chẤt lƯỢng ĐỘi ngŨ sĨ quan lỰc lƯỢng cẢnh sÁt nhÂn …hcma.vn/uploads/2018/6/6/la...
TRANSCRIPT
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
BOUNHUEANG THAMMAKOT
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ SĨ QUAN LỰC LƯỢNG
CẢNH SÁT NHÂN DÂN, BỘ AN NINH NƯỚC CỘNG HÒA
DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
HÀ NỘI - 2018
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
BOUNHUEANG THAMMAKOT
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ SĨ QUAN LỰC LƯỢNG
CẢNH SÁT NHÂN DÂN, BỘ AN NINH NƯỚC CỘNG HÒA
DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
Mã số: 62 31 02 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. PHAN HỮU TÍCH
2. PGS.TS. NGUYỄN VĂN BIỀU
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Bounhueang Thammakot
MỤC LỤC Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN 6
1.1. Các công trình khoa học nghiên cứu của Việt Nam 6
1.2. Các công trình khoa học nghiên cứu của Lào 16
1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố
liên quan và những vấn đề luận án cần tập trung giải quyết 22
Chương 2: CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ SĨ QUAN LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT
NHÂN DÂN, BỘ AN NINH NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN 25
2.1. Đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân, Bộ An ninh nước Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào 25
2.2. Chất lượng đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào - quan niệm,
tiêu chí đánh giá, những yếu tố chi phối 39
Chương 3: CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ SĨ QUAN LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT
NHÂN DÂN, BỘ AN NINH NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ ĐẶT RA 67
3.1. Thực trạng chất lượng đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào 67
3.2. Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra 79
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ SĨ QUAN LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN,
BỘ AN NINH NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO ĐẾN NĂM 2025 106
4.1. Dự báo tình hình, phương hướng nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan
lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào 106
4.2. Giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát
nhân dân Lào đến năm 2025 116
KẾT LUẬN 155
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN 157
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 158
PHỤ LỤC 175
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
ANQG : An ninh quốc gia
CHDCND : Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CSND : Cảnh sát nhân dân
LLANND : Lực lượng an ninh nhân dân
LLCSND : Lực lượng Cảnh sát nhân dân
NDCM : Nhân dân Cách mạng
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chất lượng đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân (LLCSND) là một nội
dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng và xây dựng lực lượng trong Bộ An
ninh nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, bảo đảm cho Đảng, cho Bộ An ninh có
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, năng lực tổ chức chiến đấu, đấu tranh phòng chống
các loại tội phạm và đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ
quan LLCSND luôn là vấn đề chủ yếu, cần thiết của việc đổi mới, chỉnh đốn Đảng, xây
dựng lực lượng Cảnh sát tinh nhuệ, chính quy và hiện đại đáp ứng thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ chính trị trong mọi điều kiện. Đội ngũ sĩ quan LLCSND, Bộ An ninh là
những chiến sĩ cách mạng, gương mẫu, tiên phong đi đầu trong công tác, lao động, đi
đầu trong đấu tranh phòng chống tội phạm, thực hiện tốt các chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước. Thông qua việc thực hiện pháp luật của Nhà nước, LLCSND thể
hiện bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân trong hoạt động bảo vệ an ninh quốc
gia (ANQG), trật tự an toàn xã hội.
Hiến pháp nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (CHDCND Lào) năm 2015
khẳng định: "Nhà nước và xã hội quan tâm thực hiện chính sách, chăm lo đời sống vật
chất và tinh thần; thực hiện chính sách hậu phương đối với lực lượng quốc phòng - an
ninh để tăng cường khả năng thực thi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và bảo vệ trật tự an
toàn xã hội". Trên tinh thần của Hiến pháp, bản thân lực lượng An ninh nói chung,
LLCSND nói riêng, chủ thể trực tiếp quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội từ tổ
chức đến hoạt động đều phải tiến hành trong khuôn khổ quy định của pháp luật.
Đảng Nhân dân Cách mạng (NDCM) Lào, Nhà nước Lào luôn luôn quan tâm
đặc biệt đến đội ngũ cán bộ; về vấn đề này Chủ tịch Cayxỏn PHÔMVIHÁN đã dạy:
“Muốn thực hiện được đường lối chính sách của Đảng, phải có lực lượng cán bộ vững
mạnh. Cán bộ là vốn quý của Đảng, là người lãnh đạo nhân dân, là người phục vụ nhân
dân, là cầu nối giữa Đảng với quần chúng. Sau khi Đảng có đường lối chính sách đúng
đắn, mọi công việc cách mạng của Đảng sẽ tốt hay xấu, sẽ thành công hay thất bại đều
do cán bộ của Đảng quyết định” [152, tr.68-69]. Qua thực tiễn cách mạng, các đảng
Cộng sản và công nhân quốc tế đều khẳng định vài trò quan trọng của cán bộ và công
tác cán bộ. V.I. Lênin viết: “Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được
2
quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ
chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”
[98, tr.473]. Chủ tịch Hồ Chí Minh vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, người
sáng lập Đảng Cộng sản Đông Dương - Tiền thân của Đảng NDCM Lào đã dạy: “Cán
bộ là cái gốc của mọi công việc”, “công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt
hay kém”, “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” [49, tr.487, 492].
Đội ngũ sĩ quan LLCSND là những người chỉ huy, tham mưu, hoạt động nghiệp
vụ của lực lượng Cảnh sát - một trong những lực lượng vũ trang trọng yếu, tin cậy của
Đảng NDCM Lào và Nhà nước CHDCND Lào, là lực lượng nòng cốt trực tiếp bảo vệ
Đảng, chính quyền và bảo vệ trật tự, an toàn xã hội và bảo vệ sự bình yên của nhân
dân. Đội ngũ sĩ quan LLCSND ngoài việc chỉ huy, tham mưu còn làm một số nhiệm vụ
khác quan trọng trong hệ thống tổ chức lực lượng của An ninh nhân dân, là thực hiện
chức năng, nhiệm vụ bảo vệ, giữ gìn trật tự an toàn xã hội của đất nước; là lực lượng
hoạt động công khai, gắn bó mật thiết với mọi tầng lớp nhân dân; vừa tham gia vào
hoạt động quốc tế ngày càng nhiều. Do đặc điểm và sự tác động cả mặt tích cực và mặt
tiêu cực từ xã hội một cách thường xuyên liên tục, nên chức năng, nhiệm vụ đó đã
được đã được quy định rõ trong Điều 2, Luật lực lượng An ninh nhân dân Lào.
Thực tiễn, xây dựng, hoạt động lãnh đạo và chỉ huy chiến đấu, thực hiện
nhiệm vụ của các đơn vị Bộ An ninh và Tổng cục Cảnh sát, trong nhiều năm qua đã
khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND. Tình
hình, nhiệm vụ của các đơn vị Bộ An ninh và Tổng cục Cảnh sát trong thời kỳ mới
đòi hỏi phải tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND. Trong bối cảnh
mới cũng đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng lớn đối với công tác xây dựng lực
lượng an ninh nhân dân (LLANND), để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao của toàn
Ngành, nâng cao chất lượng để đội ngũ sĩ quan LLCSND thực sự là “thanh bảo kiếm
của Đảng”, cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Các tổ chức của
Tổng cục Cảnh sát và Bộ An ninh, các đơn vị an ninh, an ninh địa phương luôn quán
triệt thực hiện có hiệu quả các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước; Nghị
quyết, Chỉ thị của Đảng ủy Tổng cục Cảnh sát, Bộ An ninh về đổi mới căn bản, toàn
diện về chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND đáp ứng nhu cầu sử dụng nguồn nhân
lực, gắn với chủ trương kiện toàn tổ chức, bộ máy của Bộ An ninh.
3
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh chính trị và bảo
vệ trật tự, an toàn xã hội cũng như trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới một
cách toàn diện - có nguyên tắc của Đảng, đội ngũ sĩ quan LLCSND nói riêng và đội
ngũ sĩ quan LLANND cả nước nói chung đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua nhiều gian khổ,
hy sinh, hoàn thành nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Tuy nhiên, bên cạnh những cố gắng và thành tích công tác, chất lượng của đội
ngũ sĩ quan LLCSND đã có hiện nay cũng đang đặt ra những hạn chế nhất định chưa
đáp ứng với thời kỳ mới, điều kiện và hoàn cảnh mới với nhiều cơ hội và thách thức;
đấu tranh phòng, chống tội phạm cũng còn nhiều bất cập, các thế lực thù địch vẫn tiếp
tục âm mưu thâm độc phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân, một cách toàn
diện, mọi giá bằng thực hiện thủ đoạn “Diễn biến hòa bình”... Đồng thời, mặt trái của
cơ chế kinh tế thị trường cũng tác động mạnh đến đời sống vật chất và tinh thần của
LLANND nói chung và đội ngũ sĩ quan LLCSND nói riêng, gây ảnh hưởng đến chất
lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND. Chính vì vậy, yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới
hiện nay đang đặt ra những đòi hỏi mới về chất lượng của đội sĩ quan LLCSND; đó
là, xây dựng cơ cấu, số lượng hợp lý, có phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng tốt
đẹp, phong cách sống lành mạnh, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Nhà nước, với
nhân dân; có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ giỏi; có tinh thần phục vụ nhân dân tận
tụy, có tinh thần đoàn kết, giữ nghiêm kỷ luật, xây dựng đơn vị vững mạnh, khôn
khéo, kiên quyết trong đấu tranh với tội phạm… Vì vậy, một trong những nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu hiện nay trong quá trình xây dựng LLCSND là phải nâng cao
chất lượng đội sĩ quan LLCSND ở các cấp từ trung ương đến địa phương.
Những năm qua, việc nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND đã đạt
được những kết quả và tiến bộ nhất định. Trước yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới,
đội ngũ sĩ quan LLCSND bộc lộ những bất cập, đòi hỏi phải tiếp tục có bước phát
triển mới về chất lượng. Là một sĩ quan làm việc ở cơ quan chính trị Tổng cục Cảnh
sát, thuộc Bộ An ninh nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào rất quan tâm và ấp ủ,
xây dựng thành ý tưởng nghiên cứu, với sự mong muốn được đóng góp vào việc thực
hiện nhiệm vụ quan trọng này. Vì vậy, nghiên cứu sinh chọn đề tài: “Chất lượng đội
ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân, Bộ An ninh nước Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào giai đoạn hiện nay” làm luận án tiến sĩ chuyên ngành Xây dựng
Đảng và Chính quyền nhà nước, tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
4
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích
Luận giải, làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn về chất lượng đội
ngũ sĩ quan LLCSND Lào, đề xuất những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đội
ngũ sĩ quan LLCSND Lào.
2.2. Nhiệm vụ
- Tổng quan các công trình nghiên cứu ngoài và trong nước có liên quan đến đề
tài chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND Lào.
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng đội ngũ sĩ quan
LLCSND Lào.
- Đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND Lào.
- Dự báo những yếu tố tác động, xác định phương hướng và đề xuất giải pháp
chủ yếu nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND Lào đến năm 2025.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND, Bộ An ninh nước CHDCND Lào giai
đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Nghiên cứu về chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND Lào bao
gồm đội ngũ sĩ quan trong toàn LLCSND từ Trung ương đến Bộ chỉ huy An ninh các
tỉnh, thành phố và An ninh huyện, quận.
- Về thời gian: Các tư liệu, số liệu phục vụ nghiên cứu từ năm 2011 - 2017;
một số tình hình, số liệu về lực lượng An ninh, Cảnh sát trước năm 2011 có tác
dụng bổ trợ.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài luận án
4.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn
- Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng đạo đức
Cayxỏn PHÔMVIHÁN về cán bộ, công tác cán bộ và quan điểm, đường lối của Đảng và
pháp luật của Nhà nước về nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND Lào.
- Cơ sở thực tiễn: Cơ sở thực tiễn của luận án là đội ngũ sĩ quan LLCSND Lào
và chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND Lào
5
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, luận
án sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp, lịch sử - lôgic, so sánh, thống kê,
tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng đội ngũ
sĩ quan LLCSND Lào;
- Lần đầu tiên đưa ra tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND Lào
và đánh giá thực trạng về chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND Lào một cách hệ thống;
- Đã đưa ra phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan
LLCSND Lào đến năm 2025. Đó là những nhóm giải pháp toàn diện, được phân tích
trên cơ sở khoa học, có tính khả thi cao.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án
Luận án góp phần hệ thống hoá và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về chất lượng
đội ngũ cán bộ nói chung và chất lượng đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân, Bộ
An ninh nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (sau đây gọi tắt là Bộ An ninh Lào) nói
riêng. Từ đó lựa chọn cách tiếp cận, phương pháp, hệ thống tiêu chí đánh giá chất lượng
đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào phù hợp với điều kiện ở Lào.
6.2. Ý thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu
và góp phần vào nâng cao chất lượng lực lượng vũ trang An ninh nhân dân nói chung
và chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND Lào nói riêng.
Kết quả nghiên cứu của luận án còn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu, giảng dạy về công tác xây dựng Đảng, công tác tổ chức và cán bộ, công tác quốc
phòng - an ninh, công tác trật tự xã hội ở Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia
Lào, Học viện Cảnh sát nhân dân, Học viện An ninh nhân dân, Trường chính trị An
ninh nhân dân và các trường chính trị - hành chính ở CHDCND Lào.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình của tác giả đã công bố liên
quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được kết cấu thành 4
chương, 9 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC NGHIÊN CỨU CỦA VIỆT NAM
1.1.1. Đề tài khoa học
- Nguyễn Phú Trọng, Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [88]. Đề tài đã
đề cập đến cơ sở lý luận của việc xây dựng tiêu chuẩn cán bộ; những kinh nghiệm xây
dựng tiêu chuẩn cán bộ của Đảng phù hợp với từng giai đoạn cách mạng; đồng thời,
đưa ra những quan điểm, phương hướng chung nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Đề
tài có giá trị tham khảo để xây dựng các khái niệm và đề xuất phương hướng, giải pháp
nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND. Tuy nhiên, từ mục tiêu, nhiệm vụ đã
được xác định, đề tài chủ yếu luận bàn và kiến nghị một số vấn đề về xây dựng tiêu
chuẩn cán bộ, đảng viên, chính quyền nói chung, chưa bàn về nâng cao chất lượng đội
ngũ sĩ quan LLCSND nói riêng.
- Bộ Nội vụ, Chương trình xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức hành chính nhà nước giai đoạn I (2003-2005), Đề án 1 - Tổng điều tra, khảo sát,
đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nước giai đoạn I (2003-2005) [5].
Chương trình đã tổng hợp, phân tích, đánh giá chung thực trạng trình độ đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp huyện theo kết quả tổng điều tra; trong đó, thống
kê trình độ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách của Trung ương và địa
phương… theo từng nhóm tuổi. Đề án tổng hợp, phân tích thực trạng trình độ đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức của các cơ quan Trung ương. Chương trình đã
nêu ra các nhận định, đánh giá và cung cấp một số tư liệu để đánh giá về đội ngũ cán
bộ, công chức của các bộ, ngành Trung ương. Tuy nhiên, do mục đích, phạm vi nghiên
cứu của đề án, các nhà khoa học không đi sâu về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
của bộ, ngành cụ thể nào; nhất là đội ngũ sĩ quan trong lực lượng an ninh. Đây là nội
dung quan trọng luận án phải nghiên cứu, luận bàn, đưa ra khái niệm, nội dung và giải
pháp nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND.
- Vũ Khắc Sơn, Nâng cao hiệu quả tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức ngành lao động - thương binh và xã hội [70]. Đề tài đã nêu cơ sở lý luận về đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; phân tích nhân tố ảnh hưởng, kinh nghiệm về đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; phân tích thực trạng tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán
7
bộ, công chức; đưa ra quan điểm, chủ trương và một số giải pháp nâng cao hiệu quả tổ
chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành lao động, thương binh và xã hội Việt
Nam. Đề tài chưa nói đến đội ngũ cán bộ ở các ngành khác; nhất là đội ngũ trong lực
lượng vũ trang.
- Ban Tổ chức Trung ương (2003), Về luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý
với các bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương [3], kỷ yếu Hội nghị tổ chức tại Hà Nội
ngày 26, 27-5. Các tham luận tại hội nghị đã nêu rõ vai trò của việc luân chuyển cán bộ
ở các bộ, ngành, đoàn thể Trung ương; đối tượng và địa bàn đưa cán bộ đi luân chuyển;
những giải pháp để thực hiện tốt việc luân chuyển cán bộ các bộ, ngành, đoàn thể
Trung ương.
1.1.2. Sách tham khảo
- Trần Xuân Sầm, Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt
trong hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới [66]. Cuốn sách đã đề cập cơ sở lý luận và thực
tiễn của việc xác định cơ cấu, tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính
trị. Trên cơ sở lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện của Đảng,
các tác giả đã đặt vấn đề, để xác định cơ cấu, tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo phải căn cứ
vào đường lối cán bộ của Đảng đã được kiểm nghiệm từ cuộc sống. Cuốn sách nêu lên
thực trạng cơ cấu và việc thực hiện các tiêu chuẩn đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ
chốt trong hệ thống chính trị, cả ưu điểm, hạn chế, thiếu sót; xác định cơ cấu và tiêu
chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong những năm tới của hệ thống chính trị và từ những
luận cứ đó tác giả đưa ra phương hướng, giải pháp lớn nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt theo cơ cấu, tiêu chuẩn đổi mới trong những năm tới của hệ thống
chính trị.
- Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm, Luận cứ khoa học cho việc nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước [89]. Cuốn sách đã đề cập hệ thống khái niệm cán bộ từ lịch sử; quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, trong
đó đề cập vị trí, vai trò của cán bộ và công tác cán bộ; tiêu chuẩn cán bộ; việc phát
hiện, lựa chọn, đánh giá, sử dụng cán bộ; về huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ;
v.v.. Cuốn sách cũng nêu những đặc điểm cơ bản của thời đại ngày nay đòi hỏi phải
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhất là đòi hỏi của cuộc cách mạng khoa học -
công nghệ phát triển ngày càng cao làm tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc
8
đẩy quá trình toàn cầu hóa kinh tế và xuất hiện kinh tế trí thức; bầu không khí chính trị
thế giới diễn ra hết sức phức tạp, đầy mâu thuẫn và nghịch lý; cuộc đấu tranh giai cấp
và dân tộc diễn ra gay gắt dưới nhiều nội dung và hình thức mới. Từ những luận cứ đó,
các tác giả đã đề xuất một số phương hướng và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) ở Việt Nam.
- Vũ Văn Hiền, Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [29]. Nội dung chính của
cuốn sách gồm: những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý; thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
hiện nay, nhất là chỉ ra những mặt mạnh mặt yếu của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
hiện nay; yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong thời kỳ đổi mới;
những giải pháp chủ yếu để xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu
cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Trần Đình Hoan, Đánh giá quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [30]. Nội dung sách đề cập những vấn
đề lý luận về đánh giá, quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý trong sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước; quá trình thực hiện công tác đánh giá cán bộ trong lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam và thực trạng công tác này trong tình hình hiện nay; quan điểm, giải pháp đổi
mới, nâng cao chất lượng cán bộ lãnh đạo quản lý thời kỳ CNH, HĐH đất nước; vấn đề
đánh giá, quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý trong lịch sử nước ta và một số nước trên
thế giới là những vấn đề liên quan đến chất lượng cán bộ, nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác trên cơ sở quán triệt các quy định của Đảng về công tác cán bộ, phát huy
tính chủ động, sáng tạo của từng địa phương, đơn vị.
- Trần Đình Thắng, Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức nhà nước [75]. Cuốn sách đã đề cập đến một số vấn đề chung về cán bộ, công
chức, viên chức nhà nước; chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức nhà nước. Yêu cầu khách quan về Đảng lãnh đạo xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất
nước; quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng đội cán bộ, công chức, viên chức
nhà nước trong thời kỳ đầu đổi mới và quá trình triển khai tổ chức thực hiện chủ trương
của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước trong thời kỳ
đầu đổi mới đất nước. Cuốn sách cũng đưa ra quan điểm, chủ trương của Đảng về cải
9
cách công vụ, xây dựng đội ngũ, công chức trong thời kỳ mới và quá trình triển khai
thực hiện chủ trương đó. Tác giả còn đưa ra một số kinh nghiệm và giải pháp cải cách
công vụ, công chức, viên chức trong giai đoạn hiện nay.
1.1.3. Các bài báo khoa học
Những vấn đề chung về đội ngũ cán bộ, công tác tổ chức xây dựng Đảng
- Ngô Minh Tuấn, Tạo nguồn cán bộ làm công tác tổ chức xây dựng Đảng [93].
- Thanh Toàn, Năng lực, phẩm chất người lãnh đạo trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa [87].
- Đỗ Thị Ngọc Lan, Góp phần nâng cao năng lực cán bộ lãnh đạo [43].
- Đặng Đình Phú, Nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo chủ chốt [59].
- Nguyễn Đức Khiển, Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tổ chức
xây dựng đảng trong Quân đội [39].
- Nguyễn Tiến Hải, Tạo nguồn cán bộ quân đội trên địa bàn miền núi
phía Bắc [28].
- Hứa Khánh Vy, Giải pháp phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống cán bộ, đảng viên ở huyện Văn Lãng [113].
- Đức Vượng, Xây dựng chiến lược con người, tạo nguồn nhân lực, nhân tài
cho đất nước [112].
- Dương Trung Ý, Căn cứ đánh giá chất lượng, hiệu quả tự phê bình và phê
bình [116].
- Vĩnh Trọng, Chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” - nhiệm vụ trọng tâm
trên mặt trận chính trị - tư tưởng [90].
- Thu Huyền, Giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ tổ chức từ thực tiễn một số
tỉnh miền Trung [35].
Các bài báo nêu trên đã đề cập một số nội dung liên quan đến luận án:
Thứ nhất, mỗi cán bộ, đảng viên phải ra sức nỗ lực phấn đấu, có thái độ nghiêm
túc, cầu thị trong tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi phẩm chất đạo đức và năng lực;
Thứ hai, các tổ chức cơ sở đảng phải tăng cường giáo dục toàn diện đội ngũ cán
bộ, đảng viên;
Thứ ba, các cơ quan, đơn vị, nhà trường tích cực đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
trình độ năng lực cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
10
Về tuyển chọn cán bộ
- Đình Tùng, Tuyển chọn công chức tại một số quốc gia [96].
- Đình Tùng, Tuyển dụng, đào tạo công chức ở Nhật Bản [97].
- Vũ Ngọc Lân, Hãy để dân lựa chọn, giới thiệu [44].
Các bài báo nêu trên đã đề cập một số nội dung liên quan đến luận án:
Một là, ở nhiều quốc gia, nhân sự trong hệ thống chính quyền các cấp và các bộ,
ngành từ Trung ương đến địa phương luôn biến động theo nguyên tắc “vào - ra”, là sự
vận động không ngừng nhằm cân bằng về cơ cấu nguồn nhân sự trong một nền công vụ.
Vì vậy, cần làm tốt việc tuyển chọn cán bộ để thay thể những cán bộ nghỉ hưu, chuyển
công tác.
Hai là, nguyên tắc tuyển chọn công chức là theo luật pháp và nguyên tắc công
khai, bình đẳng, cạnh tranh.
Ba là, nhiều quốc gia có một bộ quy định về điều kiện chung đối với các đối
tượng tham gia quy trình tuyển dụng công chức nhà nước. Những điều kiện chung đó
bao gồm: quốc tịch, sức khỏe, độ tuổi, bằng cấp.
Bốn là, quy trình thi tuyển dụng công chức của các nước cơ bản áp dụng hình
thức thi tuyển: thi viết, thi vấn đáp, thi trắc nghiệm, thi tay nghề. Nội dung thi tuyển
dụng được chuẩn bị kỹ nhằm đánh giá đúng thực chất và tiềm năng của người dự
tuyển. Việc tổ chức các kỳ thi tuyển được chuẩn bị theo trình tự: phổ biến công khai
thông tin tuyển dụng để mọi đối tượng đều tiếp cận được (thông qua báo chí, truyền
hình, tờ rơi, áp phích...), phát hành các văn bản hướng dẫn thi tuyển, niêm yết tên của
những người tham gia dự thi, công bố kết quả thi và thời gian bảo lưu kết quả thi.
Năm là, tuyển dụng “mở” mỗi công dân đều có cơ hội trở thành công chức. Công
khai thông tin tuyển dụng và thi tuyển dụng (thi viết và vấn đáp). Cơ hội trở thành công
chức luôn dành cho mọi công dân khi đủ tuổi lao động, sức khỏe theo luật định. Do tính
đặc thù, việc thi tuyển công chức đối với các ngành nghề như y tế, xây dựng, kế toán,
luật sư ở Nhật Bản bắt buộc người dự tuyển phải có chuyên môn tương ứng. Các lĩnh
vực còn lại, việc tuyển dụng không đòi hỏi chuyên ngành đã có của người tham gia tuyển
dụng. Tất cả công chức và người tham gia thi tuyển vào vị trí có nhu cầu sau khi trúng
tuyển đều phải trải qua quá trình đào tạo cho công việc sẽ đảm nhiệm.
Sáu là, đào tạo tại chỗ và theo nghề tại các trường đào tạo cán bộ, công chức.
11
Đào tạo tại chỗ là hình thức đào tạo ngay sau khi trúng tuyển nhằm đáp ứng các
kỹ năng hành chính cần thiết cho công việc.
Đào tạo theo nghề tại các trường đào tạo công chức có ba cấp độ: cấp cơ sở,
cấp vùng và cấp quốc gia do Trường Cao đẳng tự trị địa phương, Viện Đào tạo công
chức quản lý đô thị (JIAM), Viện Đào tạo kỹ năng và trao đổi văn hóa Nhật Bản
(JAMP) đảm nhiệm.
Về công tác đánh giá cán bộ
- Nguyễn Thành Dũng, Một số tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp huyện ở Tây Nguyên [14].
- Lê Đức Bình, Để đánh giá đúng cán bộ [4].
- Phạm Quang Vinh, Yếu tố khách quan trong đánh giá cán bộ [109].
Các bài báo nêu trên đã đề cập một số nội dung liên quan đến luận án:
Thứ nhất, đánh giá về số lượng và cơ cấu phải đủ và hợp lý; không thừa, không
thiếu, với bộ máy tinh giản, gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả và mỗi cá nhân phát huy
tối đa năng lực, sở trường của mình;
Thứ hai, đánh giá chất lượng toàn diện của mỗi cán bộ chủ chốt cấp huyện;
Thứ ba, đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ theo chức trách.
Về công tác quy hoạch cán bộ
- Bùi Đức Lại, Bàn thêm về quy hoạch cán bộ [41].
- Nguyễn Quốc Việt, Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý Cà Mau [108].
- Lê Hoàng Quân, Quy hoạch cán bộ dài hạn ở Thành phố Hồ Chí Minh [61].
Các bài báo nêu trên đã đề cập một số nội dung liên quan đến luận án:
Thứ nhất, phải căn cứ vào quy định của cấp trên và có sự chỉ đạo thường xuyên,
chặt chẽ, bảo đảm tính công khai, dân chủ, công tâm, khách quan, đúng quy trình về
công tác quy hoạch;
Thứ hai, thực hiện công tác quy hoạch cán bộ phải đồng bộ ở các cấp, các
ngành từ Trung ương đến cơ sở địa phương;
Thứ ba, quy hoạch phải có tính khả thi cao. Kiên quyết khắc phục tình trạng
thực hiện công tác quy hoạch mang tính hình thức, thiếu khoa học;
Thứ tư, gắn với quy hoạch là đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ, lý luận chính trị, quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, ngoại ngữ, tin học. Đồng thời
thực hiện bổ nhiệm, điều động, luân chuyển cán bộ theo diện quy hoạch.
12
Về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở Việt Nam
- Trương Thị Thông, Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh hiện nay [81].
- Hoàng Mạnh Đoàn, Về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nghiệp vụ tổ
chức [25].
- Đặng Thu Nga, Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tổ chức [55].
- Nguyễn Tuấn Khanh, Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý [38].
- Đỗ Minh Cương, Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ [9].
- Nguyễn Văn Du, Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
tham mưu chiến lược [11].
- Nguyễn Trung Tài, Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
Hà Giang [73].
- Đặng Nam Điền, Chủ động đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ [22].
- Nguyễn Văn Quynh, Tiếp tục đổi mới công tác đào tạo và bồi dưỡng
cán bộ [65].
- Nguyễn Văn Du, Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở nước ngoài [10].
- Thân Minh Quế, Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
của tỉnh Bắc Giang [63].
Các bài báo nêu trên đã đề cập một số nội dung liên quan đến luận án:
Thứ nhất, thực hiện chặt chẽ quy chế quản lý cán bộ đi học ở nước ngoài, nhất
là phẩm chất, đạo đức. Phối hợp với các cơ quan, đơn vị trong quản lý, bố trí, sử dụng
có hiệu quả cán bộ sau đào tạo, bồi dưỡng;
Thứ hai, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trên cơ sở quy hoạch cán
bộ, yêu cầu chuyên môn. Đa dạng hóa phương thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ (kết hợp
đào tạo, bồi dưỡng trong nước và đưa đi nghiên cứu ở nước ngoài, mời chuyên gia
nước ngoài có kinh nghiệm sang giới thiệu các chuyên đề mà ta cần);
Thứ ba, gắn đào tạo, bồi dưỡng cán bộ với việc cụ thể hóa tiêu chuẩn chức
danh, tiêu chí đánh giá và quy hoạch cán bộ;
Thứ tư, phát huy tính chủ động, tự giác học tập, rèn luyện của mỗi cán ;
13
Thứ năm, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, các tổ chức đảng
trong hệ thống chính trị; trước hết là nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu đối
với yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Về xây dựng đội ngũ cán bộ của một số ngành, địa phương
- Nguyễn Mạnh Thắng, Xây dựng bản lĩnh chính trị cho chính ủy, chính trị viên
ở đơn vị cơ sở theo tư tưởng Hồ Chí Minh [76].
- Lê Ngọc Xuyên, Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở ở
Tây Nguyên [116].
- Đỗ Xuân Định, Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các Ban Tổ chức tỉnh,
thành ủy - thực trạng và giải pháp [24].
- Thu Thủy, Để nâng cao chất lượng cán bộ nữ ở Ban Tổ chức tỉnh, thành ủy [85].
Các bài báo nêu trên đã đề cập một số nội dung liên quan đến luận án:
Thứ nhất, tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả và tổ chức thực hiện tốt các giải pháp quản lý, bố trí, sử dụng biên chế
theo kế hoạch của tổ chức. Kiện toàn cán bộ đủ số lượng và đảm bảo chất lượng.
Thứ hai, chủ động quy hoạch và tạo nguồn cán bộ.
Thứ ba, thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ; trong đó chú
trọng xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ về lý luận, khoa học, nghiệp vụ, chuyên môn
giỏi, khoa học - kỹ thuật - công nghệ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Về công tác nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên
- Nguyễn Thị Thu Hà, Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của Thành phố Hồ
Chí Minh đáp ứng yêu cầu mới [26].
- Xuân Sơn, Biện pháp nâng cao chất lượng đảng viên nông thôn miền núi
phía Bắc [72].
- Thủy Anh, Nâng cao chất lượng cán bộ tổ chức từ thực tiễn một số tỉnh miền
núi phía Bắc [1].
- Thu Thủy, Nâng cao chất lượng đảng viên người dân tộc thiểu số [86].
- Hứa Khánh Vy, Hà Nội nâng cao chất lượng cán bộ trong hệ thống chính trị ở
cơ sở [114].
- Nguyễn Dương Nam, Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tham mưu các cơ
quan đảng ở Trung ương [53].
14
Các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học đã đề cập nhiều khía cạnh liên quan
đến công tác cán bộ nói chung, một số khâu trong công tác cán bộ nói riêng trên bình
diện tổng quát. Từ những ý kiến này, tác giả luận án có thể nghiên cứu vận dụng vào
vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND.
1.1.4. Luận án có liên quan
- Phạm Công Khâm, Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn
đồng bằng sông Cửu Long hiện nay [36]. Những nội dung liên quan đến luận án:
Một là, vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt thể hiện ở chỗ: đội ngũ cán bộ chủ
chốt giữ vai trò quyết định trong việc hiện thực hóa sự lãnh đạo và quản lý của Đảng và
Nhà nước về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội; đội ngũ cán bộ chủ chốt giữ vai trò
quyết định xây dựng hệ thống tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị vững mạnh, phát
động, duy trì các phong trào cách mạng của nhân dân.
Hai là, một số giải pháp chủ yếu xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt: Trong giải
pháp thứ nhất, tác giả luận án cho rằng, cần xác định cụ thể tiêu chuẩn và cơ cấu của
đội ngũ cán bộ chủ chốt. Theo tác giả, tiêu chuẩn cán bộ là một hệ thống các yêu cầu
về phẩm chất, năng lực cần phải có để cán bộ đảm đương và hoàn thành tốt nhiệm vụ
do cương vị công tác đòi hỏi.
Những điểm cần nhấn mạnh về tiêu chuẩn cán bộ chủ chốt của hệ thống chính
trị là: nắm vững luật pháp, nghiệp vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mình theo luật định;
có khả năng điều hành, tổ chức quản lý và chỉ đạo dứt điểm từng công việc trong từng
thời gian cho phù hợp, thích nghi với điều kiện và con người ở nông thôn đồng bằng
sông Cửu Long; biết xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch ngân sách.
Trong giải pháp thứ hai, tác giả luận án nhấn mạnh, phải gắn đào tạo, bồi
dưỡng với quy hoạch cán bộ. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đó theo hướng: tuân
thủ chặt chẽ yêu cầu về tiêu chuẩn cán bộ; vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội;
chống chủ nghĩa hình thức, mở lớp tràn lan, chạy theo bằng cấp, không chú trọng chất
lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng; kết hợp chặt chẽ giữa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
chính trị ở cơ sở với nhu cầu thật sự của cá nhân cán bộ, động viên được cán bộ học tập
nâng cao trình độ; bảo đảm cho cán bộ trước khi bố trí vào vị trí chủ chốt đã được đào
tạo, bồi dưỡng những kiến thức cơ bản; đào tạo, bồi dưỡng đúng đối tượng, đó là
nguồn cán bộ trong quy hoạch trước mắt và lâu dài, phải chú ý con em gia đình cách
mạng, những người có công với nước, những gia đình vượt khó, tiêu biểu, con em dân
15
tộc. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng phải thiết thực, phù hợp với yêu cầu từng loại cán bộ;
chú trọng cả phẩm chất đạo đức và kiến thức, cả lý luận và thực tiễn, bồi dưỡng kiến
thức cơ bản và kỹ năng thực hành. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xã nên theo phương
châm: những gì ở cơ sở cần thì cán bộ ở đó phải học. Thực hiện nội dung đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt nói trên phải thông qua việc kết hợp nhiều phương
thức, hình thức đào tạo, bồi dưỡng, trong đó cần coi trọng hai loại hình đào tạo cơ bản:
đào tạo, bồi dưỡng chính quy ở trường chính trị và bồi dưỡng, rèn luyện ở thực tiễn,
trong lao động sản xuất và trong các phong trào cách mạng của quần chúng.
Trong giải pháp thứ ba, luận án đề cập việc tiếp tục hoàn thiện chính sách đãi
ngộ cán bộ và tăng cường sự chỉ đạo, giúp đỡ của cấp trên.
- Trịnh Thanh Tâm, Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt là nữ của hệ thống chính
trị xã ở đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay [74]. Những nội dung liên quan đến
luận án:
Thứ nhất, luận án đã trình bày và phân tích khá sâu quan niệm về xây dựng đội
ngũ cán bộ chủ chốt là nữ của hệ thống chính trị xã ở đồng bằng sông Hồng - đó là toàn
bộ hoạt động của các cấp ủy, các cơ quan tham mưu của cấp ủy từ tỉnh đến đảng ủy xã;
của cán bộ, đảng viên và các cơ quan có liên quan, mà trực tiếp là hoạt động của huyện
ủy, đảng ủy xã và sự phối hợp giữa các tổ chức này trong thực hiện các khâu của công
tác cán bộ đối với cán bộ đương chức và dự nguồn các chức danh cán bộ chủ chốt của
hệ thống chính trị xã và việc tự học, tự rèn của họ, nhằm tạo nên đội ngũ cán bộ chủ
chốt là nữ của hệ thống chính trị xã có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của đảng bộ xã.
Thứ hai, luận án đã rút ra được một số kinh nghiệm về xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ chốt là nữ của hệ thống chính trị xã ở đồng bằng sông Hồng từ năm 2001 đến nay:
Một là, cấp ủy từ tỉnh, thành phố đến các xã, đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ
chủ chốt hệ thống chính trị nhận thức sâu sắc chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác
cán bộ nữ. Hai là, đấu tranh kiên quyết, loại trừ một cách căn bản tư tưởng xem nhẹ vai
trò của phụ nữ trong cán bộ, đảng viên. Ba là, giải quyết đúng đắn, hợp lý mối quan hệ
giữa tiêu chuẩn cán bộ và cơ cấu giới tính trong đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống
chính trị ở các xã. Bốn là, hiểu rõ đặc điểm tâm sinh lý, điều kiện hoàn cảnh gia đình,
điều kiện hoạt động của cán bộ nữ để tiến hành đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng một
cách hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ hoàn thành nhiệm vụ và trưởng thành.
16
Năm là, tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt để cán bộ nữ học tập nâng cao trình độ và
năng lực công tác, nhất là trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Sáu là, phát huy
mạnh mẽ vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân ở các xã, nhất là vai trò
của hội liên hiệp phụ nữ xã là nhân tố không thể thiếu trong xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ chốt là nữ của hệ thống chính trị cơ sở.
Thứ ba, luận án đã trình bày khá sâu ba nhóm giải pháp liên quan về xây dựng
đội ngũ cán bộ chủ chốt là nữ của hệ thống chính trị xã ở đồng bằng sông Hồng. Một là,
tiếp tục cụ thể hóa tiêu chuẩn cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị xã và nâng cao chất
lượng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ, tập trung vào tạo nguồn, quy hoạch và
đào tạo cán bộ nữ. Hai là, phát huy mạnh mẽ tinh thần tự học tập, rèn luyện của đội ngũ
cán bộ chủ chốt là nữ và thực hiện tốt chính sách cán bộ nữ. Ba là, phát huy vai trò của
đảng ủy, đảng bộ, các tổ chức trong hệ thống chính trị xã và nhân dân, coi trọng vai trò
của Hội Liên hiệp phụ nữ xã, tập trung vào phát hiện phụ nữ có đức, có tài và giám sát
hoạt động của cán bộ nữ.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC NGHIÊN CỨU CỦA LÀO
1.2.1. Các đề tài khoa học
- Ma la VỊ LẠ CHÍT, Thoong chăn CHĂN THẠ PHÔNG, Sụ văn ny SI SỤ
PHẠP MY XAY, Chiến lược kiện toàn - xây dựng và bảo vệ giữ gìn lực lượng an
ninh [182].
Đề tài trình bày những vấn đề cơ bản về chiến lược kiện toàn - xây dựng và bảo
vệ giữ gìn LLANND; trình bày tình hình thực tế của việc kiện toàn - xây dựng và bảo
vệ giữ gìn LLANND. Tập thể tác giả đã chỉ ra một số hạn chế và đề xuất phương
hướng kiện toàn toàn - xây dựng và bảo vệ giữ gìn LLANND.
* Về phương hướng kiện toàn LLANND
Một là, kiện toàn - xây dựng LLANND vững vàng về lập trường chính trị, có
lập trường giai cấp sâu sắc, nhận biết ai là bạn ai là thù của quốc gia, của giai cấp và
biết mục tiêu đấu tranh của mình, trung thực đối với Đảng - đối với sự nghiệp đổi mới
cũng như lý tưởng xã hội chủ nghĩa (XHCN);
Hai là, kiện toàn - xây dựng LLANND vững mạnh về tổ chức, có phong cách
lãnh đạo chỉ huy khoa học, có kỷ luật, thực hiện nghiêm ngặt chỉ thị của người chỉ huy;
Ba là, kiện toàn - xây dựng LLANND đủ về số lượng và chất lượng, có khả
năng về mặt chuyên môn nghiệp vụ, kỹ thuật, công nghệ hiện đại và có khả năng giải
quyết các vấn đề trong xã hội đúng, nhanh chóng và hiệu quả cao;
17
Bốn là, kiện toàn - xây dựng LLANND với lực lượng xuất thân từ nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân, là công cụ sắc bén của Đảng, Nhà nước trong đấu tranh giai
cấp, đấu tranh bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia, bảo vệ an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội một cách vững chắc;
Năm là, kiện toàn - xây dựng LLANND thành lực lượng hiện đại tinh nhuệ, có
tinh thần yêu Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội (CNXH), đồng thời có tinh thần quốc tế
trong sáng, có khả năng hoạt động công tác bảo vệ an ninh với các nước trong khu vực
và thế giới một cách tốt nhất.
* Về phương hướng bảo vệ giữ gìn LLANND
Một là, tiến hành giáo dục chính trị - tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ LLANND
có quan điểm, lập trường giai cấp, có phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức cách
mạng, có ý thức tổ chức, có kỷ luật nghiêm và chỉ thị của cấp trên, có ý thức cảnh
giác cao với âm mưu xảo quyệt, hoạt động phá hoại nội bộ ta của bọn địch và người
xấu. Nhất là chiến lược “diễn biến hòa bình” và “cách mạng màu” của bọn địch đối
với lực lượng của ta;
Hai là, tiến hành theo dõi, kiểm tra, thúc đẩy cho cán bộ, chiến sĩ LLANND
thực hiện các quy định, quy chế, các điều cấm về công tác bảo vệ bí mật của Nhà nước,
của Quốc gia và của LLANND một cách nghiêm ngặt, chủ động phòng ngừa, tìm hiểu,
phát hiện, hạn chế và đấu tranh chống mọi hình thức hoạt động của địch và người xấu
hòng xâm nhập vào nội bộ một cách kịp thời;
Ba là, chú trọng bảo vệ an toàn cơ quan, văn phòng, lãnh đạo các cấp, cán bộ,
đảng viên, chiến sĩ và bảo vệ giữ gìn phương tiện kỹ thuật được trang cấp vào công
việc và cho hoạt động LLANND cho an toàn vững chắc.
- Khăm hùng SÉNG PẠ SỢT, Băn thâu PHIM PHỊ SÁN, Khôm ÍN THỊ LẠT,
Chiến lược phòng chống tiêu cực xã hội [175].
- Sí sạ vạt KẸO MA LA VÔNG, Khăm phôn SÍ HÁ PẮN NHA, Khăm tắn
BUN THON Ụ THAI, Chiến lược phòng, chống và trấn áp sản xuất, buôn bán, sử
dụng chất ma túy tại CHDCND Lào [196].
- Sổm kẹo SÍ LA VÔNG, Thoong khên BUN MẲN, Thoong báy LO VĂN
XAY, Chiến lược chuyển xuống cơ sở xây dựng đơn vị chiến đấu nghiệp vụ cho vững
mạnh toàn diện [198].
Với những đề tài khoa học trên, cũng đã đề cập đến vấn đề cán bộ, sĩ quan Cảnh sát
nhân dân (CSND).
18
1.2.2. Các bài báo khoa học
- Khăm-phăn VÔNG-PHA-CHĂN, Nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ
Lào [37].
- Xay sỉ SẲN TỊ VÔNG, Công tác quy hoạch và bồi dưỡng cán bộ kế tục chức
vụ lãnh đạo - quản lý ở các cấp là công việc cấp bách của Đảng ủy, Ban Tổ chức các
cấp [218].
- Sín nạ khon ĐUỐNG BĂN ĐÍT, Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tổ chức
để làm tham mưu cho cấp ủy các cấp thực hiện tốt đường lối tổ chức của Đảng [197].
- Thoong phút SÍM MA, Một số giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ chuyên môn ở tỉnh Xay Nhạ Bu Li [210].
- Bun thạ ma ly MẲN A NÔNG, Nâng cao chất lượng cán bộ tài chính ở tỉnh
ẮT TẠ PƯ [151].
- Kống thay THỆP KHĂM HƯƠNG, Đào tạo - bồi dưỡng cán bộ Tổ chức cấp
tỉnh là sự cần thiết cấp bách để hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Đảng [181].
- Sụ văn thon MẠ NY PHĂN, Nâng cao chất lượng cán bộ - công chức cấp
huyện ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào [206].
- Són mạ ny SỤ LỊ NHA ĐỆT, Một số kinh nghiệm trong đào tạo - bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ có chất lượng [203].
- Vị lạ phăn SỊ LỊ THĂM, Một số kinh nghiệm đào tạo - bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo - quản lý [216].
- Sụ đa von LÍT SÉN VẮNG, Chú trọng đào tạo cán bộ lãnh đạo - quản lý
trong điều kiện hội nhập quốc tế [204].
- Sút thị kón PHIM PHĂN, Nâng cao chất lượng cán bộ lãnh đạo - quản lý của
Cục quản lý Tài nguyên rừng trong điều kiện mới [207].
- Khăm mẳn SÓ PA SỢT, Nâng cao chất lượng đảng viên là nhiệm vụ và trách
nhiệm trực tiếp của cấp ủy [177].
- Sốm mút KẸO MẠ NY, Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở
lĩnh vực Ngân hàng Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào là sự cần thiết [199].
- Phá mi SÍ CHẮN THOONG THỊP, Nâng cao chất lượng công tác Tổ chức -
cán bộ là yếu tố đảm bảo vai trò cầm quyền của Đảng [183].
- Vị lạ phăn SỊ LỊ THĂM, Các bước xây dựng tiêu chuẩn cán bộ [217].
Các bài báo nêu trên đã đề cập một số nội dung liên quan đến luận án:
19
Thứ nhất, yêu cầu, nội dung và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng
viên ở các cơ quan, chính quyền địa phương nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ đó đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao;
Thứ hai, công tác quy hoạch gắn với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở các cấp nhằm
khắc phục tình trạng kém chất lượng của đội ngũ cán bộ;
Thứ ba, công tác nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở một số
ngành, địa phương và nâng cao chất lượng công tác tổ chức và cán bộ nhằm nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng với nhiệm vụ chính trị được giao phó;
Thứ tư, các bước xây dựng tiêu chuẩn cán bộ nhằm nâng cao chất lượng của họ
đáp ứng với tiêu chuẩn đó và khả năng đảm đương nhiệm vụ của từng cán bộ.
1.2.3. Các luận án
1.2.3.1. Các luận án chủ yếu có liên quan đến ngành An ninh, lực lượng
cảnh sát nhân dân và lực lượng vũ trang Lào
- Sởm súc SỈM PHA VÔNG, Tổ chức vận động quần chúng đấu tranh phòng,
chống tội phạm ở CHDCND Lào [69]. Luận án đã xây dựng khung lý luận cơ bản,
đánh giá thực trạng (điểm mạnh, yếu), đưa ra dự báo tác động và một số giải pháp nâng
cao hiệu quả công tác tổ chức vận động quần chúng đấu tranh phòng, chống tội phạm
của LLCSND. Trong các nhóm giải pháp mà tác giả luận án đưa ra là có giải pháp về:
1) Kiện toàn bộ máy tổ chức, nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ CSND để tổ chức
vận động quần chúng đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả; 2) Tăng cường
củng cố đội ngũ cán bộ CSND trực tiếp làm công tác tổ chức vận động quần chúng
đấu tranh phòng, chống tội phạm ở cơ sở. Đó là 2 giải pháp có thể tiếp thu nghiên cứu.
1.2.3.2. Các luận án chủ yếu có liên quan đến xây dựng đội ngũ cán bộ các
ngành, địa phương
Cán bộ là vấn đề then chốt quan trọng hàng đầu của Đảng NDCM Lào và Chính
phủ nước CHDCND Lào hiện nay, nên được khá nhiều tác giả kỳ công nghiên cứu.
Sau đây là một số công trình tiêu biểu:
- Xỉnh khăm PHÔM MA XAY, Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước Lào trong giai đoạn hiện nay [115]. Luận án
phân tích những yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
kinh tế nói chung và công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong công cuộc xây
dựng, phát triển nền kinh tế hàng hóa ở CHDCND Lào; trình bày thực trạng đội ngũ
20
cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế của Lào và tình hình công tác đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ này; đề xuất 4 phương hướng và 8 giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường
công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý kinh tế của Đảng và Nhà
nước Lào trong giai đoạn hiện nay; trong đó có các giải pháp luận án có thể kế thừa:
một là, xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh
tế; hai là, đẩy mạnh phong trào tự học tập nâng cao trình độ, năng lực và rèn luyện đạo
đức cách mạng trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế của Lào; ba là, xây dựng
và hoàn thiện các chế độ, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý kinh tế và bốn là, đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế.
- Bun xợt THĂM MA VÔNG, Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở
các tỉnh phía Nam nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay
[6]. Luận án trình bày vai trò, vị trí của cấp huyện và đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp
huyện hiện nay ở Lào; đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện
ở các tỉnh phía Nam nước CHDCND Lào; đề ra mục tiêu, 6 phương hướng và 7 giải
pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở các tỉnh phía Nam
nước CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay, trong đó có các giải pháp luận án có thể
kế thừa: một là, cụ thể hóa tiêu chuẩn các chức danh cán bộ chủ chốt cấp huyện ở các
tỉnh Nam Lào; hai là, nâng cao chất lượng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ
chốt cấp huyện ở các tỉnh Nam Lào và ba là, xây dựng chính sách và thực hiện chính
sách đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện trong tình hình mới.
- Đệt ta con PHI LA PHĂN ĐỆT, Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
các ban, ngành ở thành phố Viêng Chăn trong giai đoạn cách mạng hiện nay [21].
Luận án làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của đội ngũ cán lãnh đạo chủ chốt
và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ các ban, ngành ở thành phố Viêng Chăn
(CHDCND Lào); trình bày thực trạng, kinh nghiệm, những yêu cầu đặt ra cho công tác
xây dựng đội ngũ đó; đề xuất 3 phương hướng và 4 giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các ban, ngành ở thành phố Viêng Chăn trong giai
đoạn cách mạng hiện nay; trong đó có các giải pháp luận án có thể kế thừa: một là, đẩy
mạnh, nâng cao chất lượng công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ; hai là, xây dựng hệ
thống các quy chế công tác cán bộ thật khoa học, chặt chẽ.
21
- Samlane PHANKHAVONG, Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác
thi đua, khen thưởng cấp tỉnh của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn
hiện nay [67]. Những nội dung liên quan đến luận án:
Một là, vai trò của đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác thi đua, khen thưởng
thể hiện ở chỗ: đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác thi đua, khen thưởng cấp tỉnh giữ
vai trò là nhân tố quan trọng bảo đảm cho công tác thi đua, khen thưởng ở địa phương
đi đúng đường lối, chủ trương của Đảng NDCM Lào và chính sách, pháp luật của Nhà
nước Lào; góp phần quan trọng vào công tác xây dựng các đảng bộ tỉnh, thành phố và
xây dựng Đảng NDCM Lào ngày càng trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu cao, đảm bảo lãnh đạo thành công công cuộc đổi mới trên đất nước Lào;
có vai trò quan trọng trong xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của chính
quyền, Mặt trận Lào xây dựng đất nước và các đoàn thể chính trị - xã hội từ tỉnh, thành
phố đến cơ sở và có vai trò quan trọng trong xây dựng, củng cố và phát huy sức mạnh
khối đại đoàn kết các bộ tộc, tộc người trên đất nước Lào.
Hai là, một số giải pháp chủ yếu tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách
công tác thi đua, khen thưởng cấp tỉnh ở CHDCND Lào: nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của cấp ủy tỉnh, thành phố, đội ngũ cán bộ, đảng viên về xây dựng đội ngũ cán
bộ chuyên trách công tác thi đua, khen thưởng cấp tỉnh; cụ thể hóa tiêu chuẩn chức
danh cán bộ, lãnh đạo, quản lý và cán bộ, công chức chuyên trách công tác thi đua,
khen thưởng ở các tỉnh, thành phố của Lào; xây dựng và thực hiện quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng, quản lý, đánh giá, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ tạo nên đội ngũ
đó có số lượng hợp lý, có chất lượng hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ; ban hành cơ
chế, chính sách và đề ra các biện pháp về tư tưởng, tổ chức để đẩy mạnh việc tự đào
tạo, rèn luyện của cán bộ chuyên trách công tác thi đua, khen thưởng; xây dựng và ban
hành Luật Thi đua, khen thưởng; đẩy mạnh cải cách hành chính, phòng, chống tham
nhũng, lãng phí; phát huy vai trò trách nhiệm của các cấp ủy đảng và các tổ chức có
liên quan trong xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác thi đua, khen thưởng.
Đáng chú ý là, theo tác giả là phải có tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn chức danh
cán bộ chuyên trách công tác thi đua, khen thưởng ở các tỉnh, thành phố. Về tiêu chuẩn
chung, tác giả đưa ra: phẩm chất chính trị; phẩm chất đạo đức, lối sống; kiến thức và
năng lực; phong cách làm việc. Về tiêu chuẩn chức danh gồm: phẩm chất chính trị, đạo
đức, lối sống; năng lực lãnh đạo, quản lý; trình độ và phong cách làm việc.
22
- Xone MONEVILAY, Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ngành lao động
và phúc lợi xã hội Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn hiện nay [219].
Luận án đã làm cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức ngành lao động và phúc lợi xã hội CHDCND Lào; trình bày thực trạng, nguyên
nhân và kinh nghiệm; đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ngành lao động và phúc lợi xã hội CHDCND
Lào đến năm 2025.
1.3. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA CÁC CÔNG TRÌNH KHOA
HỌC ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN CẦN TẬP
TRUNG GIẢI QUYẾT
1.3.1. Khái quát kết quả nghiên cứu của công trình khoa học đã công bố
liên quan
Trên cơ sở tổng quan các công trình khoa học nước ngoài và trong nước, có thể
khẳng định các công trình khoa học đã công bố liên quan, tuy tiếp cận vấn đề nghiên cứu
dưới góc độ khác nhau, nhưng có ý nghĩa vô cùng to lớn, là cơ sở lý luận quan trọng để
phân tích, luận giải, làm rõ chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND và nâng cao chất lượng
đội ngũ sĩ quan LLCSND.
Một là, ở những phạm vi, góc độ và đối tượng nghiên cứu khác nhau, trong mỗi
công trình, luận án, luận văn, bài báo khoa học các tác giả đã đề cập, đi sâu luận giải
nhiều vấn đề công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ đảng viên, xây dựng đội ngũ
cán bộ, nâng cao chất lượng đảng viên, công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng lực lượng
Cảnh sát, quản lý, giáo dục, rèn luyện, tư tưởng cán bộ, xây dựng tiêu chuẩn... Đây là
những nội rất cơ bản trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng
và Nhà nước; xây dựng lực lượng Cảnh sát nhân dân.
Hai là, hầu hết các công trình, luận án, luận văn, bài báo khoa học, các tác giả đã
làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, chỉ ra những ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân, rút ra
những vấn đề có tính nguyên tắc và những bài học kinh nghiệm trong từng lĩnh vực xây
dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sĩ quan lực lượng an ninh và lực
lượng Cảnh sát. Trên cơ sở nghiên cứu những yếu tố tác động cả khách quan, chủ quan ở
từng giai đoạn lịch sử, mỗi công trình, luận án, luận án, bài báo khoa học đã xác định
phương hướng, yêu cầu, đồng thời đã đưa ra hệ thống giải pháp nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động trên từng mặt công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sĩ quan
23
của các cơ quan, đơn vị từ Trung ương đến địa phương; nhất là đội ngũ lực lượng an
ninh, lực lượng cảnh sát của các đơn vị. Hệ thống các giải pháp trong mỗi công trình,
luận án, luân văn, bài báo khoa học là đa dạng, phong phú, phù hợp với nhiệm vụ, phạm
vi, đối tượng nghiên cứu đã xác định.
Ba là, kết quả nghiên cứu của các công trình, luận án, luận văn, bài báo khoa học
này có ý nghĩa cả về lý luận, thực tiễn và nhiều luận điểm đã trình bày trong các công
trình, luận án, luận văn, bài báo khoa học, hiên nay vẫn nguyên giá trị cần tiếp tục được
kế thừa, vận dụng phù hợp với thực tiễn xây dựng Đảng, xây dựng cán bộ và xây dựng
đội ngũ sĩ quan của các Đảng bộ, các đơn vị Cảnh sát nhân dân giai đoạn hiện nay.
Bốn là, trên cơ sở tổng quan các công trình khoa học nước ngoài và trong nước,
có thể khẳng định các công trình khoa học đã công bố tuy tiếp cận vấn đề nghiên cứu
dưới các góc độ khác nhau, nhưng có ý nghĩa vô to lớn, là cơ sở lý luận quan trọng để
phân tích, luận giải, làm rõ chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND hiện nay.
Các công trình khoa học đã làm rõ công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ
cán bộ, đảng viên, xây dựng lực lượng an ninh nhân dân và cảnh sát nhân dân; bước đầu
đã làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về xây dựng, phát triển, chất lượng và nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, sĩ quan, chỉ ra một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ các Bộ, ngành đáp ứng đòi hỏi của thời kỳ mới.
Năm là, nghiên cứu chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND, Bộ An ninh nước
CHDCND Lào giai đoạn hiện nay là công trình nghiên cứu độc lập, không trùng lặp về
đối tượng và phạm vi nghiên cứu với các công trình khoa học có liên quan đã công bố.
Bởi vì, chưa có công trình nào luận giải một cách cơ bản quan niệm và những yếu tố tạo
thành chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND, Bộ An ninh nước CHDCND Lào. Chưa có
công trình nào nghiên cứu, đánh giá một cách đầy đủ thực trạng chất lượng đội ngũ sĩ
quan LLCSND Lào. Chưa có công trình nào nghiên cứu những yếu tố tác động, xác định
yếu cầu và đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND Lào.
1.3.2. Những vấn đề luận án cần tập trung giải quyết
Một là, kế thừa có chọn lọc những kết quả các công trình nghiên cứu đã đi trước,
bám sát mục tiêu đã được xác định, tác giả tập trung nghiên cứu chất lượng đội ngũ sĩ
quan LLCSND, Bộ An ninh nước CHDCND Lào giai đoạn hiên nay mà không lấn sâu
vào vấn đề trừu tượng hoặc dừng lại ở sự mô tả chung chung. Tác giả cố gắng luận giải,
khái quát lý luận về đội ngũ cán bộ, đội ngũ sĩ quan LLCSND và chất lượng đội ngũ sĩ
24
quan LLCSND, Bộ An ninh Lào giai đoạn hiện nay, trên cơ sở những dữ liệu, số liệu thu
thập, thống kê được, đồng thời sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, mà chủ
yếu là nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch sử,
thống kê, so sánh... dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đạo đức Cayxỏn PHÔMVIHÁN để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn chất
lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND Lào.
Hai là, luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu làm rõ lý luận, thực tiễn về chất lượng đội
ngũ sĩ quan LLCSND, Bộ An ninh nước CHDCND Lào; phân tích làm rõ quan niệm
chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND, Bộ An ninh Lào. Xác định, luận giải những yếu tố
cấu thành chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND, Bộ An ninh Lào. Nghiên cứu, xác lập
tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND, Bộ An ninh Lào. Đây là những
khái niệm, công cụ, phạm trù lý luận trung tâm và là những vấn đề cấp thiết cần nghiên
cứu làm rõ trong luận án.
Ba là, phân tích làm rõ thực trạng chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND, Bộ An
ninh Lào. Phản ánh rõ những ưu điểm về chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND, Bộ An
ninh Lào; đồng thời, chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm về chất lượng đội ngũ sĩ quan
LLCSND Lào. Từ thực trạng đó rút ra nguyên nhân và những kinh nghiệm. Đây cũng là
vấn đề mới và có ý nghĩa thiết thực tạo cơ sở trực tiếp cho đề xuất các nội dung, hình
thức, phương pháp nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND Lào được sát thực
tiễn, đúng đối tượng và phù hợp với điều kiện cụ thể của CHDCND Lào.
Bốn là, dự báo những yếu tố tác động đến nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan
LLCSND, Bộ An ninh Lào giai đoạn hiện nay; xác định phương hướng nâng cao chất
lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND Lào; đề xuất những giải pháp nâng cao chất đội ngũ sĩ
quan LLCSND, Bộ An ninh nước CHDCND Lào giai đoạn hiên nay.
25
Chương 2
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ SĨ QUAN LỰC LƯỢNG
CẢNH SÁT NHÂN DÂN, BỘ AN NINH NƯỚC CỘNG HÒA
DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO GIAI ĐOẠN HIỆN NAY -
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. ĐỘI NGŨ SĨ QUAN LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN, BỘ AN NINH
NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
2.1.1. Khát quát về tổ chức, lực lượng của Bộ An ninh Lào
Bộ An ninh Lào “là một tổ chức đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp và toàn
diện của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Ban Bí thư Trung ương Đảng; là tổ chức
quản lý nhà nước cấp vĩ mô trong bộ máy Chính phủ” [155, tr.2]. Bộ An ninh có chức
năng tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chính phủ:
Chiến lược về công tác bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội của
đất nước; xây dựng lực lượng an ninh trong sạch, vững mạnh toàn diện; tổ
chức thực hiện đường lối, chính sách quốc phòng - an ninh toàn dân, toàn
diện của Đảng, bảo vệ, giữ gìn vững chắc chế độ dân chủ nhân dân và thực
hiện nhiệm vụ và quyền hạn trong quản lý, điều hành của nhà nước theo
pháp luật quy định [155, tr.2].
Lực lượng Cảnh sát nhân dân thuộc Bộ An ninh Lào là một trong những lực
lượng vũ trang trọng yếu của Đảng NDCM Lào và Nhà nước Lào; là lực lượng chuyên
trách, nòng cốt trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn trật tự, an toàn xã
hội của đất nước. Việc nâng cao và tăng cường công tác xây dựng LLCSND về các mặt
chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, cơ sở vật chất,... nhằm nâng cao khả năng chiến đấu,
công tác, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn trật tự an toàn xã hội
của đất nước trong tình hình giai đoạn mới, đó là điều rất quan trọng và cần thiết, nhất là
trong điều kiện CHDCND Lào hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và trên thế giới.
Qua nhiều lần thay đổi, đến ngày 27-02-2007, tại Nghị định số 79/TTg, về tổ
chức và hoạt động của Bộ An ninh, tổ chức bộ máy gồm:
1) Tổng cục Chính trị An ninh;
2) Tổng cục An ninh;
3) Tổng cục Cảnh sát;
4) Tổng cục Hậu cần;
26
5) Văn phòng Bộ;
6) Cục Trinh sát 504;
7) Cục Quản lý hộ khẩu và xây dựng cơ sở;
8) Cục Thông tin;
9) Cục Kiểm tra;
10) Cục Nghiên cứu khoa học và lịch sử;
11) Cục Giam giữ - Cải tạo;
12) Bộ Tư lệnh bảo vệ Trung ương;
13) Bộ Tư lệnh bảo vệ mục tiêu;
14) Bộ Tư lệnh bảo vệ cơ động;
15) Học viện An ninh nhân dân;
16) Học viện Cảnh sát nhân dân.
Ở cấp tỉnh có Bộ chỉ huy An ninh tỉnh và thành phố gồm bộ máy tổ chức:
1) Văn phòng Bộ chỉ huy;
2) Phòng Chính trị;
3) Phòng An ninh;
4) Phòng Cảnh sát;
5) Phòng Hậu cần;
6) Phòng Quản lý dân số và An ninh bản;
7) Đơn vị 102;
8) Tiểu đoàn cơ động;
9) Trường trung cấp hoặc sơ cấp An ninh.
Ở cấp huyện có Bộ chỉ huy An ninh huyện và quận gồm bộ máy tổ chức:
1) Văn phòng Hành chính và Tổ chức;
2) Đội An ninh;
3) Đội Cảnh sát;
4) Đội Hậu cần;
5) Các đội An ninh Cụm bản.
