dân ca lô lô ở Đồng văn hà giang

203
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan Trường Đại học Văn hoá Hà Nội =========== Dân ca của người Lô Lô và vận dụng vào công tác thông tin tuyên truyền hiện nay ở Đồng Văn - Hà Giang Khoá luận tốt nghiệp đại học _______________ Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 1

Upload: longvanhien

Post on 29-Jul-2015

854 views

Category:

Education


9 download

TRANSCRIPT

Page 1: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Trường Đại học Văn hoá Hà Nội===========

Dân ca của người Lô Lô và vận dụng vào công tác

thông tin tuyên truyền hiện nay ở Đồng Văn - Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp đại học

_______________

Sinh viên: Phạm Thị LanNgười hướng dẫn: TS. Phạm Việt Long

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 1

Page 2: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

LỜI CẢM ƠN

Qua một quá trình nghiên cứu và khảo sát thực địa, đề tài "Dân ca của

người Lô Lô và vận dụng vào công tác thông tin tuyên truyền hiện nay ở

Đồng Văn - Hà Giang" đã được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của

Tiến sĩ Phạm Việt Long, sự giúp đỡ và tạo mọi điều kiện của các thầy, cô

giáo trong khoa Văn hoá dân tộc thiểu số, các cán bộ Trung tâm Văn hoá thể

thao huyện Đồng Văn - Hà Giang, bà con xã Lũng Cú, Huyện Đồng Văn.

Qua đây, người viết xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới thầy giáo TS.

Phạm Việt Long đã tận tình hướng dẫn người viết hoàn thành khoá luận này.

Xin trân trọng cảm ơn Trung tâm Thư viện trường Đại học Văn hoá

Hà Nội, sở Văn hoá - Thông tin tỉnh Hà Giang, phòng Văn hoá - Thông tin

xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn và một số bản làng đồng bào nơi tôi nghiên

cứu, khảo sát về dân ca.

Do thời gian cũng như trình độ nghiên cứu còn hạn chế nên đề tài

không tránh khỏi những thiếu sót. Vậy, kính mong các thầy cô giáo và các

bạn đóng góp ý kiến để công trình được hoàn chỉnh hơn.

Một lần nữa người viết xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên

Phạm Thị Lan

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 2

Page 3: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

LỜI MỞ ĐẦU

I. Lý do chọn đề tài

Văn hoá chính là nền tảng để xây dựng một xã hội phát triển toàn

diện. Là một quốc gia có 54 dân tộc cư trú ở mọi miền đất nước, với cội

nguồn lịch sử, tiếng nói, chữ viết, phong tục tập quán mang những đặc

trưng khác nhau nên đời sống văn hoá nói chung cũng rất đa dạng. Mỗi dân

tộc đều có những đóng góp tích cực vào việc làm phong phú cho vốn văn

hoá của đất nước Việt Nam. Vì vậy, việc tiến hành nghiên cứu về văn hoá

của các dân tộc thiếu số là điều rất cần thiết.

Cũng như nhiều dân tộc khác, dân tộc Lô Lô có bề dày truyền thống

văn hoá và rất giàu về vốn văn hoá dân gian. Vối văn hoá dân gian ấy ra

đời cùng với sự hình thành của dân tộc, được nuôi dưỡng trong môi trường

sinh thái tự nhiên, môi trường kinh tế xã hội.

Một trong những nét tiêu biểu về văn hoá nghệ thuật của người Lô Lô

là dân ca. Người Lô Lô coi dân ca của dân tộc mình như một món ăn tinh

thần không thể thiếu được. Dân ca của dân tộc Lô Lô đã tạo nên sự gắn kết

cộng đồng, có mặt trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của người Lô Lô.

Trong thời kỳ đất nước đổi mới như hiện nay, một thời kỳ mở cửa

với nền kinh tế thị trường, sự du nhập và giao thoa về kinh tế đã ảnh hưởng

không nhỏ đến nền văn hoá. Trong văn hoá nói chung, văn hoá truyền

thống ngày càng mờ nhạt dần đi, thay thế vào đó là văn nghệ hiện đại với

dòng nhạc trẻ ngoại lai mà lớp thanh niên ưa thích rồi lãng quên văn nghệ

dân gian truyền thống của dân tộc mình. Vì vậy, công tác thông tin tuyên

truyền hiện nay, đặc biệt đối với một huyện miền núi như Đồng Văn, đã

được các cấp các ngành rất quan tâm và đạt được những kết quả đáng kể,

với nhiệm vụ quan trọng là tuyên truyền những chủ trương, chính sách,

đường lối của Đảng tới bà con vùng sâu, vùng xa, trên địa bàn huyện.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 3

