bẢn thỂ luẬn ca augustinorepository.vnu.edu.vn/bitstream/vnu_123/33598/1...một bức tranh...
TRANSCRIPT
ĐAI HOC QUÔC GIA HA NÔI
TRƢƠNG ĐAI HOC KHOA HOC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------
LÊ TUẤN DŨNG
BẢN THỂ LUẬN CỦA AUGUSTINO
LUÂN VĂN THAC SI TRIẾT HỌC
Ha Nôi - 2016
ĐAI HOC QUÔC GIA HA NÔI
TRƢƠNG ĐAI HOC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------
LÊ TUẤN DŨNG
BẢN THỂ LUẬN CỦA AUGUSTINO
LUÂN VĂN THAC SI TRIẾT HỌC
Chuyên nganh: Tôn Giáo học
Mã số: 60 22 03 09
Giáo viên hƣớng dẫn: PGS. TS. Nguyễn Quang Hƣng
Ha Nôi - 2016
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI BẢN THỂ
LUẬN CỦA AUGUSTINO............................................................................. 7
1.1 Bối cảnh lịch sử .......................................................................................... 7
1.2 Những tiền đề tƣ tƣởng của bản thể luận Augustino .......................... 12
1.2.1 Học thuyết ý niệm của Platon ................................................................ 12
1.2.2 Học thuyết của Philon d’Alexandrie ...................................................... 24
1.2.3 Học Thuyết của Plotin ............................................................................ 26
1.2.4 Kinh Thánh ............................................................................................. 30
1.3 Vai nét về thân thế, sự nghiệp của Augustino va tác phẩm Tự thuật . 47
CHƢƠNG 2. THẦN LUẬN CỦA AUGUSTINO ...................................... 56
2.1 Khái niệm về bản thể luận. ..................................................................... 56
2.2 Quan niệm về Chúa trời ......................................................................... 62
2.2.1 Quan hệ đức tin - lý trí ........................................................................... 63
2.2.2 Chúa trời và Christ ................................................................................ 67
CHƢƠNG 3. QUAN NIỆM VỀ THẾ GIỚI VÀ CON NGƢỜI CỦA
AUGUSTINO ................................................................................................. 85
3.1 Quan niệm về thế giới ............................................................................. 85
3.1.1 Vũ trụ luận và thuyết sáng thế ............................................................... 93
3.1.2 Quan niệm về thời gian ........................................................................ 980
3.2 Tồn tại ngƣời ......................................................................................... 853
3.2.1 Con người hiện thực ............................................................................... 93
3.2.2 Bản chất của con người ....................................................................... 908
3.3 Môt số đánh giá ..................................................................................... 105
KẾT LUẬN .................................................................................................. 110
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 113
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tai
Trung cổ là khoảng thời gian mà loài người từ lúc kết thúc thời cổ đại
cụ thể là từ khi đế quốc Roma tan rã vào năm 476 đến khi bắt đầu thời cận đại
với việc xâm chiếm Constantinopolis vào năm 1453 của đế chế Ottoman.
Thời kỳ trung cổ là giai đoạn mà tôn giáo cụ thể là Kitô giáo đậm đặc nhất và
trở thành nội dung chính của triết học trung cổ, một thời kỳ hoàng kim của
Kitô giáo tạo nên một bản sắc riêng của văn hóa phương Tây. Phạm vi của
triết học trung cổ rộng hơn triết học kinh viện nhiều. Nếu như triết học kinh
viện chỉ thực sự bắt đầu vào thế kỷ thứ IX thì giai đoạn trước đã là một quá
trình dọn dẹp từ từ một cách có hệ thống cho triết học kinh viện bằng tư tưởng
của các giáo phụ. Vậy là có thể chia triết học trung cổ thành hai thời kỳ chính
là triết học thời kỳ các giáo phụ và triết học kinh viện. Cả hai thời kỳ này triết
học đều mang đậm bản sắc của Kitô giáo. Chúng ta có thể coi triết học trung
cổ là những học thuyết tư tưởng triết học của phương Tây từ Augustino, đặc
biệt với khẩu hiệu: “Hãy hiểu để mà tin và hãy tin để mà hiểu”. Một câu nói
thể hiện sự thống nhất cũng như những vấn đề đặt ra trong sự giải quyết mối
quan hệ giữa đức tin và lý trí, giữa tôn giáo và triết học. Điều này cũng thể
hiện sự tương hỗ, bổ trợ cho nhau giữa triết học và tư tưởng Kitô giáo nơi lý
trí của những con người vĩ đại bổ sung những tri thức đại diện cho cái “Biết”
để củng cố “Đức tin” bền vững. Triết học gắn kết với đức tin tôn giáo và đức
tin tôn giáo ngược lại cũng vậy và sự gắn kết giữa tri thức và đức tin của các
Kitô hữu trung cổ trên điều kiện là một sự thống nhất về mặt tư tưởng. Đây
cũng là đặc điểm tư tưởng của thời đại này và không có gì quan trọng hơn sự
thống nhất này. Các quan niệm về: sự tồn tại của Chúa Trời, về nguồn gốc
của vũ trụ, sự sắp xếp hoàn hảo và tuyệt diệu của tạo hóa, nguồn gốc của con
người hay ý nghĩa và trách nhiệm trong cuộc đời của con người, về ý nghĩa
lịch sử… tất cả đều chịu ảnh hưởng và bị chi phối bởi các quan niệm thần
2
học. Như chính Karl Jaspers khẳng định đó là nếu như có ở đâu đó thì chính ở
đây cho tới giờ tôn giáo là trật tự bền vững và có nội dung phong phú và được
hiện thực với sự trợ giúp của lý trí, không phải nhờ những huấn thị trực tiếp,
mà nhờ những con người có đức tin, bởi sự nghiêm túc và đáng tin cậy của
những con người có đức tin.
Augustino là một người sống trong thời kỳ trung cổ và đã là con người
thì bao giờ cũng vẫn là sản phẩm của thời đại khi mình sinh ra. Ông là đỉnh
cao của triết học thời kỳ các giáo phụ. Người ta đã nói về Augustino là một
một trong những người đã làm rạng danh và vẻ vang nhất cho nhân loại. Chắc
chắn người là một trong nhũng bậc vĩ nhân lớn nhất của giáo hội. Bằng chứng
đó là sự cao thượng về tinh thần và luân lý trong đời sống Kitô. Sự thánh
thiện siêu quần của Augustino từ khi trở lại, đã được các nhân chứng về đời
người xác nhận, nhất là thánh Possidius, hoan hỉ mô tả các nhân đức của
người. Cả sách Tự Thuật cũng cho thấy lòng mến Thiên Chúa của người ảnh
hưởng đến độc giả như thế nào, nơi ông vượt trội nhất đó là đức ái là linh hồn
của sự trọn lành.
Việc tìm hiểu tư tưởng của Augustino không chỉ giúp chúng ta hiểu
thêm về nhưng giá trị tư tưởng của ông để lại cho cả nhân loại mà còn giúp
hiểu thêm về con người cũng như xã hội Tây Âu thời trung cổ. Một giai đoạn
là cầu nối từ thời cổ đại đến thời cận đại. Có một giai đoạn mà người ta cho
rằng trung cổ là thời kỳ đêm tối không hơn không kém về mặt tư tưởng và
tiến trình phát triển tư tưởng của nhân loại, nhưng giờ đây người ta thấy rằng
con người trong thời kỳ trung cổ có phong độ triết học phong phú hơn nhiều,
sinh động hơn nhiều và rất cá tính. Người trung cổ đã đề cập đến nhiều vấn đề
triết học đích thực, với những phương pháp quan điểm đặc trưng của triết học
cũng như tôn giáo với mong muốn chinh phục và hướng tới chân lý khách
quan với một khát vọng cao đẹp. Thời gian trôi đi gắn liền với sự vận động
của tạo hóa, tất cả đã là quá khứ thì không thể trở về, nhưng những giá trị
3
vĩnh hằng trong triết học trung cổ thì chúng ta phải trân trọng, phải hiểu rõ
thêm và làm sống lại chúng một cách hợp lý trong bối cảnh lịch sử mới. Có
những giá trị tư tưởng của thời trung cổ vẫn còn ẩn dấu, nhưng nếu nó mang
giá trị nhân văn sâu sắc với định hướng cao cả là đưa con người tiến ngày
càng gần hơn đến những chân lý đến những giá trị đạo đức tuyệt đối thì
những tư tưởng đó sẽ không bao giờ biến mất. Chính vì thế, tôi lựa chọn đề
tài “Bản thể luận của Augustino” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam đã có những công trình nghiên cứu về triết học trung cổ,
trong đó có đề cập đến nội dung tư tưởng thần học của Thánh Augustino. Tuy
nhiên một công trình chuyên khảo cứu về vấn đề bản thể luận của Augustino
cũng như toàn bộ nội dung tư tưởng của ông thì chưa có.
- Các công trình nghiên cứu về tư tưởng của Augustino ở Việt Nam:
Hiện tại ở Việt Nam, những công trình nghiên cứu về tư tưởng của
Augustino còn hạn chế, chủ yếu tư tưởng của ông được trình bày trong các
giáo trình lịch sử triết học, do vậy thiếu những công trình chuyên khảo. Cuộc
đời cũng như tư tưởng của Augustino được trình bày trong các tác phẩm như:
Lê Tôn Nghiêm (2000): Lịch sử triết học Tây Phương.
Đây là công trình khảo cứu công phu của tác giả về lịch sử triết học từ
thời khai nguyên triết lý Hi Lạp đến thời trung cổ. Trong đó có những trình
bày và luận giải sâu sắc về cuộc đời và tư tưởng của Thánh Augustino.
Đỗ Minh Hợp – Nguyễn Thanh – Nguyễn Anh Tuấn (2006): Đại cương
lịch sử triết học phương Tây.
Một bức tranh triết học từ thời Hi Lạp cổ đại đến tư tưởng của L.
Phoiơbắc đã được trình bày trong tác phẩm. Trong tác phẩm có đề cập đến
tổng quan cuộc đời cũng như tư tưởng của Augustino với những vấn đề cơ
bản như: Về sự nhận thức Chúa trời, về linh hồn hay tình yêu …
Đỗ Minh Hợp (2010): Lịch sử triết học đại cương.
4
Với sự cẩn thận, tỉ mỉ và những kiến giải sâu sắc tác giả đã đưa tới cho
người đọc một bức tranh sống động về lịch sử phát triển của các trào lưu tư
tưởng triết học ở cả phương Đông và Phương Tây. Ở phần triết học Trung cổ,
tất nhiên không thể thiếu được phần triết học thời kỳ các giáo phụ mà chúng
ta tìm thấy tổng quan bức tranh triết học của Augustino ở đây.
Piô Phan Văn Tình (2010): Triết học thượng cổ Tây phương ảnh hưởng
trên KiTô giáo.
Để trả lời cho câu hỏi triết lý thượng cổ Hi Lạp đã ảnh hưởng trên các
triết gia Kitô giáo như thế nào? Đâu là mức độ mà các triết gia Kitô giáo chịu
ảnh hưởng từ các triết gia thời thượng cổ Hi Lạp. Tác giả đã trình bày tổng
quan tư tưởng của đại diện cho các triết gia từ thời tiền Socrates đến thời
trung cổ về các vấn đề như: Vũ trụ quan, nhân sinh quan, Thượng đế. Trong
đó tư tưởng của Augustino được trình bày một cách khái quát nhưng cũng
không kém phần sinh động, đầy đủ và hấp dẫn.
- Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài.
Trong số các giáo phụ, Augustino là một người trội vượt hẳn. Các tác
phẩm của ông đem lại một cách nhìn toàn diện về triết lý Kitô giáo. Các học
giả ở nhiều quốc gia khác nhau đã nghiên cứu các trước tác của ông. Do nhiều
hạn chế, luận văn không thể lược thảo một cách hệ thống các công trình
nghiên cứu về triết học của Augustino ở nước ngoài. Luận văn tập trung vào
các công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài đã được dịch sang tiếng
Việt như:
Johannes Hirschberger: Lịch sử triết học, (người dịch: Nguyễn Quang
Hưng, Nguyễn Chí Hiếu).
Đây là tác phẩm được các tác giả dịch thuật từ nguyên bản tiếng Đức,
có độ tin cậy cao. Xuyên xuốt tác phẩm đó là tư tưởng của các triết gia trong
suốt chiều dài lịch sử với tính tôn giáo được thể hiện rõ nét. Trong đó cuộc
đời, vai trò của Augustino trong bức tranh triết học nói chung và Triết lý Kitô
giáo nói riêng được trình bày chân thực và rõ ràng.
5
Trác Tân Bình: Lý giải tôn giáo (2007) (người dịch: Trần Nghĩa
Phương)
Toàn bộ tác phẩm này đề cập đến bốn phương diện: Tôn giáo là gì, lịch
trình của tôn giáo, nghiên cứu tôn giáo và nghiên cứu về Kitô giáo. Đây là
một tác phẩm quan trọng trình bày về các yếu tố của tôn giáo một cách hoàn
bị và chi tiết chứa đựng một nội dung lớn về tri thức triết học và tôn giáo.
Xuyên suốt tác phẩm là sự trình bày về nhiều vấn đề khác nhau, đưa ra tư
tưởng của nhiều triết gia khác nhau. Trong đó có tư tưởng triết học của
Augustino với nội dung ngắn gọn, súc tích và rất sâu sắc.
Hans Kung (2010): Các nhà tư tưởng lớn của Kitô giáo, (người dịch:
Nguyễn Nghị)
Đây là một tác phẩm thiên về khuynh hướng Thần học, Hans Kung,
nhà tư tưởng Thiên Chúa Giáo đương đại khi phân tích tư tưởng tôn giáo thế
giới đã từng nêu ra thuyết hệ thống ba sông lớn và lấy đó làm cơ sở để xây
dựng nên tôn giáo học địa chính trị của mình. Tư tưởng của Augustino được
trình bày với những điều mới mẻ và đưa ra những điểm tích cực và hạn chế.
3. Mục đích va nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn.
Mục đích của luận văn là làm rõ quan niệm bản thể luận trong triết học
của Augustino.
Nhiệm vụ của luận văn.
Để thực hiện mục đích trên luận văn hoàn thành các nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích bối cảnh ra đời bản thể luận của Augustinô.
- Phân tích nột dung cơ bản, giá trị và hạn chế của triết học Augustino
trên phương diện bản thể luận trong triết học của ông.
4. Đối tƣợng va phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu.
- Luận văn tập trung nghiên cứu bản thể luận trong triết học của
Augustino.
Phạm vi nghiên cứu.
6
- Augustino là tác giả của một công trình đồ sộ gồm nhiều tác phẩm.
Tuy nhiên luận văn tập trung nghiên cứu bản thể luận của Augustino qua tác
phẩm: Tự thuật (Confessiones).
5. Cơ sở lý luận va phƣơng pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận:
Luận văn đã sử dụng thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để giải quyết
vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng và kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu: phương
pháp logic - lịch sử, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp nghiên
cứu văn bản…
6. Đóng góp của luận văn.
Luận văn hệ thống lại những tư tưởng bản thể luận trong triết học của
Augustino và những điểm tích cực và hạn chế trong tư tưởng bản thể luận của
ông.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy những nội dung triết học có liên quan đến tư tưởng triết học của
Augustino.
7
CHƢƠNG 1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI BẢN THỂ
LUẬN CỦA AUGUSTINO
1.1 Bối cảnh lịch sử
Về mặt thời gian chúng ta có thể xác định thời trung cổ ở Châu Âu bắt
đầu khi đế chế Roma tan rã vào năm 476 cho đến khi bắt đầu thời cận đại cới
việc xâm chiếm Constantinopolis vào năm 1453 của đế chế Ottoman. Những
năm đầu công nguyên ở các nước Tây Âu đã có sự biến chuyển căn bản trong
xã hội. Đó là sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ và sự ra đời của chế độ
phong kiến, do những sự đấu tranh giai cấp quyết liệt diễn ra trong thời kỳ
khủng hoảng của chế độ chiếm hữu nô lệ kết hợp với nó là các cuộc tấn công
của nhiều bộ lạc khác nhau.
Một loạt các nhà nước phong kiến vốn là các tỉnh thành của đế quốc La
Mã đã hình thành như Anh, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Đức…
Có thể chia thời kỳ trung cổ thành ba giai đoạn đó là: giai đoạn sơ kỳ,
giai đoạn trung kỳ và giai đoạn hậu kỳ.
Trong giai đoạn sơ kỳ Trung cổ về mặt xã hội, một số gia tộc thượng
lưu Rôma diệt vong trong khi số còn lại tham gia vào Giáo hội nhiều hơn các
sự vụ thế tục. Các giá trị gắn với nền học thức và giáo dục Rôma hầu như
biến mất, và trong khi năng lực biết đọc biết viết vẫn là quan trọng, nó lui
xuống thành một kĩ năng thực dụng hơn là một dấu hiệu về vị thế tinh hoa.
Trong thế kỉ 4, Thánh Hieronymus (mất năm 420) thuật lại giấc mơ thấy
Thượng Đế khiển trách ông vì đã dành nhiều thời gian đọc Cicero hơn là Kinh
Thánh. Đến thế kỉ 6, Thánh Gregorius của Tours (mất năm 594) cũng có một
giấc mơ tương tự, nhưng ở đây là bị trừng trị vì học tốc ký. Vào cuối thế kỉ 6,
những phương tiện chính cho giảng truyền của Giáo hội đã chuyển sang âm
nhạc và mỹ thuật thay vì sách. Hầu hết các nỗ lực trí thức hướng vào việc bắt
chước nền học vấn cổ điển, nhưng một vài tác phẩm độc đáo cũng được sáng
8
tác, bên cạnh những bài hát truyền khẩu mà nay đã thất truyền. Các tác phẩm
của Sidonius Apollinaris (mất. 489), Cassiodorus (mất khoảng 585), và
Boethius (mất khoảng 525) là tiêu biểu cho thời kỳ này.