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy lực lượng Cảnh sát nhân
dân Lào
* Về chức năng và nhiệm vụ: LLCSND là một trong những lực lượng vũ trang
trọng yếu của Đảng và Nhà nước; là lực lượng chuyên trách, nòng cốt trong cuộc đấu
27
tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, thực hiện chức năng,
nhiệm vụ sau:
Chủ động phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các vi phạm pháp luật về
trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ trật tự công cộng; phát hiện nguyên nhân, điều kiện phát
sinh tội phạm, vi phạm pháp luật và kiến nghị các biện pháp loại trừ những nguyên
nhân, điều kiện đó.
Thực hiện việc xử phạt hành chính đối với các vi phạm pháp luật về trật tự, an
toàn xã hội theo quy định của pháp luật. Cơ quan điều tra của LLCSND tiến hành theo
các hoạt động điều tra và đề nghị truy tố người phạm tội theo quy định của pháp luật
hình sự và tố tụng hình sự.
Bảo vệ trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường thuỷ, đường sắt (trong thời
gian tới); cấp và kiểm tra đăng ký, bằng lái, giấy phép sử dụng và kiểm tra thiết bị an
toàn các phương tiện giao thông vận tải đường bộ; phối hợp với cơ quan chức năng
kiểm tra thiết bị an toàn các phương tiện giao thông vận tải đường thuỷ, đường sắt khi
có dấu hiệu không bảo đảm an toàn.
Bảo đảm thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật đối
với những người đã có quyết định tạm giữ, tạm giam; thi hành các bản án phạt tù; giáo
dục, cải tạo phạm nhân thành những công dân có ích cho xã hội; quản lý, giáo dục
những người đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng.
Áp giải bị cáo, bảo vệ các phiên toà hình sự và khi có yêu cầu của Toà án nhân
dân, bảo vệ các phiên toà dân sự, hỗ trợ các chấp hành viên của Toà án trong việc áp
dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án.
Cộng tác chặt chẽ với LLANND phát hiện, ngăn chặn, trấn áp kịp thời những
hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, bảo vệ an toàn các cơ quan của Đảng, Nhà
nước và tổ chức xã hội, an toàn các đoàn khách, cơ quan ngoại giao, tổ chức quốc tế và
người nước ngoài ở CHDCND Lào.
Phối hợp với Quân đội nhân dân, bảo vệ an toàn các hoạt động của Quân đội
nhân dân khi có yêu cầu và giải quyết những việc vi phạm trật tự, an toàn xã hội của
quân nhân.
Bảo vệ các mục tiêu, cơ sở quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và tổ
chức thực hiện chế độ hợp đồng bảo vệ theo quy định và yêu cầu của cấp trên.
Thực hiện các quy định của Nhà nước về quản lý hộ khẩu, giấy chứng minh
nhân dân; giúp nhân dân tìm địa chỉ người thân, tìm người bị lạc, người mất tích; kiểm
28
tra việc thực hiện các quy định của Nhà nước về cư trú, đi lại trên lãnh thổ nước
CHDCND Lào.
Quản lý công tác phòng cháy và chữa cháy; đăng ký, quản lý vũ khí, trừ vũ khí,
khí tài do Quân đội nhân dân quản lý; kiểm tra việc thực hiện các quy định của Nhà
nước về quản lý, bảo quản, vận chuyển, sử dụng chất nổ, chất dễ cháy, chất độc, chất
phóng xạ; quản lý các nghề kinh doanh đặc biệt theo pháp luật quy định.
Phối hợp với các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và dựa vào sự giúp đỡ của
mọi công dân để đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, phòng ngừa tai nạn, thiên tai, dịch
bệnh; cứu giúp người bị nạn; kiểm tra việc thực hiện các quy tắc về giữ gìn vệ sinh
công cộng, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường.
Tổ chức hướng dẫn các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội trong công tác bảo vệ
trật tự, an toàn xã hội; chỉ đạo công tác và huấn luyện nghiệp vụ, bồi dưỡng kiến thức
pháp lý cho các lực lượng bán chuyên trách, các tổ chức bảo vệ, góp phần xây dựng
phong trào bảo vệ trật tự, an toàn xã hội.
Hỗ trợ các cơ quan nhà nước thực hiện các quyết định, biện pháp do pháp luật
quy định, nếu nhân viên của các cơ quan đó bị cản trở khi thừa hành nhiệm vụ.
Phối hợp với Mặt trận Lào xây dựng đất nước và các tổ chức thành viên của
Mặt trận tuyên truyền, giáo dục trong nhân dân ý thức tôn trọng pháp luật, động viên và
tổ chức nhân dân tham gia bảo vệ trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở.
Phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật về trật
tự, an toàn xã hội, về bảo vệ môi trường; phát hiện nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội
phạm, vi phạm pháp luật khác và kiến nghị biện pháp khắc phục; tham gia giáo dục đối
tượng vi phạm pháp luật tại cộng đồng theo quy định của pháp luật.
Quản lý hộ khẩu, cấp giấy chứng minh nhân dân; quản lý con dấu; quản lý về an
ninh, trật tự các hoạt động kinh doanh có điều kiện và dịch vụ bảo vệ; quản lý và bảo
đảm trật tự, an toàn giao thông, trật tự công cộng; quản lý vũ khí, vật liệu nổ; quản lý,
thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy; tham gia cứu hộ, cứu nạn theo quy định của
pháp luật.
* Về tổ chức bộ máy: LLCSND được tổ chức thành mạng lưới chặt chẽ từ Trung
ương đến địa phương, theo hệ thống đơn vị hành chính nhà nước. LLCSND được trang
bị phương tiện kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ và các phương tiện hoạt động khác do
Bộ trưởng quy định. Sĩ quan LLCSND phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp.
29
Ở Trung ương, tổ chức LLCSND có Tổng cục Cảnh sát và các đơn vị trực
thuộc, tổng có 15 đầu mối (Điều 5, Quyết định số 267/AN, ngày 03-04-2008 của Bộ
trưởng Bộ An ninh):
1) Văn phòng Tổng cục;
2) Phòng Chính trị Tổng cục;
3) Cục Cảnh sát điều tra;
4) Cục Cảnh sát môi trường;
5) Cục Cảnh sát Huấn luyện và sử dụng chó nghiệp vụ;
6) Phòng Hậu cần;
7) Cục Cảnh sát phòng, chống buôn bán người;
8) Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm kinh tế;
9) Cục Cảnh sát phòng chống ma túy;
10) Cục Cảnh sát phòng cháy chữa cháy;
11) Cục Cảnh sát quốc tế;
12) Cục Cảnh sát trinh sát hình sự;
13) Cục Cảnh sát kỹ thuật hình sự;
14) Cục Cảnh sát máy Camera;
15) Văn Phòng Kiểm tra và kiểm soát ma tuý.
2.1.3. Đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào
Theo Luật LLANND, sĩ quan cảnh sát là: “LLANND chuyên nghiệp, người có
cấp quân hàm từ trung úy đến cấp tướng” [190, tr.472]. Họ là những con em của nhân
dân, từ nhân dân mà ra, có nghĩa vụ và trách nhiệm phục vụ nhân dân, bảo vệ nhân dân
và bảo vệ Tổ quốc. Theo Luật LLANND, sĩ quan CSND là có cấp quân hàm từ cấp úy
đến cấp tướng. Trong đó:
- Cấp úy gồm 3 cấp: Trung úy, Thượng úy và Đại úy;
- Cấp tá gồm 3 cấp: Trung tá, Thượng tá và Đại tá;
- Cấp tướng gồm 4 cấp: Thiếu tướng, Trung tướng, Thượng tướng và Đại tướng.
Trong đội ngũ sĩ quan LLCSND, có những người sĩ quan là cán bộ lãnh đạo, chỉ
huy các Tổng cục, Cục, Phòng, đơn vị, Bộ chỉ huy An ninh tỉnh và thành phố, An ninh
huyện và quận, An ninh cụm bản. Có một số là sĩ quan chuyên nghiệp về các ngành
nghề khác nhau trong nghiệp vụ cảnh sát.
Vậy, theo theo các quy định của Đảng và Nhà nước Lào, đội ngũ sĩ quan
LLCSND, Bộ An ninh Lào là toàn bộ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, sĩ quan CSND làm
30
nhiệm vụ trong Bộ An ninh Lào, từ cơ quan Bộ đến các Bộ Chỉ huy An ninh tỉnh, thành
phố và An ninh các huyện, quận; An ninh cụm Bản trong cả nước. Trong đội ngũ này:
- Cán bộ lãnh đạo, chỉ huy; sĩ quan Cảnh sát cấp quân hàm từ Đại tá trở lên là do
Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Chính phủ quản lý;
- Cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, sĩ quan Cảnh sát cấp quân hàm từ Đại úy đến
Thượng tá là do Đảng ủy Bộ và Bộ An ninh quản lý;
- Cấp Trung uý và Thượng uý là do Tổng cục Chính trị, Bộ An ninh quản lý;
2.1.3.1. Vị trí, vai trò của đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào
Đội ngũ sĩ quan LLCSND là lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt trong
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu
tranh phòng, chống tội phạm.
Bước vào giai đoạn thực hiện đường lối đổi mới, hội nhập quốc tế của đất
nước, LLCSND và đội ngũ sĩ quan LLCSND tiếp tục tỏ rõ hơn vai trò nòng cốt trên
mặt trận bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, phòng, chống tội phạm đầy cam go, phức
tạp; phối hợp chặt chẽ với các lực lượng, tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ của nhân dân
để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vinh quang nhưng cũng hết sức nặng nề mà Ðảng,
Nhà nước và nhân dân tin cậy giao phó; góp phần quan trọng tạo lập, giữ vững môi
trường ổn định, thuận lợi phục vụ công cuộc đổi mới của đất nước, nâng cao uy tín,
vị thế của Lào trên trường quốc tế.
Lực lượng Cảnh sát nhân dân và đội ngũ sĩ quan LLCSND đã chủ động phát
hiện, nắm, dự báo, phân tích tình hình để tham mưu, đề xuất với Đảng, Quốc hội,
Chính phủ ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về bảo đảm an ninh,
trật tự, đấu tranh phòng, chống tội phạm, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước về trật tự, an toàn xã hội, tạo điều kiện hết sức thuận lợi để phát triển kinh tế,
xã hội cũng như góp phần bảo đảm củng cố vững chắc quốc phòng, an ninh; huy
động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong bảo đảm trật tự,
an toàn xã hội và đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần xây dựng thế trận an
ninh nhân dân vững chắc, gắn với thế trận quốc phòng toàn dân, phát triển kinh tế,
xã hội và đối ngoại của đất nước.
Trước tác động khắc nghiệt của mặt trái kinh tế thị trường và hội nhập quốc
tế, cùng những khó khăn trong nước, tình hình và hoạt động của tội phạm ở nước
Lào diễn biến hết sức phức tạp, nguy hiểm, sĩ quan LLCSND đã tích cực đổi mới
toàn diện các mặt công tác, chú trọng nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa xã
31
hội, phòng ngừa nghiệp vụ, phát động phong trào Toàn dân phòng, chống tội phạm
với nhiều nội dung, hình thức phong phú, thiết thực; tập trung tấn công, trấn áp tội
phạm; triệt phá nhiều băng, nhóm tội phạm hình sự nguy hiểm, tội phạm có tổ chức,
xuyên quốc gia, tội phạm phi truyền thống; kéo giảm các loại tội phạm nghiêm
trọng, đặc biệt nghiêm trọng; chủ động phát hiện, điều tra, xử lý có hiệu quả tội
phạm ma túy, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm môi trường…
Kịp thời phát hiện, khởi tố, điều tra các vụ án kinh tế, tham nhũng lớn, tính
chất, mức độ nghiêm trọng, xử lý nghiêm minh đối tượng phạm tội, thu hồi nhiều
tài sản cho Nhà nước, kiến nghị nhiều giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp
luật, bảo vệ vững chắc tính đúng đắn, hiệu quả của thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước Lào. Những kết quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm của LLCSND và đội ngũ sĩ quan LLCSND là hết sức quan trọng trong bảo
đảm trật tự, an toàn xã hội, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước và lực lượng Công an nhân dân.
Nhằm góp phần xây dựng xã hội kỷ cương, an toàn, trật tự, phục vụ có hiệu
quả việc phát triển kinh tế, xã hội, LLCSND và đội ngũ sĩ quan LLCSND đã tăng
cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội. Gương mẫu đi
đầu trong cải cách hành chính; đổi mới phong cách, lề lối làm việc; tăng cường
công tác quản lý cư trú, quản lý người nước ngoài; quản lý dân cư, quản lý các
ngành, nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự; quản lý, sử dụng vũ khí, vật
liệu nổ và công cụ hỗ trợ, vận động nhân dân giao nộp vũ khí, vật liệu nổ, công cụ
hỗ trợ, không để đối tượng sử dụng phạm tội.
Trước những thách thức của tình hình trật tự, an toàn giao thông trong xu thế
đô thị hóa nhanh chóng của đất nước, đội ngũ sĩ quan LLCSND đã triển khai đồng bộ
các giải pháp bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, kiềm chế tai nạn và ùn tắc giao
thông gắn với đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục pháp luật về trật tự, an toàn giao
thông, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người tham gia giao thông; xử lý
nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường
thủy, đường sắt. Đẩy mạnh hoạt động tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm; tổ chức việc
hướng dẫn, điều hòa giao thông, nhất là ở các thành phố lớn, địa bàn trọng điểm.
Đội ngũ sĩ quan LLCSND đã tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước trong
công tác thi hành án hình sự, hướng tới mục tiêu vì con người, bảo đảm an ninh, an
toàn các cơ sở giam giữ, động viên sự tham gia của các tổ chức chính trị, kinh tế, xã
32
hội, cộng đồng dân cư và gia đình người chấp hành án vào hoạt động thi hành án
hình sự, nhất là đối với việc thi hành các hình phạt ngoài tù và tái hòa nhập cộng
đồng đối với người đã chấp hành xong án phạt tù, được đặc xá trở về nơi cư trú, tạo
điều kiện cho những người lầm lỗi vượt qua chính mình tiến bộ trở thành người
lương thiện, có ích cho gia đình và xã hội.
Trong công tác bảo đảm an ninh, trật tự, với sự lớn mạnh, chính quy, tinh
nhuệ, hiện đại, đội ngũ sĩ quan LLCSND cơ động đã góp phần thực hiện tốt công tác
nắm chắc tình hình, tuần tra, kiểm soát, phối hợp giải quyết các tình huống gây rối,
bạo loạn, biểu tình, gây mất an ninh, trật tự, nhất là tại các địa bàn, tụ điểm phức tạp,
bảo vệ an toàn các mục tiêu trọng điểm; phối hợp canh gác bảo vệ tuyệt đối an toàn
các mục tiêu quan trọng, các sự kiện chính trị, xã hội trong nước, quốc tế tổ chức tại
Lào và hoạt động của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Nâng cao chất lượng
công tác huấn luyện, diễn tập, thực binh, luyện tập thành thục các phương án tác
chiến phục vụ phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh, trật tự của đất nước.
Trong công tác phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn cứu hộ, cùng với việc nâng
cao hiệu lực quản lý nhà nước về lĩnh vực công tác này, đội ngũ sĩ quan LLCSND
đã tham mưu với cấp có thẩm quyền hoàn thiện chính sách, pháp luật cho phù hợp
với sự phát triển của nền kinh tế. Đội ngũ sĩ quan LLCSND Phòng cháy, chữa cháy
về cơ bản đã bảo đảm an toàn phòng cháy cho các công trình ngay từ quá trình xây
dựng, giúp loại bỏ các nguy cơ gây cháy; phối hợp với lực lượng chữa cháy cơ sở,
dân phòng kịp thời chữa cháy nhiều vụ cháy lớn, hạn chế được thiệt hại về người và
của cho nhân dân và Nhà nước.
Vì vậy, đội ngũ sĩ quan LLCSND này giữ một vị trí, vai trò vô cùng quan trọng.
Điều đó thể hiện ở những điểm sau đây:
Một là, đội ngũ sĩ quan LLCSND là một trong những yếu tố cấu thành nên nền
quản lý hành chính nhà nước của Bộ và là nguồn đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và
chuyên gia quản lý nhà nước để bổ sung cho các cơ quan nhà nước Trung ương, Bộ An
ninh và địa phương. Đó chính là yếu tố làm cho bộ máy tổ chức của ngành hoạt động
có hiệu quả, nhằm phục vụ nhân dân một cách tốt nhất. Nếu tổ chức bộ máy quản lý
nhà nước của Bộ thiếu đội ngũ sĩ quan LLCSND và đội ngũ đó không có chất lượng thì
toàn bộ hệ thống thể chế của Bộ khó đi vào thực tiễn cuộc sống nhân dân;
Hai là, trong quá trình hoạt động theo hệ thống thể chế, đội ngũ sĩ quan
LLCSND phát huy vai trò trong việc quản lý mọi mặt của đời sống đời sống kinh tế -
33
văn hóa - chính trị - xã hội; mặt khác, phát hiện các khiếm khuyết và các sơ hở của hệ
thống thể chế và cơ cấu tổ chức để tham gia với Nhà nước, với Bộ sửa đổi, hoàn thiện
hệ thống thể chế và cơ cấu tổ chức phù hợp với điều kiện thực tiễn, tạo điều kiện và
môi trường để quản lý nhà nước ngày một tốt hơn;
Ba là, đội ngũ sĩ quan LLCSND trực tiếp thực hiện chức năng quản lý nhà nước
về trật tự, an toàn xã hội. Hoạt động của đội ngũ sĩ quan LLCSND góp phần quan trọng
vào bảo đảm trật tự, an toàn xã hội thông qua việc tổ chức hướng dẫn hoặc trực tiếp
triển khai, thực hiện chế độ, chính sách, chỉ đạo thực hiện; kiểm tra việc thực hiện, phát
hiện các sai phạm để xử lý sai phạm hoặc ngăn chặn các vi phạm pháp luật;
Bốn là, người sĩ quan LLCSND có trách nhiệm và bổn phận phục vụ nhân dân,
đáp ứng yêu cầu của nhân dân các bộ tộc Lào mong muốn được yên ổn sinh sống, làm
ăn trong môi trường an ninh, an toàn, trật tự và dân chủ, không bị phiền hà, sách nhiễu.
Hiện nay, CHDCND Lào đang xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN, ngày càng mở rộng quan hệ đối ngoại đa phương, đa dạng; do đó vai trò của
đội ngũ sĩ quan LLCSND lại càng thể hiện rõ tầm quan trọng việc đưa đất nước từng
bước thích ứng với luật pháp, tập quán và trình độ quốc tế mà vẫn giữ vững độc lập tự
chủ, bảo vệ lợi ích quốc gia và nhân dân.
2.1.3.2. Chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân
dân Lào
Bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
của Đảng và Nhà nước do Nhà nước tổ chức quản lý, góp phần quan trọng vào quá
trình CNH, HĐH đất nước. Văn kiện Đại hội lần thứ IX Đảng NDCM Lào đã đề ra
mục tiêu chiến lược cho Bộ An ninh là:
Xây dựng và kiện toàn lực lượng An ninh vững mạnh về chính trị, tư tưởng,
đạo đức cách mạng; vững mạnh về tổ chức, sự chỉ đạo, chỉ huy và có khả
năng về nghiệp vụ chuyên môn để làm nòng cốt cho sự nghiệp bảo vệ an
ninh, trật tự an toàn xã hội; tăng cường xây dựng lực lượng An ninh tại cơ
sở Bản có khả năng đảm bảo an ninh, trật tự; hoàn thiện cơ chế và các quy
phạm pháp luật về công tác bảo vệ An ninh, quản lý công dân cho đúng quy
định, thuận lợi và nghiêm minh [171, tr.54].
Căn cứ vào chủ trương, đường lối và nhiệm vụ của Đảng; chiến lược, kế hoạch
phát triển của Bộ An ninh Lào, Đảng ủy Bộ An ninh đã xác định nhiệm vụ của Bộ và
34
cũng là chức trách, nhiệm vụ đội ngũ sĩ quan LLCSND của Bộ trong giai đoạn hiện
nay bao gồm:
Thứ nhất, lãnh đạo, chỉ huy Cảnh sát các cấp phải nắm vững chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn được giao và tình hình mọi mặt của đơn vị, địa phương do
mình phụ trách; chủ động làm tốt vai trò tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền
về công tác đảm bảo an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và xây dựng
lực lượng Cảnh sát trong sạch, vững mạnh; chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các văn bản chỉ đạo của
Bộ An ninh để đề ra chương trình, kế hoạch, biện pháp công tác, chiến đấu phù hợp;
tổ chức chỉ đạo, hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc và động viên cán bộ, chiến
sĩ thuộc quyền thực hiện;
Thứ hai, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách, chế độ một người chỉ huy và quy chế hoạt động của cấp ủy đảng; duy trì
thực hiện nghiêm túc chế độ làm việc của lãnh đạo, chỉ huy và đơn vị;
Thứ ba, thực hiện công tác giáo dục chính trị tư tưởng; xây dựng và kiện
toàn tổ chức bộ máy; quy hoạch, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ; thực hiện nghiêm túc
chế độ quản lý cán bộ; chăm lo xây dựng, củng cố và tăng cường đoàn kết nội bộ;
động viên, khen thưởng kịp thời và xử lý kỷ luật nghiêm theo đúng quy định của
Nhà nước và của Bộ An ninh nhằm xây dựng đơn vị trong sạch vững mạnh toàn
diện, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị;
Thứ tư, quản lý tài chính, tài sản, vật tư, vũ khí, công cụ hỗ trợ, phương tiện,
trang thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ vủa đơn vị đúng quy định của pháp luật và Bộ An
ninh và Tổng cục Cảnh sát, bảo đảm yêu cầu công tác, chiến đấu;
Thứ năm, gương mẫu trong công tác, chiến đấu, học tập và sinh hoạt, nghiêm
túc tự phê bình và phê bình; thực hiện chế độ thông tin báo cáo, chế độ kiểm tra
công tác đối với cấp dưới;
Thứ sáu, thực hiện nghiêm túc các điều cấm, 5 lời thề danh dự, 10 điều kỷ
luật Cảnh sát nhân dân Lào; thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện tấm gương đạo đức;
gương mẫu chấp hành chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, các quy định của lực lượng An ninh và lực lượng Cảnh sát và của địa
phương nơi cư trú;
35
2.1.3.3. Đặc điểm đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào
Cảnh sát nhân dân là nghề đặc thù; do đó, bên cạnh những điểm chung,
những điểm tương đồng thì đòi hỏi mỗi cán bộ, sĩ quan, chiến sĩ CSND phải có sự
khác biệt nhất định đối với các cá nhân thuộc các ngành, nghề khác.
Một là, là lực lượng quan trọng hợp thành hệ thống chính trị của Bộ An ninh
Lào và Tổng cục Cảnh sát.
Đội ngũ cán bộ, sĩ quan, chiến sĩ nói chung và đội ngũ sĩ quan LLCSND nói
riêng có nhiệm vụ duy trì hoạt động cho hệ thống quản lý nhà nước của Bộ An ninh
theo trật tự chung, mang lại lợi ích chung cho xã hội và bảo vệ quyền lợi của Nhà nước.
Đội ngũ sĩ quan LLCSND là nhân tố chính trong việc hình thành nền hành chính nhà
nước không thể thoát ly chính trị, mà phải phục vụ chính trị, thực hiện những nhiệm vụ
chính trị do cơ quan quyền lực nhà nước quyết định; hoạt động của nó có ảnh hưởng
lớn đến hiệu lực và hiệu quả của hệ thống chính trị.
Đội ngũ sĩ quan LLCSND - dù xuất thân từ thành phần giai cấp nào - cũng
mang bản chất của Nhà nước dân chủ của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do
Đảng NDCM Lào lãnh đạo và lãnh đạo trực tiếp. Đặc điểm này ảnh hưởng trực tiếp
đến việc xây dựng và hoạt động nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, sĩ quan, chiến sĩ ở
Lào nói chung và đội ngũ sĩ quan LLCSND nói riêng; đến điều kiện và tiêu chuẩn
tuyển chọn nguồn đội ngũ sĩ quan LLCSND; quy định nghĩa vụ và quyền lợi sĩ quan
LLCSND; những việc sĩ quan LLCSND không được làm; sử dụng và quản lý đội ngũ
sĩ quan LLCSND...
Hai là, cơ chế quản lý đội ngũ sĩ quan LLCSND theo hệ thống thống dọc thống
nhất từ Trung ương đến địa phương.
Đội ngũ sĩ quan LLCSND là quản lý theo ngành dọc nhằm đảm bảo thống nhất
sự lãnh đạo, quản lý trực tiếp, toàn diện của Bộ, của Tổng cục Cảnh sát, của Đảng và
sự quản lý của Nhà nước về tổ chức bộ máy của lực lượng vũ trang, sĩ quan LLCSND
phù hợp với đặc thù hoạt động của Bộ, Tổng cục Cảnh sát trong từng địa bàn trên cả
nước. Với đặc thù của Lào là song trùng lãnh đạo, cho nên kết hợp chặt chẽ quản lý
giữa Bộ An ninh, Tổng cục Cảnh sát và cấp ủy địa phương, đảm bảo tính thống nhất
của hệ thống hành chính đến cơ sở. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể
bàn bạc thống nhất, đi đôi với thực hiện chế độ thủ trưởng, phát huy đầy đủ trách
nhiệm của cá nhân và người đứng đầu chỉ huy đơn vị đối với công tác tổ chức bộ máy,
36
sĩ quan LLCSND. Tuân thủ các quy định của pháp luật và các quy định của cơ quan có
thẩm quyền về phân công, phân cấp quản lý tổ chức bộ máy; sĩ quan LLCSND.
Bộ An ninh Lào thống nhất quản lý trực tiếp, toàn diện về công tác tổ chức bộ
máy, sĩ quan LLCSND theo quy định của pháp luật, đồng thời phân cấp cho người
đứng đầu các cơ quan chuyên môn và tương đương, các đơn vị trực thuộc. Bộ trưởng
quyết định thành lập; sáp nhập; chia, tách; giải thể; đổi tên các cơ quan hành chính, đơn
vị chiến đấu và đơn vị sự nghiệp trực thuộc các cơ quan chuyên môn và tương đương
thuộc tỉnh, cấp huyện và cụm bản. Bộ trưởng quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, cơ cấu tổ chức và biên chế của các cơ quan chuyên môn, nghiệp vụ và tương
đương; đơn vị chiến đấu cấp tỉnh và huyện theo quy định của pháp luật. Bộ trưởng
quyết định thành lập, cho phép hoạt động, sáp nhập, giải thể, đổi tên, bổ sung điều
chỉnh chức năng, nhiệm vụ.
Bộ An ninh Lào quyết định công tác của cán bộ, sĩ quan LLCSND thuộc Bộ
Chỉ huy An ninh cấp tỉnh và huyện theo quy định; quyết định việc tuyển chọn, bố trí,
bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, điều động, nhận xét đánh giá, khen thưởng, kỷ
luật, thôi việc, nghỉ hưu, thực hiện chế độ chính sách đối với các chức danh; quyết định
cử cán bộ, sĩ quan LLCSND đi chuyên gia, công tác, nghiên cứu, học tập ở nước ngoài.
Ba là, sự đa dạng về tuổi, giới tính, thành phần xuất thân, trình độ học vấn, kinh
nghiệm công tác của đội ngũ sĩ quan LLCSND.
Đội ngũ sĩ quan LLCSND có độ tuổi theo quy định của Luật LLANND với độ
tuổi được quy định theo bậc quân hàm là tuổi từ 40-50 tuổi chiếm tỷ trọng khá cao, đáp
ứng với yêu cầu phát triển Bộ An ninh trong điều kiện mới, còn tuổi từ 51 tuổi trở lên
đang là ngững người chỉ huy và chuẩn bị nghỉ hưu theo chế độ. Về giới tính là nam
giới chiếm tỷ trọng lớn hơn nữ giới do đặc thù của Bộ An ninh và Tổng cục Cảnh sát;
thành phần xuất thân từ đa số giai cấp nông dân, còn một số ít công nhân và trí thức
cho nên đa số sĩ quan LLCSND có đặc điểm mang nặng tính nông dân; điều này đã
ảnh hưởng không nhỏ đến chiến lược sĩ quan LLCSND của Bộ, Tổng cục Cảnh sát và
chiến lược phát triển Bộ An ninh, Tổng cục Cảnh sát trong điều kiện CNH, HĐH đất
nước. Về trình độ học vấn là không đồng đều vẫn còn sơ cấp và trung cấp chiếm tỷ lệ
khá cao, nhất là cấp địa phương; chưa có sĩ quan của Bộ, Tổng cục Cảnh sát đạt trình
độ chuyên môn cao và năng lực công tác còn yếu do chưa được đào tạo thành hệ thống
về công tác chuyên môn Cảnh sát. Đa số sĩ quan LLCSND là từ nhiều nguồn chuyên
37
môn, nghiệp vụ khác nhau; không có chuyên môn chuyên về an ninh, trật tự an toàn xã
hội một cách chính quy.
Bốn là, đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân tuyệt đối trung thành
với sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Là một lực lượng vũ trang của Đảng và Nhà nước, đội ngũ sĩ quan LLCSND
cần thường xuyên được chăm lo giáo dục truyền thống cũng như ý thức chính trị tư
tưởng cho cán bộ, chiến sĩ. Để bảo đảm cho việc lãnh đạo hoàn hành xuất sắc nhiệm
vụ được giao, Bộ An ninh, Tổng cục Cảnh sát cần thường xuyên định hướng chỉ
đạo các đơn vị trực thuộc lực lượng Cảnh sát nhân dân ở các địa phương nhận thức
đúng đắn vị trí hàng đầu của công tác giáo dục chính trị tư tưởng, thường xuyên đổi
mới nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục nhằm trang bị cho cán bộ, chiến sĩ bản
lĩnh chính trị vững vàng, có ý thức vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được
giao trong mọi tình huống. Để làm tốt được điều đó, yêu cầu đầu tiên và xuyên suốt
của công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong lực lượng Cảnh sát nhân dân là tập
trung giáo dục lòng trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân. Giữ vững lập
trường chính trị, bản lĩnh chiến đấu, củng cố lòng tin vào đường lối chính trị của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Quá trình tiến hành công tác chính trị tư tưởng, lãnh đạo, chỉ huy lực lượng
cảnh sát nhân dân các cấp cần bám sát nhiệm vụ chính trị, giáo dục cho cán bộ,
chiến sỹ xác định rõ nhiệm vụ, vững vàng về tư tưởng, kiên định về lập trường,
năng động, sáng tạo và nhiệt tình trong công tác; chủ động chỉ đạo các đơn vị,
thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt chính trị sâu, rộng gắn với yêu cầu tổ chức
thực hiện nhiệm vụ chuyên môn từng thời kỳ trong quá trình xây dựng chiến đấu và
trưởng thành. Trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn nào, cán bộ, chiến sỹ Cảnh sát nhân
dân cần kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, giữ vững bản chất giai cấp công
nhân, tỏ rõ lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Năm là, đội ngũ sĩ quan LLCSND có ý thức, nếp sống tôn trọng và bảo vệ
các quyền cơ bản của công dân trong khi thi hành công vụ.
Theo quy định của Luật Lực lượng An ninh nhân dân và pháp luật hiện hành,
trong quá trình tiến hành các hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã
hội, sĩ quan LLCSND trực tiếp liên quan đến các vấn đề quyền và lợi ích của nhân
dân. Các hoạt động mà đội ngũ sĩ quan LLCSND tiến hành thường xuyên, trực tiếp
đến các quyền cơ bản của công dân như quyền sống, tự do cư trú, đi lại; bất khả xâm
38
phạm về thân thể, nhà ở, tự do hội họp, quyền lao động và nghỉ ngơi... Những sơ xuất
dù nhỏ của họ cũng đều có thể làm tổn thương lớn đến tình cảm, các quyền và lợi ích
của những người mà hành vi của họ đang được pháp luật xem xét. Chưa kể những sai
phạm cố ý, những hành vi xâm phạm thô bạo đến các quyền công dân, quyền được
nhà nước bảo hộ như một công dân, quyền được bình đẳng trước pháp luật.
Hoạt động của đội ngũ sĩ quan LLCSND trong các công việc quản lý hộ
khẩu, cấp giấy chứng minh nhân dân; quản lý con dấu; quản lý về an ninh, trật tự,
các nghề kinh doanh có điều kiện và dịch vụ bảo vệ; quản lý và bảo đảm trật tự, an
toàn giao thông, trật tự công cộng; quản lý vũ khí, vật liệu nổ; quản lý, thực hiện
công tác phòng cháy, chữa cháy; tham gia cứu hộ, cứu nạn… đều trực tiếp liên quan
đến công dân. Trong điều kiện xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, người sĩ quan LLCSND phải bảo đảm được sự kết hợp hài
hòa của yêu cầu quản lý xã hội, quản lý con người, nhưng đồng thời vẫn tạo điều
kiện cho cơ quan, tổ chức và công dân sống, lao động, kinh doanh trong điều kiện
xã hội mới.
Hoạt động của lực lượng Cảnh sát nhân dân trực tiếp quan hệ đến việc thực
hiện các quyền của những người tham gia tố tụng như người làm chứng, người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo,
người bào chữa... Luật pháp đòi hỏi hoạt động của đội ngũ sĩ quan LLCSND phải
bảo đảm điều kiện để các chủ thể đó thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của
họ. Mọi hành vi gây cản trở thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ đều vi phạm
đến các quyền con người và cần phải được xử lý nghiêm khắc theo pháp luật.
Các hoạt động của đội ngũ sĩ quan LLCSND như trấn áp tội phạm, chống
biểu tình trái pháp luật, bạo loạn, gây rối trật tự công cộng, tuần tra kiểm soát trật tự
công cộng, chống khủng bố… là những mặt công tác quan trọng của lực lượng an
ninh, lực lượng cảnh sát ở mọi thời kỳ, nhất là trong điều kiện mở cửa và hội nhập
hiện nay. Những mặt hoạt động đó luôn có sự chỉ đạo, kiểm tra chặt chẽ của lãnh
đạo An ninh các cấp từ Bộ An ninh đến cơ sở. Để đáp ứng những đòi hỏi, yêu cầu
của cuộc đấu tranh trong tình hình mới, góp phần xây dựng phong cách người sĩ
quan LLCSND vì nước quên thân, vì dân phục vụ, đáp ứng những đòi hỏi của việc
mở cửa với bên ngoài; bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ công dân về kinh tế, chính trị,
đòi hỏi người sĩ quan LLCSND hơn ai hết phải hiểu rõ pháp luật, biết vận dụng
đúng đắn pháp luật, đồng thời tự giác chấp hành pháp luật.
39
2.2. CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ SĨ QUAN LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN
DÂN LÀO - QUAN NIỆM, TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ, NHỮNG YẾU TỐ CHI PHỐI
2.2.1. Quan niệm về chất lượng đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân
dân Lào
Chất lượng là khái niệm được sử dụng rộng rãi trong đời sống, nhưng tùy
theo góc độ xem xét mà người ta có định nghĩa khác nhau. Theo triết học duy vật
biện chứng, chất lượng là tính quy định bản chất của sự vật; tính quy định đó giúp
phân biệt sự vật này với sự vật khác. Chất lượng được xem xét trong mối quan hệ
biện chứng với số lượng; sự tác động biện chứng này tạo cho sự vật tồn tại, vận
động, phát triển không ngừng.
Trong lĩnh vực kinh tế, chất lượng được quan niệm về tính chất của sản phẩm
thể hiện mức độ thỏa mãn những yêu cầu định trước cho nó trong điều kiện xác định kỹ
thuật kinh tế, xã hội.
Theo Từ điển triết học giản yếu (có đối chiếu các từ Nga, Anh, Đức, Pháp) thì
chất lượng được định nghĩa như sau:
Tổng hợp những thuộc tính của sự vật chỉ rõ nó là cái gì, làm cho nó có tính
ổn định tương đối và phân biệt nó với các sự vật khác. Chất lượng là tính quy
luật khách quan của sự vật. Nó biểu hiện ra ngoài thông qua các thuộc tính.
Chất lượng là cái liên kết lại làm một các thuộc tính của sự vật, xác định tính
chỉnh thể, toàn vẹn của nó. Sự thay đổi chất lượng kéo theo sự thay đổi sự vật
về căn bản. Chất lượng của sự vật bao giờ cũng gắn liền với tính quy định về
số lượng của nó và không thể tồn tại ngoài tính quy định ấy. Mỗi sự vật bao
giờ cũng là một sự thống nhất của chất lượng và số lượng [56, tr.77].
Theo Đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý, chất lượng là: “1. Cái làm nên
phẩm chất, giá trị của con người, sự vật: Chất lượng hàng hóa tốt. Nâng cao chất
lượng học tập, 2. Cái tạo nên bản chất sự vật, làm cho sự vật này khác với sự vật kia;
phân biệt với số lượng: tăng trưởng số lượng đến mức nào thì làm thay đổi chất
lượng” [117, tr.248].
Từ những định nghĩa trên thì chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND là tổng hợp
giá trị của các yếu tố số lượng và cơ cấu; phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; trình
độ, năng lực; phong cách làm việc và kết quả hoàn thành nhiệm vụ, chức trách của
từng sĩ quan so với tiêu chuẩn sĩ quan cảnh sát và của đội ngũ sĩ qaun LLCSND so với
yêu cầu nhiệm vụ, chức trách của Bộ An ninh Lào trong từng thời kỳ cách mạng.
40
Về số lượng và cơ cấu đội ngũ sĩ quan LLCSND là mức độ phù hợp, cách tổ
chức, cân đối, bố trí sắp xếp hợp lý về các loại, các thế hệ, trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ... đảm bảo số lượng sĩ quan LLCSND đủ sức chiến đấu và thực hiện nhiệm vụ trong
mọi tình hình, nhiệm vụ được giao phó; là yếu tố tạo thành chất lượng đội ngũ sĩ quan
LLCSND; tạo nên sức mạnh tổng hợp cao nhất để thực hiện tốt nhiệm vụ của đội ngũ
sĩ quan LLCSND trong mọi điều kiện.
Về phẩm chất chính trị của đội ngũ sĩ quan LLCSND là những phẩm chất cá
nhân về chính trị, bao gồm ý thức chính trị, văn hóa, đạo đức và hành vi chính trị của
người sĩ quan LLCSND. Phẩm chất chính trị thể hiện ở chỗ sự giác ngộ chính trị, ý
thức về lý tưởng cộng sản, ý chí cách mạng; lòng yêu nước, gắn bó với Đảng, Nhà
nước, chế độ XHCN và nhân dân; sự tiên phong, gương mẫu trong công tác, lao động,
học tập, sinh hoạt, trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp
luật của Nhà nước; tích cực tuyên truyền vận động nhân dân; kiên quyết đấu tranh
chống những hiện tượng tiêu cực về chính trị…
Về phẩm chất đạo đức, lối sống của từng sĩ quan LLCSND bao gồm ý thức đạo
đức và ứng xử đạo đức của người sĩ quan LLCSND. Tiêu chuẩn sĩ quan LLCSND đòi
hỏi người sĩ quan LLCSND phải có đạo đức và lối sống lành mạnh. Đó là những đức
tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; có tình yêu thương đồng chí, đồng nghiệp;
kính trọng nhân dân, yêu thương giúp đỡ mọi người; biết hy sinh lợi ích cá nhân cho
lợi ích chung của cách mạng; trung thực dũng cảm, khiêm tốn, giản dị, tiết kiệm; lời
nói đi đôi với việc là; không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng,
tiêu cực; v.v..
Về trình độ của người sĩ quan LLCSND bao gồm: trình độ, học vấn, trình độ lý
luận chính trị - hành chính, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, trình độ
tin học… Trình độ văn hóa là những kiến thức được xác định chuẩn hóa, nền tảng để
tiếp thu kiến thức trình độ chính trị, chuyên môn, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo
đức; trình độ lý luận chính trị - hành chính là mức độ hiểu biết về lý luận Mác - Lênin,
quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Trình độ học
vấn là kiến thức của người sĩ quan LLCSND được xác định qua các bậc học. Đây
chính là nền tảng để rèn luyện, nâng cao trình độ lý luận chính trị, hành chính, chuyên
môn nghiệp vụ và cả phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức của người sĩ quan
LLCSND. Trình độ lý luận chính trị, hành chính là mức độ hiểu biết về lý luận chính
trị và quản lý hành chính của người sĩ quan LLCSND. Đây là cơ sở để tạo nên phẩm
41
chất chính trị và năng lực lãnh đạo chính trị của người sĩ quan LLCSND. Không có
trình độ lý luận chính trị, hành chính thì người sĩ quan LLCSND không thể có giác ngộ
lý tưởng cộng sản, không có bản lĩnh chính trị vững vàng và cũng không thể biết cách
lãnh đạo, quản lý thực hiện nhiệm vụ cách mạng mà Đảng và Nhà nước giao phó.
Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của từng sĩ quan LLCSND là khả năng nắm,
vận dụng các kiến thức, kỹ năng được hình thành trong thực hiện công tác ở các lĩnh
vực Cảnh sát, được đánh giá bằng kết quả triển khai các mặt công tác trên thực tế, bằng
sự tín nhiệm của tập thể và nhân dân.
Về năng lực của sĩ quan LLCSND là tổng hợp các yếu tố nội, ngoại để sĩ quan
LLCSND hoàn thành chức trách nhiệm vụ được giao, thể hiện trên các mặt: trí tuệ,
chuyên môn nghiệp vụ và năng lực lãnh đạo, quản lý, chỉ huy.
Năng lực trí tuệ của sĩ quan LLCSND là khả năng tiếp cận tri thức mới, chọn lọc
xử lý, phân tích thông tin, nghiên cứu phương pháp công tác một cách khoa học, hợp
lý, đề xuất các biện pháp, giải pháp trong hoạt động thực tiễn trong quá trình công tác,
rèn luyện nâng cao trình độ của sĩ quan LLCSND.
Năng lực chuyên môn nghiệp vụ của sĩ quan LLCSND là khả năng triển khai, tổ
chức thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn nghiệp vụ được giao dựa trên tri thức, nghiệp
vụ chuyên môn của sĩ quan LLCSND theo vị trí việc làm, vị trí công tác, yêu cầu
nhiệm vụ của từng người, của từng đơn vị, từng địa bàn.
Năng lực lãnh đạo, quản lý của sĩ quan LLCSND là khả năng tổ chức, vận động
của sĩ quan LLCSND ở mọi phương diện; khả năng tạo ra sự đoàn kết thống nhất cao;
có phong cách, tác phong làm việc khoa học, hướng tập thể phấn đấu thực hiện đúng
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ của
cơ quan. Năng lực lãnh đạo, quản lý được kiểm chứng qua hoạt động thực tiễn của
người sĩ quan LLCSND, bằng kết quả hoạt động của cả tập thể cơ quan, đơn vị.
Năng lực của sĩ quan LLCSND qua từng giai đoạn phát triển của cách mạng đòi
hỏi ngày càng cao và được hình thành phát triển được đào luyện trong hoạt động thực
tiễn công tác và rèn luyện. Khi nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước thay đổi, phát
triển, thì năng lực của sĩ quan LLCSND cũng phải phát triển phù hợp với yêu cầu
nhiệm vụ đòi hỏi.
Tri thức thể hiện khả năng và điều kiện chủ quan của sĩ quan LLCSND. Khả
năng tổ chức hoạt động thực tiễn giữ vị trí quan trọng hàng đầu, nhưng năng lực không
chỉ là trình độ tri thức, mà tri thức phải được thể hiện ở khả năng tổ chức thực tiễn. Chủ
42
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Đảng yêu cầu cán bộ và đảng viên chẳng những thạo về
chính trị, mà còn giỏi về chuyên môn, không thể lãnh đạo chung chung. V.I. Lênin cho
rằng, nếu người cộng sản thiếu tri thức thì không giữ vai trò lãnh đạo được: “Nói cho
đúng ra, không phải họ lãnh đạo. Mà chính là họ bị lãnh đạo” [103, tr.118]. Nhưng, tri
thức phải gắn liền với khả năng hoạt động thực tiễn, khả năng lãnh đạo chính trị, tổ
chức, chỉ đạo, quản lý, hướng dẫn, vận động, giáo dục, động viên quần chúng; sơ kết,
tổng kết… Người sĩ quan LLCSND có năng lực tốt phải không giáo điều, sách vở; luôn
sâu sát thực tiễn, năng động, sáng tạo hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Chất lượng sĩ quan LLCSND là sự thống nhất giữa phẩm chất và năng lực (đức
và tài) được thể hiện ở kết quả hoàn thành chức trách, nhiệm vụ. Đây là yếu tố quan
trọng nhất quyết định thể hiện chất lượng của người sĩ quan LLCSND. Hai mặt phẩm
chất và năng lực của sĩ quan LLCSND có quan hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau, không
thể đề cao hoặc coi nhẹ mặt nào. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Có tài phải có
đức. Có tài không có đức, tham ô hủ hoá có hại cho nước. Có đức không có tài như ông
bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai” [51, tr.184].
Phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ và năng lực là các yếu tố, đặc
trưng cơ bản quy định chất lượng của người sĩ quan LLCSND. Những yếu tố đó có
mối quan hệ biện chứng với nhau, không thể xem nhẹ, bỏ qua yếu tố nào.
Về phong cách làm việc sĩ quan LLCSND: Để xây dựng phong cách người sĩ
quan LLCSND vì nhân dân phục vụ, thực hiện nghiêm điều lệnh, xây dựng nếp
sống văn hóa vì nhân dân phục vụ, tập trung giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ, sĩ quan
Cảnh sát nhân dân nâng cao nhận thức chính trị, có phẩm chất đạo đức trong sáng,
thực hiện tốt đường lối quần chúng của Đảng. Tạo sự chuyển biến sâu, rộng trong
toàn lực lượng Cảnh sát nhân dân về thực hiện nghiêm túc điều lệnh nội vụ An ninh
nhân dân, xây dựng nếp sống văn hóa ứng xử, chấn chỉnh tư thế, lễ tiết tác phong
của cán bộ chiến sĩ, sĩ quan Cảnh sát nhân dân trong thi hành công vụ và quan hệ
tiếp xúc với nhân dân; góp phần tạo ra những chuyển biến mới trong công tác đấu
tranh bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ trật tự an toàn xã hội, thực hiện Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng NDCM Lào.
Để xây dựng phong cách người sĩ quan CSND vì nước quên thân, vì dân
phục vụ, thì cần xây dựng đội ngũ sĩ quan LLCSND tuyệt đối trung thành với sự
nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và nhân dân; xây dựng ý thức, nếp sống tôn
trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân trong khi thi hành công vụ; tăng
43
cường tinh thần trách nhiệm, đạo đức cách mạng và ý thức pháp luật của sĩ quan
LLCSND và tổ chức có hiệu quả Chương trình hành động xây dựng phong cách
người Cảnh sát nhân dân vì nhân dân phục vụ.
2.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát
nhân dân Lào
Để xác định tiêu chí đánh giá đúng chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND giai
đoạn hiện nay, trước hết phải căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ, đảng viên do Điều lệ Đảng,
Luật LLANND, Nghị định về Tổ chức và hoạt động của Bộ An ninh và các quy định của
Đảng, Nhà nước, Bộ An ninh và Tổng cục Cảnh sát về sĩ quan LLCSND và đảng viên,
đồng thời phải căn cứ vào đặc thù chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm tổ chức và hoạt động
của Bộ An ninh Lào, của từng Tổng cục, Cục, đơn vị chiến đấu, từng địa phương mà sĩ
quan LLCSND thực hiện nhiệm vụ. Như vậy, tiêu chí đánh giá chất lượng của đội ngũ sĩ
quan LLCSND hiện nay phải phản ánh được các tiêu chí mà Đảng và Nhà nước đã quy
định đối với mọi cán bộ và có tính đến chức năng, nhiệm vụ cụ thể của Bộ An ninh.
Tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND là tập hợp các dấu
hiệu, điều kiện, đặc trưng, các chỉ số định tính, định lượng làm căn cứ để nhận biết,
đánh giá chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND trên thực tế. Căn cứ xác định tiêu chí
đó là: Chức năng, nhiệm vụ của sĩ quan LLCSND, của cán bộ; các yếu tố cấu thành
con người và các mặt hoạt động chủ yếu của sĩ quan LLCSND; yêu cầu về chất lượng
của cán bộ, của sĩ quan LLCSND trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo
đức Cayxỏn PHÔMVIHÁN và quan điểm của Đảng NDCM Lào về đánh giá cán bộ,
căn cứ vào Quy chế đánh giá cán bộ, tiêu chuẩn cán bộ, Luật Lực lượng An ninh nhân
dân… và từ quan niệm về chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND, có thể xác lập hệ tiêu
chí có bản để đánh giá chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND Lào hiện nay, bao gồm:
2.2.2.1. Số lượng và cơ cấu của đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân
dân Lào
Số lượng và cơ cấu đội ngũ sĩ quan LLCSND gồm nhiều thành tố, như: giới
tính, dân tộc, tôn giáo, thành phần xuất thân, tuổi đời, tuổi đảng, thâm niên công tác,
trình độ đào tạo… của sĩ quan LLCSND. Cơ cấu đội ngũ sĩ quan LLCSND là một yếu
tố cấu thành chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND. Muốn có đội ngũ sĩ quan LLCSND
có chất lượng tốt thì đồng thời cơ cấu đội ngũ sĩ quan LLCSND phải hợp lý để phát
huy được những mặt mạnh, hạn chế những mặt yếu, tạo nên sức mạnh tổng hợp cho cả
44
đội ngũ sĩ quan LLCSND. Mỗi thành phần cơ cấu của đội ngũ sĩ quan LLCSND có
ảnh hưởng nhất định đến chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND, không thể coi nhẹ bất
kỳ thành tố nào. Tuy vậy, tùy đặc điểm và yêu cầu nhiệm vụ của đội ngũ sĩ quan
LLCSND trong từng thời kỳ, ở từng cấp, từng cơ quan, từng đặc thù nhiệm vụ được
giao, trong quá trình xây dựng đội ngũ sĩ quan LLCSND có thể ưu tiên đối với một số
thành tố cơ cấu nhất định.
2.2.2.2. Hệ thống các yếu tố cần có của bản thân đội ngũ sĩ quan lực
lượng Cảnh sát nhân dân để đảm nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ
Đây là những dấu hiệu đầu tiên, trực tiếp, quan trọng hàng đầu cho biết đội
ngũ sĩ quan LLCSND có chất lượng hay không có chất lượng.
Phẩm chất chính trị của đội ngũ sĩ quan LLCSND là tổng hợp các đặc tính
cá nhân sĩ quan LLCSND về mặt chính trị, bao gồm các yếu tố cơ bản: nhận thức
chính trị, thái độ chính trị và hành vi chính trị. Cụ thể:
- Nhận thức chính trị của người sĩ quan LLCSND là sự hiểu biết về đường
lối, quan điểm chính trị, về nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng, sự hiểu biết và tin
tưởng vào mục đích, lý tưởng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, vai trò,
trách nhiệm, chức trách, nhiệm vụ của sĩ quan LLCSND, hình thành tình cảm, ý chí
cách mạng của người sĩ quan LLCSND.
- Thái độ chính trị của sĩ quan LLCSND là những biểu hiện, cử chỉ, lời nói,
việc làm của người sĩ quan LLCSND xuất phát từ nhận thức, suy nghĩ, tình cảm
trước những vấn đề chính trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng. Thái độ chính trị phản
ánh cách nhìn nhận, suy nghĩ và chi phối hành động của người sĩ quan LLCSND,
bao gồm lòng trung thành, tính vững vàng, kiên định về lập trường, tư tưởng chính
trị. Sĩ quan LLCSND phải là người tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, trung thành
với Hiến pháp nước CHDCND Lào. Thái độ chính trị của sĩ quan LLCSND đúng
hay không đúng; kiên quyết, dứt khoát hay nửa vời, chập chừng, do dự; nghiêm túc
hay không nghiêm túc… có ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị
của người sĩ quan LLCSND.
- Hành vi chính trị của người sĩ quan LLCSND là hành động mang tính
chính trị, như tiên phong, gương mẫu trong công tác, lao động, học tập, sinh hoạt; đi
đầu trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của
45
Nhà nước; tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân; kiên quyết đấu tranh với
những biểu hiện tiêu cực về chính trị…
Phẩm chất đạo đức của người sĩ quan LLCSND bao gồm các yếu tố: Ý thức
đạo đức, thái độ đạo đức và hành vi đạo đức.
- Ý thức đạo đức của người sĩ quan LLCSND là quan niệm, sự hiểu biết về
đạo đức, các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những giá trị, chuẩn
mực đạo đức mới, đó là đạo đức cách mạng.
- Thái độ đạo đức của người sĩ quan LLCSND do ý thức đạo đức quy định,
biểu hiện ra bên ngoài là sự yêu hay ghét, ủng hộ hay phê phán đối với cái: thiện,
ác, đẹp, xấu, tiến bộ, lạc hậu…; là đúng mực, nghiêm túc hay không nghiêm túc với
công việc, nghề nghiệp, với đồng chí, đồng nghiệp, gia đình, bạn bè và quần chúng
nhân dân…
- Hành vi đạo đức của người sĩ quan LLCSND là những hành động, lời nói,
việc làm liên quan đến phạm trù đạo đức, có tính nêu gương, giáo dục đạo đức đối
với bản thân, gia đình, đồng chí, đồng nghiệp và nhân dân.
Lối sống của người sĩ quan LLCSND là những hình thức, cung cách sinh
hoạt, làm việc, những hoạt động, cách xử sự đã trở thành ổn định, thành đặc điểm
riêng của cá nhân. Lối sống do nhiều yếu tố quy định như giáo dục, nghề nghiệp,
điều kiện kinh tế, sinh hoạt, hoàn cảnh xã hội, phẩm chất tâm lý-sinh lý và sự rèn
luyện của cá nhân… Lối sống gắn liền và là một biểu hiện đậm nét của đạo đức cá
nhân, vì vậy, khi nhận diện và đánh giá phẩm chất đạo đức của cán bộ nhất thiết
phải xem xét lối sống của họ.
Phẩm chất đạo đức, lối sống của người sĩ quan LLCSND quan hệ mật thiết
với phẩm chất chính trị. Phẩm chất chính trị chi phối, quy định phẩm chất đạo đức;
phẩm chất đạo đức tác động tới sự phát triển phẩm chất chính trị. Người sĩ quan
LLCSND có giác ngộ chính trị, có niềm tin sâu sắc vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa
sẽ giúp họ có tình yêu thương đồng chí, kính trọng nhân dân, quan tâm giúp đỡ mọi
người, biết hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích cách mạng. Những phẩm chất đạo đức
tốt đẹp như trung, hiếu, dũng, liêm,… sẽ giúp người sĩ quan LLCSND củng cố, phát
triển các phẩm chất chính trị như sự kiên định lập trường, tư tưởng, tính tiên phong
gương mẫu của người sĩ quan LLCSND. Quan hệ biện chứng giữa phẩm chất chính
trị và phẩm chất đạo đức của người sĩ quan LLCSND tạo nên phẩm chất đạo đức
cách mạng của người sĩ quan LLCSND thường được gọi là “phẩm chất” hay mặt
46
“đức” mặt “hồng” của sĩ quan LLCSND. Người sĩ quan LLCSND phải có phẩm
chất đạo đức trong sáng, tiêu biểu cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu,
lãng phí và được cán bộ, chiến sĩ, đảng viên và nhân dân tin cậy.
Năng lực của sĩ quan LLCSND là tổng hợp những yếu tố tạo nên khả năng cá
nhân cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ người sĩ quan LLCSND. Năng lực của người
sĩ quan LLCSND bao gồm hai mặt chủ yếu: Năng lực trí tuệ và năng lực chuyên
môn. Năng lực trí tuệ là khả năng nhận thức, tiếp cận tri thức, khả năng nắm bắt,
phân tích, đề xuất giải pháp trong hoạt động thực tiễn của người sĩ quan LLCSND.
Năng lực chuyên môn là tri thức, kỹ năng để hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn của
người sĩ quan LLCSND. Năng lực của người sĩ quan LLCSND phụ thuộc vào nhiều
yếu tố như: Trình độ kiến thức, kỹ năng; kinh nghiệm thực tiễn; ý thức trách nhiệm;
hoàn cảnh, điều kiện công tác… Trong đó, trình độ kiến thức, kỹ năng và kinh
nghiệm thực tiễn có vai trò quan trọng hơn cả. Năng lực của người sĩ quan
LLCSND chủ yếu được hình thành và phát triển qua quá trình đào tạo, bồi dưỡng và
hoạt động thực tiễn. Mỗi thời kỳ cách mạng, khi nhiệm vụ chính trị của Đảng và
nhiệm vụ cụ thể của người sĩ quan LLCSND có sự thay đổi thì năng lực của người
sĩ quan LLCSND cũng phải có sự thay đổi cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ.
Trình độ của người sĩ quan LLCSND bao gồm 3 mặt chủ yếu: Trình độ học
vấn; trình độ chính trị; trình độ chuyên môn. Trình độ học vấn là mức độ kiến thức
của người sĩ quan LLCSND, thường được xác định bằng các bậc học cụ thể trong
hệ thống giáo dục quốc dân. Đây là nền tảng để rèn luyện, nâng cao trình độ chính
trị, chuyên môn và cả phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức của người sĩ quan
LLCSND. Trình độ chính trị là mức độ hiểu biết về chính trị của người sĩ quan
LLCSND. Trên thực tế, trình độ chính trị được đánh giá chủ yếu bằng mức độ hiểu
biết về lý luận chính trị. Hiện nay, trình độ chính trị của người sĩ quan LLCSND
được đánh giá theo 3 mức độ: Sơ cấp, trung cấp, cao cấp. Trình độ chính trị là cơ sở
để tạo nên phẩm chất chính trị của người sĩ quan LLCSND. Không có trình độ
chính trị nhất định thì người sĩ quan LLCSND không thể có giác ngộ lý tưởng cộng
sản, có bản lĩnh chính trị vững vàng.
Trình độ chuyên môn của người sĩ quan LLCSND là mức độ kiến thức và kỹ
năng thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của chức danh công việc theo quy định. Trình
độ chuyên môn của người sĩ quan LLCSND không chỉ được đánh giá bởi bằng cấp
47
chuyên môn được đào tạo mà chủ yếu là ở kết quả hoàn thành nhiệm vụ chuyên
môn, ở uy tín trong công tác chuyên môn.
Trình độ của người sĩ quan LLCSND là một yếu tố có vai trò đặc biệt, chi
phối, ảnh hưởng tới tất cả các yếu tố tạo nên chất lượng người sĩ quan LLCSND, là
cơ sở để hình thành và phát triển phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức của người
sĩ quan LLCSND; là yếu tố đặc biệt quan trọng tạo thành năng lực và là điều kiện
để có năng lực. Tuy nhiên, không phải người sĩ quan LLCSND cứ có kiến thức là
có năng lực. Có kiến thức nhưng phải trải qua quá trình rèn luyện trong thực tiễn thì
mới có năng lực. Trên thực tế đã có không ít người sĩ quan LLCSND có kiến thức
song năng lực hạn chế. Cũng có nhiều người tuy không có bằng cấp, chứng chỉ
nhưng họ tự học tập, lăn lộn trong thực tiễn nên vẫn có năng lực tốt. Trình độ và
năng lực của người sĩ quan LLCSND quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo nên cái “tài”
hay mặt “chuyên” của người sĩ quan LLCSND.
Về sức khoẻ, độ tuổi người sĩ quan LLCSND: Sức khoẻ là vốn quý nhất của
mỗi con người. Sức khoẻ là nhu cầu trước hết của bản thân con người, là nhu cầu
tồn tại. Không có sức khoẻ thì không phát triển được trí tuệ, không thể lao động có
hiệu quả cho xã hội. Có một cơ thể khoẻ mạnh, cường tráng là điều kiện cần thiết
cho một tinh thần sảng khoái, minh mẫn, là tiền đề và cơ sở chắc chắn, thường
xuyên cho việc thực hiện có chất lượng nhiệm vụ được giao.
Quy định tuổi người sĩ quan LLCSND là để tạo mặt bằng chung, bảo đảm khả
năng làm việc tốt, bảo đảm sự kế thừa và đổi mới đội ngũ sĩ quan LLCSND Lào.
Tuổi đời không phải là một yếu tố quyết định phẩm chất, năng lực, trình độ, hiệu quả
công việc. Tuổi đời là một tiêu chí xã hội quan trọng, xác định vị trí, vai trò và uy tín
xã hội của mỗi người sĩ quan LLCSND. Người sĩ quan LLCSND cần có tuổi đời
thích hợp với chức trách, vai trò, nhiệm vụ hiện tại đang đảm nhận, có độ “dư thừa”
cần thiết để bảo đảm khả năng phát huy lâu dài, ít nhất là một nhiệm kỳ công tác.
Phong cách làm việc của người sĩ quan LLCSND là cách thức làm việc ổn định,
mang sắc thái của mỗi người. Phong cách làm việc của người sĩ quan LLCSND phụ
thuộc vào nhiều yếu tố: Phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, trình độ,
năng lực, khí chất cá nhân, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, điều kiện làm việc, sinh hoạt,
sự giáo dục, rèn luyện… của người sĩ quan LLCSND. Phong cách làm việc của người
sĩ quan LLCSND có ảnh hưởng lớn tới việc đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công
tác. Phong cách làm việc của người sĩ quan LLCSND gồm nhiều nội dung rất phong
48
phú, có thể liệt kê những nội dung chủ yếu nhất: Tác phong dân chủ - tập thể; tác
phong khoa học; tác phong tinh nhuệ và chính quy hiện đại; tác phong quần chúng.
2.2.2.3. Mối quan hệ của đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân với
môi trường, điều kiện công tác cụ thể (với đường lối, nhiệm vụ chính trị, tổ chức
và cơ chế, chính sách)
Đây là những dấu hiệu đặc biệt quan trọng để nhận biết chất lượng đội ngũ sĩ
quan LLCSND hiện nay. Con người luôn sống và hoạt động trong hàng loạt mối
quan hệ; mỗi người vừa là nhân, vừa là quả, vừa là chủ thể, vừa là đối tượng tác
động của các mối quan hệ với tự nhiên, xã hội. Do vậy, khi xem xét, đánh giá người
sĩ quan LLCSND phải đặt người sĩ quan LLCSND trong các mối quan hệ chủ yếu,
xác định như trên, nhất là mối quan hệ của người sĩ quan LLCSND với cấp ủy, đơn
vị, tổ chức đảng, đồng nghiệp và nhân dân. Có như vậy, mới đánh giá được thực
chất người sĩ quan LLCSND.
2.2.2.4. Mức độ hoàn thành nhiệm vụ, chức trách của đội ngũ cán bộ (kết
quả hoàn thành nhiệm vụ, chức trách được giao của đội ngũ cán bộ)
Đây là tiêu chí trung tâm, chủ yếu nhất, là dấu hiệu cụ thể nhất, rõ nhất để
đánh giá chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND hiện nay. Kết quả công tác thực tế
người sĩ quan LLCSND bao gồm những yếu tố cụ thể sau:
- Thái độ công tác biểu hiện sự quan tâm, tinh thần trách nhiệm đối với nhiệm
vụ, ảnh hưởng trực tiếp đối với cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, nhân dân… tạo ra bầu
không khí làm việc, có những biểu hiện cụ thể sau: Sự miệt mài, say sưa làm việc hàng
ngày, chịu khó đi sâu nghiên cứu, học tập để thường xuyên nâng cao trình độ, khả
năng, kinh nghiệm công tác, có tinh thần trách nhiệm và sự hiểu biết trong công tác, có
tinh thần chủ động làm việc, có ý thức về thời gian làm việc và kỷ luật lao động,...
- Khối lượng công việc biểu hiện qua: Số lượng đầu công việc đảm nhận và
hoàn thành. Mức độ phức tạp, quy mô, cường độ, tốc độ, thời gian làm việc,...
- Hiệu suất công tác (năng suất lao động cá nhân): Thời gian và tốc độ hoàn
thành công việc; mức độ vượt qua những trở ngại của bản thân và vượt lên những
khó khăn của hoàn cảnh để hoàn thành công việc được giao; sự tiết kiệm những chi
phí về tài chính cũng như sức người, sức của trong quá trình tiến hành công việc.
