bỘ kẾ hoẠch vÀ ĐẦu tƯ cỘng hÒa xà hỘi chỦ nghĨa...

18
BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ CỤC PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ————— ————————————— BÁO CÁO ĐỊNH HƯỚNG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NĂM 2014 I- Đánh giá chung tình hình hoạt động của doanh nghiệp 6 tháng đầu năm 2013 Trong 6 tháng đầu năm 2013, dưới sự chỉ đạo tập trung, quyết liệt của Chính phủ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành trong việc triển khai thực hiện các giải pháp đã đề ra tại Nghị quyết số 01/NQ-CP, số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 và Nghị quyết các phiên họp thường kỳ của Chính phủ, tình hình kinh tế xã hội đã có những chuyển biến bước đầu, tích cực và đúng hướng. Tăng trưởng của hầu hết các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế đã có cải thiện. Tính chung 6 tháng đầu năm 2013, GDP ước tăng 4,9%, xấp xỉ tốc độ tăng cùng kỳ năm trước (đạt 4,93%). Tính chung 6 tháng đầu năm 2013, chỉ số phát triển công nghiệp IIP ước tăng 5,2%, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục phát triển nhưng tốc độ chậm lại. Tổng kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm ước đạt 62,05 tỷ USD, tăng 16,1% so với cùng kỳ năm 2012 (cùng kỳ tăng 22,2%). Mặc dù khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng chính 1 , tổng kim ngạch xuất khẩu của khu vc doanh nghiệp trong nước năm 2013 cũng có dấu hiệu tăng nhẹ, ước đạt 20,9 tUSD, chiếm 34% tng kim ngch xut khu ca cnước, tăng 2,2%. Mặc dù có một số dấu hiệu tích cực trên, doanh nghiệp vẫn đang gặp phải rất nhiều khó khăn và tiếp tục cần có các giải pháp tháo gỡ, khắc phục để có thể duy trì và phát triển. 1. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp 1.1. Kết quả hoạt động kinh doanh thông qua các chỉ tiêu lợi nhuận Theo báo cáo của các địa phương (45/63 địa phương), năm 2012 và 6 tháng đầu năm 2013, tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp đã có dấu hiệu cải thiện, nhưng không đáng kể. Ước 6 tháng đầu năm 2013, cả nước 38,9 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 7,6% so với cùng kỳ (cùng 1 Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) chiếm 66% tng kim ngch xut khu ca cnước, tăng 24,7% so với cùng knăm 2012;

Upload: others

Post on 03-Mar-2020

4 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA …business.gov.vn/...DinhHuong...dinhhuong_PTDN_2014.pdfChính phủ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ

CỤC PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

————— —————————————

BÁO CÁO ĐỊNH HƯỚNG KẾ HOẠCH

PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NĂM 2014

I- Đánh giá chung tình hình hoạt động của doanh nghiệp 6 tháng đầu

năm 2013

Trong 6 tháng đầu năm 2013, dưới sự chỉ đạo tập trung, quyết liệt của

Chính phủ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành trong việc triển khai thực hiện các

giải pháp đã đề ra tại Nghị quyết số 01/NQ-CP, số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013

và Nghị quyết các phiên họp thường kỳ của Chính phủ, tình hình kinh tế xã hội

đã có những chuyển biến bước đầu, tích cực và đúng hướng. Tăng trưởng của

hầu hết các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế đã có cải thiện.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2013, GDP ước tăng 4,9%, xấp xỉ tốc độ tăng

cùng kỳ năm trước (đạt 4,93%). Tính chung 6 tháng đầu năm 2013, chỉ số phát

triển công nghiệp IIP ước tăng 5,2%, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp

tục phát triển nhưng tốc độ chậm lại. Tổng kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm

ước đạt 62,05 tỷ USD, tăng 16,1% so với cùng kỳ năm 2012 (cùng kỳ tăng 22,2%).

Mặc dù khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng chính1,

tổng kim ngạch xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp trong nước năm 2013 cũng có

dấu hiệu tăng nhẹ, ước đạt 20,9 tỷ USD, chiếm 34% tổng kim ngạch xuất khẩu của

cả nước, tăng 2,2%.

Mặc dù có một số dấu hiệu tích cực trên, doanh nghiệp vẫn đang gặp phải

rất nhiều khó khăn và tiếp tục cần có các giải pháp tháo gỡ, khắc phục để có thể

duy trì và phát triển.

1. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp

1.1. Kết quả hoạt động kinh doanh thông qua các chỉ tiêu lợi nhuận

Theo báo cáo của các địa phương (45/63 địa phương), năm 2012 và 6

tháng đầu năm 2013, tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp đã có dấu

hiệu cải thiện, nhưng không đáng kể. Ước 6 tháng đầu năm 2013, cả nước có

38,9 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 7,6% so với cùng kỳ (cùng

1 Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) chiếm 66% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả

nước, tăng 24,7% so với cùng kỳ năm 2012;

Page 2: BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA …business.gov.vn/...DinhHuong...dinhhuong_PTDN_2014.pdfChính phủ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành

2

Tính đến ngày 31/12/2012, Đắk Nông có 1.099 doanh nghiệp đang hoạt động, hầu hết là

DNNVV, quy mô sản xuất nhỏ, nguồn vốn hạn chế (chủ yếu là vốn riêng của chủ doanh

nghiệp, cổ đông hoặc vốn góp của bạn bè, người thân, họ hàng). Trình độ quản lý, điều

hành còn hạn chế nên hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, doanh thu hàng năm có tăng lên

(do giá các mặt hàng tăng) nhưng lợi nhuận tăng không đáng kể, thậm chí còn thua lỗ.

Doanh nghiệp rất khó tiếp cận vốn ngân hàng nên thiếu vốn. Máy móc, thiết bị lạc hậu

(76% máy móc, dây chuyền công nghệ được sản xuất từ những năm 1950-1960); đa số

doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp trong lĩnh vực nông sản, không đủ nguồn nguyên liệu

ổn định.

kỳ giảm 12,4%). Số lượng doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động đã quay trở lại

hoạt động cũng tăng dần qua các tháng: 4 tháng khoảng 8,3 nghìn; 5 tháng

khoảng 8,8 nghìn; 6 tháng khoảng 9,3 nghìn doanh nghiệp. Hoạt động sản xuất

kinh doanh của các doanh nghiệp đã dần khôi phục, nhờ đó tỷ lệ người thất

nghiệp và thiếu việc làm năm 2012 và 6 tháng năm 2013 đang có xu hướng

giảm.

Tuy nhiên, đánh giá chung khu vực doanh nghiệp, bao gồm cả doanh

nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) ngoài quốc doanh

cho thấy tình hình sản xuất, kinh doanh còn rất nhiều khó khăn. Tại hầu hết các

địa phương, tỷ lệ doanh nghiệp kinh doanh có lãi, có đóng góp cho ngân sách

địa phương chiếm chưa đầy 50% trong tổng số doanh nghiệp còn hoạt động. Tại

một số địa phương, tỷ lệ doanh nghiệp thua lỗ lên cao ở mức báo động.

