bẢn tin thỦy sẢn - tongcucthuysan.gov.vn ban tin thuy san.pdfdo bị hư hỏng. theo ông...
TRANSCRIPT
BẢN TIN THỦY SẢN
(Thứ Sáu, ngày 1 tháng 12 năm 2017)
VẤN ĐỀ TRỌNG TÂM, NỔI CỘM, BỨC XÚC ...................................................................... 2
1. Vụ tàu thép hỏng: Yêu cầu bồi thường 37 tỉ đồng ............................................................... 2
2. Phiên xét xử thuyền trưởng tàu cá Việt Nam ở Indonesia dời sang 5.12 ............................ 3
3. Nghệ An: Diêm dân bất bình vì Xí nghiệp cải tạo ruộng muối để nuôi tôm? ..................... 4
CHÍNH SÁCH - QUẢN LÝ ......................................................................................................... 5
4. Thêm 585 tỉ đồng hỗ trợ thiệt hại do sự cố môi trường biển miền Trung ........................... 5
5. Khẩn trương hỗ trợ người nuôi trồng thủy sản Khánh Hòa bị thiệt hại do bão 12.............. 6
6. Hỗ trợ các hợp tác xã nghề cá bị ảnh hưởng bão số 12 ....................................................... 6
THƢƠNG MẠI ............................................................................................................................. 7
7. Xây dựng thương hiệu hải sản Việt Nam ............................................................................ 7
8. Việt Nam có thể trở thành "đại gia" xuất khẩu cá ngừ ........................................................ 8
9. Siêu thị "kết nối" thủy hải sản an toàn ................................................................................. 9
10. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cá tra sang EU bền vững .................................................... 11
11. Xuất khẩu mực và bạch tuộc sang Trung Quốc tăng trưởng mạnh ................................... 14
12. Nguy cơ thủy sản bị „vạ lây‟ tàu Trung Quốc ................................................................... 14
NUÔI TRỒNG THỦY SẢN ...................................................................................................... 16
13. Đoàn cán bộ chăn nuôi, thủy sản Bangladesh tham quan mô hình chăn nuôi ở Long An 16
14. Hà Nội: Nuôi thuỷ sản an toàn ứng dụng Biofloc, năng suất tăng 20 tấn/ha .................... 17
15. Bình Định: Chủ động bảo vệ thủy sản mùa mưa bão ........................................................ 18
16. Nơi duy nhất ở Việt Nam sở hữu đàn cá song vua bố mẹ ................................................. 19
KHAI THÁC THỦY SẢN ......................................................................................................... 22
17. Ngư dân Nghệ An đánh bắt hải sản đạt gần 3.000 tỷ đồng ............................................... 22
18. Sóc Trăng: Diễn tập tuần tra, giáp sát thủy sản của các nhóm đồng quản lý nghề cá ven
bờ ........................................................................................................................................ 22
19. Bà Rịa - Vũng Tàu: Vì sao ngư dân chưa dứt được nghề lưới kéo? ................................. 23
20. Quảng Ngãi: Hỗ trợ giảm tổn thất sau khai thác - Ngư dân chưa tiếp cận ........................ 24
21. Tổng sản lượng khai thác cá vụ Nam đạt hơn 1,8 triệu tấn ............................................... 25
22. Quảng Ninh tiêu hủy công cụ đánh bắt thủy sản tận diệt .................................................. 27
23. Ngành hàng cá tra cần tái cấu trúc để trở lại thời hoàng kim ............................................ 27
CỨU HỘ - CỨU NẠN ................................................................................................................ 29
24. Nỗ lực cứu tàu cá gặp nạn do ảnh hưởng của gió mùa ...................................................... 29
DỊCH VỤ - HẬU CẦN ............................................................................................................... 31
25. Quảng Bình: Đầu tư gần 2,3 tỷ đồng để nạo vét âu thuyền ............................................... 31
2
MÔI TRƢỜNG ........................................................................................................................... 31
26. Khánh Hòa: 45 hộ dân ký cam kết bảo vệ môi trường trên Vịnh Nha Trang ................... 31
VẤN ĐỀ TRỌNG TÂM, NỔI CỘM, BỨC XÚC
Vụ tàu thép hỏng: Yêu cầu bồi thƣờng 37 tỉ đồng
Ngày 30-11, Sở NN&PTNT tỉnh Bình Định chủ trì cuộc làm việc giữa các ngư dân là chủ của
19 tàu vỏ thép với hai công ty đóng tàu (Công ty Nam Triệu có 14 tàu và số còn lại là của Công
ty Đại Nguyên Dương) để giải quyết việc bồi thường thiệt hại trong thời gian tàu phải nằm bờ
do bị hư hỏng.
Theo ông Nguyễn Công Bình, Chi cục phó Chi cục Thủy sản (Sở NN&PTNT tỉnh Bình Định),
19 chủ tàu đã yêu cầu hai công ty trên phải chi trả bồi thường, hỗ trợ do thiệt hại với tổng số
tiền gần 37 tỉ đồng. Trong đó gồm nhiều khoản như chi phí khắc phục, sửa chữa sau khi nhận
tàu; lỗ tổn phí, thuê thuyền viên do tàu hư hỏng khai thác không hiệu quả, nợ gốc, lãi ngân hàng
cùng nhiều khoản khác… Trong số tiền phải bồi thường trên, riêng Công ty Nam Triệu bị yêu
cầu phải chi trả hơn 33 tỉ đồng, còn lại là Công ty Đại Nguyên Dương.
Ông Nguyễn Văn Mẫn, Quyền Tổng Giám đốc Công ty Nam Triệu, nhận trách nhiệm về những
thiệt hại do tàu mới đóng đã bị hư hỏng. Theo ông Mẫn, đến nay công ty này đã bỏ ra hơn 40 tỉ
đồng để khắc phục, sửa chữa và dự kiến sẽ còn thiệt hại hơn nữa. “Những yêu cầu hỗ trợ thiệt
hại của ngư dân là chính đáng, chúng tôi ghi nhận. Chúng tôi sẽ làm việc với các chủ tàu để
xem xét, bàn bạc, thống nhất việc bồi thường một cách hợp lý. Sau đó chúng tôi sẽ báo cáo với
cơ quan chủ quản là Tổng cục Hậu cần, Bộ Công an để xin ý kiến. Công ty Nam Triệu đã rất cố
gắng, mong bà con ngư dân hiểu cho khó khăn của doanh nghiệp” - ông Mẫn trần tình.
Trong khi đó ông Nguyễn Xuân Nguyên, Giám đốc Công ty Đại Nguyên Dương, thừa nhận
công ty ông có thiếu sót trong quá trình thi công làm thân tàu bị hư hỏng nhưng lại cho rằng
máy, vỏ tàu vẫn đủ điều kiện khai thác. Do đó ông không chấp nhận bồi thường việc tàu nằm
bờ.
Mặt khác, giám đốc Công ty Đại Nguyên Dương cho rằng việc sửa chữa tàu chậm tiến độ cam
kết là do ngư dân yêu cầu kiểm tra chất lượng tôn, công ty chờ các văn bản cho sửa chữa của
các cơ quan chức năng, mưa bão, điều kiện nơi sửa chữa tàu không đáp ứng… “Với những lỗi
hư hỏng thân vỏ của các tàu đó, chúng tôi chỉ sửa chữa trong 15 ngày là xong. Việc sửa chữa
chậm không phải do công ty nên chúng tôi không bồi thường cho ngư dân” - ông Nguyên lớn
tiếng.
Nhiều ngư dân chủ tàu đã phản ứng gay gắt trước ý kiến của giám đốc Công ty Đại Nguyên
Dương. Các chủ tàu cho rằng lãnh đạo công ty cố tình thoái thác trách nhiệm trước thiệt hại quá
lớn của ngư dân. Ông Lê Văn Thãi nói rằng gia đình ông đã quá mệt mỏi với hơn 20 cuộc họp
nhưng hiện nay tàu vỏ thép BĐ 99016 TS của ông vẫn chưa sửa chữa xong. Ông Thãi yêu cầu
bồi thường 2,8 tỉ đồng.
3
Ông Hà Ngọc Tân, Phó Chủ tịch UBND huyện Phù Mỹ, cho biết: “Lãnh đạo Công ty Đại
Nguyên Dương nói không bồi thường cho ngư dân là không thể chấp nhận. Nếu công ty này
không bồi thường, chính quyền sẽ hỗ trợ bà con ngư dân khởi kiện ra tòa”.
Ông Phan Trọng Hổ, Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Bình Định, đề nghị hai công ty trên chậm
nhất đến ngày 15-12 phải có văn bản trả lời chính thức có chi trả bồi thường hay không.
Ông Hổ cho biết thêm Sở NN&PTNT sẽ tham mưu UBND tỉnh có văn bản đề nghị Thủ tướng
có hướng giải quyết hỗ trợ đối với các ngư dân chủ tàu trong việc trả nợ ngân hàng. Trong số 19
tàu bị hư hỏng có 17 chủ tàu nợ quá hạn ngân hàng với tổng số tiền gần 18 tỉ đồng, trong đó nợ
gốc hơn 8 tỉ đồng, còn lại là tiền lãi. (Pháp Luật TP.HCM 1/12, Tấn Lộc) đầu trang
Phiên xét xử thuyền trƣởng tàu cá Việt Nam ở Indonesia dời sang 5.12
Tại các phiên tòa ở Indonesia, do những thuyền trưởng tàu cá của Việt Nam tiếp tục kháng cáo,
tòa án quyết định dời phiên xét xử sang ngày 5.12.
Từ 2-29.11 tại Tòa án Ranai, tỉnh Natuna, Indonesia đã diễn ra các phiên xử khác nhau các
thuyền trưởng tàu cá Việt Nam với cáo buộc vi phạm vùng biển, khai thác cá trái phép. Trong
số này bao gồm thuyền trưởng các tàu cá KG93895, KG95359, KG90946, KG92503 và
KG90793, tất cả đều thuộc tỉnh Kiên Giang - người phát ngôn Lê Thị Thu Hằng cho biết trong
cuộc họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao chiều 30.11.
Theo người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, lần xét xử gần nhất là ngày 28 và 29.11, phiên
xử của thuyền trưởng tàu KG93895 và KG90946.
“Tại các phiên tòa này, do các thuyền trưởng tiếp tục kháng cáo, tòa quyết định dời phiên xét xử
sang ngày 5.12”, bà Lê Thị Thu Hằng cho biết.
Bà Hằng thông tin thêm, theo chỉ đạo của Bộ Ngoại giao, Đại sứ quán Việt Nam tại Indonesia
đã làm việc với các cơ quan chức năng sở tại để đưa 58 ngư dân trên 5 tàu cá nói trên về nước
ngày 13.6.2017.
“Đại sứ quán cũng đã cử đại diện tới các phiên xét xử cũng như tiếp xúc và trao đổi với các cơ
quan chức năng của Indonesia, gửi công hàm tới tòa án tối cao Indonesia, đề nghị trong trường
hợp không có bằng chứng kết tội, phía Indonesia phải sớm thả người và phương tiện. Tòa án tối
cao Indonesia ghi nhận và cho biết sẽ sớm xét xử công minh, đúng quy định của pháp luật”, bà
Lê Thị Thu Hằng nói.
Theo người phát ngôn Lê Thị Thu Hằng, Đại sứ quán Việt Nam tại Indonesia đang tiếp tục theo
dõi sát vụ việc, liên hệ thường xuyên với các cơ quan chức năng sở tại và các luật sư biện hộ để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các ngư dân Việt Nam. (Lao Động 30/11, Hà Liên) đầu
trang
4
Nghệ An: Diêm dân bất bình vì Xí nghiệp cải tạo ruộng muối để nuôi tôm?
Cho rằng Xí nghiệp muối Vĩnh Ngọc đang cải tạo những ruộng muối để nuôi trồng thủy sản,
như vậy sẽ gây ô nhiễm môi trường, cũng như ảnh hưởng đến chất lượng muối của HTX Thắng
Lợi làm bao đời nay, nên người dân đã phản đối mạnh mẽ.
Những ngày qua, nhận được thông tin phản ánh của người dân thôn Nam Tiến, xã An Hòa,
huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An), về việc Xí nghiệp muối Vĩnh Ngọc đang cho máy múc diện tích
đất sản xuất muối tại cánh đồng xóm 12, 13 đồng muối Vĩnh Yên. Cho rằng việc cải tạo những
ruộng muối đang sản xuất để chuyển đổi mô hình sang nuôi trồng thủy sản (NTTS) của XN
muối Vĩnh Ngọc sẽ gây ô nhiễm môi trường nước xung quanh, cũng như ảnh hưởng đến chất
lượng muối của HTX Thắng Lợi, nên người dân đã phản đối mạnh mẽ.
Tìm về cánh đồng muối Vĩnh Yên nơi người dân phản ánh tình trạng trên, cả cánh đồng muối
rộng khoảng 6ha hiện nay đã ngừng sản xuất do chưa đến mùa vụ. Lúc PV có mặt, có 4 chiếc
máy múc đang đào những ruộng muối thành các hồ lớn trên cánh đồng muối này, đó là những
chiếc máy được XN muối Vĩnh Ngọc thuê đến, mà theo người dân cho hay, XN đang đào hồ để
nuôi tôm và cho thuê lại?
Gặp chúng tôi, ông Nguyễn Văn Tuấn – Trưởng phòng tổ chức XN muối Vĩnh Ngọc cho biết:
“Thực tế không phải như người dân phản ánh, trước đây, diện tích đất sản xuất này được xí
nghiệp cho người dân thôn Hồng Phong, Quyết Thắng thuê để sản xuất muối cát, nhưng không
hiệu quả. Hiện nay XN đang tiến hành đào hố để trữ nước, để sản xuất theo mô hình muối nước,
đạt chất lượng cao để xuất khẩu”.
Tuy nhiên khi được hỏi đến vấn đề này, hầu hết người người dân ở đây đều khẳng định rằng,
XN đang đào hố để nuôi trồng thủy sản (NTTS) chứ không phải để trữ nước sản xuất muối.
Người dân cho rằng, XN cần dừng ngay việc đào hố tại đây vì nếu NTTS sẽ ảnh hưởng đến chất
lượng cũng như môi trường của những diêm dân làm muối truyền thống. Và thực tế là tại địa
phương cũng như một số xã lân cận, nhiều diện tích đất sản xuất muối của các hộ gia đình, do
sản xuất kém hiệu quả nên đã chuyển sang mô hình NTTS.
Trao đổi với PV, ông Nguyễn Xuân Quyết – Chủ tịch UBND xã An Hòa cho biết: “Lãnh đạo
địa phương cũng đã nắm thông tin này và đã hai lần làm việc với XN muối Vĩnh Ngọc. Trước
đó, sau khi nhận được thông tin phản ánh của người dân, ủy ban xã đã xuống hiện trường lập
biên bản, và yêu cầu XN muối sử dụng đất đúng mục đích. XN muối đã có bản cam kết với
UNND xã là chuyển đối sang sản xuất muối chất lượng cao”.
“Quan điểm của xã là không đồng tình cho XN muối Vĩnh Ngọc NTTS tại khu vực này. Đồng
thời đề nghị XN có cam kết với địa phương về sản xuất muối nước và có bản quy hoạch cụ thể
tại khu vực này” – Ông Quyết cho biết thêm.
Tuy nhiên, trái ngược với trả lời trước đó của ông Tuấn, tại “Biên bản làm việc” ngày
24/11/2017 giữa UBND xã An Hòa với XN muối Vĩnh Ngọc và HTX Thắng Lợi, Ban cán sự
thôn Nam Tiến, ông Võ Tiến Dũng – PGĐ XN muối Vĩnh Tiến đã nói rằng: “Cánh đồng muối
trước đây là sản xuất muối nước, sau đó chuyển sang mô hình sản xuất muối cát và cho nhân
5
dân thuê sản xuất, nhưng hiệu quả cũng không cao nên XN chuyển đổi hình thức sản xuất tại
khu vực này, đào hồ .. và nuôi tôm quảng canh. Nếu ảnh hưởng đến môi trường sản xuất của
nhân dân và an ninh trật tự thì chúng tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm”.
