cu lao pho lich su va van hoa iii.pdf

220
1 NHÀ BẢO TÀNG ĐỒNG NAI CÙ LAO PHỐ LỊCH SỬ & VĂN HÓA NHÀ XUẤT BẢN ĐỒNG NAI - 1998

Upload: vanliem

Post on 28-Jan-2017

239 views

Category:

Documents


6 download

TRANSCRIPT

Page 1: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

1

NHÀ BẢO TÀNG ĐỒNG NAI

CÙ LAO PHỐ

LỊCH SỬ & VĂN HÓA

NHÀ XUẤT BẢN ĐỒNG NAI - 1998

Page 2: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

2

Chủ nhiệm đề tài

ĐỖ BÁ NGHIỆP

Chủ biên

HUỲNH NGỌC TRẢNG

Biên soạn

HOÀNG THƠ

NGUYỄN YÊN TRI

TRƢƠNG NGỌC TƢỜNG

NGUYỄN ĐẠI PHÚC

HUỲNH NGỌC TRẢNG

PHAN ĐÌNH DŨNG

HUỲNH TỚI

Page 3: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

3

LỜI NÓI ĐẦU

Đồng Nai là vùng đất được khai phá sớm ở Nam bộ, trong đó có một số

làng cổ làm chỗ đứng cho công cuộc khẩn hoang lập nghiệp. Chính vì vậy, việc

nghiên cứu các làng cổ tiêu biểu là nỗ lực góp phần tìm hiểu lịch sử và truyền

thống văn hóa của địa phương.

Sau làng Bến Gỗ, Cù Lao Phố là đối tượng nghiên cứu thứ hai nằm trong

kế hoạch tìm hiểu nói trên. Tuy nhiên, mỗi làng xã có những đặc điểm lịch sử - văn

hóa riêng, do đó mà trọng tâm của sự chú ý trong mỗi trường hợp có khác nhau.

Cù Lao Phố là một tụ điểm cư dân đa chủng – đông đảo nhất là người Việt

và người Hoa, lại là một trung tâm thương mại quốc tế, một đại phố đô hội lớn

nhất ở phương Nam. Do vậy, bản thân của nó chứa đựng nhiều vấn đề phong phú

cần tìm hiểu, mà ở đây yêu cầu chính của chúng tôi là làm rõ sự hình thành và

những biến đổi của Cù Lao Phố về các mặt lịch sử dân cư, kinh tế - xã hội, tập

quán tín ngưỡng và truyền thống văn hóa của nó trong suốt 300 năm lịch sử.

Cù Lao Phố, trong 300 năm qua, là vùng đất có nhiều biến cố dữ dội, trong

đó có những biến động đã tạo nên sự đứt gãy của quá trình phát triển kinh tế - xã

hội, làm xáo trộn dân cư và thay đổi về chất của tiến trình văn hóa, tập quán, tín

ngưỡng… Chính vì vậy, công việc tìm hiểu nó không phải là không vấp váp phải

những khó khăn nhất định. Nói cách khác, tập sách Cù Lao Phố - Lịch sử và văn

hóa này chắc hẳn còn nhiều sai sót. Chúng tôi rất mong nhận được nhiều ý kiến

đóng góp của bạn đọc.

Thay mặt nhóm biên soạn

Chủ nhiệm đề tài

ĐỖ BÁ NGHIỆP

Page 4: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

4

CHƯƠNG MỞ ĐẦU

KHỞI NGUYÊN CÙ LAO PHỐ

Nhà Bè nước chảy chia hai

Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về

Ở nƣớc ta, hầu nhƣ đâu đâu cũng có một dòng sông gắn với một vùng đất.

Sông Đồng Nai, từ buổi đầu mở cõi về phƣơng Nam, có vai trò quan trọng là đƣa

những luồng nhân lực đến đây khai hoang lập nghiệp và nó đã nối kết các cộng

đồng cƣ dân cũ mới, hòa trộn các ngọn nguồn văn hóa để rồi cấu thành một tổng

thể đa chất và với một nỗ lực trung nguyên nào đó chúng ta cũng tìm ra đƣợc

những hạt giống nguyên sơ ánh lên một sắc màu riêng biệt.

Chẳng hạn ngay cái tên sông Đồng Nai quen thuộc đến mức thân thƣơng

này cũng không phải là cái tên cổ nhất, mà nó chỉ xuất hiện với tƣ cách là tục danh

của Phƣớc Long Giang, từ hơn 300 năm trở lại đây – khi con cháu của vua Hùng

đến chặt nhát dao đầu tiên vào cánh rừng trải dài hàng nghìn dặm từ cửa Xoài Rạp

lên đến thƣợng nguồn của những con suối, những dòng sông; trong đó có sông

Đồng Nai mà ngƣời Mạ gọi tên là Đạ Đờng.

Đạ Đờng theo J.Boulbet thì: Đạ (Daá: phiên âm của Boulbet) là nƣớc, chất

lỏng; và Đạ Đờng (Daá Doong) là: “dòng sông, ở đây chỉ sông Đồng Nai thượng;

người Mạ có dòng sông riêng của họ, và đặt tên là sông Cái (Cours d’eau

majeur); đây là cách gọi dành riêng cho chính dòng sông đó”. (1) Căn cứ vào dữ

liệu mà Boulbet khảo cứu, chúng ta có thể khẳng định rằng từ Đồng trong tên sông

Đồng Nai bắt nguồn từ âm Đờng của tên con sông Cái/ Đạ Đờng của ngƣời Mạ.

Nói cách khác tên sông Đồng Nai không có nghĩa là Lộc Dã: Cánh đồng có nai; và

vấn nạn tiếp theo là từ “Nai”.

J. Boulbet có đƣa ra từ kép hao ning và giải nghĩa hao ning là leo dốc, có

âm và nghĩa gợi cho chúng ta liên hệ đến địa danh Hố Nai (2), điều này cho phép

chúng ta giả định từ “Nai”của tên sông Đồng Nai có thể bắt nguồn từ chữ

“ning”của ngƣời Mạ. Theo đó, Đồng Nai phải chăng là “Đờng Ning”: sông Cái

(có) bờ dốc đứng.

Sự truy cứu dài dòng về nguồn gốc của tên sông Đồng Nai nhƣ trên

đây là nhằm phác họa bối cảnh lịch sử tổng quát về vùng địa lý nhân văn của xứ

Đồng Nai đƣợc coi nhƣ cái tên chứa đựng những tiền đề để nảy sinh ra Nông Nại

Đại Phố.

(1) J. Boulbet: Pay des Maá, domaine des géneies/Nggar Maa’, nggar Yaang – E.F.EO,Paris, 1967, trang 129.

(2) J. Boulbet, sđt, trang 130: ning: dốc đứng (côte zaide)

Page 5: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

5

Sách Gia Định thành thông chí, biên soạn hồi đầu thế kỷ XIX (tức hơn một

trăm mấy chục năm sau khi nhóm ngƣời Hoa các châu Cao - Lôi - Liêm do Trần

Thƣợng Xuyên đƣợc phép đến định cƣ ở thôn Bàn Lân, rồi phát triển Cù Lao Phố

thành xứ đô hội. Khi viết về huyện Phƣớc Chánh (xƣa là tổng Tân Chánh) có cho

chúng ta một vài dữ liệu đáng chú ý: “Khi mới khai thác thì đầu nguồn, Đồng

nguyên còn rừng thổ dân lấy bãi (cù lao - NHT) Tân Chánh làm tổng thuộc về dinh

Trấn Biên và huyện Tân Bình, sau lại đem đất rậm biên vào sổ thuế đều lấy chữ

Tân đứng đầu, làm cho chỗ hoang tạp lại phức tạp thêm. Mãi đến khi lập thành đồ

bản thì mới có đầu mối và đổi về dinh Trấn Biên” (2). Căn cứ vào nội dung đoạn

văn này chúng ta biết rằng khi mới khai thác (có lẽ tính vào thời điểm trƣớc năm

1698) thì vùng ven thành Biên Hòa ngày nay, trở lên Tân Uyên, Bình Lợi, Bình

Chánh, Rạch Đông… đầu nguồn Đồng nguyên (hiểu là thƣợng nguồn sông Đồng/

Đạ Đờng ) là man sách của thổ dân mà nhà Nguyễn chƣa quản lý đƣợc một cách

chặt chẽ.

Kết quả điều tra thực tế, cộng với những tên núi, tên sông rạch còn ghi trên

cả bản đồ công bố hồi đầu thế kỷ này, chúng ta thấy còn khá nhiều địa danh mọi:

rạch Mọi, gò Mả Mọi (xã Bình Hòa, Vĩnh Cửu), vùng đất Chơn Chùa/ núi Gò Mọi

(xã Đại An, Vĩnh Cửu)… Ký ức dân gian và dữ liệu thƣ tịch cho thấy rằng vùng

đất trung lƣu sông Đồng Nai, bao gồm các cù lao, là vùng cƣ trú của các tộc ngƣời

bản địa; và do đó, khiến các quan chức nhà Nguyễn mà trực tiếp là Xá sai Văn

Trinh và tƣớng thần Lại Văn Chiêu – hai quan chức vốn ít nhiều thông thạo vùng

đất này – quyết định cho “tướng Cao Lôi Liêm là bọn họ Trần đem binh thần vào

cửa biển Cần Giờ, rồi lên đồn trú ở địa phương Bàn Lăng xứ Đồng Nai khai phá

đất hoang, lập phố thương mãi”(2).

(2) Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí – Tu Trai Nguyễn Tạo dịch, nhà văn hóa xuất bản, S., 1972, tập

trung, trang 44. theo sách này thì Nguyễn Phước Chánh mà đại thể là bao gồm địa bàn huyện Tân Uyên (Bình

Dương) và Vĩnh Cửu (Đồng Nai ): Đông giáp bến đò Thị Nghĩa, chợ thôn Bình Dương, tổng Long Vĩnh, huyện Long

Thành sát đến núi rừng; phía Tây giáp man sách đầu nguồn; phía Nam giáp huyện Bình An: từ núi Chiêu Thái

(Châu Thới - HNT) đến xứ Ba Đốc, sông Thị Kiên; và phía Bắc giáp man sách rừng lớn.

(2) Về địa danh Bàn Lăng trong Địa bạ Minh Mạng ghi “Tân Lân thôn, ở xứ Bằng Lăng”; ở đây chúng tôi lưu ý về

cách gọi của người xưa: “Địa phương Bàn Lăng” (Gia Định thành thông chí) và “xứ Bàng Lăng” (Nguyễn Đình

Đầu: nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn – Biên Hòa, NXB TP HCM,1994, tr.324) phải chăng là một địa danh lịch sử -

văn hóa chứ không phải là địa danh hành chính. Nói cách khác đồng nhất Bằng Lăng / Bàn Lăng với Tân Lân là

không chính xác. Cũng có ý kiến cho rằng Bàn Lăng / Bàng Lăng gốc do ở đây có nhiều cây bằng lăng hoa tím mà

định danh. Đó là một sự đoán định. Còn theo sự đoán định của chúng tôi thì " danh này có lẽ bắt nguồn từ tên gọi

một loại cây blaang của người Mạ. Theo Boulbet (sđd) thì cây blaang (bonrbax malabarium) là loại cây gạo

Malaba Ấn Ðộ, là loại cây “đốn từ trong rừng đem về trồng ở trong làng để làm cọc hiến sinh (người ta buộc con

trâu để giết tế lễ vào đó); cây cọc này sẽ đâm rễ xanh tươi trở lại và đây là di tích chỉ báo sự chiếm ngụ của con

người trên vùng đất đã bị bỏ đi. Loại gạo mọc ở núi cao và cao nguyên thường nhỏ thấp ở mức trung bình; ngược

lại, cây gạo mọc ở bờ sông, triền đất thung lũng phù sa ở miền hạ lại đạt đến kích thước cao lớn, nổi bật trên tầng

cây rừng xanh thẳm quanh nó” (tr. 121). Từ trích dẫn này chúng ta có thể đồ rằng cái vùng đất được gọi là “địa

phương Bàn Lăng”là nơi có cây Blaang cao vút làm tiêu chí (Giống như trường hợp địa danh Thủ Dầu Một); hoặc

là do tính chất thiêng liêng của cây blaang làm cọc đâm trâu cúng Yang nên được thổ dân gọi tên cho vùng đất.

Theo J. Boulbet, ngoài cây blaang (gạo), nguời Mạ còn có loại cây blaạng ser (cây sữa) và loại cây có củ buum

blaang (khoai mì / sắn) là loại cây mà nguời Mạ thuờng trồng ở nơi nhốt trâu bò cũ, hay quanh nơi cư trú hoặc các

rẫy mới khai phá. Nói tóm lại, chúng tôi nêu giả thiết nguồn gốc của địa danh Bàn Lăng là bắt nguồn từ từ Blaang

như giả định đó là vùng đất có cây blaang / blaang ser hay trồng nhiều khoai mì… và theo đó cũng giả định rằng

cái “địa phương Bàn Lăng” tuồng như là nơi người Mạ đã cư trú trước khi lưu dân Việt và rồi nhóm binh dân của

Trần Thượng Xuyên đến đồn trú.

Page 6: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

6

Ngoài điều kiện lịch sử - dân cƣ nói trên, sách Gia Định thành thông chí

cũng cho biết rằng ở miệt trên, nơi hợp lƣu của sông Đồng Nai (Đạ Đờng) và sông

Bé (Đạ Glung), tức khu vực thác Trị An, “là nơi từng thấy những thác đá gồ ghề,

dữ tợn, ghe thuyền không lưu thông được, con nước thủy triều chỉ lên đến đó thôi.

Còn thuyền buồm cũng đậu tại đây, rồi lên thuế trường giao dịch với các mán

(hiểu là thổ dân bản địa - HNT)”(3). Nhƣ vậy, thủy đạo đến địa điểm này là chỗ

khó khăn khiến cho mọi ý định tiến lên miệt đồng nguyên bị chặn lại tại đó. Thần

thoại Mạ kể cuộc chiến đấu kịch liệt của Rắn Sồng Lớn (Nak Grai (?) của sông Đạ

Đờng) đánh bại con Rắn của Biển (Đạ Ling/ Daa’ Ling) muốn lấn lên ngƣợc dòng

sông lớn khiến Rắn của biển phải rút về phía dƣới hạ lƣu và không bao giờ dám

tràn lên vùng thƣợng lƣu Đạ Đờng nữa (2) phản ánh khá xác thực điều kiện thủy

văn và địa lý mà tác giả Gia Định thành thông chí đề cập: “con nước thủy triều chỉ

lên đến đó thôi”. Chi tiết, cả trong thần thoại Mạ và thƣ tịch Hán Nôm, chỉ ra vùng

phân biệt của hai vùng sinh thái tự nhiên quyết định các biểu hiện nhân văn và

kinh tế đáng chú ý; và cái gọi là “thuế trƣờng giao dịch” (nơi đánh thuế) là một cơ

quan đƣợc lập sau này, sau cái mốc lập phủ Gia Ðịnh (1698); nhƣng có lẽ đây là

“cái chợ phiên” để trao đổi nông và lâm sản, cùng các vật dụng, khí cụ nhu yếu của

các cộng đồng cƣ dân miệt dƣới và miệt nguồn có từ lâu đời. Chi tiết về cái “thuế

trƣờng giao dịch” cũng giúp chúng ta hình dung ra việc thu mua nông lâm sản của

miệt nguồn nhằm cung ứng cho nhu cầu thƣơng mãi và xuất khẩu của thƣơng cảng

Cù Lao Phố thời sau này.

Đến đây, một câu hỏi đƣợc đặt ra là tại sao năm 1679, nhóm binh dân Cao

Lôi Liêm không đồn trú tại các vùng đất và cù lao ở miệt dƣới hạ lƣu “từ cửa Cần

Giờ đến địa phương Bàn Lăng của xứ Đồng Nai”.

Câu hỏi này hầu nhƣ đã đƣợc tác giả Gia Định thành thông chí giải đáp khi

nói về việc khâm mạng Trấn Biên dinh (tức trấn Phú Yên) Yến Vũ hầu, Tham mƣu

Minh Lộc hầu và Tiên phong Cai đội Xuân Thắng hầu đem ba ngàn binh vào Mỗi

Xuy giải quyết việc “Nặc Ông Chân phạm biên cảnh” vào tháng 9 năm Mậu Tuất

(1658): “Khi ấy địa đầu Gia Định là Mỗi Xuy (hay Mô Xoài) và Đồng Nai (tức

nay là Biên Hòa trấn) đã có lƣu dân của nƣớc ta đến ở chung lộn với ngƣời Cao

Miên. Ngƣời Cao Miên khâm phục oai đức của triều đình, đem nhƣợng hết cả đất

ấy, rồi tránh ở chỗ khác, không tranh trở chuyện gì”(3).

Nhƣ vậy, trƣớc khi nhóm binh dân Cao Lôi Liêm của Trần Thƣợng Xuyên

vào cửa Cần Giờ thì miệt dƣới Cù Lao Phố đã có lƣu dân ta định cƣ vào đâu vào

đó. Đấy là chƣa kể, sau đợt giải quyết việc “Nặc Ông Chân phạm biên cảnh” nói

trên, năm 1674 Thái Khang dinh tƣớng Dƣơng Lâm hầu làm Thống suất và Tham

mƣu Diên Phái hầu Hiệp lý biên vụ đem binh đi tiến thủ phá vỡ luôn ba lũy Sài

Côn, Gò Bích và Nam Vang. Nói cách khác, sau 1674 – tức 5 năm trƣớc khi nhóm

(3) Trịnh Hoài Đức, sđd, tập thượng, tr.19

(2) Nguyễn Đình: Vài nét về văn hóa tinh thần của người Mạ - trong “Vấn đề dân tộc học ở Lâm Đồng”, Sở Văn

hóa Thông tin Lâm Đồng xuất bản 1993, tr.191 – 192

(3) Trịnh Hoài Đức, sđd, tập trung, tr.6 - 7

Page 7: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

7

binh dân của Trần Thƣợng Xuyên đƣợc phép đến đồn trú ở Bàn Lăng, thì địa bàn

khai hoang lập ấp của lƣu dân Việt đã mở rộng hơn khỏi xứ Mỗi Xuy Đồng Nai.

Nói tóm lại, việc nhóm binh dân Cao Lôi Liêm đƣợc Xá sai Văn Trinh và

Tƣớng Thần Lại Văn Chiêu dẫn đến “đồn trú ở địa phƣơng Bàn Lăng” mà không

phải là một địa điểm nào khác là vì miệt dƣới hạ lƣu “đã có lƣu dân của nƣớc ta

đến ở” và miệt trên vẫn là địa bàn cƣ trú của “thổ dân lấy bãi Tân Chánh làm

tổng”. Cũng từ những tiền đề lịch sử này nên nhóm binh dân Cao Lôi Liêm mới có

điều kiện để nhanh chóng “lập chợ phố thương mãi, giao thông với người Tàu,

người Nhật Bổn, Tây Dương, Ðồ Bàn, thuyền buôn tụ tập đông đảo”(14). Nói cách

khác, để biến “địa phƣơng Bàn Lăng” thành “Nông Nại Ðại Phố” nhóm binh dân

ngƣời Hoa này phải có lực lƣợng ngƣời sản xuất ra nông sản, vật phẩm và khai

thác nguồn lâm sản, đánh bắt thủy sản v.v… để cung ứng cho nhu cầu bán buôn,

xuất khẩu và đồng thời họ đã tập họp thành lực lƣợng khách hàng có nhu cầu mua

sắm những thứ hàng hóa, vật phẩm cần thiết cho sinh hoạt, sản xuất; hoặc nhu cầu

tiêu xài của các nhà hào phú, quan lại và đặc biệt là các loại hàng hóa, vật tƣ,

nguyên liệu dùng cho quân đội thời chiến tranh. Sách sử đã cho ta biết nhiều vị

quan nào lƣu thủ này, cai bạ nọ. Ở miệt trên Tân Chánh có “thơ lại” Thủ Huồng

giàu có và khắc bạc mà truyền thuyết còn lƣu lại; ở miệt dƣới có bà Bùi Thị Lẫm

(Ðồng Môn) là một thƣơng buôn làm vợ Tổng binh Hà Tiên (Mạc Cửu). Ðó là

những ví dụ. Có ngƣời mua sắm thì việc buôn bán mới phát đạt và đến khoảng

trƣớc sau giữa thế kỷ XVIII, Cù Lao Phố mới thành một trung tâm thƣơng mãi

“thuyền buôn tụ tập đông đảo; phong hóa Trung Quốc từ đấy bồng bột lan khắp

vùng Giản Phố vậy”(2).

Giản Phố (có nơi viết là Ðông Phố; và tác giả Gia Định thành thông chí còn

gọi là Nông Nại Ðại Phố (3) là một khu vực thƣơng mại ở phía Tây Cù Lao Phố:

“…phố xá mái ngói tường vôi, lầu cao quán rộng, dọc theo bờ sông liền lạc tới 5

dặm. Chia vạch ra ba đường phố lớn lót đá trắng, đường phố ngang lót đá ong,

đường phố nhỏ lót gạch xanh, đường rộng bằng phẳng; ghe thuyền lớn ở biển và ở

sông đến đậu neo, có những xà lan liên tiếp nhau. Ấy là một chỗ đại đô hội, nhà

buôn bán to lớn duy ở đây là nhiều hơn”(4).

Bộ mặt Nông Nại Ðại Phố đƣợc nhƣ Trịnh Hoài Ðức miêu tả trên đây có lẽ

là thực tế của những năm trƣớc sau giữa thế kỷ XVIII; tức chí ít phải sau vài chục

năm kể đi khi tập đoàn binh dân Cao Lôi Liêm đến đồn trú ở địa phƣơng Bàn

Lăng. Nói cách khác, sự phát triển của các phố cảng thƣơng mại này là kết quả của

quá trình tiến triển của các phố cảng thƣơng mại này là kết quả của quá trình tiến

triển của công cuộc khẩn hoang và nỗ lực thiết lập bộ máy hành chính – cai trị kể

(4 ) Trịnh Hoài Ðức, sđd, tập trung, tr. 10

(2) Trịnh Hoài Ðức, sđd, tập trung, tr. 10

(3) Trịnh Hoài Ðức, sđd, tập thượng, tr.34

(4) Trịnh Hoài Ðức, sđd, tập hạ, 113-114

Page 8: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

8

từ sau 1698 – khi Nguyễn Hữu Cảnh cắt đặt phủ Gia Ðịnh, lập xứ Đồng Nai làm

huyện Phƣớc Long, dựng dinh Trấn Biên; lập xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình,

dựng dinh Phiên Trấn. Khi ấy “đất đã mở rộng một nghìn dặm, dân số hơn bốn

vạn hộ”; và sau đó, lại “chiêu mộ những lưu dân từ châu Bố Chánh trở vô Nam

đến ở khắp nơi, đặt ra phuờng, ấp, xã, khóm; mọi người phân chiếm ruộng đất,

chuẩn định thuế đinh điền vào lập bộ tịch đinh điền. Từ đó, con cháu người Tàu ở

Trấn Biên thì lập xã Thanh Hà… rồi chép vào sổ hộ tịch”(5). Vào thời điểm này,

ngoài xã Thanh Hà của ngƣời Hoa, Cù Lao Phố từ các xóm khai hoang nhƣ xóm

Chùa, xóm Chiếu, xóm Rạch Lò Gốm… đã lập thành trên dƣới 10 thôn xã mà sau

này thuộc tổng An Thủy (huyện Bình An) mà lỵ sở đóng ở phía Thủ Ðức ngày

nay. Đây là các thôn làng của Cù Lao Phố; còn xã Thanh Hà tồn tại nhƣ một cơ sở

hành chính có tính chất “lãnh sự quán” đặt trụ sở ở miếu Quan Ðế xây dựng vào

năm 1684, quản lý những ngƣời Hoa cƣ trú ở Cù Lao Phố và ở các địa phƣơng

khác thuộc Trấn Biên. Nói cách khác, Nông Nại Ðại Phố và Thanh Hà chiếm một

phần đất làm phố cảng bên cạnh các thôn làng khác của Cù Lao Phố.

Câu ca dao: “Nhà Bè nước chảy chia hai, ai về Gia Ðịnh, Đồng Nai thì về”

đã hiển thị “cái chết đã báo trƣớc” của xứ đô hội Trấn Biên. Nội dung của nó đã

chỉ ra rằng có hại vùng đất đang “cạnh tranh” nhau để rủ rê và những luồng nhân

lực và vật lực đến khai thác. Nông Nại Ðại Phố hình thành nhƣ một cảng sông sâu

trong nội địa (cách biển khoảng 100 km) nhờ đặc điểm địa lý tối ƣu của nó và do

yêu cầu thực tế đòi hỏi phải có một trung tâm thƣơng mại của khu vực đƣợc khai

phá sớm. Nhƣng rồi sau đó, công cuộc khẩn hoang tiến nhanh về miệt dƣới nên vị

trí trung tâm của đất phƣơng Nam lúc này tất nhiên phải rời xuống Bến Nghé – Sài

Gòn. Mặt khác, bản thân Cù Lao Phố khi đã trở thành “xứ đô hội” của vùng đất

mới thì tự nó cũng trở thành điểm nóng của những cuộc tranh chấp quyền lực và

chính trị. Trƣớc hết, năm 1747, bọn khách thƣơng ngƣời Phƣớc Kiến là Lý Văn

Quang tự xƣng là “Giản Phố đại vƣơng”, tập họp bè đảng, toan đánh úp lấy dinh

Trấn Biên. Âm mƣu bạo loạn bị dập tắt, nhƣng gây nhiều thiệt hại cho Cù Lao

Phố. Kế đó, trong trận chiến giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh, biến cố năm 1776 đã

tàn phá Cù Lao Phố: “…Từ đấy, chỗ này biến thành gò hoang; sau khi trung hƣng,

ngƣời ta tuy có trở về, nhƣng dân số không đƣợc một phần trăm lúc trƣớc”(5). Nhƣ

vậy, Cù Lao Phố, xã Thanh Hà kể từ đó đã bị phố thị Sài Gòn (hiểu là Chợ Lớn

hiện nay) và làng Minh Hƣơng giành mất vai trò và vị trí vốn có trƣớc đây của nó -

nhất là khi thành Gia Định ở Bến Nghé đƣợc thành lập theo ý đồ chính trị của

Nguyễn Ánh: Bến Nghé và Sài Gòn đã nghiễm nhiên trở thành trung tâm hành

chính thƣơng mãi và văn hóa của đất phƣơng Nam.

Kể từ 1776 đến những năm cuối cùng của cuộc nội chiến, Cù Lao Phố và

cả xứ Gia Định gặp phải khó khăn hơn. Rồi năm 1789, Nguyễn Ánh làm chủ đất

Gia Định; rồi lên ngôi vua: xứ Gia Định đổi ra Gia Định thành, dinh Trấn Biên đổi

thành Trấn Biên Hòa… Cù Lao Phố bấy giờ có 10 thôn: Bình Kính Đông, Tân

Gíam, Bình Hòa, Tân Hƣng, Bình Quan, Long Qƣới, Bình Xƣơng, Bình Tự. Cù

(5) Trịnh Hoài Ðức, sđd, tập hạ, tr. 114

Page 9: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

9

Lao Phố, nhƣ vậy, thôn làng đƣợc ổn định, nhƣng không còn là trung tâm thƣơng

mãi nữa mà chỉ là các làng nông nghiệp. Các thiết chế văn hóa – tín ngƣỡng của

thôn làng là đình, chùa, miếu võ có lẽ đƣợc bắt đầu hoàn thiện đầy đủ ở giai đoạn

này. Các ngôi cổ tự nhƣ Ðại Giác, chùa Phƣớc Hội, Chúc Ðảo (chùa Thủ Huồng,

nay có tên là Chúc Thọ) và miếu Quan Ðế, đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh (đền Lê

Công) đƣợc duy trì và tôn tạo… tất cả những gì đƣợc bảo quản cho đến lúc bấy giờ

chỉ làm cho Cù Lao Phố là vùng có phần cổ kính hơn các thôn làng ở nơi khác mà

thôi.

Công việc khẩn hoang lập làng dƣờng nhƣ vẫn đƣợc tiếp tục, do đó, theo

Ðịa bạ Minh Mạng, Cù Lao Phố có đến 13 xã thôn: Bình Hoành, Bình Hòa, Bình

Quan, Bình Tự, Bình Xƣơng, Hƣng Phú, Long Quới, Tân Giám, Tân Hƣng, Tân

Mỹ, Thành Ðức, Vinh Long, Hòa Quới. Các làng xã này, giờ thuộc tổng Phƣớc

Vinh Thƣợng, huyện Phƣớc Chánh, tỉnh Biên Hòa.

Năm 1859, Pháp đánh hạ thành Gia Ðịnh. Từ đó Biên Hòa là một hậu cứ

quan trọng của chiến trƣờng Gia Ðịnh - nhất là lúc đại đồn Chí Hòa còn. Sau khi

đại đồn Chí Hòa thất thủ, tỉnh Biên Hòa trở thành nơi hội tụ của các lực lƣợng

quân sự Gia Ðịnh và trở thành một chiến tuyến. năm 1861, giặc tung một lực

lƣợng bộ binh và thủy quân đánh lên Biên Hòa. Cù Lao Phố nằm trên đƣờng tiến

quân của giặc nên trở thành điểm tựa chống giặc, cản trở làm chậm bƣớc tiến quân

của chúng. Sau nhiều ngày quyết chiến, liên quân Pháp – Tây Ban Nha mới chiếm

đƣợc thành Biên Hòa.

Năm 1879, thực dân Pháp tiến hành việc tổ chức sắp xếp lại các làng xã,

Cù Lao Phố từ 13 thôn đƣợc gom lại thành ba làng:

- Nhứt Hòa gồm các thôn cũ là Hƣng Phú, Tân Gíam, Bình Tự và Bình

Xƣơng.

- Nhị Hòa gồm các thôn Tân Mỹ, Thành Hƣng (do Thành Ðức và Tân

Hƣng sáp nhập lại), Bình Kính (Bình Hoành).

- Tam Hòa gồm các thôn Bình Hòa, Long Quới, Hòa Quới, Bình Quan.

Ba làng Cù Lao Phố thuộc tỉnh Phƣớc Vinh Thƣợng của quận Châu Thành.

Rồi đến năm 1928, ba làng trên lại sáp nhập lại thành một làng có tên là Hiệp Hòa.

Tên làng này duy trì từ đó đến nay.

Dù phố xá đã tàn lụi và thôn làng đã đổi thay: hết Nhứt Hòa, Nhị Hòa, Tam

Hòa rồi lại hiệp thành Hiệp Hòa, nhƣng lời tục xƣa nay vẫn gọi xứ này là Cù Lao

Phố nhƣ hàm chứa nỗi hoài vọng về thời xƣa cũ, lúc xứ này vang danh là Nông

Nại Ðại Phố.

Thật ra, danh xƣng “Nông Nại Ðại Phố” không phổ biến trong xứ ta mà nó

đƣợc Trịnh Hoài Ðức, khi đi xứ sang cống Ðại Thanh “đã thấy sử Trung Quốc

chép ngƣời Đồng Nai là ngƣời Nông Nại”(6). Ở sách sử xứ ta, Cù Lao Phố đƣợc

(6) Trịnh Hoài Ðức, sđd, tập thượng, tr.34

(2)Trương Vĩnh Ký: petit cour de geographie…, Impimerie de Gouvernememt. 1875

Page 10: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

10

gọi nhiều tên: Ðại Phố Châu, Giản Phố, Ðông Phố hoặc Cù Châu; và lại thấy

Trƣơng Vĩnh Ký ghi chú trong Petit cours de géographie de la Basse –

Cochinchine, ở mục CÙ LAO của tỉnh Biên Hòa: cù lao Ăn Mày là tục danh của

Đại Phố châu (tên chữ Hán) (2). Theo Vƣơng Hồng Sển, trong Di cảo Trƣơng

Vĩnh Ký (dẫn theo Cisbassac của Malleret) thì địa danh cù lao Ăn Mày đƣợc

Trƣơng Vĩnh Ký “dịch sát nghĩa hai tiếng Kờme kòh sòm – tãn”(3). Dịch nhƣ vậy

thì quả là rất đúng nghĩa; nhƣng khẳng định Cù Lao Phố vốn đƣợc ngƣời Khme

gọi là Koh (cù lao) Sòm – tãn thì lại là vấn đề khác mà trƣớc hết là không có bằng

cớ, cứ liệu.

Trong bài vè Các đƣờng lục tỉnh (hiểu là đƣờng sông) rút từ sƣu tập “Thủ

bút của Trƣơng Vĩnh Ký” (1837 - 1898) hiện lƣu trữ ở Thƣ viện Thông tin (Hà

Nội), ký hiệu VĐ 35/11, lƣợc trích sau đây:

… Rạch Tra nhà ở cheo leo,

Hóc Môn là xứ vƣờn trầu nghinh ngang.

Dầu Một, Chợ Thủ, Ba Càng,

Quanh co Đồng Phú nhuộm vàng Võ Sa.

Bến Cá xóm ở đông nhà,

Xƣa kia Đồng Ván trời đà cao xây.

Chợ Đồn đá dợn nƣớc trào,

Hoặc khi ngó thấy cù lao Ăn Mày

Hòn núi Châu Thới cao thay,

Kiến Dƣơng qua khỏi, xuống ngay Nhà Bè

(…)

Ở bài vè này, Trƣơng Vĩnh Ký cũng chú thích là: “cù lao Ăn Mày: tên gọi

khác của Cù Lao Phố (Biên Hòa)”. Điều này đã chỉ ra rằng: việc Trƣơng Vĩnh Ký

gọi Cù Lao Phố là “cù lao Ăn Mày”là bắt nguồn từ sáng tác truyền khẩu các đƣờng

lục tỉnh dẫn trên và rồi với sự thông thạo Khmer ngữ của mình, ông đã dịch ra là

Koh Sòm – tãn để khiến cho đời sau, học giả họ Vƣơng phải vất vả lục lọi trong

cuốn từ điển Miên – Pháp của J.B.Bernard mới vớ đƣợc cái sự đích thị là từ “sâum

téan”là “sòm tãn” với cái nghĩa là “demander l’aumône”. Hơn thế nữa gần đây lại

có nhà nghiên cứu vui mừng tán thán công lao của ngƣời đi trƣớc đã tìm ra đƣợc

địa danh “sâum téan”vì nhờ đó mà ông ta đã khẳng định đƣợc rằng cái địa phƣơng

Bàn Lăng trong thƣ tịch Hán Nôm đích thị là “Sàm – tân”(phiên âm quốc ngữ La

tinh của từ “sâum téan” nói trên).

Nói tóm lại, chúng tôi nêu vấn đề tục danh của Cù Lao Phố là “cù lao Ăn

Mày” trên đây làm đoạn kết của chƣơng mở đầu cho tập sách này nhƣ là một vấn

(3) Vương Hồng Sển: Tự vị tiếng Việt miền Nam, NXB Văn Hóa, H.,1993, tr.272, 319

Page 11: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

11

nạn để thỉnh cầu sự chỉ dẫn thêm của các bậc cao minh. Nói cách khác, đoạn kết

này là đoạn kết chƣa kết thúc về vấn đề khởi nguyên của Cù Lao Phố.

Page 12: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

12

PHẦN THỨ NHẤT

TỰ NHIÊN VÀ NHÂN VĂN

Page 13: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

13

CHƯƠNG I

TỰ NHIÊN CÙ LAO PHỐ

I.VỊ TRÍ

Từ thác Trị An ra đến biển Đông, giữa lòng sông Đồng Nai nổi lên hàng

chục cù lao lớn nhỏ khác nhau quanh năm xanh tƣơi mƣợt mà nhiều loại cây trái,

hoa màu khác nhau. Nhƣng đƣợc cả nƣớc và nhiều ngƣời nƣớc ngoài từ Á sang Âu

biết đến từ ba trăm năm nay là Cù Lao Phố, nay là xã Hiệp Hòa, thành phố Biên

Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Cù Lao Phố ở trung tâm thành phố Biên Hòa, bốn bề sông nƣớc vây quanh,

cách trụ sở UBND thành phố khoảng 2 km đƣờng chim bay:

Phía Bắc và Đông Bắc là các phƣờng Quyết Thắng, Thống Nhất, Tân Mai.

Phía Đông và Đông Nam là các phƣờng Tam Hiệp, An Bình.

Phía Nam và Tây là các phƣờng Tân Vạn, Bửu Hòa.

Cù Lao Phố rộng khoảng 600 ha (6,6 km2), diện tích vào loại trung bình so

với hai chục phƣờng, xã toàn thành phố Biên Hòa. Cù Lao có hình dạng chiếc

chuông chùa treo nghiêng, đỉnh chuông ở khóm Bình Tự phía Đông Bắc; Rạch Cát

(tên chữ: Sa Hà) uốn vòng từ hƣớng Tây Nam lên Đông Bắc rồi lại chảy xuôi về

hƣớng Đông Nam tạo hình thân chuông; dòng chính Đồng Nai chảy thẳng hƣớng

Tây Bắc – Đông Nam làm thành đáy chuông.

Đƣờng sắt xuyên Việt và Quốc lộ I băng qua mỏm phía Tây Cù Lao (khóm

Thành Hƣng) bởi hai cầu Rạch Cát và cầu Ghành xây cất năm 1903 – nối đôi bờ

sông Đồng Nai. Các đƣờng huyết mạch này giúp dân Cù Lao đi thành phố Hồ Chí

Minh và các tỉnh miền Tây Nam bộ; nếu ngƣợc ra phía Bắc thì tới các tỉnh miền

Trung và thủ đô Hà Nội… Cù Lao Phố có thể giao lƣu với đồng bằng sông Cửu

Long bằng sông Đồng Nai và hệ thống sông ngòi kinh rạch chằng chịt. Từ cuối thế

kỷ XVII đến cuối thế kỷ XVIII nơi đây là thƣơng cảng quan trọng nhất Nam bộ

đón nhận tàu thuyền nhiều nƣớc vào ra buôn bán tấp nập gần một thế kỷ, trƣớc khi

nhƣờng chỗ cho phố thị Sài Gòn và Bến Nghé nổi lên thay thế.

II.ĐỊA CHẤT

Xƣa kia, nếu ai hỏi “vì sao có Cù Lao Phố” ắt nhận đƣợc câu trả lời xuôi xị

“Trời sinh ra thế”. Ngày nay, các nhà địa chất, địa lý có thể giải đáp câu hỏi trên

với đầy đủ chứng cứ khoa học. Đất đá câm lặng phải khai lý lịch rõ ràng trƣớc các

bộ óc uyên bác.

Ngƣợc dòng lịch sử trái đất, vào đại nguyên sinh Prôtêrôzôi PR cách nay

chừng một ngàn triệu năm, toàn bộ lãnh thổ nƣớc ta và Nam Trung Quốc, Lào,

Campuchia, Mianma, Thái Lan, Bắc Bôrnêô đƣợc nâng lên thành mảng lục địa

Ðông Nam Á rộng lớn.

Tới đại cổ sinh Palêôzôi PZ cách nay không dƣới 500 triệu năm, vận động

tạo núi Calêđôni phá hủy lục địa Ðông Nam, hình thành các khối nâng Việt Bắc,

Page 14: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

14

Phu Hoạt, Kontum và các vùng trũng do lún sụt: vùng trũng Ðông Bắc, vùng trũng

sông Ðà, vùng trũng Trƣờng Sơn, vùng trũng Cửu Long. Cả Nam bộ nằm trong

vùng lún sụt Cửu Long, ở giữa hai khối nâng Tây Campuchia và Kontum, trở

thành vịnh biển mênh mông. Các trầm tích biển dồi dào: đá phiến sét, đá silic, đá

cát chứa vôi… ở Đồng Nai có nguồn gốc cửa sông cách nay gần 200 triệu năm.

Tạo hóa xoay vần, đáy biển lại biến thành nƣơng dâu do chuyển động Kimêri vào

cuối kỷ Jura cách nay 140 triệu năm. Các trầm tích tuổi Liat bị uốn nếp mạnh mẽ

thành các nếp gấp Trị An, La Ngà…

Do hoạt động nội lực, vùng Đồng Nai – cũng nhƣ cả Nam bộ - còn nhiều

lần hạ xuống, nâng lên, lúc ngập nƣớc biển mặn mòi, lúc thoát khỏi sự cai quản

của Long Vƣơng, các nhà khoa học gọi đó là các đợt biển tiến, biển lui.

Chỉ kể trong khoảng thời gian 7.000 năm trở lại đây, ít nhất Đồng Nai có 4

đợt biển tiến, 4 đợt biển lui Hôlôxen Q2. Đợt biển tiến Hôlôxen I (HI) nƣớc dâng

cao 4 m so mức 0 m hiện nay chắc chắn còn dìm một phần tỉnh Đồng Nai – trong

đó Cù Lao Phố - dƣới làn nƣớc mặn mênh mông trong xanh dạt dào sóng vỗ. Nếu

ngƣời tiền sử đã xuất hiện ở vùng gò đồi An Bình (độ cao từ 10 m đến 30 m) họ có

thể tắm biển, nghe sóng biển vỗ bờ… Các đợt biển tiến Hôlôxen 2 (H.2) nƣớc

dâng cao 0,3 m vào năm 950 tr.CN, Hôlôxen 3 (H.3) nƣớc dâng cao 0,8 m vào

năm 650 chắc chắn không ảnh hƣởng gì đến Cù Lao Phố vì nó đã thoát khỏi sự

thống trị của biển vào đợt biển lui Hôlôxen I (H.I) với cực tiểu 0.8 m vào năm

1400 tr.CN. Bất kỳ con sông nào chảy ở vùng đồng bằng bằng phẳng cũng tạo nên

các khúc uốn lớn nhỏ khác nhau do thủy động lực của dòng chảy. Sông Đồng Nai

cũng nằm trong quy luật này, ở một phía bờ, dòng chảy va đập khoét mạnh làm

trôi phần đất mềm, bờ kia thì cát hình thành dƣới lòng sông có dạng lƣỡi liềm (vì

thế ngƣời ta khai thác cát ở nhiều khúc sông); sự việc cứ diễn ra nhƣ thế mãi tạo

nên khúc uốn của dòng sông. Đào khoét xói mòn qua nhiều năm tháng khiến đầu

khúc uốn xích lại gần nhau, tạo nên cổ khúc uốn. Vào một số đợt lũ nào đó nƣớc

sông cao hơn thƣờng kỳ cắt qua cổ khúc uốn tạo thành dòng mới, còn khúc uốn là

dòng sông cũ. Rạch Cát chính là dòng sông Đồng Nai cũ; dòng sông cũ và mới ôm

trọn phần đất nổi ở giữ, bà con gọi là cù lao (miền Bắc gọi là bãi giữa). Các cù lao

khác ở hạ lƣu Đồng Nai – từ thác Trị An tới biển – đuợc hình thành tƣơng tự.

III. ÐỊA HÌNH

Cù Lao Phố có địa hình tƣơng đối bằng phẳng. Nơi cao nhất là khu vực

quanh chùa Ðại Giác +5,6 m, khu vực Gò Cát +3,6 m; hai khu này không bị ngập

lụt trong trận bão lụt lịch sử Nhâm Thìn (tháng 10 - 1952). Các khóm khác có độ

cao thay đổi từ +1,8 m trở xuống. Phần lớn hai khóm Hòa Quới, Long Quới chỉ

cao + 1 m, đất liền mé sông đƣợc phù sa bồi hàng năm, tuy hàm lƣợng phù sa sông

Đồng Nai rất nhỏ. Giữa Cù Lao có hai vùng trũng rộng hàng chục ha, chịu ảnh

hƣởng hàng ngày của thủy triều: Khi triều từ biển dâng lên, nƣớc sông Đồng Nai

lên theo, chảy ngƣợc vào các vùng trũng này thì diện tích ngập lớn hơn khi nƣớc

ròng. Các vùng trũng này đã đƣợc cải tạo để trồng mía nhƣng dễ mất trắng do lũ

mùa hè lên cao.

Page 15: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

15

Cù Lao Phố là bãi phù sa (fluvisol) trên nền đá cứng – loại đá cấu tạo các

núi Châu Thới, Bửu Long – nền đá có chỗ nhô lên tạo thành đá hàn ở khu vực xóm

Bình Kính, hoặc ở lòng sông ngang bến đò Kho. Còn ở những nơi khác, nền đá

nằm sâu bị lớp phù sa mới tƣơng đối dày phủ kín.

Đất trồng (thổ nhƣỡng ) ở Cù Lao Phố là đất phù sa phân ra, đại khái:

40% diện tích đất thịt nhẹ.

30% diện tích đất thịt pha cát ở các ấp Nhị Hòa, Tam Hòa.

30% diện tích đất phù sa bồi hàng năm ở khóm Long Quới, Hòa Quới.

Đất đai đƣợc sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau:

321 ha đất nông nghiệp (trong đó có 210 ha ruộng) bằng 48,6% tổng diện

tích đất tự nhiên.

216 ha đất thổ cƣ bằng 32,7%

123 ha đất chuyên dùng, ao đầm, kênh rạch… bằng 18,7%

Đất đai Cù Lao Phố thích hợp với việc trồng lúa, hoa màu, cây ăn quả

nhiều loại. Dƣới lớp đất mặt có tầng sét dày hạt mịn màu đỏ dùng làm đồ gốm và

gạch ngói rất tốt. Trƣớc kia, hàng chục ha ruộng bị đào lớp sét sâu 2 -3 m bán cho

các lò gạch; nay xã đình chỉ khai thác để bảo vệ đất nông nghiệp.

IV. KHÍ HẬU

Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa nóng ẩm phân hóa sâu sắc theo mùa. Cù

Lao Phố có nhiệt độ trung bình năm 270 C; tháng 1 có nhiệt độ trung bình 25,80 C

là tháng mát mẻ; tháng 4 có nhiệt độ trung bình 29,4 0C là tháng nóng nhất năm. Ở

đây không có mùa đông lạnh nhƣ miền Bắc vì vị trí địa lý gần xích đạo. Hầu nhƣ

không chịu ảnh hƣởng gió mùa từ Xibia thổi về. Sông nƣớc bao quanh khiến Cù

Lao Phố mát mẻ hơn nội ô Biên Hòa, nhất là vào những tháng nắng nóng mùa khô.

Từ tháng 5 đến tháng 10, gió mùa Tây Nam từ biển thổi vào đem theo

nhiều hơi nƣớc gây mƣa nhiều, đó là mùa mƣa. Lƣợng mƣa mùa này xấp xỉ 1600

mm (so tổng lƣợng mƣa cả năm 1700 mm ), đây là mùa trồng cây, xƣa kia dân Cù

Lao chỉ làm vụ mùa nhờ nƣớc trời. Nay xã có hệ thống thủy lợi (trạm bơm, mƣơng

máng) chủ động tƣới nƣớc lên một số ruộng làm hai, ba vụ mỗi năm.

Ngay giữa mùa mƣa, năm nào cũng có đợt hạn Bà Chằn chừng mƣơi hôm

vào khoảng tháng 8.

Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, tín phong Ðông Bắc nóng khô từ áp cao

chí tuyến Bắc thổi thƣờng xuyên – gọi là gió chƣớng – gây nên mùa khô. Đôi khi

gió mùa Ðông Bắc mạnh lên, tràn từ phía Bắc xuống làm thời tiết mát mẻ hơn

trong vài ngày cuối tháng 12 đầu tháng 1.

Kể từ đầu thế kỷ XX tới nay, Cù Lao Phố cũng nhƣ cả miền Đông Nam bộ

chỉ bị ảnh hƣởng bão lụt lớn hai lần vào tháng 5 – 1905 và tháng 10-1952.

V. SÔNG NGÕI KÊNH RẠCH

Page 16: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

16

Ngoài Rạch Cát (Sa Hà) và sông Đồng Nai (Thanh Hà, Phƣớc Long Giang)

bao quanh, Cù Lao Phố chỉ có hai con rạch: Rạch mà bản đồ địa hình của Mỹ ghi

là sông Ông Án có vài nhánh ăn vào giữa Cù Lao, dài tổng cộng 3 km; rạch Lò

Gốm chỉ khoảng 1 km. Cả hai rạch đều chảy ngoằn ngoèo, nƣớc lên xuống do chịu

ảnh hƣởng thủy triều chuyển ngƣợc dòng Đồng Nai. Xƣa kia ven các rạch um tùm

cây bụi, suốt hai thời kỳ kháng chiến, cán bộ địa phƣơng do cấp trên phái về hoạt

động có lúc chém vè, bám trụ ở đây. Nay bà con mở mang đồng ruộng, khai hoang

các lùm bụi nên từ khóm nọ ngó qua khóm kia dễ dàng. Lòng rạch xƣa kia khá

nhiều tôm, cua, cá, ốc… đó là nguồn cung ứng thức ăn cho một bộ phận dân cƣ,

nay do sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật nên thủy sản chỉ còn rất ít.

VI. THỰC VẬT

Vài trăm năm trƣớc, rừng phủ kín Cù Lao Phố. Từ cuối thế kỷ XVI, đầu thế

kỷ XVII, ngƣời Việt từ Ðàng Ngoài và từ Thuận Quảng phiêu dạt vào đây, đất lành

chim đậu, làm ăn sinh sống. Chắc chắn những ngƣời đi tiên phong này không

“mang gƣơm đi mở cõi” nhƣ nhà thơ Huỳnh Văn Nghệ đã viết. Tiếp đó, vào nửa

cuối thế kỷ XVII, nhóm ngƣời Minh xin tỵ nạn (do Trần Thƣợng Xuyên cầm đầu)

đƣợc chúa Nguyễn Phúc Tần (chúa Hiền) cho phép định cƣ ở đất Đồng Nai. Nhóm

cựu thần nhà Minh này cùng chung sức với ngƣời Việt đến trƣớc khai phá rừng

hoang, dựng làng, lập ấp, xây cảng Nông Nại Ðại Phố đón khách thƣơng đến buôn

bán.

Rừng thƣa hẹp dần, tới 1945, Cù Lao Phố còn vạt rừng chồi ở khóm Tân

Mỹ. Ngày nay, rừng chỉ còn trong ký ức của lớp ngƣời 60 tuổi trở lên. Ở các đình

chùa xót lại một số cây dầu cổ thụ. Thực vật tự nhiên chỉ có một số lùm bụi, một

số loài cỏ sót lại, song tới nay chƣa có nhà thực vật học nào thống kê.

Cây trồng khá đa dạng: Lúa, hoa màu, cây ăn quả. Hầu nhƣ vƣờn mỗi nhà

đều trồng cây ăn quả. Trƣớc thập niên 60, Mỹ rải chất độc khai quang hủy diệt tất

cả các vƣờn cây ăn trái ở Cù Lao Phố cũng nhƣ nhiều vùng khác.

Ngày nay, bà con trồng lại các cây ăn quả: bƣởi, xoài, mít, nhãn, chanh,

mãng cầu, ổi… nhƣng chƣa loại nào chiếm ƣu thế, có giá trị nông sản hàng hóa

đáng kể.

Động vật hoang dã ở đây rất hiếm hoi, chỉ còn rất ít: Tôm, cua, cá, rái cá,

rắn, chim…

Page 17: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

17

CHƯƠNG II

NHÂN VĂN CÙ LAO PHỐ

I. CÙ LAO PHỐ QUA CÁC ĐỜI HAY ĐỊA LÝ LỊCH SỬ CÙ LAO

PHỐ

Thời tiền sử và sơ sử Cù Lao Phố có tên gì, đến nay chƣa phát hiện đƣợc

thƣ tịch cổ nào ghi chép.

1) Sách Gia Định thành thông chí (năm 1820) của Trịnh Hoài Đức ghi tên

các thôn xóm của đất Cù Lao lúc bấy giờ thuộc tổng An Thủy (huyện Bình An,

trấn Biên Hòa) gồm có Tân Hƣng xã và các thôn Tân Giám, Tân Mỹ, Bình Kính,

Bình Quan, Bình Xƣơng, Bình Hòa, Long Quới… Ðịa giới tổng An Thủy khá lớn,

bao gồm từ Thành Tuy (Long Thành) qua đến Giồng Ông Tố (Thủ Ðức, thành phố

Hồ Chí Minh ), phía Nam giáp sông Sài Gòn và phía Bắc là núi Châu Thới. Trịnh

Hoài Đức cũng miêu tả tƣờng tận Cù Lao Phố, cho thấy thời thịnh đạt của vùng đất

này: “…Trần Thƣợng Xuyên tƣớng quân chiêu tập ngƣời buôn nƣớc Tàu đến kiến

thiết phố xá, mái ngói tƣờng vôi, lầu cao quán rộng, dọc theo bờ sông liền lạc tới 5

dặm, chia vạch làm 3 đƣờng phố, đƣờng phố lớn lót đá trắng, đƣờng phố ngang lót

đá ong, đƣờng phố nhỏ lót gạch xanh, đƣờng rộng bằng thẳng, kẻ buôn tụ tập, ghe

thuyền lớn ở biển và ở sông đến đậu neo, có những xà lan liên tiếp nhau, một chỗ

đại đô hội, những nhà buôn bán to lớn duy ở đây là nhiều hơn”.

2) Ðịa bạ triều Nguyễn do Trƣơng Ðăng Quế cầm đầu việc chỉ đạo việc đo

đạc ruộng đất ở Nam Kỳ năm 1836 ghi rõ tên các làng, xã trên đất Cù Lao Phố.

a) Bình Hoành thôn ở xứ Cù Lao Phố

Đông giáp địa phận thôn Bình Quan, có lập cột gỗ làm giới.

Tây giáp sông lớn.

Nam giáp thôn Vinh Long, có lập cột gỗ làm giới.

Bắc giáp địa phận thôn Thành Ðức và xã Tân Hƣng.

Thực canh ruộng đất 14 mẫu 1 sào 12 thƣớc.

Dân cƣ thổ 15 mẫu. Mộ địa một khoảng.

b) Bình Hòa thôn ở xứ Cù Lao Phố

Ðông giáp tôn Bình Xƣơng, có rạch nhỏ làm giới.

Tây giáp thôn Bình Quan, có lập cột gỗ làm giới,

Nam giáp thôn Long Quới, có lập cột gỗ làm giới.

Bắc giáp các thôn Bình Tự, Tân Giám, Hƣng Phú, có lập cột gỗ làm giới.

Thực canh ruộng đất 11 mẫu 9 sào 1 thƣớc 3 tấc.

Dân cƣ thổ 12 mẫu. Mộ địa một khoảnh.

c) Bình Quan thôn ở xứ Cù Lao Phố

Page 18: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

18

Đông giáp các thôn Hòa Quới, Long Quới, Bình Hòa, có lập cột gỗ làm

giới.

Tây giáp hai thôn Vinh Long, Bình Hành,có lập cột gỗ làm giới.

Nam giáp sông lớn.

Bắc giáp hai thôn Tân Mỹ, Vinh Long, có cột gỗ làm giới.

Thực canh ruộng đất 14 mẫu 8 sào 13 thƣớc 5 tấc.

Dân cƣ thổ 2 mẫu 3 sào 13 thƣớc. Mộ địa một khoảnh.

d)Bình Tự thôn ở xứ Phƣớc Hội tự (chùa Phƣớc Hội)

Đông giáp sông lớn, lấy giữa lòng sông làm giới.

Tây giáp địa phận thôn Tân Giám, có lập cột gỗ làm giới.

Nam giáp hai thôn Bình Hòa, Bình Xƣơng, có lập cột gỗ làm giới.

Bắc giáp sông lớn, lấy giữa lòng sông làm giới.

Thực canh ruộng đất 35 mẫu 6 sào 11 thƣớc 2 tấc

Dân cƣ thổ 2 mẫu 8 sào 12 thƣớc. Mộ địa một khoảnh.

e) Bình Xƣơng thôn ở xứ Cù Lao Phố

Đông giáp sông lớn, lấy giữa lòng sông làm giới.

Tây giáp địa phận thôn Bình Hòa, có rạch nhỏ làm giới.

Nam giáp thôn Long Quới, có rạch nhỏ làm giới.

Bắc giáp địa phận thôn Bình Tự, có cột gỗ làm giới.

Thực canh ruộng đất 27 mẫu 2 sào 10 thƣớc 5 tấc.

Dân cƣ thổ 1 mẫu 3 sào. Mộ địa một khoảnh.

Ruộng bỏ hoang 2 mẫu 3 sào 7 thƣớc 5 tấc.

f) Hƣng Phú xã ở xứ Chợ Chiếu

Đông giáp địa phận thôn Tân Giám, có lập cột gỗ làm giới.

Tây giáp địa phận thôn Tân Mỹ, có tiểu lộ làm giới.

Nam giáp địa phận thôn Bình Hòa, có lập cột gỗ làm giới.

Bắc giáp sông lớn, lấy giữa lòng sông làm giới.

Thực canh trồng dâu, mía 2 mẫu 7 sào 4 thƣớc 5 tấc.

Dân cƣ thổ 1 mẫu 5 sào. Mộ địa một khoảnh.

g) Long Quới thôn ở xứ Cù Lao Phố

Đông giáp sông lớn, lấy giữa sông làm giới.

Tây giáp địa phận thôn Bình Quan, có lập cột gỗ làm giới.

Page 19: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

19

Nam giáp địa phận thôn Hòa Quới, có lập cột gỗ làm giới.

Bắc giáp hai thôn Bình Xƣơng, Bình Hòa, có rạch nhỏ làm giới.

Thực canh ruộng đất 18 mẫu 3 sào 10 thƣớc 5 tấc.

Dân cƣ thổ 2 mẫu. Mộ địa một khoảnh.

h) Tân Giám thôn ở xứ Cù Lao Phố (địa bạ viết xứ bồ lao Phố)

Đông giáp địa phận thôn Bình Tự, có rạch nhỏ làm giới.

Tây giáp địa phận xã Hƣng Phú, có lập cột gỗ làm giới.

Nam giáp địa phận thôn Bình Hòa, có lập cột gỗ làm giới.

Bắc giáp sông lớn, lấy giữa lòng sông làm giới.

Thực canh ruộng đất 19 mẫu 6 sào 10 thƣớc 3 tấc.

Dân cƣ thổ 1 mẫu 2 sào. Mộ địa một khoảnh.

i) Tân Hƣng xã ở xứ Cù Lao Phố

Đông giáp địa phận thôn Tân Mỹ, có rạch nhỏ làm giới.

Tây giáp địa phận thôn Thành Đức, có lập cột gỗ làm giới.

Nam giáp địa phận thôn Bình Hành, có lập cột gỗ làm giới.

Bắc giáp sông lớn, lấy giữa lòng sông làm giới.

Thực canh ruộng đất 9 sào 13 thƣớc 5 tấc.

Dân cƣ thổ 5 sào. Mộ địa một khoảnh.

j) Tân Mỹ thôn xứ Cù Lao Phố

Đông giáp xã Hƣng Phú, có lập cột gỗ làm giới.

Tây giáp địa phận xã Tân Hƣng, có rạch nhỏ làm giới.

Nam giáp địa phận thôn Bình Quan, có lập cột gỗ làm giới.

Bắc giáp sông lớn.

Thực canh ruộng đất 1 mẫu.

Dân cƣ thổ 5 sào. Mộ địa một khoảnh.

l) Vinh Long thôn ở xứ Cù Lao Phố

Đông giáp địa phận thôn Bình Quan, có lập cột gỗ làm giới.

Tây giáp sông lớn, lấy giữa lòng sông làm giới.

Nam giáp địa phận thôn Bình Quan, có lập cột gỗ làm giới.

Bắc giáp địa phận thôn Bình Hành, có lập cột gỗ làm giới.

Thực canh ruộng đất 6 sào 13 thƣớc.

Page 20: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

20

Đất gò đồi trong có nhà cửa mồ mả một khoảnh.(7)

n) Hòa Quới thôn (đã bị mất địa bạ)

Lúc này các thôn xã Cù Lao Phố thuộc tổng Phƣớc Vinh huyện Phƣớc

Chánh. Nếu căn cứ vào Minh điều hƣơng ƣớc, qui chế vừa ban hành năm 1952 thì:

có trên 200 dân đinh, khẩn hơn 100 mẫu thì đƣợc lập một xã; có từ 50 đến 100 dân

đinh, khẩn đƣợc từ 50 – 100 mẫu thì đƣợc lập một thôn; có từ 10 – 50 dân đinh,

khẩn đƣợc 10 -50 mẫu thì lập một ấp. Nhƣ vậy, mỗi xã có vài ba thôn, mỗi thôn có

vài ba ấp. Tại Cù Lao Phố, diện tích và dân số mỗi thôn phần lớn đều ít, chúng ta

hiểu đó là thôn một ấp. Hƣng Phú, Tân Hƣng diện tích quá ít (khoảng 1 mẫu rƣỡi

đến 3 mẫu), số hộ ít nhƣng lập một xã. Đây là cụm dân buôn bán giàu có có thể

bao thầu số thuế khoán nên vƣợt lệ.

3) Những năm đầu sau khi Pháp chiếm đóng Biên Hòa, hai thôn Thành

Đức và Tân Hƣng nhập lại thành Thành Hƣng; và thôn Vinh Long bị xóa sổ.

Năm 1867, Thống đốc Nam Kỳ chia tỉnh Biên Hòa thành 5 hạt tham biện

(ínpection). Cù Lao Phố thuộc tổng Phƣớc Vinh Thƣợng, huyện Phƣớc Chánh, hạt

tham biện Biên Hòa.

Nghị định số 93 ngày 1 – 5 – 1879 phủ Thống đốc Nam Kỳ quyết định sáp

nhập 12 thôn (hameaux) thành làng (communes) ở Cù Lao Phố:

Hƣng Phú, Tân Giám, Bình Tự, Bình Xƣơng hợp thành làng Nhứt Hoa.

Thành Ðức, Tân Hƣng, Tân Mỹ, Bình Kính hợp thành làng Nhị Hòa.

Long Quới, Hòa Quới, Bình Quan, Bình Hòa hợp thành làng Tam Hòa.

Bản đồ Boilloux (Boa-u) in năm 1881 về Cù Lao Phố chia ra làm ba làng

rõ rệt: Nhứt Hòa, Nhị Hòa, Tam Hòa.

Khoảng năm 1926 – 1928 ba làng Nhứt Hòa, Nhị Hòa, Tam Hòa hợp nhất

thành xã Hiệp Hòa, thuộc tổng Phƣớc Vinh Thƣợng, quận Châu Thành, tỉnh Biên

Hòa.

Năm 1963 chính quyền Sài Gòn chia quận Châu Thành (Biên Hòa) thành

hai quận Ðức Tu và Công Thành thì xã Hiệp Hòa thuộc quận Ðức Tu, tỉnh Biên

Hòa.

Về phía kháng chiến, năm 1948 do yêu cầu chiến trƣờng, Ủy ban Hành

chánh kháng chiến Nam bộ chia quận Châu Thành (Biên Hòa) thành hai đơn vị: thị

xã Biên Hòa (gồm 5 khu nội ô và 8 ấp ven, tất cả thuộc xã Bình Trƣớc) và huyện

Vĩnh Cửu (các xã khác của quận Châu Thành). Xã Hiệp Hòa thuộc huyện Vĩnh

Cửu. Đến khoảng năm 1960 xã Hiệp Hòa lại nhập về thị xã Biên Hòa.

Sau ngày thống nhất (5 - 1975) xã Hiệp Hòa thuộc thành phố Biên Hòa,

tỉnh Đồng Nai.

(7 ) Dân cư thổ: đất thổ cư: đất ở. Mộ địa: nghĩa trang, nơi chôn cất người chết. Mẫu ta: 4894 m

2 4016.

Sào ta (cao): 489 m2 440. Thước ta: 48 m

2 944. Tấc ta: 3 m

2 2639

Page 21: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

21

II. TIẾN TRÌNH DÂN CƯ CỦA CÙ LAO PHỐ.

Di chỉ khảo cổ Bình Ða ở ngay bên kia Rạch Cát, cách Cù Lao Phố chƣa

tới 1 km, và nhiều di chỉ khác trên đất Đồng Nai, Bình Dƣơng, thành phố Hồ Chí

Minh trong vòng bán kính 10 km cho biết quanh nơi đây có ngƣời tiền sử sinh

sống từ lâu. Kết quả mẫu than tro bếp lấy ở độ sâu 1,90 m tại di chỉ Bình Ða đƣợc

phân tích bằng phƣơng pháp phóng xạ C.14 có niên đại 3180 < ± 50 năm. Vào thời

điểm này, đợt biển tiến Hôlôxen I (H.I) đã kết thúc từ lâu, Cù Lao Phố là đất nổi

rồi, đợt biển tiến Hôlôxen 2 (H.2) chƣa tới. Chỉ cách dòng sâu nhỏ, chắc ngƣời tiền

sử Bình Ða đã có lần vƣợt sông qua Cù Lao Phố và có thể đã từng có ngƣời sinh

sống tại đây mặc dù đến nay chúng ta chƣa có thể xác định đƣợc niên đại của một

số rìu đá và rìu đồng tìm thấy ở cù lao này.

Cù Lao Phố có ngọn rạch nhỏ mang tên rạch Mọi đánh dấu sự có mặt của

đồng bào dân tộc ít ngƣời phƣơng Nam từ thƣở xa xƣa, lớp trẻ ngày nay ít nghe

nói đến. Có thể họ là dân tại chỗ, cũng có thể họ là nô lệ mua về. Sách Phủ Biên

tạp lục (Lê Qúy Ðôn) viết: “…lại cho họ (chủ ruộng - NYT) thâu nhận những con

trai, con gái từ trên đầu nguồn xuống để mua làm đầy tớ, đứa ở sai khiến hầu hạ.”

Theo một số nghiên cứu lịch sử, từ cuộc hôn nhân giữa công chúa Ngọc

Vạn với vua Chân Lạp Chey Chetta II năm 1620, ngƣời Việt bắt đầu vào đây tiến

hành công cuộc khẩn hoang vùng đất phƣơng Nam mênh mông còn bỏ hoang. Lúc

đó chế độ phong kiến nƣớc ta bƣớc vào thời kỳ khủng hoảng trầm trọng: các tập

đoàn vua quan Lê – Mạc, Trịnh – Nguyễn đánh nhau liên tục hàng thế kỷ vì quyền

lợi dòng họ mình. Lê dân Ðàng Ngoài cũng nhƣ Ðàng Trong chịu nhiều thống khổ:

nạn đao binh, bị áp bức bóc lột nhiều tầng, bị mất hết ruộng đất… sống không nổi

đành bỏ quê hƣơng, theo gió mùa vƣợt biển vào vùng đất hoang hóa phƣơng Nam

xa vời. Sau chặng hải hành ngàn dặm trùng dƣơng sóng gió, một số dừng chân

định cƣ ở địa đầu Mô Xoài (Bà Rịa), số khác ngƣợc dòng Đồng Nai khai phá Ðồng

Môn, Bến Gỗ (Long Thành), Bình Ða, Cù Lao Phố, Chợ Ðồn (Biên Hòa ), Bến Cá

(Vĩnh Cửu), Tân Uyên (Bình Dƣơng bây giờ)…

Những ngƣời tiên phong mở mang Cù Lao Phố vào thời điểm nào, số

lƣợng bao nhiêu, ngày nay chƣa biết vì sử sách chính thống không một dòng ghi

chép. Không phải cha ông ta đến Cù Lao Phố một lần mà nhiều đợt khác nhau.

Tháng 6 năm 1679 nhóm di thần nhà Minh do Trần Thƣợng Xuyên và

Dƣơng Ngạn Địch cầm đầu khoảng 3.000 ngƣời đi trên chục thuyền từ Quảng

Đông vào Đàng Trong xin tỵ nạn chính trị. Chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần) cử

ngƣời dẫn đƣờng cho họ vào làm ăn sinh sống ở Bàn Lân và Mỹ Tho. Số ngƣời

Minh tới đất Đồng Nai lập xã Thanh Hà – đại thể kéo dài từ Bàn Lân đến Bến Gỗ -

họ kề vai sát cánh cùng số ngƣời Việt đến trƣớc chung sức xây dựng cảng Nông

Nại Đại Phố thu hút thƣơng buôn trong nƣớc và nƣớc ngoài đến trao đổi buôn bán

sầm uất gần một thế kỷ. Nhƣng không có sách nào ghi số ngƣời sinh sống trên đất

Cù Lao Phố thuở ấy là bao nhiêu.

Page 22: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

22

Năm 1698, Chƣởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh đƣợc Chúa Nguyễn Phúc Chu

cử vào kinh lƣợc, tổ chức hành chánh mới mở mang ở phƣơng Nam, Tổng hành

dinh của ông đặt tại Cù Lao Phố. Ông lập phủ Gia Định gồm hai huyện:

Huyện Phƣớc Long đặt dinh Trấn Biên.

Huyện Tân Bình đặt dinh Phiên Trấn.

Sử sách thời kỳ này cũng chƣa ghi chép số dân, các xóm ấp của Cù Lao

Phố.

Năm 1776, Nguyễn Huệ đích thân cầm quân vào đánh chúa Nguyễn ở Gia

Định. Quân Lý Tài đóng ở núi Châu Thới bị đánh tan. Phố lớn Nông Nại bị khói

lửa chiến tranh tàn phá. Ngƣời Hoa kéo nhau về vùng Chợ Lớn làm ăn, lập nên

thƣơng cảng Sài Gòn thay cảng Nông Nại lụi tàn. Cù Lao Phố một thế kỷ thuyền

bè buôn bán tấp nập, phố lầu san sát đông vui kẻ tới ngƣời lui, lại trở thành làng

quê yên ả bình dị.

Năm 1836, địa bạ Nam Kỳ đƣợc lập, lúc này Cù Lao Phố có 12 thôn xã.

Theo quy định của nhà Nguyễn: nơi nào có 50 suất đinh trở lên thì đƣợc phép lập

thôn xã; chúng ta đoán định năm nay Cù Lao Phố có khoảng 600 đinh, nếu tính cả

gia đình họ thì ƣớc độ 2.000 dân. Đây là con số tính theo mức tối đa. Thực tế số

dân ở đây chắc chắn là thấp hơn.

Địa chí tỉnh Biên Hòa (của Robert M.) năm 1924 ghi dân số làng Nhứt

Hòa: 1.016 ngƣời, còn hai làng Nhị Hòa, Tam Hòa không có số liệu.

Cuốn Biên Hòa trong bộ sách Nghiên cứu Địa bạ triều Nguyễn của giáo sƣ

Nguyễn Đình Đầu (1994) cho biết: năm 1970 xã Hiệp Hòa có 6.741 ngƣời.

Địa phƣơng chí tỉnh Biên Hòa của tòa hành chánh tỉnh Biên Hòa (1974) ghi

xã Hiệp Hòa có 7.467 dân.

Trong hai thời kỳ kháng chiến, một số ngƣời Hiệp Hòa đi thoát ly kháng

chiến, một số tạm lánh đi nơi khác, nhƣng cũng có nhiều ngƣời nơi khác đổi vùng

đến hoạt động hoặc tránh khói lửa chiến tranh đến đây làm ăn sinh sống. Tỷ lệ gia

tăng cơ giới ở đây vào loại cao so nhiều địa phƣơng khác.

Năm 1976, xã Hiệp Hòa có khoảng 7.600 dân; một số về quê cũ làm ăn và

số khác đi xây dựng kinh tế mới theo chủ trƣơng của nhà nƣớc lúc bấy giờ.

Theo kết quả điều tra dân số năm 1989, xã Hiệp Hòa có khoảng 8.247

ngƣời (3.880 nam, 4.367 nữ).

Theo thống kê cuối năm 1996 của UBND xã, Hiệp Hòa có 9.506 ngƣời

(4.423 nam, 5.083 nữ).

Bảng thống kê dân số qua một số năm:

Năm 1974 1976 1989 1996

Page 23: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

23

Số dân 7.467 7.600 8.247 9.506

Nam/nữ 3.880/4.367 4.423/5.083

Tỉ lệ % 47% / 53% 46,5%/53,5%

Từ năm 1989 tới 1996 số dân Hiệp Hòa tăng thêm 1.259 ngƣời. Đó là

số tăng ở loại cao. Nhƣng trong thực tế, tỉ lệ sinh ở đây thấp, tỉ lệ chết cũng thấp

(theo thống kê của UBND xã).

Số trẻ em sinh 116 Tỉ lệ so dân số 1,22%

Số ngƣời chết 39 Tỉ lệ so dân số 0,41%

Tăng thêm tự nhiên 77 Tỉ lệ so dân số 0,81%

Xã Hiệp Hòa thuộc thành phố Biên Hòa, nhân dân có trình độ dân trí khá,

đời sống không ngừng đƣợc nâng cao, công tác y tế và kế hoạch hóa gia đình tốt

nên tỉ lệ gia tăng tự nhiên thấp. Nhƣng dân số tăng nhanh do gia tăng cơ giới cao.

Số ngƣời mới đến vào thời gian gần đây nhiều hơn số ngƣời đi nơi khác làm ăn.

Tiến trình dân số Cù Lao Phố là tiến trình hội nhập nhiều hơn phát tán.

III. CÁC DÕNG HỌ TRÊN ĐẤT CÙ LAO PHỐ.

1) Luận văn Cù Lao Phố của Tôn Thị Điệp cho biết các dòng họ Nguyễn,

Lê, Trƣơng, Huỳnh là các kiếng họ lâu đời nhất. Qua đợt điền dã tháng 8 – 1996,

chúng tôi đƣợc bà con xóm Bình Tự cho biết ở đây có ngôi mả ngói rất xƣa mà họ

Nguyễn nhận là mồ mả tổ tiên mình (đáng tiếc dấu vết bị xóa sạch chƣa lâu). Các

kiếng họ và các dòng họ tới sau: Phan, Trần, Đặng, Võ, Phạm, Đỗ, Tống, Bì đều

không còn gia phả. Xƣa kia, mỗi họ đều có nhà thờ họ, lệ giỗ họ hàng năm; nhƣng

do thời thế đổi thay nên lệ giỗ họ không còn, ngƣời ta chỉ cúng đƣợc hai đời (tới

đời ông nội). Họ Tống mới lập phả hệ gần đây. Ông Tƣ Bón (Lê Văn Thành) còn

giữ tấm bài vị của các vị thân sinh ra lý trƣởng Lê Văn Dinh – ngƣời đứng ra xây

dựng đình Bình Tự cách nay tám đời, khoảng hai trăm năm. Theo tự thuật của ông

Bì Văn Lâu – nguyên Phó chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chánh xã Hiệp Hòa

thời kháng chiến 9 năm (1945 - 1954) thì họ Bì gốc Hoa – Minh Hƣơng. Tên ông

cố là Bì Hữu Lành, sinh sống tại đây thời Tự Đức – cách nay khoảng 150 năm –

truyền đến Bì Hữu Nhu, Bì Văn Quý, Bì Văn Lâu là bốn đời chuyên buôn bán.

Ông Bì Văn Thạch là cháu, nay 83 tuổi (1996) xoay qua làm thuốc đông y.

Page 24: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

24

Dòng họ Trƣơng ở Bình Tự là một trong các kiếng họ cũng gốc Hoa (theo

ông Mƣời Mạnh – Trƣơng Văn Mạnh – năm nay 78 tuổi). Ông cố, ông sơ họ

Trƣơng tới đây làm ăn sinh sống, lấy vợ Việt, tính đến nay khoảng hai trăm năm.

Ta suy ra tổ họ Trƣơng đến đây sau khi quân Tây Sơn vào Nam đánh chúa

Nguyễn.

Dòng họ Nguyễn có chi Nguyễn Hữu ở khóm Tân Mỹ chủ yếu làm thầy đồ

khoảng hai trăm năm. Ông Tƣ Điểu (Nguyễn Hữu Điểu) năm nay (1996) 92 tuổi

cho biết: ông nội ông là Nguyễn Hữu Tƣờng, cha là Nguyễn Hữu Nhơn đều xuất

thân thầy đồ… Chi Nguyễn Hữu còn giỗ họ vào tháng ba âm lịch, mâm đồ cúng

nhất thiết có cá lóc, mắm nêm, rau sống… Tuy còn dấu vết tục giỗ việc lễ, song

không còn gia phả.

Dòng họ Tống Đình không con trai nối dõi cách nay gần một trăm rƣỡi

năm, đời ông Tống Đình Dục. Vợ ông Dục họ Nguyễn xin đƣợc ngƣời cháu

Nguyễn Hữu Chi làm con nuôi, đặt tên Tống Đình Huệ để nhang khói cho dòng họ

Tống Đình. Phả hệ dòng họ Tống đƣợc ghi lại ở nhà thờ họ tại khóm Tân Mỹ.

Căn cứ sổ hộ khẩu do công an xã Hiệp Hòa quản lý, Cù Lao Phố hiện có

các họ sau đây (xếp theo thứ tự vần A, B, C):

1) Bạch: 3 ngƣời, mới tới sau 1975.

2) Bì: 8 ngƣời.

3) Bồ: 5 ngƣời, mới tới sau 1975.

4) Bùi: 127 ngƣời.

5) Cao: 48 ngƣời.

6) Châu: 24 ngƣời.

7) Chu: 2 ngƣời, mới tới sau 1975.

8) Chung: 2 ngƣời, mới tới sau 1975.

9) Cung: 2 ngƣời, mới tới sau 1975.

10) Diệp: 7 ngƣời, mới tới sau 1975.

11) Dƣ: 4 ngƣời, mới tới sau 1975.

12) Dƣơng: 64 ngƣời.

13) Đào: 63 ngƣời.

14) Đặng: 162 ngƣời.

15) Đậu: 2 ngƣời, mới tới sau 1975.

16) Đinh: 89 ngƣời.

17) Đoàn: 31 ngƣời.

18) Đồng: 16 ngƣời.

19) Đỗ: 114 ngƣời.

Page 25: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

25

20) Đƣờng: 3 ngƣời, mới tới sau 1975.

21) Hà: 23 ngƣời, mới tới sau 1975.

22) Hàng: 7 ngƣời, mới tới sau 1975.

23) Hoàng:44 ngƣời.

24) Hồ: 188 ngƣời.

25) Hồng: 3 ngƣời, mới tới sau 1975.

26) Huỳnh: 460 ngƣời

27) Hứa: 9 ngƣời, mới tới sau 1975.

28) Kiều: 11 ngƣời, mới tới sau 1975.

29) Khƣơng: 1 ngƣời, mới tới sau 1975.

30) Khƣu: 2 ngƣời, mới tới sau 1975.

31) La: 1 ngƣời, mới tới sau 1975.

32) Lại: 47 ngƣời.

33) Lăng: 7 ngƣời, mới tới sau 1975.

34) Lâm: 62 ngƣời.

35) Lê: 692 ngƣời.

36) Liếng: 1 ngƣời, mới tới sau 1975.

37) Liêu:4 ngƣời, mới tới sau 1975.

38) Loan: 2 ngƣời, mới tới sau 1975.

39) Lục: 5 ngƣời, mới tới sau 1975.

40) Lƣ:7 ngƣời, mới tới sau 1975.

41) Lữ: 25 ngƣời.

42) Lƣơng: 31 ngƣời.

43) Lƣu: 67 ngƣời/

44) Lý: 43 ngƣời.

45) Mai: 84 ngƣời.

46) Mụ: 1 ngƣời, mới tới sau 1975 (bà Mụ Thị Một)

47) Ngô: 200 ngƣời.

48) Nguyễn: 4.432 ngƣời.

49) Phạm: 369 ngƣời.

50) Phan: 300 ngƣời.

51) Phí: 1 ngƣời, mới tới sau 1975.

Page 26: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

26

52) Phoan: 1 ngƣời, mới tới sau 1975, gốc Campuchia.

53) Phùng: 25 ngƣời.

54) Quách: 4 ngƣời, mới tới sau 1975.

55) Sỳ: 1 ngƣời, mới tới sau 1975.

56) Tạ: 17 ngƣời.

57) Tăng: 34 ngƣời.

58) Thạch: 22 ngƣời.

59) Thái: 23 ngƣời.

60) Tiêu: 3 ngƣời, mới tới sau 1975.

61) Tô: 27 ngƣời.

62) Tống: 25 ngƣời.

63) Trà: 12 ngƣời, mới tới sau 1975.

64) Trạch: 1 ngƣời, mới tới sau 1975.

65) Trang: 4 ngƣời, mới tới sau 1975.

66) Trần: 667 ngƣời.

67) Triệu: 6 ngƣời, mới tới sau 1975.

68) Trịnh: 107 ngƣời.

69) Trƣơng: 191 ngƣời.

70) Từ: 5 ngƣời, mới tới sau 1975.

71) Văn: 2 ngƣời, mới tới sau 1975.

72) Vi: 13 ngƣời, mới tới sau 1975.

73) Võ: 400 ngƣời.

74) Vũ: 45 ngƣời.

75) Vƣơng: 7 ngƣời.

Nhƣ vậy số nhân khẩu trong sổ hộ tịch của công an xã quản lý là 9.547

ngƣời, thuộc 3 ấp: Nhất Hòa, Nhị Hòa, Tam Hòa (gồm 33 tổ, 1.431 hộ). So với số

liệu của UBND xã thì chênh lệch 41 ngƣời, con số không lớn.

Theo thống kê trên, có ít nhất 34 họ tới đây cƣ trú sau năm 1975. Các số họ

này có số ngƣời ít:

1 ngƣời: Khƣơng La, Liếng, Mụ, Phí, Khoan, Sỳ, Thạch.

2 ngƣời: Chu, Chung, Cung, Ðậu, Khƣu, Loan, Văn.

3 ngƣời: Bạch, Ðƣờng, Hồng, Tiêu.

4 ngƣời: Dƣ, Liêu, Quách, Trang.

Page 27: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

27

5 ngƣời: Bồ, Lục, Từ.

7 ngƣời: Diệp, Hàng, Lăng, Lƣ.

9 ngƣời: Hứa.

11 ngƣời: Kiều.

12 ngƣời: Trà.

13 ngƣời: Vũ.

23 ngƣời: Hà.

2) Cũng theo sổ hộ khẩu, ta có bảng độ tuổi dân cƣ sau đây:

Độ tuổi Tổng số Tỉ lệ nam Tỉ lệ nữ

0 - 15 33% 51% 49%

16 - 55 59% 46% 54%

56 trở lên 8% 48% 52%

Dân cƣ Cù Lao Phố là dân số trẻ, chiếm 1/3 dân số toàn xã. Nhƣng ở đây

đang có sự chuyển động: do thực hiện kế hoạch hóa gia đình đi vào nề nếp nên tỷ

lệ sinh đẻ giảm rõ rệt và tỷ lệ ngƣời trong đọ tuổi lao động tăng từ từ.

Ở lứa tuổi thiếu nhi, số trẻ nam nhiều hơn số bé gái. Nhƣng từ lứa tuổi lao

động trở lên, tỷ lệ nữ cao hơn nam giới, đây là ảnh hƣởng của:

- Chiến tranh suốt 30 năm.

- Do phân công lao động, nam giới đi làm ăn xa, hộ khẩu ở nơi làm việc,

nhất là những năm trƣớc việc quản lý hộ khẩu liên quan chặt chẽ với việc làm.

3) Ở Cù Lao Phố hiện đang chung sống 5 dân tộc:

Dân tộc Số ngƣời

Hoa 22

Nùng 1

Page 28: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

28

Việt (Kinh) 26

Khmer 2

Campuchia 9.496

Dân tộc ít ngƣời chỉ chiếm tỷ lệ không đáng kể: 51 ngƣời/ 9.496 ngƣời

bằng 0,53% cƣ dân.

4) Dân cƣ Hiệp Hòa theo nhiều tôn giáo (tính theo hộ):

Tôn giáo Số hộ

Thờ cúng tổ tiên 1.004 = 70,1%

Đạo Phật 405 = 28,3%

Đạo Thiên Chúa 16

Đạo Cao Đài 4

Đạo Tin Lành 2

Dân Cù Lao thờ cúng ông bà tổ tiên theo tập tục lâu đời chiếm tỉ lệ cao

nhất 70,1%. Tín đồ đạo Phật không đông, có tỉ lệ vừa phải 28,3% song Cù Lao Phố

là nơi có mật độ chùa và tịnh xá đậm đặc (11 ngôi):

- Ấp Nhất Hòa có chùa Phƣớc Hội cổ kính khoảng 200 năm, tịnh xá Thăng

Liên Hoa (mới lập), thánh thất Cao Đài Nhứt Hòa Bửu Cảnh (mới xây xong năm

1972).

- Ấp Nhị Hòa có chùa Đại Giác với niên đại cuối thế kỷ XVII, chùa Chúc

Thọ (tên cũ Chúc Đảo) còn gọi là chùa Thủ Huồng lập đầu thế kỷ XVIII. Chùa

Hoàng Ân, chùa Tịnh Lâm lập đầu thế kỷ XX, chùa Ông (thờ Quan Công, còn có

tên Thất Phủ cổ miếu) lập từ 1684, hai tịnh xá Ngọc Pháp và Ngọc Hiệp mới lập

gần đây.

- Ấp Tam Hòa có chùa Phƣớc Long, lập năm 1912.

Page 29: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

29

Mỗi làng Việt Nam xƣa kia thƣờng có một ngôi đình là nơi hàng năm dân

chúng hội họp cúng tế cầu mong mƣa thuận gió hòa, mùa màng tƣơi tốt, mọi ngƣời

yên vui mạnh khỏe. Xã Hiệp Hòa có 11 ngôi đình.

IV. CÁC NGÀNH NGHỀ, LAO ĐỘNG, TRÌNH ĐỘ VĂN HÓA CƯ

DÂN CÙ LAO PHỐ.

1) Nghiên cứu Địa bạ 1836, chúng ta có thể xếp hạng diện tích ruộng đất

thực canh đƣơng thời ở Cù Lao Phố từ nhiều tới ít nhƣ sau:

Bình Tự: 35 mẫu 6 sào 11 thƣớc 2 tấc.

Bình Xƣơng: 27 mẫu 2 sào 10 thƣớc 5 tấc.

Tân Giám: 19 mẫu 6 sào 10 thƣớc 3 tấc.

Long Quới: 18 mẫu 3 sào 10 thƣớc 5 tấc.

Bình Quan: 14 mẫu 8 sào 13 thƣớc 5 tấc.

Bình Hoành: 14 mẫu 1 sào 12 thƣớc.

Bình Hòa: 11 mẫu 9 sào 1 thƣớc 3 tấc

Hƣng Phú: 2 mẫu 7 sào 4 thƣớc 5 tấc.

Thành Đức: 1 mẫu 8 sào 13 thƣớc 5 tấc.

Tân Mỹ: 1 mẫu.

Tân Hƣng: 0 mẫu 9 sào 13 thƣớc 5 tấc.

Vinh Long: 0 mẫu 6 sào 13 thƣớc.

Hòa Quới: mất địa bạ.

Nguời ta có thể suy đoán rằng Bình Tự, Bình Xƣơng là các địa điểm đặt

chân đầu tiên của những ngƣời tiền phong khai khẩn vì các thôn này (nay là các

khóm) ở ven sông địa hình không quá thấp, cốt đất trung bình +1,9 m ít bị lũ sông

Đồng Nai uy hiếp – ngoại trừ những trận bão lụt lớn chỉ xảy ra một vài lần mỗi thế

kỷ.

Những lớp ngƣời đầu tiên khai phá Cù Lao Phố là nông dân, thuở đó quan

niệm “dĩ nông vi bản” thống trị xã hội.

2) Khi nhóm ngƣời Hoa của Trần Thƣợng Xuyên vào, nghề buôn mới phát

triển dần, Cù Lao Phố trở thành thƣơng cảng quan trọng nhất Nam bộ suốt một thế

kỷ. Nhiều cửa hàng, đồng thời là kho chứa hàng, là quán trọ, cũng là nơi giải trí.

Thuyền nƣớc ngoài buông neo xong, chủ thuyền và thủy thủ lên bờ mƣớn nơi ở rồi

bán hàng hóa cho các tiệm buôn. Chủ thuyền cũng nhờ chủ tiệm mua giùm các

hàng hóa cần thiết. Trƣớc lúc trƣơng buồm về nƣớc, hai bên thanh toán hóa đơn rồi

cùng nhau tiệc tùng, đờn ca vui vẻ. Hàng xuất cảng chủ yếu là: gạo, cá khô, cây

làm thuốc, ngà voi, sáp ong và mật ong… Hàng nhập là: tơ lụa, đồ xa xỉ, nhang

đèn, giấy trang kim làm vàng mã, gạch ngói và đá đẽo xây cột chùa miễu…

Thuyền bè chen chúc đậu dài phía Tây cù lao, từ gần đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh

Page 30: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

30

tới khu chợ Chiếu là chỗ nƣớc sâu… Cảng Cù Lao Phố lụi tàn trong cơn binh lửa

khi Tây Sơn đánh chúa Nguyễn.

3) Nhiều nghề thủ công từng đƣợc mở mang ở đây. Thôn Bình Hòa có 5

mẫu 3 sào 6 thƣớc trồng dâu, mía. Thôn Bình Tự có 6 mẫu 13 thƣớc 5 tấc trồng

dâu, mía. Toàn bộ đất thực canh của Hƣng Phú 2 mẫu 7 sào 5 thƣớc 5 tấc đều

trồng dâu, mía. Thôn Tân Giám có diện tích dâu, mía 3 mẫu 9 thƣớc. Từ đó, suy ra

nghề làm đƣờng và nuôi tằm, dệt lụa có vai trò nhất định trong nền kinh tế nông

nghiệp địa phƣơng thuở đó. Các nghề này cũng cung ứng một số nông sản hàng

hóa cho các tàu thuyền các nƣớc tới buôn bán. Hậu cứ của cảng Cù Lao Phố là cả

phủ Phƣớc Long và Campuchia (cung ứng ngà voi, sáp và mật ong, cây dƣợc

liệu…) Xóm Cửi nằm giữa phạm vi hai thôn Tân Mỹ, Tân Giám là nơi tập trung

các thợ dệt thủ công. Lớp trẻ bây giờ ít biết đến địa danh này.

Chợ Chiếu xƣa – nay đổi là chợ Mới - hồi đầu thế kỷ XX có một số quán

chuyên bán chiếu và một số mặt hàng khác. Theo luận văn Cù Lao Phố (Tôn Thị

Điệp), nhóm di dân miền Trung làm nghề dệt chiếu, nguyên liệu lác (cói) khai thác

ở cù lao Đôi gần Bến Gỗ. Đầu thế kỷ XX, cù lao này đƣợc khai phá trồng lúa thì

nghề dệt chiếu ở Cù Lao Phố tiêu vong. Sau đó việc bán chiếu chuyển qua chợ

Đồn nên chợ Chiếu mất tên cũ. Năm 1990 việc buôn bán ở chợ Chiếu còn khá tấp

nập, thuế trƣng hàng năm là 175 đồng.