Năm 2012, theo báo cáo của các địa phương, trong số các doanh nghiệp

hoạt động có khoảng 49% doanh nghiệp kinh doanh có lãi và 39% doanh nghiệp

thua lỗ. Mặc dù tỷ lệ này có cải thiện so với mức 43,2% doanh nghiệp có lãi và

52,4% doanh nghiệp thua lỗ của năm 2011, mức độ cải thiện là rất nhỏ. Ước 6

tháng đầu năm 2013, tỷ lệ doanh nghiệp kinh doanh có lãi trong số các doanh

nghiệp đang hoạt động giảm xuống còn 44%. Đặc biệt, tại một số địa phương, tỷ

lệ doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ ở mức rất cao, gây thất thu ngân sách địa

phương (Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh). Báo cáo của thành phố Đà Nẵng

cho biết, năm 2012, trong tổng số hơn 10.200 doanh nghiệp tư nhân đang hoạt

động chỉ có khoảng 3.400 doanh hoạt động có lãi (chiếm 33,5%) trong khi có tới

hơn 6.800 hoạt động thua lỗ (chiếm 66,5%), ước 6 tháng đầu 2013 có 7.164

doanh nghiệp thua lỗ so với 3.119 doanh nghiệp có lãi. Tại Bắc Ninh, tỷ lệ

doanh nghiệp kinh doanh có lãi giảm đáng kể từ 70% năm 2011 (khoảng 2.700

DN) xuống còn 19% năm 2012 (850 DN). Tại Đắk Nông, chỉ có 342 doanh

nghiệp kinh doanh có lãi so với 1.354 doanh nghiệp thua lỗ (80% doanh nghiệp

lỗ, 20% doanh nghiệp lãi, trong khi năm 2011 tỷ lệ này là 86,7% lãi, 12,3% lỗ).

Page 3: BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA …business.gov.vn/...DinhHuong...dinhhuong_PTDN_2014.pdfChính phủ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành

3

Lợi nhuận trước thuế của khu vực doanh nghiệp tư nhân có xu hướng giảm

đáng kể, từ 115,6 nghìn tỷ đồng năm 2010 xuống còn 87 nghìn tỷ đồng năm

2011.

Năm 2012, tuy chưa thống kê được cả nước nhưng báo cáo của một số địa

phương cho thấy lợi nhuận của doanh nghiệp có xu hướng giảm so với 2011

như: Cà Mau (giảm từ 2.492 tỷ năm 2011 xuống 610,46 tỷ đồng năm 2012),

Đồng Tháp (giảm từ 1.661 tỷ đồng năm 2011 xuống 570,32 tỷ đồng năm 2012),

Tiền Giang (giảm từ 3.112 tỷ đồng năm 2011 xuống còn 1.614 tỷ đồng năm

2012). Đây là dấu hiệu cho thấy năm 2012, tình hình khó khăn của doanh nghiệp

chưa được cải thiện và xu hướng này vẫn tiếp diễn trong năm 2013.

1.2. Doanh nghiệp, đặc biệt là DNNVV thiếu vốn lưu động, tồn kho cao

Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo các tháng đầu năm

2013 tuy có tăng so với cùng kỳ năm 2012 nhưng mức tăng đang giảm dần, cụ

thể như sau:

Thời điểm Chỉ số tồn kho công nghiệp chế biến, chế

tạo (so với cùng kỳ năm ngoái)

01/01/2013 +21,5%

01/02/2013 +19,9%

01/03/2013 +16,5%

01/04/2013 +13,1%

01/05/2013 +12,3%

01/06/2013 +9,7%

Mặc dù chỉ số tồn kho đang được cải

thiện, nhưng thực tế các doanh nghiệp đang

thiếu vốn lưu động do hàng hóa tồn kho còn

nhiều, có một số loại sản phẩm tồn kho

được tiêu thụ với giá rẻ, doanh nghiệp chấp

nhận lợi nhuận thấp, thậm chí lỗ để giải phóng

hàng tồn kho, thu hồi vốn đầu tư sang lĩnh

vực khác.

Một số sản phẩm có mức tiêu thụ giảm đáng kể so với năm 2011 như: mặt

hàng thép xây dựng giảm 8,19%, doanh nghiệp ngành rượu đối mặt với mức

tăng trưởng âm, tốc độ tiêu thụ chậm.

1.3. Tình hình xuất khẩu và tiêu thụ trong nước

Theo báo cáo của thành phố Hà Nội,

tình trạng thiếu vốn lưu động đang rất

khó khăn do hàng hóa tồn kho nhiều,

nhiều doanh nghiệp lượng tồn kho tăng

50-60% so với cùng kỳ, tập trung ở

nhóm vật liệu xây dựng và sản phẩm

điện máy.

Page 4: BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA …business.gov.vn/...DinhHuong...dinhhuong_PTDN_2014.pdfChính phủ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành

4

Tổng kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm của cả nước ước đạt 62,05 tỷ

USD, tăng 16,1% so với cùng kỳ năm 2012. Xuất khẩu tiếp tục duy trì được tốc độ

tăng trưởng cao là nhờ đóng góp chủ yếu của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Hoạt động thương mại, xuất khẩu của khối các doanh nghiệp trong nước tăng

không đáng kể khoảng 2,2% so với cùng kỳ năm 2012 (cùng kỳ năm 2011 tăng

1%). Dù mức tăng so với cùng kỳ không cao nhưng cũng là dấu hiệu cho thấy

sản xuất của các doanh nghiệp trong nước đã khôi phục hơn.

Về tiêu thụ trong nước, theo Tổng cục thống kê, tổng mức bán lẻ hàng

hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2013 ước đạt 1.275.414 tỷ

đồng, tăng 11,9% (thấp hơn mức tăng cùng kỳ năm 2012 là 19,7%). Nếu loại trừ

yếu tố giá thì tốc độ tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng

6 tháng tăng 4,9% thấp hơn mức tăng cùng kỳ năm 2012 (6,7%). Theo báo cáo

một số tỉnh, hoạt động đưa hàng Việt về nông thôn, vận động Người Việt Nam

ưu tiên dùng hàng Việt Nam đã có nhiều dấu hiệu tích cực, góp phần nâng cao

tổng mức lưu chuyển hàng hóa của các doanh nghiệp. Các hoạt động nhằm ổn

định thị trường như bình ổn giá và chống buôn lậu, hàng giả, hàng kém chất

lượng; phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý vi phạm trong kinh doanh của Chính phủ

cũng đang góp phần cải thiện thị trường trong nước để thúc đẩy sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp2.

Mặc dù vậy, các doanh nghiệp vẫn đang gặp khó khăn để tìm kiếm khách

hàng trong nước, một số doanh nghiệp chấp nhận giảm giá, lợi nhuận thấp hoặc

lỗ tạm thời để giảm hàng tồn kho, duy trì vốn lưu động cho sản xuất kinh doanh.

1.4. Thất nghiệp, thiếu việc làm tuy có giảm nhưng tình trạng nợ đọng

bảo hiểm xã hội tăng cao, gây ảnh hưởng đến đời sống người lao động

Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm trong các tháng gần đây giảm dần

so với các năm trước. Theo Báo cáo điều tra lao động của Tổng cục thống kê

quý 4 năm 2012, tỷ lệ thiếu việc làm và thất nghiệp trong độ tuổi lao động giai

đoạn 2009-2012 như sau (đơn vị tính: %):

2 Theo báo cáo tình hình sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại 6 tháng đầu năm 2013 của Bộ Công

thương, trong 6 tháng đầu năm 2013, lực lượng Quản lý thị trường kiểm tra 67.850 vụ, xử lý 37.383 vụ vi phạm

(trong đó 5.728 vụ buôn bán hàng lậu, hàng cấm; 5.303 vụ hàng giả, hàng kém chất lượng; 18.166 vụ kinh doanh

trái phép và 8.636 vụ vi phạm trong lĩnh vực giá) với tổng số thu 130,49 tỷ đồng (trong đó phạt vi phạm hành

chính 82,7 tỷ; tiền bán hàng tịch thu là 46,59 tỷ và truy thu thuế là 1,2 tỷ đồng).

