chuong iv - ktct

29
PHẦN THỨ HAI: HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT TƯ BẢN CHỦ NGHĨA CHƯƠNG IV: HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ I. ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI, ĐẶC TR¬ƯNG VÀ ¬ƯU THẾ CỦA SẢN XUẤT HÀNG HOÁ 1. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá Một số khái niệm cơ bản Sản xuất tự cấp tự túc (kinh tế tự nhiên): là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm do lao động tạo ra chỉ để nhằm thoả mãn cho nhu cầu cá nhân. Ví dụ: Trong thời kỳ nguyên thuỷ, con người đi săn bắn hái lượm để có thịt thú rừng, trái cây có thể ăn để tự thoả mãn nhu cầu về ăn của họ. Sản xuất hàng hóa (kinh tế hàng hóa): Là kiểu tổ chức kinh tế, trong đó sản phẩm được sản xuất ra không phải để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người trực tiếp sản xuất ra nó, mà để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán. a) Phân công lao động xã hội Khái niệm: Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao động xã hội vào các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau. Ví dụ: Vấn đề “Nuôi con gì, trồng cây gì?” chính là vấn đề phân công lao động xã hội, làm cho ĐK 1 xuất hiện rõ nét hơn Sản xuất hàng hóa phát triển. - Các loại phân công lao động: Phân công lao động chung: hình thành ngành kinh tế lớn. (Nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ)

Upload: hoang-bui-viet-bao

Post on 14-Dec-2015

217 views

Category:

Documents


1 download

DESCRIPTION

Triết học

TRANSCRIPT

Page 1: Chuong IV - Ktct

PHẦN THỨ HAI: HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT TƯ BẢN CHỦ NGHĨA

CHƯƠNG IV: HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ

I. ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI, ĐẶC TR¬ƯNG VÀ ¬ƯU THẾ CỦA SẢN XUẤT HÀNG HOÁ

1. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá

• Một số khái niệm cơ bản

Sản xuất tự cấp tự túc (kinh tế tự nhiên): là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm do lao động tạo ra chỉ để nhằm thoả mãn cho nhu cầu cá nhân.

Ví dụ: Trong thời kỳ nguyên thuỷ, con người đi săn bắn hái lượm để có thịt thú rừng, trái cây có thể ăn để tự thoả mãn nhu cầu về ăn của họ.

Sản xuất hàng hóa (kinh tế hàng hóa): Là kiểu tổ chức kinh tế, trong đó sản phẩm được sản xuất ra không phải để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người trực tiếp sản xuất ra nó, mà để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.

a) Phân công lao động xã hội

Khái niệm: Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao động xã hội vào các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau.

Ví dụ: Vấn đề “Nuôi con gì, trồng cây gì?” chính là vấn đề phân công lao động xã hội, làm cho ĐK 1 xuất hiện rõ nét hơn Sản xuất hàng hóa phát triển.

- Các loại phân công lao động:

Phân công lao động chung: hình thành ngành kinh tế lớn. (Nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ)

Phân công lao động đặc thù: ngành lớn lại chia thành ngành nhỏ. (trồng trọt: trồng lúa, ngô, mía…; công nghiệp nặng: sản xuất thép, sản xuất nhôm….)

Phân công lao động cá biệt là phân công trong nội bộ công xưởng (không được coi là cơ sở của sản xuất hàng hóa).

– Vai trò:

Nâng cao năng lực sản xuất xã hội: Khi có phân công lao động xã hội, mỗi người sản xuất sẽ chuyên môn hóa sản xuất một hoặc một số loại sản phẩm mà phù hợp với khả năng nhất. Đồng thời, họ có điều kiện để cải tiến công cụ lao động, tích lũy kinh nghiệm…

Page 2: Chuong IV - Ktct

Nâng cao năng suất lao động xã hội, nhờ đó, nền sản xuất xã hội tạo ra được một khối lượng sản phẩm khổng lồ. Có thể nói, phân công lao động đã tách sự lệ thuộc giữa con người với tự nhiên và chuyển thành sự phụ thuộc giữa con người với con người trong quá trình sản xuất.

Làm cho sự trao đổi hàng hóa trở nên tất yếu: Mỗi loại sản phẩm lại nằm riêng biệt trong tay các nhà sản xuất khác nhau trong khi đó con người lại có nhu cầu về nhiều loại sản phẩm khác nhau. Các cá nhân sản xuất phải trao đổi những sản phẩm mà họ có lấy những sản phẩm mà họ cần.

Các chủ thể kinh tế có mối liên hệ chặt chẽ, phụ thuộc vào nhau.

Ví dụ: Người nông dân chuyên trồng lúa có thể mang lúa, gạo trao đổi lấy bàn, ghế của người thợ mộc; Người dệt vải có thể mang vải đổi lấy thịt lợn của người chăn nuôi lợn.

Như vậy, Phân công lao động xã hội làm cho việc trao đổi sản phẩm trở nên tất yếu và có lợi cho người sản xuất. Do đó, nó là cơ sở của sản xuất hàng hóa. Phân công lao động xã hội càng phát triển thì sản xuất và trao đổi ngày càng phát triển. Tuy nhiên, đó chỉ là điều kiện cần.

Để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại còn phải có một điều kiện nữa:

b) Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất hay tính chất tư nhân của quá trình lao động

- Chính quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã làm cho những người sản xuất độc lập với nhau, trong điều kiện ấy, người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phái thông qua sự mua bán hàng hoá.

Tuy nhiên chỉ có một điều kiện là sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất mà không có điều kiện phân công lao động xã hội thì cũng không có sản xuất hàng hoá. Chẳng hạn một người nông dân tư hữu tư liệu sản xuất, họ vừa làm ruộng, tự dệt vải, tự rèn công cụ lao động, tự sản xuất mọi thứ sản phẩm tiêu dùng. Họ không cần phải mua thứ gì va không cần phải bán thứ nào thì cũng không có sản xuất hàng hoá (ví dụ như trường hợp của Robinsơn).

Kết luận:

Sản xuất hàng hoá chỉ ra đời khi có đồng thời hai điều kiện trên, nếu thiếu một trong hai điều kiện đó thì sẽ không có sản xuất hàng hóa.

Nếu chỉ có phân công lao động xã hội mà chưa có sự tách biệt tương đối giữa người sản xuất thì chưa có cơ sở để trao đổi hàng hóa [Ví dụ: A dệt vải, B đóng bàn, C sản xuất lúa gạo nhưng cả A,B,C đều lao động phục vụ cho ông chủ D chứ không có sở hữu gì về tư liệu sản xuất thì chủ D không cần phải trao đổi mà vẫn có đủ sản phẩm để tiêu dùng).

Nếu chỉ có sự tách biệt tương đối giữa những người sản xuất mà không có sự phân công lao động xã hội thì các cá nhân chỉ đủ năng lực sản xuất đáp ứng đủ nhu cầu cá nhân chứ không thể sản xuất với số lượng lớn để đem trao đổi được và các sản phẩm đó cũng không là hàng hóa (Ví dụ: người nông dân tự sản xuất mọi thứ để tiêu dùng].

2. Đặc tr¬ưng và ¬ưu thế của sản xuất hàng hoá

Page 3: Chuong IV - Ktct

a) Đặc tr¬ưng của sản xuất hàng hoá

• Thứ nhất, sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi mua bán.

