyền liờn
quan phỏt sinh kể từ khi cuộc biểu diễn, bản ghi õm, ghi hỡnh, chương trỡnh phát sóng,
tín hiệu vệ tinh mang chương trỡnh được mó hoỏ được định hỡnh hoặc thực hiện mà
khụng gõy phương hại đến QTG. Nếu như QTG bao gồm quyền nhõn thõn và quyền tài
sản thỡ quyền liờn quan tựy thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Đối với cuộc biểu diễn
nếu người biểu diễn đồng thời là chủ đầu tư thỡ cỏc quyền nhõn thõn bao gồm các quyền:
được giới thiệu tên khi biểu diễn, khi phát hành bản ghi âm, ghi hỡnh, phỏt súng cuộc
biểu diễn; bảo vệ sự toàn vẹn hỡnh tượng biểu diễn, không cho người khác sửa chữa, cắt
xén hoặc xuyên tạc dưới bất kỳ hỡnh thức nào gõy phương hại đến danh dự và uy tín của
người biểu diễn. Về quyền tài sản bao gồm độc quyền thực hiện hoặc cho phép người
khác thực hiện các quyền: định hỡnh cuộc biểu diễn trực tiếp của mỡnh trờn bản ghi õm,
ghi hỡnh; sao chộp trực tiếp hoặc giỏn tiếp cuộc biểu diễn của mỡnh đó được định hỡnh
trờn bản ghi õm, ghi hỡnh; phỏt súng hoặc truyền theo cỏch khỏc đến công chúng cuộc
biểu diễn của mỡnh chưa được định hỡnh mà cụng chỳng cú thể tiếp cận được, trừ trường
hợp cuộc biểu diễn đó nhằm mục đích phát sóng; phân phối đến công chúng bản gốc và
bản sao cuộc biểu diễn của mỡnh thụng qua hỡnh thức bỏn, cho thuờ hoặc phõn phối
bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được. Trường hợp
người biểu diễn không đồng thời là chủ đầu tư, thỡ người biểu diễn có các quyền nhân
thân và chủ đầu tư có các quyền tài sản đối với cuộc biểu diễn. Đối với bản ghi âm, ghi
hỡnh cú độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện các quyền sao chép
trực tiếp hoặc giỏn tiếp bản ghi õm, ghi hỡnh của mỡnh; phõn phối đến công chúng bản
gốc và bản sao bản ghi âm, ghi hỡnh của mỡnh thụng qua hỡnh thức bỏn, cho thuờ hoặc
phõn phối bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được. Đối
với việc phát sóng có độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện các
quyền: phát sóng, tái phát sóng chương trỡnh phỏt súng của mỡnh; phõn phối đến công
chúng chương trỡnh phỏt súng của mỡnh; định hỡnh chương trỡnh phỏt súng của mỡnh;
sao chộp bản định hỡnh chương trỡnh phỏt súng của mỡnh.
* Quyền sở hữu công nghiệp:
"Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu
dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhón hiệu, tờn thương mại, chỉ
dẫn địa lý, bớ mật kinh doanh do mỡnh sỏng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh
tranh khụng lành mạnh" (khoản 4 Điều 4 của Luật SHTT) [64].
Đối tượng QSHCN bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí
mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhón hiệu, tờn thương mại và chỉ dẫn địa lý.
QSHCN đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhón hiệu, chỉ dẫn địa
lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật SHTT hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo
quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hoà xó hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Đối với nhón hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ
thuộc vào thủ tục đăng ký. Đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp
pháp tên thương mại đó và đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở có được
một cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó.
* Quyền đối với giống cây trồng
Giống cây trồng là quần thể cây trồng thuộc cùng một cấp phân loại
thực vật thấp nhất, đồng nhất về hỡnh thỏi, ổn định qua các chu kỳ nhân
giống, có thể nhận biết được bằng sự biểu hiện các tính trạng do kiểu gen hoặc
sự phối hợp của các kiểu gen quy định và phân biệt được với bất kỳ quần thể
cây trồng nào khác bằng sự biểu hiện của ít nhất một tính trạng có khả năng di
truyền được (khoản 24 Điều 4 của Luật SHTT) [64].
Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây
trồng mới do mỡnh chọn tạo hoặc phỏt hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu.
Đối tượng quyền đối với giống cây trồng là giống cây trồng và vật liệu nhân giống.
Quyền đối với giống cây trồng được xác lập trên cơ sở quyết định cấp Bằng bảo hộ giống
cây trồng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật
SHTT.
BLDS năm 2005 có bổ sung quyền đối với giống cây trồng và bảo hộ như các tài
sản trí tuệ khác. Giống cây trồng được bảo hộ độc lập, không nằm trong các đối tượng
QSHCN, nó được bảo hộ nếu có tính khác biệt (mới), tính đồng nhất (tính trạng biểu hiện
như nhau của các cây cùng giống), tính ổn định (các tính trạng không thay đổi qua nhân
giống) và tính mới trong thương mại (vật liệu nhân hoặc sản phẩm thu hoạch chưa được
bán trước thời hạn quy định). Ngoài ra, giống cây trồng phải thuộc danh mục các chi, loài
được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công bố. Quyền sở hữu giống cây trồng thuộc
về doanh nghiệp đầu tư vật chất và nhân lực cho việc tạo ra giống mới. Tuy nhiên, quyền chỉ
được xác lập theo thủ tục đăng ký tại Văn phòng giống cây trồng thuộc Vụ Khoa học, Công
nghệ và Chất lượng sản phẩm (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn).
1.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
Có thể nói rằng, việc xâm phạm QSHTT chủ yếu vì mục đích kinh tế, mục tiêu
lợi nhuận. Bắt đầu từ việc tăng tỷ trọng trí tuệ trong sản xuất, dịch vụ và thương mại, giá
trị trí tuệ trong sản phẩm hàng hoá đã thúc đẩy các doanh nghiệp cạnh tranh, nhưng bên
cạnh lợi ích, hiệu quả của sự cạnh tranh đó đã làm phát sinh khuynh hướng cạnh tranh
không lành mạnh, sự chiếm đoạt thành quả lợi ích kinh tế của người khác đã gây hậu quả
xấu cho chủ sở hữu QSHTT, cho các nhà đầu tư và cho xã hội.
Để làm rõ khái niệm bảo vệ QSHTT trước hết cần làm rõ bảo hộ QSHTT. Theo Từ
điển tiếng Việt, thuật ngữ "bảo hộ" được hiểu theo nghĩa thông thường là "che chở, không để
bị hư hỏng, tổn thất" [77, tr. 39]. Việc bảo hộ luôn được gắn với sự quản lý của nhà nước.
Như vậy, trước tiên phải hiểu như thế nào là bảo hộ nhà nước. Theo nghĩa rộng, "bảo hộ nhà
nước" được hiểu là các giải pháp bảo vệ, giúp đỡ, hỗ trợ bằng chính sách, pháp luật mà mỗi
quốc gia dành cho công dân hoặc các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động cư trú ở nước
đó.
Trong Luật SHTT, các Phần thứ nhất, Phần thứ hai, Phần thứ ba và Phần thứ tư
đều mang nội dung bảo hộ nhà nước đối với QSHTT, cụ thể là các quy định về việc bảo
hộ QSHTT tại cơ quan quản lý nhà nước như: các điều kiện bảo hộ; nội dung quyền; giới
hạn quyền; thời hạn bảo hộ quyền, chuyển giao quyền, chứng nhận quyền… Do đó, bảo
hộ QSHTT được hiểu là việc nhà nước đảm bảo quyền sở hữu với các đối tượng SHTT
cho cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác đã được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy
chứng nhận đăng ký QTG (đối với QTG), Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan (đối
với quyền liên quan), Văn bằng bảo hộ (đối với QSHCN), Bằng bảo hộ giống cây trồng
(đối với giống cây trồng). Hoạt động bảo hộ dưới góc độ quản lý nhà nước - đó chính là
việc xác lập quyền cho các chủ sở hữu QSHTT theo quy định của pháp luật. QSHTT
được Nhà nước bảo hộ bằng các chính sách về SHTT và hệ thống pháp luật về QSHTT.
Từ sự phân tích trên, ta có thể đưa ra định nghĩa: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là
việc nhà nước - thông qua hệ thống pháp luật - xác lập quyền của chủ sở hữu quyền sở
hữu trí tuệ bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp và quyền
đối với giống cây trồng.
Trong lĩnh vực SHTT, bảo hộ QSHTT bao gồm: bảo hộ QTG, quyền liên quan;
bảo hộ QSHCN và bảo hộ quyền đối với giống cây trồng. Trên thực tế không có quan
điểm cụ thể nào đưa ra khái niệm chung về bảo hộ QTG, quyền liên quan, bảo hộ
QSHCN và bảo hộ quyền đối với giống cây trồng. Chủ yếu và phổ biến nhất là nghiên
cứu khái niệm qua các công ước liên quan đến QSHTT (như Công ước PARIS, Công ước
BERNE…) và Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội thì:
Bảo hộ quyền tác giả là bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của tác giả,
chủ sở hữu tác phẩm đối với toàn bộ hoặc một phần tác phẩm văn học, nghệ
thuật, khoa học...
Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là bảo hộ sản phẩm trí tuệ, quyền,
lợi ích hợp pháp của các chủ thể quyền sở hữu công nghiệp như: tác giả, chủ
Văn bằng bảo hộ và người sử dụng hợp pháp đối tượng quyền sở hữu công
nghiệp [76, tr. 19].
Trong Công ước PARIS (Điều 6 bis), bảo hộ QSHCN bao gồm các đối tượng bảo
hộ là sáng chế, mẫu hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch
vụ, tên thương mại, chỉ dẫn xuất xứ hoặc tên gọi xuất xứ hàng hoá, cũng như việc ngăn
chặn cạnh tranh không lành mạnh. Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của Trường Đại
học Luật Hà Nội cũng chưa đưa ra khái niệm thuật ngữ "bảo hộ quyền liên quan đến
quyền tác giả" và khái niệm thuật ngữ "bảo hộ quyền đối với giống cây trồng".
Như vậy, qua phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm bảo hộ quyền liên quan đến
quyền tác giả là: Bảo hộ quyền đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình
phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình đã được mã hóa; và bảo hộ quyền đối với
giống cây trồng là: bảo hộ sản phẩm trí tuệ, quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể
quyền đối với giống cây trồng.
Theo Từ điển tiếng Việt, "bảo vệ" là "chống lại mọi sự xâm phạm để giữ cho
luôn luôn được nguyên vẹn" [77, tr. 40]. Trong Luật SHTT, "bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ"
được quy định tại Phần thứ năm, nội dung của phần này bao gồm: quy định chung về bảo
vệ QSHTT; xử lý xõm phạm QSHTT bằng cỏc biện phỏp dõn sự; xử lý xõm phạm
QSHTT bằng cỏc biện phỏp hành chớnh và hỡnh sự; kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu liên quan đến SHTT. Theo đó, bảo vệ QSHTT bao gồm quyền tự bảo vệ của chủ thể
QSHTT qua việc áp dụng các biện pháp như: áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn
ngừa hành vi xâm phạm QSHTT; yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm QSHTT
phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại; yêu
cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xõm phạm QSHTT theo quy định của
luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan; khởi kiện ra Tũa ỏn hoặc Trọng
tài để bảo vệ quyền, lợi ớch hợp phỏp của mỡnh. Từ đó có thể hiểu: Bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ là việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền - thông qua hệ thống chính sách và
pháp luật - bảo vệ các quyền và các lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu quyền sở hữu
trí tuệ nhằm chống lại bất kỳ sự vi phạm nào của phía thứ ba.
Trước đây, trong các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực SHTT
cũng như trong hầu hết các công ước quốc tế về SHTT (như Công ước BERNE, Công
ước PARIS, Công ước GENEVA,…) đều sử dụng thuật ngữ "bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ". Có thể nói, thuật ngữ "bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ" được sử dụng hết sức thông
dụng, phổ biến, "bảo hộ" trong mọi hoạt động của lĩnh vực SHTT: từ hoạt động xây dựng
pháp luật, hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về SHTT, đến các hoạt động thực thi
QSHTT… Tuy nhiên, trong Luật SHTT, bên cạnh việc quy định về "bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ" tại các Phần thứ nhất, Phần thứ hai, Phần thứ ba và Phần thứ tư, thì tại Phần thứ
năm của Luật SHTT còn quy định về "bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ", qua nội dung của các
phần như nêu trên cho thấy: về mặt quản lý nhà nước về SHTT thì Luật SHTT dùng thuật
ngữ "bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ", về mặt thực thi QSHTT thì Luật SHTT dùng thuật
ngữ "bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ".
Trong thời gian gần đây, thuật ngữ "bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ" bên cạnh thuật
ngữ "bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ" đã bắt đầu xuất hiện trong các văn bản quy phạm pháp
luật khác. Nghiên cứu Dự thảo Hiệp định giữa chính phủ Liên bang Nga và Chính phủ
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam "về hợp tác trong lĩnh vực bảo hộ và bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ", cho thấy trong bản dự thảo của hiệp định này đó có sự phân biệt giữa "bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ" và "bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ". Trong khi đó, qua thực tiễn
nghiên cứu nhiều hiệp định, điều ước quốc tế liên quan đến QSHTT, chúng ta không thấy
có hiệp định nào phân biệt rạch ròi hai nội dung "bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ" và "bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ" như tại bản dự thảo này. Qua phân tích hai khái niệm trên, có thể
thấy rằng giữa "bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ" và "bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ" có những ý
nghĩa riêng, đây là một sự phân biệt đáng quan tâm, lưu ý trong bối cảnh hiện nay. Sự
xuất hiện của hai thuật ngữ này cho thấy pháp luật đã có sự phân định cụ thể, khi nào thì
sử dụng thuật ngữ "bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ", khi nào thì sử dụng thuật ngữ "bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ". Mục đích của sự phân biệt hai thuật ngữ này là để hiểu và sử dụng
đúng với chức năng của chúng. Theo quy định của Luật SHTT, thì khi chủ thể QSHTT bị
vi phạm quyền có quyền áp dụng các biện pháp mà pháp luật cho phép để tự bảo vệ như:
áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm QSHTT; yêu cầu tổ
chức, cá nhân có hành vi phạm QSHTT phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải
chính công khai, bồi thường thiệt hại; yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý
hành vi xâm phạm; khởi kiện ra Tòa án hoặc Trọng tài để yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình (Điều 198). Như vậy, theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình,
đối với Toà án, sử dụng thuật ngữ "bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ" như trong Luật SHTT là
phù hợp và chính xác.
1.1.3. Khái niệm thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án nhân dân
Theo nghĩa thông thường, "thủ tục là những việc cụ thể phải làm theo một trật tự quy
định, để tiến hành một công việc có tính chất chính thức" [77, tr. 960]. Xuất phát từ việc phân
biệt bảo hộ QSHTT và bảo vệ QSHTT được nghiên cứu tại tiểu mục 1.1.2, cũng cần phân
biệt hai khái niệm "thủ tục bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ" và "thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ". Về mặt quản lý nhà nước, thủ tục bảo hộ QSHTT được hiểu là việc nhà nước ban
hành các quy định pháp luật về SHTT nhằm xác lập quyền cho các chủ sở hữu QSHTT,
bảo vệ và thực thi quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu QSHTT. Như vậy, dưới góc
độ quản lý nhà nước, các cơ quan quản lý nhà nước về SHTT có hai chức năng, đó là:
chức năng bảo hộ và chức năng bảo vệ. Còn thủ tục bảo vệ QSHTT với cách hiểu là việc
các cơ quan quản lý nhà nước, thông qua hệ thống chính sách và pháp luật đó, bảo vệ các
quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu QSHTT để chống lại bất kỳ sự vi phạm nào
của phía thứ ba bằng một phương thức, trình tự, thủ tục nhất định do pháp luật quy định
(thường gọi luật hình thức). Dưới góc độ thủ tục tố tụng, "thủ tục" được định nghĩa như
sau: "Thủ tục là một tiến trình được thực hiện theo tuần tự, bao gồm tất cả các hành vi và
sự kiện xảy ra trong khoảng từ thời điểm bắt đầu các hành vi tố tụng cho đến khi bản án,
quyết định của Tòa án được ban hành" [87, tr. 1221]. Về cơ bản tác giả đồng ý với quan
điểm trên, nhưng cần phải làm rừ hơn,"thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Tũa án"
được hiểu là trình tự, thủ tục để cá nhân, tổ chức yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và các lợi
ích hợp pháp chống lại sự vi phạm đối với tài sản SHTT của phía thứ ba và trình tự, thủ
tục do Tòa án tiến hành giải quyết yêu cầu đó từ thời điểm bắt đầu thụ lý đơn yêu cầu
cho đến khi kết thúc bằng một bản án hoặc quyết định theo quy định của pháp luật tố
tụng.
1.2. Nội dung của pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
QSHTT là quyền sở hữu mang tính chất tư, song nó có tác động rất lớn đến lợi
ích chung của toàn xã hội và có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với kinh tế - thương mại, đặc
biệt là trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Trong xu hướng toàn cầu hóa, QSHTT là phần
không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh doanh của mỗi doanh nghiệp và chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia. Trong những năm gần đây việc bảo hộ
SHTT đã trở thành nội dung quan trọng trong thương mại quốc tế. Những hành vi xâm
phạm QSHTT đối với các chủ sở hữu các tài sản trí tuệ, những tranh chấp và mâu thuẫn
thương mại về QSHTT có yếu tố nước ngoài, mang tính đa quốc gia đã đặt ra yêu cầu cấp
bách về bảo hộ QSHTT. Tuy nhiên, các hệ thống luật pháp về QSHTT của các nước rất
khác nhau, tùy thuộc vào các chính sách văn hóa, công nghiệp và các yếu tố khác... Do
vậy, để tìm ra một giải pháp giải quyết các tranh chấp về QSHTT mang tính quốc tế, các
mạng lưới và các quy tắc khác nhau đã được thiết lập [66, tr. 64]. Xét ở bình diện quốc
tế, bảo hộ QSHTT được nhìn nhận thông qua việc ban hành pháp luật điều chỉnh về
QSHTT bằng sự thỏa thuận bởi các điều ước về SHTT. Có thể bắt đầu từ việc các quốc gia
tham gia Hiệp định tổng quát về thương mại và thuế quan (GATT) với sự tham gia của
117 nước thành viên, các nước thành viên đã đạt được thỏa thuận với 10 nội dung cơ bản,
được gọi là Thoả thuận về các khía cạnh liên quan tới thương mại của QSHTT (gọi tắt là
Hiệp định TRIPs). TRIPs được ký kết vào ngày 15-4-1994, có hiệu lực từ ngày 01-01-
1995, đây cũng là ngày đánh dấu sự ra đời của WTO. Ngày 01-01-1996, Hội đồng TRIPs
đã ký với WIPO một thỏa thuận mang mục tiêu là thúc đẩy việc bảo hộ và thực thi
QSHTT. TRIPs là hiệp định đa phương, toàn diện nhất về SHTT. Mục tiêu của TRIPs là
sự thừa nhận sự cần thiết phải thúc đẩy bảo hộ đầy đủ và có hiệu quả các đối tượng
SHTT. Các quy định của TRIPs là một khung pháp lý ổn định, có giá trị cao làm cơ sở
vững chắc để bảo hộ QSHTT trên phạm vi của tất cả các nước thành viên của WTO. Bảo
hộ QSHTT theo các yêu cầu của TRIPs đã trở thành một điều kiện bắt buộc đối với các
quốc gia là thành viên của WTO. TRIPs quy định các tiêu chuẩn tối thiểu về bảo hộ
SHTT mà bất kỳ thành viên nào tham gia cũng phải đạt được (bao gồm các điều khoản về
patent, nhãn hiệu, tên thương mại, bản quyền…). TRIPs đòi hỏi các thành viên phải tuân
thủ các nguyên tắc của việc bảo hộ các tác phẩm văn học và khoa học (Công ước
BERNE), bảo hộ các tổ chức phát thanh (Công ước ROME) và bảo hộ SHCN (Công ước
PARIS)... Đây là lần đầu tiên việc bảo hộ SHTT trở thành điều kiện bắt buộc đối với các
quốc gia muốn tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế, đây cũng là các tiêu chuẩn
đầu tiên và tối thiểu về bảo hộ SHTT mà bất kỳ thành viên nào muốn tham gia WTO
cũng phải đáp ứng được. Sự ra đời của TRIPs đã mang lại những thay đổi căn bản pháp
luật về SHTT của các nước thành viên WTO, ngoài việc đồng nhất hóa về pháp luật,
TRIPs còn tiến tới loại bỏ các quy định về thủ tục hành chính và các kỹ thuật bất lợi cho
hoạt động SHTT quốc tế.
Trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, sự hợp tác có thể cả phụ thuộc lẫn nhau
trong quan hệ kinh tế ngày càng sâu sắc hơn; sự phân công công việc trên bình diện quốc
tế được coi là mục tiêu quan trọng trong hợp tác quốc tế, nhưng điều đó cũng đồng nghĩa
là sẽ có những tranh chấp về kinh tế quốc tế phát sinh. Về nguyên tắc, tất cả các hiệp định
thương mại đa phương được ký kết trong khuôn khổ của WTO đều được xác định là
những văn bản luật về kinh doanh - thương mại có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các
quốc gia là thành viên của WTO. Trong trường hợp có bất cứ một sự khác biệt nào giữa
các quy định trong các hiệp định đó với luật lệ của các quốc gia thành viên, thì các quy
định trong các hiệp định đó sẽ được ưu tiên áp dụng. Do đó, các quốc gia cần phải có các
khung pháp lý nhất định đề ra các nguyên tắc pháp lý nhằm bảo đảm phù hợp với "luật
chung" của nền kinh tế thế giới đang trong xu hướng toàn cầu hóa [51, tr. 42].
ở Việt Nam, bảo hộ QSHTT được Hiến pháp năm 1992 quy định và được thể
hiện trong các nghị quyết của Bộ Chính trị. Chính sách bảo hộ SHTT là một bộ phận
quan trọng của hệ thống chính sách pháp luật. Trong Chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã nhận định:
"Hoàn thiện pháp luật về khoa học công nghệ... thực hiện tốt chính sách bảo hộ sở hữu trí
tuệ" [30] là một nhiệm vụ trọng tâm (mục 3 phần II của Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24-5-
2005 của Bộ Chính trị).
- Về hình thức: Chính sách bảo hộ SHTT thể hiện được quan điểm, đường lối do
Đảng và Nhà nước đề ra để phát triển khoa học - công nghệ, phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. ở mỗi giai đoạn khác nhau, chính sách bảo hộ SHTT
được hoạch định bằng những giải pháp cụ thể khác nhau, nhưng đều nhằm thực hiện
nhiệm vụ ổn định chính trị và phát triển nền kinh tế đất nước. Vì vậy, trên thực tế, trong
mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi điều kiện của nền kinh tế, thì chính sách bảo hộ QSHTT được
quy định khác nhau, như: đối với một số hành vi xâm phạm QSHTT nhưng không bị coi
là tội phạm, vì không được quy định ở BLHS năm 1985, nhưng đã được quy định bổ
sung trong BLHS năm 1999 (như tội xâm phạm QSHCN); Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án hành chính năm 1996 không quy định thẩm quyền của TAND giải quyết các
khiếu kiện đối với các quyết định hành chính (QĐHC), hành vi hành chính (HVHC) vi
phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước về SHTT, nhưng thẩm quyền này đã được bổ
sung trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006. Trong quá trình
hơn 10 năm phấn đấu để gia nhập WTO, hệ thống pháp luật bảo hộ SHTT của Việt Nam
đã được xây dựng, phát triển và hoàn thiện nhằm đáp ứng các yêu cầu của WTO. Các quy
phạm pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT do Nhà nước ban hành được thể hiện dưới
những hình thức văn bản quy phạm pháp luật cụ thể trong các bộ luật, các luật, pháp
lệnh, nghị định, nghị quyết, thông tư…, điều đó đã phản ánh trực tiếp chính sách bảo hộ
QSHTT.
- Về nội dung: Để bảo vệ QSHTT, các văn bản quy phạm pháp luật về thủ tục
bảo vệ QSHTT nói chung và thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND nói riêng được quy định
bằng các biện pháp khác nhau. Pháp luật bảo hộ QSHTT quy định các biện phỏp xử lý
hành vi xõm phạm QSHTT như sau: Tổ chức, cỏ nhõn cú hành vi xõm phạm QSHTT của
tổ chức, cỏ nhõn khỏc thỡ tuỳ theo tớnh chất, mức độ xâm phạm, có thể bị xử lý bằng
biện pháp dân sự, hành chớnh hoặc hỡnh sự. Trong trường hợp cần thiết, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (BPKCTT), biện pháp
kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến SHTT, biện pháp ngăn chặn và
bảo đảm xử phạt hành chính theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp
luật có liên quan. Như vậy, chủ thể QSHTT có quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu cơ quan nhà
nước cú thẩm quyền xử lý hành vi xõm phạm QSHTT theo quy định của pháp luật; khởi
kiện ra Tũa ỏn hoặc Trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mỡnh. Tuy nhiên, ở
đây cần lưu ý phân biệt biện pháp hành chính quy định tại Luật SHTT với biện pháp hành
chính mà tác giả nêu trong luận văn (về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính tại
TAND theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính). Theo tinh
thần quy định tại điểm c khoản 1 Điều 198, các điều 200, 211, 214 và Điều 215 của Luật
SHTT, biện pháp hành chính được áp dụng trong trường hợp cá nhân, tổ chức có hành vi
xâm phạm QSHTT sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật về xử lưý vi
phạm hành chính, các cơ quan Thanh tra, Công an, Quản lý thị trường, Hải quan, Ủy ban
nhõn dõn cỏc cấp cú thẩm quyền xử lý cỏc hành vi xõm phạm QSHTT đó. Đối với
TAND, Luật SHTT chỉ quy định: "Việc ỏp dụng biện phỏp dõn sự, hỡnh sự thuộc thẩm
quyền của Toà ỏn" (khoản 2 Điều 200) [64], nhưng căn cứ theo thẩm quyền của TAND
được quy định trong Luật tổ chức TAND, Luật khiếu nại tố cáo, Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan khác, thì
TAND có thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện của cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức
đối với các QĐHC, HVHC trái pháp luật mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền của
cơ quan nhà nước ban hành trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
SHTT, về thẩm quyền, thủ tục giải quyết các khiếu nại QĐHC, HVHC đó được thực hiện
theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Như vậy, trong
phạm vi của luận văn, tác giả đề cập đến thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND bằng biện
pháp hành chính dưới góc độ thẩm quyền, thủ tục bảo vệ QSHTT theo quy định của Luật
tổ chức TAND, Luật khiếu nại tố cáo, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan khác (nội dung này được trình bày ở tiểu
mục 1.2.1.2. chương 1 và tiểu mục 2.1.1.1 chương 2 của luận văn). Căn cứ vào tính chất
của việc bảo vệ QSHTT và cơ quan có thẩm quyền trong việc bảo vệ QSHTT, có thể
phân chia các biện pháp bảo vệ QSHTT thành: bảo vệ QSHTT tại các cơ quan quản lý
nhà nước và bảo vệ QSHTT tại Tòa án.
1.2.1. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại cơ quan quản lý nhà nước
Chức năng bảo vệ QSHTT của các cơ quan quản lý nhà nước được thực hiện
qua biện pháp thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại tố cáo và
xử lý vi phạm pháp luật liên quan đến SHTT... Phạm vi bảo vệ QSHTT của các cơ quan
quản lý nhà nước là rất rộng, trong luận văn này tác giả chỉ xem xét bảo vệ QSHTT dưới
góc độ thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý
vi phạm pháp luật liên quan đến SHTT bằng biện pháp xử lý hành chính.
Với ý nghĩa để xử lý xâm phạm và ngăn chặn hành vi xâm phạm QSHTT, biện
pháp xử lý hành chớnh là biện phỏp thực thi khỏ đặc thù tại Việt Nam. Theo quy định tại
Điều 211 của Luật SHTT, các hành vi xâm phạm QSHTT bị XPHC bao gồm: thực hiện
hành vi xâm phạm QSHTT gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc cho xó hội; không
chấm dứt hành vi xâm phạm QSHTT mặc dù đó được chủ thể QSHTT thông báo bằng
văn bản yêu cầu chấm dứt hành vi đó; sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán hàng
hoá giả mạo về SHTT hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này; sản xuất, nhập
khẩu, vận chuyển, buụn bỏn vật mang nhón hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý trùng hoặc tương tự
đến mức gây nhầm lẫn với nhón hiệu, chỉ dẫn địa lý được bảo hộ hoặc giao cho người
khác thực hiện hành vi này; tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi cạnh tranh khụng lành
mạnh về SHTT thỡ bị xử phạt vi phạm hành chớnh theo quy định của pháp luật về cạnh
tranh.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan Thanh tra, Quản lý
thị trường, Hải quan, Công an, ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử lý hành vi xâm
phạm QSHTT. Theo đó, các cơ quan Thanh tra, Công an, Quản lý thị trường, Hải quan, ủy
ban nhân dân các cấp có thẩm quyền áp dụng biện pháp hành chính. Trong trường hợp
cần thiết, các cơ quan này có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành
chính theo quy định của pháp luật. Cơ quan Hải quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp
kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến SHTT.
1.2.2. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án nhân dân
Theo quy định của pháp luật bảo hộ QSHTT, TAND có thẩm quyền giải quyết
các yêu cầu, khiếu nại về hành vi xâm phạm QSHTT theo thủ tục tố tụng hành chính;
phát hiện, điều tra, truy tố và xét xử các tội xâm phạm QSHTT theo thủ tục tố tụng hình
sự và giải quyết các tranh chấp về QSHTT theo thủ tục tố tụng dân sự.
1.2.2.1. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ theo thủ tục tố tụng hành chính
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
ra đời, một nền tư pháp kiểu mới - nền tư pháp nhân dân - đã từng bước được thành lập.
Trong giai đoạn đầu, hệ thống Tòa án còn rất đơn giản, chưa có Tòa án hành chính, chưa có
các văn bản quy phạm pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Trải qua các thời
kỳ lịch sử, cùng với sự nghiệp đổi mới và phát triển của đất nước, trước yêu cầu khách quan
đặt ra là phải cải cách bộ máy nhà nước, song song với việc cải cách bộ máy nhà nước thì
việc cải cách tư pháp được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và
Nhà nước ta phải thực hiện. Tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương
khóa VII về "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, trung tâm là cải cách hành chính" đã chỉ rõ:
Về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân trên cơ sở kiện toàn tổ
chức và cán bộ, nghiên cứu tăng thẩm quyền cho Tòa án cấp huyện, theo hướng
việc xét xử sơ thẩm được thực hiện chủ yếu ở Tòa án cấp này. Tòa án cấp tỉnh
chủ yếu xét xử phúc thẩm. Tòa án nhân dân tối cao chủ yếu xét xử giám đốc
thẩm, tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn các Tòa án địa phương thực hiện
xét xử thống nhất theo pháp luật. Hạn chế việc xét xử sơ thẩm đồng thời chung
thẩm. Nghiên cứu thành lập các Tòa chuyên môn... [26].
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã chỉ rõ: "Xúc tiến thành lập Tòa
hành chính trong Tòa án nhân dân, bổ sung thể chế làm căn cứ cho việc xét xử" [27, tr. 243].
Ngày 28-10-1995, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX, kỳ
họp thứ 8 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức TAND. Theo quy
định của luật này, kể từ ngày 01-7-1996 TAND các cấp được giao nhiệm vụ xét xử những vụ
án hành chính. Từ đó, trong cơ cấu tổ chức của TANDTC và TAND cấp tỉnh có thêm Toà
hành chính; ở TAND cấp huyện không thành lập Toà hành chính mà việc xét xử các vụ
án hành chính theo thẩm quyền do các thẩm phán của TAND cấp huyện đảm nhiệm.