Page 5: BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA …business.gov.vn/...DinhHuong...dinhhuong_PTDN_2014.pdfChính phủ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành

5

Số người đăng ký thất nghiệp giảm: Tính đến ngày 20/5/2013, cả nước có

182.263 người lao động đăng ký thất nghiệp, bằng 85,56% so với cùng kỳ năm

ngoái (cùng kỳ năm ngoái là 212.966 người).

-

Tuy nhiên, do khó khăn sản xuất kinh doanh vẫn diễn ra phổ biến, các

doanh nghiệp có xu hướng cắt giảm lao động, giảm lương, trì hoãn đóng bảo

hiểm cho người lao động. Theo báo cáo của Bảo hiểm xã hội Việt Nam3, tính

đến ngày 31/3/2013, số nợ bảo hiểm xã hội (BHXH) và bảo hiểm y tế (BHYT)

trong đó chiếm tỷ lệ lớn của các doanh nghiệp là 9.189,1 tỷ đồng, tăng 1.173,1

tỷ đồng (14,6%) so với cùng kỳ năm 2012. Nhiều doanh nghiệp phá sản, giải thể

hoặc tạm ngừng hoạt động không có khả năng đóng BHXH làm cho số nợ tăng

nhanh. Xu hướng này tiếp tục tiếp diễn kéo theo các hệ quả về mặt xã hội, ảnh

hưởng đến đời sống người lao động.

2. Đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tại một

số ngành

Theo phản ánh của nhiều địa phương, các doanh nghiệp trong một số

ngành gặp rất nhiều khó khăn, cụ thể:

a. Sản xuất, chế biến lương thực

3 Theo thông báo Số: 1360/TB-BHXH ngày 12/4/2013 Kết luận của Tổng giám đốc tại cuộc họp giao ban tháng 4 năm 2013 của Bảo hiểm

xã hội Việt Nam

%

Theo báo cáo tình hình Kinh tế xã hội thành phố Hồ Chí Minh, số người lao động đăng ký

thất nghiệp 6 tháng đầu năm 2013 là 49.973 người, giảm 22,5% so với cùng kỳ. Trong đó

có 43.526 người nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp, giảm 4% so với cùng kỳ. Theo nhận

định của thành phố, nguyên nhân chính số người đăng ký thất nghiệp giảm là do các doanh

nghiệp sử dụng nhiều lao động đã ổn định sản xuất so với năm trước.

Page 6: BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA …business.gov.vn/...DinhHuong...dinhhuong_PTDN_2014.pdfChính phủ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành

6

Hiện nay, vấn đề khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp ngành sản xuất,

chế biến lương thực là giá các nguyên liệu đầu vào liên tục biến động, các doanh

nghiệp thiếu vốn trong việc đầu tư nâng cấp và thay đổi thiết bị công nghệ sản

xuất tiên tiến. Nhiều doanh nghiệp chế biến lương thực ở tỉnh Bạc Liêu bị mất

một số thị trường tiêu thụ truyền thống như Philipin, Malaysia, Indonesia do

không trúng thầu cung cấp, lượng hàng tồn kho lớn, hao hụt lưu kho nhiều.

Báo cáo của tỉnh Bình Phước cho biết hơn 80% doanh nghiệp kinh doanh

hạt điều, cao su gặp khó khăn do rớt giá, khó khăn trong tìm kiếm thị trường.

b. Nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy sản

Sản xuất thủy sản tiếp tục gặp nhiều khó khăn, giá trị sản xuất chỉ tăng

2,5%, thấp hơn so với cùng kỳ năm trước. Sản xuất thủy sản, đặc biệt là lĩnh vực

nuôi trồng như cá ba sa, cá tra gặp nhiều khó khăn do tiêu thụ chậm, thiếu vốn

sản xuất, giá đầu vào cao (giá thức ăn, thuốc thú y, vật tư nông nghiệp,…), giá

bán thấp, các rào cản kỹ thuật,… Bên cạnh đó, tình hình phức tạp trên Biển

Đông cũng ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động khai thác thủy sản. Do đó, xuất

khẩu mặt hàng thủy sản 6 tháng đầu năm 2013 chỉ tăng 0,3% so với cùng kỳ

năm 2012.

c. Lĩnh vực công nghiệp

c. Ngành công nghiệp

Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp đã ổn

định hơn khi một số khó khăn được tháo gỡ như lãi suất vay ngắn hạn giảm, các

hỗ trợ về thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế đất của Chính

phủ đã phát huy tác dụng.

Nhiều doanh nghiệp trong một số lĩnh vực công nghiệp đã quay trở lại

sản xuất kinh doanh, đạt tốc độ tăng cao so với cùng kỳ năm trước, như: sản

Cà Mau: “Số lượng nhà máy chế biến thủy sản theo các dự án được phê duyệt tiếp

tục tăng lên nhanh chóng dẫn đến nguyên liệu bị thiếu hụt, tình trạng bơm chích tạp chất

vẫn diễn biến phức tạp, kiểm soát không kết quả; sự bất ổn trong xuất khẩu thủy sản đã

ảnh hưởng không tốt đến ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, một số doanh nghiệp đứng trên

bờ vực phá sản, số còn lại chỉ hoạt động cầm chừng, kéo theo đó việc cắt giảm giờ làm

công và lao động, dẫn đến một bộ phận lao động gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân không

chỉ xuất phát từ thiếu vốn và lãi suất ngân hàng cao, mà còn có nguyên nhân từ việc thiếu

hụt từ nguồn nguyên liệu (sạch) trầm trọng do tình hình nuôi trồng, khai thác đánh bắt

thủy sản những tháng đầu năm gặp nhiều khó khăn, diễn biến phức tạp do tình hình thiên

tai, dịch bệnh. Thị trường xuất khẩu biến động liên tục, khó lường do tác động của khủng

hoảng kinh tế toàn cầu. Ngoài ra các doanh nghiệp còn gặp khó khăn lớn về rào cản kỹ

thuật, tình trạng chống bán phá giá và sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường.”

Page 7: BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA …business.gov.vn/...DinhHuong...dinhhuong_PTDN_2014.pdfChính phủ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành

7

xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) tăng 38,5%, sản xuất pin và ác quy tăng

26,3%, sản xuất các sản phẩm khác từ giấy và bìa tăng 23,4%, sản xuất da, giày

dép tăng 16,8%, sản xuất mô tô, xe máy tăng 18%, sản xuất các sản phẩm khác

bằng kim loại tăng 15,9%...

Tuy nhiên, một số ngành tăng trưởng thấp, thậm chí giảm, doanh nghiệp

sản xuất cầm chừng, chấp nhận lãi thấp hoặc lỗ nhằm duy trì hoạt động, giữ

chân người lao động. Một số ngành công nghiệp có chỉ số sản xuất tiếp tục giảm

so với cùng kỳ năm trước như: khai thác và thu gom than cứng, than non, khai

thác đá, cát, sỏi, đất sét, sản xuất vải dệt thoi, sản xuất kim loại, sắt, thép, gang,

sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng, sản xuất mô tơ, máy phát, biến thế điện,

đóng tàu...