- Trong nền sản xuất hàng hóa, người sản xuất hàng hóa tạo ra sản phẩm là để trao đổi với những người sản xuất khác chứ không phải để tiêu dùng cá nhân.

- Chỉ những sản phẩm được sản xuất ra với mục đích trao đổi mới được gọi là hàng hóa.

• Thứ hai, lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân, vừa mang tính xã hội.

- Tính xã hội: Sản phẩm làm ra là phục vụ tiêu dùng của người khác, phục vụ tiêu dùng cho xã hội.

- Tính tư nhân: Việc sản xuất cái gì, như thế nào là công việc riêng của mỗi người.

- Mâu thuẫn giữa tính xã hội và tính tư nhân của lao động sản xuất hàng hóa là mâu thuẫn cơ bản của nền sản xuất hàng hóa, là mầm mống của các cuộc khủng hoảng kinh tế trong nền sản xuất ấy.

b) Ưu thế của sản xuất hàng hoá

Sản xuất hàng hóa ra đời khi việc trao đổi hàng hóa trở nên thông dụng, phổ biến và có nhiều ưu thế hơn hẳn so với sản xuất tự cấp tự túc:

• Một là, sản xuất hàng hoá là sản xuất sản phẩm cho người khác, thoả mãn nhu cầu của người khác, của thị trường. Sự gia tăng không hạn chế nhu cầu của thị trường là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển.

Trong nền sản xuất tự cấp tự túc, sản phẩm làm ra để thoả mãn nhu cầu của chính người sản xuất, không có cạnh tranh, người sản xuất sẽ dễ dãi chấp nhận các sản phẩm làm ra. Còn sản xuất hàng hoá là sản xuất để bán, người sản xuất luôn phải quan tâm đến nhu cầu của thị trường, chất lượng sản phẩm ngày càng tốt hơn (vị dụ so sánh mảnh rau trồng để ăn và mảnh rau trồng để bán)

• Cạnh tranh ngày càng gay gắt, buộc người sản xuất hàng hoá phải năng động trong sản xuất, kinh doanh, thường xuyên cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm tiêu thụ được hàng hoá và thu được nhiều lợi nhuận hơn, nó kích thích lực lượng sản xuất phát triển.

Muốn giành phần thắng trong cạnh tranh, người sản xuất phải luôn quan tâm đến khoa học công nghệ… Qua đó làm cho các yếu tố của tư liệu sản xuất phát triển, khoa học công nghệ phát triển yêu cầu trình độ của người lao động, người quản lý … cũng không ngừng được nâng cao.

• Sự phát triển của sản xuất xã hội với tính chất “mở” của các quan hệ hàng hoá tiền tệ làm cho giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các địa phương trong nước và quốc tế ngày càng phát triển, tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất và van hoá cho nhân dân.

Ví dụ: Việt Nam khi chưa có xe máy Tàu….

* Tiêu cực: Sản xuất hàng hóa chưa phải là hoàn hảo, vô khuyết mà nó còn có nhiều mặt tiêu cực khác: sự phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng, sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ tư hữu thường gắn liền với cạnh

Page 4: Chuong IV - Ktct

tranh tiêu diệt lẫn nhau, tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng, sự phá hoại môi trường sinh thái và sói mòn đạo đức, nhân phẩm của con người, nảy sinh hiện tượng tiêu cực như làm hàng giả, buôn lậu…

II. HÀNG HOÁ

1. Hàng hoá và hai thuộc tính của hàng hoá

a) Khái niệm hàng hoá

- Hàng hóa là sản phẩm của lao động, nhằm thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người và đi vào tiêu dùng thông qua trao đổi, mua bán.

- Các đặc điểm của hàng hóa (những điều kiện để một vật phẩm trở thành hàng hóa):

o Là sản phẩm của lao động

o Thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người

o Được trao đổi, mua bán trên thị trường, đây là đặc điểm quan trọng, là cơ sở để phân biệt hàng hóa với sản phẩm của lao động (Ví dụ: con gà nhà nuôi được đem ra tiêu dùng trong ngày tết thì không được coi là hàng hóa, nếu vẫn con gà đó đem ra chợ bán thì lại được gọi là hàng hóa).

Các loại hàng hóa:

Dạng hữu hình: sắt, thép, lương thực, thực phẩm…

Dạng vô hình: dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch vụ dạy học của giáo viên, dịch vụ chữa bệnh của bác sĩ, dịch vụ biểu diễn của nghệ sĩ…

Từ khái niệm hàng hóa có thể thấy, hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị.

b) Hai thuộc tính của hàng hoá

• Giá trị sử dụng của hàng hóa

Ví dụ:

- Khái niệm: Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa để thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.

Nhu cầu của con người bao gồm: Nhu cầu tiêu dùng cá nhân và nhu cầu tiêu dùng về sản xuất.

- Đặc điểm:

+ Giá trị sử dụng do đặc tính tự nhiên, do yếu tố vật chất của hàng hóa đó quyết định.

Page 5: Chuong IV - Ktct

Do vậy, giá trị sử dụng của hàng hóa là phạm trù vĩnh viễn, tức là nó không phụ thuộc vào không gian và thời gian, do vậy không phụ thuộc vào bất kỳ chế độ xã hội nào. Giá trị sử dụng xác định mặt chất của hàng hóa và nó là căn cứ để phân biệt hàng hóa này với hàng hóa khác. (Ví dụ: Giá trị sử dụng của bàn gỗ là để “làm chỗ đặt để” chứ không phải để ăn như thóc, gạo bởi vì thuộc tính của bàn gỗ do các yếu tố tạo nên cái bàn đó quyết định: thuộc tính của gỗ, cách thức làm ra cái bàn, kiểu dáng cái bàn…).

+ Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội: Số lượng giá trị sử dụng của một hàng hóa ngày càng phong phú, đa dạng, chất lượng giá trị sử dụng ngày càng tốt hơn.

Mỗi hàng hóa có một hay nhiều công dụng mà không phải ngay một lúc, một thời điểm nào đó có thể tìm hết ra được mà chúng phải được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của khoa học và công nghệ và của lực lượng sản xuất nói chung. (Ví dụ: Hoa hồng để: bày tỏ tình cảm, để cắm trong phòng, để ép lấy tinh dầu…; Hoa hồng ngày càng đẹp hơn, nhiều màu sắc hơn, tươi lâu hơn…)

+ Giá trị sử dụng của hàng hóa chỉ được thể hiện đầy đủ thông qua quá trình sử dụng, tiêu dùng hàng hóa.

Chừng nào hàng hóa chưa được sử dụng thì chừng đó giá trị sử dụng của nó chỉ ở dạng tiềm năng, khả năng. (Ví dụ: Các hãng đều quảng cáo sản phẩm của mình là số 1, là hoàn hảo Phải sử dụng mới biết).

Như vậy: Một vật khi đã là hàng hoá thì nhất thiết nó phải có giá trị sử dụng. Nhưng không phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng đều là hàng hoá, chẳng hạn, không khí rất cần thiết cho cuộc sống con người, nước suối, quả dại cũng có giá trị sử dụng nhưng cũng không phải là hàng hoá. Do đó, một vật muốn trở thành hàng hoá thì giá trị sử dụng của nó phải là vật được sản xuất ra để bán, trao đổi, nghĩa là vật đó phải có giá trị trao đổi.