Để so sánh, thuế trƣng cao nhất 800 đồng ở hai chợ Bình Tƣớc (tỉnh lỵ

Biên Hòa ) và chợ Thủ Đồn (xứ Tân Uyên):

Thuế trƣng 721 đồng: chợ Bình Thảo - Bến Cá (Tân Triều).

Thuế trƣng 690 đồng: chợ Đồng Ván (Tân Ba).

Thuế trƣng 534 đồng: chợ Bến Gỗ (An Hòa).

Thuế trƣng 420 đồng: chợ Đồn (Bửu Hòa).

Thuế trƣng 170 đồng: chợ Bửu Long (Bửu Long).

Thuế trƣng 150 đồng: chợ Mới (Phƣớc Long, Thành Tuy Hạ), chợ Đồng

Môn (Phƣớc Thiền), chợ rạch Giồng (Phƣớc Lƣ).

Thuế trƣng 20 đồng: chợ Cây Đào (Bình Thạnh).

Thuế trƣng 13 đồng: chợ Dỏ Sa (Bình Lợi) và chợ Cây Da (Tân Dịch, Tân

Uyên).

Nghề gốm một thời phát triển, có nguồn gốc xứ Quảng miền Trung, nay chỉ

còn lƣu lại qua vài địa danh: rạch Lò Gốm ở Bình Quan, ngọn gốm ở Bình Hòa,

bến Sành ở Long Quới.

Đúc đồng là nghề truyền thống ở Thành Hƣng, đầu thế kỷ XX vài lò ở đây

đúc tƣợng Phật, chuông nhỏ (cho vào tay nải để các thầy tu hoặc thầy cúng đi làm

đám), chuông lớn (đại hồng chung) cao gần 2 m có hoa văn tứ linh: long, ly, quy,

phƣợng, mỗi khi đánh tiếng vang rất xa. Tới thời kỳ kinh tế khủng hoảng (1929 -

1933) nghề đúc đồng tàn lụi dần.

Page 31: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

31

Vào những năm 30, Cù Lao Phố có 4 lò gạch lớn của: thầy Ba Hiệp, chú

Sƣơng (ngƣời Hoa), ông chủ nhựt trình Nguyễn Văn Kiến. Nguyên liệu (đất sét

tốt) khai thác tại chỗ, củi đốt lò mua ở rừng Tam Hiệp bên kia rạch Cát, gốm Đồng

Nai Cédo (đọc Xêđô): Céramiques du Donnai của chủ Pháp Georges Dibourg

(Gióoc Đibua) ở An Hảo. Tiền công đàn ông 4 cắc/ ngày, đàn bà 2 cắc rƣỡi, trẻ

con 1 cắc rƣỡi.

4) Đất Cù Lao có nhiều ngƣời làm thợ trƣớc Cách mạng tháng Tám 1945:

làm hãng cƣa BIF có ông Mƣời Mạnh, Ba Lễ (Trƣơng Văn Lễ)…; ông Ba Tạo

(Nguyễn Tạo – Tống Kim Quang) học cơ khí rồi làm thợ đề pô Dĩ An; ông Sáu

Sảnh là thợ gốm mỹ nghệ, ông Sáu U là thợ gốm… học trƣờng Mỹ nghệ Biên Hòa;

ông Năm Tuyền là thợ cƣa xẻ, làm mộc có các ông Huỳnh Văn Út, Tƣ Khai, Một

Đâu, Bảy Yên…

Tuy chƣa nổi tiếng là đất văn vật, Cù Lao Phố thời nào cũng sản sinh trí

thức. Cách nay hơn trăm năm, ông Đào Văn Thông đạt danh hiệu Hàn lâm. Dòng

họ Nguyễn Hữu có nhiều thầy đồ dạy học. Đời Tự Đức, có Nguyễn Văn Chất,

ngƣời Hà Đông, từng làm tri huyện Tân Định (Bình Định) vào lập nghiệp ở Tân

Giám. Con là Nguyễn Văn Bửu là một danh nho, đƣợc tôn làm Cổ hiền của làng

này. Sau này một số thầy cô giáo ở lớp Tây học đầu tiên đƣợc nhiều ngƣời biết

tiếng: thầy Thiệt, thầy Thới, thầy Trinh, thầy Ngói, thầy Sơn, cô Nhàn… Một số

ngƣời ra làm công chức nhƣ ông Phán Cảnh làm sở Trƣờng Tiền, thầy Ba Hiệp và

ông Tƣ Thục làm trong sân bay Biên Hòa, ông chủ nhựt trình Kiến viết báo…

5) Theo thống kê năm 1996 của UBND xã Hiệp Hòa, số lao động các

ngành nghề phân ra nhƣ sau:

Ngành nghề Nam Nữ Cộng Tỉ lệ

Nông nghiệp 383 246 629 11,4%

Công nghiệp 496 586 1.082 19,6%

Dịch vụ 63 62 125 2,3%

CNVC 153 172 325 5,9%

Nghề tự do 1.134 1.096 2.230 40,4%

Nội trợ, mất

khả năng lao động,

chƣa có việc.

1.122 20,4%

Page 32: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

32

Qua thống kê trên, có thể rút ra một số nhận xét:

Tỉ trọng dân cƣ nông nghiệp ngày càng giảm, tỉ trọng lao động công nghiệp

gần gấp đôi lao động nông nghiệp. Đó là do xã Hiệp Hòa nằm sát các khu công

nghiệp: Biên Hòa I, Biên Hòa II, Long Bình, Amata…

Ngƣời làm nghề tự do chiếm tỉ lệ lớn nhất; phần lớn vẫn còn dính dáng

nhiều với nông nghiệp. Vào lúc vụ mùa (cày, cấy, gặt) họ tham gia việc đồng áng,

thời gian khác họ đi kiếm việc làm (thợ hồ, lao động đơn giản ở các công trƣờng,

nhà máy…) phụ giúp đời sống gia đình.

Số lao động chƣa có việc làm chiếm tỉ lệ 8% (438 ngƣời), mỗi năm đội ngũ

này đƣợc bổ sung thêm một ít. Điều này đòi hỏi việc nghiên cứu dạy nghề sao cho

khỏi lãng phí lao động, mặt khác tạo sự ổn định xã hội (nhàn cƣ vi bất thiện).

Dịch vụ ở đây chƣa phát triển mấy: các tiệm quán đều nhỏ, các điểm sửa

chữa (máy móc, đồ điện) rất ít, có lẽ vì xã ở sát nội ô là nơi đủ loại dịch vụ phát

triển ở trình độ cao.

Hệ quả của tình hình trên: toàn xã hiện nay có 19 hộ đói (1,3%), 272 hộ

nghèo (19%) cần đƣợc sự giúp đỡ để xóa đói gảm nghèo. Số hộ đói nghèo là

những hộ thuộc diện chính sách, thiếu sức lao động, bị tật bệnh hoặc chƣa biết tính

toán… chủ yếu rơi vào nhân khẩu nông nghiệp, mất khả năng lao động hoặc chƣa

việc làm. Họ rất muốn thoát cảnh đói nghèo triền miên song lực bất tòng tâm. Chủ

tịch Hội Nông dân xã và Trƣởng Trạm giống lúa của Sở Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn (đặt tại Hiệp Hòa) đều cho biết:

Cù Lao Phố cần đƣợc đầu tƣ vốn để cải tạo vƣờn tạp thành vƣờn chuyên,

trồng một số cây đặc sản có giá trị hàng hóa cao. Đây là một yếu tố làm Cù Lao

Phố trở thành làng – vƣờn, là điểm du lịch xanh, nhất là khi bắc thêm hai cầu qua

rạch Cát.

Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở Hiệp Hòa đòi hỏi đầu tƣ vốn làm thủy

lợi chủ động tƣới, tiêu, cũng đòi hỏi việc hƣớng dẫn nông dân từng bƣớc làm quen

với kỹ thuật trồng trọt các loại rau (cần thâm canh cao) cung ứng cho thị trƣờng

đông đảo là dân thành phố Biên Hòa.

Đây là bài toán có thể giải quyết rốt ráo nếu có chính sách thỏa đáng.

6) Tình hình kinh tế địa phƣơng phản ánh rõ nét qua trình độ văn hóa cƣ

dân ở đây:

Trình độ văn hóa Số ngƣời Tỉ lệ

Cấp I 3.654 38,3%

Cấp II 2.360 24,8%

Page 33: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

33

Cấp III 1.960 20,5%

Ðại học 174 1,8%

Ngƣời làm nghề tự do, làm mƣớn… thƣờng có trình độ văn hóa cấp 1. Lao

động công nghiệp phổ biến có trình độ văn hóa cấp 2, cấp 3 (nhất là bây giờ các xí

nghiệp, doanh nghiệp chỉ tuyển lao động tốt nghiệp cấp 2 trở lên, và trong tƣơng

lai không xa, muốn xin đƣợc việc làm phải có bằng cấp 3).

Sự nghiệp giáo dục ở Cù Lao Phố khá phát triển, có đủ các cấp: Mẫu giáo,

tiểu học, cấp 2 và cấp 3. Trong năm học 1996 – 1997, trƣờng mẫu giáo Hiệp Hòa

có 4 lớp với 120 cháu, 4 phòng học (có thể thu nhận tới 160 cháu thuộc các lớp

mầm chồi, lá), ngoài ra có một lớp mẫu giáo tƣ nhân đăng ký với phòng Giáo dục

– đào tạo thành phố Biên Hòa.

Trƣờng tiểu học Hiệp Hòa có 2 điểm trƣờng, 14 phòng học, 23 lớp với 789

học sinh (8,3% dân số), thu hút đƣợc 98% trẻ em đến độ tuổi đi học. Một số con

cán bộ (làm ở các cơ quan thành phố và tỉnh) theo học ở các trƣờng tiểu học nội ô

(tiện đƣa đón hàng ngày). Trƣờng cấp 2, 3 Nam Hà (xƣa là trƣờng trung học tỉnh

hạt Hiệp Hòa) đƣợc tu sửa ngày càng khang trang hiện có 19 phòng học với 544

học sinh cấp 2 và 1.193 học sinh cấp 3 (thu nhận ở nhiều phƣờng xã quanh vùng).

Cấp học Số học sinh Tỉ lệ % dân số

Mẫu giáo 120 1,3

Tiểu học 789 8,3

Cấp 2 544 5,7

Cấp 3 1.193

V. CƠ SỞ HẠ TẦNG ĐẤT CÙ LAO PHỐ.

Đƣợc mở mang trên ba trăm năm, Cù Lao Phố có hệ thống cơ sở hạ tầng

khá phát triển so nhiều phƣờng, xã thành phố Biên Hòa.

Đƣờng giao thông

Mạch máu giao thông vận tải có tác dụng lớn đối với sản xuất và đời sống

xã hội. Cù Lao Phố có hệ thống giao thông đa dạng:

Đƣờng thủy và các bến đò

Page 34: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

34

Cù Lao Phố bao bọc bởi sông Đồng Nai, sông chảy ra biển Đông và nối với

hệ thống sông ngòi kênh rạch miền đồng bằng sông Cửu Long, do đó cách nay trên

ba trăm năm, ngƣời tứ xứ và cả nƣớc ngoài đã tới bằng ghe thuyền đủ loại, buôn

bán trao đổi xuất nhập khẩu tấp nập khoảng một thế kỷ. Bến Tắm Ngựa và mé bờ

sông phía Tây cù lao, từ khóm Bình Kính – nơi có đền thờ ông Nguyễn Hữu Cảnh

– tới khóm Tân Mỹ, Hƣng Phú là nơi đậu san sát thuyền ghe ra vào bốc dỡ hàng

nhập cảng, xếp hàng xuất cảng xuống trƣớc khi nhổ neo thời đại Nông Nại còn

đang thịnh đạt.

Bến đò Kho nối Cù Lao Phố với làng Vĩnh Cửu xƣa (nay là các phƣờng

Tam Hiệp, Tam Hòa, Bình Ða) ăn thông với đƣờng thiên lý. Bến đò An Hảo (nay

là phƣờng An Bình) tới Long Bình, Bến Gỗ dễ dàng và ngắn nhất. Hai bên đò này

là các cửa khẩu tiếp tế cho căn cứ du kích Bình Ða nổi tiếng hồi chín năm kháng

chiến. Bến đò Long Kiểng giúp dân Cù Lao qua làng Tân Mai suốt mấy chục năm,

nay ít ngƣời đi, mấy tiếng đồng hồ mới có một chuyến đò rời bến.

Ðƣờng bộ và đƣờng sắt

Xƣa kia, đƣờng thiên lý từ Cầu Sơn (Bình Thạnh thành phố Hồ Chí Minh )

ra kinh đô Huế qua bến đò Ngựa, chợ Bình Tƣớc (Biên Hòa ) rồi xuống Long

Thành, Bà Rịa… Từ đầu thế kỷ XX, nhà cầm quyền Pháp bắt đầu mở đƣờng sắt

xuyên Việt thì đƣờng Quốc lộ I chạy song song với đƣờng sắt băng qua mỏm phía

Tây cù lao (khóm Thành Hƣng). Hai cầu rạch Cát và Gành nối đôi bờ Đồng Nai

bắc khoảng năm 1903 – 1904. Dân Cù Lao Phố xƣa kia muốn đi xe lửa ra miền

Trung, miền Bắc thì tới ga Biên Hòa; muốn đi tàu chợ Sài Gòn – Biên Hòa có thể

đến gần Biên Hòa hoặc ga xép Bửu Hòa.

Đƣờng làng của Cù Lao Phố nối với quốc lộ I, ở chợ Mới rẽ đôi ngả xuống

các bến đò An Hảo. Hƣơng lộ này đƣợc cán đá từ trƣớc Cách mạng tháng Tám, đủ

cho ô tô chạy. Từ hƣơng lộ này, có nhiều đƣờng đất vào các xóm, xe công nông

hoặc xe tải nhẹ có thể đi lại dễ dàng bất kể khi nào.

Nhà cửa và lƣới điện.

Nhà cửa phản ánh bộ mặt văn hóa vật chất của xã hội:

- Biệt thự: 49 tỉ lệ 3%

- Nhà gạch: 1.357 tỉ lệ 84,6%

- Nhà lá: 198 tỉ lệ 12,4%

Trong số nhà gạch, hiện còn vài chục ngôi lợp ngói âm dƣơng rất xƣa trong

đó có một số ngôi cũ nát cần đƣợc giúp đỡ tu sửa nếu muốn phát triển du lịch, nhất

là du lịch xanh đầy hứa hẹn, hấp dẫn.

Tuy ở sát nội ô Biên Hòa, nhƣng lƣới điện quốc gia đƣợc kéo về đây

khoảng năm 1962 – 1963 khi chính quyền Sài Gòn lấy xã Hiệp Hòa làm thí điểm

thực hiện quốc sách “ấp chiến lƣợc”. Lúc này chỉ trụ sở hội đồng xã và một số gia

đình chức sắc có điện.

Page 35: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

35

Từ sau ngày giải phóng số hộ có điện chƣa nhiều. Tới năm 1995 lƣới điện

mới phủ kín các khóm, ấp. Số hộ có điện chiếm tỉ lệ 95%, về cơ bản Cù Lao Phố

đã đƣợc điện khí hóa, chỉ còn 81 hộ chƣa mắc điện sinh hoạt (là các hộ nghèo đói).

3)Thủy lợi.

Cù Lao Phố có trạm bơm lớn đảm bảo nƣớc tƣới cho đồng ruộng nhiều

khóm: Tân Giám, Bình Tự, Hƣng Phú… Hệ thống thủy lợi dày đặc giúp cho bà

con nông dân chủ động làm mỗi năm ít nhất hai vụ trong đó vụ đông – xuân

thƣờng chắc ăn, có năng suất cao.

Ở đây chƣa có trạm bơm tiêu úng vào mùa mƣa nên khi nƣớc sông lên cao,

hàng chục héc ta thƣờng bị lũ đe dọa, có khi mất trắng những chân ruộng thấp.

4) Chợ

Xƣa kia Cù Lao Phố có chợ Chiếu, sau này đổi thành chợ Mới, không hiểu

vì sao. Chợ nằm ở ngã ba đƣờng của xã chạy xuống hai bến đò Kho và An Hảo.

Ngôi chợ làng hiện nay chỉ có một nhà lồng lợp tôn – làm cách nay chƣa lâu, trƣớc

kia họp ngoài trời. Nếu chợ là nơi trao đổi buôn bán sản phẩm thì chợ Mới chƣa

phải là nơi bán các săn phẩm do địa phƣơng làm ra. Bà con nông dân chăn nuôi

hoặc trồng tỉa đƣợc hoa quả thì thƣờng mang qua chợ Biên Hòa hoặc các chợ khác

ở các phƣờng chung quanh để bán, hoặc giả thƣơng lái về tận nhà thu mua rồi dùng

xe chở đi. Các mặt hàng bày bán ở chợ Mới không phong phú về chủng loại cũng

nhƣ về số lƣợng. Mỗi ngày chƣa tới một trăm ngƣời bán các mặt hàng lƣơng thực

thực phẩm, tạp hóa đồ may mặc… Chợ đông vào buổi sáng tới khoảng mƣời giờ

thì vắng dần. Một số ngƣời bán không phải là dân địa phƣơng, họ từ các nơi khác

tới, có khi để bán mớ cá, gánh rau hôm nay và hôm sau không đến nữa. Ở gần đền

thờ Nguyễn Hữu Cảnh (thuộc khóm Bình Kính) mấy năm trƣớc có chợ chồm hổm

lèo tèo, nay đã giải tỏa, chừng hơn chục ngƣời buôn bán nhỏ bày bán hàng ven

đƣờng vốn đã chật hẹp.

Do quá trình đô thị hóa, những ngƣời lao động ở các khu công nghiệp bên

kia sông, số cán bộ nhân viên làm việc trong các cơ quan hoặc doanh nghiệp

thƣờng mua bán ở nội ô hoặc các chợ khác trên đƣờng đi làm về, hiếm ai về chợ

Mới mua bán vào lúc tan sở.

Nhiều nhà mặt tiền ven đƣờng trục của xã mở quán, tiệm quy mô nhỏ, hàng

hóa không nhiều song cũng đủ đáp ứng cho một số ngƣời có nhu cầu.

Tóm lại, Cù Lao Phố là một vùng đất đƣợc khai phá sớm và nhanh chóng

trở thành một phố cảng quan trọng thuộc vào loại “đô hội”sớm ở phƣơng Nam.

Ngay từ đầu, do đặc điểm tự nhiên của một cù lao nằm trên trục giao thông nối từ

miền thƣợng nguồn ra biển, Cù Lao Phố là một trung tâm hội tụ nhiều luồng giao

lƣu kinh tế, dân cƣ và văn hóa; và cũng chính vì đặc điểm này mà Cù Lao Phố

Page 36: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

36

cũng là nơi đón chịu nhiều nạn binh đao làm xáo trộn nhiều mặt, trong đó kết cấu

dân cƣ không ổn định kéo theo sự đứt gãy trong tiến trình văn hóa xã hội, và biểu

hiện rõ rệt nhất là sự tàn lụi Cù Lao Phố một cách đột ngột. Từ một phố cảng sầm

uất rơi xuống một vùng nông thôn nông nghiệp và thị tứ chung quanh, mà bản thân

vùng đất cù lao này chƣa đổi thay theo một định hƣớng cụ thể nào.

Page 37: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

37

PHẦN THỨ HAI

KINH TẾ - XÃ HỘI

Page 38: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

38

CHƢƠNG I

SẢN XUẤT KINH TẾ

Khó mà tìm thấy đƣợc trong thƣ tịch cổ một dữ liệu cụ thể về đặc điểm khí

hậu, thủy văn và tập quán canh tác của Cù Lao Phố thời trƣớc. Tuy nhiên, đoạn

trích dẫn sau đây, cũng gợi cho ta một cái nhìn tổng quát về đặc điểm chung nhất

của Cù Lao Phố - một vùng đất của tỉnh Biên Hòa.

“Khí đất cao ráo, lại bị khí nóng tích lũy, trong suốt năm nóng nực quá nửa.

Đến tiết đông chí, thỉnh thoảng đêm có sƣơng mới thấy hơi lạnh. Mùa hè mùa thu

nhiều gió nồm, mùa xuân mùa đông nhiều gió đông bắc, cũng có khi có gió lốc mà

không có mƣa bão. Hàng năm từ tháng mạnh đông (tháng 10) đến tháng trọng

xuân (tháng 2) nóng lắm: cuối mùa xuân mới có mƣa, mùa hè mùa thu hay có mƣa

trận, to nhƣ dội nƣớc, trong một vài giờ liền tạnh, không có cái khổ mƣa dầm. Sấm

động hoặc chƣa mƣa đã nổi, hoặc mƣa xuống thì sấm theo. Sấm mà không mƣa là

cũng thƣờng thấy. Ngƣời địa phƣơng thƣờng xem ráng chiều để xét mƣa nắng:

ráng vàng thì nắng ráng trắng thì mƣa, nhiều khi cũng nghiệm: mây từ núi ra thì

phần nhiều tạnh, từ biển vào thì phần nhiều mƣa. Làm ruộng thì có ruộng sớm

tháng 4 cấy, tháng 5 gieo mạ, tháng 6 cấy, tháng 11 gặt; ruộng muộn thì tháng 5

cấy, tháng 6 gieo mạ tháng 7 cấy, tháng 12 gặt. Nhà nông thƣờng đêm trừ tịch

trông khí sắc trời để nghiệm việc làm khó hay dễ, đêm ấy nếu trời đất tối tăm thì

làm ruộng khó khăn, nếu trời đất sáng sủa thì làm ruộng đất thuận tiện, thƣờng

cũng ứng nghiệm. Nƣớc thủy triều, tiết hạn chí lớn về ban ngày, tiết đông chí lớn

về ban đêm: lại trong khoảng hè sang thu, thủy triều buổi sáng chƣa rút, thủy triều

buổi chiều đã lên, thêm vào gió đông nƣớc trƣớc nƣớc sau giao nhau, nƣớc sông

đầy đẫy, đây là sự biến đổi của thủy triều, nƣớc không theo tiếp,”(8).

I. CANH TÁC LÚA NƢỚC.

1. Theo nội dung của đoạn trích dẫn trên, nông lịch ở Biên Hòa hồi đầu thế

kỷ XIX mà tác giả Gia Định thành thông chí ghi chép: “Ruộng sớm tháng tƣ gieo

mạ, tháng sáu cấy, tháng 10 gặt. Ruộng muộn, tháng 5 gieo mạ, tháng 7 cấy, tháng

11 gặt.”

Và nhƣ vậy, cho đến trƣớc 1975, tập quán canh tác ở xứ này về cơ bản vẫn

bảo thủ không thay đổi mấy. Theo nông lịch miền Nam năm 1974 của kỹ sƣ

Quang Giao thì:

Lúa mùa: cấy vào tháng 5 – 6; gặt vào tháng 12 – giêng.

Lúa lỡ: cấy vào tháng 4 – 5; gặt vào tháng 10 – 11.

Nhƣ vậy, nói chung việc canh tác lúa cho đến 1975 còn lệ thuộc khá nhiều

vào tự nhiên: lịch canh tác do điều kiện thời tiết và chế độ mƣa hằng năm quy định

8 ) Đại Nam nhất thống chí

Page 39: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

39

Tháng

Nhiệt độ Mƣa

Cao

nhứt

Thấp

nhứt

lƣợng

Ngày

mƣa

1 3004 1606 16 1

2 3206 1801 7 1

3 340 2105 18 2

4 3404 1905 82 6

5 3409 2405 225 14

6 3307 240 227 16

7 3106 240 259 17

8 310 2404 205 15

9 3103 2408 318 17

10 3104 2302 353 18

11 310 2207 148 10

12 2909 2307 62 1

TỔNG CỘNG: 1970 121

Theo Gia Định thành thông chí, ở Gia Định đại thể ruộng đƣợc chia

làm hai loại là sơn điền (ruộng núi) và trạch điền (ruộng bƣng). Sơn điền ở đây là

nói loại ruộng núi canh tác theo lối đốn cây rồi đốt, giống nhƣ lối canh tác rẫy ở

vùng các dân tộc miền núi. Cù Lao Phố có lẽ chủ yếu là trạch điền: “Ruộng này

lùng lác bùn lầy, lúc nắng khô nứt nẻ nhƣ nẻ mu rùa, có hầm hố sâu lớn, đợi có

nƣớc mƣa đầy đủ, đằm thắm, nhiên hậu mới hạ canh mà trâu cày phải lựa con nào

Page 40: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

40

có sức mạnh, móng chân cao mới kéo cày đƣợc, nếu không vậy thì ngã ngập trong

bùn lầy không đứng dậy nổi.”

Ruộng cày trâu ở Phiên An và Biên Hòa thời ấy: Một hộc lúa giống thu

hoạch đƣợc một trăm hộc. Ở Cù Lao Phố đúng là “ruộng bƣng” nhƣng cũng có

ruộng trên đất phù sa pha cát giồng, nên việc cày bừa có lẽ không vất vả mấy so

với những vùng khác.

Về giống lúa, tác giả Gia Định thành thông chí cho ta biết có hai loại: Lúa

canh là thứ lúa cho gạo nấu cơm, không dẻo, hột nhỏ, cơm mềm, mùi rất thơm, vê

có cùi mang ở đầu hạt lúa; loại thứ hai gọi là lúa thuật là thứ lúa cho gạo nấu cơm

dẻo, hột tròn lớn. Đó là cách phân loại đại khái, còn có nhiều giống lúa khác nhau:

tàu, móng tay, móng chim, mô cải, càn đông (có lẽ cà đun?), cà nhe, tráng nhất,

chàng co… Nếp có các giống nếp hƣơng, nếp sáp, nếp đen, nếp than (9).

Tình hình canh tác lúa nếp ở Cù Lao Phố, nằm trong bối cảnh chung của

đất Đồng Nai. Theo những ghi chép của Lê Qúy Đôn trong Phủ Biên tạp lục (viết

năm 1776) thì lúa sản xuất ra không chỉ để giải quyết nhu cầu lƣơng thực của gia

đình mà là dùng để bán ra Trung bộ và Phú Xuân. Việc cấy gặt, xay giã đã đƣợc

sắp xếp theo trình tự thời gian: “Tháng 5 gieo mạ, mùa thu tháng bảy cấy, tháng 11

gặt, đến tháng giêng mới xong, tháng hai thì xay thóc.” Nhu cầu nhân công đã đến

mức phải mua điền nô: mỗi nhà có đến vài chục, và sức kéo: nuôi hàng trăm trâu

bò. Đó là bức tranh chung của xứ Đồng Nai hồi thế kỷ XVIII mà ngày nay, riêng

Cù Lao Phố chúng ta có thể hình dung đƣợc qua truyền thuyết về một tay hào phú

khắc bạc là Thủ Huồng và các mẩu ký ức về các ngôi mả Mọi.

Diện tích tự nhiên của Cù Lao Phố là 600 ha xƣa nay chắc là không thay

đổi mấy. Còn diện tích đất canh tác thời thịnh vƣợng bao nhiêu thì không rõ. Đến

năm 1836 qua Địa bạ Minh Mạng tổng diện tích canh tác của 12 trong 13 xã thôn

(thôn Hòa Quới mât địa bạ ) của Cù Lao Phố gồm khoảng 104 mẫu (581 chủ sở)

đất làm ruộng và 6 mẫu 7 (59 chủ sở) đất trồng mía và trồng dâu. Đặc điểm đáng

lƣu ý ở đây không phải dân thôn nào canh tác đất ruộng ở thôn ấy mà xâm canh đất

của thôn khác. Qua điều tra thực tế, dân Cù Lao Phố cũng có không ít ngƣời đi

xâm canh các địa phƣơng khác mà đa phần là làm ruộng muộn tận Bến Gỗ hoặc

lên đến miệt trên Tân Định.

3. Từ thời Pháp đến năm 1975, Cù Lao Phố có điền chủ giàu có tiếng. Nhất

là ông Trƣơng Văn Triều có vài chục mẫu ruộng tại làng và hàng trăm mẫu ở nơi

khác. Tổng Thi có tất cả khoảng tám chục mẫu nhƣng chỉ có một chục mẫu tại

làng. Ông Ba Sơ-ra Phủ Mun (Phủ Hàm) ông nội Phán Điệp, tại làng chỉ có

khoảng chục mẫu, nhƣng có hàng trăm mẫu ở phƣơng xa. Tổng Đậu và phó tổng

Chí thì ít ruộng hơn.

Số gia đình trung nông có vài ba mẫu chiếm tỷ lệ lớn hơn. Ấp nào cũng có

một số bần cố nông chuyên đi làm mƣớn. Nông dân Cù Lao Phố còn rủ nhau

xuống miệt Vàm Cái Sức, Bà Chéo, Xóm Đăng, Rạch Miễu làm ruộng muộn. Cứ

(9 ) Trịnh Hoài Đức – Sđd, tập hạ, trang 28

Page 41: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

41

cuối tháng 6 âm lịch thì họ cơm ghe bà bạn kéo đi cày cấy tới tháng 9 ta lại về lo

thu hoạch vụ mùa sớm ở quê nhà. Ăn tết xong, ra giêng họ đi ngắt lúa muộn. Giữa

tháng hai tấp nập chở kéo và xuồng ghe khẳm thóc vàng, nhiều ngƣời thu hàng

“thiên” đƣợc bốn năm tấn lúa, có ngƣời thu tới hai chục tấn một vụ (10).

Trƣớc năm 1975, cây lúa ở Cù Lao Phố phần nhiều là cây lúa Thần Nông,

lúa ngắn ngày, cây lùn hơn lúa mùa, có nhiều loại:

Lúa Thần nông 5, hay I.R.R.15: Từ 130 ngày đến 145 ngày thu hoạch.

Lúa Thần nông 8, hay I.R.R.18: Chỉ 115 ngày thu hoạch.

Lúa Thần nông 20, hay I.R.R.20: Từ 125 ngày đến 135 ngày thu hoạch.

Lúa Thần nông 22, hay I.R.R.22: Từ 115 ngày đến 125 ngày thu hoạch

Lúa Thần nông 1: Từ 115 đến 135 ngày thu hoạch

Lúa Thần nông 73/1, hay I.R.R.73/1: Từ 115 ngày đến 125 ngày thu hoạch.

Lúa Thần nông 73/2, hay I.R.R.73/2: Chỉ 100 ngày thu hoạch.

Và cũng có duy trì các loại lúa mùa, lúa sớm, lúa lỡ truyền thống:

1)Lúa mùa có các giống:

Cúc Cao Thắng: 143 ngày.

Nàng Sậu (Phan Thiết): 170 ngày.

Cà Dung (Phan Rang): 165 ngày.

Sóc Nâu: 190 ngày.

Nàng Thơm: 195 ngày.

Gòn (Phú Yên): 195 ngày.

Gié Vàng, Ba Trúc: 200 ngày.

Nàng Ve (Rạch Giá, Kiên Giang ngày nay): 210 ngày.

Nàng Đùm To (lúa sạ) Móng Chim:165 ngày.

2) Lúa sớm có các giống:

Tung Xa: 140 ngày.

Puang Ngeon: 130 ngày.

Samo rằn: 135 ngày.

Sóc xo, Dissi, Rat nai, Samo trắng: 140 ngày.

3) Lúa lỡ có các giống:

Nàng Quới: 150 ngày.

(10 ) Đào Tiến Thưởng – Nguyễn Yên Tri: Lược sử Cù Lao Phố, NXB Đồng Nai, 1994

Page 42: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

42

Cà Dung kết: 170 ngày.

Nàng Tra: 175 ngày.

Trắng Đốc, Tất Nơ, Nàng Cho, Nàng Keo, Lwa Tƣợng, Chƣn Rít, Trắng

Cụt: 180 ngày.

Nàng Tây (lúa sạ): 210 ngày.

Gạo nếp ở Cù Lao Phố là nhƣ thế tùy nơi, tùy lúc, tùy đất mà có chủ ruộng

trồng thứ này, thứ kia… Chƣa ai tổng kết có tất cả bao nhiêu giống. Ngày trƣớc

dân Cù Lao Phố không có lúa sạ, vì không phải vùng trũng, ngày nay trồng lúa sạ -

một phƣơng pháp gieo thẳng với kỹ thuật mới, nên tùy lúc mà ruộng lúa cấy hay

sạ. Và cho đến những năm 60, 70 của thế kỷ này, nông lịch ở Cù Lao Phố vẫn còn

duy trì tập quán cũ và có tính chất “quá độ”.

Từ khi trồng các loại lúa Thần Nông khoảng 1966 – 1967, ngƣời dân Cù

Lao Phố bắt đầu tiếp thu khoa học; kỹ thuật canh tác mới, có máy cày, có máy

bơm, có thuốc trừ sâu… nên có năng suất cao, không bị ảnh hƣởng bởi quang kỳ

hay ngày dài, ngày ngắn – có thể bất cứ thời tiết nào vẫn không cản trở việc gieo

trồng. Chỉ có một điều thích hợp là: Làm chủ đƣợc nƣớc, đủ phân bón (hóa học,

hữu cơ) và thuốc sát trùng là cứ sản xuất ra lúa, từ một vụ ngày trƣớc đến 2 vụ, 3

vụ. Đó là bƣớc phát triển sau ngày giải phóng.

Sau năm 1975, có diện tích đất trồng trọt các loại là 262 ha với 1.322 hộ và

7.122 nhân khẩu (thành phần tƣ sản và điền chủ chiếm 2,04%; nếu tính trung bình

nông thì chiếm 18%, dân nông nghiệp với 96% diện tích đất trồng).

Ngày 25 tháng 9 năm 1976 có 65 hộ với 436 nhân khẩu đã vào 5 Tổ đoàn

kết vần đổi công.

Ngày 20 tháng 3 năm 1978, 5 Tổ đoàn kết tiến hành thành lập Tập đoàn I

và Tập đoàn II và sau đó Tập đoàn III, Tập đoàn IV tiếp tục ra đời.

Vụ đông xuân 1978 – 1979, 4 Tập đoàn I, II, III, IV gieo trồng 155 ha lúa

thu đƣợc 528 tấn 490 kg, năng suất đạt 3,4 tấn /ha. Cả năm, toàn xã cấy 435 ha đất,

tổng sản lƣợng 1.305 tấn, năng suất 5 tấn/ ha.

Riêng Tập đoàn I đƣợc Ủy ban nhân dân tỉnh công nhận là Chim đầu đàn,

đƣợc Hội đồng nhà nƣớc tặng Huân chƣơng lao động hạng III.

Cũng từ đó, tỉnh đầu tƣ và xây dựng các trạm bơm Tân Giám và Bình

Kính. Xã huy động nhân dân đào đắp 19.000 m3 kinh mƣơng (tƣới cho Tập đoàn

III và Tập đoàn IV), đắp 630 m3 bờ vùng, đào đắp 4.000 m3 các hầm ao. Các tập

đoàn mua ba ghe đặt máy bơm di động. Do đó, công tác thủy lợi tiến triển, hệ số sử

dụng đất tăng 2,6 lần.

Trồng trọt phát triển thì chăn nuôi cũng phát triển. Năm 1980, tổng số đầu

heo trong xã 1.517 con (riêng tập đoàn có 300 con heo bán cho Tập đoàn viên 290

con với giá 20 đồng/con). Năm 1981, đàn heo tiếp tục tăng 1.623 con. Đồng thời,

thử cá 42.000 cá bột để chăn nuôi.

Page 43: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

43

Ngày 20 tháng 11 năm 1982, 4 Tập đoàn nông nghiệp chuyển thành Hợp

tác xã nông nghiệp quy mô toàn xã. Diện tích ruộng đất 222 ha, số xã viên 602

ngƣời thuộc 383 hộ, tài sản cố định 2.102.960 đồng ngân hàng. Năm 1983, Hợp tác

xã trồng 412,96 ha lúa đạt sản lƣợng so với năm 1981 tăng 30%. Hội đồng Nhà

nƣớc thƣởng Huân chƣơng lao động hạng III về thành tích lá cờ đầu trong sử dụng

cơ giới trong sản xuất nông nghiệp. Đó là những bƣớc phát triển đầu tiên của nông

nghiệp xã Hiệp Hòa.

II. TRỒNG TRỌT HOA MÀU

Tại Cù Lao Phố, việc trồng màu song song với lúa đã lâu đời. Màu là cây

lƣơng thực vào hạng thứ hai sau lúa, nếp; còn các loại rau thì có giá trị về nhiều

mặt. Ông cha ta biết lập vƣờn rau thành tủ thuốc dân gian gia đình, nên nhà nào

cũng có một vƣờn rau bên cạnh nhà, chẳng mấy khi có ngƣời bệnh: cảm, trặc chân,

trặc tay, cùng bệnh thƣờng thì có những cây thuốc gốc là cây lá ở vƣờn nhà, nếu

không có chạy qua nhà hàng xóm là có ngay. Màu và rau là thành tố quan trọng

trong cơ cấu cây trồng ở Cù Lao Phố, có vai trò thiết thực trong đời sống của con

ngƣời – nhất là thời kỳ xa xƣa chƣa có sự lƣu thông hàng hóa rộng rãi và mạnh mẽ

nhƣ ngày nay.

1. Nông lịch trong Gia Định thành thông chí cho ta biết để tham khảo là thổ

sản của hai tổng Phƣớc Vinh và Chánh Mỹ:

Đậu: tháng 4 tỉa, tháng 10 thu hoạch; Bắp: tháng 4 tỉa, tháng 10 thu hoạch;

Khoai tháng 10 trồng, đến tháng 10 sau đào củ. Nhƣ vậy, so với lịch thời vụ, theo

kỹ sƣ Ðỗ Quang Giao, trƣớc 1975 có nhiều thay đổi khác:

Bắp: Mùa đầu, trồng hạ tuần tháng 5 và tháng 6, hái trái tháng 8 và tháng 9,

hái trái hạ tuần tháng 11, tháng chạp.

Khoai lang: Trồng tháng 5, tháng 6, bới củ tháng 11.

Khoai mì: Trồng vào tháng 5, bới củ tháng 11, tháng 12.

Khoai môn: Trồng vào tháng 5, bới củ tháng 11, tháng chạp.

Đậu phộng: Trồng vào tháng 2, tháng 3, nhổ đậu tháng 6.

Đậu nành: Trồng vào tháng 8, tháng 9, hái tháng chạp, tháng giêng.

Các thứ đậu xanh, đen, trắng, đỏ: Trồng vào tháng 9, tháng 10, tháng 11,

hái trái tháng chạp, tháng giêng, tháng 2.

Đậu ve: Trồng vào tháng 4, tháng 5, hái trái tháng 7.

Đây là các loại màu ngƣời Cù Lao Phố đã và đang trồng từ trƣớc đến ngày

nay. Tất nhiên, ngày nay, có nhiều giống mới và kỹ thuật canh tác mới nên kết quả

cao hơn.

Về bắp, ở đây có:

Bắp bún: Loại bắp hột nhỏ, cùi to, cũng gọi bắp nếp.

Bắp đá: Loại bắp hột to, cùi ốm, trồng để lấy hột.

Page 44: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

44

Bắp mọi: Loại bắp mà hột có vỏ rất mỏng: gọi là bắp mọi có lẽ là do trái

nhỏ hoặc là giống bắp vốn của các thổ dân bản địa mà ngƣời Việt tiếp thu.

Riêng về đậu, ở đây có thứ lấy hạt nhƣ cây lƣơng thực, có thứ dùng nhƣ

rau, thuộc đồ “thanh bông”.

Đậu bắp cũng có gọi cà bắp: cây cao 2 m, trái dài và nhọn, có khía và lông

mịn. Ăn luộc, xào, hấp, nấu canh.

Đậu đũa/ đậu bún, đậu thƣớc: tùy loại giống cho trái dài từ 30 đến 90 cm. ở

Cù Lao Phố có trồng đậu đũa giống Đài Loan (thời 21 năm đánh Mỹ) trái lớn hơn

đậu đũa ta (bằng ngón tay, màu tím) và dài cả 1 m. Xào một đĩa chỉ hai trái. Đây là

đậu loại ngon, nhƣng giống lạ và lớn quá ít ai dùng nên giống này nay tuyệt giống.

Đây là giống đậu đũa có giá trị kinh tế nhất so với các loại đậu đũa từ trƣớc đến

nay.

Đậu Hòa Lan: Trái dài từ 6 đến 10 cm, luộc ăn rất ngon.

Đậu móng chim: Trái dài 10 cm, trái nhọn cong vút.

Đậu rồng: Trái dài cỡ 20 cm, ăn trái non. Ở indonesia ngƣời ta ăn củ, hột

già để nấu nƣớc uống thay trà.

Đậu nành tàu: Loại dây 2 – 3 m, trái ăn tƣơi hoặc để khô dùng hột.

Cù Lao Phố từ xƣa đã trồng các loại khoai, trừ khoai tây và khoai Mỹ chỉ

mới có dƣới thời Pháp thuộc, nay là cây kinh tế. Các loại khoai ngày trƣớc gồm có:

Khoai bở: Một giống khoai lang nhiều bột.

Khoai lang: Tùy loại, ruột trắng vàng, tím, mà có nhiều tên gọi khác.

Khoai mài: Loại dây leo, củ ăn đƣợc, bào mỏng phơi khô thành Hoài Sơn.

Khoai mỡ: Loại dây bò, củ lớn, ruột trắng hoặc tím dùng nấu canh.

Khoai ngà: Loại khoai lang củ trắng.

Khoai nghệ: Loại khoai lang ruột vàng; còn gọi khoai mật.

Khoai sáp: Thứ khoai sọ, ruột vàng mà dẻo nhƣ sáp.

Khoai từ: Loại dây leo, mỗi dây có nhiều củ có lông.

Khoai từ cùi: Loại khoai cừ, củ dẹp có nhiều nhánh ngắn nhƣ bàn tay cùi.

Khoai môn: Có nhiều loại; thứ trồng trên giồng: môn sọ (môn Tàu), môn

cánh tiên, môn cau, môn sáp, môn sen; loại mọc dƣới nƣớc có môn nƣớc (củ nhỏ

bằng ngón chân tàu ăn ngứa, chỉ dùng nấu cho heo), môn ngọt (lá có đốm đỏ, củ

bằng ngón chân cái, ăn tàu ngó và cả củ)…

Các loại củ, hạt lấy dầu hay ăn bằng cách rang, nấu, giã với muối để làm

thức ăn kèm với cơm, xôi chè, gồm có đậu phụng và mè. Mè ở đây là loại mè trắng

(gọi là bạch ma) và mè đen (gọi là mè ác, tên chữ Hán là hồ ma).

Page 45: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

45

2. Vƣờn rau ở Cù Lao Phố gọi “Vƣờn rau cỏ” có nhiều loại rau có nhiều

công dụng: Chất độn, vị thơm, gia vị và trị bệnh. Có thể nói vƣờn rau là vƣờn

thuốc nam, mà ngƣời Kinh đã tích lũy không biết bao nhiêu đời, đã đúc kết thành

giá trị nhƣ vậy. Hãy đi đến một vƣờn rau có tổ chức: Các liếp rau theo mùa theo

thứ tự: Cái ăn cái bán cho ngƣời lối xóm, hay mỗi khi có ngƣời đi chợ mua đồ, thì

gánh một gánh rau (tùy loại nhiều ít) ra ngồi để bán, xong có tiền đi mua cái khác,

thực là tiện lợi lúc xã hội nông nghiệp khép kín. Xét danh mục các thứ rau mà Lê

Văn Đức nêu trong Việt Nam từ điển (xuất bản năm 1970), chúng ta thấy hầu nhƣ

đều có mặt ở Cù Lao Phố.

1.Rau cần: Sách thuốc gọi Thủy Anh, Sở Quy. Có mùi thơm, ăn sống hay

xào cả cọng lẫn lá. Kích thích tiểu tiện.

2.Rau cần cơm: Mọc bờ mƣơng. Giúp tiêu hóa, lợi tiểu tiện.

3.Rau cần dày lá: Cao lối 50 cm. Trị phế quản, viêm, kinh phong, cảm, ho,

suyễn.

4. Rau cần ông: Rau cần cơm.

5. Rau cần ta.

6. Rau cần tàu.

7. Rau dấp: Rau trấp.

8. Rau diếc: Loại cỏ hơi bò, có trái, lá ăn đƣợc.

9. Rau diếc bò: Loại cỏ bò.

10. Rau diếp: Sách thuốc: Khổ Cự, Thiên Hƣơng Thái. Loại rau tánh lạnh,

ăn sống đƣợc nhẹ ngƣời, điều hòa đƣợc 12 kinh mạch, lợi ngũ tạng, trị ác sang và

nọc rắn, trị mật và huyết heo.

11. Rau dừa: Hợp dầm đu đủ tía mà trị sài, ghẻ và các bệnh ngoài da.

12. Rau đắng: Mọc nơi ẩm ƣớt, vị đắng, ăn sống, luộc hoặc nấu canh, lợi

tiểu.

13. Rau đắng đất: Loại cỏ bò, đâm trị mắt nhậm và vú đau.

14. Rau dền gồm nhiều loại: Dền đuôi chồn, Dền điều, Dền đuôi ngắn, Dền

gai, Dền tay, Dền xanh…

15. Rau húng nhiều loại: Húng cay, Húng dổi, Húng lủi, Húng quế, Húng

sả, Húng láng, Húng lìu.

16. Rau huyên: Sách thuốc gọi Vọng Ƣu, Nghi Nam, Đan Cức. Bụi lá dài

20 cm. Lá non luộc chín ăn đƣợc, hoa phơi khô thành Kim Châm.

17. Rau lang: Đọt dây khoai lang. Đọt non ta ăn, lá già và dây cho heo ăn.

18. Rau má: Trị ho, có thể trị bệnh cùi.

19. Rau mác: Sách thuốc gọi là Minh Thái, Xích Thái. Mọc dƣới nƣớc, lá

non ăn đƣợc nhƣng ăn rồi hay buồn ngủ.

Page 46: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

46

20. Rau mơ: Sách thuốc gọi là Bông Lan, ăn sống hay nấu chín, có tánh

cánh cƣờng dƣơng.

21. Rau muống: Sách thuốc gọi là Ung Thái. Chủ trị các bệnh về sinh đẻ.

22. Rau muống trắng: Trồng trên líp.

23. Rau mƣơn: Loại cỏ cao 1 m.

24. Rau ngổ: Loại rau dƣới nƣớc hay dựa bờ. Có mùi thơm ngon, nhân

nhẫn.

25. Rau ngúc hay rau nhúc, rau thuần: sách thuốc gọi Thủy Quỷ, thông lợi

đại tiểu tiện.

26. Rau om: Loại cỏ bò dƣới nƣớc hay nơi ẩm ƣớt, dùng làm gia vị.

27. Rau răm: Có mùi thơm nồng kích thích, đƣợc dùng trộn với nhiều loại

rau khác để ăn sống hay sắt nhỏ làm gia vị.

28. Rau sam: Sách thuốc gọi Mã – Xỉ - Hiên. Thân ăn đƣợc. Lá tƣơi trị

đƣợc bệnh mắt, nhức răng, kiết lị.

29. Rau sam nhồi hay sam nhô.

30. Rau sộp: Đọt cay sộp, chát chát.

31. Rau sơn: Lá nón.

32. Rau tần hay tần dày lá: Sách thuốc gọi Tần Dịch Lê.

33. Rau trai: Mọc theo ruộng nƣớc.

34. Rau tráp hay Rau dáp, Rau dấp cá hay Rau trấp cá: Sách thuốc gọi Ngƣ

Linh Thái. Có mùi thơm, dùng ăn sống nhƣ các loại rau khác. Trị đau răng, sốt rét.

3. Bầu, bí, mƣớp, dƣa, khổ qua cũng đƣợc trồng trong vƣờn.

Bầu có các loại: Bầu lùi (trái dài, leo trên giàn), bầu đất (trái tròn, bò dƣới

đất), bầu eo (còn gọi là bầu thắt vì giữa có “thắt eo”), bầu ngựa (còn gọi bầu thƣớc

vì trái dài mà ốm), bầu ve (ốm nhỏ giống cái ve chai), bầu thúng (trái tròn dài,

đƣờng kính bằng 2/3 chiều dài)…

Bí có các loại: Bí rợ, bí rợ bánh xe, bí rợ tộ, bí rợ ngô; bí đao, có loại bí đao

chanh (trái nhỏ), bí đao thƣớc (trái lớn, dài có khi đến 1 mét, đƣờng kính độ 20

phân, dùng làm mứt).

Mƣớp ở Cù Lao Phố có các loại:

Mƣớp hổ: loại trái nhỏ, bằng ngón tay cái, dài hơn 1 m, da có sọc xanh, vị

ngọt – tên gọi hổ qua.

Mƣớp hƣơng: trái to bằng cánh tay, dài lối 80 cm, thịt xốp và thơm.

Mƣớp khía: trái xanh, vỏ cứng, nhiều khía, tròn, dài, đầu thon, nở lớn ở

khung bụng. Nấu nƣớc ngọt hơn mƣớp hƣơng nhƣng không thơm.

Dƣa có nhiều giống:

Page 47: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

47

Dƣa hƣờng: có lẽ là giống dƣa lâu đời; việc gọi tên nhƣ vậy vì khi “chín”

ruột có màu hồng. Chủ vƣờn thƣờng tỉa bớt trái sai để bán dùng để nấu canh.

Mẹ mong gả thiếp về vườn

Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh

Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng

Về sông ăn cá, về giồng ăn dưa

Dƣa leo hay dƣa Bà Cai: Giống trái lớn, trái tròn dài, xanh láng, hơn ửng

sọc lúa non.

Dƣa chuột: Loại dƣa leo giống nhỏ trái

Dƣa gang: Loại dây bò, thân có nhánh ra trái, trái to, da trắng, ruột trắng.

Chỉ trồng đƣợc ở đất cát.

Dƣa hấu: Loại dây bò, trái tròn, hột dài, da xanh đậm có ửng sọc hoặctrắng

trơn, cứng vỏ, sắc đỏ hay vàng, vị ngọt nhiều nƣớc.

Thời 21 năm đánh Mỹ, ở Cù Lao Phố có trồng một ít giống dƣa của Mỹ,

của Đài Loan (vì ở đây là thí điểm của Sài Gòn nên là điểm để phổ biến trong tỉnh

Biên Hòa và các nơi khac):

Giống Su–gơ–bê–bi (Sugarbaby): Giống dƣa cho trái nặng từ 5 đến 7kg,

trái tròn, ruột đỏ, ngọt, vỏ xanh đậm.

Sha–let-tôn–Gờ-rây (Cherleston Gray): Mỗi trái nặng 14, 15kg, ruột đỏ

tƣơi rất ngọt.

Đích–xi–Quyn (Dixie Qeen): trái nặng từ 14,15kg, ruột đỏ rất ngọt.

Công–gô (Congo): Trái từ 17, 18 kg, có khi 20 kg, vỏ đen rất ngọt.

Dƣa Đài Loan có Hoàng Kim (trái nhỏ nhƣng ngọt), Phú Quang nặng từ 14

– 15kg.

Các thứ này dân Cù Lao Phố chỉ chọn Sugar baby vì nhỏ trái tiện dùng.

Còn các thứ khác trồng để bán.

4. Các loại cây “gia vị”ở Cù Lao Phố không có gì đặc sắc. Cũng hành, hẹ,

gừng, nghệ, riềng và ngải; tỏi hầu nhƣ không thấy trồng và tiêu thì mới có lẻ tẻ từ

vài năm nay.

III. CÂY ĂN TRÁI

Trƣớc Cách mạng tháng Tám, từ xứ Cù Lao Phố ngƣợc sông Đồng Nai đến

Trị An, là những làng có trồng các loại bƣởi ngon nhƣ: Thanh trà, bƣởi đƣờng,

bƣởi ổi. Nên nếu mùa thu hoạch từ rằm tháng tám kéo dài đến ra giêng, tấp nập

ngƣời mua kẻ bán: Dƣới sông, rạch xuồng ghe các loại cái lớn cái nhỏ chở bƣởi đi

bán hay đi mua về các chợ lớn chợ nhỏ để bán; trên các đƣờng rải đá, hay đƣờng

mòn đi vào xó, ngƣời ngƣời gánh từng gánh từ trong vƣờn rau chất lên xe bò, xe

Page 48: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

48

ngựa, xe hàng để đi bán gần xa… Cũng từ đó bƣởi Biên Hòa nổi danh cả xứ Nam

kỳ…

Các mảnh vƣờn cây ăn trái ấy cũng trồng một số cây khác, nhƣng

không đƣợc ngon và ít, so tỉ lệ bƣởi thì vào hàng thứ yếu. Lần hồi về sau, các loại

cây ăn trái mới, ngon đƣợc nhân giống (có một phần họ đạo Lái Thiêu và các nơi)

nên nay có những vƣờn măng cụt, chôm chôm, sầu riêng, bòn bon, dâu, táo, nho,

mít tố nữ. Bên cạnh đó, một số cây ăn trái hoang dã vẫn còn và đƣợc đồng bào

khai thác đem bán cũng nổi danh nhƣ đƣời ƣơi, dừa nƣớc, chà là, trái viết, trái thị,

trái cơm nguội, guồi… Ðây là mảnh đất có nhiều cây ăn trái hoang dã vào bậc

quan trọng nhất của Nam bộ. Các loại cây sau này là cây trồng, lúc buổi đầu khai

hoang có thể đã có không ít là chuối, me, dừa. Rồi năm 1698 trở đi, khi lƣu dân ở

miền Trừng vào Nam khai hoang lập ấp mới đem một số giống cây ăn trái quý giá

- trong đó có bƣởi Thanh trà xứ Huế trồng ở cảng thị Cù Lao Phố và sau đó nhân

ra, dân ở hai bên bờ sông Đồng Nai, cứ thế dài dài lên trung nguồn thành nổi tiếng

là “Xứ bƣởi Biên Hòa”.

1. Cây bƣởi: là đặc sản của Biên Hòa không biết có từ thời điểm nào,

nhƣng chúng ta thấy nó đi vào ca dao trữ tình thời cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ

XX khi chữ quốc ngữ đã phổ biến ở mức nào đó.

Giầy Tây bán mấy

Mua lấy một tờ

Đề thơ quốc ngữ

Thả xuống gian hàng

Cả kêu người nghĩa trong nhà

Xuống sông vớt bưởi lên mà coi thơ

Bƣởi Thanh, tên gọi tắt của bƣởi Thanh trà, có lẽ là loại bƣởi có sớm nhất ở

Biên Hòa, ở Cù Lao Phố. Ðặc điểm là đến lúc chín da vẫn còn xanh, ngọt thanh,

tức có pha ít chua phớt qua. Trái ra hàng niên, rất kinh tế: Mỗi cây ra 200trái/năm,

cá biệt 300 trái.

Năm 1929, cây bƣởi Thanh “lão tổ” ở làng Nhứt Hòa (xã Hiệp Hòa) còn

sống hơn một ngƣời ôm không xuể, nhƣng cây biến chất: Trái chua là không ăn

đƣợc. Bƣởi này ngày trƣớc nhiều, nên bán ra ngoài thị trƣờng, còn bƣởi Ðƣờng

hiếm (vì trồng ít) phải đến vƣờn mua mới có.

Biên Hòa có Bưởi Thanh Trà

Thủ Ðức nem nướng, Ðiện Bà Tây Ninh.

Bƣởi ổi: Trái bƣởi để khô teo nhƣ trái ổi, rồi có các ngƣời không biết gì hết

cũng giảng: Nhỏ nhƣ trái ổi và có mùi ổi chín.

Đặc biệt là bƣởi bẻ để lâu càng quý không hƣ thúi, xẻ ra ăn vẫn còn hƣơng

vị của bƣởi. Nếu chín ở trên cây bẻ xuống ăn rất dở. Bƣởi này, ngày trƣớc, Hoa

thƣơng mua trữ, đến Tết tung ra bán với bao bì có chữ Hoa và màu lòe loẹt… mạo

Page 49: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

49

nhận là bƣởi Bắc Thảo – thứ này ở “bên Tàu mới đem qua” để gạt đồng bào ở đô

thị.

Và bên cạnh có một thứ bƣởi nữa đứng hàng thứ tƣ: Ðó là bƣởi điều hay

bƣởi son, gọi trại (không hiểu tại sao): bƣởi yến.

Bƣởi đƣờng: Là loại bƣởi có vị ngọt lịm hơn các loại bƣởi. Ở Cù Lao Phố

có hại loại: Bƣởi đƣờng da cóc (da xù xì) và bƣởi đƣờng da láng (thứ này có loại

trái lớn lắm bằng trái dừa bị). Cây nhỏ hơn cây bƣởi Thanh, nên trái ít hơn, mỗi

cây không hơn 100trái/mùa.

2. Ngoài bƣởi, các loại cây ăn trái ở Cù Lao Phố đƣợc trồng đủ loại từ dừa,

mít, xoài, cam, quýt, nhãn, mảng cầu, măng cụt… đến các loại trái mới nhƣ chôm

chôm, mít tố nữ…Tuy nhiên, vƣờn cây ăn trái ở Cù Lao Phố đa phần là vƣờn tạp,

trồng một ít để ăn chơi hoặc lôi ra bán thêm kiếm thêm ít tiền chợ mà không mấy

ai để tâm chuyên canh loại cây ăn trái nào một cách tập trung và đầu tƣ nhiều về

công sức và tìm tòi về phƣơng pháp chăm bón và giống.

Trong vƣờn cây tạp đó, xƣa kia còn nhiều loại cây ăn trái hoang dã nhƣ

trâm, viết, thị, cơm nguội, bứa, guồi, trƣờng… Tất cả những loại “trái rừng” này

cùng với trái cây ăn trái trồng trong vƣờn tạo thành một nguồn dinh dƣỡng phụ trợ

cho con ngƣời mà tập quán coi là thú “ăn chơi” mà chƣa đƣợc nhận thức đầy đủ

nhƣ thời sau này: sinh tố. Tất nhiên, ở đây một số loại cây trái có số lƣợng đáng kể

cũng có vai trò kinh tế và tiêu dùng nhƣ chuối, mít, và kể thêm vào đó là me, dừa –

những trái rất cần cho nhu cầu nấu các món chua và có nƣớc cốt dừa đặc biệt hợp

khẩu vị với ngƣời dân ở đây.

Về chuối: Trƣớc Cách mạng tháng Tám ở tỉnh Biên Hòa có ít ra 20 loại, tại

Cù Lao Phố ngày nay còn một ít giống ấy.

Chuối lá trắng, chuối lá đen, chuối tiêu: Loại chuối dành cho ngƣời bệnh

ăn.

Chuối và cui, chuối và hƣơng, chuối và lùn: Loại chuối kinh tế có giá trị

trên thị trƣờng thế giới.

Chuối hột: Loại chuối ít ai ăn vì hột nhiều, mà dùng bắp chuối làm dƣa, ăn

sống, nấu canh…

Chuối vong: Trái chín đen, nấu ăn mới ngon.

Chuối sáp: Dẻo nhƣ sáp, chín nấu ăn mới ngon.

Chuối nanh heo: Loại chuối ngon, hình dáng của trái giống nanh heo.

Chuối non nƣớc: Lớn trái không ngon.

Chuối sứ, chuối xiêm: Loại chuối đa dụng: sống bột, chín ăn sống, luộc ép

làm chuối khô, ép nhúng bột chiên.

Chuối mật: Lúc chín màu đỏ nhƣ mật đƣờng.

Chuối ba nải: Mỗi quày chỉ có 3 nải lớn đáng kể.

Page 50: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

50

Chuối chà: Loại chuối ngon có thứ hơi chua, có khi nhiều bột.

Chuối cau: Loại chuối tiến dâng Vua.

Chuối len: Giống nhƣ chuối nanh heo, nhƣng có đốm, trái non.

Chuối ngự hay Táo qua: Loại chuối không trổ bắp chuối thông thƣờng, mà

buồng ra cuối cùng trên ngọn, trái lớn ăn không ngon chỉ luộc ăn mới tạm đƣợc.

Chuối là loại cây lƣơng thực sau gạo, nếp, ngũ cốc. Nhiều nƣớc dùng chuối

để thế ngũ cốc vì chuối lƣợng dinh dƣỡng ngang thịt và khoai tây. Chuối phơi khô

trong mỗi 285 gr có 100 gr đạm – nghĩa là hơn thịt 2 lần. Chuối có 3 lần sắt nhiều

hơn sữa và nhiều thứ khác nếu phân tách tỉ mỉ.

Những thứ mít có mặt ở tỉnh Biên Hòa (trong đó có Cù Lao Phố) là những

thứ mít có từ lâu đời:

Mít ráo: Múi mít ráo không nhão.

Mít ƣớt: Khác mít ráo, nó nhão, nhƣng lại vị ngọt.

Mít nghệ: Thịt màu nhƣ nghệ.

Mít dừa: Thứ mít múi màu trắng.

Mít quảng nhãn: Tức loại mít nhiều hột.

Mít nài: Loại trái nhỏ dùng để nấu canh.

Và về sau có thêm mít tố nữ và mít không hột hay hột lép có mùi

thơm – loại mít bán cân theo kí lô.

Cây mít sống lâu hơn 50 năm. Cây dùng tạc tƣợng thờ, hột mít chế biến

làm bột dinh dƣỡng. Ở thành phố Biên Hòa xƣa có Xóm Vƣờn Mít không phải vì

nơi đây trồng nhiều mít nhất, đó chƣa phải chánh để gọi tên, thuộc phƣờng Bình

Trƣớc chuyên sản xuất bột hột mít. Nay còn tên để gọi một vùng có dân làm bột

mít – cũng nhƣ ở Cù Lao Phố có thôn Tân Giám chuyên sản xuất bột, ngày xƣa gọi

là bong (không có dấu trên chữ o).

3. Các loại cây trồng tạo ra sản phẩm có tính chất hàng hóa có thể kể là

mía, thuốc lá và trầu, cau.

Mía đƣợc trồng ở Cù Lao Phố có lẽ khá sớm vì nơi đây là một trung tâm

sản xuất các loại đƣờng để tiêu thụ và bán ra nƣớc ngoài. Ðƣờng tán là sản phẩm

phổ biến, kế đó là đƣờng phổi và đƣờng phèn. Theo ghi chép từ Ðịa bạ Minh

Mạng, thì diện tích canh tác mía thấu có ở các thôn xã trên Cù Lao Phố. Theo ký

ức các bô lão, ở đây đã có các giống mía sau đây:

Mía bắp, mía de: Mía nhỏ cây mà cứng vỏ, nƣớc có nhiều đƣờng.

Mía bầu, mía mƣơng: Tên chữ Côn Lôn Giá. Cây mía mềm dùng ăn sống.

Mía cò ke: Mía có vỏ đỏ và cứng.

Mía đỏ: Vỏ đỏ, nƣớc ngọt, dùng nấu đƣờng.

Page 51: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

51

Mía Gò Cát: Mía lớn cây vàng vỏ, mềm nhiều nƣớc, lạt.

Mía gián: Vỏ trắng đỏ xen lộn.

Mía lau: Cây ốm, trồng đất gò, dùng nấu đƣờng là chánh (ngày trƣớc )

đƣờng ấy gọi là đƣờng tán.

Mẹ già như chuối Già Hương

Như xôi nếp một, như đường Mía Lau.

Mía mây: Thứ mía vỏ trắng mốc, dài cây nhiều nƣớc.

Mía sơn dịu: Cây lớn và cao, vỏ có vết hoặc vỏ tƣơi, mềm, ngọt, thƣờng

dùng ăn sống.

Mía voi: Mía cây thật lớn, nhặt mắt nƣớc lạt.

Mía vàng: Mía cây mập, vỏ vàng, mềm, nhiều nƣớc dùng ăn sống.

Thuốc lá có trồng ở Cù Lao Phố - gọi là thuốc gò vì trồng trên giồng. Ðó

là giồng thuốc lá Tân Huệ, nhƣng không “ngon”và không nhiều bằng xứ này:

Trầu bai Bến Cá

Thuốc lá Tân Huệ

Tƣơng tự trầu và cau ở Cù Lao Phố cũng không có tiếng tăm. Nhất thóc nhì

cau, câu tục ngữ xƣa phổ biến ở đất Đồng Nai đã chỉ ra giá trị kinh tế của hai loại

sản phẩm này. Trầu cau là mặt hàng thời thƣợng đƣợc dùng trong giao tiếp, lễ

thức. Ở Đồng Nai, trầu bai Tân Triều và cau Ðồng Môn là nổi tiếng. Trầu bai lá

vàng, mùi thơm; trầu bai quế là loại trầu bai thơm và cay; ngoài ra còn có trầu lẹt

(còn gọi chà lẹt, hay xà – lẹt) là loại trầu lá xanh sậm, rất cay.

Cau có các giống: Cau Ðồng Môn (đƣợc coi là loại cau có chất lƣợng

nhất), cau xiêm (cây to, trái lớn), cau rừng (trái nhỏ, cây nhỏ), cau ớt (trái nhỏ). Ở

Cù Lao Phố, trƣớc đây, cau trồng tƣơng đối nhiều bán ra cau tƣơi lẫn cau khô.

Nói chung, việc trồng trọt các loại rau, màu và cây trái ở Cù Lao Phố hầu

nhƣ chƣa đƣợc chú ý đúng mức. Vƣờn đa phần là vƣờn tạp không có mấy hộ

chuyên canh một loại cây trái nào nhất định. Ngoài việc canh tác lúa nƣớc, các

ngành nghề chƣa có ngành nghề nào phát triển một cách có quyền mô và chuyên

nghiệp.

IV. CHÀI LƢỚI VÀ SĂN BẮT.

Ðất Cù Lao Phố có vị trí tốt cho việc chài lƣới, săn bắn thú rừng và chim

muông. Việc này trƣớc khi thực dân Pháp chiếm đóng tỉnh Biên Hòa (1861) và sau

đó cũng còn tồn tại một thời gian đến trƣớc Cách mạng tháng Tám. Còn ngày nay

chỉ kể lại vang bóng một thời.

1. Theo các bô lão thuộc các kiếng họ cố cựu ở các thôn Bình Trƣớc, Hƣng

Phú, Bình Kính, Bình Quan, Hòa Quới… kể lại thì lúc ấy ở đây có phƣờng săn,

phƣờng chài tùy mùa đi săn bắt muông thú ở các vùng lân cận bên kia Rạch Cát

Page 52: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

52

hay sông Đồng Nai; dƣới sông lớp chài, lớp lƣới đăng quanh Rạch Cát, sông Đồng

Nai hay xa hơn lên tận Rạch Ðông, xuống đến sông Nhà Bè để bắt.

Nói đến chài lƣới, săn bắn hay săn bắt thú rừng ở Cù Lao Phố có nhiều

chuyện khá lý thú, nhƣng tìm lại những hình ảnh ấy không đƣợc đầy đủ và những

dụng cụ đi săn: lƣới, vũ khí, bẫy và đặc điểm giống chó săn ấy thuộc giống nào…

nay đã không còn. Cả ngƣ cụ cá cũng vậy, trong đó có những lƣỡi câu, lƣới và các

loại xuồng câu còn giữ kiểu dáng bản địa nhƣ thế nào, nhất định nó hoàn toàn

không giống ngày nay và cũng không hẳn là thuyền độc mộc.

Rồi những bài hát của phƣờng săn, phƣờng lƣới thƣờng hát lúc “xuất

quân”và lúc trở về trong chiến thắng cũng không còn! Cả nghi lễ cũng vậy, chỉ còn

rơi rớt lại tục lệ mà dân thôn Hòa Quới nay còn giữ là cúng Rái Cá – tức Lang Lại

mà văn tế thảo với mỹ hiệu là Đông Nam sát hải Lang Lại Ðại Tƣớng quân chi

thần. Truy ra không cùng sự tích.

Mỹ hiệu này của rái cá theo truyền thuyết liên quan đến thời kỳ “Gia Long

tẩu quốc”; rái xóa dấu chân của Nguyễn Ánh khiến quân Tây Sơn không truy bắt

đƣợc. Thực ra, tục thờ rái cá vốn là tín ngƣỡng của ngƣ dân Trung bộ ra đến Nghệ

Tĩnh, Thanh Hóa; mặt khác, theo kinh nghiệm nơi nào có nhiều rái cá là nơi đó “dễ

bề làm ăn”– tức môi trƣờng tự nhiên thuận lợi cho việc định cƣ thủy sản dồi dào.

Rái cá ở trên sông Đồng Nai và khúc sông đi ngang Cù Lao Phố (dài non

3km đoạn rộng nhất góc đông nam 1 km); còn Rạch Cát (dài hơn 6 km) là sông nổi

tiếng nhiều cá. Việc thờ rái cá thấy ở nhiều Vạn (Bình Lợi, Vĩnh Cửu) và các bô

lão ở Cù Lao Rùa thì ai cũng nhắc đến việc ngày trƣớc rái cá thƣờng di chuyển từ

vùng dƣới lên vùng trên nhiều đoạn lắm.

Trong lúc phƣờng chài lƣới thì thờ rái cá, còn phƣờng săn thì thờ ai? Cọp!

Chúa Sơn Lâm! Theo truyền thuyết các phƣờng săn trƣớc khi đi có khấn đƣợc con

mồi (tùy lớn nhỏ ) sẽ cúng “thần”, các miếng thịt, mỗi bộ phận con thú một lát, cho

đủ bộ “đầu – đuôi – thủ - vĩ”.

Phƣờng săn chuẩn bị lên đƣờng cũng đơn giản. Ngày xƣa phƣờng săn đông

cả chục ngƣời, có cầm đầu, thƣờng giỏi võ, nhiều kinh nghiệm; ngƣời trong đoàn

thƣờng con cháu hay bà con lối xóm. Ngoài lƣới săn, mấy con chó, ngƣời đi có vũ

khí gậy gộc, lƣng gùi gạo (sau này không còn dùng gùi vì đi ngắn ngày). Thƣờng

đi hai hƣớng: bên Rạch Cát lên Tân Phong, Bình Ý và Núi Lò Gạch hay đi Bình

Đa, Vĩnh Cửu đến Núi Đài (Phƣớc Tân) để săn: heo rừng, nai, cheo, mễn, kỳ đà,

trăn… còn hƣớng bên kia sông Đồng Nai: Bình Thắng, Tân Vạn, Bình Long đến

núi Châu Thới, thú nhiều nhất là khỉ, kỳ đà…

Riêng cọp thì chƣa bao giờ các phƣờng săn ở Cù Lao Phố săn đƣợc con nào

– có lẽ không phải sở trƣờng. Chỉ nghe thôn Tân Phong xƣa nổi tiếng săn cọp bằng

khại – lối săn cọp sở trƣờng của thời khai hoang: nhiều tấm khại làm bằng cật cây

cau già, lớn độ 1 m X 2 m.

Page 53: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

53

Một điều cần nói là khỉ lúc ấy nhiều lắm, ở rừng dầu ở Cù Lao Phố cũng

có, nhƣng không bằng vùng núi Châu Thới đến Bình Thung, Bình Thắng… Khỉ

hàng đàn phá phách dữ lắm! Đến thời Pháp thuộc vẫn còn khỉ nhiều.

Mục đích đi săn đi bắt thú là lối săn bắt truyền thống song song với chài

lƣới khi ông cha từ miền Trung tới khai hoang lập ấp ở Cù Lao Phố, với địa bàn

rộng hơn là trên các cánh rừng quanh thành phố Biên Hòa ngày nay, và vùng đánh

bắt cá lớn là “Kinh hồ”tức hồ Biên Hòa. Nhƣng cũng có sự hy sinh mất mát đôi

khi xảy ra: tai nạn chìm ghe hay bị tử thƣơng, bị sát thƣơng vì thú dữ, vì rắn độc.

Dƣới thời Pháp thuộc phƣờng săn không tồn tại, phƣờng chài lƣới tồn tại

dài hơn ở các thôn từ Bình Kính đến Hòa Quới.

Bấy giờ ngƣời có súng săn (có giấy phép và đóng thuế súng, đóng thuế khi

bắn đƣợc thú) là nhà tƣ sản Trƣơng Văn H. – nguyên thƣ ký sân bay Tân Phong,

chủ lò gạch ở Bình Tự. Tại nhà thờ kiếng họ Trƣơng ở Bình Tự có mấy đầu nai

chà và đầu min, đó là tích săn bắn của tổ tiên gia đình này.

2. Săn bắt không phải là mục đích thực dụng mà là một phong lƣu thôn dã.

Đặc biệt ở Cù Lao Phố là bắt chim dạy chúng biết nói! Đó là các loại cƣỡng

(cƣỡng bông và cƣỡng sành), nhồng (cũng gọi là chim sảnh, nổi tiếng là nhồng ở

Trảng Bom, Định Quán, Bù Đáp), khứu (giống sáo nhƣng nhỏ), sáo (gồm sáo ngà

mỏ trắng, sáo nghệ mỏ vàng, sáo sành mỏ xám, sáo nậu mỏ đen, sáo trâu ƣa đứng

trên lƣng trâu ăn đỉa)… Gần đây, việc nuôi chim ngả qua chim kiểng thời thƣợng:

họa mi, chích chòe đất, chích chòe than, bạc má, két… Đó là thú vui khác xƣa:

mua ngoài chợ đem về nuôi, thậm chí thức ăn, lồng chim, cóng đựng nƣớc cũng là

hàng chế tạo sẵn.

Ngƣời Cù Lao Phố trƣớc Cách mạng tháng Tám còn cái thú đi gác cu – tiêu

biểu nét phong lƣu thời xa xƣa.

Cu ở đây có hai thứ: thứ nhỏ sắc da ngả qua hồng đỏ, gáy không to, gọi cu

ngói; thứ ở cổ có hạt cƣờm đẹp và gáy tiếng to gọi là cu đất, cu cƣờm. Lại có giống

cu sắc lục gọi là cu xanh, ăn trái cây trong rừng sâu. Đánh lƣới cu xanh là một

nghề theo mùa. Nuôi cu để đi gác cu là cái thú tốn nhiều thì giờ và công sức: nuôi

cho cu lớn, gáy, làm lồng, đi nhử khắp nơi… Thú vui này do không kinh tế nên

xếp vào một trong 4 “cái ngu”.

Đó là đôi nét đặc thù về nuôi chim, bắt chim ngày trƣớc, ở đâu cũng có,

nhƣng tại Cù Lao Phố vẫn có nét riêng và lâu đời nhất.

Cũng ở khúc sông chảy qua Cù Lao Phố, trƣớc Cách mạng tháng Tám dân

chài lƣới ấp Hòa Quới đã có lần câu đƣợc con cá sấu cỡ bằng chiếc xuồng tam bản

(bằng mồi vịt) tại vàng Bà Lồ (ngay là phƣờng Tân Vạn). Đây là việc không mấy

gì lạ vì ngày trƣớc ngƣời dân phƣờng Hòa Quới từng câu sấu ở rừng Sác đem về

bến Cù Lao Phố để bán thịt! Có dạo, một con cá đuối lớn gần nửa chiếc đệm phơi

lúa bị mắc dàn câu giăng ở gần Cầu Gành. Việc ấy chứng tỏ ngƣời dân Hoa Qƣới

cũng là dân thiện nghệ câu các loại cá, cả sấu. Cũng ngƣời Hoa Qƣới kể: ông bà

xƣa nhiều lúc câu đƣợc cá mập con trên đoạn sông Nhà Bè – cũng nơi đây có cá

Page 54: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

54

ngon nổi tiếng là cá chìa vôi – giống này không còn mấy ở đoạn sông Nhà Bè.

Cũng nhƣ cá thu nƣớc ngọt ngày trƣớc chỉ có ở Rạch Đông và nay không còn nữa.

3. Việc bắt ốc gạo và hến ở Rạch Cát, thƣớng đến trƣớc Tết kéo dài ra

giêng đến tháng hai. Lúc này Rạch Cát nƣớc ròng, lúc ròng sát có đoạn có thể bơi

qua Cù Lao Phố nƣớc chỉ tới bụng. Lúc ấy nƣớc ròng thì cả hai bên – Cù Lao Phố

và Bình Trƣớc – ngƣời ngƣời, nhất là trẻ em, đàn bà xúc bắt ốc gạo và hến.

Nguồn lợi này không biết có từ lúc nào?

Ốc gạo xƣa ở trong các rạch bên kia làng Bình Trƣớc: rạch Bà Miên, rạch

Trƣờng Tàu, sông Đồng Tràm… ra đến rạch Cát. Nay đã không còn nhƣ xƣa, vì

khai thac vô tổ chƣc, bắt thủ công bằng mò lăn chƣa đủ còn cào bằng ghe máy…

thì ốc gạo và hến nào còn và sẽ bị tuyệt chủng.

Ngoài ốc gạo còn có hến nhiều vô kể, không chỉ ở Rạch Cát, ở các cồn nhƣ

cồn Cỏ (ở trên rạch Cát), cồn Gáo (nay không còn, xƣa gần cầu Mới, thuộc làng

Bình Trƣớc). Riêng ở vàm Rạch Lò Gốm xƣa nhiều, nay còn rất ít. Nơi đây, giai

đoạn trƣớc vùng nƣớc mặn ra nƣớc lợ, nay đạ ngọt… nên còn sót một ít cây dừa

nƣớc.

Những ngƣời dân ở đây cũng đi xuống rừng Sác khai thác con nha làm

mắm. Ngày nay không còn ai làm vì tổn phí và giá cả không bao nhiêu, và cách

làm thua mắm ba khía ở Bãi Xàu (xƣa kia, nghề này một thời nổi tiếng: “Ba khía

Bãi Xàu” khắp xứ Lục Tỉnh, rồi Nam kỳ). Ngoài bắt con nha, ở rừng Sác còn nghề

câu cua mới độc đáo. Cua ở rừng Sác ngoài cách đào hang để bắt có lối câu nhƣ

câu tôm.

V. CHĂN NUÔI

Chăn nuôi ở Cù Lao Phố hiện nay về căn bản là chăn nuôi hộ gia đình

thuộc loại tiểu quy mô, chƣa phải là ngành chăn nuôi lớn. Mặc dù cũng có chăn

nuôi gà, cút, cả heo và cá, có chuồng trại, có ao hồ; nhƣng chỉ là kinh tế phụ, nếu

so với các địa phƣơng khác nhƣ nghề nuôi heo ở các phƣờng Tam Hòa, Hố Nai,

Tân Biên, Tân Hòa, hay nhƣ nghề nuôi cá (bè) nhƣ ở phƣờng Tân Mai.

Cái đáng nói là các giống thú ở Cù Lao Phố hiện giờ là giống cũ, hay thoái

hóa. Nhƣng ngày trƣớc đã có một thời tuyển chọn loại thích hợp với đặc tính và

hoàn cảnh. Theo lời tục truyền, trâu ở Cù Lao Phố là giống chịu đựng sức bền,

không lớn con; giống trâu này có gốc ở rừng Sác. Ngựa xƣa là đƣợc tuyển từ giống

tốt dành cho kỵ binh Trấn Biên, đến trấn Biên Hòa: Ngựa chiến đều gốc Biên

Hòa… Đến giống gà nòi đối với dân chơi gà đều biết tiếng gà Biên Hòa. Đó là

phần lịch sử. Ở đây, có những nét lớn, chúng tôi cố trình bày một số thú đƣợc nuôi

ở Cù Lao Phố, gồm: thú giữ nhà, nhất là chó; gia cầm gồm vịt; tiểu gia súa là heo;

và đại gia súc là ngựa, trâu.

1. Chó: Những năm đầu kháng chiến 9 năm đánh Tây, có hai con thú bị ta

giết và Tây diệt: Đó là chó và trâu. Chó bị ta giết không nƣơng tay, vì đêm đêm du

kích, bộ đội hành quân đến xóm nào đều có chó sủa náo động cả lên… Nhiều làng

ở gần đồn bót giặc đƣợc lệnh Ủy ban Hành chánh kháng chiến giết chó hết! Rồi

Page 55: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

55

thằng Tây đi bố, vô làng hồi nào không ai hay vì đâu có chó để báo động! Rồi

đƣợc lệnh nuôi chó trở lại… Cảnh này ở Cù Lao Phố và các làng địch hậu ở thị xã

Biên Hòa vẫn còn nét giống nhau.

Chó ở Cù Lao Phố ngày trƣớc toàn là chó bản địa: chó săn, chó ngao (thứ

lớn hơn hết), chó cỏ. Còn hôm nay thì đủ các loại giống chó…

Ngày nay ở Cù Lao Phố ít ngƣời biết ngày xƣa – ít ra trƣớc khi Tây chiếm

thành Biên Hòa (1861) có tục phƣờng săn đi săn những ngày áp Tết, chó săn đặc

biệt đƣợc nuôi nấng tử tế.

Lúc đó rừng còn nhiều. Tại Cù Lao Phố rừng dầu còn chạy dài từ thôn

Bình Kính đến thôn Tân Giám – nhƣng thú ở đây chỉ có khỉ và chim cò, trƣớc

Cách mạng tháng Tám còn có chim quốc. Các vùng quanh Cù Lao Phố thì rừng bạt

ngàn từ Bình Thung, Bình Thắng, Tân Vạn đến núi Châu Thới lên vùng Tân Hạnh

phía sông Đồng Nai. Còn bên kia Rạch Cát từ thôn Bình Đa đến Vĩnh An, Bình

Trƣớc, Tân Phong, Bình Thành lên miệt núi Lò Gạch muông thú còn nhiều: nai, kỳ

đà, chồn, cheo, vô số khỉ lẫn thú dữ: cọp, heo rừng, voi…

Phƣờng săn ở Cù Lao Phố tốp năm, tốp ba đi các nơi săn thú với: chó săn,

lƣới, đảo đao, rồi lên đƣờng, rồi lần lƣợt trở về: kẻ thành công ngƣời thất bại cùng

chung vui với những ngày giáp Tết.

Đó là lúc thiên nhiên còn ƣu đãi ngƣời dân Cù Lao Phố và các dân thôn,

xã, phƣờng khác. Về sau, rừng ngày càng kiệt quệ, thú rừng hiếm, việc đi săn

không còn tồn tại và mặt khác giặc pháp cấm dân chúng di chuyển với vũ khí e có

những việc mất trật tự an ninh. Việc đi còn dành cho những ngƣời giàu có, quyền

thế, có súng có đóng thuế và kiểm tra chặt chẽ. Chó săn từ đó cũng không còn quý

trọng nữa, ngƣời ta nuôi chó giữ nhà để sủa ngƣời qua kẻ lại:

Trách lòng con chó sủa dai

Đêm năm canh viếng bạn, sủa dài sáng đêm.

2. Gà: ở Cù Lao Phố thế kỷ XIX, dân chúng nuôi các giống: gà nòi, gà ta,

gà tàu, gà tre, gà ác, gà trục, gà ri, gà bông… rồi tùy theo sắc lông mà gọi tên: gà

tía, gà xám, gà nhạn, gà ô, gà quạ… tỉ mỉ hơn thì có:

Gà bƣớm: Sắc lông lốm đốm nhƣ con bƣớm.

Gà bông: Sắc lông màu đen lẫn màu trắng trổ nhƣ bông.

Gà bông lau: Sắc lông nhƣ hoa lau.

Gà bông dâu: Một loại gà bông.

Gà bông trích: Loại gà bông, mòng nhƣ con trích.

Gà bông nhạn: Loại gà bông, nhƣng màu trắng nhiều.

Gà chuối: Lông pha màu đọt chuối.

Gà Ngô Truật: Lông màu chocolat.

Gà điều: Lông màu đỏ sậm.

Page 56: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

56

Gà điều lau: Lông đỏ sậm, pha đốm trăng nhƣ cỏ lau.

Gà hoe: Lông vàng có điểm đỏ hay trắng.

Ga nhạn: Lông trắng phau, căng vảy trăng xen kẽ đỏ, mỏ trắng, mắt bạc.

Gà lau: Lông màu bông lau.

Gà mái lai: Vốn gà trống, lông nó có sợi hơi lông gà mái.

Gà ó: Lông nhƣ lông ó, cũng gọi là Ó Ma Lai.

Gà ô: Lông đen tuyền.

Gà ô mái lai: Lông đen mà tơ sớ nhƣ gà mái.

Gà xám: Lông xám tro.

Gà xám ô: Lông vừa xám vừa đen.

Trong các giống gà có giống gà nòi Biên Hòa thuộc loại gà nổi tiếng ở xứ

Nam Kỳ. Theo Vƣơng Hồng Sển, gà Biên Hòa (nay là Đồng Nai) ít lông, to

xƣơng, cổ dài, chân đá chậm mà chắc đòn.

Theo Vƣơng Hồng Sển phân tích thì gà trống nòi Biên Hòa đá chăn chơn

hay vô cùng, sức chịu đựng tuyệt đối (đá đến chết thì đứng tại chỗ mà chết, không

bỏ chạy); và gà mái thì: dƣới cằm có túm lông nhƣ râu, giữ con rất giỏi, diều đều

nể; gặp gà trồng vừa ý thì cho đạp, bèn không thuận thì đá tới… đến khi mệt thì

nằm “chịu trận” chứ không bỏ chạy. Nhận xét nhƣ vậy, chứ ca dao Cù Lao Phố nói

về gà thì có câu:

Gà có lông mướt, cựa ngà,

Đá đâu thua đó bán nhà mà chung.

3. Vịt: Tại Cù Lao Phố ngày trƣớc nghề nuôi vịt đã có một thời phát triển,

vì sông nƣớc tại chỗ có nhiều ốc nhất ốc gạo, hến ở bên kia Rạch Cát.

Vịt ở Cù Lao Phố từ lâu có các giống bản địa: Vịt ta, vịt tàu, vịt rằn, vịt cà

cuống, vịt sen. Hôm nay có thêm nhiều giống, giống “vịt lai kinh tế” cho trứng,

thịt, lông…. Nhƣng ngành này vẫn chƣa phát triển mạnh. Trƣớc Cách mạng tháng

Tám ở đây có trại nuôi vịt của bà Năm Cấm (ngƣời Minh Hƣơng, mẹ Cù Lao Phố,

cha ngƣời Phƣớc Kiến) có tiệm buôn bách hóa ở chợ Biên Hòa, chủ vựa hột vịt

duy nhất ở Biên Hòa lúc ấy.

Nghề nuôi vịt ở Cù Lao Phố là nuôi thả, cần một ngƣời chăn, ban ngày lùa

vịt đi ăn trên các cánh đồng, xuống sông, xuống rạch, xuống ao ăn tôm, tép, ốc…

Ðêm về ở lại lán trại giứa đồng. Sáng dậy lấy trứng và lùa đi ăn.

4. Heo: Loại “lợn” nhỏ con nhƣng thịt rất ngon, đó là con pabwei của

ngƣời Chăm: từ đó gọi lợn thành heo. Nhƣng lúc ăn bánh của ngƣời Bà Ba thì, có

lẽ họ gọi tên gì khó nói, nên ta vẫn gọi bánh “da lợn”vì có nhiều lớp nhƣ da lợn.

Ðây là từ kép còn giữ từ “lợn” truyền thống, còn cứ cái con lợn, dù giống thì ở đây

đều gọi là heo: Heo nuôi để ăn thịt, heo tế để cúng đình, heo quay, heo luộc…

Page 57: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

57

Con heo trong cúng đình thì phải con heo đen tuyền, cúng heo sống để trên

cái tợ chớ không bao giờ cúng heo quay nhƣ ngƣời Hoa lúc ấy. Việc cúng heo

quay là ảnh hƣởng của ngƣời Hoa thời Nông Nại Ðại Phố: nhân ngày lễ Quan Vũ

họ cúng heo quay! Việc này có nét khác biệt giữa ngƣời Hoa và ngƣời Việt. Về sau

trong những cuộc cúng trả lễ mới có cảnh ngƣời Việt cúng heo quay. Ðó là kết quả

giao lƣu văn hóa Hoa – Việt.

Con heo thời Nông Nại Ðại Phố, trong các lối làm món ăn nét đặc thù:

ngƣời Hoa thì quay heo (cả vịt) rất là nghệ thuật và độc quyền món này thôi.

Ngƣời Kinh thì thịt heo luộc cháo lòng rất ƣ nghệ thuật mà về sau ở Chợ Ðệm là

“điỉnh cao” nổi tiếng cả xứ Nam kỳ. Xét về gốc là thịt heo “Bái Đáp” ở Thuận

Hóa.

Bấy giờ chƣa có nuôi heo công nghiệp, nuôi thủ công nên thịt nó luộc (hay

các thứ khác: nem, giò… đều ngon) đến trình độ nghệ thuật, vì đã có nhiều quán

bán thịt heo luộc, cháo lòng.

Nuôi heo, không phải nhà nào cũng có điều kiện (cả ngày trƣớc) nên có

cảnh ở Cù Lao Phố nuôi heo rẽ mà tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh thƣờng nói đến. Vậy

nuôi heo rẽ là nuôi thế nào? Nuôi heo rẽ là ngƣời bần nông lãnh heo con của một

ngƣời quen hay hàng xóm – thƣờng là trung nông. Trong lúc ngƣời nuôi phải lo

liệu từ tấm, cám, bèo, rau để nuôi heo mau lớn. Khi heo lớn đúng lứa bán, điều

đáng nói là ngƣời nuôi heo không có quyền quyết định; đến lúc nào bán nói chủ

heo (trên một tạ, tạ ta 60kg) lúc chia tiền chủ “tứ” ngƣời nuôi “lục” là thông

thƣờng. Nuôi heo rẽ là kiểu “lao động gia công”, không rõ có từ lúc nào của Cù

Lao Phố.

Tại Cù Lao Phố đến thế kỷ XIX, heo có các giống bản địa: heo cúi, heo

mọi (thƣờng giải thích theo ngƣời dân tộc ít ngƣời: cúi là loại thú hoang dã giống

con heo), heo voi (lớn xác, lông nhiều), heo bông, heo lang, heo Thuộc Nhiêu.

