bẢn tin thÁng 04/2017 -...
TRANSCRIPT
1
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN
BẢN TIN THÁNG 04/2017 (Phục vụ cung cấp thông tin trọn gói)
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
Phương pháp in 3D mới có thể tạo ra các vật
thể biến hình
Chỉ cần thêm nhiệt, có thể tạo ra những vật
liệu in 4D mới
Tạo ảnh độ phân giải cao bằng kính hiển vi
thông thường
Xét nghiệm mới có thể xác định nhanh ca
nhiễm lao
Vai trò quan trọng của ánh nắng Mặt trời đối
với độ nhạy cảm của da nhân tạo
Phương pháp đột phá bắt tế bào ung thư tự
phá hủy
Phát triển thành công hệ thống vận chuyển
thuốc trúng đích đến các tế bào thần kinh cụ
thể
Mô hình gelatine mới có thể thay thế cho da
người
Vỏ cam chanh có thể thay thế cho than hoạt
tính
Chế tạo thành công vật liệu nhân tạo bằng
cách sắp xếp các nguyên tử
Biến nước biển thành nước ngọt chỉ bằng một
màng lọc mỏng
Lớp phủ có khả năng ngăn chặn tình trạng tắc
nghẽn đường ống dẫn dầu
Phương pháp mới để giảm tiếng ồn giao
thông đường bộ
Hệ thống “Lá bionic” có khả năng sản xuất
phân bón
B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM
1-0016579 Bàn chải đánh răng có lắp động
cơ
1-0016598 Dụng cụ chăm sóc răng miệng
1-0016439 Mỹ phẩm dạng nhũ tương nước
trong dầu
1-0016588 Dạng thuỷ tinh rắn của hợp chất
metyl 2-xyano-3,12-đioxoleana-1,9(11)-đien-
28-oat (CDDO metyl este) và dược phẩm
chứa hợp chất này
1-0016590 Hợp chất vòng xoắn làm chất ức
chế 11-beta hydroxyl steroit dehydrogenaza
typ 1 và dược phẩm chứa hợp chất này
1-0016600 Hợp chất pyrimidin được liên kết
oxy, quy trình điều chế và dược phẩm chứa
hợp chất này
1-0016621 Hợp chất pyrazolopyrimidinthion,
muối và solvat của hợp chất này và dược
phẩm chứa hợp chất này
1-0016398 Kháng thể gắn kết với STEAP-1
và thể tiếp hợp miễn dịch chứa
kháng thể này dùng để điều trị bệnh ung thư
1-0016401 Hợp chất triazolopyridin, phương
pháp điều chế chúng, dược phẩm chứa chúng,
dược phẩm phối hợp chứa chúng và các hợp
chất trung gian sử dụng để điều chế chúng
1-0016403 Hợp chất morpholin và
thiomorpholin được thế và
dược phẩm chứa chúng
1-0016405 Hợp chất chống khối u, quy trình
điều chế hợp chất này và dược phẩm chứa
hợp chất này
2
1-0016482 Hợp chất oxindol được thế và
dược phẩm chứa hợp chất này
1-0016481 Sản phẩm protein lên men và
phương pháp sản xuất sản phẩm protein lên
men
1-0016408 Chủng Corynebacterium sp. có
năng suất sản xuất L-lysin cải thiện và
phương pháp sản xuất L-lysin bằng cách sử
dụng chủng này
1-0016429 Bao bì đựng thức ăn trẻ em dạng
bột và phương pháp sản xuất bao bì này
1-0016558 Chế phẩm thích hợp để sử dụng
trong công trình xây dựng và quy trình sản
xuất chế phẩm này
1-0016560 Nắp đậy cho bình chứa
1-0016617 Chế phẩm nhựa để đúc xốp liên
kết ngang, vật đúc xốp liên kết ngang và
phương pháp sản xuất vật đúc xốp liên kết
ngang
1-0016406 Quy trình lọc nước trong bể và
thiết bị hút
1-0016404 Chi tiết chống rung và chống ồn
dùng cho thiết bị in chứa chế phẩm đàn hồi
dẻo nhiệt
1-0016410 Bộ nhận dạng thứ hai bằng kỹ
thuật điện tử số cho phương tiện giao thông
1-0016411 Chế phẩm dầu bôi trơn dùng để
bôi trơn động cơ ô tô và phương pháp bôi
trơn động cơ
1-0016413 Vải làm mát và phương pháp sản
xuất vải này
1-0016414 Hợp chất đổi màu theo ánh sáng,
chế phẩm và vật dụng chứa hợp chất này
1-0016422 Đế trong của giày
1-0016423 Phương pháp và thiết bị mã hóa
và giải mã dữ liệu viđeo
1-0016425 Thiết bị in, phương pháp thay đổi
bố cục của trang lôgic và phương tiện lưu trữ
1-0016427 Axit nucleic phân lập được mã
hoá kháng thể kháng yếu tố D, tế bào chủ, vật
truyền chứa axit nucleic này và phương pháp
tạo ra kháng thể kháng yếu tố D
1-0016440 Nhiên liệu rắn
1-0016456 Chế phẩm nhựa epoxy lỏng và
chất kết dính chứa chế phẩm này
1-0016464 Máy và phương pháp dán nhãn
vật chứa
1-0016466 Kẹp dùng làm dụng cụ kẹp hồ sơ
1-0016470 Hệ thống làm sạch dùng để làm
sạch đường ống
1-0016475 Phương pháp sản xuất ure, thiết bị
sản xuất ure và phương pháp làm giảm sự
phát thải amoniac trong tháp tạo hạt của thiết
bị sản xuất ure hiện hành
1-0016476 Hợp chất heteroarylbenzamit chứa
nhóm thế haloalkyl và dược phẩm chứa hợp
chất này
1-0016479 Thiết bị cảnh báo xe đang đến gần
dùng cho xe chạy điện kiểu ngồi để chân hai
bên
1-0016483 Bộ panen, panen hỗn hợp và
panen vách
1-0016485 Phương pháp và thiết bị để điều
khiển cảnh báo cho người sử dụng
1-0016501 Vật kê dùng cho ván khuôn cốt
thép
3
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
Phương pháp in 3D mới có thể tạo ra các vật thể biến hình
Phương pháp in 3D mới có thể tạo ra các
vật thể biến hình Một nhóm các nhà nghiên
cứu Viện Công nghệ Georgia, Trường Đại học
Công nghệ và thiết kế Singapo (SUTD) và
Trường Đại học Giao thông Tây An Trung
Quốc đã phát triển thành công phương pháp in
3D có thể tạo ra các vật thể có thể biến đổi
thành nhiều hình dạng khác nhau khi phản ứng
với nhiệt bằng cách in các lớp polymer nhớ
hình (shape memory polymers) với mỗi lớp
được thiết kế sẽ phản ứng khác nhau khi tiếp
xúc với nhiệt. Công trình nghiên cứu này được
tài trợ bởi Văn phòng Nghiên cứu Khoa học
Không lực Hoa Kỳ, Quỹ Khoa học Quốc gia
Hoa Kỳ và Quỹ Nghiên cứu Quốc gia Singapo
thông qua Trung tâm SUTD DManD và mới
đây đã được công bố trên tạp chí Science
Advances.
“Phương pháp tiếp cận mới này làm đơn
giản hóa đáng kể và tiến tới phát triển khả
năng in 4D bằng cách kết hợp trực tiếp các
bước xử lý sau quá trình lập trình cơ học vào
quá trình xử lý in 3D”, Jerry Qi, giáo sư tại
Trường Kỹ thuật Cơ khí George W. Woodruff
tại Georgia Tech cho biết. “Điều này cho phép
các mô phỏng máy tính có thể thiết kế, in 3D
các thành phần với có độ phân giải lớn và sau
đó biến đổi trực tiếp và nhanh chóng thành
các hình dạng cực bền mới bằng phương pháp
nung nhiệt đơn giản. Đồng thời, phương pháp
tiếp cận này có thể đảm bảo thời gian in và
tiết kiệm vật liệu đến 90%, đồng thời loại bỏ
hoàn toàn các quá trình cơ học tốn thời gian
khỏi tiến trình thiết kế và sản xuất”.
Để xác định tiềm năng của quá trình xử
lý mới này, nhóm nghiên cứu đã chế tạo một
số vật thể có thể uốn và mở rộng nhanh chóng
khi nhúng trong nước nóng - bao gồm một
bông hoa có cánh hoa uốn cong như một bông
cúc thật khi phản ứng với ánh sáng mặt trời và
một vật hình dạng lưới có thể mở rộng ra gần
gấp tám lần kích thước ban đầu của nó.
“Ở nhiệt độ phòng, vật liệu composite do
chúng tôi tạo ra có thể cho phép một vật liệu
nào đó trở nên mềm ra nhưng nó vẫn có thể
lập trình để kiềm hãm ứng suất bên trong,
trong khi đó vật liệu khác thì cứng. Nhóm
nghiên cứu đã dùng mô phỏng máy tính để
thiết kế các thành phần composite mà trong
đó các vật liệu cứng có hình dạng và kích
thước có thể ngăn chặn sự giải phóng các ứng
suất bên trong vật liệu đã được lập trình khỏi
vật liệu mềm sau khi in 3D. Khi gia nhiệt
nóng, vật liệu cứng sẽ mềm ra và cho phép vật
liệu mềm giải phóng ứng suất và tạo ra sự
thay đổi hình dạng sản phẩm rất ấn tượng”,
Zhen Ding, nhà nghiên cứu bậc sau tiến sỹ tại
Đại học Công nghệ và thiết kế Singapo.
Theo nhóm nghiên cứu cho biết, các vật
thể 4D mới có thể tạo ra hàng loạt các sản
phẩm mới rất đặc biệt. Chẳng hạn như cho
phép các sản phẩm có thể xếp chồng lên nhau
hoặc cuộn lại để đưa xuống tàu và sau đó mở
rộng lập tức khi cần sử dụng. Cuối cùng, công
nghệ này có thể cho phép các thành phần có
thể phản ứng với các kích thích như nhiệt độ,
độ ẩm hoặc ánh sáng theo những cách mà có
thể tạo ra các cấu trúc không gian, các thiết bị
y tế có thể triển khai, robot, đồ chơi và các
loại cấu trúc khác.
“Bước tiến quan trọng của nghiên cứu
này là phương pháp in 4D, cho phép tạo ra
những sản phẩm phức tạp có độ phân giải cao
3-D và rất có triển vọng tạo ra vô số các ứng
dụng trên các thiết bị y sinh học, thiết bị điện
tử 3D và các sản phẩm tiêu dùng, và thậm chí
mở ra một mô hình mới trong thiết kế sản
phẩm”, Martin L. Dunn, Giám đốc Trung tâm
4
Thiết kế và Sản xuất kỹ thuật số SUTD nhấn
mạnh.
Theo vista.gov.vn, 17/04/2017
Trở về đầu trang
**************
Chỉ cần thêm nhiệt, có thể tạo ra những vật liệu in 4D mới
Những vật thể có thể thay đổi hình dạng
trong vài giây sau khi được đặt vào nhiệt độ,
đây là một kỹ thuật in 4D mới. Một ngày nào
đó có thể được sử dụng để tạo ra các thiết bị y
tế tự phát triển trong cơ thể trong suốt quá
trình phẫu thuật. Các kỹ sư đã tạo ra lưới nhựa
in 3D nở ra nhanh chóng khi ngâm trong nước
nóng và một bông hoa nhân tạo có thể đóng
cánh hoa của nó tương tự như thực vật trong tự
nhiên như các thí nghiệm được thiết kế để
chứng minh phương pháp in 4D này.
Đồng tác giả nghiên cứu Jerry Qi - Giáo
sư của Trường Kỹ thuật Cơ khí George W.
Woodruff thuộc Viện Công nghệ Georgia ở
Atlanta - Hoa Kỳ, cho biết: Kỹ thuật mới này
làm đơn giản hóa quá trình "giảng dạy" về
các vật liệu in 3D để thay đổi hình dạng khi
chúng được kích hoạt để làm như vậy. Trước
đây, chúng tôi phải chuẩn bị và lập trình các
vật liệu sau khi in bằng phương pháp 3D.
Chúng tôi đã phải làm nóng nó và kéo nó ra
và sau đó làm nguội lại vì vật liệu được
nghiên cứu ở hình thức mới. Nó tương đối
đơn giản. Với cách tiếp cận mới, chúng tôi đã
sẵn sàng với chương trình có trong máy in.
Các nhà nghiên cứu đang sử dụng hai
loại vật liệu được kết hợp cẩn thận trong cấu
trúc in 3D để tạo ra hiệu ứng chuyển đổi hình
dạng mong muốn. Vật liệu mềm giữ năng
lượng thay đổi hình dạng nhưng trong trạng
thái nguội, năng lượng của polyme mềm được
chứa bởi vật liệu cứng khác như thủy tinh. Tuy
nhiên, vật liệu cứng này sẽ mềm khi tiếp xúc
với nhiệt, cho phép các polymer mềm tiếp
nhận. Vật liệu được thiết kế để nhớ hình dạng
thứ hai và mặc định khi nó được làm nóng.
Jerry Qi, cho biết: Bạn có thể làm nóng
nó và làm biến dạng cấu trúc thành một hình
dạng mới, nó là hình dạng thứ 3 và sẽ giữ
hình dạng đó cho đến khi bạn làm nóng nó
lên. Sau đó, nó biến đổi trở lại thành hình
dạng thứ hai. Các kỹ thuật in 4D trước đã có
thể tạo ra các vật liệu thay đổi hình dạng của
chúng chỉ tạm thời và sau một thời gian, sẽ
trở lại hình dạng in ban đầu. Trong nghiên
cứu mới này, nhóm nghiên cứu đã sử dụng
một vật liệu thay đổi hình dạng khi nó được
làm nóng đến khoảng 122 độ Fahrenheit (50
độ Celsius) nhưng bằng cách chế tạo các đặc
tính của vật liệu cứng, có thể chọn nhiệt độ tại
đối tượng chuyển đổi.
Martin Dunn - Giáo sư về kỹ thuật cơ
khí tại Đại học Công nghệ và Thiết kế
Singapo, cùng làm việc với nhóm nghiên cứu:
Nó hứa hẹn cho phép mang đến vô số ứng
dụng trên các thiết bị y sinh học, điện tử 3D
và các sản phẩm tiêu dùng. Ví dụ các linh
kiện điện tử có thể được in ở dạng phẳng và
sau đó chúng được lắp ráp thành các thiết bị,
chúng có thể "phóng to" vào các hình dạng
3D hữu ích của chúng.
Jerry Qi nghĩ rằng các thiết bị y sinh học
như giá đỡ, những ống nhỏ được sử dụng để
mở rộng các động mạch bị nghẹt để ngăn
ngừa đột quỵ, có thể được tạo ra bằng cách sử
dụng kỹ thuật này. Các giá đỡ được in 4D này
sẽ mở rộng bên trong mạch máu, tự động kích
hoạt chỉ bằng cách tiếp xúc với hơi nóng của
cơ thể con người. Hiện nay, các bác sĩ phẫu
thuật phải thổi phồng giá đỡ bằng các khí cầu
gắn vào cuối ống thông qua đó thiết bị được
lắp vào. Stent là một khung đỡ bằng kim loại
được đặt trong lòng động mạch vành, nhằm
mục đích mở rộng lòng mạch vành bị hẹp và
5
giữ nó không bị hẹp lại. Có hai loạistent mạch
vành: stent thường và stent phủ thuốc.
Kỹ thuật mới này phù hợp hơn cho các
ứng dụng thực tiễn hơn các phương pháp dựa
vào hydrogel. Các vật thể mô tả trong nghiên
cứu mới này có thể chuyển đổi hoàn toàn
trong vòng chưa đầy 10 giây, so với khoảng 7
phút cho một vật liệu dựa trên hydrogel đã
được một nhóm các nhà nghiên cứu từ MIT
đưa ra vài năm trước. Công nghệ in 4D dựa
trên hydrogel phụ thuộc vào sự kết hợp giữa
hydrogel và không áp lực trương nở của
polymer sợi filamăng. Khi đun sôi trong
nước, hydrogel nở ra, buộc các sợi filamăng
vào một hình dạng mới. Trong vật liệu
hydrogel, sự thay đổi hình dạng là do sự hấp
thụ nước.Nhưng đó là một quá trình tương
đối chậm, phải mất thời gian, đặc biệt nếu có
cấu trúc lớn.
Nghiên cứu này đã được công bố trên
tạp chí Science Advances!
Theo vista.gov.vn, 20/04/2017
Trở về đầu trang
**************
Tạo ảnh độ phân giải cao bằng kính hiển vi thông thường
Các nhà nghiên cứu Trường Đại học
MIT đã phát triển thành công một kỹ thuật
tạo ảnh các mẫu mô có độ phân giải rất cao
với chi phí chỉ bằng một phần nhỏ so với chi
phí của các kỹ thuật khác có độ phân giải
tương tự.
Kỹ thuật mới này dựa vào việc mở rộng
mô trước khi tạo ảnh nó bằng kính hiển vi ánh
sáng thông thường. Hai năm trước, nhóm
nghiên cứu của MIT đã chỉ ra rằng rằng có
thể mở rộng các khối mô gấp 100 lần có thể
tạo ra độ phân giải của hình ảnh vào khoảng
60 nanomét. Bây giờ, các nhà nghiên cứu cho
thấy việc mở rộng mô này thêm 1 lần nữa
trước khi tạo ảnh có thể làm tăng độ phân giải
lên khoảng 25 nanomét.