• Giá trị của hàng hóa

Để hiểu được giá trị của hàng hóa thì trước hết phải hiểu được giá trị trao đổi của hàng hóa.

Giá trị trao đổi:

- Khái niệm: Giá trị trao đổi là quan hệ về số lượng giữa những hàng hóa được trao đổi cho nhau.

Ví dụ: 1m2 vải = 5 kg gạo; Tức là giá trị trao đổi của 1m2 vải bằng 5kg gạo hay 5kg thóc là giá trị trao đổi của 1m2 vải.

Vấn đề là, tại sao vải lại có thể trao đổi được với gạo khi mà về mặt số lượng, 1#5, về mặt đơn vị m2 khác kg, quan trọng hơn, về mặt giá trị sử dụng vải để may quần áo khác hoàn toàn với gạo để ăn.

Cơ sở chung của trao đổi hàng hóa:

Là sản phẩm của lao động.

Là kết tinh của lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa, tức là, bên trong mọi hàng hóa đều chứa đựng hao phí lao động của người sản xuất hàng hóa.

Những hàng hóa chứa đựng hao phí lao động như nhau thì có thể trao đổi được với nhau. Thực chất, trao đổi hàng hóa cho nhau chính là trao đổi hao phí lao động của những người sản xuất hàng hóa cho nhau.

Page 6: Chuong IV - Ktct

(Trong Ví dụ trên, để sản xuất ra 1m2 vải hay 5kg thóc thì người thợ dệt và người nông dân đều hao phí 5h lao động. 5h đó chính là giá trị của hàng hóa)

Giá trị hàng hóa:

- Khái niệm: Giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.

- Đặc điểm:

+ Giá trị hàng hóa là một phạm trù lịch sử, xuất hiện khi mục đích sản xuất thay đổi từ sản xuất cho bản thân sang sản xuất cho xã hội.

Như vậy, khi sản xuất hàng hóa ra đời thì mới phạm trù giá trị hàng hóa mới xuất hiện. Trong nền kinh tế tự cấp tự túc thì phạm trù giá trị của hàng hóa chưa xuất hiện. Do trong sản xuất hàng hóa, người ta sản xuất ra hàng hóa cho người khác nên phải tính hao phí lao động, còn nếu sản xuất cho mình thì sẽ không tính hao phí lao động

c) Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa

Trong hàng hóa, giá trị và giá trị sử dụng vừa thống nhất lại vừa mâu thuẫn với nhau.

Mặt thống nhất thể hiện ở chỗ: Cả hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hóa, và nhờ có hai thuộc tính này thì sản phẩm của lao động mới trở thành hàng hóa; thiếu một trong hai thuộc tính đó thì vật phẩm sẽ không thể trở thành hàng hóa .

Ví dụ: Không khí, nước sạch, ánh sáng… là những thứ thuộc về tự nhiên, không phải sản phẩm của lao động, do vậy, chúng không phải là hàng hóa. Tương tự, những phế phẩm, những sản phẩm hỏng… vẫn còn giá trị nhưng không có giá trị sử dụng (như thiết kế ban đầu) do vậy chúng không phải là hàng hóa.

Mặt mâu thuẫn thể hiện ở chỗ:

Một là, với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hóa khác nhau về chất và không thể so sánh được. Tuy nhiên, với tư cách là giá trị thì các hàng hóa lại đồng nhất về chất, đều là kết tinh của lao động, và do đó có thể so sánh được.

Hai là, tuy cùng tồn tại trong hàng hóa nhưng quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng là tách rời về không gian và thời gian.

Sự tách rời về không gian thể hiện ở chỗ: Giá trị sử dụng được thực hiện trong lĩnh vực tiêu dùng, còn giá trị được thực hiện trong lĩnh vực trao đổi. Sự tách rời về thời gian thể hiện ở chỗ: Quá trình thực hiện giá trị diễn ra trước còn quá trình thực hiện giá trị sử dụng diễn ra sau. Nếu giá trị của hàng hóa không được thực hiện thì sẽ dẫn đến khủng hoảng sản xuất thừa (hàng hóa vẫn ở trong kho và không đến được nơi cần nó). Mâu thuẫn trong quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng chỉ được giải quyết khi hàng hóa được trao đổi, tức là người sản xuất bán được hàng.

Page 7: Chuong IV - Ktct

Sự không đồng thời trong việc thực hiện giá trị và giá trị sử dụng tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng Muốn không có khủng hoảng: phải bỏ đi thuộc tính giá trị (vì thuộc tính giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn, không thể bỏ đi được), tức là sẽ không còn hàng hóa nữa.

2. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá

Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị vì lao động của người sản xuất hàng hóa có tính hai mặt, đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng. C. Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt đó.

a) Lao động cụ thể

- Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi một lao động cụ thể có mục đích riêng, tư liệu lao động, đối tượng lao động, phương pháp lao động, và kết quả lao động riêng. Chính những cái riêng đó làm cho các lao động cụ thể khác nhau

Ví dụ:

Lao động

cụ thể

Các tiêu chí Nghề may Nghề mộc Nghề rèn

Mục đích lao động Làm các sản phẩm may mặc Làm các sản phẩm đồ gỗ Làm các sản phẩm kim khí

Tư liệu lao động Cái Kim, Cái kéo… Cái Đục, Cái dùi, Cái cưa… Cái búa, kìm, bếp lò…

Đối tượng lao động Vải và nguyên vật liệu may Gỗ và nguyên vật liệu mộc Sắt, thép…

Phương pháp lao động Đo, cắt, may… Cưa, đục, chạm, khắc… Các phương pháp rèn

Kết quả lao động cụ thể Quần, áo… Bàn, ghế, tủ… Cuốc, xẻng, dao…

Lưu ý:

Lao động cụ thể là cơ sở của phân công lao động xã hội. Tất cả các loại lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội ngày càng chi tiết.

Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng. Trong thực tế, giá trị sử dụng muôn hình muôn vẻ là do lao động cụ thể muôn hình muôn vẻ tạo ra.

Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn.

Hình thức của lao động cụ thể phát triển cùng chiều hướng với sự phát triển của khoa học, công nghệ, sự phân công lao động xã hội và nhu cầu tiêu dùng.

b) Lao động trừu t¬ượng

Page 8: Chuong IV - Ktct

Từ ví dụ trên cho thấy, dù lao động của người thợ may hay người thợ mộc, nếu không tính đến hình thức cụ thể của chúng thì giữa chúng đều có cái chung: Một là, đều là sự tiêu hao sức lao động. Hai là, đều là sự tiêu hao năng lượng, thần kinh, cơ bắp.

- Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ những hình thức cụ thể của nó, hay nói cách khác, đó chính là sự tiêu hao sức lao động (tiêu hao sức bắp, thần kinh) của người sản xuất hàng hóa nói chung.

Ví dụ: trừu tượng hóa lao động của người thợ mộc thành hoạt động của máy cưa, bào; trừu tượng hóa lao động của người thợ dệt thành máy dệt…. không quan tâm quá trình hoạt động của các máy diễn ra thế nào, chỉ biết rằng, tất cả các máy đều hao phí điện năng, dầu mỡ trong quá trình hoạt động. sự hao phí điện năng đó cũng tương tự sự hao phí sức lao động của người công nhân.