5. Trâu ở Cù Lao Phố thuộc loại nhỏ con, chịu đựng nặng nhọc, ăn uống

không kén là nhờ lai tạo giống trâu rừng Sác. Giống này do ngƣời bản địa hay

ngƣời Kinh đem vào, đó là điều cần tìm hiểu hơn. Cái đặc tính giống lai này giống

ở xứ rừng Sác cỏ hiếm, nƣớc lợ: trâu thƣờng sống không nổi, chỉ có giống ấy chịu

đựng đƣợc nƣớc mặn, muỗi mòng…

Trâu, bò ở Cù Lao Phố không nhiều. Toàn tỉnh Biên Hòa năm 1930 – theo

Ðịa Chí Biên Hòa – là: 13.000 trâu (dùng cày bừa, kéo bè), 800 bò đực và bò cái

(để kéo xe). Riêng về trâu lúc ấy ở ngƣời dân tộc Mạ, toàn trâu lớn nên dùng sức

kéo bè.

Giá một con trâu đời nhà Nguyễn 5 quan. Truy ra việc phạt vạ ở tỉnh Biên

Hòa xƣa là 1 trâu giá 5 quan… Con trâu giai đoạn đầu 9 năm đánh Tây… là nạn

nhân của quan Pháp, mỗi lần đi “bố” là có bắn giết trâu! Ở Cù Lao Phố không bị

sự “tàn sát” này vì Cù Lao Phố bị giặc chiếm trƣớc, đối diện một con rạch Cát là

chiến khu Vĩnh Cửu hay ở Chiến khu Đ, trâu bị chúng bắn không nƣơng tay, để ta

không có sức kéo lúc làm vụ mùa… rồi bỏ làng bỏ xóm ra sống bên đồn bót.

Page 58: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

58

Nhƣng suốt 9 năm trâu chết nhiều, tạo những điều kiện khác: chuyển trâu các nơi

khác về, tập trâu thích ứng với hoàn cảnh bố ráp, tránh pháo… Nên sức trâu có

kém mà sức sản xuất vẫn đủ số cầu.

Trâu bò ở Cù Lao Phố trƣớc Cách Mạng Tháng Tám là giống thƣờng:

Trâu cò: Trâu có lông trắng.

Trâu cổ: Trâu đực to con, vai rộng, cổ lớn, thật mạnh.

Trâu cui: Trâu rừng móc trở xuống, sức thật mạnh.

Trâu chảng: Trâu sừng dài mà bành rộng ra rất dữ, nên ít dùng.

Bò thì có các “loại”– phân biệt theo lối coi mặt bắt hình dong:

Bò hóng: Bò da và lông đen bóng.

Bò khƣu: Bò da không đen nhƣng lông đen.

Bò u: Bò có cục u nổi giữa hai bả vai.

Bò vá: Bò lông có vá trắng đen hay trắng xám.

Bò vàng: Bò lông vàng lợt.

Nằm đây chớ có ngủ đâu,

Thức mà giữ lấy con trâu, con bò.

Nằm đây nào đã ngủ cho,

Thức mà giữ lấy con bò, con trâu.

Câu ca dao sƣu tầm ở Cù Lao Phố cho thấy trâu bò đƣợc ngƣời dân ở đây

bảo vệ kỹ lƣỡng nhƣ thế nào. Xƣa dân trộm trâu, thƣờng là xuất phát từ Tân

Khánh, hay lò mò ở các vùng kế cận, đâu đâu cũng ngán. Song theo lời tục truyền

thì đám trộm đạo này không bao giờ xuống “hành nghề” ở Cù Lao Phố vì ở đây có

một đạo luật bất thành văn: bắt đƣợc kẻ trộm từ xứ khác đến thì đem ra sông xử

trấn nƣớc cho đến chết.

6. Ngựa Biên Hòa tức ngựa nòi có tiếng, thời Trấn Biên ngựa đƣợc dùng

trong quân sự, tƣớng lãnh nào cũng có ngựa hay. Chuyện tích xƣa cũ thời Trấn

Biên còn đƣợc sử sách ghi lại: Con ngựa của Cai bạ Nguyễn Cƣ Cẩn – năm 1747

đã hy sinh trong cuộc khởi loạn của Hoa thƣơng Lý Văn Quang nhƣ sau: “Trƣớc

kia Cẩn có một con ngựa khỏe, gởi nuôi ở chỗ khác. Đêm ấy, nhà chủ mộng thấy

Cẩn vội vàng đến lấy ngựa, tỉnh dậy ra chuồng ngựa xem thì ngựa đã chết rồi! Nhà

chủ lấy làm lạ, vội đi báo tin cho Cẩn biết, thì Cẩn đã chết từ canh hai đêm ấy! Đến

lúc tra tấn bọn giặc (bọn Lý Văn Quang) chúng đều nói: “Đƣơng đêm thấy Cẩn

cƣỡi ngựa, múa đao, đón đánh, cho nên không trốn vào đâu đƣợc!”Ai cũng cho là

thiêng bèn lập bàn thờ Cẩn ngay ở đây”(111)

Lúc Nguyễn Ánh còn ở xứ Gia Định có đơn vị kỵ binh điêu luyện, toàn

ngựa ở trấn Biên Hòa. (11 ) Đại Nam liệt truyện.

Page 59: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

59

Năm 1898, chiếm tỉnh Biên Hòa đƣợc 35 năm, Pháp lập Hội Đua ngựa

(Société des Courses du Đồng Nai ) là có ý đồ chớ không chỉ lo việc đua ngựa. Hội

lúc ấy có 400 hội viên Pháp và Việt. Năm 1930, theo Địa chí Biên Hòa, toàn tỉnh

có 900 con ngựa.

Ngựa ở Cù Lao Phố nói riêng, ở tỉnh Biên Hòa, đến trƣớc Cách mạng tháng

Tám rất quan trọng. Lúc này xe hơi chƣa nhiều – nhất xe con, còn xe đò thì đâu

phải chạy liên hồi, mà phải đợi chuyến hàng chờ là thƣờng. Đến những năm Nhật

và Đông Dƣơng, xăng chạy xe hiếm nên chạy cồn và chạy than… Xe thông dụng

từ làng này qua làng khác hay lên tỉnh là các loại xe ngựa với tên: Xe thổ mộ, xe

giàn, xe kiếng; nhà giàu có xe mây, xe song mã là sang lắm… Bên cạnh đó có xe

kéo, xe bò.

Thời 9 năm đánh Tây ở chiến khu Đ dùng ngựa để liên lạc, đây là phƣơng

tiện giao thông thuận lợi.

Bờ sông xanh chiều hôm nay buộc ngựa,

Kiếm gối đầu, theo gió thả hồn cao.

(Huỳnh Văn Nghệ)

IV. CÁC NGÀNH NGHỀ THỦ CÔNG Ở CÙ LAO PHỐ

Dƣới thời Trấn Biên Hòa có câu phƣơng ngôn ghi đƣợc một số ngành nghề

nổi tiếng:

Nhứt gốm,

Nhì đường,

Tam bong,

Tứ đá

Câu phƣơng ngôn đến ngày hôm nay vẫn còn giá trị, và có nhiều ngành

phát triển hơn xƣa, đó là gốm, đƣờng, đá.

Trƣớc đó thời Trấn Biên, ở Cù Lao Phố đã có gốm Cù Lao Phố và đƣờng

Cù Lao Phố. Riêng đá lúc này khai thác đá ong, thì ngƣời thợ Cù Lao Phố sang bên

kia Rạch Cát đến thôn Bình Đa khai thác – nghề làm đá thu hút một số lao động ở

đây. Tên Bến Đá, phía Bình Đa, là nơi ghe thuyền đến mua đá chở đi khắp xứ Nam

Kì. Nghề này vẫn tiếp tục đến thời Trấn Biên Hòa, tỉnh Biên Hòa với tên đá Biên

Hòa. Đá này góp phần xây thành lũy sáu tỉnh thời nhà Nguyễn, và góp phần xây

dựng các công trình kiến trúc khác - cả ở đồng bằng sông Cửu Long.

Cũng lúc ấy, ở Cù Lao Phố nơi hội tụ nhiều ngành nghề khác: rèn, mộc,

đắp tƣợng, đóng ghe nhƣng nay nghề không còn, chỉ còn những công trình và di

tích.

Sau 1776, không còn một thời vàng son, sản xuất gốm vẫn tiếp tục, nghề

làm đƣờng và trồng bƣởi vẫn tồn tại đến thời Pháp thuộc. Những phần viết về

ngành nghề của Cù Lao Phố dƣới đây chỉ là bƣớc đầu tìm hiểu - trong số ngành

Page 60: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

60

nghề cũ đã bị mai một, nhẹ về kỹ thuật nhƣng cốt nói lên đƣợc nét đặc thù của Cù

Lao Phố vậy.

1. Nghề làm bột:

Con thơ tay ẵm tay bồng,

Tay dắt mẹ chồng đầu đội thúng bong

Trong 2 câu này, chữ bong (viết o chứ không phải là chữ ô) – nghĩa là gì?

Trong Đại Nam Quốc Âm Tự Vị giảng: “Bột bong: Vật tan nát: nếp gạo tan ra

nhƣ bụi”. Đó là tiếng cổ, bong tức là bột. Ở thành phố Biên Hòa, tại xã Tân Hạnh

có Rạch Lái Bong (các lái bán bột ngày xƣa) ở đây nổi tiếng về bột bánh tráng.

Bột ở xứ Gia Định xƣa có nhiều thứ, làm bằng gạo nếp, củ, trái v.v… Ở tại

Cù Lao Phố đến thế kỷ XIX đã có nhiều thứ bột:

Bột năng: Làm từ củ huỳnh tinh, nên cũng có tên bột huỳnh tinh. Đặc tính

là dẻo, đƣợc dùng pha chế với bột gạo, bột nếp để làm bánh mặn, bánh ngọt, nấu

chè, nƣớc sốt thế bột mì của Pháp.

Bột nƣa: Làm từ bột cây nƣa – họ khoai môn, tàu xanh, nhám có nhiều đốm

trắng.

Bột đoác: Làm từ cổ hũ cây đoác – loại họ cây dừa.

Bột lọc: Chỉ thứ bột làm từ gạo, tinh chế công phu.

Bột chuối: Làm từ trái chuối sứ, chuối chà, đây là bột dinh dƣỡng cho trẻ

em.

Bột hột mít: Làm từ hột mít, xƣa ở xóm Vƣờn Mít (thời nhà Nguyễn, ở gần

thành thuộc thôn Tân Lân) có sản xuất bột này, loại bột dinh dƣỡng cao cấp.

Bột đậu: Tiếng gọi các thứ bột bằng đậu các loại nhƣng chánh yếu là bột

đậu xanh.

Bột khoai: Làm từ củ khoai mì. Bột làm thành miếng cắt phơi khô để nấu

chè, nấu kiểm.

Bột sam: Làm từ củ khoai mì. Bột nấu rồi làm từng viên rời nhƣ trứng con

sam, nên cũng có tên gọi là bột báng, dùng để nấu chè, hay chƣng chuối sứ nƣớc

cốt dừa.

Bột mì: Làm từ cây lúa mì. Thời cảng thị Cù Lao Phố mở cửa, lúa mì do

Tàu Nhật đem tới bán, rồi sau mới có bột mì của Pháp.

Có bột cần có bột cái, bột nổi. Trong một số loài bánh đều cần có bột này.

Ðó là hai cách vẫn tồn tại ở Cù Lao Phố.

Dùng men rƣợu gầy. Kỹ thuật này các lò nấu rƣợi ít khi bán ra ngoài. Nên

thƣờng mua men ở ngoài thị trƣờng tuy kém phẩm chất hơn, cách làm ra: Hai thứ:

a. Men khô có thể bảo quản 6 tháng trong điều kiện bao bì kín, khô và nhiệt

độ thấp.

Page 61: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

61

b. Men ép có độ ẩm 38 – 45% trạng thái bảo quản trong nhiệt độ thấp.

Nếu không dùng men khô hay men ép thì dùng nƣớc cơm rƣợu, sữa chua

để gầy bột nổi. Hai cách này hiện nay vẫn còn tiếp tục ở Cù Lao Phố.

Một đặc điểm trong nghề làm bánh là bắt trùng. Chỉ bột gạo mới dùng

phƣơng pháp này, nếu không bột gạo lúc gói bánh bột không dính. Cách làm cũng

đơn giản: bột gạo pha nƣớc bắt lên bếp quấy với sức nóng vừa phải, đem xuống rồi

làm bánh khi hấp nó nhƣ ý muốn.

Từ bột đẻ ra các thứ bánh, cái nôi Cù Lao Phố mở rộng ra các nơi, với các

loại. Bột còn dùng làm bún.

Bún này là bún Cù Lao

Bún dây bún vắt, bún nào cũng ngon

Rồi thêm sản phẩm: Bánh hỏi, bánh nghệ, bánh tâm, bánh canh… thật là đa

dạng. Ngƣời Cù Lao Phố nhiều kiếng họ, nhiều đời sống bán các thứ bột nổi tiếng

về bánh trái. Hiện nay, sản phẩm bánh (bánh tét, bánh ít, bánh thuẩn, xôi vịt, cơm

rƣợi và bún các loại) của ngƣời Cù Lao Phố vẫn đƣợc các chợ quanh vùng đánh

giá cao.

2. Nghề làm đường:

Đi ngang lò mía thơm đường

Muốn vô kết nghĩa cang thường với em

Qua thƣ tịch cổ thì thế kỷ XVI, vùng Đàng Trong của chúa Nguyễn, theo

linh mục A–lếch–xăng–Đờ-Rốt thì ở Đàng Trong có bốn sản phẩm đứng đầu của

Nam Á: vàng, tơ, tiêu, đƣờng.

Theo Địa bạ Minh Mạng (1836) đất trồng mía ở Cù Lao Phố đã chiếm một

tỷ lệ quan trọng so với đất trồng dâu.

Trƣớc Cách mạng tháng Tám, tại Cù Lao Phố sản xuất nhiều loại đƣờng:

Đƣờng tán: Đƣờng đổ khuôn hình nhƣ nửa móng trâu, hay trái thận, dày

1cm, màu vàng.

Đƣờng thẻ: Đƣờng đổ trên đệm rồi vạch theo hình thẻ chữ nhựt và bẻ ra

từng miếng, mỏng hơn đƣờng tán, màu vàng sậm.

Đƣờng khạp: Đƣờng nấu tới không đổ ra khuôn mà đổ vào khạp để dự trữ,

hay vận chuyển đi xa. Lúc ăn, lấy dao nạo từ từ để dùng.

Đƣờng thao lao: Loại đƣờng vốn sản xuất ở xứ Thao Lao, phủ Phƣớc Tuy.

Đây dấu vết đƣờng Hạ xƣa: tròn tán nhƣ đƣờng thốt nốt, thơm ngon,

Đƣờng khay: Đƣờng nấu tới, đổ vào cái khuôn hình khay rƣợu, nên gọi tên

nhƣ vậy.

Đƣờng miếng: Đƣờng nấu đổ vô khuôn y nhƣ miếng gạch tàu nên lấy đó

gọi tên.

Page 62: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

62

Tất cả loại đƣờng trên gọi là đƣờng Hạ, loại đƣờng do ngƣời Hạ (hiểu là

Hạ Châu) làm ra.

Đƣờng cát: Đƣờng nấu tới, đổ vô muỗng sau lót giấy đổ nƣớc bùn, mật rút

xuống đít muỗng thành đƣờng cát. Theo thứ tự tốt xấu từ đáy muỗng tính lên:

a. Đƣờng cát đen hay đƣờng Bạch ba, tức loại đƣờng còn nhiều mật màu

vàng sẫm.

b. Đƣờng cát mỡ gà hay đƣờng Bạch hai, tức đƣờng cát màu vàng nhƣ mỡ

gà, tức còn bí mật.

c. Đƣờng cát trắng hay đƣờng Bạch nhất, đƣờng thật trắng.

Đƣờng trở: Là đƣờng chế biến từ đƣờng cát thành loại đƣờng đặc biệt hay

cao cấp:

a. Đƣờng phổi: Có hình nhƣ lá phổi cắt ra, xốp, trắng tinh, để lâu không

mềm.

b. Đƣờng phèn: Tức đƣờng cục trong nhƣ cục phèn chua có màu ngà ngà

vàng.

Kỹ thuật làm đƣờng có nhiều từ không giải nghĩa không mấy ngƣời hôm

nay – trên đƣờng công nghiệp hóa – hiểu đƣợc.

Đoạn đƣờng: Dùng che để ép mía ra nƣớc mía.

Nấu đƣờng: Dùng nƣớc mía nấu ra thành “mật” gọi là chè, nƣớc chè hai,

chè ba.

Thí chè: Mía ép chảy xuống cái đồ đựng. Trong Nam gọi là thí chè, còn

Quảng Ngãi gọi là thúy. Một thí, hai thí là đơn vị đong đếm.

Chè hai: Nƣớc mía ép ra đem nấu trên chảo rồi đổ vô thùng lớn, đem nấu

lần thứ hai, gọi nƣớc ấy chè hai.

Muỗng: Nhƣ cái ảng nhƣng đít nhọn hình cái phễu, có lỗ dƣới đít để thoát

mật lúc làm đƣờng cát.

3. Nghề trồng dâu dệt lụa:

Cù Lao Phố ngày xƣa là xứ trồng dâu nuôi tằm dệt lụa. Đại Nam nhất

thống chí, mục Thổ sản tỉnh Biên Hòa có ghi: “Lụa, trừu: sản ở huyện Phƣớc

Chánh. Lãnh: sản ở huyện Phƣớc An, mềm dịu, láng bóng, đứng đầu trong nƣớc.”

Nhƣ vậy, Cù Lao Phố cũng đã góp phần cho sản phẩm thủ công của tỉnh

Biên Hòa, ít ra dƣới thời nhà Nguyễn. Trong 13 xã, thôn ở Cù Lao Phố lúc ấy có

đến 6 xã thôn sau đây có trồng dâu (tổng diện tích không rõ vì ghi gộp chung diện

tích mía, dâu): Bình Tự, Bình Xƣơng, Hƣng Phú, Tân Giám, Bình Hòa, Long

Quới.

Ngày nay, vƣờn dâu ở đây không còn, nhƣng ở hai thôn Tân Giám và Bình

Tự trƣớc Cách mạng tháng Tám còn nhiều nhà giữ khung dệt lụa, dệt vải. Xa hơn

Page 63: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

63

một con rạch, ở phƣờng Tân Mai còn tên xóm Vƣờn Dâu, chứng tỏ xƣa ở đây nghề

tằm tơ phát. Dâu lúc ấy có dâu sẻ (thứ nhỏ lá) và dâu Tàu (lớn lá).

Nghề dệt ở Cù Lao Phố sản xuất các mặt hàng nào, về tơ lụa khó tìm đƣợc

dấu vết để chứng minh tay nghề của địa phƣơng đạt trình độ nào.

4. Nghề dệt chiếu:

Lúc cảng thị Cù Lao Phố là thƣơng cảng sầm uất, có đủ thứ hàng thì xã

Hƣng Phú là làng nội địa lớn nhất, bán đủ thổ sản từ miền núi đến miền biển.

Riêng mặt hàng phục vụ cho tàu buôn và dân đi biển, đi sông có các loại chiếu,

đệm, buồm. Tên ngôi chợ ở Cù Lao Phố gọi là chợ Chiếu, không rõ có phải đã

xuất hiện từ thời đó hay không, chỉ thấy ghi trong Địa bạ thời Minh Mạng. Chiếu ở

chợ Chiếu, lớp ngƣời xƣa kể lại có nhiều loại, ít ra 12 loại:

Chiếu manh: Loại chiếu mỏng, xấu, giá rẻ hơn hết.

Chiếu nôi: Loại chiếu nhỏ khổ để cho con nít nằm trong nôi.

Chiếu bông, chiếu hoa: Loại chiếu dệt sợi lác nhuộm màu tạo ra hình dạng

bông hoa, chớ chƣa biết cách thức in bông hoa nhƣ đời sau.

Chiếu kế: Loại chiếu viền có kết vải màu.

Chiếu bạch đinh: Loại chiếu trắng xanh cũng gọi chiếu nhứt.

Chiếu du: Loại chiếu dệt kỹ trơn nhƣ mỡ (Huỳnh Tịnh Paulus Của giảng

nhƣ trên, còn Tự điển Khai trí Tiến Đức thì đó là loại chiếu dệt bằng tơ).

Chiếu ngà, chiếu tre: Chiếu dệt bằng tre là ngà, chẻ tƣớc từng sợi rồi kết lại

bằng sợi tơ.

Chiếu mây: Chiếu dệt bằng sợi song mây, chẻ ra chuốt nhỏ. Loại này ngày

trƣớc ở Phú Xuân tiêu thụ mạnh.

Chiếu lá: Chiếu dệt bằng lác (cói).

Chiếu liếp: Chiếu dệt kỹ, vật liệu là tre là ngà hay song mây.

Chiếu cỗ: Loại chiếu bông, khổ nhỏ, xếp lại đƣợc, cuốn tròn, thƣờng dùng

trải trên bộ ván để ăn cỗ.

Chiếu hồi văn: Loại chiếu bông, xem bề nào cũng đẹp, nhờ hoa văn liên

hoàn.

Vài điều cần nói thêm: Ngày xƣa có tục lệ, đám ma nhà giàu, kẻ quyền thế

thƣờng dùng chiếu trải đƣờng (một đoạn nào đó) vô đến mộ. Thời nhà Nguyễn, ở

thôn Phƣớc Lƣ (thị trấn: Dinh Trấn Biên và Trấn Biên Hòa ) có đám ma của Bà

Điền (Thiệu Trị năm thứ 6: 1848), vợ Trấn thủ Vĩnh Thanh Nguyễn Á Thát mất ở

Vĩnh Long đem về chôn ở quê nhà. Từ bến đò (dƣới Rạch Cát) đem lên chôn ở vị

trí hiện nay gọi là gò Bà Điền. Đoạn đƣờng này dài hơn 1 km trải chiếu cho đạo tỳ

khiêng quan tài có hò đƣa linh.

Vật liệu dệt chiếu thời đó nhiều lắm, từ Bến Gỗ lên đến Rạch Cát và vùng

lân cận có lác, bàng nhiều lắm. Đó chƣa kể đến các nơi đem đến bán.

Page 64: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

64

Có một loại chiếu lá buông mới đặc biệt, chiếu sợi nhỏ 5 ly trở lại, viền vải

điều. Nằm mát nhẹ hơn hết. Xƣa nhà ông bà cố chúng tôi ở làng Bình Thảo (Bến

Cá) có dùng không rõ nơi sản xuất là ở đâu? Có lẽ ở huyện Long Thành (nơi nổi

tiếng đệm buồm, nón lá…) làm ra chăng và ở chợ Chiếu có sản phẩm này chăng?

5. Nghề đúc:

Trƣớc Cách mạng tháng Tám, ở quận Châu Thành, Biên Hòa (nay một

phần lớn thuộc thành phố Biên Hò ) có hai lò đúc chuông ở ấp Thành Hƣng, thuộc

Cù Lao Phố: lò Khƣơng Văn Một và lò Hai Thẩm. Các lò này nổi tiếng và tồn tại

rất lâu. Mỗi lò có thƣờng trực 2 đến 3 thợ chánh, lúc đông lên đến 10 ngƣời phụ

việc.

Những cái chuông đồng ở lò này hiện ở đâu? Hầu hết chuông tân tạo thời

Pháp thuộc đƣợc các chùa lớn trong tỉnh đặt hàng và nhiều nơi khác không phải ít.

Nhƣng con số làm ra không rõ bao nhiêu.

Lò đúc chuông ở đây có một lợi thế là ngƣời thợ làm sản phẩm có gốc xuất

thân từ Trƣờng Bá nghệ Biên Hòa (tiền thân Trƣờng Mỹ thuật trang trí Đồng Nai ).

Trƣờng này từ năm 1907 – 1945 đã đào tạo bao nhiêu thợ trung cấp về gốm và

đồng mà sản phẩm làm ra đƣợc toàn Ðông Dƣơng biết tiếng và qua các kỳ triển

lãm hội chợ về tiểu công nghệ ở Pháp, ở Nhật, ở Vọng Các v.v… nhứt là đồ đồng

và gốm.

Ngƣời thợ đồng của Trƣờng Bá nghệ có một phần đóng góp công sức tạo

mẫu và kỹ thuật đúc. Lò đúc ở ấp Thành Hƣng tồn tại và nổi danh một thời. Mùa

thu năm 1945, ngƣời thợ lò đúc chuông “nóp với giáo mang ngang vai” đi kháng

chiến vào chiến khu góp phần chế tạo vũ khí ở binh công xƣởng… Bên cạnh các

anh em công nhân Trƣờng Bá nghệ, hãng máy cƣa Tân Mai, sở Trƣờng Tiền v.v…

Sản phẩm của hai lò đúc chuông không chỉ làm ra vẻ chuông, ngoài ra có

những sản phẩm khác nhƣng không nhiều: một số tƣợng Phật, đồ pháp khí khác.

Sau ngày giải phóng, có một nhóm tƣ nhân đƣợc chính quyền địa phƣơng

hỗ trợ đã tiến hành lập tổ hợp sản xuất đồ đồng … chỉ tồn tại một thời gian vì thiếu

thị trƣờng. Đây là tình trạng chung. Ngay trƣờng Mỹ thuật trang trí Đồng Nai cũng

có lần phục hồi ngành đồng truyền thống vẫn không thành, vì nhiều lý do khách

quan và chủ quan… Trong tƣơng lai có thể trƣờng phục hồi đƣợc ngành này, thì

việc sản xuất đồ đồng ở Cù Lao Phố mới triển vọng.

6. Nghề làm đồ gốm:

Mượn nồi không trả, đòi lại trách

Bể ấm, đền siêu, cãi lộn om

Câu đối dán tại một lò gốm ở Biên Hòa ngày trƣớc, trên đây đã chỉ ra 3 loại

sản phẩm gốm có nguồn gốc khác nhau đã có mặt ở Biên Hòa: nồi và ấm của

ngƣời Việt, trả, trách, om gốc của ngƣời Chăm và siêu của ngƣời Hoa. Vào buổi

đầu khẩn hoang, việc sản xuất đồ gốm ở Cù Lao Phố nhƣ thế nào là vấn đề mà tài

liệu thƣ tịch Hán Nôm không ghi lại. Theo những gì còn tồn tại ở Cù Lao Phố,

Page 65: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

65

chúng ta đã thấy gốm đã đƣợc sản xuất ở bờ rạch Lò Gốm và đƣợc vận chuyển đi

các nơi từ bến Miểng Sành. Căn cứ vào các mảnh vỡ nay còn tồn tại một khối

lƣợng lớn ở hai địa điểm nói trên, chúng ta thấy ở đây đã sản xuất các loại lu và

khạp loại trung, ghè loại nhỏ - đặc biệt là loại ghè ống và tiểu sành thuộc loại gốm

da đá, tức nung ở độ nung cao, gần nhƣ ôn độ lò lu hiện nay. Xét về hình dáng các

chủng loại và đa dạng văn hóa lƣợc chải hình sóng cho phép chúng ta đoán định đó

là gốm có nguồn gốc từ Trung bộ. Đây là di tích gốm Trung bộ ở Nam bộ.

Năm 1679, nhóm ngƣời Hoa đến lập nghiệp ở đây có xây một lò sản

xuất đồ gốm hay không là một câu hỏi chƣa có cứ liệu xác thực để trả lời. Mặc dù

công nghệ gốm của ngƣời Hoa nửa cuối thế kỷ XIX đóng vai trò quan trọng ở Biên

Hòa và Lái Thiêu, Thủ Dầu Một. Một giả định có thể chấp nhận đƣợc là nhóm

ngƣời Hoa gốc Quảng Ðông theo Trần Thƣợng Xuyên đến Cù Lao Phố lập lò sản

xuất đồ gốm: gạch, ngói, lu, vại… nhƣng sau biến cố 1776, họ đã rời bỏ nơi này để

về Sài Gòn (hiểu là Chợ Lớn ngày nay) để sinh sống, một số đã lập lò sản xuất

gốm ở xóm Lò Gốm (Phú Lâm – thành phố Hồ Chí Minh ). Họ sản xuất đồ gia

dụng, gạch, ngói, và các sản phẩm thuộc loại “công nghệ miếu vũ” (tƣợng thờ, tiểu

tƣợng và sản phẩm tạo hình để trang trí các kiến trúc tôn giáo – tín ngƣỡng) – đƣợc

gọi chung là gốm Cây Mai. Rồi cuối thế kỷ XIX, vì vùng Phú Lâm cạn đất nguyên

liệu, các lò gốm ở đây rời về lại Biên Hòa, Lái Thiêu, Thủ Dầu Một. Lúc này,

ngoài thợ gốm Minh Hƣơng còn có một số lƣợng đông đảo thợ gốm Hoa kiều mới

nhập cƣ Quảng, Hẹ, Triều Châu, Phƣớc Kiến. Họ đã xây lò sản xuất gốm làm cho

Biên Hòa, Thủ Dầu Một và Lái Thiêu thành các xứ sản xuất gốm phát triển ở Nam

kỳ. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Cù Lao Phố chỉ có vài lò gạch, gốm gia dụng

và mỹ thuật nằm ở ngoài địa bàn Cù Lao Phố.

Đầu thế kỷ này, Trƣờng Bá nghệ Biên Hòa có mở khóa Gốm. Một số

thanh niên ở Cù Lao Phố theo học và tốt nghiệp thành những nghệ nhân gốm có

tiếng tăm: Nguyễn Văn Sáu (Sáu U), Đào Văn Lƣơng, Nguyễn Văn Sảnh, Nguyễn

Văn Lào… Mặc dù có đội ngũ nghệ nhân có trình độ, nhƣng Cù Lao Phố đã không

còn những điều kiện thuận lợi để lập lò sản xuất gốm nhƣ trƣớc, nên ở địa bàn này

không thành lập một lò gốm nào để sản xuất đồ gốm nhất là gốm nghệ thuật. Các

nghệ nhân quê quán ở đây phải hành nghề cho các lò nơi khác. Họ trở về quê đắp

một vài pho tƣợng Phật (chùa Phƣớc Long), góp phần trang trí ngoại thất cho một

hai ngôi đình, chùa và những sản phẩm do họ tạo tác mƣời món chỉ còn lƣu giữ vài

món ở gia đình nhƣ những kỷ vật nghề nghiệp. Chính vì vậy mà ngày nay, chúng

ta gặp khó khăn tìm hiểu về thành tựu của họ.

VII. HOẠT ÐỘNG THƢƠNG NGHIỆP

“Nông Nại Ðại Phố ở đầu phía tây Cù Lao Ðại Phố lúc đầu khai thác, kiến

thiết phố xá, mái ngói tƣờng vôi, lầu cao quán rộng, dọc theo bờ sông liền lạc tới

năm dặm. Chia vạch làm 3 đƣờng phố: Ðƣờng phố lớn lót đá trắng, đƣờng phố

ngang lót đá ong, đƣờng phố nhỏ lót đá xanh. Ðƣờng rộng bằng phẳng.

Kẻ buôn tụ tập, ghe thuyền lớn ở biển và ở sông đều đậu neo liên tiếp nhau,

ấy là một chỗ đại đô hội. Những nhà buôn bán lớn, duy ở đây là nhiều hơn.

Page 66: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

66

Xƣa nay, thuyền buôn đến đây hạ neo xong khách lên bờ thuê phố ở, rồi

đến nhà chủ vựa kê khai hàng hóa vừa cất lên. Chủ vựa mua hàng định giá mua

bao tất cả hàng hóa tốt xấu, không bỏ sót lại thứ gì. Đến ngày trƣơng buồm trở về

Tàu, gọi là hồi đƣờng, chủ thuyền có yêu cầu mua giúp vật gì, thì chủ vựa cũng

chiều ý ƣớc đón mua giùm cho đến trƣớc kỳ giao hẹn. Hai bên chủ khách tính hóa

đơn thanh toán, rồi cùng nhau đàn ca vui chơi, đã đƣợc nƣớc ngọt tắm rửa sạch sẽ

lại không lo trùng hà ăn thủng ván thuyền, khi trở về chở đầy thứ hàng khác rất

thuận lợi”.

Tình hình phát triển thịnh mậu của Cù Lao Phố đƣợc tác giả Gia Ðịnh

thành thông chí miêu tả trong đoạn trích dẫn trên đây là vào thế kỷ XVIII – giai

đoạn trƣớc 1747, khi Lý Văn Quang khởi loạn. Hoạt động thƣơng mại của Cù Lao

Phố trong giai đoạn này nhƣ vậy gồm 2 việc: nhập hàng hóa, “mua bao tất cả

những hàng hóa tốt xấu, không bỏ sót thứ gì” để bán ra khắp xứ từ miệt dƣới Mỗi

Xuy, Nhà Bè bao gồm cả các địa phƣơng thuộc huyện Tân Bình (hiểu là địa phận

thành phố Hồ Chí Minh ngày nay), lên miệt trên bao gồm cả hữu ngạn và tả ngạn

sông Đồng Nai, vùng trung lƣu thậm chí bán ra cho các man sách, các dân tộc ít

ngƣời ở thƣợng nguồn sông Đồng Nai.

Công việc thứ hai của hoạt động thƣơng mãi Cù Lao Phố là thu gom hàng

hóa để cung cấp cho thị trƣờng. Họ mua những gì, ở đâu thì các thƣ tịch cổ không

đề cập cụ thể. Tuy nhiên, qua những ghi chép trong Phủ Biên tạp lục và sau đó,

trong Gia Ðịnh thành thông chí chúng ta có thể phác họa ra đôi nét lớn.

Thứ nhất, theo lời của Trùm Chân trong Phủ Biên tạp lục thì họ thu mua

lúa gạo từ các nơi.

Thứ hai, các thuyền buôn nhất là thuyền buôn Ðồ Bà (Java) mua cau, các

loại dƣợc thảo, lâm sản, măng khô, ngà voi, sừng tê giác, da tê giác, gân nai, da rái,

thịt voi khô, da trâu… Ðó là các “thổ sản linh tinh”mà tác giả Gia Ðịnh thành

thông chí có liệt kê ra (tập hạ trang 42 - 47).

Thứ ba, ghe thuyền thƣơng buôn trong xứ ta và nƣớc ngoài có thể mua các

thứ mà ở Đồng Nai sản xuất nhiều nhƣ đƣờng, sắt, đá ong, lãnh, là, vải, lụa (lăng,

la, bố, bạch)(12).

Các thƣơng lái đi thu mua từng địa phƣơng hoặc các tụ điểm rải rác

đây đó đƣợc hình thành. Ở thƣợng nguồn có trƣờng giao dịch ở miệt thác Trị An,

rồi chợ Cá (Bình Thảo), chợ Băng Bột (ở tổng Bình Chánh)… Miệt dƣới có chợ

Bà Lị (Long Thành xƣa) hay chợ Bình Quý (ở huyện Bình An) và các quán Bình

Ðằng, Bình Ðán… Ðó là các chợ, quán mà tác giả Gia Ðịnh thành thông chí vào

hồi đầu thế kỷ XIX, nhƣng chắc chắn là đã hình thành trƣớc đó mà giả định là sau

cái mốc 1698 – tức vào thế kỷ XVIII.

12 Trịnh Hoài Ðức – sđd, tập hạ, có chép: 1) Huyện Phước Chánh Biên Hòa sản xuất đường cát, đường phổi,

đường phèn, mỗi năm bán hơn 600.000 cân cho các thương thuyền (trang 39); 2) Ở Long Thành Thiết trường lãnh

trưng đào, nẫu sắt (trang 39) 3)Ở Trấn Biên Hòa khai thác đá ong dùng xây vách tường, sân hè, bờ kè sông, mộ

(trang 40). 4) Lăng, la, bố, bạch ở đâu cũng có; duy ở Phước An Biên Hòa có thứ lãnh đen, mền láng là tốt đệ nhất

trong cả nước (trang 42)”v.v…

Page 67: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

67

Ở Cù Lao Phố có các chợ khác nhƣ ở xóm Bến Lò Gốm, chợ Chiếu. Có lẽ

đây là chợ nhỏ. Chợ Chiếu thấy có ghi trong Ðịa bạ Minh Mạng và theo tên gọi có

lẽ đây là chợ chuyên doanh các sản phẩm làm bằng cói, bàng và lá buông: chiếu,

đệm, bao cà ròn đựng muối, buồm ghe, quạt đệm, nón lá, và nếu có thêm là đồ đan

bằng mây tre. Đây là chợ “đầu mối” vì Cù Lao Phố không có nghề dệt chiếu phát

đạt và cũng không có ruộng cói để cung ứng nguyên liệu cho nghề thủ công này.

Chợ ở rạch Lò Gốm có lẽ là chợ bến, nơi ghe xuồng đến mua lu, hũ, trả, trách mà

ngày nay quanh đó và ở bến Miểng Sành còn lƣu lại nhiều dấu tích của gạch xây lò

và các mảnh vỡ.

Chúng ta không thể khẳng định chắc niên đại của các chợ này là các chợ

của thời Cù Lao Phố phát đạt; tuy nhiên, đƣa ra đây để làm ví dụ về mạng lƣới

chợ, quán lớn nhỏ mà chắc chắn tác giả Gia Ðịnh thành thông chí không sao ghi

chép đầy đủ đƣợc. Nói cách khác, có một hệ thống chợ quán tồn tại đáp ứng nhu

cầu trao đổi của các thôn làng, các địa phƣơng và cũng là nơi tiêu thụ và tập trung

hàng hóa, nông lâm sản cho trung tâm thƣơng mại Nông Nại Ðại Phố.

Việc buôn bán ở Cù Lao Phố suy yếu dần từ sau cuộc khởi loạn của Lý

Văn Quang, đặc biệt là cuộc tàn phá có tính chất triệt hạ Cù Lao Phố mà có lẽ Tây

Sơn coi là cơ sở hậu cần quan trọng của Nguyễn Ánh vào năm 1776, song trong

Phủ Biên tạp lục (viết năm 1776), theo lời của Trùm Chân, ngƣời đã từng buôn bán

10 chuyến ở phủ Gia Định thì: “… Đến xứ Vũng Tàu, ở đầu cõi Gia Định là chỗ

hải đảo. Có dân cƣ hạ buồm đậu lại, hỏi thăm nơi nào đƣợc mùa, nơi nào mất mùa

mới đến. Trên thì có cửa biển Cần Giờ, ở giữa thì vào cửa Soài Rạp, dƣới thì vào

cửa Đại, cửa Tiểu…” (chúng tôi nhấn mạnh - HNT). Đoạn trích trên chỉ ra rằng

giới thƣơng buôn vào những năm trƣớc 1776, năm mà Cù Lao Phố bị triệt hạ, đã

có nhiều chỗ để đến mua thóc (và buôn bán) cả miệt trên, miệt giữa và miệt dƣới

chứ không phải chỉ mỗi ở xứ Đồng Nai nhƣ buổi đầu khai hoang. Nói cách khác,

Nông Nại Đại Phố là xứ đô hội đƣợc hình thành và phát triển và tàn lụi là do tiến

trình khai hoang lập nghiệp ở vùng đất phƣơng Nam quyết định.

Page 68: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

68

CHƯƠNG II

CÁC ĐẶC ĐIỂM LỊCH SỬ XÃ HỘI CÙ LAO PHỐ

Cù Lao Phố là vùng đất có nhiều thôn làng đƣợc khai thác sớm và nhanh

chóng đón nhận các luồng dân cƣ khác nhau để phát triển thành một trung tâm

thƣơng mại, một đại phố, để rồi trở thành một điểm nóng của những xung đột

quyền lực và chiến tranh… Do vậy, đặc điểm lịch sử xã hội của Cù Lao Phố là sự

biến đổi liên tục, trong đó có những đứt gãy đột xuất mà mọi nỗ lực nối kết lại để

tìm hiểu tiến trình của từng vấn đề là điều nan giải. Đặc điểm này, biểu hiện trên

hầu hết các vấn đề từ thân tộc đến thôn xã, từ chế độ thuế khóa đến chế độ sở hữu

ruộng đất.

I. THÂN TỘC VÀ THÔN XÓM

1) Ở Cù Lao Phố số kiếng họ chánh yếu của ngƣời Việt, qua kết quả điều

tra, các họ Phan, Trần, Đặng, Võ, Đỗ… chỉ xuất hiện lối 200 năm nay. Nhiều

kiếng họ có nhà có vƣờn, có mồ mả ông bà chôn chung trong đất ấy, hỏi ra đó là

mộ ông nội, bà nội; còn ông cố, ông sơ hay mộ ông Tổ… thì chẳng có ai. Nhƣ vậy,

vì có nhiều biến cố lịch sử, nên nhiều kiếng họ phải ra đi tìm đất mới. Trên mảnh

đất này có nhiều biến chuyển lớn của lịch sử.

Năm 1747 có cuộc bạo loạn của thƣơng gia ngƣời Hoa: Lý Văn Quang, nên

nhiều gia đình phải bỏ đi vì có liên hệ hay liên quan – trong đó ngƣời Hoa nhiều

nhất.

Năm 1776, khi nghĩa quân Tây Sơn vào xứ Gia Định lần đầu diệt chúa

Nguyễn, chiến cuộc nổ ra ở dinh Trấn Biên và Cảng thị Cù Lao Phố. Ngƣời dân

Cù Lao Phố phải di tản đi nơi khác.

Từ năm 1776 tới 1785 chiến sự diễn ra cả xứ Gia Định, Trấn Biên nhiều

lần đổi chủ nên dinh Trấn Biên không còn nguyên vẹn, dân chúng xa lánh đi tứ

tán.

Năm 1833 – 1834 cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi, đất Biên Hòa hai lần đổi

chủ….

Năm 1861, quân Pháp và Tây Ban Nha đánh lên chiếm thành Biên Hòa.

Nhân dân 13 làng xã ở Cù Lao Phố đi theo tiếng gọi của non sông, nhiều làng

không còn ngƣời ở lại…

Page 69: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

69

Đó là những nguyên nhân làm cho cộng đồng dân cƣ bị xáo trộn, đứt

quãng.

Ở ấp Bình Tự (xứ Xóm Chùa, thôn Bình Tự) có 4 kiếng họ lớn: Lê,

Trƣơng, Huỳnh và Nguyễn.

… Họ Nguyễn truyền đƣợc 5 đời, thông gia với họ Lê, lúc gả con gái có

hồi môn ruộng đất. Kiếng họ này còn mộ của ông bà: Mộ xây ô dƣớc, đá ong, đặc

biệt mộ có lợp ngói để che mƣa nắng, mộ song hồn có bình phong có hình con nai

… Trụ mộ có hoa văn của dây lá, bia không còn đọc đƣợc vì khắc trên ô dƣớc.

Theo truyền thuyết có chôn bốn ngƣời Mọi ở bốn góc. Niên đại ƣớc tính: sớm nhất

là đời Gia Long.

… Họ Lê truyền đƣợc 6 đời, chuyên sống về nghề nông. Ông Lê Văn Định

làm xã trƣởng (giai đoạn đầu Pháp thuộc), ông kêu gọi dân xã Nhứt Hòa đóng góp

để trùng tu đình Bình Tự và chùa Phƣớc Hội. Ông cúng hậu cho đình 7 ha và chùa

6 ha.

Ở ấp Hƣng Phú (xứ chợ Chiếu, thôn Hƣng Phú) có kiếng họ Nguyễn truyền

6 đời. Ông cha sống nghề Đông y. Theo lời ông Nguyễn Duy Kỳ thì ông cố đã làm

thầy thuốc, ông nội là lính nhà Nguyễn. Cha là Nguyễn Văn Có, là thầy thuốc cuối

cùng của kiếng họ, chết năm 1913, lúc 50 tuổi.

Ở ấp Tân Mỹ (thôn Tân Mỹ) tại đây còn con cháu ngƣời Hoa (Minh

Hƣơng) đã lai mấy đời. Chƣa có cứ liệu chứng minh là lớp ngƣời Hoa thời Trần

Thƣợng Xuyên (cuối thế kỷ XVII) còn tồn tại ở Cù Lao Phố đến ngày nay. Dƣới

đây các kiếng họ Minh Hƣơng (có thể cha Tiều mẹ Việt, cha Quảng mẹ Việt).

Kiếng họ Bì: Bì Văn Lâu tự nhận ông cha là ngƣời Hoa lấy vợ Việt. Ông

cố Bì Hữu Lành thời Tự Đức làm cai tổng (tổng Phƣớc Vinh) có giấy khen việc

đào kinh Vĩnh Tế (?). Ông nội là Bì Văn Nhu, cha là Bì Văn Quí là thƣơng nhân đi

buôn gạo ra Huế.

Kiếng họ Tống Đình cũng vậy. Họ này đến đời Tống Đình Dục là tuyệt tự,

vợ là ngƣời họ Nguyễn mới xin đứa cháu là Nguyễn Hữu Chí về làm con tức Tống

Đình Huê.

Đó là hai kiếng họ Minh Hƣơng, ngoài ra ở đây còn kiếng họ Nguyễn Hữu:

Kiếng họ Nguyễn Hữu là kiếng họ lớn, nghề thầy đồ dạy học. Hai họ

Nguyễn Hữu và Tống Đình là sui gia.

Kiếng họ Trƣơng, truyền 5 đời. Ông Trƣơng Văn Sáu sống cùng thời với

ông Lê Văn Định và Lê Văn Ba, Lê Văn Lung.

Kiếng họ Huỳnh truyền 5 đời, thành phần nông dân, rồi chuyển thành

thƣơng nhân, có ghe đi khắp Lục tỉnh.

Nhƣ vậy các kiếng họ xƣa nhất ở Cù Lao Phố là gần đây, còn các kiếng họ

cũ thời dinh Trấn Biên đều ly tán các nơi.

Page 70: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

70

Bên cạnh các kiếng họ vừa kể trên và các kiếng họ lớn (sẽ nói sau, cũng

không còn con cháu) có thêm các kiếng họ mới, lúc giao thời Pháp thuộc, cuối thế

kỷ XIX nhƣ họ Đào ở ấp Tân Giám. Ông Đào Hạnh Thông gốc từ miệt trên Bình

Sơn đến đây lập nghiệp, ngƣời có xe đò đƣa hành khách Sài Gòn – Biên Hòa sớm

nhứt tỉnh. Con là Đào Hạnh Nhơn, kinh lý, nhân sĩ yêu nƣớc chống Pháp, chống

Mĩ…

Nói chung các dòng họ khác hiện ở Cù Lao Phố chỉ hai ba đời là chiếm đa

số. Các tộc họ thời khai hoang, thời Nông Nại Đại Phố đều không thấy.

2) Ngƣời Hoa ở Cù Lao Phố ban sơ là gia đình và binh của Trần Thƣợng

Xuyên và Trần An Bình tức lực lƣợng Cao – Lôi – Liêm là chánh. Lực lƣợng này

có mặt từ năm 1679. Nhƣng sau đó có thêm ngƣời Phƣớc Kiến, trong đó có kiếng

họ bên nội và bên ngoại Trịnh Hoài Đức. Và năm 1747 có thêm cánh họ Lý, nhƣng

cánh này sau cuộc nổi loạn năm 1747 thì không còn tồn tại, bị trục xuất hay trốn

thoát khỏi Cù Lao Phố.

Hiện ở Cù Lao Phố có một số Minh Hƣơng (cha Quảng Đông, Phƣớc Kiến,

Triều Châu, mẹ ngƣời Việt) nhƣng họ cũng là lớp sau, chớ chƣa phải lớp đầu năm

1679. Tại làng Bình Trƣớc (tỉnh lỵ Biên Hòa ) dƣới thời Pháp thuộc có một số

ngƣời Hoa, ngƣời Minh Hƣơng cũng là lớp ngƣời Hoa nhập cƣ cuối thế kỷ XIX.

Năm 1679 gia đình và binh sĩ thuộc lực lƣợng Trần Thƣợng Xuyên và Trần

An Bình đƣợc chúa Nguyễn cho tị nạn chánh trị và lập nghiệp ở Cù Lao – nơi đó

đã có con cháu các vua Hùng dựng các xóm ít ra một thế hệ:

Xóm Chùa, sau này thôn Bình Tự.

Xóm Chợ Chiếu, sau này thôn Hƣng Phú.

Xóm Rạch Lò Gốm, sau này thôn Hòa Quới và vùng lân cận xóm Rạch Cát

(sau này thôn Phƣớc Lƣ).

Xóm Bà Lồi (tức Bà Lồ sau này là thôn Tân Vạn).

Xom Suối Cốc (sau này là phƣờng Bình Trƣớc).

Xóm Chợ Lò (sau này thôn Bình Tiên).

Họ ở nhiều nơi, bên cạnh ngƣời Kinh, nhƣng nhiều nhứt là khu vực quanh

chùa Ông/ Miếu Quan Đế, nơi đó có các Hội quán của họ: Hội quán Phúc Châu và

hội quán Quảng Đông.

Từ năm 1679 đến 1732 gia đình kiếng họ của Trần Thƣợng Xuyên, em

Trần An Bình, con Trần Đại Định, cháu Trần Thạnh là gia tộc lớn.

Từ năm 1684 đến 1776 là kiếng họ Trịnh và họ Lâm (tức bên nội và ngoại

Trịnh Hoài Đức ). Kiếng họ này đến sau:

Họ Trịnh từ xã Minh Hƣơng, Thuận Hòa vào khoảng năm 1684, hay trƣớc

một ít. Năm này, điện Quan đế mới cất, ngƣời đóng góp công của lập miếu có tên

Trịnh Hội (ông nội Trịnh Hoài Đức).

Page 71: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

71

Họ Lâm, Lâm Tổ Quan cũng là dân xã Minh Hƣơng Thuận Hóa. Thời chúa

Nguyễn Phúc Khoát (1738 -1765) ông còn ở tại Huế. Nên mới vô Cù Lao Phố có

lẽ sau cuộc nổi loạn của Lý Văn Quang.

Hai kiếng họ này, đến năm 1776, không còn ở Cù Lao Phố, mà chạy về

dinh Phiên Trấn làm dân xã Minh Hƣơng, Trịnh Hoài Đức từ đó sinh sống và làm

quan ở Phiên An, ở Định Tƣờng…

Năm 1747, Lý Văn Quang cùng một “đại gia” có uy thế trong giới thƣơng

nhân và chánh quyền ở Trấn Biên… Không biết kiếng họ này nhƣ thế nào khi bè

đảng làm bạo loạn bị dẫn độ về Trung Quốc.

Nói chung, qua tài liệu điều tra thực tế và tài liệu thƣ tịch về các giòng họ

quan lại và giàu có ở Cù Lao Phố, rất dễ nhận thấy rằng khả năng các dòng họ cƣ

trú ở đây từ thế kỷ XVII, XVIII phát triển thành một đại tộc đông đúc, cƣ trú ở đây

nhiều đời là hầu nhƣ không thấy xảy ra. Điều này giải thích sự thiếu vắng các tộc

họ 7, 8 đời ở Cù Lao Phố. Những biến động chính trị kéo theo sự di dời dân cƣ và

hội nhập các nguồn dân cƣ mới khiến cho quan niệm về tông tộc, sự phân biệt đại

tộc và tiểu tộc không rõ rệt. Một số cá tộc họ đƣợc coi là lớn ở Cù Lao Phố, đa

phần đến trụ ở đây từ thế kỷ XIX.

Tộc họ Nguyễn (ông Tổng Thi): ông tổ (Nguyễn Thanh) là ngƣời đƣợc coi

là ngƣời khai phá khu vực này thuộc Tam Hòa vào khoảng 1810.

Tộc họ Tống Đình: Khoảng 1855.

Tộc họ Nguyễn (Nhứt Hòa): Khoảng 1859.

Tộc họ Trƣơng (Bình Tự): Khoảng 1868.

Tộc họ Lê (Bình Tự): Khoảng 1865.

Tộc họ Đinh (Tam Hòa ): Khoảng 1861.

Qua phỏng vấn các tộc trƣởng hiện coi giữ các từ đƣờng thì cây gia phả

mới đƣợc lập trong những năm gần đây, tức sự ý thức về dòng họ cũng có phần nề

nếp và cố kết dòng họ đƣợc hình thành nhƣ một nỗ lực phục hồi truyền thống.

Trong thực tế, dòng họ không đảm bảo giá trị tinh thần có các thành viên

của nó, tất nhiên, trong cảm thức thì coi anh A chị B là thuộc dòng họ này dòng họ

nọ nên đáng hay không đƣợc coi trọng. Sự tôn trọng hay không tùy thuộc vào đạo

đức, gia thế và địa vị xã hội của một ngƣời nổi bật nào đó trong dòng họ vào thời

cận đại hơn là bắt nguồn từ một truyền thống gia phong lâu đời.

Tập tục cúng giỗ, ngay cả các tộc đƣợc coi là lớn ở Cù Lao Phố cũng chỉ

đến đời thứ ba. Việc tế tự không thấy rõ vai trò của trƣởng nam mà có nhiều

trƣờng hợp lại là con, cháu gái. Dòng họ tụ tập ấm cúng chủ yếu vào giỗ ông nội

của thế hệ Ego (tôi) đƣơng thời và lễ tảo mộ, chạp mả (vào tháng chạp) và ngày

Tết. Cơ sở kinh tế để duy trì các hình thức tụ hợp của cộng đồng dòng họ là ruộng

hƣơng hỏa hoặc ngƣời trong tộc họ đóng góp.

Page 72: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

72

Cù Lao Phố, nay là xã Hiệp Hòa, hay trƣớc kia là ba xã Nhất Hòa, Nhị

Hòa, Tam Hòa, thì đó là một xã nhiều thôn. Thôn (sau này thành ấp, khóm) là một

cố kết khá bền vững. Mặc dù các cấp hành chính thay đổi, thôn ở Cù Lao Phố là

một cộng đồng dân cƣ có lịch sử chung, có thể chế văn hóa – tín ngƣỡng riêng và

cơ cấu xã hội là tập hợp các tộc họ. Ở đây có tộc họ lớn mà uy tín đƣợc coi trọng.

Chính vì vậy, ở Cù Lao Phố có ngƣời giàu có đã cúng vào đình một số ruộng nhƣ

để mua hậu, nhƣng trƣớc hết tỏ rõ hằng tâm của mình với thôn làng (xem phần

sau). Một số ngƣời góp công và tài năng của mình vào việc xây dựng đình, hay tạc

tƣợng ở chùa làng (trƣờng hợp đình Bình Hòa và chùa Phƣớc Long). Nói cách

khác sự gắn bó của ngƣời dân, mà trƣớc hết với tƣ cách là thành viên của một tộc

họ, đối với thôn xóm biểu hiện rõ rệt hơn là đối với xã. Thôn bảo lƣu tính chất tự

trị đối với nhà nƣớc cũng nhƣ lệ tục riêng của nó khá bền vững. Các tộc họ lớn có

ảnh hƣởng đến cơ cấu quyền lực là ở cấp này sau đó mới đến xã. Là một xã ven

thành thị, ngƣời dân Cù Lao Phố ngoài nghề nông còn có một bộ phận đi làm các

nghề thủ công, hay công nhân, viên chức ở Biên Hòa và vùng kế cận. Xƣa ở đây có

lò gạch, lò đúc đồng, song chỉ là những xƣởng thủ công mà số lƣợng công nhân ít

ỏi nên không có tổ chức phƣờng hội. Tổ chức bán chính thức là hội miễu (đình),

ban trợ táng (hồi ấp), ban hộ niệm (chùa) là tổ chức tƣơng tế và đồng đạo có tính

chất văn hóa – xá hội. Họ liên kết lại vì yêu cầu thực tế của thôn xóm cũng nhƣ

nhu cầu tình cảm và tín ngƣỡng.

II. SỰ HÌNH THÀNH VÀ BIẾN ÐỔI CHẾ ÐỘ HÀNH CHÍNH

1) Sự hình thành thôn xóm vào buổi đầu khẩn hoang:

Từ 1698 về trƣớc, xứ Cù Lao Phố là vùng đất bỏ ngõ của “xứ Bra Kanđa”

thấy ghi trên minh văn của tấm bối quang trên tƣợng Visnu ở chùa Bửu Sơn, đang

tàn lụi mà có lẽ đây đó là các tộc ngƣời Mạ, Châu – ro, Xtiêng, Tà Mun …rải rác

và thƣa thớt. Con cháu các vua Hùng trên đƣờng đi khai hoang, đến xứ Rí – Rang

rồi đến Nai – Rịa để lập nghiệp.

Trên những cù lao trên sông Đồng Nai – nhứt là ở trung nguồn có 4 cù lao:

tính từ trên trở xuống có cù lao Bạch Ðằng, cù lao Thạch Hội, cù lao Tân Triều và

cù lao Phố, và các vùng đất liền, các thế hệ tiền phong đã đến trú chân, khai hoang.

Các xóm mà tên còn bảo lƣu đến nay nhƣ xóm Chùa, xóm Chợ Chiếu, xóm Rạch

Lò Gốm có lẽ là những xóm tiền thân các thôn làng của huyện Phƣớc Long thuộc

phủ Gia Định, rồi dinh Trấn Biên.

Những cƣ dân ấy lúc còn di dân tự do, hễ chọn chỗ nào đất lành chim đậu,

đất không lành thì bỏ đi. Tại Cù Lao Phố lúc ấy đã đông dân nên khi phủ Gia Định

rã đời các xóm trên có điều kiện thành thôn mới, và cũng đã có ít đình, chùa, chợ,

bến; nông nghiệp, tiểu – thủ công v.v… đã phát triển. Ngày nay đến các ấp: Bình

Tự (xƣa xóm Chùa, rồi thôn Bình Tự), Hƣng Phú (xƣa xóm Chợ Chiếu, rồi xã

Hƣng Phú) Hòa Quới (xƣa xóm Rạch Lò Gốm rồi thôn Hòa Quới) có đủ những cái

đã nói. Năm 1679, có thêm ngƣời Hoa, họ ở rải rác nơi nay gọi là ấp Tân Giám,

Tân Mĩ, Tân Hƣng, Hòa Quới, Bình Kính… góp nhân lực tài lực tạo ra trung tâm

thƣơng mại Cù Lao Phố.

Page 73: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

73

Rồi phủ Gia Định ra đời xứ Cù Lao Phố là lỵ sở của chánh quyền quân sự -

kéo dài từ 1698 đến 1776 và bƣớc tiếp ra đời trấn Biên Hòa; rồi đến 1832 mới

thành tỉnh, có chế độ hành chính dân sự thực sự. Chế độ ruộng đất do cá nhân tự

do phát triển lại có thêm lao động mới là những “ngƣời Mọi” mua trên nguồn…

Ruộng đất tại Cù Lao Phố không nhiều thì lấn các chỗ lân cận.

Trƣờng hợp ngƣời Hoa, tài liệu cũ nói thành lập phủ Gia Định có hai huyện,

riêng mỗi huyện có một xã của họ: Tại huyện Phƣớc Long có xã Thanh Hà, ở

huyện Tân Bình có xã Minh Hƣơng.

Hai xã ấy trên thực tế là “siêu xã”. Tức xã có tên nhƣng không có lãnh thổ.

Có thể là siêu xã hơn là xã nhƣ xã ngƣời Kinh! Ở tại Cù Lao Phố, ngƣời Hoa, năm

1679 không nhiều, phần chánh là lực lƣợng quân sự; năm 1688 thì cánh Trần

Thƣợng Xuyên sáp nhập với cánh Long Môn và thƣờng trực ở sông Tiền, chứ ở

Cù Lao Phố không đông. Về sau, lần hồi đông vì lấy vợ Kinh hay các nơi khác đổ

về: Minh Hƣơng, Huế, Hội An, Hà Tiên… nhƣng họ ở nhiều nơi, tại Cù Lao Phố

có một ít, ở Tẩn Hƣng lập tiệm buôn, vựa hàng hóa, ở Tẩn Giám, Tân Mĩ, Bình

Kính và vùng lân cận: xứ Chợ Ðồn (tên cũ Bình Tiên, tên mới Phƣờng Bửu Hòa),

xứ Lò Gạch (tên cũ phƣờng Bạch Khôi, tên mới phƣờng Bửu Long), nay ở cù lao

Thạnh Hội cũng có mặt họ nữa.

Nhƣ vậy, gọi xã Thanh Hà là nơi đã có một số ngƣời Hoa mở thƣơng nghiệp

có danh bộ, nơi tụ hội để họ làm nghĩa vụ: đóng thuế và các sƣu dịch khác mà Hội

quán Phúc Châu và Hội quán Quảng Ðông ở hai bên chùa Ông Miếu Quan Ðế (13)

là trụ sở, thực thi việc quản lý họ theo chế độ “lãnh sự quán”.

2) Thôn xã Cù Lao Phố

Dinh Trấn Biên có bao nhiêu thôn xã? Theo Phủ Biên tạp lục thì số thôn

huyện Phƣớc Long là 250 thôn, dân số chừng 8.000 ngƣời. Thì xứ Cù Lao Phố lúc

ấy có ít nhất 7 xã thôn đƣợc biết:

1. Bình Kính.

2. Bình Hòa.

3. Bình Quan.

4. Long Quới.

5. Bình Xƣơng.

6. Bình Tự.

7. Hòa Quới.

Trong đó có thôn Bình Tự, Hòa Quới, Bình Kính là những xóm của lớp ngƣời

khai hoang lập ấp trƣớc khi có phủ Gia Định.

(13 )Gia Định thành thông chí, tập hạ, trg 110

Page 74: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

74

Còn xã Thanh Hà một xã không có đất đai canh tác của ngƣời Hoa năm

1679. Gia đình và binh sĩ Cao – Lôi – Liêm của Trần Thƣợng Xuyên và Trần An

Bình đóng lúc đầu ở thôn Bình Kính (14) rồi về đây có Bến Tàu (2).

Tổ chức hành chánh nhƣ thế nào? Có thể giống nhƣ đời sau? Ở đây chỉ

thuần nhứt là thôn không có các đơn vị khác nhƣ xã, giáp xã, giáp thôn, phƣờng,

thuộc, thuyền, ấp… Tên gọi chung các thôn ấy là “Xứ Cù Lao Phố”.

Giai đoạn hậu Trấn Biên (1776 - 1788) là giai đoạn tranh chấp giữa lực

lƣợng nhà Tây Sơn – chúa Nguyễn rồi nhà Nguyễn.

Xứ Cù Lao Phố không còn là trung tâm thành thị ở phía Nam, xứ Đàng

Trong.

Lúc có trấn Biên Hòa, xứ Cù Lao Phố xuống cấp, là vùng nông thôn nằm

trong tổng An Thủy. Có tất cả các thôn xã:

1. Bình Kính Đông.

2. Bình Quan.

3. Long Quới.

4. Bình Quới.

5. Bình Xƣơng.

6. Tân Giám.

7. Tân Mĩ.

8. Tân Hƣng (xã).

Riêng xã Thanh Hà không còn nhắc đến, thêm 3 thôn Tân Giám, Tân Mĩ, Tân

Hƣng nơi xƣa có nhiều ngƣời Hoa sinh sống, buôn bán.

Năm 1832 các thôn có tên gọi cũ Cù Lao Phố, theo Ðịa bạ Minh Mạng (1836)

có tất cả 13 thôn xã. Đặc điểm các thôn xã này phần lớn cận Rạch Cát hay sông

Đồng Nai, trừ thôn Bình Hòa:

1. Bình Hoành (tên cũ Bình Kính)

2. Bình Hòa.

3. Bình Quan.

4. Bình Tự.

5. Bình Xƣơng.

6. Hƣng Phú.

7. Long Quới.

1. (14 )Điện Quan Đế có niên đại xây dựng 1684

2. (2) Bến Tàu có tên chữ Đại Phố - tức Cảng thị, sau nằm trong xã Tân Hưng đời sau

Page 75: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

75

8. Tân Giám.

9. Tân Hƣng (xã).

10. Tân Mĩ.

11. Thành Đức.

12. Vinh Long.

13. Hòa Quới.

Mƣời ba thôn, xã này đến thời Tự Đức không thêm bớt.

Trấn Biên Hòa lúc ấy ở thôn Phƣớc Lƣ cách Cù Lao Phố một con rạch,

chuyển về thôn Tân Lân. Lỵ sở trấn rồi tỉnh Biên Hòa vẫn ở đây đến thời Pháp

thuộc và Mỹ… Xứ Cù Lao Phố thành thôn ngoại thành, vùng ven.

3) Tổ chức hành chánh cấp cơ sở là thôn, tại xứ Cù Lao Phố có hai loại

Hƣơng chức:

1) Hƣơng chức thành phần chỉ huy:

1. Hƣơng Cả: đứng đầu, vì lý do có hằng sản, thâm niên.

2. Hƣơng chủ: dƣới Hƣơng Cả, nhƣng phải biết chữ.

3. Hƣơng sƣ: giải thích luật lệ, lo việc giáo dục trong làng.

4. Hƣơng trƣởng: nhiệm vụ nhƣ hƣơng sƣ, nhƣng ít quan trọng hơn.

5. Tham trƣởng: trách nhiệm về cảnh sát và đƣờng sá.

6. Hƣơng lão: chức hàm danh dự cho ngƣời già có nhiều đức tính đáng đƣợc

tôn kính hơn hết.

7. Hƣơng nhứt, hƣơng nhì: hai chức này trƣớc kia thế hƣơng hào, hƣơng thân;

làng nào không có hƣơng thân hay hƣơng hào mới có hai chức này.

8. Hƣơng chánh: cố vấn của các hƣơng chức.

9. Hƣơng lễ: chủ tọa các buổi lễ.

10. Hƣơng văn: soạn thảo các văn tế, câu đối để tế thần.

11. Hƣơng quan: chức làm danh dự, cố vấn thôn hội và giúp ý kiến lên cấp

tỉnh.

12. Hƣơng ẩm: chức hàm danh dự, chủ tọa danh dự trong các việc ẩm thực, lo

tổ chức các tiệc lễ.

13. Hƣơng thân: giải thích những chiếu chỉ, sắc chỉ hay công văn tỉnh cho

thôn hội.

14. Hƣơng hào: trách nhiệm về cảnh sát, giúp xã trƣởng và hƣơng thân thu

thuế.

15. Thủ bộ: giữ các sổ thuế và soạn thảo những sắc thuế.

16. Thủ chỉ: giữ văn khố.

Page 76: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

76

17. Thủ bổ: thủ quỹ.

18. Thủ khoán: giữ tài sản của làng.

19. Câu đƣơng: nhiệm vụ thẩm phán trong làng. Báo cáo cho các hƣơng chức

biết kết quả của những việc đã điều tra thẩm vấn.

20. Cai đình: trông nom giữ gìn chùa miếu.

21. Thôn trƣởng hay Xã trƣởng: giữ con dấu (mộc: còn dấu làng lúc ấy bằng

cây nên có tiếng đóng mộc) làng, trung gian giữa làng và chánh quyền cấp trên,

giữ việc thu thuế.

2) Hƣơng mục:

- Phụ tá: Hƣơng thân, hƣơng hào và thôn trƣởng.

22. Lý trƣởng hay phó lý, phó thôn, phó xã: phụ tá cho thôn trƣởng.

23. Ấp trƣởng.

24. Trùm dịch: nhiệm vụ đi liên lạc giấy tờ của thôn trƣởng với các hƣơng

chức và dân chúng.

25. Cai tuần: nhiệm vụ coi việc tuần hành ban đêm.

26. Cai thị: coi việc cảnh sát ở chợ.

27. Cai binh: (làng nào đông dân mới có chức này) phụ tá thôn trƣởng trong

việc binh lính.

28. Cai thôn: giữ công ốc trong làng.

29. Trƣởng: phụ tá thôn trƣởng. Khi thôn trƣởng muốn thi hành chỉ thị của

cấp trên mà không có ngƣời giúp tạm trong việc đó, thì ngƣời đứng ra lãnh tạm để

thi hành chỉ thị đó gọi là trƣởng.

- Phụ tá Hƣơng lễ:

30. Tri lễ:

31. Học trò lễ hay lễ sinh.

- Phụ tá Cai Đình.

32. Biện đình: giữ sổ thu chi của đình.

33. Tri văn (làng nào không có hƣơng văn thì mới có chức này) soạn thảo các

văn tế, câu đối trong các kỳ cúng đình.

34. Ông từ: trông coi nhang đèn trong đình.

35. Tri sự: giúp sửa soạn các việc cúng.

36. Tri khách: lo tổ chức các tiệc tùng ở đình miếu.

37. Biện lại: coi việc phân phát biên lai và giữ sổ toàn làng.

Page 77: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

77

Nhƣ vậy mỗi thôn ở Cù Lao Phố có 37 viên chức các loại lo việc hành chánh

và cúng tế đình miễu. Nhƣ vậy, 13 thôn tức cần đến 481 ngƣời – một con số khá

lớn chứ không nhỏ…

4) Dƣới thời Pháp thuộc (1861 – 1945 và 1945 - 1954) xứ Cù Lao Phố từ

năm 1861 – 1869 nằm trong chế độ “quân quản” của Biên Hòa do giới quân sự

toàn quyền hành động (thu thuế và xử án những ngƣời chống lại chúng). Tổng

cộng có 6 sĩ quan hải quân hay bộ binh cấp bực cao nhứt trung tá và thấp nhứt

thiếu úy – trong đó có 1 thanh tra sự vụ bổn sƣ xen kẽ chỉ kéo dài từ 27 – 5 – 1868

đến 21 – 4 – 1869… thì các thôn, xã ở đây giữ nhƣ thời Tự Đức.

Mãi đến năm 1874 dƣới đời tham biện các sở dân chánh: Fauvelie mới sáp

nhập 13 thôn xã đời Tự Đức thành 3 xã mới:

1. Nhứt Hòa: Bình Tự, Bình Xƣơng, Hƣng Phú, Tân Giám.

2. Nhị Hòa: Bình Hoành, Thành Ðức, Tân Hƣng, Tân Mĩ.

3. Tam Hòa: Bình Hòa, Bình Quan, Long Quới, Hòa Quới; thuộc tổng

Phƣớc Vinh Thƣợng, quận Châu Thành.

Nhƣng thành phần hành chánh cũng chƣa thay đổi. Mãi đến năm 1904, Thống

đốc Nam kỳ quyết định ngày 27–8–1904 mỗi Ban Hội tề gồm 11 ngƣời:

- Hƣơng cả, Hƣơng chủ, Hƣơng sƣ, Hƣơng trƣởng, Hƣơng chánh, Hƣơng

giáo, Hƣơng quản, Hƣơng bộ, Hƣơng thân, Xã trƣởng hay Thôn trƣởng, Hƣơng

đào.

Đến ngày 30–10–1927 có Nghị định của Toàn quyền Ðông Dƣơng, quy định

Ban Hội tề có 12 ngƣời:

- Hƣơng cả hay Ðại hƣơng cả, Hƣơng chủ, Hƣơng sƣ, Hƣơng trƣởng, Hƣơng

chánh, Hƣơng giáo, Hƣơng quản, Hƣơng bộ hay Thủ bộ, Hƣơng thân, Xã trƣởng

hay Thôn trƣởng, Chánh lục bộ.

Bắt đầu từ năm 1928 ba xã Nhứt Hòa, Nhị Hòa, Tam Hòa nhập lại một: Xã

Hiệp Hòa.

Nhƣng chƣa hết, năm 1944 có Nghị định ngày 5–1 của Toàn quyền Ðông

Dƣơng bổ túc Nghị định ngày 30–10–1927: quy định thành phần Ban Hội tề là

những ngƣời: Ðiền chủ, có gia sản, có bằng cao đẳng tiểu học, công chức thuộc

ngạch trung đã nghỉ hƣu, cùng tƣ chức, quân nhân hồi hƣu hay giải ngũ, với cấp

bậc ít nhất là trung sĩ hay huy chƣơng quân sự. Thành phần Ban Hội tề vẫn là 12

ngƣời (thêm Phó Lục bộ). Ngoài hƣơng chức hội tề, còn có hƣơng chức hội hƣơng.

Chín năm kháng chiến chống Pháp, xã Hiệp Hòa là vùng Pháp chiếm đóng.

Suốt thời kỳ này hành chánh cấp tỉnh dân sự: trong đó có 5 Tham biện ngƣời Pháp

(15) và 3 Tỉnh trƣởng ngƣời Việt do Pháp đƣa lên (2).

15 ) Tham biện các Sở dân chánh hay Phó tham biện các thuộc địa: Bélisaire Vélisarios; Le Garrers, Guévini

Mominique; Péter Jules Morand Giorges, Praccues Julien.

(2) Các Ðốc phủ sứ: Huỳnh Văn Ðẩu, Henri Bùi Quang Ân, Nguyễn Hữu Hậu.

Page 78: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

78

Năm 1950, Ban Hội tề xã Hiệp Hòa cũng nhƣ các xã trong vùng Pháp chiếm

đóng đƣợc đổi tên Hội đồng hƣơng chánh gồm 1 ngƣời:

- Chủ tịch.

- Phó chủ tịch.

- Tổng thƣ ký.

- Các ủy viên: Giáo dục, Y tế, Hộ tịch, Cảnh sát (không còn gọi là Hƣơng

quản), Tài chánh, Thuế vụ, Công chánh và Canh nông.

Cũng nhƣ các xã khác, xã Hiệp Hòa không đủ thành phần dù xã tạm chiếm –

vì dân Hiệp Hòa kháng chiến đông mạnh. Ðêm đêm Ủy ban nhân dân xã, các đoàn

thể: Việt Minh, Thanh niên, Phụ nữ, Công an từ chiến khu Vĩnh Cửu – Bình Ða về

vận động không làm “tề” nên các ngƣời làm rồi phải trốn chui trốn nhủi vô đồn bót

ngủ… Còn những tên ác ôn thì mới đi vào khu để giáo dục, nếu hối cải cho chuyển

vùng hay tha về.

5) Thời 21 năm đánh Mĩ, xã Hiệp Hòa có chi bộ mật, cũng nơi đây nuôi giấu

các đồng chí Tỉnh ủy Biên Hòa, Huyện ủy Vĩnh Cửu một thời gian dài – nhất là

thời kỳ Mậu Thân (1968) và Kỷ Dậu (1969) Hiệp Hòa là một điểm nóng.

Suốt từ năm 1945 đến ngày giải phóng xã Hiệp Hòa lúc đầu còn ở chế độ

dân sự: từ năm 1954 đến 1957 với các tỉnh trƣởng dân sự là Ðốc phủ sứ (16). Rồi

từ năm 1961 đến 1975 là chế độ quân đội nắm quyền, cấp bực từ thiếu tá đến đại tá

(2).

Xã Hiệp Hòa năm 1961, đời tỉnh trƣởng Hoàng Mạnh Thƣờng trở đi có 3 ấp

chiến lƣợc (Nhứt Hòa, Nhị Hòa, Tam Hòa). Thế là ngoài Hội đồng hƣơng chánh

có thêm Ban Trị sự ấp (3 ban). Mỗi ban trị sự ấp có Trƣởng ấp và hai Phó trƣởng

ấp (một ngƣời lo an ninh, một ngƣời lo tuyên văn).

Rồi ấp chiến lƣợc bị phá tan tành, xã Hiệp Hòa tuy xã tạm chiếm, dân chúng

gỡ hàng rào không còn cô lập nhƣ xƣa.

Năm 1966 xã Hiệp Hòa thay đổi tổ chức:

1. Trên là Ủy ban hành chánh xã có 6 ngƣời:

- Chủ tịch kiêm hộ tịch.

- Phó chủ tịch kiêm kinh tài.

- Các ủy viên: An ninh, Tuyên văn, Xã hội, Canh nông.

2) Mỗi ấp vẫn có Ban trị sự ấp

(16) Tỉnh trưởng Đốc phủ sứ: Hồ Bảo Thành, Nguyễn Văn Đỉnh, Nguyễn Thúc Lang

(2)Tỉnh trưởng quân sự: thiếu tá Hoàng Mạnh Thường, Thiếu tá Trần Văn Đĩnh, Trung tá Phạm Văn Tân,

trung tá Mã Sanh Nhơn, trung tá Trần Văn Hai, đại tá Lâm Quang Chính, đại tá Lưu Yển

Page 79: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

79

Sau tết Mậu Thân (1968) chế độ Sài Gòn một lần nữa thay đổi tổ chức và

tên gọi. Xã Hiệp Hòa thuộc xã A (trên 5000 dân, xã dƣới 5.000 dân gọi là xã B).

Tổ chức xã A lúc ấy:

a) Hội đồng Nhân dân có 9 ngƣời: Xã trƣởng, hai Phó xã trƣởng (một ngƣời

phụ trách hành chánh, 1 ngƣời phụ trách an ninh). Và các ủy viên: Quân sự, Canh

nông, Cải cách điền địa, Kinh tài, Hộ tịch, Xã hội văn hóa, Thuế vụ.

b) Ban trị sự ấp: Mỗi Ban trị sự có: Trƣởng ấp, hai Phó trƣởng ấp (1 kiêm

hành chánh, 1 kiêm an ninh) và 2 nhân viên phụ trách về quân sự và thông tin

chiêu hồi.

Sau ngày giải phóng đến nay, xã Hiệp Hòa là 1 trong 3 xã và 24 phƣờng

nằm trong thành phố cấp II Biên Hòa.

Tổ chức hành chánh:

- 5 năm bầu cử Hội đồng nhân dân.

- Hội đồng nhân dân bầu ra Ủy ban nhân dân.

Bên cạnh Ủy ban và Hội đồng, có các đoàn thể Mặt trận, Thanh niên, Phụ nữ,

Nông hội, Hội cựu chiến binh, Nông dân… các tổ chức xã hội: Chữ thập đỏ, Hội

phụ huynh v.v… gồm một lực lƣợng đông đảo, lúc bình thƣờng là huy động nhân

dân trong xã các việc cần thiết.

Vấn đề trị an có Công an và lực lƣợng an ninh ở các ấp qua các tổ trƣởng.

III. THUẾ VÀ SƯU DỊCH

Chế độ đóng thuế khóa và sƣu dịch mà ngƣời dân Cù Lao Phố phải đóng,

sau buổi đầu khai phá có lẽ bắt đầu từ 1698, khi Nguyễn Hữu Cảnh lập phủ Gia

Định. Song các tài liệu thƣ tịch của thời kỳ này không ghi chép điều gì cụ thể.

1. Dƣới thời chúa Nguyễn Phúc Thuần, năm Kỷ Sửu (1767), theo Lê Quý

Đôn ghi chép trong Phủ Biên tạp lục, thuế thu đƣợc từ dinh Quảng Nam đến xứ

Gia Định gồm: đinh 165.000; hằng năm thu 6.048.500 thăng lúa, 782.000 thăng

gạo, tiền hơn 241.900 quan; các sắc thuế nguồn, tấn, đầm, ao, tuần, ty, chợ, đò là

76.400 quan, 148 lƣợng vàng, 1450 lƣợng bạc. Nhƣ vậy khu vực này có số thuế

thu đƣợc ngang ngửa với Thuận Hóa và chúng ta không rõ, số thuế thu đƣợc cụ thể

ở Gia Định, cũng nhƣ Cù Lao Phố.

Các chúa Nguyễn, lúc đầu ở Đàng Trong thu thuế theo quy chế thời Hồng

Đức, gồm có thuế sai dƣ tức đại thể là khoản thu về sai dịch (gần nhƣ thuế thân),

theo các hạng khác nhau. Cứ nhƣ ở Quảng Nam thì hạng Tráng nộp 2 quan, Quân

(lính dự bị) nộp 1 quan 7 tiền, Dân: 8 tiền, Lão (ngƣời già): 9 tiền, Cố (ngƣời làm

thuê): 3 tiền; Đào (bỏ trốn): 2 tiền. Đó là dân chính hộ, còn khách hộ thì thuế thu

có phần nhẹ hơn: Tráng: 1 quan, Quân: 1 quan, Dân: 6 tiền, Lão: 6 tiền, Cùng và

Đào đƣợc miễn. Ngoài ra, dân còn đóng góp các khoản khác nhƣ: tiền Tiết liệu (lễ

Tết), tiền Thƣờng tân (lễ cơm mới), tiền Cƣớc mễ (phí vận chuyển lúa đóng thuế).

Page 80: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

80

Về thuế ruộng chia làm ba hạng: Nhất đẳng nộp 4 thăng / mẫu / năm; Nhị đẳng: 30

thăng/ mẫu/ năm; Tam đẳng: 20 thăng/ mẫu/ năm.

Đó là các thứ thuế hồi thế kỷ XVIII mà dân chúng từ Quảng Nam đến Gia

Định phải đóng. Chắc hẳn dân Cù Lao Phố phải đóng thuế nhƣ vậy ít ra là kể từ

khi phủ Gia Định đƣợc thành lập (1698).

1.1 Trong Phủ Biên tạp lục có vài số liệu liên quan đến dinh Trấn Biên trong

đó có Cù Lao Phố.

- Ở huyện Phƣớc Long, ruộng thực trung 787 mẫu 6 sào 11 thƣớc 7 tấc (17).

Thóc thuế là 15.756 thƣng, 3 cáp, 8 thƣợc. Còn nộp về đất trồng dâu, trồng mía,

vƣờn trầu; tiền nộp về thay về ruộng quan đồn điền lãnh canh không tính vào,

ruộng núi thuộc về các sách, chiều cố định nộp thuế thì tính riêng.

- Huyện Phƣớc Long, ruộng núi thực nộp là 245 ngƣời, thóc thuế 570 hộc.

- Huyện Phƣớc Long, gạo cung đốn thực đầu mẫu và hạng gạo thƣờng tân,

gạo cánh trắng cộng là 113 bao, 32 thƣng, 5 cáp, 3 thƣợc.

Con số ấy, ở Cù Lao Phố nhƣ thế nào không rõ. Cù Lao Phố có đất trồng

dâu, trồng mía, vƣờn trầu.

1.2 Tại dinh Trấn Biên theo Phủ Biên tạp lục thì không có thuế nguồn, mà

thuộc về Phiên Trấn. Nhƣng thuế các Tuần, Chợ, Bến đò rất lớn:

1) Tuần Đồng Tranh, tiền thuế 30 quan 5 tiền.

2) Chợ Rạch Cát, tiền thuế 81 quan (có lẽ chợ Dinh mới).

3) Bến đò Miếu Quan Đế, tiền thuê 373 quan.

4) Đò dọc từ An Lâm đến Bến Nghé, tiền thuế 89 quan 3 tiền.

5) Chợ và đò Đồng Nai, tiền thuế 60 quan.

6) Đò nhỏ chợ Lò (lò giấy) tiền thuế 55 quan 3 tiền.

7) Chợ và đò Dinh cũ, tiền thuế 30 quan 3 tiền.

Riêng Cù Lao Phố lúc ấy có:

1. Bến đò điện Quan Đế, tức Thất Phủ cổ miếu.

2. Chợ và đò Đồng Nai, tức bến cảng Cù Lao Phố.

3. Chợ và đò Dinh cũ.

Đó là các bến, chợ loại lớn ở Cù Lao Phố, còn bến nhỏ:

1. Chợ Rạch Cát.

Và bên kia sông Đồng Nai có:

(17 ) Trong lúc ấy ở huyện Tân Bình (Phiên Trấn) 1464 mẫu có dƣ. Thóc thuế 29.085 thƣng có dƣ. Ruộng

núi thuế nộp 751 ngƣời, thóc thuế 1902 hộc. Gạo cung đốn dân mang là 300 bao, 34 thƣng 4 cáp. Tiền là 10 quan, 3

tiền, 36 đồng.

Page 81: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

81

2. Đò nhỏ chợ Lò (nay phƣờng Bửu Hòa).

Nhƣ vậy chứng tỏ Cù Lao Phố lúc ấy có nhiều bến đò lớn nhỏ từ đây tỏa đi

các nơi: Đò dọc An Lâm đến Bến Nghé (tiếng dân gian bến đò Kho ở Rạch Cát).

Đối với Hoa Kiều, lúc ấy thuộc xã Thanh Hà nhƣ thế nào? Có lẽ việc thu thuế

giống xã Minh Hƣơng ở Thuận Hóa chăng:

“Dƣới thời chúa Nguyễn, phố Thanh Hà phải nạp các thuế khoản kể ra hơi

nhẹ. Cứ theo lá đơn bẩm quan năm Cảnh Hƣng thứ XIV (1754) đã dẫn ra trên đây,

thì từ ngày thành lập phố đến năm Vĩnh Trị thứ V (1678) Đại Minh khách phố

chƣa định ngành thuế, kịp đến năm ấy mới định suất 7 thăng lúa”(118).

Trong thực tế, trƣớc năm 1972, các chúa Nguyễn cho lập toàn cõi Gia Định

9 trƣờng biệt nạp để thu thuế ngƣời Minh mà một trong 9 trƣờng biệt nạp nay còn

luu lại dấu vết là ở bến đò Kho và do đó, thôn Bình Đa đƣợc Địa bạ Minh Mạng

gọi là “Xứ cựu khố”.

2. Dân số tỉnh Biên Hòa thời nhà Nguyễn (2).

- Triều Gia Long: 10.600 suất đinh.

- Triều Minh Mạng: 10.212 suất đinh.

- Triều Tự Đức: 16.949 suất đinh.

Riêng Cù Lao Phố có 13 thôn, xã có thể là trên dƣới 2.800 ngƣời.

2.1 Thuế thân: đời Gia Long cứ 5 năm có duyệt đinh một lần, bắt buộc các

làng ghi vào sổ đinh đàn ông 18 tuổi đến 60 tuổi. Cách thức làm sổ đinh đƣợc quy

định rõ rệt trong Dụ Gia Long thức 6. Đến năm 1839 thêm Dụ của Minh Mạng sửa

đổi các hạng theo các hạng từ Quảng Bình đến Gia Định:

1) Tráng hạng (chánh hộ): 1 quan 6 tiền; khách hộ 1 quan 4 tiền.

2) Quân hạng: Chánh hộ 1 quan 4 tiền; khách hộ 1 quan 2 tiền.

3) Dân hạng: Chánh hộ 1 quan 2 tiền; khách hộ 1 quan, tiền dầu đèn

và tiền chuỗi mây 1 tiền.

4) Dân đinh hạng và lão tật: Chánh hộ 8 tiền; khách hộ 7 tiền, tiền dầu

đèn và chuỗi mây 30 đồng.

Đó thuế thân nói chung, ngƣời Cù Lao Phố cùng chung số thuế ấy. Riêng

ngƣời Hoa kiều ở Cù Lao Phố cũng chia làm hai hạng:

1) Hữu lực hạng: ngƣời có tài sản, buôn bán làm ruộng: 6 quan 5 tiền.

2) Vô lực hạng: ngƣời chƣa có kế sanh nhai chắc chắn: làm mƣớn, phải nộp

phân nửa. Ngƣời già trên 60 tuổi đƣợc miễn.

(18)Trần Kinh Hòa: Làng Minh Hương và phố Thanh Hà thuộc tỉnh Thừa Thiên, Tân Á học báo, cuốn thứ IV, 1- 8 –

1959

(2)Đại Nam chí, châu bản, Quốc triều chánh biên toát yếu.

Page 82: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

82

Đến năm 1820, Minh Mạng định mức Minh Hƣơng xã ở Hội An:

1. Dân trai tráng mỗi năm nộp 2 lƣợng bạc và 12 thƣớc vải sƣu.

2. Bán cập tráng và kẻ già, có tật: phải nộp 1 lƣợng bạc.

3. Các nhân sĩ trúng khoa thì đƣợc châm chƣớc miễn nộp thuế thân

cùng vải sƣu.

Nhƣ vậy, trên thuế thân của Cù Lao Phố mỗi năm là 1 quan 3, thì ngƣời

Hoa, nếu cũng theo mức này phải đóng hai lƣợng bạc và 12 thƣớc vải sƣu.

2.2 Ở xứ Đồng Nai từ Gia Long đến Tự Đức có bao nhiêu ruộng đất và

chánh sách thuế má nhƣ sau:

1) Tịch điền: Thƣờng loại ruộng đất lấy ra từ công điền. Mỗi tỉnh có 3 mẫu 3

sào, và chọn thêm 4 hay 5 mẫu trồng dâu.

Thời Minh Mạng có 31 tỉnh, mỗi tỉnh có 10 mẫu tịch điền. Tỉnh Biên Hòa từ

năm 1816 chuyển lên thôn Tân Lân. Nên ở Cù Lao Phố không có loại ruộng này.

2) Quân điền, quan trại: Ruộng đất này thời trấn Biên Hòa ở thôn Phƣớc Lƣ,

sau chuyển về thôn Tân Lân. Tại Cù Lao Phố loại này cũng không có.

3) Tự điền: Tức ruộng ban cho để cúng lễ. Ở Cù Lao Phố có chùa Đại Giác

và chùa Phƣớc Hội có loại ruộng do chùa canh tác. Tuy nhiên, không rõ các

khoảnh đất này đƣợc miễn thuế hay không.

Ở Cù Lao Phố có nhiều mồ mả, dân địa phƣơng gọi lăng vô chủ! Ngay ở

thôn Bình Kính có mộ huyền táng Nguyễn Hữu Cảnh. Có thể loại đất này trƣớc là

tự điền, nhƣng không rõ. Nói chung đất “mộ địa”– gọi là “đất cúng” không đóng

thuế.

4) Đồn điền: Dƣới thời nhà Nguyễn các đồn điền ở Gia Định – Lục tỉnh có

hai loại: Do binh sĩ canh tác: đƣợc nhà nƣớc cấp nông cụ để khai hoang cày cấy,

sản phẩm làm ra nộp cho đồn điền và loại khác do dân mộ canh tác: Nộp sƣu thuế

mỗi năm 6 hộc thóc.

Theo tài liệu cũ cho biết: Biên Hòa khẩn 300 mẫu, thu đƣợc 4600 hộc lúa

đƣợc thƣởng 400 quan, vậy đồn điền đến đời nhà Nguyễn có phát triển tại Biên

Hòa.