Page 4: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Tuyên truyền bằng nhiều hình thức, trong đó tuyên truyền bằng hoạt động

văn nghệ là rất quan trọng. Tuy vậy, ở Hà Giang, trong công tác tuyên truyền,

việc vận dụng các loại hình sinh hoạt văn hoá dân gian cho phù hợp với điều

kiện kinh tế, xã hội của từng dân tộc, từng địa bàn xã chưa được quan tâm

đầy đủ nên chưa thu được kết quả cao. Vì vậy người viết chọn đề tài: "Dân ca

của người Lô Lô và vận dụng vào công tác thông tin tuyên truyền hiện nay ở

Đồng Văn - Hà Giang" làm đề tài Khoá luận tốt nghiệp, với mong muốn

củng cố kiến thức trong thời gian học tập tại trường, làm cơ sở ban đầu cho

việc vận dụng lý luận, lý thuyết vào thực tiễn công tác tại địa phương.

II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1. Đối tương: Dân ca Lô Lô

2. Phạm vi: Dân ca Lô Lô ở huyện Đồng Văn - Hà Giang và việc sử

dụng dân ca Lô Lô trong hoạt động thông tin tuyên truyền.

III. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp điền dã dân tộc học là phương pháp mà người viết sử

dụng chủ yếu để thủ thập tài liệu.

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành (xã hội học, văn hoá học, văn

học).

- Phương pháp miêu tả, so sánh, phân tích tổng hợp để xử lý tư liệu

thu được.

IV. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu các giá trị nghệ thuật và vị trí của dân ca Lô Lô trong các

dân tộc thiểu số.

Đề xuất ý kiến về việc sử dụng dân ca Lô Lô vào hoạt động thông tin

tuyên truyền.

Góp phần khẳng định giá trị của dân ca dân tộc Lô Lô và cho thấy

dân ca có vai trò quan trọng trong cuộc sống hiện đại.

V. Bố cục

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, khoá luận gồm 3 chương:

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 4

Page 5: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Chương 1: Khái quát về điều kiện tự nhiên, con người ở Đồng

Văn - Hà Giang

Chương 2: Đặc điểm dân ca Lô Lô ở Đồng Văn - Hà Giang

Chương 3: Sử dụng dân ca Lô Lô trong hoạt động thông tin tuyên

truyền

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 5

Page 6: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

CHƯƠNG 1

KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, CON NGƯỜI

Ở HUYỆN ĐỒNG VĂN - TỈNH HÀ GIANG

1.1 Điều kiện tự nhiên

Đồng Văn là một huyện miền núi vùng cao của tỉnh Hà Giang, nằm

ở điểm cực Bắc của Tổ quốc Việt Nam. Huyện Đồng Văn có vị trí địa lý

trong tọa độ từ 23006' đến 230 -21' - 17'' vĩ bắc, 1050 - 24'-40'' kinh đông,

phía Bắc và Tây giáp nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa với chiều dài

đường biên giới quốc gia 52,5 km, phía Nam giáp huyện Yên Minh, phía

Đông giáp huyện Mèo Vạc. Huyện có 18 xã và 1 thị trấn.

Huyện có diện tích tự nhiên là 44.666 ha, trong đó 11.837 ha là đất

sản xuất nông nghiệp. Diện tích núi đá chiếm 73,49%. Địa hình phức tạp,

có nhiều núi cao, vực sâu chia cắt. Nhiều ngọn núi cao như Lũng Táo

1.911m, Cán Tỷ 1.491 m án ngữ phía Tây và phía Nam với dãy Mã Pì

Lèng dựng đứng bên bờ sông Nho Quế làm cho địa hình khó khăn về đi lại,

giao lưu, tạo nên sự cách biệt giữa các vùng và trong sự nghiệp mở mang,

phát triển kinh tế, văn hoá. Độ cao trung bình 1.200m so với mặt nước

biển. Địa hình thấp dần từ Tây sang Đông.