Những thay đổi cũng diễn ra trong dân thường, khi mà văn hóa quý tộc
tập trung vào những bữa yến tiệc lớn tổ chức ở các sảnh đường thay vì những
mối quan tâm tới nghệ thuật. Trang phục giới thượng lưu thường đính rất
nhiều trang sức vàng. Các vị vua và lãnh chúa xây dựng một giới thân cận
quanh mình gồm những chiến binh tạo nên xương sống của quân đội. Trong
giới tinh hoa các mối ràng buộc thân tộc đóng vai trò quan trọng, bên cạnh
các phẩm hạnh như trung thành, dũng cảm, và danh dự. Những mối ràng buộc
này dẫn đến sự thịnh hành của các mối hận thù truyền kiếp (bởi nghĩa vụ trả
thù cho người thân) trong xã hội quý tộc. Hầu hết các mối hận thù này kết
thúc với những khoản bồi thường mạng người. Phụ nữ tham gia vào xã hội
quý tộc chủ yếu trong vai trò là vợ và mẹ, nhất là vị trí mẹ của một nhà cầm
quyền đặc biệt nổi bật ở Gallia, Trong xã hội Anglo-Saxon ít khi có những ấu
vương khiến cho vai trò thái hậu yếu ớt hơn, nhưng bù lại ở đây các nữ tu
viện trưởng nắm quyền rộng rãi ở các tu viện. Chỉ ở Ý dường như phụ nữ
luôn được xem là ở dưới sự bảo vệ và kiểm soát của đàn ông.
Xã hội nông thôn ít được ghi chép lại hơn nhiều so với giới quý tộc.
Hầu hết thông tin có được đến từ khảo cổ học; chỉ một vài ghi chép chi tiết về
đời sống nông dân trước thế kỉ 9 còn sót lại. Hầu hết những mô tả này gián
tiếp xuất hiện trong các đạo luật hoặc từ con mắt của những tác giả thuộc giới
thượng lưu. Những hình mẫu chiếm hữu đất ở phương Tây không đồng nhất;
một vài khu vực có đất đai rất phân tán, nhưng ở những nơi khác những điền
trang lớn lại phổ biến. Những sự khác biệt này cho phép một sự đa dạng
những nếp sống khác nhau, một số do những quý tộc địa chủ thống trị trong
khi một số cộng đồng có rất nhiều quyền tự trị. Quy mô định cư cũng rất khác
nhau: một số nông dân sống trong những làng lớn có tới 700 cư dân; số khác
9
sống trong những trang trại cách biệt nhau; và cả những vùng hai hình thức
trên trộn lẫn với nhau. Không giống như thời Mạt kỳ Rôma, không có sự chia
cách sắc nét nào giữa vị trí pháp lý của nông dân tự do và quý tộc, và một gia
đình nông dân tự do có thể nâng mình lên qua vài thế hệ nhờ phục vụ trong
quân đội để trở thành một lãnh chúa quyền lực.
Đời sống và văn hóa thành thị thay đổi mạnh mẽ trong sơ kỳ Trung cổ.
Mặc dù các thành phố ở nước Ý vẫn có người cư trú, chúng co lại đáng kể về
quy mô. Chẳng hạn Rôma, giảm từ dân số hàng trăm nghìn người xuống còn
khoảng 30 nghìn vào cuối thế kỉ 6. Các đền thờ Rôma cải thành nhà thờ Công
giáo và các tường thành vẫn được duy trì. Ở Bắc Âu, các thành phố cũng thu
hẹp, trong khi các công trình dân sự và các tòa nhà công cộng bị hủy hoại làm
vật liệu xây dựng. Sự thành lập của những vương quốc mới cũng tạo ra sự
phát triển ở những thị trấn được chọn làm thủ đô. Mặc dù từng có những cộng
đồng người Do Thái trong nhiều thành phố Roma, họ chịu đựng những thời kì
ngược đãi sau khi đế quốc cải sang đạo Kitô. Chính thức mà nói họ được
khoan dung, nhưng luôn chịu những áp lực cải đạo và có những thời kì bị xua
đuổi tới những vùng khác.
Về thương mại giai đoạn này mạng lưới giao thông giữa các miền Địa
trung Hải bị chia cắt do các cuộc di dân và các cuộc chinh phục của Hồi giáo.
Các sản phẩm thời kỳ này thường là các sản phẩm ở địa phương mà người
dân dùng chúng để trao đổi mua bán với nhau, đó là các sản phẩm bằng gốm
và các sản phẩm thủ công tinh xảo khác.
Sơ kỳ trung cổ cũng là khoảng thời gian mà Kitô giáo đang trong thời
kỳ đầu của sự phát triển. Thời kỳ này cũng là khoảng thời gian hình thành nên
những hệ thống triết học của các giáo phụ, trong đó nổi bật hơn cả là tư tưởng
của Augustino. Triết học các giáo phụ là từ ngữ được dùng để chỉ những giả
thiết, những lý do và những cơ cấu có tính cách triết lý chứa đựng trong
những sáng tác của những nhà tư tưởng thuộc Kitô giáo lúc khởi thủy, nhằm
10
biện hộ cho sự chân thực của Ki tô giáo trong bối cảnh mà tôn giáo này luôn
bị chính quyền của đế quốc Roma bách hại.
Thời kỳ đầu, Kitô giáo xuất hiện dưới hình thức cộng đoàn nhỏ theo
kiểu tổ chức công xã núp dưới bóng của đạo Do Thái. Trong các cộng đoàn
nhỏ này, tài sản là của chung. Mọi người cùng nhau cầu nguyện và bẻ bánh
gọi là thông công, về sau nó phát triển thành một tôn giáo độc lập. Những nhà
truyền giáo nhiệt thành đã không quản ngại gian khổ, kể cả tính mạng mình,
đi phát triển đạo ra các quốc gia quanh vùng, kể cả ở Roma là trung tâm của
đế chế.
Do tính chất chống áp bức, lúc đầu Kitô giáo được đông đảo quần
chúng lao động nghèo khổ tin theo. Sau này có thêm nhiều tầng lớp khác theo
đạo, trong đó có các thương nhân và tầng lớp trung lưu, họ đã mang vào trong
đạo tư tưởng của giai cấp họ nhằm thỏa hiệp với chế độ và tình trạng xã hội
đương thời.
Khi những cộng đoàn nhỏ tan rã, những cộng đoàn mới ra đời, tài sản
tăng thêm cần có người cai quản, phân phối. Cộng đoàn lớn cần phải có người
tổ chức, hướng dẫn thực hiện các nghi lễ phụng vụ cũng như trong đời sống
đạo. Đó là điều kiện cho hàng giáo phẩm đầu tiên của Kitô giáo hình thành.
Vào cuối thế kỷ II đầu thế III đã có chức Tổng giáo phụ.
Kitô giáo sơ kỳ luôn bị đế quốc Roma đàn áp. Cuộc hỏa hoạn từ 18-24
tháng 7 năm 64 sau công nguyên tại Roma, bạo chúa Nero đã lấy đó làm cớ
để bách hại đạo. Hàng ngàn tín đồ đã bị tiêu diệt. Hành động của Nero mở
đầu cho thời kỳ tàn sát tín đồ Kitô giáo kéo dài hai thế kỷ rưỡi.
Từ năm 192, Roma bước vào cuộc khủng hoảng về mọi mặt: Chính thể
quân phiệt, kinh tế văn hóa xã hội suy đồi. Đứng trước một giáo hội trên
đường phát triển, các hoàng đế Roma hoặc thỏa hiệp hoặc bách hại trên toàn
quốc. Riêng các năm từ 212 đến 249, từ 260 đến 298, tình hình lắng dịu vì các
11
vua nhu nhược, vì đạo tổ hợp hoặc vì cần các tín hữu góp phần chống lại man
dân.
Chiếu chỉ Septimus 202 cấm theo đạo, dạy đạo. Decius (khoảng 201-
251) chủ trương giam hậu, dụ dỗ bắt lao động nặng và phát thẻ xông hương.
Thời Valerius (257-260) cho quan địa phương thu tài sản. Nhưng từ năm 298,
giáo hội trải qua cơn hồng thủy thời Diocletianus khi ra lệnh bách hại đạo
hàng loạt ở các địa phương.
Đầu thế kỷ thứ IV các hoàng đế Roma đã thay đổi thái độ với Kitô giáo
vì thấy đế quốc không còn sự hỗ trợ nào tốt hơn là những tín đồ Kitô giáo. Để
tránh nguy cơ bị suy sụp, giữ được tình hình ổn định đế quốc Roma đã tiến
hành một loạt cải cách về kinh tế, chính trị, xã hội trong đó có việc nhận thức
lại Kitô giáo.
Năm 313, hoàng đế Constantinus cùng một hoàng đế Đông phương là
Licinius đã ký chiếu chỉ Milan cho Kitô giáo tự do hoạt động. Cho đến năm
325, giáo hội Kitô giáo được chính thức thành lập và trở thành chỗ dựa của đế
quốc Roma. Năm 357, hoàng đế Constantinus trước lúc qua đời đã chịu phép
rửa tội. Đây là hoàng đế Roma đầu tiên theo Kitô giáo.
Vào cuối thế kỷ IV, Kitô giáo đã chính thức trở thành quốc đạo của đế
quốc Roma. Nếu như trước đây, nhà nước đàn áp Kitô giáo thì nay tất cả
những tôn giáo, tín ngưỡng ngoài Kitô giáo đều bị dẹp bỏ. Năm 319, hoàng
đế cấm thực hành ma thuật và bói ruột thú. Năm 326, Constantinus cấm dâng
lễ tế thần. Năm 392, hoàng đế trưng thu các đền thờ ngoại giáo hoặc phá hủy.
Năm 395, những ai theo lạc giáo đều bị tước quyền công dân. Nhiều đền thờ
thánh ngoài Kitô giáo trong đế quốc Roma hoặc bị phá hoặc được sửa chữa
thành thánh đường Kitô giáo.
Từ năm 423 trở đi, tại miền Đông đế quốc Roma các tôn giáo thờ thần
chấm dứt hoạt động, các đền thờ thần ngoài Kitô giáo cũng bị đóng cửa. Kitô
12
giáo từ đây trở thành tôn giáo duy nhất tồn tại trong đế quốc Roma, có điều
kiện hình thành và tổ chức giáo hội.
Từ thế kỷ IV, đế quốc Roma rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm
trọng. Nô lệ, dân lao động nghèo nổi lên khởi nghĩa liên tục ở nhiều vùng
khác nhau trong đế quốc, chính quyền Roma không thể nào đàn áp nổi. Năm
476, đế chế Roma vốn tồn tại từ năm 753 trước công nguyên đã bị sụp đổ.
Sau khi đế chế Roma sụp đổ, giáo hội lợi dụng thời cơ củng cố thế lực,
mở rộng phạm vi ảnh hưởng bằng cách tách dần khỏi sự kiểm tỏa của đế quốc
Byzantine và mua chuộc các tiểu vương quốc và các bộ lạc lúc đó vẫn bị xem
là man di.
Các giáo phụ đầu tiên, trong đó có thánh Augustino sống trong khoảng
thời gian này với rất nhiều biến động về kinh tế, chính trị, xã hội. Họ phải đưa
ra những hệ thống lý luận nhằm chứng minh cho chân lý Kitô giáo phù hợp
với lẽ phải và lòng tin, biến Kitô giáo trở thành một tôn giáo phổ quát cho
mọi người. Giữa triết học và thần học có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Nhưng ở các giáo phụ, tư tưởng của họ thiết yếu có tính cách thần học hơn
triết học. Triết học được dùng để làm phương tiện hoặc là để đối chiếu hoặc là
để minh chứng thêm cho những chân lý tôn giáo.
1.2 Những tiền đề tƣ tƣởng của bản thể luận Augustino
1.2.1 Học thuyết ý niệm của Platon
Một trong những việc Augustino phải làm trong quá trình xây dựng thế
giới quan Kitô giáo của mình là chứng minh rằng những giá trị văn hóa Hi
Lạp – La Mã cổ đại nói chung, triết học khoa học nói riêng không còn thích
hợp nữa trong hoàn cảnh lịch sử mới. Giờ đây mọi nẻo đường tư duy triết học
và khoa học đều hướng đến một chân lý duy nhất mà việc nhận thức yêu cầu
phải có cả lý trí và đức tin, trong đó đức tin đóng vai trò quyết định. Để thực
hiện nhiệm vụ này Augustino tổng kết, hệ thống và đánh giá các tư tưởng
trong quá khứ.
13
Có thể nói tiền đề tư tưởng cho sự hình thành tư tưởng triết học của
Augustino là triết học cổ đại và Kinh thánh. Trong đó triết học cổ đại ông đã
chịu ảnh hưởng nhiều của triết học Platon và phái Platon mới, ở phái Platon
mới ông đặc biệt chịu ảnh hưởng bởi triết học của Plotin.
Từ học thuyết Ý niệm của Platon Augustino đã làm sáng tỏ bức màn bí
mật, thần thoại che kín vũ trụ khả niệm, yếu tính trùng với trí năng của thiên
chúa mà ta gọi là Ngôi Lời. Do đó tất cả những gì hiện hữu, chỉ hiện hữu bằng
cách thâm nhập vào ý niệm của Ngôi Lời. Ngôi Lời là suối nguồn của mọi
thực tại. Nhờ sự vật, ta có thể hiểu được vẻ đẹp của Ngôi Lời. Vẻ đẹp của sự
vật chỉ là dấu tích vẻ đẹp của Thiên Chúa, sự hoành tráng thể hiện thông qua
vẻ đẹp của tạo vật thể hiện quyền năng của Thiên Chúa.
Học thuyết ý niệm của Platon thường được coi là nền tảng trong tư
tưởng của Platon. Mục đích của học thuyết là trình bày về thực tại, nghĩa là về
nguồn gốc của thực tại và thực tại là gì. Việc chính yếu ở đây là Platon muốn
xác định thế nào là một thực tại hay một hữu thể. Theo ông, những gì giác
quan vật lý của chúng ta đem lại thường hay thay đổi và không thể xem đó là
các thực tại, giác quan của chúng ta đem lại hình ảnh về thế giới khi thế này
khi thế khác. Vậy Platon cho rằng chỉ những gì là đối tượng của lý trí của ta
thì mới đáng gọi là thực tại, là hữu thể vì những yêu sách của lý trí đòi hỏi
những đối tượng phải trường tồn, luôn luôn đồng tính với chính mình. Vậy
trong trần gian này, trong thế giới vật lý này khó có thể tìm được những gì có
tính cách trường tồn và đồng hóa với chính mình như vậy. Những đặc điểm
nêu trên chỉ có ở một lí giới bên ngoài, siêu việt, tại đây mới có được những
thực tại lý tưởng thường tồn và luôn luôn đồng tính với chính mình.
Qua sự kế thừa học thuyết tri thức từ Socrate và trên căn bản này Platon
đã xây dựng nên học thuyết về thực tại của ông và cũng từ đây chúng ta nhận
thấy một khuynh hướng rõ ràng trong ông đó là khuynh hướng duy niệm. Có
thể nói Platon đã xây dựng một siêu hình học hoàn toàn mới mẻ đặc biệt của
14
riêng ông từ tri thức luận của Socrate. Ở Platon tri thức không phải là một tác
động của cảm giác, tri thức không phải một thường kiến và tri thức cũng
không phải là là một phán quyết. Tri thức phải là một tác động xây trên nền
tảng của thực tại hay Hữu thể, hơn thế nếu hữu thể và thực tại được cấu tạo
bằng những tương quan luận lý thì tri thức còn phải là hình ảnh chân thực của
những tương quan ấy.
Ở tri giác Platon cho rằng, tri thức không thể căn cứ trên những cảm
tưởng của cảm giác mà là trên sự suy luận về chúng, cảm tưởng thuần túy
không thể đem đến chân lý được về thực tại được. Tri thức là một thế giới
mênh mông huyên bí, vượt ra ngoài cảm giác nhất thời, cá biệt của con người.
Tại thường kiến Platon chủ trương những thường kiến thường không
dựa trên quy luật tri thức. Chúng có thể đúng và cũng có thể sai. Trong một
trường hợp này thì chúng đúng, những chúng có thể sai trong nhiều trường
hợp khác. Vậy là tính phổ quát đã không tồn tại ở thường kiến không được
xây dựng trên quy luật. Giống như một quan tòa và luật sư, họ có thể xử đúng
trong một vụ việc mà họ không trực tiếp chứng kiến, nhưng kiến thức trực
tiếp về vụ việc là thứ không có ở đây. Vậy tri thức phải căn cứ vào điều gì?
Platon cho rằng tri thức phải căn cứ trên thực tại hay Hữu thể, đó là cái luôn
luôn trường tồn. Cũng tại điểm này, Platon đã khéo léo kế thừa học thuyết tri
thức luận của Socate thành học thuyết về các ý niệm và nói về Platon là nói
về học thuyết ý niệm. Ông không chỉ xây dựng một siêu hình học cho riêng
mình mà còn tạo tiền đề cho những kế thừa biến đổi trong học thuyết của các
giáo phụ sau này và đặc biệt là Augustino.