Lưu ý:

Lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa và là một phạm trù lịch sử, riêng có của sản xuất hàng hóa. Chỉ có sản xuất sản phẩm để bán thì người ta mới tính đến mặt lao động trừu tượng của lao động sản xuất hàng hóa .

Có thể định nghĩa giá trị hàng hóa một cách cụ thể hơn: Giá trị hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Đó cũng chính là mặt chất của giá trị hàng hóa.

Lao động trừu tượng là lao động đồng nhất và giống nhau về chất.

Như vậy, lao động sản xuất hàng hóa nếu xem xét dưới góc độ lao động cụ thể tức là xem xét lao động đó tiến hành như thế nào, sản xuất ra cái gì; còn dưới góc độ lao động trừu tượng thì xem xét lao động đó tốn bao nhiêu sức lực, hao phí bao nhiêu thời gian lao động. Không phải có hai thứ lao động kết tinh trong hàng hóa mà chỉ là lao động của người sản xuất hàng hóa có tính chất hai mặt mà thôi.

c) Mối quan hệ giữa hai mặt của lao động

Hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau.

• Thống nhất: cả lao động trừu tượng và lao động cụ thể đều nằm trong lao động sản xuất hàng hóa.

• Mâu thuẫn

Lao động cụ thể biểu hiện thành tính tư nhân của lao động sản xuất hàng hóa.

Lao động trừu tượng biểu hiện thành tính xã hội của lao động sản xuất hàng hóa, tức là lao động sản xuất cho xã hội.

Hai tính này mâu thuẫn với nhau, biểu hiện ở chỗ:

- Sản phẩm do những người sản xuất hàng hóa riêng biệt tạo ra có thể không ăn khớp với nhu cầu của xã hội (về số lượng, về chất lượng). Khi sản xuất vượt quá nhu cầu của xã hội sẽ có một số hàng hóa không bán được, tức là không thể thực hiện được giá trị. Ví dụ: đối với người thợ mộc, xã hội cần 10 chiếc bàn nhưng anh ta sản xuất ra 11 chiếc. Vậy cái thứ 11 không bán được.

Page 9: Chuong IV - Ktct

- Mức hao phí lao động cá biệt của người sản xuất có thể cao hơn hao phí lao động xã hội, khi đó hàng hóa sẽ không bán được hoặc nếu bán được thì không thu hồi đủ chi phí lao động bỏ ra. Ví dụ: đối với người thợ mộc, hao phí lao động cá biệt là 110.000 đ trong khi xã hội chỉ chấp nhận cái bàn ở mức 100.000 đ cái bàn quá đắt không tiêu thụ được. Như vậy, để tồn tại được thì người thợ mộc phải sản xuất đáp ứng đủ nhu cầu thị trường và không làm quá đắt.

Có thể nói, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội và tính chất tư nhân của lao động sản xuất hàng hóa là mầm mống của mọi mâu thuẫn trong nền sản xuất hàng hóa. Mâu thuẫn đó được biểu hiện thành mâu thuẫn giữa lao động cụ thể và lao động trừu tượng, giữa giá trị sử dụng và giá trị. Chính vì những mâu thuẫn đó mà sản xuất hàng hóa vừa vận động phát triển, vừa tiềm ẩn khả năng khủng hoảng.

(Rút lời khuyên: Phải lao động mới có giá trị; Muốn có nhiều giá trị thì phải tăng cường độ lao động và năng suất lao động, đồng thời hạ thấp giá trị cá biệt. Nếu không lao động mà vẫn có giá trị thì đó là bóc lột. Yêu cầu sinh viên liên hệ: Giá trị trong học tập là gì? Đo giá trị trong học tập như thế nào? Không học mà vẫn có điểm thì chỉ có thể là copy bài thôi.)

3. Lư¬ợng giá trị hàng hoá và các nhân tố ảnh hư¬ởng đến lư¬ợng giá trị hàng hoá

a) Th¬ước đo l¬ượng giá trị hàng hoá

Khái niệm chung: lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hóa đó, thường được tính bằng thời gian lao động.

[Trên thực tế, một loại hàng hóa nhất định thường có nhiều người sản xuất khác nhau nhưng điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề, năng suất lao động khác nhau do đó thời gian lao động cá biệt là khác nhau.

Ví dụ: Trong nghề dệt vải, người thợ lành nghề dệt một tấm vải chỉ mất khoảng 1h, người thợ mới vào nghề mất khoảng 5h còn người không chuyên dệt thì có thể mất cả 10h.

Như vậy, nếu sử dụng thời gian lao động cá biệt để làm thước đo cho lượng giá trị hàng hoá thì:

- Sẽ không có một tỷ lệ trao đổi thống nhất giữa 2 loại hàng hoá. Tỷ lệ đó khác nhau đối với mỗi nhà sản xuất.

- Người lao động sản xuất càng lười biếng, vụng về thì hàng hoá của họ lại càng có giá trị vô lý.

Do vậy, trong trao đổi, người ta tính giá trị hàng hóa không dựa trên giá trị cá biệt (đo bằng hao phí thời gian lao động cá biệt) mà người ta phải căn cứ vào giá trị chung hay giá trị xã hội. Tức là, lượng giá trị của hàng hóa không phải do thời gian lao động cá biệt quy định, mà nó được đo bởi thời gian lao động xã hội cần thiết.]

Giá trị cá biệt: là hao phí lao động của từng người, từng cơ sở sản xuất để sản xuất ra hàng hóa đó.

Page 10: Chuong IV - Ktct

Giá trị xã hội: là hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó. Khi tính lượng giá trị của hàng hóa, không thể căn cứ vào giá trị cá biệt mà phải căn cứ vào giá trị xã hội.

Khái niệm đầy đủ: Lượng giá trị của hàng hóa là lượng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó.

Thời gian lao động xã hội cần thiết: là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với một trình độ trang thiết bị trung bình, với một trình độ thành thạo trung bình và một cường độ lao động trung bình trong xã hội đó.

“Giá trị của mọi hàng hóa – và do đó giá trị của những hàng hóa cấu thành tư bản cũng vậy – không phải do thời gian lao động xã hội cần thiết chứa đựng trong bản thân hàng hóa đó quyết định, mà là do thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra hàng hóa đó quyết định” .

Cách xác định: Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động xã hội trung bình để sản xuất ra hàng hóa. Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết gần sát với thời gian lao động cá biệt của người sản xuất hàng hóa nào cung cấp đại bộ phận hàng hóa đó trên thị trường.

Thời kỳThợ dệt Hao phí lao động/ 1 sản phẩm Số sản phẩm trên thị trường Lượng giá trị của hàng hóa

Thời kỳ 1 A 1h 30 5h

B 5h 50

C 10h 20

Thời kỳ 2 A 1h 50 1h

B 3h 30

C 4h 20

(Giải thích bảng: Trong thời kỳ 1, thợ dệt A có lợi mở rộng sản xuất, thợ dệt C thua lỗ. Trong thời kỳ 2, thợ dệt B nâng cao năng suất lao động đã hạ thời gian lao động từ 5h xuống 3h, thợ dệt C cũng nâng cao năng suất lao động để hạ thời gian lao động từ 10h xuống 4h. Tuy nhiên, thời gian lao động xã hội cần thiết đã giảm xuống 1h. Do vậy, B,C vẫn bị thiệt).