Cũng đƣợc biết năm 1789 có chức quan Điền Tuấn ra đời, Ngô Tùng Châu

từng làm Điền Tuấn (sau làm kí lục) ở trấn Biên Hòa (trấn đóng ở bên kia Rạch

Cát thôn Phƣớc Lƣ). Dân Cù Lao Phố và các vùng khác đƣợc ông giúp: vốn,

giống, sức kéo để đẩy mạnh sản xuất…

Thuế ruộng đất thời nhà Nguyễn:

Triều đại Ruộng nhà nƣớc Ruộng công Ruộng tƣ

Gia Long 6 hộc (336 bát) 120 bát 40 bát

Page 83: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

83

Minh Mạng 205 thăng 80 thăng 26 thăng

Tự Đức 122 thăng 80 thăng 26 thăng

Biểu thuế năm 1803 (Gia Long) chia cả nƣớc gồm 4 khu vực: Khu vực IV

(Bình Thuận, Biên Hòa, Gia Định, Định Tƣờng, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên),

thuế điền qui định nhƣ sau:

Ruộng Thuế lúa Gạo ngụ

lộc Các thu tiền phụ

Ruộng núi

hạng nhứt

188 thƣng 4 hộc

(hợp) 5 thƣng

Các thứ tiền: thuế suất, ngụ lộc

5 tiền 50 đồng

Ruộng núi

hạng nhì 141 thƣng 3 hộc 5 thƣng

Các thứ tiền: thuế suất, ngụ lộc,

tiền chiếc cau và lá 8 tiền

Ruộng núi

hạng ba 94 thƣng 2 hộc 5 thƣng

Các thứ tiền khác: 6 tiền 53

đồng

Ruộng cỏ

hạng nhứt 282 thƣng 6 hộc 5 thƣng Tiền thu khác: 12 tiền

Ruộng cỏ

hạng nhì 188 thƣng 4 hộc 5 thƣng Tiền thu khác: 10 tiền.

Ruộng cỏ

hạng ba 141 thƣng 3 hộc 5 thƣng Tiền thu khác: 5 tiền

Ruộng muối 7 phƣơng muối Nộp thay tiền thì mỗi phƣơng 4

tiền.

Đời Minh Mạng đổi ra thu bằng tiền, trừ việc trồng tiêu và làm muối.

3. Cù Lao Phố, năm 1930 dân số lên đến 4.000 là số dân đứng hàng thứ hai,

sau làng Bình Trƣớc là làng tỉnh lỵ có dân số 5.000 ngƣời (tổng Phƣớc Vĩnh

thƣợng, quận Châu Thành). Tổng số thu thuế cũng lớn, cũng quan trọng.

3.1 Ngƣời thu thuế là xã trƣởng, số thu nhiều thì có thƣởng đi kèm: Thu thuế

thân từ 101 tới 200 dân đƣợc thƣởng 20 đồng. Từ 1001 đếm sấp lên đƣợc thƣởng

44 đồng (19).

Mỗi thuế thân, Nghị định ngày 3 – 2 – 1886, quy định:

1) Thuế về quản hạt: 1 $.

(19) Nghị định 3 – 2 – 1886

(2)Đào Tiến Thưởng, Nguyễn Yên Tri, sđd

Page 84: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

84

2) Thuế phụ trội cho địa hạt: 0,5 $.

3) Tiền chuộc 5 ngày công sƣu cho địa hạt:

Mỗi ngày phỏng định 0,5 $: 2,5 $

4. Thuế phụ trội cho công nho của làng: 0,1 $

5. Chuộc canh gác: 2,5 $

Phỏng định: 6,6 $

Nhƣ vậy trong thuế thân có cả tiền đi xâu, canh gác.

Mỗi ngƣời dân Cù Lao Phố phải đi xâu 5 ngày (vì tỉnh Biên Hòa có rừng

cấm, thì phải đi xâu mỗi năm). Không đi vì có đóng thuế rồi, chớ không phải

không có chuyện đi xâu. Ngoài đi xâu còn canh gác cũng đóng chung trong thuế

thân, tất cả 5 $... trong số tiền đóng là 6,6 $. Chuyện đi xâu đến những năm 1940

vẫn còn.

“Thời Pháp thuộc nam giới phải đóng thuế thân. Mức thuế chia hai dạng:

Dân vô sản 2,5 đồng (không tính tiền đi xâu và đi canh); ngƣời có tài sản 4,5 đồng

(sau này tăng ít nhiều). Không phải ngƣời dân Cù Lao nào cũng có tiền đóng thuế,

mỗi vụ có hàng chục tráng đinh bơi xuồng qua sông vào rừng hoặc ngƣời nhà bên

làng khác lánh tạm. Ngƣời trốn thuế thân không dám đi chợ Biên Hòa sợ bị phú –

lít (cảnh sát) bắt bỏ tù 15 ngày.

Đi xâu là nỗi khổ cực của ngƣời nông dân “ăn cơm nhà vác tù và hàng

tổng”. Mỗi khi tuần đi theo lịnh Ban Hội tề sức xuống bắt đi xâu, dân làng la

truyền từ ấp này qua ấp khác:

Bắt xâu!!

Bắt xâu!!

Thì trai tráng chạy trốn hầu hết.

Hƣơng giáo Việt là ngƣời hống hách, hay đánh dân. Ngƣời trốn xâu lậu thuế

rơi vào tay hắn bị sai đóng trăn. Mùa khô năm 1941 do bị ức hiếp, ông Ray rình

chém Hƣơng giáo Việt lúc sáng sớm ở Bình Tự, khi hắn ta đi xe đạp ngang qua”.

(2)

Ngày ấy thực dân Pháp có nghị định, chân tri qui định không thuế hay đóng

trễ:

“Mỗi năm, kì cho tới ngày 30 tháng 4 là ngày rốt chót cả thảy những ngƣời

có chịu thuế phải đóng cho tất. Qua ngày ấy nếu ngƣời nào trễ chƣa đóng thuế thì

bị phạt tù, từ một ngày tới năm ngày, và tiền từ một quan tới 15 quan tiền Tây. Nếu

đã bị phạt một lần, mà còn bị bắt vì chƣa chịu đóng thuế phải bị phạt tù chẳng đặng

tha!

Ngƣời nào bị ở tù và đến ngày 30 tháng 4 không đóng thuế kịp, thì khi mãn

tù ra... cho thêm một kỳ nữa hai tháng đặng kiếm công việc đặng lo mà đóng thuế

Page 85: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

85

thân. Mãn kỳ hai tháng đó, mà thuế chƣa đóng thì bị phạt tiền và phạt tù nhƣ đã nói

trên đây.

Ngƣời ở xứ này đi qua xứ khác (20) và bị bắt vì trễ hạn chƣa đóng thuế thân

trong năm thì bị bắt phải về xứ của nó! Trong khi bị bắt mà nếu ngƣời đó có đủ số

tiền đóng thuế thì có thể trao lại quan tham biện tại tỉnh đặng gởi về xứ đóng thuế

giùm”

Đó là thuế đinh và sƣu dịch của ngƣời Việt ở Cù Lao Phố, còn ngƣời Hoa -

ở Cù Lao Phố còn một số ngƣời Hoa – họ sẽ vào sổ bộ các bang để đóng thuế:

“Ngƣời khách trú trong xứ Nam kỳ, khi đúng 18 tuổi phải chịu thuế thân.

Ngƣời nào qua 55 tuổi thì khỏi thuế, công sƣu.

Những ngƣời kể ra sau đây đặng miễn thuế thân:

1. Đàn bà, con trai con gái dƣới 18 tuổi.

2. Ngƣời tàn tật và những ngƣời quá 60 tuổi không còn đủ sức lực làm

công việc nữa.

… Giấy thuế thân của ngƣời khách trú thì định mỗi năm là 15 $.

3.2 Thuế thổ cƣ, trong thuế đất cất nhà (ở châu thành có giá biểu từ hạng

nhứt đến hạng ba, ở ngoại thành thuế các nhà gạch ngói, nhà ván lợp ngói). Nghĩa

là đóng thuế tất cả, các trƣờng hợp sau đây đƣợc giảm thuế:

1) Giảm thuế: nhà lá, nhà tranh, nhà cây ván, nhà trại dựng về việc canh

nông: kho, tàu ngựa, vựa lúa…

2) Đƣợc miễn thuế: chùa, đình, miễu.

Nhƣ vậy ở Cù Lao Phố đến trƣớc Cách mạng tháng Tám, nhà nào cũng bị

thuế thổ cƣ – trừ chùa, đình, miễu.

Riêng khu vực chợ Mới (xƣa là xóm Chợ Chiếu) có mấy căn phố gạch lợp

ngói cho thuê lập tiệm buôn, tiệm may, hớt tóc, thuốc bắc, sửa bán máy hát, sửa

bán xe đạp… Những căn phố ấy theo ngạch thuế đất quận Châu Thành.

Mỗi căn phố trệt, thuế 2 đồng/ năm, loại gạch lợp ngói.

Mỗi căn phố vách ván lợp ngói: 0,8 đồng / năm.

Với số tiền 0.8 đồng đến 2 đồng lúc ấy (2) trị giá từ 1 đến 2 giạ lúa.

3.3 Toàn xứ Nam kỳ có 6 hạng đất canh tác phải chịu thuế:

1) Thƣợng hạng: mỗi mẫu huê lợi từ 100 giạ trở lên.

2) Hạng nhứt: mỗi mẫu huê lợi từ 60 giạ lên đến 100 giạ.

3) Hạng nhì: mỗi mẫu huê lợi từ 35 giạ lên đến 60 giạ.

(20 )Hiểu là các kỳ: Nam kỳ, Trung kỳ, Bắc kỳ (thuộc Việt Nam và Ai Lào, Campychia)

(2)Nghị định 25 tháng 10 năm 1920 của Toàn quyền Đông Dương.

Page 86: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

86

4) Hạng ba: mỗi mẫu huê lợi từ 25 giạ lên đến 35 giạ.

5) Hạng tƣ: mỗi mẫu huê lợi từ 25 giạ trở xuống.

6) Hạng năm: ruộng đƣơng khai phá thì theo giá bán số ruộng này để tính

thuế.

Ở đây cũng lƣu ý rằng: Điền chủ đóng thuế cho chính quyền và tá điền đóng

tô cho chủ đất mà tá điền không trực tiếp đóng thuế.

Thuế quy định nhƣ sau:

1. Ruộng thƣợng hạng: mỗi mẫu 2 đồng.

2. Ruộng hạng nhứt: mỗi mẫu 1 đồng 50 xu.

3. Ruộng hạng nhì: mỗi mẫu 1 đồng.

4. Ruộng hạng ba: mỗi mẫu 0 đồng 50 xu.

5. Ruộng hạng tƣ: mỗi mẫu 0 đồng 25 xu.

6. Ruộng hạng năm: mỗi mẫu 0 đồng 10 xu.

3.4 Thuế sanh ý, đối với ngƣời buôn bán hay sản xuất (21), có tất cả 6 mức:

1) Ngoại hạng: Có hạng nhứt 12.000 đồng đến hạng năm: 4.000 đồng.

2) Khoản nhứt: Có hai hạng: Nhứt: 4.000 đồng, nhì 3.000 đồng.

3) Khoản nhì: Có từ hạng nhứt 2.500 đồng đến hạng tám 1.000 đồng.

4) Khoản ba: Có hạng nhứt 800 đồng đến hạng bảy 200 đồng.

5) Khoản tƣ: Từ hạng nhứt 160 đồng đến hạng năm 80 đồng.

6) Khoản năm: Từ hạng nhứt 50 đồng đến hạng chín 2 đồng.

Tại Cù Lao Phố lúc ấy các ngành nghề và tiệm buôn phải đóng thuế sanh ý

hàng năm:

1) Thợ mộc làm sƣờn nhà: Có tất cả 14 hạng sanh ý, từ 2 đồng đến

160 đồng chủ.

2) Thợ hớt tóc có bán phụ tùng: Có tất cả 13 hạng, từ 3 đồng đến 160

đồng thuế.

3) Ngƣời bán xe đạp: Có 14 hạng, từ 6 đồng đến 130 đồng thuế.

4) Ngƣời cho mƣớn xe đạp: Có 17 hạng, từ 6 đồng, đến 50 đồng thuế.

5) Thợ đúc: Có 16 hạng, từ 2 đồng, đến 300 đồng thuế.

6) Thợ rèn: Có 14 hạng, từ 2 đồng đến 160 đồng thuế.

7) Tiệm bán lẻ hàng xén: Có 14 hạng, từ 2 đồng đến 160 đồng thuế.

8) Ngƣời phƣơng Đông (hiểu ngƣời Hoa) làm thầy thuốc: Có 13 hạng,

từ 3 đồng, đến 160 đồng thuế.

(21) Có nhiều Nghị định: 27 tháng 2 năm 1892, 30 tháng 12 năm 1923

Page 87: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

87

9) Thợ sửa máy: Có 14 hạng, từ 2 đồng, đến 160 đồng thuế.

10) Thợ lãnh may mƣớn: Có 9 hạng, từ 2 đồng đến 50 đồng thuế.

11) Tiệm thuốc bắc của khách trú: Có 20 hạng từ 2 đồng đến 800

đồng thuế.

12) Lò đƣờng: Có 8 hạng, từ 50 đồng, đến 300 đồng thuế.

14) Trại cƣa, cƣa tay: Có 15 hạng, từ 10 đồng đến 500 đồng.

15) Thợ may đồ tây: Có 14 hạng từ 2 đồng, đến 100 đồng.

4) Trên đây, lƣợc qua các thứ thuế, sƣu dịch mà ngƣời dân Cù Lao Phố phải

đóng. Ngoài ra còn một thứ “thuế”, ngoài tô tức ngƣời nông dân phải đóng cho chủ

đất, là công lễ. Đây là một thứ “nghĩa vụ” có khi đƣợc hiểu là tỏ rõ ân nghĩa,

nhƣng thực sự đó là thứ thuế đóng theo lệ, chứ không theo luật.

Ở Cù Lao Phố đến trƣớc Cách mạng tháng Tám, bần nông, cố nông phải đi

lễ cho điền chủ nhƣ sau: Công lễ là loại “xâu” không văn bản mà những tá điền

phải trả cho chủ điền (nếu còn mƣớn ruộng để làm những năm kế tiếp). Hầu hết

các tá điền không có đất hay có một phần đất nhỏ, phải đi mƣớn ruộng để làm ra

hột lúa sống qua ngày.

Ở Cù Lao Phố lúc ấy có ba hạng:

- Ruộng thƣợng hạng, mỗi mẫu trung bình sản xuất đƣợc 100 giạ một

vụ thì chủ điền cho mƣớn là 60 giạ.

- Ruộng hạng nhứt, một mẫu trung bình sản xuất đƣợc 85 giạ, thì chủ

điền cho mƣớn 50 giạ.

- Ruộng hạng nhì, một mẫu trung bình sản xuất một vụ 75 giạ thì chủ

điền cho mƣớn 45 giạ lúa…

Vì ràng buộc nhƣ vậy 10 công lễ mỗi năm ngoài lễ tết tá điền phải theo (22).

Lễ Tết lúc ấy có thông lệ cứ 2 mẫu trở lên tá điền phải đi:

Một thúng gạo trắng.

Hai thúng gạo lức.

Một nan sáp để làm đèn cầy cúng ông bà.

Cặp vịt thật mập, con mắt nháy lẹ (nếu lấy tay lêu mà mắt con vịt không lanh

lẹ là bịnh để dành đến Tết không đƣợc).

Mƣời công lễ ấy, đối với tá điền là 10 ngày ra giêng đến nhà chủ điền làm

thí công. Đó là những công việc rất nặng nhọc: móc mƣơng, lấp vƣờn, rào giậu,

đốn củi, sửa sang nhà cửa. Gặp chủ điền nào không hà khắc thì đỡ đỡ nếu khắc

nghiệt thì tự chịu đựng. Bắt làm việc nặng nhọc, tới bữa ăn cơm: gạo xấu, mắm

(22) Ruộng Cù Lao Phố thượng hạng và hạng nhứt rất ít, công lễ còn tồn tại, là mướn ruộng muộn, nhưng so

ngày vẫn 10 công! Lễ Tết thì vẫn như vậy, như lệ các nơi khác.

Page 88: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

88

kho, mắm nêm mãn mùa… Công lễ là một thứ xâu mà đến nay còn nhiều ngƣời

còn nhắc đến nhiều nhất.

IV. SỰ CHIẾM HỮU RUỘNG ĐẤT Ở CÙ LAO PHỐ

Ruộng đất Cù Lao Phố, đến trƣớc Cách Mạng Tháng Tám và ngày giải

phóng có: công điền (trong đó có ruộng hậu ở chùa ở đình miếu, và thông) và tƣ

điền tức ruộng tƣ nhân. Những ngƣời có ruộng thuộc loại điền chủ không mấy

ngƣời:

1) Nói điền chủ là theo lối gọi thông thƣờng, chứ nhƣ ông Trƣơng Văn

Triều, ruộng tại Cù Lao Phố chỉ có vài chục mẫu, còn số còn lại nghe nói đến cả

trăm là nơi khác! Nhƣng kiếng họ này chƣa phải kiếng họ trú ngụ lâu đời.

Tổng Thi (cựu cai tổng Phƣớc Vĩnh Thƣợng) có tất cả 80 mẫu, nhƣng ở Cù

Lao Phố chỉ có 10 mẫu.

Ông Ba Sô (sinh ra Phủ (hàm) Mum, ông nội phán Diệp) có hàng trăm mẫu

ở phƣơng xa, còn tại Cù Lao Phố chỉ có khoảng chục mẫu.

Tổng Dậu và Phó tổng Chi ruộng ít hơn.

Nhƣ vậy điền chủ ở Cù Lao Phố là 10 mẫu ruộng có sổ bộ, còn ngoài ra con

số trăm mẫu chƣa có bằng chứng hay điền bộ cụ thể. Từ lâu, ở Cù Lao Phố đã có

lối làm ruộng tại chỗ theo vụ mùa và xâm canh, nhất ở Long Thành. Có thể hiện

tƣợng này là do diện tích đất ở Cù Lao Phố có phần hạn chế. Nên khi muốn có đất

canh tác phải tìm đến nơi khác.

“Ấp nào cũng có một số bần cố nông chuyên đi làm ruộng mƣớn. Nông dân

xuống miệt Vàm Cái Sức. Bà Chèo, Xóm Đăng, Rạch Miễu làm mùa muộn. Cứ

cuối tháng sáu âm lịch thì họ cơm ghe bè bạn kéo đi, cày cấy tới tháng 9 ta lại về lo

thu hoạch vụ mùa sớm ở quê nhà. Ăn tết xong, ra giêng họ đi gặt lúa mùa muộn.

Giữa tháng hai tấp nập chở kéo về xuồng ghe khẳm thóc vàng, nhiều ngƣời thu

hằng “thiên”đƣợc 4,5 tấn lúa, có ngƣời thu tới hai chục tấn một vụ”(23).

Việc làm ruộng muộn ở Long Thành, trƣớc Cách mạng tháng Tám không

phải chỉ có Cù Lao Phố mà ở Chợ Đồn (nay phƣờng Bửu Hòa) cũng có ngƣời đi,

cả Xóm Ga (nay phƣờng Thống Nhất) cũng đi làm ruộng muộn. Có thể đó là tập

quán xâm canh ngày trƣớc rất phổ biến… Điều này, có thể đất Cù Lao Phố hẹp, lại

là đất khai phá sớm và là nơi tụ hội hoạt động thƣơng mãi nên dân đông, có tiền

mua ruộng phải mua ở nơi khác, nhu cầu sản xuất lúa gạo ở đây không chỉ nhằm

cung ứng cho đòi hỏi tự túc lƣơng thực, mà gạo thóc đã sớm trở thành hàng hóa

xuất khẩu và bán đi các xứ, tận Phú Xuân. Chính yêu cầu khai hoang để sản xuất

lúa gạo lớn nên buộc phải có nhiều nhân công.

2) “Phủ Gia Định, đất Đồng Nai, từ các cửa biển Cần Giờ, Soài Rạp, cửa

Đại, cửa Triều, toàn là rừng rậm hàng mấy nghìn dặm. Họ Nguyễn chiêu mộ

những dân có vật lực ở xứ Quảng Nam các phủ Điện Bàn, Quảng Ngãi, Qui Nhơn

(23 ) Đào Tiến Thưởng, Nguyễn Yên Tri, sđd

Page 89: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

89

cho dời tới ở đây, phát chặt mở mang, hết thảy thành bằng phẳng, đất đai màu mỡ,

cho dân tự chiếm, trồng cau và làm nhà cửa.

Lại thu con trai con gái ngƣời Mọi ở các đầu nguồn, đem bán làm nô tì

(ngƣời đen tóc quăn là ngƣời Mọi thực, giá tiền 20 quan, hơi trắng, giá tiền chỉ hơn

10 quan) (24) cho tự lấy nhau, sinh đẻ thành ngƣời cày ruộng làm nghề nghiệp, do

đó mà thóc rất nhiều.

Ngƣời giàu có ở các địa phƣơng hoặc 40, 50 nhà hoặc 20, 30 nhà, mỗi nhà

có điền nô đến 50, 60 ngƣời, trâu bò hoặc đến 300, 400 con, cày bừa cấy gặt, rộn

ràng không rỗi. Hàng năm đến tháng mƣời một, tháng chạp thƣờng giã thành gạo,

bán lấy tiền để ăn Tết. Từ sau tháng giêng trở đi không làm công việc xay giã.

Bình thời chỉ bán ra Phú Xuân để đổi lấy hàng bắc: “lụa, lãnh, trừu, đoạn, áo

quần tốt đẹp, ít có vải bố”(Phú Biên tạp lục).

Nhƣ vậy, chế độ nô lệ đã có và phát triển mạnh từ giai đoạn đầu thành lập

phủ Gia Định. Qua đó cho chúng ta thấy những điền nô (ngƣời nô lệ làm ruộng cho

chủ đất chứ không phải cho nhà nƣớc). Một điều cần lƣu ý là các điền chủ ở các

phủ xứ Quảng Nam, cả Phú Xuân, vào khai hoang lập ấp ở xứ Đồng Nai ngoài

việc mua ngƣời “Mọi” trên nguồn thì không rõ có đem theo điền nô của mình vào

đất mới không. Bởi vì tập tục này vốn có ở xứ Quảng. Tấm bia cổ nhan đề Phú

Hòa Xã Bi dựng vào năm Chánh Hòa XVIII (1677) ở xã Phú Hòa huyện Tam Kỳ

(Quảng Nam – Đà Nẵng) đã xác nhận điều đó (2)

Có lẽ việc sử dụng nô lệ ở vùng Quảng Nam đã đƣợc đƣa và Gia Định.

Chánh quyền chúa Nguyễn không ngăn cấm việc sử dụng lao động nô lệ, thậm chí

còn tạo điều kiện cho nó phát triển thuận lợi; và mặt khác, chế độ nô lệ (tù nhân

trong chiến tranh mua bán) vào lúc bấy giờ còn thịnh hành trong các tộc ngƣời bản

xứ ở địa bàn Đồng Nai – Gia Định – đặc biệt tập tục mua bán nô lệ và cƣớp bắt nô

lệ của ngƣời Xtiêng là thực tế mà các nhà dân tộc học đã xác định là còn tồn tại

đến trƣớc 1975.

Nêu ra các cứ liệu để phân tích trên đây là nhằm đƣa ra giả thiết về nguồn

gốc chế độ điền nô thời khai hoang ở xứ Đồng Nai mà dấu vết của nó còn đọng lại

ít nhiều trong vài truyền thuyết ở Cù Lao Phố: Mã Ông Án, Rạch Mọi…

Nói chung, việc chiếm hữu ruộng đất ở Cù Lao Phố là không biểu lộ sự

chênh lệch quá lớn vì các biến cố chính trị - lịch sử diễn ra khá liên tục, không cho

phép sự tích lũy ruộng đất – tài sản lâu dài nhiều đời. Hơn nữa đất hẹp lại là vùng

ngoại thành nên luôn đông ngƣời ở. Mặt khác cơ cấu nghề nghiệp ở đây có phong

(24 ) Bản dịch của Viện Sử học (1976) có chú thích. Bản Viện Sử học chép lại rằng: Người tóc đen quăn là

giống Mọi, giá 26 quan, người béo trắng là giống Kinh, giá 60 quan, tức 10 tên đến 100 tên giá trên hơn 1000 quan

(2) Bia ghi: Cổ lâm hầu Nguyễn Đức Hòa, nho úy ở Chánh Dinh, để lại 43 mẫu ruộng làm hương hỏa ở các

xứ… như ghi trong địa bạ, để người sau thờ phụng, con cháu không được tự ý mua bán. Giao cho nô tỳ cày cấy,

phụng thờ hương lửa bất tuyệt. Chọn trong nô nam, tỳ nữ một người cần mẫn đứng đầu để trông nom. Nô tỳ và

những người ở lại Liên Trì cày cấy ruộng hương hỏa… Con cháu ta không được bắt chúng làm tự nô, ai không tuân

theo như trong bia thì cho bản tộc được đuổi đi như người ngoài họ. Nô tỳ ở trại Liên Trì chạy trốn ra xã khác, cho

bản tộc được tra thực bắt về… không được thuận tình dung túng.

Page 90: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

90

phú nên ngƣời nông dân ít ra cũng có lối thoát bằng các hƣớng khác mà không

phải chỉ bám vào đất ruộng… Nếu có thể, chúng ta cần lƣu ý đến một yếu tố khác

là sự sùng tín đạo Phật của cộng đồng cƣ dân ở đây đã tự nó coi trọng một cách

sống đạo lý là vun bồi phƣớc đất hơn là khắc bạc để tự tƣ tự lợi. Đặc điểm này

khiến cho việc chiếm hữu ruộng đất cũng không đƣợc phát triển mạnh mẽ và thô

bạo nhƣ các vùng đất khác.

Page 91: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

91

PHẦN THỨ BA

NẾP SINH HOẠT

VĂN HÓA

TÍN NGƯỠNG

Page 92: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

92

CHƯƠNG MỘT

TẬP QUÁN SINH HOẠT

Ở chƣơng này chúng tôi trình bày khái quát về các tập quán sinh hoạt của

ngƣời dân Cù Lao Phố, trải qua thời gian, đã định hình thành nếp sống vật chất. Cụ

thể là: các loại hình cƣ trú, nhà ở, nếp bài trí phân chia không gian sinh hoạt trong

gia đình, các phƣơng tiện chuyên chở, các loại nông cụ và thói ăn nếp mặc…

I. CÁC LOẠI HÌNH CƯ TRÖ

Khi ngƣời Việt và ngƣời Hoa đến Cù Lao Phố, tùy theo thói quen, tùy theo

thực trạng địa bàn của vùng đất mới họ phải tìm một chỗ ở cho thích hợp. Lúc bấy

giờ phƣơng tiện di chuyển chủ yếu là theo đƣờng sông nên họ phải định cƣ thành

lập thôn xóm dọc theo sông rạch. Dần dần đƣờng bộ phát triển, phƣơng tiện di

chuyển bằng thuyền ghe đƣợc thay thế bằng xe cộ nên ngƣời ta thích xây dựng nhà

cửa dọc theo đƣờng lộ. Đại khái tại Cù Lao Phố có các loại hình cƣ trú nhƣ sau:

1) Cƣ trú ven sông rạch: Vùng ven sông Đồng Nai, rạch Cát, rạch Ông Án,

rạch Lò Gốm, dƣới nƣớc có nhiều tôm cá và giao thông thuận tiện nên loại hình cƣ

trú ven sông là loại hình lý tƣởng nhất. Cƣ dân tại đây có thể vận chuyển bằng

đƣờng thủy, có thể làm nghề chài lƣới, cũng có thể đi lại mua bán, làm các nghề

liên quan đến sinh hoạt sông nƣớc nhƣ đóng ghe thuyền, chuyên chở hàng hóa…

Đây là vùng đất phù sa màu mỡ nên cƣ dân hàng mấy thế kỷ trƣớc đã áp dụng kỹ

thuật đào mƣơng lụi liếp lập nên những khu vƣờn trù phú. Nƣớc ngọt có thể theo

mƣơng tràn vào từng thớ đất tƣới tiêu cho cây cối. Hệ thống mƣơng, cống rãnh…

có thể nuôi dƣỡng tôm cá. Môi sinh nơi đây mát mẻ, cƣ dân vừa thuận thủy lẫn bộ.

Loại hình cƣ trú miệt vƣờn nằm dọc theo các xóm Bình Tự, Bình Xƣơng, Hòa

Quới. Ðình chùa thƣờng đƣợc xây dựng ở ngã ba, ngã tƣ sông, thuận giao thông.

Nhà cửa miệt vƣờn có phong cách riêng. Nhà thƣờng ở giữa khu vƣờn có phong

cách riêng. Nhà thƣờng ở giữa khu vƣờn, xung quanh có thể trồng cây ăn trái, rau

đậu, trƣớc trồng hoa kiểng, xa xa có thể làm ruộng. Nhƣng rất tiếc trận lũ năm

1952 đã làm tiêu mòn tinh thần làm vƣờn của nông dân Cù Lao Phố trong khi nông

dân miền Tây đã nâng nghề làm vƣờn thành chuyên canh các loại cây trái. Trong

khi đó vƣờn ở đây là vƣờn tạp.

2) Cƣ trú dọc theo giồng cái: Ðối với lớp dân mới vào khai hoang thì vùng đất

giồng Bình Hòa, Tân Giám, Tân Mỹ, Hƣng Phú, Bình Hoành… là vùng đất thích

hợp nhất. Vùng đất này cao ráo, bảo đảm ít bị ngập nƣớc.

Theo hình thể của giồng cát, thôn xóm phân bố theo hình cung, giữa là lối đi

hai bên là nhà cửa. Ðình chùa miếu mạo thƣờng tập trung ở đầu giống cát, lƣng

dựa vào giồng, mặt ngó xuống vùng đất trũng. Thỉnh thoảng hai bên đƣờng cái có

những “truông”, đó là những con ngõ sâu hun hút, xƣa kia đầy tre, duối, nhƣng gần

Page 93: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

93

đây do dân số phát triển quá nhanh nên các loại cây hoang dại không kinh tế này

đã bị tuyệt chủng để nhƣờng chỗ cho mồ mả hay nhà cửa.

Cƣ dân dọc theo giồng cát có thói quen đào giếng lấy nƣớc, xung quanh nhà

trồng các loại hoa màu ngắn ngày. Dƣới chân giồng có thể làm ruộng.

3) Cƣ trú tập trung và cƣ trú dọc theo trục giao thông:

Cù Lao Phố là một trong những nơi ngƣời Hoa tập trung lớn nhất Nam bộ.

Theo Trịnh Hoài Đức thì thuở ấy Ðại Phố có ba con đƣờng. Nếu lấy miếu Quan Đế

làm trung tâm chúng ta thấy có một con đƣờng dọc theo sông Đồng Nai (có thể bị

lở rơi xuống sông từ lâu), một con đƣờng dọc Rạch Cát và một con đƣờng băng

ngang xóm Tân Mỹ. Ðầu tiên khu vực này chỉ toàn ngƣời Hoa, dần dần có thêm

ngƣời Việt thành lập các thôn Bình Hoành, Tân Hƣng, Thành Ðức, Tân Mỹ, Tân

Giám, Hƣng Phú. Có thể nói quan niệm cƣ trú tập trung xuất hiện thời Cù Lao Phố

khá sớm, ảnh hƣởng đến tập quán cƣ trú ngƣời dân địa phƣơng.

Loại hình cƣ trú dọc theo hai bên trục giao thông tuy mới phát triển gần đây,

nhƣng gốc do ảnh hƣởng quan niệm cƣ trú tập trung của thời Nông Nại Ðại Phố.

Chúng ta thấy loại hình này rõ nhất khoảng xóm Tân Mỹ, chợ Chiếu đến Bình Tự.

Hiện nay tuy cƣ dân ở đây chƣa tập trung thành “thị trấn”, nhƣng có nhiều nhà cất

theo lối mới, cửa quay ra đƣờng cái, chủ yếu chú ý đến yếu tố sinh hoạt chớ không

chú ý đến quan niệm phong thủy nhƣ xƣa kia. Nhiều nhà cất hai hoặc ba tầng, mà

tầng trệt có thể mua bán đƣợc.

II. NHÀ CỬA

Nhà cửa của dân cƣ trên Cù Lao Phố hầu hết đều đƣợc xây dựng trực tiếp

trên mặt đất. Chỉ có vài trƣờng hợp cá biệt do mặt bằng chật hẹp bắt buộc phải xây

dựng trên sàn bắc ra sông, nhƣng chắc chắn không tồn tại lâu dài. Tùy theo thực tế

của mặt bằng, tùy theo khả năng tài lực vật lực và cũng tùy theo quan niệm của chủ

gia mà mỗi ngôi nhà có một quy mô riêng. Nhƣng nhìn chung hình thức “cƣ trú tập

trung” đã ảnh hƣởng đến tập tục xây dựng nhà cửa của ngƣời dân địa phƣơng (đây

là nơi có “phố” cổ nhất Nam bộ). Ngƣời dân địa phƣơng thích những mô hình xây

dựng đơn giản, tiết kiệm mặt tiền, vì đối với ngƣời làm nghề mua bán, “mặt tiền”

ngôi nhà rất quan trọng. Diện tích mỗi ngôi nhà tại Cù Lao Phố cũng không rộng.

Kể những ngôi nhà cổ, ít ngôi nhà nào có mặt tiền trên 15 m (tức lòng căn nhà giữa

trên 3 m). Do đó ít ngôi nhà nào mà nhà trên khoảng 100 m2 và nhà dƣới khoảng

100 m2, đồ sộ nhƣ kiểu nhà “tám đấm tám quyết” ở miền Tây Nam bộ.

Tại Cù Lao Phố thƣờng có những loại nhà nhƣ sau:

1) Nhà xông: Loại nhà gồm một gian (diện tích khoảng 7 – 8 m2 ) hoặc ba

gian (diện tích khoảng 12 – 15 m2). Tất cả đều không chái. Ðây là những ngôi nhà

bằng vật liệu thô sơ nhƣ tre lá, đơn giản nhƣ một túp lều. Chủ nhân những ngôi

nhà này thƣờng là những ngƣời nghèo, hoặc thanh niên vừa có gia đình mới xây

dựng cơ ngơi riêng.

2) Nhà chái: Loại nhà có một gian một chái, một gian hai chái, ba gian có

một hoặc hai chái. Trƣờng hợp này cũng giống nhƣ trƣờng hợp trên.

Page 94: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

94

3) Nhà sắp đọi, hay xếp đọi: “Ðọi” (theo tiếng Việt cổ) có nghĩa là cái chén.

Ðây là kiểu nhà có nhà trên và nhà dƣới nối tiếp nhau nhƣ chén bát sắp trong kệ tủ.

Kiểu nhà sắp đọi thích hợp với mặt bằng có chiều hậu sâu, ít mặt tiền nhƣ Cù Lao

Phố.

Có trƣơng hợp kiểu nhà “sắp đọi” chỉ có nhà trên và nhà dƣới thì gọi là kiểu

“chữ nhị”. Có trƣờng hợp nhà dƣới, nhà trên, trƣớc có thêm “thảo bạt” gọi là kiểu

chữ tam; cũng có trƣờng hợp nhà xông sắp đọi, nhà chái sắp đọi, nhà vừa theo kiểu

sắp đọi vừa theo kiểu chữ đinh.

4) Nhà chữ đinh: “Ðinh” (chữ Hán) có nghĩa là “đứa”, là “dân đen”. Ðây là

kiểu nhà xây dựng vừa theo hình dạng “đinh”, thích hợp với ngƣời bình dân tức là

vừa theo nghĩa đen vừa theo nghĩa bóng. Ðây là kiểu nhà truyền thống của ngƣời

Việt đƣợc đƣa từ vùng ngoài vào. Nhà ngƣời Mƣờng ở vùng Thanh Hóa, cũng

thƣờng theo kiểu này.

Nhà chữ đinh gồm hai khu vực. Khu vực nhà trên nằm ngang. Khu vực nhà

dƣới (tức nhà sau) nằm dọc theo hông nhà trên. Có nơi nhà trên có ba gian hai

chái. Có nơi nhà trên là nhà báo căn xông hay nhà trên là nhà có thảo bạt hoặc nhà

trên có ba gian một chái, còn bên kia là nhà dƣới (thay thế một chái) nên đứng

ngoài nhìn vào vẫn thấy cân xứng. Theo nguyên tắc “nam tả nữ hữu”, ngƣời ta

phân ra loại nhà chữ đinh thuận và nhà chữ đinh nghịch. Nhƣ chúng ta biết khi lễ

tết nữ giới ngồi bên hữu, nam giới ngồi bên tả (tính từ trong nhìn ra). Nếu nhà dƣới

nằm bên hữu (nhà dành riêng cho nữ giới) thuận việc lên xuống gọi là “đinh

thuận”. Nếu nhà dƣới nằm bên tả thì gọi là “đinh nghịch”.

Tuy nhiên, từ xƣa ngƣời dân Cù Lao Phố đã ảnh hƣởng lối sinh hoạt của

“nhà chợ”nên khi dựng nhà họ thƣờng tiết kiệm diện tích mặt bằng (thƣờng lòng

căn giữa non 3 m – trong khi ở miền Tây có nơi lòng căn giữa đến 4 m). Do đó nhà

thƣờng chật hẹp. Hoặc cũng do ảnh hƣởng “nhà chợ” nên họ ít cải tiến kiểu nhà.

Do đó tại Cù Lao Phố không có kiểu nhà chữ “công”, nhà chữ đinh có sân trống,

nhà chữ đinh có cầu nối (mục đích lấy ánh sáng và tạo diện tích mặt bằng rộng rãi

hơn).

Dƣới góc độ kỹ thuật, tại Cù Lao Phố có đầy đủ hai loại nhà rƣờng và nhà

rội. Nhà rƣờng là loại nhà có hai hàng cột cái. Nhà rội là loại nhà có một hàng cột

cái. Nhà rƣờng là loại nhà của nhiều nƣớc phƣơng Bắc, có khả năng chống giông

bão. Còn nhà rội là nhà truyền thống Việt Nam và một số nƣớc Nam đảo. Nhƣng

nhƣợc điểm của nhà rội là bộ giàn trò yếu, cột giữa làm nội thất chật hẹp hơn. Do

vì muốn chắc chắn, dƣới cây đòn giông ngƣời ta phải làm thêm một cây “xà co”

(có nơi gọi là xà đầu) song song, nối liền các cột cái.

Trong dân gian có quan niệm những ngƣời trẻ tuổi thì ở nhà rội, những

ngƣời lớn tuổi có quyền thế thì ở nhà rƣờng. Thế nhƣng chúng ta thấy tại Cù Lao

Phố hình nhƣ không có quan niệm này. Chỉ trừ đình và chùa bắt buộc xây theo

kiểu nhà rƣờng, còn dân dã áp dụng theo kiểu này rất muộn (thí dụ nhà rƣờng của

ông Nguyễn Văn Cơ ấp Nhị Hòa làm năm 1931, nhà ông Dƣơng Văn Tựu ấp Tam

Hòa xây năm 1932). Nhìn chung các ngôi nhà thô sơ tre lá đến các ngôi nhà thô sơ

Page 95: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

95

đồ sộ đều theo kiểu nhà rội. Thí dụ nhƣ nhà ông Tống ở ấp Nhị Hòa làm năm

1887, nhà ông Nguyễn Phát Vĩnh ở ấp Nhứt Hòa xây dựng từ cuối thế kỷ XIX, tuy

bộ giàn trò bằng danh mộc, trính lục lăng, kèo vỏ đậu, chạm trổ tinh vi, nhƣng đều

xây theo kiểu nhà rội. Muộn hơn nhƣ nhà ông Tạ Văn Trinh xây dựng khoảng năm

1930 với nguyên liệu gạch đá gỗ quí. Hoặc hiện nay nhiều ngôi nhà xây dựng với

nguyên liệu hiện đại, kiên cố nhƣng vẫn làm theo kiểu nhà truyền thống này. Đây

là điểm đặc biệt của Cù Lao Phố, khác hẳn với quan niệm với các địa phƣơng khác

ở Nam bộ, đặc biệt khác với vùng Tiền Giang, Hậu Giang.

III. CÁCH BÀI TRÍ VÀ ĐỒ DÙNG TRONG GIA ĐÌNH.

Bất cứ một ngôi nhà nào chủ nhân dù nghèo hay giàu, diện tích dù rộng hay

hẹp, nhà ở luôn bố trí theo nguyên tắc là chia làm hai phần: Nhà sau là khu vực ăn

ở của các thành viên trong gia đình. Nhà trƣớc là khu vực thờ phƣợng tiếp khách,

chiếm vị trí ƣu thế so với nhà sau. Ở Cù Lao Phố, còn ảnh hƣởng truyền thống từ

Trung bộ đƣa vào, lại kết hợp với truyền thông sinh hoạt của loại hình cƣ trú phố

xá nên từ xƣa đã có thói quen xây dựng nhà cửa chật hẹp, bên trong trang trí đơn

giản, dù chủ nhân ngôi nhà ấy giàu hay nghèo. Điều này khác với miền Tây.

Ở miền Tây, do nhà cửa thƣờng rộng rãi nên có hai khu vực tiếp khách.

Khách thân quen thƣờng tiếp ở nhà sau, hoặc nhà ngang; chỉ có khách đặc biệt mới

đƣợc tiếp ở nhà trƣớc và chỉ mở cửa khu vực này khi cần thiết. Trái lại, tại Cù Lao

Phố dù khách thân hay sơ đều đƣợc tiếp tại nhà trƣớc. Đó là do nhà cất theo lối

“xếp đọi” theo kiểu phố xá, cửa nhà trƣớc phải mở suốt ngày. Những ngôi nhà cổ

của các vọng tộc giàu có, tƣơng đối rộng nhƣ nhà họ Tống (ở ấp Nhị Hòa), ba gian

nhà trƣớc cũng chỉ để ba bộ bàn dài, hai bộ bàn tròn, hai bên trái để thêm hai bộ

bàn tròn khác. Nhƣ thế thì khi có giỗ chạp dù khách nam hay nữ cùng đƣợc tiếp ở

đây. Còn các ngôi nhà khác, nhà trên thƣờng chỉ có một bộ bàn dài để tiếp khách

nam, một bộ ngựa để tiếp khách nữ. Ban đêm, bộ ngựa này có thể làm giƣờng ngủ

cho khách hoặc cho một số thành viên nam giới trong gia đình, tuyệt đối đàn bà

con gái không đƣợc ngủ ở đây. Các ngôi nhà cổ khác, tại gian nhà giữa thƣờng đặt

một bộ bàn ghế tròn “bành tƣợng” của thợ ngƣời Hoa đóng tại Chợ Lớn, hoặc bộ

trƣờng kỷ có chạm khắc từ Lái Thiêu đem xuống bán. Các nhà tân thời (từ năm

1945 trở lại đây) thƣờng đặt một bộ salon. Hình nhƣ theo quan niệm của ngƣời dân

Cù Lao Phố không chú ý đến hai chiếc tủ đứng để quần áo, hai chiếc tủ “búp –

phê” để chén bát hay đồ gia dụng, hoặc hai bộ ngựa ở nhà trên theo thói quen của

bà con miền Tây.

Khu vực thờ phƣợng là khu vực trang trọng nhất trong nhà. Khu vực này

thƣờng đặt sát vách dƣới cây đòn giông nhà. Thông thƣờng mỗi nhà có một bàn

thờ gia tiên và mấy cái khánh thờ thần bản gia – thần bản mệnh. Các nhà cổ nhƣ

nhà ông Tống Đình Hêu (ở ấp Nhị Hòa) nhà ông Tạ Văn Trinh (ở ấp Nhứt Hòa)

nguyên thủy có hai bàn thờ: bàn thờ bên tả thờ cha mẹ, bàn bên hữu thờ ông bà.

Gian giữa có trang thờ Phật, Định Phƣớc Táo Quân, Phƣớc Đức Chánh Thần ở trên

cao. Đây là mô hình bài trí khu vực thờ tự tiêu biểu nhất, phổ biến nhất tại Cù Lao

Phố. Gần đây các gia đình ấy lại phá vỡ mô hình bài trí này bằng cách đặt dƣới

Page 96: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

96

trang thờ ở gian giữa một cái bàn hay một cái tủ thờ, gọi là bàn “Hội Đồng”, cũng

thờ chung từ Phật Thánh Thần. Nhà Bà Phạm Thị Tứ (ấp Nhị Hòa) cũng có cách

bài trí tƣơng tự nhƣng bàn thờ giữa thờ ông bà tổ tiên, bàn bên trái thờ gia tiên bên

nội, bàn bên phải thờ gia tiên bên ngoại. Trên cao gian giữa có trang thờ Phật, Táo

Quân và Tổ Sƣ (vì gia đình này làm nghề thợ hồ). Tục thờ Phật và các vị Thần tiên

ở trên cao và đặt tại gian giữa, hai gian bên làm nơi thờ tự ông bà cha mẹ là cổ tục

còn giữ đƣợc bảo lƣu tại Cù Lao Phố, các nơi khác đã biến mất. Lý do hình nhƣ

gần đây ngƣời ta thích thờ tổ tiên tại gian giữa để đƣợc tự do sắm các tủ thờ, bộ

đỉnh đồng, bức tranh thờ và các đồ tự khí có tính cách phô trƣơng, không thờ tổ

tiên tại gian thờ giữa là tục cũ, hạn chế hơn. Hơn nữa tục thờ Thần Phật trên trang

cao tuy có ý nghĩa nhƣng bất tiện trong việc nhang đèn hàng ngày.

Tại Cù Lao Phố, ngƣời ta cũng thờ “Tổ Cô”, tức là những vong hồn thành

viên trong dòng họ thích non trẻ. Đây là những vong hồn chết “bất đắc kỳ tử”. Do

ảnh hƣởng Phật giáo sâu đậm nên vùng Thừa Thiên chỉ đƣợc thờ trƣớc sân, trong

những ngôi miếu. Còn ngƣời Hoa thì các vong hồn “Tiên cô, Tiên hữu” đƣợc đƣa

vào nhà thờ chung với Long Thần, với Thần Tài. Trong khi ở Cù Lao Phố, nhƣ tại

nhà ông Bì Long Thạch (ấp Nhị Hòa) thì Tổ Cô đƣợc đƣa vào nhà, tất nhiên chỉ

đƣợc thờ trên vách hông, không đƣợc thờ chính vị nhƣ gia tiên.

Các gia đình nghèo, thƣờng thờ Tổ tiên bằng một chiếc ghế hay một cái tủ

bằng gỗ tạp. Các gia đình khá giả thƣờng làm bàn thờ theo truyền thống, gồm có

hai phần: Trong là cái “ghế cơm” đặt sát vách, ngoài là cái ghế hoặc cái tủ cao hơn.

Cái ghế hay cái tủ này thƣờng bằng gỗ quí có chạm trổ, hoặc khảm xà cừ. Ở Cù

Lao Phố, đa số các gia đình đều thích sắm cái “ghế thờ”, đây là thói quen cũ, có lẽ

bắt nguồn từ danh từ “giƣờng thờ”. Tục thờ gia tiên bằng tủ mới xuất hiện khoảng

năm 1930 trở lại đây, nên không có cái tủ nào cổ và đẹp nhƣ ở các nơi khác. Trên

bàn thờ có nhiều tự khí nhƣ đỉnh đồng, dĩa ngũ quả, chân đèn đồng, bình hoa, kỷ

trà, xƣa kia còn có cặp tô đựng nƣớc súc miệng (vì tục ăn trầu còn phổ biến). Tất

nhiên không thể thiếu hai tự khí quan trọng là “bài vị” và bát hƣơng (mà ngƣời địa

phƣơng gọi là “nồi nhang”). Thế nhƣng quan niệm thờ bài vị đã thay đổi theo thời

gian. Hiện nay phổ biến thói quen thờ bằng ảnh chân dung. Xƣa kia, trên bàn thờ

còn treo những bài “minh” viết bằng chữ Hán, hai bên có câu đối. Sau thay thế bài

minh bằng bức “đại tự”. Nhiều gia đình còn thích treo trên bàn thờ những bức

tranh phong cảnh vẽ trên vải bố, do các thợ vẽ ở địa phƣơng hoặc các bức tranh vẽ

sau kiếng từ Lái Thiêu hoặc Chợ Lớn đem về bán. Nội dung loại tranh thờ này vẽ

một dòng sông, một rặng cây, một xóm nhà, xa xa là một chiếc thuyền buồm, trên

trời có đàn chim đang bay lƣợn. Nội dung hàm ý câu “cây có cội, nƣớc có nguồn”,

cũng hàm ý chúc tụng “vinh hoa phú quý”, “đất lành chim đậu”.

Phía sau bàn thờ thƣờng ngăn ra một hoặc ba phòng, thƣờng chỉ có gia đình

nghèo mới dùng nơi đây làm phòng ngủ cho các thành viên trong gia đình, nhất là

phái nữ vì nam giới và trẻ con có thể nằm ngủ ở phía trƣớc. Trƣớc đây cƣ dân Cù

Lao Phố chủ yếu nằm chõng tre, nghèo lắm cũng đóng tấm sạp tre, gác trên bốn

chân đóng thẳng xuống nền nhà đất. Trên chõng có trải chiếu. Ở Cù Lao Phố có

ngôi chợ tên là “chợ Chiếu” có lẽ nơi đây có vựa bán chiếu, nên xƣa nay ở địa

Page 97: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

97

phƣơng này không có tình trạng dân ngủ ổ rơm, hay ngủ đệm bàng nhƣ ở nơi khác.

Xƣa nay, chiếc gối nằm Cù Lao Phố thƣờng là gối vải dồn gòn hay dồn rơm.

Nhƣng trƣớc kia có ngƣời thích nằm gối bằng 1 lóng tre, bằng một trái dừa khô

lép, bằng một khúc gỗ, cá biệt những ngƣời gốc hoa thích nằm gối sành, gối sứ.

Gần đây tại Cù Lao Phố mới có giƣờng thùng, sạp gỗ từ Hố Nai đem về bán.

Chỉ có những gia đình đƣợc gọi là “từ đƣờng” do phía trƣớc dành cho khu

vực thờ tự và tiếp khách chiếm khá nhiều diện tích nên các phòng này chật hẹp,

nếu không làm cửa sổ thì tối lắm. Hơn nữa, do đƣợc tiếng là nơi “thờ tự” nên ít ai

muốn dùng nơi này làm phòng ngủ. Do đó, các phòng này thƣờng làm nhà kho

chứa các đồ tự khí, các vật qúi giá. Trƣớc kia, nhiều gia đình thƣờng chứa các vật

dụng này trong “rƣơng xe” hoặc “giƣờng hòm”. Rƣơng xe là chiếc thùng to, trên

có nắp, có khóa dƣới có bánh xe gỗ để di chuyển. Có nhiều chiếc rƣơng xe bằng gỗ

quí, chạm trổ, sơn thếp đẹp đẽ. Còn giƣờng hòm là chiếc giƣờng hộp giống nhƣ

một cái thùng to sát đất, các loại đồ đặc biệt quí giá đƣợc bỏ vào thùng này, đậy

nắp lại, trên trải chiếu nằm ngủ.

Nhà dƣới là trung tâm sinh hoạt của gia đình, nhƣng vị trí, cơ ngơi, diện tích

dành cho nó không bằng nhà trƣớc. Nhƣng cũng có gia đình nhƣ gia đình họ Tống

con cháu sau này xây dựng phía sau ngôi từ đƣờng cổ kính này một ngôi nhà mới

kiên cố, tiện nghi và rộng rãi hơn để làm nơi sinh hoạt nghỉ ngơi. Nhà dƣới cũng

có thể đặt một bàn dài, một bộ bàn tròn, hoặc một bộ ván bằng gỗ loại thƣờng. Đây

là nơi dọn cơm ăn hàng ngày hay dùng làm nơi tiếp khách, dạng khách thân thuộc

nhất.

Cạnh đó là khu vực nấu ăn gồm “củi bếp”và “củi chén”. Củi bếp là một cái

bàn cao trên đổ một lớp đất trộn tro nện cứng rồi lót mấy viên gạch phía trên. Trên

củi bếp để mấy cái hỏa lò, hoặc cà ràng, bên cạnh nếu còn chỗ trống thế nào cũng

có mấy hũ mỡ, hũ muối, tiêu, đƣờng hoặc mấy chai nƣớc mắm. Một số nhà còn có

thêm một số lò nấu của địa phƣơng tự chế có thể đốt bằng trấu, bằng mạt cƣa hay

than, ở đại phƣơng có tục kiêng không đặt bếp sát mặt đất. Củi chén là cái tủ cao

dùng đựng chén bát và thức ăn. Bốn chân cái củi chén này phải đặt trên “tƣợng cù

lao” xung quanh đổ nƣớc hoặc dầu nhớt để các loại kiến không thể bò qua cái củi

chén để tìm thức ăn. Hiện nay chỉ có một số ít gia đình sắm đƣợc tủ lạnh vì lý do

kinh tế còn eo hẹp và chƣa có thói quen dự trữ thức ăn nhƣ bà con vùng thành phố.

Trong việc bếp núc có nồi, niêu, trã, ơ và kể cả cái nồi làm giá đậu xanh

cũng làm bằng gốm, sành… sản xuất tại Biên Hòa, Chợ Lớn hoặc tận Châu Đốc,

Rạch Giá. Trƣớc kia phổ biến là dùng nồi đồng để nấu cơm. Nồi đƣợc gọi theo gạo

nấu cho ngƣời ăn, từ nồi một, hai, ba, bốn… ba mƣơi, bốn mƣơi. Đồ đồng, thƣờng

những gia đình khá giả mới có đƣợc chảo đồng, thau đồng, nồi mâm đồng trƣớc

đây là thứ đồ dùng quí giá, đƣợc dùng cẩn thận và để dành cho con cháu đời sau

nhƣ một thứ của cải. “Nồi đồng, mâm thau” cũng nhƣ câu “rƣơng xe, giƣờng hòm”

là thành ngữ chỉ ngƣời giàu có. Về sau, soong chảo và nhiều vật dụng khác bằng

nhôm hay gang đã đƣợc dùng phổ biến thay thế cho đồng và sành. Địa phƣơng

Page 98: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

98

thƣờng dùng cái chảo không đáy, là loại chảo đặc biệt vừa giúp ngọn lửa gom vào

nồi nấu, vừa cản bớt khói cho nồi nấu sạch sẽ hơn.

Trong việc ăn uống, ngƣời ta dùng chén, dĩa, đũa, muỗng và những cƣ dân

quanh vùng. Chén, bát, muỗng nếu giàu có thì sử dụng hàng Trung Quốc, hàng

Nhật Bản, hàng Pháp, nếu nghèo thì sử dụng hàng Lái Thiêu. Ngày nay, uống trà

hay dùng ly thủy tinh, nhƣng xƣa kia uống trà Huế thì dùng tô lớn. Ngƣời đi ruộng

thì xách nƣớc mƣa đựng trong những cái bình bằng gốm Biên Hòa. Ở nhà thì đựng

trong những cái lọ gốm, có nắp đậy cũng bằng gốm, gọi là cái “bù đệt”.

Bộ đồ chuyên dùng cho ngƣời làm bếp kể một cách đầy đủ thì có: đũa bếp,

đũa than. Đũa bếp có hai loại: một loại dùng để xơi cơm và một loại dùng để bới

cơm. Đũa than giống nhƣ đũa ăn nhƣng to hơn dùng để gắp than. Chuyện bếp núc

ở Cù Lao Phố rất quan trọng, nó đánh giá khả năng nữ công, nữ hạnh của giới nữ

trong gia đình. Nhìn vào bếp thấy bừa bãi, dơ dáy, bếp lửa lạnh tanh trông nhƣ gà

bƣơi thì phụ nữ ở trong nhà không đƣợc đánh giá cao. Do đó, khi làm bếp xong

phải lấy cái chổi rơm (hay chổi bằng cọng dừa nƣớc đập dập) quét dọn sạch sẽ,

không còn thấy tro rơi vãi lung tung. Khi tro than đã đầy, phải hốt dọn, đem đổ có

nơi có chỗ. Dụng cụ hốt than hình cái muỗng, phổ biến làm bằng thiếc, nhƣng bình

dân nhất là chỉ lấy phần đầu của cái mo nang dừa.

Giẻ nhắc là một cái gối trong độn vải dùng để nhắc nồi ơ, phổ biến nhất lúc

còn dùng nồi chảo bằng đất nung hay đồng thau. Nay có nhiều soong chảo quai

làm bằng chất cách nhiệt, không cần phải dùng giẻ. Tất cả nồi, ơ, xoong, chảo…

khi nhắc xuống đều đƣợc để trên rế nhằm khỏi vấy lọ nghẹ và có thể bƣng qua nơi

khác không bị nóng tay. Rế đan bằng mây hay nan tre.

Đũa con, vá múc, muỗng cũng có điểm khác biệt hơn các vùng khác. Đũa phổ

biến là đũa tre gai, sẵn có tại địa phƣơng. Ngoài ra còn gia đình sử dụng đũa sống

lá từ miền Trung đem vào bán. Hai loại đũa này dẻo chắc, giở chè trôi nƣớc không

bao giờ gãy. Những nhà giàu có sử dụng đũa mun, đũa xƣơng, đũa bịt bạc, khảm…

Muỗng thƣờng bằng gốm, sứ. Xƣa kia có loại muỗng làm bằng gáo dừa hay đồng,

can chạm trổ khá đẹp. Giờ thì những thứ này đa phần là đồ nhôm.

Vật dụng để chẻ, bửa, đốn gồm búa, búa mồng, rìu, rựa, rựa quéo, rựa đốn

mía, chàng, đục… tƣơng đối giống miền trung hơn miền Tây Nam bộ.

Vì vật dụng dùng trong gia đình còn có dao cau: dao bửa cau, rọc trầu. Dao

xếp hiệu con chó cũng là loại dao cau tiện và lợi, nhƣng là hàng nhập bán ngoài

chợ. Ngoài ra còn có dao yếm, dao phay dùng để chặt xƣơng, làm cá; mác vót

dùng để chặt cành hay vót nan; dao xắt chuối là loại dao cán dài, lƣỡi dài, mỏng

mép chuyên dùng để xắt chuối cho heo ăn. Hiện nay bên cạnh những loại dao cổ

truyền nay còn có loại bằng thép trắng hay inox mua ngoài chợ.

Trƣớc kia, dân địa phƣơng đốt bằng đèn đậu phộng, dầu cá, phổ biến nhất là

dầu mù u. Đốt dầu phộng, mỡ cá hay các loại mỡ khác phải có thếp đèn bằng sành,

tim chỉ. Còn đốt dầu mù u có hai cách: cách thứ nhất nấu hạt mù u, ép lấy dầu, rồi

quết dầu này với bông gòn và vấn xung quanh cọng dừa trông nhƣ một cây nhang

Page 99: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

99

to. Khi đốt đèn thì “cây nhang”mù u này sẽ cháy nhƣ ngọn nến. Cách thứ hai đơn

giản hơn, luộc sơ hạt mù u rồi xắt thành lát mỏng, xỏ những lát mù u này bằng

cọng dừa, phơi khô rồi cũng đốt nhƣ thế. Đèn mù u tuy lờ mờ nhƣng khi đốt có

mùi thơm nhƣ đèn dầu phộng, không ô nhiễm. Đèn sáp chỉ dùng khi cúng tế. Đèn

bạch lạp dùng cho đám ma. Hoàng lạp dùng cho đám giỗ đám cƣới, có khi sơn đỏ

cho phân biệt hơn. Ngày nay đèn điện, đèn pin dùng rộng rãi, dầu lửa không phải

là hiếm. Dầu lửa đƣợc sử dụng phổ biến từ những năm sau đầu thế kỷ này cho nên

ở địa phƣơng các loại đèn bão, đèn tọa đăng, đèn huyền đăng (đèn treo, dây treo có

chạm trổ), đèn lồng kiếng (cung đăng Trung Quốc)… trở thành loại đồ cổ.

Đình Bình Tự

Page 100: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

100

Một ngôi nhà chữ Đinh tiêu biểu ở

Cù lao Phố

Page 101: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

101

“Thƣ pháp” khắc trên gỗ

ở Đình Tân Giám

Page 102: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

102

Di đà Tam Tôn (ciment)-

tập thể nghệ nhân Nguyễn Văn

Sáu, Nguyễn Văn Sảnh, Đào

Văn Lƣơng, Nguyễn Văn Lào.

Hiện tồn ở chùa Phƣớc Long

Ngọc Hoàng và Nam Tào, Bắc Đẩu

(gốm đất nung sơn màu) - chùa Hoàng Ân

Page 103: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

103

Bà và hai cô – gốm đất nung sơn thiếp – chùa Hoàng Ân

Page 104: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

104

Chùa Ông - Thất phủ cổ

miếu. Di tích hiện tồn, trùng tu

1895. Trên mái: nhóm tƣợng

của gốm Cây Mai (lò Bửu

Nguyên tạo), Cột đà, tƣợng nhỏ,

tƣợng lân, rầm bạ… đá Biên

Hòa (thợ trạm đá Bửu Long tạo)

Mảnh đồ gốm đất nung ở bến Miểng Sành

- rạch Lò Gốm

Page 105: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

105

Page 106: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

106

Page 107: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

107

Từ trái sang

phải: Bồ tát

Chuẩn Đề (gốm

đất nung) của

Nguyễn Văn Sáu

(Sáu U). Bồ tát

Công Đức Lâm

(?) - gỗ - chùa

Thủ Huồng

Page 108: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

108

Chạm khắc gỗ trong nội thất nhà

cổ ở Cù lao phố (nhà cô giáo Hòa)

Page 109: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

109

Chi tiết khuôn bông chạm lộng

Page 110: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

110

Năm vị Minh Vƣơng và hai Phán quan (gỗ) – chùa Đại Giác

Tiêu diện Đại Sĩ (gỗ)- chùa

Phƣớc Hội

Page 111: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

111

Tiêu diện Đại Sĩ (gỗ) – chùa

Đại Giác

Tƣợng thờ ở chùa Ông: Thiên Hậu Nguyên Quân (gỗ, giữa); Thiên Lý

Nhãn (gốm, trái); Cửu Thiên Huyền Nữ (gốm, sau)

Page 112: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

112

Hai

ảnh bên:

Tƣợng thờ

ở tầng dƣới

Quan Âm

Các (chùa

Ông)

Huyền Đàn

Triệu

Nguyên

Soái; Thái

Tuế (giấy

bồi)

Page 113: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

113

Bộ Di Đà Tam Tôn (gỗ thếp vàng). Theo

truyền thuyết là do vua Đạo Quang dâng

cúng cho chùa Thủ Huồng/Chúc Đảo/Chúc

Thọ

Phật A Di Đà – Tƣợng

mục đồng (đất sét) – chùa

Phƣớc Hội

Page 114: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

114

Tô Sen – gốm Biên Hòa của nghệ

nhân Nguyễn Văn Sảnh

Phật Di Lặc (gỗ) –

chùa Phƣớc Hội

Page 115: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

115

Lƣ hƣơng (đúc đồng) –

nghệ nhân Nguyễn Văn Banh

Vật liệu xay giã có cối xay đan bằng tre, có chân bằng gỗ, bên hông có gắn

giàn xay. Loại này dùng để xay lúa. Ngoài ra còn có cối xay bột bằng đá, cối giã

gạo bằng gỗ hay bằng đá, cối đâm tiêu bằng gỗ, đá, hay gốm. Tuy gọi bằng cối giã

gạo nhƣng thực ra còn dùng để quết chuối nuôi heo, quết bánh phồng ngày Tết.

Nhiều ngƣời quết bằng tay, nhƣng có một số gia đình làm giàn gắn chày đạp, dùng

Page 116: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

116

chân đạp ít tốn công sức hơn. Trƣớc kia các vật dụng đá đƣợc chế tác từ Quảng

Nam hoặc Phú Yên chở vào bán, đó là loại vật dụng bằng “đá ghe bầu”. Khoảng

thế kỷ này, các vật dụng này cũng làm theo mẫu ấy, nhƣng lại bằng đá xanh, của

nhóm thợ ngƣời Hoa làm từ núi Bửu Long (Biên Hòa) bền chắc và rẻ hơn.

Vật dụng đo lƣờng chất rắn phổ biến nhất là giạ, để đong lúa, gạo. Mỗi giạ cỡ

là một vuông hay 35 lít 953. Khi thực dân đô hộ đã làm tròn thành 40 lít. Dƣới giạ

có táo bằng 20 lít. Ngoài ra còn loại thùng 5 lít và trong các gia đình sử dụng phổ

biến nhất là lon 1 lít. Trong dân gian còn sử dụng lon bơ để đong lƣờng gọi là “một

bơ” bằng nửa lít, hoặc một “lon”, một “bò” bằng 1/3 lít. Đơn vị đo lƣờng chất lỏng

cũng bằng lít, nhƣng trong thực tế lại có “xị”, chai xá xị bằng 1/4 lít. Đơn vị đo

lƣờng chất rắn là “ký lô gam” (thƣờng gọi là ký). Nhƣng thực tế tạ (tạ ta) bằng

60kg, cân (cân ta) bằng 600 gr vẫn còn sử dụng. Ngoài ra, vẫn còn qui định địa

phƣơng nhƣ chục bằng 10 hay 12 hoặc 14; một thiên lúa có 100 giạ, một thiên lá

lợp nhà là 100 tấn trong khi một “trăm” cọng lang là 65 đôi tức 130 cọng.

IV. PHƯƠNG TIỆN CHUYÊN CHỞ

Ngƣời dân địa phƣơng thƣờng gánh, bƣng, đội, xách… các loại nông sản

thực phẩm khi cần di chuyển gần, hoặc những vật nhẹ, số lƣợng không nhiều. Phụ

nữ Cù Lao Phố có thói quen đội và xách. Gánh thì dùng dùng đòn tre, với đôi

gióng mây, hoặc hai cái móc sắt. Ngƣời Hoa thì gánh bằng đôi đòn gánh gỗ đầu bịt

đồng hoặc nguyên một khúc tre đực. Các vật nhẹ xốp nhƣ rau cải thì dùng bội

đựng. Nặng nhƣ lúa hay cát thì dùng thúng đựng. Nƣớc thì dùng thùng đựng. Tại

địa phƣơng có loại thùng gỗ gánh nƣớc của ngƣời Hoa bán. Sau này dùng thùng

dầu lửa (hiệu con gà cho nhẹ hơn). Một số vật liệu khác nhƣ cát có thể dùng ky do

hai ngƣời khiêng. Di chuyển rơm rạ gần thì dùng đòn xóc gánh, xa thì dùng cột do

trâu kéo, hoặc xe do hai bò kéo. Xe bò còn dùng để chở mía, đất làm gạch ngói, đồ

gốm sứ.

Khoảng 1930 – 1940, tại địa phƣơng còn có xe ngựa đƣa rƣớc ngƣời và chở

hàng hóa ra chợ. Loại xe này đóng bằng gỗ, do một ngựa kéo và có ngƣời xà ích

điều khiển. Ngƣời ngồi ngựa đội nón lông là hình ảnh của những ngƣời giàu có và

thanh lịch.

Gần đây, do sự phát triển giao thông nông thôn là điều kiện cải cách lớn,

chiếc xe đạp và các loại xe gắn máy đã là phƣơng tiện phổ biến tại Cù Lao Phố.

Rất tiếc là hai chiếc cầu băng qua cù lao dành riêng cho xe lửa quá cũ kỹ nên loại

xe tải chở nặng không thể chở hàng hóa đến đây đƣợc.

Cù Lao Phố nằm giữa bồn bề sông nƣớc nên 300 năm trƣớc theo sử sách cũ

là một thƣơng cảng của ngƣời Hoa có nhiều tàu buôn đi biển gặp gió thuận là đến

hoặc đi. Chúng ta hiểu đó là loại ghe khổng lồ đóng bằng gỗ, mũi lái bằng bọc

đồng, dùng buồm cánh dơi. Có thể chủ thuyền và thủy thủ chở hàng hóa đến Cù

Lao Phố bán trực tiếp cho chủ “bao hóa” tại địa phƣơng. Cũng có thể đến đây tạm

nghỉ rồi thuê thuyền của địa phƣơng để chuyền hàng đến các nơi khác. Nhƣ thế

chắc chắn thuở đó tại thƣơng cảng này phải ghe thuyền tấp nập.

Page 117: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

117

Về phần ngƣời Việt, có nhiều loại “ghe bầu”, “ghe cửa” đáy thuyền đan

bằng tre, trét chai, cũng chuyên chở hàng hóa từ miền Trung vào bán. Ở địa

phƣơng có loại ghe chài (tƣơng đƣơng với chiếc “tải” của ngƣời Hoa) là loại ghe

dài khoảng 10 m, rộng khoảng 3 m, mũi và lái nhọn có thể chở đá ong hoặc lúa

gạo, lu hũ đi các nơi. Ghe cui là loại ghe có hình dáng nhƣ ghe chài nhƣng nhỏ hơn

thƣờng chở bƣởi, mía, củi xuống Chợ Lớn bán. Ghe lƣờn là loại ghe độc mộc có

cơi be, dài nhƣ con cá cũng có thể chở nặng nhƣ ghe cui. Loại ghe cui chở cá gọi là

ghe rỗi. Ngoài ra, tại địa phƣơng còn có hại loại xuồng: xuồng ba lá (xuồng bằng

ba tấm ván) có thể chở nặng nhƣng chỉ có thể đi trong những con rạch ít sóng gió.

Trái lại, xuồng vỏ gòn (xuồng đóng bằng nhiều miếng ván) trọng tải ít hơn nhƣng

có thể vƣợt sông lớn. Khoảng 1930 – 1945, tại bến đò Kho (Cù Lao Phố) có trại

của ông Tƣ Ký sản xuất nhiều loại xuồng ghe bằng cây sao hay vên vên, sau

chuyển qua Phƣớc Lƣ. Nói chung nghề đóng ghe xuồng ở đây nay không còn truy

cứu đƣợc.

V. NÔNG CỤ

Theo Ðịa bạ Minh Mạng, tại Cù Lao Phố có 4 loại đất: đất thổ cƣ, đất mộ

địa, đất trồng dâu – mía và ruộng. Thực tế tại đây ngƣời dân chỉ phân ruộng và đất.

Gọi là “đất thổ” hay “đất gò” là loại đất cao ráo hơn đất xung quanh, thƣờng là

giồng hay các gò đất ven giồng. Loại đất này có thể trồng mía, mè, khoai lang, bắp,

đậu v.v… mà xƣa kia có thể trồng dâu. Loại đất này tập trung tại Bình Kính, Bình

Hòa, Tân Giám. Còn ruộng tại Cù Lao Phố là loại đất phù sa mới, bằng phẳng, so

với mặt nƣớc tự nhiên thì không chênh lệch lắm. Ðã gọi là cù lao tức bốn bề là

sông nƣớc, nên vấn đề dẫn thủy nhập điền tại Cù Lao Phố không mấy vất vả. Tại

đây không có ruộng quá cao, tức là sơn điền, cũng không có ruộng quá thấp (tục

gọi là ruộng bƣng, tức trạch điền). Ruộng tại Cù Lao Phố xƣa kia đƣợc xếp vào

loại nhất đẳng thảo điền, có khả năng cày cấy quanh năm, gọi là ruộng đất thuộc.

Tại Cù Lao Phố xƣa kia nông dân chỉ làm một vụ/ năm. Nhƣng theo thực tế

mỗi miếng ruộng có thể làm lúa sớm hoặc lúa muộn. Mỗi vụ lúa đều kéo dài 6

tháng, trong thời gian ấy việc gieo mạ kéo dài non 2 tháng. Lúa sớm gieo mạ vào

tháng ba âm lịch, đến cuối tháng 4 bắt đầu cày cấy và lúa sẽ chín vào khoảng tháng

9 hoặc tháng 10. Lúa muộn gieo mạ vào khoảng tháng 6 cuối tháng 7. Khoảng

tháng 8 tháng 9 bắt đầu cày cấy và đến khoảng giáp Tết hay ra Giêng thì lúa chín.

Nếu gặp những năm hạn hán kéo dài thì ảnh hƣởng đến mùa lúa sớm. Tƣơng tự

nếu ảnh hƣởng lũ lụt, nƣớc sông Đồng Nai dâng cao thì ảnh hƣởng đến mùa lúa

muộn. Trong khi thực tế ruộng tại Cù Lao Phố có thể cày cấy quanh năm.

Rõ ràng là ngƣời dân Ngũ Quảng thiên di vào đây lập nghiệp đã đem toàn

bộ tri thức về nông nghiệp đến. Rồi do việc giao lƣu, nhất là đối mặt với tự nhiên

và trong thực tiễn sản xuất mà công việc sản xuất ở đây về nông cụ cũng nhƣ kỹ

thuật canh tác đƣợc cải tiến ngày càng tiện và lợi.

1) Dụng cụ đốn cây, chặt cành: tại Cù Lao Phố sử dụng chàng đục và rựa.

Page 118: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

118

Chàng đục là loại dao lƣỡi dày, có hình bầu dục. Trọng lƣợng chiếc chàng

đục khá nặng nên có khả năng chặt các cành cây to. Do đó cán chàng đục có rất

nhiều khâu để bảo vệ.

Rựa cũng là loại dao lƣỡi dầy nhƣng dài. Chiếc rựa ở Nam bộ là kết hợp

chiếc rựa quéo (ở miền Trung) và chàng đục.

2) Dụng cụ để phát cỏ

Phát cỏ thì dùng quảng và cù nèo. Cù nèo là cây móc ngắn để cào cỏ. Khi

phát thì tay trái cầm cù nèo, tay phải cầm phảng.

Cây cù nèo thƣờng làm bằng sắt có cán gỗ. Đặc biệt ở Cù Lao Phố có nhiều

ngƣời làm cù nèo bằng gốc tre (loại gốc tre gai ở ven sông) hoặc bằng cành cây

quao (loại cây mọc ven sông, nhẹ bền chắc).

Tại Cù Lao Phố phổ biến loại phảng cổ cò là loại phảng cổ dài nhƣ cổ cò.

Ngoài ra còn một số ngƣời sử dụng phảng cổ lùn (tức là phảng cổ ngắn).

Nhƣng loại phảng này thích hợp cho giới trẻ, vì sử dụng phải tốn nhiều sức lực. Có

một loại phảng khác sử dụng ít sức hơn là phảng cổ lùn lai (cổ dài hơn), ngƣời lớn

tuổi có thể sử dụng.

Ruộng ở Cù Lao Phố chỉ co loại cỏ ngắn nên cây phảng chỉ dùng để chém

bờ, đôi trƣờng hợp mới sử dụng để phát hoang. Do đó tác dụng không cao nhƣ ở

Tháp Mƣời, Cà Mau… Đặc biệt ở Cù Lao Phố không có phảng giò nai (loại phảng

phổ biến vùng Chợ Gạo, Gò Công, Cần Giuộc, Tân An, Mộc Hóa, Trảng Bàng).

3) Dụng cụ cuốc đất

Có hai loại cuốc:

- Cuốc ta là loại cuốc cổ truyền thƣờng do các lò sản xuất tại địa phƣơng:

lƣỡi cuốc ta hình bầu tròn nhƣ tai voi nên có ngƣời gọi là cuốc tai voi hay cuốc tai

tƣợng. Cuốc ta thích nghi với loại đất mềm nên dùng để cuốc đất làm đám mạ,

cuốc đất trong vƣờn.

- Cuốc tây là loại cuốc đúc bán ngoài chợ. Lƣỡi cuốc tây bằng, có chiều dài

hơn chiều ngang. Cuốc tây có khả năng cuốc đất cứng nhƣ cuốc đất giồng vào mùa

nắng, cuốc đất rẫy trông mía hay trồng hoa màu. Ở Cù Lao Phố ít ngƣời dùng đinh

ba, cuốc chỉa để cuốc đất.

4)Dụng cụ đào đất: Có hai loại vá:

- Vá đào là vá dùng đào đất, lƣỡi nhỏ, cong trên cán vá, gần lƣỡi có cái

chông để làm điểm tựa khi xắn đạp.

- Vá bơi tức là loại vá đào và quăng đất, lƣỡi nhỏ cong, đầu cán có cái guốc

để làm điểm tựa khi cầm.

Xƣa kia ngƣời ta còn dùng mai bằng gỗ (lƣỡi bịt sắt) để đào đất. Một số

ngƣời tiếp tục sử dụng xuổng để đào đất. Xuổng là vá lƣỡi dẹp và dày. Một ngƣời

xắn đất một ngƣời ôm đi. Do lƣỡi xuổng dẹp, tác dụng không cao, nên không phổ

Page 119: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

119

biến và đƣợc thay thế bằng cái vá xeo. Vá xeo là một loại vá lƣỡi cong, dày, to.

Khi sử dụng có một ngƣời xắn và xeo đất, một ngƣời khác ôm đi. Vá xeo dùng để

đắp bờ ruộng.

5) Dụng cụ cày đất

Tại Cù Lao Phố có hai loại cày:

Cày bắp (hay cày đõi): Cày bắp là loại cày cổ truyền ở Nam bộ, thích hợp

với ruộng thảo điền. Cày bắp là loại cày chuôi, trạnh, bàn làm nguyên một khối gỗ;

chỉ có náng và bắp rời. Bắp cày bắp ngắn, nếu muốn móc vào ách phải thêm cây

đõi thì mới vừa chiều dài con trâu, ít bị va chạm.

Cày thổ (hay cày Miên): Cày mên là cày của ngƣời Kh’mer cải tiến vừa

thích hợp với loại đất thuộc mà cũng thích hợp với loại cứng. Cày Miên không có

ngáng, bắp rất dài nên không cần có đõi. Bàn cày, trạnh cày và chuôi cày rời

nhƣng đƣợc ráp lại nhờ mộng chốt.

Ở Cù Lao Phố không có ruộng bƣng đầy sình lầy cỏ lác nên không sử dụng

cày chét nhƣ ở vùng Tháp Mƣời.

6) Trục

Sau khi cày xong, cho nƣớc vào ruộng rồi mới trục. Trục là dụng cụ vừa đập

đất nhỏ, vừa dằn xâu để diệt cỏ dại. Trục dài (hoặc bừa dài) dùng cho ruộng đất

mềm nhão để tránh bị lún; gặp đất cứng thì trục (bừa) có thể ngắn hơn.

Trục gồm có ống trục, giàn trục có hai tai và hai gọng trục. Ở Cù Lao Phố có

hai loại trục.

Trục trái khế: Trục có 5 khía dài khoảng 2 m đến 2,2 m. Loại trục trái khế

thích hợp với ruộng đất thuộc.

Trục sắt: Là loại trục cải tiến, bằng sắt, thích hợp với mọi loại đất. Mặc dù

tiện và lợi nhƣng loại trục nặng nề, giá thành cao nên không phổ biến.

7) Bừa

Mục đích của bừa là cào sạch cỏ và đập đất thật nhuyễn. Các bừa ở Cù Lao

Phố cũng nhƣ ở Nam bộ là ngƣời sử dụng phải đứng trên giàn bừa để điều khiển

mà không lội dƣới ruộng nhƣ ở miền Bắc. Ở Cù Lao Phố có 3 loại bừa:

Bừa răng là loại bừa cổ truyền dài từ 2 m đến 2,2 m, có khoảng 9 – 10

răng dài khoảng 0,10 m, bằng tre hay bằng gỗ thật cứng.

Bừa sắt (còn gọi là bừa móc), là loại bừa cải tiến, dài khoảng 1,5 m đến

1,7 m, có 7 hoặc 8 răng, dài khoảng 0,30 m, bằng sắt, hình dạng nhƣ lƣỡi dao,

nhƣng hơi cong cong nhƣ chiếc móc sắt. Bừa sắt thích hợp với loại đất cứng.

Bừa lĩa cũng là loại bừa cải tiến, dai khoảng 2 m – 2,2 m, có rất nhiều

răng móc bằng sắt nhỏ, dài khoảng 0,1 m. Bừa lĩa dùng trong trƣờng hợp đặc biệt

là khi sạ khô xong thì dùng bừa này bừa qua lại nhiều lần (gọi là lĩa). Bừa lĩa cũng

có thể dùng để phá đất cứng, nhƣng không thông dụng.

Page 120: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

120

8) Ách: Khi sử dụng cày trục và bừa đều phải dùng ách. Ở Nam Bộ, chỉ khi

cày ngƣời nông dân mới lội dƣới ruộng để đánh trâu đi tới. Còn khi trục và bừa thì

ngƣời nông dân chỉ đứng trên giàn, tay cầm dây vàm 2 con trâu tiến tới nhƣ anh

xiếc cầm cƣơng ngựa. Trong khi ấy ở miền Bắc khi bừa anh nông dân cũng phải

lội dƣới ruộng.

Khi cày, trục, bừa ở Nam Bộ đều dùng hai trâu nên phải dùng ách đôi. Chỉ

trƣờng hợp khi kéo cộ mới dùng ách chiếc, một trâu. Ách có hình cong nhƣ trái ấu.

Giữa có một sợi dây nài, là một sợi dây tròn khép kín, mục đích móc dính cái ách

và cây đõi, cái móc bắp cày, hoặc hai cây giọng bừa giọng trục. Hai bên ách lại có

hai sợi dây ống dùng để buộc cổ trâu vào ách. Dây nài hoặc da, ống thƣờng kết

bằng dây chuối hoặc vỏ cây tra là loại có sẵn tại địa phƣơng.

9) Cào cỏ

Cào là khúc gỗ dài khoảng 0,5m, có 5 hoặc 6 răng, giữa có cán tre dài.

Ruộng ở Cù Lao Phố ít cỏ nên không có những loại cào đặc dụng nhƣ cào

răng sắt, cào rê (có 2 cán để nắm kéo). Hiện nay cào còn dùng để xới đảo lúa khi

phơi.

10) Dụng cụ gieo mạ, nhổ mạ:

Khi gieo mạ bó buộc phải dùng trang bùn. Trang bùn là một tấm ván mỏng

dài khoảng 0,8 m, giữa có một cái cán bằng tre dài. Loại trang này dùng để cào

bùn cho bằng phẳng trƣớc khi gieo hạt vì lúc trục bừa còn có chỗ lồi lõm không

phẳng. Cũng là loại trang, nhƣng nếu ngắn hơn, hoặc lƣỡi trang bằng sắt là loại

trang dùng để trộn khi phơi lúa.

Nhổ mạ phải dùng bàn nhổ mạ. Bàn nhổ mạ là một tấm phên tre kích thƣớc

khoảng 0,4m X 0,4 m, phía dƣới có cái chân dài khoảng 0,8 m. Chiếc bàn này

dùng để cắm xuống đám mạ. Khi ngƣời nông dân nhổ đƣợc một nắm mạ, đập vào

chân cho văng bớt bùn đất rồi đặt lên chiếc bàn này. Đƣợc năm bảy nắm mạ, có thể

thành một bó to, thì lấy lạt tre buộc lại, khỏi phải khom lƣng.

Cây đòn xóc: Cây đòn xóc là một thanh tre hay một thanh cau già hai đầu

vót nhọn. Hai đầu này sẽ cắm vào hai bó mạ, trƣớc khi gánh.

Mông: Là dụng cụ kéo mạ di chuyển đến nơi khác khỏi phải gánh. Mông là

tấm ván kích thƣớc khoảng 0,5 m X 1,5 m, một đầu có khoét 2 lỗ để buộc dây kéo.

Mạ bó đặt trên tấm ván ấy.

11) Dụng cụ cấy

Ở Cù Lao Phố nông dân dùng nọc để cấy mạ. Vì đất phù sa tƣơng đối mềm

nên đa phần đều cấy tay dùng ngón tay thay nọc, hoặc dùng một cành cây nhỏ để

làm “nọc”, cấy xong thì bỏ.

Cây nọc cấy thƣờng bằng gỗ tốt, dài khoảng 0,25 m, hình bát giác, dƣới

nhon, trên thắt cổ bồng. Ở Cù Lao Phố không có loại ruộng sâu, cũng không có lũ

Page 121: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

121

lụt nên không có “nọc cấy” hay “phảng” cấy lúa cây nhƣ ở vùng Tháp Mƣời hay

Vĩnh Long.

12) Dụng cụ đƣa nƣớc vào ruộng ngày trƣớc, có ba loại:

Gàu sòng: Gàu sòng là loại gàu đan bằng tre, trét dầu chai, nhƣ hình cái

muỗng. Cái muỗng tre này đƣợc buộc dƣới một cái giàn, chỉ cần một ngƣời bình

thƣờng, nam nữ hay trẻ thiếu niên cũng có thể cầm cán gàu múc nƣớc đẩy vào

ruộng. Gàu sòng có thể đƣa nƣớc lên ruộng gò, nhƣng tác dụng không lớn, chỉ có

thể lấy một ít nƣớc đƣa vào đám mạ.

Gàu dai: Gàu dai cũng đan bằng trê, tròn nhƣ cái ly nhọn đít, trét dầu chai.

Hai bên miệng và hai bên đít có buộc bốn sợi dây. Loại gàu này cần hai thanh niên

có sức khỏe sử dụng, mỗi ngƣời nắm một sợi dây miệng và một sợi dây đít, phải

uốn vặn mình mới tát đƣợc.

Xa đạp nƣớc: Xa đạp nƣớc là dụng cụ có thể đƣa nƣớc lên ruộng với số

nhiều mà ít tốn sức lực. Xa đạp nƣớc gồm: hệ thống cánh quạt và vỏ hộp, đều bằng

gỗ.

Hệ thống cánh quạt gồm tám cánh, gắn xung quanh một cái trục, cái trục này

khá dài, mỗi bên đều có gắn cái bàn đạp.

Vỏ hộp là một cái thùng bọc một phần tƣ hệ thống cánh quạt, gắn liền với

hai cây trục. Hai cây trục này vừa có chức năng là trục cắm xa quạt xuống đất, vừa

có chức năng là giá đỡ hệ thống cánh quạt, trên đầu lại có hai cái lỗ để xỏ một

thanh tre nằm ngang dùng làm tay vịn. Cửa vỏ hộp nơi đƣa nƣớc vào xả thấp hơn

cửa vỏ hộp nơi đƣa nƣớc ra ruộng khoảng bốn tấc.

Khi sử dụng thì đắp bờ kín hai bên hông xa quạt. Hai nông dân bƣớc lên xa,

tay cầm cây vịn, mặt quay vào ruộng, họ bƣớc tự nhiên trên các bàn đạp nhƣ đi

bách bộ, nƣớc chảy ào ào, có thể tràn khắp khu ruộng.

Dụng cụ cắt gặp lúa:

Trƣớc kia, nông dân Cù Lao Phố đều cấy lúa sớm hay cấy lúa muộn (gọi

chung là lúa mùa) là loại lúa cao giàn nên phải dùng hái để gặt. Hái là một cù nèo

bằng nhánh tre hay nhành cây, bên hông có gắn một lƣỡi hái ngắn.

Khoảng 1960 – 1964, nông dân Cù Lao Phố bắt đầu cấy lúa cao sản, là loại

lúa lùn nên phải dùng liềm để cắt lúa. Liềm đƣợc cắt chấu và gắn vào một khúc gỗ

làm cán. Liềm có thể cắt lúa đập bồ hay lúa suốt máy thủ công. So với liềm thì hái

khó sử dụng hơn công dụng của cù nèo là tóm một nạm lúa thành một “bó”, nắm

chặt trong tay và liềm sau đó xoáy lƣỡi hái lại hớt ngang thân lúa.

Dụng cụ đập lúa:

Bây giờ có máy suốt lúa, rồi máy phóng tự động nên ít khi đập lúa bằng bồ.

Bồ gồm chân bồ đóng bằng ván có tác dụng nhƣ cái thùng chứa. Chân bồ có hai

tấm ván cong cong, nhƣ chiếc hài, hai đầu có lỗ để buộc dây kéo. Trong bồ có đặt

cái thang ngắn bằng tre. Muốn cho lúa khỏi văng, bên ngoài có tấm bồ đan bằng

Page 122: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

122

tre hình loa kèn, bên ngoài phết phân trâu phơi khô. Ngƣời nông dân phải dùng cây

cặp bó lúa đập vào chiếc thang tre này. Trƣớc kia, có ngƣời gặt lúa xong gánh đem

về nhà. Nếu ít thì cũng dùng cặp cặp lúa đập vào chiếc cối giã lập úp. Nếu nhiều

thì dùng trâu đạp. Nếu đạp trâu thì hải dùng “mỏ say” trộn đều.

Dụng cụ phơi, giê lúa và dự trữ lúa:

Cũng nhƣ các địa phƣơng khác, khâu thu hoạch cuối cùng là giê và phơi lúa.

Lúa thƣờng đƣợc phơi trên đệm bàng, sau này đựng bằng bao bàng (bao đay mới

xuất hiện gần đây). Những ngƣời có lúa nhiều hơn nữa thì đựng lúa trong bồ hay

bịch đan bằng tre, trét phân trâu phơi khô. Ngƣời có hàng năm ba trăm giạ thì chứa

trong vựa, trong lẫm xung quanh đóng ván bỏ kho chăc chắn.

Việc giê lúa sạch nếu ít thì nhờ sức quạt bằng chiếu và sức gió. Nếu nhiều thì

dùng xa quạt đóng bằng gỗ tiện lợi. Ngày nay quạt bằng quạt máy.

Rơm rạ phơi trở bằng “mỏ say”. Một số nông dân chất thành “cây rơm” dùng

làm thức ăn cho trâu bò. Một số khác chất thành liếp ngoài trời để lấy nấm rơm.

Còn đa số thu hoạch ruộng xong, trải rơm ra đốt làm phân bón ruộng.

VI. ĂN UỐNG

Do vùng đất này đƣợc tổ tiên ta khai phá lâu đời, nên ngoài những nét

truyền thống trong sinh hoạt ăn uống bảo lƣu đƣợc, còn có những đặc điểm phát

sinh do điều kiện thực tế tại địa phƣơng: tiếp thu những đặc điểm Âu Tây và một

số dân tộc Á Đông – nhất là đặc điểm của ngƣời Hoa.

1)Hàng ngày lƣơng thực chính là cơm gạo và cá mắm. Tại địa phƣơng có các

loại cá lóc, cá trê, cá rô, cá tra, cá sặt và các loại nhỏ nhƣ cá lòng tong, cá cơm, cá

heo… Ngoài sông lớn có cá ngác, cá lăng, cá bông lau. Ngoài ra còn có ếch, nhái,

cóc, ốc… Các cồn cát còn có ốc gạo… là một loại thực phẩm quý không phải nơi

nào cũng có đƣợc.

Tùy theo nguyên liệu tìm đƣợc và tùy theo thời tiết bên ngoài mà ngƣời phụ

nữ chế biến thành thức ăn cho hợp khẩu vị. Đại khái “mùa nào thức ấy” chớ không

có ý dự trữ lâu ngày. Nét đặc biệt là ngƣời dân cù lao Phố vẫn còn giữ đƣợc khẩu

vị chung của ngƣời Việt, xếp theo thứ tự “nhất nƣớng, nhì chiên, tam xào, tứ nấu”.