Trong huyền thoại hầm núi, những ý nghĩa căn bản về thực tại đã được
nói ra. Câu chuyện giả tưởng có một cái hang, trong hang là một số người bị
nhốt trong trạng thái, tay, chân, cổ đều bị xích, họ không thể nào nhúc nhích
hoặc di chuyển được, họ chỉ nhìn được những gì xuất hiện trước mắt, trong
hang có một ngọn lửa cháy sáng trên cao, đó là ánh sáng giúp họ nhìn được
15
những gì xuất hiện phía trước. ngoài kia là một con đường với một bức tường
ngăn cách. Mọi người đi lại trên con đường và bóng của họ in lại trên bức
tường trong ánh sáng mặt trời. Những tù nhân bị giam hãm đã tưởng rằng cái
họ nhìn được là thực tại, nhưng họ đã nhầm đó chỉ là những cái bóng. Một
ngày kia, một người thoát khỏi sự giam cầm, anh ta bước ra ngoài hang và
biết rằng những gì mình đã từng coi là thực tại chỉ là những hình bóng. Sau
những phút đầu bị lóa mắt bởi ánh sáng mặt trời, anh ta đã nhìn thấy những gì
là sự thực mà hàng ngày vẫn in bóng trên bức tường.
Qua huyền thoại này Plaon đã phân biệt vạn vật thành hai thế giới, một
là thế giới vật giới được tượng trưng bằng đời sống trong hầm núi, hai là thế
giới lí giới được tượng trung bằng đời sống dưới ánh sáng mặt trời. Những
bóng in trên tường hầm là những gì các tù nhân coi là thực tại, nhưng sự thực
đó chỉ là các ảo ảnh. Kiến thức của mọi người trong hầm núi đều là những ảo
tưởng, những thường kiến và sai lầm. Cuộc sống dưới ánh sáng mặt trời là lý
giới, những thực tại mà anh ta thấy là những lý tưởng và lý tưởng của những
lý tưởng, hay ý niệm cao nhất được tượng trưng là mặt trời. Nguồn ánh sáng
rực rỡ đó là cái Thiện, nhờ sự soi sáng của cái thiện mà mọi thực tại thành
thực tại.
Vậy là những ý niệm của lý giới mới thực sự là những thực tại đích
thực. Những ý niệm thực tại hơn những sự vật khả giác của thế giới vật giới.
Những ý niệm là những gì duy nhất thực sự tồn tại và những sự vật khả giác
chỉ có một thực tại vay mượn từ thực tại của những ý niệm. Điều này nói lên
rằng với Platon hay xa hơn về trước đó là Parmenide thì thực tại là những gì
đơn nhất và luôn luôn ở tình trạng đơn nhất, những gì biến dịch thì không bao
giờ là thực tại. Các sự vật khả giác chỉ là những bắt chước, những ẩn dụ, mô
phỏng, chúng luôn luôn, biến dịch và bất toàn ngược lại những ý niệm là mẫu
mực, là mô phạm hằng cửu theo đó mà các sự vật khả giác được cấu tạo nên.
Một điều đặc biệt là thế giới những ý niệm cũng có tôn ti đẳng cấp. nếu ở các
16
sự vật khả giác của thế giới vật giới, tồn tại những sự vật bất toàn nhất đến
các sự vật cảm giác hoàn hảo nhất, thì ở lý giới, các ý niệm hạ đẳng liên đới
với những ý niệm thượng đẳng và cứ thế đi lên đến ý niệm cao nhất, đó là ý
niệm của các ý niêm, đó là cái Thiện. Cái Thiện thì bao hàm và thâu tóm tất
cả.
Theo nguyên ngữ: danh từ học thuyết những ý niệm được dịch từ tiếng
châu Âu: Theory of ideas hay of Forms. Tất cả những lối dịch này thoát thai
từ nguyên ngữ Hi Lạp đã được chính Platon dùng bằng danh từ Idein, từ này
có nghĩa là tác động nhìn xem, do đó mới có những danh từ như idea và Eidos
có nghĩa là: ý tưởng, ý niệm, lý tưởng, lý niệm hay linh niệm. Có lẽ khó có lối
dịch nào là hoàn hảo cả vì qua lối hiểu của Platon idea hay Eidos có ý nghĩa
khá phức tạp. Với triết học của Platon theo nghĩa triết lý Idea có nghĩa là hình
thúc, hay loại các sự vật bao hàm lý trí và trí khôn, đó là một mô phạm hằng
cửu và bất biến, còn theo nghĩa luân lý nó là ý niệm chung tổng quát của sự
vật được rút ra qua sự quan sát và phân tich bằng ý chí của con người.
Học thuyết ý niệm của Platon là một khoa học về những trực giác tiên
thiên và về lý luận, đây là khoa học về lý tưởng và biện chứng pháp là
phương pháp của khoa học này.
Theo Platon có một sự liên hệ gần gũi giữa toán học với biện chứng
pháp. Toán học theo ông là một khoa học với những trực giác tiên thiên, do
đó khoa học này sẽ hướng dẫn con người vươn tới những đối tượng khả tri,
tuy nhiên đạt tới tột đỉnh của khả tri thì Toán học chưa. Với việc xem xét
những tương quan giữa cái lớn và cái nhỏ, toán học chỉ đem lại cho chúng ta
những tương quan tương đối, còn biện chứng pháp xét cả nhứng tương quan
để nhờ đó vươn tới một cái gì bên ngoài chúng và tuy toán học lĩnh hội được
những gì của thực tại nhưng vẫn là như trong giấc mơ. Biện chứng pháp chỉ
xây dựng trên những khái niệm khi mà phương pháp này đã vượt ra khỏi mọi
tiền đề để vươn tới một khởi điểm không tiền đề. Bằng biện chứng pháp, tư
17
tưởng lý luận đạt được khởi điểm này ở chỗ nó không chấp nhận những tiền
đề kia là tối hậu, đó chỉ là khởi điểm để vươn tới những gì là khởi điểm đích
thực là nguyên lý của mợi sự. Vậy là biện chứng pháp vươn tới nguyên lý tối
hậu của mọi sự vật, vì vậy nó là kết quả duy nhất sau khi đã bỏ tất cả những
giả thuyết và tiền đề. Biện chứng pháp đạt được nhưng tri thức yếu tính của
sự vật, cái gì luôn luôn đồng tính với chính mình, tri thức vua của mọi tri
thức.
Có thể nói biện chứng pháp của Platon là vận hành của trí khôn con
người trong tiến trình của nó để vươn tới trí thức tuyệt đối. Vì vậy Platon cói
đây là khoa học cao siêu nhất.
Theo nội dung có thể nói bản chất của những ý niệm trong học thuyết
những ý niệm của Platon đó là:
Ý niệm là nguyên nhân được cơi như mô phạm cho những sự vật mà sự
cấu thành của chúng đã được ghi trên bản tính của chúng từ đời đời.
Trong thế giới vật chất có những đặc tính của sự vật như: cứng, mềm
dẻo, dễ cháy… nhứng đặc tính này tồn tại mà không thể tách rời khỏi vật
chất. Những đặc tính không thể hiện hữu biệt lập, bên ngoài bản chất, vì đặc
tính phải mượn thực tại từ những bản chất. Trong khi đó, bản chất có thực tại
của riêng mình.
Đới với Platon, bản chất hay bản thể là cái gì tự mình có tất cả thực tại
của mình, nó là nguồn suối cho các thực tại khác, là nền tảng cho mọi cái
khác. Từ Substance bắt nguồn từ tiếng La Tinh, Substance có nghĩa là đứng
dưới làm nền tảng. Vậy trước hết, những ý niệm là những bản thể mà nó là
thuộc tính cho tất cả vạn vật, bản thân nó không chịu có một nền tảng nào
khác ngoài nó cả. Ý niệm có tính cách vững chắc và tôn trọng sự đồng tính
với chính mình.
Đây là những kiến thức mà triết lý Kitô giáo đã kế thừa cho những sự
luận giải Chúa trời của mình.
18
Tiếp đó, những ý niệm đều có tính cách phổ biến, ở đây ý niệm không
phải là một sự vật đặc thù nào cả. Ví dụ: ý niệm về con hổ, ở đây không phải
là một con hổ cụ thể nào cả mà đó là khái niệm tổng quát về hổ, về tất cả con
hổ.
Những ý niệm chắc chắn không phải là một sự vạt cụ thể, không có ở
thực tại vũ trụ, vì nếu có ở thực tại vũ trụ thì chúng ta có thể gặp những ý
niệm này rồi. Những ý niệm là những phổ biến niệm. Con người ai cũng có
hoạt động tư duy, suy nghĩ về thế giới xung quanh. Nhưng những ý niệm
cũng không phải của riêng một ai cả, hay của một thượng đế nào đó trên kia.
Những ý niệm thì tự nội và không lệ thuộc vào một bộ óc chủ tri nào.
Tồn tại một cách đơn nhất, bất biến bất diệt không lệ thuộc vào không
gian hay thời gian và là yếu tính của muôn vật cũng là những bản chất của
nhứng ý niệm. Nói tóm lại với những đặc tính trên, rõ ràng Platon đã chủ
trương trình bày những ý niệm vượt trên những sự vật khả giác và cấu thành
nên thế giới của nhũng ý niệm. Những ý niệm này là nguyên nhân làm cho sự
vật hiện hữu, nên chúng cũng là đối tượng tri thức cho con người.
Nếu như các triết gia trước Socrate đã giải thích thế giới này dựa trên
những nguyên chất, hành chất sơ bản. Theo đó, một đàng vũ trụ được cấu tạo
bằng những nguyên chất sơ bản duy nhất nào đó trong các hành chất hữu hình
mà giác quan của ta cảm nhận được như: nước, khí lửa… Một đằng vũ trụ
được cấu thành từ nhiều hành chất hợp lại, nghĩa là thay vì xây dựng tất cả sự
hình thành và phát triển của vạn vật trên một nguyên chất trường tồn duy nhất
điển hình như trường Phái Êlê, các triết gia đi sau muốn phân tán các nguyên
chất trường tồn thành nhiều hành chất.
Platon không đồng tình với quan điểm này khi ông cho rằng: những gì
là của thế giới vật chất không phải là thế giới của thực tại đích thực thì cũng
không thể là thế giới của nguyên nhân đích thực được. Nguyên nhân đích thực
19
chỉ có trong thế giới khả tri, vì nguyên nhân đích thực không là gì khác hơn lý
tưởng.
Theo những đặc tính trên thì rõ ràng Platon đã chủ trương có một thế
giới những ý niệm không thay đổi, siêu việt, không thể bị tiêu diệt, một thế
giới tự nội, không bao giờ chấp nhận một cái gì từ ngoài vào. Một thế giới
không bao giờ biến đổi thành cái khác chỉ được lãnh hội bằng lý trí, trí khôn
của con người. Đối lập với thế giới những ý niệm đó là thế giới của những sự
vật khả giác đầy phi thực, luôn luôn thay đổi và không bao giờ vững chắc và
được lĩnh hội bằng cảm giác.
Một số học giả cho rằng lập trường nhị nguyên của Platon là rõ ràng,
khi nghiên cứu học thuyết ý niệm của ông với một bên là thế giới biến dịch
của những sự vật theo thời gian và một bên là thế giới hàng cửu trường tồn
của những ý niệm, trong thế giới ý niệm thì ý niệm cao nhất đó là cái Thiện.
Nhưng có phải chỉ có những ý niệm về những sự vật tốt đẹp hay không hay
còn có cả ý tưởng về những sự vật xấu xí, có thể chúng đã tương quan với
nhau không?
Bên cạnh quan niệm về bản thể luận nêu trên, quan niệm về con người
cũng là một phần quan trọng trong triết học của Platon và cũng là tiền đề ảnh
hưởng đến quan niệm về con người của Augustino sau này. Platon qua niệm
con người được chia thành hai phần đó là thể xác và linh hồn. Trong đó linh
hồn thì bất tử và thể xác thì chết đi và tan biến theo thời gian. Linh hồn thì bất
tử và trải qua nhiều tiền kiếp, đó cũng là lý di tri thức hiện diện trong linh
hồn. Qua nhiều kiếp sống khác nhau linh hồn đã có những tri thức nhất định
trong cuộc sống và việc ở kiếp này của con người đó là hồi niệm lại những tri
thức ấy nhờ linh hồn bất tử của mình. Vậy là tri thức nói chung theo Platon
chỉ là một sự hồi nhớ lại, và tiến trình phát triển của tri thức con người là một
tiến trình lâu dài, nó gợi đến những gì bí ẩn, xa xăm ở tiền kiếp, nơi mà linh
hồn đã tồn tại từ giờ khai sinh. Nếu như tri thức theo tư tưởng của Socrate chỉ
20
là tri thức trong phạm vi luận lí, thì dưới ảnh hưởng của Pythagore, Platon cho
rằng tri thức còn là tri thức toán học. Có thể nói hồi niệm là việc khám phá về
tri thức tiên thiên và thấy được tính độc lập của tri thức.
Platon coi sự kết hợp giữa thân xác và linh hồn nơi con người là một sự
kết họp uyển chuyển, thể xác được coi như một cỗ xe lăn và là hình thức biểu
hiện bên ngoài của linh hồn, con người thật sự chính là linh hồn còn thể xác
chỉ là cái bóng, thể xác nói cho cùng như là một nhà tù giam hãm linh hồn.
Nơi thế xác những dục vọng bắt nguồn và xuất hiện sự tham lam ăn uống
hàng ngày, thói kiêu căng ngạo mạn, những sự vui mừng quá thể hay những
nỗi buồn sợ hãi. Khó có thể suy ngẫm một cách hợp lý khi linh hồn bị giam
hãm trong thể xác như vậy. Platon cho rằng chính những ham muốn của cải,
dục vọng bắt nguồn từ nhu cầu của thể xác là nguyên nhân cho chiến tranh và
trạng thái mâu thuẫn giữa con người với con người. Cần phải thoát khỏi sự
rằng buộc của thể xác càng lớn càng tốt. Linh hồn cần giữ được sự tinh khiết
của chính linh hồn. Vậy là toàn bộ sự quan tâm của Platon vào con người tập
trung vào linh hồn. Vậy linh hồn xuất hiện do đâu, dưới một lớp vỏ thần bí
Platon cho rằng linh hồn con ngươi do Thượng đế tạo ra. Tuy nhiên linh hồn
con người không phải được tạo ra bằng linh hồn thế giới, như một bộ phận
của linh hồn thế giới. Cũng với những thành tố như nhau tạo hóa đã tạo nên
linh hồn thế giới và linh hồn con người nhưng với cách thức pha trộn khác
nhau. Ông quan niệm mỗi linh hồn cư ngụ trên những vì sao, mỗi linh hồn là
một cá thể và có bao nhiêu linh hồn thì cũng có bấy nhiêu các vì sao. Tạo hóa
cũng ban cho linh hồn một số phận bất di bất dịch, có năng lực tiếp nhận chân
lý và giá trị qua đây định hướng cho các loài sinh vật. Tạo hóa đưa linh hồn
đến những tồn tại hữu hình, đó là thân xác con người, linh hồn giúp con người
lớn lên, trưởng thành. Để rồi khi thân xác chết đi thì thượng đế lài tiếp nhận
linh hồn. Một chuyến hành trình mới lại bắt đầu với linh hồn.
21
Phải khẳng định rằng, từ những gì trên đây, bản chất của cả linh hồn
con người và linh hồn thế giới đều mang bản chất tinh thần vô hình, phi vật
chất, siêu trần thế. Cả hai đều do thượng đế tạo nên, khi kết hợp với thể xác
linh hồn sinh ra các tri giác cảm tính. Linh hồn có ba bộ phận đó là: lý trí hay
còn gọi là linh hồn lý trí tồn tại dưới dạng tư tưởng thuần túy, phi cảm tính,
linh hồn ý chí, cơ sở cho tính tự trọng, gan dạ và hi vọng và cuối cùng là linh
hồn cảm xúc bản năng, cơ sở của những khát vọng ham muốn hay không ham
muốn, nhu cầu tình cảm, ăn uống và nhu cầu được an tâm. Mặc dù linh hồn
có nhiều bộ phận như trên nhưng Platon khảng định cấu tạo nên con người chỉ
bằng một linh hồn duy nhất. Từng bộ phận của linh hồn sẽ phân tán trên từng
bộ phận của cơ thể con người. Có thể nói, sự quan tâm của Platon phần lớn
dành cho linh hồn lý trí còn phần linh hồn ý chí hay linh hồn cảm xúc không
được ông quan tâm nhiều.
Ở Platon, linh hồn không chỉ là một thực thể tinh thần, mà công là
nguyên lý vẫn động của sự sống. Có hai dạng vận động thường được quan
niệm đó là vận động cơ học và vận động tùy hứng. Vận động cơ học là vận
động yêu cầu cần một cú hích từ bên ngoài còn vận động tùy hứng thì đã có
sẵn xung lực vận động, tức là tự vận động. Trong thế giới vật chất này, nơi
nào có sự sống thì nơi đó có tự vận động, điều này thể hiện không chỉ ở con
người mà còn ở thế giới các loài động vật và thực vật. Sự tự vận động này có
được theo Platon là do có linh hồn.
Vậy là linh hồn không chi thuần túy là tin thần, mà linh hồn còn là
nguyên lý của sự sống nữa. Bên cạnh vai trò tâm lý linh hồn còn đóng vai trò
là vũ trụ luận, linh hồn là nền tảng cho sự sống trên thế gian này và thậm chí
còn là nền tảng cho sự vận động trong thế gian này. Tự vận động giờ đây
được coi là khởi nguyên, cái tâm lý được coi là cái khởi nguyên tự vận động.
Có nhiều quan điểm khác nhau về quan niệm con người của Platon,
trong đó đặc biệt là nguồn gốc, vai trò và bản chất của linh hồn. Sự bất tử của
22
linh hồn xuất phát từ chính bản thân nó gợi cho chúng ta liện tưởng đến sự
chứng minh bản thể luận cho sự tồn tại của Thượng đế. Những suy tư bất hủ
của Platon đã được các nhà tư tưởng sau này quay về, tìm hiểu và kế thừa, gọt
dũa bổ xung thêm những điều mới mẻ, lý thú. Dưới nhiều hình thức khác
nhau, tư tưởng của Platon còn sống mãi đến tận ngày nay. Đặc biệt là quan
niệm linh hồn, xuất phát từ một thế giới khác và là bản chất của con người,
quan niệm này thật gần gũi với quan niệm của Kitô giáo.