Thời gian lao động xã hội cần thiết là một lượng không cố định vì trình độ thành thạo trung bình, cường độ lao động trung bình, điều kiện trang thiết bị kỹ thuật trung bình của xã hội ở mỗi nước khác nhau là khác nhau và thay đổi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi thời gian lao động xã hội cần thiết thay đổi thì lượng giá trị của hàng hóa cũng thay đổi.

b) Các nhân tố ảnh hư¬ởng đến l¬ượng giá trị hàng hoá

Tất cả những yếu tố nào ảnh hưởng đến thời gian lao động xã hội cần thiết đều ảnh hưởng đến số lượng giá trị của hàng hóa:

• Tính chất của lao động:

Page 11: Chuong IV - Ktct

Theo mức độ phức tạp của lao động, có thể chia lao động thành lao động giản đơn và lao động phức tạp.

Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ một người lao động bình thường nào không cần phải trải qua đào tạo cũng có thể thực hiện được.

Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động chuyên môn lành nghề nhất định mới có thể tiến hành được.

Ảnh hưởng đến giá trị hàng hóa: Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Khi sử dụng lao động phức tạp sẽ làm cho số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên, dẫn đến hao phí lao động trên một đơn vị sản phẩm giảm xuống. Từ đó, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế. Các Mác viết “Lao động phức tạp chỉ là lao động giản đơn được nâng lên lũy thừa, hay nói đúng hơn, là lao động giản đơn được nhân lên” . Rút lời khuyên: phải nâng cao năng lực, trình độ công nhân để nâng cao hiệu quả kinh tế. (Một người hay lo bằng một kho người hay làm).

Trong quá trình trao đổi hàng hóa, mọi lao động phức tạp đều được quy thành lao động giản đơn trung bình, và điều đó được thực hiện một cách tự phát sau lưng những hoạt động sản xuất hàng hóa, hình thành những tỷ lệ nhất định thể hiện trên thị trường. Ví dụ: quy giờ lao động chuẩn cho giáo viên: 1 tiết dạy ngoại ngữ = 0.85 tiết chuẩn; 1 tiết dạy kinh tế chính trị = 1 tiết chuẩn; 1 tiết thực hành kỹ thuật= 0.5 tiết chuẩn.

• Năng suất lao động

Khái niệm: Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động, được đo bằng số lượng sản phẩm được sản xuất trong một đơn vị thời gian, hoặc số lượng thời gian hao phí để sản xuất một đơn vị sản phẩm.

Công thức: (Năng suất lao động tính bằng khối lượng sản phẩm)

hoặc (Năng suất lao động tính bằng thời gian sản xuất sản phẩm)

Trong đó: F: số sản phẩm.

T: Thời gian lao động, khối lượng lao động.

P: Năng suất lao động.

Ví dụ: 8h16 sản phẩm P = 2sp/h hoặc P = 0.5h/sp.

Các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao động:

Trình độ lành nghề của người lao động.

Trình độ công nghệ

Phương pháp tổ chức, quản lý lao động

Quy mô và hiệu quả của tư liệu sản xuất

Các điều kiện tự nhiên…

Page 12: Chuong IV - Ktct

Ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa: Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi thì lượng giá trị của hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Năng suất lao động xã hội càng cao thì thời gian lao động xã hội cần thiết càng ít, lượng lao động kết tinh trong một đơn vị hàng hóa càng nhỏ do đó giá trị hàng hóa càng bé..

Năng suất lao động cần phân biệt với khái niệm “cường độ lao động”.

Cường độ lao động là mức độ hao phí lao động trong một đơn vị thời gian.

Tăng cường độ lao động là tăng mức hao phí lao động trong một đơn vị thời gian, nó thể hiện tính khẩn trương của công việc, nó cũng giống như kéo dài thời gian lao động.

Ví dụ: Thợ mộc lao động với cường độ lao động bình thường, trong một ngày sản xuất 2 chiếc bàn. Khi cần giao hàng gấp anh ta sản xuất 4 chiếc bàn một ngày nhưng anh ta mệt nhọc gấp đôi ngày thường. Do vậy, một ngày tăng cường độ lao động cũng giống như 2 ngày lao động với cường độ bình thường.

Cường độ lao động tăng lên thì số lượng (hoặc khối lượng) hàng hóa sản xuất ra tăng lên và hao phí sức lao động cũng tăng lên tương ứng, vì vậy giá trị của một đơn vị hàng hóa vẫn không thay đổi.

Tăng cường độ lao độngTăng năng suất lao động

Giống nhau * Chúng đều thuộc “sức sản xuất của lao động”

* Đều dẫn tới số lượng (hoặc khối lượng) sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên.

Khác nhau

* Ảnh hưởng đến lượng giá trị Chỉ làm tăng số lượng (hoặc khối lượng) hàng hóa mà không ảnh hưởng đến giá trị của hàng hóa. Vừa làm cho hàng hóa tăng lên về mặt lượng lại vừa kéo theo sự giảm giá trị của hàng hóa đó.

* Khả năng tăng lên Phụ thuộc nhiều vào thể chất, tinh thần của người lao động nên nó có những giới hạn nhất định. Năng suất lao động tăng lên không ngừng do nó phụ thuộc nhiều vào yếu tố máy móc kỹ thuật, một yếu tố có “sức sản xuất” vô hạn.

III. TIỀN TỆ

1. Lịch sử phát triển của hình thái giá trị và bản chất của tiền tệ

a) Lịch sử phát triển của hình thái giá trị

[Trong lịch sử Kinh tế chính trị, tiền tệ đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà kinh tế nhưng C.Mác là người đầu tiên đã nghiên cứu một cách hệ thống và sâu sắc về nguồn gốc, bản chất của tiền tệ.

Tiền tệ xuất hiện là kết quả tất yếu của quá trình phát triển sản xuất và trao đổi hàng hóa. Do đó, muốn nghiên cứu tiền tệ thì phải bắt đầu nghiên cứu từ sản xuất và trao đổi hàng hóa.

Page 13: Chuong IV - Ktct

Giá trị của hàng hóa chỉ được biểu hiện khi trao đổi với một hàng hóa khác. Hàng hóa thứ nhất biểu hiện giá trị của nó ở hàng hóa thứ hai, còn hàng hóa thứ hai đóng vai trò là vật ngang giá, là hình thái ngang giá của các giá trị. Cùng với quá trình phát triển của trao đổi hàng hóa, hình thái giá trị cũng biến đổi và phát triển qua bốn hình thái: Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên, hình thái mở rộng, hình thái chung của giá trị và hình thái tiền tệ.]

Số lượng vật ngang giá chung trong các hình thái

Hình thái chung

Vàng

Hình thái mở rộng

Hình thái giản đơn

Thế giới hàng hóa

• Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị

Bối cảnh xuất hiện: Cuối Công xã nguyên thủy, lực lượng sản xuất có sự phát triển nhất định làm xuất hiện những sản phẩm thặng dư, do đó bắt đầu có trao đổi. Tuy nhiên, do trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp nên sản phẩm thặng dư chưa nhiều. Lúc này trao đổi hàng hóa ít, chỉ mang tính chất ngẫu nhiên và là trao đổi trực tiếp.

Ví dụ: 1m2 vải = 5kg thóc.