Nhiệt độ trunh bình hàng năm từ 170 - 190C. Do địa hình núi cao, chia

cắt nên tính chất khí hậu khắc nghiệt, nhiều vùng khác nhau (khí hậu tiểu

vùng). Lượng mưa hàng năm trung bình từ 1.600mm đến 2.000 mm. Một

năm chia làm 2 mùa: Mùa mưa từ tháng 5 - 10, vào mùa này mưa lớn, núi đá

có độ dốc cao xói lở mạnh, chia cắt, đi lại khó khăn. Mùa khô từ tháng 11

đến tháng 4 năm sau, thường có sương mù, sương muối. Ở một vài tiểu vùng

nhiệt độ có lúc xuống tới 40 - 50 như ở Lán Xì, Phó Bảng… Thời tiết khí hậu

khắc nghiệt vào mùa đông (tháng 11,12) nhiều ngày có tuyết và sương muối

phủ. Mùa đông ít mưa, khô lạnh, địa hình kiến tạo núi đá vôi, rừng nguyên

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 6

Page 7: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

sinh cạn kiệt, khí hậu thuỷ văn khắc nghiệt làm cho khan hiếm nguồn nước

sinh hoạt và sản xuất, gây khó khăn cho cuộc sống của con người.

Đồng Văn có con sông lớn nhất là sông Nho Quế, bắt nguồn từ các

dẫy núi phía Tây Bắc của huyện, chảy qua Malé. Đồng Văn sang Mèo Vạc

và Bắc Mê rồi đổ vào sông Gâm. Sông Nho Quế là nguồn sinh thuỷ quốc tế

trong phát triển thuỷ điện và tưới tiêu cũng như nước sinh hoạt và điều hoà

khí hậu, mùa đông dòng sông đầy ắp sương mù. Ngoài ra còn có các dòng

suối nhỏ như Lũng Táo chảy về Yên Minh, suối Đồng Văn, suối ở Phó

Bảng, Phố Là mùa mưa mới có nước. Quá trình tạo sơn tự nhiên lâu đời

trên địa bàn hình núi đá vôi để lại những thắng cảnh đẹp cho Đồng Văn.

Địa hình đá vôi cũng làm cho Đồng Văn thiếu nước sinh hoạt và tưới tiêu

nghiêm trọng. Thời tiết khí hậu Đồng Văn mang tính ôn đới, thích hợp

trồng các loại cây ăn quả và cây thuốc như: đỗ trọng, huyền sâm, xuyên

khung, ý dĩ, thảo quả… Đồng Văn có giống chè ngon nổi tiếng phù hợp với

vùng đất Lũng Phìn.

Rừng Đồng Văn có thảm thực vật phong phú, thích hợp cho sự phát

triển nhiều loại như: cây dẻ, sồi, thông đá, pơmu… nhưng do bị khai thác

bữa bài nên đã cạn kiệt. Động vật có các loại như: sóc, gà lôi, nhím, trăn,

rắn, tê tê… Do không còn rừng và nạn săn bắn nên nhiều loài gần như tuyệt

chủng. Tài nguyên khoáng sản đến nay chưa phát hiện ra loại nào có trữ

lượng lớn và giá trị cao. Tuy nhiên đây cũng là vùng đất ấn tượng với

những địa danh như Cột cờ, Lũng Cú, những phong tục tập quán riêng của

người dân, với những dãy núi đá tai mèo, với di tích lịch sử nhà Vương...

Tất cả được hội tụ tạo nên cao nguyên đá Đồng Văn mang những giá trị địa

lý, môi trường đặc sắc nơi cực Bắc Tổ quốc.

1.2. Điều kiện kinh tế xã hội

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 7

Page 8: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Đồng văn có dân số khoảng 5,7 vạn người, với 17 dân tộc anh em

như: Mông, Dao, Lô Lô, Tày, Giấy, Cờ Lao, Pu Pèo,.. các dân tộc sống xen

kẽ ở 220 xóm bản, trong đó dân tộc Lô Lô có khoảng 500 người.

2.1.1. Lịch sử tộc người Lô Lô

Người Lô Lô có mặt từ bao giờ trên lãnh thổ Việt Nam và họ có phải

là cư dân của vương quốc Nam Chiếu cổ đại không? Câu hỏi lớn này

dường như đã được nhắc đến nhiều lần, nhưng vẫn chưa được giải quyết

một cách triệt để. Tuy vậy, qua nhiều nguồn sử liệu cho thấy, dân tộc Lô

Lô có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, ít ra là khoảng trên dưới 500 năm. Đồng

bào đến Việt Nam qua nhiều đợt thiên di bởi ở quê cũ có chiến tranh, loạn

lạc và họ bị đàn áp nặng nề hoặc bị mất mùa đói kém, bệnh dịch... Đến Việt

Nam, người Lô Lô đã có công khai khẩn đất đai ở vùng cao biên giới núi

đá Hà Giang và Bảo Lạc (Cao Bằng). Công lao của người Lô Lô được các

dân tộc ở Hà Giang, Cao Bằng luôn ghi nhận trong cõi tâm linh sâu thẳm

của tập quán. Việt Nam là quê hương lâu đời của người Lô Lô, đồng bào là

một trong những thành phần dân tộc cấu thành Đại gia đình các dân tộc

Việt Nam.