Sĩ quan LLCSND phải có tính chủ động, sáng tạo và mức độ hoàn thành nhiệm
vụ, công việc được giao cho sĩ quan LLCSND trong năm, trong nhiệm kỳ hoặc trong
giai đoạn nhất định. Cần đánh giá sâu về chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ được
49
giao trong năm, cả kết quả ở mức hoàn thành, hoàn thành vượt mức hay không hoàn
thành nhiệm vụ, nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan... Cần xem xét hiệu
quả kinh tế, chính trị, xã hội ở cơ quan, đơn vị, địa phương từ kết quả thực hiện nhiệm
vụ được giao cho sĩ quan LLCSND.
Sĩ quan LLCSND phải có mối quan hệ, khả năng quy tụ, phối hợp với đồng
nghiệp và các tổ chức liên quan, phát huy sức mạnh của tập thể để hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao của đơn vị, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh
đạo, quản lý và thực hiện nhiệm vụ.
Mức độ thực hiện nhiệm vụ được giao trong năm của sĩ quan LLCSND được thể
hiện ở khối lượng, chất lượng, tiến độ, hiệu quả của công việc trong từng vị trí, từng thời
gian, bao gồm cả những nhiệm vụ thường xuyên và đột xuất, đặc biệt là tham mưu ban
hành các văn bản về lĩnh vực An ninh, Cảnh sát được phân công phụ trách; năng lực,
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: trình độ chuyên môn theo yêu cầu; cải tiến phương
pháp làm việc nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác; sáng kiến công tác được áp dụng
trong thực tiễn, hoặc được cơ quan có thẩm quyền công nhận; các đề tài, đề án, công
trình chủ trì nghiên cứu xây dựng hoặc tham gia nghiên cứu để phục vụ công tác bảo an
ninh quốc gia, bảo vệ trật tự an toàn xã hội, phòng chống tội phạm một cách rộng rãi.
Đối với sĩ quan LLCSND lãnh đạo cơ quan, đơn vị, ngoài các nội dung trên,
còn phải đánh giá về kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao lãnh
đạo, quản lý; năng lực lãnh đạo, quản lý; năng lực tập hợp, đoàn kết cán bộ, chiến sĩ
Cảnh sát và đoàn kết nhân dân.
Việc thực hiện chức trách nhiệm vụ của sĩ quan LLCSND phải được đánh giá,
phân loại hằng năm, với các mức: hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; hoàn thành tốt nhiệm
vụ; hoàn thành nhiệm vụ, nhưng còn hạn chế về năng lực và không hoàn thành chức
trách nhiệm vụ.
2.2.2.5. Sự tín nhiệm của cán bộ, chiến sĩ, đảng viên và nhân dân (thông qua
các tổ chức của hệ thống chính trị và nơi ở của cán bộ) và sự tín nhiệm của các cấp
ủy, các cơ quan tham mưu đối với đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân
Đây là dấu hiệu cơ bản, không thể thiếu khi đánh giá chất lượng đội ngũ sĩ
quan LLCSND hiện nay, là dấu hiệu tin cậy, chắc chắn bảo đảm đội ngũ sĩ quan
LLCSND thật sự có chất lượng tốt. Điều này góp phần giải thích tại sao trong cùng
một hoàn cảnh khách quan mà nhiều nơi chất lượng người cán bộ không như nhau,
thậm chí kém xa nhau.
50
Sự tín nhiệm trong cơ quan và nơi cư trú của sĩ quan LLCSND ở từng vị trí
công tác là mức độ tín nhiệm đối với người sĩ quan LLCSND để làm cơ sở cho việc
xem xét đánh giá, bố trí, sử dụng sĩ quan LLCSND của cơ quan, tổ chức, đơn vị có
thẩm quyền.
Để làm tốt phải tiến hành lấy phiếu tín nhiệm đối với sĩ quan LLCSND ở từng
vị trí công tác, ở từng địa bàn, từng địa phương, ở từng hoàn cảnh, sẽ thể hiện sự tín
nhiệm hoặc không tín nhiệm đối với người sĩ quan LLCSND để làm cơ sở cho việc
miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc phê chuẩn việc miễn nhiệm, cách chức, giáng chức, luân
chuyển, thay đổi vị trí công tác người sĩ quan LLCSND không được tín nhiệm.
Mục đích lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm. Việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ
phiếu tín nhiệm nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động công tác của sĩ quan
LLCSND ở từng vị trí công tác; ở từng địa bàn, từng địa phương, ở từng hoàn cảnh sẽ
giúp người sĩ quan LLCSND được lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm thấy được
mức độ tín nhiệm của mình để phấn đấu, rèn luyện, nâng cao chất lượng và hiệu quả
công tác; làm cơ sở để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét đánh giá, bố trí, sử
dụng sĩ quan LLCSND.
Để làm tốt phải có nguyên tắc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm, đó là: Bảo
đảm quyền của sĩ quan LLCSND trong việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm; tôn
trọng quyền báo cáo, giải trình của sĩ quan LLCSND được lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu
tín nhiệm. Công khai, công bằng, dân chủ, khách quan; bảo đảm đánh giá đúng thực chất
kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của sĩ
quan LLCSND được lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm. Đề cao trách nhiệm của sĩ
quan LLCSND; bảo đảm sự ổn định và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, sự
lãnh đạo của Đảng trong công tác cán bộ, công tác lực lượng vũ trang nhân dân.
Căn cứ đánh giá mức độ tín nhiệm đối với sĩ quan LLCSND giữ chức vụ lãnh
đạo, quản lý, chỉ huy trong ngành gồm: Kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn; phẩm
chất chính trị, đạo đức, lối sống.
Việc lấy phiếu tín nhiệm sĩ quan LLCSND lãnh đạo, quản lý, chỉ huy trong
ngành thì cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm
phải có trách nhiệm là:
- Định kỳ tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với những sĩ quan LLCSND giữ chức
vụ lãnh đạo, quản lý, chỉ huy trong ngành, bảo đảm đúng đối tượng, nguyên tắc, thời
hạn và quy trình theo quy định.
51
- Tổ chức, cán bộ, sĩ quan LLCSND và cá nhân liên quan có trách nhiệm tham
gia lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm; cân nhắc thận trọng, khách quan, công
tâm, công bằng khi thể hiện tín nhiệm đối với sĩ quan LLCSND giữ chức lãnh đạo,
quản lý và chỉ huy.
- Sĩ quan LLCSND được lấy phiếu tín nhiệm phải báo cáo trung thực kết quả
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và
giải trình đầy đủ các nội dung mà tổ chức và cá nhân yêu cầu, kể cả nguồn thu nhập
của mình và gia đình.
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân không được lợi dụng việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ
phiếu tín nhiệm để vận động hoặc có hành vi trái pháp luật tác động đến sự ổn định của
tổ chức.
Các tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND như trên có quan
hệ biện chứng, mật thiết với nhau, tạo thành một hệ tiêu chí thống nhất. Để đánh giá
đúng chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND cần xem xét đầy đủ các tiêu chí đó, cách
đánh giá phải thật sự khách quan, toàn diện và lịch sử cụ thể, vừa định lượng, vừa
định tính, lấy định lượng để định tính; xem xét toàn diện, tổng hợp tất cả các yếu tố
có thể đo đạc, định lượng được để định tính rõ ràng, đầy đủ chất lượng đội ngũ sĩ
quan LLCSND
2.2.3. Những yếu tố quy định, chi phối chất lượng đội ngũ sĩ quan lực lượng
Cảnh sát nhân dân Lào
2.2.3.1. Đường lối, chính sách, công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước trong
điều mới
Hiện nay, Đảng NDCM Lào đang tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ X. Công tác cán bộ được tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ; thực
hiện tốt Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy CNH, HĐH; đổi mới tư duy, cách làm, khắc
phục yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ.
Đặc biệt quan trọng, toàn Đảng đang quyết liệt thực hiện một số vấn đề cấp
bách trong xây dựng, kiện toàn Đảng hiện nay. Công tác xây dựng Đảng vẫn còn
không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua
nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với
Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng
và sự tồn vong của chế độ.
Trong bối cảnh đó, Đảng NDCM Lào tiến hành đổi mới công tác cán bộ, cụ
thể tập trung vào một số nội dung sau:
52
Một là, Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác cán bộ
Tiếp tục thể chế hóa nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và
quản lý đội ngũ cán bộ đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người
đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ.
Cần khẩn trương nghiên cứu và ban hành quy định trách nhiệm và thẩm
quyền của người đứng đầu trong công tác cán bộ. Việc xây dựng quy định này đòi
hỏi vừa bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng, tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách; vừa phát huy và đề cao vai trò trách nhiệm của người đứng đầu trong
công tác cán bộ.
Bổ sung, hoàn thiện hệ thống các quy định, quy chế về sự lãnh đạo của Đảng
đối với tổ chức và hoạt động của các tổ chức thành viên khác trong hệ thống chính
trị. Tiếp tục cải tiến quy trình công tác nhân sự của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Lào
xây dựng đất nước và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Mở rộng và phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, bảo đảm khách quan,
công tâm, công khai, minh bạch.
Hai là, hoàn thiện công tác đánh giá cán bộ
Phải xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ và tiêu chí đánh giá cụ thể đối
với từng chức danh, từng đối tượng cán bộ, phù hợp với thời kỳ mới. Tiêu chí đánh
giá phải đánh giá được đối tượng cần đánh giá (có đạt hay không đạt mục tiêu đề
ra). Các tiêu chí cần cụ thể, có khả năng định lượng để đo lường được, có thể thực
hiện được, sát với thực tiễn. Bộ tiêu chí gắn với mốc thời gian thực hiện.
Trong đánh giá cán bộ, các tiêu chí đánh giá thường phải căn cứ vào tiêu
chuẩn cán bộ đã được xác định đối với từng vị trí công tác trong tổ chức. Tiêu
chuẩn cán bộ được hình thành dựa trên các tiêu chuẩn chung trong công tác cán bộ
của Đảng, của đảng uỷ các cấp, chi bộ cơ sở và chủ yếu phải căn cứ vào công việc
cụ thể được giao cho cán bộ. Nhìn chung, các tiêu chí đánh giá phải làm rõ ưu điểm,
khuyết điểm, mặt mạnh, mặt yếu về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực
và hiệu quả công tác, chiều hướng phát triển của cán bộ.
Đánh giá cán bộ cần bảo đảm tính công bằng, khách quan. Nguyên tắc này đòi
hỏi: (i) phải công khai hoá nội dung, tiêu chuẩn và phương pháp tiến hành đánh giá; (ii)
bộ phận có thẩm quyền đánh giá phải thể hiện được sự công bằng, khách quan;(iii)
đánh giá phải dựa trên sự khảo sát, thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, tổng
hợp, khái quát thông tin để có được những đánh giá khách quan, chính xác và hạn chế
53
được lối đánh giá chủ quan, cảm tính, phiến diện; (iv) cần luật hoá công tác đánh giá
cán bộ nhằm tránh những hiện tượng không công bằng, không tuân thủ quy trình đánh
giá, không hoàn thành chức trách, vì tư lợi làm rối kỷ cương trong đánh giá.
Đánh giá cán bộ trên quan điểm lịch sử cụ thể. Thời điểm, hoàn cảnh lịch sử cụ
thể có sự chi phối, ảnh hưởng tới công tác của từng cán bộ, vì thế trong đánh giá cán bộ
phải căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà đề ra tiêu chí đánh giá phù hợp.
Đánh giá cán bộ cần bảo đảm tính toàn diện. Toàn diện trong đánh giá nghĩa
là phải xem xét tới tất cả các mối liên hệ trực tiếp, gián tiếp; bên trong, bên ngoài;
khách quan, chủ quan trong mọi mặt công tác của cán bộ. Các khâu trong công tác
cán bộ đều có quan hệ ràng buộc lẫn nhau, vì thế, đánh giá cán bộ phải được nhìn
nhận trong mối quan hệ tổng thể, toàn diện các mặt công tác, không chỉ phiến diện
một mặt công tác nào.
Đánh giá cán bộ theo quan điểm phát triển. Đánh giá theo quá trình phấn đấu
vươn lên, sự phát triển trong công tác của cán bộ và dự báo được khả năng, triển
vọng, xu hướng phát triển của cán bộ. Con người là một thực thể tự nhiên - xã hội,
nên luôn vận động và phát triển trong xã hội, trong mỗi tổ chức. Công tác đánh giá
phải nhìn nhận được sự phát triển (tiến bộ, dừng lại hay tụt lùi) và triển vọng về
trình độ, năng lực của cán bộ sau từng giai đoạn. Đặc biệt, công tác đánh giá phải
góp phần phát hiện cán bộ trẻ tài năng và sớm đưa họ vào quy hoạch đào tạo, bồi
dưỡng để trở thành nguồn cán bộ lãnh đạo kế cận trong tương lai.
Phải lấy việc đánh giá hiệu quả công tác thực tế của cán bộ là một yêu cầu cơ
bản trong công tác đánh giá cán bộ. Hiệu quả công tác thực tế là sự phản ánh khách
quan, tổng hợp các năng lực, phẩm chất, thái độ và chất lượng công tác của cán bộ.
Một tiêu chí quan trọng hàng đầu để đánh giá cán bộ là phải hoàn thành các công
việc được tổ chức giao với hiệu quả cao. Một cán bộ không thể được đánh giá tốt
khi chỉ hoàn thành công việc ở mức độ trung bình hay chỉ luôn giỏi nói chứ không
giỏi làm. Hết sức tránh việc đánh giá cán bộ chỉ dựa trên chấp hành đúng các yêu
cầu tối thiểu của tổ chức mà không xét tới tính hiệu quả của công việc, tức là không
đánh giá những thành tích nổi trội, vượt lên của cán bộ trong công việc so với chuẩn
mực, yêu cầu chung.
Ba là, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ
Quy hoạch cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ chính trị và thực tế đội
ngũ cán bộ; phải bảo đảm sự liên thông của cả đội ngũ cán bộ. Phải đánh giá đúng
cán bộ trước khi đưa vào quy hoạch;
54
Thực hiện công khai trong công tác quy hoạch (công khai về tiêu chuẩn, số
lượng và danh sách quy hoạch đã được cấp trên phê duyệt).
Thực hiện Quy hoạch cán bộ cấp chiến lược nhiệm kỳ 2016 - 2020 và các
nhiệm kỳ tiếp theo. Thực hiện bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp trên nói chung
phải kinh qua chức vụ lãnh đạo, quản lý ở cấp dưới.
Quy hoạch cán bộ phải bảo đảm phương châm “động” và “mở”.
Số lượng cán bộ đưa vào quy hoạch phải bảo đảm 1,5 đến hai lần; mỗi chức
danh quy hoạch hai - ba người; một người quy hoạnh hai - ba chức danh; không quy
hoạch một người cho một chức danh.
Phải bảo đảm về độ tuổi và cơ cấu, đó là: Bảo đảm ba độ tuổi trong quy
hoạch và dãn cách các độ tuổi là năm năm; bảo đảm tỷ lệ nữ trong quy hoạch không
dưới 15%. Nếu không bảo đảm cơ cấu thì cấp trên không phê duyệt hoặc bổ sung
cán bộ từ nơi khác vào quy hoạch.
Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện luân chuyển cán bộ
Kết hợp chặt chẽ, đồng bộ với các khâu của công tác cán bộ, trong đó có luân
chuyển cán bộ. Việc luân chuyển cán bộ cần đặt trong tổng thể quy hoạch cán bộ
lãnh đạo và quản lý của mỗi cấp, mỗi ngành, là một khâu quan trọng hợp thành quy
hoạch cán bộ. Thực hiện luân chuyển đúng cán bộ, đúng vị trí là thiết thực góp phần
thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ.
Mặt khác, trên cơ sở quy hoạch cán bộ khoa học, hợp lý mà khâu đầu tiên là
đánh giá khách quan, lựa chọn đúng cán bộ để tiến hành luân chuyển cán bộ có kết
quả, đạt được mục tiêu đề ra.
Luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý phải gắn với việc đánh giá đúng phẩm
chất, năng lực và khả năng phát triển của cán bộ, gắn với yêu cầu phát hiện, bồi
dưỡng nhân tài. Cần đánh giá đúng cán bộ để phát hiện mặt mạnh và mặt còn hạn
chế của cán bộ để từ đó xây dựng kế hoạch luân chuyển cho phù hợp, giúp cán bộ
thông qua hoạt động thực tiễn khắc phục được hạn chế, mau chóng trưởng thành.
Chính vì thế, khi luân chuyển cán bộ, cần chú ý thực hiện đồng thời cả hai việc:
phải đánh giá đúng về trình độ, năng lực, khả năng phát triển và phẩm chất đạo đức
của cán bộ và tìm nơi luân chuyển cho thích hợp nhằm tạo điều kiện để cán bộ phấn
đấu khắc phục những yếu điểm.
Do đặc thù của hệ thống chính trị Lào nên đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
bao gồm nhiều loại như: cán bộ của Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể
55
chính trị - xã hội; cán bộ quản lý trong doanh nghiệp nhà nước; đơn vị sự nghiệp;
cán bộ lãnh đạo cấp trung ương, cấp địa phương và cấp cơ sở. Đối với mỗi loại cán
bộ, do tính chất chuyên môn, nghề nghiệp cũng như lĩnh vực công tác khác nhau
nên từ đó có nhu cầu khác nhau về đào tạo, bồi dưỡng, dẫn đến mục tiêu, yêu cầu
luân chuyển cũng không giống nhau.
Đối với cán bộ trong quy hoạch cán bộ lãnh đạo chung của Đảng và Nhà
nước ở cấp Trung ương, đòi hỏi phải được chuẩn bị về kiến thức và năng lực lãnh
đạo toàn diện, thì việc luân chuyển công tác đối với họ có thể diễn ra ở phạm vi
rộng, cả về địa lý lẫn phương diện chuyên môn, nghề nghiệp.
Đối với cán bộ trong quy hoạch cán bộ quản lý (ngành, lĩnh vực, doanh
nghiệp) thì phạm vi luân chuyển, nói chung, nên trong ngành, lĩnh vực ấy, tức là bố
trí để người cán bộ kinh qua nhiều loại công việc trong phạm vi phụ trách của họ.
Cần chú trọng tính chất chuyên nghiệp của đội ngũ công chức hành chính nhà nước
để xây dựng đội ngũ lãnh đạo, quản lý chuyên sâu của nền hành chính.
Cần luân chuyển những cán bộ khoa học, kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ
có khả năng trở thành cán bộ lãnh đạo, quản lý xuống cơ sở, về địa phương để họ có
điều kiện thâm nhập thực tế, từ đó đào tạo, bồi dưỡng chuẩn bị chuyển sang đảm
nhận cương vị lãnh đạo và quản lý, nhưng tốt nhất là nên gắn với lĩnh vực chuyên
môn hoặc có liên quan tới chuyên môn của ngành đó.
Năm là, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ và nâng cao nhận thức của cấp uỷ
và cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò, ý nghĩa của công tác đào tạo, bồi dưỡng; tăng
cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của người học; xây
dựng ý thức trách nhiệm của đội ngũ những người làm công tác tham mưu, quản lý đào
tạo, giảng dạy; khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp, tuyệt đối hoá bằng cấp của cả
người dạy, người học và của cơ quan làm công tác cán bộ và cơ quan sử dụng cán bộ.
Đổi mới toàn diện, đồng bộ về nội dung, phương pháp, với hình thức đào tạo,
bồi dưỡng tập trung hơn để nâng cao chất lượng. Định hướng nội dung bảo đảm giữ
vững các nguyên lý cơ bản và phương pháp luận biện chứng khoa học của chủ
nghĩa Mác - Lênin, đường lối và quan điểm của Đảng; phải bao gồm cả nguyên lý
cơ bản và kiến thức mới lẫn lý luận chung và kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý có tính
chất kỹ năng, kỹ thuật; gắn với thực hiện việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn.
56
Xây dựng một số chương trình đào tạo, bồi dưỡng đặc biệt dành cho cán bộ
dự nguồn các chức danh cao cấp của Đảng, Nhà nước và đoàn thể. Mở rộng và nâng
cao chất lượng hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và đào tạo.
Xác định đúng mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ về đào tạo, bồi dưỡng lý luận
chính trị trong thời kỳ mới. Đối tượng đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị phải là
cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp hoặc cán bộ trong quy hoạch. Cán bộ lãnh đạo chủ
chốt các cấp, các ngành cần được đào tạo lý luận chính trị theo tiêu chuẩn chức
danh và bồi dưỡng cập nhật kiến thức mới theo quy định. Tổ chức thành nền nếp
việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên,…
Việc chọn cử người đi học phải đúng đối tượng, đúng tiêu chuẩn, tiêu chí
chọn cử rõ ràng và được công khai, minh bạch, tránh phân bổ chỉ tiêu bình quân,
hình thức. Cán bộ được cử đi đào tạo, bồi dưỡng phải xác định rõ mục tiêu, động cơ
học tập; nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần tự giác học tập. Khắc phục tình
trạng chạy theo bằng cấp, tuyệt đối hóa bằng cấp của cả người dạy, người học, của
cơ quan làm công tác cán bộ và cơ quan sử dụng cán bộ.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị. Điều
chỉnh, bổ sung những quy định về tiêu chuẩn, chế độ, chính sách đối với giảng viên
và người học cho phù hợp. Có chính sách và biện pháp thu hút đội ngũ giảng viên
kiêm chức, kiêm nhiệm, thỉnh giảng. Quản lý chặt chẽ quá trình học tập, rèn luyện
của học viên trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng. Theo dõi, đánh giá về hiệu quả sử
dụng, trưởng thành của đội ngũ cán bộ sau khi được đào tạo, bồi dưỡng.
Sáu là, đổi mới công tác tuyển chọn, bố trí, sử dụng cán bộ
Tiếp tục hoàn thiện chế độ bầu cử; cải tiến cách thức tuyển chọn, lấy phiếu
tín nhiệm, bổ nhiệm cán bộ để chọn đúng người, bố trí đúng việc. Mở rộng quyền
đề cử, ứng cử và giới thiệu nhiều nhân sự để lựa chọn.
Thực hiện nghiêm quy chế cho thôi chức, miễn nhiệm, từ chức đối với cán
bộ lãnh đạo, quản lý. Kịp thời thay thế những cán bộ yếu kém về phẩm chất, năng
lực, không hoàn thành nhiệm vụ, để việc “có lên, có xuống, có vào, có ra” được
thực hiện bình thường trong bố trí, sử dụng cán bộ.
Xây dựng cơ chế để đảng viên, nhân dân tham gia giám sát cán bộ và công
tác cán bộ. Có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy quyền, chạy
tội, chạy bằng cấp, chạy huân chương.
57
Thực hiện nghiêm Quy chế chất vấn trong Đảng. Đổi mới cách lấy phiếu tín
nhiệm để đánh giá, nhận xét cán bộ theo hướng mở rộng đối tượng tham gia. Quy
định việc lấy phiếu tín nhiệm hằng năm đối với các chức danh lãnh đạo trong cơ
quan của Đảng, Nhà nước, đoàn thể.
Những người không đủ năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, tín nhiệm thấp
cần sắp xếp cho phù hợp; có cơ chế để kịp thời thay thế, không phải chờ đến hết
nhiệm kỳ, hết tuổi công tác.
Bảy là, đổi mới, hoàn thiện chính sách cán bộ
Tập trung nghiên cứu, tiếp tục đổi mới chính sách tiền lương, nhà ở, bảo đảm
công bằng, thống nhất theo nguyên tắc phân phối theo lao động.
Sớm quy định để thực hiện thống nhất về chế độ đối với cán bộ chuyển
công tác, thôi chức vụ khi về hưu; giải quyết một số điểm quá bất hợp lý về lương
và phụ cấp.
Ban hành chính sách, chế độ khuyến khích đối với cán bộ làm việc ở những
ngành và vùng cần phải ưu tiên, cán bộ, chuyên gia giỏi, làm việc có hiệu quả, có
cống hiến thiết thực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực hiện chính sách điều tiết đối với người có thu nhập cao, bảo đảm công
bằng xã hội. Có chính sách phụ cấp tương xứng với trách nhiệm đối với cán bộ xã,
phường. Bổ sung chính sách đối với cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ công tác ở vùng
cao, vùng sâu, vùng xa, khuyến khích cán bộ miền xuôi đến công tác ở miền núi,
biên giới, hải đảo.
Tiếp tục thực hiện tốt chế độ chăm sóc cán bộ có công với cách mạng (đương
chức và nghỉ hưu), trước hết là cán bộ hoạt động cách mạng thời kỳ chống Pháp và
chống Mỹ giai đoạn trước 1954 và giai đoạn 1955 đến 1975, cán bộ từng hoạt động
ở các chiến trường gian khổ.
Tám là, thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình
Xây dựng chế độ tự phê bình và phê bình ở các cấp, trước hết là cán bộ chủ
chốt; lấy tự phê bình làm chính, chống cách làm hình thức, chiếu lệ.
Có hình thức tổ chức thích hợp để quần chúng nhân dân tại cơ quan, đơn vị
và nơi ở tham gia phê bình cán bộ. Nghiêm cấm mọi hiện tượng trấn áp, trù dập
người thẳng thắn đấu tranh phê bình cũng như lợi dụng phê bình để đả kích cá nhân,
vu cáo, gây rối nội bộ.
Xây dựng và hoàn thiện các quy chế, quy định của Đảng và Nhà nước về
chống tham nhũng, buôn lậu, quan liêu, lãng phí và các tệ nạn khác, quy định những
58
điều cấm làm đối với cán bộ, công chức. Đẩy mạnh cải cách hành chính. Bảo đảm
quyền giám sát của nhân dân đối với cán bộ, công chức và bộ máy nhà nước.
Xây dựng quy chế thực hiện công khai và dân chủ việc xét duyệt các chương
trình kinh tế - xã hội, dự án đầu tư, phân bổ ngân sách, kinh phí, cấp giấy phép,...
Tăng cường kiểm kê, kiểm sát, kiểm tra chặt chẽ việc chi tiêu ngân sách nhà nước,
tài sản công, tài chính đảng, đoàn thể, các loại quỹ do nhân dân đóng góp ở tất cả
các cấp, các ngành từ trung ương đến cơ sở.
Xử lý kịp thời, nghiêm minh theo pháp luật những cán bộ, công chức tham
nhũng, buôn lậu, lãng phí và những người bao che, tiếp tay cho các hành vi đó.
Thực hiện việc đổi mới trong công tác cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu của tình
hình mới đang đặt ra nhiều thách thức, đòi hỏi Đảng phải thường xuyên tăng cường
công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn. Đây là công việc quan trọng,
nhưng không thể thực hiện trong ngày một, ngày hai, mà là công việc lâu dài, cần
thực hiện kiên trì, kết hợp giữa tuyên truyền nâng cao ý thức của cán bộ, đảng viên,
của các các ngành, các cấp với ý kiến đóng góp của quần chúng nhân dân.
2.2.3.2. Quy định, quy chế, cơ chế, chính sách về công tác cán bộ của Đảng
và Nhà nước
Ban hành và thực hiện nghiêm các quy định, quy chế, cơ chế, chính sách về
cán bộ và công tác cán bộ là việc cần thiết.
Chủ trương, nguyên tắc, quan điểm, giải pháp về công tác cán bộ phải được
thể chế, cụ thể hóa bằng quy chế, quy định, quy trình bảo đảm dân chủ, chặt chẽ.
Đẩy mạnh dân chủ hóa công tác cán bộ, quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của
mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; hoàn thiện tiêu chí
đánh giá và cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi công vụ; xác định rõ
trách nhiệm, quyền hạn của người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Đại hội lần thứ X chỉ
rõ: “tiếp tục cụ thể hoá thành các quy định, quy chế, cơ chế trong công tác cán bộ
bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và chặt chẽ giữa các khâu, liên thông giữa các
cấp; trong đó có quy chế về việc đánh giá đúng đắn, khách quan đối với cán bộ, để
có cơ sở sử dụng, bố trí cán bộ, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy tuổi,
chạy bằng cấp... [173, tr.68]”.
Phải xây dựng cho được tiêu chí để đánh giá cán bộ. Hằng năm, trước khi kết
thúc nhiệm kỳ hoặc chuyển công tác, căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ, hiệu quả công
việc thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân mà có đánh giá khách quan trên cơ sở
59
đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, nêu cao ý thức tự phê bình và phê bình của
cán bộ; chống địa phương, cục bộ mà đánh giá công chức thiếu khách quan, thiếu
căn cứ khoa học.
Việc tuyển chọn cán bộ phải thực hiện dân chủ, công khai, bảo đảm tuyển
chọn đúng những người có đủ tiêu chuẩn theo từng chức danh. Những năm qua,
một số bộ, ngành, cơ quan, đơn vị đã tổ chức thi tuyển chức danh lãnh đạo. Việc thi
tuyển này đã đem lại hiệu quả tích cực. Đây là vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu
để tổ chức thực hiện.
2.2.3.3. Điều kiện môi trường công tác của đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh
sát nhân dân
Điều kiện môi trường công tác đối với đội ngũ sĩ quan LLCSND (được tiếp
cận là môi trường bên trong) bao gồm: cơ sở vật chất, tinh thần, chế độ chính sách,
mối quan hệ giữa lãnh đạo đối với nhân viên và giữa nhân viên với nhân viên…
trong một cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Môi trường công tác tốt là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến
sự phát triển của sĩ quan LLCSND cũng như quyết định đến chất lượng, hiệu quả
hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Thực tế cho thấy không ít cơ quan, tổ chức, đơn vị có môi trường công tác
không tốt dẫn đến những hậu quả có thể nhìn thấy được như: chất lượng, hiệu quả
làm việc kém; mất đoàn kết; thậm chí sĩ quan LLCSND có trình độ, năng lực xin
thôi việc hoặc chuyển công tác…
Để xây dựng một môi trường công tác tốt, mỗi cơ quan, tổ chức, đơn vị, nhất
là đối với người phụ trách phải xác định đây là một nhiệm vụ cần được ưu tiên hàng
đầu song song với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đơn vị.
Trước hết, đơn vị phải bảo đảm điều kiện về cơ sở vật chất như phòng làm
việc, bàn, ghế, điện thoại, máy vi tính… và các văn phòng phẩm khác phục vụ cho
việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Tùy theo điều kiện thực tế của cơ quan, đơn
vị để trang bị cho sĩ quan LLCSND nhưng phải đảm bảo các yếu tố của một cơ
quan, công sở.
Thứ hai, một nội dung hết sức quan trọng để phát huy năng lực của sĩ quan
LLCSND là thực hiện các chế độ, chính sách theo đúng quan điểm của Đảng, chính
sách của Nhà nước và pháp luật về tiền lương, khen thưởng, kỷ luật, đào tạo, bồi
dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ.
60
Thứ ba, mối quan hệ giữa lãnh đạo và nhân viên là một nội dung hết sức
quan trọng đòi hỏi người lãnh đạo phải có tầm nhìn xa, trông rộng, là người công
tâm, có tâm huyết với công việc, có đầu óc tổ chức để có thể xây dựng đơn vị vững
mạnh. Mối quan hệ giữa lãnh đạo và nhân viên gồm nhiều nội dung, song nội dung
quan trọng hơn cả là việc tổ chức, phân công, bố trí công việc hợp lý, phù hợp với
trình độ chuyên môn và năng lực công tác của mỗi sĩ quan LLCSND, đó chính là
“nghệ thuật dùng người”. Có thể nói, đội ngũ sĩ quan LLCSND cũng như những bộ
phận trong cơ thể con người, nếu ta sắp xếp, phân công không đúng chỗ sẽ dẫn đến
tình trạng hoạt động lộn xộn, không thống nhất, đưa lại những hậu quả khó lường.
Bên cạnh đó, yếu tố về tâm lý của người lãnh đạo cũng hết sức quan trọng;
đòi hỏi người lãnh đạo phải biết lắng nghe, biết kìm chế trong mọi hoàn cảnh; luôn
giữ được mối quan hệ mật thiết đối với nhân viên, nếu nhân viên làm việc sai thì từ
từ uốn nắn tránh tình trạng bức xúc, quát mắng… tạo nên những khoảng cách không
đáng có giữa nhân viên và thủ trưởng. Ngoài các yếu tố nói trên, người lãnh đạo cần
có những nhận xét, đánh giá kịp thời đối với sĩ quan LLCSND; có khen, có chê…
Nội dung đánh giá phải hết sức đúng đắn, khách quan tạo một tâm lý thoải mái,
khuyến khích sĩ quan LLCSND cố gắng hơn nữa trong việc thực hiện nhiệm vụ
chuyên môn. Ngoài ra người lãnh đạo cần quan tâm đến đời sống, hoàn cảnh của
mỗi sĩ quan LLCSND trong đơn vị và hỗ trợ kịp thời khi có khó khăn.
Thứ tư, xây dựng một tập thể đoàn kết. Đây là một trong những nội dung hết
sức quan trọng trong công tác cán bộ; có đoàn kết, thống nhất thì mới hoàn thành
được nhiệm vụ chung của đơn vị. Nội dung này đòi hỏi lãnh đạo đơn vị phải thường
xuyên quan tâm, tạo cho mọi người ý thức làm việc tập thể, biết quan tâm lẫn nhau
cùng giúp đỡ nhau trong cuộc sống và công tác. Phát hiện những mâu thuẫn cá nhân
bên trong đơn vị để kịp thời giải quyết, thường xuyên để mọi người gắn bó với nhau
cùng phấn đấu.
Tóm lại, xây dựng môi trường công tác tốt là một trong những nội dung,
nhiệm vụ hàng đầu mà cơ quan, tổ chức hay đơn vị phải quan tâm thực hiện; có môi
trường công tác tốt thì mỗi cá nhân sĩ quan LLCSND mới có điều kiện làm việc tốt,
phát huy khả năng của mình, chung sức thực hiện nhiệm vụ của đơn vị. Bên cạnh
đó, cơ quan, đơn vị cần tạo những điều kiện cần thiết để sĩ quan LLCSND tiếp cận
với môi trường bên ngoài về trình độ công nghệ, khoa học - kỹ thuật… nhằm theo
kịp với tình hình kinh tế, xã hội đang ngày một phát triển.
61
2.2.3.4. Nhiệm vụ chính trị; cơ cấu tổ chức bộ máy, số lượng cơ quan, đơn
vụ; sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng, quản lý chuyên môn của các cơ quan, tổ chức
thuộc Tổng cục Cảnh sát và sự nỗ lực phấn đấu, rèn luyện của cá nhân sĩ quan
lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào
Một là, nhiệm vụ chính trị của Tổng cục Cảnh sát.
Đó là các nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho Bộ An ninh, Tổng cục
Cảnh sát tổ chức thực hiện: chấp hành nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước; xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển dài
hạn, năm năm, hằng năm và các dự án, công trình quan trọng quốc gia về ngành, lĩnh
vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ An ninh; các dự thảo quyết định, chỉ thị,
chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình quốc gia, chương trình hành động quốc
gia và các văn bản khác về ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ An
ninh hoặc theo phân công; các vấn đề về lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật
tự an toàn xã hội, phòng chống tội phạm.
Hai là, cơ cấu tổ chức bộ máy, số lượng cơ quan, đơn vị thuộc Tổng cục
Cảnh sát.
Để có đội ngũ sĩ quan LLCSND có chất lượng cao, cần xây dựng cơ cấu tổ chức
bộ máy của ngành hợp lý theo hướng tinh gọn, có độ phủ kín, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả và tổ chức thực hiện tốt các vấn đề về quản lý, sử dụng sĩ quan LLCSND; thực
hiện cải cách hành chính trong hoạt động của các cơ quan; sắp xếp, kiện toàn tổ chức
bộ máy gắn với trách nhiệm sĩ quan LLCSND, đảm bảo trong sạch, vững mạnh, tinh
gọn, chuyên nghiệp, khoa học, hợp lý. Kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ máy là phải xây
dựng vị trí việc làm trên toàn ngành nhằm nâng cao chất lượng tham mưu, hoàn thành
tốt các nhiệm vụ thường xuyên và đột xuất do cấp trên giao.
Ba là, sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, quản lý của lãnh đạo chuyên môn các
cơ quan, tổ chức thuộc Tổng cục Cảnh sát.
Các cơ quan lãnh đạo, quản lý đề ra chủ trương, kế hoạch, tạo môi trường
thuận lợi cho đội ngũ sĩ quan LLCSND phát triển có chất lượng; phát huy sức sáng
tạo, tinh thần xung kích trên mọi mặt trận về lĩnh vực An ninh quản lý; định hướng
cho sĩ quan LLCSND có lý tưởng, có đạo đức cách mạng, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ đáp ứng những đòi hỏi của tiến trình đổi mới và hội nhập việc tăng cường
sự lãnh đạo sát thực của các cấp ủy đảng, quản lý của lãnh đạo chuyên môn các cơ
quan, tổ chức thuộc Bộ An ninh Lào là yếu tố quan trọng góp phần tạo nên chất
62
lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND. Trong hoạt động lãnh đạo, quản lý có những yếu tố
tác động trực tiếp đến công tác cán bộ: quy chế, quy định, quy trình công tác; phương
thức lãnh đạo, quản lý, chỉ huy; thực hiện các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
các tổ chức; phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo, quản lý các cấp; cơ
chế vận hành của tổ chức, trong đó có các thủ tục hành chính…
Bốn là, sự nỗ lực phấn đấu, rèn luyện của cá nhân sĩ quan LLCSND Lào.
Việc nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND phụ thuộc vào thực trạng
điểm mạnh, điểm yếu của sĩ quan LLCSND và ý thức trách nhiệm, tích cực học tập,
tu dưỡng, rèn luyện, thực hiện tốt nhiệm vụ của người sĩ quan LLCSND; ý thức tổ
chức kỷ luật, tinh thần tự phê bình và phê bình; sự đoàn kết, thống nhất, gắn bó, sẻ
chia, tình thân ái giữa những người đồng chí, đồng nghiệp. Những mặt hạn chế,
khuyết điểm của sĩ quan LLCSND ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng sĩ quan
LLCSND và cả đội ngũ. Từng cơ quan, đơn vị cần đánh giá đúng thực trạng đội ngũ
sĩ quan LLCSND để từ đó đề ra phương hướng, nhiệm vụ và biện pháp phù hợp nâng
cao chất lượng đội ngũ. Công tác tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng, sinh
hoạt cơ quan, tổ chức được thực hiện nghiêm túc, kiên quyết và kịp thời đấu tranh với
những biểu hiện sai trái, tư tưởng bình quân chủ nghĩa, nêu cao vai trò tự phấn đấu,
rèn luyện của sĩ quan LLCSND sẽ góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng
mọi mặt của sĩ quan LLCSND.
Năm là, sự chống phá của các thế lực thù địch và mặt trái của cơ chế thị trường
Hiện nay, các thế lực thù địch đang tìm mọi cách để thúc đẩy “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng và Nhà nước Lào, chống phá quốc phòng - an
ninh Lào về chính trị, tư tưởng với cấp độ và cường độ ngày càng quyết liệt, nguy
hiểm hơn.Những âm mưu và thủ đoạn mà các thế lực thù địch chống phá quân đội
ta về chính trị, tư tưởngthường tập trung vào những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, các thế lực thù địch chống phá nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng
hòng làm thay đổi bản chất chính trị của Đảng NDCM Lào. Bằng nhiều thủ đoạn
tinh vi, các thế lực thù địch tập trung công kích, xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư
tưởng của Đảng là Chủ nghĩa Mác - Lênin; đường lối, quan điểm của Đảng. Chúng
triệt để lợi dụng việc nước ta hội nhập, mở cửa để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”, hòng làm cho Đảng từng bước biến chất về chính trị, mơ hồ về mục
tiêu, lý tưởng từ đó các thế lực thù địch từng bước đẩy nước ta lâm vào tình cảnh rối
ren, mất ổn định chính trị - xã hội, chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
63
Thứ hai, các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc vấn đề “dân chủ”, “nhân
quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” ở Lào, đòi Đảng NDCM Lào thực hiện đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập.Thông qua phát tán tài liệu, sách báo phản động, kẻ địch
tung ra các luận điệu cho rằng “chế độ đảng trị” là nguyên nhân gây trở ngại phát
triển nền dân chủ ở Lào. Chúng cũng luôn xoi tìm mọi kẽ hở, thiếu sót trong tổ chức
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Lào về vấn đề dân tộc, tôn
giáo để kích động, lôi kéo quân đội can dự vào các vấn đề nhạy cảm đó, từ đó làm
cho quân đội ta mất phương hướng chính trị và suy giảm bản lĩnh chiến đấu.
Thứ ba, các thế lực thù địch đẩy mạnh xuyên tạc xuyên tạc đường lối đổi mới
của Đảng về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng lặp
đi lặp lại luận điệu cũ rích rằng, kinh tế thị trường là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản,
phải gắn với chủ nghĩa tư bản; không thể dung hợp kinh tế thị trường với CNXH…
Những luận điệu phản động đó được chúng tìm mọi cách để thâm nhập vào tư tưởng,
niềm tin và hành động của cán bộ, chiến sĩ quân đội, làm cho cán bộ, chiến sĩ nhận
thức sai lệch về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Lào, từ đó thúc đẩy “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng NDCM Lào.
Thứ tư, các thế lực thù địch và phần tử cơ hội chính trị lợi dụng những vụ án
tham nhũng liên quan đến cán bộ, đảng viên đã xảy ra hoặc những sự việc tiêu cực
trong xã hội để suy diễn, quy kết và thổi phồng, cho đó là tình trạng “phổ biến”, là
“bản chất” của chế độ xã hội chủ nghĩa nhằm vẽ lên một bức tranh xám xịt về thực
trạng xã hội Việt Nam dưới chế độ xã hội chủ nghĩa do Đảng NDCM Lào lãnh đạo.
Từ đó gây hoài nghi, làm mất niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng
và chế độ.
Thực chất, đây chỉ là những quan điểm, tư tưởng phiến diện, lệch lạc, đội lốt
“trách nhiệm” với “vận mệnh” của dân tộc, của đất nước để chống lại công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước Lào hiện nay. Đây rõ ràng là chiêu trò, thủ đoạn
“diễn biến hòa bình” nhằm gây “nhiễu loạn” chính trị - xã hội, nhằm xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng, từ đó làm cho quân đội ta xa rời sự lãnh đạo của Đảng, tha hóa,
biến chất, mơ hồ về mục tiêu chính trị.
Bản chất và âm mưu thâm độc của chiến lược diễn biến hoà bình do các thế
lực thù địch sử dụng ở nước ta là: núp dưới những hình thức, thủ đoạn “hoà bình”.
Đây là cuộc chiến tranh không có biên giới, vì nó diễn ra trong mọi mặt đời sống xã
hội, từ từ thẩm thấu qua các chiêu bài chủ yếu như: lợi dụng phương tiện thông tin
64
đại chúng, tình báo, thư, tiền, hàng.... lợi dụng tôn giáo, dân tộc để kích động gây
bạo loạn lật đổ... Những thủ đoạn, nội dung diễn biến hoà bình mà các thế lực thù
địch đã sử dụng ở nước ta thường là: thực hiện tổng hợp các biện pháp, chống phá
trên mọi mặt của đời sống xã hội từ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội đến quốc
phòng, an ninh và sẵn sàng gây bạo loạn lật đổ.
Cụ thể như:
- Về chính trị tư tưởng: các thế lực thù địch coi đây là mặt trận hàng đầu để
tập trung chống phá. Chúng chống phá về hệ tư tưởng, quan điểm đường lối của
Đảng, xuyên tạc đi đến hạ bệ chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối chính trị và thể chế
chính trị do Đảng NDCM Lào lãnh đạo... từ đó gây “tự diễn biến”, khủng hoảng về
chính trị, làm chệch hướng và sụp đổ chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước Lào;
chống phá, đánh vào tổ chức, nhân sự nội bộ của ta; kích động vấn đề dân chủ, nhân
quyền, bôi xấu chế độ; chúng tiến hành xuyên tạc, phủ nhận thành tựu cách mạng,
thành tựu đổi mới của dân tộc Lào.
- Các hoạt động phá hoại về kinh tế, tài chính: trong các thủ đoạn diễn biến
hoà bình, kẻ địch xác định mặt trận kinh tế là mũi nhọn. Chúng chống phá đường
lối, chính sách kinh tế; thúc đẩy chuyển hoá cơ cấu kinh tế, thành phần kinh tế, xâm
nhập, chiếm lĩnh các địa bàn, các lĩnh vực kinh tế quan trọng...; từ đó thúc đẩy,
chuyển hóa nền kinh tế của nước Lào sang quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Mục đích là
làm chuyển hoá chế độ kinh tế, qua đó làm thay đổi về chế độ chính trị của Lào theo
con đuờng tư bản chủ nghĩa. Lợi dụng cơ chế thị trường và chính sách mở cửa, bằng
mọi phương tiện, hình thức trong quan hệ với ta như: đầu tư, hội thảo, thăm quan,
giảng dạy, trao đổi kinh nghiệm để tuyên truyền, kích động tư nhân hoá nhằm xoá
bỏ ranh giới kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước Lào và kinh tế thị trường
TBCN, qua đó dần lái nền kinh tế của Lào theo hướng TBCN.
- Chống phá trên mặt trận văn hoá - xã hội: đây là lĩnh vực gần gũi nhất
trong đời sống xã hội. Kẻ địch xác định đây là mảnh đất thuận lợi cho chúng thực
hiện âm mưu diễn biến hoà bình. Chúng chống phá đường lối, chính sách văn hoá -
xã hội; thúc đẩy sự biến đổi chệch hướng giá trị văn hoá, đạo đức; biến đổi cơ cấu
xã hội - giai cấp; lợi dụng các mâu thuẫn, khiếu kiện, các vấn đề về dân tộc, tôn
giáo, nhân quyền và dân chủ… để chống phá Đảng, Nhà nước Lào; từ đó thúc đẩy
sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân
Lào. Trên mặt trận này chúng tập chung tuyên tuyền, kích động, khuyến khích lối
65
sống thực dụng chạy theo đồng tiền, dần dần làm suy thoái đạo đức, lối sống, thuần
phong mỹ tục, bản sắc văn hóa dân tộc... làm cho hoang mang, xa rời lý tưởng, gây
rối loạn chính trị, xã hội. Âm mưu này chúng tập trung vào những đối tượng là
thanh niên, học sinh, sinh viên và giới văn nghệ sỹ hoạt động trên lĩnh vực văn hoá
nghệ thuật. Lợi dụng những phương tiện liên lạc hiện đại như điện thoại di động,
mạng Internet, sách báo, băng hình... để tuyên truyền văn hoá phẩm đồi trụy. Gần
đây, tệ nạn ma tuý học đường, thuốc lắc phát triển cũng không nằm ngoài thủ đoạn
diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch.
- Chống phá trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, xã hội: chúng chống phá
đường lối, chính sách quốc phòng, an ninh, đối ngoại của Đảng, Nhà nước Lào,
thực hiện mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội và công an nhân dân,… tạo bước
chuyển hóa lực lượng vũ trang, sẵn sàng tạo cớ răn đe, can thiệp quân sự và xâm
lược nước ta khi điều kiện chín muồi. Thủ đoạn của chúng là tranh thủ mọi thời cơ
tạo ra sự biến động, mất ổn định về mặt an ninh xã hội, cấu kết với những phần tử
phản động trong nước để chống phá ta, lợi dụng những vấn đề tôn giáo để gây mất
ổn định và chia rẽ khối đoàn kết dân tộc.
Hiện nay, vấn đề “xã hội dân sự” đã và đang được các thế lực thù địch tìm
mọi cách lợi dụng nhằm thực hiện mưu đồ chuyển hóa chế độ chính trị ởLào. Sau
những thất bại trong hoạt động chống phá Lào ở các giai đoạn trước, hiện nay, các
thế lực thù địch đang xem “xã hội dân sự” là một hướng đi mới, là một trong những
phương thức tác động cơ bản trong chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ
vai trò lãnh đạo của Đảng NDCM Lào, thay đổi thể chế chính trị tại Lào. Mục tiêu
của các thế lực thù địch trong hoạt động lợi dụng vấn đề “xã hội dân sự” là tìm mọi
cách tạo “môi trường” cho sự xuất hiện ở nước Lào lực lượng, tổ chức chính trị đối
lập với Đảng NDCM Lào, thông qua hoạt động dưới danh nghĩa “xã hội dân sự” để
làm suy yếu, vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước xã hội
chủ nghĩa. Các thế lực thù địch cho rằng hình thành xã hội dân sự độc lập về chính
trị là một “lối thoát” cho sự ra đời công khai, hợp pháp của các tổ chức, lực lượng
chính trị đối lập với Đảng NDCM Lào, buộc Lào phải chấp nhận đa nguyên chính
trị, đa đảng đối lập. Họ tìm mọi cách thúc đẩy ở Lào một mô hình “xã hội dân sự”
độc lập về chính trị, nằm ngoài sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào, không chịu sự
quản lý của Nhà nước, các tổ chức được tự do thành lập, kể cả các tổ chức đối lập
với Đảng NDCM Lào; đòi “quyền đối lập” được thừa nhận ở Lào...
66
Tiểu kết chương 2
Đội ngũ sĩ quan LLCSND là lực lượng cấu thành tổ chức quản lý hành chính
nhà nước về bảo đảm trật tự, an toàn xã hội từ trung ương đến địa phương, là cầu nối
giữa chính quyền nhà nước với nhân dân trên phạm vi toàn quốc nhằm đảm bảo sự
lãnh đạo của Đảng thông qua chính quyền nhà nước, đảm bảo lãnh đạo thực hiện thắng
lợi những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhân dân tin tưởng vào
Đảng và Nhà nước thông qua đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước,
nhưng trực tiếp và thường xuyên thông qua lời nói và việc làm của những người sĩ
quan LLCSND. Vì vậy, có thể nói, kết quả của việc xây dựng và phát triển LLCSND;
đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội tùy thuộc vào chất lượng đội ngũ sĩ quan
LLCSND thực sự trong sạch, vững mạnh.
Bộ An ninh Lào là cơ quan quản lý những lĩnh vực trọng yếu của đất nước,
LLCSND là lực lượng chuyên chế của Nhà nước Lào quản lý về đảm bảo an ninh, trật
tự an toàn xã hội. Trong nhiều năm qua LLCSND đã cùng với các cấp, các ngành góp
phần cùng nhân dân xây dựng nên cuộc sống mới, giải quyết tốt các vấn đề bảo đảm an
ninh, trật tự an toàn xã hội; đội ngũ sĩ quan LLCSND đã nêu cao vai trò tiên phong,
gương mẫu và sáng tạo. Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND cũng còn
nhiều hạn chế, yếu kém chưa thực sự đáp ứng được những yêu cầu trong thời kỳ mới.
Để đảm bảo chất lượng tốt đội ngũ sĩ quan LLCSND, cần nhận thức đúng đắn quan
điểm của Đảng, các tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá, nội dung, phương thức, các chủ thể
và lực lượng tham gia. Trên bình diện tổng quát có thể nói, đảm bảo chất lượng tốt đội
ngũ sĩ quan LLCSND là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị và mỗi sĩ quan
LLCSND dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng và sự điều hành của lãnh đạo chuyên môn
ở từng cấp, từng đơn vị.
67
Chương 3
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ SĨ QUAN LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN,
BỘ AN NINH NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ SĨ QUAN LỰC LƯỢNG CẢNH
SÁT NHÂN DÂN LÀO
Theo số liệu thống kê, đến tháng 04 - 2017, Bộ An ninh Lào từ Trung ương đến
địa phương có tổng số cán bộ, sĩ quan, chiến sĩ là 439.635 người, trong đó nữ 10.967
người, nam 428.668 ngườ [144], trong đó:
Đội ngũ cán bộ, sĩ quan, chiến sĩ công tác ở lĩnh vực Cảnh sát là 173.010 người,
nữ 1.067 người; thuộc Tổng cục Cảnh sát, các Cục, Phòng và các đơn vị chiến đấu trực
thuộc là 1.247 người, nữ 273 người; thuộc Phòng Cảnh sát của An ninh tỉnh và thành
phố là 3.572 người, nữ 476 người và Ban Cảnh sát của An ninh huyện và quận là
168.191 người, nữ 318 người [144].
Về cơ bản đội ngũ cán bộ, sĩ quan, chiến sĩ thuộc Bộ An ninh Lào đã có sự
trưởng thành toàn diện, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của Bộ trong điều kiện mới.
3.1.1. Ưu điểm
3.1.1.1. Về số lượng và cơ cấu đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân
dân Lào
Về cơ cấu. Trong những năm qua đội ngũ sĩ quan LLCSND có thể nói là đã cơ
bản đảm bảo tính đồng bộ; đã chú trọng biên chế các thành phần sĩ quan LLCSND về
các thế hệ, độ tuổi, dân tộc, giới tính, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Đã hình thành đội ngũ sĩ quan LLCSND theo hình tháp. Đội ngũ sĩ quan LLCSND
thuộc Văn phòng Bộ, các Tổng cục, Cục và các đơn vị chiến đấu thuộc Bộ An ninh
Lào quản lý trực tiếp là 8.973 người, trong đó nữ 2.052 người, nam 6.921 người và độ
tuổi thấp hơn 30 tuổi có 4.963 người, độ tuổi 31-50 tuổi có 3.053 người, độ tuổi 51 trở
lên có 957 người. Đội ngũ sĩ quan LLCSND thuộc An ninh cấp tỉnh và Thủ đô là
31.527 người, trong đó nữ 3.152 người, nam 28.375 người và độ tuổi thấp hơn 30 tuổi
có 14.412 người, độ tuổi 31-50 tuổi có 15.322 người, độ tuổi 51 trở lên có 1.793 người.
Đội ngũ sĩ quan LLCSND cấp huyện là là 295.322 người, trong đó nữ 3.221 người,
nam 292.101 người và độ tuổi thấp hơn 30 tuổi có 112.312 người, độ tuổi 31-50 tuổi có
162.412 người, độ tuổi 51 trở lên có 20.598 người [144].
68
Về đội ngũ cán bộ, sĩ quan, chiến sĩ công tác ở lĩnh vực Cảnh sát là 173.010
người, nữ 1.067 người và độ tuổi thấp hơn 30 tuổi có 50.544 người, độ tuổi 31-50 tuổi
có 112.411 người và độ tuổi 51 trở lên có 10.055 người [144].
Trình độ học vấn của sĩ quan LLCSND là phổ thông trung học; về trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của sĩ quan LLCSND là có trình độ từ cao đẳng trở lên chiếm tỷ
trọng cao, cụ thể: trình độ tiến sĩ 52 người, thạc sĩ 238 người, cử nhân 47.350 người,
cao đẳng 58.350 người, trung cấp 42.312 người và sơ cấp 24.708 người. Sĩ quan
LLCSND dân tộc Lào Lùm là 138.408 người, chiếm 80%; Lào Súng là 15.570 người,
chiếm 9% và Lào Thâng là 19.032 người, chiếm 11% [144].
Về tính hợp lý. Bộ An ninh Lào đã từng bước xây dựng cơ cấu đội ngũ sĩ quan
LLCSND một cách hợp lý, bao gồm xây dựng đội ngũ sĩ quan LLCSND có số lượng,
cơ cấu hợp lý, có trình độ chuyên môn, có năng lực và phẩm chất, đạo đức thi hành
công vụ, phục vụ nhân dân và phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước cũng như thực
hiện nhiệm vụ chính trị của Bộ; xây dựng cơ cấu sĩ quan LLCSND hợp lý gắn với vị trí
công tác trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, tổ chức, đơn vị
chiến đấu; hoàn thiện quy định, hướng dẫn về tuyển dụng, bố trí, biên chế, phân công
nhiệm vụ sĩ quan LLCSND. Về số lượng sĩ quan LLCSND từ năm 1991 (từ khi có bản
Hiến pháp đầu tiên) đến nay đã có sự tăng dần cả về số lượng và chất lượng theo khối
lượng công việc của Bộ.
Về tính kế thừa liên tục, vững vàng và phát triển giữa các thế hệ sĩ quan
LLCSND. Đảng ủy và lãnh đạo các tổ chức, đơn vị thuộc Bộ An ninh Lào, Tổng cục
Cảnh sát đã chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, trong đó quan tâm đến sĩ quan
LLCSND ở cấp cơ sở, lãnh đạo, quản lý, chỉ huy có phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh, gắn bó với quần chúng, với nhân
dân, có trí tuệ, tư duy đổi mới và năng lực hoạt động thực tiễn, có kiến thức chuyên môn
nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị bảo đảm tính kế thừa, sự chuyển tiếp liên tục và
vững vàng giữa các thế hệ sĩ quan LLCSND; có tính kế thừa, không để hẫng hụt sĩ quan
LLCSND trong từng giai đoạn cách mạng. Đồng thời tuyển chọn, đào tạo đội ngũ sĩ
quan LLCSND trẻ, có trình độ chuyên môn cao, đảm bảo đạt yêu cầu tiêu chuẩn chức
danh theo quy định. Đã đưa vào quy hoạch 2/3 số sĩ quan LLCSND trẻ, có triển vọng và
khả năng phát triển để kế tục sự nghiệp phát triển Bộ An ninh Lào. Sĩ quan LLCSND
công tác các cơ quan, tổ chức thuộc Bộ An ninh; An ninh cấp tỉnh và thành phố; và An
69
ninh cấp huyện và quận ở các vị trí lãnh đạo, chỉ huy, quản lý đều là đảng viên Đảng
NDCM Lào. Nguồn sĩ quan LLCSND đó là thế hệ sẽ kế thừa liên tục sự nghiệp an ninh,
sự nghiệp cảnh sát trong giai đoạn phát triển mới, giai đoạn hội nhập khu vực và quốc tế.
Về quy hoạch, thực hiện Chỉ thị số 08/BCTTW ngày 21-8-2007 của Bộ Chính
trị Trung ương Đảng về việc xây dựng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý trên toàn
quốc và Hướng dẫn số 198/BTCTW ngày 13-10-2007 của Ban Tổ chức Trung ương về
việc tổ chức thực hiện Chỉ thị số 08/BCTTW. Công tác quy hoạch sĩ quan LLCSND
lãnh đạo, quản lý, chỉ huy của Bộ An ninh Lào được triển khai lần đầu tiên năm 2009,
với quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý, chỉ huy từ Trung ương đến địa phương. Tính
đến nay, Bộ An ninh Lào đã thực hiện bản quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý, chỉ huy
các cấp từ Trung ương đến địa phương gồm: đề án quy hoạch cán bộ cấp Trung ương
quản lý (A1, A2, A3) gồm các Cục trưởng và tương đương trở lên và đề án quy hoạch
cán bộ thuộc quyền quản lý của Đảng ủy Bộ An ninh (B1, B2, B3, B4) gồm các chức
danh từ Phó cục trưởng đến Phó An ninh cấp huyện và tương đương. Với các đề án
quy hoạch đã có, công tác cán bộ, công tác lực lượng của Bộ đã đi vào nền nếp hơn;
nhất là việc bố trí, sắp xếp, luân chuyển, điều động, bồi dưỡng, đào tạo để nâng cao
chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của Bộ. Quy
hoạch sĩ quan LLCSND lãnh đạo, quản lý, chỉ huy đang áp dụng thật sự là căn cứ quan
trọng trong tạo nguồn sĩ quan LLCSND lãnh đạo, quản lý, chỉ huy của Bộ từ Trung
ương đến địa phương; làm cho công tác cán bộ, công tác LLCSND đảm bảo sự liên
thông trên toàn quốc; thúc đẩy công tác đánh giá sĩ quan LLCSND đúng thực chất cả
về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực thực tiễn, uy tín, sức khỏe và chiều
hướng, triển vọng phát triển đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của Bộ; là cơ sở đẩy
mạnh đổi mới đồng bộ các khâu khác trong công tác cán bộ, công tác LLCSND, trước
hết là đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển sĩ quan LLCSND; đổi mới
công tác tạo nguồn và thực hiện chiến lược phát triển sĩ quan LLCSND lâu dài.
3.1.1.2. Về chất lượng sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào
Về phẩm chất chính trị
Sĩ quan LLCSND cơ bản nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa Mác - Lênin, quan
điểm, đường lối của Đảng, trung thành và kiên định đi theo lý tưởng của Đảng, lập
trường giai cấp vững vàng, không dao động trước các tình huống diễn biến phức tạp
của tình hình. Có lý tưởng chính trị, kiên định lập trường, kiên định trong nguyên tắc
70
lãnh đạo của Đảng NDCM Lào; nhận thức, tư tưởng chính trị, chấp hành đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; kiên định với đường lối
đổi mới của Đảng, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, trung thành tuyệt đối với Chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng đường lối của Đảng; tinh thần đấu tranh bảo vệ quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; đa số họ năng động, có tinh thần
trách nhiệm với nhiệm vụ được giao; tin tưởng vào lực lượng và trí tuệ quần chúng,
dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm. Bản thân và gia đình họ chấp hành tốt
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Biểu hiện rõ
nét của ưu điểm là trong suốt quá trình thành lập lực lượng An ninh từ năm 1961 đến
nay không có sĩ quan LLCSND từ Trung ương đến địa phương bị xử lý kỷ luật về tội
phẩm chất chính trị, phản bội Đảng NDCM Lào, phản bội Tổ quốc và nhân dân Lào.
Đội ngũ sĩ quan LLCSND cũng đã tham gia có hiệu quả trong công tác tuyên truyền,
vận động nhân dân, giải thích về đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước và uốn nắn những biểu hiện tư tưởng chính trị lệch lạc cho nhân dân. Hằng năm
đã cử sĩ quan LLCSND lãnh đạo, quản lý, chỉ huy xuống tiếp xúc, trao đổi, nắm cơ
sở, đối thoại trực tiếp với tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân về những vấn đề
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và những vấn đề mà Bộ An ninh Lào, Tổng cục
Cảnh sát phụ trách, tạo được niềm tin vững chắc trong xã hội và nhân dân các bộ tộc.
Có được tính chiến đấu về chính trị một phần là do đội ngũ sĩ quan LLCSND
một số trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và trong xây dựng
xã hội mới; còn số sĩ quan LLCSND tuổi từ 45 trở xuống là những người đã trưởng
thành trong xã hội mới, được đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện trong và ngoài nước.
Về phẩm chất đạo đức, lối sống
Trong nền kinh tế thị trường, bị tác động của những vấn đề tiêu cực nảy sinh
trong xã hội, song đội ngũ sĩ quan LLCSND số đông vẫn giữ gìn tư cách, phẩm chất
đạo đức cách mạng tốt đẹp, tính tiên phong, có lối sống trong sạch. Đa số thực hiện tốt
cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; có tinh thần thực hành tiết kiệm, đấu tranh
chống tham nhũng, chống lãng phí, quan liêu và các biểu hiện tiêu cực khác. Nhiều sĩ
quan là tấm gương về sự gương mẫu trong công việc, có ý thức tổ chức kỷ luật, biết
đoàn kết nội bộ cơ quan và gắn bó mật thiết với nhân dân; với cán bộ, chiến sĩ dưới
quyền và được nhân dân tín nhiệm. Nhiều cán bộ, sĩ quan LLCSND đặt lợi ích công
lên trên lợi ích của bản thân, xứng đáng là người sĩ quan LLCSND.
71
Sĩ quan LLCSND luôn luôn giữ gìn đạo đức và lối sống lành mạnh, giản dị,
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và những biểu hiện tiêu cực khác, thực hiện các
quy định về những việc cán bộ, đảng viên, sĩ quan LLCSND không được làm. Có tinh
thần và thái độ phục vụ nhân dân (tận tụy với công việc, không hách dịch, cửa quyền,
gây phiền hà, khó khăn cho tổ chức, công dân trong thực hiện nhiệm vụ). Đặc biệt là sĩ
quan LLCSND không ai để vợ (chồng), con, anh (chị, em) ruột lợi dụng chức vụ,
quyền hạn của mình làm ảnh hưởng xấu tới cơ quan hoặc vi phạm quy chế, vi phạm
pháp luật. Sĩ quan LLCSND luôn chấp hành nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị, giữ
gìn nếp sống văn hóa công sở, thời gian làm việc; chấp hành nghiêm túc sự phân công
của tổ chức trong thực hiện nhiệm vụ, công tác. Có tinh thần trung thực và ý thức giữ
gìn đoàn kết nội bộ tốt; ý thức trong đấu tranh tự phê bình và phê bình, xây dựng cơ
quan, đơn vị vững mạnh và có tinh thần phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ để xử lý
công việc nhanh chóng và đúng theo pháp luật. Sĩ quan LLCSND luôn có tinh thần học
tập, rèn luyện nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học và
luôn luôn thực hiện các nội dung sinh hoạt chính trị do Đảng NDCM Lào, Nhà nước
phát động.