Phải chăng trong vấn đề này, XN muối Vĩnh Ngọc đang có sự “mập mờ” để thực hiện kế hoạch
của mình, bất chấp phản ánh của dư luận và nhân dân cùng với chính quyền địa phương nơi
đây. Rất mong các cơ quan chức năng vào cuộc kiểm tra, xử lý vụ việc. (Công Lý 1/12, Đức
Chung) đầu trang
CHÍNH SÁCH - QUẢN LÝ
Thêm 585 tỉ đồng hỗ trợ thiệt hại do sự cố môi trƣờng biển miền Trung
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc vừa có ý kiến chỉ đạo hoàn thành hỗ trợ, đền bù thiệt
hại tại 4 tỉnh ven biển miền Trung bị ảnh hưởng bởi sự cố môi trường biển.
Trên cơ sở báo cáo của UBND 4 tỉnh bị thiệt hại do sự cố môi trường biển miền Trung và kiến
nghị của Bộ NNPTNT vê báo cáo số liệu hàng hải sản tồn đọng và các đối tượng tồn đọng khác
theo Thông báo số 506/TB-VPCP, ý kiến thống nhất của lãnh đạo các Bộ: Công Thương,
NNPTNT, Tài chính, TNMT, Y tế và Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn
Xuân Phúc đồng ý hỗ trợ chủ cơ sở có hàng hải sản tồn đọng và các đối tượng tồn đọng khác tại
địa bàn 4 tỉnh bị ảnh hưởng bởi sự cố môi trường biển.
Đối với hàng hải sản tồn đọng, mức hỗ trợ 100% đối với sản phẩm sứa. Đối với hàng hải sản
tồn đọng khác, hỗ trợ 30% giá trị lô hàng. Khối lượng hàng hải sản tồn đọng của 4 tỉnh tối đa là
5.453,8 tấn. Tổng kinh phí tối đa 242,6 tỉ đồng.
Cụ thể: Tỉnh Hà Tĩnh: 2.708,6 tấn, kinh phí hỗ trợ 150,2 tỉ đồng; Quảng Bình: 1.101,1 tấn, kinh
phí hỗ trợ 48,5 tỉ đồng; Quảng Trị: 1.501,0 tấn, kinh phí hỗ trợ 42,7 tỉ đồng; Thừa Thiên Huế:
143,1 tấn, kinh phí hỗ trợ 1,2 tỉ đồng.
Đối với các đối tượng tồn đọng khác, tổng mức kinh phí hỗ trợ tối đa là 341,3 tỉ đồng, trong đó,
hỗ trợ tỉnh Hà Tĩnh: 121,8 tỉ đồng để hỗ trợ 4.244 lao động vùng cửa sông, ven cửa sông, 2.954
chủ và người lao động tại các cơ sở dịch vụ hậu cần nghề cá.
Quảng Bình: 214,4 tỉ đồng để hỗ trợ 15.022 lao động thu mua, sơ chế, chế biến thủy sản; dịch
vụ hậu cần nghề cá, thu mua tạm trữ thủy sản; người lao động thường xuyên thuộc địa bàn các
xã/phường/thị trấn ven cửa sông.
Quảng Trị: 0,32 tỉ đồng để hỗ trợ Trung tâm giống thủy sản bị thiệt hại 3,6 triệu con giống.
Thừa Thiên Huế: 4,73 tỉ đồng (không hỗ trợ đối tượng là chủ và người lao động trong các cửa
hàng ăn uống ở trong các khu nghỉ dưỡng, khách sạn ven biển và bán quán, dịch vụ khách du
lịch ven quốc lộ 1 ở thị trấn Lăng Cô).
Thủ tướng Chính phủ cũng đồng ý phân bổ cho mỗi địa phương 400 tỉ đồng để đầu tư dự án cơ
sở hạ tầng dịch vụ hậu cần nghề cá; giao Chủ tịch UBND 4 tỉnh chủ động đề xuất các dự án đầu
6
tư cơ sở hạ tầng dịch vụ hậu cần nghề cá tại địa phương đảm bảo hiệu quả gửi Bộ NNPTNT để
xem xét, tổng hợp, cân đối trên cơ sở đảm bảo phù hợp với phương án phân bổ kinh phí đã
được phê duyệt và nhu cầu của địa phương, báo cáo Thủ tướng Chính phủ... (Lao Động 30/11,
Khánh Vũ) đầu trang
Khẩn trƣơng hỗ trợ ngƣời nuôi trồng thủy sản Khánh Hòa bị thiệt hại do bão 12
Ngày 30/11, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đến tỉnh Khánh Hòa thăm hỏi đồng bào bị thiệt
hại do thiên tai và làm việc với lãnh đạo tỉnh, chỉ đạo công tác khắc phục hậu quả cơn bão số
12.
Trước cuộc làm việc với lãnh đạo tỉnh Khánh Hòa, Thủ tướng đã đi thị sát một số vùng trọng
điểm nghề nuôi hải sản của ngư dân bị thiệt hại do bão tại huyện Vạn Ninh và một số cơ sở sản
xuất, đơn vị, người dân tại thị xã Ninh Hòa.
Đến thăm các hộ dân bị thiệt hại của bão tại tổ dân phố 5 (thị trấn Vạn Giã, huyện Vạn Ninh),
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh, phải ưu tiên lo cho bà con bị sập nhà, thiệt hại nặng
về kinh tế. Tỉnh cần phải đẩy nhanh hơn nữa công tác khắc phục hậu quả. Bên cạnh đó, cần phải
đảm bảo cho dân có cuộc sống ổn định, nhất là những hộ nghèo bị sập nhà.
Thăm hỏi, động viên người thân của anh Huỳnh Như Cương (28 tuổi, trú thị trấn Vạn Giã),
người bị thiệt mạng trong cơn bão số 12 để lại đứa con nhỏ mới hơn 3 tuổi, Thủ tướng chia sẻ
những mất mát và khó khăn mà gia đình anh Cương cũng như nhiều người dân khác ở địa
phương đang phải gánh chịu. Thủ tướng động viên người dân vừa chịu thiệt hại do thiên tai hãy
cố gắng bằng mọi cách, cùng với sự giúp sức của chính quyền nhanh chóng khắc phục hậu quả,
tái sản xuất ngay.
“Tôi theo dõi thấy ở huyện Vạn Ninh, bà con nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại rất nặng nề, vì vậy
tỉnh Khánh Hòa cần phải gấp rút làm việc với các ngân hàng, ngoài khoanh nợ, giãn nợ thì phải
tạo điều kiện cho bà con vay vốn, tái sản xuất ngay”, Thủ tướng chỉ đạo. (Phụ Nữ Việt Nam
30/11, Ngọc Minh) đầu trang
Hỗ trợ các hợp tác xã nghề cá bị ảnh hƣởng bão số 12
Trong hai ngày 29 và 30-11, tại Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Liên minh Hợp tác xã
(HTX) Việt Nam phối hợp Liên đoàn quốc gia HTX nghề cá Hàn Quốc tổ chức trao số tiền
10.000 USD hỗ trợ cho các HTX nghề cá, ngư dân các tỉnh miền trung bị ảnh hưởng bởi cơn
bão số 12.
Tổ chức HTX nghề cá quốc tế (ICFO) là một tổ chức chuyên ngành của Liên minh HTX quốc
tế được thành lập vào năm 1966 với mục tiêu thúc đẩy sự phát triển của các HTX nghề cá trên
toàn thế giới; khuyến khích thành lập các HTX nghề cá mới; đào tạo và chia sẻ kinh nghiệm
phát triển HTX nghề cá; xúc tiến thương mại; trao đổi thông tin ở cấp toàn cầu... Hiện nay
ICFO có 27 tổ chức thành viên đến từ 23 quốc gia trên thế giới và Liên minh HTX Việt Nam là
thành viên chính thức của ICFO từ năm 1988.
7
Tham dự Đại hội đồng Liên minh HTX quốc tế tổ chức tại Kuala Lumpur, Malaysia từ ngày 12
đến ngày 18-11, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo đã được bầu là Phó Chủ
tịch của Tổ chức HTX Nghề cá quốc tế (ICFO). Trong buổi làm việc với Chủ tịch ICFO, Chủ
tịch Nguyễn Ngọc Bảo đã trao đổi về tình hình phát triển của các HTX nghề cá của Việt Nam,
những khó khăn, vướng mắc mà các HTX và ngư dân hiện nay đang đối mặt; đồng thời đề nghị
ICFO quan tâm hỗ trợ về vật chất và tinh thần đối với các HTX nghề cá tại các tỉnh miền trung
của Việt Nam bị thiệt hại nghiêm trọng do cơn bão số 12 (Damrey) gây ra. Ông Kim Im-
Kweon, Chủ tịch của ICFO (Chủ tịch của Liên đoàn quốc gia HTX nghề cá Hàn Quốc) đã đồng
ý hỗ trợ HTX nghề cá và ngư dân bị thiệt hại tại ba tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên, Ninh Thuận số
tiền 10.000 USD.
Được biết, sau cơn bão số 12, bà con ngư dân và các HTX nghề cá tại các tỉnh miền trung đã
chịu thiệt hại nặng nề. Đơn cử tại Khánh Hoà, có những HTX như HTX thủy sản Vạn Dã thiệt
hại lên tới 700 triệu đồng; cùng một số tổ hợp tác khác trên địa bàn tỉnh bị ảnh hưởng, thiệt hại
ước tính khoảng 500 triệu đồng. Hay tại Phú Yên, cũng có khoảng gần 30 HTX thủy sản bị thiệt
hại ước tính 65,9 tỷ đồng (HTX khai thác thủy sản Tiến Hải bị ảnh hưởng nặng nhất, ước tính
khoảng 4,3 tỷ đồng).
Hiện nay, các HTX đang gặp khó khăn trong việc khắc phục hậu quả. (Nhân Dân 30/11, Hồng
Anh) đầu trang
THƢƠNG MẠI
Xây dựng thƣơng hiệu hải sản Việt Nam
Ngày 30-11, tại TP HCM, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) tổ
chức hội nghị "Nhập khẩu nguyên liệu thủy sản để sản xuất, xuất khẩu - hiện trạng và giải
pháp" trong bối cảnh Việt Nam cần rà soát sửa đổi các quy định phù hợp với xu hướng thế giới.
Theo VASEP, nguyên liệu nhập khẩu để chế biến xuất khẩu hiện chiếm từ 15%-20% để doanh
nghiệp (DN) bảo đảm giữ chân khách hàng và người lao động, tránh tình trạng sản xuất theo
mùa vụ. Đối với hải sản khai thác (cá ngừ, cua ghẹ, cá biển, nhuyễn thể…), sau khi bị Liên
minh châu Âu (EU) rút thẻ vàng, các lô hải sản đều phải có chứng nhận khai thác (C/C) dù là
đánh bắt trong nước hay nhập khẩu. Điều này khiến cho DN khó mua nguyên liệu đáp ứng theo
yêu cầu của EU do một số nước không cấp chứng thư cho lô hàng không xuất khẩu trực tiếp đi
EU.
Theo bà Nguyễn Thị Thu Sắc, Phó Chủ tịch VASEP, việc EU rút "thẻ vàng" là một cơ hội để
ngành hải sản nhìn lại mình. Ngành hải sản khai thác cần quan tâm đến quản lý theo chuỗi từ
nguyên liệu đến người tiêu dùng một cách bài bản, khoa học, bền vững, từng bước xây dựng
thương hiệu hải sản Việt Nam. Mục tiêu trước mắt là đến tháng 4-2018, Việt Nam vẫn giữ được
thẻ vàng, tránh bị thẻ đỏ, từ đó làm tiền đề lấy lại thẻ xanh cũng như Việt Nam và EU thông qua
được Hiệp định Thương mại tự do mà các DN rất mong chờ.
Cùng ngày, hội nghị và triển lãm quốc tế thiết bị và công nghệ nông - lâm - ngư nghiệp 2017
(Growtech 2017) do Bộ Công Thương, Bộ Khoa học Công nghệ và Bộ Nông nghiệp - Phát triển
8
nông thôn chủ trì đã khai mạc tại Hà Nội. Growtech 2017 giới thiệu công nghệ và sản phẩm ở
các lĩnh vực chăn nuôi, chế biến và nuôi trồng thủy sản, bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng
sinh học, ứng dụng khoa học kỹ thuật trong việc cải tạo chất lượng đất, nước…
Điển hình như các sản phẩm về công nghệ trồng trọt đến từ Vương quốc Anh; công nghệ nhà
kính, hệ thống tưới tiêu đến từ Israel; công nghệ, hệ thống chăn nuôi đến từ Czech; công nghệ
xử lý nước và đất nuôi trồng đến từ Indonesia; công nghệ bảo quản sau thu hoạch đến từ Đài
Loan… (Người Lao Động 1/12, Ng.Ánh – Y.Anh) đầu trang
Việt Nam có thể trở thành "đại gia" xuất khẩu cá ngừ
Với những lợi thế sẵn có, Việt Nam có thể trở thành nước lớn đứng thứ nhì thế giới về chế biến,
xuất khẩu cá ngừ, chỉ sau Thái Lan.
Với nguồn lao động trẻ dồi dào, vị trí địa lý đắc địa, gần chợ cá ngừ lớn nhất thế giới Thái
Lan…, nhiều chuyên gia cho rằng Việt Nam có rất nhiều lợi thế để phát triển ngành chế biến,
xuất khẩu cá ngừ. Tuy nhiên, việc thiếu hụt nguồn nguyên liệu tại chỗ đạt chất lượng xuất khẩu
đã ảnh hưởng không nhỏ tới ngành kinh tế này.
Theo Hiệp hội Chế biến xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), 5 năm qua, giá trị nhập khẩu
nguyên liệu thủy sản của Việt Nam đều tăng. Từ năm 2011 nhập khẩu 541,1 triệu USD, đến
năm 2016 nhập khẩu tăng lên hơn 1,1 tỷ USD, tăng gấp 2 lần. Trung bình 80 - 85% lượng nhập
khẩu hàng năm được dùng cho gia công và sản xuất, đóng góp từ 15 - 25% giá trị kim ngạch
xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong 5 năm qua.
Theo VASEP, xu hướng nhập khẩu này sẽ tiếp tục gia tăng để giải quyết hiệu quả các mục tiêu
kinh tế, xã hội và lợi thế cạnh tranh về chế biến, có thể đạt giá trị nhập khẩu khoảng 1,4 tỷ USD
và góp phần tạo ra 8,4 tỷ USD xuất khẩu.
Nguồn nguyên liệu nhập khẩu đóng góp vai trò quan trọng trong tăng tưởng kim ngạch xuất
khẩu của ngành thủy sản. Vì trong nhiều năm qua, nguồn nguyên liệu khai thác trong nước đã
cạn kiệt, diện tích nuôi trồng thâm canh ngày càng thu hẹp do chính sách ưu tiên phát triển đô
thị và khu công nghiệp của nhiều tỉnh, ảnh hướng của thiên tai và dịch bệnh…, làm cho số
lượng và chất lượng nguyên liệu thủy sản đủ tiêu chuẩn để cung cấp cho chế biến xuất khẩu
ngày càng giảm sút.
Một doanh nghiệp xuất khẩu cá ngừ chia sẻ, nhờ nguồn nguyên liệu nhập khẩu hơn 40.000 tấn
mỗi năm, doanh nghiệp này đã mở rộng thêm từ 1 nhà máy lên thành 4 nhà máy chế biến, với
gần 3.000 công nhân. Doanh số trước đây dưới 5 triệu USD thì nay đạt tới hơn 150 triệu USD
và phát triển thêm được nhiều mặt hàng giá trị gia tăng khác.
Ông Nguyễn Hoài Nam – Phó Tổng thư ký VASEP cho biết, nhiều doanh nghiệp chế biến và
xuất khẩu thủy sản phải nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất phục vụ xuất khẩu như là một
phương án tối ưu để giữ khách hàng. Năm 2012, Việt Nam có khoảng 270 doanh nghiệp phải
nhập khẩu nguyên liệu thủy hải sản để chế biến xuất khẩu. Đến nay, con số này đã tăng lên trên
300 doanh nghiệp.