3. Một số nguyên nhân chủ yếu

3.1. Nguyên nhân khách quan

- Nhìn chung, những khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh 2012

và 6 tháng đầu năm 2013 của doanh nghiệp do sự tích tụ, hệ quả của tình hình

khó khăn, thách thức trong nước kéo dài quá lâu. Nhiều doanh nghiệp không thể

vượt qua và lâm vào tình trạnh giải thể, ngưng hoạt động.

- Sự khó khăn trong thời gian dài của một số ngành trọng yếu đã tác động

tiêu cực đến các ngành còn lại, ví dụ như thị trường bất động sản khó khăn đã

Theo báo cáo của Hiệp hội Công nghệ kỹ thuật điện Việt Nam, gần 50%

doanh nghiệp thuộc Hiệp hội giữ vững sản xuất (trừ các đơn vị thuộc lĩnh vực

cung cấp, truyền tải, quản lý và vận hành điện);

Theo Hiệp hội Bia, Rượu, Nước giải khát, năm 2012, toàn ngành bia đạt

sản luwongj 2,8 tỷ lít (tăng 8,02% so với năm 2011), 4,2 tỷ lít giải khát (tăng

9,1% so với 2011) nhưng tốc độ tiêu thụ chậm và phải chịu sự cạnh tranh

không bình đẳng, hiện tượng chuyển giá, chuyển thuế của Cocacola, Pepsi. Sức

tiêu thụ sản phẩm trong dịp Tết Quý tỵ (quý I/2013) thấp hơn nhiều so với dịp

Tết âm lịch năm 2012.

Theo Hiệp hội Cao su Việt Nam, đa số doanh nghiệp hội viên thuộc lĩnh

vực sản xuất cao su thiên nhiên thuộc Hiệp hội đều hoàn thành vượt mức kế

hoạch về sản lượng thu hoạch, chế biến và tiêu thụ cao su. Tập đoàn Công

nghiệp Cao su Việt Nam được Chính phủ phê duyệt cơ chế đặc thù, giải quyết

được tình trạng khó khăn về nguồn vốn đầu tư năm 2012, nhưng nhìn chung

toàn ngành thì hoạt động của các doanh nghiệp không mấy thuận lợi do các

nước tiêu thụ nhiều cao su như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ giảm

nhu cầu sử dụng.

Page 8: BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA …business.gov.vn/...DinhHuong...dinhhuong_PTDN_2014.pdfChính phủ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành

8

ảnh hưởng trực tiếp đến các ngành như xây dựng, sản xuất nguyên vật liệu sắt

thép, xi măng …

- Về vấn đề tài chính, tuy lãi suất thời gian gần đây có giảm nhưng tiếp

cận nguồn vốn ngân hàng vẫn là khó khăn của doanh nghiệp, đặc biệt các doanh

nghiệp nhỏ và vừa. Nhiều DNNVV tuy trước đây hoạt động ổn định nhưng do

khó khăn liên tiếp kéo dài từ năm 2011 đến nay, không đảm bảo được các yêu

cầu và chuẩn mực rủi ro của ngân hàng, do đó nhiều tổ chức tín dụng thừa vốn

nhưng vẫn không thể cho vay, khiến tình trạng càng trở nên khó khăn.

- Sức tiêu thụ trong nước giảm mạnh trong khi xuất khẩu của các doanh

nghiệp trong nước cũng gặp trở ngại do khủng hoảng nợ công Châu Âu, hàng

hóa sản xuất ra tiêu thụ rất chậm, hàng tồn kho tăng cao, làm chậm luân chuyển

một lượng vốn lớn, thiếu hụt tiền để thanh toán cho các khoản nợ đến hạn tại

ngân hàng.

- Sự biến động về lao động tại một số DNNVV do người lao động nghỉ

việc để hưởng trợ cấp thất nghiệp, làm cho lực lượng lao động bị xáo trộn,

chuyển từ doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác, gây lãng phí về đào tạo

tay nghề và giảm sút năng suất lao động.

3.2. Nguyên nhân nội tại trong doanh nghiệp

- Chất lượng nhân lực thấp bao gồm cả nhân lực quản lý và người lao

động, thiếu hụt lực lượng lao động có tay nghề. Chất lượng quản trị điều hành

doanh nghiệp nhìn chung vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập. Theo đánh giá, phần

nhiều giám đốc và chủ doanh nghiệp chưa được đào tạo bài bản về quản lý và

kinh doanh.

- Bản thân nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa thường

đầu tư dàn trải, kinh doanh đa ngành nghề dẫn đến không kiểm soát được dòng

vốn, không định hướng rõ được chiến lược kinh doanh nên dễ gặp rủi ro trong

điều kiện nhiều biến động, thách thức, khó khăn của thị trường.

- Doanh nghiệp áp dụng công nghệ lạc hậu dẫn đến năng suất thấp, giá

thành cao dẫn đến sức cạnh tranh kém

II. Đánh giá kết quả công tác sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước

(DNNN) và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV):

Page 9: BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA …business.gov.vn/...DinhHuong...dinhhuong_PTDN_2014.pdfChính phủ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành

9

1. Công tác sắp xếp, tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước:

1.1. Đánh giá chung

- Về tái cơ cấu DNNN: Thực hiện Quyết định số 929/QĐ-TTg phê duyệt

Đề án “Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng

công ty nhà nước giai đoạn 2011-2015”, tính đến hết tháng 7 năm 2013 Thủ

tướng Chính phủ đã phê duyệt 17 đề án tái cơ cấu của các tập đoàn, tổng công

ty. Tính đến cuối tháng 7/2013, các Bộ quản lý ngành đã phê duyệt được 31 đề

án tái cơ cấu của tổng công ty trực thuộc Bộ.

Theo báo cáo của một số Bộ ngành, 7 tháng đầu năm 2013, hoạt động sản

xuất kinh doanh của các DNNN gặp nhiều khó khăn, kém khởi sắc. Tình trạng

hàng tồn kho lớn vẫn rất phổ biến tại hầu hết các doanh nghiệp, nhất là những

doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, vì vậy phần nào ảnh hưởng

đến kết quả tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước.

- Việc xây dựng Điều lệ tổ chức và hoạt động của các tập đoàn, tổng công

ty nhà nước: hiện đã có 08/15 dự thảo nghị định về điều lệ tổ chức và hoạt động

của tập đoàn, tổng công ty đã hoàn thành, trình Thủ tướng Chính phủ.

- Về phương án sắp xếp, đổi mới DNNN: tính đến hết tháng 7/2013, Thủ

tướng Chính phủ đã phê duyệt 100/101 phương án sắp xếp, đổi mới doanh

nghiệp của các Bộ, ngành, địa phương giai đoạn 2011-2015. Chỉ còn 01 đơn vị

chưa phê duyệt là Bộ Thông tin và Truyền thông.

- Kết quả sắp xếp, đổi mới DNNN: Các Bộ, ngành địa phương đang triển

khai thực hiện phương án đã được phê duyệt, tuy nhiên tốc độ còn chậm. Kết

quả sắp xếp doanh nghiệp nhà nước còn thấp. Năm 2012 cả nước sắp xếp được

22 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa 13 doanh nghiệp, sáp nhập 05 doanh

nghiệp, chuyển thành TNHHMTV 03 doanh nghiệp, thành lập mới 01 doanh

nghiệp. Tương tự tính đến 31/7/2013, cả nước sắp xếp được 25 doanh nghiệp,

trong đó cổ phần hóa 18 doanh nghiệp, sáp nhập 4 doanh nghiệp, hợp nhất 2

doanh nghiệp, chuyển thành TNHHMTV 1 doanh nghiệp.