Phẩm chất đạo đức, lối sống của sĩ quan LLCSND thể hiện rõ nhất là qua kết
quả đánh giá, phân loại sĩ quan LLCSND hàng năm, chẳng hạn: năm 2012 đạt loại tốt
có 15.455 người, trung bình có 17.891 người; năm 2013 đạt loại tốt có 16.722 người,
trung bình có 19.823 người; năm 2014 đạt loại tốt có 17.012 người, trung bình có
19.987 người; năm 2015 đạt loại tốt có 19.344 người, trung bình có 20.321 người và
năm 2016 đạt loại tốt có 21.247 người, trung bình có 22.367 người. Điều đó, cho thấy
sĩ quan LLCSND đã có phẩm chất đạo đức tốt và có lối sống lành mạnh; chú tâm và
tích cực thực hiện tốt công tác được giao [144].
Về trình độ, năng lực công tác
Về cơ bản đội ngũ sĩ quan LLCSND có mặt bằng trình độ đáp ứng yêu cầu hiện
tại của công tác bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội. Đa số có kiến thức chuyên môn
sâu về lĩnh vực phụ trách, am hiểu về lý luận chính trị, quản lý nhà nước, quản lý kinh tế,
văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, lịch sử… trong nước và quốc tế; có khả năng tiếp
cận những tiến bộ, khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới, nhất là công nghệ thông tin để áp
dụng vào phát triển và thực hiện công việc. Bước đầu đội ngũ sĩ quan LLCSND đã tiếp
cận với khối kiến thức và kỹ năng lãnh đạo, quản lý, chỉ huy và điều hành hiện đại.
Nhiều sĩ quan LLCSND đã cố gắng trong việc tự nâng cao trình độ về chuyên môn,
72
nghiệp vụ lĩnh vực phụ trách; sử dụng và khai thác công nghệ thông tin, khai thác và cập
nhật thông tin từ mạng Internet, học ngoại ngữ cần thiết trong công tác và nhiều lĩnh vực
chuyên môn khác để phục vụ công tác được tốt và hiệu quả hơn, kiến thức và năng lực
hoạt động thực tiễn tốt; có kiến thức về quản lý kinh tế, quản lý xã hội trong cơ chế mới.
Đa số đội ngũ sĩ quan LLCSND đã có trình độ đại học, trong đó có nhiều sĩ
quan LLCSND được đào tạo chính quy ở các trường đại học uy tín trong và ngoài
nước; ngày càng có nhiều sĩ quan LLCSND theo học các chương trình sau đại học
trong và ngoài nước. 100% sĩ quan LLCSND lãnh đạo, quản lý, chỉ huy, điều hành từ
trung ương đến địa phương đã tham gia một hoặc nhiều chương trình bồi dưỡng nâng
cao trình độ, kỹ năng điều hành công tác an ninh, cảnh sát. Nhìn chung, trình độ kiến
thức của sĩ quan LLCSND được nâng lên một bước. Nhiều sĩ quan LLCSND năng
động, sáng tạo trong công việc, biết vận dụng những tri thức khoa học mới vào công
tác và cuộc sống, thích ứng nhanh với điều kiện mới, dám nghĩ, dám làm và dám chịu
trách nhiệm trong công việc của mình phụ trách.
Tổng hợp về trình độ chuyên môn của sĩ quan LLCSND từ Trung ương đến địa
phương tính đến tháng 04 - 2017: tổng số sĩ quan LLCSND là 173.010 người, trình độ
tiến sĩ 62 người, thạc sĩ 655 người, cử nhân 47.767 người, cao đẳng 58.150 người,
trung cấp 42.095 người và sơ cấp 24.281 người [144].
Trình độ lý luận lý luận chính trị và hành chính của sĩ quan LLCSND hiện nay
đã được cải thiện rõ rệt. Thể hiện là sĩ quan LLCSND cấp lãnh đạo, chỉ huy các cấp đã
có trình độ cao cấp lý luận (5 tháng) học ở Việt Nam, Học viện Chính trị và Hành
chính quốc gia Lào và Trường chính trị An ninh, là 2.583 người, chiếm 1,5%; cao cấp
lý luận chính quy (1 năm) 1.100 người, chiếm 0,63%; trung cấp (3 tháng) 1.347 người,
chiếm 0,77% và sơ cấp hoặc bồi dưỡng 45 ngày là 2.268 người, chiếm 1,31% [144].
Trình độ năng lực ngoại ngữ và tin học cũng được nâng lên, thể hiện: Sĩ quan
LLCSND sử dụng thành thạo tiếng Anh C2, C1 là 10.602 người; sử dụng độc lập tiếng
Anh B2, B1 là 17.331 người và sử dụng căn bản tiếng Anh A2, A1 là 33.467 người. Sĩ
quan LLCSND sử dụng công nghệ tin học ở trình độ A (Windows, Word, Excel và
Power Point) là 113.456 người; ở trình độ B (khai thác các ứng dụng) là 145.321 người
và ở trình độ C (lập trình) là 1.267 người [144].
Năng lực công tác của sĩ quan LLCSND trong thời gian qua đã thể hiện qua
việc nghiên cứu xây dựng các văn bản pháp luật và thực hiện giải quyết xử lý công việc
được giao được tốt.
73
Sĩ quan LLCSND đã giải quyết các vụ việc liên quan đến bảo đảm an ninh, trật
tự an toàn xã hội một cách tốt nhất. Làm cho CHDCND Lào ổn định về chính trị, xã
hội có trật tự và an toàn; công dân Lào và nhà đầu tư nước an tâm trong phát triển kinh
tế và làm ăn chính đáng.
Về phong cách và tác phong công tác
Đa số sĩ quan LLCSND hình thành được phong cách công tác có nguyên tắc,
giữ được tính đảng, tính giai cấp, linh hoạt trong xử lý công việc và phát huy được dân
chủ trong cơ quan, đơn vị và nhân dân. Nhiều sĩ quan LLCSND có tư tưởng đột phá,
dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trên cơ sở khoa học và tôn trọng thực tế
khách quan. Có những sĩ quan LLCSND ở vị trí lãnh đạo, chỉ huy chủ chốt đã công
khai thông tin địa chỉ liên hệ cá nhân để tiếp thu ý kiến góp ý của đồng nghiệp, chiến sĩ
và nhân dân. Với phong cách công tác dân chủ, công khai, đội ngũ sĩ quan LLCSND
đã tạo dựng được uy tín trước cán bộ, chiến sĩ, đảng viên và nhân dân.
Về mức độ hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ; sự tín nhiệm của cấp trên,
trong đơn vị và nơi cư trú của sĩ quan LLCSND ở từng vị trí công tác.
Trong thời gian qua, mức độ thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao của sĩ
quan LLCSND đã thể hiện rõ ở khối lượng, chất lương, tiến độ, hiệu quả của công việc
trong từng vị trí công tác, từng thời gian với tinh thần trách nhiệm và chịu trách trước
quyết định, việc làm trên cơ sở nguyên tắc. Sĩ quan LLCSND đã có tính chủ động,
sáng tạo và hoàn thành tốt chức trách nhiệm vụ được giao. Công việc có chất lượng,
mang lại hiệu quả thiết thực cho cho công tác của ngành, kinh tế, xã hội ở CHDCND
Lào và góp phần đáng kể vào sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Sĩ quan LLCSND đã có mối quan hệ, khả năng quy tụ, phối hợp với đồng
nghiệp và các tổ chức liên quan, phát huy sức mạnh của tập thể để hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao của đơn vị, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong
lãnh đạo, quản lý, chỉ huy và thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước
trong từng thời kỳ cách mạng.
Mức độ thực hiện nhiệm vụ được giao trong năm của sĩ quan LLCSND được
thể hiện rõ ở khối lượng, chất lượng, tiến độ, hiệu quả của công việc trong từng vị trí,
từng thời gian, thể hiện việc thực hiện nhiệm vụ cụ thể là: giải quyết các vấn đề, vụ
việc liên quan được nhanh chóng, hiệu quả, đúng nguyên tắc, đúng pháp luật, đã góp
phần xây dựng Luật liên quan về đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội,... Điều đó nói
lên khối lượng và chất lượng công việc được giao đã đạt yêu cầu và có chất lượng.
74
Ngoài ra, sĩ quan LLCSND luôn luôn được sự tín nhiệm của cấp trên, trong cơ
quan và nơi cư trú của sĩ quan LLCSND ở từng vị trí công tác, thể hiện qua tiến hành
lấy phiếu tín nhiệm đối với sĩ quan LLCSND ở từng vị trí công tác là không ai mất tín
nhiệm và qua công tác đánh giá sĩ quan LLCSND hàng năm cũng không có xử lý kỷ
luật, mất phẩm chất và phản bội Tổ quốc.
3.1.2. Hạn chế, khuyết điểm
3.1.2.1. Về số lượng và cơ cấu đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân
dân Lào
Về tính đồng bộ. Một số sĩ quan LLCSND, nhất là là sĩ quan LLCSND ở địa
phương do chuyển từ cơ chế cũ, được hình thành từ nhiều nguồn, nên cơ cấu chưa
đồng bộ, trình độ chuyên môn, thế hệ, giới tính, thành phần dân tộc chưa đảm bảo được
yêu cầu cơ cấu hợp lý và chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Còn tình trạng vừa
thừa, vừa thiếu ở một số tổ chức, đơn vị. Cơ cấu đội ngũ sĩ quan LLCSND theo chức
danh nghề nghiệp, vị trí công tác và trình độ đào tạo chưa phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ, chưa bảo đảm cơ cấu phù hợp về giới tính, về thành phần người dân tộc.
Công tác hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chức danh, chức vụ sĩ quan LLCSND
từ cấp thứ trưởng, chuyên gia, chuyên viên cao cấp và tương đương trở xuống theo
hướng chú trọng phẩm chất, trình độ, năng lực, thâm niên công tác chưa rõ ràng và
không làm tốt trong thời gian qua. Mỗi tiêu chuẩn của chức vụ lãnh đạo, quản lý, chỉ
huy chưa quy định rõ hệ tiêu chí về chức danh nghề nghiệp chuyên môn. Chưa bổ
nhiệm chức danh chuyên gia, chuyên viên cao cấp đối với sĩ quan LLCSND làm nhiệm
vụ nghiên cứu, tham mưu chiến lược về lĩnh vực cảnh sát.
Về tính hợp lý. Cơ cấu sĩ quan LLCSND chưa hợp lý về số lượng, chức danh,
chức danh nghề nghiệp, trình độ, độ tuổi, dân tộc, giới tính. Chưa xác định đầy đủ chức
năng, nhiệm vụ, yêu cầu quản lý nhà nước, yêu cầu cung cấp dịch vụ công của Bộ An
ninh, Tổng cục Cảnh sát để làm cơ sở xây dựng, hoàn thiện cơ cấu sĩ quan LLCSND
phù hợp. Công tác đánh giá, phân loại sĩ quan LLCSND vẫn là khâu yếu. Tuyển chọn
nguồn sĩ quan LLCSND chất lượng thấp, không theo nguyên tắc cạnh tranh. Chưa xây
dựng đồng bộ hệ thống vị trí công tác và hệ thống chức danh sĩ quan LLCSND lãnh
đạo, quản lý, chỉ huy cho nên việc biên chế, bố trí sĩ quan LLCSND ở các tổ chức, đơn
vị chưa phù hợp và không theo yêu cầu nhiệm vụ lâu dài. Làm mất cân đối giữa các
thành phần tạo, dẫn đến thực hiện công tác và nhiệm vụ được giao không chất lượng và
75
hiệu quả cao. Còn tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ; cho nên biên chế, bố
trí, sử dụng sĩ quan LLCSND không hợp lý và đùn đẩy trách nhiệm.
Về tính kế thừa, liên tục; ổn định và phát triển, mặc dù đã qua đào tạo, bồi
dưỡng, nhưng do đầu vào không bảo đảm, nên còn nhiều sĩ quan LLCSND không đủ
khả năng, năng lực để thực hiện nhiệm vụ được giao. Một số chức danh sĩ quan
LLCSND, tuy đã đạt tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, nhưng do độ tuổi cao, năng
lực yếu kém mà chưa đủ điều kiện nghỉ hưu, chưa có chính sách hỗ trợ hợp lý nhằm
động viên, khuyến khích các sĩ quan LLCSND số đó nghỉ hưu theo chế độ, nên chưa
thể bố trí, bổ nhiệm được sĩ quan LLCSND trẻ để thay thế. Một số cơ quan, đơn vị
thuộc Bộ An ninh vẫn còn tình trạng sĩ quan LLCSND đi học theo kiểu chạy cho có
bằng cấp, để đủ tiêu chuẩn theo quy định; nhiều sĩ quan LLCSND dù đã đạt chuẩn,
nhưng chưa được đào tạo, bồi dưỡng có hệ thống; một số sĩ quan LLCSND chưa chịu
khó học tập, rèn luyện, tác phong công tác, nề nếp làm việc chuyển biến chậm; còn
thiếu sáng tạo trong việc vận dụng đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của Bộ An ninh, Tổng cục Cảnh
sát nên chưa có những giải pháp tốt, mang tính đột phá trong thực hiện nhiệm vụ được
giao. Ngoài ra, vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, sĩ quan LLCSND ý thức trách
nhiệm không cao, làm việc theo kiểu cầm chừng, trông chờ, ỷ lại vào cấp trên, năng lực
các mặt còn yếu kém, đặc biệt là năng lực, kỹ năng quản lý hành chính (thể hiện qua
việc ban hành, tham mưu ban hành văn bản, xử lý tình huống quản lý hành chính, thực
thi công vụ lĩnh vực an ninh…); một số làm việc thụ động, cầm chừng, trách nhiệm
không cao, không nắm rõ tình hình an ninh, tình hình công việc cảnh sát mà mình phụ
trách. Cho nên, việc đưa sĩ quan LLCSND vào quy hoạch kế tục là khâu rất khó.
Về quy hoạch sĩ quan LLCSND, Đảng ủy Bộ An ninh, Đảng ủy Tổng cục Cảnh
sát chậm tổ chức quán triệt nội dung và triển khai, cụ thể hoá các chỉ thị, quy định của
Trung ương về quy hoạch cán bộ, sĩ quan LLCSND lãnh đạo, quản lý, chỉ huy và xem
nhẹ công tác này, làm cho quy hoạch sĩ quan LLCSND lãnh đạo, quản lý, chỉ huy
không được đánh giá, hoàn thiện, bổ sung hằng năm. Quy hoạch được xây dựng một
lần từ năm 2009 đến nay các đối tượng trong quy hoạch đã di chuyển, thay đổi mà vẫn
chưa được bổ sung, đánh giá lại. Quy định, quy chế về công tác quy hoạch cán bộ nói
chung và sĩ quan LLCSND thiếu sự đồng bộ, không rõ ràng về tiêu chuẩn, tiêu chí. Tổ
chức thực hiện cũng thiếu kiên quyết, có nơi cốt làm cho xong, cho có. Chưa ban hành
quy định về tiêu chuẩn, tiêu chí đội ngũ sĩ quan LLCSND, nên việc xác định tiêu
76
chuẩn, tiêu chí đối tượng đưa vào diện quy hoạch rất khó khăn, thiếu căn cứ để xác
định đối tượng phù hợp. Thiếu sự phối hợp chặt chẽ trong tiến hành làm công tác quy
hoạch sĩ quan LLCSND giữa Bộ An ninh Lào, Tổng cục Cảnh sát với Ban Tổ chức các
tỉnh ủy, thành ủy và các cấp ủy địa phương, nên đề án quy hoạch không sát thực tế, các
đối tượng đưa vào quy hoạch cũng không đạt tiêu chuẩn, tiêu chí, yêu cầu. Công tác
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sĩ quan LLCSND đa số chưa bám sát, không nằm trong quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng kiểu chắp bá, kiểu “xin-cho”. Việc bố trí, sắp xếp sĩ quan
LLCSND lãnh đạo, quản lý, chỉ huy phần lớn không bám quy hoạch. Đội ngũ cán bộ
làm công tác quy hoạch chưa được bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ, chuyên môn, trình
độ hiểu biết về công tác quy hoạch hạn chế, trong thực hiện thực tế gặp sự lúng túng.
Thiếu kinh phí phục vụ công tác quy hoạch đội ngũ siz quan LLCSND dẫn đến nhiều
nơi làm qua loa cho xong.
3.1.2.2. Về chất lượng đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào
Về phẩm chất chính trị
Trong điều kiện mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, có một số
sĩ quan LLCSND vẫn có biểu hiện sự thiếu nhạy cảm về chính trị trong các quyết sách
lãnh đạo, chỉ huy, điều hành. Trong quan hệ quốc tế, một số sĩ quan LLCSND còn
thiếu bản lĩnh trong giải quyết vấn đề mang lợi ích cao nhất cho đất nước và nhân dân
các bộ tộc Lào. Có một số sĩ quan LLCSND còn có biểu hiện hoài nghi về chế độ
XHCN và chủ nghĩa Mác - Lênin, con đường đi lên CNXH, chủ trương chính sách của
Đảng trong điều kiện mới hiện nay. Đa số sĩ quan LLCSND còn hạn chế, yếu về năng
lực chính trị trong đấu tranh bảo vệ quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách, Điều
lệ của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Một số sĩ quan LLCSND ngại rèn luyện, tu
dưỡng về tư tưởng chính trị, ngại tìm tòi, cập nhật, học hỏi cái mới; dẫn đến lạc hậu về
kiến thức mới, trở thành bảo thủ, nhất là kiến thức về an ninh hiện đại, quản lý nhà
nước, quản lý kinh tế và kiến thức về thế giới đương đại.
Về phẩm chất đạo đức, lối sống
Bên cạnh điểm mạnh sĩ quan LLCSND, vẫn còn một số sĩ quan LLCSND có
biểu hiện sa sút, yếu kém về phẩm chất đạo đức, lối sống, chẳng hạn: có lối sống xa
hoa, lãng phí, thiếu trách nhiệm với công việc, với tổ chức; không gương mẫu trong
chấp hành chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; một
bộ phận thiếu ý thức tổ chức kỷ luật; gây mất đoàn kết nội bộ cơ quan, chia bè chia
cánh và hách dịch, chà đạp nhân dân. Nghiêm trọng hơn là một số sĩ quan LLCSND lợi
77
dụng chức vụ chiếm dụng, bớt xén của công làm giàu cho cá nhân và gia đình, gây ảnh
hưởng rất xấu đến uy tín của cơ quan, đơn vị và lớn hơn là uy tín của Tổng cục Cảnh
sát, Bộ An ninh, Đảng, Nhà nước, Tổ quốc và nhân dân.
Từ năm 2012 đến tháng 04-2017 đã có một số sĩ quan LLCSND bị xử lý kỷ luật
ở các loại hình, cụ thể: cấp độ 1 (phê bình; cảnh cáo và ghi vào hồ sơ cá nhân) là 2.600
người; cấp độ 2 (ngừng thăng quân hàm, bậc tiền lương, khen thưởng và ghi vào hồ sơ
cá nhân; giáng chức danh quản lý, chỉ huy hoặc chuyển công tác và ghi vào hồ sơ cá
nhân; giáng chức danh quản lý, chỉ huy thành sĩ quan cảnh sát phục vụ hành chính
thường và ghi vào hồ sơ cá nhân) là 1.321 người; và cấp độ 3 (đưa ra khỏi tổ chức mà
không được nhận chính sách nào của Đảng và Nhà nước) là 743 người. Qua đánh giá,
phân loại sĩ quan LLCSND hằng năm, số sĩ quan LLCSND được đánh giá, xếp loại
xuất sắc rất ít, điều đó thể hiện tính phấn đấu bị sa sút, ngại rèn luyện.
Về trình độ, năng lực công tác
Hiện trình độ, năng lực của nhiều sĩ quan LLCSND còn bất cập trước điều kiện
mới, điều kiện hội nhập khu vực và thế giới, nhất là trong khi CHDCND Lào tham gia
toàn diện cộng đồng ASEAN từ cuối năm 2015 trở lại đây. Nhiều sĩ quan LLCSND
ngại học tập, cập nhật thông tin mới, nên giải quyết công việc chủ yếu dựa trên cơ sở
kinh nghiệm đã từng trải qua, không khoa học, dẫn đến hiệu quả công việc không cao,
thậm chí dẫn đến kết quả ngược lại với mong muốn. Do kiến thức mới có hạn, khi giải
quyết những vấn đề mới, khó khăn, phức tạp bị lúng túng, bế tắc, không tìm ra phương
án giải quyết, lối ra hợp lý, hợp khoa học.
Hiện nay đa số sĩ quan LLCSND học chuyên về các ngành như: tài chính, ngân
hàng, kế toán, quản lý kinh tế, quản lý hành chính nhà nước, khoa học xã hội, luật, tin
học, ngoại ngữ..., còn số học chuyên sâu về các ngành cảnh sát như: điều tra tội phạm,
phòng cháy chữa cháy, cảnh sát giao thông, phòng chống ma túy, phòng chống tội
phạm trật tự an toàn xã hội... là những ngành phục vụ chuyên môn sâu cho lĩnh vực
cảnh sát chiếm tỷ lệ rất ít. Điều đáng lo ngại là tình hình hội nhập sâu rộng khu vực và
thế giới, sĩ quan LLCSND còn yếu về ngoại ngữ (tiếng Anh và tiếng các nước trong
khối ASEAN); trong tổng số sĩ quan LLCSND là 173.010 người, biết sử dụng tiếng
Anh là rất ít. Về trình độ chuyên môn, trung cấp và sơ cấp còn chiếm số lượng cao. Số
sĩ quan LLCSND học các ngành nghề không thuộc chuyên ngành và chuyên môn
nghiệp vụ cảnh sát lại chưa được tập huấn, huấn luyện, bồi dưỡng về chuyên môn cảnh
sát, cho nên khi thực thi nhiệm vụ thuộc loại chuyên môn sâu bị lúng túng, không biết
78
hướng giải quyết. Do thực trạng trên việc xây dựng sĩ quan LLCSND trở thành lượng
hiện đại, chính quy, tinh nhuệ là rất khó khăn.
Về tác phong, phong cách công tác
Một số sĩ quan LLCSND có tác phong, tâm lý của người nông dân, sản xuất
nhỏ, tâm lý địa phương, tâm lý gia đình và dân tộc thiểu số trong sinh hoạt và công tác,
nhất là sĩ quan LLCSND cấp huyện, quận. Vẫn còn khá nhiều sĩ quan LLCSND chưa
chấp hành nghiêm túc giờ giấc làm việc, các quy chế, nội quy, tác phong liên quan đến
sĩ quan LLCSND. Một số có phong cách làm việc gia trưởng, độc đoán. Có một số sĩ
quan LLCSND giải quyết công việc còn bị tình cảm cá nhân chi phối, dẫn đến coi
thường kỷ cương, thủ tục hành chính và nguyên tắc.
Ở một số nơi, một số đơn vị còn coi thường nguyên tắc tập trung dân chủ, quyết
định tập thể về các công việc lớn, thực hiện chế độ một thủ trưởng có sự phân công cho
cá nhân phụ trách và phát huy tính sáng tạo của cán bộ, sĩ quan LLCSND, chiến sĩ dưới
quyền; làm việc không theo chiến lược, kế hoạch, chương trình và dự án cụ thể, có đề
ra mục tiêu và có trọng tâm… làm cho thực hiện công việc bị ách tắc, không tạo được
sức mạnh tập thể, thậm chí dẫn đến mất đoàn kết nội bộ nghiêm trọng. Việc thực hiện
công tác an ninh, cảnh sát còn xảy ra tình trạng thiếu sự phối hợp giữa trung ương và
địa phương, sự phối hợp giữa các đơn vị, làm cho công việc bị chồng chéo, ách tắc,
không giải quyết được vấn đề mà nhân dân mong muốn và chờ đợi.
Về mức độ hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ; sự tín nhiệm trong đơn vị và
nơi cư trú của sĩ quan LLCSND ở từng vị trí công tác.
Bên cạnh điểm mạnh đáng khích lệ, vẫn còn một số điểm yếu đáng nói lên, đó
là: tính chủ động, sáng tạo của sĩ quan LLCSND vẫn là khâu yếu, một số nhiệm vụ
không hoàn thành như kế hoạch đã đề ra, nhất là, công tác xây dựng quy phạm pháp
luật thuộc lĩnh vực an ninh, lĩnh vực CSND là khâu yếu nhất, số lượng văn bản quy
phạm pháp luật thuộc ngành là quá ít và không đủ để điều chỉnh các hành vi trên lĩnh
vực an ninh và cảnh sát. Thực hiện công việc còn chờ cấp trên là chủ yếu, không dám
nghĩ, dám trình các vấn đề vướng mắc trong thực hiện nhiệm vụ.
Việc thực hiện chức trách nhiệm vụ của sĩ quan LLCSND chưa được đánh giá,
phân loại hằng năm, với các mức: hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; hoàn thành tốt nhiệm
vụ; hoàn thành nhiệm vụ, tuy có làm nhưng làm một cách qua loa, làm cho xong. Cho
nên, đã làm cho thiếu tính phấn đấu của sĩ quan LLCSND.
79
Sự tín nhiệm trong cơ quan, đơn vị và nơi cư trú đối với sĩ quan LLCSND ở
từng vị trí công tác là khâu yếu nhất, chưa có quy chế, quy định để thực hiện, nếu thực
hiện cũng làm một cách qua loa, thiếu dân chủ. Việc tiến hành lấy phiếu tín nhiệm đối
với sĩ quan LLCSND ở từng vị trí công tác từ trước đến nay chưa tiến hành thực hiện,
cho nên có thực trạng là không biết sĩ quan LLCSND có mức độ tín nhiệm như thế
nào. Một số sĩ quan LLCSND lãnh đạo, chỉ huy có tính gia trưởng, quan liêu làm cho
cán bộ, chiến sĩ cơ quan, đơn vị dưới quyền mất niềm tin, không tin tưởng vào sự lãnh
đạo,bộ chỉ huy và bất hợp tác. Một số sĩ quan LLCSND có tính kiêu ngạo, tính chỉ huy,
tính quan chức.. cho nên lúc hết giờ làm việc về nơi cư trú nhân dân khó gần và có lúc
làm cho nhân dân sợ, bắt nhân dân phải theo lệnh của họ mới hài lòng.
Chưa thấy được mục đích, tầm quan trọng lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín
nhiệm là nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động công tác, lãnh đạo, chỉ huy của sĩ
quan LLCSND ở từng vị trí công tác; giúp người sĩ quan LLCSND được lấy phiếu tín
nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm thấy được mức độ tín nhiệm của mình để phấn đấu, rèn
luyện, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác, lãnh đạo, chỉ huy; làm cơ sở để cơ
quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền xem xét đánh giá, bố trí, sử dụng sĩ quan
LLCSND cho đúng sở trường, sở đoản.
3.2. NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.2.1. Nguyên nhân
3.2.1.1. Nguyên nhân của ưu điểm
Việc tạo nên chất lượng và hoạt động bảo đảm chất lượng đội ngũ sĩ quan
LLCSND, là có vai trò quan trọng của các chủ thể, và lực lượng tham gia và sự nỗ lực
của bản thân đối tượng, đó là:
Một là, việc xác định chủ trương, kế hoạch, quy chế, quy định về bảo đảm chất
lượng tốt đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào
Cấp ủy các cấp của Bộ An ninh Lào đã xác định đúng chủ trương, kế hoạch,
quy chế, quy định của cấp trên về bảo đảm chất lượng tốt đội ngũ sĩ quan LLCSND.
Triển khai Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa V (năm 1993) về phát triển nhân lực ở CHDCND Lào; Chỉ thị số 11/BCHTWĐ
ngày 18-7-2000 của Bộ Chính trị về việc tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đối với
công tác phát triển nhân lực cấp địa phương; Hướng dẫn số 137/BTCTW ngày 15-8-
2002 của Ban Tổ chức Trung ương về tổ chức triển khai nội dung chiến lược sự phát
80
triển nhân lực đến năm 2020 và Kế hoạch số 226/BTCTW ngày 20-11-2006 của Ban
Tổ chức Trung ương về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ 2006-2020 và thời kỳ 2006-2010
được thông qua và biểu quyết chấp thuận tại Hội nghị Công tác tổ chức toàn quốc lần
thứ 8, ngày 10-01-2011; Đảng ủy Bộ An ninh Lào đã đề ra các chiến lược phát triển
lĩnh vực an ninh nhằm tăng năng lực lãnh đạo, chỉ huy của LLANND nói chung và sĩ
quan LLCSND nói riêng. Với các văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm chất lượng
tốt đội ngũ sĩ quan LLCSND; Đảng uỷ Bộ An ninh, Đảng ủy Tổng cục Cảnh sát đã chủ
động trong xây dựng khung kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo, tập huấn, nâng cao trình độ sĩ
quan LLCSND cả ba loại sĩ quan như: lãnh đạo; quản lý, chỉ huy, điều hành và chuyên
môn nghiệp vụ. Trong quá trình thực hiện để đảm bảo chất lượng đội ngũ sĩ quan
LLCSND cũng chú trọng ba mặt: trình độ chuyên môn (cả trình độ ngoại ngữ); năng
lực trong tổ chức thực hiện và trình độ lý luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước.
Phương châm đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ trong nước là gắn với tình hình
thực tiễn của lĩnh vực phụ trách là chủ yếu.
Hai là, công tác tuyển chọn, xác định tiêu chuẩn, tiêu chí chức danh, đội ngũ sĩ
quan lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào
- Về công tác tuyển chọn sĩ quan LLCSND Lào:
Đội ngũ sĩ quan LLCSND được tuyển chọn theo quy định của pháp luật. Chương
IV, điều 20 và 21 của Luật LLANND, đã quy định nguồn LLANND và tiêu chuẩn của sĩ
quan và chiến sĩ CSND. Căn cứ vào Điều 4, Quy định số 837/BAN, ngày 18-12-2002 về
phân cấp quản lý cán bộ trong LLANND đã quy định rõ điều kiện, hình thức, hồ sơ và sự
phê chuẩn tuyển chọn vào lực lượng. Theo đó, công tác tuyển chọn nguồn bổ sung đội
ngũ sĩ quan LLCSND được tiến hành theo hình thức thi tuyển và phỏng vấn vào từng vị
trí công tác còn trống theo yêu cầu tiêu chuẩn của vị trí đó. Trong tuyển chọn đều thành
lập Ban tuyển chọn và theo quy định của pháp luật và quy định phân cấp quản lý. Với
quy định đó, Bộ trưởng Bộ An ninh Lào là người ký phê chuẩn lực lượng mới từ cấp
quân hàm trung úy trở lên; chủ nhiệm Tổng cục Chính trị an ninh ký phê chuẩn lực
lượng mới từ cấp quần hàm chuẩn úy trở xuống; các đơn vị, An ninh địa phương có
nhiệm vụ nghiên cứu, xem xét hồ sơ, tổ chức thi tuyển và báo cáo kết quả với Bộ An
ninh và Tổng cục Chính trị an ninh theo quy định thông qua Vụ Tổ chức và cán bộ. Còn
về LLCSND, cấp uỷ Tổng cục Cánh sát có nhiệm vụ sơ tuyển hồ sơ, lý lịch, chọn đối
tượng, sàng lọc chuyên môn phù hợp với từng vị công tác để phối hợp với các bộ phận
liên quan trong tuyển chọn nguồn bổ sung sĩ quan LLCSND hằng năm.
81
Nguồn bổ sung sĩ quan LLCSND mới được tuyển chọn vào biên chế hằng năm
phải trải qua thời gian thử thách trong thực hiện công việc ở thực tiễn, rèn luyện phẩm
chất chính trị và đạo đức cách mạng, học về công việc mà mình sẽ phụ trách, học các
quy định, quy chế và hệ thống tổ chức công việc.
- Về công tác xác định tiêu chuẩn, tiêu chí chức danh sĩ quan LLCSND Lào:
Căn cứ vào Điều 21 của Luật LLANND số 03/QH, ngày 02-07-2007 đã quy
định rõ tiêu chuẩn, tiêu chí của sĩ quan và chiến sĩ cảnh sát, các tổ chức, đơn vị đã triển
khai phù hợp với thực tế của từng vị trí công tác và điều kiện thực tiễn công tác của
từng cơ quan, đơn vị chiến đấu.
Theo quy định chung công tác xác định tiêu chuẩn, tiêu chí chức danh sĩ quan
LLCSND phải đáp ứng được tất cả các tiêu chuẩn yêu cầu về sức khỏe, tuổi, chuyên
môn nghiệp vụ và hồ sơ lý lịch mới đủ điều kiện.
Ba là, công tác đánh giá và đánh giá chất lượng đội ngũ sĩ quan lực lượng
Cảnh sát nhân dân
Sau khi Bộ Chính trị ban hành Quy định số 01/BCT ngày 07-7-2003 về đánh
giá, phân loại cán bộ; Ban Tổ chức Trung ương có Hướng dẫn số 358/BTCTW ngày
02-7-2004 về tổ chức, thực hiện Quy định của Bộ Chính trị về đánh giá, phân loại cán
bộ; Tổng cục Chính trị an ninh đã có hướng dẫn chỉ đạo các cơ quan, đơn vị tổ chức
thực hiện đánh giá kết quả thực hiện công tác của cán bộ, sĩ quan, chiến sĩ nói chung và
sĩ quan LLCSND nói riêng để đánh giá, phân loại sĩ quan LLCSND. Các cấp ủy đảng
thuộc Đảng bộ Bộ An ninh Lào đã tổ chức quán triệt, nghiên cứu, thống nhất nhận
thức, chỉ đạo sát sao việc thực hiện công tác đánh giá cán bộ, sĩ quan LLCSND trong
phạm vi quyền hạn quản lý của mình và chỉ đạo bộ phận làm công tác tổ chức và cán
bộ trong khâu chuẩn bị, công tác triển khai và phối hợp với các cơ quan và các cá nhân
cán bộ, sĩ quan LLCSND cùng nhau tiến hành thật tốt công tác đánh giá.
Nhờ quán triệt sâu sắc và nghiêm túc các chủ trương, quy định của Trung ương,
của Bộ và Tổng cục Cảnh sát, công tác đánh giá sĩ quan LLCSND thuộc phạm vi
quyền hạn theo phân cấp đã từng bước đi vào nền nếp và có chất lượng.
Những năm qua, trong quá trình xem xét bổ nhiệm, thăng quân hàm, luân
chuyển, điều động, quy hoạch, công tác đánh giá sĩ quan LLCSND đã được Đảng ủy
Bộ An ninh Lào, Đảng ủy Tổng cục Cảnh sát, tập thể lãnh đạo các cơ quan, đơn vị trực
thuộc tiến hành xem xét, đánh giá lại một cách nghiêm chỉnh. Đối với việc đánh giá sĩ
quan LLCSND hằng năm đã được thực hiện ngày càng bài bản, có chất lượng.
82
Trong tổ chức thực hiện đánh giá, phân loại sĩ quan LLCSND đã thể hiện một
số ưu điểm cơ bản sau:
- Đảng ủy, tập thể lãnh đạo Bộ An ninh, Đảng ủy Tổng cục Cảnh sát, các cơ
quan, đơn vị trực thuộc, An ninh địa phương và các cơ quan tham mưu Bộ An ninh đã
quán triệt vai trò, ý nghĩa tầm quan trọng, quan điểm, nguyên tắc công tác đánh giá sĩ
quan LLCSND do Trung ương quy định; chấp hành nghiêm các quy định về đánh giá
sĩ quan LLCSND; vận dụng một cách phù hợp vào việc thực hiện đánh giá sĩ quan
LLCSND. Các quan điểm đánh giá sĩ quan LLCSND được thể hiện trong việc tổ chức
thực hiện và kết quả đạt được, nhất là việc xây dựng, cụ thể hóa tiêu chuẩn, tiêu chí các
vị trí công tác là phải trên cơ sở yêu cầu nhiệm vụ của Bộ An ninh; lấy kết quả, hiệu
quả công tác và cả đức của sĩ quan LLCSND làm thước đo, làm tiêu chí chính trong
đánh giá và có tính đến môi trường công tác của sĩ quan LLCSND; đánh giá một cách
công khai, mọi lực lượng, mọi thành phần, tổ chức quần chúng... đều tham gia.
- Nội dung, quy trình đánh giá sĩ quan LLCSND từng bước được bổ sung, hoàn
thiện ngày càng chặt chẽ, phù hợp với điều kiện của Bộ, theo hướng mở rộng dân chủ
hơn, do đó chất lượng được nâng cao dần. Khi thực hiện các khâu trong công tác cán
bộ, nhất là việc chuẩn bị nhân sự cho đại hội đảng, quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm,
bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, thăng quân hàm, khen thưởng, kỷ luật... luôn tôn trọng và
thực hiện đánh giá theo đúng các nguyên tắc, các quy trình.
- Biện pháp, hình thức đánh giá sĩ quan LLCSND ngày càng được cải tiến, bổ
sung phù hợp với yêu cầu mới và yêu cầu thực tế công tác, việc tham gia đánh giá sĩ
quan LLCSND của nhân dân được tôn trọng một cách triệt để và chất lượng ngày càng
đi vào chiều sâu, thực chất hơn.
- Công tác đánh giá sĩ quan LLCSND được thực hiện thường xuyên và có nền
nếp hơn. Đảng ủy Bộ An ninh, Đảng ủy Tổng cục Cảnh sát và cấp ủy các cấp đã chú
trọng hơn và có sự hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện đánh giá sĩ quan
LLCSND.
- Các cơ quan tham mưu về công tác tổ chức và cán bộ phát huy tốt vai trò,
ngày càng được nâng cao về phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, chuyên môn
nghiệp vụ giúp lãnh đạo tổ chức thực hiện tốt công tác đánh giá sĩ quan LLCSND.
Bốn là, công tác quy hoạch đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào
Đảng ủy Bộ An ninh đã thấy được quy hoạch sĩ quan LLCSND là một nội dung
trọng yếu của công tác cán bộ, bảo đảm cho công tác sĩ quan LLCSND đi vào nền nếp,
83
chủ động, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài; làm căn cứ để đào tạo, bồi dưỡng
sĩ quan LLCSND vững vàng về lập trường chính trị, trong sáng về đạo đức, thành thạo
về chuyên môn, nghiệp vụ, có trình độ và năng lực, nhất là năng lực trí tuệ và thực tiễn.
Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, số 08/BCTTW, ngày 21-
08-2007 về quy hoạch cán bộ lãnh đạo - quản lý trên toàn quốc và Hướng dẫn của Ban
Tổ chức Trung ương số 198/BTCTW, ngày 13-10-2007 về việc quy hoạch cán bộ lãnh
đạo - quản lý trên toàn quốc. Tổng cục Chính trị đã tham mưu Đảng ủy Bộ An ninh
ban hành Kế hoạch để triển khai thực hiện; chỉ đạo các cấp ủy đảng thuộc Bộ, xây
dựng quy hoạch cán bộ, quy hoạch sĩ quan LLCSND bảo đảm đúng mục đích, quan
điểm, nguyên tắc, phương châm. Năm 2008, Tổng cục Chính trị tham mưu Đảng ủy
Bộ An ninh chỉ đạo các cấp, các đơn vị, tổ chức thực hiện xây dựng quy hoạch cán bộ,
sĩ quan LLCSND theo Chỉ thị của Bộ Chính trị và Hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung
ương giai đoạn từ năm 2009 đến 2013. Qua thực hiện quy hoạch có thể khẳng định,
công tác cán bộ an ninh nói chung, công tác xây dựng sĩ quan LLCSND nói riêng đã có
chất lượng, có nền nếp. Chất lượng quy hoạch được nâng lên, quy hoạch sau tốt hơn
quy hoạch trước; tình trạng quy hoạch “treo” cơ bản đã được khắc phục và từng bước
khắc phục tình trạng bị động, hẫng hụt trong công tác cán bộ, công tác LLCSND. Công
tác quy hoạch sĩ quan LLCSND đã chuẩn bị tốt nhân sự phục vụ đại hội đảng bộ các
cấp nhiệm kỳ 2015 -2020.
Công tác quản lý và thực hiện quy hoạch được các cấp, các cơ quan, đơn vị
quan tâm thực hiện. Công tác luân chuyển sĩ quan LLCSND được thực hiện ngày càng
nền nếp, chặt chẽ, cơ bản đạt mục đích, yêu cầu đề ra. Nhiều sĩ quan LLCSND sau luân
chuyển được bố trí đảm nhiệm chức vụ cao hơn; qua đó đã tạo động lực thúc đẩy sĩ
quan LLCSND hăng hái công tác, học tập, rèn luyện để trưởng thành về nhiều mặt;
khắc phục tư tưởng cục bộ, khép kín trong công tác sĩ quan LLCSND lãnh đạo, quản
lý, chỉ huy và tâm lý thỏa mãn trong một bộ phận sĩ quan LLCSND. Việc lựa chọn sĩ
quan LLCSND cử đi đào tạo, bồi dưỡng được căn cứ theo quy hoạch; tập trung đào tạo
đạt chuẩn cho đội ngũ sĩ quan LLCSND cơ sở; đào tạo sau đại học, lý luận chính trị và
bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho sĩ quan LLCSND trong quy hoạch. Việc bố trí,
sử dụng sĩ quan LLCSND được thực hiện trên cơ sở quy hoạch; khi có nhu cầu kiện
toàn chức danh lãnh đạo, quản lý, chỉ huy trước tiên xem xét, đánh giá nguồn sĩ quan
LLCSND trong quy hoạch.
84
Năm là, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân
dân Lào
Đảng ủy Bộ An ninh; Đảng ủy, chỉ huy Tổng cục Cảnh sát đã xác định đào tạo,
bồi dưỡng sĩ quan LLCSND là khâu đột phá để nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan
LLCSND; đồng thời, là một quá trình liên tục, thường xuyên, nghĩa là mọi sĩ quan
LLCSND - trong suốt cuộc đời công tác của mình - không thể chỉ học một lần, mà phải
thường xuyên được bổ sung thêm các kiến thức, các kỹ năng, chuyên môn để phù hợp
với yêu cầu của từng thời kỳ, phù hợp với xu thế phát triển của khoa học - công nghệ.
Quá trình bổ sung kiến thức được thực hiện thông qua các khóa đào tạo, bồi dưỡng do
Nhà nước và Bộ An ninh tổ chức. Vấn đề này cũng đã được thể chế hóa bằng pháp luật
và quy định rõ tại Điều 22 của Luật LLANND về trách nhiệm Đảng ủy và cấp ủy các
cấp của Bộ An ninh, Tổng cục Cảnh sát; nghĩa vụ các cơ quan tổ chức của Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc, tổ chức quần chúng, tổ chức xã hội và công dân
trong đào tạo, bồi dưỡng và giáo dục LLANND nói chung và sĩ quan LLCSND nói
riêng lớn mạnh cả về chính trị, tư tưởng, mạnh về tổ chức, có kỷ luật nghiêm, tác
phong công tác tiến bộ và hiện đại, có kỹ xảo kỹ năng về chuyên môn, nghiệp vụ.
Thực hiện các chủ trương của Đảng, Nhà nước về đổi mới, phát triển, nâng cao
chất lượng giáo dục và đào tạo, Đảng ủy Bộ An ninh Lào đã quan tâm, chỉ đạo ban
hành các chủ trương, quyết sách lớn để định hướng, tăng cường phát triển, nâng cao
chất lượng và quản lí công tác đào tạo và bồi dưỡng chiến sĩ, sĩ quan LLANND nói
chung và sĩ quan LLCSND nói riêng, Đảng ủy Bộ An ninh đã có các nghị quyết về
phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ cho LLANND trong thời kỳ CNH,
HĐH đất nước và nhiệm vụ đến năm 2020; các chương trình về phát triển giáo dục,
đào tạo thời kỳ CNH, HĐH và nhiệm vụ trong từng giai đoạn; các đề án phát triển giáo
dục đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan, chiến sĩ trong LLANND. Đặc biệt để đảm bảo chất
lượng tốt giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sĩ quan LLCSND, Bộ An ninh đã tham
mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành và phê duyệt Đề án quy hoạch chiến lược
tổng thể, nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ LLANND giai
đoạn 2015 và 2030. Hằng năm, Bộ trưởng Bộ An ninh đã ban hành chỉ tiêu kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sĩ quan LLCSND, Chỉ thị thực hiện nhiệm vụ năm học để
hướng dẫn chỉ đạo các đơn vị, địa phương, các trường An ninh, trường Cảnh sát thực
hiện những nội dung, yêu cầu của công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng đặt ra với mục
tiêu tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng và không ngừng nâng cao chất lượng giáo
85
dục, đào tạo, bồi dưỡng của LLANND và LLCSND. Đảng ủy, chỉ huy Tổng cục Cảnh
sát đã triển khai Nghị quyết, Chương trình, Chỉ thị và các đề án, dự án trên đạt hiệu quả
làm cho việc nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ sĩ quan LLCSND tốt hơn.
Kết quả công tác đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan LLCSND trong những năm qua là:
- Đã ban hành chương trình đào tạo sĩ quan LLCSND, ở các bậc học và các
chuyên ngành, thời gian đào tạo phù hợp với điều kiện hiện nay. Chương trình đào tạo
đại học dành cho sĩ quan LLCSND lãnh đạo, quản lý, chỉ huy cũng được rút ngắn cho
phù hợp với từng đối tượng và chuyên ngành.
- Ban hành chương trình bồi dưỡng sĩ quan LLCSND. Bồi dưỡng kiến thức
chuyên môn, nghiệp vụ ở các chuyên ngành an ninh, cảnh sát để cấp chứng chỉ chuyên
môn, nghiệp vụ cho sĩ quan LLCSND tốt nghiệp chuyên môn, nghiệp vụ ngoài ngành
được tuyển chọn vào sĩ quan LLCSND, thời gian học 4 tháng ở các trường An ninh và
Cảnh sát; và bồi dưỡng cấp chứng chỉ nghiệp vụ cảnh sát cho các sĩ quan LLCSND
thực hiện nhiệm vụ từng vị trí công tác cho phù với công tác thực tế phụ trách, thời
gian 30 ngày.
- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng: Cục Đào tạo, bồi dưỡng, Tổng cục Chính trị đã
tham mưu phối hợp với An ninh các đơn vị, An ninh địa phương và các trường An
ninh và Cảnh sát cho sĩ quan LLCSND làm công tác liên quan đến công việc đang thực
hiện ở các đơn vị trực thuộc Bộ An ninh và An ninh các địa phương được tham gia các
lớp đào tạo, bồi dưỡng. Ngoài ra có hàng ngàn lượt sĩ quan LLCSND đã tham gia các
lớp bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên đề, bồi dưỡng chức danh lãnh đạo, quản lý, chỉ huy,
đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ, các ứng dụng máy vi tính theo kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng hằng năm của Bộ An ninh và Tổng cục Cảnh sát.
- Tổng cục Chính trị đã tham mưu cho lãnh đạo Bộ An ninh và lãnh đạo, chỉ
huy các Học viện, các trường thuộc khối an ninh và cảnh sát về tăng cường đội ngũ
giảng viên, giáo viên chuyên ngành an ninh, cảnh sát cả về số lượng và chất lượng.
Thường xuyên bố trí giảng viên, giáo viên đi thực tế tại An ninh các đơn vị, địa
phương. Theo quy định về chế độ công tác thực tế của giáo viên các Học viện, trường
An ninh, trường Cảnh sát, giáo viên mới được phân công dạy nghiệp vụ, pháp luật thời
gian tập sự, nếu chưa làm công tác nghiệp vụ theo đúng chuyên ngành giảng dạy thì
phải đi thực tế từ 1- 2 năm; giáo viên nghiệp vụ, pháp luật (đã được bổ nhiệm chức
danh giảng dạy) phải đi thực tế ít nhất từ 3 tháng đến 1 năm và trong 5 năm có ít nhất 1
năm 6 tháng đi thực tế.
86
- Đã mở các lớp bồi dưỡng nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ nghiệp vụ, pháp
luật, quản lý hành chính nhà nước và kinh nghiệm truyền đạt kiến thức cho sĩ quan
LLCSND chuyên ngành cảnh sát.
- Bộ đã hướng dẫn Học viện CSND, các trường thuộc khối an ninh và cảnh sát
chú trọng thường xuyên cập nhật, bổ sung giáo trình, tài liệu giảng dạy, đáp ứng yêu
cầu thực tiễn. Việc bổ sung lý luận phòng chống tội phạm đã được chú ý đến các chính
sách quản lý nhà nước trong tình hình mới, phương thức thủ đoạn hoạt động của các
loại tội phạm; kỹ thuật chiến đấu điều tra tội phạm nói chung đối với từng loại tội phạm
nói riêng, đã giúp cho học viên các khóa đào tạo, bồi dưỡng nhanh chóng tiếp cận với
yêu cầu thực tế công tác bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội.
- Bộ đã chỉ đạo tổ chức xây dựng giáo trình bồi dưỡng nghiệp vụ, bồi dưỡng
chức danh lãnh đạo, quản lý, chỉ huy đối với sĩ quan LLCSND chẳng hạn: Cảnh sát
điều tra, trinh sát hình sự, trinh sát kinh tế, trinh sát ma túy... theo chương trình mới ban
hành, phục vụ cho việc tổ chức mở các lớp bồi dưỡng cho các đối tượng trên theo
chương trình, kế hoạch dự án cũng như phục vụ tổ chức bồi dưỡng thường xuyên.
- Bộ đã chú trọng việc tăng cường bố trí, sử dụng học viên tốt nghiệp các
chuyên ngành Cảnh sát của Học viện CSND ở trong nước và học ở nước ngoài, nhất là
học ở Học viện CSND và Học viện Phòng cháy chữa cháy của Việt Nam.
- Liên kết mở các lớp bồi dưỡng tin học, công nghệ thông tin cấp cao cho sĩ
quan LLCSND các đơn vị ở trung ương và địa phương.
- Tổng cục Cảnh sát căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng của cấp
trên, đã lên kế hoạch tuyển chọn, sàng lọc, giới thiệu các đối tượng sĩ quan LLCSND
trong đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với điều kiện, tiêu chuẩn, tiêu chí và bố trí, sử dụng
cho phù hợp với chuyên môn sau khi đã qua đào tạo, bồi dưỡng.
Sáu là, công tác bố trí, sử dụng đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân
dân Lào
Hệ thống quản lý cán bộ, sĩ quan LLANND nói chung và quản lý sĩ quan
LLCSND nói riêng hiện nay ở Lào; nội dung này bao gồm các quy định về bố trí, sử
dụng, phân công công tác, thăng chức, chuyển ngạch (đối với sĩ quan LLCSND là
thăng quân hàm), điều động, bổ nhiệm, luân chuyển, kéo dài thời gian làm việc, từ
chức, miễn nhiệm. Các quy định về bố trí, phân công công tác, điều động, biệt phái,
chuyển ngạch, thăng quần hàm, luân chuyển hiện đã xác định rõ trách nhiệm của người
đứng đầu cơ quan sử dụng sĩ quan LLCSND chịu trách nhiệm bố trí, phân công, giao
87
nhiệm vụ cho họ, đảm bảo các điều kiện cần thiết để họ thi hành nhiệm vụ, thực thi
công vụ và thực hiện các chế độ, chính sách đối với họ. Việc phân công sĩ quan
LLCSND phải bảo đảm phù hợp giữa nhiệm vụ được giao với chức danh được bổ
nhiệm, sĩ quan LLCSND ở chức danh nào thì bố trí công việc phù hợp với quân hàm
đó. Việc điều động sĩ quan LLCSND phải căn cứ vào nhu cầu công tác của cơ quan,
đơn vị, yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị và trình độ năng lực của sĩ quan LLCSND. Song
song với việc điều động sĩ quan LLCSND sang vị trí công tác có chuyên môn nghiệp
vụ khác phải được bồi dưỡng chuyên môn phù hợp với vị trí công tác mới. Việc thay
đổi vị trí công tác, chuyển đổi vị trí công tác của sĩ quan LLCSND phải đảm bảo đúng
với tình hình thực tế công việc được giao và đảm bảo tiêu chuẩn phẩm chất chính trị,
trình độ, năng lực của sĩ quan LLCSND đó. Việc bổ nhiệm, luân chuyển, từ chức, miễn
nhiệm sĩ quan LLCSND lãnh đạo, quản lý, chỉ huy theo phân cấp quản lý, cụ thể là
Quy định số 02/BCTTW ngày 14-7-2003 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng về bổ
nhiệm, chuyển đổi nhiệm vụ và vị trí công tác của cán bộ; Quy định số 02/BCTTW
ngày 17-10-2006 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng về công tác quản lý cán bộ và
Quy định số 837/BAN ngày 18-12-2002 của Bộ An ninh về việc phân cấp quản lý cán
bộ trong LLANND. Căn cứ vào các quy định của cấp trên và của Bộ, trong thời gian
qua Bộ An ninh đã thực hiện nghiêm túc theo thẩm quyền và sự phân cấp quản lý.
Song song với công tác bổ nhiệm là việc giải quyết miễn nhiệm, từ chức hoặc luân
chuyển đối với sĩ quan LLCSND lãnh đạo, quản lý, chỉ huy của Bộ. Những quy định
trên đã thay đổi tư duy về công tác bổ nhiệm, bố trí, sử dụng sĩ quan LLCSND trước
đây, lãnh đạo phải “có lên, có xuống”, “có vào, có ra”, có chuyển đổi vị trí, không phải
cố định suốt đời. Việc thực hiện chế độ bổ nhiệm có thời hạn đã có tác dụng rất lớn đối
với việc nâng cao phẩm chất chính trị và năng lực, tính năng động, sáng tạo của đội
ngũ sĩ quan LLCSND lãnh đạo, quản lý, chỉ huy ở các cơ quan, đơn vị.
Trên cơ sở các quy định hiện hành của Trung ương và của Bộ An ninh, công tác
bố trí, sử dụng sĩ quan LLCSND đã được thực hiện nghiêm túc và đi vào nền nếp hơn
trước. Cụ thể là, việc xem xét, lựa chọn sĩ quan LLCSND bổ nhiệm vào các vị trí lãnh
đạo, quản lý, điều hành, chỉ huy ở các cấp đều dựa trên nhu cầu công việc, nguồn quy
hoạch và đều căn cứ đặc điểm, đặc thù của công việc và từng địa phương, từng địa bàn.
Căn cứ vị trí công tác đã được xây dựng, ban hành và một số quy định về tiêu
chuẩn, lãnh đạo Bộ đã tiến hành quy hoạch, luân chuyển, điều động sĩ quan LLCSND
lãnh đạo, quản lý và chỉ huy để tạo bước đột phá trong nâng cao chất lượng của họ phù
88
hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới hiện nay. Đội ngũ sĩ quan LLCSND đã được điều chỉnh
lại cho phù hợp với điều kiện thực tế: tiến hành sắp xếp sĩ quan LLCSND giữa các
Tổng cục, Cục, Viện, Trung tâm, các đơn vị, An ninh địa phương trên toàn quốc phù
hợp, khoa học hơn trước. Công tác tuyển dụng, bổ sung nguồn căn cứ vào quy hoạch
nguồn sĩ quan LLCSND và tiêu chuẩn, tiêu chí, điều kiện theo quy định. Xây dựng cơ
chế, chính sách tăng cường thu hút nhân tài, sĩ quan LLCSND trẻ, các chuyên gia trình
độ cao tham gia công tác trong lĩnh vực cảnh sát. Thường xuyên rà soát, bổ sung quy
hoạch sĩ quan LLCSND lãnh đạo, quản lý, chỉ huy ở các cấp, đảm bảo tính kế thừa và
từng bước hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa.
Việc bố trí, sử dụng sĩ quan LLCSND căn cứ vào quy hoạch nguồn sĩ quan
LLCSND và điều kiện cụ thể của từng cơ quan, đơn vị, An ninh địa phương. Xây
dựng cơ cấu chức danh, quân hàm hợp lý, đảm bảo cân đối về trình độ chuyên môn,
chức danh, quân hàm phù hợp với vị trí công tác của từng cơ quan, đơn vị. Đã xây
dựng cơ chế, chính sách tài chính; các cơ chế, chính sách thu hút nhân tài về tham gia
công tác trong lĩnh vực cảnh sát. Bộ, Tổng cục Cảnh sát, An ninh các cấp đã tạo điều
kiện để sĩ quan LLCSND tự học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn và
năng lực công tác; tăng cường công tác đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình
độ, kỹ năng làm việc, đảm bảo đạt yêu cầu theo tiêu chuẩn chức danh, quân hàm đã
quy định. Xây dựng kế hoạch, quy chế và cơ chế, chính sách đào tạo, bồi dưỡng và
phát triển nhân lực trong lĩnh vực cảnh sát. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sĩ quan LLCSND lãnh đạo, quản lý và
chỉ huy; đào tạo có trọng tâm, trọng điểm, gắn với bố trí, sử dụng sĩ quan LLCSND ở
từng cơ quan, đơn vị và từng địa phương. Mạnh dạn sử dụng sĩ quan LLCSND trẻ, có
triển vọng phát triển đã được đào tạo đạt chuẩn chức danh giữ các chức vụ lãnh đạo,
quản lý, chỉ huy phù hợp với chuyên môn đào tạo, bồi dưỡng.
Đã triển khai xây dựng vị trí công tác, chức danh công tác; đổi mới cơ chế,
chính sách tuyển dụng, đánh giá, phân loại, bổ nhiệm, luân chuyển... nhằm điều chỉnh
biên chế, số lượng sĩ quan LLCSND ở từng cơ quan, đơn vị từ Trung ương đến địa
phương cho phù hợp với thực tiễn hội nhập khu vực và quốc tế. Quá trình thực hiện
tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ sĩ quan LLCSND và điều chỉnh lại cơ cấu tổ
chức bộ máy được tiến hành một cách công khai, dân chủ, tạo được sự đồng thuận của
các cấp thuộc ngành. Các cơ quan, tổ chức Bộ An ninh Lào ở các cấp được tăng cường,
bổ sung biên chế, số lượng nhằm thực hiện các công việc lĩnh vực cảnh sát ở các cấp
89
được thuận lợi và nhanh chóng. Việc điều chỉnh biên chế, số lượng sĩ quan LLCSND
cũng được quan tâm chú trọng đến tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ, sức khỏe,
phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, phong cách làm việc; tuyển chọn những người
có trình độ, năng lực chuyên môn cao hơn, đáp ứng yêu cầu công việc để bổ sung vào
các cơ quan, đơn vị trực thuộc. Cho nên, chất lượng biên chế và cơ cấu của đội ngũ sĩ
quan LLCSND có sự chuyển biến tích cực.
Bảy là, công tác quản lý đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân
Các quy định hiện hành về công tác quản lý đội ngũ cán bộ, sĩ quan LLANND
nói chung và công tác quản lý sĩ quan LLCSND nói riêng đã phân cấp rõ ràng, tạo cơ
sở và điều kiện để quản lý đội ngũ sĩ quan LLCSND một cách chủ động, sáng tạo,
khoa học hợp lý và có nguyên tắc. Phân cấp quản lý sĩ quan LLCSND quy định rõ
trách nhiệm và thẩm quyền trong quá trình sử dụng và quản lý sĩ quan LLCSND gắn
với việc phân cấp quản lý.
Trước đây, việc quản lý đội ngũ sĩ quan LLCSND của Bộ, Tổng cục Cảnh sát từ
Trung ương đến địa phương là do Trung ương xem xét quyết định. Năm 2002, Bộ An
ninh đã có Quy định số 837/BAN ngày 18-12-2002 về việc phân cấp quản lý cán bộ
trong LLANND; Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã có Quy định số 03/BCT ngày 22-
07-2003 về công tác quản lý cán bộ và được sửa đổi thành Quy định số 02/BCT ngày
17-10-2007 cho phù hợp với điều kiện thực tiễn. Trong Luật LLANND số 03/QH ngày
2-7-2007 đã quy định rõ tại chương VII cơ quan quản lý và kiểm tra của LLANND.
Trong các quy định của Trung ương Đảng, trong Luật và quy định của Bộ đã nêu rõ
nguyên tắc và trách nhiệm, nội dung, trách nhiệm và quyền hạn và tổ chức bộ máy làm
nhiệm vụ quản lý sĩ quan LLCSND.
Căn cứ Luật LLANND, quy định của Bộ An ninh và các văn bản hướng dẫn,
các quy định của Trung ương, hiện nay thẩm quyền quản lý sĩ quan LLCSND gồm
những nội dung chủ yếu sau: 1) Nghiên cứu, quy định quy chế và các hướng dẫn liên
quan đến công tác quản lý; 2) Xây dựng quy hoạch, kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo; 3)
Quy định vị trí việc làm và tiêu chuẩn; 4) Quy định tổng số lượng; 5) Quy định quy chế
lựa chọn, thi tuyển và bậc quân hàm; 6) Bồi dưỡng, nâng cao trình độ và đánh giá kết
thực hiện công việc; 7) Chỉ đạo, tổ chức thực hiện chế độ tiền lương, trợ cấp, các chính
sách, khen thưởng và thực hiện kỷ luật; 8) Thu thập số liệu thống kê, dữ liệu thông tin
và hồ sơ lý lịch; 9) Nghiên cứu bố trí, sử dụng; 10) Chỉ đạo, hướng dẫn và giải quyết
90
các đơn thư và 11) Kiểm tra, thanh tra đối với sĩ quan LLCSND trong thực hiện quy
định, quy chế, kỷ luật, nội quy của ngành an ninh [30, tr.484-486].
Việc quản lý sĩ quan LLCSND thực chất là quản lý tổng số lượng, kế hoạch
biên chế hằng năm. Tổng số lượng, kế hoạch biên chế được Chính phủ phê duyệt trên
cơ sở tính toán khoa học, phù hợp với nhiệm vụ được giao và vị trí công tác từng cơ
quan, đơn vị chiến đấu.
Với lộ trình của quá trình cải cách nền hành chính nhà nước nói chung, tăng
cường phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương, nhất là thực hiện Chỉ thị số
03/BCT của Bộ Chính trị Trung ương Đảng về “ba xây”, Chính phủ đã tiếp tục thực
hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về quản lý nguồn nhân sự theo ngành dọc ở địa
phương. Bộ An ninh Lào đã thực hiện theo quy định đó nhằm tạo điều kiện chủ động
trong việc sử dụng đội ngũ sĩ quan LLCSND một cách hợp lý nhất với bộ máy quản lý
hành chính nhà nước để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao; thúc đẩy việc
sắp xếp, tổ chức tinh gọn, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc sử dụng và
quản lý sĩ quan LLCSND; nâng cao hiệu suất lao động và thực hiện nhiệm vụ; thực
hiện quyền tự chủ đồng thời gắn với trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan, đơn vị và đội
ngũ sĩ quan LLCSND trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao.
Nội dung chế độ tự chủ về quản lý, sử dụng sĩ quan LLCSND hiện hành là căn cứ
để Tổng cục Cảnh sát thực hiện quyền chủ động trong việc sử dụng sĩ quan LLCSND
như: được đề xuất quyết định việc bố trí, sắp xếp, phân công sĩ quan LLCSND theo vị trí
công tác và yêu cầu nhiệm vụ để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ của các đơn vị trực thuộc
được quyền điều động LLCSND trong các đơn vị trực thuộc. Việc phân cấp quản lý sĩ
quan LLCSND hiện nay đã bước đầu thể hiện rành mạch và làm rõ được thẩm quyền
quản lý của các cấp ủy đảng, của Bộ, Tổng cục Cảnh sát và của An ninh địa phương.