Để bảo đảm việc giải quyết các vụ án hành chính được kịp thời, đúng pháp luật
nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, góp phần nâng cao hiệu
lực quản lý nhà nước, ngày 21-5-1996, ủy ban thường vụ Quốc hội khóa IX thông qua Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-7-1996
(sau đây gọi tắt là Pháp lệnh năm 1996). Ngay từ khi Pháp lệnh được công bố thi hành đã
được dư luận xã hội quan tâm, coi đây là một bước phát triển của cải cách tư pháp.
TAND các cấp đã có nhiều cố gắng để giải quyết có hiệu quả, đúng pháp luật các vụ án
hành chính thuộc thẩm quyền. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian hơn hai năm thi hành,
Pháp lệnh năm 1996 đã được ủy ban Thường vụ Quốc hội khoá X thông qua Pháp lệnh sửa
đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25-12-
1998 (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh năm 1998). Việc sửa đổi bổ sung Pháp lệnh này cho
thấy sự quyết tâm thực hiện cải cách hành chính và cải cách tư pháp của Đảng và Nhà
nước ta.
Thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện liên quan đến QSHTT không được quy
định cụ thể trong các Pháp lệnh năm 1996 và Pháp lệnh năm 1998, mà được quy định
trong rất nhiều nghị định do Chính phủ ban hành. Cho tới lần sửa đổi, bổ sung một số
điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (sau đây gọi tắt là
Pháp lệnh năm 2006) mới pháp điển hóa và quy định cụ thể là TAND có thẩm quyền giải
quyết khiếu kiện QĐHC, HVHC trong quản lý nhà nước về SHTT và chuyển giao công
nghệ.
Trong quá trình thực hiện chức năng điều hành và quản lý nhà nước về SHTT,
các cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ, công chức Nhà nước có những QĐHC,
HVHC như: cấp và thực hiện các thủ tục khác liên quan đến Giấy chứng nhận đăng ký
QTG, quyền liờn quan, Văn bằng bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp (SHCN),
Bằng bảo hộ giống cây trồng; thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về SHTT; giải
quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm phỏp luật về SHTT... Trong trường hợp những
QĐHC, HVHC đó là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân,
cơ quan, tổ chức, thì cá nhân, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại TAND.
Thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND được thực hiện theo quy định của Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính.
Cho tới nay, trải qua 10 năm thi hành pháp luật về thủ tục tố tụng hành chính, cho
thấy hoạt động của Tòa hành chính được dư luận xã hội quan tâm, ủng hộ, là một bằng
chứng của cải cách tư pháp, phục vụ công cuộc đổi mới đất nước, tăng cường dân chủ, phát
huy tác dụng trong việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động quản lý Nhà nước nhà nước
trên các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung. TAND là cơ quan quan trọng nhất trong
việc thẩm định tính hợp pháp của các quyết định được ban hành bởi các cơ quan thực thi
QSHTT khác.
1.2.2.2. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ theo thủ tục tố tụng hình sự
Bộ luật hình sự (BLHS) đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khoá X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21-12-1999 có hiệu lực từ ngày 01-7-2000, Bộ
luật này thay thế BLHS năm 1985 và các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm
1989, 1991, 1992 và năm 1997. Các quy định của BLHS năm 1999 thể hiện toàn diện chính
sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay, là công cụ sắc bén trong đấu
tranh phòng và chống tội phạm, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, hiệu lực quản lý của
nhà nước, góp phần thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Theo quy định của BLHS năm 1999 thì các tội phạm liên quan đến QSHTT bao
gồm: tội xâm phạm QTG (Điều 131); tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156); tội sản
xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh
(Điều 157); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón,
thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (Điều 158); tội vi phạm
quy định về cấp bằng bảo hộ QSHCN (Điều 170); tội xâm phạm QSHCN (Điều 171) và
tội vi phạm các quy định về xuất bản, phát hành sách, báo, đĩa âm thanh, băng âm thanh,
đĩa hình, băng hình hoặc các ấn phẩm khác (Điều 271).
Việc xử lý các hành vi xâm phạm QSHTT bằng biện pháp hình sự tại TAND là
hình thức xử lý nghiêm khắc nhất. Đối với các loại tội phạm này, pháp luật hình sự đã
quy định việc truy cứu trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với người chịu trách nhiệm
trước pháp luật (thủ trưởng) của tổ chức, cơ quan, đơn vị hoặc cá nhân có hành vi nguy
hiểm, có dấu hiệu cấu thành tội phạm hình sự về SHTT theo quy định tại BLHS. BLHS
còn có quy định khung hình phạt khá rộng và nghiêm khắc, bao gồm hình phạt cao nhất
là tử hình. Điều đó cho thấy pháp luật không chỉ nhằm mục đích trừng trị kẻ phạm tội,
mà còn có tác dụng ngăn chặn xâm phạm QSHTT, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của các chủ thể QSHTT, lợi ích của người tiêu dùng; góp phần làm lành mạnh,
minh bạch môi trường kinh doanh nhằm phát triển nền kinh tế quốc dân trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế. Biện pháp bảo vệ QSHTT của pháp luật hình sự Việt Nam đã cơ
bản phù hợp với yêu cầu của Hiệp định TRIPs và Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa
Kỳ (BTA). Theo Hiệp định TRIPs thì luật pháp của các nước thành viên phải có các thủ
tục thực thi quyền về các thủ tục hình sự; các nước thành viên phải có đầy đủ quy định
pháp luật về thủ tục, hình phạt hình sự.
Pháp luật tố tụng hình sự đã quy định trình tự, thủ tục cần thiết trong việc phát
hiện, tố cáo, khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các loại tội phạm nói chung, trong đó có
các tội xâm phạm QSHTT nói riêng.
1.2.2.3. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ theo thủ tục tố tụng dân sự
Bảo vệ QSHTT tại TAND bằng biện pháp dân sự là việc các đương sự yêu cầu
Tòa án giải quyết các tranh chấp về quyền, lợi ích về QSHTT theo quy định của pháp luật
tố tụng dân sự. Bản chất của biện pháp dân sự là thông qua việc giải quyết các tranh chấp
liên quan đến QSHTT tại TAND, các chủ sở hữu QSHTT không chỉ được quyền yêu cầu
Toà án áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành vi xâm phạm QSHTT một cách có hiệu
quả mà còn buộc bên vi phạm bồi thường thiệt hại do hành vi đó gây ra (bao gồm thiệt
hại vật chất và thiệt hại tinh thần).
Giải quyết tranh chấp về QSHTT được hiểu là việc Tòa án giải quyết những
tranh chấp về quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ pháp luật về
SHTT. Giải quyết tranh chấp về QSHTT tại Toà án là cơ chế bảo hộ QSHTT hữu hiệu
nhất trên thế giới hiện nay. Tranh chấp phát sinh từ QSHTT với bản chất là các tranh
chấp dân sự (theo nghĩa rộng) có những đặc thù cơ bản, đó là: tính phức tạp, tính đa quốc
gia, tính bảo mật cao... Bảo vệ QSHTT không chỉ bảo vệ quyền tài sản mà còn gắn liền
với ý nghĩa bảo vệ quyền nhân thân của chủ sở hữu QSHTT. Quyền nhân thân là quyền
thể hiện mối liên hệ không thể tách rời giữa tác giả với tác phẩm mà họ sáng tạo ra, về
bản chất quyền nhân thân luôn gắn liền với tác giả và không thể chuyển giao. Quyền tài
sản là quyền được hưởng những lợi ích vật chất từ việc cho phép người khác sử dụng tác
phẩm của mình trong mục đích thương mại.
Pháp luật của Việt Nam ngay từ đầu đã xác định được vị trí, vai trò của TAND
trong việc bảo hộ thực thi QSHTT, từ đó đặt ra nhiệm vụ xây dựng những quy trình pháp
lý, thủ tục tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu QSHTT.
Trước khi BLTTDS ra đời, theo quy định của Luật tổ chức TAND và các Pháp lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động, thì không chỉ có TAND cấp huyện mới có
thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự, kinh tế, lao động mà TAND cấp tỉnh cũng
có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự, kinh tế, lao động. Việc phân định thẩm
quyền giữa TAND cấp huyện và TAND cấp tỉnh căn cứ vào nhiều tiêu chí khác nhau,
như: tính chất phức tạp của từng loại vụ án; giá trị (giá ngạch) của tranh chấp; năng lực,
trình độ của thẩm phán và cơ sở vật chất của Tòa án bảo đảm cho việc giải quyết các vụ
án đó.
Việc bảo vệ QSHTT được tiến hành dưới hình thức áp dụng những thủ tục, biện
pháp nhất định, trong đó biện pháp dân sự chiếm một vị trí quan trọng. Điều đó được lý giải
chủ yếu bởi tính dân chủ, khả năng duy trì và bảo đảm công bằng của các thiết chế của thủ
tục dân sự so với các thủ tục khác. áp dụng thủ tục dân sự là con đường duy nhất để giải
quyết thoả đáng vấn đề bồi thường thiệt hại đối với các hành vi xâm phạm. Thông thường,
khi bị xâm phạm QSHTT của mình, chủ sở hữu quyền bao giờ cũng muốn được bảo vệ bằng
cách làm sao để nhanh chóng nhất có thể chấm dứt sự xâm phạm quyền quyền tài sản và
quyền nhân thân của mình do bị đơn đang thực thiện. Hành vi xâm phạm QSHTT còn gây
ảnh hưởng đến tên tuổi, thương hiệu, gây hiểu lầm, nhận thức không đúng về chất lượng, giá
trị, uy tín về sản phẩm, hàng hóa của chủ sở hữu quyền, đây là những thiệt hại không thể tính
được bằng tiền, do vậy; chủ sở hữu quyền còn được pháp luật dân sự bảo vệ qua việc tính bồi
thường thiệt hại về tinh thần khi quyền nhân thân bị xâm phạm. Xét về mặt lý thuyết, thủ tục
tố tụng dân sự bảo vệ QSHTT như những quyền cá nhân hết sức thích hợp, có hiệu quả, do
đó, sự lựa chọn biện pháp dân sự sẽ là sự lựa chọn khôn ngoan để đảm bảo quyền của mình.
Biện pháp dân sự là biện pháp phòng ngừa có ý nghĩa lớn, là biện pháp cuối cùng nhưng là
biện pháp hiếm được sử dụng ở Việt Nam. So với biện pháp hành chính và biện pháp hình sự
nêu trên, thì biện pháp dân sự có những thế mạnh mà hai biện pháp đó không có. Có thể luận
chứng cho lợi thế của sự lựa chọn trên như sau:
- Đối với biện pháp hình sự: Nguyên đơn không có cơ hội yêu cầu áp dụng lệnh
BPKCTT để ngừng hành vi vi phạm trong thời gian xét xử vụ án, bên cạnh đó yêu cầu về
nghĩa vụ chứng minh hành vi vi phạm QSHTT trong vụ án hình sự là rất cao…;
- Đối với biện pháp hành chính: Đặc thù của biện pháp này là việc Tòa hành
chính trong hệ thống TAND chỉ thụ lý và giải quyết các khiếu kiện về các QĐHC,
HVHC trái pháp luật của các cán bộ, công chức và các cơ quan quản lý nhà nước về
SHTT;
- Cuối cùng, bởi một lý do đơn giản và hợp lý, việc thực hiện quyền yêu cầu
chấm dứt hành vi vi phạm và bồi thường thiệt hại vốn là các quyền dân sự. Khi yêu cầu
Toà án bảo vệ quyền bằng thủ tục tố tụng dân sự, sẽ hàm chứa cả việc bị đơn sẽ phải chấm
dứt hành vi vi phạm, bị đơn sẽ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại đã xảy ra, bao gồm cả bồi
thường thiệt hại về tinh thần.
Trên thế giới, thông thường chủ sở hữu QSHTT yêu cầu áp dụng biện pháp dân sự,
nhất là đối với các nước theo hệ thống luật Anh - Mỹ. Họ lý giải một phần là bởi "bầu không
khí" của thủ tục này phù hợp với việc bảo vệ các quyền tài sản của cá nhân trong giới kinh
doanh, một phần là bởi các biện pháp đền bù-đặc biệt là các loại lệnh áp dụng BPKCTT, đây
là biện pháp tiện lợi hơn so với việc trừng phạt khác [25, tr. 27]. Hành vi xâm phạm QSHTT
là hành vi trái pháp luật gây thiệt hại ngoài hợp đồng, do vậy phải nhận thức đây là trách
nhiệm dân sự. Không phải "vô tình" mà trong các điều ước quốc tế, trong BTA và Luật
SHTT, phần lớn các điều khoản là các quy định về việc áp dụng biện pháp dân sự. Vì vậy,
biện pháp dân sự cần được coi trọng, phát huy và phải được đánh giá đúng với tầm quan
trọng của nó, theo quan điểm của tác giả, với những ưu điểm vốn có, biện pháp dân sự nên
được nhìn nhận như là một biện pháp chủ đạo và cần được áp dụng một cách thông dụng
trong việc bảo vệ QSHTT tại TAND.
1.3. Một số tiêu chí đánh giá tính hoàn thiện của pháp luật về thủ tục bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ
Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 24-5-2005 về "Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020" đó nhận định:
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả
thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xó hội chủ nghĩa, xõy dựng Nhà nước pháp quyền xó hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhõn dõn, do nhõn dõn và vỡ nhõn dõn; đổi mới căn bản
cơ chế xây dựng và thực hiện phỏp luật; phỏt huy vai trũ và hiệu lực của phỏp
luật để gúp phần quản lý xó hội, giữ vững ổn định chính trị (điểm 1 Mục I)
[30].
Như vậy, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về SHTT đầy đủ, có
khả năng bảo đảm cho các hoạt động thương mại quốc tế, phù hợp với yêu cầu của WTO
về nội dung bảo hộ (tính đầy đủ) và hiệu lực thực thi pháp luật (tính hiệu quả) là một tất
yếu khách quan của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Hoàn thiện pháp luật là một quá trình liên tục, có nhiều khó khăn phức tạp, đòi
hỏi có sự quan tâm, nỗ lực của từng cơ quan, tổ chức và cá nhân có nhiệm vụ soạn thảo,
ban hành, hướng dẫn các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan trong lĩnh vực
QSHTT. Do vậy, việc tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về QSHTT ở Việt
Nam trong những năm tới cần định hướng tập trung mọi nguồn lực, đề cao trách nhiệm
của các ngành, các cấp, phấn đấu xây dựng hệ thống pháp luật về SHTT đủ về số lượng,
nâng cao về chất lượng, phấn đấu đến năm 2010 hệ thống pháp luật SHTT về cơ bản đạt
đến trỡnh độ tương đối đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, phát
huy mạnh mẽ vai trũ là phương tiện đầy hiệu lực và hiệu quả trong quản lý nhà nước,
quản lý xó hội. Đây chính là các tiêu chí, các yêu cầu của Chương trỡnh đổi mới công tác
xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật (ban hành kèm
theo Quyết định số 909/QĐ-TTg ngày 14-8-2003 của Thủ tướng Chính phủ). Ngoài các
tiêu chí trên, thực tiễn hoàn thiện pháp luật trong giai đoạn hiện nay cũn được nhỡn nhận,
đánh giá ở khả năng dự báo của pháp luật. Mặc dù đó đạt được những thành tựu đáng ghi
nhận trong việc xây dựng pháp luật nội dung về bảo hộ QSHTT nói chung và thủ tục bảo
vệ QSHTT tại TAND nói riêng, nhưng việc thực thi pháp luật về bảo vệ QSHTT ở Việt
Nam chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Do đó, vẫn còn nhiều vấn đề cần nghiên
cứu để hoàn thiện hệ thống pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND.
1.3.1. Pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ phải toàn diện
Tính toàn diện của pháp luật thể hiện ở khả năng đáp ứng cao nhất nhu cầu điều
chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật. Nhà nước - với chức năng quản lý xã hội thông
qua bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước - cần thiết chế một hệ thống pháp luật có tính
toàn diện để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Trong lĩnh vực SHTT, tính toàn diện của
pháp luật cần được xem xét, đánh giá trên các bình diện: các quy phạm pháp luật đã thể
chế hóa đầy đủ những quan điểm, đường lối, chính sách của Nhà nước về bảo hộ
QSHTT; các quy phạm pháp luật thực định đã có đầy đủ, để điều chỉnh mọi quan hệ xã
hội giữa Nhà nước với cá nhân, tổ chức trong hoạt động SHTT; các quy phạm pháp luật
đó đủ để xử lý các hành vi xâm phạm về QSHTT; các quy phạm pháp luật đó đã tạo ra cơ
sở pháp lý để phòng, chống, đấu tranh có hiệu quả đối với các tội phạm SHTT và các quy
phạm pháp luật thực định đó đã được tổ chức thực thi trong thực tế. Ngoài ra, do thuộc
tính của đối tượng sở hữu QSHTT, các quy phạm pháp luật về bảo vệ QSHTT phải được
phân biệt với quyền sở hữu tài sản hữu hình khác, tức là các quy phạm pháp luật bảo hộ
QSHTT phải thể hiện được tính đặc thù.
1.3.2. Pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ phải đồng bộ và thống
nhất
Tính đồng bộ của pháp luật được thể hiện ở khía cạnh các yếu tố tạo nên pháp
luật phải được xây dựng và phát triển trong một quy trình với một tốc độ, một thời gian
chung; tính đồng bộ đó phải tạo ra sự phù hợp, mềm dẻo, linh hoạt trong một chỉnh thể.
Trong giai đoạn hiện nay, việc bảo đảm tính đồng bộ đối với hệ thống pháp luật về SHTT
là điều vô cùng cần thiết, đó là sự đồng bộ giữa: các chủ trương, chính sách bảo hộ và
thực thi QSHTT; tổng thể hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về SHTT phải chứa đựng
đầy đủ các quy phạm pháp luật về nội dung và hình thức; ban hành kịp thời các văn bản
hướng dẫn áp dụng, đảm bảo cho các quy phạm pháp luật về bảo vệ QSHTT sớm được
áp dụng và thực thi trong đời sống xã hội.
Các quan hệ xã hội là một chỉnh thể thống nhất, do đó các quan hệ pháp luật dùng
để điều chỉnh các quan hệ xã hội đó cũng phải được xây dựng phù hợp với chỉnh thể thống
nhất đó. Tính thống nhất của pháp luật thể hiện ở chỗ các quy phạm pháp luật phù hợp với
nhau, không mâu thuẫn, xung đột lẫn nhau trong một ngành luật cụ thể, tuy việc xác định
ranh giới này là rất khó. Trong lĩnh vực SHTT, với sự tham gia của hệ thống cơ quan quản lý
nhà nước về SHTT, hệ thống cơ quan thực thi bảo vệ QSHTT và bên cạnh đó, QSHTT còn
được bảo vệ bằng nhiều biện pháp khác nhau, thì việc bảo đảm được tính thống nhất là điều
quan trọng. Tính thống nhất của pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT đòi hỏi: các quy định
của thủ tục bảo vệ QSHTT phải có sự liên kết, phối hợp tác động điều chỉnh theo một chiều,
hướng nhất định; phải có sự thống nhất nội tại giữa các quy phạm pháp luật về thủ tục bảo vệ
QSHTT với các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, sự thống nhất đó không chỉ
trong phạm vi quốc gia mà còn ở phạm vi quốc tế; tuân thủ nguyên tắc pháp chế trong việc
xây dựng và bảo đảm quy phạm pháp luật về bảo vệ QSHTT thống nhất với các quy phạm
pháp luật tương ứng nói chung; thống nhất giữa các quy phạm pháp luật trong các văn bản
có hiệu lực pháp lý cao với các văn bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn, cụ thể là sự thống nhất
giữa các quy định của BLDS, BLHS với Luật SHTT, Luật chuyển giao công nghệ, Luật
cạnh tranh, Luật thương mại, của BLTTDS, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) với các Nghị
quyết, các Thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành pháp luật; của Luật khiếu nại, tố cáo với
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính…; Tính thống nhất của pháp luật còn thể
hiện ở sự thống nhất của quy phạm pháp luật với tập quán, truyền thống đạo đức, văn hóa
của dân tộc.
1.3.3. Pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ phải phù hợp với thực
tiễn và có tính khả thi cao
Pháp luật được hình thành để điều chỉnh các quan hệ xã hội, hướng chúng phát
triển theo một trật tự mà Nhà nước mong muốn thiết lập; do đó, pháp luật phải đủ sức
mạnh để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo hướng thiết lập một hệ thống pháp luật phù
hợp với thực tiễn và có tính khả thi cao. Chức năng điều chỉnh của pháp luật chỉ có thể
được thực hiện khi nó được xây dựng phù hợp với những điều kiện cụ thể của xã hội
trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, vì vậy pháp luật không thể cao hơn hoặc thấp hơn
trình độ phát triển của kinh tế - xã hội; nếu không bảo đảm tiêu chí này thì pháp luật
không những không thể phát huy tác dụng mà còn kìm hãm sự phát triển của xã hội. Tính
phù hợp với thực tiễn và có khả thi của pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT thể hiện trên
nhiều mặt: phải phù hợp với quan điểm, đường lối xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội
của Đảng và Nhà nước đề ra trong từng thời kỳ; phải được áp dụng và tác dụng trở lại đời
sống xã hội; phải bảo đảm pháp luật được thi hành và có hiệu quả; phải phù hợp với hệ
thống pháp luật trong nước và phù hợp với các các điều ước quốc tế về SHTT mà Việt
Nam là thành viên.
1.3.4. Pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ phải minh bạch và khoa
học
Pháp luật về bảo vệ QSHTT minh bạch và khoa học khi các quan điểm, nguyên tắc
do Nhà nước đề ra để bảo hộ và bảo vệ QSHTT phải được thể chế hóa đầy đủ trong các
quy phạm pháp luật. Các quy phạm pháp luật đó phải được diễn đạt bằng ngôn ngữ pháp
lý chính xác và khoa học, trong đó phải chỉ rõ phạm vi điều chỉnh, giới hạn của việc áp
dụng quy phạm pháp luật trong bảo vệ QSHTT. Các quy phạm pháp luật trong thủ tục
bảo vệ QSHTT phải xác định rõ ràng mức độ điều chỉnh của pháp luật đối với từng
nhóm, từng quan hệ pháp luật cụ thể, phải xác định rõ hành vi xâm phạm QSHTT trong
trường trường hợp nào, ở mức độ nào thì áp dụng biện pháp hành chính, biện pháp hình
sự, biện pháp dân sự hay chỉ xử lý vi phạm hành chính… Ngoài ra, pháp luật thủ tục bảo
vệ QSHTT phải cá thể hóa từng hành vi vi phạm này với hành vi vi phạm khác, trên cơ
sở đó cá thể hóa chế tài xử phạt.
1.3.5. Pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ phải có tính dự báo
Để hoàn thiện hệ thống pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT đòi hỏi phải tiến
hành theo hai hướng: một mặt phải khái quát các quan hệ xã hội có liên quan đến tình
hình vi phạm QSHTT để thể chế hóa vào pháp luật, mặt khác phải dựa trên thực tiễn đó,
kịp thời có những phát hiện mang tính dự báo những quan hệ pháp luật tất yếu sẽ phát
sinh, để từ đó có những định hướng, giải pháp điều chỉnh quan hệ pháp luật sẽ phát sinh
đó. Đây là hai quá trình được diễn ra đồng thời và có quan hệ mật thiết với nhau, do vậy
cần xác định đây là một tiêu chí trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ
QSHTT. Tính dự báo của pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT còn dựa trên chiều hướng
phát triển của việc bảo hộ quốc tế về QSHTT, trên mối quan hệ của WTO/TRIPs với
WIPO và các điều ước có liên quan do WIPO quản lý. Việt Nam sẽ chính thức trở thành
thành viên thứ 150 của WTO trong tương lai gần, vì vậy Việt Nam đang tổ chức thực
hiện các cam kết quốc tế một cách đồng bộ và sâu rộng đối với mọi mặt kinh tế - xã hội
của đất nước. Trong điều kiện đó, tính dự báo của pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT đòi
hỏi cần giải quyết được khả năng đáp ứng với các quan hệ pháp luật về thủ tục bảo vệ
QSHTT phát sinh trong thời gian tới.
Kết luận chương 1
Bảo vệ quyền sở hữu là khái niệm cơ bản trong khoa học pháp lý nói chung,
chuyên ngành lý luận lịch sử nhà nước pháp quyền nói riêng. Tuy nhiên, khái niệm bảo
vệ QSHTT, đặc biệt là khái niệm thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND lại chưa được đề cập
một cách thỏa đáng và thuyết phục. Do vậy, cần thiết phải phân tích khái niệm bảo vệ
QSHTT và khái niệm thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND, kết hợp với phân tích đặc điểm,
nội dung của thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND. Với những nội dung được trình bày trong
chương 1 của luận văn, chúng tôi đã phân tích và đưa ra khái niệm chung nhất về thủ tục
bảo vệ QSHTT tại TAND. Đây cũng là những vấn đề chung phản ánh cơ sở lý luận cho
việc hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND.
Chương 2
Pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
tại Tòa án nhân dân Việt Nam hiện nay
2.1. Pháp luật thủ tục giải quyết các vụ án hành chính về quyền sở hữu trí
tuệ
2.1.1. Quyền khởi kiện vụ án hành chính để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
Thực tiễn cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền thi hành các quy định của
pháp luật về bảo hộ QSHTT, xử phạt vi phạm hành chính (VPHC) các hành vi xâm phạm
QSHTT không phải bao giờ cũng bảo đảm đúng pháp luật. Có những QĐHC, HVHC của
cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong việc bảo hộ QSHTT là trái pháp luật, xâm
phạm QSHTT của chủ thể QSHTT. Đối với những trường hợp đó, theo quy định tại Điều
1 của Pháp lệnh năm 2006 thì "cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức theo thủ tục do pháp
luật quy định có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của mình" [85]. Theo Điều 2 của Pháp lệnh năm 2006, thì cá nhân, cơ quan,
tổ chức có quyền khởi kiện để Tòa án giải quyết vụ án hành chính về khiếu kiện QĐHC,
HVHC trong quản lý nhà nước về SHTT và chuyển giao công nghệ khi thuộc một trong
các trường hợp sau đây:
- Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng hết
thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không
được giải quyết và không tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
lần hai;
- Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy
định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết
khiếu nại lần đầu và không tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại lần hai;
- Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng hết
thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được
giải quyết hoặc đã được giải quyết, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại
lần đầu trong trường hợp pháp luật quy định không được quyền khiếu nại đến người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại lần hai;
- Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai, nhưng hết
thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không
được giải quyết hoặc đã được giải quyết, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết
khiếu nại lần hai.
Trong các nội dung quản lý nhà nước về SHTT có việc xây dựng, chỉ đạo thực
hiện chiến lược, chính sách bảo hộ QSHTT; cấp và thực hiện các thủ tục khác liên quan
đến Giấy chứng nhận đăng ký QTG, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan, Văn
bằng bảo hộ các đối tượng SHCN, Bằng bảo hộ giống cõy trồng; trong việc thanh tra,
kiểm tra việc chấp hành phỏp luật về SHTT, giải quyết khiếu nại, tố cỏo và xử lý vi phạm
phỏp luật về SHTT. Trong Luật SHTT, Chương V quy định về chứng nhận đăng ký
QTG, quyền liờn quan; Chương VI quy định về xác lập QSHCN đối với sáng chế, kiểu
dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhón hiệu, chỉ dẫn địa lý; Chương VIII quy định về xác
lập quyền đối với giống cây trồng. Ngoài ra, Điều 211 của Luật SHTT quy định hành vi
xâm phạm QSHTT bị xử phạt hành chính và giao cho Chính phủ quy định cụ thể về hành
vi xâm phạm QSHTT bị xử phạt hành chính, hỡnh thức, mức phạt và thủ tục xử phạt cỏc
hành vi đó.
Khi thực hiện cỏc nội dung quản lý nhà nước trên đây, nếu có QĐHC, HVHC mà
chủ thể QSHTT cho rằng đó xõm phạm QSHTT của mỡnh, thỡ họ có quyền khởi kiện vụ
án hành chính để yêu cầu Tũa án giải quyết nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mỡnh về QSHTT.
2.1.2. Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính về quyền sở hữu trí tuệ
Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính về QSHTT cũng phải tuân thủ thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính nói chung được quy định trong Pháp lệnh năm 2006. Tuy
nhiên, nó có những đặc thù riêng được quy định trong Luật SHTT.
* Khởi kiện, thụ lý vụ án
Khi nhận thấy có QĐHC, HVHC trong quản lý nhà nước về SHTT xâm phạm
quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu Toà án bảo
vệ thì phải làm đơn khởi kiện trong thời hạn do pháp luật quy định. Do Luật SHTT không
quy định cụ thể thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính, cho nên thời hiệu khởi kiện vụ án
hành chính về SHTT được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 30 Pháp lệnh năm
2006; cụ thể như sau:
Thứ nhất, thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính về SHTT là ba mươi ngày, kể từ
ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu mà khiếu nại không được giải quyết hoặc
kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng không đồng ý với
quyết định giải quyết đó trong các trường hợp:
- Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu trong lĩnh
vực quản lý nhà nước về SHTT, nhưng hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp
luật về khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết và không tiếp tục khiếu nại
đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai trong lĩnh vực quản lý nhà nước về
SHTT;
- Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu trong lĩnh
vực quản lý nhà nước về SHTT theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo, nhưng
không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu và không tiếp tục khiếu nại đến
người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai trong lĩnh vực quản lý nhà nước về
SHTT.
Thứ hai, thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính về SHTT là ba mươi ngày, kể từ ngày
hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai mà khiếu nại không được giải quyết hoặc kể từ
ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần hai, nhưng không đồng ý với quyết
định giải quyết đó trong trường hợp đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại lần hai trong lĩnh vực quản lý nhà nước về SHTT.
Đơn khởi kiện là cơ sở pháp lý đầu tiên làm phát sinh việc bảo vệ QSHTT tại
TAND bằng việc giải quyết vụ án hành chính. Đơn khởi kiện phải có các nội dung chính
quy định tại khoản 5 Điều 30 của Pháp lệnh năm 2006, trong đó bắt buộc phải có nội
dung QĐHC hay tóm tắt diễn biến của HVHC; nội dung quyết định giải quyết khiếu nại
(nếu có); các yêu cầu Toà án giải quyết. Kèm theo đơn khởi kiện phải có các tài liệu,
chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của người khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp. Theo
quy định tại khoản 2 Điều 203 của Luật SHTT thì nguyên đơn chứng minh mình là chủ
thể QSHTT bằng một trong các chứng cứ: bản sao Giấy chứng nhận đăng ký QTG, Giấy
chứng nhận đăng ký quyền liên quan, văn bằng bảo hộ; bản trích lục Sổ đăng kưý quốc
gia về QTG, quyền liờn quan, Sổ đăng ký quốc gia về SHCN, Sổ đăng kưý quốc gia về
giống cây trồng được bảo hộ; chứng cứ cần thiết để chứng minh căn cứ phát sinh QTG,
quyền liên quan trong trường hợp không có Giấy chứng nhận đăng ký QTG, Giấy chứng
nhận đăng ký quyền liên quan; chứng cứ cần thiết để chứng minh quyền đối với bí mật
kinh doanh, tên thương mại, nhón hiệu nổi tiếng; bản sao hợp đồng sử dụng đối tượng
SHTT trong trường hợp quyền sử dụng được chuyển giao theo hợp đồng.
Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP ngày 04-8-2006 của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh năm 1998 như sau: Sau khi
nhận được đơn khởi kiện vụ án hành chính và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, Chánh án
hoặc Phó Chánh án được Chánh án ủy nhiệm, Chánh toà hoặc Phó Chánh tòa được
Chánh án ủy quyền phân công một Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện. Trong thời hạn
năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Thẩm phán phải xem xét đối
chiếu với điều kiện khởi kiện vụ án hành chính để tiến hành thụ lý vụ án theo thủ tục chung,
nếu đủ điều kiện khởi kiện vụ án hành chính hoặc trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện
và nêu rõ lý do trả lại đơn khởi kiện, nếu không đủ điều kiện khởi kiện vụ án hành chính.