9
Trong số các doanh nghiệp nhập khẩu thủy sản, khoảng hơn 100 đơn vị có nhà máy chế biến mà
nguồn nguyên liệu nhập khẩu đóng vai trò then chốt, chiêm từ 20 – 90% tổng lượng nguyên liệu
cho chế biến xuất khẩu hàng năm.
Thế nhưng, việc quản lý những lô hàng thủy hải sản nhập khẩu vào Việt Nam đang “có vấn đề”,
cũng là một nguyên nhân khiến Việt Nam bị Ủy ban Châu Âu (EC) phạt thẻ vàng vì họ cho
rằng Việt nam không nỗ lực chống đánh bắt bất hợp pháp (IUU).
Ông Nguyễn Xuân Nam – Chủ tịch HĐQT Công ty TNHH Hải Vương (Khánh Hòa), cho biết,
mỗi ngày có nhiều doanh nghiệp nhập khẩu từ 5 – 10 container cá biển từ Hồng Kông, Trung
Quốc về rã đông, rồi bán tại các chợ đầu mối, hệ thống nhà hàng… Phần lớn số cá này lại từ các
tàu vi phạm IUU khiến các nước châu Âu không đồng tình.
Ngoài ra, cũng có tình trạng doanh nghiệp Trung Quốc nhập khẩu vào Việt Nam chỉ để chuyển
tải (tức chỉ ghé sang Việt Nam rồi bốc dỡ hàng hóa lên tàu khác, vận chuyển đến nước khác),
nhận ưu đãi thuế của nhà nước rồi lại xuất khẩu trở về Trung Quốc. Cụ thể, Trung Quốc có
chính sách hoàn thuế giá trị gia tăng 11% cho các sản phẩm thủy hải sản xuất khẩu. Trong khi
đó, sản phẩm nhập về chỉ phải đóng thuế 2%.
“Tính ra, doanh nghiệp Trung Quốc xuất khẩu sang cảng Việt Nam để hưởng 11% thuế VAT
rồi nhập khẩu trở về Trung Quốc, đóng thuế 2% thì vẫn còn lời đến 9%. Mà kinh doanh thủy
hải sản hiện nay để lời 9% là lớn lắm!”, ông Nam phân tích.
Do đó, ông Nam nhấn mạnh cần có chính sách quản lý nguồn thủy hải sản nhập khẩu hợp lý để
không ảnh hưởng đến toàn ngành, để thủy hải sản Việt không bị EC phạt thẻ đỏ. (Dân Việt
30/11, Thuận Hải) đầu trang
Siêu thị "kết nối" thủy hải sản an toàn
Thủy, hải sản vốn là ngành được xem có nhiều rủi ro từ khâu sản xuất cho tới phân phối, tiêu
thụ. Giá cả phập phù, phân phối không ổn định đã khiến ngành thủy, hải sản thiếu hiệu quả.
Hệ thống bán lẻ bằng khả năng, uy tín đã giữ cân bằng, tạo đà cho ngành thủy, hải sản tiến lên.
Những cơn bão liên tiếp đổ bộ vào miền Trung, kéo theo thiệt hại về người về của không thể
nào đo đếm xuể. Với ngư dân miền Trung xưa nay vốn bám biển làm trụ cột đời sống, những
cơn bão vùi dập đã khiến hàng chục, hàng trăm tỉ nuôi trồng thủy, hải sản mất trắng sau một
đêm.
Để vớt vát, nhiều hộ nuôi đành thu hoạch sớm tránh bão, nguồn cung tăng cao khiến giá thủy,
hải sản sụt giảm nghiêm trọng. Điểm sáng lớn nhất là các hệ thống bán lẻ vẫn giữ ổn định giá
bán, làm cán cân điều tiết giá cả cũng như huy động sức mua.
Trước đó, sự cố ô nhiễm môi trường ở miền Trung cũng đã từng khiến thị trường thủy hải sản
một phen chao đảo. Người dân quay lưng, các chợ ế ẩm, hệ thống bán lẻ bằng uy tín, cam kết đã
kéo người mua gần lại với nhà sản xuất.
10
Trong hoàn cảnh ô nhiễm môi trường, các chợ cá ế ẩm, các nhà hàng quán xá hiu hắt thì việc
các siêu thị tiêu thụ sản phẩm của ngư dân miền Trung đã cho thấy vai trò quan trọng của hệ
thống siêu thị đối với ngành thủy sản.
Điển hình là hệ thống siêu thị Co.opmart đã thu mua bao tiêu sản phẩm đánh bắt của ngư dân
miền Trung và các tỉnh lên tới hàng nghìn tấn.
Sở dĩ có được sự tự tin thu mua, tiêu thụ đó là do các siêu thị tạo ra được sự tín nhiệm đối với
người mua thông qua hệ thống kiểm định chất lượng của các cơ quan chức năng, sẵn sàng chế
biến thực phẩm cho người dân dùng thử, đặc biệt nhiều thời điểm bán thủy hải sản không lợi
nhuận, nhằm kích cầu.
Hệ thống siêu thị cũng chứng tỏ là một "cứu cánh" khi xuất khẩu gặp khó khăn hoặc giá cả trên
thị trường thế giới giảm sút nghiêm trọng. Ở thời điểm đó, các siêu thị trở thành kênh phân phối
rất hiệu quả, giúp doanh nghiệp nuôi trồng, chế biến thủy hải sản duy trì đầu ra.
Mỗi năm Việt Nam nuôi trồng, đánh bắt hơn 6 triệu tấn thủy sản, song đa số được tập trung cho
xuất khẩu. Mặc dù, có khoảng 1.300 cơ sở chế biến thủy hải sản của các nhà máy doanh nghiệp
và hộ gia đình, nhưng sản lượng tiêu thụ trong nước chỉ đạt dưới 10% tổng sản lượng chế biến.
Việc tiêu thụ phụ thuộc vào các thương lái và mang tính mùa vụ, không ổn định.
Rõ ràng, vai trò điều tiết thị trường của hệ thống bán lẻ đã thể hiện rõ ràng và đúng đắn. Tuy
nhiên, vẫn còn cần sự kết nối, nắm chặt tay hơn nữa để thúc đẩy ngành thủy, hải sản trong nước
lớn mạnh.
Ngày 12-11, ban quản lý an toàn thực phẩm TP.HCM, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
tỉnh Bình Thuận đã có buổi khảo sát, ký kết phối hợp sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ nông,
thủy sản đảm bảo an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng.
Đây là hoạt động nhằm xây dựng, phát triển các chuỗi cung ứng nông sản, thủy hải sản an toàn
giữa tỉnh Bình Thuận và TP.HCM được kiểm soát chặt chẽ từ khâu sản xuất ban đầu là trồng
trọt, chăn nuôi, thu hái, đánh bắt, khai thác đến cơ sở giết mổ, chế biến và đưa đến tay người
tiêu dùng.
"Việc hợp tác đảm bảo chất lượng hàng hóa tại nguồn hết sức quan trọng, nếu được kết hợp với
đơn vị phân phối uy tín, có hệ thống tiêu thụ rộng khắp thì sẽ tạo được sự cộng hưởng, giúp
chuỗi thực phẩm an toàn được phát huy tối đa hiệu quả", bà Phạm Khánh Phong Lan, trưởng
ban quản lý an toàn thực phẩm TP.HCM cho biết.
Bà Lan cũng nhấn mạnh: "Thị trường 10 triệu dân của TP.HCM chính là thị trường đầy tiềm
năng. Do đó, chúng tôi hết sức khuyến khích những sản phẩm chất lượng sở trường của tỉnh
Bình Thuận như hải sản tham gia vào chuỗi thực phẩm an toàn để cung ứng thực phẩm sạch cho
người dân. Bình Thuận còn có thế mạnh về thanh long và các loại nông sản khác, do đó, sau hải
sản, TP.HCM sẽ tiếp tục khảo sát và hỗ trợ tiêu thụ những sản phẩm chất lượng sở trường này
của tỉnh Bình Thuận", bà Lan cho biết.
11
Theo ông Mai Kiều, giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bình Thuận, tỉnh
đang phấn đấu thực hiện mục tiêu đến 2020 có ít nhất 50% sản lượng nông sản, thủy sản chủ
lực có mức độ rủi ro cao được kiểm soát an toàn thực phẩm.
Đến nay, Bình Thuận đã xây dựng được hai chuỗi thanh long (sản lượng 6.000 tấn/năm), một
chuỗi mủ trôm , ba chuỗi nước mắm , hai chuỗi thủy sản đông lạnh , ba mô hình sản phẩm thủy
sản khô, câp 11 giây xác nhân cho 9 điêm bày bán với 162 sản phâm chuỗi cung ứng thực phẩm
an toàn.
Đặc biệt, Bình Thuận đang hỗ trợ bốn doanh nghiệp thực hiện dán tem điện tử để truy xuất
nguồn gốc cho các sản phẩm: thủy sản khô, thủy sản khô ăn liền, mủ trôm, rau an toàn.
Ngoài ra, tỉnh đã thực hiện hỗ trợ kết nối, hoàn thiện chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn cho 10
doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản trên địa bàn tỉnh với sản lượng thủy sản đông lạnh 3.060
tấn/năm, thủy sản khô 629,7 tấn/năm, đồ hộp thủy sản 630 tấn/năm; 6 doanh nghiệp nông sản
với sản lượng thanh long 9470 tấn/năm, hạt điều: 1727 tấn/năm...
Dịp này, Liên hiệp hợp tác xã Thương mại TP.HCM (Saigon Co.op) và công ty TNHH Mười
Tuyền tỉnh Bình Thuận cũng ký kết hợp tác tiêu thụ hải sản an toàn. Theo đó, với sức tiêu thụ
khoảng 100 tấn hải sản mỗi tháng và một số đơn vị cung ứng khác của tỉnh Bình Thuận sẽ góp
phần khẳng định việc phối hợp kiểm soát quản lý chất lượng thực phẩm từ nguồn nhằm bảo
đảm an toàn thực phẩm từ tỉnh Bình Thuận trước khi đưa về TP.HCM tiêu thụ.
Ông Nguyễn Thành Nhân, tổng Giám đốc Saigon Co.op cho biết, việc đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm nếu thực hiện tốt chuỗi cung ứng sản phẩm an toàn không chỉ mang lại lợi ích thiết
thực cho người tiêu dùng mà còn mang lại giá trị thương hiệu cho các đơn vị cung cấp, góp
phần quan trọng trong việc nâng cao năng lực cung ứng. (Tuổi Trẻ 30/11, Quang Đạt) đầu
trang
Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cá tra sang EU bền vững
Mới đây, tại TP Cần Thơ, Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, Hiệp hội cá tra Việt
Nam (VINAPA) phối hợp với Dự án Hỗ trợ chính sách thương mại và đầu tư của Châu Âu
(EU-MUTRAP) tổ chức hội thảo “Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cá tra sang thị trường Châu Âu
(EU) trong xu hướng mới”.
Trong những năm gần đây khi cá tra xuất sang thị trường Trung Quốc và Hồng Kông (TQ-HK)
có mức tăng cao thì thị trường EU lại giảm.
TS Võ Hùng Dũng, Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội Cá tra Việt Nam (VINAPA) phân tích:
Trong 3 thị trường chính của cá tra XK, thị trường Mỹ và EU giữ vững, phát triển sẽ tạo thế cân
bằng với thị trường TQ-HK đang lên. Trong năm 2017, dự đoán ban đầu, diện tích vùng nuôi
không tăng, chỉ tương đương năm 2016 nhưng sản lượng ổn định. Hơn nữa nhờ giá cá tăng, XK
sang TQ-HK tăng và nguồn cung cá nguyên liệu giảm trong các tháng cuối năm…
Dự báo kim ngạch XK cá tra có thể vượt 1,7 đến 1,8 triệu USD. Đó là nhờ vào 3 thị trường
trọng điểm trên. Tuy nhiên, khi thị trường TQ-HK tăng sức mua thì quan sát từ vùng nuôi hiện
12
nay cho thấy các DN có sự tỉnh táo và người nuôi cá bình tĩnh, không có hiện tượng chạy theo
giá bán đang cao để thả cá giống nuôi ào ạt như trước đây.
Theo ông Dũng, từ năm 2011 đến nay cơ cấu thị trường XK có sự dịch chuyển. Mỹ vẫn là thị
trường lớn nhất nhập khẩu cá tra Việt Nam, chiếm tỷ trọng từ 20-23%. Song, dự báo thị trường
này đang tăng mức kiểm tra nghiêm ngặt.
Từ đầu tháng 8/2017 Mỹ bắt đầu kiểm tra 100% lô hàng, tập trung 3 vấn đề kiểm tra gồm: nhãn
mác, các thông số ghi trên bao bì và dư lượng hóa chất. Cục Thanh tra ATTP (an toàn thực
phẩm-FSIS) Bộ Nông nghiệp Mỹ kiểm soát nghiêm ngặt theo từng công đoạn (từ con giống,
thức ăn, dư lượng kháng sinh, chất tồn dư thuốc thú y đến vận chuyển, nhà máy).
Tiếp đó, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) công bố mức thuế cao áp cho cá tra trong đợt rà soát hành
chính thuế chống bán phá giá lần thứ 12 (POR12) và từ đầu tháng 9/2017 đã thực thi đầy đủ quy
định của đạo luật nông trại Mỹ (Farm Bill) xác định điều kiện.
Trong khi đó, cá tra Việt Nam xuất vào TQ-HK có giá trị và cơ cấu kim ngạch XK ngày càng
có xu hướng tăng. Năm 2014 là 6,4%, năm 2015 là 10,3%, năm 2016 là 17,8% và 10 tháng đầu
năm 2017 chiếm tỷ trọng 22,8%. Đến cuối năm 2017 dự báo thị trường nhập khẩu cá tra TQ-
HK sẽ vượt Mỹ lên dẫn đầu.
Thời gian qua các hoạt động xúc tiến thương mại cá tra sang TQ không chỉ dừng lại ở vùng
duyên hải mà còn đi sâu vào nội địa ở các tỉnh Hồ Bắc, Tứ Xuyên. Tuy nhiên đây là thị trường
khó dự đoán, dù là thị trường tiềm năng nhưng đang là điểm nóng thế giới về vệ sinh ATTP. Do
đó kiểm soát hàng hóa qua tiểu ngạch là một vấn đề đang đặt ra. Mặt khác, hiện thời thị trường
TQ cũng đòi hỏi sản phẩm phải đảm bảo chất lượng và sản phẩm cá tra phải đáp ứng theo các
tiêu chuẩn và yêu cầu nhập khẩu của phía TQ.
Giải pháp XK sang EU
Trong vài năm gần đây cá tra XK sang thị trường EU sụt giảm, từ chiếm tỷ trọng 24% 2012
xuống còn 15% 2016. Trong 9 tháng đầu năm 2017 kim ngạch XK cá tra sang EU đạt 154 triệu
USD, chiếm tỷ trọng 11,8%, đứng thứ ba sau TQ-HK và Mỹ. Theo đánh giá chung có thể do
yếu tố khách quan như khủng hoảng kinh tế chung trên thế giới; do năng lực cạnh tranh của DN
chế biến cá tra so với các DN quốc tế đang kinh doanh các loài cá thịt trắng bản địa (cá tuyết, cá
Alaska pollock…), cá biển khác: cá ngừ, cá hồi...
Ông Dũng nhận định: Vai trò của thị trường EU là một thị trường chính cần được giữ vững để
tạo nền tảng phát triển bền vững cho các thị trường khác. Vừa qua chương trình xúc tiến, quảng
bá cho ngành thủy sản Việt Nam đã được Bộ Ngoại giao phối hợp tổng cục thủy sản xây dựng
trình Bộ NN-PTNT. Mục đích chương trình nhằm gởi tới người tiêu dùng các nước EU hình
ảnh về sản phẩm thủy sản Việt Nam (tôm, cá tra) đảm bảo AT, VSTP và thân thiện môi trường
từ ao nuôi đến bàn ăn. Như vậy vấn đề cần tính toán, làm thế nào để phát triển ngành hàng cá
tra bền vững, gắn với thị trường; sản phẩm chất lượng đáp ứng thị trường XK. Do đó cần có
chuyên gia tư vấn chiến lược cho ngành hàng cá tra.