Ed Boyden, phó giáo sư kỹ thuật sinh
học não bộ và khoa học nhận thức tại MIT
cho biết, cấp độ phân giải này cho phép các
nhà nghiên cứu có thể quan sát thấy như các
protein bó cụm lại với nhau trong các mô
hình phức tạp ở các khớp thần kinh não, trợ
giúp các nơ-ron giao tiếp với nhau. Nó cũng
có thể giúp các nhà nghiên cứu lập bản đồ các
mạch thần kinh.
Cách tiếp cận này cũng có thể dùng để
mô tả các hiện tượng khác như sự tương tác
giữa các tế bào ung thư và các tế bào miễn
dịch, để phát hiện mầm bệnh mà không cần
phải dùng thiết bị đắt tiền và để lập bản đồ
các loại tế bào của cơ thể.
Công trình nghiên cứu đã được công bố
trên tạp chí Nature Methods.
Để mở rộng các mẫu mô, các nhà
nghiên cứu nhúng chúng vào trong chất gel
đậm đặc được tạo ra từ polyacrylate, một loại
vật liệu siêu thấm hút, và được dùng trong
trong các loại tã trẻ em và người lớn. Trước
khi chất gel được hình thành, các nhà nghiên
cứu tiến hành ghi nhãn các protein tế bào mà
họ muốn tạo ảnh bằng cách sử dụng các
kháng thể liên kết với các mục tiêu cụ thể.
Những kháng thể này sẽ ghi nhớ các "mã
vạch" được tạo thành từ ADN, lần lượt gắn
chặt với các phân tử liên kết chéo mà kết hợp
với các polyme để hợp thành chất gel có thể
giãn nở. Sau đó họ phá vỡ các protein gắn với
nhau, cho phép các mã vạch DNA nở rộng ra
khi gel phồng lên. Sau đó có thể dán nhãn các
mẫu được phóng to này bằng các đầu dò
huỳnh quang gắn các mã vạch ADN, và tạo
ảnh bằng kính hiển vi cộng hưởng có sẵn trên
6
thị trường, độ phân giải của kính hiển vi này
thường ở mức giới hạn hàng trăm nanomét.
Boyden cho biết, khi sử dụng phương
pháp tiếp cận này, các nhà nghiên cứu trước
đây chỉ có thể thu được độ phân giải của ảnh
vào khoảng 60 nanomét. Trong khi đó các
phân tử sinh học đơn lẻ có kích cỡ nhỏ hơn
rất nhiều lần, với kích cỡ chỉ 5 nanomet hoặc
thậm chí còn nhỏ hơn. Các phiên bản ban đầu
của kính hiển vi mở rộng (expansion
microscopy) rất hữu ích đối với nhiều vấn đề
khoa học nhưng không đủ hiệu suất tạo ảnh
có độ phân giải cực lớn như các kính hiển vi
điển tử.
Trong nghiên cứu ban đầu về kính hiển
vi mở rộng của nhóm nghiên cứu, họ đã phát
hiện thấy rằng thiết bị này có thể mở rộng các
khối mô hơn 100 lần khi giảm số lượng các
phân tử liên kết chéo giam giữ polymer theo
một sơ đồ có trật tự. Tuy nhiên, điều này làm
cho các mô không ổn định.
Boyden, một thành viên của Phòng thí
nghiệm Media và Viện Nghiên cứu não bộ
McGovern cho biết: “Nếu giảm mật độ liên
kết chéo, các polyme không còn giữ được tổ
chức của chúng trong suốt quá trình mở rộng
do đó sẽ không thể thu thập thông tin về nó”.
Thay vào đó, trong nghiên cứu mới nhất
của nhóm nghiên cứu, họ đã sửa đổi kỹ thuật
này nhằm sau khi mở rộng mô đầu tiên, họ có
thể tạo ra một chất gel mới có thể làm nở
rộng mô thêm một lần nữa. Cách tiếp cận này
được họ gọi là “sự mở rộng lặp lại”.
Khi ứng dụng kỹ thuật mới này, nhóm
nghiên cứu đã tạo ra được ảnh mô với độ
phân giải tăng thêm 25 nanomet, tương tự với
các kỹ thuật tạo ảnh có độ phân giải cao như
kính hiển vi phát huỳnh quang siêu nét
(stochastic optical reconstruction microscopy
(STORM). Tuy nhiên, kính hiển vi mở rộng
có kết cấu và điều khiển không quá phức tạp,
giá thành rẻ hơn rất nhiều, Boyden nói.
Phương pháp này cũng cho hình ảnh nhanh
hơn nhiều và do đó tương thích với phương
pháp tạo ảnh 3-D kích cỡ lớn.
Mặc dù độ phân giải của kính hiển vi mở
rộng chưa tương xứng với kính hiển vi quét
điện tử (khoảng 5 nanomét) hoặc kính hiển vi
điện tử truyền qua (khoảng 1 nanomet). Tuy
nhiên, kính hiển vi điện tử lại rất đắt tiền và
không có sẵn trên thị trường. Với những loại
kính hiển vi này, rất khó để các nhà nghiên
cứu gắn nhãn các protein cụ thể.
Trong nghiên cứu đăng trên tạp chí
Nature Methods, nhóm của MIT đã sử dụng
kỹ thuật mở rộng lặp lại để tạo ảnh cho các
khớp thần kinh - các kết nối giữa các nơ-ron
để cho phép chúng liên lạc với nhau. Trong
nghiên cứu kính hiển vi mở rộng ban đầu của
họ, các nhà nghiên cứu cũng đã tạo ảnh được
các protein “giàn giáo”, điều này có thể giúp
thiết lập hàng trăm loại protein khác tìm thấy
trong khớp thần kinh. Với kỹ thuật mới này,
độ phân giải được tăng lên, giúp các nhà
nghiên cứu có thể quan sát rõ các cấu trúc
phức tạp chẳng hạn như vị trí của các thụ thể
neurotransmitter nằm trên bề mặt của các tế
bào “postsynaptic”.
Boyden hy vọng trong những năm tới có
thể tiến hành lập bản đồ tổ chức của những
protein tín hiệu và “giàn giáo” này ở khớp
thần kinh. Boyden tin tưởng cho biết, việc kết
hợp kính hiển vi với công cụ mới có tên là
temporal multiplexing có thể giúp nhóm
nghiên cứu đạt được điều này.
Hiện nay, chỉ mộ số lượng hạn chế các
đầu dò màu được dùng để tạo ảnh các phân tử
khác nhau trong một mẫu mô. Với temporal
multiplexing, các nhà nghiên cứu có thể gắn
nhãn một phân tử nào đó với một đầu dò
huỳnh quang, chụp ảnh, và sau đó phải làm
sạch đầu dò ngay lập tức. Việc này sẽ phải
thực hiện nhiều lần, mỗi lần sử dụng các màu
giống nhau để phân biệt các phân tử khác
nhau.
“Về nguyên tắc cơ bản, khi kết hợp kính
hiển vi mở rộng lặp lại với temporal
multiplexing, chúng tôi có thể tạo ảnh các
khối mô với độ phân giải cao ở phạm vi nano,
mầu sắc vô hạn, hình ảnh 3D. Mọi thứ càng
ngày càng trở nên tuyệt vời hơn khi những
7
công nghệ khác nhau này sớm kết nối với
nhau”, Boyden cho biết.
Theo vista.gov.vn, 20/04/2017
Trở về đầu trang
**************
Xét nghiệm mới có thể xác định nhanh ca nhiễm lao
Bệnh lao (Tuberculosis - TB), trước đây
được biết đến là bệnh lao phổi, nó làm cho
người mắc bệnh bị ốm yếu và gây mòn đi.
Quá trình tiến triển của bệnh diễn ra lâu và
gây tử vong cao. Theo ước tính, bệnh này đã
cướp đi sinh mạng của nhiều người hơn so với
các tác nhân vi khuẩn gây bệnh khác.
Các nghiên cứu đã phát hiện ra các bằng
chứng về tác động của nó lên con người vào
khoảng 8.000 năm trước Công nguyên, và ước
tính rằng nó đã giết chết khoảng một tỷ người
trong hai thế kỷ qua.
Giờ đây, một nhóm nghiên cứu do các
nhà khoa học đến từ Arizona, Texas và
Washington DC hợp nhất lại lần đầu tiên đã
phát triển được một phương pháp xét nghiệm
máu nhanh để chẩn đoán và đánh giá mức độ
nghiêm trọng của các ca bệnh lao thực sự
(active TB cases).
Dưới sự dẫn dắt của Tony Hu, chuyên
gia nghiên cứu tại Viện Thiết kế sinh học -
Trường Đại học Arizona State, 8 nhóm nghiên
cứu bao gồm Viện Nghiên cứu Houston
Methodist và các nhà nghiên cứu tại Viện y tế
Quốc gia, đang tích cực khai thác lĩnh vực
mới của y học nano để nâng cao khả năng
kiểm soát TB trên toàn thế giới.
Ông Hu, một nhà khoa học thuộc Trung
tâm Virginia G. Piper - Viện nghiên cứu thiết
kế sinh học, cho biết: “Trong các cuộc thử
nghiệm lao hiện nay, xét nghiệm đờm, xét
nghiệm máu, xâm lấn phổi và sinh thiết
lymphô, hoặc chích tủy là phương pháp duy
nhất để chẩn đoán bệnh lao. Các kết quả có
thể là âm tính giả, và các xét nghiệm này cũng
bị hạn chế do phải chờ mất vài ngày mới cho
ra kết quả”.
Mặc dù đã dành ra 6.6 tỷ đô la để nỗ lực
phòng ngừa và chăm sóc lao quốc tế, nhưng
TB vẫn là một nguy cơ lớn đối với sức khoẻ
con người, đặc biệt đối với các nước đang
phát triển và người nhiễm bệnh HIV.
Các vấn đề trở nên tồi tệ hơn khi mà vi
khuẩn lao có thể ẩn náu trong mô phổi của
người, thường là 10 năm, trước khi bùng phát
khiến bệnh lao phát triển mạnh và sau đó có
thể lây sang những người khác. Hiện tại, Tổ
chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính có đến
một phần ba dân số thế giới có thể có những
trường hợp nhiễm lao không hoạt động
(dormant TB infections) như vậy.
Năm 2016, theo báo cao mới nhất của
WHO, ước tính có 10 triệu người trên toàn thế
giới vẫn phát triển bệnh lao mỗi năm, gây tử
vong cho khoảng 2 triệu người. Các biện pháp
điều trị TB đã ngăn chặn được khoảng 50
triệu ca tử vong trong khoảng thời gian từ
năm 2000 đến 2015, nhưng TB vẫn là một
bệnh dịch toàn thế giới do hiện nay thiếu các
vắc xin TB đặc hiệu, sự gia tăng các chuỗi
kháng thuốc và hoạt động chẩn đoán TB.
Phương pháp mới và đơn giản dùng để
sàng lọc nhanh những trường hợp dễ bị mắc
lao đã được tổ chức WHO và các văn phòng y
tế công cộng khác công nhận như là một giải
pháp quan trong để điều trị căn bệnh này.
Phương pháp xét nghiệm lao dựa vào
các chỉ số trong máu được phát triển mới đây
của nhóm nghiên cứu không chỉ vượt trội hơn
so với tất cả các phương pháp xét ngiệm khác
hiện có trên thị trường mà còn chỉ mất vài giờ
để hoàn thành xét nghiệm. Điều này rất quan
trọng vì các yêu cầu trong kiểm soát lao hiệu
8
quả là đòi hỏi bệnh nhân phải tiến hành điều
trị càng sớm càng tốt để có thể giảm các nguy
cơ lây lan bệnh lao.
Phương pháp xét nghiệm này cũng rất
hứa hẹn đối với việc đánh giá nhanh liệu pháp
điều trị lao, một yếu tố quan trong trong việc
làm giảm sự phát triển và lây lan của các
chuỗi vi khuẩn lao kháng thuốc.
Xét nghiệm NanoDisk-MS mới được
phát triển của nhóm nghiên cứu có thể cải thiện
đáng kể việc quản lý và chẩn đoán bệnh lao vì
phương pháp xét nghiệm này lần đầu tiên có
thể đánh giá được mức độ nghiêm trọng của
các ca nhiễm lao đang hoạt động. Nó có thể
phát hiện chính xác nồng độ trong máu của hai
loại protein đó là CFP-10 và ESAT-6 trong
thời gian ngắn mà vi khuẩn lao chỉ giải phóng
trong các trường hợp nhiễm trùng.
“Chúng tôi rất vui về khả năng phương
pháp xét nghiệm có tốc độ xử lý và cho nhanh
kết quả này của chúng tôi. Các kết quả này
giúp theo dõi hiệu quả điều trị và cho phép các
bác sĩ có thể điều trị tốt hơn những ca nhiễm
lao trên toàn thế giới. Hơn nữa, công nghệ của
chúng tôi có thể được tích hợp sử dụng với các
dụng cụ lâm sàng tiêu chuẩn trong các bệnh
viện trên toàn thế giới”. Hu nói.
Các xét nghiệm lao hiện nay thường rất
khó ở những bệnh nhân lao dương tính với
HIV hoặc những ca nhiễu lao trong các mô
không phải là mô phổi. Những bệnh nhân này
có thể sẽ cần phải sinh thiết mô để chẩn đoán
bệnh.
Tuy nhiên, phương pháp xét nghiệm
NanoDisk-MS có thể phát hiện được các ca
bệnh lao khu trú ở phổi và không phải ở phổi
với độ nhạy tương ứng khoảng 92%, bao gồm
cả ở bệnh nhân nhiễm HIV, và bộc lộ rõ các
đặc trưng bệnh để phân biệt những bệnh nhân
với các ca bệnh liên quan. Trong đó lao tiềm
ẩn là 87%, các ca nhiễm vi khuẩn lao không
điển hình là 91% và những người khỏe mạnh
là 100%.
Phương pháp xét nghiệm này cũng có
thể điều chỉnh để xét nghiệm các căn bệnh
truyền nhiễm khác. Hiện Hu đang phát triển
các xét nghiệm lao hiện nay để đượcc phê
duyệt ứng dụng lâm sàng trong cuộc chiến
chống lại bệnh lao.
Công trình nghiên cứu đã được công bố
trên tạp chí Proceedings of the National
Academy of Sciences.
Theo vista.gov.vn, 05/04/2017
Trở về đầu trang
**************
Vai trò quan trọng của ánh nắng Mặt trời đối với độ nhạy cảm của da nhân tạo
Nghiên cứu độ nhạy cảm của da nhân
tạo để có thể hỗ trợ cho người tàn tật cảm
nhận được sức ép hoặc sự tiếp xúc với chân -
tay giả của họ là một chủ đề nóng của các nhà
nghiên cứu. Tuy nhiên vấn đề đặt ra ở đây là
cần một kỹ thuật mới để cung cấp nguồn năng
lượng cho da để nó có thể gửi tín hiệu. Hiện
tại, nhóm nghiên cứu đã có một giải pháp
tiềm năng: Họ đã tạo ra một loại da nhân tạo
có thể được hỗ trợ bởi ánh sáng Mặt trời.
Tác giả nghiên cứu Ravinder Dahiya -
Giáo sư về kỹ thuật điện tử và nano ở Đại học
Glasgow ở Scotland cho biết, sự phát triển
đầu tiên và mới này về loại da nhân tạo nhạy
cảm với tế bào năng lượng mặt trời được tích
hợp vào da.
Ravinder Dahiya cùng nhóm nghiên cứu
của mình đã tạo ra lớp da trong suốt với 4 lớp
mỏng: pin mặt trời ở phần dưới cùng, tiếp
theo là polyvinyl clorua (PVC, nhựa tổng hợp
mỏng), một lớp graphene và một loại silicone
ở trên. Loại da này không chỉ nhạy cảm mà
còn siêu mỏng và linh hoạt. Ngoài việc giúp
9
đỡ những người mang chân - tay giả, loại da
nhân tạo nhờ năng lượng mặt trời có thể giúp
các robot cảm nhận được. Graphene, tạo
thành lớp thứ ba của da nhân tạo là một loại
vật liệu graphite khoáng chất rất linh hoạt.
Vật liệu này chỉ là một nguyên tử dày, mạnh
hơn thép và dẫn điện. Vì rõ ràng 98% ánh
sáng mặt trời có thể chạm bề mặt graphene và
xuyên qua trực tiếp, làm cho nó trở thành vật
liệu lý tưởng để sử dụng với pin mặt trời.
Nhóm nghiên cứu đã xem xét các nguồn
năng lượng khác cho da, bao gồm chế biến
năng lượng và thu hoạch năng lượng bằng
dao động (tên gọi lạ cho điện tĩnh). Nhưng
năng lượng mặt trời có ý nghĩa nhất, một
phần do nó tạo ra nhiều điện nhất.
Ravinder Dahiya cho biết: Chúng tôi đã
thử nghiệm trên da bằng cách đặt nó trên một
bàn tay có điều khiển bằng điện tử được gọi
là tay giả i-limb. Ánh sáng đã được chiếu trên
da ngay lập tức mang lại cảm giác xúc giác
trên đó. Da người là một hệ thống cực kỳ
phức tạp có khả năng phát hiện sức ép, nhiệt
độ và kết cấu thông qua một loạt các cảm
biến thần kinh mang tín hiệu từ da đến não.