Toà án thụ lý vụ án vào ngày người khởi kiện xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí.
Trong trường hợp người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, thì Toà án thụ lý vụ
án vào ngày nhận được đơn khởi kiện.
* áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Theo quy định tại Điều 206 của Luật SHTT thì khi khởi kiện hoặc sau khi khởi
kiện, chủ thể QSHTT có quyền yêu cầu Toà án áp dụng BPKCTT trong các trường hợp:
đang có nguy cơ xảy ra thiệt hại không thể khắc phục được cho chủ thể QSHTT; hàng
hoá bị nghi ngờ xâm phạm QSHTT hoặc chứng cứ liên quan đến hành vi xâm phạm
QSHTT có nguy cơ bị tẩu tán hoặc bị tiêu huỷ nếu không được bảo vệ kịp thời.
Yêu cầu áp dụng BPKCTT sau khi Toà án đã thụ lý vụ án phải được Toà án xem
xét trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; nếu có đủ căn cứ pháp luật và
xét thấy cần thiết chấp nhận yêu cầu thì Toà án ra ngay quyết định áp dụng BPKCTT.
Yêu cầu áp dụng BPKCTT cùng với việc nộp đơn khởi kiện sẽ được Chánh án
Toà án chỉ định ngay một Thẩm phán thụ lý giải quyết đơn yêu cầu. Nếu nhận được đơn
ngoài giờ làm việc (kể cả trong ngày nghỉ), thì người tiếp nhận đơn phải báo cáo ngay với
Chánh án Toà án. Chánh án Toà án chỉ định ngay một Thẩm phán thụ lý giải quyết đơn.
Trong thời hạn 48 giờ, kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT, Thẩm
phán phải xem xét đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo để xác định đơn khởi kiện có
thuộc thẩm quyền thụ lý giải quyết của Toà án mà họ yêu cầu áp dụng BPKCTT hay
không. Nếu không thuộc thẩm quyền thì trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu áp dụng
BPKCTT và các chứng cứ kèm theo cho họ. Nếu thuộc thẩm quyền thì tiếp tục xem xét
giải quyết đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT theo thủ tục chung.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 206 của Luật SHTT thì Toà án quyết định áp
dụng BPKCTT theo yêu cầu của chủ thể QSHTT trước khi nghe ý kiến của bên bị áp
dụng biện pháp đó. Đây là quy định rất đặc thù mà thẩm phán phải tuyệt đối tuân thủ; nếu
để bên bị áp dụng BPKCTT biết trước có yêu cầu áp dụng BPKCTT của chủ thể QSHTT
thì họ có thể tẩu tán, huỷ bỏ hoặc xoá các dấu vết vi phạm.
Các BPKCTT được áp dụng trong việc giải quyết vụ án hành chính về QSHTT
bao gồm: tạm đình chỉ việc thi hành quyết định hành chính bị khiếu kiện; cấm hoặc buộc
đương sự, tổ chức, cá nhân khác thực hiện những hành vi nhất định nếu xét thấy cần thiết
cho việc giải quyết vụ án hành chính hoặc để bảo đảm cho việc thi hành án.
Quyết định áp dụng BPKCTT được thi hành ngay mặc dù có khiếu nại hoặc kiến
nghị. Các đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát (VKS) có quyền kiến nghị với
Chánh án Toà án đang giải quyết vụ án hành chính về quyết định áp dụng BPKCTT. Nếu
có khiếu nại hoặc kiến nghị, thì trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại,
kiến nghị, Chánh án Toà án đang giải quyết vụ án phải xem xét và trả lời.
* Chuẩn bị xét xử vụ án
Việc chuẩn bị xét xử vụ án hành chính về QSHTT cũng phải tuân thủ các quy
định về chuẩn bị xét xử các vụ án hành chính nói chung quy định tại Chương VII của
Pháp lệnh năm 2006. Theo quy định tại khoản 1 Điều 37 của Pháp lệnh năm 2006 thì
trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Toà án phải thông báo bằng
văn bản cho người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ
án và VKS cùng cấp về việc Toà án đã thụ lý vụ án. Văn bản thông báo phải có những
nội dung chính quy định tại khoản 2 Điều 37 của Pháp lệnh năm 2006, đặc biệt phải nêu
những vấn đề cụ thể người khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết; hậu quả pháp lý của việc
người được thông báo không nộp cho Toà án văn bản ý kiến của mình đối với yêu cầu
của người khởi kiện. Trong thời hạn hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán được
phân công làm chủ toạ phiên toà phải ra một trong các quyết định: đưa vụ án ra xét xử;
tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án; đình chỉ việc giải quyết vụ án. Đối với các vụ án phức
tạp hoặc do trở ngại khách quan thì thời hạn nói trên không quá ba tháng. Trong thời hạn
hai mươi ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà;
trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn đó cũng không được quá ba mươi ngày.
* Xét xử sơ thẩm vụ án
Theo quy định tại Điều 43 của Pháp lệnh năm 2006 thì kiểm sát viên VKS cùng cấp
phải tham gia phiên toà sơ thẩm. Người khởi kiện; người bị kiện; người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan; người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự; người làm chứng; người
giám định; người phiên dịch phải tham gia hoặc phải có mặt tại phiên toà sơ thẩm theo giấy
triệu tập của Toà án. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử (HĐXX) xác định đầy đủ các
tình tiết của vụ án bằng cách nghe ý kiến của người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, đối chiếu các ý kiến này với các tài
liệu, chứng cứ đã thu thập được. Ngay sau khi phiên toà kết thúc, các đương sự được Toà án
cấp trích lục bản án hoặc quyết định về vụ án. Chậm nhất là bảy ngày, kể từ ngày ra bản án,
quyết định, Toà án phải cấp cho đương sự bản sao bản án hoặc quyết định theo yêu cầu của
họ, đồng thời gửi cho VKS cùng cấp.
* Xét xử phúc thẩm vụ án
Theo quy định tại Điều 11 của Luật tổ chức TAND thì Toà án thực hiện chế độ
hai cấp xét xử. Bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án có thể bị kháng cáo, kháng nghị
theo quy định của pháp luật tố tụng. Theo quy định tại Điều 55 của Pháp lệnh năm 2006
thì đương sự hoặc người đại diện của đương sự có quyền kháng cáo, VKS cùng cấp hoặc
trên một cấp có quyền kháng nghị bản án, quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải
quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu Toà án trên một cấp xét xử phúc thẩm.
Người kháng cáo phải làm đơn kháng cáo; VKS kháng nghị bằng văn bản. Trong đơn
kháng cáo, bản kháng nghị phải nêu rõ: nội dung phần quyết định của bản án, quyết định
của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị; lý do kháng cáo, kháng nghị; yêu cầu
của người kháng cáo, kháng nghị.
Kháng cáo, kháng nghị được gửi đến Toà án cấp sơ thẩm đã giải quyết vụ án. Trong
thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được kháng cáo, kháng nghị hoặc kể từ ngày người
kháng cáo xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm (nếu người đó phải nộp
khoản tiền đó), Toà án cấp sơ thẩm phải gửi kháng cáo, kháng nghị kèm theo toàn bộ hồ sơ
vụ án cho Toà án cấp phúc thẩm. Khi gửi kháng cáo, kháng nghị kèm theo toàn bộ hồ sơ vụ
án cho Toà án cấp phúc thẩm, Toà án cấp sơ thẩm phải thông báo việc kháng cáo cho Viện
kiểm sát cùng cấp, đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, VKS
phải gửi bản sao bản kháng nghị cho đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
kháng nghị. Đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị
phải gửi cho Toà án cấp phúc thẩm ý kiến của mình về kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn
bảy ngày, kể từ ngày nhận được thông báo.
Toà án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị và phần bản án,
quyết định có liên quan đến nội dung kháng cáo, kháng nghị. Trong thời hạn sáu mươi ngày,
kể từ ngày nhận đủ hồ sơ do Toà án cấp sơ thẩm gửi đến, Toà án cấp phúc thẩm phải mở
phiên toà phúc thẩm; trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, thì thời hạn đó
không được quá chín mươi ngày. Trước khi xét xử phúc thẩm, Toà án có quyền áp dụng
BPKCTT, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án theo các quy định của Pháp lệnh
năm 2006.
Kiểm sát viên VKS cùng cấp phải tham gia phiên toà phúc thẩm; nếu vắng mặt thì
phải hoãn phiên toà. Toà án phải gửi hồ sơ vụ án cho VKS nghiên cứu. Trong thời hạn mười
ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, VKS phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ vụ án cho Toà
án. Đương sự kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị
được triệu tập tham gia phiên toà; nếu có người vắng mặt thì Toà án vẫn có thể tiến hành xét
xử. Toà án chỉ triệu tập người giám định, người phiên dịch, người làm chứng khi có yêu cầu
của đương sự và khi xét thấy cần thiết cho việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị; nếu có người
vắng mặt thì tuỳ từng trường hợp mà Toà án quyết định tiến hành xét xử hoặc hoãn phiên
toà. Đối với các vụ án khi xét xử sơ thẩm không cần sự có mặt của người tham gia tố tụng
hoặc người tham gia tố tụng không có yêu cầu tham gia phiên toà phúc thẩm thì Toà án tiến
hành phiên toà phúc thẩm không cần sự có mặt của họ.
Phiên toà phúc thẩm được tiến hành theo các thủ tục như phiên toà sơ thẩm.
Trước khi xem xét kháng cáo, kháng nghị, một thành viên HĐXX trình bày nội dung vụ
án, quyết định của bản án sơ thẩm và nội dung kháng cáo, kháng nghị. Toà án cấp phúc
thẩm có quyền: bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên các quyết định của bản án,
quyết định sơ thẩm; sửa một phần hoặc toàn bộ phần quyết định của bản án, quyết định
sơ thẩm; huỷ bản án, quyết định sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm
xét xử lại trong trường hợp có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hoặc việc xác
minh, thu thập chứng cứ không đầy đủ mà Toà án cấp phúc thẩm không thể bổ sung
được; tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có một trong các trường hợp quy định tại
Điều 40 của Pháp lệnh năm 2006; huỷ bản án, quyết định sơ thẩm và đình chỉ việc giải
quyết vụ án khi có một trong các trường hợp quy định tại Điều 41 của Pháp lệnh năm
2006; đình chỉ việc giải quyết vụ án theo trình tự phúc thẩm, nếu việc xét xử phúc thẩm
vụ án cần phải có mặt người kháng cáo và họ đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà
vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Trong trường hợp này bản án sơ thẩm có hiệu
lực pháp luật.
* Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm khi thuộc một trong các trường hợp: có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng; phần quyết định trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách
quan của vụ án; có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.
Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ
tục tái thẩm khi thuộc một trong các trường hợp: mới phát hiện được tình tiết quan trọng
của vụ án mà đương sự đã không thể biết được khi giải quyết vụ án; đã xác định được lời
khai của người làm chứng, kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch rõ
ràng không đúng sự thật hoặc có giả mạo bằng chứng; thẩm phán, hội thẩm, kiểm sát viên,
thư ký Toà án cố tình làm sai lệch hồ sơ vụ án; bản án, quyết định của Toà án hoặc quyết
định của cơ quan nhà nước mà Toà án dựa vào đó để giải quyết vụ án đã bị huỷ bỏ.
Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC có quyền kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà
án các cấp, trừ quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC. Chánh án Toà án cấp tỉnh, Viện trưởng VKS cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
Toà án cấp huyện.
Hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái thẩm chỉ có quyền xem xét phần nội dung của vụ
án liên quan đến quyết định bị kháng nghị. ủy ban Thẩm phán Toà án cấp tỉnh giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp huyện
bị kháng nghị. Toà hành chính TANDTC giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp tỉnh bị kháng nghị. Hội đồng Thẩm phán
TANDTC giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của các Toà phúc thẩm, Toà hành chính TANDTC bị kháng nghị. Đối với những bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật về cùng một vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của các
cấp Toà án khác nhau thì Toà án có thẩm quyền cấp trên giám đốc thẩm hoặc tái thẩm toàn
bộ vụ án. Trong thời hạn một tháng, kể từ ngày nhận được kháng nghị kèm theo hồ sơ vụ án,
Toà án phải mở phiên toà giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm có quyền: không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật; giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Toà án cấp dưới đã bị huỷ hoặc
bị sửa; huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm lại;
huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có một
trong các trường hợp quy định tại Điều 41 của Pháp lệnh năm 2006.
Sơ đồ 2.1: Bảo vệ QSHTT tại TAND bằng thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
Đơn khởi kiện đối với
QĐHC, HVHC
Toà án nhận đơn
Trả lại đơn (nếu không đủ điều kiện khởi kiện)
Thụ lý vụ án (nếu đủ điều kiện khởi
kiện)
Chuẩn bị xét xử vụ án
Tạm đình chỉ
đình chỉ
Đưa vụ án ra xét xử
xét xử sơ thẩm
Bản án sơ thẩm có hiệu lực
(Không có k/C, k/N)
Bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực (Có K/C hoặc K/N)
xét xử phúc thẩm
Giữ nguyên B/án-QĐ sơ thẩm
Sửa B/án-QĐ sơ thẩm
hủy b/án-QĐ Sơ thẩm
Tạm đình chỉ
Đình chỉ Huỷ b/án-QĐ và đình chỉ
2.2. Pháp luật thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ
2.2.1. Các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
Theo quy định tại Điều 212 của Luật SHTT về hành vi xõm phạm QSHTT bị xử
lý hỡnh sự, thỡ "cỏ nhõn thực hiện hành vi xõm phạm QSHTT cú yếu tố cấu thành tội
phạm thỡ bị truy cứu trỏch nhiệm hỡnh sự theo quy định của pháp luật hỡnh sự". Nghiên
cứu BLHS năm 1999 cho thấy các tội phạm xâm phạm QSHTT bao gồm:
Một là, tội xâm phạm QTG (Điều 131 của BLHS năm 1999).
Theo quy định tại khoản 1 Điều 131 của BLHS năm 1999 thì người nào thực hiện
một trong các hành vi sau đây gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về
một trong các hành vi quy định tại điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án
tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ hai mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng hoặc cải
tạo không giam giữ đến hai năm:
- Chiếm đoạt QTG đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, báo chí, chương
trình băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình;
- Mạo danh tác giả trên tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, báo chí, chương
trình băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình;
- Sửa đổi bất hợp pháp nội dung của tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, báo
chí, chương trình băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình;
Có khiếu nại
Không chấp nhận
Kháng nghị giám đốc thẩm (nếu chấp nhận)
- Công bố, phổ biến bất hợp pháp tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, báo chí,
chương trình băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình.
Khoản 2 của điều luật này quy định các tình tiết định khung tăng nặng và khoản 3 của
điều luật này quy định về hình phạt bổ sung.
Hai là, tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156 của BLHS năm 1999)
Theo quy định tại khoản 1 Điều 156 của BLHS năm 1999 thì người nào sản xuất,
buôn bán hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị từ ba mươi triệu đồng
đến dưới một trăm năm mươi triệu đồng hoặc dưới ba mươi triệu đồng nhưng gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại điều này hoặc tại một
trong các điều 153, 154, 155, 157, 158, 159 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một
trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm
năm.
Khoản 2 và 3 của điều luật này quy định các tình tiết định khung tăng nặng và khoản
4 của điều luật này quy định về hình phạt bổ sung.
Theo hướng dẫn tại điểm 1 mục III của Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT-BTM-
BTC-BCA-BKHCNMT ngày 27-4-2000 của Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Bộ Công an, Bộ
Khoa học công nghệ và Môi trường "hướng dẫn thực hiện Chỉ thị số 31/1999/CT-TTg ngày
27-10-1999 của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả" thì
hàng giả được hiểu như sau:
- Hàng giả chất lượng hoặc công dụng là: hàng giả không có giá trị sử dụng hoặc
giá trị sử dụng không đúng như bản chất tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó; hàng hoá
đưa thêm tạp chất, chất phụ gia không được phép sử dụng làm thay đổi chất lượng; không
có hoặc ít dược chất, có chứa dược chất khác với tên dược chất được ghi trên nhãn hoặc
bao bì; không có hoặc không đủ hoạt chất, chất hữu hiệu không đủ gây nên công dụng; có
hoạt chất, chất hữu hiệu khác với tên hoạt chất, chất hữu hiệu ghi trên bao bì; hàng hoá
không đủ thành phần nguyên liệu hoặc bị thay thế bằng những nguyên liệu, phụ tùng
khác không đảm bảo chất lượng so với tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá đã công bố, gây
hậu quả xấu đối với sản xuất, sức khoẻ người, động vật, thực vật hoặc môi sinh, môi
trường; hàng hoá thuộc danh mục tiêu chuẩn bắt buộc áp dụng mà không thực hiện gây
hậu quả xấu đối với sản xuất, sức khoẻ người, động vật, thực vật hoặc môi sinh, môi
trường; hàng hoá chưa được chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn mà sử dụng giấy chứng nhận
hoặc dấu phù hợp tiêu chuẩn (đối với danh mục hàng hoá bắt buộc).
- Giả về nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gốc, xuất xứ hàng
hoá là: hàng hoá có nhãn hiệu hàng hoá trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu
hàng hoá của người khác đang được bảo hộ cho cùng loại hàng hoá kể cả nhãn hiệu hàng
hoá đang được bảo hộ theo các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, mà không được
phép của chủ nhãn hiệu; hàng hoá có dấu hiệu hoặc có bao bì mang dấu hiệu trùng hoặc
tương tự gây nhầm lẫn với tên thương mại được bảo hộ hoặc với tên gọi xuất xứ hàng
hoá được bảo hộ; hàng hoá, bộ phận của hàng hoá có hình dáng bên ngoài trùng với kiểu
dáng công nghiệp đang được bảo hộ mà không được phép của chủ kiểu dáng công
nghiệp; hàng hoá có dấu hiệu giả mạo về chỉ dẫn nguồn gốc, xuất xứ hàng hoá gây hiểu
sai lệch về nguồn gốc, nơi sản xuất, nơi đóng gói, lắp ráp hàng hoá.
- Giả về nhãn hàng hoá là: hàng hoá có nhãn hàng hoá giống hệt hoặc tương tự
với nhãn hàng hoá của cơ sở khác đã công bố; những chỉ tiêu ghi trên nhãn hàng hoá
không phù hợp với chất lượng hàng hoá nhằm lừa dối người tiêu dùng; nội dung ghi trên
nhãn bị cạo, tẩy xoá, sửa đổi, ghi không đúng thời hạn sử dụng để lừa dối khách hàng.
Ba là, tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh,
thuốc phòng bệnh (Điều 157 của BLHS năm 1999).
Theo quy định tại khoản 1 Điều 157 của BLHS năm 1999 thì người nào sản xuất,
buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh, thì bị phạt
tù từ hai năm đến bảy năm. Các khoản 2, 3 và 4 của điều luật này quy định các tình tiết định
khung tăng nặng và khoản 5 của Điều luật này quy định về hình phạt bổ sung.
Bốn là, tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón,
thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (Điều 158 của BLHS năm
1999).
Theo quy định tại khoản 1 Điều 158 của BLHS năm 1999 thì người nào sản xuất,
buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực
vật, giống cây trồng, vật nuôi với số lượng lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị
xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 153, 154,
155, 156, 157, 159 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa
được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu
đồng hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm. Các khoản 2 và 3 của điều luật này quy định
các tình tiết định khung tăng nặng và khoản 4 của điều luật này quy định về hình phạt bổ
sung.
Năm là, tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ QSHCN (Điều 170 của BLHS
năm 1999).
Theo quy định tại khoản 1 Điều 170 của BLHS năm 1999 thì người nào có thẩm
quyền trong việc cấp văn bằng bảo hộ mà vi phạm quy định của pháp luật về cấp văn bằng
bảo hộ QSHCN, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm
gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu
tháng đến ba năm. Khoản 2 của điều luật này quy định các tình tiết định khung tăng nặng và
khoản 3 của Điều luật này quy định về hình phạt bổ sung.
Sáu là, tội xâm phạm QSHCN (Điều 171 của BLHS năm 1999).
Theo quy định tại khoản 1 Điều 171 của BLHS năm 1999 thì người nào vì mục đích
kinh doanh mà chiếm đoạt, sử dụng bất hợp pháp sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng
công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi, xuất xứ hàng hoá hoặc các đối tượng SHCN khác
đang được bảo hộ tại Việt Nam gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về
hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt
tiền từ hai mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến hai năm.
Khoản 2 của điều luật này quy định các tình tiết định khung tăng nặng và khoản 3 của điều
luật này quy định về hình phạt bổ sung.
Bảy là, tội vi phạm các quy định về xuất bản, phát hành sách, báo, đĩa âm thanh,
băng âm thanh, đĩa hĩnh, băng hình hoặc các ấn phẩm khác (Điều 271 của BLHS năm 1999).
Theo quy định tại khoản 1 Điều 271 của BLHS năm 1999 thì người nào vi phạm các
quy định về xuất bản và phát hành sách, báo, đĩa âm thanh, băng âm thanh, đĩa hình, băng
hình hoặc các ấn phẩm khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm
triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.
Khoản 2 của điều luật này quy định về hình phạt bổ sung.
2.2.2. Thủ tục xét xử các vụ án hình sự về các tội xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ
Theo quy định tại Điều 105 của BLTTHS thì đối với tội xâm phạm QTG và tội
xâm phạm QSHCN chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại. Để Tòa án xét xử
một vụ án hình sự nói chung cũng như xét xử một vụ án hình sự về tội xâm phạm SHTT
nói riêng thì phải có quyết định truy tố bằng bản cáo trạng của Viện kiểm sát. Hồ sơ vụ
án và bản cáo trạng phải được gửi đến Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án đó.
* Chuẩn bị xét xử:
Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có
nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ; giải quyết các khiếu nại và yêu cầu của những người tham
gia tố tụng và tiến hành những việc khác cần thiết cho việc mở phiên tòa. Thời hạn chuẩn
bị xét xử là ba mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày đối với
tội phạm nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, ba tháng đối với tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng. Kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công
chủ tọa phiên tòa phải ra một trong những quyết định: đưa vụ án ra xét xử (nội dung của
quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại Điều 178 của BLTTHS); trả hồ sơ để
điều tra bổ sung; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Thẩm phán được phân công chủ toạ
phiên toà có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn.
Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được giao cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của
họ và người bào chữa, chậm nhất là mười ngày trước khi mở phiên tòa. Trong trường hợp
xét xử vắng mặt bị cáo thì quyết định đưa vụ án ra xét xử và bản cáo trạng được giao cho
người bào chữa hoặc người đại diện hợp pháp của bị cáo; quyết định đưa vụ án ra xét xử
còn phải được niêm yết tại trụ sở chính quyền xã, phường, thị trấn nơi cư trú hoặc nơi
làm việc cuối cùng của bị cáo.
* Xét xử sơ thẩm vụ án:
Đối với thủ tục tố tụng tại phiên tòa về xét xử các tội xâm phạm QSHTT được
thực hiện theo quy định chung về thủ tục tố tụng tại phiên tòa, tức là xét xử trực tiếp,
bằng lời nói và liên tục. Thành phần HĐXX sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội
thẩm. Trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp, thì HĐXX có thể gồm
hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. Thông thường, để xét xử các tội xâm phạm QSHTT thì
cần có ít nhất là một Hội thẩm có kiến thức chuyên môn về SHTT. Đối với vụ án mà bị
cáo bị đưa ra xét xử về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì HĐXX
gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. Các thành viên của HĐXX phải xét xử vụ án từ khi
bắt đầu cho đến khi kết thúc và chỉ thay thế thành viên của HĐXX trong trường hợp đặc
biệt theo quy định tại Điều 186 của BLTTHS.
Bị cáo phải có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án; nếu vắng mặt
không có lý do chính đáng thì bị áp giải theo thủ tục quy định tại Điều 130 của BLTTHS;
nếu bị cáo vắng mặt có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên tòa. Ngoài ra, phải có mặt
của kiểm sát viên; của người bị hại; nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ; người bào chữa;
người làm chứng; người giám định (theo quy định tại các điều 189, 190, 191, 192 và 193
của BLTTHS). Thủ tục bắt đầu phiên tòa được thực hiện theo quy định tại Chương XIX;
thủ tục xét hỏi tại phiên tòa được thực hiện theo quy định tại Chương XX; tranh luận tại
phiên tòa được thực hiện theo quy định tại Chương XXI; việc nghị án và tuyên án được
thực hiện theo quy định tại Chương XXII của BLTTHS.
* Xét xử phúc thẩm vụ án:
Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại
quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực
pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
Thời hạn kháng cáo là mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án, đối với bị cáo, đương
sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ
hoặc được niêm yết. Thời hạn kháng nghị của VKS cùng cấp là mười lăm ngày, của VKS
cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày, kể từ ngày tuyên án. Nếu đơn kháng cáo gửi qua bưu
điện thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong
bì. Trong trường hợp đơn kháng cáo gửi qua Ban giám thị trại tạm giam, thì ngày kháng
cáo được tính căn cứ vào ngày Ban giám thị trại tạm giam nhận được đơn. Việc kháng
cáo quá hạn có thể được chấp nhận, nếu có lý do chính đáng.
Tòa án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần
thiết thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng
nghị của bản án.
HĐXX phúc thẩm gồm ba Thẩm phán và trong trường hợp cần thiết có thể có
thêm hai Hội thẩm. Trước khi xét xử hoặc trong khi xét hỏi tại phiên tòa, VKS có thể tự
mình hoặc theo yêu cầu của Tòa án bổ sung chứng cứ mới; người đã kháng cáo và người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị, người bào chữa, người
bảo vệ quyền lợi của đương sự cũng có quyền bổ sung tài liệu, đồ vật. Chứng cứ cũ,
chứng cứ mới, tài liệu, đồ vật mới bổ sung đều phải được xem xét tại phiên tòa. Bản án
của Tòa án cấp phúc thẩm phải căn cứ vào cả chứng cứ cũ và mới. Phiên tòa phúc thẩm
cũng tiến hành như phiên tòa sơ thẩm.
Toà án cấp phúc thẩm có quyền quyết định: không chấp nhận kháng cáo, kháng
nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm; sửa bản án sơ thẩm; hủy bản án sơ thẩm và chuyển
hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại; hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. bản án
phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
* Xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật:
Giám đốc thẩm là xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng
bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án. Bản
án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm, khi có một trong những căn cứ: việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện
hoặc không đầy đủ; kết luận trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với những tình
tiết khách quan của vụ án; có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong khi điều tra,
truy tố hoặc xét xử; có những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng BLHS.
Bản kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm phải nêu rõ lý do và được gửi cho:
Tòa án đã ra bản án hoặc quyết định bị kháng nghị; Tòa án sẽ xét xử giám đốc thẩm;
người bị kết án và những người có quyền và lợi ích liên quan đến việc kháng nghị. Nếu
không có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, thì trước khi hết thời hạn
kháng nghị quy định tại Điều 278 của BLTTHS, người có quyền kháng nghị phải trả lời
cho người hoặc cơ quan, tổ chức đã phát hiện biết rõ lý do của việc không kháng nghị.
Trước khi bắt đầu phiên tòa giám đốc thẩm, người đã kháng nghị có quyền bổ sung
kháng nghị nếu chưa hết thời hạn kháng nghị quy định tại Điều 278 của BLTTHS hoặc
rút kháng nghị.
ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện. ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự
cấp quân khu giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
Tòa án quân sự khu vực. Tòa hình sự TANDTC giám đốc thẩm những bản án hoặc
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh. Tòa án quân sự trung ương
giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân
sự cấp quân khu. Hội đồng Thẩm phán TANDTC giám đốc thẩm những bản án hoặc
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án quân sự trung ương, của Toà hình sự,
các Toà phúc thẩm TANDTC bị kháng nghị. Những bản án hoặc quyết định đã có hiệu
lực pháp luật về cùng một vụ án hình sự thuộc thẩm quyền giám đốc thẩm của các cấp
khác nhau thì cấp có thẩm quyền cấp trên giám đốc thẩm toàn bộ vụ án.
Phiên tòa giám đốc thẩm phải được tiến hành trong thời hạn bốn tháng, kể từ
ngày nhận được kháng nghị. Hội đồng giám đốc thẩm phải xem xét toàn bộ vụ án mà
không chỉ hạn chế trong nội dung của kháng nghị. Hội đồng giám đốc thẩm có quyền ra
một trong các quyết định: không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết
định đã có hiệu lực pháp luật; hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật và
đình chỉ vụ án; hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc
xét xử lại.
- Thủ tục tái thẩm được áp dụng đối với bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực
pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay
đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án
hoặc quyết định đó.
Những tình tiết được dùng làm căn cứ để kháng nghị tái thẩm là: lời khai của
người làm chứng, kết luận giám định, lời dịch của người phiên dịch có những điểm quan
trọng được phát hiện là không đúng sự thật; Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán,
Hội thẩm đã có kết luận không đúng làm cho vụ án bị xét xử sai; vật chứng, biên bản
điều tra, biên bản các hoạt động tố tụng khác hoặc những tài liệu khác trong vụ án bị giả
mạo hoặc không đúng sự thật; những tình tiết khác làm cho việc giải quyết vụ án không
đúng sự thật.
Viện trưởng VKSNDTC có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với
những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án các cấp, trừ quyết định
của Hội đồng Thẩm phán TANDTC. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương có
quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp dưới. Viện trưởng VKSND cấp tỉnh có quyền
kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của TAND cấp huyện. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có
quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án quân sự khu vực; bản kháng nghị của những người quy định tại
Điều này phải được gửi cho người bị kết án và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến việc kháng nghị.
ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh tái thẩm những bản án hoặc quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện. ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự cấp
quân khu tái thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự
khu vực. Tòa hình sự TANDTC tái thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của TAND cấp tỉnh. Tòa án quân sự trung ương tái thẩm bản án hoặc quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu. Hội đồng Thẩm phán
TANDTC tái thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án quân sự
trung ương, Toà hình sự, các Toà phúc thẩm TANDTC. Hội đồng tái thẩm có quyền ra
quyết định: không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật; hủy bản án hoặc quyết định bị kháng nghị để điều tra lại hoặc xét xử
lại; huỷ bản án hoặc quyết định bị kháng nghị và đình chỉ vụ án.
Sơ đồ 2.2: Bảo vệ QSHTT tại TAND bằng thủ tục xét xử các vụ án hình sự
Phát hiện, tố cáo
Cảnh sát điều tra khởi tố, điều tra
Trả hồ sơ điều tra bổ sung
Viện K.S truy tố
Trả H.S Điều tra bổ sung
- Xử lý hành chính - Xử ký kỷ luật - Không có căn cứ giải quyết
2.3. Pháp luật thủ tục giải quyết các vụ án dân sự về quyền sở hữu trí tuệ
2.3.1. Các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ thuộc thẩm quyền giải quyết của
Toà án nhân dân
Theo quy định tại khoản 4 Điều 25, khoản 2 Điều 29 của BLTTDS và các quy
định của Luật SHTT, thì các tranh chấp về QSHTT thuộc thẩm quyền giải quyết của
TAND bao gồm:
- Các tranh chấp về QTG đối với tác phẩm (quy định tại Điều 19 và Điều 20 của
Luật SHTT) bao gồm: các tranh chấp về quyền nhân thân và quyền tài sản (đối với: tác
phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu; chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu; tác phẩm văn
học, nghệ thuật dân gian; tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học); các tranh chấp về hợp
đồng chuyển nhượng, chuyển quyền sử dụng, hợp đồng dịch vụ; các tranh chấp về thừa
kế, kế thừa QTG.