Nhìn chung, công tác sắp xếp, tái cơ cấu DNNN đã đạt được một số kết

quả nhất định. Tuy nhiên, tốc độ sắp xếp DNNN đang chững lại một cách đáng

kể, chủ yếu do những nguyên nhân:

+ Các Đề án tái cơ cấu phần lớn được trình để phê duyệt vào cuối năm

2012 và trong năm 2013, nhiều Bộ, địa phương quản lý nhiều DNNN có thời

gian phê duyệt Đề án rất muộn, làm ảnh hưởng đến tiến độ triển khai thực hiện.

Về cơ bản, các Đề án xây dựng chưa đưa ra các lộ trình và giải pháp cụ thể,

chưa đi vào bản chất vấn đề là cần xác định lại vị trí, vai trò, nhiệm vụ của

Page 10: BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA …business.gov.vn/...DinhHuong...dinhhuong_PTDN_2014.pdfChính phủ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành

10

doanh nghiệp đối với quá trình xây dựng và phát triển của địa phương hoặc của

ngành. Các nội dung về tái cơ cấu tài chính, tái cơ cấu đầu tư chưa thực sự được

chú trọng; ngành lĩnh vực kinh doanh vẫn chưa thực sự được thu hẹp và giảm

bớt đáng kể, các tập đoàn, tổng công ty nhình chung vẫn xác định đa ngành, đa

lĩnh vực.

+ Một số Bộ, địa phương chưa quyết liệt trong việc xác định hình thức sắp

xếp và đẩy mạnh công tác chuyển đổi, cổ phần hóa DNNN do mình quản lý, thể

hiện ở việc thực hiện phân loại doanh nghiệp không theo đúng quy định tại

Quyết định số 14/2011/QĐ-TTg về tiêu chí, danh mục phân loại DNNN hoặc

tìm cách lùi, giãn tiến độ cổ phần hóa đến giai đoạn sau 2015;

+ Về cơ chế, chính sách: Trong thời gian qua, các văn bản về cổ phần hóa

đã được ban hành đầy đủ nhưng chưa kịp thời xử lý hết các vướng mắc, chủ yếu

tập trung vào các vấn đề về cổ phần hóa các chi nhánh, đơn vị hạch toán phụ

thuộc Tổng công ty nhà nước; về đấu thầu lựa chọn tư vấn xác định giá trị doanh

nghiệp; về đối chiếu, xác nhận toàn bộ các khoản nợ phải trả trước khi xác định

giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa ...

+ Về cơ chế thoái vốn: Trong bối cảnh nền kinh tế bị suy thoái, thị trường

tài chính, bất động sản và chứng khoán khó khăn đã ảnh hưởng đến tiến độ thoái

vốn và giá trị chuyển nhượng cổ phần của các doanh nghiệp. Một số doanh

nghiệp không chuyển nhượng được do không có nhà đầu tư nào đăng ký mua,

hoặc đề nghị giá chuyển nhượng thấp hơn mệnh giá gốc. Thủ tục chuyển

nhượng qua nhiều công đoạn nên đã làm chậm kết hoạch thực hiện thoái vốn so

với dự kiến.

+ Việc giám sát, đánh giá thường xuyên kết quả thực hiện sắp xếp, tái cơ

cấu DNNN vẫ chưa được thực hiện đúng mức, chưa có chế tài phù hợp để xử lý

các trường hợp không tuẩn thủ theo Quyết định số 14/2011/QĐ-TTg hoặc thực

hiện không đúng Phương án sắp xếp đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

1.2. Một số hạn chế, bất cập trong công tác tái cấu trúc DNNN:

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác sắp xếp, đổi mới và nâng cao

hiệu quả hoạt động DNNN trong thời gian qua còn tồn tại một số bất cập:

Một là, hiệu quả và sức cạnh tranh của DNNN còn thấp. Tuy có nhiều

đóng góp cho nền kinh tế quốc dân nhưng tập đoàn, tổng công ty nhà nước nhìn

chung chưa phát huy được lợi thế của doanh nghiệp có quy mô lớn. Hiệu quả và

sức cạnh tranh của các Tập đoàn và Tổng công ty trong thời gian qua vẫn chưa

tương xứng với sự quan tâm, đầu tư của Chính phủ.

Page 11: BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA …business.gov.vn/...DinhHuong...dinhhuong_PTDN_2014.pdfChính phủ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành

11

Hai là, tiến độ cổ phần hóa DNNN còn chậm so với yêu cầu đổi mới. Thị

trường tài chính và chứng khoán trong nước và thế giới thời gian qua có nhiều

biến động, gây khó khăn cho việc phát hành cổ phiếu ra ngoài doanh nghiệp,

khiến nhiều cuộc đấu giá cổ phiếu không thành công.

Ba là, việc thiếu một cơ quan đầu mối theo dõi, tổng hợp chung đã dẫn

đến hệ thống thông tin về DNNN còn chưa đồng bộ. Công tác giám sát đối với

DNNN nói chung và các Tập đoàn, Tổng công ty lớn nói riêng trong thời gian

qua vẫn chưa thực sự hiệu quả.

Bốn là, năng lực quản trị DNNN còn yếu, chưa thay đổi để thích ứng với

cơ chế thị trường và xu thế hội nhập, trình độ công nghệ của đa số DNNN vẫn ở

mức thấp so với các nước trong khu vực. Tính tuân thủ pháp luật về chế độ tài

chính, công khai thông tin còn chưa được quan tâm đúng mức. Hệ thống quản trị

nội bộ trong doanh nghiệp tuy đã hình thành nhưng không đáp ứng yêu cầu quản

lý, giám sát các nguồn lực được giao.

2. Kết quả công tác trợ giúp phát triển DNNVV

Nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua khó khăn, ổn định sản xuất kinh

doanh, trong năm 2012 và 6 tháng 2013 các bộ, ngành, địa phương tiếp tục thực

hiện các nhóm giải pháp đề ra tại Chương trình hành động trợ giúp phát triển

DNNVV ban hành kèm theo Quyết định số 1231/QĐ-TTg ngày 7/9/2012 của

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2011-

2015, tập trung vào các giải pháp cụ thể như sau:

2.1. Hỗ trợ DNNVV tiếp cận tín dụng

- Đẩy mạnh cắt giảm lãi suất cho doanh nghiệp

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) từng bước hoàn thiện các cơ chế, chính

sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các khách hàng thuộc mọi thành phần

kinh tế, trong đó có DNNVV tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng để đầu tư,

phát triển sản xuất kinh doanh. NHNN đã thực hiện các giải pháp giảm mặt bằng

lãi suất tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, cụ thể, năm 2012 thực hiện giảm lãi

suất huy động 5 lần liên tiếp (từ 12% xuống 8%/năm) và còn 7,5%/năm vào đầu

năm 2013 để làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng giảm lãi suất cho vay. Hiện trần

lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VNĐ là 9%/năm đối với 5 lĩnh vực ưu tiên, trong

đó có DNNVV (gồm nông nghiệp, nông thôn; xuất khẩu; DNNVV; công nghiệp

hỗ trợ và doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao-Thông tư số 16/2013/TT-

NHNN ngày 27/6/2013).

Theo báo cáo của NHNN, tính đến 31/12/2012, dư nợ cho vay đối với

DNNVV đạt 862.392 tỷ đồng, chiếm 27,9% tổng dư nợ cho toàn bộ nền kinh tế.