13
Ông Trần Văn Công, Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản: Thị
trường EU vào được, chúng ta sẽ tạo sự cân bằng, giữ thị trường ổn định cho ngành hàng cá tra
trong năm 2018.
Hiện nay việc phát triển thị trường rất quan trọng, Chính phủ, Bộ NN-PTNT thành lập Cục Chế
biến và Phát triển thị trường nông sản trên cơ sở tổ chức lại và thực thi các nhiệm vụ trọng tâm
là phát triển thị trường nông-lâm-thủy sản được đặt lên hàng đầu.
Cùng với mục tiêu giữ vững, phát triển thị trường truyền thống, nhiệm vụ tiếp tục mở mới, tìm
kiếm thêm nhiều thị trường khác. Thông qua hội thảo để tiếp nhận các ý kiến chia sẻ về các giải
pháp thương mại, truyền thông. Cùng với các cơ quan quản lý, doanh nghiệp và nông dân tháo
gỡ khó khăn, giữ được thị phần XK cá tra sang EU.
Ông Vũ Duyên Hải, Phó vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ và Hợp tác quốc tế - Tổng cục
Thủy sản: Đặc điểm thị trường EU, chất lượng đặt lên hàng đầu. Nhiều nhà XNK thủy sản vào
EU nếu sản phẩm thủy sản đạt chất lượng vào thị trường này thì có thể vào tất cả thị trường
khác.
Đối với cá tra cần giữ vững chất lượng, thương hiệu uy tín vào thị trường này. Tuy nhiên hiện
XK cá tra vào EU đang sụt giảm và dự báo sẽ còn sụt giảm trong khi xu thế khách hàng có thể
chuyển sang nhập khẩu cá tra từ Banladesh, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia… Thế nhưng cá tra
VN thịt trắng, chất lượng ngon hơn.
Hiện nay mức tiêu thụ cá tại EU 35 kg/người. EU có 500 triệu người, trong đó cá rô phi, cá
trắng chiếm 50-70% và có xu thế tăng dần; cá tra khoảng trên 30%. Trước thách thức về chất
lượng và thông tin chưa đúng về cá tra cần có thông tin trung thực nhất đến người tiêu dùng;
giữ vững chất lượng, tăng chất lượng, tăng giá trị cá tra.
Ông Jean Charles Diener, Giám đốc OFCO, chuyên gia tư vấn chiến lược: Với kinh nghiệm 17
năm chuyên về kiểm định và chất lượng thủy sản, tôi cho rằng cá tra có tầm quan trọng, là
nhóm cá lớn thứ 3 trên thế giới chỉ sau cá chép và cá rô phi. Cá tra chiếm 50% cá da trơn. Đây
là loài cá tuyệt vời và là mặt hàng tuyệt vời.
Hiện có nhiều người hiểu lầm về cá tra trên thế giới. Chúng ta cần có chiến lược quảng bá,
truyền thông làm cho người tiêu dung thế giới biết rõ. Chúng ta cần phải cải thiện chiến lược
bán hàng, tùy mỗi quốc gia có thị trường khác nhau. Phát triển cá tra đến cách kênh phân phối
vào siêu thị, nhà hàng.
Sản phẩm cá tra thị trắng phi lê đông lạnh vào nhà hàng bán thành công. Song, chuỗi cửa hàng
thức ăn nhanh cá tra chưa thành công. Hiện cá tra đang bán như một loại hàng hóa giá rẻ. Vì
vậy cần có kế hoạch truyền thông lâu dài, cần xem lại vì sao con tôm Việt Nam thành công?
Sản phẩm cá tra có thể nhắm đưa vào suất ăn công nghiệp vào trường học, công ty, bệnh viện
hay có thể bán cá tra hàng tuần cho những người không chán ăn loại thực phẩm này. Mỗi thị
trường có kênh phân phối khác nhau và cần có chiến lược riêng để thâm nhập. Cần có bước
chuẩn bị, quảng bá thương hiệu để thành công, để lấy lại thị trường đã mất… (Nông Nghiệp
Việt Nam 30/11, Hữu Đức) đầu trang
14
Xuất khẩu mực và bạch tuộc sang Trung Quốc tăng trƣởng mạnh
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), tính đến hết tháng 10, xuất
khẩu (XK) mực và bạch tuộc sang Trung Quốc đã tăng 168%. Trung Quốc hiện là thị trường
tiêu thụ mực, bạch tuộc lớn thứ 5 của Việt Nam, chiếm 6,8% tổng giá trị XK mặt hàng này tới
tháng 10 năm nay.
Trái với xu hướng giảm những năm gần đây (2012-2016), bước sang năm 2017, XK mực, bạch
tuộc của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc liên tục tăng trưởng. Tính tới tháng 10/2017,
Việt Nam đã XK sang thị trường này 35,5 triệu USD mực, bạch tuộc, tăng 168% so với cùng kỳ
năm 2016. Đây là thị trường có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong top các thị trường nhập
khẩu (NK) mực, bạch tuộc của Việt Nam trong thời gian này.
Từ tháng 5 đến tháng 9/2017, XK mực, bạch tuộc Việt Nam sang Trung Quốc liên tục đạt mức
tăng trưởng 3 con số. Riêng trong tháng 8/2017, XK sang thị trường này tăng trưởng 400% so
với tháng 8/2016. Đây là tín hiệu tốt cho các doanh nghiệp XK mực, bạch tuộc của Việt Nam
sang Trung Quốc trong năm nay.
Việt Nam là nước XK mực, bạch tuộc thứ 20 sang thị trường Trung Quốc và là nước đứng thứ 4
XK mực sống, tươi, ướp lạnh sang thị trường này, sau Triều Tiên, Nhật Bản và Indonesia.
Trong 4 nước XK mực sống, tươi, ướp lạnh sang Trung Quốc, chỉ có Việt Nam và Indonesia có
thuế suất là 0%, 2 nước còn lại có thuế suất lên tới 6%. Đây được coi là thế mạnh. Việt Nam
cũng là nước đứng thứ 3 XK bạch tuộc đông lạnh sang Trung Quốc.
Trung Quốc có nhu cầu NK lớn sản phẩm mực và bạch tuộc để tiêu dùng trong nước và tái xuất.
Bên cạnh đó, nước này NK chủ yếu dạng nguyên liệu thô, giá trị không cao và đa số người dân
Trung Quốc có thu nhập trung bình lại chỉ cần hàng ở mức bình dân, không khắt khe về chất
lượng. Do vậy mà mặt hàng mực đông lạnh được NK nhiều vào thị trường này.
Theo đánh giá của VASEP, ngoài thị trường Trung Quốc, mực và bạch tuộc cũng là nhóm
ngành hàng có tăng trưởng XK tương đối mạnh, duy trì ở mức trên 55% trong những tháng đầu
năm, góp phần tích cực trong việc giữ đà tăng trưởng kim ngạch XK thủy sản nói chung. Trong
bối cảnh tôm, cá tra gặp phải một số vụ kiện thương mại tại các thị trường XK chủ lực thì mức
tăng của XK mực, bạch tuộc, cá ngừ và hải sản đã góp phần bù đắp và giúp kim ngạch XK thủy
sản giữ đà tăng trưởng gần 18% trong những tháng qua. VASEP dự báo, trong những tháng
cuối năm, sản lượng khai thác mực, bạch tuộc trên thế giới vẫn thấp, dẫn tới giá mặt hàng này
tăng. XK mặt hàng này của Việt Nam sẽ vẫn tiếp tục thuận lợi cả về sản lượng và giá. (Công
Thương 30/11, Phương Lan) đầu trang
Nguy cơ thủy sản bị ‘vạ lây’ tàu Trung Quốc
Xuất khẩu thủy sản sang EU gặp khó vì quy định mới được cho là chưa phù hợp với thực tế.
Để tránh bị liên lụy và bị vạ lây, Việt Nam (VN) cần có quy định về chống khai thác bất hợp
pháp (IUU) nhằm quản lý các tàu hàng thủy sản nhập khẩu vào VN để tiêu thụ nội địa. Song
song đó quản lý chặt tàu chuyển tải, bốc dỡ container từ một con tàu thông thường và đưa nó
15
lên một con tàu khác để tiếp tục đưa tới cảng dỡ hàng cuối cùng qua cửa khẩu nước ta để xuất
sang Trung Quốc (TQ).
Đó là kiến nghị của nhiều doanh nghiệp (DN) đưa ra tại hội nghị liên quan đến nguyên liệu thủy
sản do Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản VN (Vasep) tổ chức ngày 30-11.
Ông Nguyễn Xuân Nam, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Hải Vương, phản ánh thời gian qua có
tình trạng nhiều tàu container rất lớn cập cảng Hải Phòng rồi chuyển tải qua biên giới TQ. Theo
đó mỗi ngày có hàng trăm container chủ yếu là hàng của thương nhân TQ qua cửa khẩu này để
được hưởng chính sách ưu đãi hoàn thuế giá trị gia tăng.
Cụ thể, đây là dạng hàng trung chuyển từ một nước nhập khẩu về TQ nhưng thương nhân TQ
không nhập khẩu trực tiếp vào nước này mà nhập qua cửa khẩu của VN. Sau đó mới tiếp tục
đưa về TQ để được hưởng thuế suất thấp.
“Theo Hiệp định Thương mại tự do giữa VN và TQ, hàng hóa nhập khẩu qua cửa khẩu VN vào
nước này chỉ phải đóng mức thuế thấp 1%-2%. Sau đó, chế biến xuất khẩu thì DN TQ sẽ được
hoàn thuế 11%, như vậy tính ra DN của họ kiếm lợi 9%-10% tiền hoàn thuế” - ông Nam giải
thích thêm.
Trước thực trạng này, ông Nam lo ngại nếu VN không có quy định quản lý những con tàu
chuyển tải kiểu như trên thì rất dễ dẫn đến nguy cơ VN bị vạ lây, bị phạt thẻ đỏ, bị cấm xuất
khẩu hải sản. Lý do đã không kiểm soát hoặc để những con tàu vi phạm quy định về chống khai
thác bất hợp pháp cập cảng VN.
Bên cạnh đó, ông Nam đề nghị nếu phát hiện những con tàu nước ngoài vi phạm quy định
chống khai thác bất hợp pháp cập cảng VN thì cần có chế tài, xử phạt. “VN cần thể hiện sự hợp
tác toàn cầu về quy định chống khai thác bất hợp pháp này chứ không chỉ dừng lại ở việc bắt
tàu vi phạm của nước ngoài sau đó trả về là xong. Thậm chí sau đó còn cho phép con tàu nước
ngoài từng vi phạm được phép vào VN” - ông Nam nhấn mạnh.
Một số công ty khác cũng có ý kiến tương tự khi cho rằng hàng thủy sản nhập khẩu vào VN để
tiêu thụ nội địa cũng phải tuân thủ quy định về chống khai thác bất hợp pháp. Có như vậy VN
mới tránh bị liên lụy như bị phạt thẻ vàng, thẻ đỏ ảnh hưởng đến xuất khẩu như thời gian qua.
Phản hồi những ý kiến này, đại diện Tổng cục Thủy sản cho biết sẽ xem xét đề nghị của các DN
về việc đưa ra quy định quản lý tàu chuyển tải qua cửa khẩu VN, đồng thời quản lý các nguồn
nguyên liệu thủy sản nhập khẩu nhằm tránh bị vạ lây.
Cũng tại hội nghị này, nhiều công ty xuất khẩu thủy sản bức xúc về những quy định mới được
đưa ra trong dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư 26/2016 của Bộ NN&PTNT. Các DN
cho rằng quy định tất cả lô hàng nguyên liệu thủy sản nhập khẩu đều phải nộp giấy chứng nhận
đánh bắt (C/C) như dự thảo là không cần thiết, gây lãng phí thời gian, chi phí cho cả DN lẫn
Nhà nước.
Nói thêm về vấn đề này, Phó Tổng Thư ký Vasep Nguyễn Hoài Nam nêu thực tế nhiều công ty
chế biến và xuất khẩu thủy sản phải nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất xuất khẩu như là một
16
phương án tối ưu để giữ khách hàng, người lao động. Tuy nhiên, nếu áp dụng quy định như
trong dự thảo rằng DN phải có C/C do cơ quan thẩm quyền của nước có tàu khai thác cấp là
không thể thực hiện được. Bởi phải mất ít nhất một tháng sau khi nhận hàng thì DN mới có C/C
trong tay. Hơn nữa, theo thông lệ quốc tế và Luật Thủy sản 2017 vừa được Quốc hội thông qua
cũng không bắt buộc các DN phải đáp ứng điều kiện này.
Tuy nhiên, đại diện Tổng cục Thủy sản cho biết đối với nguồn nguyên liệu nhập về để chế biến,
xuất khẩu đi EU phải có C/C. Cơ quan thú y sẽ căn cứ vào các số liệu trong C/C đó để cấp giấy.
Riêng đối với những lô hàng tạm nhập tái xuất sẽ xử lý linh hoạt hơn do nguồn hàng xuất nhập
ra vào rất nhanh.
“Đối với những lô hàng dự kiến nhập để chế biến đi EU, DN cần có thông báo với các nhà xuất
khẩu khi họ yêu cầu có C/C. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu của thị trường EU” - đại
diện Tổng cục Thủy sản nhấn mạnh.
Theo Vasep, trong vòng năm năm qua, giá trị nhập khẩu nguyên liệu thủy sản đều tăng. Năm
2011 nhập khẩu hơn 540 triệu USD, đến năm 2016 tăng lên hơn 1,1 tỉ USD, tăng gấp hai lần.
Trung bình 80%-85% lượng nhập khẩu hằng năm được dùng cho gia công và sản xuất, đóng
góp 15%-25% giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản VN trong vòng năm năm qua.
Trong khi đó nguồn nguyên liệu khai thác trong nước đã cạn kiệt, diện tích nuôi trồng thâm
canh ngày càng thu hẹp… khiến số lượng và chất lượng nguyên liệu thủy sản đủ tiêu chuẩn để
cung cấp cho chế biến xuất khẩu ngày càng giảm sút. Đặc biệt, mới đây khi Liên minh châu Âu
(EU) giơ thẻ vàng thì nguồn nguyên liệu thủy sản khai thác trong nước lẫn nhập khẩu phục vụ
chế biến xuất khẩu càng thiếu hụt. (Pháp Luật TP.HCM 1/12, Quang Huy) đầu trang
NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
Đoàn cán bộ chăn nuôi, thủy sản Bangladesh tham quan mô hình chăn nuôi ở Long An
Trong khuôn khổ hợp tác giữa Phân viện Cơ điện Nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch
Việt Nam và Bộ Nông nghiệp nước Cộng hòa Nhân dân Bangladesh. Qua đó, Đoàn cán bộ
nông nghiệp cấp cao của Bangladesh đến Việt Nam tham quan và tìm kiếm cơ hội hợp tác với
các đơn vị trong lĩnh vực nghiên cứu và chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp.
Được sự cho phép của Sở Ngoại vụ tỉnh Long An, vừa qua, Đoàn cán bộ nông nghiệp gồm có 7
thành viên phụ trách lĩnh vực chăn nuôi và thủy sản đã đến Long An tham quan mô hình chăn
nuôi tại hộ nông dân Nguyễn Thành Hiệp, ấp Bình Hòa, xã Tân Lân, huyện Cần Đước.
Đây là hộ chăn nuôi đạt chứng nhận VietGAHP, với quy mô chăn nuôi gồm 15.000 con gà đẻ
trứng thương phẩm và 2.000 vịt đẻ bố mẹ. Tại đây, đoàn đã dành nhiều thời gian trao đổi tìm
hiểu về phương thức chăn nuôi, cách thức quản lý dịch bệnh để đàn gia cầm khỏe mạnh và sản
xuất tốt, địa chỉ cung cấp con giống tốt, phương thức mua thức ăn của hộ chăn nuôi với đại lý
và công ty cung cấp thức ăn, dịch vụ thú y tại địa phương, giá cả thị trường, cách thức bán sản
phẩm, …
17
Buổi chiều cùng ngày, đoàn đã đến tham quan nhà máy sản xuất thực phẩm Ba Huân tại ấp
Bình Tiền 2, xã Đức Hòa Hạ, huyện Đức Hòa. Tiếp đoàn có ông Châu Canh - Giám đốc và Ông
Phạm Kiên Giang - Phó Giám đốc nhà máy. Đoàn đã được xem clip giới thiệu quy trình giết mổ
và chế biến thực phẩm từ gia cầm của nhà máy.