Da nhân tạo mới cho phép bàn tay giả thực
hiện những “nhiệm vụ đầy thách thức, giống
như các vật liệu mềm dễ bị va chạm”. Ngoài
ra, da có thể phát hiện áp suất thấp nhất 0,01
lbs trên mỗi inch vuông (0.11 kilopascals).
Da chỉ cần 20 nanowatts điện trên 0,1 inch
vuông (1 cm vuông). Đặt nó vào trong quan
điểm: một bóng đèn phát sáng phát ra ánh
sáng thường xuyên (LED) sẽ mất khoảng 5
watt để chiếu sáng; 1 nanowatt là một phần tỷ
của một watt.
Công nghệ này cũng có thể giúp robot
quyết định an toàn hơn khi chúng tương tác
với người. Ví dụ, một con robot làm việc trên
tuyến thi công sẽ không có khả năng gây
thương tích cho con người nếu nó có thể cảm
thấy một người bất ngờ bước vào khu vực di
chuyển của chúng và dừng lại trước khi có
thể xảy ra thương tích. Mục tiêu tiếp theo của
nhóm là phát triển một công nghệ tương tự,
có thể tự động cung cấp bàn tay giả, bao gồm
cả động cơ của nó. Điều này có thể cho phép
tạo ra một chân - tay giả tự động năng lượng
hoàn toàn.
Theo vista.gov.vn, 10/04/2017
Trở về đầu trang
**************
Phương pháp đột phá bắt tế bào ung thư tự phá hủy
Các nhà nghiên cứu khám phá một cơ
chế mới khiến những tế bào ung thư tự hủy,
bao gồm cả những khối u ác tính nhất như
ung thư tụy, tạo ra bước đột phá trong điều trị
căn bệnh thế kỷ.
Sau khi quá trình tự phá hủy được kích
hoạt bằng cách biến đổi những protein đặc
biệt trong mô ung thư, sự phân chia liên tục bị
ngừng lại khiến tế bào ung thư chết hàng loạt
thay vì lan rộng khắp cơ thể, Science Alert
hôm 8/4 đưa tin. Không giống những phương
pháp điều trị ung thư hiện nay, kỹ thuật mới
không ảnh hưởng đến tế bào khỏe mạnh.
Nhóm chuyên gia ở Đại học Tel Aviv,
Israel, thử nghiệm phương pháp thành công
trên chuột và bước tiếp theo là xác định cơ
chế có phát huy tác dụng ở người hay không.
Kết quả nghiên cứu được công bố hôm 5/4
trên tạp chí Oncotarget.
Các nhà khoa học Israel tìm ra phương pháp mới bắt tế bào ung thư tự hủy. Ảnh: Jovan Vitanovski.
"Việc phát hiện cơ chế tiêu diệt tế bào ung
thư mà không làm hại tế bào khỏe mạnh, từ đó
tạo ra bước đột phá trong điều trị ung thư, thực
10
sự khiến chúng tôi phấn khích", Malka Cohen-
Armon, trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết.
Các nhà khoa học tập trung vào các protein
tác động đến cấu trúc và sự ổn định của một
bộ phận trong tế bào có tên "trục chính"
(spindle). Nhiệm vụ của các spindle là sắp xếp
vật liệu di truyền trong quá trình phân bào.
Họ nhận thấy một số hợp chất trong tế bào
ung thư tác động đến trục chính, ngăn tế bào
ung thư không thể phân chia và lây lan. "Với
cơ chế này, tế bào phân chia càng nhanh lại
càng bị hủy diệt nhanh. Sớm hay muộn, toàn
bộ tế bào ung thư sẽ bị tiêu diệt", Cohen-
Armon nói.
Thử nghiệm của nhóm Cohen-Armon trên
chuột cho kết quả tích cực với hầu hết các
loại ung thư hiện nay, thậm chí cả những loại
ác tính nhất. Họ dự kiến nghiên cứu sâu hơn
về cách cơ chế biến đổi protein giúp chống lại
ung thư vú và ung thư tụy, đồng thời tìm tòi
phát triển một loại thuốc chống ung thư hiệu
quả.
Theo vnexpress.net, 10/04/2017
Trở về đầu trang
**************
Phát triển thành công hệ thống vận chuyển thuốc trúng đích đến các tế bào thần kinh cụ thể
Thuốc là công cụ được lựa chọn để
nghiên cứu mối liên hệ giữa các nơ-ron, và
luôn là phương pháp điều trị chính cho bệnh
thần kinh. Tuy nhiên, một nhược điểm lớn đó
là các loại thuốc này thường ảnh hưởng đến
tất cả các loại tế bào thần kinh (nơ ron), làm
phức tạp quá trình nghiên cứu các thụ thể tế
bào trong khớp thần kinh - khe giữa các nơ
ron - hoạt động trong một bộ não còn nguyên
vẹn. Việc thao tác chúng có thể mang lại
nhiều lợi ích lâm sàng nhưng cũng có nhiều
tác dụng phụ không mong muốn xảy ra.
Các kỹ sư y sinh học Trường Đại học
Duke và Viện Y học Howard Hughes mới đây
đã phát triển thành công phương pháp phân
phối thuốc cho từng loại tế bào thần kinh cụ
thể trong não. Phương pháp này có tên là
DART (Drugs Acutely Restricted by
Tethering) có thể đảm bảo khắc phục những
giới hạn này và rất hứa hẹn trong nghiên cứu
và điều trị nhắm đích các bệnh thần kinh. Đây
cũng là lần đầu tiên DART mang đến cho các
nhà khoa học cơ hội nghiên cứu những vấn để
xảy ra khi thuốc chỉ nhắm mục tiêu đến một tế
bào nào đó.
Trong nghiên cứu khởi đầu này, DART
bộc lộ rõ phương thức di chuyển khác nhau
trong các mô hình chuột mắc bệnh Parkinson
đã được kiểm soát bởi các thụ thể AMPA
(AMPA) - một protein thần kinh giúp các nơ-
ron nhận được tín hiệu nhanh từ các nơ ron
khác trong não. Các kết quả cho thấy lý do vì
sao một thử nghiệm lâm sàng gần đây của một
loại thuốc ngăn chặn AMPAR bị thất bại và
cung cấp một cách tiếp cận mới đối với việc
sử dụng các loại thuốc trong điều trị.
Michael Tadross, trợ lý giáo sư về kỹ
thuật y sinh, cho biết: “Nghiên cứu này đánh
dấu một cột mốc quan trọng trong đặc điểm
dược lý thần kinh học. Những hiểu biết sâu
sắc thu được trong quá trình nghiên cứu trên
đàn chuột mắc bệnh Parkinson là bất ngờ và
không thể có được đối với bất kỳ phương pháp
nào”.
DART hoạt động bằng cách lập trình về
mặt di truyền một loại tế bào cụ thể nào đó để
biểu hiện GPS beacon. “Beacon” là một
enzyme có được từ các vi khuẩn mất hoạt tính.
Những vi khuẩn này hoàn toàn bất hoạt và chỉ
hiện diện trên bề mặt tế bào cho đến khi nhóm
11
nghiên cứu cung cấp các loại thuốc chứa thiết
bị nhắm đích cụ thể đến chúng.
Nhóm nghiên cứu đã phân phối thuốc
với liều lượng thấp đến mức chúng không gây
ảnh hưởng đến các tế bào khác. Tuy nhiên do
hệ thống nhắm đích rất hiệu quả nên thuốc bị
bắt giữ lại trên bề mặt tế bào nhăm đích, tích
tụ trong vài phút tới khi mật độ lớn hơn 100
đến 1.000 lần so với những khu vực khác.
Trong thí nghiệm sử dụng mô hình chuột
mắc bệnh Parkinson, Tadross và các đồng
nghiệp đã gắn beacon tín hiệu nhắm đích với
hai loại nơ ron được tìm thấy trong các hạch cơ
- vùng não chịu trách nhiệm kiểm soát động cơ.
Một loại, được gọi là tế bào thần kinh D1, được
cho là phát lệnh “thực hiện hành động”. Loại
kia, được gọi là tế bào thần kinh D2, được cho
là làm ngược lại mệnh lệnh của tế bào thần
kinh D1, đưa ra các mệnh lệnh để ngăn chặn
thực hiện hành động.
Khi sử dụng DART, Tadross đã dẫn
thuốc ức chế AMPAR chỉ đến tế bào thần kinh
D1, hoặc chỉ đến tế bào thần kinh D2, hoặc
chỉ đến cả hai tế bào này. Khi dẫn thuốc đến
cả hai loại tế bào cùng một lúc, các loại thuốc
này chỉ cải thiện được một trong số vài yếu tố
rối loạn vận động - phản chiếu các kết quả
không rõ ràng của các thử nghiệm lâm sàng
gần đây của con người. Nhóm nghiên cứu sau
đó phát hiện ra rằng việc cấp thuốc đến duy
nhất các tế bào thần kinh D1 hoàn toàn không
đạt được lợi ích gì. Tuy nhiên, đáng ngạc
nhiên là, khi nhắm mục tiêu cũng loại thuốc
này tới các tế bào thần kinh D2, các chuyển
động của chuột đã trở nên thường xuyên hơn,
nhanh hơn, thay đổi nhiều hơn và tuyến tính
hơn - nói cách khác, chẳng khác gì bình
thường.
“Chúng tôi phát hiện thấy việc nhắm
mục tiêu một thụ thể riêng biệt dựa trên các
loại tế bào thần kinh riêng biệt có thể dẫn đến
những cải tiến mạnh mẽ đáng ngạc nhiên”,
Tadross cho biết.
Ngoài ra, Tadross hiện đang nghiên cứu
xem làm thế nào khám phá mới này có thể
chuyển thành một liệu pháp điều trị mới khi
cung cấp các loại thuốc cho các nơ-ron thông
qua một kỹ thuật virut mới nổi. Ông cũng
đang bắt tay vào nghiên cứu để phát triển một
phiên bản DART không cần bổ sung beacon
nhắm mục tiêu để hoạt động. Cả hai nỗ lực
này sẽ đòi hỏi nhiều năm nghiên cứu trước khi
nhìn thấy sự thành công.
Nghiên cứu này do Viện Y học Howard
Hughes tài trợ và các kết quả nghiên cứu đã
được công bố trên tạp chí Science mới đây.
Theo vista.gov.vn, 14/04/2017
Trở về đầu trang
**************
Thuốc chứa Canabinoid có thể điều trị hiệu quả bệnh ngoài da
Trong một nghiên cứu được công bố
trên tạp chí của Viện Da liễu Hoa Kỳ, các nhà
khoa học thuộc trường Đại học Colorado
Anschutz Medical Campus, Hoa Kỳ đã phát
hiện ra rằng những loại dược phẩm chứa
nhóm hợp chất cannabinoid có đặc tính chống
viêm nhiêm nên có thể được sử dụng hiệu quả
trong điều trị các bệnh ngoài da như: bệnh
chàm, bệnh chàm, bệnh vẩy nến và bệnh viêm
da tiếp xúc dị ứng.
Hiện tại, 28 tiểu bang tại Hoa Kỳ đã hợp
pháp hóa việc sử dụng cần sa cho các mục
tiêu y tế với gần 1 trong 10 người dùng cần sa
người lớn ở Hoa Kỳ sử dụng thuốc vì lý do y
tế. Nhóm nghiên cứu cho biết sau khi tiến
hành kiểm tra tác dụng của loại dược phẩm có
chứa thành phần cannabinoid, họ phát triển
ngoài mục đích để sử dụng trong điều trị bệnh
12
nhân với các triệu chứng buồn nôn, đau mãn
tính và chán ăn, ngày càng có nhiều bác sĩ da
liễu nhìn vào khả năng chống lại một loạt các
bệnh ngoài da.
"Có lẽ nhóm hợp chất dược lý
cannabinoid được biết đến chủ yếu với vai trò
hiệu quả trong điều trị các nhóm bệnh gây ra
ngứa", TS. Robert Dellavalle, chuyên gia về
da liễu, trường Đại học Colorado cho biết.
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu,
các bệnh nhân được yêu cầu bôi lên vùng da
bị tổn thương một loại kem có chứa thành
phần cannabinoid trong vòng 3 tuần với liều
sử dụng là 2 lần trong ngày. Sau thời gian
điều trị, tình trạng ngứa của 8 trong số 21
bệnh nhân được xác định là được cải thiện
hoàn toàn. Ông cho biết thuốc có tác dụng
làm giảm tình trạng khô mốc, ráp da vốn dễ
bị nứt nẻ và nghiêm trọng hơn là gây ngứa.
Dellavalle cho rằng ưu điểm nổi trội của
phương pháp điều trị này là nhờ đặc tính
chống viêm của cannabinoid. Trong các
nghiên cứu của mình, ông cũng các cộng sự
đã tìm thấy THC (tetrahydrocannabinol) -
một trong hai hoạt chất chính trong cần sa
giúp giảm sưng và hạn chế tình trạng viêm
nhiễm ở cơ thể chuột.
Đồng thời, chuột có khối u ác tính khi
được tiêm THC đã có khả năng ức chế mạnh
mẽ sự phát triển của khối u.
Dellavalle cho rằng: "Các loại thuốc có
chứa thành phần cannabinoid ít hay thậm chí
là không gây ảnh hưởng đến thần kinh cũng
có thể được sử dụng trong điều trị bệnh ngoài
da”.
Tuy nhiên, Dellavalle cũng khuyến cáo
rằng phần lớn các nghiên cứu này đều dựa
trên các mô hình trong phạm vi phòng thí
nghiệm và các thử nghiệm lâm sàng trên quy
mô lớn vẫn chưa được thực hiện. Thực tế này
có thể sẽ thay đổi khi ngày càng có nhiều tiểu
bang hợp pháp hóa việc sử dụng cần sa.
Dellavalle cho biết những bệnh nhân
trước đó đã sử dụng các loại thuốc khác để
điều trị bệnh ngứa và bệnh về da nhưng
không thành công hiện đang lựa chọn sử dụng
thuốc chứa nhóm hợp chất cannabinoid, đặc
biệt là vì nó không gây ảnh hưởng đến thần
kinh. Tuy nhiên, ông không khuyến cáo sử
dụng loại thuốc này trong điều trị ung thư.
Ông nhấn mạnh: "Những bệnh này gây
ra nhiều bất lợi cho người bệnh và ảnh hưởng
trực tiếp đến chất lượng cuộc sống của họ.
Các loại dược phẩm điều trị hiện nay thường
được đặt mua qua mạng internet, do đó, cần
nâng cao nhận thức của các bác sĩ da liễu
cũng như bệnh nhân về tiềm năng sử dụng
của loại thuốc này".
Theo vista.gov.vn, 20/04/2017
Trở về đầu trang
**************
Phương pháp mới điều trị chứng suy giảm nhận thức do tuổi già
Một nhóm các nhà nghiên cứu tại Viện
Max Planck đã phát triển được một hợp chất
khung kim loại-hữu có thể được sử dụng để
tách đơteri và triti từ hydro bình thường hiệu
quả hơn các phương pháp trước đây.
Ngày 19/4, các nhà khoa học Mỹ công
bố một thí nghiệm mới cho thấy có thể sử
dụng các biện pháp can thiệp khoa học để giúp
não bộ hoạt động khỏe mạnh hơn khi bước
vào tuổi "xế chiều."
Theo đó, các nhà nghiên cứu đến từ Địa
học Standford (California, Mỹ) đã thực hiện thí
nghiệm bằng cách tiêm một loại protein có tên
TIMP2, được lấy từ huyết tương ở dây rốn của
các em bé sơ sinh, lên các cá thể chuột già.
Kết quả cho thấy việc này giúp tăng
cường khả năng hoạt động của các hồi hải mã
(một phần của não trước, là cấu trúc nằm bên
trong thùy thái dương chịu trách nhiệm điều
khiển trí nhớ và các khả năng nhận biết không
gian) của cá thể chuột, tăng cường khả năng
học hỏi, ghi nhớ và tiếp nhận thông tin mới.
13
Đáng chú ý, những cá thể chuột già này
có thể tìm cách thoát khỏi một mê cung được
dựng trong phòng thí nghiệm nhanh hơn.
TIMP2 là loại protein có rất nhiều trong
huyết tương dây rốn trẻ sơ sinh, và hàm lượng
protein này giảm dần khi tuổi đời càng cao.
Trước đây, các nhà khoa học từng phát hiện ra
vai trò của TIMP2 trong việc phát triển hồi hải
mã.
Tác giả của nghiên cứu được đăng tải
trên tạp chí Nature này nhận định phát hiện
mới chỉ ra protein TIMP2 hoặc các tế bào thần
kinh có chứa protein này sẽ phục vụ đắc lực
cho các nghiên cứu điều chế thuốc chống suy
giảm nhận thức ở người già.
Tuy nhiên, đây mới chỉ là thí nghiệm
bước đầu đối với chuột cần có những kiểm
chứng chuyên sâu hơn về tác dụng của
phương pháp này đối với con người trước khi
đưa ra kết luận. Và tác dụng ở chuột cũng chỉ
mới dừng lại ở việc khắc phục tình trạng suy
giảm nhận thức do tuổi tác chứ chưa có nghiên
cứu cụ thể về tình trạng suy giảm nhận thức
do bệnh tật.
Mặc dù vậy, đây cũng là một trong các
bước đi đầu tiên định hướng cho các nghiên
cứu chuyên sâu hơn dành cho người.