Các loại món ăn mang dạng nƣớng không mỡ, không nƣớc, giữ đƣợc chất ngon

ngọt nguyên thủy của miếng cá, miếng thịt…đƣợc đánh giá cao hơn chiên xào (vì

có mỡ) hoặc nấu (vì có nhiều nƣớc). Cũng là một loại cá nhƣng ngƣời dân địa

phƣơng chế biến thành món ăn khác nhau. Ăn uống nhiều khi còn là phƣơng thức

chữa bệnh hoặc kết hợp để chữa bệnh. Triết lý âm dƣơng ngũ hành cũng đƣợc vận

dụng khá nhuần nhuyễn trong lĩnh vực này. Thí dụ nhƣ con cá trê vàng thì chiên

vàng dầm nƣớc mắm gừng, thích hợp cho những bữa cơm trong mùa lạnh. Ấy là

do con cá trê vàng nấu chín thì không tanh mà lại dòn, béo. Còn đem nấu canh thì

mất hƣơng vị. Trái lại con cá trê trắng thì lại nấu canh chua, chấm với mắm ớt

hoặc kho, thích hợp mùa náng nực. Do khi nấu chín thịt cá trê dai, nên chất bồi

trong nồi canh chua phải có khóm (để làm cho cá mềm) ngoài ra còn có thể gia

thêm cà chua, giá. Cá trê trắng còn có thể nấu canh với bầu, bí. Nếu cá trê trắng mà

Page 123: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

123

đem chiên nƣớng thì khó chín vì cá thƣờng lớn mà hƣơng vị cũng không ngon. Tại

địa phƣơng có cây nƣa, giống cây dầu bạc hà nhƣng ngứa, do có bông nhƣ da con

nƣa, mà lá non của nó dùng để nấu canh chua không có món gì sánh đƣợc. Do có

kinh nghiệm ăn uống nhƣ thế nên khi có nguyên liệu thực phẩm thì không nhà nội

trợ nào nấu nƣớng trái ngƣợc lại.

So với các thế hệ trƣớc, thế hệ ngày nay đã ăn nhiều thịt bò, thịt heo hơn. Ấy

là do nguồn cá tự nhiên bắt đầu có nguy cơ cạn kiệt. Có khi cá đồng ở miền Tây

lên giá cao hơn thịt gà. Giá tôm càng xanh rất cao do việc xuất khẩu kéo theo các

loại tôm tép khác đều trở nên đắt. Thế mà quan niệm “cá thịt dành cho ngƣời có

tiền, tôm tép dành cho ngƣời nghèo” đã trái ngƣợc lại, và trong dân gian đã nảy

sinh phong trào nuôi tôm cá để tự có nguồn thực phẩm. Thịt heo, thịt bò có thể

quay, nƣớng, chiên, kho, nấu canh, xào… trở thành món ăn ngon hơn cá. Thế

nhƣng trong dân gian vẫn còn ảnh hƣởng truyền thống cũ, có ngƣời vẫn kiêng thịt

chó, thịt trâu (hai con vật tƣợng trƣng cho cần cù trung nghĩa với nông dân) và vẫn

còn ấn tƣợng không tốt với các loại cá biển, cho cá biển là loại thức ăn làm phát

phong ngứa.

Một loại thực phẩm bắt nguồn từ cá là khô và mắm cũng đƣợc đồng bào Cù

Lao Phố ƣa thích. Khô có khô sặc (còn gọi là khô lò tho), khô tra, khô lóc, khô trê,

khô lăng, khô đuối, khô khoai, khô gúng. Cá khô có thể do ngƣời địa phƣơng tự

làm để dùng, cũng có thể do các đại phƣơng khác đem đến bán. Cá khô thƣờng

phải nƣớng hoặc chiên. Ngƣời thích ăn cầu kỳ có thể làm gỏi cá khô với dƣa leo,

rau thơm, khóm.

Mắm thƣờng làm bằng cá lóc, cá sặc hoặc các loại cá đồng khác, mắm cá lóc

thƣờng làm nguyên con, thƣờng gọi là mắm con. Mắm con thƣờng chƣng cách

thủy cùng thịt heo bằm, gia vị thêm hành, tiêu, tỏi, mỡ. Mắm làm bằng các loại cá

đồng nhƣ cá sặc, cá rô… phải quết mềm trƣớc khi cho thính, thƣờng gọi là mắm

quết. Mắm quết thƣờng kho, lƣợc bỏ xác, ăn với rau, là một món ăn không thể

thiếu đƣợc. Phƣơng ngữ có câu:

Cơm với mắm nó thấm về lâu

Hoặc:

Cơm không rau như nhà giàu chết không trống

Ngoài ra mắm còn có thể ăn sống, xé trộn với đu đủ (mắm thái), hoặc bằm

chƣng cùng trứng vịt. Một loại mắm khác của ngƣời Hoa là “hàm dĩ” (ngƣời Việt

gọi là khô cá mặn) cũng đƣợc ngƣời Cù Lao Phố ƣa thích. Đây là loại khô bằng cá

biển, ƣớp muối, hơi ƣơn, phơi không đƣợc khô. Ngƣời ta mua cá mặn về chƣng

cách thủy cùng với trứng vịt và thịt heo bằm nhuyễn.

Về nƣớc chấm có nƣớc tƣơng, tàu vị yểu và nƣớc mắm. Nƣớc mắm có nƣớc

mắm cá đồng và nƣớc mắm cá biển. Nƣớc mắm cá đồng có hƣơng vị đặc biệt

nhƣng ngày nay không phổ biến vì ngƣời làm mắm cá đồng không còn nhiều. Do

đó nƣớc chấm phổ biến là nƣớc mắm cá biển. Bên cạnh đó còn có mắm nêm, mắm

nục… một số ngƣời còn dùng mắm tôn chà (sản xuất tại Gò Công) hoặc mắm tôm

Page 124: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

124

nguyên con (sản xuất tại Rạch Giá). Bên cạnh đó có ba khía, gọi là con nha từ miệt

Bà Rịa, Long Hải, Cần Giờ bắt về làm mắm, một loại mắm từ Cà Mau đem đến.

Ba khía có thể trụng nƣớc sôi rồi xé ra, gia vị thêm đƣờng, tỏi, ớt. Một món ăn tốn

nhiều cơm không thua gì mắm kho.

Bên cạnh các thức ăn chế biến từ cá, ngƣời dân Cù Lao Phố còn ăn rất nhiều

rau, có nhiều loại rau phải trồng nhƣ rau thơm, cải… nhƣng vì đây là vùng đất gần

rừng, có nhiều loại cây hoang đƣợc đồng bào hái lá non làm rau nhƣ tàu bay, săng

máu, vừng, bứa, lụa, sộp, chiếc, choại, kèo nèo, mốp… các loại rau rừng này có đủ

mùi vị chát, chua, thơm đƣợc dùng cho bữa ăn thƣờng nhật, hoặc ăn kèm với các

món nhất định. Rau vừng, chiếc, cải bẹ xanh ăn với bánh xèo, thịt luộc; kèo nèo ăn

sống hay luộc, làm dƣa, nấu canh chua hay xào; mốp thì luộc, xào hay làm dƣa;

ngò nấu cháo giò heo nêm mắm ruốc là một thứ “đặc sản bình dân”mà hƣơng vị

đậm đà đặc biệt…

Cù Lao Phố có rất nhiều tre nên trong các bữa ăn theo truyền thống có nhiều

măng tre. Măng có thể xào, kho, hầm, nấu với thịt heo. Măng tre hầm với giò heo

là một món ăn cổ truyền không thể thiếu trong các ngày giỗ tết. Tại Cù Lao Phố có

một món ăn bình dân khoái khẩu là măng tầm vông luộc, gói bánh tráng cùng với

dừa khô nạo, rau thơm, rồi chấm nƣớc mắm ớt. Đám tiệc thƣờng có măng chua hay

măng khô xào với thịt gà.

2) Bên cạnh các món ăn thƣờng ngày còn có các món ăn đặc biệt dành cho lễ

Tết.

Tại Cù Lao Phố, các ngày hỏi cƣới, giỗ kỵ, ngoài mục đích kỷ niệm ngày

trƣởng thành của nam nữ, ghi nhớ công ơn tổ tiên… còn là dịp để thù tạc chiêu đãi

bà con bạn bè nên tiệc tùng thƣờng tổ chức tƣơm tất. Dịp này, các món ăn thƣờng

đƣợc chọn từ các nguồn lƣơng thực thực phẩm cao cấp, cách nấu nƣớng kỹ lƣỡng,

chủ yếu là đƣợc ngon miệng. Thí dụ nhƣ các món ăn ảnh hƣởng Tây phƣơng nhƣ

thịt nguội, gagôut, Jambon, pâté, rôti. Các món ăn ảnh hƣởng Hoa nhƣ thịt heo

quay, lạp xƣởng, lẩu tiềm, cơm Dƣơng Châu… Các món ăn ảnh hƣởng Ấn Độ nhƣ

cà – ri, ảnh hƣởng Kh’mer nhƣ “xiêm lo”… Mặc dù là các món ăn gốc từ nƣớc

ngoài, nhƣng các món ăn này đƣợc các đầu bếp địa phƣơng chế biến thành món ăn

riêng, hợp khẩu vị đại phƣơng, nên đã trở thành món ăn bản địa, lâu đời.

Thịt heo quay của ngƣời Hoa chấm với nƣớc tàu vị yểu, khử hành sống. Còn

thịt quay của ngƣời dân địa phƣơng thì cũng ăn với bánh hỏi, nhƣng kèm rau sống,

bánh bò, chấm với nƣớc mắm ớt. Cách nấu của ta đỡ ngán hơn.

Bên cạnh các món ăn có tính cách tiệc tùng chiêu đãi đó còn có các món ăn

truyền thống gắn liền với tập tục nghi lễ có tính cách bắt buộc. Những món ăn này

thƣờng đạm bạc nhƣng không canh cải.

Thí dụ:

* Ngày Tết Nguyên Đán nhà nào cũng phải có dƣa hấu, mứt gừng, mứt bí,

mứt chanh, bánh tráng, bánh phồng, bánh tổ (bánh dùng cúng tổ tiên, gốc của

ngƣời Hoa), thịt kho dƣa giá (thịt kho tàu gồm thịt, trứng vịt, nƣớc dừa).

Page 125: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

125

* Cúng đƣa và rƣớc Táo Quân phải có bánh in và thèo lèo.

* Cúng thần Hành Binh Hành Khiển phải có cháo gà.

* Cúng cô hồn phải có cháo vịt, bánh cúng, bánh cấp, bánh ú nƣớc tro, bánh

qui.

* Cúng tuần (cúng ngƣời mới chết) phải có bánh cúng, bánh cấp, bánh ú nƣớc

tro, bánh qui.

* Cúng Rằm và cúng Bà Mụ phải có chè, xôi.

* Cúng Đoan Ngọ phải có cơm rƣợu, bánh ú nƣớc tro, ngƣời Hoa có bánh ú lá

tre (giống bánh trƣng của ngƣời Bắc, nhƣng thịt khô, lạp xƣởng, đậu phộng)

* Cùng thần Thành Hoàng phải có thịt heo.

* Cúng nữ Thần phải có vịt luộc.

* Giỗ phải có bánh ít.

* Đám hỏi, đám cƣới phải có bánh thuẩn.

Tại Cù Lao Phố có bà Hai, bà Tƣ Truyền (ở xóm Tân Giám), ông Mƣời Đá

Hàn chuyên làm bánh bán vào những ngày lễ vía. Trƣờng hợp đặc biệt đột xuất thì

những gia đình này sẽ nhận làm.

Ngoài hai loại thức ăn vừa kể còn có các món nhậu. So với các loại thức ăn đó

thì các món ăn này hấp dẫn hơn do họ tự sáng tạo làm lấy theo kinh nghiệm khẩu

vị của mình. Các món ăn này thƣờng chế biến gia vị cầu kỳ nhƣ món: Gà ƣớp

huyết xào gừng. Tôm, cá lòng tong hay cá chẽm thấu. Trạch nƣớng lá chanh. Trạch

và ghém chua, trạch xào lăn. Gà hấp chao, gà hấp rƣợu. Cá nhúng dấm…

Tất nhiên những món ăn này chỉ có trong một vài trƣờng hợp đặc biệt. Phổ

biến trong quần chúng là món nộm bƣởi, món này chế biến có nhiều sáng tạo riêng

tùy theo từng ngƣời, từng gia đình.

3) Thức uống của dân Cù Lao Phố là nƣớc trà. Tục dùng trà Tàu phổ biến,

nhƣng ở Cù Lao Phố không có thói quen dùng trà tự ƣớp, pha với chén tống, chén

quân, đặt trong khay kỷ chạm cẩn. Xƣa kia có gia đình dùng trà Huế, hoặc chè

tƣơi, hoặc chè khô là chè tƣơi đem cắt ra và giã sơ qua, ủ, đem phơi khô rồi bỏ vào

hũ đậy kín dùng dần dần. Trà Hếu hay chè phải uống tô lớn. nhƣng do không có

mùi thơm nên bị trà Tàu lấn át. Tại địa phƣơng vào mùa viêm nhiệt, ngƣời ta hay

dùng các loại đậu xanh, trắng, nành, đỏ, đen… rang chín nấu nƣớc uống. Khi ăn

cơm xong ngƣời ta có thói quen uống nƣớc lạnh. Tại đây thƣờng dùng nƣớc mƣa.

Nông dân đi làm ngoài đồng cũng thích uống nƣớc mƣa. Theo thói quen họ cho

răng nhƣ thế mới đã cơn khát. Nhân dân Cù Lao Phố đã biết dùng bia, một số

ngƣời dùng rƣợu Tây phƣơng, nhƣng đến nay vẫn còn là “khách qua đƣờng” vì đa

số vẫn thích uống rƣợu đế, hƣơng vị cây nhà là vƣờn, giá cả vừa với túi tiền.

Trầu là đầu câu chuyện trong quan hệ giao tế giữa ngƣời với ngƣời. Trầu cau

cũng là lễ vật quan trọng trong việc cƣới xin, cúng tế. Thuốc lá tuy không đƣợc

đƣa vào nghi lễ, nhƣng từ lâu đã phổ cập trong quảng đại quần chúng. Ngày nay

Page 126: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

126

tục ăn trầu vẫn còn, nhƣng chỉ có những bà già lớn tuổi mới “miếng kia hạ rộng,

miếng này động quan”, còn nhìn chung đã suy giảm. Nhƣng thói quen hút thuốc,

nhất là thuốc điếu đã phát triển hơn các giai đoạn trƣớc. Điếu thuốc thay thế

“miếng trầu là đầu câu chuyện”của nam giới.

VII. SỬ DỤNG CÂY THUỐC TRONG VƯỜN ĐỂ PHÕNG CHỐNG

BỆNH TẬT

Trong những ngày đầu khai hoang, sức khỏe cộng đồng của ngƣời dân Cù

Lao Phố chủ yếu dựa vào kinh nghiệm các bài thuốc dân gian mà họ biết đƣợc từ

quê nhà cộng với kinh nghiệm thực tiễn có đƣợc qua cuộc sống. Mặt khác, các tập

tục mê tín còn tồn tại nhƣ chữa bệnh theo lối thầy pháp, sử dụng âm binh và âm

tƣớng để xua đuổi tà ma cũng đóng vai trò quan trọng không kém tại vùng đất mới

này (nhƣng các thầy pháp này đồng thời cũng là những thầy thuốc nam, biết sử

dụng cây và lá để điều trị cho con bệnh sau khi dùng pháp thuật…).

Qua điều tra thực tế cho thấy y học cổ truyền tại Cù Lao Phố đã tồn tại dƣới

các dạng thức sau:

1. Tiệm thuốc Bắc: Trong những ngày đầu lập ấp là của ngƣời Hoa, trƣớc

kia thành lập bên cạnh chùa Ông với chức năng bốc thuốc cho mọi đối tƣợng (theo

toa hoặc khám và điều trị). Chủ yếu sử dụng thang danh và dƣợc tánh kinh điển

của Trung y trong điều trị (kinh nghiệm là chủ yếu). Thuốc đƣợc chuyển chở từ

vùng Chợ Lớn lên để bán, đa phần là thuốc phiến và một số ít là cao đơn hoàn tán.

Sau đó, các tiệm thuốc bắc đều tập trung về chợ Biên Hòa.

2. Các thầy thuốc Đông y chính thống: giỏi về chữ nho, đƣợc học một cách

bài bản về Đông y trong một thời gian dài, thƣờng là cha truyền con nối, hiểu rõ

Nội, Nan, Thƣơng, Kim(25), có khả năng biện luận về y lý, tự lập phƣơng điều

trị… Thông thƣờng thì những thầy Đông y này có một chuyên khoa riêng biệt, có

nghĩa là có sở trƣờng điều trị một lãnh vực nào đó nhƣ nội kho hoặc giả phụ nhi.

Kiếng họ Nguyễn ở ấp Hƣng Phú là một ví dụ điển hình. Ngƣời thầy thuốc cuối

cùng của dòng họ này là ông Nguyễn Văn Có (mất 1913).

3. Các thầy thuốc nam: Ở đây bao gồm cả thầy pháp (chủ yếu sử dụng thuốc

nam trong điều trị, phù phép là hình thức), và những ngƣời học nghề Đông y

không chính thống. Có nghĩa là thời gian học không nhiều, không có khả năng đọc

đƣợc sách y lý, không lệp đƣợc phƣơng điều trị, không có khả năng phối ngẫu bài

thuốc, sử dụng các toa sẵn có. Do đó, kinh nghiệm là phƣơng pháp điều trị chủ

yếu.

Giá trị của những vị thuốc này tùy thuộc vào 3 điều kiện: một là nơi sinh

trƣởng (giông nhƣ trái cây chúng ta ăn cũng phải chọn vùng đất sinh trƣởng), hai là

phƣơng pháp bào chế (làm tăng giá trị của vị thuốc đó lên, giảm độc tính hay thay

đổi tính chất của vị thuốc…) và ba là liều dùng nhƣ thế nào thì thích hợp. Các thầy

thuốc Đông y không chính thống thƣờng tùy tiện gia giảm và thay thế (có thể để

giảm chi phí cho bệnh nhân, nhƣng thực tế thì phải điều trị dài ngày hơn).

25 Bốn pho sách lớn của đông y bao gồm: nội kinh tốn vấn, nạn kinh, thương hàn luận và kim quỹ yếu lược.

Page 127: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

127

Từ đó, việc đánh giá khả năng điều trị của một số cây thuốc chỉ có ở vùng

Cù Lao Phố nói riêng – Biên Hòa, Thủ Dầu Một nói chung, nói cách khác là những

cây thuốc riêng của miền Đông Nam Bộ tuyệt đại bộ phận không còn đƣợc lƣu

truyền trong dân gian cù lao Phố, kể cả những thầy thuốc nam chuyên nghiệp cũng

chỉ biết một số. Ngay cả trái bƣởi vốn là đặc sản của xứ Biên Hòa – Cù Lao Phố

nhƣng mấy ai biết đƣợc tên gọi của nó là Hựu Thực với công năng làm cho tinh

thần thƣ thái, có thai nhác ăn, đau bụng, trị độc rƣợu, ăn không tiêu… hoặc giả vỏ

bƣởi hay còn gọi là Cam Phao (bỏ lớp vỏ trắng, sao với rƣợu) với công năng thông

lợi trừ đờm, táo thấp trị trƣờng phong hạ huyết, tiêu thũng, trấn thống hòa huyết…

Là một xứ nhiều tre nhƣng mấy ai biết đƣợc công năng của Trúc Nhự và Tre

gai…. Và sau đây là danh mục các cây thuốc nam chỉ có ở vùng Cù Lao Phố -

Đồng Nai và Thủ Dầu Một (126) các vùng khác không có.

* Dây trầu rừng (còn gọi là trầu khỉ): Với công dụng khu phong trừ thấp, chữa

nóng gan, đau đầ, đau mình, thƣ cân hoạt lạc, chữ kinh phong, cảm mạo phong

hàn.

* Dây chọc mao: Với công dụng phát hãn, chữa đau đầu khát nƣớc, nóng

lạnh, trẻ con cam xù, cam tích nóng sốt, thông tiểu tiện, tay chân tê đau.

* Dây Thần sa: Với công dụng phá huyết thống kinh, thiên thời nhệt chứng,

giải khát tiêu thũng, khu thấp lợi thủy, kinh nguyệt bất điều (có thai cấm dùng).

* Dây Quảng mao (còn gọi là Vân Nam Phong Kỷ): Với công dụng tiêu ung

thũng, trị cƣớc khí, mạnh gân xƣơng, hoạt kinh lạc, nhuận táo, chỉ thống, đàn bà

bạch dâm, bạch đới, đàn ông đau lậu đều chữa đƣợc.

* Dây cóc: Với công dụng phá huyết thống kinh, hành trệ trục ứ, chỉ phúc

thóng, sát chƣ trùng, trừ thấp nhiệt, chữa sốt rét (có thai không dùng)

* Dây lộn ruột: Với công dụng thông bàng quang, lợi tiểu tiện, thoái nhiệt, trừ

phiền, giải thấp độc, tiêu ung thũng.

* Cây trà cát: Với công dụng khu nhiệt tà, trừ phong độc, hạ đƣợc ợ hơi, chỉ

nôn, tiêu đờm hóa thực, lƣơng huyết điều khí.

* Dây cám (Mễ khƣơng đằng): Với công dụng trừ no hơi đầy bụng, chỉ thống,

phá tích, chữa sán khí, bổ tỳ vị, lại sốt chữa sốt rét rừng, chói nƣớc, trẻ em ban sởi.

* Dây cổ rùa: Với công dụng thông huyết, tả nhiệt, lợi thủy, tiêu thấp, trừ ung

nhọt, ban chẩn, trị ho suyễn, băng huyết, rong kinh, trẻ con cam đơn, ngƣời lớn

trƣớng sƣng đều chữa đƣợc.

* Dây sống rắn: Với công dụng tả cảnh thiệt, thoái tâm hỏa, lƣơng huyết giải

độc, trừ ung nhọt, mề đay, tiêu cam sát trùng, giải khát trừ phiền, trẻ con nứt môi,

đẹn đều chữa đƣợc.

(26 ) Từ bản chép tay Nam Dược bộ của cụ Nguyễn An Cư (1877 - 1949)

Page 128: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

128

* Cây củ điều: Với công dụng thông kinh hoạt huyết chữa đau bụng, tiêu

phong tán độc, chữa ung nhọt, bƣớu cổ, song đao.

* Cây dọt sành: Với công dụng lƣơng huyết khu phong, thoái nhiệt tiêu độc,

dùng rơ lƣỡi, trị ho hen, các chứng bạch dâm bạch đới.

* Cây huyết rồng: Với công dụng chữa đàn ông mất máu, mộng tinh, đàn bà

huyết khô, băng huyết, chuyên tƣ chân ấm, bổ ích tỳ thận, chỉ khát, chữa nứt môi,

rơ lƣỡi.

* Dây trung quân: Với công dụng trợ khí, hành huyết, tiêu phong thấp, giải

nhiệt độc, mạnh gân, khỏe xƣơng, trục ứ, trừ đờm, chữa tất cả các chứng đau lƣng,

chân tê bại.

4. Các bà mụ vƣờn: Là nhân vật không thể thiếu đƣợc khi y học hiện đại chƣa

đáp ứng đủ về nhu cầu chăm sức khỏe cho bà mẹ và trẻ em. Ðây là những ngƣời

học nghề từ thực tiễn và kinh nghiệm của ngƣời thầy đã dạy cho họ (theo kết quả

điều tra thì mụ vƣờn tại xứ Cù Lao Phố học nghề tại Thủ Dầu Một). Kinh nghiệm

càng nhiều thì càng mát tay, từ chỉnh thế ngôi thai đến đỡ đẻ và cắt rốn… Họ có

thể làm thành thạo những tai biến thì đƣơng nhiên là phải có khi mà điều kiện vô

trùng không bảo đảm, những ca sanh khó chỉ định phải mổ hoặc giả thai chết lƣu…

và những ngƣời đỡ đẻ mát tay, tai biến thì ít thƣờng đƣợc lồng với truyền thuyết

“Mụ trời”, “Ðỡ đẻ cho cọp…” Ngày nay, vai trò của những mụ vƣờn không còn

tồn tại khi mà hệ thống trạm hộ sinh thôn ấp phát triển, ý thức ngƣời dân đƣợc

nâng cao về vấn đề bảo vệ sức khỏe và an toàn cho thai phụ lẫn thai nhi.

5. Các thầy thuốc gia truyền: Ða phần là lƣu dân ngƣời Việt có sẵn một vài

bài thuốc gia truyền mà họ sở đắc đƣợc từ nơi chốn nhau cắt rún (Thuận – Quảng)

nhƣ chữa đẹn cho con nít chẳng hạn, hoặc dùng chích lể để chữa cam tích cho trẻ

con nhƣ gia đình bà Sáu Ðinh Thọ Trà là một ví dụ.

Cũng nhƣ những vùng đất khác, vai trò của y học cổ truyền và những thói

quen sử dụng cây thuốc quanh nhà dần dần biến mất khi xã hội ngày càng phát

triển, có nghĩa là nhận thức của ngƣời dân về bệnh tật đƣợc nâng cao hơn, y học

hiện đại đã góp phần giảm tỷ lệ tử vong trong điều trị đến mức làm cho ngừơi dân

có thể an tâm trong cuộc sống. Những thói quen điều trị bằng phƣơng pháp dân

gian dần biến mất, còn lại chăng là một số phƣơng thuốc xông cảm, trị tứ thời cảm

mạo còn tồn tại trong trí nhớ ngƣời dân. Hoặc giả một số bài thuốc kinh nghiệm rẻ

tiền dễ kiếm, trị một số bệnh chứng khá tốt, là những công thức mà nhƣ ai cũng

biết chứ không phải chỉ riêng ngƣời dân Cù Lao Phố nhƣ dùng lá Ðại tƣớng quân

hơ nóng để bó trặc, uống lá Tầm phỗng, rau má để thanh nhiệt, Tần dày lá chữa ho

cảm, đọt ổi trị tiêu chảy…

VIII. TRANG PHỤC

Về trang phục, theo tƣ liệu thƣ tịch cũ thì vào thế kỷ XVII – XVIII cƣ dân

hai xứ Thuận Quảng “đàn bà mặc áo Chiêm Thành, con trai cầm quạt Tàu”, nhìn

chung là pha trộn lai tạp. Những đặc điểm này chắc chắn đƣợc những ngƣời đi

khai hoang đem vào vùng đất mới. Tiếp theo, sách Gia Định thành thông chí cho

Page 129: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

129

biết vào mùa hạ năm Mậu Ngọ nguyên niên (1738) đời Võ Vƣơng Nguyễn Phúc

Khoát, tức là gia đoạn vùng Cù Lao Phố phát triển, có chiếu lệnh định lại quan chế,

cải cách y phục, đổi phong tục dân gian theo mới. Chúng ta biết, việc trang phục

địa phƣơng ảnh hƣởng Trung Quốc không phải chỉ bắt nguồn từ chiếu lệnh này,

mà còn do sự giao tiếp qua lại với thƣơng nhân Trung Quốc mà thời bấy giờ tại Cù

Lao Phố có số lƣợng rất lớn. Đến đầu thế kỷ XX này, do tiếp xúc với Tây phƣơng,

nhất là ảnh hƣởng phong trào Duy Tân, một số thanh niên đã cắt tóc và vận Âu

phục. Nhƣng đại đa số vẫn thích y phục cổ truyền “nửa Tây nửa Ta” và từ đó đến

nay quan niệm về ăn mặc luôn luôn thay đổi: Thành phần nông dân và tầng lớp lớn

tuổi luôn luôn gìn giữ y phục truyền thống. Còn thành phần lao động trí óc, hoặc

cƣ dân đô thị và thanh niên trẻ tuổi thì thích cái đẹp mới lạ.

Đại khái lễ phục và thƣờng phục nam nữ tại Cù Lao Phố có những điểm nhƣ

sau:

Trƣớc kia, lễ phục nam giới là chiếc áo dài, chiếc khăn đen, kèm chiếc quần

lụa trắng và đôi giầy hàm ếch (tức giày Gia Định). Khi dự đình đám, yến tiệc; khi

đi đám cƣới, đám giỗ; ngay cả khi chủ nhà tiếp khách đều phải mặc lễ phục. Giới

trẻ mặc áo dài vải hay lƣơng màu đen. Già mặc áo màu xanh. Quan lại hay giàu có

thƣờng mặc áo gấm, áo hoa. Tế lễ thì mặc áo rộng xanh bằng vải “địa” nên còn gọi

là áo điạ. Nhƣ thế chiếc áo dài tƣợng trƣng cho nề nếp, lễ nghĩa.

Khăn là một trang phục không thể thiếu trong bộ lễ phục. Trƣớc nay, chiếc

khăn của nam giới đã chuyển qua ba giai đoạn. Đầu tiên, khi nam giới còn búi tó

thì bịt khăn xếp. Khăn xếp là một tấm vải “bùn” (nên còn gọi là khăn bùn) rộng

khoảng 0,5m dài khoảng 3m. Chiếc khăn này đƣợc xếp lại và quấn quanh đầu

nhiều lớp, trƣớc mặt có chữ nhân (chữ Hán). Việc vấn khăn bùn mất rất nhiều thì

giờ nên khoảng 1920 – 1930 có loại khăn “Suối Đờn” đem từ Bình Nhâm đến bán.

Khăn này đã xếp và đóng sẵn. Ngƣời ta chỉ chụp lên đầu và quấn vài vòng là xong.

Loại khăn này gọi là khăn đóng, tiện lợi hơn khắn xếp(27). Gần đây, đa số nam

giới không còn búi tó, nên sử dụng chiếc khăn chụp. Chiếc khăn này cũng bằng vải

bùn, đƣợc may sẵn, chỉ cần chụp lên đầu là xong. Chiếc khăn này giống khứa cá

nên có ngƣời gọi đùa là “khứa cá kho” cũng có trƣờng hợp thanh niên cắt tóc chỉ

mặc áo dài, vận quần tây, đi guốc vông, nhƣng không dùng khăn.

Thƣờng phục hàng ngày của giới nam là bộ bà ba. Ngƣời lao động mặc áo bà

ba bằng vải đen. Trƣờng hợp nóng nực có ngƣời mặc áo lá cụt tay. Những ngƣời

lớn tuổi thích mặc áo trắng quần đen. Khi mặc áo bà ba, nam giới thƣờng bịt khăn.

Ngƣời ta bịt khăn đầu rùi màu đỏ. Tầng lớp trung niên bịt khăn đầu rùi màu trắng.

ngƣời không búi tóc thì bịt khăn trùm sọc xanh. Họ thƣờng đi chân đất, không giày

dép.

(27) Khoảng 1920 – 1930, tại Bình Nhâm (Lái Thiêu), có người dùng dòng nước suối để làm chuyển động

một “dàn nhạc” nên có tên Suối Đờn. Lúc đó, ông Nguyễn Văn Bút lại có sáng kiến làm loại khăn đóng nên gọi là

“khăn đóng Suối Đờn”. Sau, cơ sở sản xuất khăn đóng này dời xuống Cầu Bông (Sài Gòn).

Page 130: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

130

Gần đây, khá nhiều ngƣời đã chấp nhận bộ veston là lễ phục. Hàng ngày,

thanh niên vận âu phục: áo sơ mi, quần tây, mang giày. Trong gia đình mặc pyjama

mang dép da, nhựa xốp.

So với nữ giới thì nam giới ít dùng trang sức hơn. Cách trang sức nam giới

thời đó là thích nút áo vàng bạc, bịt bạc ống đót hút thuốc, bịt răng vàng. Chỉ có

một ít thanh niên tuổi trẻ đeo cà rá vàng, đầu dắt lƣợc đồi mồi bịt bạc, bịt vàng (lúc

còn búi tó). Gần đây, quan niệm thẩm mỹ cũng thay đổi. Nam, nếu có gia đình hay

đeo một chiếc nhẫn vàng. Trai tráng có mốt đeo dây chuyền vàng có mặt bằng

vàng, bằng ngà, xƣơng hay ngọc cham trổ theo đề tài tôn giáo của mình. Chiếc

đồng hồ phổ biến cho nam và nữ, công dụng trang sức nhiều hơn là xem giờ.

Nữ giới, ngày xƣa, lễ phục hay thƣờng phục đều là chiếc áo dài, quần, cùng

bằng vải hay lụa. Họ thƣờng đi chân đất, không giày dép, chỉ trƣờng hợp giới giàu

có phụ nữ mới có thói quen đi dép da, hài thêu cƣờm, guốc gỗ ngà ngà.

Chiếc áo dài đối với nữ giới cũng là biểu tƣợng cho sự trang nhã. Do đó, trẻ

em nữ đi học cũng mặc áo dài. Chị em lớn tuổi đi chợ cũng mặc áo dài, thậm chí

khi đi cấy cũng mặc áo dài. Còn chiếc áo ngắn chỉ mặc trong những giờ làm việc

nóng nực, hay khi làm việc kín đáo trong nhà sau thôi. Ngƣời giàu có thì mặc áo

dài bằng tơ lụa. Ngƣời nghèo thì mặc áo dài bằng vài cũng có trƣờng hợp áo đã

rách chị em tận dụng vải cũ ráp nối lại, áp đen tay trắng, áo trắng tay đen, gọi là

“áo vá quàng”. Do chiến tranh, nhất là do phong trào giản tiện hóa, sau năm 1945

chiếc áo dài không còn là thƣờng phục của nữ giới nữa. Ngày nay, hàng ngày chị

em thích mặc âu phục, áo quần bà ba, và chỉ mặc áo dài trong những lúc quan

trọng, đòi hỏi phải mặc y phục lịch sự.

Đối với phụ nữ, đầu tóc có khi cũng tiêu biểu cho một nét đẹp thùy mị, đoan

trang, bảo tồn dân tộc tính. Lúc còn nhỏ, con gái thƣờng cạo đầu, chừa trái đào

phía sau. Trƣởng thành mái tóc đƣợc nuôi dài thậm thƣợt; hàng ngày chải gỡ, thoa

dầu dừa óng mƣợt và bới thành búi nhiều kiểu: búi cao, búi thấp, để đuôi gà, hay

tết thành bím rồi búi theo kiểu tóc của phụ nữ Lào, gọi là bới “đầu lèo”.

So với nam thì phụ nữ dùng nhiều đồ trang sức hơn. Lúc còn ấu thơ thì xỏ tai

đeo cọng chiếu, đôi khoen hay đôi móc. Khi đeo hoa tai là phụ nữ đã có chồng.

Chị em giàu sử dụng nữ trang vàng trơn hoặc chạm. Chị em nghèo sử dụng nữ

trang bạc. Nữ trang bạc rất phổ biến nên ở địa phƣơng thợ kim hoàn thƣờng đƣợc

gọi là “thợ bạc”.

Về nữ trang, đầu tiên nhiều loại trâm, móc tai, lƣợc dắt. Nữ trang đeo cổ có

dây chuyền, dây chuyền ren, dây chuyền nách, phổ biến nhất là kiềng. Khi đi dự lễ,

chị em thƣờng dùng dù. Nhiều cây dù có trạm trổ bằng bạc, hoặc gỗ khảm xà cừ.

Nữ trang đeo tay có vòng, niểng, neo. Nữ trang đeo ngón tay có nhẫn, cà rá… Chỉ

có chị em phụ nữ giàu có mới đeo dây chuyền hay kiềng chân bằng vàng hay bạc.

Nói chung, tập quán sinh hoạt, từ ăn ở, trang phục đến các đồ dùng, công cụ

sản xuất ở Cù Lao Phố là một tổng hợp thể đan xen giữa truyền thống và hiện đại;

ở đó, cái mới từ bên ngoài đến không bị phản đối, song xu hƣớng bảo thủ truyền

Page 131: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

131

thống lại vẫn luôn là chuẩn mực. Chính nỗ lực “giữ lấy lề” ấy đã làm cho xã cù lao

ven thành thị này là một vùng đất mới không mới mà cổ không cổ.

CHƯƠNG II

TẬP QUÁN VÀ TÍN NGƯỠNG GIA ĐÌNH

Tổng quát về phong tục Trấn Biên Hòa, tác giả Gia Định thành thông chí có

chép rằng ở đây “phong tục thuần hậu, công việc giản dị, nhân dân siêng cày cấy

dệt cửi, đều có sản nghiệp nhà cửa văn vật đồng nhƣ phong tục Trung Hoa”1. Đây

là nhận xét của ông quan Minh hƣơng về phong tục hồi đầu thế kỷ XIX và có lẽ

theo ký ức mà ông sở đắc hồi cuối thế kỷ XVIII, khi ngƣời Hoa ở cù lao Phố còn

hƣng thịnh. Bởi vì sau đó, theo Đại Nam nhất thống chí (1865 - 1882) thì ở Biên

Hòa, tục “ƣa múa hát, sùng thƣợng đạo Phật. Lịch tiết tuế thời: chiều 30 Tết dựng

nêu, ngày Nguyên Đán bày lễ cúng trong ba ngày rồi lễ tạ, 7 ngày khai hạ. Tiết

Đoan dƣơng đặt cỗ bàn cúng gia tiên; tiết Trung Thu và Trùng Cửu thỉnh thoảng

có nhà bày tiệc thƣởng. Hôn nhân, các nhà sĩ phu làm đủ lễ, còn các nhà tầm

thƣờng hoặc làm lễ nhập chuế (ở rể) trƣớc, sau làm lễ cƣới. Tế tự thì dùng gia lễ

văn công, lại dùng trai tiến cửa nhà Phật”28. Căn cứ vào đoạn trích này, chúng ta

thấy tục lệ ở đây đại thể cũng nhƣ các nơi khác: 1. ƣa múa hát tức hay bày cuộc

tiệc lễ hơn; 2. sùng thƣợng đạo Phật: tức ảnh hƣởng Phật giáo mạnh và 3. ảnh

hƣởng văn hóa Hoa đã nhạt, Trung Thu, Trùng Cửu ít ngƣời tổ chức.

Trên đây là phong tục của toàn xứ Trấn Biên – Biên Hòa, còn ở Cù Lao Phố

thì ra sao.

I. NẾP SỐNG GIA ĐÌNH

Là một khu vực đƣợc khai phá sớm, Cù Lao Phố có một kết cấu làng xóm

bền chắc hơn so với các làng xã ở Nam Bộ; mặt khác, do tính chất cù lao của nó

nên những gì nó nhận đƣợc từ bên ngoài cùng những mới mẻ do sự biến đổi của

lịch sử cùng đƣợc thâu hóa vào cái cố kết truyền thống hơn là làm cải đổi truyền

thống vừa quê vừa chợ của nó.

(1) Gia Định thành thông chí, tập hạ, tr 19 -20

(2) Đại Nam nhất thống chí, tập thượng, tr 9

Page 132: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

132

Tuy có lúc sáp nhập thành 3 xã hay gộp chung thành 1 xã, song các thôn

(hiểu là làng) của Cù Lao là một cố kết truyền thống ít thay đổi về chất với những

thiết chế về đình – chùa - miếu – võ (đầy đủ hay không đầy đủ) và các dòng họ cƣ

trú ở đó. Đây là điều kiện nền tảng để từ đó nếp sống gia đình đƣợc định hình, định

tính và quy định xu hƣớng phát triển. Nói cách khác các gia đình ở đây nhƣ một

cái mắt xích của dòng họ đặt trong các mối quan hệ làng xóm, thôn ấp mà hình

thức ràng buộc là đạo lý, là có phải có trái – có qua có lại cùng với các tổ chức phi

hành chính: hội đình (gọi là hội miếu), hội miễu, ban hộ tự (có thể hiểu là hội chùa:

phật tử đồng đạo của một chùa cụ thể).

Ngày trƣớc ở Cù Lao Phố có một vài dòng họ theo hình thức đại gia đình,

gồm: Một ngƣời trƣởng họ, ngƣời lớn tuổi nhất ở vai vế cao nhất trong dòng họ,

thƣờng đƣợc gọi ông, gọi cố có vai trò thủ lĩnh cao nhất chẳng những trong gia

đình mà còn là thủ lĩnh cao nhất trong dòng họ, đặc biệt là những dòng họ có vai

vế trong xã hội, hoặc giàu có, nhiều ruộng đất. Vợ ngƣời gia trƣởng có địa vị

ngang hàng với chồng lo việc đối nội. Nhiều gia đình vợ ngƣời gia trƣởng cao tuổi

khi chồng chết vẫn có uy tín đối với dòng họ nhà chồng, đôi khi cả xã hội nữa, đó

là trƣờng hợp bà Lƣơng Thị Phụng ở Tân Giám. Bà là phu nhân của Tri huyện

Nguyễn Văn Chất (Tri huyện Tân Định, Bình Định đời Tự Đức) khi mất, cùng

chồng và các con phối hƣởng cùng thần Thành Hoàng mỗi khi làng này tế tự Kỳ

Yên (theo Quốc Triều Hƣơng Khoa lục thì ông Nguyễn Văn Chất ngƣời huyện Hà

Đông, tức là dân ngụ cƣ tại Tân Giám).

Bên cạnh ngƣời trƣởng họ còn có ngƣời “giám từ” lo việc nhang khói của từ

đƣờng. Ngƣời này thuộc chi trƣởng hoặc chi út của dòng họ. Có khi ngƣời “giám

từ” cũng là ngƣời trƣởng họ. Ngƣời nhận nhiệm vụ thờ cúng cha mẹ khi chết cũng

là ngƣời phụng dƣỡng cha mẹ khi còn tại thế. Đó là ngƣời sống chung với cha mẹ

từ thuở nhỏ, khi lập gia đình không đƣợc cha mẹ “ra riêng” nhƣ những anh em

khác. Lúc sống cha mẹ có dành một phần tài sản để dƣỡng già, nếu còn dƣ thì làm

hƣơng hỏa thờ cúng. Do đó những ngƣời con trai út lo phụng dƣỡng thờ cúng cha

mẹ thƣờng theo quy luật “giàu út ăn, khó út chịu”, nhƣng thƣờng thì khá giả hơn

những ngƣời trong dòng họ vì có những tích lũy của nhiều thế hệ.

Trong gia đình cũng nhƣ trong dòng họ tuy có phân biệt nam nữ, nhƣng sự

chênh lệch không thái quá nhƣ các vùng khác. Nữ giới, theo quan niệm xƣa thì chỉ

lo sinh đẻ, nuôi dƣỡng dạy dỗ con cái về tề gia nội trợ. Do đó lúc còn trẻ, nữ giới

thƣờng không đƣợc cha mẹ cho học hành tới nơi tới chốn nhƣ nam giới. Nhƣng

thƣờng cha mẹ có tục chia tài sản đều cho con cái, nữ cũng nhƣ nam. Ngoài ra, đa

số phụ nữ ở Cù Lao Phố còn cần cù siêng năng, một nắng hai sƣơng, nên trong lĩnh

vực kinh tế có vai trò rất quan trọng. Thí dụ nhƣ khi lập làng Bình Tự, cậu Lê Văn

Chánh đã cƣới cô Nguyễn Thị Cù, con gái một vị Tiền hiền đã khai khẩn khá nhiều

ruộng đất tại đây. Bà Nguyễn Thị Cù sau này đƣợc cha mẹ cho ruộng đất nhƣ anh

em trai, nên ông Lê Văn Chánh đã chọn nơi này làm quê hƣơng. Hiện nay chi họ

Lê ở đây rất đông, nhƣng số ruộng đất của dòng họ này là do bà Thủy tổ của họ để

lại. Tƣơng tự, bà Đào Thị Đào, dòng dõi Tiền hiền ở Tân Giám, có chồng về Bình

Hòa đã đƣợc cha mẹ chia cho số tài sản kết hợp với tài sản riêng nên vợ chồng bà

Page 133: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

133

trở nên giàu có. Bà đã cúng vào đình Bình Hòa khá nhiều ruộng đất và đƣợc tôn

làm Hậu hiền, đƣợc thờ tự tại đình này.

II. VIỆC THỜ CÖNG TỔ TIÊN

Gia đình, nhƣ đã nói trên, coi nhƣ một thực thể hiện tại của một tập thể quá

vãng. Chính vì vậy, việc thờ cúng tổ tiên mà trƣớc hết là tang lễ là những việc

quan trọng của gia đình.

1) Việc thờ cúng là thể hiện đạo lý “báo bản tƣ nguyện” đƣợc hiểu phổ biến

là “chim có tổ, ngƣời có tông”. Do đó, đối với cha mẹ ông bà khi còn sống thì con

cháu phải phụng dƣỡng và khi đã chết thì phải thờ cúng. Việc thờ cúng ông bà tổ

tiên vừa mang ý nghĩa báo bổ thâm ân theo hiếu đạo và bao hàm việc thực hành

nghi lễ tìn ngƣỡng: cầu mong tổ tiên phù hộ cho con cháu.

Tổ tiên là những ngƣời cùng huyết thống, cùng một họ và trực hệ. Trách

nhiệm thờ phƣợng ông bà thuộc về họ nội, do con trai đảm nhận. Do đó nên có

câu: “Bất hiếu hữa tam, vô hậu hữu đại”. Nhƣng gặp trƣờng hợp vô tự, việc thờ

cúng có thể do cháu chắt họ hàng bàng hệ hoặc do họ ngoại đảm trách. Nhƣ họ

Tống tuyệt tự phải chọn cháu vợ là Nguyễn Hữu Chí, đổi tên là Tống Đình Huê

thờ tự.

Tại Cù Lao Phố, dân gian có tục thờ cúng tổ tiên đến ba đời (tức đời ông

nội). Cũng có dòng họ thờ cúng đến đời thứ năm (tức đời ông sơ) và xa hơn đời

thứ năm việc thờ phụng dƣờng nhƣ xao lãng. Ấy là do thế hệ đó quá xa xƣa, có thể

còn tại quê hƣơng cũ là Trung – Bắc chứ không phải là do nguyên tắc “ngũ đại mai

thần chủ” nhƣ sách vở dạy.

Việc thờ cúng ông bà, đối với mọi trƣờng hợp bắt đầu từ khi một ngƣời nào

đó quá vãng, thể hiện từ trong tang lễ.

Khi gia đình có ngƣời chết, gia đình tổ chức tang ma theo nghi thức Phật

giáo kết hợp với Nho giáo, nhất là tuân thủ rất nhiều chi tiết trong quyển Thọ Mai

Gia Lễ của thƣợng thƣ Hồ Gia Tân (tức Thọ Mai Cƣ Sĩ) ngƣời đời Hậu Lê. Theo

lời các bô lão xƣa kia chỉ có các nhà quyền quý giàu có mới có khả năng tổ chức

tang ma theo Văn Công Gia Lễ đƣa từ Trung Quốc sang.

Tại Cù Lao Phố, trƣớc kia, khi gia đình có ngƣời chết, thì con cháu phải mặc

áo rách, đội nón rách, bƣng khay trầu rƣợu đến “làng”xin “thỉnh trống”. Việc

“thỉnh trống” này nhằm ý nghĩa trình báo việc khai tử và nhờ các bậc đàn anh ở địa

phƣơng giúp đỡ hƣớng dẫn việc tống tang. Thế nhƣng các nghi lễ từ việc nhập

mạch, phát tang, triêu điện, tịch điện, phát hành chôn cất đều do các nhà sƣ hay các

thầy nhang bông đảm trách. Cũng có một số gia đình muốn linh hồn ngƣời chết

siêu thăng, thỉnh các vị chân tu đến tụng kinh siêu độ. Đặc biệt xƣa kia mỗi khi có

tang ma thƣờng tổ chức hò đƣa linh. Một số gia đình giàu có tổ chức trai đàn có Tề

Thiên đánh động. Ba ngày sau lễ an táng là lễ khai mộ. Đây là lễ cùng mộ ngƣời

chết, vừa mang ý nghĩa tạo điều kiện giúp gia đình đắp sửa lại ngôi mộ ngƣời chết

lần cuối, vì có tục hai năm sau, tức khi mãn tang mới đƣợc đắp mộ lại. Nội dung lễ

khai mộ từ gốc quan niệm của Đạo Giáo, thế nhƣng ở vùng đất này lại do các nhà

Page 134: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

134

sƣ hay thầy nhang bóng Phật giáo đảm nhận. Đó là nghi thức dâng gạo, muối và

nƣớc cho ngƣời chết, nghi thức bắc nhang dẫn linh hồn ngƣời chết trở về cõi trần

thăm thân nhân, nghi thức rải năm loại đậu (tƣợng trƣng cho các loại âm binh) và

cắm năm cây thẻ (tƣợng trƣng cho năm vị thần giữ mộ). Đồng thời đây là nghi

thức cắm cây lau tìm huyệt “Kim Kê” (theo phong thủy) để cầu cho tang gia phát

tài phát lộc. Thế nhƣng đã bị dân gian hóa các nghi thức này theo kiểu của họ để

bảo tồn tục lệ. Từ đó mới có quan niệm khi tắt hơi thì vong hồn ngƣời chết mơ

màng nhƣ ngủ say, khi nghe tiếng gà kêu thì vong hồn mới tỉnh giấc, biết mình đã

chết, con gà mái ấy khi thả ra nếu ai bắt đƣợc đem và nuôi thì đẻ nhiều. Cây lau

cắm chân mộ nếu sống tƣơi tốt thì con cháu phát giàu có v.v…

Cùng với tinh thần tam giáo kết hợp, dân gian tin rằng ngƣời chết phải qua

mƣời cửa điện để các vị Minh Vƣơng tra xét. Sau hai năm, mƣời vị Minh Vƣơng

mới tra xét xong, nếu sinh tiền ngƣời chết biết làm lành lánh dữ tích đức tu nhân

thì linh hồn sẽ siêu sinh tịnh độ. Nếu sinh tiền ngƣời chết chỉ biết tạo ác nghiệp thì

phải bị giam vào địa ngục, bị bọn quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa dùng mọi hình phạt

khảo tra. Tại Cù Lao Phố, nhiều chùa treo những bức tranh vẽ theo Ngọc Lịch

Minh Kinh (đƣa từ Trung Quốc sang) minh họa cụ thể cho cảnh xét xử dƣới Diêm

phủ. Chẳng hạn:

Chết 7 ngày sau vong hồn đến điện thứ nhất của Tần Quảng Vƣơng.

Chết 14 ngày sau vong hồn đến điện thứ nhì của Sở Giang Vƣơng.

Chết 21 ngày sau, vong hồn đến điện thứ ba của Tống Đế Vƣơng.

Chết 28 ngày sau, vong hồn đến điện thứ tƣ của Ngũ Quan Vƣơng.

Chết 35 ngày sau, vong hồn đến điện thứ năm của Diêm La Vƣơng.

Chết 42 ngày sau, vong hồn ngƣời chết đến điện thứ sáu của Biện Thành

Vƣơng.

Chết 49 ngày sau, vong hồn ngƣời chết đến điện thứ bảy của Thái Sơn

Vƣơng.

Chết 100 ngày sau, vong hồn ngƣời chết đến điện thứ tám của Đô Thị

Vƣơng.

Chết một năm sau, vong hồn ngƣời chết đến điện thứ chín của Bình Đẳng

Vƣơng.

Chết hai năm sau, vong hồn ngƣời chết đến điện thứ mƣời của Chuyển Luân

Vƣơng.

Sau tang ma có mƣời lễ cầu xin các vị Minh Vƣơng xóa tội do các nhà sƣ

Phật giáo đảm nhận, tục gọi là lệ “làm tuần”. Lễ làm tuần có nghi thức cúng vong,

cúng Phật, dâng lên Địa Tạng Bồ Tát (Bồ Tát cai quản toàn cõi địa ngục) và các vị

Minh Vƣơng một lá sớ cầu xin. Theo quan niệm dân gian có tội thì phải gởi đơn

khiếu nại trƣớc khi xử án, thế nên lễ làm tuần phải trƣớc thời gian qui định. Điện

thứ ba (21 ngày) có 19 cửa ngục có hình phạt khủng khiếp và điện thứ 7 (49 ngày –

Page 135: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

135

theo quan điểm Phật giáo chính thống là thời điểm vong hồn siêu thăng), nên dân

gian có tục, mới nhà sƣ đến tụng kinh siêu độ càng nhiều càng tốt.

Ba tuần sau cùng không phải nghi thức theo quan niệm Phật giáo nhƣng vẫn

do các nhà sƣ đảm nhận. Tuần 100 ngày chính là tuần Tốt Khốc (dứt tiếng khóc).

Tuần giáp năm chính là lễ Tiểu Tƣờng. Tuần hai năm chính là lễ Đại Tƣờng. Theo

Nho giáo, sau Đại Tƣờng khoảng 3 tháng mới làm lễ Đàm Tất (Trừ Phục): xả tang

(nên có câu “ba năm tang khó”). Thế nhƣng ở địa phƣơng đã đơn giản bỏ hẳn lễ

này và các thầy cúng chọn ngày làm lễ Đại Tƣờng và Xả Tang trƣớc thời gian quy

định. Tuần giáp năm có tục mời ba nhà sƣ đến hành lễ gọi là “đàn Tam Bảo”. Tuần

mãn khó mời mƣời sƣ gọi là “đàn Thập Vƣơng”. Gần đây có gia đình chỉ để tang

100 ngày, một năm, thậm chí có trƣờng hợp chỉ để tang ra đến tận mộ. Ở địa

phƣơng không có trƣờng hợp đám cƣới chạy tang, nhƣng trong gia đình có tang

khoảng 100 ngày không ai tổ chức tiệc lễ vui mừng cả.

Xƣa kia các tuần 100 ngày, Tiểu Tƣờng, Đại Tƣờng do các biện sự mê tín

nên có tục đốt vàng mã (nhất là gởi áo quần và kho vàng bạc châu báu cho ngƣời

chết). Gần đây tục này có nhiều gia đình bãi bỏ. Đồng thời có nhiều gia đình sùng

tín Phật giáo, sau khi gia đình có ngƣời chết (trong vòng 49 ngày) thƣờng tổ chức

trai tăng cùng dƣờng cầu siêu. Ngƣời chết bất đắc kỳ tử (nhất là do tự tử) thì có tục

lệ đặt quan tài ngƣời chết ngoài sân, tổ chức tang ma đơn giản. Ngƣời chết còn non

trẻ, nếu còn cha mẹ, thì phải vấn khăn tang trên đầu săng, có thuyết nói những

ngƣời tự tử bỏ cha bỏ mẹ là bất hiếu, cha mẹ phải dùng doi đánh lên quan tài răn

phạt đứa con bất hiếu này. Nếu trong gia đình có ngƣời lớn tuổi hay ngƣời chết

thuộc bậc con cháu của một vọng tộc thì quan tài ngƣời chết chỉ đƣợc đặt một bên

mà không đƣợc đặt ở gian giữa.

Do bất cứ lý do gì, những gia đình khi có ngƣời chết bất đắc kỳ tử đều phải

tục gởi tên vào chùa cầu siêu và từ đó, ở nhà chùa có tục hay tổ chức trai đàn bạt

độ.

2) Lệ tảo mộ

Ngƣời Việt ở Cù Lao Phố có tục sau khi ngƣời chết hai năm mới đƣợc tảo

mộ. Mỗi dòng họ có một ngày tảo mộ riêng. Thƣờng là một ngày trong tháng chạp,

vì cuối tháng phải bận rộn buôn bán Tết. Tảo mộ còn gọi là “chạp mả”.

Ngƣời Hoa theo tục lệ họ chỉ tảo mộ vào tết Thanh Minh. Nhƣng tục lệ

ngƣời Hoa cũng giống nhƣ tục lệ ngƣời Việt, không tảo mộ trong thời gian tang

chế. Gần đây rất nhiều gia đình ngƣời Hoa ảnh hƣởng theo tục lệ ngƣời Việt, gần

tết cũng sơn sửa mộ phần tổ tiên, nhƣng vẫn giữ tục lệ truyền thống của họ. Các

ngôi mộ mới vẫn đƣợc quét dọn vào cuối tiết “Kinh trập”, trƣớc tiết “Thanh minh”

vài ngày nhằm thể hiện việc “tảo mộ lén lút”. Đồng thời, ngƣời Việt cũng ảnh

hƣởng tục lệ ngƣời Hoa, vào tiết Thanh minh là thời điểm tốt nhất để xây sinh

phần, xây mộ tổ tiên, cải táng…

Tảo mộ tổ tiên là làm cỏ quét dọn nếu mộ đất, sửa sang sơn phết nếu mộ đá

xây dựng kiên cố. Trong dân gian có tục trƣớc khi tảo mộ phải dùng trầu rƣợu

Page 136: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

136

trình báo với thần Đất. Sau đó tảo mộ ông bà thủy tổ, rồi đến phần mộ các vị kế

tiếp. Do đó, mới phân biệt chạp mả họ, chạp mả chi, chạp mả nhà và chạp mả làng.

Tảo mộ xong có tục lấy một cục đất dằn một tờ giấy vàng bạc làm dấu. Lúc ấy tại

gia đình chuẩn bị một mâm cơm canh để cúng tổ tiên và chờ những ngƣời đi tảo

mộ về chung vui với nhau. Đến ngày cuối năm, bà con trong xóm với tinh thần

nhân đạo sẽ tảo mộ những ngôi mộ vô chủ để ngƣời chết cùng vui với trần gian.

Những cục đất và những tờ giấy vàng bạc giúp mọi ngƣời phân biệt mộ còn con

cháu và mộ vô chủ.

Ngƣời hoa khi tảo mộ xong cũng có tục lấy nhiều giấy màu ngũ sắc dằn lên

phần mộ. Nhƣng mộ phần của ngƣời Hoa thƣờng xa nhà nên họ có tục cúng mộ rồi

ăn uống tại chỗ.

3) Giỗ kỵ tổ tiên

Giỗ là cúng kỷ niệm ngày mất của cha mẹ ông bà. Ở Cù Lao Phố, dân gian

có tục thờ phụng đến đời thứ ba nên lễ giỗ cũng tính đến đời thứ ba. Có một số

dòng họ giỗ đến đời thứ năm nhƣng hai thế hệ sau cũng tổ chức cho có lệ.

Mỗi lễ giỗ kỵ thƣờng có ba lễ, kéo dài trong hai ngày. Chiều hôm trƣớc là lễ

“Tiên Thƣờng”, gia đình bày một mâm cúng ngƣời chết, ngụ ý báo cáo mời thỉnh.

Sáng hôm sau là lễ “Chánh Giỗ” tức là lễ kỷ niệm ngày mất của tổ tiên. Chiều hôm

đó có lễ “Hậu Thƣờng”. Có ngƣời quan niệm “Chánh Giỗ” là lúc linh hồn ngƣời

chết bận rộn tiếp khách nên phải chừa riêng một mâm cúng cho ngƣời ấy. Có gia

đình cẩn thận, bày những món ăn đặc biệt mà lúc ngƣời ấy còn sống thích. Do đó

lễ hậu thƣờng thƣờng đơn giản.

Khá nhiều gia đình gom ngày giỗ các anh em cùng một thế hệ thành một lệ,

gọi là “hiệp kỵ”. Khá nhiều gia đình không câu nệ đến việc thành lập từ đƣờng nên

chia các lễ giỗ cho anh em mỗi ngƣời đảm nhận một lệ. Do đó có trƣờng hợp

ngƣời anh giỗ cha, ngƣời em giỗ mẹ. Từ đó lễ giỗ chỉ còn ý nghĩa là ngày bà con

thăm viếng thù tạc.

Thƣờng ngày chánh giỗ chủ nhà phải làm cỗ bàn mới bà con thân hữu. Tùy

theo hoàn cảnh gia đình, có nhà làm ba bốn mâm hay nhiều hơn. Khách đƣợc mời

cũng đem quà tặng với danh nghĩa là lễ vật cúng ngƣời chết.

Trong ngày giỗ, trƣớc hết chủ nhà phải đem trầu rƣợu lễ vật báo cáo với

Ngũ Thổ Long Thần, các vong hồn khuất mặt trong khuôn viên đât đai của chủ

nhà, cô hồn, chiến sĩ, Táo Quân và tất cả các gia thần khác. Sau đó chủ nhà mới

khấn mời linh hồn ngƣời chết và gia tiên về phối hƣởng. Sau ba tuần rƣợu, một

tuần trà, thì con cháu ra bái tạ, xong thì chủ nhà đốt giấy tiền vàng bạc và rót một ít

rƣợu xuống đất để biểu thị ngƣời chết đã dự hƣởng xong.

Hiện nay khá nhiều gia đình quan niệm ngày giỗ là ngày tƣởng nhớ ông bà

tổ tiên, nên lễ vật dâng lên bàn thờ tƣợng trƣng đơn giản, không bày biện ê hề và

để ruồi bâu kiến đậu nhƣ ngày xƣa nữa.

Những gia đình lập nghiệp ở Nam bộ quá 6 đời, tức từ Miền Trung vào khai

hoang lập ấp từ thế kỷ thứ XVIII có tục “giỗ hội” gọi là “việc lề”. Đây là nghi lễ

Page 137: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

137

đặc biệt mang dấu ấn thời hoang sơ ấy. Lễ vật phải có món cá lóc nấu cháo ám.

Ngoài ra, mỗi dòng họ còn phải có một lễ vật đặc biệt và phải giữ cố định một

ngày. Nguyên do vào thế kỷ thứ XVIII, vì nạn chiến tranh nhiều gia đình sợ bị liên

lụy phải thay đổi tên họ chạy vào Nam lập nghiệp. Các nghi thức mang tính chất

bắt buộc này cố tình bày ra để ngƣời đời sau, con cháu có thể nhìn ra bà con dòng

họ. Tại Cù Lao Phố hiện nay cƣ dân bị xáo trộn mạnh, có một số gia đình Minh

Hƣơng hoặc mới đi theo các đợt di dân sau, nên tục cúng “việc lề”không còn dấu

ấn sâu đậm.

Tại Cù Lao Phố chỉ còn dòng họ Hồ tổ chức cúng “việc lề” vào ngày đoan

ngọ. Dòng họ này từ miền Trung vào Sông Bé rồi từ đó mới sang đây lập nghiệp

hơn một thế kỷ nay. Riêng dòng họ Nguyễn Hữu (Tân Mỹ) cúng vào tháng 3: cũng

cháo cá ám, mắm nêm, rau sông nhƣ các dòng họ khác.

III. TẤP TỤC TÔN THỜ CÁC GIA THẦN

1) Tục thờ thần độ sanh

Theo dân gian, mỗi con ngƣời từ khi chào đời đến lúc trƣởng thành đều có

một vị thần độ mạng. Các vị thần này đƣợc tính dựa theo năm sinh và cung mạng.

Nếu con ngƣời trên 12 tuổi thì mới phân biệt thần độ mạng riêng cho nam nữ. Còn

giai đoạn trƣớc đó, từ lúc trẻ con còn ấu thơ đến 12 tuổi thì chỉ căn cứ vào cung

mạng.

Thần độ sanh trẻ con đƣợc tính nhƣ sau:

Trẻ con sanh cung Càn, cung Đoài có Lục Cung Thánh Mẫu độ sanh.

Trẻ con sanh cung Khảm, Cấn, Chấn có Thủy Triều Long Cung độ sanh.

Trẻ con sanh cung Tốn, Ly và Khôn có Thập Nhị Huê Bà độ sanh.

Thập Nhị Huê Bà, Thủy Triều Long Cung và Lục Cung Thánh Mẫu gọi là

những “mẹ sanh”. Thế nhƣng Thập Nhị Huê Bà (còn gọi mƣời hai bà mụ) là những

nữ thần trong thế giới thần linh Hoa – Việt. Chúng ta hiểu mỗi Bà Mụ, là một nữ

thần độ mạng trẻ con sinh trong mỗi năm, tính theo 12 chi. Còn Thủy Triều Long

Cung và Lục Cung Thánh Mẫu là những vị thần vừa mang tính thiện vừa mang

tính ác, có lẽ do gốc nữ thần Bà La Môn của ngƣời Chăm đã bị Việt hóa. Chúng ta

thấy tục thờ Mẹ Sanh trẻ con đã phổ biến tại Thừa Thiên, đƣợc Đặng Huy Trứa

(1825 - 1874) đã ghi chép trong cuốn Đặng Dịch Trai ngôn hành lục. Và đƣợc đƣa

vào Nam hàng bao thế kỷ nay.

Xƣa kia, sau lễ thôi nôi, hàng năm vào tháng giêng có lễ cúng “đổ đốt” cho

trẻ, đến 12 tuổi mới thôi. Mục đích: cầu cho đứa trẻ bình yên. Khi trẻ con lên ba,

lên sáu, chín tuổi (không phân biệt nam nữ) đều phải cúng “căn”, mang ý nghĩa

cúng tạ ơn Mẹ Sanh, Mẹ Độ đã giúp đứa trẻ vƣợt qua “căn nợ” của mình. Đây là

một dạng tín ngƣỡng mang màu sắc Chăm – Việt, khi hành lễ phải có bà bóng diễn

xƣớng. Khi đứa trẻ đủ 12 tuổi, đã thoạt nạn “hữu sinh vô dƣỡng” thì gia đình làm

lễ cúng “dứt căn” mang ý nghĩa tạ ơn lần cuối. Tất nhiên lễ này tổ chức đầy đủ hơn

các lễ trƣớc. Xƣa kia, tại Cù Lao Phố có các bà bóng nhƣ bà Sửu, bà Ớt thƣờng

Page 138: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

138

đƣợc các thân chủ mời đến nhà thực hiện các nghi lễ tập tục thờ cúng này. Nhƣng

mấy mƣơi năm gần đây có một số bà bóng đã mất hoặc bỏ đi nơi khác nên có

nhiều gia đình vẫn còn thực hiện các ghi lễ này có tính ghi nhớ, không tuân thủ

những nghi thức nghiêm ngặt nhƣ xƣa nữa.

Ngoài ra Táo Quân là một vị gia thần, nhƣng cũng là một vị thần độ mạng

trẻ con. Theo dân gian, Táo Quân là một vị thần thay mặt thƣợng đế chủ quản một

gia đình, trong đó có chứa năng đe dọa ma quỉ, bảo vệ trẻ con. Thế nên có tục khi

muốn đƣa một đứa trẻ sơ sinh ra khỏi nhà phải xin phép “Ông Táo”, có nghĩa là

lấy lọ ông Táo bếp chấm lên trán đứa trẻ. Gặp những đứa trẻ khó nuôi, thƣờng hay

bệnh hoạn, gia đình thƣờng nhờ thày cúng “ký bán cho ông Táo”, tức là cho đứa

trẻ ấy làm con nuôi ông Táo, giống nhƣ ở miền Bắc có tục ký bán trẻ làm con nuôi

“đức Thánh Trần”. Những đứa trẻ làm con nuôi ông Táo thì khi tạ ơn Mẹ Sanh

cũng phải tạ ơn ông Táo, và khi cúng dứt căn cũng phải giết một con heo làm lễ

vật.

Một nữ thần khác đƣợc cả ngƣời Hoa lẫn ngƣời Việt tôn thờ là Kim Huê

Thánh Mẫu. Kim Huê Thánh Mẫu cũng là một Mẹ Sanh. Vị thần nay đƣợc coi chủ

quản việc thành hình thai nhi và phù hộ đứa trẻ từ lúc lọt lòng đến ba tuổi. Do đó

dân gian thƣờng gọi là “Bà Chúa Thai Sanh”. Còn ngƣời Quảng Đông thì gọi là

Huệ Phƣớc Phu Nhân. Ngƣời Minh Hƣơng gọi là “Chúa Sanh Nƣơng Nƣơng”. Tại

miếu Quan Đế, Kim Huệ Thánh Mẫu cũng tùng tự phía bên trái. Đây là hình tƣợng

một mệnh phụ nhu nhân có vẻ đoan trang phúc hậu, mặc triều phục ngồi trên ghế.

Bên cạnh còn có các Bà Mụ bồng đứa trẻ tƣợng trƣng cho những đứa trẻ sinh trong

năm, đƣợc các vị thần này phù hộ.

Xƣa kia, khi ngƣời phụ nữ mang thai, gia đình tổ chức cúng “Đơm lẻ”, cầu

mẹ tròn con vuôn. Lễ vật cho các vị thần vừa kể gồm có cháo vịt, chè, xôi, hoa,

quả…Thế nhƣng không ai hiểu vì sao “đôi đũa bông” ở miền Bắc đƣợc đồng bào

thiểu số dùng để cúng cho ngƣời chết thì ở đây dùng để cúng cho Bà Mụ. Ngoài ra

khi trẻ đầy tháng, đầy năm gia đình cũng tổ chức cúng các vị thần này. Lễ vật cũng

nhƣ thế nhƣng thịnh soạn hơn. Ngày nay, lễ đầu tháng còn gọi là lễ “đặt tên”, lễ

đầy năm gọi là lễ “thôi nôi”, mang ý nghĩa chúc mừng thù tạc nhiều hơn. Tục cúng

“đơm lẻ” nay không thấy ai thực hiện nữa.

Bên cạnh Kim Huê Thánh Mẫu còn có Thánh Anh La Sát cũng đƣợc ngƣời

Việt cũng nhƣ ngƣời Hoa thờ cúng. Thánh Anh La Sát, còn gọi là La Sát Thánh

Nƣơng nếu gọi đủ là “Phổ Thiên chi hạ La Sát Thánh Nƣơng”. Đây là chằn nữ

Rashashi của đạo Bà La Môn vừa bị Phật giáo hóa, vừa bị dân gian hóa. Quan

niệm về La Sát lại đƣợc dung nạp thêm chi tiết của nhân vật La Sát Nƣơng Nƣơng,

tức Thiết Phiến Công Chúa, mẹ của Hồng Hài Nhi trong Tây du ký.

Theo chuyện cổ Phật giáo, La Sát là một loại quỉ hay bắt ngƣời ăn thịt. Đức

Phật hay tin đến khuyên nhƣng nó khóc lóc đau khổ vì nếu không làm việc ác độc

đó thì bầy con của nó sẽ đói khát. Đức Phật hứa, nó cùng với chim Đại bàng cánh

vàng (Đại bàng Kim Xí điểu, chim thần Garuđa) và các loài ngạ quỉ (quỉ đói) sẽ

Page 139: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

139

đƣợc cung cấp đầy đủ. Do đó bất cứ ngôi chùa Phật nào ngày nay cũng thờ cúng

những vị thần gốc Bà La Môn vừa kể.

Theo dân gian, La Sát Thánh Nƣơng có 26 ngƣời con (gọi là 26 cửa sát hay

26 quan sát). Khi đứa trẻ sinh vào cửa con sát nào thì nó sẽ bị con sát đó hành hạ

khóc lóc, giật mình, khó ngủ, khó nuôi. Thƣờng cha mẹ tổ chức cầu cúng, cũng có

trƣờng hợp thờ Thánh Anh La Sát để cầu xin cho đứa trẻ.

Thần thoại Thánh Anh La Sát còn tiến triển xa hơn nữa. Mẹ con sát và Con

sát đƣợc dân gian biến thành các loại ma nhƣ “ma càn ranh” (ma dấu trẻ con), mà

nhiều nơi kể theo cùng một khuôn mẫu mà ngƣời kể cứ y nhƣ mỗi ngƣời đã thấy

nó trƣớc mắt.

Tục thờ thần độ mạng

Khi trẻ con trở thành một thiếu niên trên 12 tuổi và trƣởng thành thì có một

vị thần độ mạng khác. Xƣa kia tục thờ thần độ mạng khi tín chủ đƣợc 12 tuổi và

kéo dài đến 60 tuổi. Quá tuổi đó là tuổi “lão nhiêu” cõi dƣơng cũng nhƣ cõi âm

đều coi con ngƣời đã đạt đƣợc “thiên tƣớc”, không hành phạt quở răn nữa. Thế

nhƣng hiện nay việc thờ thần độ mạng bắt đầu lúc con ngƣời tuổi đã trung niên,

cảm thấy có “ông bà độ mạng”, và tục này kéo dài đến cuối cuộc đời của ngƣời

nếu cón đức tin.

Cách xác định thần độ mạng của ngƣời trƣởng thành: căn cứ vào can của

tuổi. Nam giới từ Quan Công độ mạng, Cậu Tài, cậu Quí (hai con của Thiên Y A

Na), Ngũ Công Vƣơng Phật (tức Ngũ Đế), Quan Bình Thái Tử, Tử Vi Đại Đế. Nữ

giới thờ: Cửu Thiên Huyền Nữ, Chúa Tiên, Phật Bà Quan Âm, Chúa Ngọc.

Xƣa kia có tục thờ các vị thần vừa kể bằng bài vị chữ Hán. Thƣờng cuối mỗi

năm gia chủ phải đi tìm ngƣời viết dùm. Hiện nay ngƣời ta thích bằng tranh kiếng,

vừa bền vừa đẹp, có bán sẵn ngoài chợ.

Khám thờ các vị thần độ mạng vừa kể thƣờng đặt trên trang cao hay trên đầu

tủ. Trái lại, ở miền Tây cũng có tục thờ Ngũ công Vƣơng Phật, nhƣng danh hiệu

là: Chí công vƣơng Phật, Đƣờng công vƣơng Phật, Lãng công vƣơng Phật, Hóa

công vƣơng Phật và Bửu công vƣơng Phật. Đây có lẽ cũng là những vị thần

Kh’mer bị Việt hóa. Thế nhƣng, vùng Biên Hòa và những vùng có ngƣời Hoa sinh

sống thì Ngũ công vƣơng Phật (còn gọi là Ngũ Đế) là Quan Thánh Đế Quân, Quan

Bình Thái Tử, Châu Xƣơng Tƣớng Quân, Vƣơng Linh Quan và Tử Đống tức Văn

Xƣơng Đế Quân.

Thờ ông thờ bà độ mạng thƣờng đƣợc thờ trên trang cao thì các ngày sóc

vọng, ngày lễ tết trong gia đình đều phải hƣơng hoa lễ vật dâng cúng nhƣ các vị

thần khác. Xƣa kia, riêng phụ nữ thờ bà Chúa Tiên, Chúa Ngọc (luôn cả Cửu

Thiên Huyền Nữ) hay những ngƣời nam thờ cậu Tài và cậu Quí, cứ ba năm đều

phải rƣớc bà bóng đến nhà làm lễ tạ ơn, tục gọi là tạ trang. Gần đây tại Cù Lao Phố

không còn bà bóng nên tục lệ cúng tạ vẫn còn nhƣng không có những nghi lễ nhƣ

xƣa nữa.

Page 140: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

140

Hiện nay tục thờ ông thờ bà độ mạng của ngƣời Việt cũng nhƣ ngƣời Hoa đã

thay đổi và tƣơng đối dung hòa gần giống nhau. Tại mỗi nhà ngƣời dân trên Cù

Lao Phố thƣờng có ba khán thờ khác nhau:

1) Một khán thờ Quan Công, Quan Bình và Châu Xƣơng tục gọi là khán thờ

“ông”. Ông là thần độ mạng chung cho nam giới, ít ngƣời tìm hiểu phân chia nhƣ

trƣớc kia.

2) Một khám thờ Mẹ Độ (ngƣời Hoa còn gọi là Thánh Mẫu) tục gọi là khám

thờ bà tiên là nữ thần độ mạng nữ giới, không xác định danh hiệu cụ thể nhƣ trƣớc.

3) Một khám thờ Bồ Tát Quan Âm có Long Nữ và Thiện Tài hầu cận. Theo

dân gian chỉ quan niệm Bồ Tát Quan Âm là vị Phật cứu khổ cứu nạn, phù hộ cho

trẻ con và nữ giới do đó có ngƣời gọi là “Mẹ Quan Âm” tức là xem Quan Âm cũng

là vị nữ thần độ mạng.

Tất nhiên thờ Quan Âm tuy quan niệm có khác với Phật giáo nhƣng vẫn

phải cúng chay, không thể cúng mặn nhƣ thờ các vị thần khác.

Trong đời sống tinh thần của ngƣời bình dân thì các vị thần này là ngƣời cha

hay ngƣời mẹ đỡ đầu. Thế nên các nơi tờ tự này lúc nào cũng khói hƣơng nghi

ngút.

Đàn ông ở Cù Lao Phố tuy thờ nhiều vị thần độ mạng nhƣ Tử Vi Đại Đế,

Ngũ công vƣơng Phật (Quan Công, Quan Bình, Châu Xƣơng, Văn Xƣơng và Linh

Tiên) hoặc cậu Tài, cậu Qúi… nhƣng tín ngƣỡng Quan Công bao trùm lên tất cả vị

thần ấy. Quan Công là biểu tƣợng cho tín nghĩa mà những ngƣời thờ ông phải noi

theo. Ngƣời thờ ông có tục cữ ăn thịt trâu và thịt chó, đây là hai con vật có tiếng

trung thành với chủ. Thờ Quan Công có ba ngày vía (giống lịch lễ của chùa Ông).

Riêng ngày 26 tháng 6 âm lịch tƣơng truyền là ngày âm hôn Quan Công vào chùa

đƣợc Phổ Tịnh Thiền Sƣ thuyết phục quy y Phật pháp nên cúng chay. Ngày vía

sinh Quan Công (13 tháng giêng) và ngày vía tử (13 tháng 5) có thể cúng mặn

nhƣng phải cữ thịt gà. Tƣơng truyền do gà là con vật ân nghĩa của Quan Công nên

Quan Công không ăn thịt gà. Có ngƣời nói thuở bị nạn, do Quan Công lấy máu gà

xoa mặt đỏ bừng nên không bị bắt. Có ngƣời nói nhờ gà gáy nên Quan Công “quá

ngũ quan trảm lục tƣớng”. Ngƣời Hoa có tục thờ Quan Công càng phức tạp hơn.

Tùy theo tuổi tác cung mạng của ngƣời thờ mà phải chọn bức tranh vẽ Quan Bình

hay Châu Xƣơng ở bên phải hay ở bên trái, hoặc lƣỡi cây thanh long đao quay ra

hay quay vô. Những ngƣời thờ Tử Vi Ðại Ðế thì cúng chay vì đây là thần đạo

Giáo. Thờ Ngũ Công Vƣơng Phật vì có Quan Công nên phải tuân thủ tục thờ Quan

Công.

Đàn bà ở Cù Lao Phố thờ nhiều nữ thần độ mạng nhƣ Chúa Tiên, Chúa

Ngọc (đều là Thiên Y A Na). Ðây là các nữ thần gốc Chàm cũng có tục cúng vịt,

không cúng gà. Thế nhƣng tín ngƣỡng này bao trùm. Những phụ nữ thờ Cửu Thiên

Huyền Nữ (thần gốc Đạo Giáo) hoặc đàn ông thờ cậu Tài cậu Quí cũng theo tục lệ

ấy.

3) Tục thờ Bản gia

Page 141: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

141

Gia thần là các vị thần phù hộ tập thể các thành viên trong gia đình. Quan

niệm thờ các vị gia thần xuất phát từ Ðạo Giáo và Nho Giáo nên trở thành tục phổ

biến ở Á Ðông. Thế nhƣng, do đời sống văn hóa khác nhau nên tục thờ gia thần ở

mỗi địa phƣơng vẫn có những điểm riêng biệt.

Sách Lễ Ký của Nho Giáo cho biết mỗi gia đình có năm vị thần phải thờ là

“thần Ngũ Tự”.

Táo Thần: Thần Bếp.

Hộ Thần: Thần Nhà.

Môn Thần: Thần Cửa.

Tỉnh Thần: Thần Giếng.

Trung Lựu Thần: Thần Gian Nhà Giữa.

Ở Nam bộ, có nơi thờ chung năm vị Thần Ngũ Tự. Một số nơi có thờ Thần

Giếng. Ngƣời Hoa có tục thờ Thần Cửa… Kinh Táo Quân (kinh phổ biến trong

dân gian ) có câu: “Nhất gia chi chủ, ngũ tự chi thần”nghĩa là “Táo Quân là chủ

của một nhà, đứng đầu thần Ngũ Tự”.

Xuất phát từ những quan niệm đó nên tục thờ cúng Táo Quân phổ biến tại

Cù Lao Phố. Thờ Táo Quân tức là thờ đại diện năm vị thần vừa kể. Nhƣng nét đặc

biệt là tại Cù Lao Phố do tích hợp nhiều dòng văn hóa nên trong dân gian có hại

quan niệm Táo Quân:

Thần Táo: Vị thần thay mặt Thƣợng Đế chủ quản một gia đình, mỗi năm

vào ngày 23 tháng chạp cỡi ngựa hoặc hạc (tục gọi là “ngựa chạy, cò bay”) về trời

báo cáo những điều thiện ác. Thần Táo thƣờng đƣợc thờ trên trang cao ở nhà trên.

Tại những ngôi nhà cổ nhƣ nhà ông Nguyễn Văn Cở ở Hƣng Phú, bà Phạm Thị Tƣ

ở Nhị Hòa cho biết xƣa kia trang thờ Táo Quân thƣờng đƣợc đặt tại gian giữa rất

trang trọng.

Ngƣời ta thƣờng thờ Táo Quân bằng tranh vẽ hoặc bài vị. Tranh thờ thƣờng

vẽ Táo Quân là vị quan mặc áo bào đen, mặt đen, đầu đội mão cánh chuồn đen,

hầu một bên có quỷ dạ xoa cầm chùy, một bên có phán quan bƣng ấn. Còn bài vị

thờ Táo Quân thƣờng viết bốn chữ:

Định phƣớc Táo Quân.

Hai bên có câu đối:

Hữu đức năng ty hoả

Vô tư khả đạt thiên.

Có đức cai trị củi lửa

Vô tư khả đạt cơ trời)

Thổ Táo: Vị thần củi lửa (có một bà hai ông theo truyện cổ tích Việt Nam).

Thổ Táo thƣờng đƣợc thờ ngay trên bếp. Cách thờ Thổ Táo cũng giống nhƣ thờ

Page 142: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

142

Thần Táo. Nhƣng nhân gian cho rằng mỗi năm vào ngày 23 tháng chạp Thổ Táo

vẫn ở lại với nhân gian để lo việc củi lửa, không về trời nhƣ Thần Táo.

Đặc biệt có gia đình thờ cả Thần Táo và Thổ Táo.

Ở Cù Lao Phố, không thấy tục thờ Hộ Thần và Tỉnh Thần, Trung Lựu Thần

mặc dù xƣa nay tại đây nhà cửa san sát và thói quen dùng nƣớc giếng khá phổ

biến. Cá biệt chỉ có “Miếu Quan Ðế” và nhà ông Bì Văn Lâu (Tân Mỹ) có thờ Môn

Thần. Ðây là những tục riêng của ngƣời Hoa còn dấu vết tại Cù Lao Phố, khá đặc

biệt.

Gia đình ngƣời Việt và ngƣời Hoa tại Cù Lao Phố còn thờ Ngũ Phƣơng

Ngũ Thổ Long Thần tức Năm vị Thần Ðất này đƣợc đồng hòa với Thần Tài (Tiền

Hậu Ðịa Chủ Tài Thần) theo quan niệm đất đai sinh ra sản vật, của cải. Bài vị Thần

Tài ghi:

Ngũ Phương Ngũ Thổ Long Thần

Tiền Hậu Ðịa Chủ Tài Thần.

Hai bên có câu đối:

Kính ông ư Mậu Kỷ

Ngựa ngã dĩ Canh Tân.

(Kính ông Mậu và Kỷ, tức: Thổ Thần

Giúp tôi đƣợc Canh và Tân, tức Kim)

Hoặc:

Kim chỉ sơ phát diệp

Ngân thọ chính khai hoa

(Cành vàng vừa nảy lá

Cây bạc đúng khai hoa)

Nơi thờ Thổ Thần và Thần Tài gọi là “Tụ Bửu Ðƣờng”. Ðây là các vị Thần

Ðất nên bàn thờ thƣờng đặt trệt trên mặt đất (chỉ có trƣờng hợp là Thần Ðất).

Năm vị Thần Ðất là:

* Thổ Công: Thần Ðất khu vực nền nhà, đình đền. Thổ Công là thần đứng đầu

năm vị Thần Ðất. Ở Nam Bộ, đặc biệt chỉ có một số đình đền thờ Thổ Công. Còn

đa số, trong số có vùng Cù Lao Phố không hề nhắc đến Thổ Công. Cũng không

quan niệm Thổ Công là Táo Quân nhƣ ở miền Bắc.

* Thổ Ðịa: Thần Ðất tại khu vực cửa cái. Bài vị Thổ Ðịa của bà con ngƣời

Hoa thƣờng ghi “Môn Khẩu Thổ Ðịa Tiếp Dẫn Tài Thần”. Do quan niệm đây là

một “linh quan” nên xƣa kia ngƣời Việt thƣờng thờ Thổ Ðịa làm thần “tiếp dẫn

viên” cho các Nữ Thần (nhƣ tại miếu Ngũ Hành Nƣơng Nƣơng gần chợ Chiếu).

Page 143: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

143

Gần đây, do thƣơng nghiệp phát triển. Thổ Ðịa và Thần Tài trở thành vị thần của

bà con mua bán. Thổ Ðịa cũng còn mang tính chất là vị thần mối lái. Thƣợng Thổ

Ðịa và Thần Tài thƣờng làm bằng đất nung hay thạch cao, bày bán sẵn. Tục thờ

Thần Tài và Thổ Ðịa tuy mới hòan chỉnh gần đây nhƣng phát triển nhanh đến nỗi

ảnh hƣởng đến bà con ngƣời Hoa. Tại Cù Lao Phố có một gia đình Thiên Chúa

Giáo làm nghề mua bán cũng thờ Thổ Ðịa và Thần Tài nhƣ ngƣời không đạo.

* Thổ Thần: Thổ Thần hay Thổ Chủ là Thần Ðất khu vực vƣờn tƣợc. Vùng

vƣờn tƣợc Vĩnh Long – Tiền Giang tục thờ Thổ Thần rất phổ biến. Thổ Thần đƣợc

thờ trong những chiếc miếu con ở quê vƣờn gọi là “Thổ Chủ”.

Thế nhƣng tại vùng Cù Lao Phố, Thổ Thần lại mang chức năng của Thổ

Công, đƣợc đồng hóa với Thần Tài. Tại nhà ông Bì Long Thạch (ấp Tân Mỹ)

khánh thờ Thổ Thần đƣợc đặt tại gian nhà giữa, sát mặt đất. Bài vị ghi: “Thổ

Thần”và hai bên có câu đối:

Thổ vượng nhân tùng vượng

Thần an trạch tự an.

(Ðất vƣợng ngƣời cũng vƣợng

Thần an nhà tự an.

Gần đây, chủ nhà đặt thêm tƣợng Thổ Ðịa, loại bằng đất nung bán ngoài chợ.

Tại nhà ông Nguyễn Văn Thiếp cũng thờ Thổ Thần và Thần Tài với bài vị:

“Ngũ Phƣơng Thổ Thần”và “Tăng Phƣớc Tài Thần”.

Đây là nét đặc biệt của Cù Lao Phố. Có lẽ đây là quan niệm ảnh hƣởng quan

niệm của ngƣời Hoa. Vùng Chợ Lớn cũng có tục đồng hóa Thổ Thần và Tài Thần.

* Thổ Kỳ: Thổ Kỳ còn gọi là Ðịa Kỳ. Mỗi nhà tại Cù Lao Phố đều có bàn

thiên trƣớc sân nhà. Bàn này không mái che có hai tầng: tầng đền thờ Thiên Hoàng

(tức Trời), tầng dƣới thờ Ðịa Kỳ (tức Ðất). Đây là một dạng đàn Nam Giao thu

gọn, tƣơng tự nhƣ tục thờ “Thiên phụ địa mẫu” (cha trời mẹ đất) của ngƣời Hoa.

Cột bàn thông thiên thƣờng có bốn chữ “thiên quan tứ phƣớc”. Theo tục lệ

trên ấy thƣờng để gạo muối, ba chung nƣớc cúng. Ngày sóc vọng lễ tết đầy đủ

hƣơng hoa. Tƣơng truyền bàn thông thiên có tục bày 5 chung nƣớc cúng là những

nhà có trong tổ chức “Thiên Ðịa Hội” hồi đầu thế kỷ này.

IV. LỄ TIẾT TRONG NĂM

Ðấy là một hệ thống các lễ cúng trong năm theo âm lịch mà thƣờng gọi là

“tứ thời tiết lạp” và trong chừng mực nào đó, hệ thống lễ này gắn bó theo nông lịch

truyền thống và về sau mới pha tạp do các ảnh hƣởng khác. Ở Cù Lao Phố, lễ tiết

trong năm, về cơ bản không có gì đặc biệt, nhƣng cũng có những tích tiết riêng,

mức độ đậm nhạt có khác.

1) Lễ đƣa ông Táo

Page 144: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

144

Táo Quân theo dân gian là vị thần thay mặt Ông Trời, Ngọc Hoàng Thƣợng

Ðế theo dõi công tội từng ngƣời từng gia đình, đồng thời còn là vị thần phù hộ trẻ

em nữa. Ðặc biệt tại Cù Lao Phố ngƣời ta quan niệm có hai loại Táo Quân: Thổ

Táo và Thần Táo. Thổ Táo và Thần Bếp, giúp con ngƣời việc ăn uống và không

bao giờ về trời. Thần Táo là thần thờ ở nhà trƣớc, mỗi năm vào cuối ngày 23 tháng

chạp phải về trời tâu việc lành giữ của nhân gian và chiều 30 tháng chạp lại từ cõi

trời trở lại thế gian lo công việc cũ. Do đó tại địa phƣơng vào tối 23 sang 24 tháng

chạp phải làm lễ tiễn và chiều 30 phải làm lễ rƣớc Táo Quân. Theo truyền thuyết ở

Trung Quốc, triều đình làm lễ tiễn Táo Quân vào ngày 22, quan lại làm lễ tiễn

ngày 23, và dân gian chỉ làm lễ vọng bái vào ngày 24. Tục lệ này có một số đồng

bào ngƣời Hoa ở Cù Lao Phố tuân thủ.

Từ quan niệm này, ngƣời dân Cù Lao Phố có quan niệm thời gian từ 23 đến

30 tháng chạp các vị Phật, Bồ Tát, các vị thần linh khác cũng về trời chầu Thƣợng

Ðế nên có tục cúng tiễn, rồi thì không đốt nhang. Ðồng thời trong những ngày này

có thể quét dọn lau chùi các nơi thờ tự mà không sợ mang tội bất kính.