Tám là, việc thực hiện chế độ, chính sách, khen thưởng và kỷ luật đối với đội
ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào
Việc thực hiện chế độ, chính sách đãi ngộ và kỷ luật đối với đội ngũ sĩ quan
LLCSND là một loại hình quan trọng nhằm tăng cường quản lý sĩ quan LLCSND được
chặt chẽ và khích lệ họ hăng hái công tác được giao. Đó là điều kiện, yếu tố đảm bảo
cho người sĩ quan LLCSND làm việc tích cực, khuyến khích họ trong hoạt động chức
nghiệp, đảm bảo cho sĩ quan LLCSND yên tâm công tác. Trong điều kiện nền kinh tế
thị trường, chính sách tiền lương và các chính sách đãi ngộ còn phải thực hiện chức
năng “giữ chân” họ gắn bó với Đảng, Nhà nước, công việc lĩnh vực cảnh sát, thu hút
91
nhân tài vào làm việc trong lĩnh vực cảnh sát. Chính sách tiền lương rất phức tạp, đòi
hỏi phải đáp ứng được nhiều yêu cầu của một mục tiêu chung là quản lý và xây dựng
được đội ngũ sĩ quan LLCSND vững mạnh về mọi mặt.
Trong thời gian từ năm 1993 đến năm 2006, việc thực hiện cải cách tiền lương
đã tạo cơ sở để sắp xếp, tinh giản bộ máy và biên chế trong khu vực hành chính nhà
nước, khu vực hành chính sự nghiệp, gắn tiền lương với chất lượng và hiệu quả công
tác, thúc đẩy cải cách nền hành chính quốc gia. Cải cách tiền lương đã đánh dấu bước
chuyển quan trọng từ hệ thống tiền lương của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan
liêu, bao cấp sang hệ thống tiền lương của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Chế độ tiền lương đối với LLANND và đối với sĩ quan LLCSND cũng đã tạo bước đột
phá quan trọng để hiện đại hóa LLCSND.
Đến năm 2012, Nhà nước tiếp tục cải cách chế độ tiền lương, đã ban hành Nghị
định về chế độ tiền lương đối với cán bộ và lực lượng vũ trang nhân dân đến năm 2015.
Trong lần cải cách này, chế độ tiền lương đã được thực hiện theo hướng bội số, làm
cho thu nhập, đời sống cán bộ nói chung và sĩ quan LLCSND nói riêng tốt hơn; điều đó
làm cho sĩ quan LLCSND có sự phấn đấu hết mình vì công việc được phân công tốt
hơn, gắn bó với sự nghiệp chính trị, cách mạng mà Đảng và Tổ quốc giao phó.
Căn cứ Nghị định của Thủ tướng Chính phủ số 121/TTg ngày 24-02-2010 về
tăng cường công tác thi đua - khen thưởng trong điều kiện mới và Hướng dẫn số
229/BTCTW ngày 23-5-2011 của Ban Tổ chức Trung ương Đảng về tổ chức thực hiện
Nghị định số 121/TTg của Thủ tướng Chính phủ và Nghị định số 468/TTg, ngày 10-
11-2010 về quy định chính sách đãi ngộ đối với cán bộ - công chức thực hiện nhiệm vụ
ở vùng xa, hẻo lánh và hiểm trở. Cấp ủy và lãnh đạo Bộ An ninh Lào đã triển khai thực
hiện công tác thi đua - khen thưởng một cách tích cực, đạt hiệu quả đáng khích lệ, trên
cơ sở phát động phong trào thị đua “yêu nước và phát triển” trong ngành nhằm làm cho
đội ngũ sĩ quan LLCSND có ý thức, tinh thần yêu Tổ quốc, tinh thần yêu và gắn bó với
chế độ dân chủ nhân dân, làm chủ trong thực hiện công việc mà mình đang đảm nhiệm,
có tinh thần tiết kiệm, cần cù trong lao động và nghiên cứu công việc được giao, nâng
cao ý thức tự giác, tinh thần phấn đấu hết mình vì sự nghiệp phát triển không ngừng
của ngành và xây dựng được mẫu hình người sĩ quan LLCSND gương mẫu ưu tú, tiến
bộ. Qua tổ chức thực hiện công tác thi đua - khen thưởng trong ba năm đã tạo sự
khuyến khích, động viên tinh thần và có sự cạnh tranh trong phấn đấu hoàn thành công
việc của sĩ quan LLCSND.
92
Căn cứ vào các chủ trương, chính sách, quy định của cấp trên, Bộ An ninh và
Tổng cục Cảnh sát đã chú trọng triển khai, áp dụng vào điều kiện thực tế của lĩnh vực
cảnh sát ở các cơ quan, đơn vị để thực hiện hợp lý các chính sách đãi ngộ kịp thời đối
với sĩ quan LLCSND; đồng thời cũng kỷ luật nghiêm minh đối với sĩ quan LLCSND
vi phạm.
3.2.1.2. Nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm
Chất lượng và hoạt động bảo đảm chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND bị hạn
chế, yếu kém trong thời gian qua, do những nguyên nhân sau:
Một là, việc xác định chủ trương, kế hoạch, quy chế, quy định về bảo đảm chất
lượng tốt đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào
Sự chỉ đạo của cấp ủy về các phương hướng, chủ trương, kế hoạch, quy chế,
quy định về nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND còn chậm; có một số chủ
trương, quy định của cấp trên chưa triển khai thực hiện trong thực tế, vẫn là lý thuyết
trên giấy.
Hệ thống chủ trương, kế hoạch, quy định về nâng cao chất lượng cán bộ, sĩ quan
LLANND nói chung và sĩ quan LLCSND nói riêng được các nghị quyết của Đảng và
một số quy định của quy phạm pháp luật đề ra chưa được cụ thể hóa, nếu được cụ thể
hóa cũng nặng về hình thức, mang tính cầu toàn, nên trong thực tế việc vận dụng định
lượng còn rất khó khăn. Việc xây dựng kế hoạch, quy chế, quy định về công tác nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, sĩ quan LLANND nói chung và sĩ quan LLCSND nói
riêng chưa được chú trọng.
Còn tồn tại tư tưởng xem nhẹ, coi thường việc xây dựng và ban hành thể chế về
bảo đảm chất lượng tốt đội ngũ sĩ quan LLCSND; chưa tuân thủ nghiêm túc các yêu
cầu của quy trình xây dựng và ban hành thể chế. Nội dung của những văn bản quy
phạm pháp luật về bảo đảm chất lượng tốt đội ngũ sĩ quan LLCSND chưa rõ ràng và
sát với điều kiện, tính đặc thù của CSND.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ, sĩ quan LLANND nói
chung và việc bảo đảm chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND nói riêng còn chưa đổi
mới kịp thời.
Hai là, công tác tuyển chọn, xác định tiêu chuẩn, tiêu chí chức danh đội ngũ sĩ
quan lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào còn bất cập
Sự chỉ đạo của cấp ủy về công tác tuyển chọn đội ngũ sĩ quan LLCSND chưa rõ
ràng, chưa sát thực tiễn và phù hợp với cơ chế mới. Còn chịu ảnh hưởng của cơ chế kế
93
hoạch hóa tập trung, do đó việc tuyển chọn sĩ quan LLCSND không đạt chất lượng như
mong muốn. Cơ chế thi tuyển chọn sĩ quan LLCSND từ các nguồn chưa có sự cạnh
tranh, công khai, khách quan, bình đẳng, công bằng, nên chất lượng nguồn sĩ quan
LLCSND không đạt chuẩn, ảnh hưởng đối với chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND.
Các quy định quy phạm pháp luật về công tác tuyển chọn đội ngũ LLANND nói chung
và đội ngũ sĩ quan LLCSND nói riêng không đồng bộ, chưa chặt chẽ, chưa cụ thể và
thiếu tiêu chuẩn, tiêu chí trong việc tuyển dụng. Về công tác xét nâng bậc quân hàm
quy định trong luật, chỉ mang tính chung chung đến nay vẫn chưa cụ thể hóa cho phù
hợp với từng đối tượng, từng chức danh, chức vụ và thâm niên cụ thể, nên việc triển
khai thực hiện gặp sự lúng túng, không thống nhất. Chưa có bộ tiêu chí tuyển chọn đội
ngũ sĩ quan LLCSND, nên công tác tuyển chọn đội ngũ sĩ quan LLCSND không đạt
chất lượng, hiệu quả không cao; không tuyển được những người giỏi, có đức, có tài, có
phẩm chất và xuất thân từ giai cấp công nhân, nông dân. Công tác tuyển chọn sĩ quan
LLCSND vẫn còn thực trạng cơ chế “xin - cho” trước đây, bị chi phối bởi các quan hệ
gia đình, họ hàng, địa phương và hệ thống “bảo hộ” trong tuyển chọn. Đội ngũ cán bộ,
sĩ quan phụ trách về công tác tuyển chọn đội ngũ sĩ quan LLCSND còn hạn chế về
năng lực chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức.
Đến hiện nay, vẫn chưa có tiêu chí chức danh sĩ quan LLCSND, cho nên việc
xắp sếp, bố trí, thăng quân hàm, thực hiện chính sách sĩ quan LLCSND không thống
nhất, thực hiện lúng túng.
Ba là, công tác đánh giá và đánh giá chất lượng đội ngũ sĩ quan lực lượng
Cảnh sát nhân dân Lào còn hạn chế
Việc quán triệt chủ trương, quan điểm, yêu cầu của Trung ương, của cấp trên về
đánh giá cán bộ còn hạn chế, chưa thật chú trọng. Hiểu về công tác đánh giá cán bộ còn
nặng nề, cứng nhắc dẫn đến có biểu hiện vừa lúng túng, vừa xem nhẹ các yêu cầu, quy
định trong đánh giá cán bộ ở một số cán bộ có chức vụ cao và một số đơn vị.
Quá chậm trong việc cụ thể hóa các quy định của Bộ Chính trị và cấp trên thành
các quy định, quy chế cụ thể để áp dụng và thực hiện. Trong chỉ đạo thực hiện đánh giá
sĩ quan LLCSND còn thiếu kiên quyết, kiên trì, liên tục. Thực hiện đánh giá sĩ quan
LLCSND không thường xuyên, mới mang tính thời vụ, khoảng thời gian bỏ trống quá
dài, dẫn đến chậm phát hiện những sai lầm, khuyết điểm của sĩ quan LLCSND, nhất là
những sai phạm tham nhũng, “ô dù”, cửa quyền, gia trưởng, quan liêu... dẫn đến việc
mất sĩ quan LLCSND. Các quan điểm đánh giá sĩ quan LLCSND chưa được cụ thể hóa
94
thành nguyên tắc, cơ chế, quy chế, quy định để thực hiện thống nhất trong toàn ngành.
Các hình thức đánh giá sĩ quan LLCSND còn sơ sài, không theo nguyên tắc, quy trình
chặt chẽ. Chưa thành thật tự phê bình và phê bình trong đánh giá.
Tính chủ động, tích cực, sáng tạo trong thực hiện đánh giá sĩ quan LLCSND
của một số cơ quan, đơn vị còn hạn chế, không kịp thời, không sát với thực tiễn và thực
hiện thiếu đồng bộ.
Nhiều cơ quan, đơn vị có thẩm quyền thực hiện đánh giá sĩ quan LLCSND chưa
tuân theo quy định, yêu cầu của cấp trên, cấp ủy đảng và Bộ, nhất là đánh giá hằng
năm. Ở một số đơn vị, cơ quan, việc tham gia đánh giá của sĩ quan LLCSND, của các
tập thể chưa thực hiện đúng theo yêu cầu, còn tình trạng “khoán trắng” cho cơ quan
tham mưu về công tác tổ chức và cán bộ, Phòng Chính trị, do đó có trường hợp đánh
giá chưa đúng thực chất, vẫn theo cảm tính chủ quan là chính.
Việc cụ thể hóa tiêu chuẩn, tiêu chí đối với từng chức danh sĩ quan LLCSND
chưa tốt, do đó khi đánh giá thường chung chung, không sâu sắc và không có cơ sở
khoa học. Còn tình trạng thiếu dân chủ hoặc dân chủ hình thức; sự tham gia của nhân
dân chưa đầy đủ và chưa có quy chế cho nhân dân tham gia đánh giá sĩ quan LLCSND.
Tình trạng né tránh khi đánh giá sĩ quan LLCSND thuộc lãnh đạo, cấp trên còn khá
phổ biến. Nhiều đơn vị, trách nhiệm người đứng đầu chưa phát huy hết, hoặc giản đơn,
buông lỏng, né tránh, còn chờ mệnh lệnh, chỉ thị, chỉ đạo cấp trên.
Việc công khai, kết luận đánh giá sĩ quan LLCSND chưa có quy chế thực hiện,
chưa nghiêm khắc. Kết quả đánh giá, chưa gắn và sử dụng hiệu quả trong khen thưởng,
kỷ luật sĩ quan LLCSND; việc đề cao vai trò, trách nhiệm tham gia đánh giá đối với sĩ
quan LLCSND bị kỷ luật để góp phần kết luận hình thức kỷ luật chưa được quy định rõ
ràng, rành mạch làm cho công tác đánh giá sĩ quan LLCSND thời gian qua yếu kém.
Công tác đánh giá sĩ quan LLCSND thực hiện chưa thành nền nếp. Kết quả
đánh giá sĩ quan LLCSND chưa được quản lý, sử dụng một cách thống nhất. Chưa gắn
với việc đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, sử dụng cán bộ, do đó tác dụng của đánh giá sĩ
quan LLCSND trong quản lý nguồn nhân lực của ngành còn thấp, kém.
Đánh giá sĩ quan LLCSND có nơi, có lúc còn mang tính hình thức, chưa phản
ánh đúng thực chất của họ; chưa lấy hiệu quả công việc và sự tín nhiệm làm tiêu chí,
làm thước đo chính trong đánh giá; còn cảm tính, hình thức, xuê xoa, chiếu lệ; thiếu
tính chiến đấu và tinh thần xây dựng trong đánh giá.
95
Chưa có quy chế đánh giá sĩ quan LLCSND trên toàn hệ thống, vì thế những kết
luận về đánh giá chủ yếu căn cứ theo báo cáo của các cơ quan, đơn vị.
Cấp ủy, tổ chức đảng các đơn vị và cơ quan tham mưu về công tác tổ chức -
trực tiếp là Tổng Cục Chính trị (Cục Tổ chức), Phòng Chính trị - chưa thực sự chú
trọng và có biện pháp cụ thể để quản lý sĩ quan LLCSND, hiểu và nắm sâu về tư tưởng,
lập trường, khả năng hoàn thành nhiệm vụ, uy tín cá nhân, quan hệ xã hội của bản thân
và gia đình họ; có trường hợp đánh giá sĩ quan LLCSND mà không biết bản thân đối
tượng đang được đánh giá, dẫn đến việc nhận xét, đánh giá sĩ quan LLCSND chưa thực
chất, chưa khách quan, chưa sát và chưa đúng.
Bốn là, công tác quy hoạch đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào
có lúc, có nơi chưa sát thực tế
Bên cạnh kết quả đạt được ở trên, công tác quy hoạch sĩ quan LLCSND thời
gian qua còn một số tồn tại, hạn chế: Việc xây dựng quy hoạch của một số đơn vị chưa
có tính đột phá, tính khả thi không cao nên khi tiến hành bổ nhiệm, bố trí, sắp xếp, luân
chuyển còn gặp khó khăn; quy trình, cách làm quy hoạch còn lúng túng, chưa thực sự
đồng bộ. Nhận xét, đánh giá sĩ quan LLCSND trước khi đưa vào quy hoạch trong một
số trường hợp chưa chặt chẽ; phát hiện, giới thiệu nguồn đưa vào quy hoạch còn hạn
chế. Công tác quản lý và thực hiện quy hoạch có nơi chưa được đề cao, chưa có sự gắn
kết chặt chẽ giữa quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng.
Nhận thức của một số cấp ủy và lãnh đạo, chỉ huy ở một số đơn vị về công tác
quy hoạch sĩ quan LLCSND chưa sâu, chưa đầy đủ, chưa thật sự quyết tâm cao trong
chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Ở một số cơ quan, đơn vị còn tư tưởng cục bộ, khép kín,
không muốn quy hoạch sĩ quan LLCSND đơn vị khác, nơi khác. Vai trò tham mưu của
một số bộ phận làm công tác tổ chức cán bộ chưa đạt yêu cầu.
Năm là, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân
dân Lào có mặt chưa đáp ứng yêu cầu
Việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sĩ quan LLCSND trong thời gian qua tính kế
hoạch chưa cao; đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan LLCSND chưa gắn với sử dụng, bố trí
công việc không phù hợp chuyên môn nghiệp vụ đã đào tạo và đào tạo, bồi dưỡng
không theo quy hoạch, đôi lúc tràn lan, chạy theo số lượng. Quy chế, quy định về đào
tạo, bồi dưỡng sĩ quan LLCSND chưa rõ ràng, cụ thể. Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ sĩ quan LLCSND cho từng vị trí công tác và phục vụ hội nhập khu vực, quốc tế
chưa được xây dựng. Công tác thu thập số liệu thống kê nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội
96
ngũ sĩ quan LLCSND chưa được thực hiện đồng bộ và không có cơ sở dữ liệu chính
xác. Chưa có văn bản quy phạm pháp luật về tiêu chí thẩm định đào tạo, bồi dưỡng,
giáo trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan LLCSND. Chưa có chương trình đào tạo
kiến thức cơ bản cho sĩ quan LLCSND mới nhập ngũ nguồn bổ sung và chương trình
bồi dưỡng sĩ quan LLCSND trong thời gian công tác và trước khi nhận nhiệm vụ,
cương vị mới, luân chuyển... Nội dung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sĩ quan LLCSND
phần nhiều đã lỗi thời, thiếu cập nhật cái mới và không phù hợp với điều kiện mới hiện
nay. Việc đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan LLCSND chưa gắn với các tình huống chiến đấu
cụ thể, tình huống quản lý hành chính nhà nước cũng như việc rèn luyện các khả năng,
kỹ năng thực hành quá ít, thiếu và yếu. Tổ chức bộ máy cơ quan đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ sĩ quan LLCSND chưa toàn diện, kiện toàn, hệ thống. Bộ An ninh Lào chưa thực
sự quan tâm đến việc xây dựng và củng cố cơ sở đào tạo, bồi dưỡng. Đội ngũ cán bộ, sĩ
quan thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cũng không chuyên nghiệp. Hợp tác quốc
tế trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sĩ quan LLCSND còn quá ít; các chuyên môn đào
tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài cũng chưa phù hợp với vị trí công việc, yêu cầu công tác.
Tinh thần phấn đấu tự rèn luyện, tự học, tự bồi dưỡng của đội ngũ sĩ quan LLCSND
chưa cao. Kinh phí dành cho đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sĩ quan LLCSND hằng năm
quá ít ỏi, không đủ. Chưa có quy định hướng dẫn về quản lý và sử dụng kinh phí đào
tạo, bồi dưỡng sĩ quan LLCSND, làm cho việc sử dụng và quản lý kinh phí gặp nhiều
khó khăn và khó trong thực hiện trên thực tế.
Sáu là, công tác bố trí, sử dụng đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân
Lào có lúc, có nơi chưa phù hợp
Các quy định về công tác bố trí, sử dụng đội ngũ sĩ quan LLCSND chưa đồng
bộ, không đủ nội dung trong điều chỉnh các đối tượng. Hiện nay, Quy định số 02/BCT
ngày 14-7-2003 của Bộ Chính trị về bổ nhiệm, chuyển đổi nhiệm vụ và nơi công tác
của cán bộ đã hơn 14 năm, nhiều nội dung không phù hợp với tình hình thực tế hiện
nay. Về công tác luân chuyển, điều động, biệt phái, giáng chức, miễn nhiệm, từ chức,
bổ nhiệm lại; luân chuyển cán bộ làm công tác tài chính, thủ kho, thủ quỹ, vật chất, kế
toán... chưa có quy định, quy chế rõ ràng. Việc cụ thể hóa quy định của Trung ương
thành quy định, quy chế của lĩnh vực an ninh và cảnh sát chưa được thực hiện nên khó
vận dụng đối với sĩ quan LLCSND.
Có lúc thực hiện nguyên tắc bố trí, sử dụng đội ngũ sĩ quan LLCSND không
theo quy định của cấp trên. Bố trí, sử dụng đội ngũ sĩ quan LLCSND chưa phù hợp với
97
sở trường, chuyên môn nghiệp vụ của từng sĩ quan LLCSND, nên không phát huy
được tối đa khả năng của họ, ảnh hưởng đến chất lượng công việc. Vẫn còn tồn tại thực
trạng “có vào mà không có ra”, “có lên mà không có xuống”, “chuyển hẳn” dẫn đến sự
trì trệ, ỷ lại của không ít sĩ quan LLCSND lãnh đạo, quản lý, không ít trường hợp nảy
sinh sự an phận, thiếu ý thức phấn đấu vươn lên và tính sáng tạo, làm giảm hiệu lực,
hiệu quả thực hiện công việc của ngành. Chế độ chính sách đối với sĩ quan LLCSND
công tác địa bàn vùng sâu, vùng xa chưa thỏa đáng, nên không khuyến khích, động
viên được họ xuống thực hiện công tác ở cơ sở để rèn luyện trong thực tiễn.
Trên thực tế, việc điều chỉnh cơ cấu đội ngũ sĩ quan LLCSND còn bộc lộ một
số hạn chế. Tổng số biên chế có xu hướng tăng lên, không cân đối giữa số lượng công
việc và số lượng sĩ quan LLCSND. Cơ cấu sĩ quan LLCSND còn chưa hợp lý về số
lượng chức danh quân hàm, chức danh nghề nghiệp; trình độ, độ tuổi, dân tộc, giới
tính, nhất là tương quan cơ cấu giữa các cơ quan trung ương với các cơ quan địa
phương. Chưa xác định rõ, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, yêu cầu quản lý nhà nước của
ngành, yêu cầu cung cấp dịch vụ công của ngành để làm cơ sở xây dựng, hoàn thiện cơ
cấu sĩ quan LLCSND phù hợp. Công tác đánh giá, phân loại sĩ quan LLCSND vẫn là
khâu yếu. Việc luân chuyển, điều động, bố trí lại sĩ quan LLCSND lãnh đạo, quản lý
không thực hiện nghiêm túc, thiếu dân chủ và nặng về mệnh lệnh.
Bảy là, công tác quản lý đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào có
lúc, có nơi chưa thật chặt chẽ
Về hệ thống thể chế quản lý đội ngũ sĩ quan LLCSND chưa thể hiện được triệt
để quan điểm, đường lối phát triển và hội nhập của Đảng và Nhà nước. Điều này thể
hiện chính sự nhận thức chưa rõ ràng về chức năng phục vụ của Nhà nước. Trong xã
hội chỉ sử dụng cụm từ “phục vụ nhân dân”, “cán bộ là đầy tớ của nhân dân”, “nhà
nước của dân, do dân và vì dân”..., mà chưa tách bạch được hai chức năng cơ bản của
Nhà nước là chức năng quản lý xã hội và chức năng cung ứng dịch vụ công cho xã hội.
Quy mô, cấp độ của hệ thống thể chế quản lý sĩ quan LLCSND chưa đạt được
đúng với vị trí, vai trò quan trọng của nó. Trong thể chế quản lý sĩ quan LLCSND, tỷ lệ
những văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao như luật, pháp lệnh còn thấp,
thậm chí chưa có. Mặt khác, các hệ thống văn bản này nặng về quy định, hướng dẫn,
thông báo, chỉ thị thi hành là chính. Việc chưa có hệ thống thể chế quản lý sĩ quan
LLCSND với tầm khái quát cao cùng với thực trạng có nhiều văn bản quy phạm pháp
luật hướng dẫn cũng đồng nghĩa với việc tạo ra sự manh mún, lỏng lẻo, thiếu khoa học,
98
không đồng bộ, thiếu chủ động và tính linh hoạt trong quản lý sĩ quan LLCSND. Do sự
hạn chế ở tầm vĩ mô của văn bản quy phạm pháp luật quản lý sĩ quan LLCSND, nên
trong thực tế, công tác này vẫn trong tình trạng “lấy ngắn nuôi dài”, “giải pháp tình
thế”, chưa có định hướng dài hạn cho lâu dài.
Về phân công, phân cấp trong quản lý đội ngũ sĩ quan LLCSND mới chỉ dừng
lại ở ban hành thể chế, quyết định, hướng dẫn. Việc phân công, phân cấp trong quản lý
sĩ quan LLCSND như hiện nay, mặc dù đã thể hiện sự đổi mới, nhất là từ bắt đầu thực
hiện "ba xây" từ năm 2012, nhưng vẫn có hạn chế trong phát triển sĩ quan LLCSND
chuyên môn nghiệp vụ. Trong phạm vi quốc gia và phạm vi lĩnh vực cảnh sát, Đảng và
Nhà nước còn gặp khó khăn trong việc điều hòa nguồn nhân lực có chất lượng ở lĩnh
vực cảnh sát. Việc phân cấp cho An ninh địa phương có thẩm quyền điều động, bổ
nhiệm, miễn nhiệm, chuyển đổi vị trí công tác sĩ quan LLCSND cấp lãnh đạo, quản lý
cần có một văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể và rõ ràng để bịt các lỗ hổng.
Mặt khác, hiện nay luật pháp ban hành nhiều văn bản quy định trách nhiệm của người
đứng đầu khi xảy ra các vụ việc trong cơ quan được giao quản lý, phụ trách, nhưng
quyền hạn của người đứng đầu chưa được quy định hoặc nếu quy định thì cũng không
rõ ràng và đầy đủ, dẫn đến trong sử dụng và quản lý sĩ quan LLCSND là người đứng
đầu bị hạn chế về thẩm quyền, nhất là trong lựa chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, kỷ luật,
khen thưởng, đánh giá sĩ quan LLCSND, nhưng lại phải chịu trách nhiệm đối với các
sai phạm của LLCSND dưới quyền.
Chức năng của bộ máy quản lý sĩ quan LLCSND đang có hiện nay chưa rõ
ràng, hiệu quả hoạt động không cao. Không nắm được chiều hướng phát triển của đội
ngũ sĩ quan LLCSND. Riêng bộ máy làm công tác tổ chức và cán bộ vẫn gộp cả công
việc của Đảng và của Nhà nước, nên rất khó thực hiện đầy đủ chức năng của mình
trong hai "vai" ở một vị trí.
Hệ thống lưu trữ dữ liệu hồ sơ sĩ quan LLCSND rất lạc hậu, rất khó khăn trong
khai thác, tìm kiếm dữ liệu hồ sơ sĩ quan LLCSND để phục vụ công tác quản lý. Việc
kiểm tra, thanh tra công tác quản lý sĩ quan LLCSND vẫn chưa có quy định và cơ quan
phụ trách rõ ràng, nhất là thanh tra các vụ việc vi phạm những điều cấm, bí mật của
Nhà nước, nghĩa vụ sĩ quan LLCSND.
Tám là, việc thực hiện chế độ, chính sách, khen thưởng và kỷ luật đối với đội
ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào chưa sát, chưa kịp thời
Mặc dù đã có những cải tiến trong chế độ tiền lương và các chế độ đãi ngộ khác
99
đối với LLANND nói chung và sĩ quan LLCSND nói riêng, nhưng đến nay chính sách
tiền lương vẫn còn ít nếu so với mặt bằng chung của thị trường. Tiền lương sĩ quan
LLCSND còn thấp, chưa đủ trang trải cho các nhu cầu thiết yếu và chưa trở thành
nguồn thu nhập chính của sĩ quan LLCSND. Vai trò kích thích của tiền lương còn mờ
nhạt, sức ỳ của chủ nghĩa bình quân còn lớn trong chế độ tiền lương. Tiền lương có ý
nghĩa khuyến khích, động viên sĩ quan LLCSND làm việc hăng hái, sức thu hút, hấp
dẫn và "giữ chân" sĩ quan LLCSND và đối với việc phát triển sĩ quan LLCSND có chất
lượng cao còn thấp; chưa đủ mạnh để thu hút nhân tài tham gia vào lĩnh vực cảnh sát.
Tuy thời gian vài năm trở lại đây chính sách tiền lương sĩ quan LLCSND cũng đã có sự
cải cách, điều chỉnh đáng kể, nhưng cũng chưa thể góp phần làm giảm tình trạng tham
nhũng, tham ô, hối lộ, tiêu cực trong hàng ngũ sĩ quan LLCSND.
Công tác khen thưởng sĩ quan LLCSND trong thời gian qua thực hiện chưa tốt,
vẫn còn tình trạng khen thưởng bình quân, chưa đánh giá đúng thành tích của từng sĩ
quan LLCSND cống hiến thực tế để làm căn cứ cho khen thưởng.
Chế độ đãi ngộ, hỗ trợ sĩ quan LLCSND vẫn chưa có quy chế thực hiện và chưa
được quan tâm thỏa đáng, chủ yếu là phụ thuộc vào chế độ bảo hiểm xã hội chung, nên
không khuyến khích, động viên được sĩ quan LLCSND hăng hái làm việc và xuống
thực hiện nhiệm vụ vùng sâu, vùng xa giúp nhân dân giải quyết khó khăn, xoá đói giảm
nghèo cho dân, giải trừ các tệ nạn xã hội. Để xử lý kỷ luật còn thiếu văn bản quy phạm
pháp luật hướng dẫn cụ thể, cho nên việc thực hiện khó khăn, xử lý kỷ luật sĩ quan
LLCSND có lúc, có nơi không đúng.
3.2.2. Những vấn đề đặt ra
Từ thực tế những ưu điểm, hạn chế của đội ngũ sĩ quan LLCSND Lào có thể rút
ra một số vấn đề đặt ra cần quan tâm giải quyết để nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan
LLCSND Lào là:
Một là, nâng cao về nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng, nhất là
của đội ngũ cán bộ chủ trì về chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND là yêu cầu bức thiết.
Quá trình thực hiện đảm bảo chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND phụ thuộc
vào nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ
trì. Các tổ chức, lực lượng vừa người lãnh đạo, vừa là người trực tiếp thực hiện các nội
dung, hình thức, biện pháp để đảm bảo chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND, đồng thời
còn tạo môi trường thuận lợi để đội ngũ sĩ quan LLCSND phấn đấu trưởng thành về
mọi mặt. Trong đó, đội ngũ cán bộ chủ trì có vai trò quan trọng, là người đề xuất để cấp
100
uỷ, chi bộ quyết định những chủ trương, biện pháp, đồng thời cũng là người trực tiếp tổ
chức thực hiện và chịu trách nhiệm về chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND. Thực
tiễn cho thấy, ở cơ quan, đơn vị nào và khi nào các tổ chức, lực lượng và đội ngũ cán
bộ chủ trì trong Đảng bộ Tổng cục và các đơn vị có nhận thức đúng đắn, có trách
nhiệm đối với nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND thì ở đơn vị đó, khi đó
đội ngũ sĩ quan LLCSND có sự trưởng thành toàn diện, hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao. Ngược lại ở cơ quan, đơn vị nào mà các tổ chức, lực lượng, nhất là cấp uỷ,
chỉ huy, cán bộ chủ trì chưa nhận thức đầy đủ, xác định không tốt trách nhiệm trong
nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND thì ở đó kết quả thực hiện nhiệm vụ
của sĩ quan LLCSND bộc lộ nhiều hạn chế, khuyết điểm. Do vậy, phải coi trọng giáo
dục nâng cao nhận thức, xác định trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng, nhất là với
cấp uỷ, chi bộ, cán bộ chủ trì và đảm bảo chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND là
nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên.
Hai là, bám sát thực tiễn và đặc điểm nhiệm vụ để xác định đúng nội dung;
vận dụng linh hoạt, sáng tạo hình thức, biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ
quan LLCSND là yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định.
Hoạt động chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND là yêu cầu khách quan nhằm
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Bộ An ninh và Tổng cục Cảnh sát trong tình hình mới.
Quá trình thực hiện đảm bảo chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND, chỉ đạt được mục
đích, yêu cầu khi thấy hết những vấn đề thực tiễn đặt ra, thấy rõ yêu cầu nhiệm vụ
của từng cơ quan, đơn vị trong từng thời điểm cụ thể để từ đó vận dụng linh hoạt các
hình thức, biện pháp để quản lý, giáo dục, rèn luyện sĩ quan LLCSND. Thực tiễn cho
thấy, để đảm bảo chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND phải luôn bám sát nhiệm vụ
chính trị, tính chất đặc điểm của từng cơ quan, tổ chức, đơn vị và nhiệm vụ chức
trách của cán bộ, sĩ quan, đảng viên. Chú trọng đưa sĩ quan LLCSND vào trong hoạt
động thực tiễn thực hiện các nhiệm vụ chính trị của tổ chức, đơn vị. Nội dung, hình
thức, biện pháp thực hiện đảm bảo chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND phải dựa trên
nhiệm vụ chính trị của cơ quan, tổ chức, đơn vị để tiến hành cho phù hợp. Thông qua
quá trình thực hiện nhiệm vụ phát hiện những ưu điểm để phát huy, đồng thời phát
hiện những lệch lạc, yếu kém của sĩ quan LLCSND để uốn nắn sửa chữa tốt lên.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Cayxỏn PHÔMVIHÁN kính yêu,
được nhân dân hết lòng thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ, lực lượng An ninh nhân dân
đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách; đoàn kết, tận tụy trong công tác; dũng
101
cảm, mưu trí, sáng tạo trong chiến đấu, góp phần đánh thắng mọi âm mưu, hoạt động
chống phá tinh vi, xảo quyệt, thâm độc của các thế lực thù địch, phản động và các
loại tội phạm, bảo vệ vững chắc ANQG, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trong mọi tình
huống, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Thực tiễn hơn 57 năm LLANND khẳng định sự trưởng thành, sự lãnh đạo
sáng suốt, đúng đắn vào cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự và xây dựng
LLANND nói chung và trong sạch, vững mạnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được
giao. Ở mỗi giai đoạn cách mạng, căn cứ tình hình, mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ
chính trị của Đảng, Nhà nước, nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự của đất nước, Đảng
NDCM Lào luôn đề ra các chủ trương, định hướng xây dựng LLANND nói chung
và đội ngũ sĩ quan LLCSND nói riêng. Các quan điểm, chủ trương của Đảng về
công tác xây dựng LLANND và đội ngũ sĩ quan LLCSND liên tục được bổ sung,
phát triển phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ công tác bảo đảm an ninh quốc gia, giữ
gìn trật tự, an toàn xã hội của đất nước trong từng thời kỳ và được khẳng định qua
các kỳ Đại hội của Đảng.
Trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, đội ngũ sĩ quan LLCSND đều nỗ lực
vượt qua khó khăn, gian khổ, luôn nêu cao tinh thần tận tụy, sẵn sàng xả thân vì
nước, lấy lợi ích của Tổ quốc và nhân dân làm lý tưởng, mục tiêu cao nhất để phấn
đấu, đem hết sức lực, tài trí và cả tính mạng của mình để bảo vệ Đảng, Nhà nước,
chế độ XHCN, bảo vệ cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân, đóng góp
xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Lào XHCN.
Ba là, phát huy vai trò của các tổ chức, lực lượng trong thực hiện đảm bảo chất
lượng tốt đội ngũ sĩ quan LLCSND là khâu quản lý, phải hết sức coi trọng.
Vấn đề này được rút ra từ thực tiễn hoạt động của các cấp ủy, chi bộ ở Bộ An
ninh và Tổng cục Cảnh sát. Sự tham gia tích cực, trách nhiệm cao của các tổ chức, lực
lượng đã tạo ra môi trường thuận lợi để đảm bảo chất lượng quản lý, giáo dục, rèn
luyện, để tiến hành tốt công tác phát triển, kiểm tra, giám sát và sàng lọc sĩ quan
LLCSND. Các tổ chức, lực lượng theo phạm vi chức năng, tham gia vào việc quản lý
theo dõi, kiểm tra, kịp thời báo cáo với cấp ủy và phê bình sĩ quan LLCSND đã giúp
cho không ít sĩ quan LLCSND tránh được sai lầm, khuyết điểm. Đồng thời thông qua
các lực lượng mà cấp ủy, tổ chức đảng nắm chắc hiểu rõ những mạnh, yếu của sĩ quan
LLCSND để có chủ trương, biện pháp giáo dục, rèn luyện cho phù hợp.
102
Coi trọng phát vai trò của các tổ chức, lực lượng là cần xây dựng và thực hiện
nghiêm túc cơ chế tham gia xây dựng, thực hiện đảm bảo chất lượng đội ngũ sĩ quan
LLCSND. Phát huy vai trò trung tâm phối hợp hoạt động của các đảng uỷ trong Bộ An
ninh, Tổng cục Cảnh sát, các lực lượng tham gia xây dựng, thực hiện đảm bảo chất
lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND. Giữ vững và phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo nâng
cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND. Phối hợp chặt chẽ giữa các Đảng uỷ, các cơ
quan, tổ chức và đơn vị với hoạt động quản lý, điều hành, chỉ huy trong tổ chức cho đội
ngũ sĩ quan LLCSND chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; Nghị quyết, chỉ thị của cấp uỷ, lệnh của tổ chức trong công tác, trong củng cố
quốc phòng - an ninh ở địa bàn mà giao cho sĩ quan LLCSND phụ trách. Phối hợp chặt
chẽ giữa các tổ chức, lực lượng trong hệ thống chính trị trong quản lý, giáo dục, rèn
luyện đội ngũ sĩ quan LLCSND. Phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ sĩ
quan LLCSND trong tuyên truyền, vận động nhân dân, đoàn kết; tạo cơ chế cho nhân
dân trong kiểm tra, giám sát, quản lý, giáo dục mọi hoạt động của sĩ quan LLCSND ở
nơi cu trú để họ phấn đấu, rèn luyện và thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Phối hợp chặt chẽ giữa các Đảng uỷ Bộ An ninh, Tổng cục Cảnh sát với cơ
quan chức năng và cơ quan cấp trên trong lãnh đạo, chỉ đạo quản lý, giáo dục, rèn
luyện đội ngũ sĩ quan LLCSND. Các cơ quan, đơn vị của Bộ An ninh, Tổng cục Cảnh
sát cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát công tác thực hiện đảm bảo chất
lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND. Phát huy vai trò của các tổ chức, các phòng chức
năng làm công tác tổ chức và cán bộ của Bộ An ninh và Tổng cục Cảnh sát trong
hướng dẫn, kiểm tra các hoạt động nghiệp vụ quản lý, giáo dục, rèn luyện, sàng lọc,
phát triển đội ngũ sĩ quan LLCSND.
Bốn là, đề cao tinh thần năng động, sáng tạo và ý thức tự tu dưỡng, rèn
luyện nâng cao phẩm chất, năng lực, thực hiện tốt mọi nhiệm vụ được giao của sĩ
quan LLCSND ở các cấp, các cơ quan, đơn vị.
Chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND chỉ được đảm bảo không ngừng nâng cao
khi mỗi người sĩ quan LLCSND thực sự tự giác, có ý chí quyết tâm cao, có phương
pháp khoa học, năng động, sáng tạo trong tiếp nhận thông tin, tự quản lý, tự giáo dục,
tự rèn luyện mình. Vì vậy, các cấp ủy, chi bộ đã tập trung giáo dục nâng cao nhận thức
cho sĩ quan LLCSND, trang bị cho họ những vấn đề cơ bản về mục tiêu, phương
hướng, nội dung, biện pháp phấn đấu, rèn luyện, làm cho họ thấy được những ưu điểm,
hạn chế, nhận thức rõ tính tất yếu của quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện để đáp ứng sự
103
phát triển của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Sự thống nhất về nhận thức và
hành động của sĩ quan LLCSND về tự tu dưỡng, tự rèn luyện chính là cơ sở để nâng
cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND.
Đội ngũ sĩ quan LLCSND phải nhận thức đúng đắn về mục đích, lý tưởng của
Đảng, vị trí, vai trò, vinh dự, nhiệm vụ, trách nhiệm của người cán bộ, sĩ quan
LLCSND. Tuyệt đối trung thành với mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp
hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; Nghị quyết, chỉ thị của cấp uỷ; các điều lệnh của quân ngũ,
mệnh lệnh của chỉ huy... quyết tâm thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao; tuyệt
đối phục tùng sự phân công, điều động của cấp uỷ, của chỉ huy, lãnh đạo và tổ chức.
Tích cực, tự giác học tập, rèn luyện, không ngừng nâng cao phẩm chất chính trị, phẩm
chất đạo đức cách mạng, lối sống trong sạch, lành mạnh, không tham nhũng, trình độ
kiến thức năng lực công tác. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục
bộ, địa phương, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Chấp
hành nghiêm quy định của Đảng về những điều cán bộ, đảng viên không được làm,
chấp hành nghiêm nội quy của cơ quan, của người sĩ quan LLCSND. Thường xuyên
liên hệ chặt chẽ, mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân. Tích cực tham gia công tác nhân dân, công tác xã hội. Tiên phong, gương mẫu
trong phát triển kinh tế - xã hội, củng cố thế trận quốc phòng - an ninh ở mọi cương vị,
mọi vị trí công tác, thực sự là tấm gương sáng cho nhân dân noi theo. Tích cực, chủ
động tuyền truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trường,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tích cực và chủ động tham gia xây
dựng, bảo vệ đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Phục tùng
nghiêm kỷ luật của Đảng, kỷ luật của quân ngũ, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong
Đảng, trong cơ quan và đơn vị. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, chấp hành
nghiêm chỉnh các nguyên tắc, chế độ sinh hoạt Đảng, sinh hoạt đơn vị. Kiên quyết đấu
tranh chống “diễn biến hoà bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tiêu cực và các tệ nạn xã hội.
Bộ An ninh, Tổng cục Cảnh sát và các cấp uỷ phải tạo điều kiện thuận lợi cho sĩ
quan LLCSND được phấn đấu, rèn luyện và thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Thường xuyên giám sát, kiểm tra việc phấn đấu, rèn luyện của sĩ quan LLCSND; biểu
dương, khen thưởng kịp thời những sĩ quan LLCSND phấn đấu, rèn luyện tốt, hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ, xử lý nghiêm những sĩ quan LLCSND thoái hoá, biến chất, vi
104
phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của sĩ quan, quy chế của cơ
quan, đơn vị và không hoàn thành nhiệm vụ.
Năm là, cụ thể hóa chủ trương, đường lối và các quy định của Trung ương về
chất lượng đội ngũ cán bộ phù hợp với điều kiện cụ thể của Bộ An ninh và Tổng cục
Cảnh sát là hoạt động thường xuyên trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của các cấp.
Việc cụ thể hóa chủ trương, đường lối và các quy định của Trung ương về chất
lượng đội ngũ cán bộ vào điều kiện cụ thể Bộ An ninh và Tổng cục Cảnh sát là rất
quan trọng. Việc cụ thể hóa cần tập trung vào những vấn đề, những nội dung thiết thực
nhất, đồng thời bảo đảm tính toàn diện, cố gắng xây dựng những nội dung với những
tiêu chuẩn, tiêu chí có thể định lượng được, "đo đếm" được hoặc phải thể hiện bằng
những chuẩn, tiêu chí có thể nhận biết được, tránh tình trạng làm chung chung và trừu
tượng, khó khăn trong tổ chức thực hiện.
Để cụ thể hóa chủ trương, đường lối và các quy định của Trung ương về chất
lượng đội ngũ cán bộ vào điều kiện cụ thể của Bộ An ninh và Tổng cục Cảnh sát; cần
bổ sung, sửa đổi một số văn bản hiện hành của Đảng, Nhà nước như: Quy định rõ
trong Luật Lực lượng An ninh nhân dân, xây dựng một số Nghị định về nâng cao
chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND và v.v. Bổ sung, sửa đổi các quy định, hướng
dẫn của Trung ương về đánh giá chất lượng cán bộ, đảng viên theo hướng đảm bảo
đánh giá đúng thực chất. Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ trong Đảng, trong
đó có quy chế dân chủ trong tổ chức và hoạt động của tổ chức cơ sở đảng.
Thực hiện chế độ, chính sách đối với đội ngũ sĩ quan LLCSND. Cần có
hướng dẫn về khung số lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND và khung mức phụ cấp để
các cấp thực hiện thống nhất, phù hợp với tình hình, đặc điểm cụ thể của mỗi nơi.
Thực hiện chế độ phụ cấp trách nhiệm đối với đội ngũ sĩ quan LLCSND công tác ở
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Tiểu kết chương 3
Trong việc thực hiện đảm bảo chất lượng tốt đội ngũ sĩ quan LLCSND đến nay,
tuy còn có một số nội dung, một số điểm bất cập, song cơ cấu đội ngũ đã tương đối phù
hợp; đa số sĩ quan LLCSND có phẩm chất chính trị; đạo đức, lối sống tốt; trình độ và
năng lực đội ngũ đã có bước tiến quan trọng, tiếp thu và vận dụng được đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, chủ trương công tác của Bộ, của Tổng
cục Cảnh sát; kỹ năng lãnh đạo, chỉ huy, quản lý và chuyên môn nghiệp vụ đạt những
105
thành công bước đầu đáng kể; phong cách công tác khoa học hơn, biết phối hợp với
nhân dân trong công tác, góp phần vào sự phát triển lĩnh vực cảnh sát trong tiến trình
CNH, HĐH đất nước, hội nhập khu vực và quốc tế.
Hoạt động đảm bảo chất lượng tốt đội ngũ sĩ quan LLCSND trong những năm
qua đã được các cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị quan tâm nhằm làm
cho sĩ quan LLCSND thực sự đủ phẩm chất, năng lực công tác. Các văn bản quy định,
quy chế, hướng dẫn, chỉ đạo đã được Đảng ủy Bộ An ninh, Tổng cục Cảnh sát triển
khai các nội dung trong đảm bảo thực hiện tốt chất lượng sĩ quan LLCSND tương đối
hiệu quả; phương thức, quy trình nâng cao chất lượng sĩ quan LLCSND được thực hiện
một cách cơ bản là hợp lý. Bên cạnh đó, công tác nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan
LLCSND cũng còn nhiều bất cập, hạn chế như việc triển khai các nội dung quy định
của cấp trên về công tác cán bộ chưa được thực hiện, hình thức nâng cao chất lượng sĩ
quan LLCSND cũng không phong phú, hiệu quả không cao, nhiều nội dung đưa vào
chương trình nâng cao chất lượng sĩ quan LLCSND còn chung chung, trừu tượng,
không thống nhất, không sát với Bộ An ninh và Tổng cục Cảnh sát và không liên quan
đến công việc mà sĩ quan LLCSND đang thực hiện.
Nguyên nhân của thành tựu cũng như hạn chế, yếu kém của đảm bảo thực hiện
tốt chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND có nhiều, có cả nguyên nhân chủ quan,
nguyên nhân khách quan; có cả nguyên nhân về nhận thức, nguyên nhân trong tổ chức
thực hiện. Qua nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND trong những năm qua có
thể rút ra một số kinh nghiệm bước đầu về nâng cao nhận thức của các tổ chức đảng,
cán bộ, sĩ quan, lực lượng và các cơ quan liên quan, tầm quan trọng của việc cụ thể hóa
các chủ trương, đường lối, quy định của Đảng và Nhà nước về nâng cao chất lượng đội
ngũ sĩ quan LLCSND đáp ứng yêu cầu mới hiện nay.
Việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định, chế độ liên quan đến nâng
cao chất lượng đội ngũ LLANND nói chung và nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan
LLCSND nói riêng, việc chỉ đạo tập trung, thống nhất quá trình thực hiện, việc triển
khai một cách linh hoạt, sáng tạo trong tình hình cụ thể là nhiệm vụ cấp bách hiện nay
và thời gian tới để nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND có đủ phẩm chất và
năng lực trong thực hiện công tác.
106
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ SĨ QUAN LỰC LƯỢNG
CẢNH SÁT NHÂN DÂN, BỘ AN NINH NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ
NHÂN DÂN LÀO ĐẾN NĂM 2025
4.1. DỰ BÁO TÌNH HÌNH, PHƯƠNG HƯỚNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI
NGŨ SĨ QUAN LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN LÀO
4.1.1. Dự báo yếu tố tác động đến chất lượng và nâng cao chất lượng đội
ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào
4.1.1.1. Những thuận lợi
Một là, công cuộc đổi mới ở CHDCND Lào đã thu được những thành tựu to
lớn, tạo niềm tin và sự hăng hái phấn đấu của đội ngũ sĩ quan LLCSND.
Báo cáo chính trị trình bày tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng
NDCM Lào đã nhận định, đánh giá thành tựu 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của
Đảng là "to lớn, nhiều mặt và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng" [169, tr.28]. Trong những
năm qua, được sự đầu tư đáng kể về phát triển về kinh tế - xã hội, đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân các bộ tộc Lào không ngừng được cải thiện, nâng lên và đã thu
được những thành tựu to lớn; đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ sĩ quan LLCSND
nói riêng đã được cải thiện cả mặt vật chất lẫn tinh thần, điều đó đã tạo niềm tin vững
chắc cho đội ngũ sĩ quan LLCSND. Đại hội lần thứ X của Đảng đã khẳng định những
chỉ số quan trọng về kinh tế - xã hội và một lần khẳng định “đến năm 2020 có thể giải
quyết nghèo của nhân dân, đất nước ta sẽ thoát từ thực trạng kém phát triển và có tổng
giá trị sản phẩm quốc nội trung bình đầu người đạt khoảng 3.190 USD, tăng so với
năm 2015 là khoảng 1,6 lần” [173, tr.19-20].
Tiềm lực và vị thế quốc tế của nước CHDCND Lào được tăng cường. Sau hơn
30 năm đổi mới, Đảng NDCM Lào đã lãnh đạo nhân dân giành được những thành tựu
hết sức to lớn. Tăng trưởng kinh tế liên tục trong nhiều năm đạt trên 7%, được xếp vào
loại cao của thế giới. Đời sống vật chất được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người
năm 2014 đạt 1,725 USD/người. Nếu tính theo sức mua của đồng tiền thì con số đó lớn
hơn nhiều lần. Chỉ số phát triển con người (HDI) đã vươn lên thứ 101/192 quốc gia. Do
chính sách ngoại giao cởi mở, trên cơ sở độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, chủ
động hội nhập, phương châm "là bạn, là đối tác tin cậy của các nước", CHDCND Lào
đã đặt quan hệ ngoại giao với 167 nước và quan hệ thương mại với trên 100 quốc gia,
107
khu vực và vùng lãnh thổ thu hút đầu tư từ nước ngoài năm 2014 trên 956,714 triệu
USD. Vị thế quốc tế của CHDCND Lào được tăng cường.
Đảng NDCM Lào có bản lĩnh chính trị vững vàng, dày dạn kinh nghiệm;
đường lối đổi mới của Đảng đã được kiểm chứng qua thực tiễn là đúng đắn, được nhân
dân đồng tình ủng hộ. Nhân dân các bộ tộc Lào có truyền thống yêu nước, đoàn kết, tin
tưởng vào Đảng và chế độ; ngày càng thể hiện bản lĩnh năng động, sáng tạo trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lực lượng vũ trang cách mạng tuyệt đối trung
thành với Đảng, với Tổ quốc, nhân dân, vươn lên làm tròn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới và hội nhập quốc tế.
Hai là, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp, quy chế, quy định
về công tác cán bộ; Đại hội lần thứ X của Đảng cũng đã đề ra nhiều chủ trương mới mang
tính đột phá về xây dựng đội ngũ cán bộ, xây dựng đội ngũ LLCSND chính quy, hiện đại.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn chú trọng và quan tâm tới việc
xây dựng LLCSND nói chung và đội ngũ sĩ quan LLCSND nói riêng. Điều đó, là nhân
tố then chốt để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế - xã hội theo định
hướng XHCN; đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, hội nhập kinh tế, khu vực, quốc tế;
thực hiện thành công chương trình cải cách nền hành chính nhà nước và xây dựng đất
nước, góp phần ổn định hệ thống chính trị và chất lượng bộ máy nhà nước.
Thời gian qua Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp, quy chế,
quy định về công tác cán bộ, LLCSND và sĩ quan LLCSND. Sau khi Đại hội lần thứ X
của Đảng thành công trong đầu năm 2016, bầu cử Đại biểu quốc hội khóa VIII và lân đầu
tiên bầu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; Hiến pháp cũng đã sửa đổi 2015 và ban hành Luật
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh 2015; trong thời gian tới sẽ có nhiều chủ trương, chính sách,
quy định, pháp luật về công tác cán bộ, LLANND, LLCSND và sĩ quan LLCSND được
chỉnh sửa và ban hành nhằm xây dựng; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đội ngũ
LLANND, LLCSND nói chung và đội ngũ sĩ quan LLCSND nói riêng có bản lĩnh chính
trị vững vàng, có đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh, không quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi
mới, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước; có tinh thần đoàn kết, hợp tác, ý thức tổ chức kỷ luật cao và phong
cách làm việc khoa học, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân, dám nghĩ dám làm, dám
chịu trách nhiệm. Trong báo cáo chính trị trước Đại hội Đảng bộ Bộ An ninh lần thứ IV,
năm 2015 có đoạn viết: “Tăng cường kiện toàn, xây dựng LLANND vững vàng về chính trị,
mạnh về tổ chức và có kỹ sảo kỹ năng thuần thục về chuyên môn, nghiệp vụ” [159, tr.32].
108
Chương trình tổng thể cải cách nền hành chính nhà nước đến năm 2020 xác
định, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ là một trong bảy chương trình hành động
chiến lược góp phần xây dựng nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên
nghiệp, từng bước hiện đại, xây dựng bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu
quả. Như vậy, đặt ra yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND vừa có
phẩm chất đạo đức tốt, vừa có năng lực, trình độ chuyên môn cao, có kỹ năng quản lý,
vận hành bộ máy hành chính nhà nước Bộ An ninh và hệ thống tổ chức LLCSND để
thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước trên lĩnh vực phụ trách.
Ba là, Đảng ủy, lãnh đạo Bộ An ninh, Tổng cục Cảnh sát đã lãnh đạo thực hiện
khá tốt công tác cán bộ, công tác lực lượng và đã giành được những thành tựu cơ bản
quan trọng; tích lũy được một số kinh nghiệm trong xây dựng, nâng cao chất lượng đội
ngũ sĩ quan LLCSND.
Đảng ủy, lãnh đạo Bộ An ninh, Tổng cục Cảnh sát đã xác định công tác cán bộ,
công tác xây dựng lực lượng là khâu quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định tới chất
lượng và hiệu quả công việc được giao phụ trách, là khâu then chốt trong sự nghiệp
cách mạng, là một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào những thành công
trong sự nghiệp đổi mới đất nước, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và phát triển Bộ An
ninh và Tổng cục Cảnh sát. Để đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ chính trị được giao phó
thì việc làm tốt công tác cán bộ, công tác xây dựng lực lượng, hoạt động nâng cao chất
lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND là một trong những nhiệm vụ được Đảng ủy, lãnh đạo
Bộ, Tổng cục Cảnh sát quan tâm hàng đầu, trong đó việc thực hiện chế độ, vận dụng
chính sách hỗ trợ hợp lý nhằm khuyến khích, động viên sĩ quan LLCSND; thực hiện
tốt công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, phân loại, khen thưởng, kỷ luật
và đặc biệt là quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm để từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ
quan LLCSND, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các cơ quan, đơn vị, tổ
chức là công việc mang ý nghĩa hết sức quan trọng. Đảng ủy, lãnh đạo Bộ, Tổng cục
Cảnh sát đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác tổ chức và cán bộ trên một số mặt chủ
yếu: hoàn thiện chế độ, chính sách đối với đội ngũ sĩ quan LLCSND; hoàn thiện công
tác phân tích công việc, xác định vị trí việc làm và xây dựng khung năng lực đối với
các vị trí chức danh (tiêu chuẩn chức danh); xây dựng cơ chế thu hút, quy hoạch và sử
dụng sĩ quan LLCSND; gắn với quy hoạch là nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi
dưỡng sĩ quan LLCSND, nhất là Chương trình đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan LLCSND
chưa kinh qua ngành học chuyên môn, nghiệp vụ cảnh sát; hoàn thiện công tác kiểm
tra, đánh giá, khen thưởng và kỷ luật sĩ quan LLCSND; v.v..
109
Bốn là, đa số sĩ quan LLCSND quan tâm, có ý thức trách nhiệm đối với việc
nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND.
Có thể nói, nhìn một cách tổng quát, đội ngũ sĩ quan LLCSND đã có nhiều nỗ
lực trong học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; thích ứng nhanh với cơ
chế kinh tế thị trường, hội nhập khu vực, hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN và quốc
tế; đã có những đóng góp quan trọng, từng bước đưa kinh tế - xã hội của CHDCND
Lào ngày càng phát triển, mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân các bộ tộc Lào.
Trước yêu cầu CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng, đội ngũ sĩ quan
LLCSND đã quan tâm, có ý thức trách nhiệm nâng cao kiến thức, kỹ năng quản lý
hành chính; khả năng sử dụng tin học, ngoại ngữ trong hoạt động công vụ nhằm đáp
ứng với điều kiện bảo vệ vững chắc ANQG, bảo đảm trật tự an toàn xã hội; phòng và
chống các loại tội phạm xâm phạm trên các lĩnh vực, góp phần cho mọi thành phần
kinh tế phát triển ổn định, bền vững; xã hội, công dân có dân chủ, công bằng và có điều
kiện phát triển bản thân bền vững, làm cho đất nước Lào phát triển về các mặt sánh vai
với các nước nam châu.
4.1.1.2. Những khó khăn
Một là, đất nước còn trong tình trạng là nước kém phát triển, đang đứng trước
nhiều khó khăn, thách thức.
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào tiến hành công cuộc đổi mới từ năm 1986
(Đại hội lần thứ IV), đến nay là hơn 30 năm, nhưng cơ cấu kinh tế Lào vẫn chưa có gì
thay đổi lớn và mang tính đột phá. Đại hội Đảng NDCM Lào lần thứ X đã chỉ ra những
tồn tại về bộ mặt kinh tế của Lào là:
Kinh tế tuy đã tăng trưởng nhưng cơ sở kinh tế chưa vững chắc; kinh tế vĩ
mô chưa cân đối; còn dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên và xuất khẩu
nguyên liệu thô là chủ yếu, không tạo giá trị gia tăng cho sản phẩm một
cách đáng kể, nhiều trường hợp chưa đi theo hướng bền vững và không
thân thiện với môi trường. Cơ cấu kinh tế tuy có thay đổi nhưng việc sử
dụng khoa học, kỹ thuật - công nghệ vào sản xuất còn hạn chế, làm cho
năng suất thấp; việc tạo cơ sở cho CNH, HĐH trong nông nghiệp còn chậm
và hiệu quả không cao [173, tr.11].
Điều đó, cho thấy thành quả của công cuộc đổi mới hơn 30 năm qua là chưa
tương xứng và phải huy động mọi nguồn lực để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém
phát triển. Cơ cấu kinh tế không thay đổi lớn, vẫn theo hướng: nông lâm và ngư
nghiệp, du lịch và dịch vụ, công nghiệp và xây dựng. Đời sống nhân dân vẫn còn khó
khăn, sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn vẫn còn khoảng cách lớn.
110
Thách thức lớn nhất đối với an ninh trật tự ở CHDCND Lào là các mối đe dọa
(các nguy cơ): tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới; chệch hướng XHCN; nạn tham nhũng, các hiện tượng tiêu cực và tệ quan liêu;
"diễn biến hoà bình", “cách mạng màu”. Các mối đe dọa trên diễn biến đan xen phức
tạp, không thể xem nhẹ mối đe dọa nào.
Những yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị,
các vấn đề kinh tế, xã hội bức xúc, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, nếu không được
kịp thời khắc phục có hiệu quả sẽ là nguy cơ tiềm ẩn đối với an ninh trật tự của
CHDCND Lào.
Hoạt động "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch sẽ gia
tăng. Các thế lực phản động tiếp tục sử dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền để can
thiệp vào nội bộ của Lào. Các hành động xâm hại độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
CHDCND Lào vẫn sẽ tiếp diễn.
Các vấn đề nêu trên càng làm gia tăng khó khăn, thách thức và nhân dân càng
khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội, việc khoát khỏi tình trạng đói nghèo sẽ kéo
dài bớt lợi cho chương trình quốc gia về xóa nghèo năm 2020 của Đảng và Nhà nước.
Hai là, bên cạnh những kết quả đạt được, Bộ An ninh Lào và Tổng cục Cảnh sát
còn nhiều hạn chế, yếu kém; nhiệm vụ chính trị được giao phó trong những năm tới rất
nặng nề. Công tác bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, phòng và
chống các tệ nạn xã hội, tội phạm tuy theo hướng tốt lên nhưng vẫn chưa đạt mục tiêu
đã đề ra.
Về tình hình bảo vệ an ninh quốc gia:
Hoạt động chống phá của các tổ chức và các thế lực phản động nhằm cản trở
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước Lào cũng có những diễn biến rất phức tạp. Đó
là hoạt động của các tổ chức phản động của người Lào ở nước ngoài. Hiện nay có rất
nhiều tổ chức chính trị phản động người Lào lưu vong tại các nước tư bản núp dưới các
danh nghĩa khác nhau bao gồm các tổ chức phản động mang tính chính trị rõ nét, các tổ
chức tập hợp bọn ngụy quân, ngụy quyền, các tổ chức lợi dụng nhân quyền hoặc núp
dưới các danh nghĩa “từ thiện, tôn giáo”. Hầu hết các tổ chức phản động lưu vong đó
đều kêu gọi các nước cấm vận, trừng phạt CHDCND Lào bằng mọi thủ đoạn, chúng lợi
dụng khó khăn, thiếu sót trong quản lí của CHDCND Lào để thực hiện kế hoạch
“chuyển lửa về quê” đưa ra các lời kêu gọi lật đổ và tiếp tay, kích động cho các hoạt
động của bọn phản động trong nước.
111
Các thế lực thù địch cũng không từ bỏ ý đồ mục đích chống phá cách mạng Lào
với nhiều âm mưu, phương thức, thủ đoạn hết sức thâm độc, trong đó nổi bật là hoạt
động diễn biến hoà bình với 3 nội dung chủ yếu là: chiếm lĩnh thị trường ngoại giao
hữu nghị và khoét sâu mâu thuẫn mà mục đích chính là xoá bỏ CHDCND Lào, làm suy
yếu từ bên trong đi đến thôn tính CHDCND Lào. Hoạt động của các tổ chức phản động
nội địa như các tổ chức phản động lợi dụng tôn giáo, lợi dụng dân tộc và số cơ hội bất
mãn trong những năm qua cũng diễn biến khá phức tạp. Một số đối tượng bất mãn viết
tin tài liệu nói xấu chống lại Đảng và Nhà nước Lào, đòi thay đổi đường lối rồi tán phát
qua mạng internet hoặc phổ biến thông qua các cuộc gặp gỡ với các phóng viên báo chí
nước ngoài. Có những đối tượng chống đối điên cuồng, quyết liệt.
Tình hình an ninh văn hoá tư tưởng, an ninh kinh tế trong những năm qua cũng
có nhiều phức tạp. Tình hình an ninh biên giới còn nhiều phức tạp, các vụ xâm nhập
qua biên giới diễn ra với nhiều hình thức, hoạt động xuất nhập cảnh cũng có nhiều
thiếu sót dẫn đến tình trạng nhập cảnh trái phép, nhất là các khu vực giáp biên.
Tình hình về ANQG trong những năm qua nổi lên những vấn đề khá phức tạp
và nhạy cảm. Đó chính là những yếu tố có thể gây ra tình hình mất ổn định, ảnh hưởng
đến sự an nguy của quốc gia, vì vậy Đảng và Nhà nước ta đã xác định bảo vệ ANQG là
nhiệm vụ cực kì quan trọng của toàn Đảng, toàn dân Lào.
Về bảo đảm trật tự an toàn xã hội:
Trong những năm qua, CHDCND Lào đã đạt được những thành tựu đáng kể về
công tác giữ gìn trật tự xã hội. Tuy nhiên, tình hình trật tự, an toàn xã hội vẫn còn rất
nhiều vấn đề phức tạp, thậm chí có lúc, có nơi còn để xảy ra rất nghiêm trọng. Trật tự,
an toàn xã hội thời gian qua có những nét nổi bật sau:
Tình hình tội phạm xâm phạm trật tự xã hội: Tội phạm kinh tế, tội phạm ma tuý
trong những năm qua có những diễn biến rất phức tạp.