Page 12: BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA …business.gov.vn/...DinhHuong...dinhhuong_PTDN_2014.pdfChính phủ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành

12

Ước dư nợ cho vay đối với DNNVV đến 30/4/2013 đạt 871.000 tỷ đồng, tăng

1% so với 31/12/2013. Như vậy, so với 31/12/2011, tổng dư nợ cho vay đối với

DNNVV đã giảm 7,37% tổng dư nợ cho toàn bộ nền kinh tế4.

- Thực hiện bảo lãnh t n dụng cho DNNVV

Ngày 10/1/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số

03/2011/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế bảo lãnh cho DNNVV vay vốn tại

NHTM. Theo đó, Ngân hàng Phát triển Việt Nam bảo lãnh một phần hoặc toàn

bộ khoản vay của DNNVV thuộc đối tượng được bảo lãnh vay vốn tại NHTM

(tối đa 85% tổng mức vốn đầu tư dự án). Ngân hàng Nhà nước hiện đang dự

thảo Thông tư hướng dẫn các NHTM trong việc phối hợp với Ngân hàng Phát

triển Việt Nam triển khai thực hiện cơ chế bảo lãnh cho DNNVV vay vốn tại

NHTM.

Ngân hàng Phát triển Việt Nam đã xem xét thẩm định, chấp thuận bảo

lãnh và phát hành hơn 1.500 chứng thư bảo lãnh cho các doanh nghiệp (trong

đó, gần 100% khách hàng là DNNVV) với giá trị bảo lãnh gần 11.000 tỷ đồng.

Đến nay, các NHTM đã cấp vốn vay cho các doanh nghiệp với tổng số tiền gần

9.000 tỷ đồng. Tổng số tiền Ngân hàng Phát triển Việt Nam trả nợ thay cho

DNNVV từ khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh theo quy định tại Quyết định số

14/2009/QĐ-TTg đến ngày 29/2/2012 là 112 tỷ đồng. Đến hết ngày 29/2/2012,

các DNNVV đã hoàn trả Ngân hàng Phát triển Việt Nam là 4,7 tỷ đồng, trong đó

nợ gốc là 4,5 tỷ đồng.

Tại các địa phương, tính đến nay, cả nước có 12 Quỹ bảo lãnh tín dụng

cho DNNVV5 được thành lập và hoạt động tại 12 tỉnh/thành phố (Hà Nội, Tp.

Hồ Chí Minh, Trà Vinh, Yên Bái, Đồng Tháp, Vĩnh Phúc, Bình Thuận, Hà

Giang, Bắc Ninh, Ninh Thuận, Kiên Giang, Cần Thơ). Một số địa phương đang

triển khai thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV gồm Hải Phòng, Tiền

Giang, Sơn La, Vũng Tàu, Đồng Nai, Đà Nẵng, Tây Ninh. Một số địa phương

khác có nhu cầu thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng nhưng chưa bố trí nguồn để

thành lập Quỹ. Một số địa phương đã thành lập Quỹ nhưng nguồn vốn nhỏ,

không bổ sung thêm vốn điều lệ. Theo chỉ đạo tại Công văn 07/TTg-KTTH ngày

03/01/2013 về Bảo lãnh tín dụng đối với DNNVV, Thủ tướng Chính phủ đã

đồng ý về nguyên tắc sử dụng nguồn thu cổ phần hóa từ các doanh nghiệp nhà

nước địa phương (phần phải nộp về Quỹ hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh

4 Tính đến ngày 31/12/2011, dư nợ tín dụng đối với các DNNVV đạt 881.340 tỷ đồng, tỷ trọng dư nợ

tín dụng đối với các DNNVV chiếm 35,27% tổng dự nợ của toàn bộ nền kinh tế. 5 Thành lập theo Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg ngày 20/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc

ban hành Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV.

Page 13: BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA …business.gov.vn/...DinhHuong...dinhhuong_PTDN_2014.pdfChính phủ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành

13

nghiệp) để tăng cường nguồn lực tài chính cho Quỹ Bảo lãnh tín dụng địa

phương.

Về doanh số bảo lãnh, doanh số bảo lãnh của Quỹ tại các địa phương vẫn

còn khiêm tốn, chỉ một số Quỹ hoạt động có hiệu quả là Tp Hồ Chí Minh, Vĩnh

Phúc, Trà Vinh, Hà Nội; trong đó, Tp. Hồ Chí Minh là một trong những Quỹ

hoạt động hiệu quả nhất. Tổng số vốn điều lệ của các Quỹ là 512 tỷ đồng (cao

nhất là Tp. Hồ Chí Minh: 196,7 tỷ đồng và Kiên Giang 130 tỷ đồng; thấp nhất là

Bình Thuận: 10,2 tỷ đồng). Doanh số bảo lãnh của các Quỹ Bảo lãnh tín dụng từ

2002 đến hết 2012 khoảng trên 2.976,3 tỷ đồng, số dư bảo lãnh đến hết 2012 đạt

trên 344,44 tỷ đồng.

- Thành lập Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa: Bộ Kế hoạch và

Đầu tư đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng Quỹ Phát triển

DNNVV trình Thủ tướng Chính phủ. Ngày 17/4/2013, Thủ tướng Chính phủ đã

có Quyết định số 601/QĐ-TTg về việc thành lập Quỹ phát triển DNNVV. Quỹ

có tổng vốn điều lệ là 2.000 tỷ đồng từ ngân sách nhà nước và các nguồn vốn

huy động từ các khoản đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong và nước ngoài.

Quỹ tập trung hỗ trợ cho các DNNVV có dự án, phương án sản xuất-kinh doanh

khả thi thuộc lĩnh vực ưu tiên, khuyến khích của Nhà nước, phù hợp với mục

đích của Quỹ nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, góp phần

tăng thu nhập, việc làm cho người lao động. Hiện Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang

phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng các quy định về hoạt động của

Quỹ để sớm đưa Quỹ vào hoạt động.

- Một số chương trình khác Chính phủ cũng đang thực hiện một số

chương trình tín dụng ưu đãi đối với các huyện nghèo6; Chương trình tín dụng

chính sách đối với thương nhân hoạt động thương mại tại các vùng khó khăn7.

Tính đến 31/12/2012, dư nợ cho vay tại Ngân hàng chính sách xã hội là 312 tỷ

đồng với 9.897 khách hàng vay vốn. Dư nợ đến 31/3/2013 đạt 305 tỷ đồng, giảm

2,2% so với 31/12/2012.

Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp và các

doanh nghiệp hoạt động tại khu vực nông thôn được hưởng các chính sách về

khuyến công, khuyến nông và chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông

nghiệp, nông thôn theo quy định tại Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày

6 Theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ và Thông tư số 06/2009/TT-

NHNN ngày 09/4/2009 của Ngân hành Nhà nước quy định chi tiết về chính sách cho vay ưu đãi lãi

suất theo chương trình hỗ trợ các huyện nghèo tại Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP 7 Theo quy định tại Quyết định số 92/2009/QĐ-TTg ngày 8/7/2009 của Thủ tướng Chính phủ về tín

dụng đối với thương nhân hoạt động thương mại tại vùng khó khăn

Page 14: BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA …business.gov.vn/...DinhHuong...dinhhuong_PTDN_2014.pdfChính phủ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành

14

12/4/2010 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp,

nông thôn.