- Các tranh chấp về quyền liên quan (quy định tại Điều 29 của Luật SHTT) bao
gồm: các tranh chấp về quyền nhân thân và quyền tài sản (đối với: cuộc biểu diễn; bản
ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã
hoá); các tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng, chuyển quyền sử dụng, hợp đồng dịch
vụ; các tranh chấp về thừa kế, kế thừa quyền liên quan…
- Các tranh chấp về QSHCN (quy định tại Điều 122 của Luật SHTT) là các
tranh chấp về quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích
hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh và quyền
chống cạnh tranh không lành mạnh, bao gồm: các tranh chấp về quyền đăng ký, quyền ưu
tiên đối với đơn đăng ký; các tranh chấp về quyền của tác giả; các tranh chấp về quyền
nhân thân và quyền tài sản; các tranh chấp về quyền tạm thời; các tranh chấp về quyền
sử dụng trước; các tranh chấp về khoản tiền đền bù giữa chủ Văn bằng bảo hộ với người
sử dụng trong khoảng thời gian từ ngày công bố đơn yêu cầu cấp Văn bằng bảo hộ trên
Công báo sở hữu công nghiệp đến ngày cấp Văn bằng bảo hộ; các tranh chấp về xâm
phạm quyền của chủ Văn bằng bảo hộ; các tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng,
chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN, hợp đồng dịch vụ đại diện SHCN; các tranh chấp
về thừa kế, kế thừa QSHCN, QTG; các hành vi cạnh tranh không lành mạnh…
- Các tranh chấp về quyền đối với giống cây trồng (quy định tại Điều 164 của
Luật SHTT) bao gồm: các tranh chấp về quyền nộp đơn đăng ký cấp Bằng bảo hộ; quyền
ưu tiên đối với đơn yêu cầu đăng ký cấp Bằng bảo hộ; các tranh chấp về QTG (tranh chấp
ai là người chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển giống cây trồng hoặc vật liệu nhân giống
cây trồng...); các tranh chấp về sử dụng giống cây trồng và vật liệu nhân giống cây trồng
giữa người có quyền sử dụng trước và người được cấp đơn đăng ký bảo hộ các đối tượng
đó; các tranh chấp về khoản tiền đền bù giữa người đăng ký với người sử dụng giống cây
trồng và vật liệu nhân giống cây trồng của người đăng ký trong khoảng thời gian từ ngày
công bố đơn yêu cầu đăng ký cấp Bằng bảo hộ trên Công báo sở hữu công nghiệp đến
ngày cấp Bằng bảo hộ; các tranh chấp về xâm phạm quyền của chủ Bằng bảo hộ; các
tranh chấp về hợp đồng chuyển giao, chuyển nhượng, dịch vụ đại diện quyền; các tranh
chấp về thừa kế, kế thừa quyền; các hành vi cạnh tranh không lành mạnh…
2.3.2. Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự về quyền sở hữu trí tuệ
Theo quy định tại Điều 202 của Luật SHTT, để xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi
xâm phạm QSHTT, Toà án có quyền áp dụng các biện pháp dân sự như: buộc chấm dứt
hành vi xâm phạm; buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự;
buộc bồi thường thiệt hại; buộc tiêu huỷ hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng
không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện
được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm QSHTT với điều kiện
không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể QSHTT.
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về QSHTT của TAND được quy định tại
BLTTDS năm 2004 như sau:
- TAND cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp dân sự về
QSHTT, chuyển giao công nghệ (khoản 4 Điều 25 và Điều 33 của BLTTDS).
- TAND cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về QSHTT,
chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận
(khoản 2 Điều 29 và Điều 33 của BLTTDS).
Theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Hội đồng Thẩm phán TANDTC
đã ban hành các nghị quyết hướng dẫn các quy định của BLTTDS năm 2004. Liên quan
tới thủ tục tố tụng giải quyết các tranh chấp dân sự nói chung và các tranh chấp về
QSHTT nói riêng tại TAND có bốn nghị quyết: Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày
31-3-2005 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất "Những quy định
chung" của BLTTDS năm 2004 (sau đây viết tắt là Nghị quyết số 01/2005); Nghị quyết số
02/2005/NQ-HĐTP ngày 27-4-2005 hướng dẫn thi hành một số quy định tại Chương
VIII "Các biện pháp khẩn cấp tạm thời" của BLTTDS năm 2004 (sau đây viết tắt là Nghị
quyết số 02/2005); Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17-9-2005 hướng dẫn thi hành
một số quy định của BLTTDS năm 2004 về "Chứng minh và chứng cứ" (sau đây viết tắt là
Nghị quyết số 04/2005); Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP ngày 04-8-2006 hướng dẫn thi
hành một số quy định trong Phần thứ ba "Thủ tục giải quyết các vụ án tại Tòa án cấp
phúc thẩm" của BLTTDS (sau đây viết tắt là Nghị quyết số 05/2005).
Theo quy định của BLTTDS, Luật SHTT thì thủ tục bảo vệ QSHTT theo tố tụng
dân sự như sau:
* Khởi kiện, thụ lý vụ án:
Khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, thì cá nhân, cơ
quan, tổ chức (chủ sở hữu QSHTT) có quyền làm đơn khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu
Toà án bảo vệ. Theo tinh thần quy định tại khoản 3 Điều 162 của BLTTDS thì Cục SHTT
(Bộ Khoa học và Công nghệ), Cục bản quyền tác giả (Bộ Văn hóa - Thông tin), Vụ khoa
học, công nghệ và chất lượng sản phẩm (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà
án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách liên
quan đến SHTT. Đơn khởi kiện phải có nội dung quy định tại Điều 164 của BLTTDS.
Người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho
những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Toà án nhận đơn khởi kiện do đương sự nộp trực tiếp tại Toà án hoặc gửi qua
bưu điện và phải ghi vào Sổ nhận đơn. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được đơn khởi kiện, Toà án phải xem xét và có một trong các quyết định sau đây: tiến
hành thủ tục thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của mình; chuyển đơn
khởi kiện cho Toà án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện, nếu vụ án thuộc thẩm
quyền giải quyết của Toà án khác; trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, nếu việc đó
không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. Trong trường hợp xét thấy vụ án thuộc
thẩm quyền giải quyết của Toà án thì Toà án phải thông báo ngay cho người khởi kiện
biết để họ đến Toà án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí trong trường hợp họ phải nộp
tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án
Toà án phân công một Thẩm phán giải quyết vụ án. Trong thời hạn ba ngày làm việc kể
từ ngày thụ lý vụ án, Toà án phải thông báo bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, cơ quan,
tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án, cho VKS cùng cấp về
việc Toà án đã thụ lý vụ án.
Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được thông báo, người được
thông báo phải nộp cho Toà án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi
kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu có. Trong trường hợp cần gia hạn thì người được
thông báo phải có đơn xin gia hạn gửi cho Toà án nêu rõ lý do; nếu việc xin gia hạn là có căn
cứ thì Toà án phải gia hạn, nhưng không quá mười lăm ngày; người được thông báo có
quyền yêu cầu Toà án cho xem, ghi chép, sao chụp đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm
theo đơn khởi kiện. Đối với việc nộp tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện, Tòa án cần
lưu ý: một trong những quyền và nghĩa vụ đầu tiên của chủ sở hữu quyền và của người vi
phạm quyền là quyền và nghĩa vụ chứng minh được quy định tại Điều 203 (khoản 1) của
Luật SHTT: "Nguyên đơn và bị đơn trong vụ kiện xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có quyền
và nghĩa vụ chứng minh theo quy định tại Điều 79 của BLTTDS và theo quy định tại điều
này" [64]. Quy định này là cụ thể hóa quy định chung về nghĩa vụ chứng minh tại khoản 1
Điều 79 của BLTTDS, theo đó, "đương sự có yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ớch hợp
phỏp của mỡnh phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp
pháp" [61].
- Đối với nguyên đơn: theo quy định tại khoản 2 Điều 203 của Luật SHTT, để
chứng minh mỡnh là chủ thể QSHTT, nguyờn đơn phải đưa ra một trong các chứng cứ
sau đây: Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký QTG, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên
quan, Văn bằng bảo hộ; bản trích lục Sổ đăng kưý quốc gia về QTG, quyền liờn quan, Sổ
đăng ký quốc gia về SHCN, Sổ đăng kưý quốc gia về giống cây trồng được bảo hộ;
chứng cứ cần thiết để chứng minh căn cứ phát sinh QTG, quyền liên quan trong trường
hợp không có Giấy chứng nhận đăng ký QTG, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên
quan; chứng cứ cần thiết để chứng minh quyền đối với bí mật kinh doanh, tên thương
mại, nhón hiệu nổi tiếng; bản sao hợp đồng sử dụng đối tượng SHTT trong trường hợp
quyền sử dụng được chuyển giao theo hợp đồng. Ngoài ra, nguyên đơn phải cung cấp các
chứng cứ về hành vi xâm phạm QSHTT hoặc hành vi cạnh tranh không lành mạnh
(khoản 3 Điều 203 của Luật SHTT).
- Đối với bị đơn: Khoản 2 Điều 79 của BLTTDS quy định: "Đương sự phản đối
yêu cầu của người khác đối với mỡnh phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và
phải đưa ra chứng cứ để chứng minh" [53]. Phù hợp với yêu cầu này, khoản 4 Điều 203
của Luật SHTT quy định: Trong vụ kiện về xâm phạm quyền đối với sáng chế là một quy
trỡnh sản xuất sản phẩm, bị đơn phải chứng minh sản phẩm của mỡnh được sản xuất theo
một quy trỡnh khỏc với quy trỡnh được bảo hộ trong các trường hợp sau đây: sản phẩm
được sản xuất theo quy trỡnh được bảo hộ là sản phẩm mới; sản phẩm được sản xuất theo
quy trỡnh được bảo hộ không phải là sản phẩm mới nhưng chủ sở hữu sáng chế cho rằng
sản phẩm do bị đơn sản xuất là theo quy trỡnh được bảo hộ và mặc dù đó sử dụng cỏc
biện phỏp thớch hợp nhưng vẫn không thể xác định được quy trỡnh do bị đơn sử dụng.
Tại khoản 5 Điều 203 của Luật SHTT quy định: "Trong trường hợp một bên
trong vụ kiện xâm phạm QSHTT chứng minh được chứng cứ thích hợp để chứng minh
cho yêu cầu của mỡnh bị bờn kia kiểm soỏt do đó không thể tiếp cận được thỡ cú quyền
yờn cầu Toà ỏn buộc bờn kiểm soỏt chứng cứ phải đưa ra chứng cứ đó" [64]. Có thể nói,
quy định này là sự "nội luật hoá" quy định của khoản 1 Điều 43 của Hiệp định TRIPs:
Cách thu thập chứng cứ đang nằm trong sự kiểm soát của phía bên kia
rằng khi một bên trong vụ kiện đó đưa ra những chứng cứ có thể có được một
cách hợp lý đủ để làm căn cứ cho yêu cầu của mỡnh đang do phía bên kia
kiểm soát, thỡ cơ quan xét xử phải có quyền bắt buộc phía bên kia đưa ra
những chứng cứ đó [35].
Ngoài ra, một trong cỏc quyền và nghĩa vụ quan trọng của chủ sở hữu quyền cũn
là: "Trong trường hợp có yêu cầu bồi thường thiệt hại thỡ nguyờn đơn phải chứng minh
thiệt hại thực tế đó xảy ra và nờu căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại theo quy định
tại Điều 205 của luật này (khoản 6 Điều 203 của Luật SHTT) [64].
Về nguyên tắc xác định thiệt hại do xâm phạm QSHTT: Hiệp định TRIPs yêu
cầu các cơ quan xét xử phải có quyền ra lệnh cho bên vi phạm đền bù cho chủ thể quyền
một cách thích đáng, đủ bù lại những thiệt hại mà chủ thể quyền đó phải chịu (khoản 1
Điều 45), ngoài ra bắt buộc người vi phạm quyền phải trả cho chủ thể quyền các chi phí
cuả chủ thể quyền, và trong các trường hợp thích hợp, các nước thành viên có thể cho
phép các cơ quan xét xử được quyền ra lệnh thu hồi các khoản lợi nhuận và/ hoặc trả các
khoản đền bù thiệt hại ấn định trước, kể cả trong trường hợp người xâm phạm không biết
hoặc không có căn cứ để biết hành vi xâm phạm (khoản 2 Điều 45).
Việc xác định thiệt hại do xâm phạm QSHTT được quy định tại Điều 204 của Luật
SHTT gồm có: thiệt hại về vật chất bao gồm các tổn thất về tài sản, mức giảm sút về thu
nhập, lợi nhuận, tổn thất về cơ hội kinh doanh, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục
thiệt hại; thiệt hại về tinh thần bao gồm các tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh
tiếng và những tổn thất khác về tinh thần gây ra cho tác giả của tác phẩm văn học, nghệ
thuật, khoa học; người biểu diễn; tác giả của sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố
trí, giống cây trồng. Mức độ thiệt hại được xác định trên cơ sở các tổn thất thực tế mà chủ
thể QSHTT phải chịu do hành vi xâm phạm QSHTT gây ra.
Trên tinh thần các nguyên tắc chung về bồi thường thiệt hại của BLDS, các căn cứ
để xác định mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm QSHTT được Luật SHTT quy định là
trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm QSHTT đó gõy thiệt
hại về vật chất cho mỡnh thỡ cú quyền yờu cầu Toà ỏn quyết định mức bồi thường, theo
một trong các căn cứ: tổng thiệt hại vật chất tính bằng tiền cộng với khoản lợi nhuận mà
bị đơn đó thu được do thực hiện hành vi xâm phạm QSHTT, nếu khoản lợi nhuận bị giảm
sút của nguyên đơn chưa được tính vào tổng thiệt hại vật chất; giá chuyển giao quyền sử
dụng đối tượng SHTT với giả định bị đơn được nguyên đơn chuyển giao quyền sử dụng
đối tượng đó theo hợp đồng sử dụng đối tượng SHTT trong phạm vi tương ứng với hành
vi xâm phạm đó thực hiện; trong trường hợp không thể xác định được mức bồi thường
thiệt hại về vật chất theo các căn cứ quy định tại điểm a và điểm b khoản này thỡ mức bồi
thường thiệt hại về vật chất do Toà án ấn định, tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại, nhưng
không quá năm trăm triệu đồng. Trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi
xâm phạm QSHTT đó gõy thiệt hại về tinh thần cho mỡnh thỡ cú quyền yêu cầu Toà án
quyết định mức bồi thường trong giới hạn từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng,
tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại. Ngoài bồi thường thiệt hại, chủ thể QSHTT có quyền yêu
cầu Toà án buộc tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm QSHTT phải thanh toán chi phí
hợp lý để thuê luật sư" (Điều 205).
* áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời:
Thông thường khi phát hiện vi phạm, chủ sở hữu QSHTT thường muốn có ngay
được những biện pháp hữu hiệu cần thiết, nhanh chóng nhất để ngăn chặn một cách kịp thời,
có hiệu quả các hành vi vi phạm quyền, lợi ích chính đáng của mình, tức là phải có hành
động nhằm chấm dứt ngay lập tức hành vi vi phạm quyền. Hiệp định TRIPs đặt nghĩa vụ cho
các nước thành viên phải ngăn chặn hành vi xâm phạm bất kỳ QSHTT nào và lưu giữ những
chứng cứ có liên quan đến hành vi bị coi là vi phạm; trong trường hợp mà bất kỳ có sự chậm
trễ nào cũng có thể gây ra những thiệt hại không thể khắc phục được cho chủ thể quyền, hoặc
khi có những nguy cơ rõ ràng rằng các chứng cứ đang bị phá huỷ (khoản 2 Điều 50). Tại
Điều 13 chương II Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ yêu cầu Toà án phải được
phép ra "lệnh áp dụng các BPKCTT một cách có hiệu quả và ngay lập tức" để ngăn chặn
nguy cơ xâm phạm các QSHTT và bảo vệ chứng cứ liên quan. Đáp ứng yêu cầu này, Điều
206 của Luật SHTT quy định khi khởi kiện hoặc sau khi khởi kiện, chủ thể QSHTT có
quyền yêu cầu Toà án áp dụng BPKCTT trong các trường hợp: đang có nguy cơ xảy ra thiệt
hại không thể khắc phục được cho chủ thể QSHTT; hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm
QSHTT hoặc chứng cứ liên quan đến hành vi xâm phạm QSHTT có nguy cơ bị tẩu tán hoặc
bị tiêu huỷ nếu không được bảo vệ kịp thời. Toà án quyết định áp dụng BPKCTT theo yêu
cầu của chủ thể QSHTT trước khi nghe ý kiến của bờn bị ỏp dụng biện phỏp đó. Điều 207
của Luật SHTT quy định các BPKCTT, bao gồm: thu giữ; kê biên; niêm phong; cấm thay
đổi hiện trạng; cấm di chuyển; cấm chuyển dịch quyền sở hữu. Như vậy, theo quy định tại
BLTTDS năm 2004 và Luật SHTT, thì chủ thể QSHTT có quyền yêu cầu Toà án áp dụng
BPKCTT khi khởi kiện hoặc sau khi khởi kiện. Tuy nhiên, cần lưu ý quy định tại khoản 2
Điều 206 của Luật SHTT: "Toà án quyết định áp dụng BPKCTT theo yêu cầu của chủ thể
QSHTT quy định tại khoản 1 Điều này trước khi nghe ý kiến của bờn bị ỏp dụng biện phỏp
đó" [64]. Đây là quy định được đánh giá mang rừ tớnh chất đặc thù của việc áp dụng
BPKCTT trong vụ án liên quan đến QSHTT.
Trong trường hợp yêu cầu áp dụng lệnh BPKCTT đó là không đúng, gây thiệt hại
cho bên bị yêu cầu áp dụng lệnh, thỡ người yêu cầu phải bồi thường thiệt hại, Hiệp định
TRIPs gọi đó là "bồi thường cho bị đơn". Hiệp định TRIPs quy định rằng các cơ quan xét
xử phải có quyền ra lệnh cho bên đó lạm dụng cỏc thủ tục thực thi quyền phải bồi thường
thoả đáng cho bên bị thiệt hại (khoản 1 Điều 48). Tại đoạn 2 Điều 13 chương II của BTA
quy định: "Mỗi bên cho phép các cơ quan xét xử của mỡnh được yêu cầu người nộp đơn
phải nộp một khoản bảo chứng hoặc bảo đảm tương đương đủ để bảo vệ lợi ích của bị
đơn và ngăn ngừa sự lạm dụng" [39], phù hợp yêu cầu này, theo khoản 4 Điều 117 của
BLTTDS và hướng dẫn tại mục 7 của Nghị quyết số 02/2005, thỡ chỉ được phong toả tài
khoản, tài sản có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng BPKCTT
có nghĩa vụ phải thực hiện... Tại Điều 208 của Luật SHTT quy định về nghĩa vụ của
người yêu cầu áp dụng BPKCTT như sau: người yêu cầu áp dụng BPKCTT có nghĩa vụ
chứng minh quyền yêu cầu theo quy định tại khoản 1 Điều 206 của luật này bằng các tài
liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 203 của luật này; người yêu cầu áp dụng
BPKCTT có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại gây ra cho người bị áp dụng biện pháp đó
trong trường hợp người đó không xâm phạm QSHTT. Để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
này, người yêu cầu áp dụng BPKCTT phải nộp khoản bảo đảm bằng một trong các hỡnh
thức: khoản tiền bằng 20% giá trị hàng hoá cần áp dụng BPKCTT hoặc tối thiểu hai mươi
triệu đồng nếu không thể xác định được giá trị hàng hóa đó; chứng từ bảo lónh của ngõn
hàng hoặc của tổ chức tín dụng khác. Việc bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm
QSHTT gây ra được thực hiện theo nguyên tắc chung của BLDS, tức là phải có thiệt hại
xảy ra, bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất về tinh thần...
Theo quy định tại Điều 209 của Luật SHTT thỡ Toà án ra quyết định huỷ bỏ
BPKCTT đó được áp dụng trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 122 của
BLTTDS (đó là các trường hợp: người yêu cầu áp dụng BPKCTT đề nghị hủy bỏ; người
phải thi hành quyết định áp dụng BPKCTT nộp tài sản hoặc có người khác thực hiện biện
pháp bảo đảm thi hành nghĩa vụ đối với bên có yêu cầu; nghĩa vụ dân sự của có nghĩa vụ
chấm dứt theo quy định của BLDS) và trong trường hợp người bị áp dụng BPKCTT
chứng minh được việc áp dụng BPKCTT là không có căn cứ xác đáng. Trong trường hợp
huỷ bỏ BPKCTT, Toà án phải xem xét để trả lại cho người yêu cầu áp dụng BPKCTT
khoản bảo đảm quy định tại khoản 2 Điều 208 của luật này. Trong trường hợp yêu cầu áp
dụng BPKCTT không có căn cứ xác đáng và gây thiệt hại cho người bị áp dụng BPKCTT
thỡ Toà ỏn buộc người yêu cầu phải bồi thường thiệt hại. Về thẩm quyền, thủ tục áp dụng
BPKCTT thực hiện như đó trỡnh bày ở tiết b tiểu mục 2.1.1.2 chương 2 của luận văn.
* Hũa giải:
Khác với thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, xét xử các vụ án hỡnh sự là
Tũa án không tiến hành hũa giải, thỡ trong thủ tục giải quyết các vụ án dân sự hũa giải là
một nguyên tắc bắt buộc. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tũa án tiến hành
hũa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những trường
hợp không được hũa giải hoặc không thể tiến hành hũa giải được. Có thể nói, trong quá
trỡnh giải quyết các tranh chấp về SHTT, hũa giải để các bên thỏa thuận được với nhau
sẽ đem lại được những lợi ích to lớn. Khi các bên tranh chấp thỏa thuận được với nhau về
các vấn đề phải giải quyết trong vụ án, Tũa án sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận
của đương sự và quyết định này sẽ có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành; do
đó, các bên không phải mất nhiều thời gian, tiền bạc cho công việc tố tụng. Trong một
chừng mực nào đó, QSHTT được bảo đảm bí mật, những xâm phạm SHTT được ngăn
chặn kịp thời và hậu quả của việc xâm phạm được khắc phục.
* Chuẩn bị xét xử vụ án:
Điều 179 của BLTTDS quy định thời hạn chuẩn bị xét xử là bốn tháng, kể từ
ngày thụ lý vụ án; đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì
Chánh án Toà án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá
hai tháng. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, tuỳ từng trường hợp, Toà án ra một trong các
quyết định: công nhận sự thoả thuận của các đương sự; tạm đình chỉ giải quyết vụ án;
đình chỉ giải quyết vụ án; đưa vụ án ra xét xử. Trong thời hạn một tháng kể từ ngày có
quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà; trong trường hợp có lý do
chính đáng thì thời hạn này là hai tháng. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải có các nội
dung chính quy định tại Điều 195 của BLTTDS.
* Xét xử sơ thẩm vụ án:
Phiên toà sơ thẩm phải được tiến hành đúng thời gian, địa điểm đã được ghi trong
quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc trong giấy báo mở lại phiên toà (trong trường hợp phải
hoãn phiên toà). Toà án phải trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án bằng cách hỏi và
nghe lời trình bày của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án,
người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những
người tham gia tố tụng khác; xem xét, kiểm tra tài liệu, chứng cứ đã thu thập được; nghe
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của VKS về việc giải quyết vụ án (trong trường hợp có Kiểm
sát viên tham gia phiên toà). Bản án chỉ được căn cứ vào kết quả tranh tụng, việc hỏi tại
phiên toà và các chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên toà. Thủ tục hỏi tại phiên
toà, tranh luận tại phiên toà, nghị án và tuyên án được thực hiện theo quy định tại các
mục 3, 4 và mục 5 chương XIV Phần thứ hai của BLTTDS. Bản án phải được Hội đồng
xét xử thảo luận và thông qua tại phòng nghị án. Bản án gồm có phần mở đầu, phần nội
dung vụ án và nhận định của Toà án, phần quyết định. Nội dung bản án được thực hiện
theo quy định tại các khoản 3, 4 và khoản 5 Điều 238 của BLTTDS.
* Xét xử phúc thẩm đối với vụ án:
Xét xử phúc thẩm là việc Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án,
quyết định của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng
nghị. Đương sự, người đại diện của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện có quyền làm
đơn kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp
sơ thẩm để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Đơn
kháng cáo phải có các nội dung chính theo quy định tại Điều 244 của BLTTDS.
- Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm là mười lăm ngày,
kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự không có mặt tại phiên toà thì thời hạn kháng cáo
tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết. Thời hạn kháng cáo đối với
quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm là bảy ngày, kể
từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định. Viện trưởng VKS cùng cấp và
cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết
vụ án của Toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ
tục phúc thẩm. Quyết định kháng nghị của VKS phải bằng văn bản và có các nội dung
chính theo quy định tại Điều 251của BLTTDS.
- Thời hạn kháng nghị đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm của VKS cùng
cấp là mười lăm ngày, của VKS cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp Kiểm sát viên không tham gia phiên toà thì thời hạn kháng nghị tính từ
ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản án. Thời hạn kháng nghị của VKS cùng cấp
đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm là bảy
ngày, của VKS cấp trên trực tiếp là mười ngày, kể từ ngày VKS cùng cấp nhận được
quyết định. Toà án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu,
chứng cứ kèm theo cho Toà án cấp phúc thẩm trong thời hạn năm ngày làm việc. Ngay
sau khi nhận được hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo,
Toà án cấp phúc thẩm phải vào sổ thụ lý. Chánh án Toà án cấp phúc thẩm hoặc Chánh
toà Toà phúc thẩm TANDTC thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm và phân công một
Thẩm phán làm chủ tọa phiên toà.
- Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm là hai tháng kể từ ngày thụ lý vụ án. Tuỳ
từng trường hợp, Toà án cấp phúc thẩm ra một trong các quyết định sau đây: tạm đình chỉ
xét xử phúc thẩm vụ án; đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án; đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Toà án cấp
phúc thẩm có thể quyết định kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không được quá
một tháng. Trong thời hạn một tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà
án phải mở phiên toà phúc thẩm; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là
hai tháng. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm phải được gửi cho VKS cùng cấp và
những người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị.
Toà án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án, quyết định sơ thẩm có
kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng
nghị. HĐXX phúc thẩm có quyền: giữ nguyên bản án sơ thẩm; sửa bản án sơ thẩm; huỷ bản
án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án; huỷ bản án sơ
thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án.
* Xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật:
- Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật
nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải
quyết vụ án. Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây: kết luận trong bản án,
quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; có vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng; có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.
Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC có quyền kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án các cấp, trừ quyết
định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Chánh án TAND cấp tỉnh, Viện
trưởng VKSND cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện.
ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện bị kháng nghị; Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà
lao động của TANDTC giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của TAND cấp tỉnh bị kháng nghị; Hội đồng Thẩm phán TANDTC giám đốc thẩm
những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà phúc thẩm, Toà dân sự,
Toà kinh tế, Toà lao động của TANDTC bị kháng nghị; đối với những bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật về cùng một vụ án dân sự thuộc thẩm quyền của các cấp
Toà án khác nhau thì Toà án có thẩm quyền cấp trên giám đốc thẩm toàn bộ vụ án. Hội
đồng giám đốc thẩm chỉ xem xét lại phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật bị kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị.
Hội đồng giám đốc thẩm có quyền xem xét phần quyết định của bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật không bị kháng nghị hoặc không có liên quan đến việc xem xét
nội dung kháng nghị, nếu phần quyết định đó xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi
ích của người thứ ba không phải là đương sự trong vụ án. Hội đồng giám đốc thẩm có
quyền: không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật; giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Toà án cấp dưới đã bị
huỷ hoặc bị sửa; huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại
hoặc xét xử phúc thẩm lại; huỷ bản án, quyết định của Toà án đã xét xử vụ án và đình
chỉ giải quyết vụ án. Quyết định giám đốc thẩm phải có các nội dung được quy định tại
Điều 301 của BLTTDS.
- Thủ tục tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị
kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung
của bản án, quyết định mà Toà án, các đương sự không biết được khi Toà án ra bản án,
quyết định đó. Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo
thủ tục tái thẩm khi có một trong những căn cứ: mới phát hiện được tình tiết quan trọng
của vụ án mà đương sự đã không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án; có cơ sở
chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự
thật hoặc có giả mạo chứng cứ; Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm
sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật; Bản án, quyết định hình sự, hành
chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Toà án hoặc
quyết định của cơ quan nhà nước mà Toà án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị huỷ
bỏ.
Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC có quyền kháng nghị theo thủ tục
tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án các cấp, trừ quyết định
của Hội đồng Thẩm phán TANDTC. Chánh án TAND cấp tỉnh, Viện trưởng VKSND cấp
tỉnh có quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp
huyện. Hội đồng tái thẩm có quyền: không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật; huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để
xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục do BLTTDS quy định; huỷ bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án.
Sơ đồ 2.3: Bảo vệ QSHTT tại TAND
bằng thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
Người khởi Kiện
Nộp đơn cho T.A
Thụ lý vụ án
Đình chỉ Hoà giải tạm Đình chỉ
Toà án ra QĐ công nhận
Bản án, QĐ có HL
Thành
Đưa ra xét xử
xét xử sơ thẩm
K.Nghị K.Cáo?
xét xử Phúc thẩm
Chấp nhận
Không chấp nhận và trả lại đơn
Không
Có
Không
Có
Kết luận chương 2
Pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND được hình thành và phát triển
song song với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, cho nên các quy phạm pháp luật về
thủ tục bảo vệ QSHTT được xây dựng và bổ sung theo hướng ngày càng toàn diện, bao
quát hơn. Tuy nhiên, cho đến nay, thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND vẫn còn bộc lộ nhiều
tồn tại, điều này được thể hiện ở tính toàn diện, tính đồng bộ, tính minh bạch của pháp
luật còn chưa cao, làm cho tính khả thi bị hạn chế, gây ảnh hưởng đến hiệu quả bảo vệ
QSHTT của Tòa án. Như đã trình bày, toàn bộ nội dung của chương 2 cho thấy "bức
tranh toàn cảnh" của pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND. Đây là cơ sở thực tiễn
để làm căn cứ cho việc đề ra và luận chứng những giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ
tục bảo vệ QSHTT tại TAND ở nước ta trong thời gian tới.
K. Nại, K.Nghị?
CQ Thi hành án dân sự
KN GĐ Thẩm, Tái thẩm
Không chấp nhận
Có chấp nhận
Chương 3
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
tại Tòa án nhân dân Việt Nam hiện nay
3.1. Thực tiễn thi hành pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại
Tòa án nhân dân Việt Nam hiện nay
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ngày 10-4-2006 về Phương
hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xó hội 5 năm 2006 - 2010 đó nhận định "... quyền sở
hữu trí tuệ chưa được coi trọng đóng mức và cũn bị xõm phạm" (mục 7 Phần II) [33].