Số vụ phạm tội hàng năm bị phát hiện có sự tăng giảm không đều trong đó các
vụ trọng án có chiều hướng tăng. Hàng năm có các vụ phạm tội được phát hiện trong
đó các vụ án giết người, giết cướp, cướp tài sản, cướp giật, hiếp giết có xu hướng tăng.
Trong các vụ án giết người thì nguyên nhân chủ yếu là nguyên nhân xã hội.
Các loại tội phạm xâm phạm trật tự, an toàn xã hội ngày càng có xu hướng
chuẩn bị trước, tình hình băng ổ nhóm và hiện tại các băng nhóm tội phạm câu kết với
nhau tạo thành những tổ chức tội phạm rất nguy hiểm gây nhức nhối, bức xúc cho xã
hội, cho nhân dân.
Các loại tội phạm hình sự khác như bọn đâm thuê, chém mướn, trả thù cá nhân
bằng bom thư, bom mìn hoặc tạt axít hoặc giật túy hoặc cướp xe các loại trong những
112
năm qua cũng rất đa dạng và là một nỗi nhức nhối của xã hội. Loại tội phạm này hoạt
động rất manh động, bất chấp hậu quả gây ra cho dù người bị hại có thể không phải là
người mà chúng cần trả thù, có những vụ tính chất đặc biệt nghiêm trọng, các vụ bắt
cóc nhằm tống tiền cũng có chiều hướng tăng. Bọn tội phạm nhằm vào các gia đình
giàu có rồi bắt cóc đòi tiền chuộc, có vụ chúng đòi tiền chuộc lên đến vài trăm triệu. Có
thể thấy rằng, tội phạm hình sự hoạt động ngày càng táo bạo, manh động, chúng sử
dụng đủ các loại hung khí, kể cả vũ khí nóng như súng. Đối tượng phạm tội rất đa
dạng, đủ các loại người, có cả lưu manh cũng như nông dân, cán bộ, đảng viên, trí thức,
sinh viên. Trong đó đáng lo ngại là các vụ trả thù cá nhân do mâu thuẫn nội bộ rồi đi
thuê giang hồ xã hội đen trả thù. Thủ đoạn gây án của bọn tội phạm hình sự rất đa
dạng, từ những thủ đoạn đơn giản cổ điển nhưng hiệu quả như “vãi thóc gọi gà” của
bọn lừa đảo đến những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của bọn giết người dùng các loại
độc chất khó phát hiện.
Địa bàn hoạt động, tội phạm xâm phạm trật tự xã hội xảy ra ở tất cả các địa bàn
trong cả nước nhưng tập trung vào các thành phố lớn như thành phố Viêng Chăn, Sạ
Vẳn Nạ Khệt, Chăm Pa Sắc,... Các loại án kinh tế, số vụ có xu hướng tăng và quy mô,
tính chất rất nghiêm trọng, trong đó nổi lên những vụ chiếm đoạt thuế VAT, các vụ
tham ô với số tiền bị chiếm đoạt lên tới hàng ngàn tỉ kíp. Điển hình như các vụ dự án
ma tuý tỉnh Ụ Đốm Xay... đối tượng phạm tội kinh tế cho thấy hầu hết có sự liên kết
với nhau. Đây cũng là một đặc điểm của loại tội phạm này. Vì thế, việc điều tra, khám
phá gặp rất nhiều khó khăn. Loại tội phạm loại này thường có sự “bọc lót”, “che chắn”
cho nhau, tài sản bị mất là tài sản nhà nước nên ý thức tự giác đấu tranh của công dân
tại những cơ quan, doanh nghiệp này chưa cao, đây cũng là lí do giải thích tại sao công
tác điều tra, thanh tra chưa đạt hiệu quả cao. Các lĩnh vực xảy ra tội phạm kinh tế
thường có ở các ngành kinh tế như xây dựng cơ bản, ngân hàng, đầu tư, xuất nhập
khẩu. Tình trạng buôn lậu trốn thuế trong những năm qua vẫn chưa giảm đáng kể,
chúng được thực hiện cả ở vùng cửa khẩu biên giới, trên mặt nước (sông Mê Kông),
trên các tuyến vận chuyển, kể cả các tuyến hàng không. Mặt hàng buôn lậu đa dạng
chủng loại từ vải vóc, máy móc đến điện thoại di động, thuốc chữa bệnh. Trong tình
hình hiện nay, buôn lậu xảy ra phức tạp nhất ở các địa bàn trọng điểm như thành phố
dọc bờ sông Mê Kông (biên giới Lào - Thái Lan), biên giới Việt Nam - Lào, Lào -
Trung quốc. Tội phạm kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng không chỉ về vật chất, mà còn
làm mất đi cả một bộ phận cán bộ, đảng viên gây ảnh hưởng xấu về chính trị, xã hội, có
những vụ được coi là giặc nội xâm (vụ án dự án ma tuý tỉnh Ụ Đốm Xay).
113
Trong các năm qua, CHDCND Lào đã đấu tranh quyết liệt với tội phạm về ma
tuý, việc thực hiện chương trình quốc gia về phòng chống ma tuý mặc dù đã đạt được
những kết quả rất to lớn, nhưng tội phạm ma tuý vẫn chưa giảm cơ bản, thậm chí còn
xảy ra rất nghiêm trọng. Lào đã phát hiện, xử lí hàng chục nghìn vụ buôn lậu, tàng trữ,
vận chuyển trái phép chất ma tuý, có những vụ rất lớn. Những năm gần đây, các Toà án
đã tuyên án tử hình hàng trăm tên tội phạm ma tuý nhưng tội phạm ma tuý vẫn xảy ra
rất nghiêm trọng.
Thủ đoạn hoạt động của bọn tội phạm ma tuý ngày càng tinh vi, xảo quyệt.
Chúng sẵn sàng chống trả quyết liệt với các lực lượng đấu tranh, đã có nhiều cán bộ,
chiến sĩ hi sinh trong đấu tranh với loại tội phạm này. Địa bàn hoạt động của loại tội
phạm này tập trung ở các tỉnh bắc Lào, các tỉnh có đường biên giáp với Thái Lan, Việt
Nam, Myanma và Trung Quốc. Các băng, nhóm, tổ chức tội phạm ma tuý thường có
sự liên kết với nhau cả trong nước lẫn quốc tế, quy mô, tính chất ngày càng lớn và ác
liệt. Chúng không từ một thủ đoạn tàn bạo nào, kể cả sử dụng trẻ em, con cháu để đưa
vào con đường phạm tội, lợi dụng mọi phương tiện để vận chuyển trên một diện rộng
nên công tác phát hiện, đấu tranh gặp nhiều khó khăn.
Tình hình về tệ nạn xã hội, tai nạn và ô nhiễm môi trường. Tình hình về tệ nạn
xã hội, tai nạn, ô nhiễm môi trường trong thời gian qua xảy ra rất phức tạp, thậm chí rất
nghiêm trọng.
Tệ nạn xã hội là một hiện tượng xã hội tiêu cực gây ra những hậu quả vô cùng
to lớn. Nó còn là bạn đồng hành, là sân sau của các loại tội phạm. Trong những năm
qua, các loại tệ nạn ở CHDCND Lào vẫn chưa giảm, thậm chí có loại còn tăng như mại
dâm, cờ bạc, nghiện hút... Tệ nạn xã hội diễn ra ở hầu hết tất cả các địa phương trong
cả nước, nó có một số đặc điểm sau: Tệ nạn xã hội mang tính phổ biến; tệ nạn xã hội
mang tính lây lan rất nhanh, tệ nạn xã hội có quan hệ chặt chẽ với tội phạm. Hậu quả
do tệ nạn xã hội gây ra ảnh hưởng lớn đến hạnh phúc gia đình, xã hội và nó còn là một
trong những nguyên nhân dẫn đến căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS, bệnh truyền nhiễm khó
chữa khác cho xã hội. Đối tượng tham gia tệ nạn đủ các lứa tuổi, giới tính. Mặc dù
Đảng, Nhà nước Lào đã ban hành nhiều loại văn bản pháp luật về phòng chống tệ nạn,
công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn đã được toàn dân và các cơ quan chức năng
tích cực tham gia, tuy nhiên hiệu quả còn thấp. Vì vậy, trong những năm tới cần phải
đẩy mạnh hơn nữa, kiên quyết hơn nữa.
Cùng với tệ nạn xã hội, tình trạng tai nạn giao thông, tai nạn lao động, tai nạn
nghề nghiệp rủi ro xảy ra rất nghiêm trọng và có chiều hướng gia tăng. Trong các loại
114
tai nạn thì tai nạn giao thông chiếm tỉ lệ cao nhất, các vụ tai nạn giao thông đường bộ,
đường sắt, đường thuỷ hàng năm cướp đi sinh mạng của hàng chục nghìn người và
hàng trăm nghìn người trở thành phế nhân, tài sản bị hư hỏng rất nghiêm trọng.
Nguyên nhân của các vụ tai nạn giao thông có rất nhiều như: do số lượng phương tiện
giao thông tăng rất nhanh, nhất là ô tô, xe máy. Bên cạnh đó, việc xử lí những vi
phạm trật tự, an toàn giao thông còn nhiều bất cập. Mặc dù đã có Luật Giao thông
đường bộ. Những vụ tai nạn lao động, tai nạn nghề nghiệp, rủi ro, các vụ cháy nổ
trong những năm qua xảy ra cũng hết sức lo ngại. Đã có nhiều vụ sập nhà khi đang
xây dựng, sập hầm lò và đặc biệt là tình hình cháy nổ xảy ra ngày càng tăng. Vấn đề
ô nhiễm môi trường cũng đáng báo động. Tình trạng chặt phá rừng đầu nguồn bừa
bãi, dẫn đến ô nhiễm gây lũ lụt, hạn hán; ô nhiễm nguồn nước rất cao, việc không
đảm bảo nước sạch, vệ sinh an toàn thực phẩm cộng với các dịch cúm gà, lở mồm
long móng lây lan gây nên tình trạng nhiễm bệnh rất lớn, bên cạnh đó là hàng nghìn
vụ ngộ độc thức ăn, có những vụ ngộ độc tập thể gây nguy hiểm tính mạng cho cả
hàng trăm người.
Tình hình về trật tự, an toàn xã hội trong những năm qua đã và đang là vấn đề
nóng bỏng, bức xúc mà Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào phải quyết tâm khắc phục,
giải quyết. Trên cơ sở đó, CHDCND Lào mới giữ vững được trật tự, an toàn xã hội
cùng với bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia góp phần ổn định tình hình, làm nền tảng
cho sự phát triển của đất nước.
Mặt trái của kinh tế thị trường, hội nhập, những tiêu cực trong Đảng, Nhà nước
và trong xã hội tác động vào đội ngũ sĩ quan LLCSND; các thế lực thù địch tiếp tục
thực hiện âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" đối với đội ngũ sĩ quan LLCSND.
Các thế lực thù địch lợi dụng mặt trái của kinh tế thị trường tiếp tục thực hiện
âm mưu, thủ đoạn tấn công "diễn biến hòa bình" đối với đội ngũ sĩ quan LLANND nói
chung và đội ngũ sĩ quan LLCSND nói riêng, hòng làm yếu lực lượng vũ trang quan
trọng của Đảng và Nhà nước. Việc kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận sĩ quan LLCSND;
ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; tích
cực chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm
mưu, hoạt động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch, chủ động, kịp thời ngăn
chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch là vấn đề cấp bách,
nhưng cũng còn là thách thức lớn trong công tác sĩ quan LLCSND.
115
4.1.2. Phương hướng nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh
sát nhân dân Lào đến năm 2025
Cùng với việc tăng cường công tác quốc phòng - an ninh, công tác giữ gìn ổn
định chính trị, giữ gìn an toàn xã hội ở các mặt. Để nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan
LLCSND Lào đạt chuẩn trong thời gian tới cần tập trung những công tác liên quan sau:
Một là, giữ gìn ổn định chính trị và đảm bảo trật tự an toàn xã hội.
Về công tác giữ gìn ổn định chính trị
Tăng cường chỉ đạo - lãnh đạo của cấp uỷ các cấp đối với công tác đấu tranh
triệt phá mọi hoạt động âm mưu phá hoại của địch đối với đất nước; nghiên cứu giải
pháp và biện pháp đối phòng chống kịp thời; đấu tranh triệt phá mọi mọi hoạt động của
các thế lực thù địch hòng chuyển hoá về chính trị ở Lào.
Về công tác giữ gìn trật tự an toàn xã hội
Tiếp tục quán triệt và tổ chức thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 22/BBT về việc tăng
cường công tác phòng chống và giải quyết vấn đề ma tuý; Chỉ thị số 27/TTg về việc
phòng chống và giải quyết các hiện tượng tiêu cực trong xã hội và các quy định pháp
chế khác. Nghiên cứu sử dụng biên pháp hợp lý để phòng chống và giải quyết các hiện
tượng tiêu cực trong xã hội: Ma tuý, mua bán người, tội phạm kinh tế, trật tự giao
thông, phòng cháy chữa cháy...
Hai là, kiện toàn, xây dựng lượng an ninh nhân dân, xây dựng Đảng, xây dựng
cán bộ vững về mạnh mọi mặt, vững vàng về chính trị tư tưởng, vững mạnh về tổ chức,
có trình độ, có kỹ năng thuần thục về chuyên môn, nghiệp vụ.
Về chính trị tư tưởng:
Tăng cường công tác giáo dục chính trị tưởng cho cán bộ, chiến sĩ có phẩm chất
chính trị, quan điểm giai cấp công nhân, trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Tích cực giáo dục truyền thống cách mạng, 4 nhiệm vụ và 4 quan hệ của lực lượng gắn
với phòng trào thi đua “yêu nước và phát triển”.
Về công tác xây dựng Đảng:
Xây dụng Đảng vững vàng về chính trị tư tưởng, vững mạnh về tổ chức và thực
hiện đúng nguyên tắc; thúc đẩy phòng trào xây dựng đơn vị mạnh - chi bộ biết lãnh đạo
mọi mặt, đồng thời làm tốt công tác phát triển đảng viên đảm bảo tuyển chọn những
người ưu tú từ phòng trào thực tiễn.
Về công tác cán bộ:
Tập trung vào việc cụ thể hoá tiêu chuẩn chức danh và công tác đánh giá sĩ quan
LLCSND của các cơ quan, đơn vị chiến đấu thuộc Tổng cục Cảnh sát, An ninh tỉnh và
116
An ninh huyện làm cơ sở thực hiện tốt các khâu của công tác cán bộ để nâng cao chất
lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND theo mục tiêu đề ra. Quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ các cấp, các loại, các đơn vị theo yêu cầu chính trị của Đảng, của Lực lượng Cảnh
sát trong thời kỳ mới, chú trọng công tác tuyển chọn đội ngũ sĩ quan LLCSND đi học,
nghiên cứu trong và ngoài nước đủ tiêu chuẩn quy định; sắp xếp, bố trí đội ngũ sĩ quan
LLCSND bảo đảm đúng với chuyên môn nghiệp vụ. Đổi mới mạnh mẽ, triển khai
đồng bộ các khâu công tác cán bộ: đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân
chuyển, bố trí, sử dụng và chế độ chính sách đãi ngộ đội ngũ sĩ quan LLCSND. Đồng
thời tăng cường dân chủ trong cấp uỷ, các cơ quan, đơn vị trong công tác cán bộ để
nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND.
Ba là, cấp uỷ, cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu các cơ quan, tổ
chức, đơn vị phải nhận thức rõ, đúng về công tác cán bộ và nâng cao chất lượng đội
ngũ sĩ quan LLCSND theo quan điểm của Đảng.
Bốn là, cấp uỷ và cơ quan có thẩm quyền rà soát, sửa đổi, bổ sung và xây dựng
mới các văn bản pháp quy về công tác xây dựng Đảng, công tác cán bộ, công tác quản
lý an ninh, trật tự rõ ràng, chặt chẽ, phù hợp với điều kiện, tình hình thực tế trong nước,
quốc tế và xu thế hội nhập giai đoạn hiện nay để làm căn cứ quan trọng trong nâng cao
chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND.
Năm là, chủ động, tích cực thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng, mở rộng
quan hệ, hợp tác, giao lưu, học hỏi và trao đổi kinh nghiệm với các cơ quan Cảnh sát
của các nước trong khu vực và quốc tế.
4.2. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ SĨ QUAN
LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN LÀO ĐẾN NĂM 2025
4.2.1. Tạo sự chuyển biến về nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy và Bộ
Tư lệnh (Ban Chỉ huy) Tổng cục Cảnh sát về nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan
lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào
Quán triệt tầm quan trọng của chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND cần nhận
thức đầy đủ nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND là công việc hệ trọng, mang
tính đột phá, có tác động lớn đến chất lượng công tác, chất lượng tổ chức, đơn vị và sự
phát triển của lĩnh vực phụ trách; là một hoạt động có tính tổ chức, là trách nhiệm và
quyền hạn của các cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, của những cá nhân có liên quan. Đây là
một việc khó, phức tạp, đòi hỏi phải có sự quyết tâm trong hành động cao. Để thực
hiện tốt, trước hết cần có sự thống nhất về nhận thức, sự nhất trí cao trong chủ trương,
nhiệm vụ, giải pháp và biện pháp thực hiện.
117
Từ những thành tựu và những hạn chế của công tác nâng cao chất lượng đội ngũ
sĩ quan LLCSND trong thời gian qua có thể thấy, việc đầu tiên cần thiết, cấp bách nhất,
đột phá nhất là phải nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy, có sự nhất trí, quyết tâm cao
trong công tác nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND; đồng thời, phải khẳng
định là trách nhiệm trung tâm, hàng đầu của cấp ủy các cấp của Bộ An ninh và Tổng
cục Cảnh sát trong công tác nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND tương xứng
với yêu cầu mới của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế.
Các quan điểm, phương châm, giải pháp đổi mới công tác nâng cao chất lượng
đội ngũ sĩ quan LLCSND từng bước được định hình, được cụ thể hóa bằng hệ thống
thể chế, quy chế, quy định. Điều đó, thể hiện sự phát triển rất quan trọng về tư duy,
nhận thức của Đảng, Nhà nước và Bộ An ninh; Tổng cục Cảnh sát trong công tác cán
bộ, công tác xây dựng LLCSND những năm gần đây. Trên thực tế, công tác nâng cao
chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND đã từng bước đi vào nền nếp, thành hệ thống
đồng bộ được các cấp ủy đảng, các tổ chức trên toàn ngành quan tâm và được đông đảo
sĩ quan LLCSND đồng tình ủng hộ, tích cực tham gia. Tuy nhiên, bên cạnh những
bước tiến quan trọng, đội ngũ sĩ quan LLCSND đang bộc lộ nhiều yếu kém, chưa đạt
được yêu cầu so với đòi hỏi của thời kỳ mới. Những khó khăn, thách thức và những
lệch lạc dần dần xuất hiện, bộc lộ rõ chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND trong thời
gian qua vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập. Một phần là do nhận thức
chưa đúng và thiếu trách nhiệm của các cấp ủy tổ chức, đơn vị và lãnh đạo các cấp của
Bộ An ninh và Tổng cục Cảnh sát.
Sự nhận thức đúng vai trò, ý nghĩa của công tác nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ
quan LLCSND là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt to lớn, mang tính đột phá. Chỉ có làm tốt
vấn đề này mới thật sự chủ động, tự giác, sáng tạo, phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả tất
cả các khâu và đó cũng là điều kiện tiên quyết để làm tốt công tác tổ chức, cán bộ, giúp
cấp ủy đảng và lãnh đạo các tổ chức, đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Đảng và
Nhà nước giao phó.
Hiện nay, trong nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND, trọng tâm là
nâng cao phẩm chất đạo đức, lối sống, hiệu quả công tác thực tế, kỹ năng quản lý hành
chính nhà nước; chú trọng sĩ quan LLCSND nằm trong diện quy hoạch, trước khi bổ
nhiệm, bổ nhiệm lại, nhận công tác mới, luân chuyển và điều động.
Phải biến những nhận thức đó thành trách nhiệm chính trị của các cấp ủy và
lãnh đạo, chỉ huy các cấp, các đơn vị, coi việc nâng cao chất lượng sĩ quan LLCSND là
118
trọng điểm, là nhiệm vụ trước mắt, lâu dài và thường xuyên của công tác tổ chức, cán
bộ, xây dựng LLCSND hiện nay, là nhiệm vụ trung tâm trong đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng với lĩnh vực cảnh sát, là tiêu chuẩn đánh giá năng lực lãnh đạo của
các cấp ủy, tổ chức đảng trong lĩnh vực cảnh sát.
Muốn vậy, trong sinh hoạt Đảng, cấp ủy các cấp của Bộ, Tổng cục Cảnh sát
phải đưa nội dung về nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND vào bàn bạc,
thảo luận kỹ lưỡng, đánh giá đúng thực trạng đội ngũ đó; xác định đúng và rõ mục
tiêu, phương hướng và nhiệm vụ nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND;
phân công, xác định rõ trách nhiệm của các tập thể, cá nhân, nhất là của những người
đứng đầu cấp ủy, cơ quan, trong công tác nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan
LLCSND. Bộ, Tổng cục Cảnh sát cần nghiên cứu, quán triệt các nghị quyết của
Trung ương về phát triển nguồn nhân lực quốc gia; nhất là các nghị quyết Đại hội IX
và X của Đảng và nhận thức đúng tầm quan trọng hàng đầu, tính khoa học của các
nghị quyết, xuất phát từ những vấn đề đó để chỉ đạo xây dựng, ban hành các nghị
quyết chuyên đề, chiến lược, kế hoạch hành động cụ thể, phân công trách nhiệm rõ
ràng đối với từng công việc trong công tác cán bộ, công tác nâng cao chất lượng đội
ngũ sĩ quan LLCSND.
Trên cơ sở các nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước, phải từng bước
thể chế hóa, quy chế hóa, quy định hóa, xây dựng đồng bộ, cơ bản các quy chế, quy
định về công tác nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND đáp ứng yêu cầu phát
triển và hội nhập. Trước mắt, ngay sau Đại hội lần thứ X của Đảng, Đảng ủy và lãnh
đạo Bộ An ninh, Tổng cục Cảnh sát cần chỉ đạo xây dựng và ban hành Chiến lược cán
bộ, chiến lược xây dựng LLCSND và chiến lược nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan
LLCSND cho từng giai đoạn 2020, 2025 và có tầm nhìn đến năm 2030.
Đảng ủy Bộ, Tổng cục Cảnh sát tổ chức sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn
Đảng bộ về công tác cán bộ, tập trung nghiên cứu các quan điểm, chủ trương của Đại
hội X Đảng, của nghị quyết Đại hội Đảng bộ Bộ An ninh nhiệm kỳ 2015-2020 về công
tác cán bộ, làm cho mọi cấp ủy viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý, chỉ huy các cấp và đội
ngũ LLANND, đội ngũ sĩ quan LLCSND thuộc mọi tổ chức và đơn vị nhận thức đầy
đủ, sâu sắc các nội dung đó, xác định đúng trách nhiệm của mình trong tham gia nâng
cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND.
Nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND có nội dung rất rộng và liên
quan với nhiều ngành, nhiều tổ chức. Trong bối cảnh tăng cường bảo đảm an ninh,
trật tự an toàn xã hội của đất nước vững chắc gắn với hội nhập khu vực, quốc tế diễn
119
ra mạnh mẽ và yêu cầu xây dựng nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh,
chuyên nghiệp, hiện đại hóa; sĩ quan LLCSND không chỉ có văn bằng, những kinh
nghiệm từ thực tiễn mà tính hình mới đòi hỏi họ nắm bắt được những tri thức, kinh
nghiệm tiên tiến để vận dụng vào thực tế công tác, đồng thời xử lý tốt những tình
huống mà thách thức của mặt trái kinh tế thị trường, quá trình hội nhập khu vực, quốc
tế đặt ra. Bởi vậy, cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính
phủ, Ban Tổ chức Trung ương; tăng cường sự phối hợp với các ngành và cấp ủy,
chính quyền địa phương để nhận thức rõ, biết rõ trách nhiệm trong công tác nâng cao
chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND. Muốn làm tốt nội dung này thì cần tập trung
vào những vấn đề sau đây:
Xây dựng những chương trình phối hợp dài hạn và ngắn hạn với các ngành về
nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND. Trước mắt, Bộ An ninh, Tổng cục
cảnh sát phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương, Học viện Chính trị và Hành chính
quốc gia Lào xây dựng một số chương trình đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan LLCSND
đang áp dụng tại Học viện và tại các trường chính trị và hành chính tỉnh. Bộ An ninh
phối hợp với Bộ Ngoại giao xây dựng đề án hợp tác quốc tế giữa Bộ An ninh Lào với
một số đối tác nước ngoài, tổ chức quốc tế để đưa sĩ quan LLCSND đi nghiên cứu, học
tập ở nước ngoài.
Xây dựng quy chế phối hợp giữa Bộ An ninh Lào với chính quyền địa phương
trong công tác nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND ở địa phương, trong đó
phân công trách nhiệm rõ ràng của Bộ và trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền tỉnh,
thành phố, huyện trong xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND về
các mặt phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn, thực tiễn và xây dựng cơ sở.
Lựa chọn trọng tâm, trọng điểm các nhóm đối tượng sĩ quan LLCSND để có
chương trình phối hợp về nâng cao chất lượng, nhất là ngành, lĩnh vực đang cần
chuyên gia, chuyên viên cao cấp phục vụ cho lĩnh vực CSND.
4.2.2. Bổ sung, hoàn thiện tiêu chuẩn chức danh sĩ quan Cảnh sát nhân
dân; các quy chế, quy trình quản lý, tuyển chọn, sử dụng đội ngũ sĩ quan lực
lượng Cảnh sát nhân dân Lào
4.2.2.1. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện tiêu chuẩn chức danh đội ngũ sĩ quan
lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào
Tiêu chuẩn chức danh đội ngũ sĩ quan LLCSND là quy định quan trọng làm căn
cứ để xem xét đánh giá, phân loại, bổ nhiệm, luân chuyển, thuyên chuyển, điều động,
cất nhắc, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và thực hiện chế độ chính sách đối với sĩ quan
120
LLCSND. Tiêu chuẩn sĩ quan LLCSND là hệ thống các yếu tố của người sĩ quan
LLCSND gồm tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn riêng.
Một là, tiêu chuẩn chung
- Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và CNXH, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính
sách và pháp luật của Nhà nước;
- Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Không tham nhũng và kiên quyết đấu
tranh chống tham nhũng; có ý thức kỷ luật. Trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết
với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm;
- Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực
và sức khỏe để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
Hai là, tiêu chuẩn riêng
Đối với cán bộ cấp thứ trưởng và tương đương trở lên:
- Có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, tuyệt
đối trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng đạo
đức cách mạng của Chủ tịch Cayxỏn PHÔMVIHÁN. Có năng lực dự báo và định
hướng sự phát triển, tổng kết thực tiễn, tham gia xây dựng đường lối, chính sách, pháp
luật; thuyết phục và tổ chức nhân dân thực hiện. Có ý thức và khả năng đấu tranh bảo
vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước;
Gương mẫu về đạo đức, lối sống. Có tác phong công tác dân chủ, khoa học; có
khả năng tập hợp đoàn kết quần chúng, đoàn kết cán bộ;
- Có kiến thức về khoa học lãnh đạo và quản lý Nhà nước và xã hội. Đã học tập
có hệ thống ở các trường của Đảng, Nhà nước và đoàn thể nhân dân; trải qua hoạt động
công tác thực tiễn có hiệu quả cho nhân dân và xã hội.
Đối với cán bộ lãnh đạo, chỉ huy LLANND và sĩ quan LLCSND:
- Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với Nhà nước và với nhân dân
các bộ tộc Lào; sẵn sàng hy sinh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất
nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN;
- Có tinh thần cảnh giác cách mạng cao độ, có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm,
giữ gìn bí mật an ninh, bí mật quân sự, bí mật quốc gia;
- Nắm vững và có khả năng vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng, đạo đức cách mạng của Chủ tịch Cayxỏn PHÔMVIHÁN; chủ
121
trương, đường lối của Đảng vào xây dựng nền an ninh, nền cảnh sát toàn dân. Nắm
được những vấn đề cơ bản về quản lý kinh tế, xã hội.
Đối với sĩ quan LLCSND làm công tác tham mưu về chuyên môn, nghiệp vụ
còn phải:
- Có tư duy độc lập, có khả năng phân tích, tổng hợp vấn đề chuyên môn giỏi,
tốt, đúng và khoa học;
- Có sự am hiểu thực tế, trước hết là thực tế thuộc lĩnh vực cảnh sát;
- Có kiến thức và kinh nghiệm sâu thuộc lĩnh vực cảnh sát;
- Biết lắng nghe những ý kiến khác nhau, phân biệt được ý kiến đúng sai và có
bản lĩnh tuân theo ý kiến đúng.
Căn cứ vào tiêu chuẩn chung và riêng nêu trên, sĩ quan LLCSND gắn liền với tổ
chức, mà mỗi tổ chức có đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ nhất định; mỗi sĩ quan
LLCSND đảm nhiệm mỗi chức danh cụ thể trong tổ chức. Trên cơ sở tiêu chuẩn chung
và tiêu chuẩn riêng mỗi tổ chức căn cứ vào đó để đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, tuyển
chọn, bố trí, bổ nhiệm, luân chuyển, thuyên chuyển, điều động, thực hiện chính sách
đối với sĩ quan LLCSND cho đúng và hợp lý.
Tiêu chuẩn sĩ quan LLCSND còn phụ thuộc vào các yếu tố là phẩm chất chính
trị; phẩm chất đạo đức; trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ;
trình độ lý luận chính trị, quản lý hành chính Nhà nước; khả năng đoàn kết tập hợp
quần chúng, tập hợp chiến sĩ dưới quyền chỉ huy; lề lối làm việc, tác phong công tác,
phong chách lãnh đạo, chỉ huy và sức khỏe. Mỗi yếu tố có vai trò riêng, song nó có
quan hệ chặt chẽ với nhau, làm tiền đề cho nhau và là căn cứ quan trọng cho mỗi chức
danh sĩ quan LLCSND đảm nhiệm và mỗi tổ chức.
Để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện tiêu chuẩn, tiêu chí chức danh đội ngũ sĩ quan
LLCSND đảm bảo tính khoa học và phù hợp với thực tiễn thì cần phải tuân theo
nguyên tắc, quy trình là:
Thứ nhất, về nguyên tắc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện tiêu chuẩn chức danh đội
ngũ sĩ quan LLCSND
- Đảng thống nhất lãnh đạo công tác sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện tiêu chuẩn,
tiêu chí chức danh đội ngũ sĩ quan LLCSND, đồng thời phát huy trách nhiệm của các
tổ chức, đơn vị. Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, tiêu chuẩn chung, quy
chế về công tác hoàn thiện tiêu chuẩn. Thông qua các cấp ủy, tổ chức đảng trong Bộ,
Tổng cục Cảnh sát để tổ chức hoàn thiện tiêu chuẩn sĩ quan LLCSND. Do Đảng phải
chăm lo đội ngũ sĩ quan LLCSND trên mọi mặt, trực tiếp và tuyệt đối; đồng thời, Đảng
122
cũng trực tiếp quản lý đội ngũ sĩ quan LLCSND, trước hết là sĩ quan LLCSND lãnh
đạo, chỉ huy chủ chốt từ Trung ương đến địa phương.
- Hoàn thiện tiêu chuẩn, tiêu chí chức danh đội ngũ sĩ quan LLCSND là bảo
đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định đi đôi với thực hiện đầy đủ trách
nhiệm cá nhân trong công tác tiến hành và phải đảm bảo tính khoa học, hợp lý, tính
thực tiễn.
Những vấn đề về chủ trương, chính sách liên quan đến hoàn thiện tiêu chuẩn sĩ
quan LLCSND phải do tập thể cấp ủy và tổ chức đảng có thẩm quyền thảo luận dân
chủ, khoa học và quyết định theo đa số. Trường hợp ý kiến người đứng đầu và của tập
thể cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị khác nhau thì phải báo cáo lên cấp có thẩm quyền
xem xét, quyết định.
Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị có trách nhiệm đề xuất
và tổ chức thực hiện các quyết định của tập thể về công tác tiến hành hoàn thiện tiêu
chuẩn đội ngũ sĩ quan LLCSND theo sự phân công. Sĩ quan LLCSND chấp hành
nghiêm túc các nghị quyết, quyết định của cấp ủy, tổ chức đảng; cấp ủy cấp dưới phải
chấp hành quyết định của cấp ủy cấp trên về chủ trương, đường lối, cách thức tiến hành
hoàn thiện tiêu chuẩn sĩ quan LLCSND.
Thứ hai, về quy trình hoàn thiện tiêu chuẩn đội ngũ sĩ quan LLCSND Lào
Quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về hoàn
thiện tiêu chuẩn cán bộ
Trao đổi, học tập kinh nghiệm với các ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị và
trao đổi với các cơ quan nghiên cứu khoa học, các cán bộ đã nghiên cứu, tổng kết về
vấn đề hoàn thiện tiêu chuẩn, tiêu chí.
Dự thảo bộ tiêu chuẩn, tiêu chí sĩ quan LLCSND, tổ chức hội thảo khoa học và
lấy ý kiến đóng góp, hoàn thiện bản dự thảo.
Triển khai áp dụng. Tiêu chuẩn, tiêu chí sĩ quan LLCSND phải được cấp có
thẩm quyền ban hành bằng văn bản pháp quy theo phân cấp quản lý sĩ quan LLCSND
đã quy định.
Thứ ba, hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung một số tiêu chuẩn, tiêu chí chức danh đội
ngũ sĩ quan LLCSND
Căn cứ theo điều 21 Luật Lực lượng an ninh nhân dân, quy định về tiêu chuẩn sĩ
quan LLCSND:
123
Cấp úy phải có bằng tốt nghiệp chuyên môn trung cấp trở lên hoặc đã qua
kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy và thành tích trong công tác thực tiễn;
Cấp tá phải có bằng tốt nghiệp chuyên môn cao đẳng trở lên và có bằng lý
luận chính trị và hành chính trung cấp và tương đương;
Cấp úy và cấp tá nêu ở trên phải có khả năng lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy, có
sự tự giác chính trị cao, có sự gương mẫu và có vai trò ảnh hưởng đối với
cán bộ, chiến sĩ [190, tr.478].
Vậy, tiêu chuẩn chức danh đội ngũ sĩ quan LLCSND là hệ thống các yếu tố của
người sĩ quan LLCSND bao gồm: Phẩm chất chính trị; phẩm chất đạo đức; trình độ
văn hóa, chuyên môn, ngoại ngữ; khả năng đoàn kết tập hợp quần chúng; lề lối làm
việc, tác phong công tác và sức khỏe. Đối với người sĩ quan LLCSND lãnh đạo, quản
lý đặc biệt phải có giác ngộ về mục tiêu, lý tưởng XHCN, có đạo đức trong sáng.
4.2.2.2. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện và chỉ đạo thực hiện tốt các quy chế, quy
trình quản lý, tuyển chọn, sử dụng đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào
Trong trước mắt và lâu dài để làm tốt công tác sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện và
thực hiện các quy chế, quy trình quản lý, tuyển chọn, sử dụng đội ngũ sĩ quan
LLCSND thì cần tập trung vào một số vấn đề sau:
Một là, tập trung nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện, đổi mới, nâng cao chất lượng
công tác đánh giá đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào
Để hoàn thiện tiêu chuẩn chức danh sĩ quan LLCSND và tiêu chí đánh giá cụ
thể đối với từng chức danh, từng đối tượng sĩ quan LLCSND, phù hợp với thời kỳ mới.
Các tiêu chí cần cụ thể, có khả năng định lượng để đo lường được, có thể thực hiện
được, sát với thực tiễn. Bộ tiêu chí gắn với mốc thời gian thực hiện.
Trong đánh giá sĩ quan LLCSND, các tiêu chí đánh giá thường phải căn cứ vào
tiêu chuẩn sĩ quan LLCSND đã được xác định đối với từng vị trí công tác trong tổ
chức, đơn vị chiến đấu. Tiêu chuẩn sĩ quan LLCSND được hình thành dựa trên các tiêu
chuẩn chung trong công tác cán bộ của Đảng, của đảng uỷ các cấp thuộc Bộ An ninh,
Tổng cục Cảnh sát và căn cứ vào công việc, công tác cụ thể được giao cho sĩ quan
LLCSND. Nhìn chung, các tiêu chí đánh giá phải làm rõ ưu điểm, khuyết điểm, mặt
mạnh, mặt yếu về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực và hiệu quả công
tác, chiều hướng phát triển của sĩ quan LLCSND.
Đánh giá sĩ quan LLCSND cần bảo đảm tính công bằng, khách quan. Nguyên
tắc này đòi hỏi là: (1) phải công khai hoá nội dung, tiêu chuẩn và phương pháp tiến
hành đánh giá; (2) bộ phận có thẩm quyền đánh giá phải thể hiện được sự công bằng,
124
khách quan; (3) đánh giá phải dựa trên sự khảo sát, thu thập thông tin từ nhiều nguồn
khác nhau, tổng hợp, khái quát thông tin để có được những đánh giá khách quan, chính
xác và hạn chế được lối đánh giá chủ quan, cảm tính, phiến diện; (4) cần luật hoá công
tác đánh giá sĩ quan LLCSND nhằm tránh những hiện tượng không công bằng, không
tuân thủ quy trình đánh giá, không hoàn thành chức trách, vì tư lợi làm rối kỷ cương
trong đánh giá.
Đánh giá sĩ quan LLCSND trên quan điểm lịch sử cụ thể. Thời điểm, hoàn cảnh
lịch sử cụ thể có sự chi phối, ảnh hưởng tới công tác của từng sĩ quan LLCSND, vì thế
trong đánh giá sĩ quan LLCSND phải căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà đề ra
tiêu chí đánh giá phù hợp.
Đánh giá sĩ quan LLCSND cần bảo đảm tính toàn diện. Toàn diện trong đánh
giá nghĩa là phải xem xét tới tất cả các mối liên hệ trực tiếp, gián tiếp; bên trong, bên
ngoài; khách quan, chủ quan trong mọi mặt công tác của sĩ quan LLCSND. Các khâu
trong công tác LLCSND và công tác sĩ quan LLCSND đều có quan hệ ràng buộc lẫn
nhau, vì thế, đánh giá sĩ quan LLCSND phải được nhìn nhận trong mối quan hệ tổng
thể, toàn diện các mặt công tác, không chỉ phiến diện một mặt công tác nào.
Đánh giá sĩ quan LLCSND theo quan điểm phát triển. Đánh giá theo quá trình
phấn đấu vươn lên, sự phát triển trong công tác của sĩ quan LLCSND và dự báo được
khả năng, triển vọng, xu hướng phát triển của họ. Con người là một thực thể tự nhiên -
xã hội, nên luôn vận động và phát triển trong xã hội, trong mỗi tổ chức. Công tác đánh
giá phải nhìn nhận được sự phát triển (tiến bộ, dừng lại hay tụt lùi) và triển vọng về
trình độ, năng lực của họ sau từng giai đoạn. Đặc biệt, công tác đánh giá phải góp phần
phát hiện sĩ quan LLCSND trẻ tài năng và sớm đưa họ vào quy hoạch đào tạo, bồi
dưỡng để trở thành nguồn sĩ quan LLCSND lãnh đạo kế cận trong tương lai. Phải lấy
việc đánh giá hiệu quả công tác thực tế của sĩ quan LLCSND là một yêu cầu cơ bản
trong công tác đánh giá sĩ quan LLCSND. Hiệu quả công tác thực tế là sự phản ánh
khách quan, tổng hợp các năng lực, phẩm chất, thái độ và chất lượng công tác của họ.
Một tiêu chí quan trọng hàng đầu để đánh giá sĩ quan LLCSND là phải hoàn thành các
công việc được tổ chức giao với hiệu quả cao. Một sĩ quan LLCSND không thể được
đánh giá tốt khi chỉ hoàn thành công việc ở mức độ trung bình hay chỉ luôn giỏi nói
chứ không giỏi làm. Hết sức tránh việc đánh giá sĩ quan LLCSND chỉ dựa trên chấp
hành đúng các yêu cầu tối thiểu của tổ chức mà không xét tới tính hiệu quả của công
việc, tức là không đánh giá những thành tích nổi trội, vượt lên của sĩ quan LLCSND
trong công việc so với chuẩn mực, yêu cầu chung. Với nội dung đánh giá và tầm quan
125
trọng đánh giá sĩ quan LLCSND cần tập trung nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện quy
chế, quy trình đánh giá sĩ quan LLCSND để các cơ quan, đơn vị có căn cứ thực hiện và
thực hiện nghiêm túc.
Đánh giá sĩ quan LLCSND là một nội dung rất quan trọng của quản lý sĩ quan
LLCSND. Hiện nay, đánh giá sĩ quan LLCSND mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá sĩ
quan LLCSND sau thời gian một năm thực hiện công tác. Nhưng khi nội dung quản lý
sĩ quan LLCSND được chia ra làm quản lý nhân sự và quản lý nguồn nhân lực công vụ
trong ngành Cảnh sát thì việc đánh giá sĩ quan LLCSND cần được hoàn thiện, đổi mới,
gồm: hoàn thiện việc đánh giá sĩ quan LLCSND trong thực thi công vụ của từng cá
nhân sĩ quan LLCSND sau một thời gian nhất định và xây dựng, áp dụng việc đánh giá
sĩ quan LLCSND sang xu hướng đánh giá chất lượng và khả năng đáp ứng của sĩ quan
LLCSND so với các yêu cầu thực thi công vụ.
Việc tập trung nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện, đổi mới, nâng cao chất lượng
đánh giá sĩ quan LLCSND trong thực thi công vụ của từng cá nhân sĩ quan LLCSND
sau một thời gian nhất định.
Trước hết công tác đánh giá sĩ quan LLCSND không nên chỉ thuần túy một hình
thức đánh giá mà cần bổ sung thêm một số hình thức đánh giá khác để phục vụ cho
từng nội dung quản lý sĩ quan LLCSND khác nhau, như: đánh giá sau một năm công
tác (thực hiện vào cuối năm); đánh giá khi xem xét bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo, quản
lý, chỉ huy; đánh giá khi xem xét xử lý kỷ luật; đánh giá để khen thưởng; đánh giá để
thực hiện quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng. Thực hiện các hình thức đánh giá này là
nhằm phục vụ cho các nội dung của công tác quản lý sĩ quan LLCSND được chính
xác, hiệu quả và thực tế. Tuy nhiên, trong các hình thức đánh giá đó, việc đánh giá sĩ
quan LLCSND sau một năm công tác là cơ sở và căn cứ phục vụ cho các nội dung
đánh giá khác.
Về hình thức đánh giá sĩ quan LLCSND sau một năm công tác cần hoàn thiện,
sửa đổi thêm về nội dung và trách nhiệm đánh giá như sau: đánh giá về số lượng công
việc đã hoàn thành; đánh giá về chất lượng hoàn thành công việc được giao; đánh giá
về tiến độ hoàn thành công việc; đánh giá về tinh thần phối kết hợp trong thực thi
nhiệm vụ, công việc; đánh giá về việc chấp hành kỷ luật trong thực thi nhiệm vụ, công
việc; đánh giá về việc tự bồi dưỡng nâng cao trình độ, nghiệp vụ; đánh giá tinh thần
thái độ phục vụ nhân dân.
Về trách nhiệm người đứng đầu cơ quan sử dụng sĩ quan LLCSND trong đánh
giá họ, mặc dù ý kiến tập thể đồng nghiệp trong cơ quan công tác là quan trọng, nhưng
126
trong điều kiện thực hiện cải cách nền hành chính nhà nước, cải cách phương thức lãnh
đạo của Đảng, cần nâng cao vai trò, trách nhiệm người đứng đầu. Người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, đơn vị là người triển khai, phân công và kiểm tra thực hiện các công
việc, biết chính xác được chất lượng, mức độ hoàn thành nhiệm vụ, công việc của sĩ
quan LLCSND. Vì vậy, việc đánh giá sĩ quan LLCSND hoàn thành nhiệm vụ ở từng
mức độ phải do người đứng đầu quyết định và chịu trách nhiệm đối với kết luận đánh
giá của mình. Tuy nhiên, trước khi kết luận chính thức trong đánh giá sĩ quan
LLCSND, người đứng đầu cần tham khảo ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp trong
tổ chức, cơ quan và đơn vị.
Hoàn thiện và áp dụng việc chuyển đánh giá sĩ quan LLCSND sang xu hướng
đánh giá chất lượng và khả năng đáp ứng của họ so với các yêu cầu thực thi công vụ,
nhiệm vụ và công tác, nhiệm vụ được giao. Nội dung, tiêu chí đánh giá gồm:
Đánh giá hiệu suất làm việc của sĩ quan LLCSND, tương ứng với đánh giá kết
quả làm việc của sĩ quan LLCSND, nghĩa là phân tích sản phẩm của các hoạt động
công vụ, công tác mà người đó đã thực hiện để đối chiếu với các mục tiêu đã vạch ra
hoặc so sánh với kết quả của từng sĩ quan LLCSND khác cùng thực hiện hoạt động đó
trong bối cảnh tương tự để có thể xác định mức độ hiệu suất làm việc của họ.
Đánh giá năng lực, chuyên môn nghiệp vụ của sĩ quan LLCSND. Chuyên môn
nghiệp vụ thể hiện ở việc sĩ quan LLCSND nắm vững các kỹ năng nghề nghiệp cần
thiết để có thể thực hiện công việc một cách tốt nhất và trong một thời gian dài. Không
thể thực hiện đánh giá năng lực của sĩ quan LLCSND nếu trước đó không xác định một
khung tiêu chuẩn năng lực của nghề nghiệp hay của công việc có liên quan. Chính vì
vậy, khi đánh giá năng lực của cá nhân sĩ quan LLCSND phải thống kê những kiến
thức, kỹ năng và thái độ hành vi mà cá nhân sĩ quan LLCSND đó có được trên cơ sở
khung tiêu chuẩn năng lực, sau đó đánh giá mức độ nắm vững những năng lực đó để
xác định.
Đánh giá tiềm năng của sĩ quan LLCSND. Tiềm năng của một cá nhân tương
ứng với khả năng tiếp nhận một cách nhanh chóng những năng lực mới cần thiết trong
tương lai để có thể đảm nhiệm một nghề nghiệp khác hoặc để thực hiện công việc với
một mức độ trách nhiệm cao hơn thông qua các hoạt động đào tạo hoặc tự đào tạo.
Đánh giá tiềm năng của sĩ quan LLCSND không phải là đánh giá năng lực, mà là đánh
giá khả năng tiềm tàng trong việc tiếp nhận các năng lực mới gắn với khả năng nhận
thức và cấu trúc nhân cách. Ngoài ra, phải đánh giá tiềm năng trong mối quan hệ với
127
yếu tố động cơ làm việc, vì cá nhân sĩ quan LLCSND không có động cơ học tập và làm
việc sẽ không thể phát triển được bất cứ năng lực nào.
Đánh giá động cơ làm việc, động cơ thực hiện nhiệm vụ của sĩ quan LLCSND.
Đó là việc đánh giá mức độ tham gia của sĩ quan LLCSND vào công việc và các hoạt
động của tổ chức. Điều quan trọng là không nên nhầm lẫn giữa sự tham gia với kết quả,
bởi lẽ nếu chỉ có động cơ thì chưa đủ để đạt kết quả. Động cơ là điều kiện cần, nhưng
chưa đủ để một sĩ quan LLCSND thực sự đạt hiệu suất trong công việc.
Về thẩm quyền đánh giá. Trong đánh giá sĩ quan LLCSND theo hình thức này
có ba loại chủ thể tham gia: Bản thân sĩ quan LLCSND (tự đánh giá); người đứng đầu
tổ chức và cơ quan; các đồng nghiệp cùng công tác, chiến sĩ và nhân dân.
Hai là, hoàn thiện, bổ sung quy chế tuyển chọn đội ngũ sĩ quan LLCSND
Đổi mới công tác tuyển chọn đội ngũ sĩ quan LLCSND là một bước tiến quan
trọng, tạo ra sự đột phá trong công tác tổ chức, công tác quản lý sĩ quan LLCSND, góp
phần quan trọng vào công tác nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND. Cho nên,
Bộ An ninh, Tổng cục Cảnh sát phải hoàn thiện, bổ sung quy chế tuyển chọn đội ngũ sĩ
quan LLCSND để làm căn cứ cho việc tổ chức thực hiện tuyển chọn sĩ quan LLCSND
đạt mục tiêu đề ra và hiệu quả.
Về quy chế tuyển chọn đội ngũ sĩ quan LLCSND phải tiếp tục hoàn thiện chế
độ bầu cử; cải tiến cách thức tuyển chọn, lấy phiếu tín nhiệm, bổ nhiệm cán bộ, sĩ quan
LLCSND để chọn đúng người, bố trí đúng việc. Mở rộng quyền đề cử, ứng cử và giới
thiệu nhiều nhân sự để mở rộng hướng lựa chọn.
Thực hiện nghiêm quy chế cho thôi chức, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ,
sĩ quan LLCSND lãnh đạo, quản lý. Kịp thời thay thế những sĩ quan LLCSND yếu
kém về phẩm chất, năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, để việc “có lên, có xuống, có
vào, có ra” được thực hiện bình thường trong bố trí, sử dụng cán bộ, sử dụng sĩ quan
LLCSND. Hoàn thiện, bổ sung cơ chế để, chiến sĩ LLCSND, đảng viên, nhân dân tham
gia giám sát sĩ quan LLCSND. Có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp chạy chức,
chạy quyền, chạy tội, chạy bằng cấp, chạy huân chương.
Thực hiện nghiêm Quy chế chất vấn trong Đảng. Đổi mới cách lấy phiếu tín
nhiệm để đánh giá, nhận xét sĩ quan LLCSND theo hướng mở rộng đối tượng tham
gia. Quy định việc lấy phiếu tín nhiệm hằng năm đối với các chức danh lãnh đạo trong
cơ quan của Đảng, Nhà nước, đoàn thể thuộc Bộ An ninh, Tổng cục Cảnh sát. Những
người không đủ năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, tín nhiệm thấp cần sắp xếp cho
phù hợp; có cơ chế để kịp thời thay thế, không phải chờ đến hết nhiệm kỳ, hết tuổi
128
công tác. Thí điểm giao quyền cho bí thư cấp ủy lựa chọn, giới thiệu để bầu cử ủy viên
thường vụ cấp ủy; cấp trưởng có trách nhiệm lựa chọn, giới thiệu để bầu cử, bổ nhiệm
cấp phó ở các cơ quan, đơn vị.
Tuy nhiên, thực tế tổ chức thực hiện thì cho thấy, nhiều nguyên tắc, nội dung
tuyển chọn sĩ quan LLCSND chưa đạt yêu cầu đặt ra, mới chỉ đạt được yêu cầu là tổ
chức tuyển chọn. Tuyển chọn LLANND, LLCSND nói chung và sĩ quan LLCSND nói
riêng chưa làm đúng nguyên tắc tuyển chọn, có một số tổ chức vẫn còn sử dụng hệ
thống bảo hộ, họ hàng thân quen, gia đình, con cháu, người cùng địa phương trong
tuyển chọn sĩ quan LLCSND. Các yêu cầu về công bằng, bình đẳng, ưu tiên, minh
bạch, đúng người tài, thuận lợi về thủ tục chưa đạt yêu cầu đặt ra, thậm chí có vi phạm.
Thực tế, cho thấy, việc tuyển chọn sĩ quan LLCSND như hiện nay vẫn chưa chú trọng
vào tuyển chọn người có năng lực, trình độ học vấn cao, người giỏi, người xuất thân từ
giai cấp nông dân và gia đình nghèo có đủ năng lực, mà vẫn chỉ chú trọng vào phẩm
chất và có người bảo hộ hay "ông nọ, bà kia" gửi gắm, không tính đến yêu cầu chất
lượng. Hơn nữa, việc tuyển chọn sĩ quan LLCSND hiện nay được phân cấp mạnh mẽ,
nhưng không được kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ.
Để đổi mới công tác tuyển chọn sĩ quan LLCSND cần hoàn thiện, đổi mới việc
thi tuyển dụng theo hướng có tính cạnh tranh độc lập thực sự và đảm bảo tính khách
quan, công bằng, chất lượng. Cho nên, sớm có quy chế tuyển chọn sĩ quan LLCSND
để đảm bảo những nội dung chủ yếu sau:
Về thẩm quyền, trách nhiệm tuyển chọn.
Thẩm quyền tuyển chọn sĩ quan LLCSND phải rõ ràng giữa Bộ An ninh, Tổng
cục Cảnh sát, An ninh cấp tỉnh, An ninh cấp huyện trong việc tiến hành tuyển chọn và
biên chế sĩ quan LLCSND. Hiện nay, việc phân cấp quản lý sĩ quan LLCSND theo
Luật An ninh nhân dân là bốn cấp: cấp Trung ương (Bộ An ninh); cấp tỉnh và thành
phố; cấp huyện và quận và cấp Bản, nhưng trong tuyển chọn và biên chế LLCSND nói
chung và lực lượng bổ sung nguồn sĩ quan LLCSND nói riêng chưa có quy định, quy
chế thống nhất để phân công trách nhiệm giữa các cấp, các bộ phận liên quan. Thẩm
quyền, trách nhiệm tuyển dụng sĩ quan LLCSND ở các cấp thực hiện do Tổng cục
Chính trị, Bộ An ninh và có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị trong tổ chức
thực hiện. Tổng cục Chính trị, Bộ An ninh có nhiệm vụ đánh giá người dự tuyển nguồn
bổ sung sĩ quan LLCSND đúng với vị trí công tác, yêu cầu tiêu chuẩn chuyên môn, yêu
cầu nhiệm vụ theo quy định và chịu trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc
thực hiện tuyển dụng sĩ quan LLCSND theo quy định. Tổng cục Cảnh sát căn cứ vào vị
129
trí công tác, nhu cầu bổ sung sĩ quan LLCSND đặt yêu cầu với Tổng cục Chính trị để
đánh giá những người có nhu cầu, nguyện vọng và giới thiệu cho các cơ quan, đơn vị
để lựa chọn các đối tượng phù hợp vào tuyển chọn.
Về cơ chế tuyển dụng.
Những người có nguyện vọng trở thành sĩ quan LLCSND nếu đủ các điều kiện
và tiêu chuẩn quy định thì nộp hồ sơ và đơn đăng ký với bộ phận phụ trách tổ chức và
cán bộ của ngành An ninh trên cả nước để tổ chức sơ tuyển. Những người đạt yêu cầu
qua sơ tuyển phải gửi hồ sơ đến cơ quan làm việc chính trị, tổ chức ở các cấp (cấp
huyện trở lên) để đánh giá và phối hợp tổ chức kỳ thi cạnh tranh, công bằng, công khai
để lựa chọn những người đủ điều kiện và tiêu chuẩn vào trong biên chế LLCSND nói
chung và sĩ quan LLCSND nói riêng. Việc lựa chọn phải nghiêm ngặt, thực hiện theo
nguyên tắc chọn người giỏi hơn, có năng lực hơn và phù hợp với tiêu chuẩn vị trí công
tác và tiêu chuẩn sĩ quan LLCSND trong số người đăng ký. Những người trúng tuyển
qua kỳ thi cạnh tranh phải được biên chế vào các vị trí công tác phù hợp và phải tổ
chức theo học một khóa bồi dưỡng tiền chuyên môn cảnh sát.
Về sơ tuyển và thi tuyển.
Việc sơ tuyển và thi tuyển là nội dung quan trọng trong sàng lọc sĩ quan
LLCSND đầu vào. Công tác sơ tuyển là do cơ quan, tổ chức, đơn vị sử dụng sĩ quan
LLCSND ở cấp Trung ương (các Tổng cục) thực hiện. Khi sơ tuyển chủ yếu là xem xét
hồ sơ, trích ngang lý lịch, nghiên cứu sở trường hoạt động, quá trình đào tạo, khả năng
giao tiếp, ứng xử và quan hệ họ hàng (thành phần xuất thân, họ hàng công tác, làm việc
và ở nước ngoài) của người dự thi. Tổ chức thi tuyển có sự phối hợp giữa cơ quan quản
lý sĩ quan LLCSND cấp Trung ương và các Tổng cục, Cục, đơn vị chuyên môn thuộc
Bộ trên toàn quốc có nhu cầu biên chế. Việc tổ chức thi tuyển sĩ quan LLCSND được
thực hiện dưới hình thức thi trắc nghiệm, viết và phỏng vấn để đánh giá người dự tuyển
về khả năng viết, trình bày một vấn đề nhất định; đánh giá các năng lực phải gắn với
tiêu chuẩn và điều kiện của người sĩ quan LLCSND. Ngoài ra, cần kiểm tra thêm về
khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, khả năng sử dụng ngoại ngữ (tiếng Anh).
Công tác thi tuyển được chú trọng về năng lực của người dự tuyển sĩ quan LLCSND
làm căn cứ, thước đo đánh giá.
Về phương thức tuyển dụng.
Thực hiện phương thức tuyển dụng tập trung thống nhất; Bộ An ninh quy định
tiêu chuẩn từng vị trí công tác có nhu cầu tuyển dụng, ban hành hướng dẫn tổ chức
130
thực hiện thống nhất. Thực hiện tuyển dụng suốt đời và tuyển dụng bù vào những vị trí
xin thôi việc, bị kỷ luật sa thải, chuyển công tác và nghỉ hưu theo chế độ.
Về chế độ tập huấn, rèn luyện và thử thách của sĩ quan LLCSND.
Để rèn luyện sĩ quan LLCSND có sức bền bỉ và đáp ứng mọi nhiệm vụ được
giao. Sĩ quan LLCSND mới tuyển dụng là bắt buộc phải xuống cơ sở để rèn luyện, thử
thách trên mặt trận thực tiễn. Thời gian xuống cơ sở là ít nhất phải ba năm để sĩ quan
LLCSND được rèn luyện và thử thách qua công tác thực tế.
Về chế độ và điều kiện thăng quân hàm của sĩ quan LLCSND.
Theo quy định tại Điều 28 của Luật LLANND đã quy định: Trung úy lên
thượng úy 3 năm, thượng úy lên đại úy 3 năm, đại úy lên trung tá 4 năm, trung tá lên
thượng tá 4 năm, thượng tá lên đại tá 4 năm. Còn đại tá lên cấp tướng và từ thiếu tướng
trở lên là không có thời hạn mà căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ chính trị.
Ba là, thực hiện tốt công tác bố trí, sử dụng đội ngũ sĩ quan LLCSND
Trong thời gian tới, để công tác bố trí, sử dụng đội ngũ sĩ quan LLCSND có
hiệu quả, hợp lý, phù hợp với sở trường, chuyên môn, khả năng và điều kiện thực tế,
cần tập trung vào những vấn đề:
Hoàn thiện các thể chế quản lý sĩ quan LLCSND bảo đảm tính toàn diện, đồng
bộ và hợp hiến, hợp pháp, trong đó quy định về công tác bố trí, sử dụng đội ngũ sĩ quan
LLCSND phải đồng bộ, đủ nội dung trong điều chỉnh các đối tượng. Có quy định, quy
chế rõ ràng để triển khai thực hiện hiệu quả việc luân chuyển, điều động, biệt phái,
chuyển công tác, giáng chức, miễn nhiệm, từ chức, bổ nhiệm lại; luân chuyển sĩ quan
LLCSND làm công tác liên quan đến vấn đề vật chất, trực tiếp đối diện với vấn đề kinh
tế, ma túy, giao thông...
Bố trí, sử dụng đội ngũ sĩ quan LLCSND phải căn cứ hệ thống vị trí công tác và
nhiệm vụ chính trị của Bộ An ninh, Tổng cục Cảnh sát. Hệ thống này được tổ chức
theo từng tính chất công việc với việc thiết kế tiêu chuẩn cho từng vị trí, chức danh cụ
thể. Theo hệ thống này, không còn chế độ sĩ quan LLCSND làm việc với tư cách là
một nghề nghiệp ổn định vĩnh viễn. Cơ quan nhà nước có thể thay đổi vị trí và công
việc của sĩ quan LLCSND căn cứ yêu cầu công việc và theo công tích của mỗi người.
Hệ thống các vị trí công tác và nhiệm vụ chính trị dựa trên cơ sở nhu cầu công việc,
khối lượng và tính phức tạp của chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Mỗi vị trí công tác ứng với một chức danh sĩ quan LLCSND cụ thể. Bố trí, sử dụng đội
ngũ sĩ quan LLCSND phải phù hợp với sở trường, chuyên môn của từng sĩ quan
131
LLCSND để phát huy được tối đa khả năng của họ, tác động tích cực đến chất lượng
công việc.
Thực hiện nguyên tắc bố trí, sử dụng đội ngũ sĩ quan LLCSND đúng theo quy
định của cấp trên;
Coi trọng công tác đánh giá trước khi bố trí, sử dụng sĩ quan LLCSND. Tiêu chí
đánh giá phải rõ ràng, đồng bộ, cần có bộ tiêu chí đánh giá từng vấn đề cụ thể; quy chế
ứng xử, quy định đạo đức ứng xử trong thực hiện công tác bảo đảm an ninh, trật tự an
toàn xã hội.
Có chế độ chính sách đối với sĩ quan LLCSND được bố trí, sử dụng làm việc tại
địa bàn vùng sâu, vùng xa một cách thỏa đáng.
Bốn là, thực hiện nghiêm túc quy trình, quy chế bầu cử, bổ nhiệm, miễn nhiệm,
điều động, luân chuyển và sử dụng đội ngũ sĩ quan LLCSND
Việc đẩy mạnh hoàn thiện về quy định, quy chế bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân
chuyển, từ chức, miễn nhiệm đối với đội ngũ sĩ quan LLCSND là một vấn đề mang
tính quyết định cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ này. Hiện nay, có thể khẳng định
là các thể chế liên quan đến nội dung trên là rất ít, chưa đáp ứng cho việc điều chỉnh và
còn chung chung về nội dung. Trong thời gian trước mắt và lâu dài cần ban hành các
thể chế liên quan đến nội dung trên với những vấn đề sau:
Thể chế hóa các nội dung quản lý sĩ quan LLCSND đảm bảo tuân thủ đúng các
quy định của luật, các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản hướng dẫn cả về
thẩm quyền, trình tự, thủ tục, đúng thể thức và minh bạch, công khai.
Đối chiếu so sánh các quy định, quy chế về bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân
chuyển, từ chức, miễn nhiệm sĩ quan LLCSND với các quy định của Hiến pháp và các
luật khác có liên quan để đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp và đồng bộ.
Sớm xây dựng và trình Chính phủ ban hành văn bản quy phạm pháp luật về
Quy định, quy chế bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ chức, miễn nhiệm sĩ quan
LLCSND lãnh đạo, quản lý Bộ An ninh. Trong các văn bản quy phạm pháp luật đó,
phải tập trung vào các vấn đề sau:
- Quy định rõ ràng, cụ thể về thủ tục, hồ sơ về bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân
chuyển, từ chức, miễn nhiệm sĩ quan LLCSND lãnh đạo, quản lý theo hướng đầy đủ
các thông tin về cá nhân, khen thưởng, nâng bậc lương hoặc nâng ngạch, các văn bằng
học vị, học hàm, chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng; đặc biệt là bản đánh giá kết quả thực
hiện công tác hằng năm trong suốt quá trình công tác và giữ chức vụ.
132
- Quy định rõ ràng, cụ thể về trách nhiệm giữa Bộ và cấp ủy đảng, lãnh đạo tỉnh,
thành phố và cấp huyện về bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ chức, miễn nhiệm
sĩ quan LLCSND lãnh đạo cấp trưởng và phó của ngành dọc ở cấp tỉnh và cấp huyện;
Quy định rõ thẩm quyền của người đứng đầu về bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển,
từ chức, miễn nhiệm đội ngũ sĩ quan LLCSND cấp phó trở xuống và trách nhiệm cá
nhân về cấp dưới của mình; Quy định danh mục và định kỳ chuyển đổi vị trí công tác
đối với một số lĩnh vực trong ngành Cảnh sát.