Người Lô Lô ở Việt Nam có 3.350 người cư trú ở 2 tỉnh Hà Giang

vào Cao Bằng, gồm hai ngành Lô Lô Đen và Lô Lô Hoa; ở Hà Giang đều

có cả hai nhóm tộc người đó. Hai nhóm Lô Lô Đen và Lô Lô Hoa khác

nhau về trang phục, còn ngôn ngữ và phong tục tập quán không có gì khác

biệt nhiều.

1.2.2. Đặc điểm kinh tế của người Lô Lô ở Đồng Văn - Hà Giang

Những vùng người Lô Lô sinh sống hầu hết là núi đá, đất dốc, ruộng

không nhiều, phần lớn là những ruộng cạn trên một vùng quanh năm thiếu

nước cho nên chỉ cấy được một vụ rồi bỏ hoang. Gần đây được sự giúp đỡ

của chính quyền, bà con trồng thêm một vụ đông với các loại rau cải, đậu

hoặc ngô vụ đông xuân.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 8

Page 9: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Do điều kiện diện tích đất gieo trồng thấp và khí hậu khắc nghiệt nên

đòi hỏi phải có những biện pháp kỹ thuật để tăng hiệu suất canh tác. Chính

điều đó đã khiến cho người Lô Lô được biết đến như những người giỏi kỹ

thuật canh nông. Từ lâu, kỹ thuật thâm canh của đồng bào Lô Lô cũng như

hầu hết cư dân của vùng cao phía bắc Hà Giang đã trở nên nổi tiếng.

Nương đá dốc nên phải be đá làm bờ trên nương đá để chống rửa trôi đất,

đồng thời đắp bờ giữ ẩm, giữ màu và bón phân cho đất. Bộ nông cụ đồng

bào dùng là bộ nông cụ phổ biến đối với các cư dân vùng cao núi đá phía

Bắc Hà Giang.

Cây trồng chính của người Lô Lô là lúa, ngô, tam giác mạch. Ngoài

ra còn xen kẽ bầu, bí, rau, đậu... Nghĩa là hầu hết các loại cây trồng khác

nhau thích hợp với chế độ thổ nhưỡng, thuỷ văn của khu vực vùng núi cao

đều được gieo trồng ở nơi mà đồng bào Lô Lô sinh sống.

Vào tháng 2 âm lịch, đồng bào bắt đầu cày ruộng màu và xới đất thổ

canh hốc đá. Đất này được phơi ải đồng thời chuẩn bị sang cuối tháng 3 âm

lịch người ta đốt cỏ trên nương đá và xới lại đất để tra hạt. Giống ngô địa

phương dài ngày là giống ngô có khả năng chịu hạn, chịu rét và cho năng

suất cao. Như hầu hết các cư dân vùng cao, kỹ thuật trồng ngô hốc đá

không thể làm khác hơn là chọc lỗ tra hạt. 6 tháng sau thì ngô cho thu

hoạch. Lúc này nhà nào có ruộng lúa thì cũng vào thu. Nhờ biết xen canh

(tra ngô lẫn với các loại rau đậu), gối vụ (ngô với tam giác mạch hoặc với

đậu) nên đồng bào có thể tận dụng được khả năng tối đa của đất đồng thời

tạo ra lớp phủ thực vật dày chống xói mòn.

Có thể coi dân tộc Lô Lô là những cư dân nông nghiệp có khả năng

thích ứng cao với điều kiện môi trường. Ngoài trồng trọt, họ còn nuôi nhiều

gia súc, gia cầm để giải quyết sức kéo và nhu cầu thực phẩm thiết yếu.

Ngành nghề thủ công ở người Lô Lô ít phát triển hơn so với các tộc người

khác. Nhưng đồng bào lại nổi tiếng bởi nghề may vá thêu thùa. Những bộ

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 9

Page 10: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

trang phục nữ Lô Lô có thể coi là những sản phẩm độc nhất vô nhị trên

vùng cực bắc Hà Giang.