Ở đây, giá trị của vải chỉ được biểu hiện đơn nhất ở một hàng hóa khác (thóc), quan hệ trao đổi đó chỉ có tính chất ngẫu nhiên, trực tiếp hàng lấy hàng, tỷ lệ trao đổi 1:5 cũng là ngẫu nhiên.

Đặc điểm:

Tỷ lệ trao đổi hàng hóa: mang tính ngẫu nhiên.

Hình thái ngang giá: Thóc – mang tính ngẫu nhiên nhưng đã có thể biểu hiện được giá trị của hàng hóa. Đây là hình thái phôi thai của tiền tệ. Vì thế, Các Mác cho rằng, ngay trong hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị đã có mầm mống của tiền tệ.

• Hình thái mở rộng của giá trị

Page 14: Chuong IV - Ktct

Bối cảnh xuất hiện: Khi lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội, năng suất lao động xã hội tăng lên thì sản phẩm thặng dư cũng nhiều hơn, do đó, trao đổi hàng hóa cũng thường xuyên hơn. Khi đó, một hàng hóa có thể được trao đổi với nhiều hàng hóa khác.

Ví dụ: 1m2 vải = 5 kg thóc

= 4 cái bàn

= 3 con cừu

= …

Đặc điểm:

Tỷ lệ trao đổi hàng hóa: không còn mang tính ngẫu nhiên nữa mà dần dần do lao động quy định, bởi vì ngay từ đầu người ta đã sản xuất ra những vật phẩm trên với mục đích là để mang trao đổi.

Hình thái ngang giá: Tồn tại nhiều hình thái ngang giá, mỗi hình thái là một hình thái ngang giá đặc thù. Do vậy, giá trị của hàng hóa được biểu hiện còn chưa thống nhất.

Hình thức trao đổi vẫn là trực tiếp hàng lấy hàng, do đó khi nhu cầu trao đổi giữa những người chủ hàng hóa không phù hợp sẽ làm cho trao đổi không thực hiện được. Chẳng hạn, người có thóc cần đổi lấy vải nhưng người có vải lại muốn đổi lấy áo nên sự trao đổi giữa người có thóc và người có vải không diễn ra được.

Những nhược điểm của hình thái mở rộng của giá trị đòi hỏi sự xuất hiện của vật ngang giá chung, khi đó xuất hiện hình thái thứ ba.

• Hình thái chung của giá trị

Bối cảnh xuất hiện: Khi lực lượng sản xuất phát triển hơn một bậc nữa, sản phẩm thặng dư sẽ nhiều hơn nữa làm cho trao đổi hàng hóa ngày càng phát triển, dần dần xuất hiện hàng hóa trung gian trong trao đổi. Những hàng hóa trung gian phải mang tính thông dụng, có ý nghĩa kinh tế đối với một bộ tộc, một địa phương, một vùng… Khi đã có hàng hóa trung gian, người ta dễ dàng hơn trong việc trao đổi lấy hàng hóa mà họ cần. Hình thái mở rộng của giá trị đã phát triển thành hình thái chung của giá trị.

Ví dụ: 5kg thóc = 1m2 vải

4 cái bàn

3 con cừu

Đặc điểm:

Tỷ lệ trao đổi hàng hóa: đã cố định.

Page 15: Chuong IV - Ktct

Hình thái ngang giá: hình thái ngang giá chung. Giá trị của hàng hóa được biểu hiện thống nhất trong một khu vực nhất định. Nhờ vậy, hình thái này đã khắc phục được nhược điểm của hình thái mở rộng và hình thái ngẫu nhiên là: người ta có thể dễ dàng thực hiện trao đổi để lấy hàng hóa mà họ cần).

Vật ngang giá chung chỉ cố định ở một phạm vi khu vực nhỏ .

Điều này gây khó khăn cho sự giao thương trao đổi hàng hóa giữa các bộ tộc, giữa các vùng. Do đó, xuất hiện nhu cầu về một vật ngang giá chung thống nhất mang hình thái ngang giá chung thống nhất. Không cái gì khác, chính là lúc tiền tệ ra đời.

• Hình thái tiền

Bối cảnh xuất hiện: Sự trao đổi hàng hóa, thông thường giữa các vùng, các quốc gia ngày càng phát triển, điều này đặt ra một yêu cầu: phải có 1 hàng hóa đóng vai trò làm vật ngang giá chung nhất giữa các khu vực.

Ví dụ: 1m2 vải = 0.03 gam vàng

4 cái bàn

2kg thóc

Đặc điểm:

Tỷ lệ trao đổi hàng hóa: đã cố định

Hình thái ngang giá: Hình thái tiền tệ. Vật ngang giá được cố định.

Khi tiền tệ xuất hiện, thế giới hàng hóa chia thành hai cực: một cực là những hàng hóa thông thường đại biểu cho những giá trị sử dụng, một cực khác là hàng hóa đóng vai trò tiền tệ, đại biểu cho giá trị.

Vàng, bạc trở thành vật ngang giá chung phổ biến nhất. Vì:

* Chúng có những thuộc tính tự nhiên thỏa mãn các yêu cầu: thuần nhất, dễ chia nhỏ, dễ vận chuyển, dễ bảo quản, trọng lượng nhỏ, giá trị cao…

* Mặt khác, vàng và bạc cũng là hàng hóa vì chúng có cả giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị sử dụng của vàng, bạc như dùng làm đồ trang sức, làm các chi tiết sản phẩm công nghiệp… Giá trị của vàng, bạc được đo bằng lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra chúng bao gồm hao phí lao động để tìm kiếm, khai thác, chế tác vàng bạc.

Khi vàng và bạc cùng làm chức năng tiền tệ thì chế độ tiền tệ được gọi là chế độ song bản vị. Khi chỉ có vàng độc chiếm vai trò tiền tệ thì chế độ tiền tệ gọi là chế độ bản vị vàng.

Khi đóng vai trò tiền tệ, vàng và bạc có thêm giá trị sử dụng đặc biệt là vật ngang giá chung, đo lường giá trị của hàng hóa khác. Đó là chức năng xã hội của vàng và bạc. Cũng từ đây nảy sinh tệ sùng bái tiền, coi tiền có quyền lực vạn năng.

Page 16: Chuong IV - Ktct

b) Bản chất của tiền tệ

Nguồn gốc của tiền: Tiền ra đời trong quá trình phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hóa.

Bản chất của tiền: là một hàng hóa đặc biệt, đóng vai trò vật ngang giá chung, là sự thể hiện chung của giá trị và thể hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa.

2. Chức năng của tiền tệ

a) Th¬ước đo giá trị

Trong chức năng này, tiền được dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của hàng hóa. Tiền tệ có thể đo lường và biểu hiện giá trị của hàng hóa vì bản thân tiền tệ có giá trị.

Trạng thái tiền tệ: Khi thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền tệ không cần phải là tiền thật, mà chỉ là tiền trong ý niệm, trong tưởng tượng.

Giá trị hàng hóa được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hóa, hay ngược lại, giá cả hàng hóa là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa. Giá cả do các nhân tố: giá trị hàng hóa, giá trị tiền tệ, quan hệ cung cầu… quyết định. Giá cả hàng hóa tỷ lệ thuận với giá trị của chúng và tỷ lệ nghịch với giá trị tiền tệ. Quan hệ cung cầu làm giá cả lên xuống xung quanh giá trị. Cung lớn hơn cầu thì giá cả nhỏ hơn giá trị; cung nhỏ hơn cầu thì giá cả lớn hơn giá trị.