Trong tư tưởng của Platon mà nơi đây đặt nền tảng cho sự phát triển
của những tư tưởng của các triết gia trường phái Platon mới sau này, đặc biệt
là Plotin, triết gia rất có ảnh hưởng đến tư tưởng của Augustino, không thể
không đề cập đến quan niệm về Chúa trời.
Với Platon, tôn giáo dường như là lĩnh vực của trái tim, tuy nhiên Chúa
trời không chỉ là đối tượng của đức tin mà còn là đối tượng của tri thức nữa.
Có hai cách thức để khẳng định sự tồn tại của Chúa trời. Đó là cách thức vật
lý và cách thức biện chứng dẫn tới chứa trời.
Trong cách thức vật lý tới Chúa trời, từ xuất phát điểm về quan niệm
của vận động Platon cho rằng: vận động là một điều không thể bàn cãi, nhưng
vận động như đã nói ở trên đó là tự vận động tức là tự sự vật đã có xung lực
vận động hay vận động nhờ xung lực từ bên ngoài. Tất cả mọi vận động nhờ
cái khác, nhờ xung lực từ bên ngoài thì cuối cùng cũng phải quay về với sự tự
vân động đầu tiên. Cái tự vận động phải là cái có trước. Từ sự hiển nhiên vận
động này ta suy ra trong thế giới có nguồn gốc vận động. Đó là linh hồn, khi
mà linh hồn có trước thể xác. Các nhà triết học trước Socrate đã không nhận
thấy điều này và học đã đi vào ủng hộ chủ nghĩa vô thần. Theo Platon, linh
hồn nào tốt thì sẽ tạo nên những vận động có trật tự, được sắp xếp. Linh hồn
nào xấu thì những vận động xuất phát từ nó thường tùy tiện, lộn xộn. Có
những linh hồn thống trị, tạo nên sự vận động của vũ trụ, đây là những linh
hồn tốt và được sắp xếp quy củ. Linh hồn tối cao nhất mà từ đó được vận
23
động phổ quát nhất của vũ trụ thì cũng là linh hồn hoàn thiện nhất và thánh
thiện nhất. Tuy có nhiều linh hồn nhưng điều quan trọng nhất là chúng ta biết
rằng có một linh hồn hoàn thiện nhất.
Platon không hướng tới một nhất thuần luận thuần túy, cũng không
hướng tới một Đấng sáng thế, mà ông hướng tới một kiến trúc sư của thế giới.
Đó là một Chúa trời trong lòng thế giới. Đó là linh hồn của thế giới. Vì cái
linh hồn thế giới tồn tại trước vũ trụ và cái tinh thần có trước cho thấy sự tiên
nghiệm của Chúa trời.
Platon không hề đề cập đến Chúa trời như là một cá nhân. Ở Platon có
thể tìm bản chất của Chúa trời trong cái tuyệt đối hoàn toàn độc lập, cũng như
trong cái giá trị tuyệt đối, Chúa trời là cái hiện hữu thuần túy, vừa là cuộc
sống, vừa là hành động. Trong cuộc sống con người có thể tương đồng với
Chúa trời thông qua cầu nguyện. Với Platon, cầu nguyện thật là quan trọng.
Cầu nguyện ở đây không phải là một hình thức xin xỏ như trẻ con, không thể
nào mua chuộc được Thượng đế. Ý nghĩa đích thực của cầu nguyện không
cho phép chúng ta van xin những điều mình cầu mong giống như những đứa
trẻ vẫn làm. Chúng ta cầu nguyện để cầu mong những gì hợp với lẽ phải đạo
đức và một tâm hồn tinh khiết, trong sạch.
Học thuyết ý niệm, bên cạnh đó là quan niệm về Chúa trời, về con
người của Platon là những nền tảng quan trọng có ảnh hưởng xuyên suốt
trong quá trình phát triển của truyền thống tư tưởng phương Tây sau này,
trong đó có triết học Ki tô giáo với thời kỳ đầu được đặt nền móng bởi các
giáo phụ, nổi bật là St. Augustino.
Augustino không chỉ tiếp thu những tư tưởng triết học của Platon. Ngài
còn chịu ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng của trường phái Platon mới, đặc biệt là
tư tưởng của Plotin. Nhờ bạn bè và giám mục Ambroise thời danh lúc bấy
giờ, Agustino đã học hỏi được từ những lý thuyết của Pltotin những câu trả
lời thỏa đáng cho những thắc mắc của ông đang trong khi ông vẫn còn đắm
24
chìm trong giáo thuyết của đạo Manes. Plotin đã giúp Augustino đột phá
trong tư tưởng khi khẳng định con người có thể đạt đến được chân lý của cái
khả tri và li khai được với những liên hệ thực tại của thể xác. Đó là một khám
phá mới và thật lớn đối với Augustino lúc bấy giờ, trong lúc ông đang phải
đấu tranh, dằn vặt với chính con người mình bởi những thú vui xác thịt. Trong
triết học của Plotin ông đã tìm ra một cách giải thích thỏa đáng hơn về Kitô
giáo, khác hẳn với sự giải thích đơn giản mà mẹ ông vẫn thường khuyên bảo
ông. Augustino muốn tìm ra những tương đồng trong giáo lý của thuyết
Platon mới với giáo lý Kitô giáo, đã có những lúc ông thấy không có gì xa
cách giữa Ki tô giáo tư tưởng của thuyết Platon mới và không cần phân biệt tư
tưởng của hai hệ thống tri thức này.
Augustino mô tả lý thuyết của trường phái Platon mới như một lý
thuyết chứa đựng những những lý thuyết đặc biệt của Kitô giáo về Thiên chúa
và vũ trụ của ngài, về công cuộc tạo dựng vũ trụ, về sự hiện diện của ánh sáng
thần linh trong trần gian này và trong tâm hồn con người. Dường như những
điều này ông đã gặp được trong lý thuyết của phái tân Platon trước khi đọc
được trong Kinh thánh.
1.2.2 Học thuyết của Philon d’Alexandrie
Philon d’ Alexandrie cũng thường được gọi là Philon le Juif vì ông là
một triết gia Do Thái, nhưng lại có tinh thần Hi Lạp. Ông là con của một gia
đình giàu có và thần thế ở Alexandrie, ông đã được giáo dục cả về Do Thái
giáo và tư tưởng Hi Lạp. Năm 40 sau công nguyên ông đã được những người
đồng đạo Do Thái cử đi yết kiến Đại đế Caligula để xin miễn cho dân Do
Thái khỏi phải thờ hoàng đế vì đó là một điều nghịch với tinh thần nhát thần
của Do Thái giáo.
Thời kỳ này văn hóa Hi Lạp đã trở thành di sản của người Do Thái vì
người ta chỉ còn đọc kinh thánh Do Thái bằng những bản dịch Hi Lạp. Đa số
các tác phẩm của Philon đều là những cuộc tranh luận triết lý về một số ẩn dụ
25
trong kinh thánh. Ông muốn thực hiện một tổng hợp giữa những lý thuyết của
tiên tri Moise, triết gia Platon và Zenon. Philon muốn đưa ra những chân lý
được nói đến một cách ẩn dụ trong kinh thánh ra với mọi người. Với ý định
tổng hợp này Philon muốn dung hòa mặc khải với lý trí. Có thể nói, vấn đề vĩ
đại nhất trong kinh viện học trung cổ, kể cả thời kỳ bắt đầu của nó là thời kỳ
các giáo phụ là vấn đề dung hòa giữa tín ngưỡng và lý trí thì vấn đề này đã
thùa hưởng được tù tinh thần của Philon.
Trong nhiều quan niệm khác nhau về Đức Chúa trời, Philon nhận thấy
thích hợp nhất với quan niệm về Chúa trời của Platon. Platon cho rằng: Chúa
trời đã hiện hữu từ rất lâu mà lúc ấy vũ trụ chưa có và sau khi vũ trụ này đã
được Ngài làm cho có rồi thì Chúa trời vẫn tiếp tục hiện hữu như một thực tại
vô thể xác, hiện hữu trên và vượt trên vũ trụ thể xác này. Bên cạnh Chúa trời
là những ý tưởng cũng Hằng cửu và Chúa trời là ý niệm cao nhất của các ý
niệm. Philon đồng tình với Platon ở điểm này duy chỉ có một điều đó là các ý
tưởng trong thế giới ý tưởng của Platon thì Philon không cho chúng là hằng
cửu. Ông quả quyết rằng, kinh thánh đã nói rõ, chỉ có Chúa trời toàn năng,
đấng thụ tạo ra muôn vật hữu hình và vô hình là hằng cửu mà thôi.
Philon luôn luôn hướng sự suy tư của mình đến một thế giới mang đậm
màu sắc tôn giáo. Ông cố gắng trả lời cho câu hỏi: làm thế nào để các tạo vật
có thể vươn lên đến Chúa trời? Tiếp đó làm thế nào để Chúa trời hành động
được trên các tạo vật. Để trả lời cho câu hỏi này Philon cho rằng nhờ Logos
(Ngôi lời) mà Chúa trời hoạt động trên vũ trụ và vũ trụ có thể vươn lên đến
Chúa trời được. Giữa Chúa trời hoàn hảo và vô hạn và vũ trụ nhỏ mọn. Ngôi
lời là trung gian giúp trao đổi tư tưởng và hành động. Logos được xem như
công cụ của Chúa trời trong công cuộc tạo dựng vũ trụ.
Theo Philon có một Chúa trời siêu việt, giữa Chúa trời và vũ trụ có một
điều xa cách vượt bực. Chỉ có những trung gian đặc biệt như Logos mới liên
kết lại được. Ngoài ra còn có sự hiện hữu của những thụ tạo vô hình, thi hành
26
những mệnh lệnh của Chúa trời, nhằm mục đích giúp đỡ con người tri nhận
được Chân lý. Có thể tri nhận ra một tinh thần sùng kính Chúa trời hết mực
nơi Philon, một con người uyên thâm và huyền nhiệm. Ông đã cố gắng kết
hợp tất cả những gì là ưu trội nhất, mọi hình thức và trình độ làm đẳng cấp để
liên kết linh hồn con người với Chúa trời.
1.2.3 Học Thuyết của Plotin
Những tư tưởng của Plotin là một trong nhưng tiền đề quan trọng nhất
hình thành nên những tư tưởng trong học thuyết của Augustino. Căn cứ trên
những hàm ý hoàn hảo nhất của Platon, Plotin đã khai triển một lý thuyết đầy
đủ về đơn nhất như là một nguyên tắc cao siêu nhất hay là nguyên nhân tối
cao.
Sự đơn nhất hoàn hảo theo Plotin thì đó là nguyên lý tối hậu cho mọi
vật. Mỗi sự vật chỉ tồn tại được với điều kiện là chúng không bị tản mát, đa
tạp mà phải thuần nhất. Một khi sự thống nhất tan biến thì sẽ không có gì có
thể tồn tại cả, một khi bị phân tán hữu thể sẽ bị sai đi cùng với sự đổ vỡ của
thống nhất đó. Trình độ của các hữu thể khác nhau cũng là do trình độ thống
nhất hơn kém nhau quy định. Như vậy chỉ duy nhất cái đơn nhất mới là
nguyên lý kết nạp được mọi đa tạp, vì theo kinh nghiệm, ngoài cái đơn nhất ra
cái gì cũng đa tạp và cần đến một cái gì ngoài chúng. Tất cả những gì đa tạp
đều không thể tự thân tồn tại được, tất cả những gì đa tạp đều không có khả
năng tự túc, những gì đa tạp đều cần đến những thành tố cấu tạo nên chúng, vì
mỗi thành tố ấy chỉ hiện hữu được là nhờ ở sự hòa hợp của nó với những cái
khác và cảm thấy cần đến những cái khác. Chỉ có cái đơn nhất là không cần
đến một cái gì khác, nên cái đơn nhất tự túc và tự tại. Từ đây cái đơn nhất
tuyệt đối vô song, siêu việt nên tất cả. Đơn nhất là cái gì hoàn toàn tuyệt đối,
hoàn toàn tự túc.
Chính sự hoàn toàn tự túc và tuyệt đối vô song mà đơn nhất vượt trên
mọi tư tưởng, không cần đến một cái gì ngoài mình, đơn nhất cũng không cần
27
đến tư tưởng hay tri thức và bất cứ một tác động tri thức nào, kể cả tác động
tự tri thức đều giả thiết một sự phân ly giữa chủ tri và khác tri, nên Plotin
khẳng định đơn nhất hoàn toàn không có một tri thức nào cả và đơn nhất
không biết đến cả chính mình nữa. Hơn nữa tri thức còn là cái gì đó phụ
thuộc. Còn đơn nhất thì không phụ thuộc vào cái gì khác. Plotin cho rằng tư
tưởng như là con mắt được ban bố cho người mù còn người mắt sáng rồi thì
không cần. Chỉ những bản chất đa tạp, mới cần tự tri thức chính mình mới cần
biết số và phẩm những thành tố cấu tạo nên chúng, chỉ duy nhất đơn nhất là
không cần đến điều đó. Dĩ nhiên đơn nhất không ngoại lai với chính mình.
Những tác động thường hằng qua đó đơn nhất tự hữu chính mình, bản chất
của đơn nhất thuần túy tuyệt vời, siêu việt mọi tư tưởng, tri thức. Cũng không
một ngôn ngữ nào có thể diễn tả đơn nhất được cả. Plotin cho rằng: Ta có thể
nói về đơn nhất, nhưng không thể diễn tả nó được. Khi muốn diễn tả nó,
chúng ta như những con người được tiêm nhiễm đầy một hứng khởi thần diệu,
tự cảm thấy một cái gì trong mình lớn lao, cao cả hơn chính bản thân mình.
Khi sử dụng trí khôn, ta cảm thấy đơn nhất ở tận nền tảng trí khôn của ta và
chính nó đã sản xuất ra trí khôn với tất cả sự sáng sủa chứa đựng trong đó.
Bằng mọi sự giao tiếp tinh thần, chúng ta đạt được đơn nhất mà không cần
đến một tư tưởng lý luận nào cả. Một khi có ánh sáng đột nhiên lóe lên trong
linh hồn thì ta phải tin tưởng là đã nhìn thấy đơn nhất. Sự tập trung sẽ giúp trí
khôn nhận ra ánh sáng thuần túy xuất phát từ tuyệt đối. Dường như đây là một
trải nghiệm tâm linh dựa trên sự nỗ lực của bản thân mỗi con người. Đó là
một sự im lặng mà nơi đây không có sự hiện diện của tri thức, tư tưởng, một
sự thuần túy tâm linh. Thậm chí chúng ta còn phải loại bỏ những gì không
tham dự vào tinh thần thuần túy để cảm nhận ánh sáng thuần túy này và đây
cũng là nhiệm vụ của linh hồn.
Nhiều học giả cho rằng đơn nhất của Plotin có kế thừa nhiều tính chất
đơn nhất của Platon như: không có đồ hình, không ở vào một vị trí nào, không
28
vận chuyển cũng không đứng im, không đồng tính hay tha tính với bất cứ thứ
gì, khổng có phẩm tính, không đồng đều, không thời gian, cũng không là hữu
thể và thống nhất như một đơn vị. Ngoài những tính chất phản diện như trên,
đơn nhất còn có những tính chất chính diện mà Plotin gọi là cái thiện.
Cái thiện là nguyên tắc tuyệt đối mà mọi sự phải lệ thuộc, vì cái thiện
chính là một cái thiện tự nội, nghĩa là nó phải hoàn toàn tự túc với chính
mình, không cần đến một cái gì khác ngoài nó để hiện hữu. Cái thiện là hữu
thể tuyệt đối, nó đã hiện hữu trước mọi sự, đang khi ấy cái ác chưa có. Trong
trình độ trật tự vạn vật, đối với mỗi cái, cái thiện lập tức nằm ngay trong
nguyên tắc ở bên trên chúng, ví dụ cái thiện của vật chất là mô thức, cái thiện
của con người là linh hồn, cái thiện của tinh thần là tuyệt đối.
Mỗi cái thiện đều sản xuất ra một cái gì trong sự vật mà nó là cái thiện.
Mô thức mang lại cho vạn vật trật tự và vẻ đẹp, linh hồn mang lại cho thể xác
sự sống, tinh thần mang lại cho linh hồn sự khôn ngoan và hạnh phúc và cái
Thiện mang lại cho tinh thần ánh sáng soi sáng cho nó. Vậy là đơn nhất còn là
cái thiện. Chính sự hoàn bị tuyệt đối của nó, đơn nhất là nguyên nhân sản sinh
ra mọi sự, nên ta có thể gọi nó là Thiên chúa và đơn nhất là sức mạnh sáng tạo
ra mọi vật.
Plotin cho rằng Thiên chúa sáng tạo ra mọi vật bằng cách luôn luôn bất
động. Sáng tạo là phóng tỏa ra một luồng ánh sáng thoát li từ tuyệt đối, mà
không làm xáo trộn sự an nghỉ của mình, như ánh sáng luôn luôn lan tỏa từ
mặt trời, bất kỳ sự vật gì khi đạt đến sự hoàn bị thì đều sản sinh. Một sự
phóng tỏa cái gì đó là hình ảnh của chính sự vật sẽ được phóng tỏa ra, như lửa
phóng tỏa ra sức nóng, tuyết phóng tỏa ra sức lạnh. Vậy chắc chắn Thiên chúa
phải sản sinh ra các sự vật, vì Thiên chúa là đơn nhất tràn đầy nhựa sống có
sức mạnh bao la, phi thường.