Trên thực tế, Việt Nam đang bị coi là một trong các quốc gia có tỷ lệ vi phạm QSHTT
lớn trên thế giới, nhất là trong lĩnh vực vi phạm bản quyền về nghe nhìn và phần mềm
máy tính. Các hành vi xâm phạm QSHTT đồng thời diễn ra ở tất cả các lĩnh vực như sản
xuất, chế biến, lưu thông, xuất nhập khẩu và liên quan tới nhiều thành phần kinh tế như
tư nhân, nhà nước, liên doanh và thậm chí là thành phần 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh đú, cỏc hành vi xõm phạm QSHTT cũn diễn ra ở hầu hết cỏc đối tượng SHTT,
trên thị trường, hàng giả, hàng xâm phạm QSHTT ngày càng khó phân biệt, nhiều mặt
hàng rơi vào tỡnh trạng thật - giả lẫn lộn, rất khú nhận biết. Đặc biệt, việc xâm phạm
QSHTT đó xuất hiện ở nhúm hàng hoỏ cú khả năng gây hậu quả nghiêm trọng đối với
người tiêu dùng và xó hội như thuốc chữa bệnh, thuốc bảo vệ thực vật, sắt thép xây
dựng… Trong khi các cơ quan chức năng đang cố gắng hoàn thiện hệ thống pháp luật về
bảo hộ SHTT thỡ tớnh chất vi phạm QSHTT ngày càng diễn ra nghiờm trọng và phức
tạp. Cú thể thấy điều đó qua số lượng vi phạm bị phát hiện tăng lên nhanh chóng qua các
năm. Theo số liệu thống kê của Chi cục quản lý thị trường thành phố Hà Nội cho thấy
trên địa bàn thành phố Hà Nội, trong những năm gần đây số lượng các vụ vi phạm
QSHTT đó chiếm tới 70% trờn tổng số cỏc vụ vi phạm mà cơ quan này đó xử lý. Nếu
như năm 1997 mới phát hiện 15 vụ vi phạm QSHTT, thỡ tới năm 2000 đó lờn tới 101 vụ,
trong đó có 02 vụ phải chuyển sang xử lý hỡnh sự; năm 2001, số vụ vi phạm bị phát hiện
là 144; năm 2002 là 145 vụ; trong năm 2005 có trên 3000 vụ bị xử lý vi phạm hành
chính, hơn 100 vụ bị xử lý hỡnh sự. Những hạn chế về hiểu biết và ý thức chấp hành
phỏp luật bảo hộ SHTT của người tiêu dùng cũn thấp và xu hướng thích dùng hàng giá rẻ
cũng đang là những động lực để nạn sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng vi phạm QSHTT
phát triển nhưng lại ít bị tố cáo, phát hiện. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến
việc đấu tranh chống hàng giả, hàng vi phạm SHTT càng trở nên khó khăn. Để giải quyết
vấn đề này, cần phải nâng cao nhận thức của người tiêu dùng, ngày nay người ta đó đề
cập tới khái niệm "văn hóa sở hữu trí tuệ", tức là tạo ra cách sống và quan niệm đúng, đủ
về SHTT của toàn xó hội.
Cho tới thời điểm hiện nay, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về thủ tục
bảo vệ QSHTT tại TAND đang được hoàn thiện để bảo đảm tính đầy đủ, đồng bộ và phù
hợp với yêu cầu của pháp luật quốc tế về SHTT. Tuy nhiên, với tình trạng vi phạm pháp
luật về SHTT như nêu trên, thì việc bảo vệ QSHTT tại TAND lại trái ngược với thực tiễn
đó. Điều đó khiến chúng ta cần lý giải tình hình để tìm ra những nguyên nhân và giải
pháp khắc phục. Trước hết, chúng ta cần có cái nhìn toàn diện "bức tranh" về thủ tục bảo
vệ QSHTT tại TAND để đánh giá được những ưu điểm, khuyết điểm của hệ thống các
văn bản quy phạm pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND.
Trước khi BLTTDS năm 2004, BLDS năm 2005, Pháp lệnh năm 2006 và Luật
SHTT ra đời, hệ thống pháp luật về bảo hộ SHTT chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, thiếu
thống nhất. Theo thống kê sơ bộ, các quy định liên quan đến lĩnh vực SHTT nằm rải rác
tại khoảng 40 văn bản pháp luật khác nhau, hầu hết là các văn bản dưới luật nên hiệu lực
thi hành thấp, gây khó khăn cho người thi hành. Nhiều quy định cũn chưa tương thích với
các điều ước quốc tế, ví dụ như các nghị định về tên thương mại, xuất xứ địa lý, bảo hộ
bớ mật thương mại, sáng chế... không quy định biện pháp chế tài nên các vi phạm tuy
được nêu tên nhưng lại không được xử lý. Thậm chớ trong cỏc lĩnh vực như chương trỡnh
mỏy tớnh, truyền hỡnh phỏt thanh, kịch... cũn chưa được quy định.
3.1.1. Thực tiễn giải quyết các vụ án hành chính
Chỉ đến khi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được sửa đổi, bổ
sung năm 2006, thì thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện QĐHC, HVHC về SHTT của
TAND mới được quy định cụ thể trong Pháp lệnh. Cho tới nay, chưa có số liệu thống kê
chính thức về tình hình giải quyết các khiếu kiện QĐHC, HVHC liên quan đến SHTT tại
Tòa hành chính của các TAND trong thời gian qua. Tuy nhiên, theo báo cáo chuyên đề
ngày 15-9-2006 của Tòa hành chính TANDTC, thì kể từ ngày thành lập Tòa hành chính
đến nay, số lượng các vụ án hành chính liên quan đến QSHTT mà Tòa án đã thụ lý, giải
quyết chiếm tỷ lệ từ 3-5% trong tổng số các vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa hành chính.
Đối tượng khởi kiện chủ yếu tập trung ở các QĐHC của các cơ quan quản lý nhà nước về
SHTT như Cục Bản quyền tác giả, Cục SHTT về hủy bỏ Văn bằng bảo hộ QTG, QSHCN
hoặc trong xử lý VPHC do vi phạm pháp luật về QSHTT. Trong thực tiễn giải quyết các
vụ án hành chính cho thấy còn có nhiều vướng mắc.
Thứ nhất, tuy Pháp lệnh năm 2006 quy định khiếu kiện QĐHC, HVHC trong
quản lý nhà nước về SHTT và chuyển giao công nghệ là thẩm quyền giải quyết của Tòa
án (khoản 12 Điều 11). Tuy nhiên, quy định này chưa được cụ thể hóa và cũng chưa được
cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn. Theo quy định tại Điều 10 của Luật SHTT thì nội
dung quản lý nhà nước về SHTT gồm có
10 lĩnh vực; do đó, trong thực tiễn thi hành còn có nhiều vướng mắc là QĐHC, HVHC
nào về SHTT là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính tại TAND. Đây cũng là một trong
những lý do mà số lượng khởi kiện vụ án hành chính tại TAND không nhiều so với tình
hình thực tế. Mặt khác, đây cũng là một trong những lý do mà TAND do không xác định
được thẩm quyền của mình nên hoặc thụ lý vụ án khi việc đó không thuộc thẩm quyền
giải quyết của mình hoặc trả lại đơn khởi kiện khi việc đó thuộc thẩm quyền giải quyết
của mình.
Thứ hai, việc giải quyết các vụ án hành chính nói chung, đặc biệt là giải quyết các
vụ án hành chính về SHTT nói riêng còn rất mới mẻ ở Việt Nam. Có thể nói rất nhiều
khái niệm, nhiều quy định còn mang tính trừu tượng, song việc giải thích chưa được
nghiên cứu làm rõ hoặc quy định chi tiết cụ thể ở văn bản dưới luật. Vì vậy, đã gây không
ít khó khăn không chỉ cho người dân, mà kể cả người thực thi pháp luật, trong đó có cả
Thẩm phán Tòa án.
Thứ ba, cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về SHTT cũng không nắm chắc quy
định của pháp luật, cho nên dẫn đến thực hiện công vụ không đúng. Vụ án sau đây là một
ví dụ.
Cơ sở sản xuất mỹ phẩm Thanh Hương vi phạm QSHCN về nhãn hiệu hàng hóa
và kiểu dáng công nghiệp trong sản xuất nước hoa của Công ty mỹ phẩm Miss Sài Gòn.
Sau khi có khiếu nại của Công ty mỹ phẩm Miss Sài Gòn, Chủ tịch ủy ban nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành Quyết định số 3271/QĐ-UB ngày 11-8-2003 xử
phạt VPHC đối với cơ sở sản xuất mỹ phẩm Thanh Hương, hình thức xử phạt chính bằng
tiền và hình thức phạt bổ sung là tước Giấy đăng ký kinh doanh, tịch thu, tiêu hủy sản
phẩm nước hoa có vi phạm QSHCN, loại bỏ yếu tố vi phạm nhãn hiệu hàng hóa (chữ
"Miss") trên các sản phẩm. Cơ sở sản xuất mỹ phẩm Thanh Hương đã khởi kiện QĐHC
nêu trên, yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa hành chính TAND Thành phố Hồ Chí Minh đã
xét xử tuyên hủy phần quyết định xử phạt bằng tiền do vi phạm thời hiệu xử phạt, giữ
nguyên phần quyết định xử phạt bổ sung.
Thứ tư, thực trạng xâm phạm QSHTT ở nước ta cũn khá phổ biến, thế nhưng
nhận thức của người dân chưa cao; do đó, dẫn đến những khiếu kiện không đúng làm ảnh
hưởng đến cơ quan quản lý nhà nước. Vụ án sau đây là một ví dụ.
Ngày 2-3-2006, Tòa hành chính TAND thành phố Hà Nội tiến hành xét xử vụ
kiện giữa nguyên đơn là Cụng ty cổ phần Hải Bỡnh (sau đõy viết tắt là CTCP Hải Bỡnh)
khởi kiện Cục SHTT về việc Cục SHTT đã hủy Giấy chứng nhận nhón hiệu hàng hoỏ.
Túm tắt vụ kiện như sau: Năm 1999, CTCP Hải Bỡnh ký hợp đồng với Công ty Korea
EnE của Hàn Quốc về việc CTCP Hải Bỡnh là nhà phõn phối, bảo hành và bảo dưỡng
độc quyền trên toàn lónh thổ Việt Nam sản phẩm bơm xăng điện tử mang nhón hiệu
Korea EnE do cụng ty của Hàn Quốc sản xuất. Logo sản phẩm là chữ EnE lồng trong
hỡnh oval cú màu nền là hỡnh xanh lỏ cõy. Việc nhập khẩu thiết bị bơm xăng dầu điện tử
EnE cùng nhón hiệu hàng hoỏ của cụng ty Korea EnE đó được CTCP Hải Bỡnh đăng ký
kiểm định tại Tổng cục đo lường chất lượng. Đến tháng 1/2002, CTCP Hải Bỡnh cú đơn
gửi Cục SHTT xin đăng ký nhón hiệu " EnE và hỡnh oval", hỡnh chữ H và Habico, đến
tháng 6/2003 đó được cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhón hiệu hàng hoỏ. Tuy nhiờn, về
phớa cụng ty Korea EnE, sau khi biết nhà phõn phối sản phẩm độc quyền của mỡnh tại
Việt Nam lại đăng ký nhón hiệu hàng hoỏ logo giống với mẫu của Korea EnE, đó uỷ
quyền cho Cụng ty tư vấn Sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ (Công ty
P&TB) đề nghị huỷ Giấy chứng nhận đăng ký nhón hiệu hàng hoỏ đối với sản phẩm bơm
xăng điện tử mà CTCP Hải Bỡnh đó được đăng ký bởi cơ quan có thẩm quyền. Với các
chứng minh hợp lệ phía đại điện công ty Korea EnE, nên Cục SHTT đó cú Quyết định số
24 về việc huỷ Giấy chứng nhận đăng ký nhón hiệu hàng hoỏ của CTCP Hải Bỡnh.
Khụng đồng tỡnh với quyết định này, CTCP Hải Bỡnh đó có đơn kiện tại Toà hành chính
TANDTP Hà Nội về Quyết định số 24 của Cục SHTT. Ông Vũ Hữu Dũng, Giám đốc
CTCP Hải Bỡnh cho biết CTCP Hải Bỡnh thành lập trước Công ty "mẹ" Korea EnE và
ngày 19-5-1998, Công ty đó cú hợp đồng thuê thiết kế logo thương hiệu này cho mỡnh để
chứng minh logo thương hiệu của mỡnh là độc lập so với công ty Hàn Quốc. Nhưng đại
diện Cục SHTT lại đưa ra bằng chứng cho rằng hợp đồng này không đáng tin cậy vỡ vào
thời điểm ngày 13-7-1998 CTCP Hải Bỡnh mới nhận được con dấu từ cơ quan Công an,
như vậy CTCP Hải Bỡnh khụng thể cú con dấu để ký hợp đồng thiết kế logo công ty của
mỡnh vào thời điểm ngày 15-8-1998. Hội đồng xét xử đó đánh giá: logo sản phẩm của
CTCP Hải Bỡnh gần như trùng khớp với logo của Korea EnE, người tiêu dùng bỡnh
thường khó có thể phân biệt được. Bên cạnh đú, CTCP Hải Bỡnh lại khụng chứng minh
được quyền sở hữu chính đáng của mỡnh với nhón hiệu sản phẩm này. Do đó, những lập
luận, chứng cứ của Cục SHTT về việc ra Quyết định số 24 huỷ Giấy chứng nhận nhón hiệu
hàng hoỏ của CTCP Hải Bỡnh là đúng pháp luật, hợp lý. Vỡ vậy, Toà ỏn đó bỏc đơn kiện
của CTCP Hải Bỡnh.
3.1.2. Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự
Mặc dù BLHS được ban hành năm 1999, BLTTHS được ban hành năm 2003
nhưng cho đến nay, ngoài Thông tư liên tịch số 10/1999/TTLT-BKHCN-BTM-BTC-
BCA ngày 27-4-2000 của Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Bộ Công an, Bộ Khoa học
Công nghệ và Môi trường hướng dẫn thực hiện Chỉ thị số 31/1999/CT-TTg ngày 27-10-
1999 của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả, thì
chưa có văn bản nào hướng dẫn các quy định của BLHS về các tội xâm phạm QSHTT;
đối với thủ tục điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về SHTT theo quy định của BLTTHS
cũng chưa được hướng dẫn cụ thể. Điều này gây khó khăn, vướng mắc cho các TAND
trong việc xét xử đối với loại tội phạm này. Theo số liệu thống kê của TANDTC, từ
năm 2000 đến năm 2005 thì tổng số vụ vi phạm là 446 vụ với 773 bị cáo; trong đó đã
xét xử 419 vụ với 693 bị cáo. Phân tích số bị cáo đã xét xử theo quyết định của Tòa án
cho thấy: 209 bị cáo được hưởng án treo; 350 bị cáo ở mức án từ 7 năm tù trở xuống; 20
bị cáo từ 7 đến 10 năm tù; 12 bị cáo từ 10 đến 15 năm tù; 02 bị cáo mức án 15 đến 20
năm tù; 1 bị cáo mức án tù chung thân; 05 người được tuyên là không có tội và 01 bị
cáo được miễn trách nhiệm hình sự (hoặc hình phạt). Phân tích tội danh cho thấy hầu
hết số vụ vi phạm tội sản xuất hàng giả, buôn bán hàng giả, chỉ có 01 vụ xâm phạm
QSHCN (Điều 171) với 01 bị cáo và 04 vụ xâm phạm QTG (Điều 131) với 04 bị cáo.
3.1.3. Thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự
So với biện pháp bảo vệ QSHTT bằng thủ tục tố tụng hành chính và thủ tục tố
tụng hình sự, thì biện pháp bảo vệ QSHTT bằng thủ tục tố tụng dân sự được đánh giá là
có nhiều ưu điểm hơn. Với tư cách là một công cụ pháp lý để cá nhân, tổ chức bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình, pháp luật về thủ tục tố tụng dân sự đã phần nào bảo
đảm được trình tự, thủ tục công khai, công bằng để người tham gia tố tụng dân sự thực
hiện được các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình tại TAND; bảo đảm các nguyên tắc,
thủ tục tố tụng đầy đủ, có hệ thống, xác định rõ chức năng, thẩm quyền của cơ quan và
người tiến hành tố tụng, thẩm quyền của mỗi cấp Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc
dân sự. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết các tranh chấp QSHTT tại TAND lại không đem
lại hiệu quả như mong muốn. Qua số liệu thống kê của TANDTC, việc giải quyết các
tranh chấp về QSHTT từ năm 2000 đến năm 2005 của toàn ngành Tòa án như sau: thụ lý
93 vụ án về SHTT, đã giải quyết 61 vụ, trong đó: đình chỉ, tạm đình chỉ, rút đơn khởi kiện
là 16 vụ; hòa giải thành 12 vụ; đưa vụ án ra xét xử 33 vụ (bao gồm 11 vụ tranh chấp QTG
và quyền liên quan, 22 vụ tranh chấp về SHCN).
Tình trạng vụ án giải quyết tranh chấp về QSHTT tại TAND thường bị kéo dài,
phải xét xử nhiều lần, nhiều cấp, gây tốn kém thời gian, tiền bạc của đương sự và của
Nhà nước là một trong những nguyên nhân chính. Theo quy định tại Điều 179 của
BLTTDS, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm đối với vụ án dân sự là 4 tháng, kể từ ngày
Tòa án thụ lý vụ án; đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì
có thể gia hạn nhưng không quá hai tháng. Tuy nhiên, do tính đặc thù của các tranh chấp
về QSHTT, thì đây là loại việc khó đối với Tòa án. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa
án thường phải trưng cầu ý kiến của các cơ quan quản lý nhà nước về SHTT và các cơ
quan chức năng có liên quan để có kết luận đối với hành vi xâm phạm nên trong nhiều
trường hợp Tòa án phải gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử. Bên cạnh đó, việc nhìn nhận,
đánh giá về các hành vi xâm phạm QSHTT của các cơ quan chức năng nhiều khi không
thống nhất được quan điểm. Về phía Tòa án chưa đủ khả năng trong việc đưa ra nhận
định về hành vi xâm phạm do hầu hết các Thẩm phán chưa có kiến thức sâu về SHTT, do
đó thường còn bị phụ thuộc vào kết luận các yếu tố vi phạm của cơ quan quản lý nhà
nước về SHTT về việc có hay không có hành vi xâm phạm quyền QSHTT. Về phía chủ
sở hữu thì không đưa ra chứng cứ chứng minh được hành vi xâm phạm của bị đơn hoặc
không chứng minh được thiệt hại của mình, mặc dù hành vi xâm phạm và thiệt hại thực
tế đã xảy ra… Theo quy định của pháp luật, về nguyên tắc, nguyên đơn có nghĩa vụ
chứng minh thiệt hại thực tế đã xảy ra và thiệt hại tiềm ẩn (nếu có) do bị xâm phạm
quyền, nhưng nhiều trường hợp nguyên đơn không chứng minh được thiệt hại vì không
có đủ sổ sách kế toán để chứng minh cho việc bị giảm doanh thu, lợi nhuận của mình do
bị xâm phạm quyền... Các bên tranh chấp thường có tâm lý cạnh tranh gay gắt, quyết liệt
nên thường kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm giải quyết. Có trường hợp, sau khi có bản án của Tòa án cấp phúc thẩm,
nguyên đơn vẫn cho rằng phán quyết Tòa án cấp phúc thẩm không đúng nên đã khiếu nại
tới Chính phủ, tới các cơ quan lãnh đạo của Đảng, tới báo chí… Có thể nói, phần nào của
nguyên nhân của tình trạng khiếu nại kéo dài này là do các cơ quan chức năng về SHTT đã
không thống nhất được quan điểm khi kết luận hành vi xâm phạm. Có trường hợp cơ
quan chức năng còn đề nghị Chính phủ can thiệp vào quá trình giải quyết vụ án của Tòa
án… Vụ kiện giữa nguyên đơn là Công ty Foremost Việt Nam (sau đây viết tắt là Công
ty Foremost) và bị đơn là Công ty TNHH công nghiệp Trường Sinh (sau đây viết tắt là
Công ty Trường Sinh) là một ví dụ.
Công ty Foremost là công ty chuyên sản xuất các loại sữa, trong đó có sản phẩm
sữa đặc có đường mang nhãn hiệu "Trường Sinh". Ngày 11-12-1996 Công ty Foremost
đó đăng ký nhãn hiệu "Trường Sinh" tại Cục SHTT và tháng 6-1998 đã được Cục SHTT
cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa bảo hộ cho nhãn hiệu "Trường Sinh".
Cuối năm 1998, Công ty Foremost phát hiện trên thị trường có sản phẩm sữa đậu nành do
xưởng Trung Thực (nay là công ty TNHH công nghiệp Trường Sinh) sản xuất cũng mang
nhãn hiệu "Trường Sinh". Công ty Foremost cho rằng, sự xuất hiện của sản phẩm sữa đậu
nành "Trường Sinh" trên thị trường đã làm giảm uy tín, giảm doanh thu sản phẩm bán ra
trên thị trường vì đã gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Công ty Foremost đã tiến hành
khởi kiện Công ty Trường Sinh ra Tòa dân sự TAND thành phố Hà Nội yêu cầu Công ty
Trường Sinh chấm dứt ngay hành vi xâm phạm QSHCN đối với nhãn hiệu hàng hóa
"Trường Sinh" và bồi thường thiệt hại do bị xâm phạm quyền. Công ty Trường Sinh đã
đưa ra các lý lẽ phản đối và khẳng định đây là hai sản phẩm không cùng nhóm, cho nên
không thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Sự trùng hợp về tên gọi "Trường Sinh" chỉ
là sự trùng hợp ngẫu nhiên, không thể làm phương hại đến Công ty Foremost, và không thể
gây thiệt hại. Tòa án đã lấy ý kiến của Bộ Thương mại, Bộ Y tế và Cục SHTT. Theo quan
điểm của Bộ Thương mại thì đối chiếu với danh mục của Bộ Thương mại, sản phẩm sữa đặc
có đường của Foremost thuộc nhóm 29, còn sản phẩm sữa đậu nành Trường Sinh thuộc
nhóm 32, do đó, đây là hai sản phẩm không cùng nhóm và không có sự xâm phạm (Công
văn số 2275/BTM-QLCL ngày 13-6-2002 của Bộ Thương mại). Theo quan điểm của Bộ
Y tế thì đây là hai sản phẩm có chất lượng dinh dưỡng khác nhau, tuy nhiên có vi phạm
hay không thì thuộc thẩm quyền kết luận của Cục SHTT. Còn Cục SHTT cho biết đã từ
chối cấp Giấy chứng nhận nhãn hiệu hàng hóa đối với nhãn hiệu "Sữa đậu nành cao cấp
Trường Sinh" của Công ty Trường Sinh ở thời điểm năm 1998, và sau khi Công ty
Foremost có đơn gửi Cục SHTT về việc Công ty Trường Sinh đã xâm phạm quyền được
bảo hộ của mình, Cục SHTT đã hai lần gửi văn bản yêu cầu Công ty Trường Sinh chấm
dứt ngay việc sử dụng nhãn hiệu "Trường Sinh" cho sản phẩm sữa đậu nành. Cục SHTT
cũng đã gửi công văn số 27 ngày 13-01-2000 cho Tòa án để khẳng định rõ về hành vi
xâm phạm quyền được bảo hộ của Công ty Foremost.
Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: nhãn hiệu "Trường Sinh" của Công ty
Foremost đã được Cục SHTT cấp Giấy chứng nhận đăng ký bảo hộ số 27280 ngày 15-6-
1998. Theo Giấy chứng nhận này, nhãn hiệu "Trường Sinh" được bảo hộ đối với các sản
phẩm sữa đặc có đường và sữa bột thuộc nhóm 29 trên toàn lãnh thổ Việt Nam; Công ty
Foremost đã xây dựng uy tín cho sản phẩm của mình bằng nhãn hiệu "Trường Sinh" và
nhãn hiệu này đã được Nhà nước bảo hộ, theo đó Công ty Foremost được độc quyền sử
dụng nhãn hiệu "Trường Sinh" cho các sản phẩm sữa đặc có đường, sữa bột thuộc nhóm
29. Do đó, việc Công ty Trường Sinh dùng nhãn hiệu "Trường Sinh" để gắn vào sản
phẩm "sữa đậu nành cao cấp Trường Sinh" thuộc nhóm 32 là sự trùng lặp về tính tương
tự tới mức gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nhà sản xuất của sản phẩm. Bên cạnh đó,
Hội đồng xét xử còn nhận định về việc Cục SHTT đã có công văn gửi Tòa án và khẳng
định hành vi vi phạm của Công ty Trường Sinh. Với các nhận định nêu trên, căn cứ theo
các quy định tại các điều 785, 788 và điểm a khoản 3 Điều 805 của BLDS năm 1995,
điểm b khoản 1 và điểm c khoản 2 Điều 6 của Nghị định số 63/CP ngày 24-10-1996 của
Chính phủ quy định chi tiết về SHCN, Hội đồng xét xử kết luận: chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của Công ty Foremost; đối với yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của Công ty
Foremost, do Công ty Foremost không đưa ra được chứng cứ để chứng minh được thiệt
hại cụ thể, do đó, Hội đồng xét xử không có cơ sở để xem xét yêu cầu bồi thường thiệt
hại.
Vụ án Nhạc sĩ Lê Vinh kiện hãng phim Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh và Nhà xuất
bản âm nhạc Việt Nam về QTG bài hát "Hà Nội và Tôi" là cũng một ví dụ. Vụ án kéo dài từ
năm 1997 đến năm 2000, trải qua hai lần xét xử, bị đơn mới chấm dứt việc sử dụng bài hát
và công khai xin lỗi tác giả trên các phương tiện thông tin đại chúng, đồng thời bồi
thường cho tác giả 28.802.378 đồng…
Một nguyên nhân khác dẫn đến các tranh chấp về QSHTT thì nhiều, nhưng lại ít
được giải quyết bằng phán quyết của Tòa án là do tâm lý chung của người dân Việt Nam
vẫn còn e ngại khi "phải ra Tòa", người dân coi việc ra Tòa là một sự phiền hà, ảnh
hưởng đến uy tín, danh dự cá nhân. ở khía cạnh khác, SHTT là lĩnh vực nhạy cảm, liên
quan đến kinh tế, thương mại, liên quan đến kết quả kinh doanh, bí mật kinh doanh… các
lý do này đã trở thành rào cản khiến các chủ sở hữu quyền mặc dù bị vi phạm nhưng
không muốn giải quyết tranh chấp tại Tòa án, mà thường chọn biện pháp xử lý vi phạm
hành chính để giải quyết. Trên thực tế hầu hết các vi phạm QSHTT được giải quyết theo
biện pháp xử phạt hành chính, theo đánh giá tại Đề tài nghiên cứu khoa học trọng điểm
cấp quốc gia về SHTT do Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện, có đến 90% số vụ việc vi
phạm được giải quyết theo biện pháp xử phạt hành chính. Như vậy, các quan hệ dân sự,
các tranh chấp dân sự lại bị hành chính hoá một cách quá mức, điều đó rõ ràng là không
bảo vệ được quyền và lợi ích của chủ sở hữu QSHTT, mặt khác của vấn đề là vô hình
chung tạo điều kiện cho hành vi vi phạm tiếp tục tái phạm với quy mô lớn hơn, thủ đoạn
tinh vi hơn, gây giảm thiểu lòng tin vào sự bảo vệ của pháp luật. QSHTT được pháp luật
bảo vệ nhưng nếu thiếu các nguyên tắc và phương thức thực thi thì việc bảo vệ, thực thi
quyền đó chỉ còn trên danh nghĩa về mặt lý thuyết, hay nói cách khác đó chỉ còn là "hư
quyền". Những năm gần đây, nhận thức về SHTT của các cơ quan quản lý nhà nước,
doanh nghiệp và người tiêu dùng ngày càng được nâng cao. Hệ thống pháp luật về SHTT
đang được xây dựng, các hoạt động bảo vệ QSHTT cũng được nỗ lực triển khai trên diện
rộng.
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ tại Tòa án nhân dân
Việc hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT là một quá trình liên tục, có
nhiều khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự quan tâm, nỗ lực của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân có
nhiệm vụ soạn thảo, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ
pháp luật liên quan đến bảo hộ và bảo vệ QSHTT. Trong những năm gần đây, Nhà nước ta
đã nỗ lực triển khai xây dựng hệ thống pháp luật về SHTT, về cơ bản hệ thống pháp luật này
đã được xây dựng trên nguyên tắc phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về SHTT và đáp ứng
được yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước trong điều kiện hội nhập nền kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, do việc ban hành trong các thời điểm khác nhau, cho nên hệ thống pháp luật này
chưa được đồng bộ, cần phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện. Mặt khác, việc thực thi pháp luật
về bảo vệ QSHTT của chúng ta chưa được như mong muốn do rất nhiều nguyên nhân, trong
đó có nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan, đòi hỏi chúng ta cần sớm có
những giải pháp khắc phục.
Nước ta đã là thành viên của nhiều công ước quốc tế về bảo hộ QSHTT và Việt
Nam là thành viên thứ 150 của WTO. Có thể nói, với hệ thống pháp luật cũng như thực tiễn
thi hành pháp luật về thủ tục bảo hộ, bảo vệ QSHTT nói chung, tại TAND nói riêng là chưa
đáp ứng, đòi hỏi chúng ta phải có các giải pháp đồng bộ. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn được
nghiên cứu tại chương 1, chương 2 và tại mục 3.1 chương 3 của luận văn, tác giả đưa ra một
số nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND.
3.2.1. Nhóm giải pháp về hoàn thiện pháp luật
Khi đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND,
tác giả cho rằng cần được hiểu theo nghĩa rộng của nó, bao gồm pháp luật về thủ tục tố
tụng và pháp luật nhằm bảo đảm cho pháp luật về thủ tục tố tụng được thực thi có hiệu
quả, trong đó có pháp luật về nội dung (pháp luật hình sự, pháp luật dân sự, pháp luật
chuyên ngành về SHTT) và pháp luật về tổ chức (pháp luật về tổ chức TAND).
3.2.1.1. Hoàn thiện pháp luật về thủ tục tố tụng
Để giải quyết một vụ án được đúng pháp luật, thì việc quy định những nguyên
tắc cơ bản; trình tự, thủ tục yêu cầu Tòa án giải quyết; trình tự, thủ tục Tòa án giải quyết
vụ án đòi hỏi phải cụ thể, đầy đủ. Việc quy định những vấn đề này phải được thể hiện
trong các văn bản quy phạm pháp luật về thủ tục tố tụng. Kết quả nghiên cứu tại chương
2 và trong mục 3.1 của chương 3 cho thấy pháp luật về thủ tục tố tụng của chúng ta chưa
được hoàn chỉnh, cần phải tiếp tục hoàn thiện.
* Hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính:
Thứ nhất, cần sớm ban hành Luật tố tụng hành chính.
Một trong các tiêu chí về mặt lý luận đánh giá tính hoàn thiện của pháp luật về thủ
tục bảo vệ QSHTT đó là tính đồng bộ. Tính đồng bộ không chỉ được biểu hiện ở nội
dung mà cần được biểu hiện ở cách trình bày, hình thức và thẩm quyền ban hành văn bản
pháp luật. Nghiên cứu Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính hiện hành cho
thấy các nguyên tắc cơ bản của thủ tục giải quyết các vụ án hành chính chưa được quy
định trong Pháp lệnh. Đồng thời, trong Pháp lệnh nhiều vấn đề mới chỉ được quy định ở
dạng khung mà chưa được quy định cụ thể. Mặt khác, để bảo đảm tính đồng bộ, hiệu lực
pháp lý của văn bản pháp luật thì thủ tục giải quyết các vụ án hành chính cần phải được
luật hóa do Quốc hội ban hành. Với những lý do trên, chúng tôi kiến nghị sớm xây dựng
Luật tố tụng hành chính.
Thứ hai, các khiếu kiện nói chung thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án còn quy
định quá chung chung, đặc biệt là các khiếu kiện trong lĩnh vực SHTT. Xuất phát từ Điều 10
của Luật SHTT quy định nội dung quản lý nhà nước về SHTT, chúng tôi kiến nghị cần quy
định cụ thể các khiếu kiện QĐHC, HVHC trong quản lý nhà nước về SHTT và chuyển
giao công nghệ. Cụ thể kiến nghị khoản 12 Điều 11 của Pháp lệnh năm 2006 được sửa
đổi, bổ sung như sau:
Điều 11:...
12. Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong quản lý nhà nước về SHTT, chuyển giao công
nghệ bao gồm:
a) Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc cấp và thực hiện các thủ tục khác liên quan
đến Giấy chứng nhận đăng ký QTG, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan, Văn bằng
bảo hộ các đối tượng SHCN, Bằng bảo hộ giống cây trồng;
b) Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật
về SHTT;
c) Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và vi phạm
pháp luật về SHTT;
d) Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc thực hiện giám định về SHTT;
đ) Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc thực hiện thủ tục hải quan liên quan đến
SHTT;
e) Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc thực hiện quản lý nhà nước về SHTT mà
pháp luật quy định.
* Hoàn thiện pháp luật trong tố tụng hình sự:
Để điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự nói chung và các vụ án hình sự về
các tội xâm phạm QSHTT nói riêng thì BLTTHS của nước ta cần được sửa đổi, bổ sung
cho phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước, của cuộc sống xã hội. BLTTHS năm
1999 là một bước tiến dài trong công tác lập pháp so với BLTTHS năm 1988. Tuy nhiên,
những vấn đề tranh tụng vẫn chưa được quy định cụ thể, những vấn đề liên quan đến
chuyên ngành chưa có quy định những nguyên tắc chung. Liên quan đến thủ tục bảo vệ
QSHTT tại TAND bằng biện pháp hình sự, chúng tôi kiến nghị cần có những quy định
đặc thù, như quyền và nghĩa vụ của cơ quan quản lý nhà nước về SHTT trong điều tra,
truy tố và xét xử, đặc biệt là trong việc chứng minh hành vi xâm phạm QSHTT đó là tội
phạm phải truy cứu trách nhiệm hình sự.
* Hoàn thiện pháp luật về tố tụng dân sự:
BLTTDS năm 2004 là công cụ pháp lý quan trọng của Tòa án trong việc giải
quyết các vụ việc dân sự nói chung và các vụ việc dân sự về SHTT nói riêng. Qua gần
hai năm thực hiện cho thấy có nhiều vấn đề chưa được quy định hoặc quy định chưa được
cụ thể, cho nên Tòa án gặp không ít khó khăn trong việc giải quyết các vụ việc dân sự.
Sau khi Quốc hội ban hành Luật SHTT (ngày 29-11-2005) và kể từ ngày luật này có hiệu
lực thi hành (ngày 01-7-2006) cho thấy giữa BLTTDS và Luật SHTT có những quy định
chưa được thống nhất với nhau nếu không muốn nói là xung đột. Do đó, chúng tôi kiến
nghị cần phải rà soát các quy định của luật về nội dung, trong đó có Luật SHTT để có sự
sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTDS. Liên quan đến việc giải quyết các vụ án
dân sự về SHTT, chúng tôi kiến nghị cần có sự sửa đổi, bổ sung một số quy định của
BLTTDS về các BPKCTT, về sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà nước về SHTT
trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án; cụ thể như sau:
- Bổ sung khoản 2a mới vào Điều 99 của BLTTDS có nội dung:
Điều 99: Quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT
1...
2...
2a. Khi khởi kiện hoặc sau khi khởi kiện, nguyên đơn là chủ thể QSHTT có quyền
yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT trong các trường hợp sau đây:
a) Đang có nguy cơ xảy ra thiệt hại không thể khắc phục được cho chủ thể
QSHTT;
b) Hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm QSHTT hoặc chứng cứ liên quan đến hành vi
xâm phạm QSHTT có nguy cơ bị tẩu tán hoặc bị tiêu hủy nếu không được bảo vệ kịp thời.
- Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 120 của BLTTDS như sau:
"Điều 120: Buộc thực hiện biện pháp bảo đảm
1. Người yêu cầu Tòa án áp dụng một trong các BPKCTT do Luật SHTT quy
định phải nộp khoản tiền bằng 20% giá trị hàng hóa cần áp dụng BPKCTT hoặc tối thiểu
20 triệu đồng nếu không thể xác định được giá trị hàng hóa đó hoặc phải có chứng từ bảo
lãnh của ngân hàng hoặc của tổ chức tín dụng khác... Trong trường hợp yêu cầu Tòa án áp
dụng một trong các BPKCTT quy định tại các khoản 6, 7, 8 và 10 của Điều 102 của Bộ
luật này phải...".
- Sửa đổi, bổ sung Điều 23 của BLTTDS như sau:
Điều 23. Việc tham gia tố tụng dân sự của cá nhân, cơ quan, tổ chức
Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng dân sự theo
quy định của Bộ luật này, góp phần vào việc giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án kịp
thời, đúng pháp luật.
Các cơ quan quản lý nhà nước về SHTT có trách nhiệm tham gia tố tụng dân sự
đối với các vụ án về bảo vệ QSHTT khi có yêu cầu của Tòa án.
3.2.1.2. Hoàn thiện pháp luật về nội dung
* Hoàn thiện pháp luật hình sự:
Nghiên cứu BLHS năm 1999 quy định về các tội xâm phạm QSHTT ch thấy quy
định này chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa đúng với đối tượng khách thể cần được
bảo vệ. Trong 7 tội phạm xâm phạm QSHTT có 1 tội quy định trong Chương VIII (Các
tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân) (Điều 131); có 5 tội quy định tại
Chương XVI (Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế) (Điều 156, 157, 158, 170 và
Điều 171); có 1 tội quy định tại Chương XX (Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành
chính) (Điều 271).
Theo quy định tại Điều 61 của Hiệp định TRIPs thì:
Các thành viên phải quy định việc áp dụng các thủ tục hình sự và các
hình phạt để áp dụng ít nhất đối với các trường hợp cố tình giả mạo nhãn hiệu
hàng hóa hoặc xâm phạm bản quyền với quy mô thương mại. Các biện pháp
chế tài theo quy định phải bao gồm cả phạt tù và/ hoặc phạt tiền đủ để ngăn
ngừa xâm phạm, tương ứng với mức phạt được áp dụng cho các tội phạm có
mức độ nghiêm trọng tương đương trong những trường hợp thích hợp, các
biện pháp chế tài cũng phải bao gồm cả việc bắt giữ, tịch thu và tiêu hủy hàng
hóa xâm phạm và bất cứ vật liệu và các phương tiện nào khác được sử dụng
chủ yếu để thực hiện tội phạm. Các thành viên có thể quy định các thủ tục hình
sự và các hình phạt áp dụng cho các trường hợp khác xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ, đặc biệt là trường hợp cố ý xâm phạm và xâm phạm với quy mô thương
mại [35].
Từ các lý do trên đây, chúng tôi kiến nghị cần có một chương riêng trong Phần
các tội phạm của BLHS quy định các tội xâm phạm QSHTT.
- Đối với các tội đã được quy định trong BLHS cần phải hoàn thiện hơn về cấu
thành tội phạm, đặc biệt là các hành vi xâm phạm.
- Cần quy định bổ sung một số hành vi xâm phạm QSHTT là nguy hiểm cho xã
hội và phải coi là tội phạm như: nhân bản, sản xuất bản sao, phân phối, trưng bày hoặc
truyền đạt tác phẩm đến công chúng qua mạng truyền thông và các phương tiện kỹ thuật số
mà không được phép của chủ sở hữu QTG; sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu,
xuất khẩu, bán hoặc cho thuê thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó làm vô hiệu
các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu QTG thực hiện để bảo vệ QTG đối với tác phẩm
của mình; phát sóng, phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng cuộc biểu diễn,
bản sao cuộc biểu diễn đã được định hình...; sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập
khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho thuê thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó giải
mã trái pháp luật một tín hiệu vệ tinh mang chương trình đã được mã hóa...
Những hành vi trên đây cần phải quy định là tội phạm khi gây hậu quả nghiêm
trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính hoặc được thực hiện với quy mô thương mại.
* Hoàn thiện pháp luật chuyên ngành về SHTT:
Luật SHTT mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2006. Tuy nhiên, qua quá trình
đàm phán Việt Nam gia nhập WTO cũng như qua nghiên cứu để ban hành các văn bản
hướng dẫn thi hành, cho thấy sau khi nước ta gia nhập WTO chắc chắn chúng ta phải sửa
đổi, bổ sung Luật SHTT. Chúng tôi kiến nghị ngay từ bây giờ chúng ta phải nghiên cứu
các điều ước quốc tế về SHTT mà nước ta là thành viên và sẽ là thành viên để có sự sửa
đổi, bổ sung Luật SHTT cho phù hợp. Đặc biệt cần phân biệt cụ thể ranh giới giữa xử lý
hành chính và truy cứu trách nhiệm hình sự. Cần bổ sung vào Luật SHTT những quy
định thông dụng của pháp luật quốc tế như quy mô thương mại, thực hiện hành vi xâm
phạm QSHTT một cách cố ý.
3.2.1.3. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức
Tính đặc thù của tranh tụng về thủ tục bảo vệ QSHTT tại Tòa án là cơ sở để các
quốc gia hình thành hệ thống Tòa án chuyên biệt về SHTT. Trong vụ án về SHTT phải có sự
tham gia của các chuyên gia kỹ thuật về SHTT nên đòi hỏi Thẩm phán vừa có kiến thức
chuyên môn kỹ thuật về SHTT, vừa giàu kinh nghiệm pháp lý. Tuy nhiên, do có sự khác biệt
về lịch sử, văn hóa pháp lý cũng như nguồn nhân lực, mà mô hình Tòa án và thủ tục bảo vệ
QSHTT ở mỗi hệ thống pháp luật có những đặc thù khác nhau. Mặc dù, ở hầu hết các nước
các loại việc về QSHTT bao gồm loại việc dân sự, hình sự và hành chính, nhưng một số
nước như Cộng hòa Liên bang Đức, Thái Lan… thành lập Toà án chuyên biệt xét xử các vụ
xâm phạm về SHTT; một số nước lại có các Toà chuyên xét xử các vụ xâm phạm về SHTT
nằm trong hệ thống Toà án. ở Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Anh và Xứ Uên chỉ có Tòa SHTT
giải quyết các vụ án dân sự về SHTT mà không có Tòa chuyên trách để giải quyết các vụ án
hình sự về SHTT, các vụ án hình sự về SHTT được giải quyết theo thủ tục thông thường.
Các nước này đều có Tòa án về Văn bằng sáng chế, Tòa này có thẩm quyền đối với các vụ
việc dân sự, phúc thẩm các quyết định của Văn phòng về Văn bằng sáng chế; đối với hệ
thống giải quyết các vụ việc hành chính của các nước này có sự tương đồng, một vụ việc
hành chính là: xem xét lại các quyết định của cơ quan cấp bản quyền (Văn phòng về Văn
bằng sáng chế và nhãn hiệu hàng hóa); làm mất hiệu lực hoặc hủy bỏ QSHTT... Thông
thường vụ việc khiếu nại từ Văn phòng về Văn bằng sáng chế và nhãn hiệu hàng hóa được
gửi lên Tòa án về Văn bằng sáng chế, sau đó nếu tiếp tục kháng cáo thì do Tòa cấp trên xét
xử phúc thẩm… (xem phụ lục số 2).
Trong xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, với sự tham gia các
điều ước quốc tế, pháp luật của mỗi hệ thống, mỗi quốc gia đã và đang có sự giao thoa và
xích lại gần nhau, những điểm khác biệt của các hệ thống pháp luật ngày càng thu hẹp lại
và thay vào đó là những điểm tương đồng. Việc thành lập Tòa chuyên biệt về SHTT như
Thái Lan, Đức… đã tỏ ra rất hiệu quả đối với sự phát triển thương mại và đầu tư quốc tế.
ở Thái Lan, trong những năm nửa cuối của thập niên 90, trong điều kiện sụp đổ gần như
phá sản của nhiều khu vực kinh doanh và tài chính quan trọng, Thái Lan đã quyết tâm
thành lập Tòa án Trung ương về Sở hữu trí tuệ và Thương mại quốc tế (viết tắt là Tòa
IP&IT), trong bài viết của mình, ông Vichai Ariyanuntaka (Thẩm phán Tòa IP&IP Trung
ương, Bangkok, Thái Lan) đã viết:
Đây là thời điểm để suy nghĩ lại, lập lại kế hoạch và cấu trúc lại cơ sở
hạ tầng pháp lý của chúng ta để tạo nên một môi trường luật pháp thân thiện
hơn cho thương mại và đầu tư quốc tế. Một môi trường pháp lý mà tại đó các
quyền pháp lý, công dân và người nước ngoài phải được bảo vệ và thi hành
theo luật pháp và bởi hệ thống tư pháp của chúng ta. Môi trường pháp lý sẽ
đem lại cho chúng ta danh tiếng trong thương mại và đầu tư quốc tế và phục
hồi toàn bộ nền kinh tế của chúng ta. Tại Thái Lan, trong lĩnh vực thi hành
công lý, việc thành lập Tòa IP&IT là một yếu tố duy nhất quan trọng nhằm đạt
được mục tiêu này [74].
ở Việt Nam, trong điều kiện thực hiện cải cách tư pháp, việc kiện toàn cơ cấu tổ
chức của các TAND là tất yếu và không phải là ngoại lệ. Tại Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" có
nhận định:
Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức,
bộ máy các cơ quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và
hoạt động của Tòa án nhân dân. Tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét
xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: tòa án sơ thẩm khu vực
được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; tòa phúc thẩm
có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; tòa
thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; Tòa án
nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng
thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc
thành lập tòa chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp tòa án,
từng khu vực. Đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân tối cao theo hướng tinh gọn
với đội ngũ Thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh
nghiệm trong ngành (điểm 2.2, mục 2, Phần II) [31].
Nghiên cứu mô hình Tòa SHTT theo kinh nghiệm của Thái Lan (xem phụ lục số
1) để khi có đủ điều kiện đề nghị Nhà nước cho phép thành lập Toà SHTT. Trước mắt,
cần đào tạo nguồn nhân lực và chuẩn bị cơ sở lý luận cho việc thành lập các Toà chuyên
trách về SHTT trong hệ thống TAND.
3.2.2. Nhóm giải pháp về hướng dẫn thi hành pháp luật
Pháp luật được ban hành, tuy nhiên một trong những hạn chế của hệ thống pháp
luật nước ta là còn một số quy định mang tính quy định khung, quy định nguyên tắc. Để
thi hành đúng và thống nhất cần thiết phải có các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật,
pháp lệnh của các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn thi hành một số quy định của luật,
pháp lệnh.
3.2.2.1. Hướng dẫn thi hành các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng
thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
Ngay sau khi Pháp lệnh năm 2006 có hiệu lực (ngày 01-6-2006), Hội đồng Thẩm
phán TANDTC đã ban hành Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP ngày 04-8-2006 hướng
dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh năm 2006, nhưng đây chỉ là hướng dẫn
chung cho thủ tục tố tụng hành chính. Trong bảo vệ QSHTT do có những đặc thù nên đòi
hỏi các hướng dẫn về thủ tục tố tụng hành chính cần phải có văn bản hướng dẫn riêng.
Như chúng ta đã biết, các quy định về áp dụng BPKCTT của thủ tục tố tụng hành chính
đã phù hợp với BLTTDS (khoản 2 Điều 99), Hịêp định TRIPs và BTA. Trong tố tụng
hành chính, nếu không kịp thời áp dụng một số BPKCTT trước khi Toà án thụ lý vụ án
hành chính thì có thể dẫn đến hậu quả khó khắc phục, nếu QĐHC, HVHC được thi hành.
Do đặc điểm của đối tượng khiếu kiện là các QĐHC, HVHC của cơ quan hành chính nhà
nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước nên đối tượng áp
dụng các BPKCTT cũng có đặc thù của nó, vì vậy văn bản hướng dẫn cần thể hiện được
tính đặc thù trong tố tụng hành chính. Về hành vi cạnh tranh không lành mạnh về SHTT
quy định tại khoản 3 Điều 211 của Luật SHTT ("tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi cạnh
tranh không lành mạnh về SHTT thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của
pháp luật về cạnh tranh") cũng là một vấn đề khó xác định. Trước đây, tại Nghị định số
54/NĐ-CP (Điều 25, Điều 27) cũng có quy định tổ chức, cá nhân bị thiệt hại hoặc có khả
năng bị thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh thuộc lĩnh vực SHCN có quyền
yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền "buộc người có hành vi cạnh tranh không lành
mạnh phải chấm dứt hành vi đó, yêu cầu bồi thường thiệt hại; xử lý hành chính hoặc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi cạnh tranh không lành mạnh"… Mặc
dù pháp luật đã quy định như vậy nhưng trên thực tế để tiến hành xử lý hành chính đối
với các hành vi này là vô cùng khó khăn, chủ sở hữu QSHTT phải yêu cầu Cục SHTT
giám định, kết luận về việc sử dụng đối tượng QSHTT của mình là có hành vi cạnh tranh
không lành mạnh. Đây là một vấn đề khó xác định trên thực tế, hơn nữa cơ sở pháp lý cho
việc kết luận hoặc áp dụng các chế tài chưa được hướng dẫn cụ thể, nên cơ quan có thẩm
quyền rất thận trọng trong việc đưa ra các kết luận về có hay không có hành vi vi phạm.
3.2.2.2. Hướng dẫn thi hành các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng
biện pháp hình sự
* Đối với tội xâm phạm quyền tác giả (Điều 131 của BLHS):
Nghiên cứu quy định tại Điều 131 của BLHS, chúng tôi kiến nghị hướng dẫn một
số quy định tại điều này như sau:
- Các hành vi xâm phạm QTG, bao gồm: chiếm đoạt QTG đối với tác phẩm là
hành vi dùng bất cứ thủ đoạn nào nhằm biến quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả
đối với tác phẩm thành quyền của mình, như: mạo nhận là tác giả của tác phẩm để xuất
bản, công bố nhằm mục đích để được hưởng các quyền về mặt tinh thần và vật chất mà
QTG mang lại hoặc lấy tác phẩm của tập thể làm công trình của cá nhân…; mạo danh tác
giả trên tác phẩm được hiểu là hành vi gian dối, lợi dụng uy tín, tên tuổi của tác giả để
đứng tên cho tác phẩm của mình; sửa đổi bất hợp pháp nội dung của tác phẩm được hiểu
là hành vi sửa đổi nội dung của tác phẩm mà không được sự đồng ý của tác giả đó; công
bố, phổ biến bất hợp pháp tác phẩm được hiểu là hành công bố, phổ biến tác phẩm, tái
bản tác phẩm mà không được sự đồng ý của tác giả hoặc công bố, phổ biến quá thời hạn
đã thoả thuận với tác giả.
- Các tình tiết quy định tại khoản 1 Điều 131 của BLHS "gây hậu quả nghiêm
trọng" cần được hiểu là một trong những trường hợp: làm ảnh hưởng đến uy tín nghề
nghiệp của tác giả dẫn đến sự giảm sút niềm tin của độc giả, người hâm mộ đối với tác
phẩm của họ; gây thiệt hại về vật chất cho tác giả từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu
đồng từ việc xuất bản, bán tác phẩm, tiền nhuận bút, giải thưởng...
- Tình tiết "đã bị xử phạt hành chính…" được hiểu là trước đó một người đã bị
xử phạt hành chính về một trong những hành vi quy định tại khoản 1 Điều 131 của BLHS
bằng một trong các hình thức xử phạt theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà lại
thực hiện một trong những hành vi quy định tại khoản 1 Điều 131 của BLHS.
- Tình tiết "đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm" được
hiểu là trước đó một người đã bị kết án về tội xâm phạm QTG, chưa được xoá án tích mà
lại thực hiện một trong những hành vi quy định tại khoản 1 Điều 131 của BLHS.
- Tình tiết "gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng" quy định
tại điểm c khoản 2 Điều 131 của BLHS được hiểu là một trong những trường hợp sau
đây: "Gây hậu quả rất nghiêm trọng" được hiểu là một trong những trường hợp: làm ảnh
hưởng đến uy tín nghề nghiệp của tác giả dẫn đến sự giảm sút niềm tin của độc giả, người
hâm mộ đối với tác phẩm của họ và gây thiệt hại về vật chất cho tác giả từ 50 triệu đồng
đến dưới 200 triệu đồng; gây thiệt hại về vật chất cho tác giả từ 200 triệu đồng đến dưới
500 triệu đồng; "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" được hiểu là một trong những
trường hợp: làm ảnh hưởng đến uy tín nghề nghiệp của tác giả dẫn đến sự giảm sút niềm
tin của độc giả, người hâm mộ đối với tác phẩm của họ và làm cho tác giả phải bỏ nghề;
gây thiệt hại về vật chất cho tác giả từ 500 triệu đồng trở lên.
* Đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156 của BLHS):
- Đối với khái niệm "sản xuất hàng giả" cần được hiểu là việc làm ra sản phẩm,
hàng hoá mang nhãn hiệu hàng hoá giống hệ hoặc tương tự có khả năng làm cho người
tiêu dùng nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá của cơ sở sản xuất, buôn bán khác đã đăng ký
với cơ quan bảo hộ QSHCN hoặc đã được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên với nhiều hình thức khác nhau như: chế tạo, chế biến, nhân
giống, sao chép, sáng tác, dịch thuật...; khái niệm "buôn bán hàng giả" là mua, xin, tàng trữ,
vận chuyển hàng giả nhằm bán lại cho người khác; dùng hàng giả để trao đổi, thanh toán;
dùng tài sản đem trao đổi, thanh toán... lấy hàng giả để bán lại cho người khác. Cần phải
hướng dẫn việc xác định thế nào là "hàng giả" được thực hiện theo hướng dẫn tại Phần II
Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT- BTM-BTC-BCA-BKHCNMT ngày 27-4-2000 của Bộ
Thương mại, Bộ Tài chính, Bộ Công an, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường hướng
dẫn thực hiện Chỉ thị số 31/1999/CT-TTg ngày 27-10-1999 của Thủ tướng Chính phủ về
đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả.
- Về các tình tiết "thu lợi bất chính lớn", "thu lợi bất chính rất lớn", "thu lợi bất chính
đặc biệt lớn" cũng cần có cách hiểu thống nhất. Thu lợi bất chính là số tiền lời mà người
phạm tội thu được do hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả. Số tiền thu lợi bất chính là giá trị
thu được sau khi trừ đi giá trị nguyên liệu làm nên hàng giả hoặc số vốn mà người phạm
tội bỏ ra để mua hàng giả, ví dụ: A mua 50.000 bao thuốc lá Vinataba giả với số tiền là
200.000.000 đồng đem bán thu được 300.000.000 đồng, thì số tiền thu lợi bất chính là
100.000.000 đồng (300.000.000 đồng - 200.000.000 đồng = 100.000.000 đồng);
- Ngoài ra, cũng cần xác định về các tình tiết "gây hậu quả nghiêm trọng", "gây
hậu quả rất nghiêm trọng", "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng". Để xem xét trong
trường hợp nào hành vi phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, trong trường hợp nào hành
vi phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng và trong trường hợp nào hành vi phạm tội gây
hậu quả đặc biệt nghiêm trọng về nguyên tắc chung phải đánh giá một cách toàn diện, đầy
đủ các hậu quả (thiệt hại về tài sản, thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và các thiệt hại phi vật
chất). Ví dụ: Nếu gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản thì được xác định như sau:
Nếu thuộc một trong các trường hợp làm chết một người; gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở
lên; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật
của mỗi người từ 31% đến 60%; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều
người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, nếu không
thuộc các trường hợp được hướng dẫn tại các trên đây; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về
tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ
50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng bị coi là gây hậu quả nghiêm trọng.
Nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây bị coi là gây hậu quả rất nghiêm
trọng: làm chết hai người; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn
người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến
60%; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ
thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%, nếu không thuộc một trong
các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm trên đây; gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ
500 triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng;
Nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây bị coi là gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng: làm chết ba người trở lên; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người
trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khoẻ của tám người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả
những người này từ 201% trở lên, nếu không thuộc một trong các trường hợp được hướng
dẫn tại các điểm trên đây; gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở
lên...
Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có
thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của
Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội...
Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của
hậu quả do tội phạm gây ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm
trọng.
* Đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa
bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 157 của BLHS):
Sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc
phòng bệnh là hành vi làm ra, mua bán lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc
phòng bệnh không phải là thật. Việc xác định lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh,
thuốc phòng bệnh giả tương tự như xác định hàng giả.
* Đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón,
thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (Điều 158 của BLHS):
Sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y,
thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi là hành vi làm ra, mua bán thức ăn dùng để
chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi giả. Cũng
như tại hai điều luật nêu trên, hàng giả theo quy định tại điều này là chỉ giả về nội dung, tức
là hàng hóa có mức chất lượng thấp hơn mức tối thiểu cho phép theo tiêu chuẩn Việt Nam
hoặc sản phẩm có giá trị sử dụng không đúng với, nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi và
công dụng của nó. Điều luật quy định chỉ trong trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng người
phạm tội mới phải chịu trách nhiệm hình sự; trong trường hợp chưa gây ra hậu quả nghiêm
trọng chỉ bị xử phạt hành chính, tuy nhiên, trong trường hợp đã bị xử lý hành chính mà còn
vi phạm (mặc dù chưa gây hậu quả nghiêm trọng), thì cũng phải chịu trách nhiệm hình sự.
* Đối với tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ QSHCN (Điều 170 của
BLHS):
Cần hướng dẫn vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ QSHCN là hành vi của
người có thẩm quyền trong việc cấp văn bằng bảo hộ đã vi phạm quy định của pháp luật về
cấp văn bằng bảo hộ QSHCN.
* Đối với tội xâm phạm QSHCN (Điều 171 của BLHS):
Cần phải hướng dẫn xâm phạm QSHCN là hành vi chiếm đoạt, sử dụng bất hợp
pháp sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi,
xuất xứ hàng hoá hoặc các đối tượng SHCN khác đang được bảo hộ tại Việt Nam.
* Đối với tội vi phạm các quy định về xuất bản, phát hành sách, báo, đĩa âm
thanh, băng âm thanh, đĩa hĩnh, băng hình hoặc các ấn phẩm khác (Điều 271 của
BLHS):
Cần hướng dẫn vi phạm các quy định về xuất bản và phát hành sách, báo, đĩa âm
thanh, băng âm thanh, đĩa hình, băng hình hoặc các ấn phẩm khác" là hành vi vi phạm
các quy định của pháp luật về xuất bản, như: xuất bản, in, nhân bản, phát hành xuất bản
phẩm đã có quyết định thu hồi, tịch thu, cấm lưu hành hoặc phải tiêu huỷ; xuất bản phẩm
có nội dung tuyên truyền bạo lực, ca ngợi tội ác, phá hoại thuần phong mỹ tục...; xuất
bản, in, nhân bản, phát hành xuất bản phẩm không có giấy phép, chuyển nhượng giấy
phép, thực hiện không đúng nội dung trong giấy phép, sửa chữa, tẩy xoá giấy phép; cản
trở việc xuất bản, in, nhân bản, phát hành xuất bản phẩm hợp pháp... Cần lưu ý là trường
hợp xuất bản, phát hành sách, báo, đĩa âm thanh, băng âm thanh, đĩa hình, băng hình
hoặc các ấn phẩm khác có nội dung chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thì người vi phạm phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tuyên truyền chống
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Điều 88 của BLHS; trường hợp xuất
bản, phát hành sách, báo, đĩa âm thanh, băng âm thanh, đĩa hình, băng hình hoặc các ấn
phẩm khác có tính chất đồi trụy, thì người vi phạm phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về tội truyền bá văn hoá phẩm đồi trụy theo Điều 153 của BLHS.
h) Thực tế hiện nay cho thấy pháp luật chưa phân định rõ ràng được đối tượng
hàng giả và xâm phạm QSHCN; do đớ, cần thiết phải hướng dẫn việc phân biệt giữa hai
tội phạm này: nếu xác định người phạm tội thực hiện hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả
thì về nguyên tắc, cơ quan chức năng có quyền tiến hành khởi tố vụ án hình sự ngay sau
khi phát hiện hành vi phạm tội và yêu cầu chủ sở hữu quyền tham gia tố tụng với tư cách
là người bị hại; nếu xác định đó là hành vi xâm phạm QSHCN thì các cơ quan chức năng
chỉ có thể khởi tố vụ án khi có yêu cầu từ phía chủ sở hữu quyền. Như vậy, việc lựa chọn
áp dụng điều luật sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu
quyền, của cả người phạm tội… Việc truy tố hai tội danh khác nhau dẫn đến hậu quả của
việc áp dụng các chế tài cũng khác nhau: nếu người phạm tội bị xử lý theo Điều 156 thì
hình phạt cao nhất có thể bị áp dụng là 15 năm tù giam (khoản 3); nếu bị xử lý theo Điều
171 thì mức hình phạt cao nhất đến 3 năm tù giam.
3.3.2.3. Hướng dẫn thi hành các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng
biện pháp dân sự
* Hướng dẫn cụ thể về điều kiện khởi kiện vụ án dân sự về SHTT:
- Đối với QTG, quyền liên quan: cá nhân, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án dân
sự về QTG, quyền liên quan. Theo quy định tại Điều 27, Điều 34 của Luật SHTT và Điều 26
của Nghị định số 100, kể từ thời điểm QTG, quyền liên quan bắt đầu phát sinh, nếu có
tranh chấp thì cá nhân, tổ chức có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm có quyền khởi
kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án giải quyết. Cá nhân, tổ chức (chủ thể quyền) chỉ có
quyền khởi kiện vụ án dân sự về QTG, quyền liên quan để yêu cầu Toà án giải quyết, nếu
thời hạn bảo hộ QTG, thời hạn bảo hộ quyền liên quan vẫn còn; chỉ có tác giả (các đồng
tác giả), chủ sở hữu QTG, quyền liên quan, người thừa kế hợp pháp của tác giả, chủ sở
hữu QTG, quyền liên quan hoặc người được uỷ quyền hợp pháp mới có quyền yêu cầu
Toà án bảo vệ khi các quyền này bị xâm phạm. Trong trường hợp tác giả (đồng tác giả),
chủ sở hữu QTG, quyền liên quan chết mà các quyền này thuộc về Nhà nước theo quy
định tại Điều 42 của Luật SHTT, thì Nhà nước là chủ sở hữu các quyền đó. Nếu Nhà
nước có văn bản uỷ quyền cho một cơ quan, tổ chức cụ thể nhân danh Nhà nước bảo vệ
lợi ích của Nhà nước khi các quyền này bị xâm phạm thì cơ quan, tổ chức được uỷ quyền
có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích của Nhà nước.
- Đối với QSHCN: Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự về QSHCN là QSHCN
phải được xác lập hợp pháp trên cơ sở quyết định của cơ quan quản lý nhà nước về
SHCN cấp Văn bằng bảo hộ cho người nộp đơn đăng ký đối tượng đó theo quy định của
Luật SHTT. QSHCN đối với nhãn hiệu đăng ký quốc tế theo Thoả ước MADRID và
Nghị định thư MADRID được xác lập trên cơ sở công nhận của cơ quan quản lý nhà
nước đối với đăng ký quốc tế đó; QSHCN đang còn trong thời hạn bảo hộ hoặc đáp ứng đầy
đủ các tiêu chuẩn bảo hộ. QSHCN đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí,
nhãn hiệu được bảo hộ trong thời hạn văn bằng bảo hộ có hiệu lực theo quy định tại Điều
93 của Luật SHTT. QSHCN đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại chỉ
được bảo hộ khi còn đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn bảo hộ. Quá thời hạn bảo hộ nói trên
hoặc các đối tượng không còn đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ, các chủ thể quyền không còn
được Nhà nước và pháp luật bảo hộ nữa. Do đó, Toà án chỉ thụ lý đơn khởi kiện để giải
quyết tranh chấp nếu tại thời điểm xảy ra tranh chấp quyền của người khởi kiện vẫn còn
trong thời hạn bảo hộ hoặc đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn bảo hộ theo quy định của Luật
SHTT.