Lễ vật đƣa tiễn và đón rƣớc Táo Quân gồm nhang đèn, trà bánh, đặc biệt có

món bánh in và thèo lèo là hai lễ vật mà ngƣời Việt cũng nhƣ ngƣời Hoa đều chú

ý. Một loại lễ vật nữa cũng quan trọng là giấy vàng bạc, giấy “cò bay ngựa chạy”

và một tờ sớ nhờ Táo Quân dâng lên Thƣợng Ðế (in chữ Hán). Sự thật đó là hình

con ngựa và con hạc, ngụ ý nếu ông Táo muốn đi đƣờng bộ thì cƣỡi ngựa, muốn

bay lên trời thì cƣỡi hạc. Ngƣời Hoa, hôm tiễn ông Táo phải có cặp “mía tây” (mía

vàng) mà họ gọi là nêu, mà chỉ dán 5 miếng giấy hồng điều trên có những nút tròn

bằng giấy kim tƣơng, tƣợng trƣng bát quái. Theo tục xƣa, số nét này tƣợng trƣng

cho sơn hƣơng, phải thích hợp với chủ nhà; nay thì tƣợng trƣng thế thôi.

Lẽ tất nhiên tục lệ rƣớc ông bà vào buổi chiều cuối năm cũ. Trên bàn thờ các

đồ tự khí lau chùi sạch bón. Các lƣ hƣơng đã thay tro mới, chân nhang cũ đã đƣợc

đốt bỏ đ. Dĩa quả tử thƣờng là cam, quýt, bƣởi, dƣa hấu. Nếu chủ nhà chơi xuân

đúng hiệu phải sắm đủ một dĩa “mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung” mạng ý nghĩa

chúc tụng tốt lành. Bình hoa ngày Tết thƣờng là cành mai, bó vạn thọ, cúc, trang,

điệp. Cách trƣng bày phải theo nguyên tắc “đông bình tây quả”. Xƣa kia, hai bên

bàn thờ còn hai cây mía vàng (mía tây) gọi là “gậy ông bà”.

Trƣớc sân nhà là đôi chậu cúc, chậu vạn thọ, hoặc thƣợc dƣợc và một vài

cây mai. Nhiều nhà mấy ngày trƣớc khi rủ chia thịt đã nhờ mấy thầy nho viết giùm

đôi ba câu đối đỏ dán ngòai cổng trƣớc hiên.

Tục lệ xƣa có ngƣời bƣng khay trầu rƣợu ra cửa đón tổ tiên về. Nếu mồ mả

tổ tiên gần nhà, có ngƣời ra tận mộ. Sau đó con cháu bày trên bàn thờ một mâm

cơm canh cúng tổ tiên. Chịu ảnh hƣởng tập tục của ngƣời Hoa, một số gia đình

ngƣời Việt còn cúng một con gà luộc. Ðặc biệt, con gà này nằm tréo cánh trên một

chiếc dĩa bàn, miệng ngậm một cọng hành lá, xung quanh xếp nhiều hành củ (gà =

kê, gần âm cát; hành = thông, con gà này mang ý nghĩa chúc mừng gia đình tốt

lành từ đầu năm đến cuối năm ). Khi ấy ngƣời ta đốt khá nhiều giấy vàng bạc và

giấy quần áo.

Page 145: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

145

Lúc giao thừa thì tất cả đình chùa tại địa phƣơng đều nổi chuông trống liên

hồi. Nhà nhà đèn đuốc sáng choang đón rƣớc Táo Quân, Thổ Ðịa, Thần Tài, cũng

nhƣ các vị thần thánh khác trở về ăn Tết với thế gian. Xƣa kia, đốt khá nhiều pháo.

Nhiều nhà biết tự làm pháo tre, pháo lùn để đốt chơi trong mấy ngày xuân. Họ

chuẩn bị hàng tháng trời tốn khá nhiều công sức. Sau phút giao thừa có tục lắng

nghe tiếng con vật gì kêu trƣớc, thƣờng gọi là “con vật ra đời” để đoán thời vận

năm ấy. Thí dụ nhƣ nghe tiếng gà, ngƣời đó sẽ bị vất vả về ăn uống. Nghe tiếng

heo đƣợc an nhàn sung sƣớng v.v… Tục lệ này nói tâm trạng phấn khởi của ngày

đầu năm mới và sự lo toan cho ngày mai.

Sáng mồng một Tết, con cháu đều phải đến từ đƣờng hoặc nhà ngƣời trƣởng

tộc lễ bái tổ tiên. Các chức sắc trong làng đến đình làm lễ thần Thành Hoàng. Một

số ngƣời, nhất là nữ thƣờng đến chùa lễ Phật. Thƣờng khi chúc mừng nhau thì

ngƣời lớn hay lì xì (Hán Việt: lợi sự) cho trẻ con một ít tiền lấy lộc may mắn.

“Mồng một tết nhà, mồng hai tết vợ, mồng ba tết thầy”. Trong ba ngày tết chủ yếu

thăm viếng chúc mừng bà con thân thuộc, từ nội đến ngoại, sau đó mới bạn bè,

thầy dạy học, thầy dạy nghề.

Theo tục cũ từ khi rƣớc ông bà đến ngày mồng bốn đều phải dâng nƣớc

cúng cơm mỗi ngày ba bữa nhƣ cha mẹ tổ tiên còn tạ thế. Trong ba ngày ấy ngƣời

ta có tục cữ quét nhà, hay nếu có quét nhà thì tấp rác vào một chỗ chớ không đẩy

rác ra ngoài. Ðêm mồng một có nhà giấu chổi, sợ ăn trộm lấy đƣợc thì đẩy những

chuyện xúi quẩy đến cho chủ nhà. Trong ba ngày ấy, có nhà đổ lúa vào cối xay,

múc nƣớc đầy lu, đổ nƣớc vào cối giã gạo, đổ gạo đầy thạp… với ý nghĩa cầu

mong suốt năm mới đƣợc đầy đủ. Trong ba ngày Tết, trò vui chủ yếu nhất là cờ

bạc nhƣ bầu cua, tài xỉu, lô tô, me, tứ sắc, các – tê… thu hút trẻ em và ngƣời lớn

nhƣng hiện nay không còn nữa.

Đến ngày mồng, thƣờng vào buổi chiều nhà nhà làm lễ cúng tất, tiễn tổ tiên

về chốn cũ. Ngƣời ta cũng bày biện cơm canh bánh trái nhƣ khi rƣớc tổ tiên. Ðặc

biệt có nhà tổ chức gánh lễ vật đƣa tổ tiên ra ngõ rồi nổi lửa đốt từ thịt cá, bánh

trái, kể cả cặp “gậy”của tổ tiên.

Trong mấy ngày Tết có ngày mồng ba rất quan trọng đối với nông dân. Sáng

sớm nhà nhà đều cúng thần Hành Binh Hành Khiển một con gà luộc. Thần Hành

Binh Hành Khiển là thần coi việc dịch bệnh chiến tranh nên lễ vật cho các ngài

nhƣ tiền bạc, lƣơng thực, vũ khí, chiêng trống, ghe thuyền. Gần đây ngƣời ta cũng

canh tân, đốt cho các ngài cả “đô la âm phủ”hoặc cả hình ảnh máy bay, tàu

chiến… nữa.!

Trong ngày mồng ba ngƣời làm vƣờn cũng cúng Thổ Thần. Lễ vật ra mắt

Thổ Thần cũng là một con gà luộc. Khi cúng xong có cả tục chủ vƣờn lấy giấy đỏ

cắt hình bầu rƣợu, miếng chả… dán tất cả cây cối trong vƣờn hay vật dụng trong

gia đình… ngụ ý chúc mừng.

Cũng trong ngày mồng ba, ngƣời nuôi trâu có tục cúng thần chuồng trại. Lễ

vật cúng đơn giản nhƣ gà, bánh ú nƣớc tro (nhân ngọt). Ðặc biệt khi cúng xong

ngƣời chủ phải cho đứa trẻ chăn trâu một bộ quần áo, một ít tiền lì xì. Cho con trâu

Page 146: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

146

đực uống một tí rƣợu, cho con trâu cái uống một tí trà, tất nhiên không thể thiếu

một bó cỏ non, có ngƣời lấy giấy đỏ dán lên sừng trâu chúc mừng nữa.

Nói chung, Tết ở Cù Lao Phố cũng theo lệ thƣờng ở miền Nam. Tuy gọi là

ba ngày Tết nhƣng sau ngày khai hạ nông dân mới ra đồng, những ngƣời làm thợ

mới bắt đầu làm việc. Riêng những ngƣời buôn bán, theo tập tục đã làm lễ khai

trƣơng từ ngày mùng 6. Thợ hớt tóc thì lại nghỉ gần một tháng mới bắt đầu làm

việc lại.

3) Tết Đoan Ngọ

Tết Đoan Ngọ ngày mùng 5 tháng 5 là lễ tiết gốc từ Trung Quốc là ngày giỗ

Khuất Nguyên. Trái lại, ở miệt Nam cũng nhƣ ở Cù Lao Phố, Đoan Ngọ đƣợc xem

là ngày “Tết” nửa năm, ngày nghỉ tay của ngƣời lao động cực nhọc.

Ngày Đoan Ngọ của Cù Lao Phố có bánh ú tro, chè xôi, cơm rƣợu… xƣa kia

nhiều nhà giám hùn nhau giết heo chia thịt. Lệ cúng vào giữa trƣa, chủ yếu cũng

cúng Phật, các vị gia thần và tổ tiên.

Trong ngày Đoan Ngọ ngƣời ta có tục ra vƣờn hái một vài nắm “thuốc mùng

năm” nhƣ thạch xƣơng bồ, ngải cứu, xả, cỏ mực, mần trầu… đem treo ngay cửa

cái. Truyền thuyết nếu trong nhà có ngƣời bị ghẻ chóc do viêm nhiệt thì lấy nắm lá

ấy nấu nƣớc tắm thì sẽ hết. Lại có tục cho rằng nếu bắt đƣợc “cặp thằn lằn giao

đầu” vào trƣa ngày Đoan Ngọ để làm thuốc trị hen suyễn rất hiệu nghiệm. Do đó,

ngày nay có ngƣời lùng sục tìm thằn lằn nhƣng do bẩm sinh tự nhiên chúng đã trốn

bặt tăm không dễ gì tìm. Ngƣời ta còn tin rằng nếu băm cây vào ngày Ðoan Ngọ

thì cây bị kích thích cho nhiều trái. Giữa trƣa Ðoan Ngọ nếu ra nhìn mặt trời nháy

mắt vài cái thì trị đƣợc bệnh nhặm mắt.

Tục cúng Ðoan Ngọ của ngƣời Hoa tại Cù Lao Phố cũng tƣơng tự nhƣ

ngƣời Việt. Họ không cúng chè, xôi mà cúng thịt heo quay, gà luộc, bánh ú nƣớc

tro. Ðặc biệt có bánh ú gói bằng lá tre nhƣng hình dáng dài nhƣ đòn bánh tét. Ngày

Ðoan Ngọ ngƣời Hoa dùng rất nhiều bánh ú. Sẵn khéo tay lại có nhiều lá tre tại

thời điểm này nhiều gia đình ngƣời Việt làm bánh ú bán ra các nơi.

4) Tứ quí, Tam nguyên và các lễ thức khác

Khác vùng ngoài, ở Cù Lao Phố không có tục cúng tổ tiên vào ngày tứ quí

(xuân phân, hạ chí, thu phân và nhất là ngày đông chí). Có lẽ do thời tiết điều hòa,

ngƣời dân địa phƣơng thấy không cần phải trình báo trời đất tổ tiên khi thời tiết

thay đổi.

Còn Tam Nguyên, tức ngày rằm tháng giêng, rằm tháng bảy, rằm tháng

mƣời trở thành ngày lễ “Phật Giáo” quan trọng tại địa phƣơng. Trong ngày này

ngƣời ta chẳng những lên chùa lễ Phật mà còn tổ chức cúng kiếng tại nhà mình

nữa. Cúng rằm tức cúng Trời Phật, Thánh Thần và Tổ Tiên nên đều dùng các lễ vật

chay nhƣ hƣơng đăng, trà quả, chè xôi. Các ngày này có nhiều gia đình ăn chay.

Sau ba ngày rằm lớn là ba ngày thí cô hồn: 16 tháng giêng, 16 tháng 7 và 16

tháng 10. Các gia đình tại Cù Lao Phố cúng cô hồn là để chúng đừng phá phách trẻ

Page 147: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

147

con. Chỉ những gia đình làm nghề buôn bán vận tải xe cộ, ghe thuyền thì tổ chức

tƣơm tất có cháo vịt, thịt heo quay. Còn thƣờng thì đơn giản với gạo muối, cháo

hoa. Hủ tục đốt giấy tiền vàng bạc vẫn còn tồn tại; thuốc lá, trà rƣợu là loại lễ vật

đƣợc coi là thích hợp với cô hồn.

Trƣớc khi vào đêm mồng 8 rạng mồng 9 (chuẩn bị ngày của Ngọc Hoàng

Thƣợng Đế) nhiều gia đình có tục lập hƣơng án, “đốt đèn trời” ở giữa sân nhà. Khi

ấy chủ nhà nguyện vái rồi đốt đôi nến rất to. Hễ đứt cặp này thì thay cặp khác, đến

trời sáng tỏ mới thôi. Tục “đốt đèn trời” để cầu phƣớc cầu thọ nhƣ câu ca dao:

Đêm đêm đốt ngọn đèn trời

Cầu cho cha mẹ sống đời với con.

Tục đốt đèn trời ngày nay không còn phổ biến, nhƣng thay thế vào bằng tục

cúng sao hội.

Ngoài ra, một lễ thức nông nghiệp phổ biến tại Cù Lao Phố là lễ “Thƣờng

Tân”. Lễ này tổ chức vào mùa thu, khoảng tháng 9 tháng 10 khi gia đình đã thu

hoạch xong. Có gia đình đặt lên bàn thờ gia tiên một bát cơm, hoặc một thúng gạo

mới, ngụ ý tạ ơn tổ tiên cho mình có ăn đủ mặc. Đây là lễ tục có ý nghĩa đạo lý cần

duy trì.

V. NHỮNG LỄ THỨC CỦA ĐỜI NGƯỜI

Ngoài lễ thức có tính chất định kỳ, gắn liền với tập tục cúng bái trong gia

đình, còn những hình thức lễ nghi gắn với những biến cố chính của một đời ngƣời,

là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu lễ nghi của ngƣời Cù Lao Phố. Đây là

những nghi lễ phổ biến của dân tộc, trong đó có những nét đặc biệt của địa

phƣơng.

1) Sinh đẻ là việc quan trọng trong gia đình. Ở Cù Lao Phố, khi một ngƣời

phụ nữ mang thai phải tuân thủ những kiêng cữ nhƣ sau:

- Không đƣợc ăn quá cay, sợ đẻ con hay nhăn mặt nhăn mày.

- Không đƣợc tức giận, sợ đẻ con cƣờng nghịch.

- Không ăn ốc, sợ đẻ con le lƣỡi, chảy nƣớc dãi.

- Không ăn cua, sợ đẻ ngang.

- Không ăn chuối sinh đôi (chuối dị dạng), sợ đẻ sinh đôi.

- Không ăn thịt thỏ, sợ con sứt môi.

- Không ăn chim sẻ, sợ con đa tình.

- Không coi hát, sợ con ảnh hƣởng hỷ, nộ, ái, ố - nhất là sợ thấy các vai

tƣớng mặt rằn, sinh con quái dị.

- Không choàng khăn quanh cổ, vì sợ sanh nhau choàng (quanh đứa hài nhi).

Các tục lệ kiêng cữ trên là những dị đoan. Có tục tai hại nhƣ tục kiêng cắt

rún trẻ sơ sinh bằng dao vì sợ con hung bạo. Từ đó bày ra việc cắt rún trẻ con bằng

Page 148: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

148

cọng nứa, mảnh sành, mảnh chai (không sát trùng) nên có thể bị nhiễm trùng.

Những tục cữ xem hát, sợ ảnh hƣởng tinh thần ngƣời mẹ rồi ảnh hƣởng đến đứa

hài nhi, hoặc tục cữ ăn tôm, cua, ốc… sự thật sợ thừa vôi, thai nhi quá lớn, khó

đẻ… cũng hợp với khoa học. Âu cũng là những tục mang tính chất “giáo thai” của

Nho giáo vậy.

Khoảng một tháng trƣớc khi ngƣời phụ nữ lâm bồn trong nhà tổ chức cúng

“đơm lẻ” cầu Bà Chúa Thai Sanh, Mƣời Hai Bà Mụ và ba Đức Thầy phù hộ cho

mẹ tròn con vuông.

Phụ nữ khó đẻ có tục lật cối giã gạo, anh chồng cầm chày bổ liên miên

(Nguyễn Đại Phúc sẽ bổ sung các mẹo vặt bài thuốc khi bị chửa trâu).

Đƣợc vài bữa mà ngƣời mẹ không có sữa cho con bú thì chƣờm vú bằng

cơm nóng hay đắp hành, hoặc ăn cháo nếp nấu với giò nai, giò heo, thiên thảo, hay

vảy trút. Phƣơng pháp khác là rửa vú bằng lá mít non, rồi chải bằng lƣợc thƣa.

Thƣờng kỵ ngƣời đến thăm, nếu không hợp vía thì làm trẻ sơ sinh khóc,

hoặc đau ốm nên trƣớc nhà có treo lá môn, hoặc cục than hoặc xâu tiền để báo cho

khách biết không vào viếng thăm. Theo Trịnh Hoài Đức, thời đó, còn có tục cắm

giỏ lửa tức là lấy cây củi đang cháy dở buộc vào cái cọc cắm giữa sân. Nếu chủ

nhà sinh con trai thì đầu củi cháy quay vào trong nhà; nếu chủ nhà sinh con gái thì

đầu ấy quay ra. Sản phụ không đƣợc trò chuyện với khách để đề phòng khách sang

bệnh truyền nhiễm (nếu có) vì lúc ấy sản phụ rất yếu. Khách khứa, ngƣời lạ đến

nhà biết mà giữ gìn, không đƣợc ồn ào, không đƣợc nói lớn tiếng nhƣ lúc bình

thƣờng ảnh hƣởng đến sức khỏe của sản ph. Ngƣời đẻ khó thì treo trƣớc hiên nhà

một nhánh xƣơng rồng để ngừa “phong long”.

Ngƣời ta còn có tục hái nắm lá, hoặc vơ nắm đũa trong giờ sanh, để đếm

chẵn lẻ mà đoán vận mạng đứa trẻ.

Khi đứa trẻ sinh ra đƣợc vài ba ngày, bà mụ phải làm lễ móc miếng. Theo

truyền thuyết xƣa kia phải móc những cục nhớt trong miệng trẻ sơ sinh. Nhƣng về

sau bà mụ chỉ tƣợng trƣng lấy một cành bông quơ qua quơ lại miệng đứa trẻ rồi

đọc một bài vè khá dài, nội dung cầu chúc đứa trẻ thông minh lanh lợi. Khi mở

miệng ra là ai ai cũng yêu thích. Gặp những gia đình đã nhiều lần sinh con nhƣng

không nuôi đƣợc, có thể nhờ ngƣời ẵm đem bỏ ngoài ngõ, rồi giả vờ ra lƣợm đem

vào làm con, cũng có thể nhờ ngƣời ẵm ra ngoài giả vờ rao bán, rồi ra ngõ mua

đem vào nuôi, hoặc đặt cho nó cái tên xấu xí. Tục này ẩn ý sẽ qua mặt quỷ thần,

mong đứa trẻ thoát nạn. Ðể cho đứa trẻ khỏi giật mình, ngƣời ta dùng vật kim loại

nhƣ lƣỡi tầm sét, trấn trên đầu giƣờng. Khi đứa trẻ bị “con sát” (sự thật vì những

giọt sữa đầu của mẹ có chất đắng, đứa trẻ khóc không bú) thì tổ chức cầu cúng và

lấy roi dâu đặt trấn trên đầu giƣờng. Một vài trƣờng hợp gia đình lập trang thờ “Mẹ

con sát” tức Thánh Anh Phu Nhân. Nay do trình độ khoa học, các tập tục đó bị loại

bỏ đi khá nhiều.

Lễ cúng đầy tháng hay lễ đặt tên cho đứa trẻ đƣợc tổ chức sau khi sinh một

tháng. Theo tập tục, lễ này phải có chè xôi, cháo, vịt luộc và hƣơng hoa trà quả

Page 149: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

149

(xôi thƣờng nhuộm màu đỏ báo tin mừng). Nhân dịp này gia đình cũng dùng lễ vật

tạ ơn bà mụ, tùy hoàn cảnh kinh tế. Mục đích lễ đầy tháng là cảm tạ Kim Huê

Thánh Mẫu, 12 bà mụ, và 3 đức thầy đã giúp đứa trẻ chào đời bình an. Sau khi

cúng xong, gia đình sẽ dọn lễ vật xuốn, một phần để đánh chén, một phần đem

biếu tặng cho bà con bạn bè để báo tin mừng.

Tên đứa trẻ, trên lý thuyết là phải đặt khi đứa trẻ đƣợc một tháng. Nhƣng

thực tế, khi đứa trẻ lọt lòng phải có tên ngay để làm giấy khai sinh. Do đó có nhiều

bậc cha mẹ đã chuẩn bị trƣớc một số tên (nam hoặc nữ) để dễ chọn lựa mà không

trùng lặp với ông bà tổ tiên. Thậm chí có những đứa trẻ mới lọt lòng đã chết, cha

mẹ cũng phải đặt cho nó một cái tên để khỏi xếp vào loại ma quỷ “hữu vị vô danh”

sau này dễ cầu cúng.

Lễ thôi nôi tổ chức khi đứa trẻ đƣợc 12 tháng, ý nghĩa cũng nhƣ lễ đầy

tháng, nhƣng hình thức thƣờng quy mô hơn, có giá đình làm vịt làm heo để mời

bạn bè họ hàng đến ăn mừng. Ngày thôi nôi ngƣời ta có tục bày một sàng gồm một

nắm xôi, một cái gƣơng, một cái lƣợc, cuốn sách, cái tập, cây viết, cái kéo… đặt

trƣớc mặt đứa trẻ. Ngƣời ta tin rằng đứa trẻ chọn vật nào trƣớc tiên thì sau này đứa

trẻ sẽ có năng khiếu đó.

Mỗi đứa trẻ có một nữ thần phù hộ (tục gọi là Mẹ Sanh) nhƣ Thập Nhị Huê

Bà, Lục Cung Thánh Mẫu, Thủy Triều Long Cung nhƣng nếu nó vẫn nặng bóng

vía, khắc tuổi mẹ cha, thƣờng gia đình phải tìm thầy ký bán nó cho Táo Quân.

2) Tập tục cƣới hỏi

Theo quan niệm phong kiến, trai gái không đƣợc tự do giao tiếp nhau nếu

chƣa có lễ nghi trói buộc. Thế nhƣng trong thực tế tại Cù Lao Phố khuôn phép này

chỉ giới hạn ở một ít gia đình nho học thƣợng lƣu. Ngay cả gia đình thƣợng lƣu

theo Tây học sau này cũng không khắt khe đến thế. Trong dân chúng trai gái vẫn

tiếp xúc nhau lúc gặt hái ngoài đồng, lúc xay giã trong xóm, lúc chèo thuyền buôn

bán – đặc biệt nhất là khi có hát hò đối đáp. Sự giao tiếp này tự do, nhƣng không

phóng túng. Hôn nhân ở đây, luôn luôn chống lại quan hệ tình cảm bất chính, hoa

nguyệt lăng loàn, “tiền dâm hậu thú”.

Theo cổ lệ “nữ thập tam, nam thập lục” nhƣng thực tế không có cặp vợ

chồng nào kết hôn quá trẻ nhƣ thế. Xƣa kia chỉ có các gia đình giàu có chọn dâu

lúc 16 tuổi, chọn rể lúc 18 tuổi. Sau này trai phải trên 20, hiện nay 22 hoặc 25. Còn

gái phải 16, hiện nay 20 hoặc 23. Ở Cù Lao Phố không có tục hứa hôn lúc trẻ lên 5

hay 10 tuổi. Thông thƣờng “nhứt gái hơn hai, nhì trai hơn một”, tức là theo tục cũ

phải chọn tuổi thích hợp, nhƣng có trƣờng hợp vợ lớn hơn chồng hai tuổi, hoặc

chồng lớn hơn vợ một tuổi.

Việc kết hôn theo luật pháp trai gái không cùng huyết thống trong ba đời.

Nhƣng thực tế ở Cù Lao Phố phải quá 7 – 8 đời, nghĩa là không còn khả năng

chung huyết thống, không cùng một ông tổ ở vùng đất này. Đặc biệt có một số ít

gia đình kiêng cùng một họ. Thí dụ họ Nguyễn không thể kết hôn với họ Nguyễn,

mặc dù không có gì chứng minh là bà con dòng họ. Đó là do tục của ngƣời Hoa

Page 150: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

150

“đồng tính bất hôn, đồng thôn bất thú” (cùng một họ, quê, cùng một thôn thì không

kết hôn vì có thể có cùng huyết thống). Ngoài ra vì vấn đề luân lý, anh em nội

ngoại, anh em bạn dì, anh em nuôi, cha con nuôi, dì ghẻ con chồng… cũng không

đƣợc kết hôn với nhau vì bị coi là loạn luân.

Lệ xƣa cấm cƣới gả trong tang, sau Gia Long chuyển thành luật phổ biến.

Thế nhƣng ở Cù Lao Phố cũng không gắt gao. Ở đây không có tục cƣới chạy tang.

Khi gặp trƣờng hợp bất trắc nhƣ thế thì hoãn lại, chờ một năm làm lễ xả tang sớm

thì tổ chức cƣới hỏi bình thƣờng. Phụ nữ ly dị chồng hay góa chồng, nếu làm đầy

đủ bổn phận, hết tang cũng có thể tái giá không bị xã hội chê trách. Thƣờng trai

chết vợ sẽ cƣới gái góa chồng. Khác lạ hơn, gái góa chồng mà lấy trai tơ thì sẽ bị

xã hội nhận xét không tốt.

Theo nguyên tắc, hôn nhân xƣa có 6 lễ là Nạp thái, Vấn danh, Nạp cát, Nạp

trƣng, Thỉnh kỳ và Thân nghinh và bên cạnh đó còn có một số nghi lễ phụ. Nhƣng

trong thực tế, theo câu “cổ tuy lục lễ, hậu thế tồn tam” (xƣa tuy có 6 lễ, nhƣng đời

sau chỉ còn có 3) nên tại Cù Lao Phố chỉ còn 3 lễ chính và 2 lễ phụ là: Lễ coi mắt

(tức kết hợp lễ Nạp thái và lễ Vấn danh) lễ Nạp tài (tức lễ Nạp trƣng), lễ hỏi

(Thỉnh kỳ), lễ cƣới (Thân nghinh) và lễ phản bái còn gọi là lễ giở mâm trầu.

Đầu tiên, khi một chàng trai hay gia đình chọn đƣợc cô gái nào thì nhờ một

“bà mai” (băng nhân) đến nhà gái bắn tin để dò xét ý kiến gia đình bên nhà gái. Bà

mai thƣờng là một phụ nữ đứng tuổi sành tâm lý, hiểu tục lệ, lễ nghi, có tài ăn nói

thuyết phục ngƣời khác. Bà mai này là gạch nối giữa nhà trai và nhà gái, có nhiệm

vụ giàn xếp tỉ mỉ cho chuyện hôn nhân tiến hành tốt đẹp. Khi nhà gái bằng lòng, bà

mai báo lại cho nhà trai và nhà trai tiến tới lễ “coi mắt”. Lễ coi mắt kết hợp lễ nạp

thái và vấn danh, mục đích nhà trai đến làm quen với nhà gái, xem mặt và hỏi tên

tuổi cô dâu tƣơng lai. Lễ vật chỉ có trầu cau rƣợu trà. Nhà gái khéo léo giới thiệu

con gái bằng cách gọi con ra bƣng trà rót nƣớc, chớ không làm lễ gia tiên. Tiếp

theo, nhà trai đáp lễ mời nhà gái sang nhà cũng nhằm mục đích thắt chặt tình cảm

hai họ và cho biết gia cảnh bên rể. Thƣờng cô gái không đƣợc tháp tùng.

Sau nghi lễ đầu tiên, nhà trai chính thức đem lễ vật qua hỏi cƣới cô gái.

Ngày này, nhà trai đi khá đông: Bà mai, trƣởng tộc nhà trai, vợ chồng sui trai, chú

rể và một số thân tộc nội ngoại, bạn bè của chú rể. Lễ vật thƣờng là một đôi đèn

sáp ong, hai chóe rƣợu, một mâm trầu (1), một đôi bông tai, một số nữ trang, bốn

mâm lễ vật gồm trà, rƣợu, bánh, trái… Đặc biệt nhất là phải có một bông sen búp

làm bằng giấy to tƣớng. Lễ vật này gồm một số để dâng cúng gia tiên, một số để

tặng cô dâu. Thế nên đôi đèn và đôi bông có tính cách bắt buộc, không thể thiếu.

(1) Mâm trầu cƣới hỏi ở Cù Lao Phố gồm 90 lá, xếp vòng xung quanh mâm

cuống quay ra (mâm trầu đám ma cuống quay vô). Trên để một quày cau có số

lƣợng trái chẵn đôi. Ngoài phủ vải đỏ

Page 151: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

151

Trƣớc khi đem lễ vật đi ăn hỏi, nhà trai phải bày một mâm cơm, hoặc trầu

rƣợu kính cáo gia tiên mình về việc hỏi vợ cho con trai. Trƣớc khi lạy ra mắt tổ

tiên nhà vợ, chú rể phải lạy báo tổ tiên mình trƣớc.

Nhà gái lúc ấy phải ra tận cổng đón nhà trai. Giới thiệu xong, nhà gái mời họ

nhà trai uống nƣớc. Đây là lúc hai họ tuyên bố lời đính ƣớc, cho trai gái gọi cha

mẹ, và nhận lễ vật đặt lên bàn thờ, ngƣời trƣởng tộc nhà gái lên đèn cho chú rể làm

lễ gia tiên. Đôi bông tai và nữ trang đƣa vào phòng cho cô dâu, sau đó cô dâu ra

chào họ trai. Còn cái bông sen giấy, đây là vật biểu trƣng, đƣợc treo lên trƣớc bàn

thờ báo tin con gái chủ nhà đã có nơi đính ƣớc. Thông thƣờng trong ngày ăn hỏi,

nhà gái phải làm tiệc thiết đãi nhà trai, thế nên nhà trai phải đi một con lợn (29).

Đây là lễ vật đầu tiên của nhà trai nên thƣờng nhà gái phải nhận tất cả,

không “lại” mâm, “lại”quả. Sau đó nhà gái chia ra từng phần đem biếu cho bà con

thân tộc. Riêng về ngƣời Hoa, tục lệ của họ cũng không khác tục lệ của ta bao

nhiêu. Lễ vật của nhà trai có khi có hàng chục ký trà, mấy tạ bánh “tiều”, rất nhiều

tiền lẻ (riêng ngƣời Quảng Đông và Triều Châu còn phải có mấy trăm trầu cau).

Sau lễ hỏi nếu nhà gái đem tặng quà, nếu quà có thêm bao “lì xì” thì hiểu đó là tiền

xe mời ngƣời ấy đi dự tiệc cƣới. Còn nếu có trà bánh trầu cau mà không có bao lì

xì thì phải hiểu chỉ có báo tin. Kể từ sau ngày hỏi, chàng rể đƣợc gọi cha mẹ vợ,

tới lui nhà vợ không ai dị nghị. Nhƣng ngày mồng một và ngày rằm âm lịch phải đi

“làm rể”. Ngày ấy chàng rể qua nhà vợ, hễ gặp việc gì thì làm nấy, từ việc ruộng

nƣơng, bổ củi, lợp nhà… Nhƣng khổ nhất là gặp những ngày không có việc làm.

Lúc đó chàng ta chỉ đứng xớ rớ một cách khổ nhọc. Ngoài ra gặp ngày giỗ chạp,

Đoan Ngọ hay Nguyên Đán… nhà trai phải biếu xén nhà gái, mùa nào thức nấy.

Để tiến hành lễ cƣới, công việc quan trọng là bà mai thỏa thuận việc thách cƣới

của nhà gái. Sau khi thỏa thuận xong, khoảng vài tháng trƣớc khi cƣới nhà trai và

bà mai đem trầu rƣợu sang nhà gái làm lễ “nạp tài”. Hai bên cùng bàn chƣơng trình

lễ cƣới: ngày giờ (30), lễ vật, số ngƣời đi họ, thể thức hành lễ. Số lễ vật nhà gái

thách cƣới đƣợc ghi vào trong một tờ thiếp nhƣ: một đôi đèn sáp, hai chóe rƣợu,

một con heo đứng (hoặc tiền), một mâm trầu, bốn mâm lễ vật (trà, bánh, trái

cây…) ngoài ra còn một bông sen nở bằng giấy, một số nữ trang và một số tiền

mua sắm quần áo phụ trang cho cô dâu. Số lễ vật này nhà gái chỉ nhận phân nửa,

còn phân nửa biếu lại cho nhà trai. Xƣa kia thƣờng phải nhờ những ngƣời lớn tuổi,

gia đình hạnh phúc, đạo đức để may áo cƣới và mùng màn cho đôi vợ chồng mới.

Nhƣng gần đây thì thƣờng để cho họ tự mua sắm lấy.

Thời thuộc Pháp, trƣớc khi hôn lễ cử hành khoảng 8 ngày, đại diện nhà trai

và nhà gái phải đến chính quyền địa phƣơng (nhà gái) đăng ký kết hôn, gọi là

“khai bát nhựt”. Sở dĩ qui định nhƣ vậy có ý chờ xem có ai tranh cản thì hôn lễ sẽ

bị đình lại.

(29) Ngày hỏi hoặc ngày cưới nếu nhà trai đi một con lợn gọi là “con heo đứng”, nếu thế tiền gọi là “con heo

nằm”.

(30) Người ta thường chọn ngày tốt để làm đám cưới, ngoài ra còn phải thuận cho nhà gái, nhà trai như: Cữ một

năm tổ chức hai đám cưới. Có thể một năm làm hai đám cưới, nhưng gả trước cưới sau, không được cưới trước gả

sau.

Page 152: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

152

Lễ cƣới ở nhà trai hoặc lễ gả ở nhà gái đều kéo dài hai ngày: Ngày trƣớc gọi

là ngày nhóm họ, mục đích đãi đằng thân thuộc bạn bè. Ngày sau là ngày chỉ tập

trung vào nghi lễ và đãi khách đƣa họ. Gần đây, nhà gái vẫn còn tổ chức hai ngày.

Nhƣng nhà trai thì gom lại một ngày: Sáng rƣớc dâu về, sau nghi lễ chính thức thì

đãi khách họ gái, rồi kéo dài đến chiều đãi khách họ trai cùng bạn bè xa gần. Hôm

nhà gái nhóm họ, nhà trai tuy bận rộn nhƣng chú rể vẫn khăn áo đến nhà gái “làm

rể”, danh nghĩa là tiếp khách, nhƣng thực tế là thăm dò nên gọi là lễ “thám hôn”.

Tối hôm đó, trƣớc khi về làm dâu họ nhà chồng, cô dâu phải đem trầu rƣợu

làm lễ gia tiên, cha mẹ, thân tộc nội ngoại của mình. Nhân dịp này bà con chú bác

cậu mợ cô dì thƣờng tặng cháu một ít tiền làm của hồi môn. Cha hoặc mẹ cũng

đem một vài lời dạy dỗ con gái lần cuối.

Để tiếp đón số lƣợng khách mời khá đông, nhà trai hoặc nhà gái đều dựng trại

trƣớc nhà để làm tiệc. Trại này thƣờng đƣợc trang trí bằng bẹ chuối, lá đủng đỉnh,

lá dừa, dây bòng bong là những loại có thể giữ tƣơi tốt đƣợc ba bốn ngày. Trong

xóm thƣờng có những thanh niên khéo tay hay đến giúp đỡ những nhà có đám.

Trƣớc nhà làm một chiếc cổng cũng trang trí bằng hoa lá. Nếu là nhà trai, trên

cổng sẽ treo tấm bảng đề hai chữ “Tân hôn”. Nếu nhà gái treo hai chữ “Vu quy”.

Những tấm biển này thƣờng kết bằng hoa, lá màu, đậu hạt hoặc gạo nhuộm màu có

màu sắc tự nhiên, đẹp mắt. Nhà giàu rƣớc thợ chuyên môn làm nhà tiệc toàn bằng

hoa lá chọn lọc, quy mô và mỹ thuật.

Đến ngày, chiếu theo chƣơng trình đã định, họ nhà trai đến sớm khoảng 10

phút để xin vào làm lễ cƣới. Xƣa kia ngƣời ta cho giờ tốt rất quan trọng, quy định

rất nghiêm ngặt, nên trong dân gian có nhiều câu truyện ngoa truyền phản đối.

Khách rƣớc đến rƣớc dâu gồm bà mai, chú rể, ông bà sui, bác chú cậu mợ cô dì,

một số bạn bè chú rể cùng những ngƣời gánh lễ vật (Chú ý: tục của ngƣời Việt, lễ

vật cƣới thƣờng đặt trên mâm đồng, mâm gỗ hay mâm đan bằng tre. Còn tục ngƣời

Hoa lễ vật cƣới thƣờng đặt trong quả). Khách rƣớc dâu cũng nhƣ khách đƣa dâu

thƣờng đủ đôi, chẵn cặp.

Họ nhà trai dừng lại trƣớc ngõ, ngƣời đại diện nhà trai và chú rể phụ bƣng

khay trầu rƣợu vào trình xin đƣợc vào làm lễ. Nhà gái đốt một tràng pháo mừng rồi

cử ngƣời đại diện nhà gái ra đón. Mọi ngƣời ngồi vào bàn uống nƣớc, tiếp theo là

nghi thức giới thiệu, tiếp nhận lễ vật, cẩn cáo gia tiên cho chú rể bái yết. Lễ bái yết

của chú rể là nghi lễ quan trọng nhất. Nhà gái thƣờng cử một ngƣời lớn tuổi, uy tín

đạo đức, vợ chồng song toàn đứng ra làm lễ lên đèn, để cho chú rể lạy 4 lạy. Hai

bên bàn thờ có ông bà sui trai, ông bà sui gái đứng chứng kiến. Ngƣời ta đứng

ngoài thƣờng nhìn hai ngọn đèn cháy để đàm tiếu hậu vận tƣơng lai của đôi vợ

chồng mới. Một cây tỏ một cây lu là điềm không tốt. Cây đèn đang cháy nếu gãy

đổ, tắt lịm là điềm cực xấu. Do đó, trƣớc khi đến nhà gái, nhà trai phải cắt sửa tẩm

dầu đôi đèn cƣới rất cẩn thận. Sau đó chú rể lần lƣợt đến từng bàn chào từng ngƣời

khách, rồi ngƣời đại diện nhà gái tuyên bố lễ thành. Nếu đƣờng xá xa xôi nhà gái

sẽ làm tiệc đãi nhà trai, bằng không nhà trai đem trầu rƣợu xin làm lễ rƣớc dâu.

Page 153: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

153

Cuối cùng cô dâu bƣớc ra khỏi phòng, đến vài chào bàn thờ gia tiên để xin xuất giá

theo chồng.

Khi về đến nhà trai, lúc bƣớc vào cổng cũng có pháo mừng. Sau đó, chƣơng

trình cũng tiến hành nhƣ ở nhà gái, chỉ khác là có thêm lễ tế tơ hồng ở trƣớc sân.

Lễ vật tế tơ hồng cũng có thể tiệc trà (nhƣ hoa quả trà bánh) cũng có thể mặn (nhƣ

gà luộc nhƣng kiêng gà trống thiến) và chủ tế là bà mai. Những gia đình theo Nho

học, có thêm bài văn tế. Tại đây, hai vợ chồng mới cƣới phải lạy bốn lạy. Cuối

cùng là nhà trai dọn tiệc đãi hai họ, ăn uống chuyện trò vui vẻ.

Tối đêm ấy, trƣớc khi vào phòng hoa chúc cô dâu còn phải đem trà rƣợu lạy

cha mẹ chồng để xin làm một thành viên của gia đình và cầu mong sự chỉ bảo của

các bậc trƣởng thƣợng. Thông thƣờng những bậc cha mẹ đều thƣơng yêu con cái

nên buổi lễ này rất có ý nghĩa. Nếu hai nhà ở gần nhau mỗi buổi chiều chú rể có

thể dẫn cô dâu về nhà cha mẹ cho đỡ nhớ nhà. Ba ngày sau gọi là ngày “nhị hỷ”

hay ngày “phản bái” (trở lại lạy lần thứ hai). Có ngƣời giải thích do hôm đám cƣới

chú rể chỉ làm lễ ở nhà cha mẹ vợ, lễ “phản bái” này tạo dịp cho đôi vợ chồng mới

trở lại làm lễ từ đƣờng ở họ gái. Do đó, ngày phản bái đôi vợ chồng mới phải xách

về một cặp vịt để cúng ông Táo.

Ở Cù Lao Phố kiêng việc “tiền dâm hậu thú”, có thai trƣớc ngày cƣới. Nếu lỡ

có chuyện ấy xảy ra thì phải tổ chức đơn giản, chỉ có cặp vịt làm lễ “thú phạt”.

không đƣợc mời họ hàng bạn bè. Nếu kỵ tuổi thì lúc rƣớc dâu về dâu rể phải đi

vòng phía sau v.v…

Nói chung, lễ thức liên quan đến đời ngƣời ở Cù Lao Phố chính yếu là nhƣ

vậy. Ngoài lễ tục liên quan đến sinh đẻ, cƣới xin có thể kể thêm các lễ thức khác

nhƣ sinh nhật, mừng thọ, đáo tuế, thƣợng thọ… Thật ra, lễ sinh nhật mới du nhập

còn trƣớc kia, lễ dứt căn của đứa trẻ đến năm 12 tuổi có thể đƣợc coi là một hình

thức lễ sinh nhật và từ đó đến năm 60 tuổi mới tổ chức lễ mừng thọ gọi là đáo tuế,

tức mừng cho ngƣời đó sống đủ một hội, trở lại cái năm sinh của mình (có can chi

giống hệt). Ngày sinh nhật thứ 60 này có ý nghĩa quan trọng và ngƣời sống đến

tuổi này có thể coi là thọ. Sau đó, đến năm 70 tuổi gọi là “cổ lai hy”, 80 tuổi mới là

tổ chức lễ thƣợng thọ, thiên thọ. Các lễ này, thƣờng con cháu đứng ra tổ chức để tỏ

lòng mứng vui vì cha mẹ, ông bà sống lâu và cũng tỏ lòng hiếu kính. Nội dung

nghi thức này ở Cù Lao Phố cũng giống những nơi khác: tùy theo từng nhà có canh

cải, mới cũ pha trộn không chừng.

Page 154: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

154

CHƯƠNG BA

CÁC TẬP TỤC TÍN NGƯỠNG CỘNG ĐỒNG

Cù Lao Phố hiện nay có 5 chùa phật, 3 ngôi tịnh xá, 11 ngôi đình, 3 ngôi

miếu, một biểu tòa cao đài và một ngôi chùa Hoa (Thất phủ cổ miếu). Đó là chƣa

kể 20 miễu nhỏ tập trung trƣớc các đình và một ngôi đền thờ Chƣởng Cơ Nguyễn

Hữu Cảnh đã bị cải đổi thành đình Bình Kính. Điều này cho thấy rằng đây là một

xã hội có lƣợng đình, chùa, đền, miếu thuộc loại nhiều nhất ở Nam Bộ.

Tuy nhiên, cũng cần lƣu ý đây là một xã đƣợc hình thành bằng cách nhập

nhiều thôn mà theo thiết chế làng thôn truyền thống thì mỗi thôn đều có một tập

hợp đình, chùa, miễu, võ, nên xã có nhiều cơ hội tín ngƣỡng nhƣ vậy. Mặt khác,

Cù Lao Phố vốn đã từng là Nông Nại Đại Phố nên có nhiều thiền sƣ từ Trung

Quốc, Hội An đến hành đạo nên nơi đây đã từng là trung tâm của Phật giáo ở

phƣơng Nam và thêm vào đó, đây là đất định cƣ sớm của nhóm ngƣời Hoa tị nạn

nên từ đó, họ đã xây dựng đền thờ thần linh của họ: Quan Thánh miếu – ngôi

“chùa Hoa” cổ xƣa nhất ở Nam Bộ. Nói tắt lại, Cù Lao Phố là vùng đất không chỉ

nhiều về số lƣợng mà còn rất phong phú về các dạng tín ngƣỡng, tạo thành một cơ

cấu đa dạng, đan xen và hòa trộn vào nhau.

I. ĐẠO PHẬT Ở CÙ LAO PHỐ

Cù Lao Phố là một trung tâm Phật giáo của miền Nam. Ngƣời dân địa

phƣơng rất sùng tín đạo Phật. Phật giáo đã thâm nhập vào tín ngƣỡng dân gian, vào

tập tục của nhiều gia đình và cả các dạng thức tín ngƣỡng truyền thống Nho giáo.

Thế nên, tại đây có nhiều tín đồ qui y thọ giới, còn thêm nhiều gia đình thờ Phật,

tam nguyên tứ quí vẫn đến chùa, nhƣng không phải chỉ là tín đồ Phật giáo.

Tại Cù Lao Phố, Phật giáo Đại Thừa có 6 ngôi chùa là Đại Giác, Chúc Thọ,

Hồng Ân, Phƣớc Hội, Tịnh Lâm và Phƣớc Long. Hệ phái Khuất Sĩ có Tịnh Xá

Ngọc Hiệp và Ngọc Pháp và đặc biệt nhất là Tịnh Xá Thắng Liên Hoa thuộc phái

Tịnh Độ Non Bồng.

1) Ở tịnh xá Thắng Liên Hoa ở xóm Bình Tự, có nhiều tài liệu chứng tỏ đây là

một hệ phái của Bửu Sơn Kỳ Hƣơng (gốc của Phật Thầy Tây An và ông Cử Đa).

Qua câu đối thờ chứng tỏ đây là một chi nhánh của Tịnh Độ Tông. Nhƣng các tu sĩ

lại vân pháp phục Nam Tông. Tịnh xá Thắng Liên Hoa xây dựng theo mô hình của

một ngôi Tịnh Xá Nhất Sĩ, có bốn cửa, nhƣng bên trong trang trí đẹp đẽ với nhiều

phù điêu có nội dung Phật Giáo lẫn Đạo Giáo.

Đông môn Trƣờng Xuân cung.

Page 155: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

155

Bắc môn Vạn Thọ cung.

Tây môn Tịnh Hòa cung.

Nam môn Bửu Hƣơng cung.

Chánh điện thờ Đa Bảo Tháp, hình vuông, bảy tầng. Xung quanh thờ các

tƣợng Di Lặc Bồ Tát, Quan Âm Bồ Tát và tƣợng các vị tổ trong tông phái. Phía

sau có điện thờ tƣợng Thiên Thủ Thiên Nhãn. Rải rác trong khuôn viên là những

tịnh thất.

Tịnh xá Thắng Liên Hoa do Mẹ Trầu xây dựng năm 1966, trùng tu năm 1986,

gốc ở núi Dinh di chuyển về.

2) Nổi danh nhất tại Cù Lao Phố là chùa Đại Giác. Chùa Đại Giác, tục gọi là

chùa Phật Lớn, là một Tổ Đình của Phật Giáo. Chùa Đại Giác do Thiền Sƣ Giác

Liễu khai sơn từ thế kỷ XVII.

Sách Đại Nam nhất thống chí cho rằng chùa xây dựng từ thời xa xƣa nhƣng

không rõ năm nào. Vị Tổ đời thứ hai là Hòa thƣợng Thành Đẳng hiệu Minh Lƣợng

(1686 - 1769) từ chùa Vạn Đức (Hội An) và Bửu Phong ra Vạn Ninh (Khánh Hòa)

vào trụ trì. Hòa thƣợng ngƣời Triều Châu, đệ tử hòa thƣợng Nguyễn Thiều ở chùa

Thập Tháp (Bình Định) và Quốc Ân (Thừa Thiên). Trụ trì chùa Đại Giác đời thứ

ba là Thiên sƣ Linh Nhạc, hiệu Phật Ý, gốc ngƣời Minh Hƣơng, đã xuống Gia

Định lập chùa Từ Ân. Chúa Đại Giác còn vị trụ trì đời thứ tƣ là ngài Tổ ấn Tức

Mật Hoằng (1735 - 1835), đƣợc nhà Nguyễn phong Tăng Cang, rƣớc ra trụ trì

nhiều ngôi chùa danh tiếng tại kinh đô. Mật Hoằng Hòa thƣợng có nhiều đệ tử ở

Thừa Thiên, Bình Định, Biên Hòa, Gia Định, Định Tƣờng… ông là một danh tăng

trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam. Đến nay chùa Đại Giác truyền trên mƣời đời trụ

trì.

Tƣơng truyền vào cuối thế kỷ XVIII, gia đình chúa Nguyễn có thời gian tạm

trú tại chùa nên năm 1820, công chúa Ngọc Anh (con thứ ba vua Gia Long) đã

cúng một bức hoành khắc ba chữ “Đại Giác Tự”. Nhân dịp này chùa Đại Giác

cũng đƣợc triều đình đặc ân trùng tu mở rộng. Di tích hiện tồn của chùa Đại Giác

đƣợc tái thiết vào những năm 1959, nhƣng vẫn còn giữ theo thức “tự trụ” truyền

thống và bảo lƣu số di tƣợng cổ.

Nội điện chùa Đại Giác trang trí rất nhiều hoành phi câu đối. Trên chánh điện

thờ tƣợng Trung Tôn to lớn. Hai bên có tƣợng Địa Tạng, Thích Ca sơ sinh, Thiện

Hữu, Ác Hữu, Ngọc Hoàng Thƣợng Đế, Nam Tào, Bắc Đẩu. Phía trƣớc có bàn thờ

Hộ Pháp và Tiêu Diện. Hai bên hông có bàn thờ Minh Vƣơng, Gia Lam, Đạt Ma.

Trƣớc bái đƣờng có cây đèn Dƣợc Sƣ 49 ngọn. Đặc biệt hai bên tƣợng Trung Tôn

có hai tƣợng Thích Ca Khất Thực theo cách bài trí của một ngôi chùa Kh’mer. Nét

đặc biệt nữa là tại chùa Đại Giác có hai tƣợng Tiêu Diện đại sĩ. Một tƣợng thờ

thƣờng xuyên tại chùa. Một tƣợng dùng để rƣớc ra chẩn tế cô hồn trong các ngày

lễ trai đàn bạt độ. Điều đó chứng tỏ rằng ngành ứng phú tại Cù Lao Phố phát triển

mạnh.

Page 156: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

156

Chùa Đại Giác (Cù Lao Phố) và chùa Từ Ân (thành phố Hồ Chí Minh) còn

lƣu truyền câu chuyện tình bi thảm giữa bà Hoàng Cô và Hoàng thƣợng Liên Hoa.

Đây là một câu chuyện truyền khẩu có ý nghĩa thâm trầm đáng cho ngƣời mộ đạo

suy nghĩ.

3) Chùa Tịnh Lâm (ở Thành Hƣng) là ngôi chùa mới khai sơn vào đầu thế kỷ

này, là một ngôi chùa theo pháp môn Thiền, Tịnh và Mật Tông.

4) Chùa Phƣớc Hội là ngôi chùa “làng” của làng Bình Tự, do Thiền sƣ Phật

Sanh trùng tu, có tên trong địa bạ Minh Mạng 1836. Chùa Phƣớc Hội trƣớc kia

cũng tu theo pháo môn Thiền, Tịnh và Mật Tông.

5) Tại xóm Gò Cát (Bình Hòa) có chùa Phƣớc Long thành lập năm 1912.

Chùa này do các mục đồng thành lập nên có tên là chùa “Mục Đồng”, sau có ngƣời

gọi là chùa “Phật Đồng”. Tƣơng truyền lúc đầu bọn trẻ chăn trâu bẻ lá làm chùa,

nặn tƣợng đất thả xuống nƣớc đều bị chìm chỉ trừ tƣợng Di Đà, nên đã nổi danh31

6) Chùa Hoàng Ân (ở tại ấp Nhị Hòa) là ngôi chùa thờ rất nhiều tƣợng thô

phác, gắn liền với huyền thoại vợ chồng ngƣời ăn mày bị hủi thác sinh làm hoàng

tử. Do trƣớc kia vợ chồng anh ăn mày này tạm trú tại đây nên ngôi chùa đƣợc triều

đình trùng tu và đƣợc đặt hiệu là “Hoàng Ân”. Theo truyền thuyết, chùa Hoàng Ân

khai sơn năm Kỷ Dậu (1729).

7) Chùa Chúc Thọ, cũng là ngôi chùa có huyền thoại minh chứng cho thuyết

nhân quả Võ Thủ Hoằng, tục gọi là Thủ Huồng, ngƣời thôn Mỹ Chánh huyện

Phƣớc Chánh là một phú ông “vắt cổ chày ra nƣớc”. Sau ông đi lạc vào chợ Mãnh

Ma, gặp đƣợc vợ cũ đã mất đƣa đi thăm cõi ngục hình dƣới cõi U Minh. Do đó,

ông thấy đƣợc lý nhân quả và khi trở về bắt đầu làm lành tích phƣớc. Công trình

nổi tiếng nhất của ông là chiếc nhà bè bố thí gạo củi và nƣớc ngọt tại ngã ba sông

mà ngày nay có tên là “Nhà Bè”. Ngôi chùa của ông xây dựng cũng mang ẩn ý cầu

xin nên có tên là “Chúc Đảo”32

sau đổi tên là Chúc Thọ. Tƣơng truyền sau ông

thác sinh làm vua Đạo Quang (1821 - 1850) nhà Thanh. Khi vua này còn làm thái

tử, trên lƣng có bớt son “Gia Định Võ Thị Hoằng”. Do đó vua Đạo Quang có gởi

sang cúng ba pho tƣợng Di Đà Tam Tôn và một cái bệ bằng gỗ mặt đá để tôn thờ

ba pho tƣợng này.

Tóm lại, Cù Lao Phố là nơi có nhiều ngôi chùa cổ, nơi có nhiều danh tăng,

là “đất Phật”. Phật Giáo và tín ngƣỡng dân gian đã đam xen vào khá chặt chẽ. Hầu

nhƣ mỗi ngôi chùa có một huyền thoại mang nội dung Phật Giáo, nhƣng cũng

mang triết lý răn đời.

II) TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN VÀ TRUYỀN THỐNG CÙ LAO PHỐ

1) Tổng quát: Bên cạnh những ngôi chùa thờ Phật còn có những ngôi nhà

vuông (hay nhà võ). Mỗi ấp có một hoặc hai ngôi nhà vuông. Đó là những ngôi

nhà chỉ có cột, kèo và mái che, bốn phía trống trải. Những ngôi nhà này thƣờng

đứng ở ngã ba hay ngã tƣ đƣờng hay ở ven sông, nơi thuận tiện giao thông. Giữa

(

31) Biên Hòa sử lược toàn biên của Lương Văn Lựu

(32

) Sách Đại Nam nhất thống chí ghi là Chúc Đảo tự

Page 157: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

157

nhà có trang thờ “Tiên Sƣ” (bậc đáng kính thời trƣớc trong làng), nơi để đồ âm

công, là tụ điểm họp dân, kiêm chức năng điếm canh, và cũng là nơi bà con trong

xóm thiết lễ cầu an, tống tiễn thần ôn hoàng dịch lệ vào đầu mùa viêm nhiệt.

Nhà vuông thƣờng dựng bên cạnh đình nên có nơi còn gọi đình là nhà vuông

cái. Đình Bình Quan có một biểu hiện (làm khoảng giữa thế kỷ XIX) khắc bốn chữ

“Bình Quan Võ Miếu”. Đây là nhà vuông ấp Tam Hòa trong giai đoạn thuộc Pháp.

Ngoài ra tại Bình Tự, gần chùa Phƣớc Hội có nhà vuông ấp Nhứt Hòa, và tại chợ

Chiếu có nhà vuông ấp Nhị Hòa bị phá do chiến tranh. Riêng nhà vuông Nhị Hòa

mới bị phá gần đây. Bài vị thờ Tiên Sƣ, Táo Quân và Ngũ Phƣơng Long Thần

đƣợc đƣa vào thờ tạm tại miếu Thổ Thần, trƣớc đình Tân Mỹ.

Do mặt bằng ngôi nhà tạm này thƣờng có hình vuông nên gọi là nhà vuông

chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định.

Miếu là nơi thờ các vị thần linh. Vùng Cù Lao Phố có điểm đặc biệt là chỉ có

2 ngôi miếu tƣ của nhân dân: Một ngôi miếu thờ Ngũ Hành Nƣơng Nƣơng ở chợ

Chiếu và một ngôi miếu khác cũng thờ Ngũ Hành Nƣơng Nƣơng ở tại Bình Tự,

trƣớc cổng chùa Phƣớc Hội.

Tất cả các đình làng đều có 2 ngôi miếu: một thờ “Ông” (Thổ Thần) một thờ

“Bà” (thƣờng là Ngũ Hành Nƣơng Nƣơng, Chúa Xứ, Thiên Y A Na). Riêng đình

Bình Hòa, Thành Hƣng và Bình Kính… chỉ có miếu Bà, không có miếu Ông.

Tất cả các miếu đều đơn giản. Nền và tƣờng gạch, mái ngói, trùng tu giai đoạn

gần đây. Trong miếu thƣờng thờ bài vị, hai bên có một hoặc hai câu đối. Diện tích

các ngôi miếu thƣờng không rộng, thƣờng 2m x 2m.

Theo Địa bạ Minh Mạng năm 1836 trên Cù Lao Phố có 2 xã Tân Hƣng (địa

điểm khoảng chùa Đại Giác) và 12 thôn là Bình Hoành 33

, Bình Quan, Vinh Long

(nằm giữa Bình Hoành và Bình Quan), Bình Hòa, Thành Đức, Bình Tự, Bình

Xƣơng, Hƣng Phú, Tân Giám, Long Qƣới Tân Mỹ và Hòa Qƣới. Nhƣ thế thời nhà

Nguyễn có lẽ vùng này có 13 ngôi đình. Năm 1851 Tự Đức thứ tƣ, theo Đại Nam

nhất thống chí, đất lở, triều đình cho xuất quĩ dời vào 10 tƣợng, có lẽ sau đợt tái

thiết này ngôi đền thờ Chƣởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh nhập vào đình làng Bình

Hoành. Theo các biểu hiện đƣơng thời còn để lại, tên xƣng khá phức tạp. Đình

Bình Hòa gọi là “đình”. Đình Hòa Qƣới gọi là “linh từ”. Đình Bình Quan gọi là

“Võ Miếu”. Đình Tân Mỹ gọi là “cổ miếu”… Đến thời Pháp thuộc chƣa hiểu lý do

gì thôn Vinh Long phiêu tán: ngôi đình này không còn. Đồng thời đình Tân Hƣng

và đình Thành Đức nhập lại là Thành Hƣng. Từ đó, chỉ trừ đình Thành Hƣng gọi là

“miếu”, còn tất cả các đình khác đều gọi là “cổ miếu”. Tục gọi đình là “miếu”, ở

Nam Bộ thấy phổ biến ở vùng Biên Hòa và Mỹ Tho – hai vùng đất mà ngƣời Hoa

đến cƣ trú sớm. Do vậy điều này gốc là tục lệ Minh Hƣơng.

33

Theo thống kê thôn xã năm 1808 của Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thống chí và các sắc phong cấp cho

đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh đều ghi là thôn Bình Kính Đông. Nhưng theo Địa bạ Minh Mạng 1836 và Đại Nam

nhất thống chí (mục từ miếu tỉnh Biên Hòa) nói về việc đất lở thì ghi là thôn Bình Hoành. Như vậy, tên Bình Kính

Đông là tên chính thức (vì còn Bình Kính, Bình Kính Tây). Có lẽ dân địa phương thì kiêng tên Chưởng cơ Nguyễn

Hữu Cảnh (Nguyễn Hữu Kính) nên gọi là Bình Hoành.

Page 158: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

158

Hiện nay trên Cù Lao Phố chỉ còn 11 ngôi đình là Thành Hƣng, Bình Kính

(Bình Hoành), Bình Quan, Bình Hòa, Bình Tự, Bình Xƣơng, Hƣng Phú, Tân

Giám, Long Qƣới, Tân Mỹ và Hòa Qƣới.

Cù Lao Phố bốn bề sông nƣớc, nên đa số đình làng thƣờng nằm dọc theo bờ

sông bờ rạch. Đình miễu là trung tâm văn hóa của địa phƣơng nên thƣờng đƣợc

xây trên những gò đất cao ráo, nơi có phong cảnh đẹp, đặc điểm là phải có giao

thông thủy bộ để dân làng tới lui thuận tiện. Khi xây dựng chắc chắn ngƣời ta có

chú ý đến yếu tố phong thủy, tuy nhiên, ngƣời ta cũng thực dụng nên du di gán

ghép quan niệm “Thanh Long”, “Bạch Hổ” vào các con rạch, con đƣờng. Để tôn

tạo phong cảnh xung quanh, các ngôi đình đƣợc trồng nhiều cây sao, dầu… là

những loại cây thích hợp với vùng đất thấp thƣờng ngập nƣớc. Bóng cây tảo mát

cũng là “huyền vũ” của quan niệm phong thủy.

Ở Cù Lao Phố cũng nhƣ ở Nam bộ có tục xây chùa miếu gần cạnh nhau nên

có câu “trƣớc miễu sau chùa”. Nếu có chợ nhƣ chợ Chiếu thì cũng không xa các

trung tâm ấy.

Nhà Nguyễn ban hành qui chế khắt khe nên ban đầu không có ngôi đình nào

qui mô. Đại khái chỉ có ngôi chánh điện, tiền điện, hậu điện và một vài ngôi nhà

phụ. Thuở ấy các đình đều xây dựng bán kiên cố, sƣờn gỗ lợp lá, hiếm có trƣờng

hợp lợp mái âm dƣơng. Khác với miền tây, đàn thần nông chỉ là một bệ thờ khiêm

tốn nằm một bên. Giữa là một bình phong có hình long mã nhƣ các ngôi đình miền

Trung. Chỉ có đình Thành Hƣng là có hình thần hổ và câu đối ca tụng phong thủy

xung quanh nhƣ những ngôi đình ở miền Tây.

Các đình ở Cù Lao Phố đều trùng kiến vào đầu thế kỷ này, Muộn nhất là đình

Bình Quan trùng tu vào năm 1942 và đình Bình Hòa trùng tu năm 1964. Gần đây

các đình đều có sửa nhỏ, không đáng kể. Tuy nhiên, qua đó, rất dễ nhận ra tầm

quan trọng của đình đối với dân chúng ở Cù Lao Phố: họ luôn bảo tồn đình và bảo

thủ các hoạt động tín ngƣỡng của đình dù các ngôi đình đã trải qua những tác động

có tính chất mất còn trong suốt bao năm qua.

2) Tục thờ thần Thành Hoàng và đối tượng phối tự ở đình:

2.1 Ðình thờ thần Thành Hoàng:

Thành là thành lũy, hoàng là hào lũy. Thần Thành Hoàng nói chung là phúc

thần phù hộ đám dân đen trong thôn. Thần còn là đại diện cho Thiên Tử ở địa

phƣơng. Có thể là một nhân thần, tức là một con ngƣời sinh thời có công trạng nên

khi chết đƣợc mọi ngƣời tôn thờ. Thần Thành Hoàng địa phƣơng là thần của làng

xã. Do ảnh hƣởng gián tiếp qua Nho giáo, nhà Nguyễn đã xếp thần Thành Hoàng

vào bậc hạ đẳng và phong cho các mỹ tự Quảng Hậu, Chánh Trực, Hựu Thiện,

Ðôn Ngƣng chi thần (Quảng Hậu, Ðôn Ngƣng là mỹ tự phong cho Thổ thần).

Thế nhƣng các ngôi đình ở Cù Lao Phố, cũng nhƣ các ngôi đình vùng Biên

Hòa, Thủ Dầu Một, Thủ Ðức và một vài nơi ở Mỹ Tho lại khác hơn các vị thần

Thành Hoàng vùng Cù Lao Phố đều đƣợc cấp sắc phong, ghi ngày 29 tháng 11

năm Tự Ðức thứ V (1852) những mỹ tự là Bảo An, Chính Trực, Hựu Thiện, Ðôn

Page 159: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

159

Ngƣng chi thần. Căn cứ vào mỹ tự này chúng ta thấy đời Minh Mạng các vị thần

Thành Hoàng ở đây đƣợc phong “Bảo An chi thần” tức mang dáng dấp nhân thần.

Ðến năm 1840, Minh Mạng gia phong hai chữ “Chánh Trực”. Ðời Thiệu Trị gia

phong chữ “Hựu Thiện” và đời Tự Ðức thêm chữ “Ðôn Ngƣng”. Từ đó mới

chuyển sang quan niệm thần Thành Hoàng là biểu tƣợng thổ thần địa phƣơng.

Chỉ riêng thôn Bình Hoành (có lúc gọi là Bình Kính Ðông) xƣa kia vừa có

đình thờ Bổn Cảnh Thành Hoàng chi thần vừa có đền thờ Chƣởng Cơ Nguyễn Hữu

Cảnh. Chúng ta cần chú ý Bổn Cảnh Thành Hoàng chỉ là biểu tƣợng và đƣợc

phong hạ đẳng. Trong khi Chƣởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh là một nhân vật lịch sử,

có công với quốc gia dân tộc, đƣợc nhà Nguyễn phong Thác Cảnh Uy Viễn Chiêu

Ứng Thành Cảm Hiển Linh Trác Vĩ thƣợng đẳng Thần, ông đƣợc thờ phƣợng rất

nhiều nơi.

Năm 1851, đền thờ Lễ Thành Hầu ở Cù Lao Phố (gọi là Lễ Công Từ) bị đất lở

sụp phải di rời. Sau đó, có lẽ cuối thế kỷ XIX, đền này đƣợc biến thành đình Bình

Kính. Từ đó vị thần này hòa nhập và thay thế Bổn Cảnh Thành Hoàng chi thần.

Ngôi đình làng Bình Hoành (Bình Kính) trở thành nơi thờ Lễ Thành Hầu. Tại đây

còn thờ những đạo sắc cấp thời Minh Mạng và Thiệu Trị, nơi đƣợc cấp sắc sớm

nhất Nam Bộ.

Khâm Ðịnh Ðại Nam hội điển sự lệ cho biết trƣớc khi nhà Nguyễn cấp sắc

phong, các triều Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Ðức đã nhiều lần truy tìm lý lịch các

vị thần Thành Hoàng đƣợc các địa phƣơng tôn thờ. Các vị thần Thành Hoàng cũ

nếu đƣợc cho phép tiếp tục tôn thờ thì phải bỏ danh xƣng Ðại Vƣơng, Qúi Phủ,

Thánh Phi, Công Chúa và dần dần đa phần đều là thần ý niệm hòa nhập vào “thần

Ðất”, với danh xƣng chung là “Bổn Cảnh Thành Hoàng chi thần”.

Tại đình Bình Hòa thờ bài vị ghi “Thành Hoàng Ðại Vƣơng, nguyên tặng Bảo

An Chánh Trực Hựu Thiện Ðôn Ngƣng chi thần”. Qua Gia Ðịnh thành thông chí

của Trịnh Hoài Đức chúng ta suy đoán vào những năm cuối thế kỷ XVIII tại Cù

Lao Phố đã có đình xã Tân Hƣng, đình thôn Bình Kính Ðông, Bình Quan, Bình

Hòa, Bình Tự, Bình Xƣơng, Tân Giám, Long Quới (không thấy tên thôn Vinh

Long, Thành Ðức và Hƣng Phú có lẽ là một tên nào đó đã chuyển đổi hoặc ba thôn

vừa kể đƣợc thành lập vào cuối đời Gia Long đầu đời Minh Mạng). Nhƣ thế tại Cù

Lao Phố đã có nhiều vị Thành Hoàng Ðại Vƣơng do vua Lê, chúa Nguyễn phong

tặng hay của đồng bào địa phƣơng tự đem danh hiệu từ quê hƣơng Thuận Quảng

vào tôn thờ lúc khai hoang lập làng.

Theo văn tế đình Bình Xƣơng, vào thế kỷ XVIII, ngôi đình này thờ Ðại Càn

Tứ Vị Thánh Nƣơng Vƣơng và Phi Vận Tƣớng Quân là hai vị thần phù hộ ngƣời

đi biển. Ðại Càn Tứ Vị Thánh Nƣơng Vƣơng là Dƣơng Thái Hậu và ba công chúa

nhà Nam Tống. Bốn bà hoàng này hy sinh khi quân Mông Cổ tiêu diệt quân Tống

tại Nhai Sơn (Quảng Ðông) vào năm 1279, xác tấp vào cửa Càn, huyện Quỳnh

Lƣu, tỉnh Nghệ An. Vì mục đích tranh thủ đám di thần nhà Tống tham gia chống

quân Nguyên, vì kẻ thù của ta cũng là kẻ thù của họ, nên vua Trần đã phong Thái

hậu của họ làm Ðại Càn Tứ Vị Thánh Nƣơng Vƣơng và đƣợc đồng bào tôn làm

Page 160: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

160

thần cửa Càn. Còn Phi Vận Tƣớng Quân tức Nguyễn Phục là một vị quan lớn việc

hậu cần lƣơng thực lúc vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành. Ông không chịu

ban lệnh ra khơi lúc trời đang bão vì sợ thiệt mạng đám quân sĩ và giữ gìn lƣơng

thực của triều đình. Nhƣng việc làm này bị bọn gian thần dèm pha nên ông bị xử

theo quân pháp. Sau đƣợc minh oan và đƣợc đồng bào tôn làm thần cửa biển

Thanh Hóa và cửa biển Ðà Nẵng. Do tổ tiên ta thời đó đi khai hoang đều theo

đƣờng biển nên hai vị thần này đƣợc thờ nhiều nơi.

Bên cạnh các vị thần biển vừa kể, đình Bình Xƣơng còn thờ các chúa Nguyễn

Hoàng, Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Lan, Nguyễn Phúc Tần, Nguyễn Phúc

Trân, Nguyễn Phúc Chu và Nguyễn Phúc Trú. Dƣới các chúa Nguyễn, còn thờ

Quận công Bùi Tá Hán (ngƣời khai phá đất Thuận Hóa, đặt nền móng cho chúa

Nguyễn Hoàng vào Nam), thờ Khánh Quận công Nguyễn Phúc Kỳ và Phó Quận

công Lƣơng Văn Chánh (ngƣời khai phá đất Quảng Nam và Phú Yên thời chúa

Nguyễn) v.v… Ðây là những danh nhân có công đƣợc ngƣời khai hoang đem vào

thờ. Riêng các chúa Nguyễn đƣợc thờ với danh hiệu sinh tiền và thụy hiệu truy

tặng ngay sau khi băng hà. Ðình Bình Xƣơng không thờ chúa Nguyễn Phúc Khoát

(1738 - 1765), chứng tỏ ngôi đình này thành hình vào giai đoạn ấy.

Tùng tự theo thần Thành Hoàng còn có Tả Ban và Hữu Ban là những thuộc hạ

của thần Thành Hoàng. Tại đình Bình Tự, ngoài bàn Tả Ban và Hữu Ban còn thờ

các vị thần Ðông Phối và Tây Phối cũng mang ý nghĩa tƣơng tự.

Sau năm 1975, hƣởng ứng phong trào cải tạo đình miếu, đình Bình Tự đã đƣa

tƣợng anh hùng Nguyễn Huệ vào đình Bình Quan, đã đƣa liệt sĩ vào thờ tại chánh

điện cùng chung với thần Thành Hoàng. Ngoài cửa có nhiều câu đối của ngành

Thông tin Văn hóa đƣa ra. Thí dụ:

Báo quốc hy sinh gương bất khuất

Kiên cường chiến đấu chống ngoại xâm.

Chiến sĩ hy sinh cơn quốc biến

Anh hùng vị quốc sử còn ghi.

(Ðình Bình Tự)

Chiến sĩ xả thân cơn quốc biến

Anh hùng yên giấc sử còn ghi.

(Ðình Bình Quan)

Sau này, bài vị các liệt sĩ ở đình Bình Quan đã đƣa về nhà truyền thống và

ghi vào bia dựng ở sân chùa Ðại Giác. Còn tƣợng anh hùng Nguyễn Huệ vẫn còn

tại chánh điện Bình Tự. Chúng ta nghĩ sao về cách “anh hùng hóa” các thần Thành

Hoàng nhƣ thế này? Thiện ý thì đã rõ, nhƣng hẳn là còn phải chú ý đến sự liên tục

của lịch sử văn hóa một thôn làng cụ thể và mặt khác, một anh hùng dân tộc lớn

lao nhƣ Nguyễn Huệ đƣợc đem thờ ở một ngôi đình của một khóm ấp nhƣ vậy thì

đó chƣa hẳn đã là sự tôn vinh.

Page 161: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

161

2.2 Tục thờ Tiền Hiền - Hậu Hiền và các bậc tiền bối hữu công:

Tiền hiền là những ngƣời có công qui dân lập làng. Xƣa kia, muốn lập làng

phải mộ dân đi khai hoang rồi nộp đơn, chờ quan trên khám xét và đợi triều đình

quyết định. Ðợt đầu, có những đoàn di dân từ miền Trung vào, phải vƣợt bao sóng

gió bão bùng mà vùng đất mới lại còn hoang dã. Do đó ngƣời đi đầu phải là tay

đảm lƣợc, bền chí, hào phóng – nói chung là phải có uy tín.

Hậu Hiền là những ngƣời nối tiếp sau Tiền Hiền, bỏ công hay góp của xây

dựng các công trình phúc lợi đầu tiên nhƣ: đình, chùa, miếu, võ, hoặc bắc cầu, đắp

đƣờng, làm chợ… Tại đình Tân Mỹ có thêm bàn thờ Tiên hiền mang ý nghĩa nhƣ

Hậu Hiền vậy.

Có nhiều danh xƣng khác nhau:

Tiền Hiền khai khẩn. Hậu Hiền khai cơ (Tiền Hiền có công qui lập dân

làng. Hậu Hiền có công xây dựng các công trình phúc lợi).

Tiền Hiền khai khẩn, Hậu Hiền khai canh (Tiền Hiền có công qui lập dân

làng. Hậu Hiền có công giúp dân khai hoang mở ruộng).

Tiền Hiền khai khẩn, Hậu Hiền khai khẩn (Tiền Hiền có công qui lập

làng nhƣng làng ấy bị xiêu tán. Hậu Hiền đến sau phải qui dân lập làng mới trên cơ

sở làng cũ).

Có thể những vị hữu công nhƣ vừa kể khi còn sống đã hiến nhiều ruộng đất

để xây dựng công trình phúc lợi, “Cẩm địa” nguyên là miếng thịt nạc vai có màu

đỏ tƣơi, loại thịt ngon nhất dùng để kiếng cho những ngƣời hảo tâm nhƣ vừa kể.

Thí dụ nhƣ ông Ðào Văn Hạ ở Tân Giám, họ Nguyễn ở Bình Tự, ông Nguyễn Văn

Thanh ở Bình Hòa, ông cai tổng Nguyễn Xuân Phƣơng và bà Ðào Thị Ðào ở đình

Bình Hòa, hoặc nhƣ một ngƣời Hoa tên Huỳnh Kim Thủy đƣợc thờ tại đình Tân

Mỹ.

Các vị hữu công kể trên khi còn sống có thể cử làm Hƣơng chức, hào lại.

Khi mất mới đƣợc tôn làm Tiền Hiền hoặc Hậu Hiền. Đối với quan niệm xƣa

ngƣời đƣợc dân cử quan trọng hơn quan trên cử. Thí dụ nhƣ trƣờng hợp ông

Nguyễn Xuân Phƣơng, đƣợc cử làm Cai tổng đƣợc nhất và nhị hạng Bội Tinh. Ông

cúng cho địa phƣơng hai sở ruộng, có uy tín lớn, đƣợc địa phƣơng tôn Kế Hiền. Kế

Hiền tuy có chức vụ tinh thần của một làng nhƣng đó là danh dự lớn nên bài vị thờ

ông đặt tại đình đã khắc thêm vào dòng chữ: “Hƣơng cử Kế Hiền chi chức” (Địa

phƣơng cử chức Kế Hiền).

Do cƣ dân ly tán nên Cù Lao Phố ít còn nhớ tên họ tiểu sử các vị Tiền hiền –

Hậu hiền nhƣ các nơi khác. Do đó, Tiền hiền – Hậu hiền chỉ còn là một ý niệm.

Nhƣng do công nghiệp lớn nên đƣợc thờ bên cạnh thần Thành Hoàng bên trong

chánh điện. Đây là những nhân vật lịch sử của thôn làng duy nhất do dân cƣ tôn

thờ. Câu đối thờ Tiền Hiền tại đình Bình Hòa đã nhắc lại công đức ấy:

Đức khai bình ẩn qui dân xã

Page 162: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

162

Ân khẩn hòa thành lập ấp thôn

(Đức khai mở đất qui dân xã

Ân khẩn họp thành lập ấp thôn)

Dƣới Tiền hiền và Hậu hiền (hoặc Tiên Hiền) có các vị Tiền Bối và Hậu Bối

(các vị xứng đáng bậc trƣớc, các vị xứng đáng bậc sau). Riêng tại đình Bình Tự

trƣớc các vị Tiền Bối và Hậu Bối có các vị Tiền Chử (các vị nối tiếp ngƣời trƣớc).

Sau các vị Tiền Bối, Hậu Bối có các vị Tiên Giác – Hậu Giác (các vị biết chuyện

trƣớc, các vị biết chuyện sau) đƣợc thờ tại đình Bình Xƣơng. Hoặc bá tánh đƣợc

thờ tại đình Tân Mỹ. Đặc biệt phụ nữ ở Cù Lao Phố đƣợc phép đến đình và khi

mất đƣợc thờ tại đình – Bàn thờ “Tiền Đại Phu Nhân” (các vị phụ nhân đời trƣớc)

thờ tại đình Bình Hòa. Tại đình Long Qƣới xác định những ngƣời hữu công ở địa

phƣơng vừa là ngƣời Việt lẫn ngƣời Hoa. Hai bên bàn thờ Tiền Bối, Hậu Bối có

hai bàn thờ “Tiền thứ Việt Nam”, “Trung Hoa Hậu”(Trƣớc hết là Việt Nam. Sau

là Trung Hoa). Bàn thờ những ngƣời Hoa hữu công có câu đối:

Trung Quốc hiệp Nam Bang tế tự.

Hoa Kiều tùng bắc hướng tài bồi.

(Trung Quốc cùng Nam Bang tế tự

Hoa Kiều theo hướng Bắc đắp bồi).

Tại Cù Lao Phố sự biểu hiện đình là một cơ sở tín ngƣỡng của xã thôn rất

mờ nhạt. Do đó trong 11 ngôi đình chỉ có 2 ngôi đình thờ các vị hƣơng chức hữu

công: Đình Bình Xƣơng có bàn thờ “Tiền Đại hƣơng chức – Hậu Đại hƣơng quốc”

(Hƣơng chức đời trƣớc – Hƣơng chức đời sau); đình Thành Hƣng có hai bàn “Lịch

Đại Hƣơng Chức” và “Lịch Đại Hƣơng Chức trợ hiền” (Hƣơng chức các đời và

phu nhân các vị hƣơng chức các đời).

2.3 Tục thờ Tiên sư:

Các đình làng đều thờ Tiên Sƣ. Tiên Sƣ cũng đƣợc thờ tại các nhà vuông

(tức nhà võ).

Tiên Sƣ là “Bậc thầy đời trƣớc”. Nếu thờ tại gian giữa hậu điện của ngôi

đình thì hiểu là thầy của hƣơng chức, Tổ sƣ ngành hành chánh. Nếu thờ tại nhà võ

thì hiểu là các bậc thầy ngày trƣớc trong xóm, Tổ sƣ của các đội dân phòng. Có lẽ

tục thờ Tiên Sƣ là một biến dạng của các tục thờ các ngƣời đỗ đạt ở các văn từ, văn

chỉ ở đàng ngoài.

Page 163: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

163

Trƣớc kia, Tiên Sƣ đƣợc cúng vào dịp lễ hàng năm. Nhƣng từ thời Pháp

thuộc các võ trở thành điếm canh và rồi Tiên Sƣ đƣợc đƣa về Nhà Việc (hay Nhà

Hội, tức trị sở hành chính của xã) hay đƣa về đình.

Trong đình, nếu bàn thờ Tiên Sƣ đặt ở phòng hóa trang hậu trƣờng của võ ca

thì hiểu là Tổ Sƣ nghề Hát bội. Tại đình Bình Hòa, hai bên vách hông tiền điện có

hai bàn thờ nhỏ, trên vách có chữ “Nhạc Sƣ” và “Lễ Sƣ”, Tổ sƣ ngành nhạc lễ.

Đây là một dạng thờ tổ nghề34

. Nói chung, Tiên Sƣ là đối tƣợng thờ tự mang tính

chất thờ tổ nghề nghiệp, nhƣng có tính chất chung nhất mà không xác định rõ tổ

một nghề nào cụ thể.

2.4 Tục thờ Thần Nông

Thần Nông là vị thần phù hộ cho nông dân đƣợc thuận lợi bội thu. Theo

truyền thuyết Thần Nông đã dạy dân trồng trọt và cũng từng nghĩ ra một kiểu nhà

nóc bằng (bằng vật liệu thô sơ) để con ngƣời tránh mƣa tránh nắng. Thế nhƣng

kiểu nhà này không đạt yêu cầu bằng ngôi nhà hai mái hình tam giác theo thế

chống nạnh của bà Cửu Thiên Huyền Nữ bày vẽ. Mọi ngƣời đều làm theo lời dạy

của bà vì kiểu này hợp lý hơn, đặc biệt là tránh đƣợc mƣa. Giới thợ mộc xây dựng

đã tôn Cửu Thiên Huyền Nữ làm Tổ Sƣ. Đo dó, Thần Nông mắc cỡ, tức giận, thề

không ở trong nhà mà theo lời tục truyền đƣợc ông gọi là “nách đàn bà”.

Các đình ở miền Tây (vùng trọng điểm nông nghiệp) đều xây dựng đàn

Thần Nông qui mô đẹp đẽ giữa sân đình. Còn ở Cù Lao Phố, đàn Thần Nông

thƣờng đặt một bên sân đình, có qui mô nhỏ. Trong các tập “ghi văn lễ tiết” mà các

đình hiện lƣ giữ, hầu nhƣ không thấy có ghi chép những bài văn tế Thần Nông. Ở

Thành Hƣng, Tân Mỹ, nơi cƣ dân đã thoát ly nông nghiệp, đàn Thần Nông cũng bị

phá bỏ từ lâu. Các sự kiện này chứng tỏ tại Cù Lao Phố tục thờ Thần Nông là cổ lệ

đang trên đà tiêu vong dần. Đó cũng là đặc điểm thƣờng thấy của các vùng ven đô

khác.

2.5 Tục thờ Bạch Mã Thái Giám

Trái với các nơi khác, tại Cù Lao Phố duy nhất chỉ có đình Thành Hƣng thờ

Bạch Mã Thái Giám và bàn thờ, trên có bốn chữ “Bạch Mã Thái Giám” đƣợc đặt

bên vách hông của chánh điện.

Bạch Mã Thái Giám là vị thần gốc từ Phật giáo. Trong Truyện Tiền Thân

Đức Phật có sự tích Đức Phật hóa ra con ngựa Balaha để cứu bọn lái buôn lạc loài

ngoài hoang đảo. Kinh Đại Bản Như Ý cho biết Bồ Tát Quan Âm vì lòng thƣơng

sót chúng sinh có thể biến hóa ra 8 dạng, trong số đó có dạng Mã Đầu La Sát (còn

gọi là Mã Thủ Quan Âm, tức Quan Âm đầu ngựa mình ngƣời). Từ đó Mã Đầu La

Sát là một vị Thần đƣợc giới thƣơng buôn tôn thờ. Theo Phật giáo con ngựa trắng

chở thành điềm lành. Thí dụ nhƣ vào đời Hán có chuyện con ngựa trắng chở kinh

từ Ấn Độ sang Trung Quốc, vua Vĩnh Bình muốn kỷ niệm sự kiện lịch sử đã xây

dựng chùa Bạch Mã để chứa số kinh đó. Theo Đại Đường Tây vực ký, Trần Huyền

Trang đã cỡi con ngựa tía sang Ấn Độ thỉnh kinh. Nhƣng khi Ngô Thừa Ân viết

(

34) Các nhạc công và đào kép thờ “Tam vị Tổ Sư”: Tiên Sư, Tổ Sư và Thánh Sư

Page 164: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

164

Tây Du Ký đã đổi thành con ngựa trắng. Ở nƣớc ta vào đời Lý có chuyện con ngựa

trắng hiện ra, vua Lý Thái Tổ căn cứ vào dấu chân nó mà cho xây thành Thăng

Long. Hơn thế nữa khi thái tử mới sinh ra đã đƣợc đặt tên là Lý Phật Mã – tức con

ngựa Phật.

Còn từ Thái Giám đƣợc giải thích là để chỉ tính chất vô tính, không phân

biệt nam nữ - tức tính chất nguyên ủy của thái cực (vô cực), nguồn gốc của sự khởi

tạo vạn vật… Đây là sự truy cứu có tính chất hàn lâm, còn trong thực tế con ngựa

đƣợc gọi là “Bạch Mã Thái Giám” đƣợc dân chúng hiểu là vật cỡi của thần Thành

Hoàng. Do vậy con ngựa này khi có lễ cúng đình luôn đƣợc dâng cúng các vật thực

rất dễ hiểu: cỏ (hay lá tre non), lúa, nƣớc.

Tục thờ Bạch Mã Thái Giám vốn có từ lâu đời vì thấy phổ biến từ Trung bộ.

Ở Nam bộ, Bạch Mã đƣợc thở ở nhiều đình, miếu và có sắc phong của triều

Nguyễn. Căn cứ vào mỹ tự đƣợc phong cho con vật thờ này thì Bạch Mã Thái

Giám thuộc vào loại thổ thần, bậc thƣợng đẳng, đƣợc tòng tự trong đình. Rõ ràng

việc con Bạch Mã Thái Giám có thuộc tính thần Đất đã chỉ ra tín lý phồn thực của

Bạch Mã Thái Giám. Mặt khác, căn cứ vào đẳng cấp, Bạch Mã Thái Giám cao hơn

thần Thành Hoàng. Do đó, Bạch Mã Thái Giám là vật cỡi của thần Thành Hoàng là

phi lý, nói cách khác đây là cách hiểu rất dân gian. Tất nhiên, đây là cách hiểu phổ

biến và mặc nhiên, nhƣ vậy đƣợc coi là đúng. Bạch Mã Thái Giám trong tâm thức

tín ngƣỡng của ngƣời dân Cù Lao Phố là con vật cỡi của thần Thành Hoàng nhƣ

ngựa Xích Thố (và Mã Phu) là vật cỡi của Quan Thánh Đế Quân ở Thất Phủ cổ

miếu.

Ở Cù Lao Phố, Thổ thần là thần Đất bảo hộ một cuộc đất và đƣợc coi là một

vị gia thần.

Tại các đình Tân Mỹ, Hƣng Phú, Tân Giám, Bình Tự, Bình Xƣơng, Hòa

Qƣới đều có miếu thờ Thổ thần (miếu thờ Thổ thần đâu mặt với miếu thờ Ngũ

Hành Nƣơng Nƣơng, ở trƣớc sân đình). Thần có chức năng là bảo hộ cuộc đất

thuộc khuôn viên của đình. Mỗi miếu thờ Thổ thần diện tích khoảng 3m x 3m, cao

ráo, nền gạch mái lợp ngói, bài vị thƣờng ghi hai chữ “Thổ thần” rất to. Hai bên có

hai câu đối.

Thổ vượng nhân tùng vượng

Thần an trạch tự an.

(Đất vượng người vượng theo

Thần an nhà tự an)

Có nơi câu đối thờ cũng có ý nghĩa ấy nhƣng diễn dịch ra:

Thổ vượng hương thôn giai cộng lạc

Thần an bổn xã đắc bình an

Page 165: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

165

(Đất vượng hương thôn đều cộng lạc

Nhà an bổn xã được bình an)

(Miễu Thổ thần Bình Tự)

Hoặc:

Ngọc điệp phi lai qui vượng khí

Kim qui duyệt xá ủng cao môn.

(Bướm ngọc bay về gom vượng khí

Rùa vàng quanh quẩn hộ cao môn)

(Miễu Tân Mỹ)

Khác với tục thờ Thổ thần tại tƣ gia, Thổ thần của xã thôn đƣợc thờ trên bàn

cao.

Tại Thành Hƣng do diện tích đất đai xung quanh chật hẹp nên bàn thờ Thổ

Thần đƣợc đặt bên vách hông đình, trong chính tẩm. Chỉ có đình Long Qƣới không

thờ Thổ thần, nhƣng thờ Ngũ Thổ, tức là thờ đủ năm vị thần Đất, nhƣ chúng ta biết

là trấn giữ các mặt thuộc 4 hƣớng và trung ƣơng.

Ngoài ra, tại Cù Lao Phố dòn một vị thần Đất khác là thần Kiên Lao. Đây là

một vị thần gốc của đạo Bà La Môn nhập vào đạo Phật và đƣa từ Trung Quốc sang

đất Cù Lao Phố. Kiên Lao Địa Thần đƣợc thờ phụng một cách đơn giản, chỉ có bốn

chữ và một bát hƣơng đặt tại gốc cột phƣớn trƣớc chùa Đại Giác. Việc thờ tự ở

ngoài trời nhƣ vậy đã chỉ ra chức năng của vị thần Đất Phật giáo này, ở đây, giống

nhƣ Thổ thần: bảo vệ khuôn viên chùa.