Từ học thuyết ý niệm của Platon và thuyết siêu hình của Plotin,
Augustino đã cho ra đời thuyết khải thị, trong đó ông làm vén bức màn thần
29
thoại che dấu vũ trụ khả niệm, yếu tính trùng với trí năng của Thiên Chúa mà
ta gọi là Ngôi Lời. Ông khẳng định: Ở trong Thiên Chúa, cái được tạo dựng,
đó là sự sống. Do đó tất cả những gì hiện hữu, chỉ hiện hữu bằng cách xâm
nhập vào ý niệm của Ngôi Lời. Vậy là Ngôi Lời là suối nguồn của mọi thực
tại. Nhờ sự vật, ta có thể hiểu được về Ngôi Lời. Vẻ đẹp của sự vật chỉ là dấu
tích vẻ đẹp của Thiên Chúa và sự hoành tráng của sự vật là hình ảnh quền
năng của Thiên Chúa.
Logos ( Ngôi lời) cũng là suối nguồn của mọi tri thức tinh thần, Thiên
Chúa là đường, là sự thật và là sự sống. Khi chiêm ngắm chân, thiện, mỹ
chúng ta không quy chiếu về những quy chuẩn chiêm ngắm của Platon nhưng
quy chiếu về ý niệm của Ngôi lời là nguồn suối soi chiếu mọi nhận thức về
chân lý. Cũng trong Ngôi lời có thể nhận thấy các lý tưởng về nhân đức, do
đó lương tâm đích thực là tiếng nói của Chúa. Học thuyết của Augustino cũng
ít đề cập đến yêu tính hơn trong triết học của Platon. Trước hết theo
Augustino yếu tính không làm mô thức cho sự vật, cũng không tạo nên vũ trụ,
chúng chỉ là ý niệm của Thiên Chúa. Đằng khác Thiên Chúa lại là Hữu Thể
cá biệt và hoạt động. Thiên Chúa đi vào trần gian, lịch sử của con người qua
Chúa Kitô nên Thiên Chúa là hữu thể có thực chứ không phải là hình bóng.
Mặc dù chịu ảnh hưởng của Platon nhưng Augustino mang tính hiện sinh
nhiều hơn trong cách sống và những kinh nghiệm từ nỗi khắc khoải của ông
trong việc đi tìm Thượng Đế. Cũng do ảnh hưởng của Platon mà tư tưởng của
ông có khuynh hướng nhị nguyên, tách thế giới ra làm hai: một là thế giới khả
tri, hai là thế giới khả giác. Cũng bởi vậy ông coi trọng linh hồn hơn thân xác
và linh hồn sử dụng thân xác như một dụng cụ. Với quan niệm nhị nguyên
này, Augustino đã ảnh hưởng rất lớn và sâu trong giáo hội Công Giáo suốt
nhiều thế kỷ. Con người được nhìn nhận khá bi quan và tiêu cực có thể nói là
hơi cực đoan. Có thể nói Augustino là người đầu tiên trong lịch sử Phương
Tây mô tả khá chân thực về con người một cách sống động nhưng cũng
30
không kém phần bi đát. Tự do theo quan điểm của ông đó là khả năng lựa
chọn và trở về với Thiên Chúa. Nếu con người chọn điều xấu thì con người sẽ
xa rời Thiên Chúa.
Tóm lại là Augustino đã rút tỉa được nhiều điều mới mẻ từ triết học cổ
đại phương Tây và đặc biệt là Platon và phái Platon mới để hòa nhập vào đạo
lý Kitô của mình.
1.2.4 Kinh Thánh
Sau Triết học cổ đại phương Tây, Kinh thánh là một tiền đề hình thành
nên tư tưởng triết học của Augustino. Thiên Chúa là Chân lý nên phần nào
Thiên Chúa ở trong con người. Nhưng vì Thiên Chúa là vĩnh cửu nên Người
cũng siêu vượt con người. Vậy phải có cách để con người nhận thức Thiên
Chúa. Augustino đã đi từ những tư tưởng của các triết gia trước ông, rồi kết
hợp những tư tưởng đó với Đức tin đó là chân lý mạc khải của Kinh Thánh.
Đầu tiên ông cho rằng hành trình truy tìm chân lý vĩnh hằng là sự lần mò,
trong đó có nhiều ký hiệu để hướng dẫn về với Thiên Chúa. Và để thấy những
ký hiệu đó thì cần có ánh sáng để soi dẫn giống như việc chúng ta không thể
thấy được sự vật nếu sự vật ấy không chìm ngập trong ánh sáng. Vì vậy, Ngài
kết luận rằng trí khôn con người cần có sự soi sáng để có thể “thấy” những ký
hiệu đó nơi các tạo vật. Điều kiện để phân biệt được đâu là ký hiệu đúng
chúng ta phải tin vào Mạc khải. Chính Mạc khải giúp chúng ta vươn lên trên
lý trí, giúp ta tin vào những dấu hiệu Kinh Thánh và tin vào thẩm quyền của
đối tượng vĩnh cửu là Thiên Chúa. Một thẩm quyền cao nhất trong tất cả các
thẩm quyền.
Vậy là sự xuất hiện của Kitô giáo đánh dấu một bước ngoặt triệt để
trong tư duy triết học. Việc các tôn giáo cổ mất dần ảnh hưởng và việc phổ
biến Kitô giáo có nghĩa là xuất hiện một tôn giáo mới với các triết lý mới căn
cứ trên tư tưởng cơ bản của Kinh Thánh. Các tư tưởng triết học cơ bản trong
31
Kinh Thánh đã ảnh hưởng đến tất cả các Giáo phụ cũng như các nhà kinh viện
ở giai đoạn sau của thời Trung cổ. Các tư tưởng đó là:
Quan niệm về Chúa như một nhân cách. Thời cổ đại chưa hề biết tới
một vị thần linh duy nhất. Các thần linh của thần thoại Hi Lạp không phải là
các thần linh có nhân cách vì đặc điểm thần thánh đó là sự bất tử. Các vị thần
ra đời, thù ghét lẫn nhau, chiến đấu, sinh đẻ và thù hằn nhau, như những con
người bình thường. Chỉ có Kinh thánh mới đưa ra quan niệm về Chúa như
một thần linh duy nhất và độc đáo, tính thần thánh đã vượt lên trên hoàn toàn
tự nhiên và con người. Nếu triết học cổ đại đã tiến một số bước theo hướng
nhận thức sự đặc thù của cái thần thánh, thì Kitô giáo đã đưa ra quan niệm
hoàn toàn độc đáo với một Đức Chúa trời duy nhất. Bên cạnh một thần linh
duy nhất, các nhà triết học cổ đại còn giả định tồn tại các thần linh khác. Quan
niệm của Kinh thánh về Chúa độc đáo, vô tận về tiềm năng khác hoàn toàn
với mọi cái khác. Kinh Thánh đã loại trừ mọi hình thức của đa thần giáo và
ngẫu tượng giáo.
Những tư tưởng quan niệm về Đức Chúa Trời như một nhân cách, đã
có nguồn gốc phát triển sâu xa trong truyền thống tư tưởng của Tây phương.
Có rất nhiều các đạo thần thánh với những quan niệm khác nhau về Thần
trong quá trình biện chứng của lịch sử. Một trường hợp điển hình đặt nền
móng cho sự phát triển về thế giới quan tôn giáo, cũng như sự thống nhất với
một vị thần tối cao duy nhất đó là Đạo Osiris, một tôn giáo cổ của Ai Cập.
Đất Ai Cập xưa kia được chia làm nhiều tỉnh, những khu mương đào từ
sông Nil nhằm phục vụ tưới tiêu cho nông nghiệp đã tạo ra những thành thị
được giao nhau, dần dần hình thành những quốc gia nhỏ. Lâu dần những quốc
gia nhỏ này hợp lại tạo thành hai nước lớn là Bắc Ai Cập và Nam Ai Cập. Bắc
Ai Cập với địa hình chủ yếu là đồng bằng so với Nam ai Cập với đất đai khô
cằn hơn, đã có cơ hội phát triển và giàu mạnh hơn bên cạnh đó là những cuộc
32
trao dổi công thương với các tàu nước ngoài. Osiris là một ông vua của miền
Bắc Ai Cập.
Tôn giáo Ai Cập vốn ban đầu mang nhiều di tích vật tổ. Đó là những
con thú trong thiên nhiên như: diều hâu, bò, chim ưng, chó sói. Những người
trong cùng thị tộc liên hệ với nhau về nguồn gốc qua cùng một vật tổ. Có
những thị tộc quan niệm rằng tất cả họ đều sỉnh ra từ một loài chim, thị tộc
khác thì lại quan niệm đó là chó sói. Sở dĩ có điều này là do thời kỳ này chưa
có những khái niệm trừu tượng như con số được gắn với những ý nghĩa văn
hóa hoặc là tên riêng, lúc này chỉ có những hiện tượng cụ thể được lấy ngay
từ thiên nhiên dưới sự quan sát trực quan. Nhưng ở Ai cập có hai vị thần
chính đó là Thần Mặt trời và Thần Osiris. Thần Mặt trời tượng trưng cho sự
lớn lao, sức mạnh và quyền lực thì thần Osiris lai đại diện cho một nhu cầu
của con người trần thế. Đó là nhu cầu cứu hồn, một nhu cầu sau khi chết mà
ban đầu chỉ là đặc quyền của nhà vua và quan lại, sau này nó đã là quyền của
đông đảo nhân dân. Một biểu hiện cho sự hợp tác về quyền lợi và những biến
đổi ở kiến trúc thượng tầng, từ tổ chức thị tộc ban đầu nên chế độ chiếm hữu
nô lệ.
Truyền thuyết kể rằng Osiris là ông vua của vùng đồng bằng Ai Cập.
Thần Osiris đại diện cho nông nghiệp, của cải, công lý và lòng bác ái đối lập
với thần Osiris là thần Seth, thần của sấm sét, xa mạc và sự khô cằn. Thần
Seth đã giết thần Osiris bằng cách lừa chàng vào một chiếc hòm và thả trôi
sông. Sau này bà Isis vợ thần Osiris tìm được xác chồng và nhờ phép thuật đã
làm sống lại, dưới hình thức một nhân vật có tên là Horus. Horus sau này
đánh bại Seth rồi thống nhất Ai Cập. Horus chính thức được coi là con của
Thần Osiris và có quyền thừa kế tài sản. Sau này ở Ai Cập nhân dân có tục là
diễn lại kịch thánh, những người được xem kịch này sẽ được đồng nhất với
thần Osiris và linh hồn sẽ được cứu vớt sau khi chết. Sau này ở các nhà thờ
Kitô giáo có các kịch thánh được diễn lại với việc chúa Jesus Kitô đã hiến
33
thân mình và được sống lại. Tư tưởng cứu hồn trong đạo Osiris rất quan trọng
nó ảnh hưởng không những trong phạm vi Ai Cập mà còn lan sang cả Lưỡng
Hà, Địa Trung Hải, Tiểu Á và cuối cùng được phổ biến ở Châu Âu với hình
thức là Kitô giáo với những giá trị hết sức nhân văn đó là cứu vớt nhân loại.
Quan niệm về Đức Chúa Trời như một nhân cách đã được hình thành
trên cả cơ sở tinh thần lẫn cơ sở vật chất. Nếu như Đạo Mặt trời với thần Mặt
trời tượng trưng cho uy quyền, sức mạnh từ bên trên, thì Đạo cứu hồn như đi
từ bên dưới lên, với nguyện vọng được cứu rỗi từ nhân dân và khi Kitô giáo
ra đời thì đây là hình thức cao nhất. Trải qua những giai đoạn phát triển của
xã hội cộng đồng nguyên thủy thì quan niệm về Thần cũng thay đổi theo. Ban
đầu đó là những vật tổ, sau này là đạo yêu tinh và cuối cùng là thần thánh.
Thần ban đầu với sức mạnh siêu nhiên và trấn áp con người dần dần đã gần
gũi với con người hơn. Cuối cùng thần đã trở thành người và cho đến khi
chúa Jesus Kitô ra đời trong Kitô giáo. Đây là kết quả cao nhất với việc Đức
Chúa Trời đã thành người để cứu vớt nhân loại.
Nếu như Thần ban đầu với những nét dữ dội, nghiêm khắc, điều này
còn được lưu giữ lại qua những hình tượng điêu khắc của các nền văn minh
cổ xưa, thì dần dần hình ảnh của thần đã thân thiện hơn rất nhiều. Điều này ta
có thể thấy trong kinh thánh. Cựu ước và Tân ước cho ta hai hình ảnh khác
nhau về Chúa. Chúa trong Cựu ước nghiêm khắc và Chúa trong Tân ước nhân
từ bác ái. Trong Cựu ước nói nhiều đến luật thì trong Tân ước Chúa Trời đã
được nhân cách hóa qua hình ảnh Chúa Jesus Kitô nên gần gũi hơn rất nhiều.
Khẳng định cho sụ tuyên xưng của Kitô giáo là: “Đức Jesus là Chúa” [1 Cr.
12:3]. Đức Chúa trời đã trao mình trong nhân loại và lịch sử nhân loại qua
hình ảnh của Chúa Jesus Kitô.
Sau khi chế độ phong kiến được hình thành từ chế độ chiếm hữu nô lệ,
một số lượng lớn nô lệ trở thành nông nô và hưởng được một số quyên lợi
mới tất nhiên là họ vẫn bị bóc lột nhưng với một xã hội đỡ hẹp hòi hơn. Họ
34
cho rằng kết quả này là do Thượng đế mang lại và sự hiến tế cho Thượng đế
là một nghĩa vụ thiêng liêng. Có thể nhận thấy rõ điều này trong kinh thánh
qua việc Đức Chúa trời bắt Áp-ra-ham hiến con: “Khi mọi việc kia đã xong,
thì Đức Chúa Trời thử Áp-ra-ham! Người thưa rằng: Có tôi đây. Đức Chúa
Trời phán rằng: hãy bắt đứa con một ngươi yêu dấu, là Y-sắc, và đi đến xứ
Mô-ri-a, nơi đó dâng đứa con là của lễ thiêu ở trên một hòn núi kia mà ta sẽ
chỉ cho. Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem hai đầy tớ và con mình là Y-sắc,
cùng đi, người cũng chặt củi để dùng về của lễ thiêu, rồi đi đến nơi mà Đức
Chúa Trời đã truyền dạy.” [St. 22:1-3]. Đã có thời gian trong thời kỳ thị tộc
tan rã người dân phải hiến mọi của cải thu hoạch đầu tiên cho Thần như: Lúa
gạo, bò, dê và cả con đầu lòng của họ nữa. Họ đến chốn Đức Chúa Trời đã
phán dạy, tại đó Áp-ra-ham lập bàn thờ, chất củi lên, trói Y-sắc con mình lại,
để lên đống củi trên bàn thờ. Áp-ra-ham bèn giơ tay ra cầm lấy dao đặng giết
con mình. Thiên sứ của Đức Giê- hô- va từ trên trời kêu xuống rằng: Hỡi Áp-
ra- ham, Áp-ra-ham! Người thưa rằng: có tôi đây. Thiên sứ phán rằng: Đừng
tra tay vào mình con trẻ và chớ làm chi hại đến nó, vì bây giờ ta biết rằng
ngươi thật kính sợ Đức Chứa Trời, bởi cớ không tiếc với ta con ngươi, tức
con một ngươi. Áp-ra- ham nhướng mắt lên, xem thấy sau lưng một con chiên
đực, sừng mắc trong bụi cây, bèn bắt con chiên đực đó dâng làm của lễ thiêu
thay cho con mình. [St. 22:9-14].
Có thể nói hình ảnh về Thần dần dần đã có những thay đổi trong quá
trình biện chứng lịch sử. Có thể thấy nhiều tượng thần Hi Lạp là những mẫu
người đẹp lý tưởng. Con người dần dần đã nhân cách hóa thần thánh. Họ nhận
ra những giá trị tốt đẹp của chính mình trong hình ảnh của thánh thần. Những
ước mơ tốt đẹp về thân phận con người. Sự hiến tế sau này chỉ còn là tượng
trưng và sự dã man đã được hạn chế đến mức tối thiểu,
Có thể nói Ai Cập là đỉnh cao trong tư tưởng nhân loại thời cổ đại, nơi
đây đã xây dựng nên nhiều giá trị tư tưởng tốt đẹp. Một sự kiện quan trọng
35
được đánh dấu trong tôn giáo Ai Cập với Đạo Osiris đó là linh hồn sẽ được
cứu rỗi. Thời mông muội con người cho rằng sau khi chết, linh hồn vẫn tồn
tại, nhưng tồn tại thế nào thì chưa rõ, Nhưng từ Ai Cập, đánh dấu một sự kiện
quan trọng là linh hồn được cứu rỗi, và có một đời sống ở một thế giới linh
thiêng khác với trần thế. Đạo Osiris đã mở đường cho quá trình nhân cách hóa
thần thánh và đỉnh cao là Quan niệm về Chúa như một nhân cách trong Kitô
giáo. Trong Kitô giáo Sức mạnh cứu độ của Đức Chúa trời mạc khải đã ban
bố trong Chúa Jesus Kitô. Đức Chúa trời là đấng vô hình nhưng trong Đức
Jesus Kitô thì đấng vô hình đã trở nên hữu hình, Đức Chúa trời đã làm người
như tất cả chúng ta, ngoại trừ tội lỗi, và vì Đức Chúa trời đã làm người thực
sự nên Đức Chúa trời cũng có dung mạo như con người
Một vấn đề đặc trưng nữa của Kitô giáo đó là quan niệm về sáng thế.
Kinh thánh đã bắt đầu từ vấn đề này. Kinh Thánh công khai nói rằng, Chúa
tạo ra trời đất, sinh vật và con người. Các nhà Thần học Kitô nhấn mạnh đây
là sáng tạo từ hư vô. Điều này chỉ ra tính tuyệt đối, toàn năng của Chúa trời .
Chúa không bị giới hạn bởi cái gì. Chúa là tồn tại không được sáng tạo ra,
nhưng mọi cái được sáng tạo ra không phải là tồn tại như là tồn tại, không
phải là tồn tại đích thực mà chỉ có được tồn tại thông qua sự tham dự vào tồn
tại.