* Hướng dẫn về xác định đối tượng bị xâm phạm:
- Đối với QTG, quyền liên quan: Khi giải quyết các vụ án dân sự về QTG, quyền
liên quan, Toà án phải xác định đối tượng bị xâm phạm có phải là đối tượng được bảo hộ
hay không. Việc xác định đối tượng được bảo hộ cần căn cứ vào quy định tại Điều 6 của
Nghị định số 105; cụ thể là: xác định đối tượng được bảo hộ được thực hiện bằng cách
xem xét các tài liệu, chứng cứ chứng minh căn cứ phát sinh, xác lập QTG, quyền liên
quan theo quy định tại khoản 1 Điều 6 của Luật SHTT, khoản 2 Điều 6 của Luật SHTT;
đối với quyền QTG, quyền liên quan đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền, đối
tượng được bảo hộ được xác định theo giấy chứng nhận đăng ký và các tài liệu kèm theo
giấy chứng nhận đăng ký đó; trong trường hợp không đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền
thì các quyền này được xác định trên cơ sở bản gốc tác phẩm, bản định hình đầu tiên của
các đối tượng quyền liên quan (nếu có). Trong trường hợp bản gốc và các tài liệu liên
quan không còn tồn tại, QTG, quyền liên quan được xem là có thực trên cơ sở các thông
tin về tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng và về
đối tượng QTG, quyền liên quan tương ứng, được thể hiện thông thường trên các bản sao
được công bố hợp pháp.
- Đối với QSHCN: Việc xác định đối tượng được bảo hộ QSHCN cần căn cứ vào
quy định tại Điều 6 của Nghị định số 105, bao gồm: xem xét tài liệu, chứng cứ chứng
minh căn cứ phát sinh, xác lập quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 6 của Luật SHTT;
đối với QSHCN đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền, đối tượng được bảo hộ
được xác định theo Văn bằng bảo hộ và các tài liệu kèm theo Văn bằng bảo hộ đó; đối
với tên thương mại, đối tượng được bảo hộ được xác định trên cơ sở quá trình sử dụng,
lĩnh vực và lãnh thổ sử dụng tên thương mại đó; đối với bí mật kinh doanh, đối tượng
được bảo hộ được xác định trên cơ sở các tài liệu thể hiện nội dung, bản chất của bí mật
kinh doanh và thuyết minh, mô tả về biện pháp bảo mật tương ứng; đối với nhãn hiệu nổi
tiếng, đối tượng được bảo hộ được xác định trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ thể hiện sự
nổi tiếng của nhãn hiệu theo các tiêu chí quy định tại Điều 75 của Luật SHTT.
* Hướng dẫn về hành vi xâm phạm:
- Đối với QTG, quyền liên quan: Căn cứ vào quy định tại Điều 7 của Nghị định
số 105, yếu tố xâm phạm QTG có thể thuộc một trong các dạng sau đây: bản sao tác
phẩm được tạo ra một cách trái phép, trực tiếp hoặc gián tiếp một phần hoặc toàn bộ tác
phẩm, bản sao chụp tác phẩm cũng là bản sao tác phẩm. Các bản sao này được tạo ra mà
không được phép của tác giả, chủ sở hữu QTG; tác phẩm phái sinh được tạo ra một cách
trái phép; tác phẩm giả mạo tên, chữ ký của tác giả, mạo danh hoặc chiếm đoạt QTG;
phần tác phẩm bị trích đoạn, sao chép, lắp ghép trái phép; căn cứ xác định yếu tố xâm
phạm QTG là phạm vi bảo hộ QTG được xác định theo hình thức thể hiện bản gốc tác phẩm;
theo nhân vật, hình tượng, cách thể hiện tính cách nhân vật, hình tượng, tình tiết của tác
phẩm gốc trong trường hợp xác định yếu tố xâm phạm đối với tác phẩm phái sinh. Căn cứ
xác định yếu tố xâm phạm quyền liên quan là phạm vi bảo hộ quyền liên quan đã được xác
định theo hình thức thể hiện bản định hình đầu tiên cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình,
chương trình phát sóng. Để xác định có yếu tố xâm phạm QTG, quyền liên quan hay
không, cần so sánh bản sao hoặc tác phẩm đó với bản gốc tác phẩm (bản định hình đầu
tiên cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng) hoặc tác phẩm gốc.
- Đối với QSHCN: Để xác định hành vi xâm phạm QSHCN, cần phải xác định
yếu tố xâm phạm QSHCN đối với đối tượng SHCN tương ứng. Yếu tố xâm phạm là sự
thể hiện cụ thể kết quả của các hành vi xâm phạm quyền đối với sáng chế, kiểu dáng
công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương
mại hoặc hành vi cạnh tranh không lành mạnh và là căn cứ quan trọng nhất để khẳng
định hành vi đó là hành vi xâm phạm QSHCN. Cá nhân, tổ chức không phải là chủ sở
hữu đối tượng SHCN theo quy định tại các điều 121 và 123 của Luật SHTT thực hiện
một trong các hành vi sử dụng đối tượng SHCN đang trong thời hạn bảo hộ quy định tại
Điều 124 của Luật SHTT mà không được phép của chủ sở hữu đối tượng SHCN đó,
đồng thời người thực hiện hành vi đó không phải là người có quyền sử dụng trước quy
định tại Điều 134 của Luật SHTT và các hành vi sử dụng nói trên không thuộc các
trường hợp quy định tại các khoản 2 và 3 Điều 125 của Luật SHTT, thì bị coi là xâm
phạm QSHCN; các hành vi xâm phạm quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp,
thiết kế bố trí là các hành vi được quy định tại Điều 126 của Luật SHTT; các hành vi
xâm phạm quyền đối với bí mật kinh doanh là các hành vi được quy định tại Điều 127
của Luật SHTT; các hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ
dẫn địa lý là các hành vi được quy định tại Điều 129 của Luật SHTT; các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh là các hành vi được quy định tại Điều 130 của Luật SHTT.
Khi xác định hành vi xâm phạm QSHCN, phải chú ý phân biệt hành vi không bị
coi là xâm phạm QSHCN theo quy định tại khoản 1 Điều 125 của Luật SHTT. Do đó, cá
nhân, tổ chức thực hiện một trong các hành vi quy định tại các khoản 2 và 3 Điều 125 của
Luật SHTT, thì không bị coi là xâm phạm QSHCN. Khi có đơn khởi kiện đối với các
hành vi xâm phạm QSHCN, cần xem xét kỹ nội dung đơn của người khởi kiện để xác
định hành vi đó có thuộc một trong các trường hợp nêu trên hay không, nếu có thì Toà án
giải thích cho người khởi kiện biết, trả lại đơn cho họ và không thụ lý để giải quyết.
Trong trường hợp đã thụ lý rồi mới phát hiện thấy các hành vi này không phải là hành vi
xâm phạm QSHCN, thì Toà án phải ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án căn cứ
vào điểm c khoản 1 Điều 192 của BLTTDS.
Việc xác định một hành vi là hành vi xâm phạm QSHCN quy định tại các
điều 126, 127 và 129 của Luật SHTT được thực hiện theo quy định tại Điều 5 của Nghị
định số 105. Theo đó, bị coi là hành vi xâm phạm QSHCN khi có đầy đủ các căn cứ sau
đây: đối tượng bị xem xét thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo hộ QSHCN theo quy định
của Luật SHTT và Nghị định số 103; có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét; người
thực hiện hành vi bị xem xét không phải là chủ thể QSHCN và không phải là người được
pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép theo quy định tại các khoản 2 và 3 Điều
125, các điều 133, 134, khoản 2 Điều 137 và Điều 145 của Luật SHTT; hành vi bị xem
xét xảy ra tại Việt Nam. Hành vi bị xem xét cũng được coi là xảy ra tại Việt Nam nếu
hành vi đó xảy ra trên mạng Internet nhưng nhằm vào người tiêu dùng hoặc dùng tin tại
Việt Nam.
* Hướng dẫn về một số quy định khác:
Ngoài ra, trên cơ sở các mối quan hệ pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục
của TAND trong việc giải quyết các tranh chấp về QSHTT theo quy định của BLTTDS
và các quy định tương ứng của Luật SHTT, cần lưu ý hướng dẫn kết hợp một số vấn đề
sau đây:
Thứ nhất, về chứng cứ.
Người khởi kiện phải cung cấp các chứng cứ về hành vi xâm phạm theo quy định
của các điều 28, 35, 126, 127, 129 và Điều 188 của Luật SHTT. Theo quy định tại Điều 81
của BLTTDS, thì một trong những điều kiện của chứng cứ là phải được đương sự và cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập theo trình tự, thủ
tục do BLTTDS quy định. Trong vụ án về SHTT, cần phải xác định quan hệ pháp luật và đối
tượng tranh chấp trên cơ sở đơn khởi kiện và yêu cầu của đương sự, từ đó mới có định
hướng về việc thu thập chứng cứ có liên quan, nếu thu thập chứng cứ không đúng trọng
tâm sẽ gây mất thời gian, công sức và gây phiền phức cho đương sự và Tòa án.
Trong vụ án cụ thể về giải quyết tranh chấp QTG đối với một tác phẩm văn học,
cần xem xét nguồn gốc, cơ sở hình thành tác phẩm, tác phẩm được hình thành trong hòan
cảnh nào, lý do sáng tạo, ai sáng tạo, có việc vi phạm QTG, sao chép, cắt xén, xuyên
tạc… hay không. Tức là việc đánh giá chứng cứ phải dựa trên nguyên tắc có hành vi xâm
phạm QTG đó theo quy định của Điều 28 của Luật SHTT. Đối với trường hợp này, cần
lưu ý căn cứ phát sinh, xác lập QTG, các tiêu chí về căn cứ phát sinh QTG phải theo
đúng quy định của Luật SHTT, nhưng trên thực tế đây là điều hết sức phức tạp và khó
khăn. Thông thường trong trường hợp này các bên đều đưa ra những chứng cứ để chứng
minh quyền của họ, nên việc xem xét đánh giá chứng cứ còn phải kết hợp từ nhiều tài
liệu và từ nhiều nguồn chứng cứ có liên quan như các bản thảo, bản nháp, hòan cảnh, sự
kiện cụ thể và những căn cứ hình thành tác phẩm… để xác định được ai là chủ sở hữu
quyền.
Đối với vụ kiện xâm phạm QSHCN, tương tự như cách đánh giá chứng cứ nêu
trên, thì ngoài việc áp dụng các quy định của Luật SHTT, cần lưu ý các quy định tại các
điều tương ứng của BLDS. Trong đó lưu ý dấu hiệu vi phạm, dấu hiệu vi phạm (hay còn
gọi là "yếu tố vi phạm") là sự thể hiện cụ thể kết quả các hành vi xâm phạm quyền. Khi
xem xét đánh giá chứng cứ trên một vật cụ thể là hàng hóa cần kết hợp với Văn bằng bảo
hộ đã được cấp; cần đánh giá bằng sự hiểu biết chuyên sâu của Thẩm phán về hàng hóa
và kết hợp với ý kiến, kết luận của cơ quan chức năng có liên quan. Đây là yêu cầu vô
cùng khó khăn đối với Thẩm phán, họ phải nắm được đặc điểm của từng loại chứng cứ,
xác định đó là chứng cứ trực tiếp hay gián tiếp trên cơ sở logíc, phân tích, so sánh chúng
trong mối quan hệ tổng thể, toàn diện, biện chứng mới có thể có được kết luận chính xác.
Quyết định về việc có hay không hành vi xâm phạm là quyết định của Tòa án chứ không
phải dựa theo ý kiến của cơ quan chuyên môn… Theo quy định tại Nghị định số 105, đối
với người khởi kiện chứng minh tư cách chủ thể QSHCN bằng các chứng cứ: đối với
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý là bản gốc Văn
bằng bảo hộ (bản gốc Bằng độc quyền sáng chế, Bằng độc quyền giải pháp hữu ích, Bằng
độc quyền kiểu dáng công nghiệp, (Giấy chứng nhận kiểu dáng công nghiệp được cấp
theo quy định của Pháp lệnh bảo hộ QSHCN năm 1989); Giấy chứng nhận đăng ký thiết
kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn; Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu, Giấy chứng nhận
đăng ký chỉ dẫn địa lý); bản sao Văn bằng bảo hộ có công chứng hoặc xác nhận của cơ
quan đã cấp các Văn bằng đó; bản trích lục Sổ đăng ký quốc gia về SHCN do cơ quan có
thẩm quyền đăng ký các đối tượng SHCN đó cấp. Đối với nhãn hiệu được đăng ký quốc
tế: bản gốc Giấy chứng nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam do cơ
quan quản lý nhà nước về SHCN cấp; bản sao Công báo nhãn hiệu quốc tế của WIPO có
xác nhận của cơ quan quản lý nhà nước về SHCN; bản sao Giấy chứng nhận nhãn hiệu
đăng ký quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam, bản sao Công báo SHCN có công chứng hoặc
xác nhận của cơ quan quản lý nhà nước về SHCN. Đối với bí mật kinh doanh là bản mô
tả nội dung, hình thức lưu giữ, cách thức bảo vệ và phương thức có được bí mật kinh
doanh. Đối với tên thương mại là bản mô tả nội dung, hình thức sử dụng và quá trình sử
dụng tên thương mại; đối với nhãn hiệu nổi tiếng là tài liệu thể hiện các tiêu chí đánh giá
nhãn hiệu nổi tiếng theo quy định tại Điều 75 của Luật SHTT và giải trình về quá trình sử
dụng để nhãn hiệu trở thành nổi tiếng.
Trong trường hợp người khởi kiện là người được chuyển nhượng quyền sở hữu đối
tượng QSHCN, chuyển quyền sử dụng đối tượng QSHCN, được thừa kế hoặc kế thừa
đối tượng QSHCN phải xuất trình bản gốc hoặc bản sao hợp pháp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sở hữu đối tượng QSHCN, hợp đồng sử dụng đối tượng QSHCN hoặc văn
bản xác nhận quyền thừa kế, quyền kế thừa đối tượng QSHCN. Trong trường hợp việc
chuyển giao đã được ghi nhận trong Văn bằng bảo hộ hoặc Giấy chứng nhận đăng ký hợp
đồng chuyển nhượng quyền sở hữu đối tượng QSHCN, Giấy chứng nhận đăng ký hợp
đồng sử dụng đối tượng QSHCN, thì các tài liệu này cũng được coi là chứng cứ chứng
minh tư cách chủ thể quyền.
Người khởi kiện phải cung cấp các chứng cứ về hành vi xâm phạm QSHCN theo
quy định tại Điều 25 của Nghị định số 105. Theo đó: bản gốc hoặc bản sao hợp pháp tài
liệu mô tả, vật mẫu, hiện vật có liên quan thể hiện đối tượng bảo hộ QSHCN; vật mẫu,
hiện vật có liên quan, ảnh chụp, bản ghi hình sản phẩm bị xem xét xâm phạm QSHCN;
bản giải trình, so sánh giữa sản phẩm bị xem xét với đối tượng được bảo hộ QSHCN;
biên bản, lời khai nhằm chứng minh hành vi xâm phạm QSHCN; vật mẫu, hiện vật, tài
liệu khác… được coi là chứng cứ chứng minh hành vi xâm phạm QSHCN. Tài liệu, hiện
vật nêu trên phải được lập thành danh mục, có chữ ký xác nhận của người yêu cầu xử lý
xâm phạm khi nộp (gửi) cho TAND có thẩm quyền.
Chủ thể QSHTT yêu cầu Toà án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp
(Điều 79 của BLTTDS, Điều 203 của Luật SHTT). Cần lưu ý, nếu người khởi kiện là tác
giả, chủ sở hữu quyền hoặc người được chuyển giao, được thừa kế, kế thừa quyền, thì
kèm theo đơn khởi kiện phải có các tài liệu, chứng cứ, hiện vật chứng minh là chủ thể
quyền; chứng cứ chứng minh hành vi xâm phạm quyền đã xảy ra; bản sao thông báo của
chủ thể quyền gửi cho người xâm phạm, trong đó đã ấn định thời hạn hợp lý để người
xâm phạm chấm dứt hành vi xâm phạm và chứng cứ chứng minh người xâm phạm không
chấm dứt hành vi xâm phạm; chứng cứ và hiện vật, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện
được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh, tài liệu chứng minh hành vi giao việc, đặt
hàng, sản xuất, kinh doanh, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện để sản xuất, kinh doanh
hàng hoá đó; chứng cứ chứng minh yêu cầu áp dụng BPKCTT. Việc cung cấp, giao nhận
chứng cứ được thực hiện theo hướng dẫn tại các Phần I và II của Nghị quyết số 04/2005.
Thứ hai, về áp dụng BPKCTT.
Các quy định của BLTTDS và Luật SHTT về áp dụng BPKCTT là bước tiến rất
dài so với thủ tục tố tụng dân sự trước đó, đã đáp ứng được yêu cầu của các điều ước quốc
tế. Tuy nhiên, cần lưu ý Hiệp định TRIPs và BTA đều bao gồm rất nhiều cam kết liên
quan đến vấn đề áp dụng BPKCTT đối với các vụ án về SHTT. Chủ thể QSHTT khi khởi
kiện hoặc sau khi khởi kiện vụ án dân sự về QSHTT có quyền yêu cầu Toà án áp dụng
BPKCTT theo quy định tại các điều từ Điều 206 đến Điều 210 của Luật SHTT hoặc theo
quy định tại Chương VIII của BLTTDS. Do đó, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà Toà án phân
biệt như sau: Đối với yêu cầu áp dụng BPKCTT theo quy định của Luật SHTT, thì Toà án áp
dụng các quy định tương ứng của Luật SHTT. Đối với yêu cầu áp dụng BPKCTT mà trong
Luật SHTT không có quy định hoặc yêu cầu áp dụng BPKCTT theo quy định của BLTTDS,
thì Toà án áp dụng các quy định của BLTTDS.
Chủ thể QSHTT có quyền yêu cầu Toà án áp dụng BPKCTT trong các trường
hợp quy định tại khoản 1 Điều 206 của Luật SHTT. áp dụng BPKCTT có ý nghĩa đặc
biệt trong trường hợp nhằm thu giữ chứng cứ, bởi vì để nhằm mục đích thu giữ chứng cứ,
có một thực tế sẽ xảy ra là nếu thông báo cho bên bị yêu cầu áp dụng lệnh biết, thì có thể
sẽ làm cho việc áp dụng đó trở nên không còn ý nghĩa. Tác giả cho rằng, quy định áp
dụng BPKCTT tại Luật SHTT cụ thể hơn quy định về áp dụng BPKCTT tại BLTTDS ở
chỗ BLTTDS không quy định bên bị yêu cầu phải được thông báo về việc nộp đơn của
bên yêu cầu và phải có cơ hội giải trình trước khi Tòa án ra lệnh áp dụng lệnh. Nghị
quyết số 02/2005 hướng dẫn:
Trong trường hợp có thể hỏi được ý kiến của người bị áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời và việc hỏi ý kiến đó không làm ảnh hưởng đến việc
thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, nhưng lại bảo đảm
cho việc ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đúng đắn, thì
Thẩm phán phải hỏi ý kiến của người bị áp dụng trước khi ra quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (tiểu mục 5.2 Mục 5) [48].
Tuy nhiên cần lưu ý, Điều 11.3 (yêu cầu 40) của BTA có yêu cầu cụ thể về việc
các quyết định thực thi tư pháp phải dựa trên các chứng cứ mà bên kia đã "có cơ hội giải
trình" về các chứng cứ đó; Điều 13.5B (yêu cầu 77) cũng đòi hỏi bên bị yêu cầu phải có
quyền xem xét lại thủ tục nói trên, trong đó có quyền được giải trình với Tòa án. Đây là
những vấn đề tưởng như có vẻ trái ngược, nhưng thực ra lại hết sức hợp lý, vì bản chất
của nó là để bảo đảm quyền "được biết" của đương sự. Vì vậy, khi hướng dẫn các quy
định về thủ tục áp dụng BPKCTT phải làm sao quy định trách nhiệm của bên nộp đơn
yêu cầu là phải thuyết phục được Tòa án về tình huống gay cấn để Tòa phải ra quyết định
mà không thông báo cho bên bị áp dụng lệnh biết; nếu việc lấy ý kiến của bên bị áp dụng
BPKCTT làm ảnh hưởng đến mục đích áp dụng BPKCTT thì không nên hỏi ý kiến của
bên đó; đồng thời văn bản hướng dẫn cũng phải bảo đảm được việc ngay sau khi lệnh của
Tòa được thực hiện, phải tổ chức ngay một phiên họp để bên bị yêu cầu áp dụng lệnh đó
có cơ hội được giải trình… Về vấn đề này có thể tham khảo Các nguyên tắc của Thủ tục
tố tụng dân sự xuyên quốc gia UNIDROIT (nguyên tắc thứ 5) như sau:
Một lệnh của Tòa án có ảnh hưởng đến lợi ích của một bên đương sự
có thể được ban hành và thực thi mà không cần thiết phải thông báo trước cho
bên đương sự đó, với điều kiện là có bằng chứng về sự cần thiết và sự cân nhắc
đầy đủ đến yêu cầu khách quan trước khi ra lệnh đó. Một lệnh Ex parte phải
phù hợp với lợi ích mà người nộp đơn tìm cách bảo vệ. Ngay khi điều kiện cho
phép, đương sự bị ảnh hưởng bởi việc ban hành lệnh của Tòa án phải được
thông báo về lệnh đó và những cơ sở của việc ban hành lệnh đó. Ngoài ra bên
này phải có quyền yêu cầu Tòa án xem xét lại một cách đầy đủ và ngay lập tức
tính hợp lý, hợp pháp của việc ban hành lệnh đó [86].
Thứ ba, về biện pháp bảo đảm.
Người yêu cầu Toà án áp dụng BPKCTT không phân biệt theo quy định của Luật
SHTT hay quy định của BLTTDS, phải thực hiện biện pháp bảo đảm. Tuỳ từng trường
hợp cụ thể, Toà án buộc người yêu cầu áp dụng BPKCTT thực hiện biện pháp bảo đảm,
bao gồm: thực hiện biện pháp bảo đảm trong trường hợp áp dụng BPKCTT quy định tại
khoản 1 Điều 207 của Luật SHTT. Người yêu cầu áp dụng BPKCTT phải nộp khoản bảo
đảm bằng một trong các hình thức quy định tại khoản 2 Điều 208 của Luật SHTT; cụ thể
như sau: nộp khoản tiền bằng 20% giá trị hàng hoá cần áp dụng BPKCTT. Để xác định
giá trị hàng hoá cần áp dụng BPKCTT, Toà án yêu cầu người yêu cầu áp dụng BPKCTT
phải nêu rõ số lượng, chủng loại hàng hoá cần áp dụng BPKCTT, dự kiến và ước tính giá
trị hàng hoá đó làm cơ sở cho việc ấn định khoản tiền bảo đảm. Trong trường hợp người
yêu cầu áp dụng BPKCTT ước tính giá trị hàng hoá thấp nhằm mục đích hạ thấp mức
tiền bảo đảm phải nộp hoặc các bên có tranh chấp về giá trị hàng hoá cần áp dụng
BPKCTT và có yêu cầu định giá hàng hoá đó, thì Toà án quyết định tiến hành việc định
giá theo quy định tại Điều 92 của BLTTDS và hướng dẫn tại mục 7 Phần thứ IV của
Nghị quyết số 04/2005. Việc xác định giá trị hàng hoá cần áp dụng BPKCTT được thực
hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 28 của Nghị định số 105. Thực hiện biện pháp bảo
đảm trong trường hợp áp dụng BPKCTT quy định tại khoản 2 Điều 207 của Luật SHTT
(Toà án có thể áp dụng BPKCTT khác theo quy định của BLTTDS). Do đó, khi quyết định
áp dụng một trong các BPKCTT quy định tại Điều 102 của BLTTDS, thì Toà án căn cứ vào
quy định tại Điều 120 của BLTTDS và hướng dẫn tại mục 8 của Nghị quyết số 02/2005
để buộc người yêu cầu áp dụng BPKCTT phải thực hiện biện pháp bảo đảm.
Theo quy định tại Điều 210 của Luật SHTT, thẩm quyền, thủ tục áp dụng BPKCTT
thực hiện theo quy định tại Chương VIII, Phần thứ nhất của BLTTDS. Các quy định tại
Chương VIII, Phần thứ nhất của BLTTDS đã được hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2005.
Do đó, Toà án cần thi hành đúng hướng dẫn tại Nghị quyết này của Hội đồng thẩm phán
TANDTC. Đối với trường hợp huỷ bỏ việc áp dụng BPKCTT, Toà án áp dụng quy định tại
Điều 209 của Luật SHTT và các quy định tương ứng của BLTTDS và hướng dẫn tại Nghị
quyết số 02/2005.
Thứ tư, về bồi thường thiệt hại.
Việc giải quyết bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền tuân theo nguyên tắc chung
về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng quy định tại Điều 604 của BLDS năm 2005 và hướng
dẫn tại mục 1 Phần I của Nghị quyết số 03/2006. Tuy nhiên, trong trường hợp Luật SHTT có
quy định các nguyên tắc, căn cứ bồi thường thiệt hại khác với quy định của BLDS, thì áp
dụng các quy định đó của Luật SHTT.
Nguyên tắc xác định thiệt hại do xâm phạm QSHTT được quy định tại Điều 204
của Luật SHTT và Điều 16 của Nghị định số 105. Thiệt hại do xâm phạm QSHTT là sự
tổn thất thực tế về vật chất và tinh thần do hành vi xâm phạm trực tiếp gây ra cho chủ thể
quyền. Chỉ được coi là có tổn thất thực tế khi có đầy đủ các căn cứ quy định tại khoản 2
Điều 16 của Nghị định số 105. Tổn thất về tài sản được xác định theo quy định tại Điều
17 của Nghị định số 105. Giảm sút về thu nhập, lợi nhuận được xác định theo quy định
tại Điều 18 của Nghị định số 105. Tổn thất về cơ hội kinh doanh được xác định theo quy
định tại Điều 19 của Nghị định số 105. Khi xác định tổn thất về cơ hội kinh doanh cần
lưu ý như sau:
- Phải xác định rõ cơ hội kinh doanh của người bị thiệt hại dựa trên các tiêu chí
sau đây: khả năng thực tế sử dụng, khai thác trực tiếp đối tượng QSHTT trong kinh
doanh; cụ thể là: khả năng là cái có thể xuất hiện, có thể xảy ra trong điều kiện nhất định
đối với chủ thể quyền để sử dụng, khai thác trực tiếp QSHTT trong việc thực hiện liên
tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ
sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi; khả năng thực
tế cho người khác thuê đối tượng QSHTT, cụ thể là chủ thể quyền và đối tác đã có liên
hệ, thoả thuận về việc thuê đối tượng quyền và việc cho thuê đó sẽ được thực hiện trong
điều kiện không có sự xâm phạm từ phía người thứ ba; khả năng thực tế chuyển giao
quyền sử dụng, chuyển nhượng đối tương quyền cho người khác; cụ thể là chủ thể quyền
đã đàm phán, thoả thuận với đối tác về những nội dung cơ bản của hợp đồng và hợp đồng
sẽ được ký kết và được thực hiện trong điều kiện không có sự xâm phạm từ phía người
thứ ba; cơ hội kinh doanh khác bị mất do hành vi xâm phạm trực tiếp gây ra. Trường hợp
này có thể bao gồm việc mất cơ hội đàm phán với đối tác, mất cơ hội kinh doanh, liên kết
trong đầu tư, trong tiếp thị, quảng cáo, xúc tiến thương mại thông qua các cuộc triển lãm,
trưng bày quốc tế… do bị chiếm đoạt đối tượng quyền.
- Tổn thất về cơ hội kinh doanh là thiệt hại về giá trị tính được thành tiền khoản thu
nhập đáng nhẽ người bị thiệt hại có thể có được khi thực hiện các khả năng nêu trên nhưng
thực tế không có được khoản thu nhập đó do hành vi xâm phạm gây ra. Khi xem xét yêu
cầu bồi thường về tổn thất cơ hội kinh doanh, Toà án yêu cầu người bị thiệt hại phải nêu
rõ và chứng minh cơ hội kinh doanh bị mất là gì, thuộc trường hợp nào nêu tại điểm a
tiểu mục này và giá trị tính được thành tiến đối với trường hợp đó để Toà án xem xét
quyết định.
Thứ năm, về căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại.
Khi đương sự yêu cầu Tòa án bảo vệ QSHTT của họ bằng biện pháp dân sự, thì
một trong các mục tiêu của họ là được bồi thường thỏa đáng và kịp thời. Do đó, nếu phán
quyết của Tòa án về mức bồi thường không hợp lý thì lợi ích của đương sự không được
bảo vệ đúng mức, như vậy, mục đích của việc xét xử không đạt được. Để xác định mức
bồi thường thiệt hại, Toà án cần phân biệt như sau: Toà án quyết định bồi thường thiệt
hại trong trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 205 của Luật SHTT chỉ khi không
thể xác định được mức bồi thường thiệt hại về vật chất theo các căn cứ quy định tại điểm
a và điểm b khoản 1 Điều 205. Để đảm bảo quyết định mức bồi thường hợp lý, phù hợp
bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại, Toà án phải căn cứ vào tính
chất của hành vi xâm phạm, hậu quả, mức độ thiệt hại, thời gian và phạm vi xảy ra hành
vi xâm phạm… Mức bồi thường do Toà án quyết định nhưng không quá năm trăm triệu
đồng.
Thiệt hại danh dự, uy tín, nhân phẩm do bị xâm phạm mang biểu hiện là trạng
thái tinh thần bất ổn, buồn bực, đau khổ, tình cảm gia đình bất hòa, bạn bè đồng nghiệp
hiểu lầm xa lánh. Căn cứ đánh giá thông qua chứng minh của đương sự, qua tài liệu cung
cấp của cơ quan, nơi cư trú của đương sự… Bồi thường chi phí khác là các chi phí cần
thiết, chi phí đó phải liên quan đến hành vi xâm phạm nhằm ngăn chặn, hạn chế thiệt hại
của hành vi xâm hại như: chi phí lưu kho lưu bãi, lưu bến bảo quản hàng hóa, tang vật
chứng; chi phí yêu cầu cơ quan chức năng xác minh sự vi phạm, cải chính trên phương
tiện thông tin đại chúng; các chi phí áp dụng BPKCTT.
Thanh toán chi phí để thuê Luật sư là các khoản chi cụ thể cho việc ăn, ở, đi lại,
làm việc… các khoản chi phí này phải là chi phí hợp lý thể hiện ở giá cả trung bình để
hòan thành công việc theo thực tế tại địa phương và cùng thời gian đó; căn cứ là hóa đơn,
chứng từ do đương sự cung cấp.
Ngoài ra, một yếu tố căn bản nữa là khi ấn định mức bồi thường cụ thể cần căn
cứ vào tính chất nghiêm trọng của vụ việc, thể hịên ở đối tượng SHTT bị xâm phạm, quy
mô và mức độ xâm phạm, đây cũng được coi là căn cứ để đánh giá tính chất nghiêm
trọng để ấn định mức bồi thường thiệt hại về tài sản trong trường hợp không xác định
được thiệt hại thực tế.
Thứ sáu, về xử lý hàng hoá xâm phạm QSHTT.
Không phụ thuộc vào việc chủ thể quyền có yêu cầu hay không có yêu cầu, việc xử
lý hàng hoá xâm phạm phải theo đúng các nguyên tắc quy định tại khoản 5 Điều 202 của
Luật SHTT và Điều 29 của Nghị định số 105. Để bảo đảm cho việc xử lý đúng với quy định
về các điều kiện buộc phân phối, đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại, buộc
tiêu huỷ, tịch thu hàng hoá xâm phạm, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện, Toà án phải căn cứ
vào quy định tại các điều 30, 31 và 32 của Nghị định số 105. Trong trường hợp cần thiết phải
áp dụng các biện pháp như xem xét thẩm định tại chỗ, giám định, định giá hàng hoá xâm
phạm, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng
hoá đó… thì Toà án quyết định xem xét thẩm định tại chỗ theo quy định tại Điều 89 của
BLTTDS, Điều 90 của BLTTDS, Điều 201 của Luật SHTT, Điều 39 của Nghị định số 105,
Điều 92 của BLTTDS để xác định yếu tố xâm phạm, sản phẩm xâm phạm, tính năng, công
dụng, giá trị… của hàng hoá xâm phạm, làm cơ sở cho việc quyết định buộc tiêu huỷ hay
không tiêu huỷ.