4.2.3. Đổi mới đồng bộ các khâu của công tác cán bộ để nâng cao chất
lượng đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào
4.2.3.1. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch đội ngũ sĩ quan lực
lượng Cảnh sát nhân dân Lào
Trong các khâu công tác cán bộ của Đảng hiện nay, có thể xác định đánh giá
cán bộ là tiền đề, quy hoạch cán bộ là nền tảng, luân chuyển cán bộ là khâu đột phá và
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là yêu cầu trước mắt vừa là nhiệm vụ lâu dài; công tác sĩ
quan LLCSND cũng phải đảm bảo các khâu như công tác cán bộ của Đảng.
Quy hoạch sĩ quan LLCSND là công tác phát hiện sớm nguồn sĩ quan LLCSND
trẻ có đức, có tài, có triển vọng về khả năng lãnh đạo, quản lý, chỉ huy, đưa vào quy
hoạch để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn các chức danh lãnh đạo, quản lý,
chỉ huy, đáp ứng nhiệm vụ chính trị trước mắt và lâu dài của từng cơ quan, tổ chức,
đơn vị và của Bộ An ninh Lào. Quy hoạch là bảo đảm cho công tác sĩ quan LLCSND
của ngành An ninh có tầm nhìn xa, tầm nhìn chiến lược, chủ động, khắc phục tình
trạng bị hẫng hụt sĩ quan LLCSND, đảm bảo tính kế thừa, phát triển và sự chuyển tiếp
liên tục, vững vàng giữa các thế hệ sĩ quan LLCSND, giữ đoàn kết nội bộ và sự ổn
định chính trị, góp phần quan trọng việc tạo ra đội ngũ sĩ quan LLCSND đủ về số
lượng, cơ cấu, đảm bảo yêu cầu chất lượng, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác luân
chuyển, bố trí, sử dụng sĩ quan LLCSND đáp yêu cầu nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ bảo
đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội và điều kiện hội nhập khu vực, quốc tế..
Để tạo ra một nền tảng vững chắc và chuyển biến tích cực trong công tác cán
bộ, Bộ Chính trị đã có Chỉ thị số 08/BCT ngày 21-8-2007 về việc xây dựng quy hoạch
cán bộ lãnh đạo, quản lý trên toàn quốc và Hướng dẫn số 198/BTCTWĐ ngày 13-10-
2007 của Ban Tổ chức Trung ương về việc xây dựng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản
lý trên toàn quốc cùng các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương.
133
Căn cứ vào các văn bản của Trung ương, Đảng ủy Bộ An ninh và các cấp ủy tổ
chức, đơn vị của Bộ An ninh đã triển khai tổ chức thực hiện và xây dựng quy hoạch
cán bộ lãnh đạo, quản lý của Bộ An ninh (thuộc diện Trung ương quản lý).
Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch đội ngũ sĩ quan LLCSND, là
phải đổi mới căn bản mục đích, nguyên tắc, phương châm và những yêu cầu về công
tác quy hoạch sĩ quan LLCSND.
Quy hoạch sĩ quan LLCSND lãnh đạo, quản lý, chỉ huy là công tác phát hiện sớm
nguồn sĩ quan LLCSND trẻ có đức, có tài, có triển vọng về khả năng lãnh đạo, quản lý,
chỉ huy, đưa vào quy hoạch để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn các chức danh
lãnh đạo, quản lý, chỉ huy, đáp ứng nhiệm vụ chính trị trước mắt và lâu dài của từng cơ
quan, tổ chức, đơn vị. Phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ của Bộ An
ninh và thực tế đội ngũ sĩ quan LLCSND; phải gắn với các khâu khác trong công tác sĩ
quan LLCSND, bảo đảm sự liên thông quy hoạch của cả đội ngũ sĩ quan LLCSND trong
Bộ An ninh Lào từ Trung ương đến địa phương; phải đánh giá đúng sĩ quan LLCSND
trước khi đưa vào quy hoạch; phải bảo đảm phương châm “mở” và “động”. Phải căn cứ
vào yêu cầu quản lý và sử dụng sĩ quan LLCSND ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong
trước mắt và lâu dài. Phải căn cứ vào thực trạng về số lượng, cơ cấu và chất lượng đội
ngũ sĩ quan LLCSND; bám sát những yêu cầu mới về công tác quản lý, điều hành công
tác được giao trong giai đoạn mới trên cơ sở khảo sát, đánh giá đúng thực trạng của đội
ngũ sĩ quan LLCSND. Phải căn cứ vào khả năng và điều kiện thực hiện việc nâng cao
chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND và phải kịp thời với tình hình thực tế.
4.2.3.2. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sĩ
quan lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào
Đẩy mạnh đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sĩ
quan LLCSND, song song với việc đẩy mạnh cải cách hành chính, kiện toàn tổ chức,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý bộ máy nhà nước trong Bộ An ninh. Phải tiến hành
đổi mới, nâng cao chất lượng các chương trình, nội dung và phương thức đào tạo, bồi
dưỡng sĩ quan LLCSND sát với thực tế, hướng vào các vấn đề thiết thực đặt ra từ quá
trình thực thi công vụ, nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ bảo vệ an, bảo đảm giữ vững trật
tự an toàn xã hội, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng quản lý hành chính. Bộ An
ninh cần có định hướng rõ ràng, cụ thể về công tác đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan
LLCSND. Bộ An ninh phải sớm triển khai và cụ thể hóa các văn bản của Trung ương,
của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sĩ quan LLCSND. Từ yêu
134
cầu của nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ phát triển công tác an ninh, công tác bảo đảm an
ninh, giữ vững trật tự an toàn xã hội, từ thực trạng của những hạn chế công tác đào tạo,
bồi dưỡng sĩ quan LLCSND trong thời gian vừa qua. Công tác đào tạo, bồi dưỡng sĩ
quan LLCSND trong thời gian tới đòi hỏi phải có nhiều giải pháp cụ thể, mang tính
đồng bộ mới đạt hiệu quả thiết thực và có tính khả thi trong thực hiện. Đó là:
Tiếp tục quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Đảng, của Nhà nước về sĩ
quan LLCSND và công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sĩ quan LLCSND được nhấn
mạnh trong các nghị quyết và quyết định về đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan LLCSND.
Nâng cao nhận thức về công tác đào tạo, bồi dưỡng; đổi mới công tác đánh giá, bổ
nhiệm, từ chức, miễn nhiệm sĩ quan LLCSND lãnh đạo, quản lý và chỉ huy. Lấy kết
quả, hiệu quả công việc, thực hiện nhiệm vụ làm căn cứ thước đo thực chất để bổ
nhiệm, giúp cho việc đào tạo, bồi dưỡng trở nên thiết thực, tránh hiện tượng chỉ quan
tâm tới việc thu thập đủ bằng cấp, đủ chứng nhận để được thăng tiến.
Đẩy mạnh việc hoàn thiện hệ thống thể chế, cụ thể hóa chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan LLCSND
phù hợp với yêu cầu của tình hình mới, yêu cầu hội nhập quốc tế của Bộ An ninh, trong
đó chú trọng chính sách hỗ trợ các đối tượng được cử đi đào tạo, bồi dưỡng, nhất là các
đối tượng thực hiện nhiệm vụ ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số có nhiều khó
khăn và nữ sĩ quan cảnh sát.
Xác định đúng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan LLCSND.
Nâng cao chất lượng hoạt động của bộ phận làm công tác kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng sĩ quan LLCSND để tham mưu tốt về nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của sĩ quan
LLCSND. Hiện nay bộ phận làm công tác kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thuộc các tổ
chức, đơn vị chưa xác định rõ được nhu cầu chính xác về đào tạo, bồi dưỡng của sĩ
quan LLCSND. Việc xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng vẫn còn chưa mang tính
bao quát tổng thể.
Công tác xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan LLCSND cần phân tích
sâu nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng; xây dựng kế hoạch đến việc tổ chức quá trình đào tạo,
bồi dưỡng, kiểm tra, đánh giá quá trình đào tạo, bồi dưỡng.
Tạo cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan thuộc Bộ
An ninh từ Trung ương đến địa phương trong việc xác định nhu cầu và xây dựng kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ sĩ quan LLCSND.
Xây dựng và hoàn thiện chương trình quản lý số liệu và báo cáo về kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan LLCSND định kỳ theo các bảng biểu thống nhất. Đây cũng
135
là cách thức để giúp cho việc kiểm tra, đánh giá đào tạo, bồi dưỡng nói chung, việc xây
dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nói riêng được khách quan, khoa học và thuận lợi.
Tăng cường kiểm tra các mặt công tác đào tạo, bồi dưỡng, trong đó việc xây
dựng kế hoạch ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị thường xuyên trao đổi kinh nghiệm, uốn
nắn sai sót; lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan LLCSND ở từng lĩnh vực công tác
cụ thể là việc làm còn mới của Bộ An ninh Lào trong những năm gần đây. Do đó, việc
đi khảo sát, nghiên cứu, tìm hiểu thực tế ở các Bộ, ngành khác, kể cả ở nước ngoài là
cần thiết và bổ ích.
Đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sĩ quan LLCSND.
Đổi mới nội dung đào tạo, bồi dưỡng
Nội dung đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan LLCSND bao gồm bốn nhóm kiến thức
(kiến thức lý luận chính trị; kiến thức pháp luật, kiến thức và kỹ năng quản lý nhà
nước; kiến thức, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ; kiến thức tin học, ngoại ngữ) và các
kiến thức bổ trợ khác.
Đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan LLCSND khối kiến thức lý luận chính trị, pháp luật,
kiến thức và kỹ năng quản lý nhà nước, là đào tạo, bồi dưỡng vừa nhằm đạt được các
mục tiêu chung của cả đội ngũ sĩ quan LLCSND, vừa phải hết sức chú trọng đến đặc
thù của bộ phận này. Hiện nay, chất lượng đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan LLCSND về
khối kiến thức này còn hạn chế do nội dung lý luận chính trị và quản lý nhà nước còn
nặng về lý thuyết cơ bản, chưa quan tâm đến kỹ năng tác nghiệp của sĩ quan LLCSND;
hiện tượng trùng lặp nội dung ở một số môn học, đối với từng chức danh, bậc quân
hàm. Vì thế, cần lựa chọn kỹ lưỡng các nhóm kiến thức, mức độ, phạm vi cho thật phù
hợp với từng đối tượng. Nhóm kiến thức về lý luận chính trị và quản lý hành chính nhà
nước chủ yếu là các chuyên gia, giảng viên của Học viện Chính trị và Hành chính quốc
gia Lào và Trường chính trị An ninh đảm nhận.
Nhóm kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ của ngành cảnh sát rất quan trọng, vì
nó có tác dụng, hiệu quả trực tiếp đến từng vị trí công tác của từng sĩ quan LLCSND.
Vì vậy, bộ phận phụ trách xây dựng nội dung, chương trình cho các khoá đào tạo, bồi
dưỡng cần nghiên cứu, phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chuyên môn của Bộ An ninh
để thiết kế, xây dựng cho phù hợp với từng đối tượng sĩ quan LLCSND chuyên môn,
nghiệp vụ khác nhau.
Đa dạng hóa loại hình đào tạo, bồi dưỡng
Trước đây, đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan LLCSND tập trung vào hai loại hình
chính là: tập trung và tại chức. Hiện nay, để thực sự đổi mới và nâng cao chất lượng đội
136
ngũ sĩ quan LLCSND, cần mở rộng các loại hình đào tạo hơn nữa, theo hướng kết hợp
đào tạo, bồi dưỡng trong trường với đào tạo, rèn luyện trong thực tế, coi đào tạo trong
thực tế là khâu bắt buộc trong chu trình đào tạo sĩ quan LLCSND. Sau khi đã được đào
tạo ở trường, nhất thiết phải rèn luyện, thử thách trong thực tiễn một thời gian nhất
định, không hình thức, chiếu lệ, qua kết quả việc làm thực tế mới đưa vào cương vị,
chức danh và nhận công tác chính thức.
Đổi mới mạmh mẽ phương pháp đào tạo, bồi dưỡng
Cùng với vấn đề đổi mới về nội dung, đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng
sĩ quan LLCSND là vấn đề rất quan trọng. Tuy nhiên, đây là vấn đề còn rất hạn chế
hiện nay đối với đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan LLCSND. Có nhiều vấn đề, nhiều nội dung
cần được trình bày dưới dạng "hội thảo" vừa thu hút được học viên "vào cuộc", vừa
tăng cường sự giao lưu giữa giáo viên và học viên và quan trọng hơn là làm giảm bớt
sự nhàm chán của việc rao giảng một chiều.
Đã đến lúc cần chấm dứt lối dạy và học chay, trình bày lý thuyết suông. Thực
hiện đúng phương châm "học đi đôi với hành", "lý luận gắn với thực tiễn" trong đào
tạo, bồi dưỡng sĩ quan LLCSND.
Về thời gian đào tạo, bồi dưỡng
Giai đoạn một, sĩ quan LLCSND tập trung học các nhóm kiến thức cơ bản theo
quy định của cấp trên;
Giai đoạn hai, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn nghiệp vụ ngành,
những kỹ năng thực hành công vụ nghiệp vụ trên lĩnh vực mà sĩ quan LLCSND đang
công tác. Giai đoạn này cần tách những nội dung chung kéo dài, với nội dung không
chuyên sâu, chồng chéo.
Bổ sung và hoàn thiện hệ thống, thể chế quản lý đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sĩ
quan LLCSND. Muốn vậy, Bộ An ninh Lào - trực tiếp là Tổng cục Chính trị, Tổng cục
Cảnh sát và các đơn vị liên quan - cần thực hiện: tổng hợp và xây dựng quy hoạch, kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sĩ quan LLCSND. Theo dõi, hướng dẫn, kiểm tra
việc thực hiện kế hoạch đối với các cơ quan quản lý, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của
Bộ An ninh. Theo dõi, kiểm tra việc xây dựng, thực hiện chương trình, nội dung, giáo
trình đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan LLCSND đối với cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, khắc phục
tình trạng thiếu giáo trình, tài liệu tham khảo dành cho học viên. Xây dựng định mức,
chỉ tiêu kế hoạch ngân sách hàng năm dành cho đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan LLCSND;
phân bổ chỉ tiêu, chế độ ngân sách cho đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan LLCSND của Bộ.
137
Xây dựng chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan LLCSND đối với cơ quan
quản lý và cơ sở đào tạo, bồi dưỡng. Thực hiện phân công, phân cấp rõ ràng trách
nhiệm trong quản lý đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan LLCSND. Tổng hợp và xây dựng kế
hoạch hàng năm và dài hạn để củng cố và phát triển cơ sở vật chất, kỹ thuật của cơ sở
đào tạo, bồi dưỡng.
Ngoài ra, Bộ An ninh cần xem xét, rà soát các văn bản pháp quy về công tác
đào tạo, bồi dưỡng LLCSND nói chung và sĩ quan LLCSND nói riêng để điều chỉnh,
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn từng thời kỳ, từng giai đoạn. Nghiên cứu,
xây dựng những văn bản mới đáp ứng với tình hình thực tiễn trong nước và quốc tế.
Mục đích của công việc này là hoàn thiện được hệ thống thể chế quản lý đào tạo, bồi
dưỡng nhằm giải quyết căn bản và thống nhất những vấn đề đang và sẽ đặt ra trong quá
trình quản lý đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan LLCSND. Từ quy chế đào tạo, bồi dưỡng,
chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy đào tạo, quy chế giảng viên, học viên đến quy
chế về hệ thống chương trình, quy chế về cấp văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận...
Để công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sĩ quan LLCSND đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội; CNH, HĐH cần có sự đầu tư kinh phí,
xây dựng cơ sở vật chất, phát triển nguồn nhân lực cho quá trình đào tạo, bồi dưỡng
theo hướng hiện đại hóa, với các vấn đề cụ thể sau:
Tiến hành điều tra, thống kê, phân tích, đánh giá số lượng và chất lượng đội ngũ
giảng viên. Xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ này đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ trước mắt và lâu dài theo hướng chuẩn hóa (về học hàm, học vị).
Hoàn thiện khung tổ chức bộ máy về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sĩ quan
LLCSND của ngành; xây dựng quy chế hoạt động; đặc biệt là cơ chế phối hợp chỉ đạo
thống nhất của Bộ An ninh Lào; sự phối hợp về đào tạo, bồi dưỡng giữa Bộ An ninh
với các bộ, ngành khác, các cơ sở đào tạo quốc gia.
Đầu tư kinh phí, xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy và học tập
hiện đại. Cụ thể: sớm thành lập, kiện toàn, hoàn thiện, hiện đại hóa cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng sĩ quan LLCSND của Bộ có những phòng học chuyên dụng, cố định với các
trang, thiết bị hiện đại như: máy chiếu hình, video...
Về kinh phí cho đào tạo, bồi dưỡng, khi thực hiện mở rộng và đa dạng hóa loại
hình đào tạo thì nguồn kinh phí cũng phải được mở rộng, khai thác theo đúng quy định
của Nhà nước và thật sự có hiệu quả, bao gồm: nguồn kinh phí từ ngân sách Trung
ương; nguồn dự án, tài trợ; nguồn tự huy động hay nguồn khác. Hằng năm, khi lập kế
138
hoạch dự toán thu chi, cần có quy định tỷ lệ trích ngân sách nhà nước thích đáng cho
công tác đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan LLCSND. Các nguồn kinh phí đào tạo, bồi dưỡng
từ ngân sách phải được quản lý và sử dụng theo đúng quy định của Bộ Tài chính. Việc
huy động các nguồn kinh phí khác ngoài ngân sách cho công tác đào tạo, bồi dưỡng sĩ
quan LLCSND là rất quan trọng. Vì vậy, phải có chủ trương rõ ràng và quy định thống
nhất, dựa trên nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan LLCSND và điều kiện thực tế, về
việc thu hút, quản lý và sử dụng các nguồn kinh phí hỗ trợ này.
Hiện nay, Chính phủ đã có chủ trương thực hiện những chế độ đãi ngộ hợp lý
làm động cơ thúc đẩy sĩ quan LLCSND đi học, không ngừng nâng cao trình độ, năng
lực nghiệp vụ. Bộ An ninh Lào những năm qua đã có một số chế độ đãi ngộ đối với sĩ
quan LLCSND, tham gia học tập. Tuy nhiên, chủ trương tích cực này cần được xây
dựng và thực hiện một cách nhất quán, mang tính toàn diện đối với cả đội ngũ và bộ
phận sĩ quan LLCSND, bao gồm: chế độ trợ cấp hằng tháng cho học viên; chế độ
khuyến khích những người tích cực tham gia đào tạo, bồi dưỡng để đạt tiêu chuẩn,
bằng cấp cao hơn; chính sách sử dụng sĩ quan LLCSND sau khi đào tạo... Trong điều
kiện đội ngũ sĩ quan LLCSND đang còn thiếu những chuyên gia giỏi, những người có
thể đảm nhận các công tác khó và mới, một mặt nên mời, thu hút người tài, mặt khác
cần có những đãi ngộ thỏa đáng đối với sĩ quan LLCSND được đưa đi đào tạo đã đạt
thành tích xuất sắc trong học tập để khuyến khích phát triển đội ngũ này.
Tăng cường hợp tác quốc tế trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sĩ quan LLCSND.
Việc tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sĩ
quan LLCSND hiện nay đã trở thành yêu cầu cấp bách. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế
diễn ra mạnh mẽ và yêu cầu xây dựng nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh,
chuyên nghiệp, hiện đại hóa, người sĩ quan LLCSND không chỉ có những kinh nghiệm
từ thực tiễn trong nước, mà phải nắm bắt được những tri thức, kinh nghiệm tiên tiến để
vận dụng vào thực tế công tác, đồng thời xử lý tốt những tình huống mà thách thức của
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra. Bởi vậy, việc hợp tác quốc tế phải trở thành một
bộ phận quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sĩ quan LLCSND.
Để tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ sĩ quan LLCSND
trong thời gian tới nên thực hiện các biện pháp chủ yếu sau:
Xây dựng những chương trình hợp tác quốc tế dài hạn và ngắn hạn theo chỉ tiêu
và kinh phí của Nhà nước. Lồng ghép nội dung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ này vào các
dự án do nước ngoài tài trợ với nhiều hình thức thực hiện phong phú và đa dạng như:
139
các dự án mang tính quốc gia, dự án của tổ chức... Hợp tác quốc tế đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ sĩ quan LLCSND ngay tại trong nước, địa phương, với sự hỗ trợ bằng kinh phí,
chuyên gia nước ngoài.
Lựa chọn trọng tâm, trọng điểm các nhóm đối tượng sĩ quan LLCSND cho
chương trình hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng, nhất là lĩnh vực đang cần chuyên
gia, chuyên viên cao cấp hoặc trong nước chưa có đủ điều kiện đào tạo để theo kịp yêu
cầu của tiến trình của hội nhập quốc tế. Lựa chọn sĩ quan LLCSND tham gia chương
trình hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng đó có thể là những người đang đảm nhận
tốt các chức vụ nhất định, được đào tạo, bồi dưỡng để phát triển hơn hoặc những sinh
viên ưu tú, những sĩ quan LLCSND trẻ, có phẩm chất và năng lực được đào tạo, bồi
dưỡng để kế thừa, đảm nhận các cương vị công tác sẽ có trong tương lai. Hết sức tránh
việc chọn cử những sĩ quan LLCSND đã lớn tuổi hoặc có nhiều năm công tác theo kiểu
"giải quyết chính sách", vì như thế đào tạo, bồi dưỡng mang lại hiệu quả thấp.
Lựa chọn đúng đối tác để hợp tác quốc tế đào tạo, bồi dưỡng. Khi lựa chọn chú
ý các quốc gia phát triển và có kinh nghiệp trong lĩnh vực cảnh sát, có nên kinh tế hành
chính lâu đời, những nước, vùng lãnh thổ đã và đang hợp tác phát triển trên địa bàn, có
chế độ chính trị - xã hội tương đồng.
4.2.4. Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát và bảo vệ đội ngũ sĩ
quan lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào
Kiểm tra, thanh tra, giám sát đội ngũ sĩ quan LLCSND là hoạt động xem xét
tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và công việc
được giao cho sĩ quan LLCSND đã thực hiện nghiêm túc và có kết quả trên thực tiễn
như thế nào, kịp thời phát huy ưu điểm, uốn nắn những việc làm sai trái của sĩ quan
LLCSND.
Để nâng cao chất lượng công tác quản lý, kiểm tra, thanh tra, giám sát đội ngũ sĩ
quan LLCSND trong thời gian tới cần tập trung vào những vấn đề sau:
Về công tác quản lý đội ngũ sĩ quan LLCSND.
Bộ máy quản lý sĩ quan LLCSND cần được tổ chức lại theo hướng phân cấp
thẩm quyền, trách nhiệm rõ ràng giữa cơ quan quản lý sĩ quan LLCSND ở Bộ An ninh
với việc xây dựng một văn bản quy phạm pháp luật để đảm bảo cho tổ chức thực hiện
theo hướng nhà nước pháp quyền XHCN.
Thực hiện đầy đủ và nghiêm túc các nội dung về quản lý sĩ quan LLCSND như:
tuyển chọn, bố trí, phân công, điều động và luân chuyển; nhận xét, đánh giá; quy
140
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng; bổ nhiệm, miễn nhiệm; khen thưởng, kỷ luật; thực hiện chế
độ, chính sách và kiểm tra, thanh tra, giám sát công việc, giải quyết khiếu nại, tố cáo
đối với sĩ quan LLCSND.
Trong quản lý sĩ quan LLCSND phải đảm bảo thực hiện nghiêm nguyên tắc và
hình thức về Đảng NDCM Lào thống nhất lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ và quản lý
đội ngũ cán bộ, đội ngũ sĩ quan LLCSND, đi đôi với việc phát huy trách nhiệm của các
tổ chức và người đứng đầu các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể trong ngành về
công tác tổ chức, cán bộ; đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định,
đồng thời phát huy đầy đủ trách nhiệm cá nhân.
Tăng cường quản lý đội ngũ sĩ quan LLCSND chặt chẽ về số lượng, cơ cấu, chất
lượng, đánh giá, phân loại, lý lịch cá nhân, quá trình trưởng thành, phẩm chất chính trị,
đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp, phong cách, lối sống, chuyên môn nghiệp vụ,
năng lực thực tiễn và quan hệ gia đình, quan hệ xã hội của từng sĩ quan LLCSND và cả
đội ngũ.
Tin học hóa công tác quản lý đội ngũ sĩ quan LLCSND để nâng cao chất lượng
quản lý sĩ quan LLCSND được tốt hơn. Xây dựng phần mềm quản lý sĩ quan
LLCSND. Ban hành quy định, quy chế cập nhật và chế độ báo cáo thường xuyên về
việc bổ sung, tăng giảm sĩ quan LLCSND; báo cáo số lượng và chất lượng sĩ quan
LLCSND hàng tháng để các cấp quản lý sĩ quan LLCSND nắm được tình hình và trực
tiếp phục vụ cho việc hoạch định chính sách và nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan
LLCSND về các mặt. Quy định và ban hành danh mục mã số các cơ quan, tổ chức, đơn
vị Bộ An ninh Lào từ Trung ương đến địa phương. Quy định thống nhất quản lý và
phát hành thẻ sĩ quan LLCSND. Nội dung thẻ sĩ quan LLCSND ngoài tên cơ quan,
ảnh, số hiệu, chức danh còn chứa các thông tin chính về bản thân sĩ quan LLCSND có
thể truy cập được trên máy tính.
Về công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát đội ngũ sĩ quan LLCSND.
Đối với sĩ quan LLCSND, cần tập trung kiểm tra, thanh tra, giám sát lập trường
tư tưởng, quan điểm chính trị, ý thức chấp hành các chỉ thị, nghị quyết, hiệu quả tổ
chức thực hiện nhiệm vụ được phân công, ý thức trách nhiệm, phong cách công tác;
mối quan hệ với tổ chức và bên ngoài, tính tiên phong gương mẫu, phẩm chất chính trị,
phẩm chất đạo đức, đạo đức nghề nghiệp, nghĩa vụ... của sĩ quan LLCSND. Kiểm tra,
thanh tra, giám sát về trách nhiệm hướng dẫn và bảo đảm tính công khai, minh bạch về
thủ tục hành chính nhà nước đối với tổ chức và công dân; việc bảo đảm về trình tự, quy
141
trình, thủ tục và thời gian giải quyết công việc theo quy định của pháp luật; thái độ
phục vụ, tôn trọng và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân; việc
chấp hành sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng pháp luật trong việc giải quyết công việc cho tổ
chức và công dân.
Đối với cơ quan, nội dung kiểm tra, thanh tra, giám sát phải hướng vào việc
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, đoàn kết thống nhất
trong tổ chức, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; các quy chế, quy định làm việc, phân
công và quản lý sĩ quan LLCSND; ý thức chấp hành chấp hành chủ trương, chính sách,
nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Sớm ban hành một văn bản quy phạm pháp luật về công tác kiểm tra, thanh tra,
giám sát; văn bản quy phạm pháp luật về chuẩn mực nghề nghiệp, thực hiện công vụ,
đạo đức công tác của đội ngũ sĩ quan LLCSND để đảm bảo cơ chế hoạt động kiểm tra,
thanh tra, giám sát đội ngũ sĩ quan LLCSND hợp hiến, hợp pháp và có tính đồng bộ.
Kiện toàn bộ máy tổ chức và đội ngũ sĩ quan LLCSND làm nhiệm vụ chuyên
môn về kiểm tra, thanh tra, giám sát đội ngũ sĩ quan LLCSND.
* Về nâng cao chất lượng công tác bảo vệ sĩ quan LLCSND:
Bảo vệ sĩ quan LLCSND là bộ phận của công tác xây dựng Đảng, xây dựng
LLCSND, là quy luật trong quá trình tồn tại và phát triển của Đảng, của CSND. Bảo vệ
sĩ quan LLCSND là vấn đề có ý nghĩa sống còn của chế độ, của Bộ An ninh Lào, là
trách nhiệm của Đảng NDCM Lào và trách nhiệm của Đảng ủy Bộ An ninh. Cho nên,
để làm tốt và nâng cao chất lượng công tác bảo vệ sĩ quan LLCSND trong thời gian tới
là phải làm tốt một số vấn đề sau:
- Nhận thức đúng đắn về tình hình, nhiệm vụ và yêu cầu bảo vệ chính trị nội bộ
và bảo vệ cán bộ, bảo vệ sĩ quan LLCSND. Thực hiện công cuộc đổi mới, hội nhập
quốc tế; tác động của mặt trái của nền kinh tế thị trường; sự chống phá của các thế lực
thù địch... đặt ra yêu cầu mới phải tăng cường công tác bảo vệ sĩ quan LLCSND để lực
lượng luôn trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân.
- Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, cán bộ lãnh đạo, sĩ quan
LLCSND, của hệ thống chính trị về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ sĩ quan
LLCSND.
- Tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng đạo đức của Chủ tịch
Cayxỏn PHÔMVIHÁN, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và
tinh thần cảnh giác cách mạng cho cán bộ, đảng viên, sĩ quan LLCSND.
142
- Duy trì thành nề nếp việc chấp hành các nguyên tắc, quy chế về công tác cán
bộ, công tác lực lượng, về công tác đảng, công tác chính trị trong Bộ An ninh và tăng
cường kiểm tra việc thực hiện.
- Kiện toàn hệ thống tổ chức công tác bảo vệ chính trị nội bộ, nâng cao chất
lượng các công tác nghiệp vụ và đội ngũ cán bộ, sĩ quan chuyên trách công tác bảo vệ
chính trị nội bộ.
- Xây dựng và thực hiện quy chế phối hợp giữa các cơ quan tham mưu của
cấp ủy về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ sĩ quan LLCSND với các ban
Đảng, các cơ quan chức năng của Nhà nước trong công tác bảo vệ Đảng và bảo vệ
sĩ quan LLCSND.
- Động viên, lãnh đạo và tổ chức nhân dân tham gia bảo vệ sĩ quan LLCSND.
- Tăng cường kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn của cấp ủy cơ quan bảo vệ Đảng và
cán bộ cấp trên đối với cấp dưới.
4.2.5. Đổi mới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng uỷ Bộ An ninh, Tổng cục
Cảnh sát đối với công tác xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan lực
lượng Cảnh sát nhân dân Lào
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ủy Bộ An ninh, Tổng cục Chính trị,
Tổng cục Cảnh sát, các cấp ủy đảng các cấp về đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng trong công tác cán bộ và quản lý sĩ quan LLCSND.
Để tăng sự lãnh đạo đối với công tác cán bộ và quản lý sĩ quan LLCSND của
Đảng ủy Bộ An ninh và các cấp ủy thuộc An ninh các cấp gồm các hình thức, phương
pháp chủ yếu sau:
Lãnh đạo bằng chủ trương, nghị quyết, chiến lược, quy chế, quy định về công
tác cán bộ và quản lý cán bộ. Đây là sự lãnh đạo quan trọng nhất, đồng thời là sự lãnh
đạo đặc trưng của Đảng đối với công tác cán bộ và quản lý cán bộ. Do vậy, tùy theo
từng nội dung cần lãnh đạo, đối tượng lãnh đạo cụ thể và yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra
trong từng thời kỳ, các cấp ủy xây dựng chủ trương, nghị quyết, chỉ thị và các định
hướng lớn lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý cán bộ. Trong đó, nêu quan điểm, tư
tưởng chủ đạo, chỉ ra mục tiêu cần đạt tới, phương hướng và các giải pháp chủ yếu
nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, nâng cao chất lượng cán bộ, nâng cao chất lượng sĩ
quan LLCSND.
Lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục tổ chức
đảng, sĩ quan LLCSND để thực hiện nghị quyết, chủ trương về công tác cán bộ và
quản lý cán bộ. Khơi dậy và huy động tiềm năng, trí tuệ, kinh nghiệm, sáng tạo của đội
143
ngũ cán bộ, đội ngũ sĩ quan LLCSND, hướng vào xây dựng đội ngũ cán bộ, xây dựng
đội ngũ sĩ quan LLCSND là một nội dung quan trọng, có tác dụng to lớn để các cấp ủy
của Bộ An ninh lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý cán bộ, phát huy sức mạnh đội
ngũ sĩ quan LLCSND tổ chức thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối, nghị quyết,
chỉ thị và các định hướng lớn của Đảng ủy Bộ An ninh và các cấp ủy đảng về công tác
cán bộ và quản lý cán bộ.
Lãnh đạo thông qua phân công, phân cấp quản lý cán bộ, phát huy vai trò quản
lý nhà nước của Bộ; vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, người đứng đầu các tổ chức
trong hệ thống chính trị của Bộ. Từ việc nắm chắc công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ
trong Bộ An ninh, Đảng uỷ Bộ An ninh chi phối và điều khiển hoạt động của các đơn
vị, đoàn thể theo định hướng chính trị của Đảng.
Lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý cán bộ bằng công tác tổ chức, xây dựng tổ
chức và đội ngũ cán bộ làm công tác cán bộ. Thông qua thiết kế các cơ cấu tổ chức,
Đảng ủy Bộ An ninh lãnh đạo công tác cán bộ các cấp ủy đảng để lãnh đạo công tác
cán bộ và quản lý cán bộ, thông qua việc xây dựng các quy chế, quy định, lề lối làm
việc của cán bộ để lãnh đạo công tác cán bộ. Việc xây dựng các tổ chức và đội ngũ cán
bộ làm công tác cán bộ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo công tác cán bộ
của Bộ An ninh.
Lãnh đạo thông qua vai trò của tổ chức đảng, vai trò tiền phong gương mẫu
của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bằng vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán
bộ, đảng viên trong cơ quan, đoàn thể, đơn vị nhất là cán bộ, đảng viên giữ các cương
vị lãnh đạo, chỉ huy trong bộ máy tổ chức, đơn vị làm theo và thực hiện tốt định hướng
chính trị theo chủ trương, đường lối của Đảng.
Lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát. Hoạt động kiểm tra, giám sát đối
với công tác cán bộ của các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể, đặc biệt thông qua kiểm
tra các cá nhân đảng viên giữ những trọng trách trong cơ quan, đơn vị phải trở thành
nhiệm vụ thường xuyên, bảo đảm cho Đảng nắm vững bộ máy nhà nước, đoàn thể
chấp hành sự lãnh đạo của Đảng.
Hai là, tăng cường phân công, phân cấp trong quản lý, bố trí và sử dụng sĩ quan
LLCSND đồng thời xác định rõ trách nhiệm của cấp ủy, tập thể lãnh đạo, các tổ chức,
người đứng đầu trong công tác cán bộ.
Quản lý cán bộ là một khâu rất quan trọng có quan hệ mật thiết với các khâu
khác của công tác cán bộ. Quản lý tốt cán bộ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các khâu
khác của công tác cán bộ đạt chất lượng, hiệu quả. Ngược lại, các khâu của công tác
144
cán được thực hiện tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý cán bộ đạt chất
lượng hiệu quả, tạo nên chất lượng chung của công tác cán bộ. Vì vậy, phương thức
lãnh đạo đối với công tác cán bộ của Đảng ủy Bộ An ninh, các cấp ủy phải gắn với việc
tăng cường phân công, phân cấp trong quản lý, bố trí và sử dụng sĩ quan LLCSND
đồng thời xác định rõ trách nhiệm của các tổ chức, người đứng đầu các tổ chức, đơn vị
của ngành trong công tác cán bộ.
Ba là, cụ thể hóa, bổ sung, hoàn thiện các quy chế, quy định, quy trình thực
hiện các khâu công tác cán bộ vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy, mở
rộng dân chủ; thực hiện tốt chủ trương bầu cử có số dư, mở rộng thi tuyển cán bộ
lãnh đạo, quản lý.
Cụ thể hóa, bổ sung, hoàn thiện các quy chế, quy định, quy trình thực hiện các
khâu công tác cán bộ trong đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, bổ
nhiệm lại, giới thiệu cán bộ ứng cử, điều động, luân chuyển và thực hiện chính sách
cán bộ gắn với công tác kiểm tra, giám sát cán bộ và công tác cán bộ. Đồng thời, thực
hiện tốt chủ trương lấy phiếu tín nhiệm cán bộ; bầu cử có số dư; mở rộng thi tuyển cán
bộ lãnh đạo, quản lý. Đây là những chủ trương lớn nhằm từng bước đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ, do đó, cấp ủy các cấp của Bộ An ninh
cần đặc biệt quan tâm quán triệt và tổ chức thực hiện tốt để đổi mới phương thức lãnh
đạo đối với công tác cán bộ ở cơ quan, tổ chức và đơn vị.
Bốn là, xây dựng bộ máy làm công tác tổ chức của Bộ An ninh thực sự vững
mạnh, tham mưu, tổ chức thực hiện có hiệu quả việc đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng ủy Bộ An ninh đối với công tác cán bộ và quản lý cán bộ.
Việc xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác tổ chức của Bộ An ninh
theo hướng tinh gọn, tập trung vào việc xác định rõ lại chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, mối quan hệ công tác và các vị trí công tác thật sự rõ ràng, tránh quy định chung
chung, dễ dẫn tới tình trạng chồng chéo, phân tán, chia cắt trong thực hiện nhiệm vụ,
gây khó khăn, trở ngại cho hoạt động có tính liên tục và hệ thống của tổ chức bộ máy,
ảnh hưởng đến phương thức lãnh đạo công tác cán bộ của Đảng ủy Bộ An ninh.
Năm là, tăng cường sự lãnh đạo, giúp đỡ của các ban, ngành Trung ương về đổi
mới phương thức lãnh đạo công tác cán bộ cho Đảng ủy Bộ An ninh và cấp ủy các cấp
thuộc Bộ.
Thể hiện vai trò đặc biệt quan trọng trong lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương,
nhất là của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và trực tiếp, thường xuyên là hướng dẫn, chỉ đạo
145
của Ban Tổ chức Trung ương. Đảng ủy Bộ An ninh là cấp ủy trực thuộc Trung ương,
việc chấp hành sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương là thực hiện nguyên tắc tổ chức
của Đảng: Nguyên tắc tập trung dân chủ trong khâu then chốt là công tác cán bộ, lĩnh
vực liên quan đến vận mệnh của cán bộ và tác động trực tiếp đến việc nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các đảng bộ, bảo đảm tính thống nhất, chặt chẽ của
tổ chức, đơn vị dưới sự lãnh đạo của Đảng.
4.2.6. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; nâng cao phẩm
chất đạo đức, lối sống và tinh thần ý thức tự rèn luyện, phấn đấu vươn lên của đội
ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào
Trước yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề, khó khăn, phức tạp của công tác cảnh sát
trong tình hình mới, để bảo đảm sĩ quan LLCSND luôn giữ vững bản chất cách mạng,
tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì sự
nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội, kiên định mục tiêu, lý
tưởng cách mạng của Đảng, kiên định công cuộc đổi mới xây dựng CNXH, vững vàng
trước mọi khó khăn, thử thách, vấn đề tiên quyết là phải thống nhất nhận thức, trong
bất cứ hoàn cảnh, điều kiện nào cũng phải chăm lo xây dựng sĩ quan LLCSND vững
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị,
tư tưởng, giáo dục truyền thống cho sĩ quan LLCSND, coi đó là nền tảng để nâng cao
sức chiến đấu, chất lượng các mặt công tác CSND; cụ thể:
Một là, tăng cường sự chỉ đạo của các cấp uỷ đảng và lãnh đạo An ninh các cấp
đối với công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; đồng thời phải đi đôi với đề cao vai trò
nêu gương của cấp ủy, lãnh đạo chỉ huy, nhất là của người đứng đầu tổ chức, đơn vị.
Việc tăng cường sự chỉ đạo của cấp uỷ và lãnh đạo An ninh các cấp quyết định
đến việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đảm bảo
cho công tác giáo dục chính trị, tư tưởng được tiến hành thường xuyên, đúng định
lượng, thống nhất về nội dung, biện pháp tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức
chính trị, củng cố niềm tin, lập trường tư tưởng và đạo đức lối sống của người sĩ quan
LLCSND. Tiến hành công tác giáo dục chính trị, tư tưởng là trách nhiệm của mọi tổ
chức, mọi lực lượng, của cán bộ, đảng viên, trong đó tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ chỉ
huy các cấp giữ vai trò “trung tâm, then chốt” trong việc tăng cường, nâng cao chất
lượng giáo dục chính trị, tư tưởng.
Cùng với việc phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng trong công tác
giáo dục chính trị tư tưởng, phải nâng cao ý thức trách nhiệm của đội ngũ sĩ quan
146
LLCSND và vai trò nêu gương, đầu tầu gương mẫu trong việc thực hiện của đội ngũ
cán bộ, chủ chốt, nhất là của người đứng đầu. Bởi vì đội ngũ sĩ quan LLCSND là người
trực tiếp tổ chức mọi hoạt động ở đơn vị, cán bộ tốt hay xấu đều ảnh hưởng to lớn đến
kết quả và chất lượng mọi mặt hoạt động của đơn vị. Do đó, để tăng cường và nâng cao
hiệu quả các hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng phải phát huy vai trò tiên phong
gương mẫu, đi đầu của đội ngũ sĩ quan LLCSND và người đứng đầu; giải quyết hài
hòa mối quan hệ giữa lãnh đạo và chỉ huy, gắn ý thức trách nhiệm với kết quả hoàn
thành nhiệm vụ của đơn vị, khắc phục tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, tranh công, đổ
lỗi cho nhau.
Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo công tác giáo dục chính trị, tư tưởng phải bám sát và
phục vụ trực tiếp nhiệm vụ chính trị của đơn vị, tập trung làm chuyển biến về nhận
thức và hành động, củng cố niềm tin, khơi dậy niềm tự hào và ý chí phấn đấu vươn lên
của sĩ quan LLCSND trong thực hiện các nhiệm vụ công tác được giao và rèn luyện
phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống. Trong chương trình công tác hàng năm, cấp ủy
và lãnh đạo An ninh các cấp phải xác định những công việc cụ thể nhằm gắn kết chặt
chẽ giữa công tác giáo dục chính trị, tư tưởng với các mặt công tác khác của đơn vị,
đồng thời lựa chọn một số vấn đề cấp thiết về công tác chính trị, tư tưởng để tập trung
chỉ đạo, thực hiện có chất lượng hiệu quả. Coi trọng việc tổ chức sinh hoạt Đảng, chính
quyền, đoàn thể, đấu tranh phê bình và tự phê bình là biện pháp quan trọng để tiến
hành công tác giáo dục chính trị, tư tưởng.
Hai là, nâng cao chất lượng hiệu quả công tác nắm, đánh giá và giải quyết tình
hình tư tưởng sĩ quan LLCSND trên cơ sở đó để có những nội dung, phương pháp,
hình thức tiến hành công tác giáo dục chính trị, tư tưởng phù hợp với từng đối tượng,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị đặt ra của đơn vị.
Việc nắm chắc, đánh giá tình hình tư tưởng sĩ quan LLCSND là một nhiệm vụ
quan trọng của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giúp cho cấp ủy đảng, chính
quyền, đoàn thể và cơ quan chính trị các cấp trong LLANND kịp thời thu thập những
thông tin phản ánh về tình hình tư tưởng, đạo đức, lối sống của sĩ quan LLCSND; phân
tích, đánh giá, rút ra những kết luận về tình hình tư tưởng trong từng thời gian cụ thể,
làm cơ sở cho việc đề ra những chủ trương, biện pháp công tác xây dựng sĩ quan
LLCSND cho phù hợp. Trong những năm qua, dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy Bộ An
ninh, các cấp ủy đảng và thủ trưởng An ninh các đơn vị, địa phương đã có nhiều cố
gắng trong việc tổ chức, theo dõi nắm bắt và kịp thời giải quyết những vấn đề nảy sinh
147
về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong sĩ quan LLCSND; đề ra những chủ trương, định
hướng trong công tác tư tưởng góp phần củng cố lòng tin của sĩ quan LLCSND vào sự
lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên CNXH ở Lào. Nhất là đã tổ chức tốt việc nắm
tình hình tư tưởng của sĩ quan LLCSND sau những biến động phức tạp của tình hình
quốc tế và trong nước. Để nắm chắc, đánh giá tình hình tư tưởng sĩ quan LLCSND
phải từ nhiều nguồn, bằng nhiều hình thức, thông qua việc thực hiện nhiệm vụ công tác
được giao, thông qua sinh hoạt đảng, chuyên môn, đoàn thể quần chúng; trao đổi, tọa
đàm, đối thoại, gặp gỡ trực tiếp, tổ chức giao ban, phản ánh tình hình tư tưởng… Có
nắm vững tình hình tư tưởng sĩ quan LLCSND, từ đó mới giúp mỗi tổ chức Đảng,
chính quyền, đoàn thể quần chúng đề ra được nội dung, biện pháp công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng đúng, trúng, sát hợp và có hiệu quả cao.
Ba là, đổi mới nội dung, phương thức nâng cao chất lượng hiệu quả công tác
giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng đạo đức Cayxỏn PHÔMVIHÁN, công tác
giáo dục truyền thống vẻ vang của Đảng, dân tộc và của LLANND.
Quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước và tiếp tục đẩy mạnh việc học tập, làm theo tấm
gương đạo đức Cayxỏn PHÔMVIHÁN, các phong trào thi đua Vì an ninh Tổ quốc…
góp phần làm cho toàn thể sĩ quan LLCSND có nhận thức đầy đủ, sâu sắc về chủ
nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; nắm vững mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội của đất
nước. Trên cơ sở đó xây dựng đội ngũ sĩ quan LLCSND có ý chí cách mạng, tinh
thần trách nhiệm cao, phẩm chất đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, chấp hành
nghiêm kỷ luật, đoàn kết thống nhất, luôn cảnh giác, kiên quyết đấu tranh chống
những tư tưởng sai trái, lệch lạc, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng đạo đức
Cayxỏn PHÔMVIHÁN, quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng NDCM Lào,
xứng đáng với truyền thống của LLCSND; trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân
dân, vì nước quên thân, vì dân phục vụ.
Bốn là, tăng cường công tác quản lý cán bộ, công tác bảo vệ chính trị nội bộ,
phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn sự suy thoái đạo đức, lối sống của sĩ quan
LLCSND; kết hợp chặt chẽ công tác giáo dục chính trị, tư tưởng với việc thực hiện
chính sách cán bộ.
Rà soát, hoàn thiện và triển khai thực hiện nghiêm túc các quy định về quản lý
cán bộ, bảo vệ chính trị nội bộ. Tổ chức các cuộc hội thảo, trao đổi tọa đàm nhằm tìm
148
ra các giải pháp thiết thực nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục, quản lý, rèn
luyện đội ngũ sĩ quan LLCSND. Thường xuyên tiến hành công tác thanh tra, kiểm tra
việc thực hiện kỷ cương, kỷ luật, các quy định của Đảng về những điều đảng viên
không được làm, những việc cán bộ, chiến sĩ, sĩ quan LLCSND không được làm. Nhất
là phát huy tính tiên phong, gương mẫu, đi đầu trong thực hiện đạo đức, lối sống của
cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, sĩ quan LLCSND lãnh đạo, quản lý, chỉ huy để cán
bộ, chiến sĩ học tập noi theo.
Cùng với việc làm tốt công tác quản lý cán bộ, quản lý sĩ quan LLCSND cần phải
đẩy mạnh hơn nữa công tác bảo vệ nội bộ, phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời các vi phạm
của cán bộ, sĩ quan LLCSND. Tổ chức tốt việc tuyên truyền, động viên, cổ vũ, tạo điều
kiện cho các cấp, các ngành, đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội và nhân dân tích cực
tham gia các hoạt động giám sát, giúp đỡ sĩ quan LLCSND trong thực hiện nhiệm vụ bảo
vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội và xây dựng lực lượng vững mạnh về tư tưởng, tổ chức và
đạo đức lối sống, bằng các hình thức như: định kỳ lấy ý kiến đánh giá của cấp ủy, chính
quyền nơi cán bộ, sĩ quan LLCSND cư trú; tổ chức hòm thư góp ý tại nơi làm việc, tiếp
xúc, giải quyết các công việc cho tổ chức và công dân; duy trì thực hiện nghiêm túc chế độ
trực ban, tiếp dân; tổ chức các “diễn đàn an ninh lắng nghe ý kiến góp ý của nhân dân”...
Phải kết hợp chặt chẽ công tác giáo dục chính trị tư tưởng với việc thực hiện
chính sách cán bộ. Thực hiện tốt chính sách cán bộ sẽ giúp cho cán bộ, sĩ quan
LLCSND an tâm công tác, nêu cao tinh thần trách nhiệm, nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả công việc được giao. Vì vậy, việc xây dựng và thực hiện chính sách
cán bộ phải đảm bảo công bằng, hài hòa, động viên cán bộ, sĩ quan LLCSND phát huy
tinh thần chủ động, sáng tạo, hăng say học tập, công tác, chiến đấu.
Năm là, quan tâm, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác giáo
dục chính trị, tư tưởng trong an ninh nhân dân về trình độ, năng lực; đầu tư cơ sở vật
chất, trang bị phương tiện làm việc; đồng thời quan tâm đến chế độ chính sách đãi ngộ
đối với đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục chính trị, tư tưởng.
Đội ngũ làm công tác giáo dục chính trị, tư tưởng là lực lượng nòng cốt trong
các hoạt động của công tác xây dựng LLANND, là những người trực tiếp tham mưu,
giúp cấp ủy và lãnh đạo an ninh các cấp tổ chức thực hiện tốt công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng, xây dựng đơn vị đoàn kết thống nhất, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức. Để nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, các đơn vị, cơ
quan tham mưu phải xây dựng kế hoạch bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho họ;
149
phải quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng đủ về số lượng, đa dạng về loại hình, mạnh về chất lượng, có lập trường kiên
định, vững vàng, có trình độ chính trị và kiến thức chuyên môn cơ bản, luôn sáng tạo,
giầu tâm huyết, trí tuệ, kinh nghiệm hoạt động thực tiễn và nghiệp vụ công tác giáo
dục chính trị, tư tưởng; có đạo đức, phẩm chất, nhiệt tình, say mê công tác, gắn bó mật
thiết với cơ sở và đời sống xã hội. Đây vừa là yêu cầu cấp bách, vừa là giải pháp cơ bản
lâu dài để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng hiện nay.
Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong tình
hình hiện nay, cấp uỷ Đảng và lãnh đạo An ninh các cấp cần tăng cường đầu tư nâng cấp
các cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện phục vụ tốt công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng; quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị chức năng nghiên cứu và từng bước hoàn
thiện các văn bản quy định về chính sách đối với cán bộ, chiến sĩ nói chung, đội ngũ làm
công tác giáo dục chính trị, tư tưởng nói riêng. Nhất là xây dựng cơ chế về chế độ, chính
sách đối với đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cả về
lợi ích vật chất và tinh thần, tạo điều kiện để đội ngũ này phát triển tài năng, cống hiến.
Chỉ có như vậy mới động viên, tạo hứng thú cho họ yên tâm công tác, phát huy năng lực,
sở trường, nghề nghiệp, nhiệt tình, tâm huyết, tích cực trong công tác, thực sự phát huy
vai trò nòng cốt trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng của LLANND.
Về giáo dục nâng cao phẩm chất đạo đức, lối sống cho sĩ quan LLCSND:
Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ giáo dục nâng cao phẩm chất đạo đức, lối
sống, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp cho sĩ quan LLCSND cần tập trung vào một số
nội dung lớn, gắn liền với sự hình thành lối sống, nhân cách văn hóa thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH, chủ động hội nhập quốc tế. Phẩm chất đạo đức, lối sống, các chuẩn mực
đạo đức nghề nghiệp cần giáo dục cho sĩ quan LLCSND bao gồm một hệ thống các
chuẩn mực mà nội dung cốt lõi là đạo lý yêu nước, thương đồng bào, giàu lòng nhân ái,
xây dựng phong cách làm việc văn minh, lối sống và ứng xử văn hóa, vì nhân dân phục
vụ, đồng thời hướng tới và giữ gìn nét đẹp: chân, thiện, mỹ truyền thống của con người
Lào. Cụ thể là:
- Luôn nêu cao tinh thần yêu nước và hành động yêu nước; tận trung với nước,
tận hiếu với dân; thực hiện nghiêm điều lệnh cánh sát nhân dân; kiên định và quyết tâm
thực hiện lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, ra sức phấn đấu vì mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trung với nước hiếu với dân
ngày nay thể hiện ở ý chí quyết tâm bảo vệ Đảng NDCM Lào, bảo vệ sự nghiệp đổi
mới của Đảng và Nhà nước, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ nhân dân.
150
- Thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng; rèn luyện phẩm chất: cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư. Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức của Chủ tịch
Cayxỏn PHÔMVIHÁN hiện nay là: nỗ lực hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được
giao, tích cực học tập, rèn luyện với tinh thần sáng tạo, có chất lượng hiệu quả cao;
thực hiện chí công vô tư, luôn ưu tiên đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, của tập thể
lên trên lợi ích cá nhân, xây dựng nội bộ đoàn kết, vững mạnh, kiên quyết chống chủ
nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng; kiên quyết chống bệnh lười biếng, thỏa mãn trong
công tác, rèn luyện, tích cực bài trừ tư tưởng trung bình chủ nghĩa, không có động cơ,
phấn đấu đúng đắn trong công tác chuyên môn.
- Có lối sống giản dị, trong sáng và đức tính cần cù, trung thực, khiêm tốn; tinh
thần cảnh giác cách mạng; có ý thức đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống; kiên quyết chống các hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp, sách
nhiễu nhân dân, các tệ nạn xã hội như đánh bạc, lô đề, cá độ, vay tiền, cắm quán, bảo
kê cho tội phạm,…
- Rèn luyện phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo; luôn có ý thức tự học
hỏi vươn lên, xác định việc học tập và rèn luyện phẩm chất đạo đức, chuyên môn
nghiệp vụ là nhiệm vụ hàng đầu, không ngừng phấn đấu nâng cao trình độ mọi mặt
trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực công tác được giao; phấn đấu trở thành người sĩ
quan LLCSND thời đại mới vừa “hồng”, vừa “chuyên”.
- Đối với đội ngũ sĩ quan LLCSND trẻ, đó là luôn nêu cao tinh thần tiên phong,
xung kích tình nguyện đi đầu đảm nhận các việc khó, việc khổ nơi vùng sâu, vùng xa,
nơi biên giới,… không đòi hỏi Tổ quốc phải làm gì cho mình mà luôn tự hỏi mình đã
làm được gì có lợi, dù rất nhỏ cho Tổ quốc, cho nhân dân, cho ngành; thực hiện tốt
khẩu hiệu hành động “ Người cảnh sát vì nước quên thân, vì dân phục vụ”.
- Luôn phát huy tinh thần độc lập tự chủ, ý thức tự lực tự cường, sẵn sàng nhận
và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao trong bất kỳ hoàn cảnh nào; sẵn sàng chiến đấu,
hy sinh bảo vệ sự nghiệp của Đảng, bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc và CNXH.
- Luôn nêu cao ý thức xây dựng đoàn kết nội bộ trong tập thể đơn vị; nêu cao
tinh thần tương thân, tương ái, giúp đỡ đồng chí, đồng nghiệp. Có lòng yêu ngành, yêu
nghề, tâm huyết với nghề, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc; có lương tâm
nghề nghiệp trong sáng xứng đáng là người sĩ quan LLCSND suốt đời phấn đấu vì độc
lập tự do của Tổ quốc, vì cuộc sống bình yên của nhân dân.
151
Về việc phát huy, tăng cường, nâng cao tinh thần tự rèn luyện, phấn đấu tự
vươn lên của sĩ quan LLCSND:
Phát huy, tăng cường tự bồi dưỡng các kỹ năng, tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện
và ý chí phấn đấu vươn lên của các sĩ quan LLCSND là để họ biết cách thức tự điều
chỉnh, tự điều khiển bản thân mình, sửa mình cho phù hợp với những tiêu chí, yêu cầu
khách quan của tình hình, nhiệm vụ chính trị mới. Thông qua thực tiễn cuộc sống xã
hội và các hoạt động thực tiễn sinh động, để giáo dục tinh thần tự giác học tập, tu
dưỡng, rèn luyện cho sĩ quan LLCSND phù hợp với lĩnh vực, công việc, chức trách,
nhiệm vụ của từng sĩ quan LLCSND.
Tình hình đất nước, khu vực và thế giới đang có những biến đổi mới, đòi hỏi đội
ngũ sĩ quan LLCSND phải có những nhận thức mới phù hợp với yêu cầu của thực tiễn
mới, phải nêu cao ý thức tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện trong thực tiễn, để nâng cao bản
lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tri thức khoa học cần thiết và phẩm chất đạo đức, lối sống,
phương pháp và tác phong công tác đáp ứng đòi hỏi ngày một cao hơn của tình hình,
nhiệm vụ mới. Sĩ quan LLCSND đa số đang ở lứa tuổi thanh niên, là lớp người hăng hái,
tích cực, năng động, nhạy bén với cái mới, nhưng còn thiếu lý luận, kinh nghiệm, chưa
được trải nghiệm nhiều trong hoạt động thực tiễn, nên trong công tác thường lúng túng
khi gặp những nhiệm vụ mới, những vấn đề phức tạp, khó khăn. Nếu không tích cực tự
học tập, tu dưỡng và rèn luyện; không ngừng nâng cao toàn diện cả phẩm chất và năng
lực thì sẽ không đủ sức vượt qua để hoàn thành nhiệm vụ của người sĩ quan LLCSND.
Vì vậy, các cấp ủy đảng, lãnh đạo các cơ quan, đơn vị trong ngành cần động viên, giúp
đỡ họ để nâng cao hơn nữa chất lượng tự học, tự tu dưỡng, rèn luyện về mọi mặt.
Để nâng cao, tăng cường ý thức tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện của đội ngũ sĩ
quan LLCSND trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển của đất nước hiện nay
cần quan tâm giải quyết đồng bộ một số yêu cầu, nội dung chủ yếu sau:
Tăng cường giáo dục động cơ, bồi dưỡng kỹ năng, xây dựng tinh thần tự giác
học tập, tu dưỡng, rèn luyện cho đội ngũ sĩ quan LLCSND. Tinh thần tự giác học tập,
tu dưỡng, rèn luyện của sĩ quan LLCSND chỉ có kết quả tốt khi chính đội ngũ này nhận
thức đúng đắn những yêu cầu, chuẩn mực về phẩm chất chính trị, phẩm chất trí tuệ,
đạo đức, lối sống và năng lực công tác của người sĩ quan LLCSND và tự nhận thức
đúng về chính bản thân mình. Để xây dựng thái độ, động cơ tự học tập, tu dưỡng, rèn
luyện đúng đắn cho đội ngũ sĩ quan LLCSND, trước hết các cấp ủy đảng, thủ trưởng
các cơ quan, đơn vị trong ngành từ Trung ương đến địa phương cần giáo dục thường
152
xuyên cho đội ngũ sĩ quan LLCSND nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của việc tự
học, tự tu dưỡng và rèn luyện của bản thân họ, thấy rõ những yêu cầu, đòi hỏi khách
quan về tiêu chuẩn sĩ quan LLCSND. Đặc biệt, phải giáo dục cho mọi sĩ quan
LLCSND nhận thức sâu sắc rằng: phẩm chất đạo đức cách mạng và trình độ năng lực
của con người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có, mà phần lớn phải trải qua quá
trình học tập, rèn luyện thường xuyên, liên tục, nghiêm túc và bền bỉ như Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã từng căn dặn cán bộ, đảng viên: "ngọc càng mài càng sáng, vàng càng
luyện càng trong" [51, tr.301].
Trong quá trình giáo dục phải giúp cho sĩ quan LLCSND, phân biệt được ranh
giới giữa người sĩ quan LLCSND trong nền hành chính nhà nước và quần chúng nhân
dân tích cực ngoài xã hội; người sĩ quan LLCSND phải thể hiện sự hơn hẳn của mình
đối với quần chúng nhân dân ở trình độ tri thức, ở tính tiên phong gương mẫu, phong
cách sống trong sạch lành mạnh, phương pháp làm việc khoa học hiệu quả, trách nhiệm
chính trị cao, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ…, phải là ngọn cờ dẫn đường, định
hướng chính trị, là chỗ dựa tin cậy của người dân, qua đó nâng cao trình độ ý thức, tự ý
thức và ý chí của sĩ quan LLCSND, định hướng và khích lệ họ tự giác, tích cực học
tập, tu dưỡng, rèn luyện bền bỉ biến yêu cầu, đòi hỏi khách quan những tiêu chuẩn sĩ
quan LLCSND trong tình hình mới của cách mạng thành nhu cầu tự thân bên trong của
mỗi sĩ quan LLCSND.
Mỗi sĩ quan LLCSND phải tự nhận thức rõ về ưu điểm và hạn chế của mình,
chủ động khắc phục mâu thuẫn giữa yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng, của địa phương,
ngành, của cơ quan, đơn vị mình với trình độ bất cập của bản thân để xây dựng kế
hoạch, xác định ý chí, quyết tâm thường xuyên tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện nâng
cao trình độ trí tuệ, kiến thức, năng lực cần thiết và phẩm chất đạo đức, lối sống,
phương pháp, tác phong công tác, làm việc của mình để hoàn thành tốt nhiệm vụ được
Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho. Dựa trên việc tự đánh giá đúng bản thân mình,
biết đúng "sở trường, sở đoản" của mình, mỗi sĩ quan LLCSND phải tự xây dựng kế
hoạch, xác định nội dung, biện pháp và ý chí quyết tâm tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện
nâng cao trình độ trí tuệ, kiến thức, năng lực cần thiết và phẩm chất đạo đức lối sống,
phương pháp, tác phong công tác, làm việc của mình. Đây là quá trình chủ quan hóa
cái khách quan, là đòi hỏi cao nhất tính tích cực, chủ động của mỗi sĩ quan LLCSND.
Tạo môi trường, điều kiện rèn luyện thực tiễn và phong trào tự giác học tập, tu
dưỡng, rèn luyện của đội ngũ sĩ quan LLCSND gắn với cuộc vận động “Học tập và
153
làm theo tấm gương đạo đức Cayxỏn PHÔMVIHÁN”. Các cấp ủy, tổ chức đảng, thủ
trưởng cơ quan, đơn vị trong ngành cần tạo ra môi trường, những điều kiện, hoàn cảnh
thuận lợi, thiết thực nhất để sĩ quan LLCSND nảy sinh nhu cầu và động cơ học tập, tu
dưỡng, rèn luyện đúng đắn; đồng thời, phân công, giao nhiệm vụ cho sĩ quan LLCSND
trong hoạt động thực tiễn để họ có điều kiện cọ xát, rèn luyện, thử thách. Tiếp tục đẩy
mạnh hơn nữa phong trào tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện của đội ngũ sĩ quan
LLCSND, mỗi sĩ quan LLCSND tự học tập, rèn luyện, phấn đấu tu dưỡng đạo đức và
trở thành hành động tự giác, tự nguyện, tự thân trong mỗi người sĩ quan LLCSND.
Phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý về
tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện để cho toàn đội ngũ sĩ quan LLCSND noi theo. Mọi sĩ
quan LLCSND phải thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của các bậc lão thành cách mạng, của
Đảng NDCM Lào về học tập, rèn luyện là công việc suốt đời của cán bộ, đảng viên,
mỗi sĩ quan LLCSND phải có kế hoạch thường xuyên để tự học tập, nâng cao trình độ
lý luận chính trị, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn. Học tập vừa là quyền lợi,
vừa là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi sĩ quan LLCSND và phải được quy định thành
nền nếp, chế độ. Mỗi sĩ quan LLCSND phải thật sự là một tấm gương sáng mẫu mực
trong học tập, trong công tác cũng như trong cuộc sống. Thường xuyên và kịp thời thực
hiện tốt việc nêu gương, biểu dương, khen thưởng, tuyên truyền và nhân rộng những
tấm gương điển hình về sĩ quan LLCSND tiêu biểu trong quá trình tự học tập, tu
dưỡng, rèn luyện nhằm kích thích tính tích cực, tự giác và khơi dậy sự say mê, hứng
thú, lòng nhiệt huyết vươn lên phấn đấu học tập, tu dưỡng, rèn luyện phát triển không
ngừng của họ; đồng thời, phê phán những sĩ quan LLCSND thiếu cố gắng, dựa dẫm, ỷ
lại, lười học tập, không chịu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, kỹ năng nghiệp
vụ, lối sống, phong cách công tác.