1.2.3. Phong tục tập quán

* Về ăn uống

Bữa ăn phản ánh rất rõ tập quán sản xuất và hoàn cảnh kinh tế.

Lương thực chính là mèn mén làm từ bột ngô đồ như những tộc người vùng

cao khác. Cơm gạo hiếm nên chỉ dùng trong những ngày lễ tết và để dành

cho người ốm, trẻ nhỏ, phụ nữ mới sinh. Giống như người Mông, người Lô

Lô xay ngô bằng một loại cối đá lớn thành bột mịn rồi đem đồ trong một

cái chõ lớn. Khi gần chín, bột ngô được đổ ra một cái nia, vẩy nước trộn

đều lại rồi đồ tiếp lần hai cho chín kỹ. Trong bữa ăn phải có thêm canh rau.

Các loại thực phẩm như thịt, cá không phải lúc nào cũng sẵn do chăn nuôi

khó khăn. Đồng bào thường dùng thức ăn thịt, cá khi nhà có khách, có công

việc, có tế lễ… Phần lớn thức ăn được cất trữ từ những dịp tết cuối năm, đó

là các loại thịt lợn, thịt trâu, bò tẩm ướp muối, gia vị rồi treo lên gác bếp

làm thức ăn dần trong cả năm.

Người Lô Lô còn tự chưng cất rượu từ ngô, dùng men lá tự chế hay

men thuốc bắc mua của những người Hán. Cũng như nhiều cộng đồng cư dân

khác, đối với người Lô Lô rượu là một loại đồ uống không thể thiếu trong

những mâm cỗ cúng tế và cũng là thứ dùng hàng ngày của đàn ông để chống

mỏi mệt sau khi làm việc nặng nhọc hoặc khi tiếp đãi bạn bè, khách khứa.

Ngoài ra còn phải kế đến một loại thuốc hút tự trồng. Đó là một loại thuốc lá,

giống địa phương, được trồng phổ biến trong nhiều cộng đồng cư dân khác

nhau.

* Về mặc:

Người Lô Lô ở Hà Giang có cả nhóm Lô Lô Hoa (Màn Dì Qua) và

nhóm Lô Lô Đen (Màn Dì No). Trang phục của hai nhóm này cơ bản giống

nhau, điều khác chủ yếu là có nơi phụ nữ mặc áo cổ vuông chui đầu (pon

cho) có nơi mặc áo cổ tròn xẻ ngực, kỹ thuật tạo dáng áo của phụ nữ có nơi

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 10

Page 11: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

thân áo rộng thẳng, tay áo rộng, có nơi thân áo phía dưới thu nhỏ lại, tay áo

hẹp...

Trang phục nam Lô Lô cũng giống như phần lớn các cộng đồng khác

trong vùng: Đó là chiếc quần chân què lá toạ, đũng và ống đều rộng, áo

cánh bằng vải thô, vải bông, hoặc vải lanh nhuộm chàm đen. Đây cũng là

trang phục người đàn ông Mông thường mặc. Đàn ông Lô Lô còn thường

quấn một chiếc khăn nhuộm đen trên đầu.

Đối lập với trang phục đơn giản của đàn ông, trang phục của phụ nữ

Lô Lô thực là một kỳ công. Chất liệu thì vẫn là những loại vải sợi bông

hoặc lanh tự dệt ở địa phương (ngày nay đồng bào còn dùng cả vải công

nghiệp để may trang phục cổ truyền).

Phụ nữ Lô Lô đen mặc áo cổ vuông chui đầu, quanh thân áo có thêu

nhiều hoa văn hình chim. Tay áo được hình thành từ nhiều vòng vải màu

khác nhau. Váy có hai lớp chiết ly ở dưới cạp đến gần đầu gối. Trùm phía

sau váy còn có một mảnh vải được trang trí bằng các hàng cúc hoặc đồng

tiền ở xung quanh. Ngoài ra chị em còn mang xà cạp ống màu đen.