Đặc biệt, để hỗ trợ vượt qua khó khăn trong giai đoạn suy thoái kinh tế

vừa qua, Chính phủ đã có nhiều biện pháp hỗ trợ về lãi suất, miễn, giảm, giãn

nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Năm 2012, 178.000 lượt DNNVV được gia

hạn nộp 10.559 tỷ đồng tiền thuế GTGT, chiếm khoảng 90% tổng gia hạn và

gần 200.000 lượt DNNVV được gia hạn nộp 1.840 tỷ tiền thuế TNDN, chiếm

khoảng 74 % so với tổng gia hạn. Tính đến hết quý I năm 2013, hơn 103.000

lượt DNNVV được gia hạn nộp 2.960 tỷ đồng tiền thuế GTGT, chiếm gần 66,9

% so với tổng gia hạn và hơn 44.500 lượt DNNVV được gia hạn nộp 374,8 tỷ

đồng tiền TNDN, chiếm 39,3 % tổng gia hạn.

2.2. Đổi mới, nâng cao năng lực công nghệ, trình độ kỹ thuật cho

DNNVV

Các hoạt động đổi mới, nâng cao năng lực công nghệ chủ yếu do Bộ Khoa

học và Công nghệ chủ trì thực hiện. Tính đến nay, có 9 chương trình mục tiêu

quốc gia về phát triển khoa học công nghệ do các bộ, ngành thực hiện, trong đó

có một số chương trình liên quan trực tiếp tới doanh nghiệp là: Chương trình hỗ

trợ phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp giai oạn -2015; Chương

trình quốc gia nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm sản phẩm, hàng hóa

của doanh nghiệp Việt Nam ến năm (Chương trình 7 ); Chương trình

ổi mới công nghệ quốc gia ến năm ; và một số chính sách và cơ chế tài

chính khuyến khích các doanh nghiệp ầu tư vào hoạt ộng khoa học công nghệ

do Quỹ phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam thực hiện. Các chương trình

trên đều đạt được một số kết quả nhất định, nhiều doanh nghiệp đã tiếp cận được

và đã được hỗ trợ tăng cường vốn, tăng cường công nghệ để triển khai các dự án

của mình.

2.3. Trợ giúp phát triển nguồn nhân lực cho DNNVV

Năm 2012 là năm thứ hai triển khai hoạt động, đào tạo bồi dưỡng nguồn

nhân lực cho DNNVV theo quy định tại Thông tư liên tịch số 05, tập trung vào

các hoạt động: (i) Xây dựng, biên soạn, bổ sung, in ấn tài liệu cơ bản và các tài

liệu chuyên sâu về đào tạo nguồn nhân lực cho DNNVV; (ii) Khảo sát, đánh giá

nhu cầu, đánh giá tác động hoạt động trợ giúp đào tạo và (iii) Tổ chức các khóa

đào tạo cho các DNNVV. Tổng kinh phí thực hiện năm 2012 là 102.363 triệu

đồng, trong đó kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước là 56.399 triệu đồng

(NSTW là 44.554 triệu đồng và NSĐP là 11.845 triệu đồng) chiếm 55% tổng

kinh phí, từ nguồn thu học phí của học viên là 36.777 triệu đồng, chiếm 36%

Page 15: BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA …business.gov.vn/...DinhHuong...dinhhuong_PTDN_2014.pdfChính phủ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành

15

tổng kinh phí và từ nguồn huy động tài trợ là 9.188 triệu đồng, chiếm 9% tổng

kinh phí.

Ở cấp Trung ương, kinh phí NSTW hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nguồn

nhân lực cho DNNVV đã được giao cho 8 Bộ và 16 Hiệp hội. Ở cấp địa phương,

có 43/53 địa phương đã bố trí trực tiếp ngân sách địa phương (hoặc huy động

nguồn tài trợ, phối hợp với các đơn vị khác) để tổ chức các khóa đào tạo cho

DNNVV tại địa phương. Năm 2012, các Bộ, hiệp hội và địa phương đã tiến

hành tổ chức được 1.589 khóa đào tạo (trong đó có 363 khóa khởi sự doanh

nghiệp, chiếm khoảng 23% tổng số khóa đào tạo) cho 67.149 học viên.

Ước 6 tháng đầu năm 2013, kinh phí ngân sách trung ương thực hiện đào

tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho DNNVV của các Bộ, ngành, hiệp hội là

khoảng 10 tỷ đồng, chiếm 20% kinh phí cả năm 2013.

2.4. Xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường

Năm 2012, cả nước tổ chức hàng ngàn hoạt động XTTM với nhiều hình

thức khác nhau. Trong đó, Chương trình XTTM quốc gia đóng vai trò nòng cốt

đã tập trung nguồn kinh phí là 93,08 tỷ đồng cho 114 đề án, đạt tỷ lệ giải ngân là

99,1%. Chương trình đã hỗ trợ 4.596 doanh nghiệp, trong đó 90 % là doanh

nghiệp nhỏ và vừa tham gia với hơn 7.924 gian hàng, gần 677.582 lượt giao

dịch, 28.879 hợp đồng, số khách tham quan đạt 979.935 lượt người. Tổng giá trị

hợp đồng và doanh số đạt gần 1 tỷ USD và hơn 1.200 tỷ đồng.

Dự kiến các chương trình năm 2013 sẽ tiếp tục hỗ trợ hàng nghìn lượt

doanh nghiệp, bao gồm các DNNVV, trong việc duy trì quan hệ bạn hàng cũ và

mở rộng quan hệ với nhiều đối tác mới, phát triển thị trường, quảng bá hàng hóa

và doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường nội địa cũng như trên thị trường thế

giới, giúp người tiêu dùng các nước nhận biết và tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ

Việt Nam. Ngoài ra, Bộ Công thương cũng đã nghiên cứu thực hiện Chiến lược

xuất khẩu hàng hóa thời kỳ 2011-2020, định hướng đến năm 2030 (QĐ

2741/2011/QĐ-TTg) và Xây dựng cổng thông tin điện tử xúc tiến mở rộng thị

trường.

Đến hết tháng 6/2013, Bộ trưởng Bộ Công thương đã phê duyệt Đợt 1 và

2 chương trình Xúc tiến thương mại quốc gia cho 117 Đề án với tổng kinh phí

gần 94 tỷ đồng.

III. Kế hoạch phát triển doanh nghiệp năm 2014:

1- Mục tiêu tổng thể:

Page 16: BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA …business.gov.vn/...DinhHuong...dinhhuong_PTDN_2014.pdfChính phủ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành

16

Tiếp tục tái cơ cấu doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, trong đó

trọng tâm nâng cao hiệu quả tái cơ cấu các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà

nước. Chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững và năng lực cạnh

tranh của doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp dân doanh. Tạo điều kiện để

doanh nghiệp và đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa có cơ hội tiếp cận và ứng

dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất kinh doanh. Tháo gỡ khó khăn

của doanh nghiệp để từng bước khôi phục và phát triển nhằm cải thiện đời sống

nhân dân, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động.

2- Phương hướng, giải pháp cơ bản:

2.1. Khu vực DNNN

- Tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, chuyển đổi DNNN, chỉ giữ lại những doanh

nghiệp 100% vốn nhà trong các lĩnh vực then chốt và cung ứng dịch vụ, sản

phẩm thiết yếu (độc quyền nhà nước, quốc phòng an ninh, xuất bản, thủy nông,

bảo đảm an toàn giao thông, xổ số kiến thiết, sản xuất phân phối điện quy mô

lớn, quản lý, khai thác hệ thống kết cấu đường sắt quốc gia, đô thị, các cảng

hàng không, cảng biển loại I, in đúc tiền). Xác định số lượng, danh sách cụ thể

các DNNN nắm giữ 100%, nắm giữ trên 75%, nắm giữ từ 65%-75%, nắm giữ

từ 50%-65%. Tiếp tục thực hiện tái cơ cấu, đẩy mạnh bán vốn nhà nước tại

doanh nghiệp nhỏ, kém hiệu quả và không thuộc lĩnh vực Nhà nước cần nắm giữ

vốn. Trong quá trình thực hiện, căn cứ tình hình thực tế, tiếp tục rà soát để đẩy

mạnh cổ phần hóa.