Đây cũng là cơ hội để các cơ sở chăn nuôi, chế biến sản phẩm chăn nuôi của tỉnh giới thiệu, mở
rộng hợp tác đầu tư, tìm kiếm thị trường đầu ra góp phần thúc đẩy chăn nuôi của tỉnh phát triển
bền vững trong thời gian tới. (Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Long An 30/11, Lệ Thủy) đầu
trang
Hà Nội: Nuôi thuỷ sản an toàn ứng dụng Biofloc, năng suất tăng 20 tấn/ha
Toàn TP.Hà Nội hiện có 21.000ha diện tích nuôi trồng thủy sản (NTTS). Theo quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế - xã hội của thành phố đến năm 2020, nhu cầu tiêu thụ thủy sản của Hà
Nội sẽ vào khoảng 250.000 tấn/năm, vì vậy thành phố đang có chủ trương xây dựng các vùng
NTTS tập trung, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất.
Theo thống kê của Sở NNPTNT Hà Nội, hoạt động NTTS đang thu hút sự tham gia của trên
18.000 hộ, 23 hợp tác xã thủy sản và 17 cơ sở sản xuất giống. Một số vùng NTTS lớn là Ba Vì,
Phú Xuyên, Ứng Hòa… Dù sản lượng thủy sản toàn thành phố đạt trên 110.000 tấn/năm, song
mới chỉ đáp ứng được khoảng 40% nhu cầu của người dân Hà Nội.
Được biết, trong thời gian vừa qua, ngành thủy sản Hà Nội phải đối diện với không ít thách
thức, khó khăn, nhất là hạ tầng NTTS thiếu đồng bộ do thiếu sự quy hoạch, quy mô nuôi nhỏ lẻ,
manh mún…
Chia sẻ với phóng viên NTNN, ông Phạm Văn Minh - chủ một trang trại nuôi thủy sản ở huyện
Ứng Hòa cho biết: "Khó khăn nhất với người nuôi hiện nay là nguồn giống thủy sản còn trôi
nổi, khó truy xuất nguồn gốc. Nguồn cá giống chưa đa dạng, chất lượng không ổn định và khó
kiểm soát dịch bệnh. Phần lớn sản phẩm thủy sản tiêu thụ trên địa bàn thành phố ở dạng tươi
sống, cũng có một số cơ sở sơ chế, chế biến nhưng ở quy mô rất nhỏ".
Cùng chung nỗi trăn trở, ông Phạm Văn Hiện - Giám đốc HTX NTTS Giới Hiện (huyện
Thường Tín) cho rằng: "Hiện người nuôi luôn sẵn sàng bỏ công sức, vốn đầu tư ra làm nghề
song, cái khó là hiện nay nguồn giống thiếu ổn định, chưa được truy xuất nguồn gốc đang khiến
chất lượng thủy sản không đồng đều. Cùng với đó là việc thu hoạch thủy sản cũng không tập
trung nên dễ bị thương lái ép giá, ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế".
Theo đánh giá của Trung tâm Khuyến nông Hà Nội, bên cạnh những rào cản trên, ngành thủy
sản Hà Nội còn đối diện với nhiều thách thức khác. Điển hình là hạ tầng tại những vùng NTTS
lớn như Ba Vì, Ứng Hòa, Chương Mỹ, Phú Xuyên… còn thiếu đồng bộ; 18.000 hộ NTTS trên
địa bàn chủ yếu sản xuất theo hình thức nhỏ lẻ, thâm canh và bán thâm canh nên chất lượng sản
phẩm thuỷ sản thu hoạch không ổn định, hiệu quả kinh tế thấp...
Để khắc phục những tồn tại trên, từng bước phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản, bà Vũ Thị
Hương - Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Hà Nội cho rằng: Thời gian tới, Hà Nội cần xây
18
dựng những vùng NTTS tập trung, chú trọng áp dụng công nghệ cao nhằm nâng cao giá trị,
giảm thiểu ảnh hưởng của hóa chất trong phòng trị bệnh, giảm áp lực về môi trường và tiết kiệm
nguồn nước. Phát triển các đơn vị sản xuất giống trên cơ sở áp dụng công nghệ sinh học nhằm
tạo ra các giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt và kháng dịch bệnh.
"Bên cạnh đó cần tích cực ứng dụng quy trình GAP/BMP trong nuôi trồng thủy sản nhằm quản
lý tốt chất lượng nguồn nước, xử lý dịch bệnh. Xây dựng thương hiệu và chỉ dẫn địa lý cho các
vùng NTTS. Đặc biệt, cần tập trung đầu tư phát triển các cơ sở sơ chế, chế biến nhằm bảo đảm
an toàn vệ sinh thực phẩm và nâng cao giá trị thương mại…" - bà Hương nói.
Cũng theo bà Hương, việc ứng dụng công nghệ trong NTTS cũng đã được trung tâm xem là giải
pháp quan trọng cần được chú trọng làm quyết liệt. Thực tế những năm qua, nhiều mô hình
NTTS theo hướng bền vững đã được triển khai trên địa bàn Hà Nội.
Điển hình, trong năm 2017, Trung tâm Khuyến nông Hà Nội đã triển khai thí điểm NTTS theo
hướng an toàn sinh học ứng dụng công nghệ Biofloc, được thực hiện tại 4 vùng sinh thái của
thành phố, cho năng suất trung bình lên tới 20 tấn/ha (cao hơn 2 lần so với cách thức nuôi
truyền thống). Qua đó, giúp tăng giá trị kinh tế trên 30% cho người nuôi.
“Trong đó, có một số mô hình NTTS tiên tiến như: Hệ thống nuôi cá sông trong ao (IPRS), quy
trình nuôi ghép cá rô phi - trắm - chép theo hướng an toàn sinh học, mô hình nuôi cá 3C (giống
sạch - nguồn nước sạch - môi trường nuôi sạch)… đều mang lại giá trị kinh tế cao, đồng thời
giảm nguy cơ mất vệ sinh an toàn thực phẩm và ô nhiễm môi trường" - bà Hương cho hay.
(Dân Việt 30/11, Hải Đăng) đầu trang
Bình Định: Chủ động bảo vệ thủy sản mùa mƣa bão
Những năm qua, lĩnh vực nuôi trồng thủy sản ở tỉnh ta đã đóng góp tích cực vào sự phát triển
kinh tế ở nhiều địa phương. Tuy nhiên, đây cũng là nghề đối diện với nhiều rủi ro, bởi ảnh
hưởng của thời tiết, môi trường, đặc biệt là trong mùa mưa bão. Ðể tránh thiệt hại, cần chủ động
các biện pháp bảo vệ thủy sản.
Theo thống kê của Chi cục Thủy sản tỉnh, tổng diện tích nuôi thủy sản trên địa bàn tỉnh hiện
nay gần 4.176 ha, trong đó nuôi thủy sản nước ngọt gần 1.640 ha, thủy sản nước lợ 2.185 ha,
các loại thủy sản khác 350 ha. Từ đầu năm đến nay, tổng sản lượng khai thác từ nuôi trồng thủy
sản ước đạt 9.970 tấn; trong đó sản lượng tôm 7.100 tấn.
Ông Nguyễn Ngọc Châu nuôi tôm trên diện tích 8,2 ha tại thôn An Quang Đông, xã Cát Khánh
(Phù Cát), cho biết: “Mùa mưa bão, ao nuôi phát sinh nhiều tảo nên cần diệt tảo, tăng cường
bơm nước, vệ sinh ao nuôi thường xuyên. Đặc biệt mùa này thường có không khí lạnh nên tôm
chậm lớn, cần tăng cường sức đề kháng cho tôm để tôm phát triển tốt. Nhờ áp dụng các biện
pháp kỹ thuật nên mỗi năm trừ chi phí, gia đình tôi thu nhập 5 - 6 tỉ đồng”.
Anh Nguyễn Văn Thành, ở thôn Trường Xuân, xã Tam Quan Bắc (Hoài Nhơn), cho biết: “Để
đạt hiệu quả cao, người nuôi cần chủ động đảm bảo các biện pháp chống xói, lở bờ gây thất
thoát tôm nuôi, nếu ao nuôi không ổn định thì không nên thả nuôi trong mùa mưa bão. Gia đình
19
tôi thả nuôi mật độ 80 con tôm/m2 trên diện tích 2.000 m2, sản lượng thu hoạch đạt khá, thu
nhập ổn định. Năm nay bà con nuôi tôm ở đây thu nhập khá, từ 600 - 700 triệu đồng/hộ”.
Là người có trên 10 năm kinh nghiệm nuôi cá lồng trên biển, ông Nguyễn Văn Điện, ở KV 9,
phường Hải Cảng (Quy Nhơn), cho hay: “Hồi trước chưa có kinh nghiệm nuôi cá nên mùa mưa
bão cá hay bị bệnh chết. Giờ bà con đã chủ động phòng tránh dịch bệnh cá nuôi bằng nhiều biện
pháp như: thay lưới, vệ sinh lồng nuôi, củng cố lồng bè…, sản lượng nuôi đạt cao. Gia đình tôi
nuôi các loại cá chẽm, cá mú, cá hồng trên diện tích 400m2. Nhờ áp dụng các biện pháp phòng
chống dịch bệnh và kinh nghiệm nuôi của mình nên trừ chi phí cũng kiếm được 60 - 70 triệu
đồng/năm”.
Bà Nguyễn Thị Ngọc Lan, Phó Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi - Thú y tỉnh, cho biết: “Nhằm
hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do mưa bão gây ra, Sở NN&PTNT tỉnh đã ban hành lịch
thời vụ, khuyến cáo người nuôi cần tuân thủ các biện pháp để bảo vệ vật nuôi, đối với những
vùng có nguy cơ lũ lụt cao thì nên thu hoạch trước tháng 9 để tránh thiệt hại; những vùng nuôi
tôm trên cát hoặc nuôi ao trải bạt có khả năng tránh lụt thì mới được thả nuôi nhưng phải đảm
bảo các biện pháp phòng chống dịch bệnh thủy sản”.
Cũng theo bà Lan, mùa mưa bão, tôm chân trắng hay mắc các bệnh do virus, vi khuẩn như: cụt
râu, mòn chân, lở loét…; cá nuôi lồng bè hay gặp các bệnh: đen mang do nhiễm bùn, nước ngọt
xuống làm chết cá…; tôm hùm nuôi thường bị bệnh đen mang, đỏ thân, sữa… Vì vậy, người
nuôi tôm cần gia cố bờ ao, tăng cường đảo nước, rắc vôi xử lý môi trường tạo vi khuẩn có lợi
trong ao nuôi để tôm phát triển. Với các hộ nuôi cá lồng, tôm hùm, khi phát hiện dịch bệnh cần
chủ động cách ly con giống bị bệnh; tăng cường gia cố, vệ sinh lồng nuôi thông thoáng… để
phòng tránh dịch bệnh. (Báo Bình Định 30/11, Ngọc Nhuận) đầu trang
Nơi duy nhất ở Việt Nam sở hữu đàn cá song vua bố mẹ
Cùng với sự bứt phá mạnh mẽ của ngành thủy sản, nhiều giống hải sản có nguồn gốc từ tự
nhiên đã và đang được nghiên cứu, từng bước chủ động nguồn giống bằng biện pháp sinh sản
nhân tạo cũng như hoàn thiện về quy trình nuôi...
Trong đó, điển hình là loài cá song lai do Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 1 nghiên cứu
chọn tạo.
Nghề nuôi hải sản lồng bè ở các tỉnh Quảng Ninh – Hải Phòng trước đây đa số khởi phát từ
nghề nuôi nhuyễn thể 2 mảnh vỏ như hàu, ngao hoa, tu hài... Tuy nhiên, do những tác động suy
thoái môi trường nước nên nghề nuôi lồng bè nhuyễn thể 2 mảnh vỏ ngày một thu hẹp, hiện chỉ
còn phát triển được ở một số vịnh xa.
Tại Hải Phòng, khoảng 5-7 năm trở lại đây, các lồng bè chủ yếu đã chuyển sang nuôi các loại cá
có giá trị kinh tế cao. Trong đó, cá song vẫn là đối tượng nuôi truyền thống và đã vươn lên là
đối tượng nuôi chủ lực, thường xuyên chiếm từ 50-60% trong cơ cấu nuôi của người dân nhờ
nhiều ưu thế về khả năng sinh trưởng và có giá trị cao.
20
Ở vùng nuôi hải sản lồng bè tập trung ở đảo Cát Bà (Hải Phòng), có rất nhiều giống cá song
đang được chọn nuôi như cá song chấm nâu, cá song hổ, cá song chuột, cá song da báo, cá song
chanh... Nếu như trước đây, cá song chấm nâu, song chuột, song hổ... từng là đối tượng nuôi
chủ yếu thì khoảng 2-3 năm trở lại đây, cá song lai đang ngày càng khẳng định vị thế số một so
với tất cả các đối tượng nuôi khác. Cá song nói chung có nhiều ưu điểm có thể nuôi được mật
độ rất dày (tới 500 con thương phẩm/lồng), dễ tính, không đòi hỏi môi trường nước phải quá
khắt khe. Tuy nhiên, để vừa có chất lượng tốt, lại sinh trưởng nhanh thì chỉ có cá song lai.
Thạc sỹ Nguyễn Đức Tuấn, Phòng Nghiên cứu SX giống và Nuôi cá biển thuộc Trung tâm
Quốc gia giống hải sản miền Bắc (Trung tâm QG GHSMB) cho biết, hiện Trung tâm đã gây
dựng được đàn cá bố mẹ và chủ động được quy trình công nghệ sinh sản nhân tạo cũng như
nuôi đối với rất nhiều loài cá song.
Trong đó, một số giống cá song rất có giá trị như cá song hổ, cá song chấm nâu, đặc biệt là cá
song chuột có giá bán trên thị trường rất cao, có thời điểm lên tới 900.000 – 1.200.000 đ/kg.
Song chuột có chất lượng thịt thơm ngon đặc biệt, lại sở hữu một số axit amin quý mà con
người không thể tổng hợp được nên các thị trường như Hồng Kông, Trung Quốc và một số thị
trường cao cấp tại Hà Nội và TP.HCM hết sức ưa chuộng. Tuy nhiên, song chuột nói riêng cũng
như các loài cá song giống thuần truyền thống như song hổ, song chấm có nhược điểm là sinh
trưởng quá chậm, bình quân chỉ khoảng 700-800 g/năm, trong khi hệ số tiêu tốn thức ăn lại khá
lớn (từ 6-7kg/kg tăng trọng).
Làm thế nào để vừa có được giống cá song chất lượng cao như song chuột, lại có thể nhanh lớn
là bài toán mà các nhà chọn tạo giống hải sản đã đặt ra hàng chục năm về trước. Thạc sỹ
Nguyễn Đức Tuấn cho biết, mặc dù không có đề tài lai tạo giống cá song lai được phê duyệt,
tuy nhiên suốt từ năm 2008 đến nay, các cán bộ kỹ thuật của Trung tâm Quốc gia Giống hải sản
miền Bắc đã âm thầm thực hiện, và đến nay đã thành công ngoài mong đợi. Theo đó, cá song lai
ra đời là sự kết hợp rất bất ngờ giữa con mẹ là loài cá song hổ truyền thống và bố là loài cá song
vua - một loài cá được mệnh danh là “vua của các loài cá song”.
Ngoài tự nhiên, cá song vua đã từng được ghi nhận với trọng lượng lên tới 500-600 kg, ngư dân
Việt Nam cũng đã đánh bắt được những con cá song vua nặng từ 50-60kg tới hàng tạ. Trong
chiến lược nghiên cứu loài cá song khổng lồ này, từ năm 2000 – 2003, Viện Nghiên cứu Nuôi
trồng Thủy sản 1 đã cho NK một số cá thể giống cá song vua từ Đài Loan và chuyển đổi thành
công sang giới tính đực.