Thứ bảy, về sự phối hợp giữa Tòa án và các cơ quan chức năng về SHTT.
Trong quá trình giải quyết các tranh chấp về QSHTT cần có sự phối hợp chặt chẽ
giữa Toà án, VKS với Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Văn hóa - Thông tin, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn để thực hiện các việc sau đây: khi có vấn đề chuyên môn
trong lĩnh vực QTG, quyền liên quan, QSHCN, quyền đối với giống cây trồng mà Toà án
đã có văn bản yêu cầu cho ý kiến, thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà các cơ quan chức
năng có trách nhiệm trả lời về các vấn đề mà Toà án yêu cầu hoặc thành lập Hội đồng
giám định để thực hiện yêu cầu của Toà án theo quy định của pháp luật; khi tiến hành
việc truy tố, xét xử các vụ án hình sự mà thấy có hành vi xâm phạm QSHTT, VKS, Toà
án cần thông báo để các cơ quan này có thể tham gia tố tụng hoặc theo dõi kết quả bảo vệ
QSHTT trong phạm vi chức năng của mình; trong quá trình xử lý xâm phạm, giải quyết
tranh chấp, nếu thấy hành vi xâm phạm QSHTT đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo quy
định của BLHS, thì các cơ quan chức năng thông báo và chuyển tài liệu có liên quan cho
Viện VKS có thẩm quyền xem xét, quyết định việc xử lý về hình sự.
Thứ tám, về vấn đề thời hạn trong tố tụng dân sự.
Thủ tục tố tụng dân sự được tiến hành theo trình tự chung là khá phức tạp, kéo
dài thời gian, thông thường một vụ kiện dân sự từ khi nộp đơn khởi kiện cho đến khi
được đưa ra xét xử phải mất bốn đến sáu tháng, có trường hợp kéo dài cả năm, qua nhiều
cấp xét xử… do đó, đối với các vụ án về SHTT cần có hướng dẫn hợp lý các trường hợp
như tạm hoãn, tạm đình chỉ… để tránh kéo dài thời gian giải quyết của Tòa án.
Thứ chín, về định giá tài sản SHTT.
Có thể khẳng định rằng, đây là vấn đề hoàn toàn mới và chưa hề có ở Việt Nam.
Khái niệm về việc định giá tài sản SHTT hoàn toàn là mới mẻ. Hiện nay trong lĩnh vực
SHTT chưa có cơ quan định giá chuyên trách, vì vậy kết quả của Hội đồng định giá chỉ
được Tòa án chấp nhận khi Hội đồng định giá đó được thành lập theo quy định của pháp
luật hiện hành…
Thứ mười, xây dựng các phiên toà mẫu về xét xử các vụ án về SHTT (gồm cả
lĩnh vực hành chính, hình sự và dân sự); tổ chức tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm trong
tiến hành phiên toà, trong tổ chức hoà giải…
Thứ mười một, về công bố các quyết định, bản án của Tòa án về SHTT.
Theo quy định của WTO, việc công bố bản án là yêu cầu bắt buộc đối với các
nước thành viên ("các bản án của Tòa án cấp cao nhất phải được công bố hoặc có sẵn cho
công chúng..."). Tại Báo cáo tổng quan về đánh giá nhu cầu phát triển toàn diện pháp luật
của Việt Nam đến năm 2010 cũng đã phân tích tính cấp thiết của việc nghiên cứu về khả
năng áp dụng án lệ đối với Tòa án như là một nguồn quy phạm bổ sung cho pháp luật
(Phần III. 3.5). Việc công bố các quyết định, bản án của Tòa án sẽ tăng cường tính minh
bạch và có tác dụng trong việc: giúp cho Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật trong công
tác xét xử, nâng cao chất lượng của việc ra bản án; giúp cho các Thẩm phán học hỏi được
kỹ năng viết bản án, kinh nghiệm khai thác và đánh giá chứng cứ…; giúp cho người dân
thấy được kết quả giải quyết vụ án của Tòa án, từ đó sẽ tự mình giải quyết những vụ việc
tương tự mà không cần phải khởi kiện tại Tòa án (trong tranh chấp thương mại quốc tế,
yếu tố này được đánh giá là một trong những điều kiện để thu hút đầu tư); giúp cho cho
cá nhân, tổ chức dễ dàng tiếp cận với công lý, với các cơ quan tư pháp; hỗ trợ công tác
đào tạo, giáo dục, phổ biến và tuyên truyền pháp luật… Năm 2004, TANDTC đã xuất
bản hai tập Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC (2003-2004).
Đây mới chỉ là tuyển tập các quyết định giám đốc thẩm các vụ án Hình sự, Hành chính,
Dân sự; Kinh doanh, thương mại; Lao động… nói chung (trong quyển tập 1, phần thứ
nhất có đăng Quyết định số 08/2003/HĐTP-DS ngày 26-02-2003 về vụ án tranh chấp
quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hóa). Theo quan điểm của Tác giả, căn cứ vào tính đặc thù,
tính phức tạp của thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND, thì việc xây dựng án lệ về SHTT là
một trong những yêu cầu cần thiết trong tình hình hiện nay. Trước mắt, tuy thực tiễn giải
quyết các vụ án về QSHTT tại TAND chưa nhiều, nhưng chúng ta có thể có giải pháp lựa
chọn một số vụ án về SHTT đã xét xử, kết hợp với việc hệ thống hóa các văn bản quy
phạm pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT để xuất bản dưới hình thức Sổ tay Thẩm phán
hoặc Cẩm nang về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND.
3.2.3. Nhóm giải pháp về nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ
Trong hoạt động xột xử của TAND thỡ yếu tố con người đóng vai trũ quyết định.
Trong đú Thẩm phỏn là chủ thể trực tiếp và những cỏn bộ Toà ỏn cú vai trũ hỗ trợ cho
hoạt động xét xử. Theo Chương trỡnh đổi mới công tác, xây dựng, ban hành và nâng cao
chất lượng văn bản quy phạm pháp luật Hiện nay, cán bộ, Thẩm phán của các TAND còn
thiếu kiến thức chuyên sâu về SHTT. Trên thực tế, số cán bộ, Thẩm phán được đào tạo về
SHTT quá ít ỏi. Hầu hết Thẩm phán đương nhiệm của các TAND được đào tạo trong cơ
chế bao cấp do vậy kiến thức của họ hiện nay khụng cũn phự hợp. Hệ thống phỏp luật
Việt Nam đó cú sự thay đổi căn bản, bên cạnh đó là những thay đổi kinh tế, xó hội theo
cơ chế thị trường đũi hỏi cỏc Thẩm phỏn phải cập nhật và đổi mới tư duy. Tại TANDTC,
theo chương trình hợp tác quốc tế giữa Chính phủ Việt Nam với một số tổ chức thuộc
Chính phủ Hoa Kỳ (STAR-VIETNAM), Chính phủ Nhật Bản (JICA), Chính phủ Đan Mạch
(DANIDA) và Chính phủ Thụy Điển (SIDA)… đã tổ chức một số khóa đào tạo dành cho
các Thẩm phán, cán bộ Toà án. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là những đợt đào tạo ngắn hạn,
học viên là một số cán bộ Thẩm phán từ Toà án tỉnh, thành phố và tại các Toà chuyên
trách TANDTC đang làm nhiệm vụ chung, được tham dự lớp bồi dưỡng với thời gian
nhiều nhất chưa tới một tháng cho nên việc tiếp cận với kiến thức, pháp luật về SHTT
chưa sâu, chưa có tính hệ thống. Do vậy, cần đưa ra mục tiêu và chương trình hành động
thiết thực về đào tạo có hệ thống để chuyên môn hoá đội ngũ cán bộ, Thẩm phán ở các
TAND hiện nay, tiến tới mô hình có các Thẩm phán chuyên xét xử về SHTT. Cần chỳ
trọng hỡnh thức bồi dưỡng, tập huấn ngắn ngày để bổ túc kiến thức nghiệp vụ; bồi dưỡng
theo chuyên đề kết hợp với hội thảo tổng kết công tác thực tiễn thường xuyên và liên tục;
xây dựng giáo trình, cẩm nang chuyên về giải quyết tranh chấp SHTT để nâng cao kỹ
năng, năng lực thực hành; đào tạo về ngoại ngữ, tin học cho cán bộ, thẩm phán; thiết lập
mạng lưới thông tin về SHTT giữa các cơ quan, tổ chức hữu quan và Toà án…
Việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trỡnh độ, năng lực của cán bộ, Thẩm phán phải
đi đôi với công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Hoạt động xét xử của TAND không chỉ
mang tính khoa học pháp lý đơn thuần mà cũn thể hiện tớnh Đảng, tính nghệ thuật và tính
nhân văn sâu sắc, do vậy làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng sẽ góp phần nâng
cao hiệu quả, chất lượng cho hoạt động xét xử của các TAND.
Kết luận chương 3
Các giải pháp nêu trên là các giải pháp cơ bản cho việc hoàn thiện pháp luật về
thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND. Các giải pháp mang tính tổng thể từ việc hướng dẫn thi
hành các quy định về bảo vệ QSHTT bằng biện pháp hành chính, biện pháp hình sự, biện
pháp dân sự với các trình tự, thủ tục tố tụng hành chính, trình tự, thủ tục tố tụng hình sự,
trình tự, thủ tục tố tụng dân sự. Bên cạnh đó đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ
chức TAND, qua việc đào tạo cán bộ, Thẩm phán, thành lập Toà chuyên biệt về SHTT
trong hệ thống TAND. Thực hiện tốt các giải pháp đó sẽ nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật về thủ tục bảo vệ QSHTT và hoạt động xét xử của TAND
Kết luận
Như chúng ta đã biết, pháp luật về bảo hộ QSHTT ra đời, hình thành và phát
triển gắn liền với sự phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ của nền kinh tế tri thức. Do
vậy, chúng ta phải nhận thức việc hoàn thiện pháp luật về bảo hộ QSHTT phải dựa trên
quan điểm thực tiễn và phát triển, dựa vào đường lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng
sản Việt Nam, đặc biệt là chính sách phát triển khoa học - công nghệ. Từ đó, chúng ta coi
hoạt động về hoàn thiện pháp luật về bảo hộ QSHTT là một quá trình liên tục, để có định
hướng và giải pháp về hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm tính đầy đủ và tính hiệu quả
của việc thực thi pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND.
Ngày nay, trong điều kiện toàn cầu hóa, những biến đổi cơ bản trong lĩnh vực
SHTT của thế giới sẽ có tác động mạnh mẽ tới Việt Nam. Nhất là Việt Nam đang trong
giai đoạn cuối cùng của quá trình đàm phán để gia nhập WTO. Trong phiên họp chính thức
cuối cùng vào ngày 26-10-2006, Ban công tác của Chính phủ Việt Nam đã đàm phán với
WTO về ba Văn kiện quan trọng nhất trong toàn bộ Dự thảo Hiệp định gia nhập WTO của
Việt Nam. Một trong ba Văn kiện quan trọng đó là Văn kiện về thể chế và pháp luật Việt
Nam. Trong phần nội dung pháp luật đó, pháp luật về SHTT được coi là một trong bốn
"cột trụ" của các vấn đề được đưa ra trên bàn đàm phán. Việt Nam đã được kết nạp vào
WTO tại Hội nghị đặc biệt của Đại hội đồng WTO vào ngày 07-11-2006. Vì vậy, có thể
nói hoàn thiện pháp luật về bảo hộ QSHTT đang trở thành một thực tiễn hết sức sinh động.
danh mục tài liệu tham khảo
1. Bộ Thương mại - Bộ Tài chính - Bộ Công an - Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi
trrường (2000), Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT-BTM-BTC-BCA-
BKHCNMT hướng dẫn thực hiện Chỉ thị số 31/1999/CT-TTg ngày 27-9-1999
của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả,
Hà Nội.
2. Chính phủ (1996), Nghị định số 63/CP ngày 24/10-1996 quy định chi tiết về sở hữu
công nghiệp (đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 06/2001/NĐ-CP ngày
01-02-2001), Hà Nội.
3. Chính phủ (1996), Nghị định số 76/CP ngày 29/11 hướng dẫn thi hành một số quy định
về quyền tác giả trong Bộ luật dân sự năm 1995, Hà Nội.
4. Chính phủ (1998), Nghị định số 45/1998/NĐ-CP ngày 01/7 quy định chi tiết về
chuyển giao công nghệ, Hà Nội.
5. Chính phủ (1999), Nghị định số 12/1999/NĐ-CP ngày 06/3 về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, Hà Nội.
6. Chính phủ (2000), Nghị định số 54/2000/NĐ-CP ngày 03/10 quy định chi tiết đối với
bí mật kinh doanh, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý và bảo hộ cạnh tranh không
lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp, Hà Nội.
7. Chính phủ (2000), Nghị định số 72/2000/NĐ-CP ngày 05/12 về công bố, phổ biến tác
phẩm ra nước ngoài, Hà Nội.
8. Chính phủ (2001), Nghị định số 13/2001/NĐ-CP ngày 20/4 về bảo hộ giống cây trồng
mới, Hà Nội.
9. Chính phủ (2001), Nghị định số 31/2001/NĐ-CP ngày 26/6 về sửa đổi, bổ sung Nghị
định số 57/CP ngày 31/5/1997 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
văn hoá - thông tin, Hà Nội.
10. Chính phủ (2001), Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 19/7 của Thủ tướng Chính
phủ về Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2002 -
2010, Hà Nội.
11. Chính phủ (2001), Nghị định số 101/2001/NĐ/CP ngày 31/12 quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Hải quan về thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra, giám
sát hải quan, Hà Nội.
12. Chính phủ (2003), Quyết định số 909/QĐ-TTg ngày 14/8 của Thủ tướng Chính phủ
về Chương trình đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng
văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội.
13. Chính phủ (2006), Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21/9 về quyền tác giả và
quyền liên quan đến quyền tác giả, Hà Nội.
14. Chính phủ (2006), Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22/9 về sở hữu công nghiệp, Hà
Nội.
15. Chính phủ (2006), Nghị định số 104/2006/NĐ-CP ngày 22/9 về quyền đối với giống
cây trồng, Hà Nội.
16. Chính phủ (2006), Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9 về bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, Hà Nội.
17. Công ước quốc tế về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức phát
sóng (Công ước ROME) (1961).
18. Công ước thành lập Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) (Công ước
STOCKHOLM) (1967).
19. Công ước quốc tế về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật (Công ước BERNE)
(1971).
20. Công ước toàn cầu về quyền tác giả (Công ước UCC) (1971).
21. Công ước về bảo hộ người sản xuất bản ghi âm chống việc sao chép trái phép (Công
ước GENEVA) (1971).
22. Công ước liên quan đến việc phân phối các tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ
tinh (có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 12-01-2006) (Công ước BRUSSELS)
(1974).
23. Công ước quốc tế về bảo hộ sở hữu công nghiệp (Công ước Paris) (1979).
24. Công ước quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới (Công ước UPOV) (1991).
25. Đại học Quốc gia Hà Nội (2005), Cơ chế thực thi pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học
trọng điểm cấp quốc gia, Mã số QGTĐ.03.05, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Nghị quyết của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01 của Bộ
Chính trị (khóa IX) về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ Chính
trị (khóa IX) về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 của Bộ Chính
trị (khóa IX) về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương (khóa
IX) ngày 10/4 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
2006 - 2010, Hà Nội.
34. Hiến pháp Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992) (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
35. Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp
định TRIPs) (1994).
36. Hiệp định tổng quát về thương mại và thuế quan (Hiệp định GATT) (1994).
37. Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Liên
bang Thụy Sĩ về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và hợp tác trong lĩnh vực sở hữu
trí tuệ (2000).
38. Hiệp định hợp tác khoa học về công nghệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ (2000).
39. Hiệp định giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về
thương mại và sở hữu trí tuệ (Hiệp định BTA) (2001).
40. Hiệp hội Sở hữu trí tuệ châu á (1995), "Giới thiệu về quyền sở hữu trí tuệ", APA
NEWS, Tokyo.
41. Hiệp ước về sự công nhận quốc tế đối với việc nộp lưu chủng vi sinh nhằm tiến hành
các thủ tục về Patent (Hiệp ước BUĐAPEST) (1977).
42. Hiệp ước về sở hữu trí tuệ đối với mạch tích hợp (Hiệp ước WASHINHTON) (1989).
43. Hiệp ước của WIPO về quyền tác giả (Hiệp ước WCT) (1996).
44. Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm (Hiệp ước WPPT) (1996).
45. Hiệp ước Luật nhãn hiệu hàng hóa (Hiệp ước GENEVA) (1996).
46. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2003), Nghị quyết số 03/2003/NQ-
HĐTP ngày 18/4 hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh Thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính, Hà Nội.
47. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2005), Nghị quyết số 01/2005/NQ-
HĐTP ngày 31/3 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất
"Những quy định chung" của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Hà Nội.
48. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2005), Nghị quyết số 02/2005/NQ-
HĐTP ngày 27/4 hướng dẫn thi hành một số quy định tại Chương VIII "Các
biện pháp khẩn cấp tạm thời" của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Hà Nội.
49. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2005), Nghị quyết số 04/2005/NQ-
HĐTP ngày 17/9 hướng dẫn thi hành một số quy định về "Chứng minh và chứng cứ"
của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Hà Nội.
50. Nguyễn Thị Minh Nguyệt (Chủ biên) (2000), Cẩm nang pháp luật về sở hữu trí tuệ và
chuyển giao công nghệ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Đặng Quang Phương (2005), Những vấn đề pháp lý cơ bản về hội nhập kinh tế quốc
tế, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
52. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
53. Quốc hội (1988), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
54. Quốc hội (1995), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
55. Quốc hội (1997), Luật thương mại, Hà Nội.
56. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội
57. Quốc hội (2000), Luật khoa học và công nghệ, Hà Nội.
58. Quốc hội (2000), Luật hải quan, Hà Nội.
59. Quốc hội (2002), Luật tổ chức Toà án nhân dân, Hà Nội.
60. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
61. Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội.
62. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
63. Quốc hội (2005), Luật cạnh tranh, Hà Nội.
64. Quốc hội (2005), Luật sở hữu trí tuệ, Hà Nội.
65. Quốc hội (2005), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo, Hà Nội.
66. Tamotsu Hozumi (2005), Cẩm nang quyền tác giả khu vực châu á, Nxb Kim Đồng, Hà
Nội.
67. Lê Xuân Thảo (1996), Đổi mới và hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật về bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Luận án phó tiến
sĩ luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
68. Lê Xuân Thảo (2005), Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
69. Thỏa ước MADRID về Đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa (1995) và Nghị định thư
liên quan đến Thỏa ước MADRID về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa
(1989) (có hiệu lực ở Việt Nam từ ngày 10-7-2006).
70. Thoả ước về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp (Thoả ước LA HAY) (1960).
71. Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) (2000), Cẩm nang Sở hữu trí tuệ.
72. Tòa án nhân dân tối cao (1989), Thông tư số 03/NCPL ngày 22/7 hướng dẫn xét xử
các tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp, Hà Nội.
73. Tòa án nhân dân tối cao (1999), Nâng cao vai trò và năng lực của Toà án trong việc
thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn,
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
74. Tòa án nhân dân tối cao (2005), Tài liệu tập huấn về sở hữu trí tuệ cho các Thẩm
phán Việt Nam tại Tòa Trung tâm Thương mại và Sở hữu trí tuệ Thái Lan, Hà
Nội.
75. Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Văn hóa Thông tin
(2001), Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BVHTT
ngày 05/12 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự trong việc
giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền tác giả tại Tòa án nhân dân, Hà
Nội.
76. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
77. Từ điển tiếng Việt (2003), Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
78. ủy ban Thường vụ Quốc hội (1989), Pháp lệnh về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp,
Hà Nội.
79. ủy ban Thường vụ Quốc hội (1989), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự,
Hà Nội.
80. ủy ban Thường vụ Quốc hội (1996), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính, Hà Nội.
81. ủy ban Thường vụ Quốc hội (1994), Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả, Hà Nội.
82. ủy ban Thường vụ Quốc hội (1998), Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996, Hà Nội.
83. ủy ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội.
84. ủy ban Thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh giống cây trồng, Hà Nội.
85. ủy ban Thường vụ Quốc hội (2006), Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998, Hà Nội.
86. Viện thống nhất tư pháp quốc tế (2004), Các nguyên tắc của Thủ tục tố tụng dân sự
xuyên quốc gia (UNIDROIT).
Tiếng Anh
87. Bryan A.Garner (1999), Blacks law dictionary, WEST GROUP.
88. Carlos M.Corrrea, Abdulqawi A. Yusuf (1988), "Intellectual property and
international trade: The TRIPs agreement/editors", Kluwer Law International.
89. Jayashree Watal (2001), "Intellectual property right in the WTO and deleloping
countries" Kluwer Law International.
trang web
90. http://www.noip.gov.vn (trang web của Cục Sở hữu trí tuệ).
91. http://www.lele.com.vn (trang web của Công ty Tư vấn luật sở hữu trí tuệ LÊ&LÊ).
phụ lục
Phụ lục 1
Hệ thống tòa án tại thái lan
sơ đồ tòa iP&iT - thái lan
Toà án tối cao
Toà Phúc thẩm và các Toà phúc thẩm cấp
khu vực
Các Toà Sơ thẩm
Chánh án
Phó Chánh án
Phó Chánh án
Thư ký Toà án
Vụ Tài chính
Kế toán
Vụ Hành chính Tổng hợp
Vụ Dịch vụ và
Quan hệ công
Vụ Hỗ trợ xét xử
Bộ phận Quản lý án
Thẩm phán đọc cáo trạng và hỏi bị cáo
Hệ thống giải quyết các vụ án hình sự và dân sự
về quyền sở hữu trí tuệ
Quá trình tố tụng hình sự tại Toà IP&IT
Bộ phận nhận
cáo trạng
Công tố viên
đưa cáo
Bị cáo nhận tội
Xem xét chứng cứ
Phán
* Phạt tiền * Phạt tù/án treo
Kháng cáo tới Toà
Bị cáo nhận tội
Toà IP&IT Central Intellectual property &
Toà án tối cao Supreme Court
Quá trình tố tụng dân sự tại Toà IP&IT
Hệ thống giải quyết các vụ việc hành chính
Bộ phận nhận đơn
Đơn kiện
Thẩm Đình chỉ vụ Thụ lý vụ
Vào sổ & phán Triệu tập để
Không trả
Xem xét chứng cứ
Bị cáo nộp trả
Thảo luận giải quyết vấn đề
trước phiên toà
Xem xét chứng cứ
Hoà
Phán
Kháng cáo tới Toà
Nộp
Kháng cáo tới Toà án tối cao
Thành Thất bại
Văn phòng về sở hữu trí tuệ Department of Intellectual Property
Toà án tối cao
một số thông tin về tòa IP&IT
Trên cơ sở Luật thành lập Toà án Sở hữu trí tuệ và Thương mại quốc tế được
Quốc hội thông qua ngày 25-12-1996, ngày 01-12-1997 Toà án Trung ương về Sở hữu trí
tuệ và Thương mại quốc tế (tiếng Anh là: "Central Intellectual Property and International
Trade Court" - viết tắt là Tòa IT&IP) đã chính thức đi vào hoạt động. Tòa IT&IP ra đời
với mục đích làm cho việc thi hành QSHTT trở nên hiệu quả hơn; thực hiện nghĩa vụ của
Thái Lan theo Hiệp định TRIPs; tạo ra một diễn đàn thuận tiện để giải quyết tranh chấp
trong thương mại quốc tế. Với mô hình cao nhất là Tòa án tối cao, bên dưới là Tòa phúc
thẩm và các Tòa phúc thẩm cấp khu vực, thấp nhất là hệ thống Tòa sơ thẩm (bao gồm các
Tòa sơ thẩm tại các tỉnh và các tòa sơ thẩm tại thủ đô Bangkok). Tòa IT&IP thuộc cấp
Tòa sơ thẩm, nằm tại thủ đô BangKok (bên cạnh các Tòa dân sự, Tòa hình sự, Tòa án vị
thành niên trung ương, Tòa án lao động trung ương, Tòa án thuế trung ương…).
Khác với các Tòa án khác, Toà án IT&IP có các Thẩm phán chuyên nghiệp về
SHTT và thương mại quốc tế. Bên cạnh việc áp dụng pháp luật như Luật nhãn hiệu
thương mại (năm 1991), Luật sáng chế (năm 1992), Luật về QTG (năm 1994)..., với sự
phê chuẩn của Chánh án Toà án tối cao đã ban hành Các nguyên tắc của Toà án IT&IP,
theo đó, Toà án IT&IP được sử dụng độc lập các quy định để bảo đảm tính hiệu quả của
Toà án. Toà án IT&IP có thẩm quyền chuyên biệt về các loại việc dân sự và hình sự và
phúc thẩm các quyết định của văn phòng về SHTT trong phạm vi toàn quốc; về những
vấn đề liên quan đến thương mại quốc tế (bao gồm: buôn bán, dịch vụ, vận chuyển; thanh
toán, chứng khóan tài chính, các vụ liên quan tới thư tín dụng, biên lai tín thác; bảo hiểm
quốc tế và những hành vi pháp lý liên quan…); về bắt giữ tàu biển; về chống bán phá giá
và trợ giá; về thi hành quyết định trọng tài về các vấn đề SHTT và thương mại quốc tế.
Toà án về thương mại quốc tế và sở hữu trí tuệ
Hiện nay, bằng cách tiếp tục sửa đổi pháp luật, Thái Lan đang mở rộng thẩm quyền của
Toà án đối với các vụ việc khác. Sau đây là một số thủ tục đặc biệt:
- Người có quyền có thể yêu cầu Toà án ban hành lệnh ngăn chặn theo pháp luật
về SHTT trước khi nộp đơn khiếu nại hoặc trước khi khởi tố. ("Trong trường hợp có
chứng cứ rõ ràng rằng một người thực hiện, đang thực hiện hoặc chuẩn bị thực hiện một
hành vi vi phạm QSHTT, chủ thể quyền có thể nộp đơn yêu cầu lên Toà án để ra lệnh
ngăn chặn người đó thực hiện việc vi phạm").
- Biện pháp bảo vệ tạm thời trước khi khởi kiện (là lệnh cấm tạm thời, trong đó
nghĩa vụ của người yêu cầu phải nộp tiền bảo đảm, bồi thường thiệt hại do yêu cầu áp
dụng biện pháp bảo vệ tạm thời không có căn cứ…).
- áp dụng cho việc xem xét trước chứng cứ (tịch thu hoặc kê biên tài liệu hoặc vật
dụng). Đây là lần đầu tiên trong các luật về thủ tục tố tụng tại Thái Lan có quy định loại
thủ tục tố tụng theo kiểu "Lệnh Anton-Piller". Trong trường hợp khẩn cấp, người yêu cầu
có thể đồng thời nộp một đề nghị với nội dung là Toà án có thể ra lệnh hoặc ra lệnh bảo
đảm không chậm trễ. Khi cần thiết, người yêu cầu cũng có thể yêu cầu Toà án bắt giữ
hoặc tịch thu tài liệu hoặc giấy tờ có thể được viện dẫn đến như là chứng cứ dưới bất kỳ
điều kiện nào mà Toà án thấy thích hợp.
- Hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán. Hai trong số này phải là các Thẩm phán
chuyên nghiệp có kiến thức về các vấn đề SHTT hoặc thương mại quốc tế. Thành viên
thứ ba là một Thẩm phán bổ trợ không chuyên (có thể là một giáo sư, quan chức chính
phủ…), nhưng có kiến thức về SHTT hoặc thương mại quốc tế. Đây là sự bảo đảm kép
cho kiến thức chuyên môn hoá.
- Sử dụng các hội nghị trước phiên toà để tạo điều kiện thuận lợi cho một phiên
toà nhanh chóng, hiệu quả và công bằng. Xét xử bằng phương pháp hội nghị (qua video
để kiểm tra nhân chứng ở ngoài Toà án, bao gồm cả ở nước ngoài; chấp nhận thông tin
lưu trong máy tính). Phiên xét xử được tiến hành liên tục, cả ngày để tránh sự chậm trễ. Khả
năng tranh tụng kín cũng được áp dụng trong những vụ án thích hợp để bảo vệ thông tin bí
mật QSHTT hoặc tránh thiệt hại trong thương mại quốc tế cho các bên…
- Sử dụng lời khai viết và lời khai có tuyên thệ cùng với các chứng cứ bằng miệng,
nhanh chóng thẩm vấn và ban hành các lệnh tạm thời.
- Khả năng chỉ định các giám định viên với tư cách amicus curiae (tức là "nguời
bạn của Toà án").
- Chấp nhận kháng cáo trực tiếp lên Toà IP&IT thuộc Toà án tối cao (còn gọi là
thủ tục "nhảy cóc").
- Được sự đồng ý của các bên, các chứng cứ văn bản bằng tiếng Anh không liên
quan đến những vấn đề chính trong tranh chấp không buộc phải dịch sang tiếng Thái Lan.
- Người xâm phạm QSHTT là người chưa thành niên, thì sẽ bị xét xử tại Toà án
gia đình và vị thành niên chứ không phải tại Toà án IP & IT.
Nguồn: [74].
Phụ lục 2
mô hình Tòa án và Sơ đồ thủ tục tố tụng của một số nước
1. ở Anh và Xứ Uên
- Hệ thống giải quyết các vụ việc dân sự:
- Hệ thống giải quyết các vụ việc hành chính:
Toà án về văn bằng sáng chế Patents Court hoặc Patents
Toà phúc thẩm Court of appeals
Toà án tối cao House of Lords
Văn phòng về văn bằng sáng chế
Toà án về văn bằng sáng chế Patents Court hoặc Patents
Toà phúc thẩm Court of appeals
Toà án tối cao House of Lords
2. ở Đức
- Hệ thống giải quyết các vụ việc dân sự:
- Hệ thống giải quyết các vụ việc hành chính:
Toà án cấp quận District Court
Toà án cấp cao High Court
Toà án liên bang Federal Ordinary
Văn phòng về sáng chế và nhãn hiệu hàng hoá
Toà án liên bang về văn bằng sáng chế
Toà án liên bang Federal Ordinary Court
3. ở Mỹ
- Hệ thống giải quyết các vụ việc dân sự:
- Hệ thống giải quyết các vụ việc hành chính:
Toà án quận cấp liên bang Federal District Court
Toà phúc thẩm Court of Appeals for the
Toà án tối cao Supreme Court
Văn phòng về sáng chế và nhãn hiệu hàng hoá
Toà phúc thẩm Court of Appeals for the
Toà án tối cao Supreme Court
Toà án quận Washington DC Washington DC District
4. ở Hàn Quốc
- Hệ thống giải quyết các vụ việc dân sự:
- Hệ thống giải quyết các vụ việc hành chính:
Toà án quận District Court
Toà án cấp cao High Court
Toà án tối cao Supreme Court
Văn phòng về quyền sở hữu trí tuệ
Toà án về văn bằng sáng chế Patent Court
Toà án tối cao Supreme Court
5. ở Nhật Bản
- Hệ thống giải quyết các vụ việc dân sự:
- Hệ thống giải quyết các vụ việc hành chính:
Nguồn: [74].
Toà về sở hữu công nghiệp của Toà án cấp quận của Tokyo hoặc Osaka
Toà án cấp cao về sở hữu trí tuệ
Toà án tối cao Supreme Court
Văn phòng về văn bằng sáng chế Patent Office
Toà án cấp cao về sở hữu trí tuệ
Toà án tối cao Supreme Court
top related