Thực hiện cho được mục tiêu sắp xếp, cổ phần hóa theo các phương án

được phê duyệt, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm trong các năm 2014-2015.

Nghiêm túc thực hiện cơ chế thị trường và quy định của pháp luật trong cổ phần

hóa, không để xảy ra tiêu cực, thất thoát tài sản, ảnh hưởng đến quyền lợi của

người lao động, nhà đầu tư và doanh nghiệp. Tăng cường niêm yết các tập đoàn

kinh tế, tổng công ty, DNNN có quy mô lớn đã cổ phần hóa trên thị trường trong

nước và quốc tế.

- Các Bộ quản lý ngành, Tập đoàn, Tổng công ty 90, 91 và doanh nghiệp

100% vốn nhà nước tiếp tục xây dựng, hoàn thiện và triển khai thực hiện Đề án

tái cơ cấu DNNN, phù hợp với Quyết định số 929/QĐ-TTg ngày 17/7/2012 của

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tái cơ cấu DNNN, trọng tâm là tập

đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011-2015”. Trong đó, tập trung

kiện toàn tổ chức hoạt động của các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty và doanh

nghiệp 100% vốn nhà nước nhằm tạo ra cơ cấu hợp lý, làm nòng cốt để kinh tế

nhà nước thực hiện vài trò chủ đạo và nâng cao sức cạnh tranh, hoàn thành các

nhiệm vụ, mục tiêu do Nhà nước giao.

Page 17: BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA …business.gov.vn/...DinhHuong...dinhhuong_PTDN_2014.pdfChính phủ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành

17

- Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động của DNNN theo Luật

Doanh nghiệp 2005, tạo sự bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, nâng cao

tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong đó, chú

trọng đổi mới công tác quản trị doanh nghiệp, công tác quản lý của Nhà nước và

quản lý, kiểm tra, giám sát của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp, đặc

biệt là đối với các Tập đoàn, Tổng công ty lớn. Hướng tới hình thành một cơ

quan chuyên trách thực hiện chức năng chủ sở hữu đối với DNNN, làm cơ sở

cho việc tách bạch hoàn toàn giữa chức năng quản lý nhà nước và quản lý của

chủ sở hữu. Xây dựng cơ chế cảnh báo sớm đối với DNNN để kịp thời thông tin

cho Chính phủ về những doanh nghiệp có dấu hiệu hoạt động kém hiệu quả hoặc

không hoàn thành nhiệm vụ được giao.

- Cùng với việc thay đổi mạnh mẽ về mặt bản chất của quá trình quản trị

nội bộ doanh nghiệp nhà nước, cơ chế giám sát từ phía cơ quan quản lý nhà

nước và cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước phải được tăng cường. Cơ

chế giám sát hoạt động của DNNN phải được kiện toàn và đồng bộ, cần thiết lập

được những bộ chỉ tiêu về hoạt động của doanh nghiệp để có thể đánh giá được

một cách toàn diện hoạt động sản xuất, kinh doanh của DNNN.

2.2. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp nhỏ và

vừa

Công tác trợ giúp phát triển DNNVV trong thời gian tới cần đẩy mạnh

triển khai các nhóm giải pháp đề ra tại các Nghị quyết của Quốc hội và Chính

phủ, thực hiện hiệu quả và đúng tiến độ các nhóm giải pháp quy định tại

Chương trình hành động trợ giúp phát triển DNNVV giai đoạn 2011-2015 tại

Quyết định 1231/QĐ-TTg ngày 7/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ, tập trung

vào một số định hướng chính sau:

- Tiếp tục hoàn thiện và đảm bảo tính ổn định khung pháp lý, cải cách thủ

tục hành chính, gia nhập và rút khỏi thị trường, tạo điều kiện, cơ chế để các

DNNVV, doanh nghiệp tư nhân được tiếp cận bình đẳng các nguồn lực về đất

đai, về vốn, công nghệ để ổn định sản xuất, phát triển kinh doanh;

- Tạo bước đột phá và có cơ chế để DNNVV tiếp cận vốn, nâng cao hiệu

quả sử dụng vốn vay cho DNNVV. Đẩy mạnh triển khai các hoạt động hỗ trợ

DNNVV thông qua Quỹ bảo lãnh tín dụng tại Ngân hàng phát triển và hệ thống

Quỹ Bảo lãnh tín dụng tại địa phương, Quỹ Phát triển DNNVV.

- Hỗ trợ tăng cường năng lực nghiên cứu, phát triển công nghệ; đẩy mạnh

chuyển giao, đổi mới công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm

hàng hóa, năng lực cạnh tranh của DNNVV. Đẩy nhanh việc triển khai thực hiện

Page 18: BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA …business.gov.vn/...DinhHuong...dinhhuong_PTDN_2014.pdfChính phủ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành

18

các chương trình hỗ trợ, phổ biến, ứng dụng công nghệ và kỹ thuật tiên tiến tới

các DNNVV, khuyến khích hợp tác và chia sẻ công nghệ giữa DNNVV với DN

lớn, DN có vốn đầu tư nước ngoài. Khuyến khích DNNVV tham gia các chương

trình liên kết ngành, liên kết vùng và phát triển công nghiệp hỗ trợ.

- Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề đảm bảo cung cấp nguồn nhân lực có

kỹ năng cho DNNVV. Chú trọng đào tạo nghề các ngành, lĩnh vực sử dụng công

nghệ cao để chuyển dịch cơ cấu lao động từ thô sơ sang lao động có tay nghề

trình độ, đáp ứng yêu cầu phát triển của DNNVV trong giai đoạn mới. Khuyến

khích doanh nghiệp thành lập hoặc liên kết với cơ sở dạy nghề trong đào tạo và

giải quyết việc làm. Phát triển đồng bộ thị trường lao động; phát triển hệ thống

cơ sở dữ liệu về thị trường lao động, các hình thức thông tin thị trường lao động

nhằm kết nối cung cầu lao động.

- Cải thiện tình trạng thiếu mặt bằng sản xuất, tăng cường bảo vệ môi

trường thông qua việc lập và công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; tạo

điều kiện phát triển các khu cụm công nghiệp có quy mô hợp lý, có giá thuê phù

hợp với khả năng của DNNVV; hỗ trợ di dời các DNNVV gây ô nhiễm, tác hại

đến môi trường tại các khu dân cư và đô thị đến các khu cụm công nghiệp.

- Hình thành mạng lưới hệ thống thông tin hỗ trợ DNNVV để cung cấp

thông tin về các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động của doanh

nghiệp, các chính sách, chương trình trợ giúp phát triển DNNVV và các thông

tin khác hỗ trợ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

- Nâng cao hiệu quả điều phối thực hiện các hoạt động trợ giúp phát triển

DNNVV, tăng cường vai trò của Hội đồng Khuyến khích Phát triển DNNVV;

tăng cường năng lực cho các địa phương về quản lý, xúc tiến, phát triển

DNNVV./.