Những năm sau đó, một số cá thể cá song vua khác do ngư dân các tỉnh của nước ta đánh bắt
được cũng đã được sưu tập về nuôi dưỡng ở trại giống cá bố mẹ tại vịnh Lan Hạ (thuộc Trung
tâm QG GHSMB, đảo Cát Bà). Đến nay, trại giống ở Cát Bà của Trung tâm QG GHSMB là nơi
duy nhất ở Việt Nam đã sở hữu được đàn cá song vua bố mẹ với tổng số khoảng 100 con, trong
đó có khoảng 20 con cá song vua đực, con lớn nhất ước nặng tới 120kg.
Những con cá song vua đực ở đây to lớn sồ sồ tới hàng tạ, con bé cũng 50-60kg, mỗi con phải
nuôi riêng ở mỗi ô lồng với chế độ chăm sóc đặc biệt.
21
Chúng chỉ tha thẩn trong lồng, tới đúng giờ ăn mới nổi lên. Do được chăm bẵm từ bé nên chúng
rất “sang chảnh”, thức ăn phải là cá nục cỡ lớn 300 – 500 g/con, và phải là cá nục tươi, hễ gặp
thức ăn hơi ươn một chút thôi chúng đã đánh được hơi, ngậm vào rồi nhè ra ngay.
Môi trường nước xung quanh ô lồng cũng phải thật yên tĩnh, người lạ phải hết sức hạn chế ghé
thăm nơi ở của nó để tránh làm kinh động. Cá song vua đực đã từng được thử nghiệm cho lai
tạo với cá song cái thuộc nhiều loài khác nhau, nhưng chỉ có sự kết hợp giữa song vua đực và
song hổ cái mới cho ra thế hệ cá song lai F1 có khả năng thành công cao, đặc tính sinh trưởng
và chất lượng tốt hơn cả.
Về kỹ thuật lai, kỹ sư Phạm Văn Thìn, Trưởng phòng Bảo tồn, lưu giữ giống gốc và nguồn gen
hải sản (Trung tâm QG GHSMB), người đã gắn bó với đàn cá song vua từ gần chục năm nay
cho biết: Thông thường, cá song vua đực có từ 7 năm tuổi trở đi mới có thể lấy tinh để SX cá
song lai F1. Cá song vua đực có kích cỡ lớn hàng tạ, trong khi cá song hổ cái chỉ khoảng 7-8 kg,
lại khác nhau về đặc tính sinh sản nên muốn lai tạo, phải áp dụng biện pháp can thiệp bằng kích
dục tố.
Mùa sinh sản của cá song thường từ tháng 8 đến tháng 10 hàng năm. Đến kỳ sinh sản, những
con cá song vua bố được cáng lên bởi cáng chuyên dụng với 2 người lực lưỡng mới xuể, sau đó
chúng sẽ được vuốt tinh trùng. Mỗi lần vuốt tinh, mỗi con có thể cho ra tới 300-350 ml tinh
trùng. Con cá song mẹ là song vua dù chỉ nặng 7-8kg nhưng cũng có khả năng vuốt được tới
hàng kilogam trứng.
Trứng và tinh trùng sẽ được trộn lẫn với nhau, sau đó đưa ra bể ươm với nhiệt độ phải đảm bảo
từ 28-30 độ C, trong vòng 20-24h sau khi thụ tinh, trứng sẽ nở ra cá bột. Cá bột nuôi thêm
khoảng 2 tháng sẽ trở thành cá song lai giống F1, có thể đưa ra ô lồng để nuôi thương phẩm.
Cá song lai F1 ra đời có sự hội tụ những đặc tính ưu việt của cả bố và mẹ của chúng: Vừa lớn
nhanh, vừa có chất lượng thịt thơm ngon nên giá cũng khá cao. Song lai trung bình nuôi 2 năm
có thể xuất bán với trọng lượng từ 2,5 đến 3 kg/con, giá dao động từ 200-220 nghìn đồng/kg, lại
ít hao hụt và bị bệnh trong quá trình nuôi nên hệ số lợi nhuận có thể lên tới 40%. Với những ưu
thế đó mà chỉ sau 3-4 năm có mặt, cá song lai được mở rộng rất nhanh ở hầu hết các vùng nuôi
hải sản lồng bè khắp các tỉnh phía Bắc, nhất là các tỉnh ven biển như Quảng Ninh, Hải Phòng,
Nam Định, Thái Bình...
Tại vùng nuôi hải sản lồng bè tập trung ở đảo Cát Bà (Hải Phòng), cá song lai chỉ mới bung ra
mạnh nhất trong 2 năm gần đây nhưng hiện đã chiếm cơ cấu tới 40-50% trong tổng đàn nuôi và
ngày càng tăng mạnh.
Hiện nay tại Trung tâm QG GHSMB (xã Xuân Đám, huyện Cát Hải, TP Hải Phòng) đã có cơ sở
vật chất để ươm cá song lai F1 với công suất cung cấp ra thị trường tại chỗ cho các lồng bè tại
đảo Cát Bà, tuy nhiên sản lượng còn rất hạn chế, chỉ khoảng 6-7 vạn con giống/năm. Trước nhu
cầu mở rộng nuôi cá song lai đang rất lớn, người dân đang phải mua giống từ Trung Quốc. Anh
Nguyễn Đức Thạnh, chủ bè nuôi tại vịnh Lan Hạ (đảo Cát Bà) năm nay sở hữu hơn 3.000 con
cá song 2 năm tuổi, chuẩn bị xuất bán vào dịp cuối năm nay cho biết: Nuôi song lai lãi lớn,
nhưng nguồn giống tại chỗ đa phần vẫn phải dựa vào NK từ Trung Quốc do nguồn cung từ
22
Trung tâm giống... còn rất hạn chế. (Nông Nghiệp Việt Nam 30/11, Lê Bền – Quỳnh Trang) đầu
trang
KHAI THÁC THỦY SẢN
Ngƣ dân Nghệ An đánh bắt hải sản đạt gần 3.000 tỷ đồng
Số liệu của Chi cục Thủy sản cho thấy, 11 tháng năm 2017, ngư dân Nghệ An đánh bắt được
hơn 120 nghìn tấn hải sản, dự tính tổng sản lượng hải sản năm 2017 khoảng 130 nghìn tấn.
Trong số những địa phương có sản lượng đánh bắt hải sản cao là xã Quỳnh Lập - Thị xã Hoàng
Mai. Toàn xã có 200 tàu đánh cá, trong đó có 146 tàu công suất 90 CV trở lên, sản lượng khai
thác năm 2017 đạt 32.500 tấn, giá trị thu nhập khoảng 320 tỷ đồng. Bình quân thu nhập lao
động nghề cá đạt 45- 50 triệu đồng/năm, tiêu biểu có những tàu đạt 80 - 100 triệu đồng/lao
động/năm.
Theo số liệu của Chi cục Thủy sản, sản lượng khai thác 11 tháng năm 2017 đạt 120.223 tấn hải
sản các loại, so với kế hoạch năm đạt 100,19%; tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước. Tổng giá
trị ước đạt gần 3.000 tỷ đồng.
Theo dự tính, tổng sản lượng khai thác hải sản toàn tỉnh Nghệ An năm 2017 đạt khoảng 130
nghìn tấn.
Các nghề khai thác đạt hiệu quả cao: nghề vây, câu, chụp, lưới rê và lưới kéo… đặc biệt là nghề
lưới vây đạt hơn 26 nghìn tấn hải sản. Đối tượng khai thác của các nghề này chủ yếu là nhóm cá
nổi, có giá trị kinh tế cao như: cá đốm, cá bạc má, cá hố… Sản lượng bình quân đạt 15 - 20
tấn/chuyến/tàu, bình quân mỗi lao động được 8 - 10 triệu đồng/tháng.
Ngoài ra, 11 tháng qua, sản lượng khai thác thủy sản nước ngọt đạt 4.519 tấn thủy sản các loại,
so với kế hoạch năm đạt 90,38%; so với cùng kỳ năm trước đạt 104,44%. (Báo Nghệ An 30/11,
Xuân Hoàng) đầu trang
Sóc Trăng: Diễn tập tuần tra, giáp sát thủy sản của các nhóm đồng quản lý nghề cá ven bờ
Ngày 29-11, Chi cục Thủy sản Sóc Trăng tổ chức diễn tập tuần tra, giáp sát thủy sản của các
nhóm “Đồng quản lý nghề cá ven bờ”. Đồng chí Dương Tấn Trường - Chi cục trưởng Chi cục
Thủy sản tỉnh chỉ đạo hoạt động giám sát và diễn tập tuần tra; cùng tham gia có đại diện lãnh
đạo các ngành có liên quan.
Giả định tình huống diễn tập, anh A - ngư dân trong Nhóm đồng quản lý 1 phát hiện một chiếc
tàu có công suất lớn đang sử dụng lưới kéo để khai thác thủy sản trong khu vực của nhóm đồng
quản lý. Sau khi phát hiện, anh A báo cáo vi phạm của đối tượng qua đường dây nóng
18001034. Khi nhận được thông tin từ ngư dân, cán bộ trực tổng đài tiếp nhận, ghi vào sổ nhật
ký và báo cáo lãnh đạo Chi cục Thủy sản để xin ý kiến. Lãnh đạo Chi cục Thủy sản chỉ đạo Tổ
trưởng Tổ tuần tra tập hợp lực lượng đưa tàu ra hiện trường.
23
Tàu của đội tuần tra xuất phát từ Đồn Biên phòng An Thạnh 3 (Cù Lao Dung) ra hỗ trợ bảo
đảm an toàn cho các thành viên và hỗ trợ công tác kiểm tra. Khi kiểm tra, phát hiện chiếc tàu vi
phạm đang đánh bắt thủy sản sai tuyến và bỏ chạy. Sau đó, ca nô của đội tuần tra dùng loa tay
yêu cầu tàu vi phạm dừng lại và mời thuyền trưởng mang giấy tờ sang kiểm tra; đồng thời cử
cán bộ sang tàu vi phạm kiểm tra ngư cụ; lập biên bản, thông báo cho thuyền trưởng tàu vi
phạm được biết, xử lý vi phạm theo quy định và báo cáo lãnh đạo Chi cục Thủy sản.
Buổi diễn tập thành công tốt đẹp. Thông qua buổi diễn tập này nhằm nâng cao năng lực giám
sát, phối hợp để bảo vệ nguồn lợi thủy sản của các nhóm “Đồng quản lý nghề cá ven bờ”. Qua
đó, đánh giá hiệu quả việc phối hợp xử lý vi phạm giữa ngư dân với các cơ quan chức năng.
(Báo Sóc Trăng 1/12, K.Thoa) đầu trang
Bà Rịa - Vũng Tàu: Vì sao ngƣ dân chƣa dứt đƣợc nghề lƣới kéo?
Thiếu vốn, thiếu kỹ thuật… là những khó khăn khiến ngư dân chưa thể dứt ra khỏi nghề lưới
kéo. Thực trạng này đã được hầu hết ngư dân phản ánh tại các hội thảo “Chuyển đổi nghề lưới
kéo sang nghề lưới vây đuôi và nghề khai thác thủy sản khác”. Các hội thảo này do Sở NN-
PTNT phối hợp với Phân viện Hải sản phía Nam tổ chức tại huyện Đất Đỏ và TP. Vũng Tàu
trong 2 ngày 28 và 29-11.
Ông Nguyễn Đức Hoàng, Phó Chi cục trưởng, Chi cục Thủy sản tỉnh cho biết: Nghề lưới kéo là
nghề đánh bắt có nhiều nguy cơ tận diệt nguồn thủy sản. Thời gian qua, các ngành chức năng
trong tỉnh đã triển khai nhiều biện pháp để quản lý hoạt động nghề lưới kéo như: cấm hoạt động
khai thác thủy sản trong mùa sinh trưởng của các loài hải sản; cấm đóng mới phát triển tàu cá
làm lưới kéo… Đồng thời, ngành thủy sản tỉnh phối hợp với các đơn vị thành lập các đoàn
thường xuyên kiểm tra, kiểm soát bảo vệ nguồn lợi trên biển. Mới đây, ngày 1-8-2017, UBND
tỉnh cũng đã có văn bản đồng ý chủ trương lập đề án chuyển đổi tàu cá hoạt động nghề lưới kéo
và tàu cá hoạt động ven bờ sang các ngành nghề thích hợp khác trên địa bàn tỉnh. Chuẩn bị cho
đề án này, Sở NN-PTNT đã tổ chức các hội thảo tại huyện Đất Đỏ và TP.Vũng Tàu để ghi nhận
ý kiến của ngư dân.
Tại hội thảo diễn ra ở huyện Đất Đỏ (gồm đại diện ngư dân các huyện lân cận), sau khi nghe
chủ trương của tỉnh, ông Trần Đình Đăng (ngư dân xã Phước Tỉnh, huyện Long Điền) cho biết:
“Đúng là hiện nay nguồn lợi hải sản đã giảm nhiều, việc đánh bắt khó khăn hơn. Chúng tôi
cũng biết, khai thác hải sản bằng nghề lưới kéo là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình
trạng cạn kiệt nguồn lợi như hiện nay. Tuy nhiên, bây giờ muốn chuyển sang nghề khác lại
không biết xoay xở vốn từ đâu”. Theo ông Đăng, hiện gia đình ông có 5 đôi tàu lưới kéo đang
hoạt động, nếu muốn chuyển 5 đôi tàu này sang nghề lưới rê thì cần hơn 30 tỷ đồng. “Đây là
khoản tiền quá lớn. Do đó, chúng tôi mong muốn có chính sách hỗ trợ vốn của Nhà nước trong
việc chuyển đổi”, ông Đăng nói.
Tương tự, ông Hồ Văn Điền (ngư dân tại ấp Phước Thuận, xã Phước Tỉnh, huyện Long Điền)
nói: “Thực tế ngư dân cũng rất muốn chuyển đổi nghề lưới kéo sang các nghề khác vì ngư
trường cạn kiệt thì cũng đồng nghĩa với việc ngư dân khó sống nổi với nghề. Ông Điền cho biết,
nếu như những năm trước mỗi chuyến biển từ 15-20 ngày sau khi trừ chi phí, ông có thể dư từ
200-300 triệu đồng, nhưng nay nhiều chuyến biển, ông kéo dài thời gian lên 25-30 ngày đánh
24
bắt, nhưng khi vào bờ, thu nhập không bù đủ chi phí”. Ông Điền cũng gợi ý, thời gian tới, tỉnh
cần có chính sách khuyến khích việc thành lập nghiệp đoàn nghề cá để hỗ trợ thu mua hải sản
giúp bà con ngư dân. Bởi vì hiện nay, đa phần hải sản đánh bắt được đều thông qua thương lái
nên ngư dân thường xuyên bị ép giá.
Tại hội thảo (ngày 29-11) ở TP. Vũng Tàu, đa số ngư dân cho rằng cần có các chính sách đồng
bộ cho việc chuyển đổi ngành nghề như vốn, lao động, công tác quản lý… Đồng thời, nhiều
ngư dân đề cập sâu hơn đến sự mất cân đối trong cơ cấu lao động nghề cá. Cụ thể, do thời gian
đi biển ngắn, thu nhập cao nên “bạn ghe” thích theo nghề lưới kéo hơn các nghề khác. Ngư dân
Trần Văn Dư (phường 5, TP.Vũng Tàu) cho biết: Để chuyển đổi nghề lưới kéo sang nghề khác
là chuyển đổi tập quán đánh bắt của ngư dân. Vì vậy cần có thời gian để tìm hiểu, làm quen với
nghề mới. Đó là chưa nói, bạn ghe đi lưới rê thì phải biết vá lưới, xông lưới, cột triêng… Tuy
nhiên, hiện nay nguồn lao động này đang rất khan hiếm”.