2.7 Tục thờ Nữ Thần

Tại Cù Lao Phố cũng nhƣ các địa phƣơng khác ở miền Nam, tục thờ các nữ

thần phù hộ cộng đồng cƣ dân khá phổ biến. Chúng ta thấy tại đây hầu nhƣ ngôi

đình nào cũng có một ngôi miếu thờ Bà, nằm bên cạnh miếu thờ Thổ thần. Trong

toàn xã (xƣa có 13 thôn) chỉ có 2 ngôi miếu tƣ nhân riêng rẽ. Đó là một ngôi miếu

Bà trƣớc kia ở xóm Bình Tự, gần đây lại dời vào gần chùa Phƣớc Hội và một ngôi

miếu xóm Hƣng Phú, gần chợ Chiếu.

Ở một số thôn ấp xƣa kia chuyên nghề làm ruộng thì thờ Chúa Xứ Thánh

Mẫu hoặc Thiên Y A Na Chúa Ngọc Thần (nhƣ miếu Hòa Qƣới, miếu Bình Hòa).

Thiên Y A Na Diễm Ngọc Phi gốc Bà Mẹ Xứ Sở của dân tộc Chàm đƣợc Việt hóa

thành Chúa Xứ Thánh Mẫu. Sự tích Thiên Y A Na rất ly kỳ. Bà là nữ thần dạy dân

lễ nghĩa, chăn tằm, dệt vải, trồng trọt, chăn nuôi… Ở đây ngƣời ta thƣờng thờ nữ

thần này bằng bài vị, hai bên có câu đối. Thí dụ nhƣ:

Bảo vệ vạn dân điều hòa phong nẫm

Page 166: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

166

Phù trì bá tánh lạc nghiệp doanh dư.

(Miễu Chúc Xứ Hòa Qưới)

Khu vực Cù Lao Phố, cũng giống nhƣ vùng Tiền Giang quan niệm Chúa Xứ

là Mẹ Xứ Sở, lớn hơn cả Thổ thần – một vị thần chỉ cai quản một khu vực nhỏ hẹp.

Do đó ngƣời ta gọi bà là “Nguyên Soái”. Bài vị thờ ở Bình Hòa ghi “Nguyên Soái

Chúa Xứ chi vị”.

Miếu Bà Bình Hòa vừa thờ Thiên Y A Na Ngọc Diễm Phi, lại thờ Chúa Xứ

Thánh Mẫu. Ngoài ra còn tòng tự Thủy Tinh Thần Nữ và Hỏa Tinh Thần Nữ. Điều

này cho thấy có sự phân biệt giữa Thiên Y A Na và Chúa Xứ và lại có thêm hai nữ

thần chủ hai việc nƣớc và lửa.

Khác hẳn 2 khu vực trên, khu vực Thành Hƣng, Tân Mỹ, Hƣng Phú và Tân

Giám cƣ dân sinh sống bằng nghề tay chân và mua bán nhỏ nên các miếu Bà lại

thờ Ngũ Hành Nƣơng Nƣơng (có nơi gọi là Ngũ Hành Thánh Nƣơng). Tập tục này

làm tràn xuống khu vực Bình Tự, Bình Xƣơng, Long Qƣới.

Ngũ Hành Thánh Nữ, là biểu tƣợng Ngũ Hành, năm yếu tố cấu tạo vạn vật.

Đó là:

Thổ Đức Thánh Phi (Bà Thổ)

Kim Đức Thánh Phi (Bà Kim)

Mộc Đức Thánh Phi (Bà Mộc)

Hỏa Đức Thánh Phi (Bà Hỏa)

Thủy Đức Thánh Phi (Bà Thủy)

Năm vị nữ thần này liên quan với tất cả các nghề nghiệp thuộc về đất đai,

kim loại, cây gỗ, củi lửa, nƣớc nôi… Đây là những vị nữ thần riêng của nữ giới.

Tuy ảnh hƣởng Lão Giáo có những nét tƣơng đồng với Thiên Y A Na Diễm Ngọc

Phi, nên có nơi theo truyền thống Ngũ Hành Nƣơng Nƣơng đƣợc tòng tự Tả Ban

liệt vị, Hữu Ban liệt vị (nhƣ miễu Bình Hòa), hoặc lòng tự “Tả Kim Đồng”, “Hữu

Ngọc Nữ” (miễu Long Qƣới)… nhƣng cũng có nơi nhƣ Tân Mỹ lại tòng tự “nhị vị

công tử” và “nhị vị công nƣơng” tức là dung nạp theo tín ngƣỡng Cô – Cậu của

Chúa Xứ Thánh Mẫu vào.

Cá biệt là miễu Bà chợ Chiếu, có lẽ xƣa kia gốc của các bà bóng xây dựng

nên bên cạnh Ngũ Hành Nƣơng Nƣơng còn thờ Linh Quan Thổ Địa Phƣớc Đức

chánh thần – vị thần đƣợc coi là tiếp diễn viên hài của hát bội cũng là tổ vai Địa

của hát bóng rội.

Vùng Cù Lao Phố thƣờng thờ Ngũ Hành Nƣơng Nƣơng bằng bài vị. Chƣa

thấy thờ tƣợng nhƣ hiện tƣợng tại Sài Gòn – Chợ Lớn hiện nay. Mỗi miễu Ngũ

Hành thƣờng có một vài câu đối. Nội dung vô cùng phong phú:

Vạn cổ đào hoa chiêu thánh nữ

Thiên thu xuân sắc tập thành tiên

Page 167: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

167

(Muôn thuở hoa đào nghênh thánh nữ

Ngàn thu xuân sắc đòn thần tiên)

Nguyệt hạ đào hoa chiêu thánh nữ

Vân hà tập chúng hội thần tiên

(Dưới trăng hoa đào nghênh thánh nữ

Ráng mây tập họp đón thần linh)

(Miếu Long Qƣới)

Ngũ chú phổ quang an thế giới

Hạnh ân chiếu diệu đạt tam giang

(Năm cõi đều soi an thế giới

Hạnh ân chói sáng đạt ba sông)35

(Miếu Bình Quang)

Lại đồng hóa quan niệm tôn thờ Ngũ Hành Nƣơng Nƣơng với quan niệm tôn

thờ anh hùng dân tộc.

Hội kiến quần anh khai quốc vận

Đồng triêm vạn tượng hạ hương lân

(Cùng thấy quần anh khai vận nước

Đồng mừng vạn tượng, gánh hương lân)

(Miễu Thánh Hƣng)

Chiều hƣớng thờ Ngũ Hành càng lúc càng phát triển: Một số miễu vốn thờ

Chúa Xứ nay bị thay thế bằng Ngũ Hành Nƣơng Nƣơng/ Thánh Mẫu. Nếu lấy năm

1942, năm cuối cùng trùng tu miếu Bà Tân Quan thì các vị thần này đều đƣợc thờ

ngang nhau. Trong miếu có câu đối:

Chúa Xứ phù trì dân ấp thạnh

Ngũ hành phong nẫm vận an khang

(Nhâm Ngọ niên tạo)

Thế nhƣng gần đây có thêm một bài vị “Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ Ngũ Hành

Thần Nữ” đặt phía trƣớc che kín tấm biển thờ cũ và nhiều câu đối thờ Ngũ Hành

Nƣơng Nƣơng đƣa thêm vào. Điều này chứng tỏ tín ngƣỡng Chúa Xứ Thánh Mẫu

(tức Thiên Y A Na Diễm Ngọc Phi) bị tín ngƣỡng Ngũ Hành Nƣơng Nƣơng bao

trùm lên.

(

35) Ba sông: Ba con sông lớn ở Trung Quốc là Hắc Long, Dương Tử và Hoàng Hà. Ở đây ba sông chỉ một không

gian rộng lớn. Câu đối này cho thấy tác giả của nó là người Hoa ở cù lao Phố.

Page 168: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

168

Đồng thời, gần đây một dạng tín ngƣỡng thần mới từ nƣớc ngoài là tín

ngƣỡng Địa Mẫu đã tràn vào và đi vào hậu điện chùa Phƣớc Hội (Cù Lao Phố).

Đại Mẫu là “Mẹ Đất”. Đây là một nữ thần đƣợc xuất hiện ở Thiểm Tây (Trung

Quốc) năm 1883 mang tính chất cứu thế. Bà đƣợc hình tƣợng là một phụ nữ đứng

tuổi, mặc áo đen, đứng trên quả địa cầu, dang hai tay cứu độ. Kinh và tƣợng thờ từ

Chợ Lớn tràn đến khắp nới.

Địa mẫu mang tính đồng bóng, ý nghĩa nhƣ tín ngƣỡng Ngũ Hành, nhƣng

thoát khỏi khuôn khổ cũ. Địa mẫu cúng và 52 ngày “Mậu” trong một năm (tức

mồng 7, 17 và 27 âm lịch mỗi tháng).

2.8 Tục thờ thần Hổ

Cọp là loài thú ăn thịt, xƣa kia từng làm hại con ngƣời. Thế nhƣng trong dân

gian lại quan niệm cọp là chúa sơn lâm, tƣợng trƣng cho sức mạnh. Tục thờ cọp ở

Nam bộ gắn liền với truyền thuyết “Ông Cả Cọp” thời khai hoang. Theo truyền

thuyết thời xƣa, con ngƣời chỉ đƣợc cử làm chức Hƣơng Chủ. Còn chức Hƣơng Cả

là chức vị đầu làng chỉ dành cho cọp. Nhiều nơi lập miếu thờ cọp, hàng năm đều

phải cúng (cúng thịt sống hay trƣớng tƣơi) và theo tục lệ phải viết một tờ cử tôn

ông làm Hƣơng Cả. Ngƣời ta gọi cọp là “Ông”, là “Ngài”, là “Sơn Quân”, “Chúa

Sơn Lâm Mãnh Hổ Đại Tƣớng”. Có nơi đặt cho cọp một cái tên cho ra vẻ con

ngƣời là “Lý Nhĩ Tƣớng Quân”.

Tại Cù Lao Phố duy nhất có một ngôi miếu thờ thần Hổ. Xƣa kia, ngôi miếu

này đối mặt với miếu thờ Thổ thần trƣớc đình Hòa Qƣới. Trên vách miếu có hai

chữ “Mãnh Hổ”, hai bên có câu đối:

Hùng hào tuấn kiệt nhất mãnh hổ

Anh dũng oai linh thĩ sơn lâm

Tục thờ cọp phổ biến thời khai hoang. Đây là dấu tích còn sót lại của thời

“dƣới sông sấu lội, trên bờ cọp um”.

2.9 Tục thờ Cô hồn – Chiến sĩ

Cù Lao Phố là một vùng có nhiều ngƣời Hoa sinh sống, đồng thời cũng là

một trung tâm Phật giáo của Nam bộ nên tục thờ cúng Tứ Sanh Lục Đạo Thập Đại

Cô Hồn khá phổ biến.

Cô hồn là những ngƣời chết do nghiệp lực của mình tạo nên, nên vong hồn

bị giam vào địa ngục. Họ không có ngƣời cúng cấp nên bị hành phạt đói khát khổ

sở vô cùng. Theo dân gian chỉ có ngày Rằm Tháng Bảy các vua Thập Điện sẽ xá

tội vong nhân cho trở về thế gian. Do đó trong dân gian vào các ngày này phải tổ

chức cúng cấp, trai đàn bạt độ. Nếu trai đàn tổ chức vào đầu tháng bảy, thì gọi là

Vu Lan Thắng hội, mục đích báo hiếu tổ tiên phụ mẫu. Nếu tổ chức vào cuối tháng

bảy gọi là Địa Tạng hội, mục đích cầu vong nhân siêu độ.

Tục cúng cô hồn bắt đầu bằng quan niệm sự tử bằng sự tồn. Cuộc sống có kẻ

giàu ngƣời nghèo nên phải bố thí và cõi chết cũng có những vong hồn cơ khát

không có ngƣời tế tự nên cần phải cúng kiến để thể hiện lòng từ. Mặt khác, cô hồn

Page 169: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

169

có những vong hồn cô độc, đói khát, không nơi nƣơng tựa nên hay lộng hành gây

nghiệp ác hại đời; do đó, cúng cô hồn cũng hàm nghĩa “lo lót” để cầu mong chúng

đừng làm hại. Thậm chí, cúng cô hồn là nghi thức dâng cúng vật thực rồi làm phép

tống chúng ra khỏi xóm làng để cuộc sống đƣợc yên ổn không bị cúng quấy phá,

gây ra các tai nạn, dịch bệnh. Ở tập tục này, chánh tín và mê tín có danh giới nhập

nhằng và thực hành nghi kễ cúng đa tạp: Lúc theo Phật giáo, lúc theo Đạo giáo,

hoặc hỗn hợp cả hai. Hầu hết, 6 ngôi chùa ở Cù Lao Phố đều lập bàn thờ Tứ Sanh

Lục Đạo Thập Loại Cô Hồn trƣớc chùa. Mỗi ngày các sƣ tăng đều cúng cấp gạo

muối tụng kinh chú nguyện. Chúng ta biết rằng Cù Lao Phố cũng là trung tâm ứng

phú. Thỉnh thoảng có chùa thiết lập trai đàn bạt độ cũng nằm trong dạng tín

ngƣỡng này.

Giới tàu xe và buôn bán vào mỗi ngày 16 mỗi tháng cũng cúng thí cô hồn các

đảng để cầu không gặp nạn tai, mua mau bán đắt. Tại ngã ba cầu xe lửa, có lẽ xƣa

kia thƣờng có tai nạn nên bà con đã dựng một am nhỏ thờ cô hồn lúc nào cũng

nhang khói không dứt. Cách đó không xa, trƣớc cổng đình Thành Hƣng cũng có

am thờ cô hồn. Cô hồn còn đƣợc thờ một bàn đặc biệt trƣớc hiên đình này. Tục

cúng cô hồn vào tháng bảy ở đình Bình Hòa là một lệ cúng hàng năm.

III. LỄ HỘI Ở CÙ LAO PHỐ

Cù Lao Phố nhiều cơ sở tôn giáo và tín ngƣỡng khác nhau, do đó cơ cấu lễ

hội cũng rất phong phú. Ở đây, chúng ta lần lƣợt tìm hiểu các dạng thức lễ hội có

qui mô lớn cấp xã thôn, cấp xóm ấp và kế đó là lễ hội chùa chiền và chùa Ông

Quan Đế.

1) Lễ hội ở xã thôn

Hoạt động lễ hội ở xã thôn, chủ yếu tập chung ở đình làng và lễ tiết diễn ra

theo lịch lễ thống nhất nhau, riêng lễ Kỳ yên thì có phần không trùng ngày nhau

tùy theo từng đình. Đại thể lịch lễ năm, nhƣ chƣơng trình của đình Thành Hƣng

dẫn ra sau đây, gồm có:

- Ngày 25 tháng chạp: Đưa thần – Dựng nêu

- Chiều 30 Tết: Rước Thần

- Sáng mồng 3 tháng Giêng: Cúng ra mắt

- Chiều 7 tháng giêng: Khai hạ

- Ngày 10 và 11 tháng Hai: Cúng thần Thành Hoàng

- Ngày 18 tháng Ba: Vía Bà

Xƣa kia, hàng năm đến ngày 25 tháng chạp, hƣơng chức Hội Tề làm lễ rửa

con dấu bỏ vào hộp niêm kín và dựng nên báo hiệu cuối năm tạm nghỉ để ăn Tết.

Đến ngày mồng bảy tháng Giêng, cúng Thần Hổ khai sơn, hạ nêu, mở hộp niêm

con dấu, hƣơng chức bắt đầu làm việc lại. Do đó ngày 25 tháng chạp gọi là ngày lễ

“Niêm ấn”, “Sắp ấn”. Ngày này gần ngày 23 tháng chạp, do dân gian vốn có quan

niệm là ngày Táo Quân về chầu trời nên sinh ra quan niệm ngày 25 tháng chạp là

Page 170: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

170

ngày thần Thành Hoàng về thƣợng giới báo cáo tình hình của làng mình. Do vậy

ngày “Niêm ấn” là ngày “Tiễn Thần”, và ngày 30 tháng chạp cũng là ngày “Rƣớc

Thần” về cùng dân làng vui Tết Nguyên Đán để tiếp tục bảo hộ làng xã trong năm

sau.

Lễ cúng thần Thái Tuế (thần cai quản thời gian) của ngƣời Hoa vào ngày đầu

tiết Kinh Trập, tức khoảng thời gian ngƣời Việt cúng lễ Khai sơn. Thần Thái Tuế

đƣợc ngƣời Hoa biểu tƣợng là thần Hổ, nên cúng phải có thịt sống, trứng sống.

Tục lệ này ảnh hƣởng đến tập tục cúng khai hạ của ngƣời Việt khá rõ nét.

Lễ Nguyên Đán thƣờng tổ chức tại Đình vào giờ giao thừa hay sáng sớm ngày

mồng một, mang ý nghĩa Ban Tế Tự thay mặt dân làng đến lạy mừng thần vào

ngày đầu năm.

Ngày mồng Ba tháng Giêng là ngày ra mắt thần Hành Bình, Hành Khiển là

những vị thần coi việc chiến tranh, dịch bệnh. Nhƣng dân gian cũng xem đây là

ngày đầu xuân ra mắt thần.

Các lễ này có nơi chỉ có các hội viên trong Ban Tế tự đến, nhƣng cũng có nơi

đông đảo bà con đến tham dự.

Các đình tại Cù Lao Phố chỉ tập chung vào lễ Kỳ yên và lễ Cúng miễu.

Kỳ yên tức là cầu an. Theo Trịnh Hoài Đức thì ngày giờ tùy theo tục lệ của

từng làng không đều nhau. Hoặc dùng tháng Giêng, tháng Hai thủ nghĩa “Xuân

Kỳ” (mùa xuân làm lễ cầu thần cho đƣợc mùa sắp tới). Hoặc có chỗ dùng tháng 8,

tháng 9, thủ nghĩa “Thu Báo” (mùa thu báo đáp ơn thần sau khi gặt xong). Hoặc

chỗ dùng ba tháng mùa đông, thủ nghĩa trọn năm đã thành công nên tổ chức tế

chứng tế lạp để tạ ơn thần. Sự tế có chủ ý đều là lễ Kỳ yên.

Tại Cù Lao Phố, chỉ trừ đình Bình Kính Kỳ yên vào ngày – 16 và 17 tháng 5

âm lịch. Đây có thể bắt nguồn từ ngày kỷ niệm Chƣởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh

(1650 -1700). Chúng ta biết ông bị bệnh tại Châu Đốc ngày mồng 5 tháng 5 và mất

tại Rạch Gầm ngày mùng 9 tháng 5 và quan tài đƣa về đình tại Cù Lao Phố.

Còn các ngôi đình khác đều tổ chức Kỳ yên theo lời nhận xét của ông Trịnh

Hoài Đức:

Tháng 2: Ngày mùng 10 và 11 có đình Thành Hƣng và Long Qƣới tổ chức

Kỳ yên.

Tháng 11:

Ngày mùng 10 và 11: đình Bình Hòa.

Ngày 12 và 13: đình Bình Tự.

Ngày rằm và 16: đình Bình Quan, đình Bình Xƣơng

Ngày 16 và 17: Tân Mỹ, Tân Giám, Hƣng Phú, Hòa Qƣới

Chƣơng trình lễ Kỳ yên ở đình làng tƣơng đối đơn giản. Chẳng hạn chƣơng

trình lễ ở đình Bình Xƣơng gồm:

Page 171: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

171

- Ngày rằm tháng 11:

* 12 giờ: Lễ thỉnh Sắc Thần.

* 14 giờ: Lễ cùng Miếu Bà.

- Ngày hôm sau (tức ngày 16 tháng 11):

* 01 giờ: Tế Ông (tức chánh tế).

* 03 giờ: Cúng Hậu Bối.

* 10 – 14 giờ: Tiếp đãi quan khách.

* 14 giờ: Lễ đƣa Sắc Thần.

Chƣơng trình lễ Kỳ yên của đình Long Qƣới:

- Ngày hôm trƣớc (mồng 10 tháng 2):

* 12 giờ: Lễ thỉnh Sắc Thần.

* 13 giờ: Lễ cúng Miễu Bà.

Ngày hôm sau (11 tháng 2):

* 02 giờ: Cúng yết.

* 03 giờ: Lễ Hậu Bối.

* 12 giờ: Lễ tạ (tức chánh tế)

* 13 giờ: Lễ đƣa Sắc Thần.

Mục đích lễ kỳ yên là tế thần thành hoàng, để cầu mƣa thuận gió hòa, dân an

quốc thái. Đây cũng là dịp để dân làng họp mặt bàn chuyện gia đình hàng xóm yến

ẩm vui chơi. Xƣa kia dân làng có tục ba năm đáo lệ tổ chức hát bội cúng thần, giúp

vui bá tánh.

Do vậy, ngày kỳ yên còn gắn liền với ngày hạ điền hoặc ngày thƣợng điền

(một biến dạng của ngày xuân tế hoặc thu tế). Ngày này có lễ tế thần nông, hậu tắc,

lôi công, điển di, phong bá, vũ sƣ… để cầu mƣa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.

Tại cù lao Phố có nhiều đình nhƣ đình Thánh Đức, đình Tân Mỹ do từ lâu cƣ dân

đã thoát ly nông nghiệp nên không còn giữ tập tục này.

Các đình thờ tiền hiền, hậu hiền, tiến bối, hậu bối là những ngƣời có công

qui dân lập làng, hoặc bỏ tiền của xây dựng các công trình phúc lợi công cộng đầu

tiên, để lại gƣơng soi cho đời sau: nhiều đình còn lập bàn thờ “bá gia bá tánh”… vì

thế nên trong chƣơng trình kỳ yên ở các đình đều có nghi tiết tế tiền hiền, hậu hiền,

tiền bối, hậu bối… mang ý nghĩa “uống nƣớc nhớ nguồn”. Do quan niệm này nên

ngày kỳ yên mang ý nghĩa là ngày giỗ hội của cả làng. Ngƣời ở địa phƣơng dù có

làm ăn xa đến ngày ấy đều mong muôn trở về tham dự.

Trong thực tế, lễ hội kỳ yên phần lễ chiếm phần quan trọng. Ở đây, các đối

tƣợng cúng lễ là một tập hợp thần linh đông đảo, chứ không phải chỉ thần thành

hoàng mà có cả chƣ Phật, Bồ Tát. Điều này nói lên tính chất tích hợp thần linh của

Page 172: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

172

đình làng ở cù lao Phố. Văn tế ở đình Tân Giám chẳng hạn sẽ cho chúng ta thấy

một tập hợp thần linh nhƣ vậy. Ở đây, ngoài thần thành hoàng, chúng ta cũng còn

thấy cả các vƣơng hầu, cung phi… tức vợ của ngài và:

- Đương Kim Hoàng Đế.

- Cửu Thiên Huyền Nữ.

- Ngọc Hoàng Thượng Đế.

- Bắc Đẩu Cửu Trùng tinh quân.

- Nam Tào Lục Ty tinh quân.

- Thập phương Tam Thế nhất thiết chư Phật.

- Tam Thanh Pháp Đạo chư Thánh Sư.

- Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương (Khổng Tử).

- Tứ Phối Kế Thánh (các đệ tử của Khổng Tử).

- Thất Thập Nhị thần (các đệ tử của Khổng Tử).

- Hiệp Thiên Đại Đế (Quan Công).

- Chúa Tiên Thánh Nương.

- Thiên Cung Thánh Mẫu Lục Bộ Thiên Tiên.

- Thiên Y Dược Vương Thánh Nương.

- Thiên Hậu Nương Nương.

- Long Vương Thánh Chúng

- Ngũ Phương Ngũ Đế Ngũ Thần Ngũ Tướng.

- Ngũ Phương Ngũ Nhạc Sơn Thần.

- Thập Nhị Hành Binh.

- Thập Nhị Hành Khiển.

- Lỗ Ban Tiên Sư.

- Sĩ Nông Công Mãi Tiên Sư.

- Ngũ Hành Thánh Nương.

- Tiên Nông Thánh Hiền.(Thần Nông).

- Lưu Huê Quang Tổ Sư (Huê Quang).

- Đào Văn Hạ Tiên Hiền.

- Thập Nhị công nghệ Tổ Sư.

- Đông Túc Tư Mang.

- Phước Đức Chánh Thần.

- Bạch Mã Thái Giám.

Page 173: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

173

- Thổ Thần Thổ Chủ Thổ Địa Thổ Công Long Thần.

- Sơn Lâm Tướng Quân.

- Hà Bá Thủy Quan.

- Cổ Kim nghĩa sĩ.

- Tiên Tri Tiên Giác.

- Tiền Hiền khai khẩn.

- Hậu Hiền khai cơ.

- Thập loại cô hồn.

- Tiên Hiền Tiên Bối.

- Tiền Đại Hương Chức.

- Trung Đại Hương Chức.

- Tiền Kế Trợ Hiền.

- Hoàng Triều Tự Đức Sắc Tặng Trưng Sở Tá Lang, Tích nhậm Tân Định

(Bình Định) Tri huyện, tánh Nguyễn húy Văn Chất.

- Tiền Triều Tri huyện Nguyễn Công Tánh Lương Thị Phụng nghi nhân.

- Tiền Triều Tri huyện Nguyễn Công Ấm Tử Tân Giám Hương Cổ húy Văn

Bửu Tôn Ông.

2) Các lễ hội ở xóm, ấp

Xóm ấp ở đây hiểu là cộng đồng dân cƣ nhỏ, thuộc đơn vị bên dƣới của xã. Ở

Cù Lao Phố đất đai nhỏ hẹp. Xƣa có nhiều thôn, mỗi thôn chia ra mấy xóm. Nay

các thôn nhập lại thành xã, thôn thành ấp, dƣới lại có khóm. Các lễ hội của cộng

đồng dân cƣ nhỏ này đa phần đều tập trung vào lễ hội đình và các cơ sở tín ngƣỡng

trong khuôn viên đình. Ngoài ra còn có các lễ hội riêng mang tính chất dân dã hơn

nghi lễ truyền thống của lễ Kỳ yên.

2.1 Lễ cầu an tại nhà vuông

Lễ cầu an tổ chức vào tháng hai hoặc tháng ba tức đầu mùa viêm nhiệt, mang

ý nghĩa cầu nguyện cho bà con trong xóm ấp đƣợc bình an, dịch bệnh tiêu trừ. Bà

con xóm Bình Tự gọi lễ này là lễ “Nghinh xuân”. Còn ở xóm chợ Chiếu thì gọi lễ

này là lễ “tống phong”, tức là lễ tống tiễn các tà thần đem tai họa dịch bệnh đến

cho bà con.

Chƣơng trình lễ cầu an cũng có nghĩa thức chính là lễ tế “Tiên Sƣ”, mô phỏng

nghi thức tế thần Thành Hoàng. Khi tế cũng đánh mõ đánh trống, có nhạc sinh trổi

nhạc, lễ sinh dâng rƣợu, dâng trà và cuối cùng đọc văn tế tụng. Chủ tế có thể là

một anh trùm quản, phó lý. Cũng có khi lễ tế đơn giản bằng lễ cúng Tiên Sƣ. Viên

chủ lễ có thể là một cụ già trƣởng thƣợng, một lão dân có uy tín trong xóm. Chủ lễ

chỉ cần đốt hƣơng cầu nguyện vái lạy, sau ba hồi mõ trống.

Page 174: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

174

Sau đó, có ba thầy pháp gõ đẩu, đánh cồn thỉnh Tam Thanh, Tam Thánh, cùng

các vị thần linh đáo lai đàn tràng chứng lễ, rồi đọc kinh tiễn thần ôn hoàng dịch lệ

ra khỏi địa phƣơng. Xƣa kia có tục thả một chiếc thuyền kết bằng bẹ chuối, trên để

đầy đủ vũ khi, lƣơng thực, thực phẩm cho các vị thần này.

Theo thông lệ, đêm hôm trƣớc ban tổ chức cũng mời ba nhà sƣ, thỉnh Phật

tụng kinh cầu an cho thôn xóm. Có nơi, sau lễ cầu an theo nghi thức Phật giáo và

Ðạo giáo, còn có nghi thức tụng kinh cầu siêu cho cô hồn các đảng. Ngƣời ta lấy

giấy bong hình ông Tiêu, làm giàn cao, trên bày các lễ vật cúng cô hồn nhƣ gạo,

muối, tiền xu, cỗ bánh, cỗ giấy tiền, thuốc lá và không quên những bộ bài cào, bài

tứ sắc. Sau khi các nhà sƣ tụng kinh xong, phóng đăng, bọn trẻ con xông và xô

giàn giành giật, tạo không khí vui nhộn, gây ấn tƣợng mạnh. Có khi ngƣời ta còn

khiêng tƣợng ông Tiêu đi khắp xóm, gióng trống gõ chuông để đón các oan hồn

đáo lai đàn tràng, tạo thành một cuộc diễu hành náo nhiệt. Các lễ vật chẩn tế cô

hồn thƣờng đặt trong một chiếc rế (rế để nồi) nên tục gọi là lễ “thí rế”.

Gặp những năm hạn hán kéo dài, sau nghi thức cầu an theo khoa nghi Phật

giáo và Ðạo giáo là nghi thức “đảo võ”, ngƣời ta tổ chức những nhóm ngƣời

khiêng xuồng ghe vừa đi khắp cánh đồng, vừa hát:

Lạy trời mưa xuống

Lấy nước tôi uống

Miếng ruộng tôi cày

Có bát cơm đầy

Có rơm tôi đốt.

Theo quan niệm dân gian nghi thức này có lẽ làm cho trời cảm động, mƣa

sớm cho nông dân đỡ khổ cực.

2.2) Lễ cúng miễu Bà

Ngày cúng miễu cũng là ngày thu hút các tầng lớp đồng bào, nhất là nữ giới.

Tại Cù Lao Phố chỉ có miễu Bà ở xóm Bình Tự (gần chùa Phƣớc Hội) cúng

vào ngày mồng 8 tháng 2 âm lịch và miễu Bà gần chợ Chiếu cúng vào ngày 12

tháng 2 âm lịch. Các ngôi miễu này là miễu của bà con trong xóm ấp quản lý. Còn

các ngôi miễu khác tập trung trƣớc đình thì đa phần đƣợc cúng miễu cùng với ngày

Kỳ yên. Theo tục lệ, lễ cúng miễu tổ chức trƣớc giờ chánh tế. Các ngôi miễu này là

miễu của thôn, do ban tế tự quản lý.

Đình Bình Kính không có miếu.

Riêng các đình sau đây cũng có miếu Bà, Thổ Thần, cũng do ban tế tự quản

lý, nhƣng ngày cúng miễu không trùng với ngày Kỳ yên:

Đình Thành Hƣng: Kỳ yên ngày 11 tháng 2.

Cúng miễu ngày 18 tháng 3.

Đình Bình Hòa: Kỳ yên ngày 11 tháng 11.

Page 175: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

175

Cúng miễu ngày 10 tháng 2

Đình Tân Mỹ: Kỳ yên ngày 17 tháng 11.

Cúng miễu ngày 12 tháng 3.

Xƣa kia việc cúng miễu phải mời bà Bóng đến thực hành nghi lễ. Chƣơng

trình gồm lễ thỉnh đất, thỉnh nƣớc lấy từ lòng sông về. Đây là lễ rƣớc thu hút nhiều

ngƣời. Tiếp theo, bà bóng sẽ hát rỗi mời Bà và các vị thần linh khác về chứng lễ.

Bà đã múa dâng cúng một mâm vàng (mô hình tháp Chàm bằng giấy trang kim),

múa cúng ba hoặc năm tộ bông, trình diễn một vài điệu múa dân gian (tục gọi múa

bóng) và phát lộc cho những ngƣời xung quanh (thƣờng là trầu cau). Gặp những

năm tiền bạc dồi dào, ban tổ chức còn mời các nghệ sĩ dân gian về diễn chặp bóng

tuồng Địa Nàng, gây không khí vui nhộn phấn khởi. Nhìn chung, nội dung nghi lễ

cúng miễu cũng là nghi lễ cầu an, mang tính chất dân dã. Nhƣng gần đây, có ý kiến

cho tục lệ này dị đoan, nên không thực hiện. Do đó, nghi lễ cúng miễu chỉ tổ chức

đơn giản.

2.3 Lễ Hạ điền và Thượng điền

Lễ Hạ điền tổ chức vào một ngày trong tháng 4 hoặc tháng 5, đầu mùa mƣa,

mang ý nghĩa một lễ nghi nông nghiệp: cầu mùa màng thuận lợi. Lễ Thƣợng điền

tổ chức vào tháng 11 tháng 12 nhằm tạ ơn trời sau khi thu hoạch.

Các đình ở Cù Lao Phố đều có bàn thờ Thần Nông. Ngày Kỳ yên đều có

cúng tế. Thế nhƣng chính ngày Hạ điền và Thƣợng điền tại xóm ấp mới thu hút bà

con nông dân hơn. Đến gần tới ngày qui định, trong xóm đã rộn rịp, ngƣời ra đồng

chọn lựa địa điểm thuận lợi, ngƣời lo cây lá để dựng trại làm rạp. Đến ngày, bà con

cử một nông dân có uy tín làm chủ lễ. Lễ vật có thể là heo gà, hƣơng hoa, trà

quả… đƣợc bày biện trên bàn cao. Ngƣời chủ lễ thay mặt bà con nông dân cầu

nguyện lễ tạ Thần Nông, Hậu Tắc, các thần Mây, Mƣa, Sấm, Sét đã giúp đỡ họ.

Cuộc lễ rất đơn giản. Thƣờng thì không lễ nhạc. Khi cúng xong bà con hạ tiệc

ngay tại chỗ, vui vẻ ăn uống cùng nhau thật ấm cúng.

1) Lễ hội ở chùa

Mỗi ngày, các chùa đều giữ bốn thời kinh: Buổi trƣa cúng Phật, buổi tối tụng

kinh, và chiều công phu, thí thực cho cô hồn. Trong một tháng chỉ có ngày sóc

(mồng 1) và ngày vọng (rằm) tín đồ tụ tập tụng kinh và lạy sám hối đông đảo.

Cù Lao Phố vốn là một trung tâm Phật Giáo, về sau Phật giáo ở đây đã hòa

nhập vào tín ngƣỡng dân gian nên các ngày lễ Phật giáo nhƣ ngày Phật Đản (ngày

15 tháng 4), ngày Đức Thích Ca xuất gia (mồng 8 tháng 2), ngày Phật Thành Đạo

(rằm tháng 12) thƣờng tổ chức đơn giản hơn ngày cúng Sao hội, những ngày Tam

Nguyên.

3.1 Lễ cúng sao hội

Theo dân gian, mỗi ngƣời nam hay nữ, trên 12 tuổi, mỗi năm đều có một vì

sao chiếu mạng. Có thể là các sao: La Hầu, Thổ Tú, Thủy Diệu, Thái Bạch, Thái

Page 176: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

176

Dƣơng, Vân Hớn, Kế Đô, Thái Âm và Mộc Đức. Mỗi tháng các vì sao này xuất

hiện một lần, và ngày ấy ngƣời ta có tục cúng vái cầu nguyện vị Tinh Quân ấy.

Cũng theo dân gian, mỗi năm ngƣời ta sẽ gặp một trong tám hạn là: Huỳnh

Tuyền, Tam Kheo, Ngũ Mộ, Thiên Tinh, Toán Tân, Thiền La, Địa Võng, Diêm

Vƣơng. Các thần sao thì có lành có dữ. Trái lại tất cả các hạn đều chẳng lành, chỉ

khác nhau là hạn thì xấu về bệnh tật, hạn xấu về ăn nói, tiền bạc, tai ƣơng…

Thƣờng lễ cúng sao hội đƣợc ghép với quan niệm là ngày vía Phật (nhƣ tụng

kinh Phật, đốt đèn Dƣợc Sƣ) nhƣng thực chất vốn là ngày lệ hội của Đạo Giáo.

Theo Đạo giáo, ngày mồng 9 tháng 1 là ngày vía Ngọc Hoàng Thƣợng Đế nên tối

hôm trƣớc các vị Tinh Quân phải họp mặt chúc mừng. Ngày nay là ngày sao hội

nên thoạt đầu chỉ có các đạo viên Đạo giáo tổ chức lễ hội, sau các chùa Phật giáo

ảnh hƣởng theo. Tại Cù Lao Phố ngày vía sao hội có hàng trăm ngƣời đến chùa.

Có thể nói đây là ngày lễ hội lớn nhất nhì trong năm của các chùa. Sau đó những

ngƣời tham dự trở về nhà mỗi tháng cúng một lần. Có ngƣời nhờ chùa cúng dùm.

Nhƣng cũng có ngƣời chỉ cúng ngày sao hội thôi.

3.2 Tam nguyên

Tam Nguyên, ngƣời dân địa phƣơng gọi là “Tam ngƣơn” hay “ba ngày rằm

lớn” là:

- Rằm tháng giêng: vía Thiên Quan tứ phƣớc (Thần Thiên Quan ban

phƣớc)

- Rằm tháng bảy: vía Địa Quan xá tội (Thần Địa Quan xá tội)

- Rằm tháng mƣời: vía Thủy Quan giải ách (Thần Thủy Quan mở tai họa)

Sau đó các ngày 16 tháng giêng, 16 tháng 7 và 16 tháng 10 là các ngày cúng

cô hồn. Các chùa, thậm chí các miếu và các tƣ gia đều cúng thí. Ở Cù Lao Phố tục

cúng cô hồn ảnh hƣởng Phật giáo đậm nét. Thí dụ nhƣ khi bày lễ vật ra, ngƣời ta

thƣờng đọc chú “biến thủy biến thực” của Phật giáo với quan niệm nhờ Phật lực

biến các thức ăn này ra nhiều hằng hà sa số để chu cấp cho các oan hồn uổng tử.

Tam Nguyên vốn là ba ngày lễ của Đạo giáo. Nhƣng ở Nam bộ, nhất là ở Cù

Lao Phố, Phật giáo lại lấy làm ngày lễ của tôn giáo mình. Rằm tháng bảy là ngày

vía của Đại Quan cũng là ngày cúng cô hồn. Theo dân gian, nếu lúc sống làm

nhiều tội ác, hoặc khi chết không ngƣời thờ tự cúng cấp thì vong hồn ngƣời chết sẽ

bị giam vào địa ngục. Hàng năm, chỉ có ngày vía Địa Quan, Thập Điện Diêm

Vƣơng sẽ cho những vong hồn bị giam cầm này trở lại dƣơng thế. Do đó ngày này

trên dƣơng thế thƣờng tổ chức cúng cấp cho các oan hồn uổng tử. Thế nhƣng ngày

Vu Lan của Phật giáo cũng nằm trong tháng bảy, gần ngày vía Đại Quan nên Phật

giáo chọn ngày vía Địa Quan làm ngày Vu Lan.

Tại chùa Phƣớc Hội và một số chùa khác trong tháng bảy thƣờng mở hội Vu

Lan, thiết lập bàn thờ, tụng kinh Vu Lan cầu cửu huyền thất tổ siêu sinh tịnh độ.

Đồng thời, khoảng cuối tháng bảy theo dân gian nếu vong nhân chƣa đƣợc ra khỏi

địa ngục thì phải thiết lập lễ trai đàn bạt độ, trong có nghi tiết phá ngục, cuối cùng

Page 177: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

177

là lễ chẩn tế. Nghi lễ này gọi là hội Địa Tạng. Xƣa kia chùa Đại Giác có nhóm ứng

phú của thầy Yết Ma Nhơn, Yết Ma Khánh nổi tiếng giỏi về khoa nghi.

Ngày rằm tháng Giêng tức ngày vía Thƣợng Nguyên Thiên Quan tứ phƣớc

cũng là ngày lễ lớn. Ngày này bắt đầu rộn rịp từ ngày vía Quan Công (13 - 1), tại

Thất Phủ cổ miếu và kéo dài mấy ngày sau. Ngày Thƣợng Nguyên, đồng bào Hoa

cũng nhƣ Việt đến chùa còn có ý nghĩa là thực việc lễ bái của ngày Nguyên Tiêu.

Tại chùa thƣờng đốt đèn Dƣợc Sƣ. Nhiều nhà còn giữ tục đốt “đèn trời” cầu phƣớc

cầu thọ. Có thể nói ngày rằm tháng Giêng là ngày rộn rịp nhất của các chùa tại Cù

Lao Phố. “Lễ hội quanh năm không bằng rằm tháng Giêng” là nhƣ thế.

2) Lễ hội Chùa Ông Cù Lao Phố

Ngày nay, số lƣợng ngƣời Hoa ở Cù Lao Phố chiếm tỉ lệ rất nhỏ. Điều đó,

khác với hồi thế kỷ XVII – XVIII. Năm 1679, nhóm bình dân ngƣời Hoa theo Trần

Thƣợng Xuyên đến lập nghiệp ở Biên Hòa. Họ góp phần làm cho Cù Lao Phố trờ

thành Nông Nại Đại Phố - một trung tâm thƣơng lại lớn của xứ Gia Định. Năm

1684, họ xây dựng Miếu Quan Đế để làm nơi thờ phụng Quan Công và hệ thống

phúc thần của mình cùng với hội quán xã Thanh Hà. Sau các biến cố cuối thế kỷ

XVIII, ngƣời Hoa Cù Lao Phố xiêu tán, số lớn về Sài Gòn. Cù Lao Phố suy tàn,

phố xá thƣơng mãi bị tàn phá, nhƣng Miếu Quan Đế vẫn còn duy trì. Từ đó đến

nay, miếu đƣợc trùng tu, trùng kiến liên tục, để đến nay vẫn còn là một di tích kiến

trúc – lịch sử quan trọng của vùng đất này. Tuy nhiên, ngôi miếu này tồn tại nhƣ

một vật chứng lịch sử hơn là một cơ sở tín ngƣỡng gắn bó với đời sống tinh thần

của cộng đồng dân cƣ – đa số là ngƣời Việt, ở Cù Lao Phố. Tuy vậy, miếu Quan

Đế, còn có tên Thất Phủ cổ miếu, lại thu hút khách từ phƣơng xa đến hành hƣơng

và lễ bái vào các ngày thƣờng cũng nhƣ lễ tiết và ngày vía các thần đƣợc thờ ở

đây. Lễ hội ở chùa Ông này, nhƣ vậy chủ yếu là lễ và hầu nhƣ không có tổ chức

hội lớn nhƣ các chùa Hoa ở nơi khác.

Ngoài các lễ tứ thời tiết lạp, lễ chính ở đây gồm các lễ:

1) Vía Quan Thánh Đế Quân: 13 tháng giêng (vía sanh), 13 tháng năm (vía

tử), 24 tháng sáu (Quan Công hiển thánh)

2) Vía Quan Bình: 13 tháng năm.

3) Vía Châu Thƣơng: 30 tháng mƣời.

4) Vía Bà Thiên Hậu: 23 tháng ba.

Đó là các lễ chính, ngoài ra, còn các lễ cúng các thần linh khác: Bổn Đầu

Công Phƣớc Đức Chính Thần, Kim Huê Thánh Mẫu, Cửu Thiên Huyền Nữ, Đô

Thiên Chí Phú Tài Bạch Tinh Quân, Quan Âm Bồ Tát…

Ngoài các lễ vía các thần, cơ sở tín ngƣỡng này là nơi thu hút bá tánh từ

khắp nơi đến lễ bái, cầu an, giải oan, cầu xin tài lộc, sức khỏe hay sự bảo trợ cho

sinh sản, nuôi dƣỡng con cái. Nói chung, với một hệ thồng thần linh có nhiều công

năng khác nhau, ngôi “chùa Ông Cù Lao Phố” đã đáp ứng đƣợc phần lớn những

nhu cầu tín ngƣỡng vốn rất đa dạng của con ngƣời ngày nay. Xét từ góc độ lịch sử,

Page 178: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

178

cơ sở tín ngƣỡng này là một trong những nơi xuất phát quan trọng các yếu tố văn

hóa – tín ngƣỡng Hoa hội nhập vào hệ thống thần linh và tập tục tín ngƣỡng của

ngƣời Việt để rồi qua thời gian hòa quyện thành phức thể văn hóa Minh Hƣơng. Ở

hƣớng ngƣợc lại, ở đây chúng ta cũng thấy các đối tƣợng thờ tự Việt; Tiền Hiền –

Hậu Hiền, Miễu thờ Ngũ Hành, và tập tục thờ gò mối – biểu trƣng cho tín lý sinh

sản có tính chất phồn thực của đất.

PHẦN THỨ TƯ

NGHỆ THUẬT DÂN GIAN

TRUYỀN THỐNG

Page 179: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

179

CHƯƠNG MỘT

CÁC HÌNH THỨC DIỄN XƯỚNG DÂN GIAN VÀ NGHỆ THUẬT

BIỂU DIỄN TRUYỀN THỐNG

Đầu thế kỷ XIX, khi Cù Lao Phố đƣợc thế nhân gọi là “Nông Nại Đại Phố”

và xƣng tụng là một “chỗ đại đô hội”(36

), Trịnh Hoài Đức, trong Gia Định thành

thống chí khi chép về cụm đá hàn gọi là “cự tích” (thạch than) đã cho biết: “Phía

bắc nghềnh đá có vực sâu, làm cho tàu biển các nước đến đậu. Xưa nay, thuyền

buôn đến đây hạ neo xong thì lên bờ thuê phố ở, rồi đến nhà chủ mua hàng, lại đấy

kê khai những hàng hóa trong thuyền và khuân cất lên, thương lượng giá cả. Chủ

mua hàng mua bao tất cả những hàng hóa tốt xấu không bỏ sót lại thứ gì. Đến

ngày trương buồm trở về, gọi là “hồi đường”, chủ thuyền có yêu cầu mua giúp vật

gì thì người chủ buôn ấy cũng chiều ý ước đơn, mua dùm chở đến trước kì giao

hẹn. Hai bên chủ khách chiếu tính hóa đơn thanh toán, rồi cùng nhau đờn ca vui

chơi…”(37

). Đây là tƣ liệu hầu nhƣ duy nhất hoạt động biểu diễn nghệ thuật ở Cù

Lao Phố trong thƣ tịch cổ và cũng chỉ nói đến quá là sơ sài về việc đờn ca trong

buổi tiệc chia tay của lớp thƣơng buôn ở chốn phố phƣờng, còn những hình thức

diễn xƣớng dân gian cũng nhƣ nghệ thuật biểu diễn truyền thống ở Cù Lao này

thời xa xƣa ấy vẫn là một dấu hỏi không dễ gì tìm đƣợc lời giải đáp. Nói cách

khác, việc tìm hiểu các hình thức diễn xƣớng dân gian và nghệ thuật biểu diễn

truyền thống ở Cù Lao Phố chỉ có thể dựa vào tài liệu điền dã trong những thập

niên gần đây và theo đó, cũng chỉ phác họa đƣợc diện mạo thời cận đại đến nay

của đối tƣợng nghiên cứu này.

I. CÁC HÌNH THỨC DIỄN XƯỚNG DÂN GIAN Ở CÙ LAO PHỐ

Kết quả điều tra điền dã trên địa bàn Cù Lao Phố và các xã bên kia bờ sông

quanh cù lao này cho chúng ta biết rằng: các hình thức diễn xƣớng dân gian ở đây

gồm có hò, hát, lý, nói vè, nói thơ cùng với các hình thức diễn xƣớng nghi lễ tổng

hợp. Nói chung, các hình thức diễn xƣớng dân gian ở đây về cơ bản là không có gì

36

Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí – Bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo, phủ QVKĐTVH xb, S, 1973,

Tập hạ, trg 114 37

Trịnh Hoài Đức, sđd, tập thượng, tr 22

Page 180: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

180

đặc biệt so với các địa phƣơng khác ở xứ Đồng Nai cũng nhƣ ở miền đông Nam

bộ.

1) Hò và lý là hai hình thức diễn xƣớng phổ biến, song đến nay lý là sinh

hoạt đã bị mai một dần từ hồi đầu thế kỷ này, đến nay không có khả năng sƣu tầm

đƣợc, mặc dù chúng tôi mất khá nhiều thì giờ để dọ hỏi.

Hò cũng bắt đầu suy tàn từ những năm 1940 – 1950, song kết quả điều tra

cho chúng ta một hiểu biết về giọng điệu, thủ tục và lề lối của hò cấy trên đồng

ruộng và hò chèo ghe trên sông rạch…

Hò cấy ở đây chỉ có mỗi điệu hò hơ, một điệu hò chung phổ biến trên một

không gian rộng từ Long Thành, Bến Gỗ đến Vĩnh Cửu, Tân Uyên… Do vậy, nó

theo chân các công cấy ở đây đến các địa phƣơng khác và từ đó, vốn câu hò từ các

địa phƣơng đó lại đƣợc họ mang về làm phong phú cho vốn liếng câu hò ở đây.

Về khúc thức, một câu hò hơ chia làm ba lớp mái (xƣơng) xen với ba lớp

trống (xô). Có tốc độ khoan thai nhƣng trƣờng độ ngân dài và giai điệu không uốn

lƣợn thay đổi nhiều.

I. Hơ…hớ…hơ… Vách thanh trong gạch, ngoài vôi

ơ…

xô: hò … hơ.

II. Ớ… anh còn thương nữa…ờ…

Xô: hò…khoan…ơ…

III. (Mà em) thôi sao đành ờ…

Xô: hò …hơ …hơ

(Đáp: Anh đành, em đành, phụ mẫu không đành.

Chiều nay vác thẳng lên cầu Gành chôn thây).

Hò hơ là loại hò đối đáp. Thông thƣờng cuộc hò đối đáp trở nên gay cấn là khi

có thêm tay hò lạ, từ xứ khác tham dự vào cuộc hò. Đó là trƣờng hợp có hai nhóm

công cấy do hai đầu công khác nhau qui tụ, cấy ở gần nhau và rồi, một nhóm đề

nghị đổi công cấy từ nhóm này sang nhóm kia để hò. Số lƣợng ngƣời hò có thể từ

2 cặp đến 4 cặp trai gái. Họ đƣợc bố trí đứng xen kẽ một nam một nữ. Lệ hò ở đây

không bó buộc việc hò rao dành cho phụ nữ mà ai đứng đầu hàng công cấy cất

tiếng hò rao trƣớc. Câu hò rao có thể là câu hò tự giới thiệu mình hay là một câu hò

làm quen theo cách riêng nào đó:

Tới đây khác tổng lạ làng,

Rủi tay đụng chạm, xin nàng bỏ qua.

Nội dung chính của buổi hò quay quanh đề tài “huê tình”: gá nghĩa, kết

duyên, hẹn hò, than thở cho duyên phận lỡ làng, hay bông đùa:

Vô chùa lạy Phật cầu chồng,

Page 181: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

181

Ông Phật ổng bảo đàn ông hết rồi!

Có thể còn là một đặc điểm đáng chú ý là hò đối, đáp ở Cù Lao Phố chủ yếu

là hò môi mép mang tính chất ứng tác. Các loại câu hò mà nội dung chịu áp lực

của các câu cách ngôn chữ Hán (hò văn), các điển tích lấy từ truyện (hò truyện),

các truyện thơ (hò thơ) hay tuồng tích hát bội (hò tuồng), tiểu thuyết hay tin tức

báo chí (hò văn minh hay hò quốc sự)… là rất ít ỏi, thậm chí có loại hoàn toàn

không đƣợc các nghệ nhân hò biết đến. Đó là điều có phần khác với các vùng khác

– đặc biệt nhƣ ở các huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh. Điều nay chỉ ra

tính chất đóng cửa của vùng đất cù lao này. Mặt khác, cũng dễ nhận ra tỉ lệ các cặp

ca dao lục bát của hát du truyền thống – trong đó không ít câu hát du gốc Trung bộ

- đƣợc dùng làm lời hò đối đáp. Điều này cũng chỉ ra mức độ bảo thủ trong sáng

tác hò ở đây. Điều này, thoạt nhìn nhƣ một nghịch lý đối với vùng đất cù lao vốn là

xứ đô hội, nằm trên trục giao thông đƣờng thủy có phần khá thuận lợi cho việc

giao tiếp – điều kiện thuận lợi cho những biến đổi. Song, trong thực tế, việc giao

thƣơng đƣờng thủy của xứ đại đô hội đã chấm dứt từ cuối thế kỷ XVIII và sau đó

tụ điểm ghe thuyền ở đây là ghe chài chở hàng hóa (gạch, ngói, lu, đồ gốm) theo

đó, trên sông không có sinh hoạt hò chèo ghe của giới thƣơng hồ nhƣ ở một số bến

thuyền, nhƣng giáp nƣớc quan trọng trên đƣờng thủy nối Sài Gòn – Chợ Lớn

xuống miền Tây Nam Kỳ.

Hò chèo ghe ở đây không phải là điệu hò riêng biệt mà là điệu hò cấy đƣợc

diễn xƣớng trên sông rạch – mà nói chính xác là hò chèo xuồng. Đó là số câu hò

bâng quơ đơn lẻ trên sông rạch khi đi chợ, đi chở củi, chở lá, hoặc là những câu gò

chọc ghẹo nhau khi gặp gỡ giữa dòng:

Ghe lên, ghe xuống tưng bừng

Sao em không gửi cái quần cho anh.

Đó là các tay – hò – trời – đánh, hò là để đùa vui và tất nhiên, hiếm hoi mới

có ngƣời đáp lại. Cũng có lúc, các cô cheo ghe chở chuối dƣới sông chọc tức ngƣời

trên bờ:

Cảm thương mấy chú trên chòi

Đi sớm về tối ăn giòi mắm nêm

Hoặc:

Cất lên mấy tiếng cho đổng thoi loi

Vái trời cho sập cột chòi…cho vui

Nói chung, hò chèo ghe là đem điệu hò hơ hò trên sông rạch tách khỏi lề lối

đối đáp để trở thành lối hò đơn lẻ mà mục đích của nó là “chọc làng phá xóm” cho

vui. Tƣơng tự, trong đám gặt lúa, trong lò đƣờng cũng có hò nhƣ vậy. Riêng trong

những đêm trăng, hò hơ lại trở lại lề lối đối đáp trong các đám giã gạo chày tay.

Hò hơ trong trƣờng hợp này, bị nhịp điệu của hình thái lao động này làm cho có

tiết tấu: nhịp cắt rõ và dứt khoát; và câu xô cũng ngắn gọn, nhịp nhàng.

Page 182: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

182

2) Hát ru ở Cù Lao Phố có giai điệu cơ bản giống nhƣ hat ru Trung bộ và

Nam bộ. Đặc điểm có phần khác là có nhiều ngƣời lớn tuổi hát ru thƣờng láy lại

hai từ cuối của mỗi câu.

Ầu ơ… Trời mưa ướt bụi bờ… ướt…bờ ờ…

Ớ… ướt vườn chuối ậm ờ…

Ai ngờ em… ướt… em ơ…

Hát ru ở đây, ngoài kho tàng ca dao truyền thống gốc từ Trung bộ và các câu

hát phổ biến chung rộng khắp Nam bộ còn có nhiều câu hát ru đƣợc sáng tác tại

chỗ. Tập hơp những câu hát ru phản ánh ít nhiều đặc điểm thổ ngơi và lịch sử địa

phƣơng chiếm tỉ lệ không nhiều, nhƣng đó là những chỉ báo cho năng lực sáng tạo

có tính chất cải biên và cập nhật các thế hệ dân chúng ở đây đối với một thể loại

dân ca có ít nhiều tính chất “bảo thủ”này.

Xóm chợ Chiếu hoa tiếng gà eo óc,

Bến đò Trường Lộc tiếng trống sang canh.

Sông Phước Long dợn sóng khuynh thành

Đêm khuya một chiếc thuyền mành ngửa nghiêng.

Bỏ công chụm lửa thụt đường

Lửa tàn, đường lợ nghĩ buồn uổng công.

Trời mưa bong bóng phập phồng,

Mẹ đi lấy chồng con ở với ai?

Con ở với chú bán khoai,

Chú cho ba củ con nhai tối ngày.

Ví dầu tình bậu muốn thôi

Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra

Bậu ra bậu lấy quan ba,

Bậu bỏ mẹ già bữa đói, bữa no.

3) Hát đồng dao, một lối diễn xƣớng gần nhƣ nói vè có hoặc không có với

một vai trò tƣơng ứng là một sinh hoạt phổ biến trong lứa tuổi nhỏ thế hệ trƣớc đây

ở Cù Lao Phố.

3.1) Loại đồng dao đƣợc nói có vần vè nhằm mục đích bông đùa ở Cù Lao

Phố, qua đợt sƣu tầm gần đây có các bài:

Page 183: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

183

Trời mưa lâm râm,

Cây trâm có trái.

Con gái có chồng.

Đàn ông có vợ.

Đàn bà có con.

Nước chảy bon bon

Lên non hái trái

Cảm thương nàng

Phận gái có con.

Cắt cỏ bằng liềm,

Câu liêm có lưỡi.

Cây bưởi có hoa

Cây cà có trái

Con gái có chồng

Đàn ông có vợ.

Tập tầm vông:

Chị có chồng,

Em có giá.

Chị ăn cá,

Em mút xương,

Chị nằm giường,

Em nằm đất,

Chị ăn mật,

Em liếm ve.

Chị ăn chè,

Em liếm bát.

Chị ca hát,

Em vỗ tay.

Chị ăn mày,

Em xách bị.

Page 184: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

184

Chị làm đĩ,

Em xỏ tiền.

Chị đi thuyền,

Em đi bộ.

Chị kéo gỗ,

Em lợp nhà.

Chị trồng cà,

Em trồng bí.

Chị tuổi tí,

Em tuổi thân.

Chị tuổi dần,

Em tuổi mẹo.

Chị ăn kẹo,

Em ăn cốm.

Chị mập, em ốm.

Chị đào hang, em chun tuốt.

3.2) Loại đồng dao gắn với một trò chơi tƣơng ứng thì lại có lệ chơi mà những

em tham dự phải tuân thủ. Xƣớng và diễn luôn hết hợp nhau:

Chặt cây dừa

Chưa cậy mộng

Cây tấm phổng

Cây bí đao

Cây nào cao

Cây nào thấp

Cây mía vấp

U hòn

Con dại, mẹ chạy

Con u

Trái mù u chín đỏ

Con thỏ nhảy qua

Ông già ứ hự

Bà già ứ hự

Page 185: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

185

Thụt ra tay này.

(Cách chơi: Các em nắm cả hai tay chồng lên nhau và một em làm “cái” vừa

hát vừa dùng ngón tay chỉ vào một nắm tay, tính từ trên xuống rồi lại ngƣợc từ

dƣới lên, tới cuối bài hát đụng vào năm tay nào thì em ấy rút nắm tay của mình.

Tiếp tục nhƣ vậy cho đến lúc chỉ còn một nắm tay cuối cùng: đó là ngƣời thua

cuộc).

Ở Cù Lao Phố, qua điều tra, cũng phổ biến các loại đồng dao quen thuộc: Bắc

Kim Thang, Tùm nụm tùm niệu, Đánh thẻ, Cho cho trả trả… mà chúng ta có thể

còn thấy ở các nơi khác.

4) Cách nói vần vè, gọi là hát đồng dao, đến cách nói vè vần tƣ ở Cù Lao Phố

hầu nhƣ không khác biệt mấy – nếu không muốn nói là hệt nhƣ nhau: là cách

xƣớng đọc với nhịp cắt hai từ một. Không rõ, kho tàng vè cổ xƣa (vốn rất phổ biến

ở các làng xã Nam Trung bộ đến Nam bộ) ở Cù Lao Phố có trữ lƣợng phong phú

ra sao, nhƣng qua điều tra (1996) hầu nhƣ loại vè kể vật – kể việc (Vè trái, vè rau,

vè cá, vè bông, vè 12 con giáp…) kể cả vè nói dóc, vè nói ngược đều không đƣợc

các nghệ nhân 60 – 80 tuổi xác nhận là đã có từng nghe đến. Đó là hiện tƣợng khá

đặc biệt mà chúng tôi chƣa tìm đƣợc cách giải thích. Trong khi đó, bài vè con cút

thì lại đặc biệt phổ biến: ai cũng có thể đọc vài câu hay cả bài.

Nghe vẻ nghe ve

Nghe vè con cút.

Trâu ăn mấy chút,

Bắt mẹ tôi đền

Nắm chóp tôi lên

Đau đầu cha chả

Chạy mời Trùm xã

Lại có Trưởng Đông

Trâu ăn ngoài đồng

Bắt vô mà cột

Mâm trầu cho tốt

Hũ rượu cho ngon

Phải trâu của con

Thì con bắt lấy

Bớ bà bán giấy

Mua lấy một tờ

Làm một cái thơ

Gởi về bên ấy

Page 186: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

186

Ban ngày đi cấy

Tối lại cửi canh

Lòng em thương anh

Cùng nhau thuở trước

Bởi anh chậm bước

Em mới lấy chồng

Trách ông Tơ Hồng

Ông xe dây vào

Bà tháo dây ra…

Một bài vè vần tƣ nay còn tồn tại là nhờ nó đƣợc diễn xƣớng có vần điệu và

có tính trình diễn hơn trong trò Địa Nàng ở các dịp cúng miễu là trƣờng hợp đặc

biệt.

Nàng: Ông Địa! Ông bị kiến cắn hay sao?

Địa: Ờ, ờ bị kiến cắn… Để ta nói chuyện kiến nghe chơi: Nói chuyện chi đây

Nói vè con kiến.

Ấu tử làm biếng

Chẳng có mẹ cha

Không ai dạy la

Hữu sự tòng sự

Nhỏ không học chữ

Lớn lại khéo khôn

Gẫm chẳng ai hơn

Kiến vàng ở ổ

Đêm ngày rầm rộ

Kiếm lá kiếm cây

Đầu nọ đầu này

Chạy quanh chạy quất

Siêng năng tận lực

Làm ổ trên cao

Lấy lá mà bao

Thành ra cái ổ

Đó là kiến vàng.

Còn thứ nho nhỏ

Page 187: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

187

Đen thủi đen thui

Hay quấy phá người

Chịu đà không nổi

Một ngày chí tối

Bò ngửa bò nghiêng

Hay ở ngoài hiên

Góc hè góc xó

Cái loài tuy nhỏ

Hôi thật là hôi

Ưa ngọt như ruồi

Gặp đường thì bấu

Đồ ăn người giấu

Xó cũng chun vào

Ăn no với nhau

Đái hôi, đái thúi

(…)

Ở kẹt ở hang

Ấy là kiến ruộng

Nói hoài mỏi miêng

Kiến thực quá nhiều

Kiến cánh, kiến bầu

Cùng là kiến

Cao cẳng mau lẹ

Đông thật là đông

Giống kiến đồng lòng

Siêng năng cần kiệm

Chẳng hề làm biếng

Ngày tối lo làm

Tích tụ miếng ăn

Phòng khi trời động.

Kết quả điều tra ở địa bàn Cù Lao Phố, kể cả các làng xã bao quanh (Tân Mai,

Tân Vạn, Bình Đa, Phƣớc Lƣ…) thì ngoài các bài vè vần tƣ nên trên, còn có bài vè

đám cưới – theo thể vần bảy. Thể vè này cũng đƣợc diễn xƣớng một cách khá đơn

Page 188: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

188

giản bằng lối nói vè với nhịp cắt ¾ cho mỗi câu bảy từ và cũng không đƣợc kể kè

với một giai điệu nào có yếu tố ngâm xƣớng.

Nghe vẻ nghe ve,

Nghe vè đám cưới:

Việc đám cưới có đâu là dễ

Cất rạp ra ván ngựa lót dài

Ngoài phòng trà lại có tam sai

Trong đãi rượu nhờ trai dọn dẹp

Quả hương tử treo lên cho đẹp

Hai bình bông kết tụi lan xòe

Rượu “song chưng” mua lấy mười ve

Trà “đơn tử” dùng chơi ít cặp

Trên bàn thờ chưng làm nhị cấp

Lư cổ đồng, trướng biển treo lên

Còn gối dựa trẻ lót hai bên

Mượn lân cận đôi người làm chứng

Hai chóe rượu, mâm trầu cho xứng

Đồ nữ trang thì giấy đỏ niêm phong

Bỏ trong quả đừng cho động dạng

Cà rét (cierge: đèn cầy) kia phải mua cho đáng

Xe đôi đèn đặng làm lễ từ đường

Dừng các phòng cho kín bốn phương

Để con nít nó đã dòm ngó

Thỉnh cô bác thôn lân đi họ

Xong tiệc rồi thì mần tiệc tuồng thơ

Trong viên quan uống rượu đánh cờ

Ngoài tài tử đờn ca hát xướng

Cô bác đã có lòng rộng lượng

Dầu thơm kia cháu lấy xức đầu;

Đặng nối tóc ở đời trường cửu.

(Bà Nguyễn Thị Mạnh, Nhứt Hòa kể)

Page 189: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

189

5) Hình thức diễn xƣớng các bài vè lục bát hay các truyện thơ bình dân ở đây

chủ yếu là nói thơ Vân Tiên một lối độc xƣớng truyện thơ lục bát phổ biến cho cả

Nam bộ.

Vè thế sự nói về các sự kiện nổi bật, có tính thời sự cụ thể ở đại phƣơng ở Cù

Lao Phố, trƣớc kia phát triển mạnh mẽ, nhƣng đến giờ khi các sự kiện ấy qua đi và

các nghệ nhân đặt vè cũng qua đời thì các bài vè thế sự và lối diễn xƣớng của

chúng cũng đã mai một dần. Thực tế điều tra điền dã khắp địa bàn này cho thấy chỉ

còn có một bài là vè Con Mười Bình Tự nói về các cô gái ở Bình Tự - Bình Xƣơng:

Con Mười nho nhỏ mà xinh,

Con Ve nó lớn (mà) ông Tơ Hồng hổng xe;

Con My nó chán bà chè (…)

Tình hình này cho thấy tốc dộ biến đổi về kinh tế - xã hội và văn hóa ở Cù

Lao Phố là khá nhanh chóng. Sự biến đổi nhanh chóng về nhiều mặt đã không cho

phép sự bảo lƣu các sáng tác dân gian phản ánh các đề tài thế tục có tình chất thời

sự. Trong bối cảnh này, các truyện thơ ấn hành bằng chữ quốc ngữ la tinh xuất bản

vào cuối thế kỷ trƣớc và đầu thế kỷ này lại đƣợc phổ cập nhanh chóng và kéo theo

sự thịnh hành của sinh hoạt nói thơ. Hầu nhƣ các loại truyện thơ “bổn cũ dọn lại”

(Thoại Khánh – Châu Tuấn, Lâm Sanh – Xuân Nương, Con Tấm – Con Cám,

Chàng Nhái kiểng tiên) cũng nhƣ các truyện thơ lịch sử - xã hội thời thuộc địa

(Thơ Thầy Thông Chánh, Thơ Sáu Trọng – Hái Đẩu, Thơ Cậu Hai Miêng…) đều

có mặt trong sinh hoạt nói thơ ở đây. Tuy nhiên, sự thịnh hành của hình thức diễn

xƣớng này lại không sản sinh ra điệu nói thơ nào mà độc một điệu là nói thơ Vân

Tiên. Đặc điểm này cũng thấy trong sinh hoạt nói tuồng.

6) Trong bài Vè đám cưới dẫn trên, đã đề cập đến sinh hoạt nói tuồng cùng

với đờn ca tài tử trong lễ cƣới thời thuộc địa:

… Thỉnh cô bác thôn lân đi họ,

Xong tiệc rồi mần tiệc tuồng thơ

Trong viên quan uống rượu đánh cờ

Ngoài tài tử đờn ca hát xướng.

“Tuồng thơ” ở đây là hình thức diễn xƣớng các bản “thơ tuồng”– một hình

thức văn học kết hợp những đoạn thơ lục bát với các thể văn của kịch bản tuồng

(hát bội) mà phổ biến dƣới dạng văn bản ổn định gồm: Thơ pha tuồng Văn Đoan

(Chàng Lía), Thơ tuồng ông Trượng – Tiên Bửu… hoặc là những trích đoạn các

kịch bản tuồng để diễn dƣới dạng hát chặp: Các nghệ nhân ngồi hát vừa làm điệu

bộ - có hoặc không gõ trống phách và không vẽ mặt hóa trang cũng không dùng

mũ mão, xiêm áo nhƣ diễn viên hát bội. Loại này phổ biến có các trích đoạn Tống

tửu Đơn Hùng Tín, Xử bá đao Từ Hải Thọ…

Nói tuồng không phải chỉ trình diễn trong kễ cƣới mà trong các cuộc tiệc vui

mừng, lại có lúc diễn cả trong các đêm dài ở nhà tang chủ hay trong các dịp cúng

Page 190: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

190

miễu. Ngƣời diễn có thể là nghệ nhân dân gian, song đa phần là một hai đào kép

hát bội lẻ, hay các đào kép hát bội đã về già.

Do vậy, nói tuồng là hình thức diễn xƣớng cơ động và hấp dẫn: nó không đòi

hỏi qui mô của sân khấu mà ở đâu diễn cũng đƣợc và hơn nữa, nội dung câu hát

nôm na – ít từ Hán, và phá phách các đoạn nói lối, hát kịch, hát nam, lẫn những

đoạn thơ lục bát để nói thơ giàu chất tự sự: trình bày diễn tiến của sự kiện, nối kết

chúng vào mạch truyện lƣu loát dễ theo dõi.

Xin dẫn đoạn thơ tuồng Văn Đoan: lúc Văn Đoan bị cùng quẫn, đến nhà Ông

Tiều để xin ăn.

(Xƣớng viết/ Nói thơ):

Văn Đoan ngủ ước một canh,

Phút nghe lửa cháy sơn thành hãi kinh.

Thành trì nay đã tan tành,

Vợ con chết hết không còn sự chi:

“Âu ta ra khỏi rừng ni,

Kiếm cơm đỡ dạ chờ thì sẽ hay”

Anh hùng gặp lúc chẳng may,

Trong non hiu quạnh thảm thay cơn nghèo.

Văn Đoan

(Viết/ Nói lối):

Tôi nghĩ lại thuở trước tôi bắt đặng nó, tôi

thương tôi không giết. Đến nay, nó hại vợ con

tôi chết, chư tướng cũng không còn, hèn chi

thánh nhơn có nói rằng:

(Hát khách):

Vật di sảng khẩu chung vi bịnh

Nữ sắc hồng nhan tiện sát nhân

(Nói thƣờng):

Như tôi cùng con Nghĩa Nương.

(Nói lối):

Túng tiền ân ái, giả thành chân,

Hậu đáo cựu thù chân hóa giả

Chư đệ ôi! Thấy chư đệ hai hàng lụy hạ

Ta ngu huynh nhứt sự vô thành, chi nữa

Page 191: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

191

Bước lần qua khỏi non xanh,

Chiêu binh mã dĩ đồ tái phát.

(Vãn Viết/ Hát nam):

Binh mã đãi thời nhi phát;

Cùng đời thường cùng đạt dinh hư.38

Nếu ở bản thơ pha tuồng Văn Đoan, cốt truyện có nhiều tình tiết phong phú,

thì ở thơ tuồng Ông Trượng – Tiên Bửu: Cô gái chèo đò Tiên Bửu, sớm tối chèo

chống lấy tiền nuôi thân và nuôi mẹ già. Một hôm, có một khách qua đò, râu tóc

bạc phơ – ông Trƣợng, tán tỉnh. Bổn thơ tuồng ghi lại cuộc đối thoại bằng lối nói

thơ, nói lối, hát nam, hát khách. Nội dung, khiến chúng ta liên tƣởng nhƣ một ghi

chép về một cuộc hò đối đáp ở đồng ruộng hay trên bến sông rạch nào đó.

Dẫn đoạn Ông Trƣợng ghẹo Tiên Bửu:

Tiên Bửu

(Nói thƣờng):

Bớ ông Trượng ôi !

Sao ông không biết mắc cỡ, cứ theo ve con nít

hoài vậy, a ông?

(Nói thơ):

Ông già kia, hỡi ông già,

Bảy mươi còn muốn gái mà mười lăm.

Lão Trƣợng

(Nói thƣờng):

Bớ Tiên Bửu ôi ! Thời lão cũng biết đôi chút.

Nhưng mà lão đây bắt chước người xưa đó bậu.

(Nói thơ):

Áo dài chẳng nệ quần thưa,

Bảy mươi có của cũng vừa mười lăm.

Tiên Bửu

(Nói thƣờng):

Bớ ông Trượng ơi, ông đừng nói vậy mà mắc cỡ lắm mà!

(Nói thơ):

Thoàn (thuyền) tôi chở lưỡi chở câu,

(

38)Văn Doan diễn ca, in lần thứ ba, của Huỳnh Tịnh Của, Sài Gòn, 1906

Page 192: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

192

Thoàn đâu có chở hàm râu ông già.

Lão Trƣợng

(Nói thƣờng):

Bớ Bửu ôi! Già như ai kia mà rằng, chớ còn già

như lão đây, ít ai dám bì a bậu.

(Nói thơ):

Già thời già mặt già mày,

Chơn tay già hết lòng này còn non.

Tiên Bửu

(Nói thƣờng):

Ông Trượng ôi! Ông đừng nói vậy chẳng nên

đó a ông Trượng.

(Nói thơ):

Thân tôi như trái mãng cầu,

Ở trên bàn án hạc chầu, lọng che.

Lão Trƣợng (Nói thơ):

Bớ Bửu! Thân ta như thể con dơi,

Bay lên bàn án mà chơi mãng cầu.

Tiên Bửu (Nói thơ):

Bớ ông trượng! Thân tôi như thể chuông vàng,

Ở trong thành nội cả ngàn quan canh.

Ông Trƣợng (Nói thƣờng):

Bớ Bửu ôi! Có chắc chi đâu mà bậu hòng nói,

như lão làm vầy mới là vui cho chớ.

(Nói thơ):

Thân qua như thể cái chày,

Bỏ lăn bỏ lóc chờ ngày dộng chuông.

Tiên Bửu (Nói thơ):

Ông Trượng ôi! Thân tôi như cái chuồng ngà,

Thân ông như manh chiếu rách ngồi đà ngồi trên.

Lão Trƣợng (Nói thƣờng):

Cha chả! Con Tiên Bửu nó thị già dữ bây!

Page 193: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

193

(Nói thơ):

Nhờ trời cho thổi gió lên,

Cho manh chiếu rách nằm trên giường ngà.

(…)

Trong thực tế sinh hoạt nói tuồng thƣờng là diễn xƣớng các “kịch bản” có nội

dung hài hƣớc (Ông Trượng – Tiên Bửu) dân dã và phi chính thống, không đề cao

trung hiếu nhƣ tuồng pho, tuồng tàu (Văn Đoan – Chàng Lía)… Về sau theo xu

hƣớng tính chất tuồng đồ này, Thơ Tuồng Bảy Tài (1913) cũng đã nhận đƣợc sự

hâm mộ của công chúng vì tác phẩm bình dân này đã phô bày các xấu xa của một

tay cờ bạc trong bối cảnh đầy tệ nạn thời thuộc địa: Bảy Tài đánh me đến nghèo

mạt. Hắn vẫn không chừa, lại gạt con, cạy rƣơng ăn cắp tiền của mẹ đi đánh. Đến

tiệm me, Bảy Tài bảo chủ cái là bang trƣởng ngƣời Hoa gây sòng.

Bảy Tài (Nói thƣờng):

Nầy ông Bang, lâu nay ông Bang không biết

hay sao: còn con vợ ăn, hết con vợ nhịn, không

may giằng xây ở bụi. Thôi thôi, ông Bang thay

tay hốt cho tôi đánh một chén nữa: một ngàn

mấy trăm tôi đánh hết, không thèm để một

đồng điếu cạo gió!

(Nói thơ):

Ông Bang cầm chén đẩy ra

Bảy Tài cầm đũa hỏi mà các anh:

“Đánh nhồi bổn lợi đã đành,

Buông lời dám hỏi các anh luận bàn?”

Mấy ảnh (Nói thƣờng):

Không anh Bảy! Điệu cờ bạc tuy là chậu úp

không soi, thì mặc lòng: cô hồn dắt đâu đánh

đó, phải vậy thì trèo, đánh tiền ròng bạc chảy

thằng nào dám nói chi?

(Nói thơ):

Bảy Tài tính toán me đi:

Ngàn ngoài đánh “túc”, hết thì “cầu âu”.

Ông Bang cầm chén khui nhầu,

Bảy Tài cầm đũa gặc đầu coi hay:

Page 194: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

194

Hai mươi đồng “túc”quả này,

Điếm đàng liếc mắt xem nay vào sòng.

Trong chén không còn một đồng,

Hai mươi tiền “túc”thiệt lòng ông ôi!

“Phá hỏa”thôi mới xem rồi,

Cầm tiền hô lại một thời phân minh:

(Nói thƣờng, tiếng Quảng Đông)

Dầu hầy xây tháng, xây cô xình, chung hồng

pháo, túc cô xình, chung hắc mại, xám cô xình,

chung hồng xương.

(Nói thơ):

Tính thôi đặng bốn trăm ngàn,

Bổn lợi rõ ràng có lẽ sáu trăm.

(Thơ Bảy Tài, 1913)

Nói chung, nói tuồng là hình thức diễn xƣớng dân gian có tính chất tổng hợp

cả giọng điệu hát bội, nói thơ và trong chừng mực nào đó là hát đối đáp, cơ động,

một hai ngƣời diễn, một cái trống, một cây đàn hay chiếc kèn là đủ “giàn đờn thổi”

cho cái “sân khấu” tại gia này. Nó đáp ứng nhu cầu thƣởng thức văn nghệ mà so

với việc rƣớc gánh hát bội thì mắc tiền và khó hơn nhiều. Tuy vậy, điều nay cho

thấy là thị hiếu mê hát bội của ngƣời dân ở đây vào thời đó.

II. CÁC HÌNH THỨC DIỄN XƯỚNG LỄ NGHI

Khi đề cập đến các tập tục vào tiết cuối năm ở Nông Nại, tác giả sách Gia

Định thành thông chí cho biết rằng: “Đêm 28 tháng chạp, na nhân (tục danh nậu

sắc bùa) đánh trống gõ phách, một bọn mười lăm người, đi theo dọc đường, trông

nhà nào hà phú mở cửa ngỏ thì vào dán lá bùa nơi cửa, niệm thần chú, rồi nổi

trống phách lên, ca xướng những lời chúc mừng. Người chủ nhà dùng cỗ bàn, chè

rượu khoản đãi và gói tiền thưởng tạ. Xong nhà này, lại qua nhà khác, cũng làm

như vậy, cho đến chiều buổi trừ tịch mới thôi. Ấy là có ý nghĩa đuổi tà, tống ma,

trừ cũ rước mới vậy”. Đây là hình thức diễn xƣớng có nguồn gốc từ Thuận Quảng

đƣợc du nhập vào đây có lẽ khá sớm và đến đầu thế kỷ XIX (lúc Trịnh Hoài Đức

biên soạn Gia Định thành thông chí) phát triển nhƣ vậy là khá mạnh mẽ. Thế

nhƣng đến nay hình thức diễn xƣớng này đã tiêu vong, không còn tìm ra đƣợc dấu

vết.

Kết quả điều tra thực địa, các hình thức diễn xƣớng tổng hợp trong các dịp lễ

ở đây, hiện tồn các dạng chính sau đây: một là diễn xƣớng trong lễ cúng kỳ yên ở

đình làng; hai là hát bóng rỗi trong lễ cúng miễu; ba là hát đƣa linh của các nhóm

đạo tì trong tang lễ, và bốn là các hình thức diễn xƣớng nghi lễ của các tăng sĩ

“ứng phú Phật giáo”.

Page 195: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

195

1) Diễn xướng trong lễ cúng đình ở Cù Lao Phố không phải là hình thức

diễn xƣớng hàng năm mà là theo tập tục “tam niên đáo lệ” – tức ba năm mới tổ

chức một lần: rƣớc các gánh hát bội về hát chầu cúng thần.

Hát bội cúng thần ở đình làng đƣợc gọi là hát chầu là một thể hát đám (chữ

dùng của Trƣơng Vĩnh Ký trong Hát, lý, hò An Nam, 1886) tức là diễn trong các

đám lễ khác với hát để xem chơi giải trí (hát trƣờng, hát giàn…). Ở đây, việc hát

bao gồm việc thực hành nghi lễ gọi là Xây chầu – Đại bội và việc diễn tuồng với

nghi thức kết thúc bắt buộc là lễ Tôn vương (hoặc Tôn soái).

Do yêu cầu Tôn vương này, các tuồng tích đƣợc chọn là các tuồng tích có

kết thúc là phe trung thắng phe nịnh và phe trung thực hiện lễ tôn vƣơng, xây dựng

một triều đại mới. Vì vậy nên tuồng San Hậu là vở tuồng đƣợc chọn nhiều nhất

trong hát chầu ở đình. Tất nhiên, tuồng hát chầu không có qui định bó buộc.

Tuồng San Hậu là kịch bản đƣợc xây dựng theo “công thức”: Vua băng –

Nịnh tiếm – Bà thứ lên chùa – Chém nịnh – Định đô – Tôn vương - Tức vị mà ý

nghĩa “hiện thực – lịch sử” của nó, nói theo ngôn ngữ ngày nay, là “sân khấu hóa”

cuộc nội chiến thế kỷ XVII, XVIII mà “cái hậu” là nhà Nguyễn dành đƣợc thắng

lợi cuối cùng. Nói cách khác, lễ Tôn vương ở đình là tiết mục – nghi thức có mục

đích tôn vinh chính trị cho đƣơng triều và nó có chức năng “giáo dục truyền

thống”– nói nhƣ ngôn ngữ ngày nay. Điều đó đã chỉ ra tính chất “chính thống” của

tiết mục này và của việc diễn hát bội cung đình.

Ở một tầm mức lớn hơn, hệ thống tiết mục Xây chầu – Đại bội là nhằm biểu

hiện quan niệm về sự hình thành vũ trụ và sự vận động và phát triển của tạo hoá

theo dịch lý của Nho gia, tức quan niệm về thế giới của nho giáo – hệ tƣ tƣởng

chính thống của chế độ phong kiến.

a) Xây chầu là nghi thức đánh trống phá phách ít nhiều phƣơng thuật của

Đạo giáo mà ở đây đƣợc coi nhƣ màn mở đầu sự phân khai của Trời và Đất – tiếng

trống biểu thị tiếng sấm khởi đầu sự chuyển động vĩ đại của cuộc khai mạc vũ trụ

này.

b) Đại bội là một hệ thống tiết mục nhằm “sân khấu hóa” sự phân khai và

tiến hóa của vũ trụ và vạn vật.

Tiết mục Mở cửa trời: Ông Bàn Cổ tƣợng trƣng cho Thái cực, tay cầm bó

nhang múa và xƣớng: “Càn Khôn giáo hoán, vũ trụ chuyển khai: lương nghi, tam

tài, ngũ hành, bát quái…”

Tiết mục thứ hai gọi là Xang Nhựt – Nguyệt tƣợng trƣng cho sự phân khai

của Thái cực thành Lƣỡng nghi (Âm - Dƣơng): Một kép, tây cầm một vật tròn màu

đỏ (dƣơng/ mặt trời) và một đào, tay cầm một vật tròn màu vàng (âm/ mặt trăng)

cùng múa: Xang qua xang lại cho hai vật ấy chạm vào nhau để biểu thị âm –

dƣơng giao hòa để từ đó vạn vật nảy nở, tƣơi tốt.

Tiết mục Tam tài tƣợng trƣng cho ba ngôi Thiên – Địa – Nhân: Ba diễn viên

thủ vai ba ông Phúc, Lộc, Thọ ra xƣớng, hát và nói lối những câu có nội dung chúc

tụng.

Page 196: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

196

Tiết mục Tứ thiên vương tƣợng trƣng cho Tứ tượng (âm – thiếu dƣơng,

dƣơng – thiếu âm): Bốn kép hóa trang làm bốn Tứ Thiên Vƣơng (cai quản bốn

phƣơng trời) múa các trƣờng đoạn biểu thị cho sự chuyển dịch từ Tứ tượng sinh ra

Bát quái, và cuối cùng, là các tiết đoạn dâng bốn câu liễu có nội dung “phong điều

võ thuận”, “quốc thái dân an”.

Tiết mục gọi là Đại bội, đƣợc gọi nôm na là Đứng cái tƣợng trƣng cho ngũ

hành do 5 diễn viên thực hiện. Các diễn viên múa hát, nói lối các bài chúc tụng

cảnh thịnh trị của thời “vua sáng tôi hiền”.

Tiết mục cuối cùng, hiện nay ít phổ biến, là Bát tiên hiến thọ. Tiết mục này

tƣợng trƣng cho Bát quái và nhằm mục đích chúc thọ cho dân làng.

Nói chung, các tiết mục thuộc hệ thống diễn xƣớng nghi lễ Xây chầu – Đại

bội, đƣợc giới thiệu tóm tắt trên đây, cho chúng ta thấy rằng chúng có chức năng

thực hành nghi lễ và nội dung của nó là sự thể hiện bằng diễn xuất múa tuồng một

quan niệm rất có chính thống, không xen lẫn một tí có tính chất là “diễn xƣớng dân

gian”. Tính chất không dân gian của diễn xƣớng nghi lễ cúng đình cũng có thể

khẳng định rõ rệt hơn khi truy nguyên về nguồn gốc cung đình của các tiết mục

nêu trên.

Xem xét với một sự so sánh rất đơn giản cũng rất dễ nhận ra nguồn gốc cung

đình của các tiết mục diễn xƣớng trong cung đình ở Nam bộ:

Tiết mục Tam tài có nguồn gốc từ vũ điệu Tam tinh chúc thọ ở cung điện

nhà Nguyễn.

Tiết mục Tứ Thiên vương có quan hệ ảnh hƣởng từ vũ điệu Trình tường

tập khánh.

Và tiết mục Bát tiên hiến thọ thì hẳn là vũ điệu Bát tiên hiến thọ đƣợc các

vũ công cung đình biểu diễn vào các ngày lễ vạn thọ, thánh thọ, tiên thọ để chúc

vua trƣờng thọ.

Các vũ điệu trong cung đình nhà Nguyễn đƣợc coi là các điệu múa cổ, đƣợc

Đào Duy Từ chỉnh lý từ đời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613 - 1635) nhằm để

diễn vào dịp lễ chúc thọ nhà vua. Sau đó, các vũ điệu cung đình cùng với các nghi

thức tế lễ đƣợc qui định theo điển lệ chính thức đã đƣợc áp dụng trong cung đình.

Ở Cù Lao Phố nói riêng Xây chầu và Đại bội có lẽ bắt đầu từ định hình từ đầu thế

kỉ XIX – cụ thể là từ 1802 về sau.

Nói chung, diễn xƣớng trong nghi lễ cúng đình là tổ hợp các tiết mục có tính

trình thực đậm phong cách hát bội mà chức năng thực hành nghi lễ của nó là nhằm

biểu hiện những nhận thức về thế giới và xã hội của chế độ phong kiến – nho giáo.

Cái đƣợc gọi là có ít nhiều tính dân gian là tiết mục phụ Gia quan tấn tước, mà dân

gian gọi là Ông Địa dâng liễn: Một kép đóng vai ông Địa, đội mũ cánh chuồn, mặc

áo quan viên, đi giày tuồng ra diễn các động tác kịch câm: mài mực, thử bút, suy

nghĩ tìm ý, viết một câu liễn… và trình câu liễn có 4 chữ “Gia quan tấn

tước”…Nói chung, tiết mục này đƣợc diễn xuất một cách hài hƣớc với vai trò phụ:

khi thử bút mực bắn vào mắt, đi vào trong bị đụng đầu vào khung cửa (tƣởng

Page 197: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

197

tƣợng), làm ra vẻ trịnh trọng trong tất cả mọi việc không có gì là quan trọng. Tất

cả, từ nhân vật diễn đến phong cách diễn xuất cho thấy rằng đây là tiết mục chịu ít

nhiều ảnh hƣởng từ chủ để của chặp Địa – Nàng, một vở bóng tuồng của hình thức

diễn xƣớng nghi lễ dân gian – gọi chung là hát bóng rỗi, trong các lễ hội cúng

miễu.

2) Hát bóng rỗi: Là một hình thức diễn xƣớng khá phổ biến ở Cù Lao Phố.

Đây là hình thức diễn xƣớng có chức năng thực hành nghi lễ của tập tục thờ các nữ

thần. Do đó, số lƣợng các miễu thờ nữ thần (Bà Chúa Xứ, Bà Thiên Y A Na, Năm

Bà Ngũ Hành…) cùng với các Cô Cậu ở đây là cơ sở thực tế để hình thức diễn

xƣớng này tồn tại và phát triển.

Tập tục “chuộng các nữ thần”và “lấy việc múa hát bóng rỗi làm điều vui

thú” đã có thấy chép trong sách Gia Định thành thống chí (đầu thế kỉ XIX) và sau

đó, trong Đại Nam nhất thống chí: Lục Tỉnh Nam Việt. Ở đây, kết quả điều tra điền

dã cho biết vào cuối thế kỉ trƣớc và đầu thế kỉ này có nhóm hát bóng rỗi của ông

Đặng Văn Phuông (1862 - 1946) (chơi nhạc) và bà Đinh Thị Ngàn (múa bông, hát

chặp). Kế tục từ những năm 1940 -1960 nổi tiếng là bà bóng Sửu (Tân Giám);

thêm vào đó lá các bà bóng của vùng lân cận: Tân Mai, Hóa An, Tân Vạn; đặc biệt

là Địa Đẳng (ở Hóa An) là một nghệ nhân đóng vai Địa nổi tiếng.

Hát bóng rỗi là một tập hợp nhiều tiết mục mà chính yếu là: 1) Chầu mời

thỉnh tổ. 2) Múa bông. 3) Múa mâm. 4)Bán lộc. 5)An vị. 6)Hát chặp Ðịa – Nàng.

2.1) Chầu mời thỉnh tổ là tiết mục do các cô bóng, bà bóng thực hiện: Ðội

khăn mặt đỏ, ngồi vách đốc trên ghế trƣớc điện thờ, tay cầm trống nhỏ vừa hát điệu

“tâu rỗi”vừa điểm trống trên nền nhạc của một “giàn đờn thổi” (nhị, trống, kèn lá).

Mục đích của tiết mục này là mời thỉnh các thần về dự lễ:

Phần hương lễ vọng các cung,

Thánh thần tọa giáng đồng chung nghe tôi mờ.

Trên trời Phật ngự tam quang,

Dưới Linh Tiêu điện thỉnh vua ông Ngọc Hoàng.