Chúa sáng tạo một cách tự do thông qua lời nói nguyện vọng và phước
lành. Tất cả đều được ban phát sự sống và cũng rất quan trọng đó là quyền tự
do lựa chọn. Để hiểu được điều này, phải dựa vào kinh thánh: Lúc khởi đầu,
Đức Chúa Trời sáng tạo ra trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng
bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Đức Chúa Trời bay lượn trên mặt
nước
Đức Chúa Trời phán: “Phải có ánh sáng.” Liền có ánh sáng. Đức
Chúa Trời thấy rằng ánh sáng tốt đẹp. Đức Chúa Trời phân rẽ ánh sáng và
36
bóng tối. Đức Chúa trời gọi ánh sáng là ngày, bóng tối là đêm. Qua một buổi
chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ nhất.
Đức Chúa Trời phán: Phải có một cái vòm ở giữa khối nước, để phân
rẽ nước với nước. Đức Chúa Trời làm ra cái vòm đó và phân rẽ nước phía
dưới vòm với nước phía trên. Liền có như vậy. Đức Chúa Trời gọi vòm đó là
trời. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ hai
Đức Chúa Trời phán nước phía dưới trời phải tụ lại một nơi, để chỗ
cạn lộ ra. Liền có như vậy. Đức Chúa Trời gọi chỗ cạn là đất, khối nước tụ
lại là biển. Đức Chúa Trời thấy thế là tốt đẹp.
Đức Chúa Trời phán: “Đất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt
giống, và cây trên mặt đất có trái, ra trái tùy theo loại, trong có hạt giống.
Liền có như vậy. Đất trổ xinh thảo mộc, cỏ mang hạt giống tùy theo loại và
cây ra trái, trong trái có hạt giống tùy theo loại. Đức Chúa Trời thấy thế là
tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ ba.
Đức Chúa Trời phán: phải có những vầng sáng trên vòm trời, để phân
rẽ ngày với đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm. Đó sẽ là
những vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất. Liền có như vậy. Đức
Chúa Trời làm ra hai vầng sáng lớn: vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày,
vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển đêm, người cũng làm ra các ngôi sao. Đức
Chúa Trời đặt các vòm sáng trên bầu trời để chiếu soi mặt đất, điều khiển
ngày và đêm, và để phân rẽ ánh sáng với bóng tối. Đức Chúa Trời thấy thế là
tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng đấy là ngày thứ tư.
Đức Chúa Trời phán: nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc
nhúc, và loài chim bay lượn trên mặt đất, dưới vòm trời. Đức Chúa Trời sáng
tạo các thủy quái khổng lồ, cùng mọi sinh vật vẫy vùng lúc nhúc dưới nước
tùy theo loại, và mọi giống chim bay tùy theo loại. Đức Chúa Trời thấy thế là
tốt đẹp. Đức Chúa Trời chúc phúc cho chúng rằng: Hãy sinh sôi nảy nở thật
37
nhiều cho đầy biển, và chim phải sinh sản nhiều trên các mặt đất. Qua một
buổi chiều và một buổi sáng đó là ngày thứ năm.
Đức Chúa Trời phán đất phải sinh ra các sinh vật tùy theo loại: gia
súc,loài bò sát và dã thú tùy theo loại. Liền có như vậy. Đức Chúa Trời làm
ra dã thú tùy theo loại, gia súc tùy theo loại và loài bò sát dưới đất tùy theo
loại. Đức Chúa Trời thấy thế là tốt đẹp.
Đức Chúa Trời phán: giờ chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh
chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia
súc dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất.
Đức Chúa Trời sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Đức Chúa Trời
sáng tạo con người theo hình ảnh Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời sáng tạo
con người có nam có nữ.
Đức Chúa Trời ban phúc lành cho họ, và Đức Chúa Trời phán với họ:
Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất. Hãy làm
bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất. Đức Chúa Trời
phán: Đây ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt
đất, và mọi thứ cây có trái mang hạt giống để làm lương thực cho các ngươi.
Còn đối với mọi dã thú, chim trời và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí thì ta
ban cho chúng mọi thứ cỏ xanh tươi để làm lương thực. Liền có như vậy. Đức
Chúa Trời thấy mọi sự Người làm ra quả là rất tốt đẹp! Qua một buổi chiều
và một buổi sáng đó là ngày thứ sáu.
Thế là trời đất cùng với mọi thành phần đã hoàn tất. Ngày thứ bảy,
Đức Chúa Trời đã hoàn thành công việc Người làm. Khi làm xong công việc
của Người, ngày thứ bảy, Đức Chúa Trời nghỉ ngơi.
Đức Chúa Trời ban phúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hóa ngày đó,
vì ngày đó Người đã nghỉ, ngưng làm mọi công việc sáng tạo của Người.
Đó là gốc tích trời đất khi được sáng tạo. [St.1-2:4]
38
Đức Chúa trời sáng tạo ra trời đất trong vòng 6 ngày. Đã có rất nhiều ý
kiến về khoảng thời gian này. Khi mà khoa học đã cho thấy sự tiến hóa vũ trụ
vật chất đã trải qua một thời gian rất dài.
Thánh Augustino đã đưa ra những nhận định hết sức chí lí rằng: Cách
đọc và hiểu câu chuện sáng thế trong Kinh thánh theo nghĩa đen cần phải
được bác bỏ. Thánh Augustino đưa ra một nhận định rất trung thực. Theo ngài
6 ngày sáng thế không phải là những ngày như chúng ta hằng kinh nghiệm.
Đó là những ngày cực kỳ khó hiểu mà chúng ta không thể thấu triệt được. Kể
từ nhận định này, con người đã vượt qua bức tường biện chứng của trí thức để
nhảy một bước rất xa vào vùng cảm nghiệm của tâm thức. Thánh Augustino
cho rằng chúng ta phải tìm ra ý nghĩa tôn giáo linh thiêng, qua những trình
thuật, những câu chuyện được ghi lại trong sách sáng thế. Đây là một tư
tưởng rất vĩ đại, cũng như là lời chỉ dẫn nhắc nhở của Thánh Augustino một
trong những vị giáo phụ đầu tiên cho nhân loại trong việc đọc và cảm nhận,
tiếp thu nguồn phúc lạc qua những câu chuyện được trình bày trong Kinh
thánh.
Đức Chúa trời là đấng vô hình. Đức Chúa trời sáng tạo ra trời và đất từ
hư vô tuyệt đối. Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sự bằng tình yêu và sự khôn
ngoan của Ngài. Đức Chúa trời đã sáng tạo ra nguồn gốc muôn loài: Đời xưa,
Đức Chúa trời đã cùng các đấng tiên tri phán dạy tổ phụ chúng ta nhiều lần,
nhiều cách, rồi đến những ngày sau rốt này, Ngài phán dạy chúng ta bởi Con
Ngài, là Con mà Ngài đã lập lên kế tự muôn vật, lại bởi con mà Ngài đã dựng
nên thế gian [Dt. 1:1-2]
Nếu như sự sáng tạo của con người là từ những gì đã có sẵn thì Đức
Chúa trời toàn năng tạo dựng nên trời đất từ hư vô. Nên Thánh Augustino cho
rằng sự sáng tạo của con người, những gì con người làm sao có thể sánh được
với Đức Chúa trời. Vả lại sau khi sáng tạo ra trời đất, Đức Chúa trời còn làm
39
việc liên lỉ và gìn giữ cho mọi vật được hiện hữu và đi tới cùng đích của nó.
Đây là quan điểm về Chúa quan phòng.
Con người luôn luôn đặt ra câu hỏi về nguồn gốc của mình, nguồn gốc
của vũ trụ nơi mình đang sống. Nếu như khoa học đã làm rất tốt vai trò của
những chứng minh dựa trên sự thực nghiệm thì điều đó vẫn chưa đủ cho
những câu hỏi muôn đời: nguồn gốc cùng đích của đời mình là gì? Nguồn gốc
cùng đích của toàn vũ này là gì. Tại sao chúng ta lại sinh ra? Tại sao vũ trụ
này lại tồn tại? Khoa học đã giải thích vũ trụ vật chất này đã tiến hóa và hoạt
động ra sao. Nhưng chỉ có thế thôi thì chưa đủ.
Đức Chúa Trời tạo dựng nên mọi loài bằng Lời quyền năng của Ngài,
từ hư vô tuyệt đối và bằng tình yêu cùng sự khôn ngoan của Ngài. Có người
cho rằng con người chúng ta đến với thế gian này vì một sự ngẫu nhiên vậy
thì cuộc đời này còn gì là ý nghĩa nữa. Nhưng Kinh thánh đã chỉ rõ: Có lời
Đức Giê-hô-va phán cùng tôi như vầy: trước khi tạo nên ngươi trong lòng mẹ,
ta đã biết ngươi rồi, trước khi ngươi sinh ra, ta đã biết riêng ngươi, lập ngươi
làm kẻ tiên tri cho các nước [Gr. 1:4].
Trong kinh Tin kính đã xác quyết về một đức tin. Đó là tin kính một
Đức Chúa Trời duy nhất là Chúa Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất
muôn vật hữu hình và vô hình. Nếu như những vật hữu hình được các giác
quan thụ cảm được thì vô hình mà Đức Chúa trời tạo ra là gì?
Đó là những thiên thần: Hãy giữ mình đừng khinh dẻ một đứa nào
trong những đứa trẻ này, vì ta bảo các ngươi, các thiên sứ của chúng nó trên
trời thường thấy mặt Cha ta, là đấng ở trên trời. Vì con người đã đến cứu sự
đã mất [Mt. 18:10]. Vậy là mỗi người đều có một Thiên thần của riêng mình.
Từ đây chúng ta càng phải tôn trọng từng con người một.
Các thiên thần là ai? Thánh Augustino đã nói về các vị đó. Thiên thần
là tên gọi chỉ chức vụ chứ không chỉ bản chất. Nếu bạn tìm tên gọi chỉ bản
chất của vị này, thì đó là thiêng liêng, nếu bạn tìm tên chỉ chức vụ thì đó là
40
Thiên thần. Thiên Thần cũng là thụ tạo được Đức Chúa trời dựng nên và hoàn
toàn thiêng liêng, thiên thần có trí tuệ, ý chí và ngôi vị. Các Thiên thần trỗi
vượt hơn mọi thụ tạo hữu hình về mặt hoàn hảo. Các ngài chuyên thờ phụng
Đức Chúa trời được Đức Chúa trời sai đi phục vụ mưu ích cho những kẻ được
được hưởng ơn cứu độ: Đức Chúa trời há có bao giờ phán cùng thiên sứ nào
rằng: Hãy ngồi bên hữu ta. Cho đến chừng nào ta để kẻ thù nghịch làm bệ
dưới chân ngươi? Các thiên sứ há chẳng phải đều là thần hầu việc Đức Chúa
trời, đã được sai xuống để giúp việc những người sẽ hưởng cơ nghiệp cứu rỗi
hay sao? [Dt. 1: 13-14]
Thánh Augustino đã khuyên mỗi con người hãy quay trở về với chính
mình, cầu nguyện với thiến thần của chính mình. Con người càng nhận thức
mình rõ ràng bao nhiêu thì càng tiến gần Chúa bấy nhiêu và ngài cho rằng
càng đi sâu vào cái tôi của chính mình thì càng nhận thấy Chúa rõ ràng hơn.
Vậy là thế giới Hữu hình tồn tại cùng thế giới vô hình. Cả hai thế giới
đều do Đức Chúa Trời thụ tạo ra. Nếu như đất tượng trưng cho một ý nghĩa là
cõi hữu hình, thì Trời là cõi trời, cõi thiêng liêng. Cuối cùng trời đất được
hiểu là toàn bộ hiện hữu do Đức Chúa Trời thụ tạo nên bằng tình yêu và sự
khôn ngoan của Ngài.
Bên cạnh quan niệm về sáng thế thì quan niệm về con người trong Kinh
thánh là tư tưởng cốt yếu tiếp theo. Nếu như triết học Hi Lạp xác định con
người là một tiểu vũ trụ và như là cái phản ánh đại vũ trụ, con người là một
bộ phận của vũ trụ bên cạnh những bộ phận khác của vũ trụ. Nhưng Kinh
thánh lại quan niệm khác: Con người được tạo ra theo hình ảnh và sự tương tự
của Chúa, nên con người đứng trên mọi sinh thể. Vậy là con người có một sứ
mệnh và trách nhiệm đặc biệt. Năng lực tự do thừa nhận ý chí của Chúa Trời
sẽ nâng con người lên cao nhất trong tất cả các sinh thể. Con người là trung
tâm của thế giới trần tục và đức hạnh tối cao là tuân thủ những lời răn của
Chúa.
41
Trong triết học con người luôn luôn là đề tài trung tâm. Socarte người
giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử triết học Hi Lạp đã lấy việc
nhận thức con người là trung tâm của triết học của mình. Câu nói nổi tiếng
của ông là: hãy nhận thức chính mình. Dù triết học có hướng sự nhận thức
đến vấn đề gì đi chăng nữa thì những kết quả đó cũng nhằm mục đích tối cao
và tối hậu là phục vụ con người và ngày càng hiểu con người rõ hơn. Ở
Socrate thì vấn đề mục đích của tồn tại người, các đặc điểm của bản tính con
người luôn luôn là trung tâm trong những suy ngẫm của ông. Ông đã kéo thế
giới quan mà ở đó, con người hướng sự chú ý của mình ra tự nhiên về với nội
tâm của chính mình.
Hướng thế giới quan ra thế giới tự nhiên, con người được nhận thức
như là tiểu vũ trụ. Nếu như đại vũ trụ bao la và đa dạng sinh động thế nào thì
với tư cách là tiểu vũ trụ tâm hồn con người cũng bao la rộng lớn đến vậy.
Nhưng không thể hiểu con người nếu chỉ coi con người như là một đối tượng
chỉ chịu sự tác động của các định luật vật lý vì tồn tại người là sự hợp nhất
của cả ba yếu tố: Tâm linh, tâm thần và thể chất.
Chính quan điểm con người trong kinh thánh đã làm nổi bật yếu tố tâm
linh, tâm thần của con người. Đức Chúa Trời là cha toàn năng là đấng tạo
dựng trời đất muôn vật hữu hình và vô hình và Con người thật là thiêng liêng,
có một vị trí đặc biệt trong công trình tạo dựng của Đức Chúa Trời.
Nhiều khi con người biết thật nhiều về thế giới tự nhiên, nhưng chính
bản thân mình thì vẫn là một đáp số chưa có lời giải. Con người được tạo
dựng theo hình ảnh của Đức Chúa Trời vậy thì thánh ý của Đức Chúa Trời
muốn con người thế nào, tồn tại người chắc chắn phải có một ý nghĩa: Đức
Chúa Trời phán rằng: chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta và theo
tượng ta, đặng quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn
trùng bò trên mặt đất và khắp cả đất. Đức Chúa Trời dựng nên loài người
như hình Ngài. Ngài dựng nên loài ngươi giống như hình Đức Chúa Trời,
42
Ngài dựng nên ngươi nam cùng người nữ. Đức Chúa Trời ban phước cho loài
người và phán rằng: Hãy sanh sản thêm nhiều làm cho đầy rẫy đất, hãy làm
cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời cùng các
vật sống hành động trên mặt đất.
Đức Chúa Trời lại phán rằng: Này, ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ
kết hột mọc khắp mặt đất, và các loài cây sanh quả có hột giống, ấy sẽ là đồ
ăn cho các ngươi. Còn các loài thú ngoài đồng, các loài chim trời và các
động vật khác trên mặt đất, phàm giống nào có sự sống thì ban cho mọi thứ
cỏ sanh đặng dùng làm đồ ăn, thì có như vậy. Đức Chúa Trời thấy các việc
Ngài làm thật rất tốt lành. Vậy, có buổi chiều và buổi mai, ấy là ngày thứ sáu.
[St. 1: 26-31]
Chúa Jesus Kitô nói với con người như một lời khẳng đinh lại sự cao cả
của con người. Sự cao cả này sẽ giúp con người dũng cảm vượt qua mọi dục
vọng của bản thân. Dục vọng chính là những ham muốn lôi kéo con người
đến với tính không khoan dung, thái quá, qua đây phá vỡ tính cân bằng của
chính con người. Đức Chúa Trời tạo nên con người với tự do, để từ sự tự do
này con người chế ngự dục vọng, hạn chế chúng: Anh em đừng sợ kẻ giết thân
thể mà không giết được linh hồn, nhưng thà sợ đấng làm cho mất được linh
hồn và thân thể trong địa ngục. Hai con chim sẻ há chẳng từng bị bán được
một đồng tiền sao? Và vì không theo ý muốn cha các ngươi thì chẳng hề một
con nào rơi xuống đất. Tóc trên đầu các ngươi cũng đã đếm hết rồi. Vậy,
đừng sợ chi hết, vì các ngươi quý trọng hơn nhiều con chim sẻ. [Mt. 10: 28-
31] Chúa Jesus Kitô khyên con người hãy sợ đấng có thể tiêu diệt cả thân xác
và linh hồn trong hỏa ngục, một lần nữa con người lại được khẳng định có cả
xác và hồn, và sự cao cả của chính mình. Con người đáng quý trọng hơn tất cả
các thụ tạo của Đức Chúa Trời.
Có rất nhiều định nghĩa về con người được đưa ra. Triết gia Hi Lạp cổ
đại Empedocle, một con người đa dạng, ông là một nhân vật có khả năng thấu
43
thị, là một nhà giảng thuyết lưu hành và làm phép lạ, một chính trị gia, một
bác sĩ hay ông cũng là một thi gia. Ông cho rằng: Con người đã và sẽ luôn
luôn là hiện tượng thú vị nhất đối với con người. Empedocle cho rằng con
người có một linh hồn có tính cách thể xác và Linh hồn có bản chất thần linh.