Theo thống kê của Sở NN-PTNT, hiện toàn tỉnh có khoảng 6.200 tàu thuyền đánh bắt hải sản,
trong đó có hơn 1.761 chiếc hành nghề lưới kéo, chiếm 28,2%. Những năm qua, tàu lưới kéo
đóng góp đến hơn 70% tổng sản lượng thủy hải sản khai thác của toàn tỉnh, với hơn 220 ngàn
tấn/năm. Ông Trần Văn Cường, Giám đốc Sở NN-PTNT cho biết, tỉnh đã có quy hoạch phát
triển nghề khai thác thủy hải sản theo hướng giảm dần những nghề xâm hại đến nguồn lợi và
môi trường sinh thái, phát triển nghề thân thiện với môi trường như lưới vây khơi, rê khơi, nghề
câu khơi… Mục tiêu đến năm 2020, số lượng tàu lưới kéo chỉ còn 1.450 chiếc.
UBND tỉnh cũng đã có văn bản đồng ý chủ trương tạm dừng đóng mới tàu cá vỏ gỗ từ ngày 1-
1-2017; kể từ ngày 10-10-2017 tạm thời không giải quyết thủ tục đăng ký, đăng kiểm cho các tổ
chức, cá nhân mua tàu cá vỏ gỗ ngoài tỉnh; khuyến khích các tàu hoạt động nghề lưới kéo giải
bản chuyển sang đóng mới tàu vỏ composite và vỏ thép, cải hoán, nâng cấp chuyển đổi nghề
lưới vây, nghề câu, nghề chụp… Sau khi ghi nhận ý kiến của ngư dân, Sở NN-PTNT cũng tiếp
tục nghiên cứu đề xuất tham mưu UBND tỉnh các phương án hỗ trợ ngư dân chuyển đổi nghề
để đẩy nhanh việc giảm số lượng tàu lưới kéo, góp phần vào bảo vệ nguồn lợi thủy sản ở vùng
biển BR-VT. (Báo Bà Rịa - Vũng Tàu 30/11, Thanh Trí) đầu trang
Quảng Ngãi: Hỗ trợ giảm tổn thất sau khai thác - Ngƣ dân chƣa tiếp cận
Ban hành từ năm 2013, nhưng đến nay, chưa có ngư dân nào ở Quảng Ngãi thụ hưởng chính
sách theo Quyết định 68 về việc cho vay vốn, hỗ trợ đầu tư máy móc, thiết bị để giảm tổn thất
hải sản sau khai thác.
Theo Quyết định 68 (QĐ 68), mức vay tối đa ngư dân có thể tiếp cận để mua các loại thiết bị dò
cá, thông tin liên lạc, hầm cấp đông, hầm bảo quản sản phẩm gắn thiết bị lạnh, làm nước đá;
máy lọc nước biển thành nước ngọt sử dụng trên tàu cá, tàu dịch vụ hậu cần phục vụ đánh bắt
xa bờ... bằng 100% giá trị hàng hóa. Nhà nước sẽ hỗ trợ 100% lãi suất vốn vay trong 2 năm đầu
sau khi ngư dân vay vốn và 50% trong năm thứ 3. Thời hạn cho vay do ngân hàng thương mại
và ngư dân quyết định.
Sau hơn 3 năm triển khai, trên địa bàn Quảng Ngãi vẫn chưa có ngư dân nào tiếp cận chính sách
hỗ trợ theo QĐ 68. “Không phải ngư dân không biết, mà là vì các ngân hàng thương mại chưa
25
phối hợp với các đơn vị liên quan, để tháo gỡ một số vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Thậm chí có ngân hàng chưa triển khai thực hiện QĐ 68”, Phó Chủ tịch UBND huyện Bình Sơn
Nguyễn Quang Trung lý giải.
Theo ông Trung, chính quyền cơ sở có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến nội dung chính sách
này đến ngư dân; còn việc thực thi thì lại phụ thuộc vào các ngân hàng. Vì vậy, khi liên hệ vay
vốn theo QĐ 68, hầu hết ngư dân đều ngán và bỏ cuộc vì bị ngân hàng... làm khó!
Ngư dân Trần Lan, xã Phổ Quang (Đức Phổ) chủ tàu có công suất 420CV hành nghề lưới vây,
cho biết: “Sau khi đóng mới tàu, gia đình đã cạn vốn, nên không sắm đầy đủ máy móc, phương
tiện phục vụ khai thác. Vì vậy, khi hay tin QĐ 68 cho vay ưu đãi, tôi cũng muốn vay vốn để đầu
tư một số loại thiết bị, nhưng khó quá, đành thôi!”.
Sau khi Chính phủ ban hành cơ chế hỗ trợ lãi suất vốn vay giúp ngư dân đầu tư máy móc, thiết
bị, hạn chế tổn thất hải sản sau khai thác, Sở NN&PTNT chỉ đạo các đơn vị liên quan tăng
cường tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn việc thực hiện đến các địa phương có nghề cá. Tuy
nhiên, đến nay vẫn chưa có ngư dân nào tiếp cận được cơ chế. Nguyên nhân là hầu hết các ngân
hàng thương mại trên địa bàn tỉnh chưa tổ chức triển khai chính sách này.
Trong khi đó, các ngân hàng thương mại cho rằng, thời gian qua ngư dân trên địa bàn tỉnh khá
thuận lợi trong việc tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi, kể cả QĐ 68. Tuy nhiên, nhiều ngư dân
chưa có kinh nghiệm trong việc lập hồ sơ vay vốn, xây dựng phương án sản xuất; thậm chí có
hộ không chứng minh được khả năng tài chính của mình, nên ngân hàng phải có thời gian thẩm
tra, xét duyệt.
Điều này khiến ngư dân cho rằng, ngân hàng cố tình làm khó, kéo dài thời gian. Ngoài ra, quy
trình vay vốn theo QĐ 68 nghiêm ngặt và chặt chẽ, cộng với việc chưa có ngư dân nào đến liên
hệ vay vốn theo QĐ 68, nên ngân hàng cũng chưa có “cơ hội” triển khai.
Theo Phó Giám đốc Ngân hàng NN&PTNT (Argibank) - Chi nhánh Quảng Ngãi Nguyễn Thiên
Phiến: “Argibank Quảng Ngãi cũng chưa triển khai việc cho vay theo QĐ 68. Nhưng nếu hồ sơ,
thủ tục của ngư dân đáp ứng các điều kiện, đảm bảo tính pháp lý và hiệu quả sản xuất, ngân
hàng sẵn sàng triển khai cho vay vốn”.
Để khơi thông cơ chế hỗ trợ vốn vay theo QĐ 68 rất cần tiếng nói chung của nhiều phía, đặc
biệt là sự nhiệt tình của các ngân hàng thương mại. “Thời gian đến, chúng tôi sẽ phối hợp chặt
chẽ với các sở, ngành, địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến nội dung QĐ 68;
đồng thời mong muốn các ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi giúp ngư dân tiếp cận nguồn vốn
vay”, Phó Chủ tịch UBND huyện Bình Sơn Nguyễn Quang Trung cho biết. (Báo Quảng Ngãi
30/11, Mỹ Hoa) đầu trang
Tổng sản lƣợng khai thác cá vụ Nam đạt hơn 1,8 triệu tấn
Tổng sản lượng khai thác thủy sản trong vụ cá Nam năm 2017 đạt 1,865 triệu tấn, tăng 4,89%
so với cùng kỳ năm 2016. Trong đó, sản lượng khai thác biển đạt 1,723 triệu tấn.
26
Theo Truyền hình Thanh Hoá, vừa qua, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với
UBND tỉnh Thanh Hoá tổ chức Hội nghị tổng kết khai thác cá vụ Nam năm 2017, triển khai
khai thác cá vụ Bắc năm 2017 - 2018. Tham dự hội nghị có Thứ trưởng Bộ NN & PTNT Vũ
Văn Tám, Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh Thanh Hóa Nguyễn Đức Quyền, đại diện lãnh
đạo 28 tỉnh, thành phố ven biển và các hiệp hội nghề cá.
Từ tháng 3 đến tháng 10/2017, mặc dù gặp nhiều khó khăn, xuất hiện nhiều cơn bão và áp thấp
nhiệt đới, giá các loại vật tư phục vụ khai thác tăng cao, nhưng với sự quan tâm của Chính phủ,
nỗ lực của các địa phương và bà con ngư dân, các chỉ tiêu về sản lượng trong khai thác thủy sản
vụ cá Nam vẫn đạt cao so với cùng kỳ.
Tổng sản lượng khai thác đạt 1,865 triệu tấn, tăng 4,89% so với cùng kỳ năm 2016. Trong đó,
sản lượng khai thác biển đạt 1,723 triệu tấn (tăng 5,23% so với vụ cá Nam năm 2016). Các tỉnh
có sản lượng đạt cao trong vụ, như: Quảng Trị, Thái Bình, Kiên Giang, Bình Định, Thanh
Hóa...
Đến nay có 27/28 tỉnh, thành phố ven biển đã phê duyệt danh sách các chủ tàu đủ điều kiện vay
vốn để nâng cấp cho 1.973 phương tiện để vươn khơi bám biển dài ngày.
Phát biểu khai mạc hội nghị, ông Nguyễn Đức Quyền đã khái quát tình hình phát triển nông
nghiệp, kết quả khai thác và nuôi trồng thủy sản của tỉnh trong 11 tháng năm 2017. Trong
những năm qua, được sự quan tâm của Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
tỉnh Thanh Hóa đã đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng 3 cảng cá, 3 bến cá và 3 khu neo đậu
tàu thuyền. Đến nay toàn tỉnh có 7.483 chiếc tàu với tổng công suất 561.00CV, tàu có công
suất 90CV trở lên có 1.863 chiếc… 41 cơ sở chế biến hải sản và hàng nghìn cơ sở chế biến thủ
công ở các địa phương ven biển.
Theo báo Infonet, ông Quyền đề nghị Chính phủ tiếp tục hỗ trợ cho ngư dân vay vốn phát triển
khai thác theo nghị định 67; quan tâm đầu tư hạ tầng nghề cá; tăng cường phối hợp các cơ quan
của Bộ trong công tác bảo đảm an ninh và tìm kiếm cứu nạn cho ngư dân trên biển…
Tại Hội nghị, Vụ Khai thác thủy sản cho biết, trong vụ cá Nam năm nay, thời tiết có nhiều diễn
biến bất thường, nguồn lợi thủy sản thay đổi, trong khi công nghệ khai thác, tập quán của ngư
dân ít thay đổi. Cường lực khai thác hải sản ven bờ ngày càng gia tăng làm suy giảm nguồn lợi.
Tình trạng thiếu lao động trong khai thác hải sản vẫn diễn ra phổ biến ở nhiều địa phương ven
biển…
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong hoạt động khai thác thủy sản vụ cá Nam năm 2017 vẫn
còn nhiều tồn tại, như: sản lượng khai thác thủy sản tăng, nhưng giá bán sản phẩm không tăng;
công tác quản lý hoạt động khai thác hải sản còn nhiều bất cập, tàu cá nhỏ hoạt động ven bờ còn
nhiều, việc quản lý tàu cá theo vùng chưa được coi trọng; chuyển đổi cơ cấu nghề trong khai
thác hải sản chưa có chuyển biến rõ nét…
Phát huy kết quả đạt được, các địa phương phấn đấu trong vụ cá Bắc năm 2017-2018 tổng sản
lượng khai thác thủy sản đạt hơn 1,48 triệu tấn, trong đó, khai thác biển đạt 1,37 triệu tấn, khai
thác nội địa đạt 110.000 tấn.
27
Theo Thứ trưởng Vũ Văn Tám, trong thời gian tới để khắc phục những khó khăn trên ngành
thủy sản cần phải tập trung một số việc trước mắt: Tập trung hỗ trợ ngư dân các tỉnh Trung bộ
và 4 tỉnh Bắc Trung bộ khôi phục sản xuất sau bão lũ trong khai thác và nuôi trồng thủy sản;
Khắc phục những tồn tại của Nghị định 67 của Chính phủ; Thực hiện các giải pháp khắc phục
các khuyến nghị của liên minh Châu Âu (EU) trong lĩnh vực thủy sản; Chấm dứt tình trạng ngư
dân vi phạm vùng biển nước ngoài; Triển khai luật thủy sản khi có hiệu lực; Chấn chỉnh việc
đóng mới tàu cá. (Thương Hiệu Và Pháp Luật 30/11, Phương Nhi) đầu trang
Quảng Ninh tiêu hủy công cụ đánh bắt thủy sản tận diệt
Thông tin trên báo Quảng Ninh đưa, chiều 30/11, tại Hải đội 2 Biên phòng, Bộ Chỉ huy BĐBP
tỉnh Quảng Ninh phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ của Công an, Viện KSND, Thi hành án dân
sự tỉnh, Sở TN&MT tổ chức tiêu hủy công cụ đánh bắt thủy sản tận diệt, do lực lượng biên
phòng thu giữ thời gian qua.
Theo đó, tang vật tiêu hủy bao gồm: 71 bộ kích điện; 52 bình, máy nén khí; 42 ắc quy; 1.202
lồng bát quái; 19 súng bắn điện tự chế; 2.095m dây điện; 116 bộ đồ lặn… Đây là số tang vật do
BĐBP tỉnh thu giữ trong đợt thực hiện chuyên đề “Tuần tra, kiểm soát, đấu tranh ngăn chặn
hoạt động hoạt động vi phạm pháp luật Việt Nam của tàu cá nước ngoài và tàu cá Việt Nam”
được đơn vị triển khai từ ngày 9/8/2017 đến nay.
Được biết, toàn bộ số tang vật được bàn giao cho Xí nghiệp Xử lý chất thải nguy hại (Công ty
TNHH MTV Môi trường – TKV) thực hiện tiêu hủy.
Cùng với thu giữ tang vật, các đơn vị thuộc BĐBP tỉnh đã lập biên bản xử lý vi phạm hành
chính gần 1,2 tỷ đồng. (Môi Trường Và Cuôc Sống 30/11, Ngọc Linh) đầu trang
Ngành hàng cá tra cần tái cấu trúc để trở lại thời hoàng kim
Để phát triển ổn định và bền vững ngành hàng cá tra cần có nhiều giải pháp trong chuỗi liên kết
sản xuất từ đầu vào cho đến đầu ra.
Hiện nay, ngành nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu cá tra tại ĐBSCL nói chung và An Giang nói
riêng đang có xu hướng khôi phục và phát triển trở lại. Tuy nhiên, để phát triển ổn định và bền
vững ngành hàng này, tỉnh An Giang đã và đang nỗ lực với nhiều giải pháp trong chuỗi liên kết
sản xuất từ đầu vào đến đầu ra của ngành hàng này.
An Giang là địa phương có vùng nuôi cá tra tập trung, với diện tích mặt nước đạt khoảng gần
1.300 ha. Hiện tỉnh có 16 doanh nghiệp với hơn 20 nhà máy chế biến cá tra hoạt động, tổng
công suất thiết kế khoảng 300.000 tấn thành phẩm/năm.
Từ đầu năm đến nay, sản xuất chế biến cá tra theo chuỗi liên kết tại An Giang đạt gần 150.000
tấn, tăng hơn 13.000 tấn so với cùng kỳ năm trước; xuất khẩu đến 76 quốc gia, trong đó xuất
khẩu cao nhất sang các nước châu Á, thứ hai là các nước châu Âu.
Đặc biệt, hiện nay giá cá tra nguyên liệu đang đứng ở mức cao và ổn định so với nhiều năm
trước, dao động từ 25.000 đồng đến 27.000 đồng/kg. Với mức giá này, người nuôi đã có lãi, dự
28
báo giá cá tra tiếp tục ổn định. Do vậy nhu cầu thả nuôi cá tra trong tháng cuối năm và đầu năm
tới của các doanh nghiệp và nông hộ tại tỉnh sẽ tăng.
Tuy nhiên, để ngành hàng cá tra phát triển ổn định, bền vững, An Giang đã và đang triển khai
nhiều giải pháp, trong đó chú trọng đến quy hoạch vùng nuôi, chọn lựa con giống tốt; tổ chức
liên kết sản xuất theo chuỗi, cung ứng sản phẩm cho chế biến xuất khẩu phải đảm bảo an toàn
vệ sinh thực phẩm, truy xuất được nguồn gốc…Đặc biệt là việc sản xuất giống cá tra 3 cấp chất
lượng cao là một trong những khâu quan trọng trong chuỗi liên kết sản xuất chế biến cá tra.