Đơn vị đo lường tiền tệ: đo giá trị của bản thân tiền tệ. Đơn vị tiền tệ và các phần chia nhỏ của nó gọi là tiêu chuẩn giá cả. Ở mỗi nước, đơn vị tiền tệ là khác nhau. Là thước đo giá trị, tiền tệ đo lường hàng hóa khác; Là tiêu chuẩn giá cả, tiền tệ đo lường số lượng của bản thân kim loại dùng làm tiền tệ. Sự thay đổi giá trị của hàng hóa tiền tệ không ảnh hưởng đến “chức năng” tiêu chuẩn giá cả của nó.

Khi cả vàng và bạc làm chức năng thước đo giá trị thì phải luôn xác định quan hệ tỷ lệ giữa vàng và bạc bởi vì giá trị hàng hóa phải được đo bằng một thước đo thống nhất, không thể có hai thước đo. Thuộc tính tự nhiên của vàng đáp ứng yêu cầu đối với hàng hóa tiền tệ tốt hơn bạc nên dần dần chỉ còn vàng là tiền tệ, bạc bị loại ra khỏi vai trò tiền tệ.

b) Phư¬ơng tiện lư¬u thông

Làm chức năng phương tiện lưu thông, tiền tệ là môi giới trong lưu thông hàng hóa.

Khi tiền chưa xuất hiện: trao đổi trực tiếp HH

Khi tiền xuất hiện: quá trình trao đổi có tiền làm trung gian HTH

Trạng thái tiền tệ: Tiền phải là tiền thật vì khi hàng hóa chuyển từ tay người bán sang tay người mua thì tiền chuyển từ tay người mua sang tay người bán.

Các loại tiền:

Thực hiện chức năng này, lúc đầu người ta dùng vàng thoi, bạc nén. Tuy nhiên, điều đó lại tạo nên một số khó khăn: phải chia nhỏ chúng thành nhiều mảnh nhỏ, phải xác định số lượng, độ nguyên chất… Do đó, vàng thoi, bạc nén dần dần được thay thế bằng tiền đúc.

Page 17: Chuong IV - Ktct

Tiền đúc là khối kim loại đúc có hình thức, trọng lượng và giá trị nhất định, nó được dùng làm phương tiện lưu thông. Trong quá trình lưu thông, tiền đúc bị hao mòn dần và mất đi một phần giá trị của nó. Tuy nhiên, trên thực tế những đồng tiền đã bị hao mòn giá trị vẫn được chấp nhận làm phương tiện lưu thông với đầy đủ giá trị. Từ đó, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. Tiền chỉ còn là ký hiệu của giá trị.

Tiền giấy là dấu hiệu của tiền tệ buộc phải thừa nhận. Nhà nước phát hành và quản lý lưu thông tiền giấy. Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là ký hiệu của giá trị và được công nhận trong phạm vi quốc gia.

Tác dụng: Thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, tiền làm cho quá trình mua bán, trao đổi diễn ra dễ dàng thuận lợi nhưng đồng thời nó cũng làm cho việc mua bán tách rời nhau cả về không gian và thời gian (có thể bán mà chưa mua, hay mua ở nơi này bán ở nơi kia), do đó nó làm tăng lên khả năng khủng hoảng kinh tế.

c) Ph¬ương tiện thanh toán

Kinh tế hàng hóa phát triển đến một mức độ nhất định thì tất yếu sẽ nảy sinh việc mua bán chịu, do đó tiền có chức năng phương tiện thanh toán. Với chức năng này tiền dùng để chi trả sau khi công việc giao dịch, mua bán đã hoàn thành. Ví dụ: trả tiền mua hàng chịu, trả nợ, nộp thuế… Trong hình thức mua bán chịu, trước tiên tiền làm chức năng thước đo giá trị. Nhưng vì mua bán chịu nên chỉ đến kỳ hạn phải trả thì tiền mới thực hiện chức năng phương tiện thanh toán.

Trạng thái tiền tệ: Tiền thật.

Tác dụng:

Sự phát triển của hình thức mua bán chịu một mặt mở ra khả năng trang trải nợ nần bằng cách thanh toán khấu trừ lẫn nhau, không dùng tiền mặt nên giảm được lượng tiền thật cần thiết phát hành trong lưu thông.

Mặt khác, trong việc mua bán chịu, người mua là con nợ, người bán là chủ nợ. Khi hệ thống con nợ và chủ nợ phát triển rộng rãi, chỉ cần một khâu nào đó không được thanh toán sẽ ảnh hưởng đến hàng loạt các khâu khác và làm sụp đổ hệ thống, tạo ra sự khủng hoảng kinh tế trên diện rộng.

Quá trình thực hiện chức năng phương tiện thanh toán sẽ làm xuất hiện một loại tiền mới - tiền tín dụng dưới các hình thức: giấy bạc ngân hàng, tiền ghi sổ,tài khoản có thể phát hành séc, tiền điện tử, thẻ thanh toán…Tiền tín dụng càng phát triển thì chức năng phương tiện thanh toán của tiền càng mở rộng và hình thức của tiền càng được phát triển hơn.

d) Ph¬ương tiện cất trữ

Tiền là hiện thân của giá trị, đại biểu cho của cải xã hội, nên nó có thể thực hiện được chức năng phương tiện cất trữ [Lưu ý: Tiền gửi ngân hàng không phải là tiền cất trữ vì nó vẫn còn nằm trong lưu thông. Chỉ khi nào tiền đứng ngoài lưu thông mới được coi là tiền cất trữ.] Làm chức năng này, tiền rút khỏi lưu thông và được cất trữ lại để khi cần có thể đem ra mua hàng.

Page 18: Chuong IV - Ktct

Trạng thái tiền tệ: tiền đủ giá trị như tiền vàng, bạc và các của cải bằng vàng, bạc. [Lưu ý: Rất ít khi người ta cất trữ tiền giấy chỉ trừ 1 số đồng tiền của các quốc gia mạnh như USD. Tuy nhiên cất trữ chính vẫn là cất trữ vàng và bạc. Có thể thấy rằng khi có biến cố về chính trị, chiến tranh, giá vàng tăng cao bởi vì các quốc gia tăng lượng cất trữ vàng và bạc, làm cho cung ít đi, cầu nhiều hơn.]

Tác dụng: Sự cất trữ tiền làm cho tiền trong lưu thông thích ứng một cách tự phát với nhu cầu tiền cần thiết cho lưu thông hàng hóa. Nếu sản xuất hàng hóa giảm sút, hàng hóa ít thì một phần tiền vàng rút khỏi lưu thông và được cất trữ. Ngược lại, nếu sản xuất hàng hóa tăng lên tức là hàng hóa nhiều thì đồng tiền đó quay trở lại lưu thông. Cất trữ tiền không chỉ là cất trữ của cải mà còn là dự trữ cho lưu thông tiền tệ.

e) Tiền tệ thế giới

Khi trao đổi hàng hóa mở rộng ra ngoài biên giới quốc gia và hình thành quan hệ buôn bán giữa các nước, thì tiền tệ làm chức năng tiền tệ thế giới.