Con người vì sự lầm lỗi của mình sẽ phải đi lang thang và đầu thai dưới nhiều
hình thức khả tử khác nhau.
Triết gia của trường phái ngụy luận Protagoras thì lại cho rằng con
người là thước đo của vạn vật. Đối lập với tính thần thánh của con người
trong quan điểm của Empedocle, con người trong quan điểm của Protagoras
là một hiện tồn độc lập không lệ thuộc vào thần thánh, thế giới hữu hình theo
ông là điều con người khó có thể biết bởi những chướng ngại vật cao như núi
sẽ hiện ra. Con người sẽ quyết định định vận mệnh của mình với tất cả phẩm
chất và tính cách của chính mình.
Kitô giáo dựa trên quan điểm của Kinh thánh để đưa ra quan niệm về
con người. Con người không những là một thực thể duy lý, con người là giao
điểm của hai thế giơi. Thế giới tâm linh cao thượng và thế giới trần tục với
biết bao dục vọng đôi lúc là thấp hèn.
Dựa vào lời Đức Chúa trời, Kitô giáo luôn khẳng định con người được
tạo dựng theo hình ảnh của Đức Chúa trời. Thật cao quý khi được tạo dựng
theo hình ảnh của Đấng tạo hóa và khi so sánh chính mình với các tạo vật
khác của Chúa, con người thấy mình có thật nhiều những khả năng đặc biệt.
Một trong những khả năng đặc biệt quý giá nhất đó là: khả năng nhận thức về
chính bản thân mình, khả năng quay về với ngôi đền mà nơi đấy Thượng đế
xuất hiện, đó chính là bản thân mỗi con người. Biết bao nhiêu tôn giáo đã chỉ
ra sự linh thiêng của tồn tại người và qua đấy nhận thức được sự vĩ đại của
Đấng tối cao.
44
Chỉ có con người mới có khả năng nhận thức chính mình. Tôi vừa là
chủ thể nhìn và tôi vừa là đối tượng được nhìn. Tôi tự nhìn tôi. Con vật không
thể nào có khả năng tự nó nhìn nó.
Khả năng làm chủ bản thân của mình là một điều đặc biệt nữa của con
người theo Kinh thánh. Con người có thể chấp nhận thiệt thòi, nhưng không
bao giờ chấp nhận một hành vi xúc phạm đến phẩm giá của mình, không như
các loài vật luôn luôn làm theo bản năng. Làm chủ bản thân mình con người
làm chủ những dục vọng của mình và cũng chỉ có con người mới có khả năng
tự hiến bản thân mình cho người khác một cách tự do và ý thức chứ không
phải bị ép buộc. Nên con người luôn luôn chịu trách nhiệm với hành động của
mình.
Được tạo dựng theo hình ảnh Đức Chúa Trời, là tạo vật cao cả trong
những tạo vật của Đức Chúa Trời, thế nên con người có những khả năng quý
giá, năng lực đặc biệt như vậy và phẩm giá và hình ảnh của Đức Chúa Trời
được tỏ hiện trọn vẹn nơi Chúa Jesus Kitô là ngôi lời Đức Chúa Trời xuống
trần thế làm người. Thánh Phao - lô gọi Chúa Jesus Ki tô là hình ảnh hữu hình
của Đức Chúa Trời vô hình. Con người làm người, đó là do ơn gọi, và càng
noi theo gương và sống giống với Chúa Jesus Kitô bao nhiêu thì càng gần với
ơn gọi làm người đúng nghĩa và phong phú bấy nhiêu. Đây là điều mà giáo lý
Kitô giáo thường xuyên nhấn mạnh.
Điểm tiếp theo trong trình thuật của sách sáng thế khẳng định con
người có hồn và có xác. Linh hồn là nguyên lý tinh thần của con người. Từ
linh hồn được dùng trong kinh thánh đã diễn tả đời sống thâm sâu nhất trong
con người của chúng ta, cái làm nên giá trị đích thực nhất của con người. Nơi
con người hồn và xác liên kết mật thiết với nhau thành một. Con người là tinh
thần nhập thể trong một thân xác, xác và hồn liên kết mật thiết làm nên bản
tính con người chúng ta.
45
Sụ trung dung là một điều gì khó khăn trong việc đánh giá vai trò của
thân xác và linh hồn. Có thời đại linh hồn được coi trọng đến nỗi khinh miệt
thân xác và có thời đại thì chỉ biết đến thân xác. Khi mà khoa học phát triển,
chủ nghĩa thực chứng hướng đến những kết luận dựa trên những dữ liệu và
quy luật của khoa học thì thân xác được tôn cao và con người có thái độ trịch
thượng, khinh miệt với những tư tưởng tâm linh. Con người hầu như chỉ còn
có cái xác, còn tinh thần thì không.
Không nghiêng về một thái cực nào trong việc đánh giá vai trò của thân
xác và linh hồn. Thân xác và linh hồn theo Kinh thánh liên kết thật là chặt chẽ
với nhau. Khi mà con người chấm dứt sự sống trần thế thì hồn lìa khỏi xác.
Linh hồn thì bất tử và con người cần phải trân trọng cả thân xác và linh hồn,
cả đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần.
Một quan điểm nữa về con người được trình bày trong Kinh thánh, đó
là con người được Đức Chúa Trời tạo dựng có nam và có nữ. Để khi Ngôi lời
hai Đức Chúa Trời xuống thế làm người là Chúa Jesus Kitô, thì Ngài cũng có
phái tính nhân loại là một người nam. Kinh thánh cũng cho thấy sự bình đẳng
giữa người Nam và người Nữ, dù cho có sự khác biệt giữa thể lý và tâm lý.
Tất cả những sự khác biệt này không thể xóa đi sự bình đẳng giữa người nam
và người nữ vì cả hai đều được Chúa tạo dựng theo hình ảnh của Chúa: Đức
Chúa Trời dựng nên loài người theo như hình Ngài, Ngài dựng nên loài
người giống như hình Đức Chúa Trời. Ngài dựng nên người nam cùng người
nữ. [St. 1:27] Vai trò đặc biệt của con người trong công trình tạo dựng của
Chúa còn được thể hiện trong cách Chúa tạo nên người đàn bà: Giê-hô-va
Đức Chúa Trời làm cho Adam ngủ mê, bèn lấy một xương sườn, rồi lấp thịt
thế vào. Đức Chú Trời dùng xương sườn đã lấy nơi A-dam làm nên một người
nữ, đưa đến cùng A-dam. A-dam nói rằng: người này là xương bởi xương tôi,
thịt bởi thịt tôi mà ra. Người này sẽ được gọi là người nữ vì người này do nơi
người nam mà có. [St. 2: 21-23]
46
Khi Đức Chúa trời tạo dựng con người thuở ban đầu, con người được
đặt trong vườn Ê-den, con người được sống trong tình thân nghĩa với Đức
Chúa Trời. Con người sống hài hòa với bản thân của mình, sống hài hòa với
tha nhân. Sự hài hòa với tha nhân của con người được thể hiện rõ khi mà A-
dam rất hạnh phúc khi sống cùng với Eva. Tất cả điều này cho thấy thuở ban
đầu con người đã sống trong tình trạng thánh thiện và công chính nguyên
thủy.
Con người phải sinh sôi nảy nở thật nhiều và thống trị mặt đất. Sự
thống trị, làm chủ bắt đầu từ chính bản thân con người, Chúa ban cho con
người khả năng làm chủ bản thân một cách hoàn toàn tự do. Làm chủ ở đây,
con người phải làm chủ được những dục vọng của mình. Ba thứ dục vọng mà
con người cần làm chủ đó là: Lạc thú giác quan, ham mê của cải, kiêu căng
ngạo mạn. Cũng chính vì có tự do nhưng không làm chủ được dục vọng của
mình, nên điều đáng tiếc đã xảy ra. Con người đã đánh mất sự thánh thiện
công chính nguyên thủy. Nguyên tội của nhân loại đã đánh mất sự hài hòa ban
đầu.
Có thể nói trong tâm linh, con người vượt lên trên thể xác, hướng tới
những giá trị tối cao. Những nhu cầu tự nhiên, những lo âu đời thường được
con người giải phóng. Nhưng con người đều có thể bị cái thiện hoặc cả cái ác
xâm chiếm chính mình. Nếu đời sống tâm linh của con người hình thành một
cách tốt đẹp, thì đây là nền tảng để con người hướng tới đời sống trần tục
thánh thiện và có ý nghĩa với những hành động cụ thể của thân xác. Điều này
càng nhấn mạnh vào sự đúng đắn khi xem xét con người với sự phụ thuộc,
liên kết chặt chẽ với nhau của cả thể xác và tâm linh, Con người luôn luôn tìm
kiếm bản thân mình, thể nghiệm bản thân và môi trường sống xung quanh
mình. Dù cho có được thật nhiều của cải vật chất, nhưng trong sâu thẳm, con
người vẫn cảm thấy chơi vơi, lạc lõng như đang thiếu đi một điều gì đó rất
47
quan trọng và thiêng liêng mà sứ mệnh luôn luôn thúc giục phải tìm về bằng
những phương tiện hình thức khác nhau.
Con người nếu được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống thì có lợi
gì, hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi lại mạng sống mình. [Mt. 16:26] Nhưng đôi
khi chỉ vì một món lợi nhỏ trước mắt thôi con người cũng có thể đánh mất cả
linh hồn và sự sống. Con người có quyền tự do, có quyền chọn lựa và trong
những chọn lựa đó điều này đã được chọn và điều khác đã được bỏ. Con
người đã chọn lựa gì? Con người có thể tự hiểu chính mình, nhưng đôi khi
chúng ta không thể nhìn thấy những gì là gần chúng ta nhất. Con người là Tạo
vật của Đức Chúa Trời thì con người sẽ lấy tiêu chuẩn nào để nhận thức chính
mình, dựa vào tiêu chuẩn nào để nhận thức tha nhân. Dựa vào tiêu chuẩn họ
là hình ảnh của Chúa hay dựa vào những tiêu chuẩn bên ngoài vật chất xác
thịt.
Thánh Augustino cũng đã một đời đi tìm niềm vui, hạnh phúc ở những
đủ thứ trần tục của trần gian. Ngài đã quay về trên con đường nhận thức chính
mình và rồi Ngài khám ra chỉ có Chúa mới là tất cả, là vẻ đẹp là sự thiện trọn
vẹn. Thánh Augustino trong sự khắc khoải của mình đã biết rằng Chúa đã
dựng nên Ngài và tâm hồn Ngài còn mãi băn khoăn, khắc khoải cho đến ngày
nào Ngài được yên nghỉ trong Chúa. Có một điều sẽ liên kết con người với
Chúa theo thánh Augustino đó là tình yêu. Có một câu chuyện, là một người
đàn ông đến hỏi thánh Augustino rằng: Ngài có thể cho tôi một lời nói mà có
thể bao hàm toàn bộ những luật lệ của tất cả những kinh linh thiêng không?
Ngài phải tĩnh lặng và phải thiền trong vài khoảnh khắc và sau cùng ngài nói
đó là Tình yêu.
1.3 Vai nét về thân thế, sự nghiệp của Augustino va tác phẩm Tự
thuật
Augustino sinh ngày 13-11-354 tại Thagaste (bây giờ là Sank Abros,
phía bắc Algeri). Cha ông là Patrice là một người ngoại giáo, mẹ ông bà
48
Monica là một Kitô hữu. Gia đình Augustino là nơi thường xuyên xảy ra
những cuộc cãi vã giữa cha và mẹ và đây cũng là những ấn tượng đầu tiên của
ông về tôn giáo và những cuộc tranh luận về tín lý. Họ không sống với nhau
hay đúng hơn là li thân. Patrice là một thuộc viên nhỏ của chính quyền, ông
Patrice là một người vui tính, vô lo. Nhưng đôi khi tính khí của ông cũng rất
thất thường, có nhiều lúc ông thô bạo, nghiêm khắc và Augustino là người
phải chịu tính cách này. Trái ngược với sự thất thường của người chồng, bà
Monica là một người hiền hòa, đôn hậu. Sự từ tốn của bà dường như khiến
Augustino thêm phần chán ghét cha mình. Bà luôn dạy cho người con sự hiện
hữu của một Thiên Chúa tốt lành và công bình phải coi ngài như một người
cha chân thực phải biết và lắng nghe theo ngài. Augustino còn có một người
em trai và một người em gái, người mà sau này trở thành một nữ tu.
Augustino học tiểu học tại Thagaste và 13 tuổi ông được gửi tới
Madaura, một thành phố lân cận để học trung học. Ở đây ông được học môn
tu từ học, một môn học hứa hẹn một nghề nghiệp triển vọng. Khác với sự lười
biếng khi còn học ở Thagaste, ở Madaura ông học tập thật chăm chỉ, có một
nguyên nhân đó là do sự quyến rũ của ngôn ngữ Latin và truyền thống phong
phú của văn chương cổ điển Roma, khác với ở nhà, hầu như ông chỉ nói một
thứ thổ ngữ của miền Numidia. Có thể nói ông là người rất nhạy cảm và có
khiếu về ngôn ngữ. Trong lúc ông đang tiến bộ thì sự khó khăn của gia đình
buộc ông phải quay trở về. Sự nhàn rỗi và những bản năng của tuổi dậy thì đã
khiến tinh thần ông bị rối loạn và là cơ hội cho những bản năng thấp kém trỗi
dậy. Cái tuổi trẻ con không ra trẻ con, người lớn không ra người lớn, ông đã
thực hiện những trò nghịch ngợm, đơn giản vì ông muốn nếm cảm giác vui vẻ
khi làm việc xấu nơi ông. Một ví dụ là ông đã ăn cắp những trái lê cùng chúng
bạn không phải là vì đói bụng mà chỉ vì thích thú với việc xấu nơi mình làm,
cuối cùng ông ném tất cả trái lê ăn cắp được cho lợn ăn. Đây cũng là thời kỳ
mà cái bản năng tình dục mạnh mẽ được thùa hưởng lại của người cha Phi
49
châu trỗi dậy mạnh mẽ nơi ông. Sau một năm chắt bóp tiền bạc, ông Patrice
đã cho Augustino đi học tiếp, ông được gửi tới Carthage để theo học một lớp
cao hơn tại trường của một nhà hùng biện. Carthage nằm trên vùng biển Tunis
hiện nay, là thủ phủ của Châu Phi lúc bấy giờ, đối với ông đây như là một
thiên đường với sự khoái cảm, dục lạc nơi một thành phố lớn. Những đĩ điếm
Ai Cập trần truồng đi lại lả lướt với cái vẻ thách thức và mời mọc, những nơi
vui chơi cung ứng cho ông những thú vui thô tục, sự cám dỗ, xa hoa mà ở
Thagaste không có. Nơi đây đánh dấu giai đoạn dâm ô nhất trong chặng
đường dẫn ông đến sự thánh thiện. Nhưng ông cũng biết mệt mỏi vì những sự
xáo trộn nơi tinh thần, cuối cùng như một biện pháp kiềm chế ông đã đính
ước với Melanie, một cô gái mà ông hay đi lại. Nhưng ông và người vợ không
có được một sự hòa điệu nơi tâm hồn, ông đã không có hạnh phúc và tiếp tục
bị những cơn ghen tuông và dục vọng dằng xé. Sau một năm chung sống với
người vợ, ông có một cậu con trai, đặt tên là Adeodat. Trong quãng thời gian
này, trách nhiệm bao bọc đè nặng lên vai ông khi đã có một người vợ và một
đứa con, ông kết thúc việc học và chuyển sang dạy môn tu từ học. Augustino
đã có gắng để làm chủ và tiến thân bằng nghề nghiệp của mình, ông đã trở
nên xuất chúng trong các pháp đình Roma, cuối cùng khi đã có bằng hùng
biện và có thể hành nghề, danh vọng và tiền bạc đã cuốn ông theo.
Cũng trong thời gian này Augustino đọc được tác phẩm của Ciceron
với tiêu đề Hortensius bàn luận về những giá trị triết học. Vào thời này
Ciceron có tên trong chương trình học của các nhà hùng biện tương lai. Tác
phẩm này đã gây cho Augustino một ấn tượng lâu dài, tác phẩm này theo như
ông sau này kể lại thì: tác phẩm đã làm tôi phấn chấn và hướng tới Đức Chúa
Trời, làm thay đổi những nguyện vọng và sở thích của tôi. Tất cả những hi
vọng nhỏ nhặt của tôi dường như tan biến đi, với nhiệt huyết không thể tắt
nổi, tôi bắt đầu hướng tới sự thông thái cao siêu bất tử. Nhưng sự phát triển tư
tưởng của Augustino không theo định hướng của triết học Hi Lạp, ông đã tìm
50
đến một một lý thuyết khác khả dĩ có thể giúp ông vượt qua được hố sâu ngăn
cách trong cuộc đời ông, trong thời gian này ông đã gia nhập giáo phái
Maniche và ông bị ràng buộc tư tưởng của nhóm này cho đến khi ông 28 tuổi.
Người sáng lập giáo phái Maniche là Manes, một học sĩ người Ba Tư. Ông tự
cho mình là nhập thể của Chúa Kitô. Giáo huấn của ông là một tổng hợp đặc
biệt của nhiều yếu tố như: dấu vết nhị nguyên thần bí của Bái hỏa giáo với lý
thuyết ánh sáng và bóng tối, những luật sống của Phật giáo, những lời tiên tri
của Ki tô giáo và những lý thuyết trực quan. Đúng là chỉ có đầu óc của một
họa sĩ với nhiều gam màu khác nhau mới có thể pha chế nên một thứ thuốc kì
dị như vậy, một sự hòa trộn lòe loẹt.