Theo vietnamplus.vn, 20/04/2017
Trở về đầu trang
**************
Bào chế thành công thực phẩm chức năng ngăn ngừa bệnh răng miệng
Nhân loại có thể sớm tạo ra nhiều dữ
liệu hơn so với ổ cứng hoặc băng từ, một vấn
đề đưa các nhà khoa học đến việc chuyển đổi
sang giải pháp lâu đời của tự nhiên cho việc
lưu trữ thông tin - ADN.
Các nhà khoa học của trường Đại học tự
trị Coahuila (Uadec), Mexico đã bào chế
thành công một loại thực phẩm chức năng
dạng kẹo gôm, được chiết xuất từ thảo dược
nhằm kiểm soát và điều trị bệnh nha chu và
sâu răng.
Nhà khoa học Alejandra Elizabeth
Vargas Segura, một trong những người đứng
đầu dự án nghiên cứu, cho biết đề tài khoa
học trên đã được tiến hành trong hơn hai năm
tập trung chủ yếu vào việc chiết xuất từ các
loại cây thuốc nam ra những hoạt chất có hoạt
tính sinh học giúp phòng ngừa các vi khuẩn
gây ra các loại bệnh răng miệng và bào chế
thành một loại kẹo gôm không đường.
Trong quá trình thử nghiệm, các nhà
nghiên cứu đã tiến hành chiết xuất các hoạt
chất từ 15 loại cây thuốc nam được sử dụng
nhiều trong dân gian như cây lu lu (tên khoa
học là Solanum nigrum), cây Sồi (Quercus
rugosa), cây máu rồng (Croton urucurana),
cây hoa trinh nữ (Mimosa tenuiflora) và cây
hoa hồng Pháp (Rosa gallica).
Trong số đó hoa hồng Rosa gallica chứa
rất nhiều thành phần hóa học, đặc biệt là khi
thực hiện kháng sinh đồ với loại hoa này đã
sàng lọc ra được chất cefalexina với mật độ là
32ppm (đơn vị một phần triệu), rất hữu hiệu
để ngăn ngừa bệnh răng miệng.
Bà Vargas Segura khẳng định các nhà
nghiên cứu trường Uadec đã cho thử nghiệm
kẹo gôm không đường với bệnh nhân và kết
quả cho thấy sản phẩm này có công dụng tốt
đối với việc điều trị các bệnh sâu răng và nha
chu, trung bình giảm từ 30-50% các vi khuẩn
gây ra các bệnh này.
Theo kế hoạch, các nhà khoa học trường
Uadec sẽ tập trung làm một số phân tích về
sinh học phân tử để xác định thêm một số loại
vi khuẩn khác mà có thể dùng các chất chiết
xuất từ các cây thuốc trên để ngăn ngừa và
khống chế chúng.
Theo vista.gov.vn, 20/04/2017
Trở về đầu trang
**************
14
Tử cung nhân tạo tăng cơ hội sống sót cho trẻ sinh non
Các nhà khoa học Mỹ phát triển một tử
cung nhân tạo có thể giúp những em bé sinh
non sống sót bên ngoài tử cung của người mẹ.
Thiết bị tử cung nhân tạo đã được các
nhà khoa học Mỹ kiểm nghiệm thành công ở
cừu non và có thể sắp được thử nghiệm ở trẻ
sơ sinh mắc bệnh nặng trong vòng 3 - 5 năm
tới, Seeker hôm qua đưa tin.
Các nhà khoa học nhấn mạnh thiết bị
không được thiết kế để kết thúc thai kỳ sớm,
mà đơn giản để cung cấp một môi trường an
toàn cho trẻ sinh non. Không giống những
lồng ấp truyền thống, hệ thống túi sinh học
này mô phỏng điều kiện trong tử cung.
Em bé được bao quanh bởi chất lỏng
tương tự như nước ối thông thường bao quanh
thai nhi, cho phép em bé thở qua dây rốn như
bên trong bụng mẹ. Trong lồng ấp truyền
thống, thai nhi thở qua lá phổi nhỏ xíu chưa
phát triển đầy đủ. Nhưng nhiễm trùng phổi là
vấn đề khá phổ biến, nguyên nhân gây tử vong
ở trẻ sinh thiếu tháng. Hệ thống mới giúp ngăn
chặn nguy cơ này. Môi trường lỏng cũng dễ
duy trì điều kiện vô trùng hơn so với lồng ấp.
Chỉ có một trong ba trẻ sinh non ở tuần
23 ở Anh có cơ hội sống sót và những trẻ này
có 90% khả năng mắc bệnh phổi kinh niên
hoặc những hậu quả khác khi chào đời trong
khi cơ quan nội tạng chưa phát triển đầy đủ.
Hệ thống mới hướng đến gia tăng khả năng
phát triển khỏe mạnh cho bé sinh thiếu tháng.
"Hệ thống của chúng tôi có thể ngăn
chặn sự hoành hành của bệnh tật mà trẻ sinh
non phải chịu đựng bằng cách đem đến công
nghệ y học chưa từng có", tiến sĩ Alan Flake,
giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Thai nhi ở
Bệnh viện Nhi Philadelphia, Mỹ, chia sẻ.
"Trẻ sinh non có nhu cầu khẩn cấp về
một cầu nối giữa tử cung của người mẹ và thế
giới bên ngoài. Nếu chúng ta phát triển được
một hệ thống giống tử cung hỗ trợ sự phát
triển và hoàn thiện của các cơ quan nội tạng
trong vài tuần, chúng ta có thể cải thiện đáng
kể tương lai cho trẻ sinh non. Hệ thống này
ưu việt hơn nhiều so với trang bị hiện nay ở
các bệnh viện. Nó tạo nên một tiêu chuẩn
chăm sóc mới cho những bé sinh thiếu
tháng", tiến sĩ Flake cho biết.
Sáu con cừu sinh non được sử dụng để
kiểm nghiệm phiên bản mới nhất của thiết bị,
được phát triển từ bể kính thành túi sinh học
trong thời gian ba năm. Các con vật hít thở và
nuốt như bình thường, mở mắt, mọc lông và
phát triển hệ thần kinh cũng như cơ quan nội
tạng hoạt động hoàn thiện, theo kết quả
nghiên cứu công bố trên tạp chí Nature
Communication. Những con cừu ở trong tử
cung nhân tạo trong một tháng.
Phần lớn cừu non bị giết để lấy mẫu
phân tích não, phổi và các cơ quan khác trong
khi một số ít được cho bú bình để sống tiếp.
"Chúng có vẻ phát triển bình thường về mọi
mặt", tiến sĩ Flake kết luận.
Theo tiến sĩ Flake, không công nghệ nào
có thể thay thế tử cung người mẹ trong giai
đoạn đầu của thai kỳ. "Nghiên cứu này không
nhằm thay thế tử cung ở nửa đầu thai kỳ. Nó
nhằm phát triển những cách mới để điều trị
cho trẻ sinh thiếu tháng. Các nhà nghiên cứu
hỗ trợ thai nhi đẻ non phát triển bên trong túi
chất lỏng, nơi thai nhi bơm máu qua nhau thai
nhân tạo", giáo sư Colin Duncan ở Đại học
Edinburgh, nói.
Có sự khác biệt đáng kể giữa cừu mới
đẻ và trẻ sơ sinh. Ví dụ, cừu phát triển nhanh
hơn, chỉ mất 5 tháng để hoàn thiện cơ thể, so
với 8 tháng ở người. Ngoài ra, cừu lớn hơn
gấp khoảng ba lần so với trẻ sơ sinh.
Theo vnexpress.net, 26/04/2017
Trở về đầu trang
**************
15
Mô hình gelatine mới có thể thay thế cho da người
Các nhà khoa học thuộc Phòng thí
nghiệm Liên bang về Khoa học và Công nghệ
Vật liệu Thụy Sĩ (Empa) đang phát triển một
mô hình gelatine mô phỏng các đặc tính của
da người với việc bắt chước cách da hấp thụ
nước. Bằng cách kiểm soát hàm lượng ẩm
trong gelatine, nhóm nghiên cứu dự định sử
dụng nó như một sự thay thế trong các thử
nghiệm lâm sàng của con người để kiểm tra
cách da tương tác với vải, ví dụ như tấm băng
phẫu thuật.
Da là thứ rất hữu ích. Nó không chỉ bao
bọc và giữ những phần bên trong cơ thể, nó là
một vật liệu năng động thay đổi đặc tính của
nó dựa trên môi trường ngay lập tức. Một yếu
tố quan trọng là độ ẩm mà da hấp thụ để tạo
ra những nếp nhăn cho thấy bạn đã ngâm
nước quá lâu. Độ ẩm cũng làm cho da mềm
và mịn hơn, dẫn đến ma sát tốt hơn. Độ ẩm
thích hợp giúp tay nắm giữ dụng cụ và cũng
là lý do mà khi đủ ấm, chân trần bám trên
boong tàu hơn so với đi giày.
Tuy nhiên, độ ẩm trong da quá cao có
thể gây ra quá nhiều ma sát, gây ra rộp, phát
ban và thậm chí là vết loét như khi bạn đi bộ
quá lâu trong giầy và tất ướt.
Hiểu được những thay đổi của da với sự
thay đổi độ ẩm và cách thức tương tác với vải
là rất quan trọng đối với mọi thứ từ việc thiết
kế những đôi giày quân đội phù hợp cho đến
chế tạo ra băng vết thương không gây tổn hại
cho da xung quanh.
Theo Empa, phương pháp thử nghiệm
tương tác da/vải là yêu cầu các tình nguyện
viên chà xát vải trên da của họ và đánh giá
kết quả, nhưng các nhà nghiên cứu nói rằng
việc này mất nhiều thời gian, tốn kém và gây
nguy hiểm cho người bệnh. Vấn đề phức tạp
hơn vì cách da, vải, và nước tương tác rất
phức tạp, do đó, đổ mồ hôi trong khi đi bộ
khác với chạy trong mưa bão.
Để tạo ra một chất liệu dễ kiểm soát hơn
và giảm bớt đối tượng người thử nghiệm, nhà
nghiên cứu Agnieszka Dabrowska của Empa
đã đưa ra mô hình mô phỏng chính xác da
người bằng gelatine với chất nền vải. Giống
như da bình thường, phiên bản gelatine hấp
thụ độ ẩm và làm thay đổi tính chất của nó
theo cách tương tự, vì vậy nó có tương tác
thực tế với vải và các chất liệu khác.
Mô hình được tạo ra bằng gelatine thông
thường, hòa tan trong nước, nhúng vào sợi
bông và được xử lý bằng các hóa chất làm
cho các polyme protein tạo thành các liên kết
chéo giữ các phân tử lại với nhau và ngăn
không cho chúng hòa tan. Kết quả là một chất
hấp thụ nước và phồng lên, mịn và mềm
giống da.
Dabrowska ban đầu định sử dụng
keratin làm nền cho mô hình da mới, nhưng
gelatine rẻ hơn nhiều, nó chỉ tốn một vài
franc Thụy Sĩ. Empa cho biết mô hình mới
không phải để thay thế cho tất cả các thử
nghiệm trên người, nhưng nó làm giảm số
lượng đối tượng thử nghiệm và giúp các nhà
khoa học loại bỏ được nhiều loại vải từ sớm.
Dabrowska cho biết mô hình hiện nay
phụ thuộc vào nguồn nước bên ngoài, nhưng
nhóm đang nghiên cứu để loại bỏ vấn đề này
cũng như tạo ra các lỗ chân lông cho phép da
nhân tạo đổ mồ hôi như thật.
Theo vista.gov.vn, 28/04/2017
Trở về đầu trang
**************
16
Màng sinh học nhân tạo giúp làm tăng hiệu suất của pin nhiên liệu vi sinh
Thông thường, pin nhiên liệu vi sinh vật
hoạt động dựa trên điện năng sản sinh ra nhờ
quá trình trao đổi chất của vi khuẩn. Tuy
nhiên, một nhóm các nhà nghiên cứu thuộc
trường Đại học Bayreuth, CHLB Đức mới đây
cho biết họ vừa phát triển thành công một loại
màng sinh học có khả năng làm tăng đáng kể
hiệu suất của pin nhiên liệu. Công nghệ mới
được đánh giá là hoạt động hiệu quả, ổn định
cũng như dễ sử dụng hơn so với màng sinh
học tự nhiên. Bài báo mô tả về những lợi ích
mà công nghệ mới đem lại được đăng tải trên
tạp chí Macromolecular Bioscience.
Pin nhiên liệu vi sinh sử dụng vi khuẩn
có khả năng phân hủy được các hợp chất hữu
cơ, trong đó có axit lactic. Trong pin nhiên
liệu, điện tử liên tục được sinh ra và giải
phóng nhờ quá trình trao đổi chất của vi
khuẩn. Các điện tử được giải phóng di chuyển
từ cực dương sang cực âm ở phía đối diện của
pin nhiên liệu, tạo ra dòng điện. Trong quá
trình tạo ra dòng điện theo cách này, các vi
khuẩn xâm chiếm, sống bám và gắn kết với
nhau trên bề mặt kim loại của cực dương. Tại
đây, vi khuẩn sinh sôi và phát triển rất mạnh
mẽ, từ đó, hình thành một lớp màng sinh học
tự nhiên và dẫn điện tới cực dương. Màng
sinh học nhân tạo của nhóm nghiên cứu
Bayreuth hoạt động hiệu quả tương tự màng
sinh học tự nhiên, tuy nhiên, nó có khả năng
tối ưu hóa hiệu suất của pin nhiên liệu theo
nhiều cách khác nhau.
Vi khuẩn hoạt động trong mạng lưới
tổng hợp: ổn định hơn so với màng sinh học
tự nhiên.
Nói một cách chính xác, nhóm nghiên
cứu dẫn đầu bởi GS. TS. Ruth Freitag -
chuyên ngành Công nghệ sinh học Chế biến
và GS. TS. Andreas Greiner chuyên ngành
Hóa học Phân tử đã sản xuất loại vật liệu
hydrogel composite sinh học. Đó là một cấu
trúc mạng lưới gồm các sợi polymer nhỏ xíu
có chứa một chủng vi khuẩn duy nhất. Quá
trình trao đổi chất của loài vi khuẩn này tạo ra
điện năng liên tục mà không hề bị gián đoạn.
Tuy nhiên, hiệu suất của pin được tăng lên
đáng kể: "Màng sinh học của chúng tôi được
hình thành nên từ loài vi khuẩn Shewanella
oneidensis. Pin nhiên liệu sử dụng màng sinh
học chứa loài vi khuẩn này đạt hiệu suất gấp
đôi so với pin nhiên liệu sử dụng màng sinh
học tự nhiên", TS. Patrick - thành viên nhóm
nghiên cứu Bayreuth giải thích.
Một trong những ưu điểm nổi trội của
phương pháp nâng cao hiệu suất pin nhiên
liệu chính là nguồn năng lượng ổn định và có
thể tính toán được, do nồng độ vi khuẩn trong
loại màng sinh học nhân tạo đặc biệt này
hoàn toàn có thể được xác định ngay từ ban
đầu. Trong khi đó, hoạt động của màng sinh
học tự nhiên không ổn định nên rất khó kiểm
soát. Như vậy, có thể nhận thấy công nghệ
màng sinh học mới của trường Đại học
Bayreuth làm tăng đáng kể hiệu suất của pin
nhiên liệu vi sinh, do đó, dễ sử dụng hơn.
Ngày nay, kỹ thuật kéo sợi lông cừu
được sử dụng tương đối rộng rãi. Nhà nghiên
cứu Steffen Reich cho biết vật liệu composite
sinh học được sản xuất bằng phương pháp kết
hợp, kéo các sợi polyme lại với nhau để tạo
thành một sợi lông cừu.
Theo vista.gov.vn, 18/04/2017
Trở về đầu trang
**************
17
Vỏ cam chanh có thể thay thế cho than hoạt tính
Ngoài việc ủ phân vỏ cam và bưởi, có thể
có một cách mới để chúng ta không phải vứt
bỏ chúng. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra một
phương pháp sử dụng vỏ các loại cam chanh
để loại bỏ các kim loại nặng từ nước thải.
Nghiên cứu được thực hiện bởi các nhà
khoa học thuộc Đại học Granada của Tây Ban
Nha, cùng với các cộng sự tại Trung tâm
Nghiên cứu Điện hóa và Phát triển Công nghệ
Mexico và Trung tâm Phát triển Kỹ thuật và
Công nghiệp.
Đầu tiên, vỏ được sấy khô bằng cách sử
dụng máy sấy chân không, sau đó chúng được
xử lý hóa chất làm cho độ xốp và diện tích bề
mặt của chúng tăng lên. Cuối cùng chúng
được tán nhỏ và tạo hạt.
Trong các thử nghiệm trong phòng thí
nghiệm, các hạt từ vỏ cam chanh đã được xử
lý được cho vào trong các cột và bơm nước
qua, chúng hấp thụ thành công các kim loại
nặng như đồng từ nước bị ô nhiễm.
Nhóm nghiên cứu tại Đại học Granada
cho biết: "Kết quả cho thấy tiềm năng lớn
trong việc sử dụng các vật liệu như trên làm
các chất hấp phụ có khả năng cạnh tranh với
than hoạt tính thương mại để hấp thu và thu
hồi các kim loại có trong nước thải. Trong
tương lai chúng ta có thể thực hiện được các
quy trình bền vững trong đó các sản phẩm có
giá trị thương mại lớn có thể lấy được từ dư
lượng thực phẩm".