Thực hiện chức năng này tiền làm nhiệm vụ:

Phương tiện lưu thông, mua bán hàng hóa;

Phương tiện thanh toán, dự trữ quốc tế và các hoạt động ngoại thương, tín dụng, tài chính;

Di chuyển của cải từ nước này sang nước khác.

Trạng thái tiền tệ: Làm chức năng tiền tệ thế giới, tiền tệ phải có giá trị thật sự, phải là tiền vàng hoặc tiền tín dụng được công nhận trên phạm vi quốc tế. Trên thực tế, chỉ có đồng tiền của những nước có nền kinh tế mạnh mới đảm nhiệm được chức năng tiền tệ thế giới.

Tác dụng:

Khi có đồng tiền làm chức năng tiền tệ thế giới xuất hiện thì sẽ nảy sinh quan hệ giữa đồng tiền các nước khác với nhau và với đồng tiền làm chức năng tiền tệ quốc tế đó. Việc đổi tiền nước này ra tiền của nước khác phải được tiến hành thoai tỷ lệ nhất định, phụ thuộc vào sức mua của các đồng tiền. Tỷ lệ trao đổi giữa các đồng tiền được gọi là tỷ giá hối đoái, tức là giá cả đồng tiền của quốc gia này được tính bằng đồng tiền của quốc gia khác.

Việc chỉ có một hoặc một số ít đồng tiền làm chức năng tiền tệ thế giới sẽ là điều kiện để các quốc gia có đồng tiền đó thi hành các chính sách nhằm thu lợi cho nước mình và có thể gây thiệt hại đến nước khác. Do vậy, rất cần thiết phải ra đời một đồng tiền chung nhằm khắc phục tình trạng đó.

Tóm lại, tiền tệ có năm chức năng, những chức năng này ra đời cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Các chức năng có quan hệ mật thiết với nhau, thông thường, tiền làm nhiều chức năng cùng một lúc.

IV. QUY LUẬT GIÁ TRỊ

1. Nội dung của quy luật giá trị

Page 19: Chuong IV - Ktct

Nội dung: Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị xã hội của nó, tức là trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết.

Yêu cầu:

Trong sản xuất: Hao phí lao động cá biệt phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết. Tức là giá trị cá biệt của hàng hóa phải nhỏ hơn hoặc bằng giá trị xã hội của hàng hóa.

Trong trao đổi: phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá: hai hàng hóa trao đổi với nhau khi cùng kết tinh một lượng lao động như nhau, hoặc trao đổi, mua bán hàng hóa phải thực hiện theo nguyên tắc giá cả phù hợp với giá trị.

Cơ chế tác động: cơ chế tác động của quy luật giá trị thể hiện qua sự vận động của giá cả hàng hóa trên thị trường xung quanh giá trị của hàng hóa do quan hệ cung - cầu quyết định.

Cung > cầu giá cả < giá trị.

Cung < cầu giá cả > giá trị.

Cung = cầu giá cả = giá trị.

Ví dụ: Khi giá hàng hóa tiêu dùng tăng lên: người sản xuất hàng hóa đó mở rộng sản xuất, người tiêu dùng thì hạn chế chi tiêu hơn. Hoặc, giá dầu tăng lên giao thông vận tải và các ngành sản xuất khác gặp nhiều khó khăn có thể đẩy giá các dịch vụ và các mặt hàng khác lên. Giá cả các hàng hóa đó có thể tăng lên hoặc giảm xuống nhưng đều xoay quanh giá trị xã hội của chúng.

2. Tác động của quy luật giá trị

Một là, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa .

Điều tiết sản xuất:

* Nếu mặt hàng nào đó có giá cả cao hơn giá trị trong thời gian dài, hàng hóa bán chạy, lãi cao thì những người sản xuất hàng hóa đó sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư thêm tư liệu sản xuất và sức lao động. Mặt khác, những người sản xuất hàng hóa khác (nhưng thu được lãi ít hơn hoặc không có lãi) sẽ chuyển hướng sang sản xuất hàng hóa này để thu lãi cao. Do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này tăng lên, quy mô sản xuất càng được mở rộng.

* Ngược lại, nếu mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị trong thời gian dài, người sản xuất sẽ bị lỗ vốn. Tình hình đó buộc người ta phải thu hẹp quy mô sản xuất hoặc chuyển sang sản xuất mặt hàng khác có lãi hơn, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này giảm đi.

* Trong trường hợp mặt hàng nào đó có giá cả bằng giá trị thì người sản xuất có thể tiếp tục sản xuất mặt hàng này.

Như vậy, quy luật giá trị sẽ tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản xuất và sức lao động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu cầu của xã hội.

Page 20: Chuong IV - Ktct

Điều tiết lưu thông hàng hóa, thu hút hàng hóa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, nhờ đó, góp phần làm cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định. Ví dụ: hoa quả được vận chuyển từ Nam ra Bắc; Hàng hóa Trung Quốc tràn sang Việt Nam; Xăng Việt Nam bị buôn lậu sang Lào, Campuchia.

Hai là, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm .

Trong nền sản xuất hàng hóa, những người sản xuất hàng hóa có trình độ tay nghề, công cụ lao động, điều kiện lao động… khác nhau nên hàng hóa mà họ sản xuất ra có giá trị cá biệt khác nhau. Tuy nhiên, thị trường chỉ thừa nhận tất cả các hàng hóa trao đổi theo giá trị xã hội. Người nào sản xuất hàng hóa có giá trị cá biệt nhỏ hơn giá trị xã hội thì sẽ thu lãi, những người sản xuất hàng hóa có giá trị cá biệt lớn hơn giá trị xã hội thì sẽ phải chịu lỗ. Do vậy, muốn tồn tại thì người sản xuất hàng hóa phải không ngừng tìm mọi cách để cải tiến kỹ thuật, nâng cao trình độ chuyên môn, ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ mới vào sản xuất, cải tiến phương thức tổ chức và quản lý sản xuất… nhằm làm hạ thấp giá trị cá biệt.

Xu hướng này diễn ra liên tục vì do tất cả mọi người đều cố gắng hạ giá trị cá biệt xuống thì kéo theo giá trị xã hội cũng giảm theo và người sản xuất lại phải hạ giá trị cá biệt xuống tiếp nữa, cứ như thế kỹ thuật được cải tiến không ngừng, năng suất lao động tăng lên, giá thành sản phẩm hạ xuống… Thông qua sự nỗ lực tối ưu hóa sản xuất như vậy mà lực lượng sản xuất xã hội không ngừng phát triển.

Ba là, phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giàu, nghèo .

Trong nền sản xuất hàng hóa, những người sản xuất hàng hóa có hao phí lao động cá biệt khác nhau nhưng lại trao đổi theo hao phí lao động xã hội cần thiết.

Những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết thì sẽ thu được nhiều lãi, sẽ giàu lên qua đó tạo điều kiện để tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất.

Ngược lại những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt cao hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết thì sẽ chịu thiệt, bị thu hẹp sản xuất dần dần và kết quả là bị nghèo đi.

Như vậy, quy luật giá trị hoạt động đã phân chia xã hội thành hai cực, một cực gồm những người giàu có, một cực gồm những người nghèo khổ bao gồm người lao động và các chủ sản xuất bị phá sản… Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản.

Q

uy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Do vậy song song với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển thì Nhà nước cần có những chính sách, giải pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của quy luật này.