Sau khi tốt nghệp xong, Augustino ở lại Tagaste một thời gian ngắn,
sau đó từ năm 375 đến năm 383, ông làm giáo sư diễn thuyết ở Carthage.
Cũng ở đây, tư tưởng của ông dần dần thoát khỏi ảnh hưởng cuả phái Manes,
nhưng ông vẫn chưa xác lập được tư tưởng riêng của mình, lúc này ông rơi
vào quan điểm hoài nghi luận do chịu ảnh hưởng của Ciceron và Hàn lâm
viện. Sau một biến cố, đó là người bạn rất thân của ông qua đời, Augustino
càng bị những dằng xé nội tâm hành hạ, hàng loạt những câu hỏi lại nổi lên
trong ông là kết quả của cuộc đấu tranh giữa hai mảng đó là linh hồn và thể
xác. Khi tới Roma vào năm 383, ông vẫn là một giáo sư dạy diễn thuyết và
theo đuổi những danh vọng mới với những cơ hội mới, nhưng sự thật là
không có thành công gì mới. Nơi đây ông đã bị ốm nặng, có những lúc tưởng
chừng không qua khỏi, sức khỏe cạn kiệt, tiền bạc đã hết, phải nhờ đến sự
giúp đỡ của một người bạn cùng phái Manes ông mới qua khỏi được. Sau đó
ông có mở lớp dạy hùng biện, nhưng những học trò đến rất ít. Roma nơi một
đô thị giàu có, quý phái, trái tim người Roma vĩ đại nhưng ở đây Augustino
thật chật vật. Ông sống trong những khu hạ tiện, đối lập với những lâu đài xa
hoa, quyền quý. Năm 384, ông đến Milan, nơi những đời sống vật chất của
ông được đầy đủ hơn rất nhiều. Nơi ông đã chen chân được vào xã hội cao
51
sang và triều đình nhờ nghề giảng dạy khoa hùng biện của mình. Trong thời
gian này ông biết đến những tác phẩm của phái Platon, từ các bạn bè của ông
gửi cho ông. Bộ chín cuốn của Plotin mà ông đã đọc với bản dịch Latin của
dịch giả nổi tiếng Marius Victorianus đã gây nơi ông một ấn tượng mạnh mẽ.
Từ đây ông có quan điểm cho rằng ngoài thế giới vật chất ra, còn có một thế
giới tinh thần nữa và giờ đây ông có cách nhìn khác với cách nhìn của phái
Maniche. Nhờ những bài học tiếp thu được của phái Platon, ông cũng nhận
biết sự đồng tính kỳ diệu giữa thiện và ác, biết được rằng sự dữ không phải là
một năng lực tự chủ mà là một sản phẩm do sự sai lệch của ý chí khi đã quay
lưng lại với Hữu thể tối cao.
Nếu những học thuyết của phái Platon chỉ cho Augustino con đường
dẫn đến cố hương của hạnh phúc thì chính Kitô giáo mới dạy cho ông biết nơi
cư trú đó là ở đâu. Trước kia, nếu như ông không có thiện cảm với Kinh
thánh, ông cho đó là cuốn sách của con nít thì giờ đây ông nhận thấy ở đó
những chân lý cao siêu. Chính tại Milan ông đã quay trở lại với Kitô giáo, thật
ra đây là điều đã thai nghén trong ông từ lâu rồi khi mà những giáo lý của
giáo phái Manes không thể giúp ông trả lời những câu hỏi về bản thân mình.
Thánh Ambrosio là người giúp ông trở về với chính tâm hồn mình.
Thoạt đầu Augustino đến thăm Ambrosio không phải là vì một lời giáo
huấn nào của Kitô giáo, ông chỉ muốn gần gũi Ambrosio, một chính khách
hàng đầu so với các giám mục của đế quốc này, nhưng càng ngày ông cảm
thấy càng bị lôi cuốn bởi sự khoáng đạt oai nghiêm tự nhiên của một người
Roma quý phái. Chúa nhật nào Ambrosio cũng giảng tại giáo đường Milan.
Danh tiếng và sức cuốn hút của lời ngài đã làm cho tâm hồn của người dân
Milan như đang được nâng đỡ, thấu hiểu và coi sóc. Vậy là Chúa nhật nào
Augustino cũng đến giáo đường nghe ngài giảng. Qua sự chú giải của
Ambrosio những sự mâu thuẫn nhất trong Kinh thánh giờ đây đối với
Augustino tràn đầy vẻ đẹp và tươi sáng. Augustino biết rằng không nên đọc
52
Kinh thánh theo nghĩa đen của mặt chữ mà phải nắm lấy ý nghĩa tượng trưng
trong đó, lúc này chú tâm của ông đã hướng về những mặt giáo dục trong
Kinh thánh. Năm 387, trong buổi tối lễ Phục Sinh, Augustino cùng với Alype
là môn đệ của ông và con trai ông là Adeodat đã nhận bí tích rửa tội do tay
Đức giám mục Ambrosio. Ông đã tuyên xưng đức tin nơi Thiên Chúa và từ
nay hiến dâng cả thể xác và tâm hồn cho công cuộc cứu chuộc, dường như
đây là một sự hồi sinh của một con người để bước vào một cuộc sống mới
trong Đức Kitô. Từ đây ông đã từ bỏ đàn bà và không còn hám danh lợi cái
thứ mà đã khiến ông được ví như kẻ đào mỏ ở Milan. Sau khi chịu bí tích rửa
tội, Ông quay trở về Tagaste, trước đây danh vọng đã đẩy ông rời xa quê
hương nay ông đã quay trở lại với đức tin nơi Thiên Chúa. Có thể thấy một sự
trùng hợp thú vị, đó là Augustino được sinh ra tại Châu Phi và nhóm Kitô hữu
nhỏ theo ông trở lại quê hương cũng là những người gốc Phi. Plotin, người
sáng lập trường phái tân Platon mà những lý thuyết của nó có sức ảnh hưởng
rất lớn đến ông cũng là một người Châu Phi, dịch giả nổi tiếng Victorianus,
người đã dịch những tác phẩm của phái Platon mới, nhờ đó mà Augustino
mới có thể tiếp cận được với tư tưởng này cũng là một người gốc Phi và sau
cùng đó là Thánh Aton, người mà đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự rung động
trong trái tim ông bởi sự khổ hạnh cũng là một người Châu Phi nốt. Kitô giáo
phát sinh từ vùng Tiểu Á, Roma và Châu Âu đã làm cho Kitô giáo trở thành
phổ biến nhưng đối với cái gì thuộc về khuôn mẫu nơi chảy ra mạch nguồn tư
tưởng của Kitô giáo thì Châu Phi đã đóng vai trò quyết định. Năm 391,
Augustino trở thành linh mục và năm 395 thì trở thành giám mục cai quản địa
phận Hippo. Cũng tại nơi đây ngày 28 tháng 8 năm 430, trong khi thành phố
Hippone bị bao vây bơi cuộc tấn công của người Vandales, ông đã trút hơi thở
cuối cùng trên chiếc giường tu của mình, chung quanh có các môn đệ và bạn
bè của ông đang cầu nguyện.
53
Trong thời đế chế Roma suy tàn, khi mà những công trình kiến trúc và
các thành phố bị san phẳng thì những tác phẩm của Thánh Augustino vẫn trở
thành bất hủ. Chúng mãi là nguồn tư liệu quý giá cho triết học và Tôn giáo
phương Tây.
Các tác phẩm thời kỳ đầu của ông phải kể đến như:
Phản bác lại các nhà hàn lâm viện (386), trong đó ông phê phán hoài
nghi luận của phái tân Hàn lâm viện.
De beata (386) trong tác phẩm này ông bàn luận về những vấn đề của
chủ nghĩa duy hạnh phúc.
De ordine (viết năm 386) trong đó ông bàn đến quy luật của vạn vật và
về cái ác.
Soliloquia (viết trong những năm 386-387) trong tác phẩm này ông bàn
về sự thông thái, nhậm thức và sự bất tử.
De vera religion (năm 391) bàn về tôn giáo đứng đắn nhất là về tri thức
và đức tin.
Đến thời kỳ giai đoạn sau, ông có các tác phẩm khá quan trọng như:
Tự Thuật (Confessiones), tác phẩm quan trọng này được ông viết trong
những năm 397 – 401, tác phẩm là một sự thú tội của ông.
Chúa Ba ngôi (De Trinitate), ông viết tác phẩm này từ năm 400 đến
năm 416, đây là một tác phẩm lớn nói về quan hệ giũa lý trí và mạc khải,
đồng thời là một sự thử nghiệm suy tư về Chúa ba ngôi của ông. Tác phẩm
Thành đô của thượng đế (De civitate Dei) được viết từ năm 413 đến năm 426
bao gồm 22 cuốn về thành đô của Thượng đế, trong tác phẩm này ông phê
phán đế chế Roma đang suy tàn.
Suốt cuộc đời mình Thánh Augustino đã dể lại một di sản tư tưởng đồ
sộ với rất nhiều tác phẩm. Những chủ đề ngài viết cũng thật đa dạng và phong
phú như: tín lý, luân lý, triết học, kỷ luật, chú giải kinh thánh hay những tác
phẩm luận chiến đến các bè rối. Trong các tác phẩm để lại của mình, không
54
một tác phẩm nào lay động dữ dội đến thâm tâm chúng ta như cuốn Tự Thuật
được ông viết năm 398.
Tù sâu thẳm trái tim mình, với một sự thành thật và một tâm thế khiêm
tốn giữa con người với con người. Thánh Augustino đã kể lại con đường trở
về với chính bản thân mình bằng món quà quý giá nhất mà Chúa Trời ban cho
con người đó là sự tự do và năng lực nhận thức chính mình. Trải dài theo thời
gian, từ khi còn là một cậu bé, đến khi lớn lên với những dục vọng trần tục
thấp hèn, những ham muốn quyen thuộc nhất của thân xác nơi con người đến
lòng dũng cảm và bản lĩnh phi thường khi ngài quyết tâm quay trở về với
Chúa Trời, niềm hạnh phúc và sự thiện toàn vẹn nhất. Đọc tác phẩm Tự thuật
mỗi con người đều nhận thấy bản thân mình trong những trang sách, đó có thể
là lỗi lầm của mình hay cũng có thể là những đức hạnh của tồn tại người vẫn
ẩn sâu trong tâm hồn ta.
Tiếng Confession ở đây vừa có nghĩa là sự thú tội, vừa có nghĩa là tán
tụng Đức Chúa Trời. Cuốn sách cho thấy con đường chông gai trở lại với Kitô
giáo của thánh Augustino và giúp ta những bài học quý giá về tâm linh qua
những cách thức và tâm trạng mà ngài đàm đạo với Chúa Trời.
Sách Tự thuật gồm 13 quyển, chia làm hai phần: phần 1 gồm 10 quyển:
sau khi cảm tạ Đức Chúa Trời về những ơn lành đã nhận được trong đời sống
quá khứ. Augustino cảm tạ Đức Chúa Trời về cuộc sống hiện tại của mình.
Phần 2: Ngài đưa ra những suy tư về thần học và triết học rất sâu sắc qua
những sự trải nghiệm cuộc sống thường ngày cả trong hiện tại và quá khứ.
Với việc thuật lại con đường quay trở về với chính mình từ đó nhận thức
Chúa trời. Tác phẩm tự thuật gần gũi với tất cả mọi người mà không phân biệt
một nền văn hóa nào cả. Bất cứ ai cũng có thể tìm thấy một phân bản thân của
mình qua những trình thuật của Augustino, từ đó suy ngẫm và điều chỉnh lại
những hành động và suy nghĩ của chính mình. Lương tâm là tâm điểm sâu kín
nhất, nơi đây con người chỉ hiện diện một mình với Chúa Trời và tiếng nói
của Chúa trời vang dội trong thẳm sâu nơi đáy lòng con người. Thánh
113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lý Chấn Anh (2007), Nghiên cứu triết học cơ bản, Nxb Tri thức.
2. Juan Arias (2009), (Lm Trần Sơn Nam dịch), Thiên Chúa mà tôi không tin,
Nxb Tôn giáo.
3. Augustin (2005), (chưa rõ người dịch), Tự Thuật, Nxb Tôn giáo.
4. Trác Tân Bình (2007), Lý giải tôn giáo, Nxb Hà Nội.
5. John Bowker (2003), Các tôn giáo trên thế giới, Nxb văn hóa thông tin.
6. Crane Brinton (2007), (Nguyễn Kiên Trường dịch), Con người và tư tưởng
phương Tây, Nxb Từ điển Bách Khoa.
7. Albert Camus (1992), (Vũ Đình Phòng dịch), Nơi lưu đầy và vương quốc,
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
8. Calaro R. Ceniza & Romualdo E. Bulad (2005), Nhập môn triết học, Nxb
Tổng hợp Tp. HCM.
9. Doãn Chính, Đinh Ngọc Thạch (1999), Triết học trung cổ Tây Âu, Nxb
Chính trị quốc gia.
10. Trương Hải Cường, Nguyễn Hữu Vui (2003), Tập bài giảng tôn giáo học,
Nxb Chính trị quốc gia.
11. V.E. Davidovich (2002), (Hố Sỹ Quý, Lưu Minh Văn, Nguyễn Anh Tuấn
dịch), Dưới lăng kính triết học, Nxb Chính trị quốc gia.
12. Genevier Dhaucourt (2002), (Dương Linh dịch), Đời sống thời trung cổ,
Nxb Thế giới.
13. Dương Ngọc Dũng (2006), Đường vào triết học, Nxb Tổng hợp Tp.
HCM.
114
14. Nguyễn Hồng Dương (2012), Công giáo thế giới tri thức cơ bản, Nxb Từ
điển bách khoa.
15. Nguyễn Hồng Dương (2001), Công giáo trong văn hóa Việt Nam, Nxb
Văn hóa thông tin.
16. Will Durant (2014), (Trí Hải và Bửu Đích dịch), Câu chuyện triết học,
Nxb Văn hóa thông tin.
17. Bùi Đăng Duy, Nguyễn Tiến Dũng (2005), Lịch sử triết học phương Tây
hiện đại, Nxb Tổng hợp Tp. HCM.
18. Trần Thái Đỉnh (2008), Triết học hiện sinh, Nxb văn học.
19. Lưu Phóng Đồng (1994), Triết học phương Tây hiện đại, Nxb Chính trị
quốc gia.
20. Anbert Einstein (2009), (Nguyễn Bá Anh, Nguyễn Vũ Hảo, Trần Tiễn
Cao Đăng dịch ), Thế giới như tôi thấy, Nxb Tri thức.
21. Jean Guitton (2002), (Lê Diên dịch), Thượng đế và khoa học, Nxb Đà
Nẵng.
22. Nguyễn Vũ Hảo (2015), Giáo trình triết học phương Tây hiện đại, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội.
23. Johannes Hirschberger (Bản thảo lần cuối), (Nguyễn Quang Hưng,
Nguyễn Chí Hiếu dịch), Lịch sử triết học.
24. Ted Honderich (2002), (Lưu Văn Hy dịch), Hành trình cùng triết học,
Nxb văn hóa thông tin.
25. Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Anh Tuấn (2005), Tôn giáo lý luận xưa và nay,
Nxb tổng hợp Tp. HCM.
115
26. Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Thanh, Nguyễn Anh Tuấn (2006), Đại cương lịch
sử triết học phương Tây, Nxb Tổng hợp Tp. HCM.
27. Đỗ Minh Hợp (2008), Diện mạo triết học phương Tây hiện đại, Nxb Hà
Nội.
28. Đỗ Minh Hợp (2010), Lịch sử triết học đại cương, nxb Giáo dục Việt
Nam.
29. Karl Jasper (2004), (Lê Tôn Nghiêm dịch), Triết học nhập môn, nxb
Thuận Hóa trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.
30. Kinh Thánh (1999), (Lm. Giuse Nguyễn Thế Thuấn) Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh.
31. Han Kung (2010), (Nguyễn Nghị dịch), Các nhà tư tưởng lớn của Kitô
giáo, Nxb Tri thức.
32. Phạm Minh Lăng (2003), Những chủ đề cơ bản của triết học phương Tây,
Nxb, Văn hóa thông tin.
33. An Thiện Minh (2012), Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu qua tấm khăn niệm
Turin, Nxb Tôn giáo.
34. Lê Tôn Nghiêm (2000), Lịch sử triết học Tây phương, Nxb thành phố Hồ
Chí Minh.
35. Plato (2014), (Đỗ Khánh Hoan dịch), Cộng Hòa, Nxb Thế giới.
36. Plato (2014), (Nguyễn Văn Khoa dịch), Đối thoại Socratic 1 ( Euthyphro,
socrates tự biên, Crito, Pheado ), Nxb Tri thức.
37. Karl Rahner (2013), (Lm. Phaolô Nguyễn Luật Khoa, OFM dịch), Những
nền tảng đức tin Kitô, tập 2: Ki tô học, Nxb Tôn giáo.
116
38. Richard Tarnas (2008), (Lưu Văn Hy dịch), Quá trình chuyển biến tư
tưởng phương Tây - Những tư tưởng đã định hình thế giới quan của chúng ta,
Nxb Văn hóa thông tin.
39. Đinh Ngọc Thạch (1999), Triết học Hi Lạp Cổ Đại, Nxb Chính trị quốc
gia.
40. Tòa thánh Vatican (2012), (Ủy ban giao lý đức tin trực thuộc hội đồng
giám mục Việt Nam dịch), Sách giáo lý giáo hội Công giáo, Nxb Tôn giáo.
41. Trần Văn Toàn (2008), Đạo trung tùy bút, Nxb Tôn giáo.
42. Từ điển triết học (1986), Nxb tiến bộ - Matxcova.
43. Lý Minh Tuấn (2003), Công giáo và Đức KiTô (Kinh thánh qua cái nhìn
từ phương Đông), Nxb Tôn giáo.