Một bài báo về nghiên cứu này đã được
công bố trên Tạp chí Cây trồng và các sản
phẩm công nghiệp. Các nhà khoa học thuộc
Đại học Flinders ở Úc cũng đã loại bỏ các
kim loại nặng khỏi nước bằng cách sử dụng
một loại polymer có chứa một chất thu được
từ vỏ cam quýt.
Theo vista.gov.vn, 07/04/2017
Trở về đầu trang
**************
Chế tạo thành công vật liệu nhân tạo bằng cách sắp xếp các nguyên tử
Các nhà khoa học thuộc trường Đại học
Aalto, Phần Lan cho biết họ vừa sản xuất
thành công một loại vật liệu nhân tạo có thể
tạo ra tính chất điện bằng cách sắp xếp những
cấu trúc vi mô hay được gọi là các "nguyên
tử". Cụ thể, nhóm nghiên cứu đã sử dụng kính
hiển vi để di chuyển các nguyên tử riêng lẻ
theo một trật tự nhất định nhằm tạo ra một
mạng tinh thể nguyên tử có phản ứng điện hóa
được xác định trước. Khả năng sắp xếp chính
xác các nguyên tử trong một mạng tinh thể có
thể tạo ra các tính chất điện từ của vật liệu
thông qua cấu trúc nguyên tử, góp phần đưa
'vật liệu lượng tử nhân tạo' đến gần hơn với
thực tế, từ đó hướng đến áp dụng đối với các
loại vật liệu tự nhiên.
Trong thí nghiệm, ở điều kiện nhiệt độ 4
độ Kelvin, các chuyên gia đã sử dụng thiết bị
kính hiển vi quét chui hầm (STM) để di
chuyển các nguyên tử và kéo chúng đến vị trí
nhằm tạo ra các khoảng trống trong một lớp
nguyên tử clo trên cấu trúc tinh thể đồng (to
arrange vacancies in a single layer of chlorine
atoms supported on a copper crystal).
TS. Robert Drost cho biết: "Trên thực tế,
cấu trúc tinh thể có vai trò rất quan trọng với
các tính chất điện của vật liệu. Với loại vật
18
liệu mới, chúng ta hoàn toàn có thể kiểm soát,
điều chỉnh cấu trúc của vật liệu theo ý muốn.
Về nguyên tắc, khi đã xác định trước được
tính chất điện của một loại vật liệu bất kỳ,
chúng ta có thể sắp xếp các nguyên tử theo
cấu trúc mong muốn".
Nhóm nghiên cứu đã chứng minh rằng
phương thức lắp ghép nguyên tử của họ cho
phép kiểm soát hoàn toàn cấu trúc của vật liệu
bằng cách tạo ra hai cấu trúc xuất phát từ hệ
thống mô hình cơ bản với các tính chất điện từ
mới.
Phương pháp mới không chỉ được áp
dụng đối với các nguyên tử clo được lựa chọn
trong nghiên cứu mà còn có thể được áp dụng
điều chỉnh đối với những nguyên tử nằm trên
lớp bề mặt nguyên tố đã được tiếp cận ở kích
thước nanô và thậm chí là các nguyên tố có
kích thước trung bình (chấm lượng tử) vốn
được kiểm soát thông qua các quá trình nội
sinh xảy ra trong thạch quyển.
Nghiên cứu viên Teemu Ojanen giải
thích: "Có rất nhiều đề xuất hấp dẫn về lý
thuyết mà trên thực tế chưa được chứng minh
trong các tài liệu khoa học. Do đó, đây chính
là cơ hội để chúng tôi có thể thử nghiệm các ý
tưởng này".
Theo vista.gov.vn, 04/04/2017
Trở về đầu trang
**************
Biến nước biển thành nước ngọt chỉ bằng một màng lọc mỏng
Các nhà khoa học tại Đại học
Manchester (Anh) vừa tạo ra một loại màng
lọc mới có khả năng loại bỏ muối có trong
nước biển, từ đó biến chúng thành nước ngọt
có thể uống được.
Theo Sky News, màng lọc của các nhà
khoa học tại Đại học Manchester được làm từ
graphene, một loại thù hình của carbon.
Graphene được mệnh danh là loại vật liệu
mỏng nhất thế giới khi có độ dày chỉ ngang
với một nguyên tử và có thể cứng hơn thép
tới 200 lần.
Trước đây, graphene dioxit đã được các
nhà khoa học chú ý tới trong việc chế tạo
màng lọc nước biển. Tuy nhiên, màng
graphene dioxit có nhược điểm là chỉ có thể
lọc được các tinh thể muối lớn, nghĩa là
không lọc được triệt để nước biển. Ngoài ra,
khi tiếp xúc với nước, các lỗ hổng trên màng
graphenne dioxit sẽ trương phồng lên và tạo
điều kiện cho nhiều phân tử muối đi qua.
Khắc phục vấn đề này, các nhà khoa học
tại Đại học Manchester đã tìm cách thêm một
lớp nhựa expoxy vào hai bên của màng lọc
graphene mới. Việc này giúp giảm kích thước
các lỗ trên màng lọc graphene và kiểm soát
để ngăn chúng không bị trương phồng lên khi
gặp nước. Nhờ đó, hiệu quả lọc nước biển của
màng lọc graphene mới đã được tăng lên
đáng kể và có thể biến nước biển thành nước
ngọt uống được.
Khám phá này có tiềm năng trở thành
một cuộc cách mạng trong ngành lọc nước
trên thế giới, đặc biệt là tại các quốc gia thiếu
nước nhưng không có khả năng xây dựng nhà
máy khử muối quy mô lớn. "Đây là một bước
tiến quan trọng và mở ra giải pháp mới để cải
thiện hiệu quả của các công nghệ khử mặn
nước", giáo sư Rahul Nair, người khoa học
đứng đầu nhóm nhiên cứu cho biết.
Graphene là loại vật liệu có nhiều ứng
dụng được khám phá lần đầu tiên vào năm
2004 bởi hai nhà khoa học làm việc tại trường
Đại học Manchester là giáo sư Andre Geim
và giáo sư Kostya Novoselov. Hai vị giáo sư
sau đó đã được trao giải Nobel vào năm 2010
vì khám phá này của mình.
19
Đến năm 2025, Liên hợp quốc dự đoán
là sẽ có khoảng 14% dân số thế giới phải đối
mặt với tình trạng khan hiếm nước. Trong khi
đó, quỹ từ thiện quốc tế WaterAid cho biết là
cứ 10 người trên thế giới lại có một người
không được tiếp xúc với nước sạch và có
khoảng 315.000 trẻ em dưới 5 tuổi tử vong vì
các bệnh liên quan tới nguồn nước ô nhiễm
mỗi năm. Vì vậy, màng lọc graphene mới rất
có ý nghĩa trong việc giúp thế giới giải quyết
nhu cầu nước sạch ngày một cao hiện nay.
Theo vnreview.vn, 10/04/2017
Trở về đầu trang
**************
Phát minh mới về thiết bị thu nước từ không khí ở độ ẩm thấp
Thiết bị thu nước từ không khí. (Nguồn: npr.org)
Các nhà khoa học Mỹ đã phát minh một
thiết bị chạy bằng năng lượng Mặt Trời có thể
thu 2,8 lít nước từ không khí trong 12 giờ,
hoạt động trong điều kiện độ ẩm 20-30% và
sử dụng 1kg vật liệu khung hữu cơ (MOF).
Mẫu máy trên, được biết đến như "máy
gặt nước," do Học viện Công nghệ
Massachusetts (MIT) nghiên cứu chế tạo, sử
dụng MOF do Đại học California ở Berkeley
phát triển và cung cấp.
Nghiên cứu được công bố trên tạp chí
Science của Mỹ số ra ngày 16/4.
Giáo sư hóa học tại Đại học California
Berkeley, Omar Yaghi, một trong hai đồng
tác giả công trình, cho biết đây là đột phá lớn
trong nỗ lực lâu nay nhằm thu nước từ không
khí ở độ ẩm thấp. Hiện các nhà khoa học
chưa tìm ra được cách khác để đạt được mục
đích này, ngoại trừ việc sử dụng năng lượng
đặc biệt.
Giáo sư Yaghi đã phát minh ra MOF
cách đây hơn 20 năm, kết hợp các kim loại
như magiê hoặc nhôm với các phân tử hữu cơ
để tạo ra các cấu trúc cứng, nhưng có độ xốp
nhất định để chứa chất lỏng và khí. Kể từ đó,
hơn 20.000 MOF khác nhau đã được các nhà
nghiên cứu trên thế giới tạo ra, một số có thể
thu các chất hóa học như khí hydro hoặc khí
metan, một số khác có thể thu khí thải carbon
dioxide (CO2) hoặc phân tách các sản phẩm
hóa dầu trong các nhà máy.
Năm 2014, giáo sư Yaghi và nhóm
nghiên cứu của ông đã tổng hợp một MOF
mới, kết hợp kim loại ziriconi và acid adipic,
có tác dụng ngưng tụ hơi nước. Ông đã đề
xuất hợp tác với Evelyn Wang, một kỹ sư hóa
tại MIT, để biến MOF này thành một hệ
thống thu nước từ không khí.
Hệ thống mà kỹ sư Evelyn Wang và các
học sinh của bà thiết kế bao gồm những tinh
thể MOF nhỏ cỡ một hạt bụi, được nén giữa
một máy thu năng lượng Mặt Trời và một tấm
bảng ngưng tụ, đặt bên trong một căn phòng
không có mái che. Khi không khí xung quanh
khuếch tán qua tấm xốp MOF, các phân tử
nước sẽ được hút vào các bề mặt bên trong.
Ánh sáng Mặt Trời chiếu vào qua một cửa sổ
sẽ làm nóng MOF và giúp nước chảy xuống
tấm ngưng tụ. Hơi nước ngưng tụ thành dạng
lỏng và chảy vào bộ phận chứa.
Trong bài viết công bố phát minh trên,
bà Evelyn Wang cho biết công trình này mở
ra hướng đi mới trong thu nước từ không khí
mà không đòi hỏi điều kiện độ ẩm cao. Theo
bà, đây cũng là cách tiết kiệm năng lượng hơn
các công nghệ hiện nay.
Bà Evelyn Wang cho biết thêm máy thu
nước này sẽ còn có thể được cải tiến. MOF
hiện chỉ có thể hấp thu lượng nước tương
đương 20% sức nặng của máy, nhưng các vật
liệu MOF có thể thấp thu tới 40% hoặc hơn
nữa. Vật liệu này cũng có thể được cải tiến để
20
tăng tính hiệu quả trong điều kiện độ ẩm cao
hơn hoặc thấp hơn.
Hiện giáo sư Yaghi và nhóm nghiên cứu
đang nỗ lực cải tiến MOF của họ, trong khi
kỹ sư Evelyn Wang tiếp tục nâng cấp hệ
thống thu nước để có thêm nhiều nước.
Giáo sư Yaghi đánh giá tích cực triển
vọng mỗi hộ gia đình có thể thu được nước
bằng một thiết bị tại nhà sử dụng năng lượng
Mặt Trời để đáp ứng nhu cầu sử dụng. Nếu
trở thành hiện thực, điều này sẽ giúp giảm
lượng nước khai thác ngầm, qua đó góp phần
bảo vệ nguồn tài nguyên nước.
Theo vietnamplus.vn, 17/04/2017
Trở về đầu trang
**************
Lớp phủ có khả năng ngăn chặn tình trạng tắc nghẽn đường ống dẫn dầu
Thảm họa nổ giàn khoan dầu sâu nhất
thế giới Deepwater Horizon xảy ra trên vịnh
Mexico vào ngày 21 tháng 4 năm 2010 đã
dẫn đến sự cố tràn dầu được đánh giá là
nghiêm trọng và tồi tệ nhất trong lịch sử
ngành công nghiệp dầu khí Hoa Kỳ. Vào thời
điểm đó, các kỹ sư khai thác giếng dầu khẳng
định họ sẽ nỗ lực giải quyết và khắc phục sự
cố rò rỉ chỉ trong vòng vài tuần. Sau đó, vào
ngày 9 tháng 5, lực lượng cứu hộ đã hạ thành
công một vòm ngăn với sức chứa 125 tấn dầu
xuống vị trí phía trên giàn khoan bị chìm
nhằm mục đích dẫn lượng dầu bị rò rỉ lên tàu
chở dầu phía trên thông qua một đường ống
dẫn, từ đó, giúp cải thiện tình trạng rò rỉ dầu
liên tục. Tuy nhiên, biện pháp này lại tỏ ra
chưa thực sự hiệu quả.
Nguyên nhân chính bắt nguồn từ sự tồn
tại của mê-tan clathrate - một dạng kết cấu
hỗn hợp của nước đóng băng và khí mê-tan.
Dưới điều kiện nhiệt độ thấp và áp suất cao ở
đáy biển sâu, hỗn hợp trên hình thành và tồn
tại dưới dạng giống như băng, trôi lơ lửng bên
trong vòm ngăn, làm tắc đường thoát của ống
dẫn dầu, làm cản trở quá trình chuyển hướng
dòng chảy. Nếu không có sự tồn tại của lớp
băng clathrate thì biện pháp sử dụng vòm
ngăn đã có thể phát huy tác dụng và tình trạng
dầu tràn, rò rỉ liên tục trong khoảng thời gian
bốn tháng dẫn đến phá huỷ hệ sinh thái biển
lan rộng đã có thể được ngăn chặn.
Mới đây, trong một bài báo được đăng
trên tạp chí Vật liệu ứng dụng và Giao diện
ACS, một nhóm các nhà nghiên cứu tại Viện
Công nghệ Massachusetts (MIT) gồm Kripa
Varanasi - tiến sĩ chuyên ngành kỹ thuật cơ
khí, Arindam Das - nghiên cứu sinh sau tiến
sĩ cùng các đồng nghiệp đã giới thiệu và trình
bày một giải pháp mới có khả năng ngăn chặn
sự tích tụ các tinh thể băng, nhờ đó, khắc
phục hiện tượng tắc nghẽn bên trong các
đường ống dẫn dầu và khí - yếu tố nguy cơ
dẫn đến khó khăn trong việc làm sạch hoặc tệ
hơn là gây rò rỉ do sự gia tăng áp lực bên
trong đường ống dẫn dầu.
Ưu điểm của giải pháp mới là kỹ thuật
phủ lên bên trong thành ống dẫn một lớp vật
liệu, giúp đẩy nhanh dòng chảy của lớp phủ
chống nước dọc theo bề mặt bên trong đường
ống. Nhóm nghiên cứu cho biết lớp phủ
chống thấm nước có khả năng ngăn chặn hiệu
quả quá trình dính kết giữa các phân tử băng
hay các giọt nước với thành ống dẫn, nhờ đó,
cản trở quá trình tích tụ khí clathrat - nguyên
nhân làm chậm hoặc ngăn chặn dòng chảy
trong ống.
Không giống như những phương pháp
được cho là tốn kém và gây ô nhiễm môi
trường đã được áp dụng trước đó như: tăng
nhiệt độ bên trong thành ống, hạ áp suất hay
sử dụng các chất phụ gia hóa học, phương
pháp mới mang tính hoàn toàn thụ động, nghĩa
là, không cần thiết phải bổ sung năng lượng
21
hay vật liệu hỗ trợ khác. Bề mặt lớp phủ hút
hỗn hợp hydrocacbon lỏng trong vết dầu
loang, tạo nên một lớp bề mặt mỏng có khả
năng dễ dàng đẩy nước, ngăn hiện tượng bám
dính của các tinh thể băng vào thành ống dẫn.
Varanasi cho biết: "Mục đích của những
biện pháp khắc phục tình trạng tràn dầu đang
được áp dụng hiện nay là nhằm đảm bảo
dòng chảy. Tuy nhiên, nhược điểm của những
biện pháp này là chi phí cao và không thân
thiện với môi trường. Hàng năm, chúng tôi
phải chi hàng trăm triệu đô la cho các nỗ lực
nhằm đối phó và giải quyết sự cố tràn dầu.
Nếu không áp dụng những biện pháp này, tốc
độ dòng chảy sẽ giảm dần do sự tích tụ các
tinh thể hydrat, thậm chí, hiện tượng tắc
nghẽn cũng có nguy cơ xảy ra, khi đó, hậu
quả để lại là vô cùng nguy hiểm. Đây chính là
một vấn đề đáng quan ngại đối với ngành
công nghiệp dầu khí, xét về cả mức độ an
toàn cũng như độ tin cậy".
Das - tác giả chính của bài báo cho biết:
“Vấn đề này có thể trở nghiêm trọng hơn bởi
khí mê-tan được tìm thấy ở nhiều nơi, bao
gồm cả thềm lục địa và những tầng địa chất
sâu dưới lòng đại dương và đặc biệt nó được
xem như một nguồn nhiên liệu tiềm năng mới
cần trích xuất. Bên cạnh đó, nguồn nhiên liệu
này về cơ bản sẽ chiếm ưu thế so với toàn bộ
các nguồn nhiên liệu khác như dầu và khí tự
nhiên trên đất liền và dưới đáy biển”.
Tuy nhiên, tinh thể băng và cặn thường
được hình thành từ những chất lắng đọng.