Ông Phan Hồng Cương, Phó Giám đốc Trung tâm giống thuỷ sản An Giang cho biết, đơn vị đã
triển khai cung cấp cá tra bột cho hơn 20 thành viên tham gia chuỗi cung ứng giống cá tra 3 cấp.
Qua đó đảm bảo đủ số lượng 180 triệu con cá tra bột để các cơ sở ương dưỡng cá tra giống cung
cấp cho người nuôi; phục vụ cho kế hoạch xuất khẩu cá tra vào đầu năm 2018.
“Từ khâu kiểm định chất lượng cá tra bố mẹ phải chuẩn theo đúng những tiêu chí đặt ra về tốc
độ tăng trưởng, kháng bệnh…Đối với quy trình ương sử dụng các chế phẩm vi sinh, không sử
dụng kháng sinh để nâng cao chất lượng cá giống đồng thời còn truy xuất được nguồn gốc, có
hồ sơ rõ ràng”, ông Cương cho biết.
Bên cạnh việc sản xuất con giống, An Giang từng bước hoàn thiện chuỗi giá trị sản phẩm; liên
kết từ nuôi trồng, chế biến đến xuất khẩu, trong đó vai trò của doanh nghiệp là nòng cốt.
Các hộ nuôi cá tra thương phẩm liên kết với các doanh nghiệp được doanh nghiệp hỗ trợ vốn,
kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm; lợi nhuận được đảm bảo, người nuôi yên tâm sản xuất. Doanh
nghiệp tham gia chuỗi liên kết sẽ có nguồn cung nguyên liệu phục vụ cho chế biến ổn định, chất
lượng đảm bảo yêu cầu của nhà nhập khẩu.
Ông Dương Ngọc Minh, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Hùng Vương - một trong những doanh
nghiệp đang tham gia chuỗi liên kết sản xuất chế biến cá tra xuất khẩu tại An Giang cho biết,
liên kết phải mang tính bền vững và phát triển lâu dài. Địa phương phải chọn được vùng nuôi
đảm bảo chất lượng từ đó giảm giá thành và những người nông dân có uy tín, doanh nghiệp
cung cấp thức ăn cho hộ nuôi và đồng thời bao tiêu sản phẩm.
“Chuỗi phải liên kết phải có sự quản lý giữa cơ sở cung cấp thức ăn, cơ sở chế biến để đảm bảo
quyền lợi cho người nông dân”, ông Minh cho biết.
Hiện nay, ngành nông nghiệp An Giang đang quản lý chặt vùng nuôi theo quy hoạch; không gia
tăng về công suất chế biến để tập trung vào đổi mới dây chuyền công nghệ của các nhà máy
hiện có theo hướng hiện đại. Từ đó gia tăng năng suất, chất lượng, nâng cao tỷ trọng sản phẩm;
đồng thời xác nhận và cấp giấy xác nhận nuôi cá tra thương phẩm cho doanh nghiệp và hộ dân
nuôi theo hợp đồng liên kết sản xuất với chế biến xuất khẩu.
Theo ông Trần Anh Thư, Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh An Giang cho biết, việc quản lý vùng
nuôi nhằm đưa kế hoạch nuôi, chế biến xuất khẩu cá tra ổn định, tránh thiệt hại cho người nuôi;
kiểm soát về các tiêu chuẩn bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, sản phẩm chế biến có thể truy
xuất nguồn gốc.
29
“Thị trường cá tra hiện nay phát triển khá bền vững, giá cá phi lê xuất khẩu đang tăng. Theo chỉ
đạo của Tổng cục thuỷ sản, cần ổn định diện tích nuôi cá tra, bám theo quy hoạch hiện có và
liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp nhưng tăng giá trị về giống và chất lượng, đảm bảo quy trình
nuôi đúng kỹ thuật, tăng hiệu quả và lợi nhuận của nông dân”, ông Thư nêu rõ.
Thực tế thời gian qua cho thấy, sản xuất và xuất khẩu cá tra luôn bấp bênh và còn gặp nhiều khó
khăn. Do vậy theo ông Lâm Quang Thi, Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang, yêu cầu đặt ra cho
địa phương hiện nay là phải hoàn thiện chuỗi liên kết sản xuất từ khâu sản xuất giống tới đầu ra
của thị trường. Từ đó đưa con ca tra trở thành sản phẩm xuất khẩu chủ lực của địa phương.
“Cá tra và lúa gạo là 2 mặt hàng được Chính phủ công nhận là mặt hàng chiến lược quốc gia.
Do đó, UBND tỉnh đặc biệt quan tâm đến giải pháp liên doanh nghiệp từ khâu sản xuất giống,
nuôi trồng chế biến, xuất khẩu để đưa con cá tra trở lại vị thế dẫn dầu của nó trong nền nông
nghiệp Việt Nam”, ông Thi cho biết.
Để phát triển ổn định và bền vững ngành hàng cá tra, vấn đề đặt ra là cần phải nỗ lực với nhiều
giải pháp, trong đó chú trọng đến việc quy hoạch vùng nuôi, chọn lựa con giống tốt, tổ chức
liên kết sản xuất theo chuỗi; cung ứng sản phẩm cho chế biến xuất khẩu phải đảm bảo an toàn
vệ sinh thực phẩm, truy xuất được nguồn gốc sản phẩm. Đây chính là việc làm cấp thiết hiện
nay. (Đài Tiếng Nói Việt Nam 30/11, Phan Ánh) đầu trang
CỨU HỘ - CỨU NẠN
Nỗ lực cứu tàu cá gặp nạn do ảnh hƣởng của gió mùa
Những ngày qua, do ảnh hưởng của gió mùa, thời tiết xấu, biển động mạnh, sóng cao từ 3 đến 4
mét khiến nhiều tàu cá gặp nạn. Vượt sóng to, gió lớn, các tàu cứu hộ thuộc Trung tâm Phối
hợp tìm kiếm cứu nạn hàng hải Việt Nam, người dân và các lực lượng chức năng đã nỗ lực cứu
hộ, cứu nạn.
22h ngày 23/11, tàu cá QNg 98016TS, công suất 715 CV, do ngư dân Trần Công Trứ (ở thôn
Hải Tân, xã Phổ Quang, huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi) làm chủ tàu kiêm thuyền trưởng cùng 11
thuyền viên chạy vào cửa lạch Mỹ Á (xã Phổ Quang, huyện Đức Phổ) để tránh gió không khí
lạnh tăng cường. Khi vào đến đầu cửa lạch thì gặp sóng lớn, khiến tàu QNg 98016 TS chao đảo
mạnh, lưới bị rớt xuống biển quấn vào chân vịt, làm tắt máy và trôi dạt vào góc Đông - Nam
cửa lạch Mỹ Á (chân núi thuộc xã Phổ Vinh). Vụ tai nạn khiến tàu cá QNg 98016TS bị phá
nước chìm, bị sóng hất vào giữa chân kè chắn sóng, hư hỏng nặng. Thuyền viên Nguyễn Cao
Nguyên (SN 1987, trú thôn Hải Tân, xã Phổ Quang, huyện Đức Phổ) mất tích. Khu vực bị nạn
có sóng to nên tàu thuyền không thể tiếp cận để ứng cứu, hiện người dân và lực lượng chức
năng đang cố gắng thu gom tài sản, giảm thiệt hại cho ngư dân.
Ngày 25/11, Trung tâm Phối hợp tìm kiếm cứu nạn hàng hải Việt Nam nhận được yêu cầu cứu
nạn từ thuyền trưởng tàu cá QB 96002TS. Tàu QB 96002TS bị gãy bánh lái từ ngày 24/11 khi
đang hành nghề tại vùng biển Quảng Bình, vị trí cách Hòn La 61 hải lý về hướng Đông - Đông
Nam. Tất cả 7 thuyền viên trên tàu đã chủ động sửa chữa nhưng vẫn không thể khắc phục được
sự cố. Vị trí tàu bị nạn nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng của gió mùa tăng cường, biển động
30
mạnh kèm mưa dông và lốc xoáy khiến tàu rung lắc dữ dội. Sau nhiều ngày đánh bắt trên biển,
lương thực, nước ngọt trên tàu đã cạn kiệt, tinh thần thuyền viên mệt mỏi, hoang mang. Trung
tâm liền điều động tàu SAR 411 đang trực tại Hòn La khẩn trương lên đường làm nhiệm vụ vào
lúc 10 giờ ngày 25/11. 14 giờ cùng ngày, lực lượng cứu nạn của Trung tâm đã tiếp cận thành
công tàu cá QB 96002TS, chăm sóc sức khỏe và hỗ trợ dắt tàu cá cùng toàn bộ 7 thuyền viên về
đến Hòn La, Quảng Bình an toàn.
Trên vùng biển Quảng Bình chưa đầy một tuần qua, Trung tâm đã cứu nạn 4 tàu cá Quảng Bình
gặp sự cố máy và bánh lái dẫn tới tàu bị thả trôi giữa điều kiện thời tiết sóng to gió lớn, gây
nguy hiểm tới sự an toàn của các thành viên trên tàu.
Vào 19h35 ngày 27/11, Trung tâm Phối hợp tìm kiếm cứu nạn Hàng hải khu vực III nhận được
thông tin từ ông Huỳnh Phan Thành (ở Bình Thuận) báo về việc tàu cá BĐ 30366TS bị chìm
chưa rõ nguyên nhân vào lúc 18h30 cùng ngày. Vị trí tàu bị nạn cách mũi Vũng Tàu khoảng 42
hải lý về phía Đông Nam. Trên tàu có 6 thuyền viên. Hiện gia đình đã mất liên lạc với tàu. Ông
Thành đề nghị cứu nạn khẩn cấp. Dưới sự chỉ đạo quyết liệt và khẩn trương của Ủy ban Quốc
gia Tìm kiếm cứu nạn, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, Trung tâm đã điều động tàu chuyên
dụng tìm kiếm cứu nạn SAR 272 tại Vũng Tàu và tàu Lam Sơn 01 (Vietsopetro) tìm kiếm.
Thời tiết trên biển có giông lốc bất thường, gió cấp 6-7, sóng biển cao trên 3m, gây khó khăn
cho việc tìm kiếm. Lúc 3h 30 ngày 28/11, tàu SAR 272 tại hiện trường đã phát hiện một thi thể
của thuyền viên tàu cá BĐ 30366 TS. Ngay sau đó, tàu SAR 272 tiếp tục phát hiện thi thể thứ
hai của tàu BĐ 30366 TS, tổ chức vớt lên tàu và đưa vào hầm lạnh bảo quản. Vị trí phát hiện
các thi thể cách vị trí bị nạn khoảng 6 hải lý về phía Tây Nam. Thi thể hai thuyền viên được tìm
thấy là hai anh em Ngô Thiên (47 tuổi, quê Phù Cát, Bình Định, là thuyền trưởng) và Ngô Tấn
Tiến em trai Thiên. Sau khi tàu cập bờ, BĐBP Bà Rịa - Vũng Tàu đã tiến hành tiếp nhận hồ sơ
vụ việc và thi thể 2 thuyền viên bị nạn để bàn giao cho Công an và gia đình, tiến hành các thủ
tục cần thiết trước khi đưa về quê an táng.
Tiếp tục tìm kiếm cứu nạn, 15h30 ngày 29/11, tàu SAR 413 của Trung tâm Phối hợp tìm kiếm
cứu nạn hàng hải Khu vực III đã tiếp cận tàu cá của Bà Rịa - Vũng Tàu mang số hiệu BV 70576
TS để tiếp nhận ngư dân còn sống sót của tàu cá BĐ 30366TS bị chìm mà tàu cá này vớt được.
Ngư dân này tên là Nguyễn Văn Dùng (SN 1974, ở Bình Sơn, Quảng Ngãi). Tàu cá Bà Rịa-
Vũng Tàu đã vớt được ngư dân Nguyễn Văn Dùng cách vị trí tàu cá BĐ 30366TS bị chìm
khoảng 25 hải lý về phía Nam vào lúc 16h ngày 28/11 nhưng tàu cá BV 70576TS đã không báo
ngay cho lực lượng cứu nạn.
Rạng sáng 30/11, lực lượng tìm kiếm cứu nạn hàng hải tiếp tục phát hiện thêm 1 thi thể thuyền
viên tại khu vực lân cận, qua xác minh sơ bộ là Nguyễn Tấn Phước (SN 1978, quê quán Phù
Cát, Bình Định). Hiện tàu cá BĐ 30366TS còn 2 thuyền viên vẫn đang mất tích.
Lúc 17h55 ngày 29/11, Trung tâm Phối hợp tìm kiếm cứu nạn hàng hải Việt Nam nhận được
thông tin báo nạn tàu BV 94184TS của ông Huỳnh Văn Thành bị hỏng máy thả trôi không thể
khắc phục được, tại vị trí cách Vũng Tàu 50 hải lý về hướng Đông Nam. Thời tiết biển tại khu
vực rất xấu, sóng cấp 6-7. Trên tàu có 12 thuyền viên, tình trạng thuyền viên hết sức nguy hiểm,
thuyền trưởng đề nghị cứu nạn khẩn cấp.
31
Vượt qua sóng gió lớn, đến 20h45 cùng ngày, lực lượng tìm kiếm cứu nạn hàng hải đã tiếp cận
tàu bị nạn, cử tổ công tác sang chăm sóc y tế, sức khỏe cho thuyền viên. Sáng qua - 30/11,
Trung tâm Phối hợp tìm kiếm cứu nạn Khu vực III, tàu SAR 413 đã lai dắt thành công tàu BV
94184 TS do ông Huỳnh Văn Thành (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) làm chủ tàu vào bờ an toàn.
(Pháp Luật Việt Nam 1/12, Lam Hạnh) đầu trang
DỊCH VỤ - HẬU CẦN
Quảng Bình: Đầu tƣ gần 2,3 tỷ đồng để nạo vét âu thuyền
Để đảm bảo an toàn cho tàu thuyền của ngư dân vào neo đậu tránh trú bão tại âu thuyền cửa
Gianh, UBND tỉnh Quảng Bình vừa phê duyệt công trình nạo vét Âu thuyền khu neo đậu tránh
trú bão cho tàu cá Cửa Gianh với tổng mức đầu tư gần 2,3 tỷ đồng.
Cụ thể, công trình nạo vét âu thuyền khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá cửa Gianh (khu C và
một phần khu B) có tổng diện tích nạo vét hơn 118.838 m2, được xây dựng tại xã Bắc Trạch
(huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình).
Nạo vét âu thuyền cửa Gianh nhằm đáp ứng nhu cầu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá của ngư
dân trong và ngoài tỉnh Quảng Bình, giảm thiểu hậu quả do thiên tai bão lụt gây ra. (Đại Đoàn
Kết 1/12, Xuân Thi) đầu trang
MÔI TRƢỜNG
Khánh Hòa: 45 hộ dân ký cam kết bảo vệ môi trƣờng trên Vịnh Nha Trang
Từ ngày 27 đến 30-11, hai đoàn công tác của Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Khánh Hòa
chủ trì phối hợp với UBND phường Vĩnh Nguyên (TP Nha Trang), Ban quản lý Vịnh Nha
Trang, trực tiếp xuống các hộ dân, chủ lồng bè sinh sống trên các đảo thuộc phường Vĩnh
Nguyên tuyên truyền, hướng dẫn người dân xắp xếp lại lồng bè, ổn định đời sống, đảm bảo an
ninh trật tự sau bão số 12.
Cùng với đó, đơn vị đã vận động hơn 70 hộ dân chấp hành các quy định về quản lý, khai thác
bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo vệ môi trường sinh thái biển; tổ chức tuần tra, kiểm tra, nhắc
nhở các phương tiện nghề cá hoạt động trong khu vực Vịnh Nha Trang không khai thác, đánh
bắt hải sản bằng các nghề cấm mang tính hủy diệt. Qua tuyên truyền vận động, đã có trên 45
chủ lồng, bè ký cam kết dừng các hoạt động lắp dựng lại lồng, bè và dừng việc nuôi trồng thủy
sản, hải sản tại các khu đảo Hòn Tre và Hòn Một, phường Vĩnh Nguyên, khi có thông báo.
(Quân Đội Nhân Dân 30/11, Văn Huệ) đầu trang ./.