Ngọc Hoàng, Ngọc Ðế giáng nhang,

Tề Thiên Ðại Thánh đồng hưởng ban nghe tôi mời

Thứ nhất: Bà cả Tiên Nga,

Bà hai Tiên Ðế, bà ba Linh Hường

Bà tư Tứ Ðộng nghe khuyên,

Bà năm Thất Ðộng kim liên bửu tòa.

Ông phán, bà phê, ông định, bà đề ba chữ cho dân

Chữ “tràng”, chữ “thọ”lịnh bà phân,

Chữ “bá”, chữ “phước”, chữ “lộc”cho con dân đặng nhờ

Page 198: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

198

Lịnh Bà ôi! (í… í… í…).

(Lý giọng bóng):

Rồng nằm kẹt đảnh (mà sự) éo le (i… í… i…)

Nhạn phơi kiếng (cánh) nhạn (í a rượng… a…)

Loan xòe (rồi lợi…) kiếng loan…

Lịnh Bà ôi! (í… í… i…)

Vui đâu cho bằng vui đây,

Trống cơm, trống cái lại có cây đờn cò…

2.2) Múa Dâng bông và múa Dâng mâm là hai tiết mục mà ý nghĩa

nghi lễ của nó là dâng lễ vật cho thần linh. Nói cách khác đây là hai tiết mục trình

thức hóa nghi thức dâng lễ vật mà ở đây đặc biệt quan trọng là bông hoa và cái

ngôi tháp đặt trên chiếc mâm.

Múa dâng bông là điệu múa do các bà bóng thực hiện. Họ đặt tộ bông trên

đỉnh đầu và múa bằng các động tác ngẫu hứng tạo ra dáng vẻ bập bềnh, uốn lƣợn

tiến từ phía trƣớc, từ bàn thiên (nơi đặt lễ vật) vào trong điện thờ theo một tuyến

múa không cố định: hoặc tiến thẳng, hoặc tiến theo hình chữ chi, hoặc tiến thoái –

qua lại. Cốt yếu là làm sao cho sinh động, lả lƣớt mà tộ bông trên đầu không xao

động hoặc rơi xuống đất.

2.3) Múa dâng mâm cũng với động tác múa ngẫu hứng nhƣng phần

tạp kĩ đƣợc tăng cƣờng nhiều hơn: chuyền: dùng lực của động tác cơ thể để chuyển

mâm vàng từ đầu xuống vai, ngực bụng, chân và ngƣợc lại; còn cấn: đặt cạnh mâm

vào mũi, trán, nhân trung để múa cốt sao cho mâm không rơi; lật: đảo mâm trên

bàn tay, lật úp mâm xuống và rồi vớt ngƣợc lên sao cho mâm vẫn còn dính trên

bàn tay; bêu: dùng một cây, dài ngắn không chừng, đặt mâm lên đầu cây phía trên

và đầu gốc để trên nhân trung, vai, bàn tay… mà múa.

2.4) Áp dụng nguyên lí thăng bằng, múa dâng mâm đƣợc cải đổi bằng

cách thay các “đạo cụ” khác để nhằm mục đích giúp vui hơn là thực hành nghi lễ.

Ở các lễ hội miễu trên Cù Lao Phố có múa dao, múa dao chặt mía, múa vịm, và

múa xe đạp.

2.5) Nghi thức Bán lộc (ban phát các lễ vật hay các gói trầu cau cho

ngƣời đến dự lễ) và nghi thức An vị không có hình thức diễn xƣớng đi kèm. Song

tiết mục kế đó là một tiết mục biểu diễn. Kéo dài từ hai đến ba giờ. Dựa trên cốt

truyện đơn giản: Ðịa dẫn đƣờng giúp Nàng – tiên nữ cõi trời thay mặt cho vị nữ

thần xuống chứng giám lễ cúng miễu, đi tìm “cây huê giúp nƣớc”biểu thị cho “tài

lộc”, chặp Ðịa – Nàng đã nối kết nhiều trò lẻ hài hƣớc tạo nên những trận cƣời vui

thỏa thích cho những ngƣời dự lễ. Tuy nhiên, đằng sau những trò diễn trào lộng

đó, chặp Ðịa – Nàng vẫn chứa đựng những tình tiết có tính chất cầu mùa. Tiêu

biểu cho chức năng nghi lễ có tính phồn thực của chặp Ðịa – Nàng là trò “Ðịa đẻ”:

Ðịa đang đi, bỗng dừng lại, la oai oái rằng mình đau đẻ: “Ở trong nhà con chẳng

Page 199: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

199

khai hoa. Ra đường xá con toan hại tía… úy hại má”, và sau một hồi đòi rƣớc mụ,

đòi van vái “mƣời hai Mụ Bà, mƣời ba Ðức Thày” thì Ðịa đẻ… xong. Trò diễn này

đƣợc hình thành trên cơ sở cái bụng bự chình ình của vai Ðịa. Tuy nhiên, ở đây,

trò diễn này là biểu thị cho tín lí phồn thực: Khả năng sinh sản của đất; và đây là

trò diễn cầu mùa.

Địa sanh là đất tốt,

Địa đẻ là ăn mừng,

Địa sanh sanh hóa hóa để đức lại thế gian

Chớ Địa đực đẻ củi đòn, đá trái chứ đẻ gì?

Ở phần kết thúc vở diễn của chặp Ðịa – Nàng chức năng nghi lễ của nó cũng

đƣợc tóm tắt khá rõ:

(Nói thơ):

(…) Sau khi ăn hết chè xôi,

Địa bèn cầu chúc mọi người ở đây:

“Chúc cho khỏe mạnh hằng ngày,

Chúc cho phước lộc lưu lại trăm đời.

Chúc cho hết thảy mọi người,

Thảy đều phú hộ vui chơi đến già.

Chúc cho hết thảy mọi nhà,

Thảy đều vui vẻ thuận hòa trước sau,

Chúc cho khắp Ðại Nam trào,

Lê dân trong nước sang giàu vinh hoa.

Chúc cho gió thuận mưa hòa

Chúc cho bá tánh muôn nhà bình an.

Nàng (Nói):

Ăn rồi thôi thì về mà, ông Ðịa!

Địa (Nói):

Về đâu mà gấp vậy?

Nàng (Nói):

Chớ ông còn thèm nữa hay sao mà đứng đó?

Địa (Nói):

Thôi đi thì đi…

Nói chung hát bóng rỗi với hệ thống tiết mục của nó đã đảm nhận cả chức

năng lễ và hội của lễ hội cúng miễu. Tính chất dân gian của hình thức diễn xƣớng

Page 200: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

200

này là sự không phân biệt quá rạch ròi giữa chức năng vui chơi giải trí và chức

năng thực hành nghi lễ. Điều đó có phần khác với hình thức diễn xƣớng trong tang

lễ Hát đưa linh.

3) Hát đưa linh là tên gọi thông tục của hình thức diễn xƣớng tổng hợp bao

gồm cả ca, nhạc, múa và diễn trò. Xét trên những nét lớn, nội dung một xuất hát

đƣa linh ở Cù Lao Phố cũng nhằm thể hiện một tích sự chung giống nhƣ các nơi

khác mà nguồn gốc bắt nguồn từ tình tiết nói về việc chàng Lía về làng đƣa quan

tài của mẹ mình lên an táng ở sơn trại Truông Mây của tập thơ tuồng Văn Doan

diễn ca (hay còn gọi là Thằng Lía – thơ pha tuồng). Kết cấu tiết mục của hình thức

diễn xƣớng nghi lễ này, gồm: a) Nhưn quan (ngƣời đứng đầu điều khiển các đạo tì

trong việc động quan và di quan) đóng vai ngƣời con trai Cả (hiểu là thứ Một) (1)

vào trƣớc bàn vong bịt khăn tang nhằm thể hiện nghi thức xin nhận làm trƣởng nữ

/ hiếu tử thay cho chủ tang: nhận trách nhiệm thực hiện và an táng cho ngƣời quá

vãng; b) Kế đó, nhưn quan thực hiện tiết mục khán quan (xem xét quan tài hay di

ảnh để xác định ngƣời quá vãng đúng là cha hoặc mẹ thân nhân) “của mình”. Vừa

múa, nhƣng quan vừa hát một bài hát. Xƣa hát gồm có nói lối, nam ai: giờ có nơi

thay vào đó nói lối và vọng cổ. Dẫn một bài tƣơng đối xƣa làm ví dụ:

Như ta đây, nhứt tử trưởng nam,

Mười mấy năm lưu linh lãng tử

Lìa bỏ song thân, chiếm lam sơn làm nơi cư ngụ

Đêm hôm nay thầy ta báo mộng:

Phụ thân (thân mẫu) đã cỡi hạc qui thiên…

Nên ta họp đệ huynh xuống gia đường cho tỏ tường minh bạch.

Ta vừa về đến đây… nhìn lên tủ ảnh di sa thì hỡi ôi phụ thân (thân mẫu) ta

đã hóa ra người thiên cổ.

Ngày nào: Còn cha gót đỏ như son,

Ngày nào: Còn mẹ nhai từng miếng cơm, lừa từng miếng cá.

(…)

Giờ đây, thân xác phụ thân (thân mẫu) ta sắp vùi thây dưới ba tấc đất;

Thì một lạy này, đứa con bất hiếu xin đền đáp công sinh thành dưỡng dục,

Và lạy thứ hai này con xin phép đưa phụ thân (mẫu thân) về lam sơn mau

ngõ hầu an táng.

Kìa hoàng hôn đã khuất bóng

Ôi ta trở lại chốn gia đàng

Thập nhị đệ lo bề táng an thân phụ (thân mẫu) đó nghe!

(Các đạo tì đáp: Dạ!)

Page 201: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

201

Này thập nhị đệ đều tay thọ tang phụ thân (thân mẫu)39

Các em sắp đặt tiền hậu cho trang nghiêm đó nghe

Thập nhị đệ nhẩm tửu rồi đưa linh cữu phụ thân ( -) ta về lam sơn cho kịp

giờ táng an phần mộ đó nghe!

(Các đạo tì đáp: Dạ!)

c) Lại có quan niệm, khi quan tài quàn tại nhà quá lâu thì bị ma quỉ ám nên

trong trƣờng hợp này, quan phải cho hai “Phƣơng tƣớng” (hai tƣớng oai phong nhƣ

kép võ) thực hiện tiết mục đánh phá quàn: múa đạo, thƣơng hoặc múa một bài

quyền nào đó (hoặc Tứ Môn hoặc Lão Mai). Tiết mục này phổ biến và nhƣ vậy sau

tiết mục trên là tiết mục múa dâng rƣợu. d) Múa dâng rượu là tiết mục nghi lễ

tƣợng trƣng cho việc trƣởng tử mời rƣợu các đạo tì tỏ lời nhờ họ đƣa quan tài của

thân nhân mình ra đến nơi an táng: Nhưn quan một tay bƣng khay rƣợu, trên khay

có nhạo và ba chung rƣợu, và múa một bài quyền thƣờng là bài Phụng Hoàng hay

bài Tứ Môn, thỉnh thoảng lại dừng lại đƣa khay rƣợu mời các đạo tì. Các đạo tì đƣa

hai tay lấy ly rƣợu uống một cách trịnh trọng và rồi để lại ly vào khay. e) Xong tiết

mục này, nhƣng quan bắt đầu dùng sanh gõ nhịp ra hiệu lệnh cho đạo tì tập họp,

tiến hành lễ động quan.

Hát đưa linh là hình thức diễn xƣớng tang lễ mà ở đó sự kết hợp của nghi

thức gia lễ nho giáo với hình thức trình diễn bình dân chịu ảnh hƣởng của nghệ

thuật tuồng và sau này là ca kịch cải lƣơng. Ngoài ra, ở Cù Lao Phố, tang lễ cũng

có hình thức diễn xƣớng nghi lễ qui mô đƣợc gọi là Đánh động. Đây là một trò

diễn theo phong cách hát bội mà các tăng sĩ Phật giáo đƣa vào khoa nghi của phái

ứng phú thực hiện các nghi lễ trong tang lễ. Khoa nghi tang lễ của nhà Phật thể

hiện theo một kiểu thức riêng cho mỗi lễ thức. Trò diễn Đánh động nằm trong hệ

thống tuồng tích của diễn xƣớng gọi là “hát Phật”– nôm na là phần “bội” trong

hình thức “trong chay ngoài bội” (trong nhà làm trai đàn, ở ngoài có hát bội). Trò

diễn Đánh động (còn gọi là Tề Thiên đánh động) vốn có nguồn gốc từ tuồng tích

Tam Tạng thỉnh kinh rút từ truyện Tây Du Kí. Ở đây, trò diễn tái hiện lại việc tây

du của thầy trò Tam Tạng trên chận đƣờng từ nhà cho đến nơi an táng; theo đó,

trên chặng đƣờng này, ngƣời ta che nhiều cái động, trong đó có kép hát đóng vai

các loại yêu tinh ra chặn đƣờng thầy trò Tam Tạng đang “dẫn vong” đi trƣớc đám

tang. Cứ mỗi nơi gặp yêu tinh thì hết Trƣ Bát Giới, đến Sa Tăng và cuối cùng là

Tôn Ngộ Không xông ra đánh nhau với chúng và diệt chúng, “mở đƣờng” cho đám

tang tiếp tục đi. Tùy theo từng trang chủ mà mỗi cuộc đánh động bố trí ít hay nhiều

động và trong trƣờng hợp này, các nhà sƣ ứng phú cùng các diễn viên hát bội thực

hiện trò diễn này ngoài trời và Đƣờng Tam Tạng cỡi con ngựa thật cùng với các đồ

đệ thực hiện nghi thức mở đƣờng.

(

1 )Ở Cù Lao Phố cho rằng đứa con thứ Một này đã bỏ nhà đi cướp từ nhỏ. Hôm ấy sai lâu la đi chợ mua đồ ăn thức

uống, nhưng ở làng vì có đám tang nên đồ ăn thức uống đã bán sạch cho tang chủ. Tướng cướp hỏi kĩ ra thì người

chết chính là cha của mình nên vội vã trở về làng xem hư thực. Lời kể này có phần khác nội dung bài ca lẫn ở đoạn

sau đây.

Page 202: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

202

Nhìn chung, các hình thức diễn xƣớng dân gian ở Cù Lao Phố không có loại

nào độc đáo riêng. Các sinh hoạt đờn ca thời Cù Lao Phố còn là đô hội cũng nhanh

chóng tàn lụi theo sự suy vong của phố cảng này. Các hình thức diễn xƣớng dân

gian trong lao động và sinh hoạt nhanh chóng bị mất đi đến nay hầu nhƣ không

còn mấy. Riêng các hình thức diễn xƣớng nghi lễ, do cơ cấu đình, chùa, miếu, võ

tồn tại khá bền vững nên còn đƣợc bảo lƣu phần nào trong thôn xóm với những

biến đổi nhất định. Đây là đặc điểm thƣờng thấy của văn hóa dân gian và truyền

thống vùng ven đô thành thị.

CHƯƠNG II

DI TÍCH KIẾN TRÖC VÀ MỸ THUẬT TRUYỀN THỐNG

Ngày nay diện mạo đích thực của các di tích kiến trúc nghệ thuật xây dựng

từ thế kỷ XVII – XVIII, ở Cù Lao Phố chỉ có thể hình dung đƣợc qua những ghi

chép trong tài liệu thƣ tịch Hán Nôm mà thôi. Hầu hết đền, chùa, đình miếu và phố

xá của Cù Lao Phố thời còn là xứ “đại đô hội” đã bị thời gian, chiến tranh và thiên

tai chôn vùi vào quá khứ. Các di tích hiện tồn đều đƣợc tái thiết trong những năm

đầu thế kỷ XX. Ở đó họa may mới còn lại một vài di vật cổ. Đó là những vật

chứng lịch sử giúp chúng ta hiểu đƣợc đôi điều về đặc điểm nghệ thuật thời xƣa cũ

của một vùng đất. Còn về cơ bản, những gì đƣợc trình bày ở chƣơng này chủ yếu

là dựa trên những gì mà ngày nay còn quan sát đƣợc: những di tích hiện tồn.

I. CÁC DI TÍCH KIẾN TRÖC – NGHỆ THUẬT CỔ Ở CÙ LAO PHỐ.

1) Từ thế kỷ XVII, Cù Lao Phố là một phố cảng quan trọng của hoạt động

thƣơng mãi của cả vùng đất mới phƣơng Nam. Do vậy, ở đây đã hình thành một

cụm kiến trúc đô thị bên cạnh các cụm kiến trúc nông thôn.

Trịnh Hoài Đức, trong sách Gia Định thành thông chí (biên soạn hồi đầu

thế kỷ XIX) khi viết về Nông Nại Đại Phố đã cho biết: “Ở đầu phía Tây Cù Lao

Phố, lúc đầu khai thác, Trần Thượng Xuyên Tướng quân chiêu tập người buôn

nước Tàu đến kiến thiết phố xá, mái ngói tường vôi, lầu cao quán rộng, dọc theo

bờ sông liền lạc tới 5 dặm; chia vạch làm 3 đường phố: đường lớn lót đá trắng,

đường ngang lót đá ong, đường phố nhỏ lót gạch xanh, đường rộng bằng

phẳng”(40

). Nhƣ vậy, cụm kiến trúc đô thị ở đây có quy mô nhất định và đƣợc qui

hoạch có phần hoàn chỉnh. Tiếc thay, cũng theo tác giả Gia Định thành thông chí,

từ năm 1776 trở về sau, Tây Sơn vào chiếm, gỡ lấy phòng ốc, tài vật chở về Qui

Nhơn. Từ đây “chỗ này biến thành gò hoang”(41

) Biến cố này cho chúng ta hình

dung đƣợc tính chất tang thƣơng nhƣ thế nào và theo đó tiến trình lịch sử văn hóa

(1 )và (

2) Gia Định thành thông chí, tập hạ, tr113 - 114

Page 203: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

203

nói chung, cũng nhƣ tiến trình phát triển kiến trúc mỹ thuật không là tiến trình liên

tục mà bị đứt gãy – đặc biệt là tiến trình của tổng thể văn hóa Việt – Hoa thƣờng

gọi là Minh Hƣơng, từ 1659 đến 1776 thì coi nhƣ bị gián đoạn. Điều này đã giải

thích sự vô chủ của các ngôi mộ cổ, đa số theo kiểu mộ Tàu ở Cánh Đồng Mộ của

Cù Lao Phố cũng nhƣ sự suy giảm ảnh hƣởng miếu Quan Đế: qui mô lớn mà

không đông ngƣời lễ bái và hoạt động lễ hội không thu hút đông đảo cộng đồng cƣ

dân tại chỗ nhƣ các cơ sở tín ngƣỡng văn hóa đình, chùa, miễu, võ của các thôn ấp

ở đây. Tuy nhiên, sự tồn tại của miếu Quan Đế xây dựng từ 1684 đến nay, sau

nhiều lần tái thiết và trùng tu, là một vật chứng lịch sử dai dẳng nhất của văn hóa

Minh Hƣơng ở Nông Nại Đại Phố.

2. Miếu Quan Đế mà ngày nay có tên chữ là Thất phủ cổ miếu, tục gọi là

Chùa Ông là một cơ sở văn hóa – tín ngƣỡng đƣợc xây dựng sớm và có qui mô

lớn. Theo Gia Định thành thông chí thì đây là một “miếu điện nguy nga, có đắp

tượng cao hơn một trượng, phía sau là quán Quan Âm, ngoài bao tường gạch, có

con lân đá ngồi bốn góc, cùng với Hội quán Phước Châu đầu phía tây đường lớn

và Hội quán Quảng Đông là 3 cái đền lớn. Từ khi có loạn Tây Sơn hai đền kia đều

bị hủy bỏ, duy miếu này là công cộng bản phố riêng được bảo tồn. Nhưng đến mùa

thu năm Ất Vị, ở Trấn Biên có lụt lớn, tượng bị ngâm rã, còn rường cột, mái ngói

nhiều chỗ mục nát. Năm Đinh Sửu (1817) niên hiệu Gia Long XVI, người làng hội

họp bàn đinh trùng tu mời tôi (tức Trịnh Hoài Đức) làm chủ việc ấy vì tôi là người

sở tại nơi miếu cũ (…) Nên tôi quyết chí kêu gọi chúng nhân hợp tác làm lại miếu

mới, đắp lại pho tượng, sửa sang đồ thờ, nay cũng tạm được gọi đầy đủ”(42

). Theo

ghi chép này, chúng ta thấy rằng miếu Quan Đế là một cơ sở tín ngƣỡng tồn tại với

hai hội quán của ngƣời Hoa, nhƣng sau những biến cố xảy ra vào những năm 70

của thế kỷ XVIII, Nông Nại Đại Phố suy tàn, ngƣời Hoa đã bỏ đi gần hết, Hội

quán cũng tiêu hủy và nỗ lực duy trì miếu Quan Đế cũng không đủ vật lực mà

trùng tu, phải nhờ đến Trịnh Hoài Đức - một ông quan đƣơng chức, hỗ trợ. Điều

cần lƣu ý di tích hiện tồn không hẳn là kiến trúc đƣợc trùng tu năm “Gia Long

XVI”. Kết quả điều tra thực tế cho thấy rằng tấm bia đá ghi tên việc đóng góp tiền

trùng tu (hay trùng kiến) ghi niên đại “Đồng Trị Mậu Thìn” (1868). Và đây cũng

chƣa là niên đại trùng tu/ trùng kiến cuối cùng vì trên tấm bia đá đề tên “Thất phủ

cổ miếu”, trên bàn đá, trên đỉnh gan… đều ghi niên đại “Quang Tự Mậu Ngọ”, tức

1894. Đây có lẽ là niên đại của di tích hiện tồn. Chúng ta cũng thấy các bao lam

ghi niên đại “Trung Hoa dân quốc 57”hay “Trung Hoa dân quốc 58”, tức năm

1967 – 1968; nhƣng đây là niên đại của năm trùng tu nhỏ, thêm những phần trang

trí cho nội thất. Riêng “Quan Âm Các”, kiến trúc 2 tầng ở sau chính điện đƣợc tái

thiết năm 1927. Nói tóm lại, ngôi chua ông là một di tích gồm những thành tố

không đồng nhất về niên đại và theo đó, cũng không thuần nhất về phong cách và

kiểu thức kiến trúc nghệ thuật.

Kiểu thức của di tích này là một cụm kiến trúc đƣợc bố trí theo kiểu “nội

công ngoại quốc”– nếu không kể Quan Âm các tách rời tƣơng đối riêng biệt ở phía

sau. Đặc điểm kiến trúc Hoa cũng biểu hiện ở kiểu vì kèo “chồng rƣờng giá (

42) Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí, tập hạ, tr 110 – 111.

Page 204: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

204

chiêng” và đặc biệt là quần thể tiểu tƣợng sành cứng men màu của gốm Cây Mai

với hai tƣợng Ông Nhựt – Bà Nguyệt trang trí trên bờ nóc và mái đã tạo nên nghi

dung đặc trƣng của ngôi chùa Hoa. Thêm vào đó, các thành phần kiến trúc đá, do

thợ đá Bửu Long tạo tác, ở mặt tiền đã tạo nên vẻ đẹp đặc trƣng của kiến trúc Minh

Hƣơng này.

3. Di tích văn hóa – lịch sử Việt ở Cù Lao Phố, hình thành vào đầu thế kỷ

XVIII. Là đền Lễ Công thờ Nguyễn Hữu Cảnh: “Ở phía Nam Cù Lao Phố, thôn

Bình Hoành”. Nguyễn Hữu Cảnh năm 1698, phụng mệnh chúa Nguyễn thiết lập

chế độ hành chính và sáp nhập vùng đất phía nam vào lãnh thổ nƣớc ta. Ông lập

phủ Gia Định, mộ lƣu dân từ Quảng Bình trở vô đến lập nghiệp, chia đặt thôn ấp.

Năm 1700 ông bị bạo bệnh mất ở Cù Lao Chƣởng. Thôn Bình Hoành là một trong

các nơi đình cửu (chỗ để quan tài đình trú) nên nhân đó dân chúng lập đền thờ để

tƣởng nhớ ngƣời có công khai cƣơng thác địa.

Ngôi đền đƣợc Trịnh Hoài Đức đánh giá là “miếu võ trang nghiêm” xây

dựng trên một địa điểm mà cảnh quan tự nhiên đƣợc coi là “địa linh”: “trước mặt

đền ngó xuống sông Phước Giang, lấy tảng đá lớn làm thủy thành, dưới đấy có

con cá gáy hấp gió giỡn sóng, bơi lượn ra vào, khi gió mưa nước chọi vào đá tiếng

vang ồ ạt, sóng dậy chập chờn, thanh oai lẫm liệt”. Rồi sau đó, đền cũng chịu số

phận nhƣ Nông Nại Ðại Phố, cuối thế kỷ XVIII khói hƣơng lãnh đạm. Lúc đầu,

bản triều trung hƣng, cấp cho đền 10 mộ phu để trông coi và thƣờng năm xuất tiền

công quỹ để làm lễ tế vào mùa xuân. Năm Tự Ðức thứ IV (1851) đền bị mục nát,

lại bị ngọn nƣớc xói lở nên đƣợc cấp 400 quan tiền, giao cho dân sở tại lựa mua

cây gỗ cất lại ở sau đền cũ 10 trƣợng để phụng tự. Sau đó, có lẽ khi Nam kỳ bị giặc

Pháp chiếm làm thuộc địa, nên đền thờ này dần dần tích hợp với đình làng để rồi

biến thành đình Bình Kính. Di tích hiện tồn là ngôi đình đƣợc trùng tu vào năm

1960 rồi 1970 và cách đây vài năm. Bên trong các thành tố trang trí kiến trúc bằng

gỗ chạm có niên đại 1923. 1927, 1928. Tình hình trùng tu, tôn tạo liên tục đã làm

cho ngôi đìn này là một thể kiến trúc – đa tạp. Đây là tình trạng chung của đình,

chùa ở Cù Lao Phố.

3. Cù Lao Phố là vùng đất đƣợc khai hoang lập làng xã thuộc loại sớm,

trƣớc cái mốc 1679 - khi tập đoàn ngƣời Hoa của Trần Thƣợng Xuyên đến; hay

trƣớc sau cái mốc 1620… Từ thực tế này, phải chăng khi lập làng, lƣu dân Việt đã

thành lập các cơ sở thuộc tiết chế văn hóa – tín ngƣỡng làng xã truyền thống là

đình, chùa, miếu, võ? Ðình là một cơ quan quan trọng nhất của thôn làng so với

các loại cơ sở kia nên luôn đƣợc quan tâm trƣớc hết, nhất là khi làng đã lập thành,

cơ cấu hƣơng chức đã thành lập để quản lý. Giả định có tính chất suy luận này đến

nay hầu nhƣ không tìm đƣợc một chứng cứ nào để xác định đƣợc niên đại của đình

làng ở đây. Hiện nay, Cù Lao Phố / tức toàn xã Hiệp Hòa có 11 đình của 11 (trong

13 thôn cũ), 5 chùa Phật (cùng 3 tịnh xá mới lập trong những thập niên gần đây),

một thánh thất / bửu tòa Cao Đài (lập năm 1969)và các nhà võ đã tiêu hủy hầu hết,

chỉ còn có một (đã biến đổi thành nơi thờ liệt sĩ). Trong các loại cơ sở tín ngƣỡng –

văn hóa làng xã ở Cù Lao Phố có hai ngôi chùa đƣợc nhắc đến trong tài liệu thƣ

tịch Hán Nôm thế kỷ XIX. Tất nhiên, những gì không đƣợc ghi chép trong sách vở

Page 205: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

205

Hán Nôm đều không có nghĩa là không tồn tại sớm. Chẳng hạn trong Gia Định

thành thông chí, thì toàn xứ Đồng Nai/ Trấn Biên đầu thế kỷ XIX, Trịnh Hoài

Đức chỉ nhắc đến mỗi một ngôi chùa là Sắc tứ Hộ Quốc. Trong khi đó, khoảng

1836, Ðịa bạ Minh Mạng lại ghi ở Cù Lao Phố, một khoảnh nhỏ của xứ Đồng

Nai, có các chi tiết liên quan đến hai ngôi chùa: 1/ Sƣ chùa Bình Hoàng đồng canh

2 mẫu 5 sào 3 thƣớc ở thôn Bình Quan 2/ Bình Tự thôn có chùa Phƣớc Hội và 3/

Chùa Tân Hƣng (chùa Ðại Giác).

3.1. Chùa Phước Hội là ngôi chùa làng đặc trƣng của thôn làng Nam

Bộ. Theo lời tục truyền vào buổi đầu, chùa này do bọn trẻ chăn trâu tạo dựng nên,

chúng nặn tƣợng Phật bằng đất sét để thờ mà nay di tích còn lại là do tƣợng Phật A

Di Đà bằng đất sét. Đến năm 1890, hòa thƣợng Thiện Sanh xây dựng lại chùa mái

ngói, cột cây, vách gỗ. Tục truyền, Hòa thƣợng Thiện Sanh khi vét giếng vớt đƣợc

một pho tƣợng A Di Đà bằng đồng mà thế nhân đem giấu trong chiến tranh Tây

Sơn – Nguyễn Ánh hồi cuối thế kỷ XVIII. Từ đó, chùa có tên là chùa“Phật

Đồng”. Chùa “Mục Đồng”, chùa “Phật Đồng” là tục danh của chùa Phƣớc Hội;

khu xóm quanh chùa cũng đƣợc gọi là xóm Chùa. Di tích hiện tồn là do sƣ cô Diệu

Quang trùng tu: nhà tổ (1973), chính điện (1975). Ở ngôi chùa kiến trúc mới này

còn bảo lƣu các thế hệ tƣợng của đất Cù Lao Phố, bao gồm tƣợng “Phật thổ”(“Mục

đồng”) dân dã, tƣợng “Phật đồng”cổ điển và các tƣợng “Phật gỗ” đƣợc tạo tác vào

thời kỳ mà nghệ thuật tạo tƣợng còn thô phác. Chùa Phƣớc Hội đã thấy ghi trong

Địa bạ (1836).

3.2 Ngôi chùa thứ hai là chùa Phước Long, tục gọi là chùa “Gò Cát

Hiệp Hòa”. Theo Lƣơng Văn Lựu thì ngôi chùa “tọa lạc tại ấp Bình Hòa, nguyên

là một lều rơm bằng lau sậy, có nhiều Phật đất, do nhóm mục đồng dựng lên vào

khoảng 1912. Dân đem nhiều Phật đất thả xuống Rạch Cát, chỉ có tƣợng Di Đà nổi

lên đƣợc vớt lên thờ. Sau đồng bào Phật tử địa phƣơng tiện cốt bằng gỗ mít. Chùa

đƣợc tu bổ, chỉnh trang thành ngôi tam bảo thật sự”(43

). Kết quả điều tra thực tế

cho thấy dƣờng nhƣ tác giả Biên Hòa sử lược nhầm lẫn chùa Phước Long với

chùa Phước Hội vì ở đây không có pho tƣợng đất nào và truyền thuyết về chùa

Mục đồng cũng không đƣợc vị trụ trì và các ngƣời lớn tuổi quanh đó xác nhận. Mặt

khác, việc tu bổ chùa xảy ra vào những năm 1940 với sự đóng góp của các nghệ

nhân vốn tốt nghiệp trƣờng mỹ nghệ Biên Hòa vẫn còn tồn tại ở di tích này mà tiêu

biểu là các sản phẩm gốm men màu trang trí trên bờ nóc, đầu đao và kế đó là bộ Di

Đà Tam Tôn đứng đƣợc các ông Nguyễn Văn Sáu (Sáu U), Đào Văn Lƣơng,

Nguyễn Văn Sảnh, Nguyễn Văn Lào tạo tác trƣớc năm 1945. Nói chung, chùa

Long Phước hiện tồn là kiến trúc chịu ảnh hƣởng nhiều của nhóm nghệ nhân Cù

Lao Phố xuất thân từ trƣờng mỹ nghệ Biên Hòa. Do đó, nó có một dáng vẻ riêng

đánh dấu thành quả nghệ thuật của một thời mà vai trò ngôi chùa làng còn đƣợc

coi là quan trọng đối với thôn làng.

Chùa Đại Giác: “Ở xã Tân Hƣng, huyện Phƣớc Chánh không biết làm năm

nào. Gần đây có ngƣời cúng tấm biển khắc chữ “Đại Giác tự”thiếp vàng, bên tả

(

43) Lương Văn Lựu: Biên Hòa sử lược toàn biên. Tác giả xuất bản 1972, quyển thứ I, tr 109.

Page 206: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

206

khắc: Minh Mạng nguyên niên, mạnh đông cốc đán”và bên hữu khắc “Tiên triều

Hoàng nữ đệ tam công chúa Nguyễn Thị Ánh”(44

). Nhƣ vậy, tấm biển tên chùa do

Công chúa Ngọc Anh tặng vào năm 1820, bà Ngọc Anh là chị của vua Minh

Mạng, khi Tây Sơn khởi dậy, bà đến tu ở chùa Ðại Giác hết sức sùng mộ đạo Phật

(2). Theo tác giả sách Lịch sử Phật giáo Ðàng trong thì chùa Ðại Giác khai sơn

vào nửa sau thế kỷ XVII. Trong thời gian bôn tẩu, cuối thế kỷ XVIII, Nguyễn Ánh

cùng triều thần và Hoàng gia “có thời gian trú ngụ ở chùa Ðại Giác”, do vậy sau

khi lên ngôi (1802), Gia Long đã ra lệnh cho “quan ở trấn Biên Hòa xây dựng lại

chùa” và “vua còn cúng cho chùa tƣợng Phật A Di Ðà bằng gỗ thật to, cao 2,56

m”(3). Tóm lại, qua các tài liệu đã dẫn trên, chùa Ðại Giác là ngôi chùa đƣợc khai

sơn sớm, song đến đầu thế kỷ XIX mới đƣợc xây dựng qui mô. Niên đại 1820 ghi

trên tấm biển “Ðại Giác tự” có lẽ là năm khánh thành của lần xây dựng này. Ðó là

chuyện lịch sử, còn di tích kiến trúc hiện tồn là ngôi chùa xây dựng mới hoàn toàn

vào năm 1959 – 1961: mái ngói, tƣờng gạch và kèo đúc bằng bê tông cốt sắt. Tuy

vậy, chính điện vẫn bảo lƣu kết cấu căn bản của thức nhà tứ trụ với hai lầu chuông

trống thƣờng thấy trong kiến trúc chùa Huế, chính điện và giảng đƣờng vẫn đƣợc

nối kết theo kiểu “trùng thiềm điệp ốc”… Nói cách khác, di tích hiện tồn là một cải

đổi có gí giảm kiến trúc chùa truyền thống. Những gì còn đọng lớp thời gian xƣa

cũ là các ngôi tháp tổ phía sau chùa. Ðó là dấu vết cổ kính ít ỏi còn lại của ngôi

chùa này.

3.4 Chùa Chúc Ðảo (hiện có tên là Chúc Thọ) có tục danh là chùa

Thủ Huồng, gắn với sự tích ly kỳ kể về cuộc đời của một phú hộ có tên là Thủ

Huồng. Tục truyền Thủ Huồng là ngƣời giàu có nhất nhì ở đất Đồng Nai thời trƣớc

với những thủ đoạn bất chính. Về sau vợ chết, Thủ Huồng không có con bèn đi

chơi đây đó, ra tận chợ Mãnh Ma ở Hƣng Yên. Ở đó, Thủ Huồng gặp lại vợ và

đƣợc vợ đƣa xuống âm phủ chơi. Dịp này Thủ Huồng thấy cái gông dành sẵn để

phạt mình dƣới địa ngục nên rất lo sợ. Trở về Thủ Huồng mạnh tay bố thí: xây cầu,

khai rạch, dựng cầu làm phƣớc và lập ngôi nhà nổi ở ngã ba sông Nhà Bè, sắm đủ

củi gạo giúp ngƣời qua lại trên đƣờng sông Gia Định – Đồng Nai. Chùa Chúc Ðảo

là ngôi chùa mà Thủ Huồng xây dựng, chùa khai sơn vào thời kỳ nào? Ðây là một

câu hỏi mà việc truy cứu có phần khó khăn vì trƣớc hết đó là một truyền thuyết dân

gian. Căn cứ trên tài liệu thƣ tịch thì câu chuyện xuất hiện đầu tiên là một đoạn

chép trong sách Gia Định thành thông chí, (biên soạn hồi đầu thế kỷ XIX). Khi

nói về Tam Giang Nhà Bè, ở sách này tác giả Trịnh Hoài Đức (1765 - 1825) – vốn

là ngƣời sinh quán Biên Hòa, chỉ cho chúng ta biết Thủ Huồng là “Phú hộ thôn

Tân Chánh tên là Võ Thủ Hoằng”(45

) và cũng nói rõ là “Sau Tây Sơn vào chiếm,

(

44) Ðại Nam nhất thống chí –Lục tỉnh Nam Việt, bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo, Nha Văn hóa, S., 1973, tập

thượng, tr 47.

(2) Bulletin des Amis du Vieux Huế, 1915

(3) Nguyễn Hiền Đức: Lịch sử Phật giáo Đàng trong, NXB TP Hồ Chí Minh, 1995, Tập II, tr 255 – 264.

(45

) Gia Định thành thông chí, tập thượng, tr 28. Đại Nam nhất thống chí lại ghi là: Võ Hữu Hoằng, người Phước

Chánh.

(2) Theo Lương Văn Lựu, sđd, tr 108 – 109; và Lịch sử chùa Hoàng Ân - Bản thảo viết tay của sư bà trụ trì chùa

Hoàng Ân.

Page 207: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

207

Nhà Bè tan nát đến nay cũng không làm lại” tức “nhà bè”này tồn tại đến cuối thế

kỷ XVIII (1776 Tây Sơn vào Gia Định lần đầu; 1786 Tây Sơn vào Gia Định lần

cuối trụ lại đến 1788). Chi tiết này cho phép chúng ta đoán định rằng Thủ Huồng

có thể là ngƣời sinh ra vào cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII. Ngôi chùa tƣ này

cũng cùng số phận với các di tích khác, nay di vật cổ còn lại là bộ tƣợng Di Ðà

tam tôn mà theo lời tục truyền là của vua Ðạo Quang (Trung Quốc) dâng cúng.

Ðây là bộ tƣợng nhập cảng duy nhất đƣợc nói đến ở Cù Lao Phố.

3.5 Một ngôi chùa khác mà tên gọi của nó cũng bắt nguồn từ một

truyền thuyết huyền hoặc: chùa Hoàng Ân. Đây là một ngôi chùa làng, theo tác giả

Biên Hòa sử lược là một am tự đƣợc dựng lên vào năm Kỷ Dậu (1729) (2).

Nói chung lời tuyền tụng và những gì còn lại ở chùa Hoàng Ân cho thấy đây

là một ngôi chùa cổ, song việc xác định niên đại Tây Sơn là điều khó. Rõ rệt, đây

là ngôi chùa làng, hiểu theo nghĩa là một trú sở của các chƣ Phật, Bồ Tát lẫn tập

hợp thần linh dân dã tiêu biểu cho tổng thể văn hóa – tín ngƣỡng của ngƣời dân Cù

Lao Phố trong quá khứ.

3.6 Ngòai các ngôi chùa kể trên, Cù Lao Phố còn chùa Tịnh Lâm (do

Yết Ma Tâm Thọ (1840 - 1905) lập và tịnh xá Thắng Liên Hoa của hệ phái “Tịnh

độ non bồng / “Mẹ Trầu” thành lập từ những năm 1960, nay đang đƣợc xây dựng

lớn theo kiểu tháp đa giác bằng vật liệu kiên cố.

4. Ngoài các đền miếu và chùa, Cù Lao Phố là một xã có số lƣợng đình miếu

nhất nhất nhì so với các xã khác ở Nam bộ: 11 đình. Xã Hiệp Hòa nhƣ tên gọi của

nó, không chỉ là sự hiệp nhất của ba làng Nhứt, Nhị, Tam Hòa mà là sự hiệp nhất

11 thôn / làng cũ thành một xã với mỗi thôn cũ là một ngôi đình.

Tổng số thôn/ làng ở đất Đồng Nai đƣợc kê ra đầu tiên là trong Phú Biên

tạp lục (1776) và tên các thôn/ làng ở Cù Lao Phố đều đƣợc nêu ra sớm nhất trong

Gia Định thành thống chí (đầu thế kỷ XIX). Điều này đã cho phép chúng ta đoán

định là ít nhất một số các ngôi đình ở Cù Lao Phố có thể đƣợc xây dựng muộn sau

khi lập làng tức thế kỷ XVIII hay sớm hơn là vào thế kỷ XVII theo sự đòi hỏi của

những ngƣời đi khai hoang vì sự cần thiết một thiết chế thôn văn hóa làng truyền

thống: có làng là phải có đình thờ Thành Hoàng, có chùa, có miếu. Tất nhiên,

ngoài đình Bình Kính có nguồn gốc tứ đền Lễ Công thờ Nguyễn Hữu Cảnh có cứ

liệu để xác định lập từ năm 1700, hay đầu thế kỷ XVIII, còn các đình khác thì

không có cứ liệu về niên đại thành lập. Kết quả điều tra thực tế, các niên đại đƣợc

ghi trên bao lam, hoành phi, trang thờ, mặt tiền dẫn ra sau đây là các dữ liệu tham

khảo về niên đại của các di tích hiện tồn:

Hƣng Phú: 1938

Tân Giám: 1933

Bình Tự: 1933, 1936

Bình Xƣơng: 1929, 1960

Tân Mỹ: 1931 (Tân Dậu niên)

Page 208: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

208

Thành Hƣng: 1921

Bình Kính: 1923, 1927, 1928

Bình Hòa: 1919 (khám thờ tiên sƣ), 1939, 1964 (trùng tu)

Long Qƣới: 1995

Hòa Qƣới: 1995

Bình Quang: 1942

Nói chung, các đình ở Cù Lao Phố là những di tích kiến trúc đƣợc sửa chữa

và tái thiết liên tục. Ở mỗi đình, kiến trúc và các bộ phận của kiến trúc, cũng nhƣ

khám thờ, bao lam, hƣơng án, đồ tự khí đều không có cùng niên đại, tức có cái cũ

xƣa còn bảo lƣu cùng những cái mới. Tuy nhiên, trong cái mới, hẳn luôn bảo thủ

cái cũ – cái truyền thống, và ở các di tích này nổi bật là thức kiến trúc tứ trụ của

đình. Đó là điều khác mà so với nhà ở - một loại kiến trúc luôn tiến triển theo yêu

cầu sinh hoạt, theo sự phát triển của những vật liệu xây dựng mới và tiện nghi thời

thƣợng của cuộc sống thời đại.

II. ĐẶC ĐIỂM KIẾN TRÖC: NHÀ CỔ, ĐÌNH, CHÙA

1. Những kiến trúc phố xá của giới thƣơng buôn và chủ vựa thời Cù Lao Phố

còn là “xứ đô hội” đƣợc chép trong thƣ tịch Hán – Nôm ngày nay hầu nhƣ không

còn dấu vết. Qua khảo sát thực tế ở vùng đất này, ngoài chùa Ông – Thất Phủ cổ

miếu, thì những kiểu thức kiến trúc đều thuộc truyền thống “kiến trúc Đàng Trong”

và thêm vào đó là những pha trộn do chịu ảnh hƣởng kiến trúc châu Âu. Đặc điểm

căn bản kiến trúc nhà ở là: 1/ Bộ khung sƣờn chủ yếu là kiểu và kèo rường (đâm

trính, xiên trính) hay rọi (nọc ngựa); 2/ Bố cục các ngôi nhà trong chỉnh thể kiến

trúc nhà ở gồm các dạng chữ đinh, sắp đọi và rất hiếm là dạng núp lúm.

Mật độ các ngôi nhà thuộc loại nhà mà ngày nay chúng ta gọi là nhà cổ ở Cù

Lao Phố tƣơng đối cao. Đây là đối tƣợng tìm hiểu chính của bài viết này.

Đƣợc gọi là nhà cổ, song trong thực tế, hầu hết chúng đều đƣợc xây dựng từ

những thập niên cuối thế kỷ XIX và những thập niên đầu thế kỷ XX. Chẳng hạn:

nhà ông Nguyễn Văn Lộ (1891), nhà bà Nguyễn Bạch Liên (khoảng 1895), nhà cô

giáo Nguyễn Thị Hòa (1914), từ đƣờng họ Tống Đình (1897), nhà thờ họ Trƣơng ở

Bình Tự (1930), Nguyễn phủ đƣờng (1931), nhà ông Đinh Văn Trơn (1933), Đào

phủ đƣờng (1950)… Và trong số đó, một vài ngôi nhà đã đƣợc trùng tu làm thay

đổi một số những thành tố kiến trúc: bỏ chái biến thành nhà ba gian hai đầu xông,

thay vách gỗ bằng gạch, thay hàng cột hiên bằng vật liệu mới…

Nhìn chung, nhà cổ ở Cù Lao Phố tuy mật độ có cao, nhƣng qui mô từng

ngôi nhà không có một ngôi nhà nào to lớn đồ sộ nhƣ các nhà cổ ở một số tỉnh

miến Tây Nam bộ; thậm chí ngay cả các ngôi nhà cổ ở Bửu Hòa bên kia sông cũng

có qui mô bề thế hơn nhà ở Cù Lao Phố. Nói cách khác các ngôi nhà cổ ở đây có

qui mô trung bình, thậm chí có cái thuộc loại nhỏ.

Page 209: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

209

Một đặc điểm phổ biến là các ngôi nhà vách đều đóng bằng ván, hoặc dọc,

hoặc ngang (bổ kho). Các ngôi nhà xây dựng muộn hơn nhƣ Nguyễn phủ đƣờng

hay nhà thờ họ Đào có vách gạch và chịu ảnh hƣởng nhiều của kiểu biệt thự Tây

mặc dù bộ khung vẫn bảo thủ thức cột kèo truyền thống.

Đặc điểm ngôi nhà cổ, cũng nhƣ ngôi nhà truyền thống của ngƣời Việt, là ở

đó chức năng thờ tự có vị trí quan trọng hơn là việc đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt.

Chính vì vậy, việc trang trí nội thất tập trung ở phần phía trƣớc của các gian nhà

chính – nơi đặt khám thờ các gia thần và bàn thờ gia tiên: ông bà, cha mẹ. Biểu

hiện văn hóa truyền thống này có khác với ngôi nhà hiện đại - ở đó, phòng khách

là nơi biểu hiện tập trung “gia cảnh” của gia đình.

Trong các ngôi nhà cổ ở Cù Lao Phố, việc trang trí nội thất ở phần không

gian chính yếu này đƣợc chú ý hàng đầu là mảng dài suốt cả ba gian nối liền dãy

các đầu cột hàng nhứt. Mảng này đƣợc cấu tạo bởi 4 cây cột chính nên luôn đƣợc

chia thành 3 mảng nhỏ: mảng chính ở gian giữa và hai mảng phụ ở hai căn bên,

luôn đƣợc thiết kế đối xứng nhau. Ở mỗi mảng trang trí này là một thể kết hợp

trong các dãi nằm ngang gồm các “khuôn bông” vuông và chữ nhật; ở đó có thể là

các bức chấn song đơn giản hoặc các trụ đứng dạng “con lơn” bằng gỗ tiện, các

bức chạm thủng hình kỹ hà hoặc hoa văn tự dạng, hoa lá, chim bƣớm, các bức

chạm lộng các đề tài truyền thống: long – phụng, lân – rùa, lựu – phật, thủ, hoa phù

dung, hoa mẫu đơn, sen – cá, mai điểu, tùng – lộc… Bên dƣới mảng trang trí này

(gới hạn bởi cây xà ngang và hai cột) là một bao lam (cửa võng) áp sát vào cột,

hoặc gắn vào một khuôn đổ có gờ chỉ nổi hay mảng phù điêu ngỏ chạm trổ công

phu.

Trong đa phần trƣờng hợp, nơi thờ tự tổ tiên thƣờng là các tủ thờ đặt giữa bà

gian nhà chính và các gia thần đƣợc thờ ở khám thờ đặt trên trang cao sát mái, sâu

vào phía sau. Các tủ thờ, đặc biệt khám thờ, là những thành tố có quan hệ hữu cơ

với yêu cầu thờ tự cũng nhƣ trang trí nội thất. Khám thờ là thành tố tạo nên cái

“nghi dung”của nội thất. Do đó, nó đƣợc chạm trổ công phu ở mặt trƣớc, gồm một

trán thƣợng chạm nổi đề tài lƣỡng long tranh châu với một khung vuông ghép bằng

các ô chạm lộng và hai bên là đôi liễu.

Các thành tố kiến trúc khác, trong một số trƣờng hợp, cũng đƣợc chạm khắc

tỉ mỉ và chính điều này đã tăng cƣờng giá trị mỹ thuật cho các ngôi nhà cổ.

Trong hầu hết các trƣờng hợp, các đầu kèo đều là kèo vỏ đậu (còn gọi là kèo

đoạn, kèo hông tượng) là loại kèo đƣợc đẽo gọt theo hình dáng và kiến thức nhất

định, đặc biệt là đầu kèo đôi khi tạo dáng cái “đầu rồng”. Các đầu kèo ló ra ngoài

lại có một tấm chắn gọi là lá dung luôn đƣợc chạm trổ công phu với những đƣờng

viền trang trí dây lá cách điệu và các mảng phù điêu thể hiện nhiều đề tài phong

phú. Tƣơng tự, trính cũng đƣợc đẽo gọt theo kiểu thức nhằm tạo nên một độ cong

hình uốn lƣợn; trỏng cũng đƣợc tiện thành bộ chày cối có phần cách điệu. Trong

một số trƣờng hợp, mà tiêu biểu là nhà thờ họ Tống Đình, mặt dƣới các kèo đƣợc

bào xoi thành những đƣờng chỉ song song, bên trong điểm khuyết các mảng phù

Page 210: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

210

điêu thấp: Mái – Điểu, Lan – Điệp, Trúc – Tước, Cúc – Điệp khiến cho mỗi đoạn

kèo là một sản phẩm điêu khắc mỹ thuật.

Nói chung, tập hợp các mảng trang trí, các bộ phận kiến trúc đƣợc tạo hình

và chạm khắc cùng các loại liễn đối, các hoành phi… đã tạo nên hiệu quả trang trí

nội thất của ngôi nhà truyền thống. Tất nhiên, những gì trình bày trên đây là đặc

điểm phổ biến cho các ngôi nhà cổ ở xứ ta và ở Cù Lao Phố.

2. Đình ở Cù Lao Phố; xét một cách tổng quát là những cụm kiến trúc có qui

mô vừa và kết cấu bố cục của các thành tố kiến trúc chính đa phần là theo kiểu sắp

đọi (chữ tam, chữ nhị) gồm một thảo bạc ở phía trƣớc có chức năng nhƣ một tiền

điện để đặt chiêng, trống, mõ; kế đó là ngôi nhà chính thờ tự thần và các đối tƣợng

phối tự khác và đã dành một phần ba hay một phần tƣ (phía sau nơi thờ thần) để

thờ các nhân vật lịch sử có công với thôn làng: tiền hiền, hậu hiền, tiền bối, hậu

bối, hƣơng chức quá vãng… Sau ngôi nhà chính là một ngôi nhà dài ba gian hay

năm gian, có hoặc không có trái để làm nhà hội và bếp.

Đặc trƣng của kiến trúc đình, chùa truyền thống là chính điện phải bó buộc

theo nhà tứ trụ - tức là thức nhà rường, nhƣng lòng căn trung tâm vuông vức bốn

cạnh đều nhau (nhà rƣờng để ở là hình chữ nhật). Bốn cột chính (tứ trụ) câu kết

bằng bốn cây trính và xà tạo nên một không gian khối lập phƣơng đáy vuông và từ

đó phát triển đều ra bốn phƣơng, tám hƣớng bằng các kèo đấm và kèo quyết. Kiểu

nhà tứ trụ đƣợc biện giải là mặt bằng đƣợc chia ra 4 phần chữ nhật tƣợng trƣng cho

âm, dương, thiếu âm, thiếu dương nên đƣợc gọi là “tứ tƣợng”, tự nó có ý nghĩa

biểu trƣng thiêng liêng dành cho kiến trúc tín ngƣỡng – tôn giáo. Một kiến giải

khác cho rằng kiểu nhà tứ trụ có nguồn gốc từ kiểu kiến trúc phù đồ/ tháp/ stupa

của Phật giáo. Dù sao đi nữa thì ở Cù Lao Phố kiểu nhà tứ trụ chỉ dành cho kiến

trúc đình, chùa, đền, miếu và tuyệt đối kiêng kỵ dùng kiểu kiến trúc này cho nhà ở,

sinh hoạt đời thƣờng.

Page 211: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

211

Việc trang trí ngoại thất đình làng ở Cù Lao Phố nói chung là đơn giản: “một

cặp lƣỡng long tranh châu” bằng gốm màu xanh lục trên bờ mái, một con cá hóa

long hay một con phụng ở bốn đầu đạo, hoặc cặp lân đặt ở phía trên bờ hiên… để

biểu thị đây là một ngôi đình – gọi là “cổ miếu” của thôn/ ấp. Trừ đình Bửu Hòa và

đình Bình Kính (đƣợc sửa chữa và tái thiết trong những thập kỷ gần đây làm cho

chúng trở thành một sản phẩm tân trang mà ở đó, cái mới có phần hình thức không

hài hòa với di tích cũ), còn hầu hết các đình làng đều không lạm dụng các màu sắc

lòe loẹt tân kỳ mà dung dị, trầm tịch.

Việc trang trí nội thất trong phần lớn các đình đều theo kiểu thức truyền

thống là sử dụng các phƣơng pháp chạm khắc gỗ và sơn son thiếp vàng – kể cả

một số đình mà cột, trính đã xây đúc bằng gạch, xi măng. Việc sử dụng các loại

sản phẩm điêu khắc gỗ để trang trí nội thất đình là một yêu cầu mỹ thuật lý tƣởng

có tính chất truyền thống. Chính vì vậy, cho đến những thập niên 60, 70, mặc dù

đã dùng xi măng để tạo tác một số bệ thờ, hƣớng án, xây cột, tô tƣờng và đắp phù

điêu để trang trí thì việc giữ lại các sản phẩm điêu khắc gỗ vẫn đƣợc chú ý và hơn

thế, ngƣời ta còn tiếp tục rƣớc thợ chạm gỗ tạo nên nhiều sản phẩm điêu khắc mới

cho đình, hƣơng án, lỗ bộ, bao lam, khám thờ, bài vị, liễu… Điều này giải thích sự

cộng tồn của nhiều sản phẩm điêu khắc gỗ có niên đại khác nhau trong một ngôi

đình ở Cù Lao Phố cũng nhƣ tính chất đa phong cách của sản phẩm điêu khắc này.

Kỳ pháp trong điêu khắc trang trí ở đình Cù Lao Phố thật phong phú. Kỹ

thuật chạm lộng ở đây gồm các mảng trổ thủng đơn giản để tạo nên các khuôn

bông với các dạng hoa văn cổ (lôi văn, bát kiết, qui bối) hay dây lá cách điệu. Các

báo lam thì đƣợc tạo tác cả bằng kỹ pháp chạm lộng mặt bẹt, chạm lộng mặt vênh

và có trƣờng hợp mặt sau là một nền hoa văn: chạm lộng trên nền hoa văn.

Chạm lộng là kỹ thuật phổ biến cho các bao lam cột, bao lam thần vọng ở

mặt tiền các khám thờ, câc khuôn pa-nô tạo nên các dãi trang trí nối liền các đầu

cột với xà ngang lên tận đòn tay mái, các mặt hƣơng án. Các khuôn đố viền quanh

bao lam cột phổ biến là các dãi phù điêu dây lá cuộn và các dạng hồi văn, hay dây

lá cách điệu có chức năng trang trí viền bìa, đóng khung cho các bao lam chạm

lộng.

Phù điêu là kỹ pháp đƣợc lạm dụng nhiều trong việc tạo nên cho các bức đại

tự, các bức hoành và một số liễn mà đề tài chiếm đại đa số là rồng ẩn mây, rồng

tranh châu, rồng cuộn. Trên nền các hình rồng mây này cà các đại tự, đa số là chữ

chạm nổi chân phƣơng.

Chữ Hán theo lối thảo phần lớn lại thấy đƣợc thể hiện theo kỹ pháp chạm

chìm trên gỗ. Về loại này, nói chung “thƣ pháp” có một số bức đạt trình độ điêu

luyện nhƣ cái bài vị ở đình Tân Giám, có thể coi là xuất sắc.

Ngoài các sản phẩm điêu khắc gỗ, còn có các đồ án trang trí vẽ bằng sơn

trên bình phong, vách tƣờng, trên bệ thờ hay trên các hƣơng án đúc bằng xi măng.

Ðây là những bức vẽ mà đề tài vẫn chƣa thoát khỏi các đề tài truyền thống: Mai,

Page 212: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

212

lan, cúc, trúc; dây lá “triền tri”, long mã phù đồ, lân giỡn tiền điếu, lân mẫu xuất

lân nhi, phụng vũ, long hổ hội… So với các tranh vẽ dân gian hiếm hoi còn xót lại

ở Đồng Nai, Bình Dƣơng có thể nói đây là những hồi quang của hội họa truyền

thống mà đa phần đã mai một hay còn bảo lƣu với những biến thái thành sự pha

trộn không thuần nhất cả về qui pháp lẫn phong cách tạo hình.

Nói chung các sản phẩm chạm khắc, trang trí ở đình làng Cù Lao Phố là một

tập thành đa tạp khó có thể đƣa ra một nhận xét chung nhất hoặc chỉ ra một xu

hƣớng nào cụ thể. Chúng nhƣ một tập hợp số lƣợng mà không chấp vào sự thuần

nhất.

III. NGHỆ THUẬT TẠO TƯỢNG Ở CÙ LAO PHỐ.

Bộ tƣợng Di Ðà tam tôn ở chùa Thủ Huồng và kế đó là pho tƣợng Di Ðà lớn

ở chùa Ðại Giác là những pho tƣợng đƣợc ngƣời đời nhắc đến nhiều nhất so với

các tƣợng thần Phật hiện tồn ở các chùa, miếu trên Cù Lao Phố. Bộ tƣợng Di Ðà

tam tôn nổi tiếng là nhờ gắn bó với sự tích Thủ Huồng, theo đó chúng là các pho

tƣợng đƣợc vua Ðạo Quang – ngƣời đƣợc coi là hậu thân của Thủ Huồng – dâng

cúng. Tƣơng tự, pho tƣợng Di Ðà ở chùa Ðại Giác là pho tƣợng đƣợc công chúa

Nguyễn Thị Ánh (hay vua Gia Long) dâng tặng…. Nói chung, đây không phải là

hai trƣờng hợp duy nhất về tƣợng ngoại nhập mà thực ra, trong kho tàng tƣợng ở

Cù Lao Phố các “sản phẩm ngoại nhập” chiếm một tỉ lệ quan trọng. Các biểu

tƣợng sành men màu trên nóc chùa Ông là sản phẩm của lò gốm Bửu Nguyên (Cây

Mai – Chợ Lớn), các sản phẩm điêu khắc đá ở di tích này là sản phẩm của thợ đá

Bửu Long… là những ví dụ khác. Do vậy, trong một chừng mực nghiêm ngặt

tƣơng đố, chúng tôi xin lần lƣợt điểm qua các loại tƣợng làm bằng cách chất liệu

khác nhau trong kho tàng tƣợng thờ hiện tồn ở chùa miếu Cù Lao Phố.

1. Cứ theo truyền thuyết dân gian kể về chùa mục đồng Phƣớc Hội thì pho

tƣợng nặn đất sét còn cất giữ ở đây là một bằng chứng của việc tạo tƣợng dân dã

thời xa xƣa lúc vùng đất này mới đƣợc khai hoang. Theo tài liệu thƣ tịch, chùa

Phƣớc Hội đƣợc nói đến sớm nhất là ở Ðịa bạ Minh Mạng (1836), tức chùa đã lập

trƣớc đó. Bao lâu thì không rõ, ở đây pho tƣợng đất chỉ cho chúng ta biết là ở Cù

Lao Phố ngƣời dân đã tự tạo tƣợng để thờ. Ðiều này cũng rất dễ nhận ra ở các

tƣợng gỗ trong các chùa khác trên Cù Lao nhƣ tƣợng Hộ Pháp, tƣợng Quan Công,

Châu Thương, và Quan Bình… Ở chùa Hoàng Ân hay hai pho tƣợng Phật Thích

Ca sơ sinh ở chùa Thủ Huồng….

Nói chung, các pho tƣợng này có tỉ lệ hoặc lùn tịt (chùa Hoàng Ân) hoặc các

chi tiết cơ thể bất xứng không theo một chuẩn tắc nào và đặc điểm nổi bật là tƣớng

diện cực kỳ ngô nghê thô phác.

2. Tính chất thô phác này còn thể hiện trên hầu hết các tƣợng gỗ của các

chùa Phƣớc Hội, Hoàng Ân mặc dù việc tạo tƣợng đã có phần định hình về thế

dáng và hình tƣớng cũng nhƣ việc áp dụng kỹ thuật sơn xe để trang trí hoa văn trên

trang phục, tức là đã đƣợc thực hiện bằng kỹ pháp chuyên nghiệp.

Page 213: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

213

Sự định hình về thế dáng và hình tƣớng các pho tƣợng màu nổi bật là sự

thiên về hình khối vuông vức tạo nên phong thái đĩnh đạc và có phần cứng nhắc

không sinh động – đặc biệt thể hiện rõ ở các pho tƣợng ngồi ngai, gọi theo thuật

ngữ chuyên môn là ỷ tọa (Diêm Vƣơng, Ngọc Hoàng) và kế đó là các pho tƣợng

đứng (Nam Tào, Bắc Ðẩu, Phán Quan). Ðây là kiểu tƣợng mà ngày nay chúng ta

không có cứ liệu để xác định niên đại cũng nhƣ tác giả của nó. Tuy nhiên, dƣờng

nhƣ chúng đƣợc tạo tác từ một phái thợ duy nhất và những bƣớc tiến triển từ từ của

nó về kỹ pháp tạo hình thể hiện trên tƣợng ở các chùa dễ nhận ra. Chẳng hạn các

bộ tƣợng Diêm Vƣơng ở chùa Hoàng Ân và chùa Phƣớc Hội cho thấy sự khác biệt

không nhiều và đến bộ tƣợng này ở chùa Ðại Giác thì mọi chi tiết đã thấy già dặn

hơn: khuôn mặt đã thoát khỏi hình khối vuông vức để tạo nên khuôn mặt chữ

“dụng”của nhà vƣơng giả, nếp xếp trang phục mềm mại hơn và thần thái tƣợng đã

đƣợc xử lý kỹ càng hơn, sự trang nghiêm đã thay thế sự ngây ngô.

Sự biến triển từ loại tƣợng gỗ dân dã thô phác đến trình độ có ít nhiều già

dặn hơn dƣờng nhƣ do một phái thợ tại chỗ hoặc trụ lại hành nghề ở Cù Lao Phố

một thời gian dài mà thời điểm đạt đến trình độ nghiêm túc nhất định, có lẽ là năm

1943 nhƣ niên đại đƣợc ghi trên pho tƣợng Tiêu Diện Ðại Sĩ ở chùa Ðại Giác. Giả

định này có thể tìm đƣợc chứng cứ thuyết phục khi so sánh tƣợng Tiêu Diện Ðại Sĩ

này với tƣợng Tiêu Diện Ðại Sĩ ở chùa Phƣớc Hội: vừa có những đặc điểm tƣơng

đồng vừa có những cải đổi hoàn thiện hơn và ngay cả hai trƣờng hợp cá biệt là

tƣợng Phật Di Lặc (Phƣớc Hội) và tƣợng X (không xác định đƣợc tên gọi ở chùa

Thủ Huồng) là những pho tƣợng gỗ đẹp đáng đƣợc lƣu ý, nhƣng cũng còn đọng

dấu ấn của phong cách thô phác dân dã và chƣa có thể gọi là chuyên nghiệp.

3. Loại tượng gỗ có phong cách tạo hình thuần nhất rõ rệt ở Cù Lao Phố là

loại tƣợng gỗ cỡ trung thấy phổ biến ở các chùa Phƣớc Hội, Tịnh Lâm và một vài

tƣợng ít ỏi ở các chùa khác. Ðây là loại tƣợng thấy khá nhiều ở các chùa miễu

vùng Thuận An, tỉnh Bình Dƣơng. Quan điều tra thực tế, chúng ta đƣợc biết loại

tƣợng này do thợ điêu khắc gỗ vùng Dĩ An tạo tác.

Đặc điểm chính yếu của loại tƣợng này là nghệ nhân áp dụng thủ pháp dùng

nhát đục để hoàn chỉnh tác phẩm, tức các mảng lớn nhỏ đều không đƣợc cạo láng.

Thủ pháp này đã tạo nên vẻ thô phác của tƣợng, nhƣng đồng thời lại biêu thị sự tài

hoa của việc làm chủ nhát đục của ngƣời tạo tác. Các tƣợng thuộc loại này đều có

bố cục vững vàng, tỷ lệ hợp lý và trong nhiều trƣờng hợp cá chi tiết về ấn quyết,

tọa thức, nhân diện… đã biểu thị vẻ đẹp nghệ thuật vừa hồn nhiên vừa già dặn.

Chính vì vậy loại tƣợng này là một tập hợp tƣợng mà qui pháp tạo hình của chúng

đã đƣợc xác lập vẻ độc đáo riêng: vừa ngô nghê nhƣ tƣợng dân gian vừa đạt đến

trình độ “cổ điển”của nghệ thuật tạo tƣợng chuyên nghiệp của thời kỳ sau này.

Ở loại tƣợng này, kỹ thuật sơn xe đã đƣợc dùng để tạo các cuộn tóc xoắn ốc,

chân mày cho các tƣợng Phật và các họa tiết hoa văn trang trí y phục, mũ, giày cho

các tƣợng thần (Bà và Cô Cậu, Tử Vi, Quan Công…) và tƣợng các thần vƣơng

Phật giáo (Diêm Vương, Phán Quan…). Tuy kỹ thuật này có góp phần làm nổi các

chi tiết cụ thể cho tƣợng, nhƣng chính nó đã làm mất đi sự tinh thuần nghệ thuật

Page 214: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

214

tạo hình và làm cho tƣợng trở nên cầu kỳ và huê dạng. Mặt khác, chính vì việc ỷ

lại và lạm dụng việc trang trí các chi tiết ngoại hình và hoa văn trang phục nên

khâu tạo tƣợng cũng bị xem nhẹ. Dựa quá nhiều vào các thứ phụ trợ thực sự đã

làm hỏng cái chính: tƣ thế, hình tƣớng và thần thái. Ở tập hợp loại tƣợng này, giá

trị nghệ thuật vẫn là các tƣợng gỗ trơn không dùng sơn xe để bắt chỉ hoa văn và

cũng không sơn màu lòe loẹt.

4. Ngòai tƣợng gỗ, tập hợp tƣợng gốm đất nung ở chùa Hoàng Ân và chùa

Thủ Huồng là tập thành đáng chú ý. Ðây là loại tƣợng có nguồn gốc địa phƣơng,

do những nghệ nhân bán chuyên nghiệp tạo tác vào đầu thế kỷ XX và hiện tồn ở

một số chùa ở Nam Bộ, tập trung nhất là vùng Biên Hòa, Thuận An (Bình Dƣơng).

Ở Cù Lao Phố, laọi tƣợng này đƣợc coi đủ bộ là ở chùa Thủ Huồng và ở chùa

Hoàng Ân là những pho tƣợng lẻ. Theo lời kể của vị trụ trì chùa Thủ Huồng, tác

giả bộ tƣợng ở chùa này là ông Mƣời Ảnh ở Tẩn Vạn tạo tác.

Đặc điểm của tƣợng gốm đất nung ở chùa Thủ Huồng là có kích cỡ tƣơng

đối lớn hơn các tƣợng cùng chất liệu thờ ở các chùa khác. Về mặt tạo hình, tƣợng

này tuy đã đƣợc khuôn đúc bởi những qui pháp đồ tƣợng học Phật giáo nhƣng sự

thể hiện vẫn hàm chứa sự phóng túng của phong cách tƣợng dân gian – đặc biệt là

các con vật cƣỡi của bộ La Hán cưỡi thú. Chính đặc điểm này đã tạo nên vẻ đẹp

thật thà và độc đáo của bộ tƣợng. Ở đây, một điều cần lƣu ý là kỹ pháp dựng hình

đa phần đều áp dụng kỹ thuật bệ dựa: Ghép hai khối lập phƣơng rỗng lại theo dạng

một bậc cấp, kế đó là ghép các bộ phận khác vào và rồi phủ các lát đất đƣợc tạo

dáng sẵn theo phƣơng pháp làm đồ mã hình nhân bằng giấy (46

). Rõ ràng kỹ pháp

tạo hình này hoàn toàn cho phép nghệ nhân gia giảm tọa nên tính độc bản của từng

pho tƣợng. Nói các khác các tƣợng gốm đất nung này không gặp phải sự đơn điệu

của tƣợng in khuôn hay rót khuôn của gốm mỹ nghệ sau này. Chính vì vậy, tập

hợp tƣợng gốm đất nung là những tác phẩm nghệ thuật đánh dấu một bƣớc tiến

triển trong lịch sử gốm Biên Hòa.

5. Khởi đi từ tƣợng mục đồng nặn bằng đất sét đến tƣợng gốm đất nung nói

trên đến đến các pho tƣợng ở chùa Phƣớc Long do các nghệ nhân tốt nghiệp

trƣờng Mỹ nghệ Biên Hòa tạo tác vào những năm 1940 đã cho thấy một sự liên tục

của truyền thống tạo tƣợng của các thế hệ dân cƣ ở Cù Lao Phố. Hiện tƣợng tự tạo

Phật tƣợng để thờ một mặt bắt nguồn từ lòng sùng tín của ngƣời dân ở đây và mặt

khác lại xuất phác từ thiên hƣớng nghệ thuật.

Chùa Phƣớc Long là ngôi chùa làng bằng lá tập từ hồi đầu thế kỷ, đến

khoảng năm 1943 – 1944 thì xây mới lại. Dịp này, các nghệ nhân trong xóm vốn

tốt nghiệp trƣờng Mỹ nghệ Biên Hòa trƣớc đó gồm các ông Nguyễn Văn Sáu (Sáu

U), Đào Văn Lƣơng, Nguyễn Văn Sảnh, Nguyễn Văn Lào… đã cùng nhau đắp bộ

tƣợng Di Đà tam tôn và các pho tƣợng Phật tọa thiền hiện còn thờ ở chùa. Đây là

các pho tƣợng đắp bằng xi măng, có kích cỡ lớn và đạt đến trình độ nghệ thuật

chuyên nghiệp, tuân thủ nghiêm túc các chuẩn tắc đồ tƣợng học Phật giáo.

(

46 ) Xem thêm Huỳnh Ngọc Trảng – Nguyễn Đại Phúc: Tượng gốm đất nung Đồng Nai – Gia Định, NXB Đồng

Nai, 1997.

Page 215: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

215

Ngoài các pho tƣợng lớn ở chùa Phƣớc Long, đội ngũ nghệ nhân Cù Lao

Phố, kể từ khi tốt nghiệp trƣờng Mỹ thuật Biên Hòa đến nay đã tạo tác nhiều sản

phẩm gốm sứ, đúc đồng – bao gồm đồ mỹ nghệ gia dụng, tƣợng gốm sứ, tƣợng

đồng và đồ tự khí. Trong số đó, nhiều nghệ nhân nổi tiếng, đặc biệt là ông Nguyễn

Văn Sảnh đƣợc thế nhân tôn là “bậc tiền bối của gốm mỹ nghệ”. Điều quan trọng

là họ đã hƣớng dẫn, đào tạo nên một đội ngũ con cháu tiếp tục theo đuổi các ngành

mỹ nghệ này.

5. Phần cuối của chƣơng này, chúng tôi dành để đề cập đến tập hợp tƣợng ở

Thất Phủ cổ miếu, một tập hợp tƣợng mà kiểu cách tạo hình có phần không thuộc

vào các loại tƣợng ở chùa Việt nói trên.

Xét về mặt chất liệu, tƣợng ở Thất Phủ cổ miếu là tập hợp đa chất:

Làm bằng giấy có tƣợng Triệu Huyền Đàn và Thái Tuế.

Làm bằng gỗ có tƣợng Quan Thánh Đế Quân, Châu Đại Tướng Quân,

Quan Thánh thái tử (Quan Bình), Thiên Hậu nguyên quân, Kim Huê thánh Mẫu,

Bà Mẹ Độ, Bốn Đầu công Phước Đức chính thần, Đô Thiện chí phú Tài Bạch tinh

quân, Quan Âm.

Tƣợng gốm đất nung gồm các tƣợng Cửu Thiên Huyền Nữ, Thiên Lý

Nhãn, Thuận Phong Nhĩ và tượng Bà Mẹ Sanh;

Tƣợng hợp chất xi măng: Bao Công, Tề Thiên Đại Thánh, Hiếu Tử (Thần

Tài âm phủ), Mà Phu và ngựa Xích Thố…

Nhƣ vậy, các tƣợng thờ ở ngôi cổ miếu này là một tập hợp khác đầy đủ các

thần linh chính yếu của cộng đồng ngƣời Hoa. Điều dễ nhận ra là chúng đƣợc tạo

tác trong những thời điểm khác nhau, rất khó xác định, nên kỹ pháp và phong cách

nghệ thuật đa dạng đến mức phức tạp.

Di tƣợng cổ nhất ở đây có lẽ là tƣợng Thiên Hậu Nguyên Quân bởi lẽ tƣợng

đƣợc tạo hình chủ yếu là đầu tƣợng và thân chỉ là khúc gỗ tròn không gia công

điêu khắc để tạo hình; tay và chân tƣợng là những bộ phận rời gắn vào vai và vào

hông bằng dây buộc, khuỷu tay và đầu gối ráp thành khớp bằng chốt gỗ, có thể cử

động đƣợc. Chính vì vậy, pho tƣợng này luôn cần thiết có trang phục bằng vải vóc

và mũ miện mới đạt đƣợc sự hoàn chỉnh cần thiết. Chính tính chất “hình nhân” của

tƣợng này đã biểu một kỹ pháp tạo hình thời phôi thai của nghệ thuật tạo tƣợng.

Các tƣợng gỗ khác còn lại đƣợc tạo hình bằng hai kỹ pháp: dựa vào ghế và

loại khác là tƣợng tròn hoàn chỉnh; song chúng lại có cùng phong cách nghệ thuật:

hình khối bề thế chạm khắc hoa văn y phục dày dặc.

Đặc điểm nhận diện của các tƣợng gỗ nói chung không biểu hiện rõ tính chất

Trung Quốc nhƣ tƣợng ở các chùa Hoa mà chúng ta thƣờng thấy. Đó là đặc điểm

có khác với tƣợng gốm đất nung hay tƣợng bồi bằng giấy. Các tƣợng gốm đất nung

ở đây là sản phẩm của thợ gốm Cây Mai (chợ Lớn) thuộc giai đoạn sớm. Còn hai

pho tƣợng giấy bồi là các di tƣợng độc đáo có giá trị nghệ thuật ở sử dụng công.

Page 216: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

216

Đây là laoị tƣợng làm bằng chất liệu dễ mục nát hiếm hoi còn xót lại ở di tích này.

Các tƣợng xi măng nói chung là thuộc loại mới tạo, giá trị nghệ thuật thấp.

Nói tóm lại tƣợng thờ ở di tích này có giá trị nghệ thuật không cao, nhƣng

đây là một tập thành phong phú có giá trị lịch sử đánh dấu sự tiến triển của nghệ

thuật tạo tƣợng của một vùng đất, một cộng đồng Minh Hƣơng.

Trên 300 năm lịch sử với đầy biến động với những xáo trộn dân cƣ lớn. Cù

Lao Phố là một nơi tụ tán các dòng chảy văn hóa. Chính vì vậy, những thành tựu

kiến trúc nghệ thuật và mỹ thuật truyền thống là một tập hợp phong phú và đa tạp.

Do đó, nỗ lực tìm hiểu đối tƣợng này theo một cái nhìn hệ thống trên đây chỉ có

thể đƣợc coi là phƣơng cách giả định, có tính chính xác tƣơng đối.

CHƯƠNG KẾT

CÙ LAO PHỐ:

PHỐ XƯA BẾN CŨ – CÕN ÐÓ MỘT TẤM LÕNG

Hồi nhỏ, từ lúc còn năm bảy tuổi ở xứ Quảng, tôi nghe mẹ tôi hát ru rằng:

Ghe bầu trở lái về đông,

Con gái theo chồng bỏ mẹ ai nuôi.

- Mẹ tui còn kẻ người nuôi,

Tui theo chú lái, tui xuôi một bề.

Dầu mà chú lái có chê,

Tui theo chú phụ, tui về Đồng Nai,

Đồng Nai gạo trắng như cò

Bỏ cha bỏ mẹ, xuống đò theo anh.

Và rồi năm ngoái trong chuyến điền dã quẩn quanh Cù Lao Phố, tôi đƣợc

nghe một bà lão hát cho nghe bài hát này, với chút ít đổi thay, khiến tôi hồ nghi

rằng bà lão nghệ nhân Đồng Nai này là hậu duệ của cô gái cuồng nhiệt trong bài

hát ru ở quê tôi hồi nhỏ thuở xa xƣa năm nảo năm nào… Ở đây, qua điều tra thực

tế, chúng tôi thấy khá rõ rằng, những hạt giống văn hóa Ngũ Quảng là một trong

những thứ trong mớ hành trang trên vai của những lƣu dân vào phƣơng Nam mở

cõi và nó đƣợc cấy trồng thổ ngơi vùng đất mới, phiêu bạt trên những dòng sông,

con rạch, đọng lại trên những bến bờ, những cù lao hoang sơ, mịt mù xanh xanh

ngàn lá, hòa với tiếng sấu kêu, cọp rống, tiếng chim hót trên cao con cái vùng dƣới

nƣớc…. Đồng Nai la vùng đất mới nên việc nó thừa hƣởng những thành tựu văn

hóa hàng nghìn năm của dân tộc là một tất yếu lịch sử. Bởi vậy mà tiết xuân ở

Nông Nại mới có tục hát sắc bùa, lệ cúng ông Táo vào đêm 23 tháng chạp, cuối

năm dẫy mả ông bà vào hạ tuần giáp Tết, nơi thịnh hành tục lấy thanh củi cháy dở

Page 217: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

217

treo trƣớc nhà để báo tin đẻ con trai hay con gái… Nhƣ tác giả Gia Ðịnh thành

thông chí đã ghi.

Bởi vậy nên giờ đây chúng ta còn nghe các câu hát ru Trung bộ với ít nhiều

biến đổi nhƣ câu hát dẫn trên hay nhƣ câu:

Chiều chiều ông Lữ đi câu

Cá ăn không giựt để lâu hết mồi.

Mà mỗi khi nghe hát, kí ức nhƣ mơ hồ nhơ nhớ câu hát nào đó quen quen:

Chiều chiều ông Lữ đi câu

Bà Lữ đi xúc, con dâu đi mò…

Bởi vì hát bội đã theo ngƣời đi khai hoang nên cuối thế kỷ XVIII, chúa

Nguyễn mới sai hầu cận “ra Trấn Biên bắt cá nhi” nhƣ trong Liệt truyện tiền biên

có chép.

Rồng chầu ngoài Huế,

Ngựa tế Đồng Nai.

Nước sông trong chảy lộn sông ngoài,

Thương người xa xứ lạc loài tới đây.

Câu cá dao trên, cũng nhƣ các câu ca dao cổ khác nhƣ câu:

Làm trai cho đáng nên trai,

Phú Xuân cũng trải, Đồng Nai cũng từng.

Tất cả hầu nhƣ để xƣng tụng xứ Đồng Nai, hàm ý so sánh với chốn kinh kỳ

Huế/ Phú Xuân; còn Bến Nghé, Sài Gòn ít đƣợc nhắc đến, hoặc có nhắc đến thì

cũng chỉ “ai về Gia Định, Đồng Nai thì về”. Điều này có lý do lịch sử là đất Đồng

Nai là địa đầu đƣợc khai phá sớm cũng vì ở Đồng Nai đã hình thành một đại phố

đầu tiên ở vùng đất mới.

Đó là do sự kiện bắt đầu vào năm 1679 có một số lƣợng binh dân ngƣời

Hoa, theo Trần Thƣợng Xuyên “đem binh thuyền chạy vô cửa biển Cần Giờ, rồi

lên đồn trú ở địa phương Bàn Lăng, khai phá đất hoang, lập phố chợ thương mãi,

giao thông với người Tàu, người Tây Phương, người Nhật Bản, người Đồ Bà.

Thuyền buôn tụ tập đông đảo. Phong hóa Trung Quốc từ đây bồng bột lan khắp

vùng Giản Phố vậy”.

Rõ ràng là phong hóa Trung Quốc đã tác động mạnh mẽ vào đời sống văn

hóa Đồng Nai. Ông quan Minh Hƣơng Trịnh Hoài Đức đã nhận định rằng: Hồi đầu

thế kỷ XIX ở Trấn Biên Hòa thì “nhà cửa của người văn vật cũng đông như phong

Page 218: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

218

tục Trung Quốc”. Nói cách khác, văn hóa Trung Quốc là chuẩn mực thời thƣợng

của tầng lớp thƣợng lƣu có học, còn tầng lớp dƣới thì nhƣ Đại Nam nhất thống

chí (biên soạn từ năm 1865 - 1882)thì: “ưa múa hát, sùng thượng đạo Phật. Lịch

tiết tuế thời: Chiều 30 tế dựng nêu, ngày Nguyên Đán bày lễ cúng trong 3 ngày rồi

lễ tạ, 7 ngày khai hạ. Tiết Đoan Dương đặt cỗ bàn ra cúng gia tiên. Tiết Trung thu

và Trùng Cửu thỉnh thoảng có nhà bày tiệc thưởng. Tiết tháng chạp tảo mộ. Mỗi

xã đều có sở đình, xuân thu cúng tế. Hôn nhân, các nhà sĩ phu thì làm đủ lễ, còn

nhà tầm thường hoặc làm lễ nhập chuế (ở rể) trước, rồi sau làm lễ cưới. Tế tự thì

làm theo Gia lễ Văn công, lại cũng theo nghi thức trai tiến của nhà Phật”.

Nhƣ vậy, văn hóa Trung Quốc lúc đầu thịnh hành cùng với sự phát đạt của

Nông Nại Đại Phố và sau đó, cũng suy yếu dần theo sự suy tàn của Cù Lao Phố.

Sau biến cố năm 1776: “chỗ này biến thành gò hoang, ngƣời ta tuy có trở về;

nhƣng dân số không còn đƣợc một phần trăm lúc trƣớc”. Ngôi chùa Ông - Quan

Đế tồn tại nhƣ một vật chứng lịch sử có phần cách biệt với tập tục tín ngƣỡng của

cộng đồng cƣ dân Việt ở đây vốn đã gắn bó với thiết chế văn hóa – tín ngƣỡng của

thôn xã truyền thống là đình – chùa – miếu – võ và với các hình thức lễ hội của

mình.

Trong thực tế, Cù Lao Phố bắt đầu suy tàn kể từ khi nhóm khách thƣơng

Phƣớc Kiến do Lý Văn Quang tự xƣng là Giản Phố Đại vƣơng, mƣu đồ bạo loạn

đánh úp dinh Trấn Biên. Khâm sai Cai đội Nguyễn Cƣ Cẩn đã chống trả và rồi sau

đó, quan quân đến trấn áp: bắt đƣợc bọn Lý Văn Quang gồm 57 tên trục xuất về

Trung Quốc. Nhắc lại chuyện này ở đây chúng tôi muốn lƣu ý đến cái mốc 1747;

thời điểm văn hóa Trung Hoa bắt đầu mất dần cái khí thế “bồng bột lan khắp vùng

Giản Phố” nhƣ trƣớc đó và đằng sau cuộc xung đột võ trang này, bộc lộ cái khí

phách cứng cỏi và quyết liệt của vị võ tƣớng miền biên viễn Nguyễn Cƣ Cẩn. Câu

chuyện kể về con ngựa của vị Khâm sai Cai đội này dƣờng nhƣ có vƣơng vấn chút

huyền hoặc của con ngựa Xích Thố, nhƣng ở đó đã hiển lộ cái quan niệm “sinh vi

tướng, tử vi thần” có lẽ đã tồn tại phổ biến trong cộng đồng lƣu dân ở vùng đất

mới, chí ít cũng đã định hình từ năm 1700 với việc thiết lập một loạt các đền thờ lễ

công Nguyễn Hữu Cảnh mà đến nay đó là cái còn lại sau khi lịch sử trải qua bao

cảnh dâu bể, tang thƣơng.

Nếu chúng ta chấp nhận định nghĩa “văn hóa là cái còn lại sau khi tất cả đã

mất đi” thì những hình bóng của những ngƣời bậc hữu công nơi biên viễn ấy là

những gì thiêng liêng hơn cái gọi là “kí ức lịch sử.”

Một câu chuyện khác là chuyện kể về Ký lục Trấn Biên Đặng Đại Độ lại

biểu hiện khí phách cƣơng trực của lớp kẻ sĩ hồi cuối thế kỷ XVIII đối với bọn

quan lính nhũng lạm “cậy thế khinh ngƣời, làm nhiều điều bậy bạ”. Độ sai căng

chúng ra đánh chết, đem treo ở cửa chợ, rồi tự mặc áo ngắn, đeo gông đi bộ về

Page 219: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

219

kinh chịu tội. Câu chuyện ghi trong Đại Nam liệt truyện tiền biên mà độc giả đôi

khi đọc đến thấy dâng lên trong lòng mỗi ngƣời một niềm tôn kính đến phải cúi

đầu và khiến chúng ta liên tƣởng rằng dƣờng nhƣ có một dòng nhiệt huyết chảy

băng qua thời gian để đến với một ngƣời con gái ở bên kia Cù Lao Phố: Bà Thủ

khoa Nghĩa, non một thế kỷ sau.

Trở lại Cù Lao Phố, tôi muốn nhắc đến một câu chuyện khác là sự tích chùa

Hoàng Ân:

“Xưa có hai vợ chồng cùng mắc bệnh phong hủi đến xin tá túc, sư trụ trì lập

một lều nhỏ ở góc vườn để hai vợ chồng tá túc và ngày ngày đích thân đem cơm

cho họ ăn. Một hôm bận đi hành hương xa, sư trụ trì – vốn là một người có tài tiên

tri – dặn các sa di ở chùa chăm nom cho khách chu đáo. Thế nhưng khi chú tiểu

bưng cơm cho hai vợ chồng người ấy, thấy họ bị bệnh lở lói lấy làm ghê tởm nên

quay mặt nhổ một bãi nước bọt. Tủi thân, hai vợ chồng người khách nọ nhảy

xuống giếng của nhà chùa tự tử.

Khi vị sư trở về thì chuyện đã rồi, thấy trong lều chỉ còn sót lại một ngón

chân và một ngón tay, sư trụ trì nhặt lấy, gói lại đặt vào hũ để dưới bàn thờ tổ và

dặn các đệ tử rằng khi mình đã viên tịch, nếu ai đến chùa hỏi chuyện cũ thì trao lại

cái hũ cho họ. Quả nhiên, hai mươi năm sau có hai vợ chồng khách lạ đến chùa

hỏi dò về chuyện cũ. Các môn đệ theo lời dặn của thầy, xin xem rõ tay chân thì

quả nhiên người chồng thiếu mất một ngón tay và người vợ thiếu mất một ngón

chân, bèn trả lại cái hũ cho họ. Hai vợ chồng đến trước Phật điện khấn nguyện rồi

ráp ngón chân, ngón tay vào thì tự nhiên lành lại…

Sau đó, nhà chùa nhận được sắc chỉ của vua. Đọc xong mới biết hai vợ

chồng cùi ấy là Hoàng tử và nhà vua gởi chỉ là để tạ ơn nhà chùa. Từ đó, cái chùa

lá mới cải đổi tên là chùa Hoàng Ân.”

Ở câu chuyện, đàng sau cái chủ đích nhắm đến việc giải thích cái tên của

một ngôi chùa đã ánh lên một tấm lòng nhân hậu của vị trụ trì vô danh mà ngày

nay còn lƣu truyền lại nhƣ một thông điệp về chuẩn tắc đối nhân xử thế.

Ở một sáng tác dân gian Cù Lao Phố mà ai cũng biết là truyện Thủ Huồng

cũng hàm chứa một bài học khuyến thiện mà đó đây là các di tích chùa Phúc Thọ,

chiếc cầu bắt qua con rạch nhỏ, ngã ba sông Nhà Bè vẫn còn đó để cố chứng thực

cho một sự thật vô hình, xiển dƣơng cho cái đạo lý ở hiền gặp lành pha lẫn chút ý

vị của lẽ nhân quả nhà Phật, và ngƣợc lại, kéo một dải dài bên dòng sông Đồng

Nai ấy cũng cái nhân tâm của một ngƣời gốc ở làng Tân Chánh mà trở thành danh,

thành văn hóa.

Cù Lao Phố trải qua hơn ba trăm năm với biết bao dời đổi. Phố xƣa, bến cũ

đâu còn; nhƣng mãi còn đó một tấm lòng ẩn vào chòm cây kẽ lá, để dấu đâu đó nơi

mái ngói chùa xƣa, đầu cầu bến nƣớc và thi thoảng nghe nhƣ còn đọng lại trong

tiếng chuông chùa mênh mang trôi theo dòng nƣớc trong xanh biếc.

Page 220: Cu lao pho Lich su va van hoa III.pdf

220

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 2

Chƣơng mở đầu

KHỞI NGUYÊN CÙ LAO PHỐ 3

Phần thứ nhất

TỰ NHIÊN VÀ NHÂN VĂN CÙ LAO PHỐ 9

Phần thứ hai

KINH TẾ VÀ XÃ HỘI CÙ LAO PHỐ 28

Phần thứ ba

NẾP SINH HOẠT VĂN HÓA VÀ TÍN NGƯỠNG 70

Phần thứ tƣ

NGHỆ THUẬT DÂN GIAN VÀ TRUYỀN THỐNG 126

Chƣơng kết

CÙ LAO PHỐ - PHỐ XƯA BẾN CŨ 156