Farnham cho biết: "Các biện pháp nhằm ngăn
chặn quá trình tích tụ băng đá phụ thuộc rất
nhiều vào việc phá vỡ mối kết dính của các
phân tử clathrate với thành ống dẫn ngay từ
thời điểm ban đầu. Một khi tình trạng này xảy
ra, phân tử clathrate sẽ hút các phân tử khác,
dẫn đến tích tụ, kết tủa nhanh chóng. Do vậy,
chúng tôi đang nỗ lực tìm kiếm phương pháp
giảm thiểu nguy cơ bám dính ngay từ thời
điểm ban đầu của các phân tử clathrate trên
thành ống dẫn".
Giải pháp mới có đặc điểm tương tự kỹ
thuật được áp dụng tại công ty Varanasi thành
lập để thương mại hóa các kết quả nghiên cứu
trước đó mà ông đã thực hiện trong phạm vi
phòng thí nghiệm, đó là: tạo một lớp phủ trên
bề mặt thành bên trong các loại chai lọ chứa
nước sốt, mật ong nhằm khắc phục hiện
tượng bám dính của thành phần thực phẩm
với lớp sơn và các loại hóa chất nông nghiệp.
Quá trình thực hiện kỹ thuật gồm hai bước:
bước đầu tiên là tạo ra một lớp phủ kết cấu
trên bề mặt thành của các lọ chứa, tiếp đó, bổ
sung một chất bôi trơn cấu trúc giúp cải thiện
tình trạng bám dính.
Hệ thống đường ống dẫn mới cũng hoạt
động theo cách thức tương tự - Varanasi giải
thích. Tuy nhiên, trong trường hợp này, chúng
tôi sử dụng chính loại chất lỏng cấu trúc có sẵn
trong môi trường thay vì sử dụng chất bôi trơn
bề mặt. Bên cạnh các loại khí thiên nhiên, yếu
tố chủ yếu dẫn đến hình thành clathrate là các
phân tử nước. Do đó, việc ngăn nước lọt qua
ống dẫn cũng đồng nghĩa với việc khắc phục
được tình trạng tích tụ clathrate. Khi đó, quá
trình các phân tử hydrocarbon dạng lỏng trong
dầu loang bám dính vào bề mặt bên trong
thành ống nhờ lớp phủ bề mặt, có thể ngăn
nước một cách hiệu quả.
Varanasi nói rằng: "Quá trình dầu loang
lan rộng sẽ tạo thành một màng chắn giữa
nước và bề mặt thành ống. Trong quá trình
thử nghiệm, nhóm nghiên cứu đã sử dụng một
chất hóa học giả khí mê-tan vì khí mê-tan thực
sự hình thành trong điều kiện áp suất cao nên
rất khó có thể tái sản xuất trong quy mô phòng
thí nghiệm. Trên thực tế, hệ thống này hoạt
động rất hiệu quả. Qua quan sát, Varanasi
khẳng định không có hiện tượng các phân tử
hydrat bám dính vào bề mặt thành ống dẫn”.
Theo vista.gov.vn, 24/04/2017
Trở về đầu trang
**************
22
Phương pháp mới để giảm tiếng ồn giao thông đường bộ
Các nhà khoa học thuộc Đại học
Granada (UGR), Tây Ban Nha và Đại học
Southampton, Anh, đã thiết kế một phương
pháp mới để giảm thiểu các vấn đề tiếng ồn
do giao thông đường bộ gây ra.
Việc áp dụng Hướng dẫn tiếng ồn môi
trường châu Âu (END) bởi các cơ quan quản
lý nhà nước khác nhau của các nước thành
viên EU liên quan đến tiếng ồn giao thông
đường bộ đã tạo ra một số lớn các Kế hoạch
Hành động về tiếng ồn bởi các chính quyền
chịu trách nhiệm về cơ sở hạ tầng.
Tuy nhiên, chỉ thị này đã không thiết lập
một quy trình được quy định cho phép lựa
chọn những đoạn đường quan trọng nhất đòi
hỏi một số hành động, và sau khi lựa chọn
được đoạn đường, lựa chọn phương án phù
hợp nhất để chống lại tiếng ồn.
Nghiên cứu đề xuất sử dụng dữ liệu có
sẵn từ các tổ chức chịu trách nhiệm về cơ sở
hạ tầng.
Phương pháp này, được gọi là
'PATRON' (Các hành động ưu tiên chống
tiếng ồn đường bộ), bao gồm hai giai đoạn.
Giai đoạn đầu tiên gồm có xác định và cân
nhắc các tiêu chí chính được sử dụng để ưu
tiên các đoạn đường trong kế hoạch một cách
khách quan và hợp lý. Trong giai đoạn thứ
hai, chọn các phương án thích hợp cho từng
đoạn đường.
Sản phẩm cuối cùng là một phương pháp
mà bất kỳ thực thể nào có thể thực hiện và
giúp đưa ra quyết định bằng cách lựa chọn các
giải pháp phù hợp nhất để giảm sự phơi nhiễm
với tiếng ồn phát sinh trên mỗi đoạn đường,
khi các khu vực cần hành động đã lựa chọn.
Alejandro Ruiz Padillo, tác giả chính
của bài báo giải thích rằng, ngoài ra, việc áp
dụng phương pháp PATRON có thể thực hiện
bất kể mô phỏng hay kỹ thuật nào được sử
dụng để đo tiếng ồn. Do đó, nó có thể dễ dàng
áp dụng cho các giai đoạn thực hiện Hướng
dẫn ồn ào Môi trường ở châu Âu trong thời
gian tới, đặc biệt là hiện nay phương pháp
CNOSSOS-EU sẽ được sử dụng làm phương
pháp chung để lập bản đồ tiếng ồn chiến lược
ở châu Âu từ năm 2017 trở đi.
Theo vista.gov.vn, 07/04/2017
Trở về đầu trang
**************
Hệ thống “Lá bionic” có khả năng sản xuất phân bón
Vào nửa cuối của thế kỷ 20, việc sử dụng
rộng rãi phân bón hóa học được coi là yếu tố
góp phần gây bùng nổ cuộc cách mạng trong
lĩnh vực nông nghiệp hay còn gọi là "cuộc
cách mạng xanh", giúp giải quyết vấn đề thiếu
lương thực cũng như ngăn chặn cuộc khủng
hoảng lương thực toàn cầu. Tuy nhiên, hiện
nay, cùng với thực trạng dân số ngày càng gia
tăng thì áp lực nhằm đáp ứng nhu cầu về
lương thực thực phẩm cho người dân cũng
tăng lên đáng kể. Trong nỗ lực nhằm duy trì
và thúc đẩy những thành tựu mà cuộc cách
mạng xanh đem lại, các nhà nghiên cứu đã
phát triển một loại lá "bionic" có khả năng sử
dụng vi khuẩn, ánh sáng mặt trời, nước và
không khí để sản xuất phân bón hữu cơ cho
cây trồng.
TS. Daniel Nocera - người đứng đầu
nghiên cứu cho biết: "Chúng ta chỉ có thể thực
hiện sản xuất và phân phối phân bón khi các
điều kiện về quy trình sản xuất tập trung cũng
như cơ sở hạ tầng quy mô lớn được đáp ứng
23
đầy đủ. Tuy nhiên, ở những nơi đời sống
người dân còn gặp nhiều khó khăn như ở
những ngôi làng nghèo tại Ấn Độ thì lại khác.
Các nước nghèo trên thế giới không phải lúc
nào cũng có đầy đủ các nguồn lực để đáp ứng
nhu cầu cần thiết để phát triển hệ thống sản
xuất và hệ thống phân phối phân bón".
Cuộc cách mạng xanh đầu tiên trong những
năm 1960 đã chứng kiến sự gia tăng nhu cầu sử
dụng phân bón đối với các giống cây lương
thực chính như lúa gạo và lúa mì, sản lượng
nông nghiệp nhờ đó cũng tăng lên gấp đôi.
Theo Tổ chức Nông Lương Liên Hiệp Quốc
(U.N.), mặc dù được cho là nguyên nhân dẫn
đến một số vấn đề nghiêm trọng về ô nhiễm
môi trường, nhưng sự chuyển đổi này cũng đã
góp phần cứu đói cũng như cải thiện đời sống
của hàng triệu người dân nghèo, đặc biệt là ở
các nước châu Á. Tuy nhiên, trên thực tế, dân
số thế giới vẫn đang trên đà phát triển và được
dự đoán sẽ tăng lên tới hơn 2 tỷ người vào năm
2050. Sự tăng trưởng này chủ yếu diễn ra ở
một số nước nghèo nhất, đặt ra một loạt thách
thức toàn cầu mà người dân có nguy cơ phải
đối mặt, vì vậy, đòi hỏi phải có những biện
pháp, cách thức đa dạng. Các chuyên gia cho
biết một trong những giải pháp sẽ là thực hiện
tăng năng suất cây trồng mà không cần tránh
phát quang thêm đất để canh tác.
Một trong những phát minh đóng góp vào
thành công trong cuộc cách mạng xanh kế tiếp
là hệ thống lá nhân tạo có khả năng sản xuất
phân bón - công trình nghiên cứu của TS.
Nocera vào năm 2011. Lá nhân tạo khi tiếp
xúc với ánh nắng mặt trời có khả năng mô
phỏng quá trình quang hợp ở lá cây tự nhiên,
phân tách các phân tử nước thành hyđrô và
ôxy. Ở phiên bản mới, TS. Nocera cùng cộng
sự đã kết hợp chất xúc tác tách nước với một
loại vi khuẩn có tên gọi Ralstonia eutropha,
tiêu thụ khí hydro và lấy khí lấy các-bon
điôxít (CO2) từ không khí xung quanh để tạo
ra nhiên liệu lỏng.Tháng 6 năm ngoái, nhóm
nghiên cứu của Nocera đã báo cáo việc
chuyển đổi sử dụng từ các chất xúc tác niken,
molybdenum, kẽm vốn có khả năng tiêu diệt
vi khuẩn sang hợp chất coban và phosphorus
thân thiện với vi khuẩn. Hệ thống mới cung
cấp nhiên liệu sinh học được sản xuất từ
nguồn nguyên liệu sinh khối và nhiên liệu
lỏng với hiệu suất vượt trội so với quá trình
quang hợp tự nhiên.
Nocera cho biết: "Các nhiên liệu chỉ là
bước đầu tiên. Hiện nay, chúng tôi đưa vào hệ
thống mới một loại vi khuẩn khác có khả năng
hấp thụ nguồn dinh dưỡng nitơ trong không
khí để sản xuất ra phân bón nhân tạo với hiệu
suất cao hơn".
Cụ thể, nhóm nghiên cứu của Nocera bổ
sung thêm vi khuẩn Xanthobacter vào hệ
thống. Vi khuẩn này cố định lượng hiđrô thu
được từ lá nhân tạo, kết hợp với việc lấy các-
bon điôxít từ khí quyển để tạo ra một loại chất
dẻo sinh học. Chất này được lưu giữ bên trong
vi khuẩn như một nguồn nhiên liệu.
Nocera nhấn mạnh “Loại vi khuẩn mới có
khả năng tổng hợp ánh nắng mặt trời để tạo
ra chất dẻo sinh học. Tiếp theo, chúng lấy nitơ
từ không khí và sử dụng chất dẻo sinh học, về
cơ bản là hyđrô cố định, để thúc đẩy chu kỳ
định hình sản xuất amôniac để bón phân cho
cây trồng".
Nhóm nghiên cứu đã phân tích lượng
amôniac sản xuất được từ hệ thống lá nhân tạo
sau khi tiến hành thực nghiệm trên cây củ cải
trong năm chu kỳ canh tác. Các chuyên gia
nhận định rằng các loại cây được tưới phân
bón được tạo ra bởi lá nhân tạo phát triển to
gấp hơn 1,5 lần so với nhóm cây được trồng
theo phương pháp tự nhiên. Nocera khẳng
định đây chính là dấu hiệu cho thấy trong
tương lai không xa, công nghệ mới hoàn toàn
có thể được áp dụng ở Ấn Độ hoặc tiểu vùng
Kết quả công trình nghiên cứu đã được trình bày
tại Hội nghị và Triển lãm quốc gia lần thứ 253 của Hiệp hội Hoá học Hoa Kỳ (ACS).
24
Sahara, châu Phi giúp cải thiện năng suất cây
trồng bằng chính loại phân bón họ tự sản xuất.
Theo vista.gov.vn, 10/04/2017
Trở về đầu trang
**************
B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM
1-0016579 Bàn chải đánh răng có lắp động cơ
Tác giả: Cai Heng (US), Boyd Thomas
James (US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến dụng cụ chăm sóc
răng miệng, như bàn chải đánh răng có lắp
động cơ, nó được kích hoạt khi đặt vào môi
trường miệng của người sử dụng. Khả năng
dẫn điện của nước bọt, khi nước bọt này
được trộn một cách tùy ý với kem đánh răng
và nước, có thể được dùng để đóng mạch
điện, mạch điện này cấp điện cho cơ cấu có
động cơ bên trong dụng cụ chăm sóc răng
miệng này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 348/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016598 Dụng cụ chăm sóc răng miệng
Tác giả: Jimenez Eduardo (US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến dụng cụ chăm sóc
răng miệng quay quanh đường trục dọc. Theo
một khía cạnh, sáng chế đề cập đến dụng cụ
chăm sóc răng miệng bao gồm: đầu bàn chải;
tay cầm kéo dài dọc theo đường trục dọc và
có bề mặt đế phẳng; cơ cấu rung cơ học nối
vận hành được với nguồn điện, cơ cấu rung
cơ học bao gồm phần lệch tâm sẽ truyền
chuyển động vào đầu bàn chải khi được kích
hoạt; và trong đó bề mặt đế phẳng được định
hướng tương đối so với đường trục dọc của
tay cầm sao cho dụng cụ chăm sóc răng
miệng có thể đứng theo hướng thẳng đứng tự
đỡ trên bề mặt phẳng nằm ngang, và trong đó
khi dụng cụ chăm sóc răng miệng đứng theo
hướng thẳng đứng tự đỡ và cơ cấu rung cơ
học được kích hoạt, dụng cụ chăm sóc răng
miệng quay quanh đường trục dọc đồng thời
duy trì hướng thẳng đứng tự đỡ.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 348/2017
Trở về đầu trang
**************
25
1-0016439 Mỹ phẩm dạng nhũ tương nước trong dầu
Tác giả: Sasaki Kazutaka (JP),
OmuraTakayuki (JP), Kitajima Masaki (JP) .
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến mỹ phẩm dạng nhũ
tương nước trong dầu, mỹ phẩm dạng nhũ
tương nước trong dầu này có tính ổn định nhũ
hóa cao trong trường hợp thành phần dầu
hydrocacbon dễ bay hơi được bổ sung vào, có
đặc tính tốt như không để lại cảm giác nhờn
dính khi sử dụng và phù hợp với da. Cụ thể,
sáng chế đề xuất mỹ phẩm dạng nhũ tương
nước trong đầu chứa:
(A) thành phần dầu với lượng nằm trong
khoảng từ 20 đến 30% khối lượng;
(B) este của axit béo có trị số HLB nằm
trong khoảng từ 5 đến 10;
(C) chất hoạt động bề mặt không phân ly
có trị số HLB nằm trong khoảng từ 1 đến 4;
(D) khoáng chất đất sét biến đổi hữu cơ;
và
(E) nước, trong đó dầu hydrocacbon dễ
bay hơi chiếm ít nhất 10% khối lượng của
thành phần dầu
(A) và không chứa dầu silicon.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
347/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016588 Dạng thuỷ tinh rắn của hợp chất metyl 2-xyano-3,12-đioxoleana-1,9(11)-đien-28-oat (CDDO metyl este) và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Walling John (US), Parent
Stephan D. (US), Jonaitis David T. (US), Kral
Robert M. (US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến hợp chất
triterpenoid, metyl 2-xyano-3,12-đioxoleana-
1,9(11)-đien-28-oat (CDDO metyl este), có
dạng thủy tinh rắn, không kết tinh và dạng
tinh thể không ngậm nước, các dạng này có
thể được điều chế, ví dụ, từ dung dịch
metanol bão hòa. Dạng thủy tinh thể hiện độ
sinh khả dụng được tăng cường so với dạng
tinh thể không ngậm nước. Mỗi dạng của
CDDO metyl este là ứng viên tốt để sử dụng,
thông thường ở dạng liều rắn, để điều trị
nhiều tình trạng bệnh khác nhau, các tình
trạng bệnh này thường có liên quan đến
chứng viêm.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 348/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016590 Hợp chất vòng xoắn làm chất ức chế 11-beta hydroxyl steroit dehydrogenaza typ 1 và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Yao Wenqing (US), Zhuo
Jincong (US), Zhang Colin (CN). Quốc gia: Mỹ
26
Sáng chế đề cập đến hợp chất vòng xoắn
là chất ức chế 11-β hydroxyl steroit
dehydrogenaza typ 1 (11βHSD1), và dược
phẩm chứa hợp chất này. Hợp chất này là hữu
dụng để điều trị bệnh đái tháo đường, bệnh
béo phì và các bệnh khác.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 348/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016600 Hợp chất pyrimidin được liên kết oxy, quy trình điều chế và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Blanchard Stephanie (FR), Lee
Cheng Hsia, Angeline (SG), Nagaraj Harish,
Kumar Mysore (IN),…
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến hợp chất pyrimidin,
hợp chất này là hữu hiệu để làm chất chống
tăng sinh. Cụ thể hơn, sáng chế đề cập đến
hợp chất pyrimidin được liên kết và được thế
oxy, phương pháp điều chế các hợp chất này
và dược phẩm chứa các hợp chất này. Các
hợp chất này có thể dùng làm thuốc để điều
trị một số rối loạn tăng sinh bao gồm khối u
và bệnh ung thư cũng như các rối loạn hoặc
tình trạng khác có liên quan đến kinaza.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 348/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016621 Hợp chất pyrazolopyrimidinthion, muối và solvat của hợp chất này và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: ) Li Shuxin (CN), Ren Jianping
(CN), Zhao Yanjin (CN), LV Qiujun (CN),
Guo Jinhua (CN).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến hợp chất
pyrazolopyrimidinthion, muối và solvat của
hợp chất này và dược phẩm chứa hợp chất
này. Hợp chất pyrazolopyrimidinthion theo
sáng chế có công thức I, trong đó R1, R2, R3,
và R4 là alkyl, alkenyl, hoặc aryl; R5 là hydro,
alkyl, alkenyl, alkoxy, xycloalkyloxy, aryl,
hoặc alkylaxyl; và R6 là hydro, alkyl, alkenyl,
xycloalkyloxy, hoặc alkylaxyl. Dược phẩm
chứa hợp chất theo sáng chế được dùng để
điều trị bệnh liệt dương và chứng lãnh dục
nữ. Dược phẩm này có các ưu điểm là có tính
chọn lọc PDE V cao, thời gian tác dụng kéo
dài, có ít phản ứng phụ và dược phẩm này
không có phản ứng phụ như làm giảm huyết
áp và làm tăng nhịp tim và có triển vọng lớn
trên thị trường.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 348/2017
Trở về đầu trang
**************
27
1-0016398 Kháng thể gắn kết với STEAP-1 và thể tiếp hợp miễn dịch chứa kháng thể này dùng để điều trị bệnh ung thư
Tác giả: Dennis Mark, S. (US),
Rubinfeld Bonnee (US), Polakis Paul (US),
Jakobovits Aya (US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến kháng thể kháng
STEAP-l và thể liên hợp miễn dịch chứa
kháng thể này dùng để điều trị bệnh ung thư.
Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến
polynucleotit mã hóa kháng thể, vector chứa
polynucleotit, tế bào chủ chứa vector, phương
pháp phát hiện sự có mặt của STEAP-1 trong
mẫu sinh học và dược phẩm chứa thể liên hợp
này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 347/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016401 Hợp chất triazolopyridin, phương pháp điều chế chúng, dược phẩm chứa chúng, dược phẩm phối hợp chứa chúng và các hợp chất trung gian
sử dụng để điều chế chúng
Tác giả: Schulze Volker (DE),
Kosemund Dirk (DE), Wengner Antje
Margret (DE),…
Quốc gia: Đức
Sáng chế đề cập đến hợp chất
triazolopyriđin có công thức chung (I):
trong đó, R1, R
2, R
3, R
4, và R
5 là như
được nêu trong phần mô tả và trong các điểm
yêu cầu bảo hộ, phương pháp điều chế hợp
chất này, các hợp chất trung gian hữu ích để
điều chế hợp chất này, dược phẩm và dược
phẩm phối hợp chứa hợp chất này. Hợp chất
này hữu hiệu dùng để bào chế dược phẩm để
điều trị hoặc phòng ngừa bệnh.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 347/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016403 Hợp chất morpholin và thiomorpholin được thế và dược phẩm chứa chúng
Tác giả: Wenzel Tornoe Christian (DK),
Rottlander Mario (DE), Khanzhin Nikolay
(RU),…
Quốc gia: Đan Mạch
Sáng chế đề cập đến hợp chất morpholin
và thiomorpholin có công thức chung I hoặc
muối dược dụng của chúng và dược phẩm
chứa chúng.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 347/2017
Trở về đầu trang
**************
28
1-0016405 Hợp chất chống khối u, quy trình điều chế hợp chất này và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Rodriguez Vicente, Alberto
(ES), Garranzo Garcia-Ibarrola, Maria (ES),
Murcia Perez, Carmen (ES),…
Quốc gia: Tây Ban Nha
Sáng chế đề cập đến hợp chất có tác
dụng điều trị bệnh ung thư có công thức
chung (I):
trong đó A, Y, W, R1, R2, R3, R4, R5, và
R6 là như được xác định trong bản mô tả.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 347/2017
Trở về đầu trang
***************
1-0016482 Hợp chất oxindol được thế và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Braje Wilfried (DE), Netz
Astrid (DE), Oost Thorsten (DE),..
Quốc gia: Đức
Sáng chế đề cập đến hợp chất oxindol
được thế có công thức (I), trong đó các ký
hiệu là như được xác định trong bản mô tả, và
dược phẩm chứa hợp chất này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 347/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016481 Sản phẩm protein lên men và phương pháp sản xuất sản phẩm protein lên men
Tác giả: HANSEN Ole Kaae (DK).
Quốc gia: Đan Mạch
Sáng chế đề cập đến các sản phẩm
protein có giá trị dinh dưỡng được cải thiện,
và các tính chất cảm quan được tăng cường
và việc sử dụng chúng. Cụ thể, sáng chế đề
cập đến các sản phẩm lên men giàu protein
được chế biến từ các loại đậu lên men và nấm
men, trong đó quá trình lên men được tiến
hành sau bước gia nhiệt. Ngoài ra, sáng chế
còn đề cập đến phương pháp sản xuất sản
phẩm protein lên men này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
347/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016408 Chủng Corynebacterium sp. có năng suất sản xuất L-lysin cải thiện và phương pháp sản xuất L-lysin bằng cách sử dụng chủng này
Tác giả: Rah So Yeon (KR), Lim Sang
Jo (KR).
Quốc gia: Hàn Quốc
Sáng chế đề cập đến chủng
Corynebacterium sp. có năng suất sản xuất L-
lysin cải thiện, trong đó chủng này có hoạt
tính của glyxeralđehyt-3-phosphat
đehyđrogenaza phụ thuộc NADP và phương
pháp sản xuất L-lysin bằng cách sử dụng
chủng này. Nhờ dùng chủng
Corynebacterium sp. theo sáng chế và
phương pháp sản xuất L-lysin bằng cách sử
29
dụng chủng này, có thể thu được L-lysin với
hiệu suất cao.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
347/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016429 Bao bì đựng thức ăn trẻ em dạng bột và phương pháp
sản xuất bao bì này
Tác giả: Rita Karen Crawford (GB),
Nicolaas Luttik (NL).
Quốc gia: Hà Lan
Sáng chế đề cập đến bao bì và phương
pháp sản xuất bao bì để đựng thức ăn trẻ em
dạng bột. Bao bì đựng thức ăn trẻ em dạng
bột bao gồm phần hộp, được làm từ tấm giấy
(bìa), lá kim loại và vật liệu chất dẻo. Bột
được nạp vào hộp này và mối gắn là màng
chất dẻo mà cố định vào thành hộp nhờ gắn
nhiệt được dán lên đỉnh của mức bột. Một khe
hở nằm giữa màng và nắp trên hộp (ở trạng
thái đóng). Thìa được lắp trong khe này. Sau
lần sử dụng đầu tiên, thìa được giữ vào trong
nắp. Nắp được trang bị phần nổi để chứa thìa.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
347/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016558 Chế phẩm thích hợp để sử dụng trong công trình xây dựng và quy trình sản xuất chế phẩm này
Tác giả: Pradeep Vasant Joshi (IN),
Shilpa Pradeep Joshi (IN).
Quốc gia: Ấn Độ
Sáng chế đề cập đến chế phẩm thích hợp
để sử dụng trong công trình xây dựng, trong
đó chế phẩm này chứa nước, chất làm đặc,
chất làm ổn định độ pH, chất bảo quản, chất
kết tụ, chất gắn kết tiền polyme hóa dạng
anion, tro đáy, hỗn hợp hạt silic oxit, đá dăm,
chất gia trọng và chất độn. Chế phẩm theo
sáng chế thân thiện với môi trường, không
chứa xi măng Poóc-lăng, ở dạng hỗn hợp ướt
sử dụng được ngay với thời gian sống và thời
hạn sử dụng kéo dài. Chế phẩm được tạo ra
theo sáng chế dùng làm vữa xây, vữa trát/vữa
láng, vữa sửa chữa, vữa lỏng và vật liệu trám
vết nứt.
Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến quy
trình sản xuất chế phẩm nêu trên.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
348/2017
Trở về đầu trang
**************
30
1-0016560 Nắp đậy cho bình chứa
Tác giả: Sharpe Andrew (GB).
Quốc gia: Hà Lan
Sáng chế đề cập đến nắp đậy cho bình
chứa một chế phẩm dạng lỏng, nắp đậy này
gồm phần nắp (1) và đế (2) được nối với nhau
bằng một khớp nối, phần nắp có một gờ tiếp
xúc với đế mà nối với đế và miếng đệm bằng
nhựa đàn hồi mà tách biệt khỏi gờ tiếp xúc
với đế.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
348/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016617 Chế phẩm nhựa để đúc xốp liên kết ngang, vật đúc xốp liên kết ngang và phương pháp sản xuất vật đúc xốp liên kết ngang
Tác giả: Yamada Katsuhiro (JP), Nozue
Yoshinobu (JP)
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến chế phẩm nhựa để
đúc xốp liên kết ngang chứa: hợp phần
polyme, hợp phần này chứa thành phần (A)
dưới đây với lượng 100 phần trọng lượng và
thành phần (B) dưới đây với lượng nằm trong
khoảng từ 0,5 đến 20 phần trọng lượng; chất
tạo xốp; và chất tạo liên kết ngang, trong đó
thành phần (A) là polyme nền etylen thoả
mãn các điều kiện (a1) đến (a2) sau đây:
(a1) tỷ trọng nằm trong khoảng từ 860
đến 935kg/m3, và
(a2) tốc độ dòng nóng chảy (MFR) nằm
trong khoảng từ 0,1 đến 10g/10 phút.
thành phần (B) là copolyme etylen-α-
olefin thoả mãn các điều kiện (b1) đến (b3)
sau đây:
(b1) tỷ trọng nằm trong khoảng từ 890
đến 925kg/m3,
(b2) độ nhớt thực [η] được xác định
trong dung dịch tetralin nằm trong khoảng từ
4 đến 15 dL/g, và
(b3) năng lượng hoạt hoá của dòng (Ea)
nhỏ hơn 50kJ/mol.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 348/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016406 Quy trình lọc nước trong bể và thiết bị hút
Tác giả: Fischmann Torres, Fernando,
Benjamin (CL).
Quốc gia: Hà Lan
Sáng chế đề cập đến quy trình lọc nước
trong bể, trong đó việc lọc được thực hiện đối
với một thể tích nước nhỏ và không phải đối
với toàn bộ nước trong bể, quy trình này bao
gồm các bước sau: (a) phát ra sóng siêu âm
trong bể; (b) bổ sung chất keo tụ vào nước;
(c) xử lý đáy bể bằng thiết bị hút mà hút dòng
nước có các hạt keo tụ; d) xả dòng ra của thiết
bị hút đến ống gom dòng ra; (e) lọc dòng ra
của thiết bị hút ra khỏi ống gom dòng ra; và
(f) đưa dòng đã được lọc trở lại bể.
Sáng chế còn đề cập đến thiết bị hút
được sử dụng trong quy trình lọc này.
31
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 347/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016404 Chi tiết chống rung và chống ồn dùng cho thiết bị in chứa chế phẩm đàn hồi dẻo nhiệt
Tác giả: Hiroaki Nakano (JP), Hideyuki
Okuyama (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến chi tiết chống rung
và chống ồn dùng cho thiết bị in chứa chế
phẩmđàn hồi dẻo nhiệt có tính năng chống
rung và tính năng chống ồn mỹ mãn, và có
độmềm dẻo, độ bền mài mòn và khả năng gia
công ở mức độ cần thiết cho chi tiết (ví
dụ,con lăn) được sử dụng trong thiết bị tạo
hình ảnh (ví dụ, máy in). Chế phẩm đàn hồi
dẻo nhiệt chứa thành phần cao su mà chứa
cao su butyl ở tỷ lệ nằm trong khoảng từ 30
đến80% khối lượng (tính theo thành phần cao
su), và còn chứa nhựa dẻo nhiệt olefin với
lượng nằm trong khoảng từ 15 đến 50 phần
khối lượng (tính toàn bộ) và chất đàn hồi dẻo
nhiệt styren đã hydro hóa với lượng nằm
trong khoảng từ từ 10 đến 100 phần khối
lượng (tính toàn bộ) tính theo 100 phần khối
lượng thành phần cao su, trong đó thành phần
cao su được phân tán mịn bằng cách liên kết
ngang động.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 347/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016410 Bộ nhận dạng thứ hai bằng kỹ thuật điện tử số cho phương tiện giao thông
Tác giả: Chen Weng Onn (SG).
Quốc gia: Singapo
Sáng chế đề cập đến bộ nhận dạng thứ
hai bằng kỹ thuật điện tử số của phương tiện
được sử dụng để ngăn cản các hoạt động tội
phạm và để hiển thị biển số của phương tiện ở
một vị trí rõ ràng hơn và cao hơn so với biển
sổ đăng ký của phương tiện ban đầu, làm cho
người dân dễ chú ý hơn khi phương tiện liên
quan đến quá trình gây án. Hơn nữa, nó cũng
còn được sử dụng để tăng cường sự an toàn
trong vận hành của phương tiện vì nó được
kích hoạt khi phương tiện tăng tốc, giảm tốc,
va chạm hoặc chuyển hướng.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 347/2017
Trở về đầu trang
**************
32
1-0016411 Chế phẩm dầu bôi trơn dùng để bôi trơn động cơ ô tô và phương pháp bôi trơn động cơ
Tác giả: Hiroki Andoh (JP), Nakazato
Morikuni (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến chế phẩm dầu bôi
trơn có hiệu suất sử dụng nhiên liệu cao và có
khả năng chống mài mòn cao và đặc biệt
thích hợp để bôi trơn động cơ xăng bốn kỳ
của xe máy hoặc phương tiện sử dụng động
cơ diezel có thiết bị hậu xử lý khí thải. Chế
phẩm dầu bôi trơn này, là chế phẩm dầu bôi
trơn có cấp độ phân loại độ nhớt theo Hiệp
hội kỹ sư ô tô Hoa Kỳ (Society of
Automobile Engineers - SAE) là 5W20, chứa
dầu nền và lượng cụ thể của các thành phần
chất phụ gia bao gồm chất phân tán không tạo
tro chứa nitơ, chất tẩy rửa chứa kim loại kiềm
thổ, chất chống mài mòn chứa phospho, chất
chống oxy hóa và chất cải thiện chỉ số độ
nhớt, trong đó chỉ số độ nhớt nằm trong
khoảng từ 140 đến 230, độ nhớt tại tốc độ cắt
cao ở nhiệt độ l500C là 2,9 mPa.s hoặc cao
hơn và tổn thất do bay hơi NOACK là 13%
hoặc nhỏ hơn.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 347/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016413 Vải làm mát và phương pháp sản xuất vải này
Tác giả: Araujo, Christopher (US),
Blackford Michael Woody E. (CA)
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến vải làm mát dùng cho
đồ may mặc, vải này bao gồm: vật liệu nền có
đặc tính truyền được làm phù hợp để cho
phép thành phần tự nhiên đi qua vật liệu nền;
và tấm chứa các chi tiết làm mát ghép với mặt
thứ nhất của vật liệu nền, các chi tiết làm mát
là được làm phù hợp để hấp thụ nhiệt khi tiếp
xúc với hơi ẩm, trong đó sự sắp xếp và
khoảng cách của các chi tiết làm mát cho
phép vật liệu nền giữ được một phần hiệu quả
của đặc tính truyền. Ngoài ra sáng chế còn đề
cập đến phương pháp sản xuất vải làm mát
này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp
số 347/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016414 Hợp chất đổi màu theo ánh sáng, chế phẩm và vật dụng
chứa hợp chất này
Tác giả: Chopra Anu (US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến hợp chất có công
thức I:
trong đó phần tử thế R16
, R17
và R17'
độc lập
được chọn từ nhóm hút điện tử có trị số
33
Hammett σp17 nằm trong khoảng từ 0,05 đến
0,85, với điều kiện là một trong các phần tử
thế R16
và R17
là hydro.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
347/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016422 Đế trong của giày
Tác giả: Su-Miao Lin (TW).