4.2.7. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chế độ chính sách
đãi ngộ đối với đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào
Điều 5, Luật LLANND đã quy định “Nhà nước có chính sách khuyến khích xây
dựng và phát triển LLANND lớn mạnh về mọi mặt, vững vàng về chính trị, tư tưởng,
trình độ, năng lực; trang bị phương tiện, vũ khí, kỹ thuật, công nghệ hiện đại; cung cấp
ngân sách, giải quyết đời sống vật chất và tinh thần cho LLANND để bảo đảm hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tính mạng, tài
sản, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân” [190, tr.473]. Còn điều 42, 44 của Luật
LLANND cũng đã quy định rõ về chính sách tiền lương, tiền công, thăng quân hàm
154
trước thời hạn, chế độ nghỉ ngơi, chế độ khám chữa bệnh, chế độ khen thưởng, chế độ
tăng thêm tiền lương trước khi nghỉ hưu theo chế độ... Để thực hiện tốt chế độ chính
sách đãi ngộ đối với đội ngũ sĩ quan LLCSND trong thời gian tới, cần tập trung những
nội dung:
Một là, các cấp ủy, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị trong Bộ An ninh Lào phải
luôn nhận thức đúng vị trí, vai trò của công tác chính sách đãi ngộ; thường xuyên và
tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp trong mọi hoạt động công tác chính sách đãi
ngộ ở các cấp.
Hai là, gắn chặt việc thực hiện chế độ chính sách đãi ngộ với xây dựng bộ máy
tổ chức trong sạch, vững mạnh; xây dựng bộ máy và đội ngũ cán bộ, chiến sĩ làm công
tác chính sách đãi ngộ ở các cấp trong Bộ An ninh vững mạnh toàn diện, bảo đảm việc
phối kết hợp với các ngành, các cấp chính quyền và tổ chức đoàn thể đạt hiệu quả cao.
Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức đoàn thể, nhân dân để đảm
bảo việc thực hiện chế độ chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ sĩ quan LLCSND đạt hiệu
quả cao. Thực hiện chính sách đãi ngộ đúng đối tượng, đúng với sự đóng góp công sức
thực tế và là động lực cho sĩ quan LLCSND thực hiện tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Bốn là, làm tốt công tác đánh giá trước khi thực hiện chính sách đãi ngộ đối với
đội ngũ sĩ quan LLCSND. Kết quả đánh giá sĩ quan LLCSND sẽ chỉ ra mặt ưu điểm,
thành tựu của sĩ quan LLCSND; đồng thời cũng chỉ ra những hạn chế, yếu kém của sĩ
quan LLCSND. Chính thông qua đánh giá, nó sẽ góp phần rất lớn trong thực hiện
chính sách đãi ngộ đúng đối tượng, đúng thành tích của từng sĩ quan LLCSND.
Năm là, tăng cường công tác nghiên cứu và xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật về công tác chính sách đãi ngộ đối với sĩ quan LLCSND hợp khoa học, hợp hiến.
Phải có quy chế phối hợp về công tác chính sách đãi ngộ đối với sĩ quan LLCSND
riêng biệt để thực hiện hiệu quả chế độ chính sách đãi ngộ đối với sĩ quan LLCSND.
Sáu là, kiện toàn bộ máy tổ chức làm công tác chính sách của Bộ An ninh Lào
theo hướng tinh gọn, chặt chẽ, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Thường xuyên coi
trọng việc giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện, nâng cao trình độ hiểu biết và các khối kiến
thức về chuyên môn nghiệp vụ công tác chính sách cho đội ngũ cán bộ làm công tác
chính sách để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, công việc được giao.
155
KẾT LUẬN
1. Đội ngũ sĩ quan LLCSND có vai trò đặc biệt quan trọng trong xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Đội
ngũ sĩ quan LLCSND, có những đặc điểm
2. Chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND là tổng hợp chất lượng của từng sĩ quan
LLCSND, số lượng và cơ cấu đội ngũ sĩ quan LLCSND. Đánh giá chất lượng đội ngũ
sĩ quan LLCSND phải dựa vào các tiêu chí cụ thể về số lượng, cơ cấu; phẩm chất chính
trị; phẩm chất đạo đức, lối sống; trình độ, kiến thức, năng lực công tác và triển khai
thực hiện nhiệm vụ được giao của đội ngũ sĩ quan LLCSND. Để nâng cao chất lượng
đội ngũ sĩ quan LLCSND là toàn bộ hoạt động của chủ thể ở Bộ An ninh và Tổng cục
Cảnh sát, trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc, quy chế, nội dung, hình thức, biện
pháp, giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND, nhằm xây dựng đội ngũ
sĩ quan LLCSND có chất lượng tốt, đáp ứng nhiệm vụ chính trị của Bộ, Tổng cục Cảnh
sát, góp phần xây dựng đất nước ổn định và phát triển bền vững.
3. Trong thời gian qua các cấp uỷ Bộ An ninh, Tổng cục Cảnh sát đã tích cực
chủ động nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND, tích cực đào tạo sĩ quan
LLCSND qua nhiều hình thức để nâng cao trình độ mọi mặt của họ, tăng cường quản
lý sĩ quan LLCSND, tiêu hoá khâu đầu vào lực lượng bổ sung... Nhờ đó, chất lượng
đội ngũ sĩ quan LLCSND đã cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và
nhân dân giao phó.
Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND trong thời gian qua còn khuyết
điểm, yếu kém. Thực trạng yếu kém đó bắt nguồn từ nhuyên nhân khách quan và chủ
quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là cơ bản, quyết định. Thực tiễn nâng cao chất
lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND có thể rút ra một số kinh nghiệm bước đầu.
4. Để xây dựng đội ngũ sĩ quan LLCSND có chất lượng tốt, đáp ứng yêu cầu
CNH, HĐH đất nước trong những năm tới, cần thực hiện tốt các phương hướng, giải
pháp: 1) Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của Đảng uỷ và lãnh đạo Bộ An ninh và
Đảng uỷ, lãnh đạo Tổng cục Cảnh sát về nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan cảnh sát
nhân dân Lào; 2) Bổ sung, hoàn thiện tiêu chuẩn chức danh sĩ quan Cảnh sát nhân dân;
các quy chế, quy trình về công tác cán bộ và quản lý đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh
sát nhân dân Lào; 3) Đổi mới đồng bộ các khâu của công tác cán bộ để nâng cao chất
lượng đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào; 4) Đổi mới sự lãnh đạo của
156
Đảng uỷ Bộ An ninh, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Cảnh sát đối với công tác cán bộ
và quản lý đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào;
5) Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; nâng cao phẩm chất đạo đức, lối
sống và tinh thần ý thức tự rèn luyện, phấn đấu vươn lên của đội ngũ sĩ quan lực lượng
Cảnh sát nhân dân Lào; 6) Nâng cao chất lượng công tác quản lý, kiểm tra, giám sát và
bảo vệ đội ngũ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân dân Lào; và 7) Tiếp tục sửa đổi, bổ
sung và hoàn thiện hệ thống chế độ chính sách đãi ngộ sĩ quan lực lượng Cảnh sát nhân
dân Lào. Thực hiện các giải pháp đó, chính là quá trình quán triệt và vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng và đạo đức Chủ tịch Cayxỏn
PHÔMVIHÁN và của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ, lực lượng và công tác lực
lượng vũ trang, nhất là công tác sĩ quan và lực lượng sĩ quan Cảnh sát nhân dân phù
hợp với thực tế ở Bộ An ninh, Tổng cục Cảnh sát. Để các giải pháp được đề cập trong
luận án được thực thi, một mặt các cấp uỷ ở Bộ An ninh, Tổng cục Cảnh sát phải tích
cực, chủ động thực hiện và phối hợp với cấp uỷ cấp trên, với các cơ quan, tổ chức,
chính quyền và các đoàn thể quần chúng các cấp; đồng thời phát huy vai trò tích cực,
chủ động tự học, tự rèn luyện vươn của mỗn sĩ quan Cảnh sát nhân dân.
5. Nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND là việc làm khó khăn phúc
tạp, nhưng là một nội dung quan trọng, nhằm góp phần xây dựng các Đảng bộ, các cấp
uỷ ở Bộ An ninh, Tổng cục Cảnh sát trong sạch, vững mạnh; vì vậy, đây là nhiêm vụ,
trách nhiệm phải được tiến hành thường xuyên, kiên trì và tổ chức hiệu quả. Phải xây
dựng cho được đội ngũ sĩ quan LLCSND có đây đủ bản lĩnh cách mạng, giai cấp, bản
lĩnh chính trị, lập trường, quan điểm đúng đắn, vững vàng trước mọi biến động của tình
hình; có trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật,
giữ gìn đoàn kết thống nhất trong cơ quan, trong tổ chức, trong đơn vị và trong Đảng.
6. Những vấn đề tác giả nêu trong luận án chỉ là kết quả nghiên cứu khoa học
bước đầu, chắc chắn luận án còn thiếu sót. Rất mong các nhà khoa học, các tổ chức và
cá nhân liên quan góp ý kiến. Những vấn đề cập trong luận án này, nếu được đem vào
vận dụng trong thực tế, tác giả hy vọng sẽ góp phần thiết thực vào việc nâng cao chất
lượng đội ngũ sĩ quan LLCSND, góp phần vào thực hiện thành công sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước do Đảng NDCM Lào đề ra và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị
bảo đảm trật tự an toàn xã hội mà Đảng giao cho Bộ An ninh và Tổng cục Cảnh sát
trong từng giai đoạn và trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.
157
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. BOUNHEUANG THAMMAKOT (2017), "Những tiêu chí cơ bản đánh giá chất
lượng đội ngũ sĩ quan Cảnh sát nhân dân Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
và giải pháp thực hiện", tại trang www.lyluanchinhtri.vn, ngày 19-4.
2. BUN-HƯƠNG THĂM-MẠ-KỘT (2017), "Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ
sĩ quan Cảnh sát nhân dân Lào", Tạp chí Xây dựng Đảng, (8), tr.63-65.
3. BOUNHEUANG THAMMAKOT (2017), “Đánh giá và sử dụng cán bộ - công
chức là yếu tố để cán bộ phát triển bản thân tiến lên không ngừng”,
Tạp chí Korsangphak, (190).
4. BOUNHEUANG THAMMAKOT (2017), “Xây dựng đội ngũ cán bộ sĩ quan
Cảnh sát nhân dân cấp chiến dịch, chiến lược của ngành An ninh Lào đạt
chất lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới”, Tạp chí Cảnh sát nhân dân,
(135), tr.79-81.
158
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tài liệu tiếng Việt
1. Thủy Anh (2007), “Nâng cao chất lượng cán bộ tổ chức từ thực tiễn một số tỉnh
miền núi phía bắc”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (5), tr.43-44.
2. Cao Khoa Bảng (2013), Về việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
3. Ban Tổ chức Trung ương (2003), “Về luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý với
các bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương”, Kỷ yếu Hội nghị tổ chức tại Hà
Nội, ngày 26, 27-5.
4. Lê Đức Bình (2004), “Để đánh giá đúng cán bộ”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (9),
tr.36-37.
5. Bộ Nội vụ (2007), Chương trình xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức hành chính nhà nước giai đoạn I (2003-2005), Đề án 1, Tổng
điều tra, khảo sát, đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà
nước giai đoạn I (2003-2005), Hà Nội.
6. Bun xợt THĂM MA VÔNG (2004), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện
ở các tỉnh phía Nam nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong giai
đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
7. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Nguyễn Văn Côi (2012), Luân chuyển cán bộ diện ban thường vụ tỉnh ủy quản lý ở
các tỉnh miền núi phía Bắc trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Khoa
học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
9. Đỗ Minh Cương (2013), "Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ", Tạp chí Xây dựng
Đảng, (9).
10. Nguyễn Văn Du (2013), "Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở nước ngoài", Tạp chí Xây dựng Đảng, (2+3).
11. Nguyễn Văn Du (2014), "Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
tham mưu chiến lược", Tạp chí Xây dựng Đảng, (5).
159
12. Lê Hoàng Dũng (2014), Công tác luân chuyển cán bộ diện ban thường vụ huyện
ủy quản lý ở thành phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay. Luận văn thạc sĩ
Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
13. Phạm Quang Dũng (2005), “Luân chuyển, tăng cường cán bộ đi cơ sở ở Lào
Cai”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (12), tr.28-29, 38.
14. Nguyễn Thành Dũng (2010), "Một số tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp huyện ở Tây Nguyên", Tạp chí Xây dựng Đảng, (8).
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành
Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đệt ta con PHI LA PHĂN ĐỆT (2004), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ
chốt các ban, ngành ở thành phố Viên Chăn trong giai đoạn cách mạng
hiện nay, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
22. Đặng Nam Điền (2010), "Chủ động đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ", Tạp chí
Xây dựng Đảng, (11).
23. Trần Cát Điền (2005), “Chất lượng nhân sự đại hội đảng bộ cấp quận bắt đầu từ
làm tốt công tác quy hoạch cán bộ”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (10), tr.29-30.
24. Đỗ Xuân Định (2008), "Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các Ban Tổ chức
tỉnh, thành ủy - thực trạng và giải pháp", Tạp chí Xây dựng Đảng, (10).
25. Hoàng Mạnh Đoàn (2009), “Về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nghiệp vụ tổ
chức”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (11), tr.36-37, 41.
160
26. Nguyễn Thị Thu Hà (2010), “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của Thành phố
Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu mới”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (4), tr.20-23.
27. Tô Tử Hạ (Chủ biên) (2005), Nghiệp vụ về Công tác tổ chức nhà nước, Nxb
Thống kê, Hà Nội.
28. Nguyễn Tiến Hải (2013), “Tạo nguồn cán bộ quân đội trên địa bàn miền núi phía
Bắc”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (4), tr.49-51.
29. Vũ Văn Hiền (Chủ biên) (2007), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Trần Đình Hoan (Chủ biên) (2009), Đánh giá quy hoạch, luân chuyển cán bộ
lãnh đạo, quản lý thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Hoàng Văn Hoan (2013), “Đổi mới công tác tài chính để nâng cao chất lượng đào
tạo”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (11), tr.30-32, 60.
32. Nguyễn Dương Hùng (2005), “Một số nét về đội ngũ cán bộ của Đảng hiện nay”,
Tạp chí Lý luận chính trị, (12), tr.35-39.
33. Lưu Vĩnh Hưng (2014), Luân chuyển cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy Phú
Yên quản lý trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị,
chuyên ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
34. Phạm Thu Huyền (2005), “Luân chuyển cán bộ cấp huyện ở Hải Phòng”, Tạp chí
Xây dựng Đảng, (10), tr.31-32, 53.
35. Thu Huyền (2007), “Giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ tổ chức từ thực tiễn một
số tỉnh miền Trung”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (6), tr.47-49.
36. Phạm Công Khâm (2002), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông
thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện nay, Luận án tiến sĩ Khoa học chính
trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
37. Khăm-phăn VÔNG-PHA-CHĂN (2013), "Nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ
Lào", Tạp chí Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, (12).
38. Nguyễn Tuấn Khanh (2015), “Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho
đội cán bộ lãnh đạo, quản lý”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (2+3), tr.16-17.
161
39. Nguyễn Đức Khiển (2014), “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tổ
chức xây dựng đảng trong Quân đội”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (4), tr.21-23.
40. Nguyễn Minh Khôi (2010), "Bàn về “Tâm”, “Tầm” của đội ngũ cán bộ, đảng
viên hiện nay", Tạp chí Xây dựng Đảng, (8).
41. Bùi Đức Lại (2007), "Bàn thêm về quy hoạch cán bộ”, Tạp chí Xây dựng Đảng,
(10), tr.29-32.
42. Hoàng Phúc Lâm (2014), “Nâng cao chất lượng tự đào tạo của cán bộ trẻ tại Học
viện”, Tạp chí Lý luận chính trị, (9), tr.64-67.
43. Đỗ Thị Ngọc Lan (2004), “Góp phần nâng cao năng lực cán bộ lãnh đạo”, Tạp
chí Xây dựng Đảng, (9), tr.40-41.
44. Vũ Ngọc Lân (2012), “Hãy để dân lựa chọn, giới thiệu”, Tạp chí Xây dựng Đảng,
(6), tr.32-33,57.
45. Thủy Minh (2012), "Làm gì để cán bộ cơ sở ở Gia Lâm đạt chuẩn?", Tạp chí Xây
dựng Đảng, (6).
46. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Nguyễn Dương Nam (2015), “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tham mưu các
cơ quan đảng ở Trung ương”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (2+3), tr.93-95.
54. Nguyễn Văn Năng (2006), Luân chuyển cán bộ thuộc diện tỉnh ủy quản lý ở tỉnh
Bắc Giang hiện nay, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, chuyên ngành
Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
55. Đặng Thu Nga (2005), “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tổ chức”, Tạp chí Xây dựng
Đảng, (10), tr.15-16, 19.
56. Hữu Ngọc (1987), Từ điển Triết học giản yếu, Nxb Đại học và Trung học chuyên
nghiệp, Hà Nội.
57. Nguyễn Quốc Nhật (1997), “Bàn về chiến lược đào tạo của lực lượng Công an
nhân dân”, Tạp chí Trật tự an toàn xã hội, (3), tr.7-11.
162
58. Trần Văn Nhuận (2007), “Quy hoạch, luân chuyển cán bộ trong lực lượng công
an nhân dân”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (8), tr.16-17, 29.
59. Đặng Đình Phú (2005), “Nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình của đội
ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (4), tr.39-40, 55.
60. Phu thon VO RA PHẾT (2012), Hỏi cung bị can trong điều tra vụ án tàng trữ,
vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào. Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội.
61. Lê Hoàng Quân (2006), “Quy hoạch cán bộ dài hạn ở Thành phố Hồ Chí Minh”,
Tạp chí Xây dựng Đảng, (4), tr.13-15.
62. Trần Đại Quang (2008), “Tăng cường công tác xây dựng lực lượng Cảnh sát nhân
dân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới”, Tạp chí Khoa học và
giáo dục trật tự xã hội của Học viện Cảnh sát nhân dân, (9-28), tr.9-11.
63. Thân Minh Quế (2007), “Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức của tỉnh Bắc Giang”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (5), tr.32-34
64. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Công an nhân
dân, số 73/2014/QH13, ngày 27-11-2014, Hà Nội.
65. Nguyễn Văn Quynh (2011), "Tiếp tục đổi mới công tác đào tạo và bồi dưỡng cán
bộ", Tạp chí Xây dựng Đảng, (1+2).
66. Trần Xuân Sầm (Chủ biên) (1998), Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh
đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
67. Samlane PHANKHAVONG (2014), Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách công
tác thi đua, khen thưởng cấp tỉnh của nước CHDCND Lào giai đoạn hiện
nay, Luận án tiến sĩ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
68. Nguyễn Công Soái (2007), "Quy hoạch cán bộ của Đảng bộ thành phố Hà Nội",
Tạp chí Xây dựng Đảng, (11).
69. Sởm súc SỈM PHA VÔNG (2012), Tổ chức vận động quần chúng đấu tranh
phòng, chống tội phạm ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Luận án tiến sĩ
luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội.
70. Trần Thanh Sơn (2006), Luân chuyển cán bộ thuộc Thành ủy Hà Nội quản lý hiện
nay, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
163
71. Vũ Khắc Sơn (Chủ nhiệm) (2010), Nâng cao hiệu quả tổ chức đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức ngành lao động Thương binh và xã hội, Đề tài
khoa học cấp Trường, mã số CT-TTĐT: 03-2010, Trường Đại học Lao
động - Xã hội, Hà Nội.
72. Xuân Sơn (2007), “Biện pháp nâng cao chất lượng đảng viên nông thôn miền núi
phía Bắc”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (10), tr.22-24.
73. Nguyễn Trung Tài (2014), "Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Hà
Giang", Tạp chí Xây dựng Đảng, (5).
74. Trịnh Thanh Tâm (2012), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt là nữ của hệ thống
chính trị xã ở đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ
Khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
75. Trần Đình Thắng (2013), Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
76. Nguyễn Mạnh Thắng (2014), "Xây dựng bản lĩnh chính trị cho chính ủy, chính trị
viên ở đơn vị cơ sở theo tư tưởng Hồ Chí Minh", Tạp chí Cộng sản chuyên
đề cơ sở, (96).
77. Phạm Tất Thắng (2005), Luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý diện tỉnh uỷ quản
lý ở tỉnh Ninh Bình giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính,
chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
78. Lâm Quang Thao (2013), Chất lượng luân chuyển cán bộ diện Ban Thường vụ
Thành ủy Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Khoa
học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
79. Trần Bá Thiều (2014), "Xây dựng đội ngũ cán bộ công an nhân dân trước yêu cầu
mới", Tạp chí Xây dựng Đảng, (1+2).
80. Đỗ Huy Thông (2012), Luân chuyển cán bộ diện ban thường vụ tỉnh ủy Quảng
Ninh quản lý trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị,
chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị -
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
164
81. Trương Thị Thông (2014), “Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý
của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh hiện nay”, Tạp chí Lịch sử
Đảng, (286-9), tr.26-33.
82. Cao Văn Thống (chủ biên) (2012), Tự phê bình và phê bình trong Đảng, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
83. Cao Văn Thống (sưu tầm và biên soạn) (2014), Nguyên tắc tập trung dân trong
công tác xây dựng Đảng hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Phạm Ngọc Thước (2003), "Luân chuyển cán bộ - động lực mới, nguồn sáng tạo
mới trong công việc", Tạp chí Xây dựng Đảng, (5).
85. Thu Thủy (2008), "Để nâng cao chất lượng cán bộ nữ ở Ban Tổ chức tỉnh, thành
ủy", Tạp chí Xây dựng Đảng, (10).
86. Thu Thủy (2014), “Nâng cao chất lượng đảng viên người dân tộc thiểu số”, Tạp
chí Xây dựng Đảng, (11), tr.13-15.
87. Thanh Toàn (2007), “Năng lực, phẩm chất người lãnh đạo trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (10), tr.33-34.
88. Nguyễn Phú Trọng (Chủ nhiệm) (2000), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, Đề tài khoa học xã hội cấp Nhà nước giai đoạn 1996-
2000, mã số KHXH.05.03.
89. Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (Đồng chủ biên) (2003), Luận cứ khoa học
cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
90. Vĩnh Trọng (2013), “Chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” - nhiệm vụ trọng tâm
trên mặt trận chính trị - tư tưởng”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (1), tr.8-11.
91. Nguyễn Văn Trường (2007), Luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc diện
Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng quản lý trong giai đoạn hiện nay,
Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
92. Nguyễn Xuân Tư (2009), “Phương hướng tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục
- đào tạo của lực lượng Công an nhân dân”, Tạp chí Khoa học và giáo dục
trật tự xã hội của Học viện Cảnh sát nhân dân, (5-36), tr.6-11.
165
93. Ngô Minh Tuấn (2007), “Tạo nguồn cán bộ làm công tác tổ chức xây dựng
Đảng”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (10), tr.37-39.
94. Ngô Minh Tuấn (2008), "Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tổ chức xây
dựng Đảng", Tạp chí Xây dựng Đảng, (10).
95. Trần Anh Tuấn (Chủ biên) (2012), Pháp luật về công vụ, công chức của Việt
Nam và một số nước trên thế giới, Nxb Chính quốc gia, Hà Nội.
96. Đình Tùng (2013), "Tuyển chọn công chức tại một số quốc gia", Tạp chí Xây
dựng Đảng, (5).
97. Đình Tùng (2013), "Tuyển dụng, đào tạo công chức ở Nhật Bản", Tạp chí Xây
dựng Đảng, (9).
98. V.I. Lênin (1974), Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
99. V.I. Lênin (1974), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
100. V.I. Lênin (1974), Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
101. V.I. Lênin (1974), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
102. V.I. Lênin (1974), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
103. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva.
104. Viện Ngôn ngữ học (2005), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
105. Lê Kim Việt (2009), "Luân chuyển cán bộ lý luận-khâu đột phá để nâng cao chất
lượng công tác lý luận của Đảng trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Cộng
sản, (11).
106. Hồ Đức Việt (2009), "Tạo chuyển biến sâu sắc trong công tác cán bộ", Tạp chí
Xây dựng Đảng, (3).
107. Hồ Đức Việt (2010), "Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tạp chí Lý luận chính trị, (2).
108. Nguyễn Quốc Việt (2008), "Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý Cà Mau", Tạp
chí Xây dựng Đảng, (2).
109. Phạm Quang Vinh (2005), “Yếu tố khách quan trong đánh giá cán bộ”, Tạp chí
Xây dựng Đảng, (2+3), tr.67-68.
110. Vũ Vọng (2007), “Nhìn lại công tác luân chuyển cán bộ ở Bắc Giang”, Tạp chí
Xây dựng Đảng, (8), tr.25-26.
111. Lê Quý Vương (2009), “Vấn đề phân cấp công tác xây dựng lực lượng và cơ chế
phối hợp giữa các đơn vị trong xây dựng lực lượng Cảnh sát nhân dân”, Tạp
chí Khoa học và giáo dục trật tự xã hội của Học viện Cảnh sát nhân dân,
(9-28), tr.12-15.
166
112. Đức Vượng (2006), “Xây dựng chiến lược con người, tạo nguồn nhân lực, nhân
tài cho đất nước”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (3), tr.7-8, 11.
113. Hứa Khánh Vy (2013), “Giải pháp phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống cán bộ, đảng viên ở Văn Lãng”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (4),
tr.31-32, 45.
114. Hứa Khánh Vy (2014), “Hà Nội nâng cao chất lượng cán bộ trong hệ thống chính
trị ở cơ sở”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (3), tr.9, 23.
115. Xỉnhkhăm PHÔMAXAY (2003), Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo
quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước Lào trong giai đoạn hiện nay, Luận
án tiến sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
116. Lê Ngọc Xuyên (2014), "Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở ở
Tây Nguyên", Tạp chí Xây dựng Đảng, (1+2).
117. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2010), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Đại học quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh.
118. Dương Trung Ý (2013), “Căn cứ đánh giá chất lượng, hiệu quả tự phê bình và
phê bình”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (1), tr.42-44, 59.
* Tài liệu tiếng Lào đã dịch sang tiếng Việt
119. Alunna BÚTTẠVÔNG (2014), Hoàn thiện công tác đánh giá cán bộ kiểm tra
của CHDCND Lào, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học
viện Chính trị và Hành chính quốc gia, Viêng Chăn.
120. Ban Tổ chức Trung ương Đảng (2003), Tổng kết đánh giá về công tác tổ chức,
xây dựng Đảng và cán bộ, Viêng Chăn.
121. Ban Tổ chức Trung Đảng (2007), Văn kiện Hội nghị Tổng kết công tác tổ chức,
xây dựng Đảng và cán bộ toàn quốc năm 2007, Viêng Chăn.
122. Ban Tổ chức Trung Đảng (2009), Văn kiện Hội nghị Tổng kết công tác tổ chức,
xây dựng Đảng và cán bộ toàn quốc lần thứ 8, Viêng Chăn.
123. Ban Tổ chức Trung Đảng (2012), Văn kiện Hội nghị Tổng kết công tác tổ chức,
xây dựng Đảng và cán bộ toàn quốc lần thứ 9, Viêng Chăn.
124. Bộ An ninh Lào (2002), Quyết định về phân cấp quản lý cán bộ trong lực lượng
An ninh nhân dân, số 837/BAN, ngày 18 -12-2002, Viêng Chăn.
167
125. Bộ An ninh Lào (2007), Quyết định về Tổ chức và hoạt động của Tổng cục Cảnh
sát, số 267/AN, ngày 03-04-2008, Viêng Chăn.
126. Bộ An ninh Lào (2009), Quyết định về Tổ chức và hoạt động của Cục Cảnh sát
Quốc tế, số 181/AN, ngày 17-02-2009, Viêng Chăn.
127. Bộ An ninh Lào (2009), Quyết định về Tổ chức và hoạt động của Cục Cảnh sát
kỹ thuật hình sự, số 182/AN, ngày 17-02-2009, Viêng Chăn.
128. Bộ An ninh Lào (2009), Quyết định về Tổ chức và hoạt động của Phòng chính trị
Tổng cục Cảnh sát, số 183/AN, ngày 17-02-2009, Viêng Chăn.
129. Bộ An ninh Lào (2009), Quyết định về Tổ chức và hoạt động của Cục Cảnh sát
Phòng cháy chữa cháy, số 184/AN, ngày 17-02-2009, Viêng Chăn.
130. Bộ An ninh Lào (2009), Quyết định về Tổ chức và hoạt động của Cục Cảnh sát
Kinh tế, số 187/AN, ngày 17-02-2009, Viêng Chăn.
131. Bộ An ninh Lào (2009), Quyết định về Tổ chức và hoạt động của Cục Cảnh sát
Phòng, chống ma túy, số 188/AN, ngày 17-02-2009, Viêng Chăn.
132. Bộ An ninh Lào (2009), Quyết định về Tổ chức và hoạt động của Cục Cảnh sát
giao thông, số 189/AN, ngày 17-02-2009, Viêng Chăn.
133. Bộ An ninh Lào (2009), Quyết định về Tổ chức và hoạt động của Văn phòng
Tổng cục Cảnh sát, số 190/AN, ngày 17-02-2009, Viêng Chăn.
134. Bộ An ninh Lào (2009), Quyết định về Tổ chức và hoạt động của Cục Cảnh sát
trinh sát hình sự, số 191/AN, ngày 17-02-2009, Viêng Chăn.
135. Bộ An ninh Lào (2010), Sổ tay Công tác Đảng, Công tác Chính trị trong lực
lượng an ninh, Nxb An ninh, Viêng Chăn.
136. Bộ An ninh Lào (2010), Quyết định về Tổ chức và hoạt động của Bộ Chỉ huy An
ninh tỉnh - Thủ đô và huyện, số 961/AN, ngày 16-6-2010, Viêng Chăn.
137. Bộ An ninh Lào (2011), Lịch sử truyền thống 50 năm của Lực lượng An ninh
nhân dân (5-4-1961 đến 5-4-2011), Nxb Nhà nước, Viêng Chăn.
138. Bộ An ninh Lào (2012), Tổng kết công tác an ninh năm 2011 và phương hướng
kế hoạch năm 2012, Viêng Chăn.
139. Bộ An ninh Lào (2013), Tổng kết công tác an ninh năm 2012 và phương hướng
kế hoạch năm 2013, Viêng Chăn.
140. Bộ An ninh Lào (2014), Tổng kết công tác an ninh năm 2013 và phương hướng
kế hoạch năm 2014, Viêng Chăn.
168
141. Bộ An ninh Lào (2015), Tổng kết công tác an ninh năm 2014 và phương hướng
kế hoạch năm 2015, Viêng Chăn.
142. Bộ An ninh Lào (2015), Số liệu thống kê của Tổng cục Chính trị năm 2015,
Viêng Chăn.
143. Bộ An ninh Lào (2016), Số liệu thống kê của Tổng cục Chính trị năm 2016,
Viêng Chăn.
144. Bộ An ninh Lào (2017), Số liệu thống kê của Tổng cục Chính trị năm 2017,
Viêng Chăn.
145. Bộ An ninh Lào (2016), Tổng kết công tác an ninh năm 2015 và phương hướng
kế hoạch năm 2016, Viêng Chăn.
146. Bộ An ninh Lào (2017), Tổng kết công tác an ninh năm 2016 và phương hướng
kế hoạch năm 2017, Viêng Chăn.
147. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), Số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2015,
Viêng Chăn.
148. Bộ Nội vụ (2012), Hướng dẫn về việc tổ chức thực hiện Chỉ thị của thủ tướng về
việc thử nghiệm xây tỉnh thành đơn vị chiến lược, xây huyện thành đơn vị
vững mạnh toàn diện và xây bản thành đơn vị phát triển, số 01/BNV, ngày
13-7-2012, Viêng Chăn.
149. Bun me SI PẠ SỞT (2012), “Phẩm chất chính trị và trình độ, năng lực là yếu tố
quyết định của cán bộ, đảng viên trong lực lượng An ninh”, Tạp chí Lý luận
và thực tiễn của lực lượng An ninh, (42), tr.6-9.
150. Bun mi KHẮN KẸO (2011), Nâng cao khả năng của cán bộ trong quản lý hành
chính nhà nước cấp huyện ở nước ta, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây
dựng Đảng, Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào, Viêng Chăn.
151. Bun thạ ma ly MẲN A NÔNG (2013), "Nâng cao chất lượng cán bộ tài chính ở
tỉnh ẮT TẠ PƯ", Tạp chí Xây dựng Đảng DNCM Lào, (142).
152. Cayxỏn PHÔMVIHÁN (1985), Tuyển tập, tập 1, Nxb Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào, Viêng Chăn.
153. Cayxỏn PHÔMVIHÁN (1987), Tuyển tập, tập 2, Nxb Nxb Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào, Viêng Chăn.
154. Cayxỏn PHÔMVIHÁN (1997), Tuyển tập, tập 3, Nxb Học viện Chính trị và
Hành chính quốc gia, Viêng Chăn.
169
155. Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (2007), Nghị định về tổ
chức và hoạt động của Bộ An ninh Lào, số 79/TTg, ngày 27-02-2007,
Viêng Chăn.
156. Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (2010), Nghị định về tăng
cường công tác thị đua - khen thưởng trong giai đoạn mới, số 121/TTg,
ngày 24-02-2010, Viêng Chăn.
157. Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (2010), Nghị định về quy định
chính sách đối với cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ ở vùng sâu vùng
xa, hiểm trở, số 468/TTg, ngày 10-11-2010, Viêng Chăn.
158. Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (2012), Chỉ thị về việc thử
nghiệm xây tỉnh thành đơn vị chiến lược, xây huyện thành đơn vị vững
mạnh toàn diện và xây bản thành đơn vị phát triển, số 16/TTg, ngày 15-
06-2012, Viêng Chăn.
159. Đảng bộ Bộ An ninh Lào (2015), Văn kiện Đại hội lần thứ IV, Viêng Chăn.
160. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IV, Nxb Nhà nước, Viêng Chăn.
161. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1993), Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ 7 khóa V về phát triển nguồn nhân lực ở Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào, Viêng Chăn.
162. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb Nhà nước, Viêng Chăn.
163. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Nhà nước, Viêng Chăn.
164. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2003), Quy định của Bộ Chính trị về đánh giá
phân loại cán bộ, số 01/BCT, ngày 07-07-2003, Viêng Chăn.
165. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2003), Quy định của Bộ Chính trị về Bổ nhiệm,
chuyển đổi nhiệm vụ và vị trí công tác của cán bộ, số 02/BCT, ngày 14-07-
2003, Viêng Chăn.
166. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2003), Quy định của Bộ Chính trị về tiêu chuẩn
cán bộ, số 04/BCT, ngày 22-07-2003, Viêng Chăn.
167. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2003), Nghị quyết của Bộ Chính trị về tăng
cường công tác tổ chức, xây dựng Đảng và cán bộ trong điều kiện mới, số
113/BCT, ngày 17-11-2003, Viêng Chăn.
170
168. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2006), Quy định của Bộ Chính trị về công tác
quản lý cán bộ, số 02/BCT, ngày 17-10-2006, Viêng Chăn.
169. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Nhà nước, Viêng Chăn.
170. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2007), Chỉ thị của Bộ Chính trị về Quy hoạch
cán bộ lãnh đạo - quản lý trên toàn quốc, số 08/BCT, ngày 12-08-2007,
Viêng Chăn.
171. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Nhà nước, Viêng Chăn.
172. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2012), Nghị quyết của Bộ Chính trị về xây dựng
tỉnh trở thành đơn vị chiến lược, xây dựng huyện trở thành đơn vị vững
mạnh toàn diện, xây dựng Bản trở thành đơn vị phát triển, số 03/BCT, ngày
15 tháng 02 năm 2012, Viêng Chăn.
173. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Nhà nước, Viêng Chăn.
174. Hắc THÊ VA (2014), “Công tác xây dựng Đảng - Xây dựng cán bộ tại An ninh
huyện Thà Phạ Bạt”, Tạp chí Lý luận và thực tiễn của lực lượng An ninh,
(64), tr.41-44.
175. Khăm hùng SÉNG PẠ SỢT, Băn thâu PHIM PHỊ SÁN, Khôm ÍN THỊ LẠT
(2011), Chiến lược phòng chống tiêu cực xã hội. Đề tài khoa học cấp Bộ,
Viêng Chăn.
176. Khăm la văn CHĂN THẠ LA VĂN (2011), Kiện toàn lực lượng an ninh cho
vững mạnh và hiện đại. Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Hành chính, Học
viện Chính trị và Hành chính quốc gia, Viêng Chăn.
177. Khăm mẳn SÓ PA SỢT (2014), "Nâng cao chất lượng đảng viên là nhiệm vụ và
trách nhiệm trực tiếp của cấp ủy", Tạp chí Xây dựng Đảng Nhân dân Cách
mạng Lào, (154).
178. Khăm phắt SÁ LI PHON (2014), “Nâng cao chất lượng công tác quản lý cán bộ
lực lượng An ninh cho vững mạnh”, Tạp chí Lý luận và thực tiễn của lực
lượng An ninh, (64), tr.6-9.
179. Khăm phắt SÁ LI VON (2014), “Một số quan điểm về công tác bồi dưỡng - đào
tạo cán bộ trong lực lượng An ninh trong điều kiện mới”, Tạp chí Lý luận
và thực tiễn của lực lượng An ninh, (67), tr.8-10.
171
180. Khăm phon SENG SÁ LI CHĂN (2014), “Công tác xây dựng cán bộ kế tiếp tại
Bộ An ninh trong điều kiện mới”, Tạp chí Lý luận và thực tiễn của lực
lượng An ninh, (60), tr.5-9.
181. Kống thay THỆP KHĂM HƯƠNG (2013), "Đào tạo - bồi dưỡng cán bộ tổ chức
cấp tỉnh là sự cần thiết cấp bách để hoàn thành nhiệm vụ chính trị của
Đảng", Tạp chí Xây dựng Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, (143).
182. Ma la VỊ LẠ CHÍT, Thoong chăn CHĂN THẠ PHÔNG, Sụ văn ny SI SỤ PHẠP
MY XAY (2011), Chiến lược kiện toàn - xây dựng và bảo vệ giữ gìn lực
lượng an ninh, Đề tài khoa học cấp Bộ, mã số 54-8/11-16, Bộ An ninh,
Viêng Chăn.
183. Phá mi SÍ CHẮN THOONG THỊP (2014), "Nâng cao chất lượng công tác Tổ
chức - cán bộ là yếu tố đảm bảo vai trò cầm quyền của Đảng", Tạp chí Xây
dựng Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, (158).
184. Phân khăm SENG ĐA LA (2012), “Một số vấn đề về xây dựng cán bộ tại Bộ
An ninh”, Tạp chí Lý luận và thực tiễn của lực lượng An ninh, (42), tr.1-5.
185. Phênh són KHĂM SÉN (2010), “Đảng lãnh đạo công tác xây dựng lực lượng An
ninh trong thời kỳ mới”, Tạp chí Xây dựng Đảng (Korxangphak), (107),
tr.33-36.
186. Phon phêng LẢ BĂN ĐÍT (2014), Nâng cao phẩm chất chính trị sĩ quan và chiến
sĩ cảnh sát tại Bộ An ninh, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng,
Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia, Viêng Chăn.
187. Phon xay LATSẠVÔNG (2010), Xây dựng cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Hội
Liên hiệp phụ nữ ở Thủ đô Viêng Chăn giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia,
Viêng Chăn.
188. Quốc hội nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (1991), Hiến pháp nước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Nxb Nhà nước, Viêng Chăn.
189. Quốc hội nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (2003), Hiến pháp nước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Nxb Nhà nước, Viêng Chăn.
190. Quốc hội nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (2007), Luật lực lượng an ninh
nhân dân, Viêng Chăn.
191. Quốc hội nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (2015), Hiến pháp nước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Nxb Nhà nước, Viêng Chăn.
172
192. Sạ vẳn xay A SÁY (2014), Nâng cao chất lượng của đội ngũ đảng viên ở các
huyện tỉnh Sạvẳnnạkhệt, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng,
Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia, Viêng Chăn.
193. Sai sạ món PHA LA MI XAY (2009), “Một số quan điểm về xây dựng cán bộ kế
cận”, Tạp chí Lý luận và thực tiễn của lực lượng An ninh, (15), tr.8-9.
194. Sai sạ món XAY PHU BÁN (2011), Nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo - chỉ huy tại Tổng cục Hậu cần quân đội, Luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị và Hành chính quốc
gia, Viêng Chăn.
195. Sắng khôm CHĂN THÔ (2012), “Một số giải pháp về nâng cao phẩm chất chính
trị, phẩm chất đạo đức và phong cách sống của sĩ quan và chiến sĩ Cảnh sát
là sự bức thiết trong sự nghiệp đổi mới”, Tạp chí Lý luận và thực tiễn của
lực lượng An ninh, (44), tr.38-44.
196. Sí sạ vạt KẸO MA LA VÔNG, Khăm phôn SÍ HÁ PẮN NHA, Khăm tắn BUN
THON Ụ THAI (2011), Chiến lược phòng, chống và trấn áp sản xuất, buôn
bán, sử dụng chất ma túy tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
197. Sín nạ khon ĐUỐNG BĂN ĐÍT (2013), "Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tổ
chức để làm tham mưu cho cấp ủy các cấp thực hiện tốt đường lối tổ chức
của Đảng", Tạp chí Xây dựng Đảng NDCM Lào, (141).
198. Sổm kẹo SÍ LA VÔNG, Thoong khên BUN MẲN, Thoong báy LO VĂN XAY
(2011), Chiến lược chuyển xuống cơ sở xây dựng đơn vị chiến đấu nghiệp
vụ cho vững mạnh toàn diện, Viêng Chăn.
199. Sốm mút KẸO MẠ NY (2014), "Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên
ở lĩnh vực Ngân hàng Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào là sự cần thiết", Tạp
chí Xây dựng Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, (157).
200. Sốm pha văn SÚTTHỊPHÔNG (2011), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
Tòa án nhân dân Thủ đô Viêng Chăn, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây
dựng Đảng, Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia, Viêng Chăn.
201. Sổm phết XAY KHĂM PHENG (2008), “Một số giải pháp chủ yếu trong xây
dựng cán bộ lãnh đạo - chỉ huy trong lực lượng An ninh nhân dân”, Tạp chí
Lý luận và thực tiễn của lực lượng An ninh, (12), tr.25-28.
173
202. Sởm súc SỈM PHA VÔNG (2008), “Hoàn thiện công tác xây dựng lực lượng
Cảnh sát cho phát triển tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ công tác
hiện nay”, Tạp chí Lý luận và thực tiễn của lực lượng An ninh, (12), tr.1-5.
203. Són mạ ny SỤ LỊ NHA ĐỆT (2014), "Một số kinh nghiệm trong đào tạo - bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ có chất lượng", Tạp chí Xây dựng Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào, (148).
204. Sụ đa von LÍT SÉN VẮNG (2014), "Chú trọng đào tạo cán bộ lãnh đạo - quản lý
trong điều kiện hội nhập quốc tế", Tạp chí Xây dựng Đảng Nhân dân Cách
mạng Lào, (153).
205. Sụ văn ni SÍ SỤ PHẢP MI XAY (2014), “Sự lớn mạnh trong công tác xây dựng
lực lượng An ninh”, Tạp chí Lý luận và thực tiễn của lực lượng An ninh,
(59), tr.38-40.
206. Sụ văn thon MẠ NY PHĂN (2013), "Nâng cao chất lượng cán bộ - công chức
cấp huyện ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào", Tạp chí Xây dựng Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào, (144).
207. Sút thị kón PHIM PHĂN (2014), "Nâng cao chất lượng cán bộ lãnh đạo - quản lý
của Cục quản lý Tài nguyên rừng trong điều kiện mới", Tạp chí Xây dựng
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, (153).
208. Thon mi (2015), Nâng cao chất lượng dịch vụ nhân dân của lực lượng An ninh
tỉnh Hủa Phăn, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Hành chính, Học viện Chính
trị và Hành chính quốc gia, Viêng Chăn.
209. Thoong lâu VÔNG ÍN KHĂM (2015), Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ ở huyện
Sắm Phăn, tỉnh Phổng Sá Ly, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng
Đảng, Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia, Viêng Chăn.
210. Thoong phút SÍM MA (2013), "Một số giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ chuyên môn ở tỉnh Xay Nhạ Bu Li", Tạp chí Xây dựng
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, (142).
211. U séng PHẾT SẠ VÔNG (2011), Nâng cao phẩm chất chính trị cho đội ngũ cán
bộ lãnh đạo - quản lý ở tỉnh Ụ Đốm Xay, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành
Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia, Viêng Chăn.
212. Ùn lả VÔNG PHẠ CHĂN (2014), Giáo dục chính trị - tư tưởng cán bộ, chiến sĩ
tại Bộ An ninh, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện
Chính trị và Hành chính quốc gia, Viêng Chăn.
174
213. Văn nạ lệt BÚT TẠ VÔNG (2013), “38 năm kiện toàn và xâu dựng lực lượng An
ninh nhân dân Lào”, Tạp chí Lý luận và thực tiễn của lực lượng An ninh,
(58), tr.3-6.
214. Văn va li THĂM MA VÔNG (2014), Hoàn thiện công tác sắp xếp, bố trí cán bộ
cấp Sở tại tỉnh Viêng Chăn, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng
Đảng, Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia, Viêng Chăn.
215. Văn xay XAY NHẠ BẮT (2011), Nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ ở Thủ đô
Viêng Chăn trong giai đoạn mới, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng
Đảng, Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia, Viêng Chăn.
216. Vị lạ phăn SỊ LỊ THĂM (2014), "Một số kinh nghiệm đào tạo - bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo - quản lý", Tạp chí Xây dựng Đảng Nhân dân Cách
mạng Lào, (151).
217. Vị lạ phăn SỊ LỊ THĂM (2015), "Các bước xây dựng tiêu chuẩn cán bộ", Tạp chí
Xây dựng Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, (161).
218. Xay sỉ SẲN TỊ VÔNG (2013), "Công tác quy hoạch và bồi dưỡng cán bộ kế
tục chức vụ lãnh đạo - quản lý ở các cấp là công việc cấp bách của Đảng
ủy, Ban Tổ chức các cấp", Tạp chí Xây dựng Đảng Nhân dân Cách mạng
Lào, (138).
219. Xone MONEVILAY (2015), Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ngành lao
động và phúc lợi xã hội Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn hiện
nay, Luận án tiến sĩ Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
175
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
DIỆN TÍCH, DÂN SỐ VÀ SỐ BẢN, HUYỆN TRỰC THUỘC
CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ CỦA CHDCND LÀO NĂM 2015 CÓ TÁC ĐỘNG
ĐẾN THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CỦA NGÀNH AN NINH LÀO
Dân số (người) TT Tên tỉnh
Số làng, bản
Diện tích (km2)
Nữ Tổng
Số huyện
1 Vientiane Capital 482 3.920 412.200 820.900 9
2 Phongsaly 540 16.270 87.300 178.000 7
3 Luangnamtha 364 9.325 88.400 175.700 5
4 Oudomxay 475 15.370 152.900 307.600 7
5 Bokeo 265 6.196 89.300 179.300 5
6 Luangprabang 769 16.875 213.200 431.900 12
7 Huaphanh 715 16.500 141.700 289.400 10
8 Xayabury 434 16.389 186.400 381.300 11
9 Xiengkhuang 520 14.751 120.300 244.700 7
10 Vientiane 504 15.610 207.700 419.100 11
11 Borikhamxay 313 14.863 135.100 273.700 7
12 Khammuane 579 16.315 197.300 392.100 10
13 Savannakhet 1.010 21.774 489.000 969.700 15
14 Saravane 589 10.691 201.300 397.000 8
15 Sekong 225 7.665 56.400 113.200 4
16 Champasack 645 15.415 348.800 694.000 10
17 Attapeu 147 10.320 69.800 139.600 5
18 Xaisomboun 96 8.551 40.500 85.200 5
Tổng 8.672 236.800 3.237.600 6.492.400 148
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
176
Phụ lục 2
TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ SĨ QUAN LLCSND,
BỘ AN NINH CHDCND LÀO ĐẾN THÁNG 04 -2017
Đơn vị tính: Người
Trình độ lý luận chính trị
Cao cấp lý luận Trung cấp lý luận Sơ cấp lý luận Chưa qua
3.683 1.347 2.268 165.712
Nguồn: Tổng cục Chính trị, Bộ An ninh Lào
Phụ lục 3
TỔNG SỐ, NỮ, ĐỘ TUỔI CỦA ĐỘI NGŨ SĨ QUAN LLCSND, BỘ AN NINH
CHDCND LÀO ĐẾN THÁNG 04 - 2017
Đơn vị tính: Người
Độ tuổi Thành phần Tống số Nữ
< 30 31-50 > 51
Bộ An ninh 8.973 2.052 4.963 3.053 957
An ninh tỉnh và thủ đô 31.527 3.152 14.412 15.322 1.793
An ninh huyện và quận 295.322 3.221 112.312 162.412 20.598
Lĩnh vực cảnh sát 173.010 1.067 50.544 112.411 10.544
Tổng cộng 508.832 9.492 182.231 293.198 33.892
Nguồn: Tổng cục Chính trị, Bộ An ninh Lào
177
Phụ lục 4
TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN CỦA ĐỘI NGŨ SĨ QUAN LLCSND, BỘ AN
NINH CHDCND LÀO ĐẾN THÁNG 04 - 2017
Đơn vị tính: Người
Trình độ chuyên môn
Tiến sĩ Thạc sĩ Cử nhân Cao đẳng Trung cấp Sơ cấp
62 655 47.767 58.150 42.095 24.281
Nguồn: Tổng cục Chính trị, Bộ An ninh Lào
Phụ lục 5
SỐ LƯỢNG SĨ QUAN LLCSND, BỘ AN NINH CHDCND LÀO
THEO QUÂN HÀM ĐẾN THÁNG 04 - 2017
Đơn vị tính: Người
QUÂN HÀM TT Thành phần
Cấp úy Cấp tá Cấp tướng
1 Ở Trung ương 4.202 2.564 21
2 Ở địa phương 14.658 5.424 2
Tổng 18.860 7.988 23
Nguồn: Tổng cục Chính trị, Bộ An ninh Lào
178
Phụ lục 6
TRÌNH ĐỘ NĂNG LỰC SỬ DỤNG TIẾNG ANH CỦA ĐỘI NGŨ SĨ QUAN
LLCSND NGÀNH AN NINH LÀO ĐẾN THÁNG 04 - 2017
Đơn vị tính: Người
TRÌNH ĐỘ
Sử dụng thành thạo C2, C1 Sử dụng độc lập B2, B1 Sử dụng căn bản A2, A1
10.602 17.331 33.467
Nguồn: Tổng cục Chính trị, Bộ An ninh Lào
Phụ lục 7
TRÌNH ĐỘ ỨNG DỤNG TIN HỌC CỦA ĐỘI NGŨ SĨ QUAN LLCSND, BỘ AN NINH LÀO ĐẾN THÁNG 04-2017
Đơn vị tính: Người
TRÌNH ĐỘ
Trình độ A (Windows, Word, Excel và Power Point)
Trình độ B (khai thác các ứng dụng)
Trình độ C (lập trình)
113.456 145.321 1.267
Nguồn: Tổng cục Chính trị, Bộ An ninh Lào
179
Phụ lục 8
TỔNG CỤC CẢNH SÁT THỰC HIỆN NHIỆM VỤ GIẢI QUYẾT
CÔNG TÁC BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI NĂM 2016
STT Lĩnh vực Số vụ việc
1 Vấn đề tội phạm 5.739
2 Vấn đề gây mất trật tự xã hội 5.076
3 Vấn đề gây hoả hoạn 140
4 Vấn đề phòng, chống ma tuý 2.508
5 Vấn đề tội phạm kinh tế 583
6 Vấn đề tội phạm buôn người 23
Tổng số 14.069
Nguồn: Tổng cục Cảnh sát, Bộ An ninh Lào
Phụ lục 9
TỔNG HỢP KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ, PHÂN LOẠI SĨ QUAN LLCSND,
BỘ AN NINH LÀO TỪ NĂM 2012 ĐẾN THÁNG 04-2017
Mức độ
STT Năm Tốt Trung bình Kém
Không sử dụng được
1 2012 15.455 17.891 0 0
2 2013 16.722 19.823 0 0
3 2014 17.012 19.987 0 0
4 2015 19.344 20.321 0 0
5 2016 21.247 22.367 0 0
Nguồn: Tổng cục Chính trị, Bộ An ninh Lào
180
Phụ lục 10
KẾT QUẢ XỬ LÝ KỶ LUẬT SĨ QUAN LLCSND, BỘ AN NINH CHDCND LÀO
TỪ NĂM 2013 ĐẾN THÁNG 04 - 2017
Đơn vị tính: Người
Hình thức xử lý kỷ luật
Cấp 1 Cấp 2 Cấp 3
- Phê bình;
- Cảnh cáo và
ghi vào hồ sơ
- Ngừng thăng quân hàm, khen thưởng và
ghi vào hồ sơ;
- Giáng chức danh quản lý, chỉ huy hoặc
chuyển công tác và ghi vào hồ sơ;
- Giáng chức danh quản lý, chỉ huy thành
chiến sĩ thường và ghi vào hồ sơ.
Đưa ra khỏi tổ chức mà
không được nhận chính
sách nào cả;
2.600 1.321 743
Nguồn: Tổng cục Chính trị, Bộ An ninh Lào
181
Phụ lục 11
CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
Hòa bình - Độc lập - Dân chủ - Thống nhất - Thịnh vượng
(Tên tổ chức)
PHIẾU ĐÁNH GIÁ, PHÂN LOẠI SĨ QUAN CẢNH SÁT NHÂN DÂN
CÓ CHỨC DANH QUẢN LÝ VÀ CHỈ HUY ĐƠN VỊ CHIẾN ĐẤU
I. SỐ LIỆU SĨ QUAN CẢNH SÁT
Từ ngày…... tháng.......đến ngày.......tháng.....năm…..
Họ và tên: Mã số: Chức vụ: Quân hàm: Đơn vị công tác: Ngày, tháng, năm nhập ngũ: II. TIÊU CHÍ TỰ ĐÁNH GIÁ CỦA CÁ NHÂN SĨ QUAN CẢNH SÁT
Mức độđánh giá, phân loại Xuất sắc
Tốt Trung bình
Yếu kém
Không sử dụng được
STT
CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ
9,1-10 9 - 8 7-6-5 4-3-2 1
1 Phẩm chất chính trị, chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước
1). Lý tưởng chính trị, kiên định lập trường, kiên định trong
nguyên tắc lãnh đạo của Đảng; nhận thức, tư tưởng chính
trị, chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và pháp luật của Nhà nước; kiên định với đường lối đổi mới
của Đảng, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, trung thành
với Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng đường lối của
Đảng; tinh thần đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước;
2). Năng động, có tinh thần trách nhiệm với nhiệm vụ được
giao; tin tưởng vào lực lượng và trí tuệ quần chúng, dám
nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm;
3). Bản thân và gia đình chấp hành đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
182
2 Phẩm chất đạo đức, lối sống, tác phong, lề lối làm việc và ý thức tổ chức kỷ luật
1). Việc giữ gìn đạo đức và lối sống lành mạnh, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và những biểu hiện tiêu cực khác, thực hiện các quy định về những việc cán bộ, công chức không được làm; 2).Tinh thần và thái độ phục vụ nhân dân (tận tụy với công việc, không hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà, khó khăn cho tổ chức, công dân trong thực hiện nhiệm vụ); 3). Không để vợ (chồng), con, anh (chị, em) ruột lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình của mình để ảnh hưởng xấu tới cơ quan hoặc vi phạm quy chế, vi phạm pháp luật. 4). Chấp hành nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị, giữ gìn nếp sống văn hóa công sở, thời gian làm việc… 5). Chấp hành sự phân công của tổ chức trong thực hiện nhiệm vụ, công tác... 6). Tính trung thực; ý thức giữ gìn đoàn kết nội bộ; ý thức trong đấu tranh tự phê bình và phê bình, xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh. 7).Tinh thần phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ 8). Tinh thần học tập, rèn luyện nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học. 9). Thực hiện các nội dung sinh hoạt chính trị do Đảng, Nhà nước phát động.
3 Tầm nhìn; sự nhìn nhận tầm xa về thế phát triển của công tác đang phụ trách, có sự dao động nhanh chóng trước sự thay đổi của tình hình
4 Năng lực xác định chính sách, chiến lược, kế hoạch và ngân sách về công việc mình phụ trách.
5 Có sự hiểu biết về lãnh đạo tổ chức, quản lý bộ máy, xác định các quy chế hoạch định và quản lý cán bộ, sĩ quan, chiến sĩ thuộc tổ chức
6 Có tính sáng tạo, luôn luôn hướng đến cái mới, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm
7 Có trình độ kỹ thuật chuyên môn, nghiệp vụ, có kỹ xảo kỹ năng về công việc liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của tổ chức, đơn vị của mình
8 Quyết định các vấn đề đúng, chính xác, kịp thời và chịu trách nhiệm trước quyết định của mình trên cơ sở số liệu và nguyên tắc, pháp luật
9 Năng lực quản lý, điều hành, có phong cách, lề lối làm việc khoa học, biết điều hành thời gian, điều hành công việc, có bàn bạc theo tập thể, phân công trách nhiệm trong tổ chức một cách rõ ràng, chính xác, đề ra kế hoạch thực hiện, theo dõi, kiểm tra và tổng kết báo cáo
10 Thực trạng lãnh tụ, có phong cách lãnh đạo khoa học, sử dụng cách lãnh đạo bằng lý tình, khéo léo với các vấn đề, biết tập trung đoàn kết nội bộ cơ quan
11 Trung thực với nghề nghiệp 12 Tin tưởng của tổ chức, đơn vị và xã hội 13 Lắng nghe ý kiến người khác; biết xem xét số liệu thông
tin từ người khác và tổ chức khác để hoàn thiện bản thân và tổ chức
183
14 Kết quả hoàn thành thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao
1). Mức độ thực hiện nhiệm vụ được giao trong năm (thể hiện ở khối lượng, chất lượng, tiến độ, hiệu quả của công việc trong từng vị trí, từng thời gian, bao gồm cả những nhiệm vụ thường xuyên và đột xuất, đặc biệt là tham mưu ban hành các văn bản về lĩnh vực được phân công phụ trách) 2). Tinh thần trách nhiệm trong công tác; 3). Năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: trình độ chuyên môn theo yêu cầu; Cải tiến phương pháp làm việc nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác; sáng kiến công tác được áp dụng trong thực tiễn, hoặc được cơ quan có thẩm quyền công nhận; các đề tài, đề án, công trình chủ trì nghiên cứu xây dựng hoặc tham gia nghiên cứu (nếu có). 4). Đối với cán bộ, công chức lãnh đạo cơ quan, đơn vị ngoài các nội dung trên, còn phải đánh giá về kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao lãnh đạo, quản lý; năng lực lãnh đạo, quản lý; năng lực tập hợp, đoàn kết công chức
Tổng
Tổng 14 tiêu chí
III. CÁ NHÂN TỰ XẾP LOẠI:............................................... (Cá nhân tự xếp loại theo 1 trong 5 mức độ: Hoàn thành xuất sắc chức trách nhiệm vụ; hoàn thành tốt chức trách nhiệm vụ; hoàn thành nhiệm vụ trung bình; kém và không hoàn thành nhiệm vụ).
Ngày........ tháng........ năm.......... Người tự nhận xét
(Ký tên)
IV. Ý KIẾN CỦA TẬP THỂ NƠI SĨ QUAN CẢNH SÁT LÀM VIỆC ..............................................................................................................................................................................
...............................................................................................................................................................
...............................................................................................................................................................
V. KẾT QUẢ TỔNG HỢP XẾP LOẠI:
(Phần này do Thủ trưởng cơ quan, đơn vị trực tiếp đánh giá và có ý kiến ghi) ..............................................................................................................................................................................
...............................................................................................................................................................
...............................................................................................................................................................
Kết luận: Sĩ quan cảnh sát đạt loại:....................................................
LÃNH ĐẠO CƠ QUAN CẤP TRÊN Ngày ……tháng…….năm……… THỦ TRƯỞNG TRỰC TIẾP
(Ký, ghi rõ họ tên)
Nguồn: Tổng cục Chính trị, Bộ An ninh Lào
184
Phụ lục 12
CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA BỘ AN NINH NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY
Nguồn: Tổng cục Chính trị An ninh, Bộ An ninh Lào
Bộ An ninh CHDCND Lào
Cụ
c Q
uản
lý h
ộ k
hẩu
và
xây
dự
ng
cơ s
ở (
509)
Cụ
c T
hôn
g ti
n (
510)
Cụ
c G
iam
giữ
- C
ải t
ạo
(515
)
Cụ
c N
ghiê
n c
ứu
Kh
oa
học
và
lịch
sử
(51
2)
Cụ
c K
iểm
tra
- T
han
h t
ra (
505)
Bộ
Tư
lện
h b
ảo v
ệ T
run
g ư
ơn
g (5
11)
Học
việ
n C
ảnh
sát
nh
ân d
ân (
516)
Học
việ
n A
n n
inh
nh
ân d
ân (
508)
Bộ
tư l
ệnh
bảo
vệ
cơ đ
ộn
g (5
13)
Tổng cục Cảnh sát (503)
Tổng cục Chính trị AN (501)
Tổng cục An ninh (502)
Văn Phòng Bộ (506)
Tổng cục Hậu cần (507)
17 Tỉnh và 1 Thủ đô
Cụ
c T
rin
h s
át (
504
)
Bộ
Tư
lện
h b
ảo v
ệ m
ục
tiêu
(51
4)
185
Phục lục 13
CƠ CẤU TỔ CHỨC TỔNG CỤC CẢNH SÁT
Nguồn: Tổng cục Chính trị An ninh, Bộ An ninh Lào
Tổng cục Cảnh sát, Bộ An ninh Lào (503)
Cụ
c C
ảnh
sát
(30
1)
Cụ
c C
ảnh
sát
(30
2)
Cụ
c C
ảnh
sát
(30
7)
Cụ
c C
ảnh
sát
(30
0)
Cụ
c C
ảnh
sát
(30
3)
Cụ
c C
ảnh
sát
(30
4)
Cụ
c C
ảnh
sát
( 3
05)
Cụ
c C
ảnh
sát
(30
6)
Tru
ng
tâm
PC
C (
314)
Ph
òn
g C
hín
h t
rị (
309)
Cụ
c C
ảnh
sát
(31
0)
Cụ
c cả
nh
sát
(3
11)
Cụ
c C
ảnh
sát
(31
2)
Ph
òn
g
Hậu
cần
(31
3)
18 Phòng Cảnh sát trực thuộc (17 Tỉnh và 1 Thủ đô)
Vă
n p
hòn
g (
315)
186
Phụ lục 14
CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA BỘ CHỈ HUY AN NINH TỈNH VÀ THỦ ĐÔ (17 TỈNH VÀ 01 THỦ ĐÔ)
Nguồn: Tổng cục Chính trị An ninh, Bộ An ninh Lào
Bộ chỉ huy An ninh Tỉnh và Thủ đô
Ph
òng
Ch
ính
trị
Ph
òng
An
nin
h
Ph
òng
Cản
h s
át
Ph
òng
Hậu
cần
Ph
òng
Qu
ản l
ý d
ân s
ố và
An
nin
h b
ản
Đơ
n v
ị 10
2
Trư
ờn
g tr
un
g cấ
p h
oặc
sơ c
ấp A
n n
inh
Bộ chỉ huy An ninh huyện
Văn Phòng Hành chính và Tổ chức
Đội An ninh Đội Cảnh sát Đội Hậu cần Các đội An ninh
Cụm bản
Tiể
u đ
oàn
cơ
độn
g
Vă
n p
hòn
g B
ộ ch
ỉ h
uy