Quốc gia: Đài Loan
Sáng chế đề cập tới đế trong của giày
bao gồm lớp đỡ, chi tiết đệm, lớp vải, lớp xốp
và lớp da được bố trí chồng lên nhau theo thứ
tự này. Lớp đỡ được tạo ra có phần giữa,
phần vòng cung và phần gót sao cho tương
ứng với gan bàn chân người sử dụng. Chi tiết
đệm được làm bằng vật liệu đệm thứ nhất để
được kết hợp với phần vòng cung và vật liệu
đệm thứ hai sẽ được gài với phần gót. Nhờ
kết cấu như vậy, phần giữa, phần vòng cung
và phần gót của lớp đỡ của đế trong có thể
hiệu chỉnh và đỡ bàn chân người sử dụng, và
chi tiết đệm có thể tạo ra hiệu quả giảm chấn
và tác dụng đệm. Tóm lại, đế trong của giày
theo sáng chế không những có thể hiệu chỉnh
hình dạng bàn chân người sử dụng mà còn tạo
cảm giác thoải mái khi sử dụng.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
347/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016423 Phương pháp và thiết bị mã hóa và giải mã dữ liệu viđeo
Tác giả: Karczewicz Marta (US), Wang
Xianglin (US), Chien Wei-Jung (CN).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập đến phương pháp và
thiết bị mã hoá và giải mã dữ liệu viđeo. Với
khối dữ liệu viđeo, bộ mã hoá viđeo có thể
báo hiệu cho bộ giải mã viđeo, bằng cách sử
dụng quy trình mã hoá số học nhị phân thích
ứng ngữ cảnh (CABAC - Context Adaptive
Binary Arithmetic Coding), chế độ dự báo nội
cấu trúc đã chọn bằng cách sử dụng từ mã
được ánh xạ sang chỉ số chế độ dự báo nội
cấu trúc sửa đổi. Bộ giải mã viđeo có thể thực
hiện quy trình mã hoá số học nhị phân thích
ứng ngữ cảnh (CABAC) để xác định từ mã
được báo hiệu bởi bộ mã hoá viđeo, xác định
chỉ số chế độ dự báo nội cấu trúc sửa đổi
tương ứng với từ mã này, xác định các chế độ
xác suất cao nhất dựa vào ngữ cảnh, ánh xạ
chỉ số chế độ dự báo nội cấu trúc sửa đổi sang
chỉ số chế độ dự báo nội cấu trúc bằng cách
so sánh chỉ số chế độ dự báo nội cấu trúc sửa
đổi với chỉ số chế độ của các chế độ xác suất
cao nhất, và xác định chế độ dự báo nội cấu
trúc được chọn dùng để mã hoá khối dữ liệu
viđeo dựa vào chỉ số chế độ dự báo nội cấu
trúc.
34
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
347/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016425 Thiết bị in, phương pháp thay đổi bố cục của trang lôgic và phương tiện lưu trữ
Tác giả: Naoto Yamada (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề xuất thiết bị in và phương
pháp thay đổi bố cục của trang lôgic, theo đó
các trang lôgic sẽ được bố trí lên trang vật lý
tuỳ theo thiết đặt điều kiện in nhiều trang. Khi
người dùng kéo trang lôgic nào đó, bố cục
của các trang lôgic sẽ được thay đổi dựa trên
vùng mà trang lôgic này được kéo đến.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
347/2017
Trở về đầu trang
**************
35
1-0016427 Axit nucleic phân lập được mã hoá kháng thể kháng yếu tố D, tế bào chủ, vật truyền chứa axit nucleic này và phương pháp tạo ra
kháng thể kháng yếu tố D
Tác giả: Wu Herren (US), Singh
Sanjaya (US), Fung Sek Chung (US),…
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập tới axit nucleic phân
lập được mã hóa kháng thể kháng yếu tố D
hoặc đoạn gắn kết với yếu tố D của chúng, tế
bào chủ, vật truyền, phương pháp tạo ra
kháng thể kháng yếu tố D hoặc đoạn gắn kết
với yếu tố D của chúng và phương pháp tạo
ra miền thay đổi của kháng thể kháng yếu tố
D này.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
347/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016440 Nhiên liệu rắn
Tác giả: Kiyama Michihiro (JP),
Yamamoto Masayuki (JP)
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề cập đến nhiên liệu rắn sử
dụng gỗ phế liệu, giấy đã qua sử dụng, chất
kết dính, chất định hình và chất làm tăng năng
suất tỏa nhiệt theo cách hài hòa, có năng suất
tỏa nhiệt ổn định, và ngăn chặn sự tạo thành
cacbon dioxit.
Nhiên liệu rắn được tạo thành từ hỗn
hợp bao gồm gỗ vụn có kích thước nằm trong
khoảng từ 1 đến 50mm, giấy vụn có kích
thước nằm trong khoảng từ 1 đến 50mm, chất
kết dính, chất định hình và chất làm tăng năng
suất tỏa nhiệt, trong đó hỗn hợp này bao gỗ
vụn và giấy vụn/mảnh sợi tự nhiên với tổng
lượng nằm trong khoảng từ 15 đến 45 phần
trọng lượng và chất kết dính, chất định hình
và chất làm tăng năng suất tỏa nhiệt với tổng
lượng 55 đến 85 phần trọng lượng, có tỷ lệ
trọng lượng của gỗ vụn với giấy vụn nằm
trong khoảng từ 20:80 đến 80:20, và được ép
khuôn.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
347/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016456 Chế phẩm nhựa epoxy lỏng và chất kết dính chứa chế phẩm này
Tác giả: Taniguchi Masa (JP), Watanabe
Yuichi (JP), Kikuchi Hideki (JP), Matsumura
Yasuo (JP).
Quốc gia: Nhật
Sáng chế đề xuất chế phẩm nhựa epoxy
lỏng chứa ít nhất nhựa epoxy và chất đóng
rắn. Trong chế phẩm nhựa epoxy lỏng này,
lực kết dính (A) sau khi chế phẩm đóng rắn
trong 60 giây ở 1500C và lực kết dính (B) sau
khi đóng rắn chế phẩm trong 1 giờ ở 1500C
thỏa mãn mối tương quan : 0,6B<A. Tốt hơn,
sáng chế cũng đề xuất chất kết dính chứa chế
phẩm nhựa epoxy lỏng, trong đó lực kết dính
(A) sau khi đóng rắn chế phẩm trong 60 giây
ở 1500C và lực kết dính (B) sau khi đóng rắn
chế phẩm trong 1 giờ ở 1500C thỏa mãn mối
tương quan: 0,6B<A.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
347/2017
Trở về đầu trang
**************
36
1-0016464 Máy và phương pháp dán nhãn vật chứa
Tác giả: Minganti Gianni (IT).
Quốc gia: Ý
Sáng chế đề cập đến máy và phương
pháp dán nhãn vật chứa, trong đó máy dán
nhãn vật chứa (100) bao gồm các phương tiện
vận chuyển thứ nhất (2) để đặt ít nhất một vật
chứa (100) kế tiếp nhau tại vị trí dán nhãn,
các phương tiện vận chuyển thứ hai (3) để đặt
nhãn co do nhiệt dạng vòng (200) dưới ít nhất
một vật chứa (100) tại vị trí dán nhãn, các
phương tiện nâng (50, 52) nâng nhãn (200) để
dán nhãn từ phía dưới lên trên vật chứa (100)
tại vị trí dán nhãn, và các phương tiện phân
tán (51, 53) để phủ lên nhãn (200) chất lỏng
nóng; các phương tiện phân tán (51, 53)
không bị cản trở bởi các phương tiện vận
chuyển thứ hai (3) như đứng yên đối với các
nhãn (200) tịnh tiến, khởi động bởi các
phương tiện vận chuyển thứ hai (3), và được
định hình như để thực hiện sự co do nhiệt tại
ít nhất một phần trên nhãn (200) được dán
vào ít nhất một vật chứa (100) tại vị trí dán
nhãn, trong đó phần này được kéo dài qua
toàn bộ phần mở rộng dọc trục của nhãn
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
347/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016466 Kẹp dùng làm dụng cụ kẹp hồ sơ
Tác giả: Shimada Hiroshi (JP), Toda
Naotoshi (JP), Yatabe Tomohiro (JP).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề xuất kẹp dùng làm dụng cụ
kẹp hồ sơ để kẹp các tờ rời có các lỗ kẹp
thẳng hàng ở giữa, bao gồm thanh khoá tương
ứng với bìa trước trong đó hai bìa trước được
tạo ra từ các tấm phẳng một cạnh của mỗi tấm
này nối với và được làm liền với bìa gáy và
được làm liền khối, trong đó bìa gáy bao gồm
các phần khoá hình chìa khoá đứng thẳng trên
mặt trước của nó, phần khoá hình chìa khoá
xuyên qua các lỗ kẹp trên tờ rời, các phần
thanh nối được tạo ra trên thanh khoá ở các vị
trí tương ứng với các vị trí của phần khoá
hình chìa khoá, và các tờ rời được giữ giữa
thanh khoá và bìa trước bởi mỗi phần thanh
nối được khoá với phần khoá hình chìa khoá.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
347/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016470 Hệ thống làm sạch dùng để làm sạch đường ống
Tác giả: Soh Beng Kiat (SG), Ho Yuen
Liung Martinn (SG)
Quốc gia: Singapo
Sáng chế đề xuất hệ thống làm sạch
dùng để làm sạch đường ống được sử dụng để
dẫn chất lỏng qua đó, đường ống được nối
giữa ống dẫn vào và ống dẫn ra, hệ thống làm
37
sạch bao gồm: hốc chứa; vách ngăn có lỗ
được bố trí trong hốc chứa và chia hốc chứa
thành ngăn thứ nhất và ngăn thứ hai, ít nhất
một phần tử làm sạch được bố trí trong ngăn
thứ hai của hốc chứa, trong đó các lỗ của
vách ngăn có lỗ có kích thước cho phép chất
lỏng, mà không có phần tử làm sạch đi qua
vách ngăn có lỗ; ống dẫn cấp chất lỏng được
nối với ngăn thứ nhất của hốc chứa để thiết
lập việc nối thông chất lỏng giữa ống dẫn vào
và ngăn thứ nhất của hốc chứa; ống dẫn cấp
phần tử làm sạch với van định hướng được bố
trí trong đó, ống dẫn cấp phần tử làm sạch
được nối với ngăn thứ hai của hốc chứa để
thiết lập việc nối thông chất lỏng giữa ngăn
thứ hai của hốc chứa và ống dẫn vào, trong đó
ống dẫn cấp chất lỏng và ống dẫn cấp phần tử
làm sạch tạo thành một phần của vòng cấp
chất lỏng để cấp phần tử làm sạch từ ngăn thứ
hai của hốc chứa vào trong đường ống qua
ống dẫn vào; ống dẫn phần tử làm sạch trở về
với van định hướng được bố trí trong đó, ống
dẫn phần tử làm sạch trở về được nối với
ngăn thứ hai của hốc chứa để thiết lập việc
nối thông chất lỏng giữa ống dẫn ra và ngăn
thứ hai của hốc chứa, ống dẫn chất lỏng trở
về được nối với ngăn thứ nhất của hốc chứa
để thiết lập việc nối thông chất lỏng giữa
ngăn thứ nhất của hốc chứa và ống dẫn ra,
trong đó ống dẫn phần tử làm sạch trở về và
ống dẫn chất lỏng trở về tạo thành một phần
của vòng đưa chất lỏng về để đưa trở về phần
tử làm sạch từ đường ống qua ống dẫn ra vào
trong ngăn thứ hai của hốc chứa; và tổ hợp
van có thể hoạt động để mở/đóng vòng cấp
chất lỏng và có thể hoạt động để mở/đóng
vòng đưa chất lỏng về.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
347/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016475 Phương pháp sản xuất ure, thiết bị sản xuất ure và phương pháp làm giảm sự phát thải amoniac trong tháp tạo hạt của thiết bị
sản xuất ure hiện hành
Tác giả: Mennen Johannes Henricus
(NL).
Quốc gia: Hà Lan
Sáng chế đề cập đến phương pháp sản
xuất ure và thiết bị sản xuất ure trong đó sự
phát thải amoniac trong bước cuối tạo ra các
hạt ure được giảm đi. Trong phương pháp
này, việc cô đặc dung dịch ure được thực hiện
trong ít nhất ba bước cô đặc liên tiếp và thời
gian cư trú của ure nóng chảy mà ra khỏi thiết
bị cô đặc cuối đến tháp tạo hạt được giảm đến
mức tối thiểu. Điều này có thể đạt được bằng
cách bố trí thiết bị cô đặc cuối gần kề với cửa
nạp ure nóng chảy của tháp tạo hạt, chẳng
hạn, ở trên tháp tạo hạt. Theo cách này, sự
phát thải amoniac trong tháp tạo hạt có thể
được làm giảm đến 50% so với các thiết bị
sản xuất ure thông thường. Sáng chế còn đề
cập đến phương pháp làm giảm sự phát thải
amoniac trong tháp tạo hạt của thiết bị sản
xuất ure hiện hành.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
347/2017
Trở về đầu trang
**************
38
1-0016476 Hợp chất heteroarylbenzamit chứa nhóm thế haloalkyl và dược phẩm chứa hợp chất này
Tác giả: Rossignol Jean-Francois (US),
Semple J. Edward (US).
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề xuất chất
heteroarylbenzamit chứa nhóm thế haloalkyl
có công thức I dưới đây. Hợp chất theo sáng
chế thể hiện hoạt tính mạnh kháng virut gây
bệnh viêm gan.
Trong đó các biến có ý nghĩa như được
nêu trong phần mô tả.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
347/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016479 Thiết bị cảnh báo xe đang đến gần dùng cho xe chạy điện kiểu ngồi để chân hai bên
Tác giả: Satoru Shimizu (JP), Masahiro
Akiba (JP), Ryuji Akiba (JP), Kazuhiko
Tanaka (JP).
Quốc gia: Nhật
Mục đích của sáng chế là đề xuất thiết
bị cảnh báo xe đang đến gần dùng cho xe
chạy điện kiểu ngồi để chân hai bên được
trang bị bộ phát âm thanh lắp trên thân xe của
xe chạy điện kiểu ngồi để chân hai bên có
động cơ điện trong động cơ phát động, và
phát ra âm thanh cảnh báo cho vùng xung
quanh nhằm thông báo cho vùng xung quanh
về việc xe chạy điện kiểu ngồi để chân hai
bên đang đến gần, sao cho âm thanh phát ra
của bộ phát âm thanh được điều khiển, và bộ
phát âm thanh được bố trí sao cho chiều mà
âm thanh phát ra được hướng chéo xuống
dưới và về phía trước xe chạy điện kiểu ngồi
để chân hai bên.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
347/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016483 Bộ panen, panen hỗn hợp và panen vách
Tác giả: Kralic John Frank (AU), Ryan
Brad Stewart (AU)
Quốc gia: Úc
Sáng chế đề cập đến bộ panen (10). Bộ
panen (10) được tạo ra từ vật liệu dạng tấm.
Bộ panen (10) có các cơ cấu mở rộng theo
chiều dài cố định mà tạo ra một hoặc nhiều
đặc tính cơ bản của bộ panen (10) và ít nhất
một cơ cấu thay đổi được theo chiều dọc. Các
cơ cấu thay đổi được theo chiều dọc được bố
trí để thay đổi từ panen này sang panen khác.
Điều này cho phép sự thay đổi kích thước
chiều rộng của bộ panen (10). Bộ panen theo
sáng chế còn bao gồm ít nhất một chi tiết mép
được định hình để tiếp nhận và/hoặc tạo ra
một phần của chi tiết cố định vách tường.
39
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
347/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016485 Phương pháp và thiết bị để điều khiển cảnh báo cho người sử dụng
Tác giả: Jari Kangas (FI), Mikko NurmI
(FI), Akos Vetek (HU),…
Quốc gia: Mỹ
Sáng chế đề cập tới phương pháp, thiết
bị và vật ghi chương trình máy tính. Phương
pháp này bao gồm các bước: thực hiện phát
hiện thứ nhất của ít nhất một tín hiệu sinh học
từ ít nhất một người sử dụng; điều khiển thiết
bị đầu ra người sử dụng để khởi tạo cảnh báo
cho người sử dụng, sau khi thực hiện phát
hiện thứ nhất của ít nhất một tín hiệu sinh
học; thực hiện phát hiện thứ hai của ít nhất
một tín hiệu sinh học từ ít nhất một người sử
dụng, sau khi khởi tạo cảnh báo cho người sử
dụng; và xử lý phát hiện thứ nhất của ít nhất
một tín hiệu sinh học và phát hiện thứ hai của
ít nhất một tín hiệu sinh học để xác định xem
liệu một hoặc nhiều thay đổi trong ít nhất một
tín hiệu sinh học có vượt qua được sự kiểm
tra cần thiết hay không.
Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số
347/2017
Trở về đầu trang
**************
1-0016501 Vật kê dùng cho ván khuôn cốt thép
Tác giả: Kim Myung Hwan (KR), Park
Woon Yong (KR), Kim Yong Hoe (KR),…
Quốc gia: Hàn Quốc
Sáng chế đề cập đến vật kê dùng cho tấm
sàn cốt thép (A) được bố trí giữa ván khuôn và
giàn cốt thép. Vật kê này bao gồm hai thân vật
kê hình lục giác (10) được làm bằng nhựa tổng
hợp và đầu vật kê (20) được làm bằng thép.
Mỗi thân vật kê (10) được tạo kết cấu có lỗ bắt
bu lông hướng lên trên (11). Đầu vật kê (20)
được tạo kết cấu có mặt đầu (21) được uốn hẹp
vào theo chiều hướng lên trên dọc theo chiều
dài, và có gân tăng cứng (22) được uốn
nghiêng hướng ra ngoài tại phần dưới của mặt
đầu (21). Theo đó, dễ dàng thực hiện các thao
tác với lỗ bắt bu lông (11) của thân vật kê (10),
chẳng hạn lắp hệ thống ống dẫn điện và vật
liệu hoàn thiện trần giữ môi trường xung
quanh luôn gọn gàng và sạch sẽ, hơn nữa, đảm
bảo lực chôn và lực đỡ một cách đầy đủ với lỗ
bắt bu lông này.