Bộ nữ phục Lô Lô hoa có nhiều điểm khác biệt. Trước hết về cấu

tạo, đó là một bộ đồ gồm nhiều thứ. Chiếc áo cánh ngắn, cổ tròn, xẻ ngực

với các hoa văn hình học được tạo nên bằng cách ghép các miếng vải nhiều

màu sắc trang trí dọc thân áo cả phía trước ngực và phía sau lưng. Tay áo

ống chẽn được tạo bằng nhiều vòng vải màu khác nhau. Phụ nữ Lô Lô hoa

mặc quần. Chiếc quần ống què được trang trí nhiều mảnh hoa văn ghép vải

hình tam giác thành từng mảnh vuông lớn chạy quanh ống quần. Mảnh vải

trùm phía sau (tú xô) và thắt lưng có đính các tuy hạt cườm ngũ sắc. Chiếc

xà cạp của chị em là xà cạp quấn giống với phụ nữ Mông chứ không dùng

xà cạp ống như phụ nữ nhóm Lô Lô đen.

Đồ trang sức của phụ nữ Lô Lô gồm có nhiều loại vòng trong tay,

vòng cổ, dây chuyền bằng bạc hoặc nhôm. Bình thường có thể họ không

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 11

Page 12: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

mang trang sức, nhưng trong ngày lễ, tết họ thường mặc đầy đủ bô trang

phục và mang trang sức.

* Về cư trú

Làng bản

Trong cùng địa bàn sinh sống thì người Lô Lô thường ở các khu vực

riêng thành từng làng xóm riêng mà các tộc người khác gọi là Lô Lô chải

(xóm hay làng Lô Lô). Mỗi xóm Lô Lô thường có từ năm, sáu hộ đến năm,

sáu chục hộ. Đồng bào làm nhà theo hướng tự chọn của gia chủ, nhưng

thường tựa lưng vào núi, cửa trông ra thung lũng hoặc ruộng nương. Trong

làng Lô Lô không có đình miếu chung nhưng thường quy định những khu

rừng chung cấm không ai được chặt phá. Nước sinh hoạt cũng thường là

nơi công cộng cả của cả xóm, đó thường là một bể chứa nước dẫn trên núi

về song rất hiếm nơi như vậy, chủ yếu vẫn là chứa nước tích trữ từ mùa

mưa.

Nhà cửa

Ngôi nhà của người Lô Lô thường là nhà đất trình tường 3 gian lợp

ngói hoặc gianh. Kết cấu khung nhà dựa trên các vì kèo gỗ kết cấu xà

ngang, xà dọc gác trên đầu ba hàng cột, hai bộ vi làm thành gian giữa, hai

bên hồi trần cột, kèo gác lên tường đất. Nhà thường chỉ có một cửa phụ ở

đầu trái nhà của gian bên để đi ra vườn. Cửa chính là nơi cấm mang những

đồ uế tạp qua và cũng cấm phụ nữ mới sinh đi qua cửa này. Có một sàn

lửng làm thành gác trên là kho chứa lương thực dự trữ và các đồ gia dụng.

Về cơ bản, ngôi nhà Lô Lô giống với ngôi nhà người Mông. Điều cơ bản là

sự bố trí bên trong có nhiều điểm không giống nhau. Bàn thờ trên vách của

gian giữa đối diện với cửa ra vào của người Lô Lô thật độc đáo, vì nó gồm

cả những miếng gỗ, tre vẽ các hình nhân (vẽ đơn giản bằng tro than). Đó là

tượng trưng cho các thế hệ tổ tiên được thờ. Người ta kiêng không cho phụ

nữ mới sinh đi qua bàn thờ, vì như vậy sẽ gây uế tạp. Gian giữa còn là nơi

tiếp khách hoặc bố trí cho khách nghỉ lại. Thường thì ông bố và các con trai

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 12

Page 13: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

lớn trong nhà có thể ngủ tại đây. Bà chủ và các con gái ngủ ở hai gian bên.

Nơi gian có bếp lò thường cũng là nơi được đặt bàn thờ những người chết

bắt đắc kỳ tử. Đây lại là nơi rất linh thiêng, đến mức trừ chủ nhà ra người

ngoài không được phép lai vãng tới.

* Tôn giáo, tín ngưỡng

Thờ cúng tổ tiên

Thờ cúng tổ tiên là phong tục lâu đời của người Lô Lô theo quan

niệm truyền thống của đồng bào thì tổ tiên là ông bà, cha mẹ... đã sinh

thành, nuôi dưỡng mình và đã qua đời. Họ phân chia tổ tiên thành hai bậc:

Tổ tiên gần gọi là duỳ khế gồm những người từ 3 đời trở lại (cha mẹ, ông

bà, cụ…) đã qua đời. Tổ tiên xa là những thế hệ tổ tiên trên bậc duỳ khế

cách mình từ 4-5 đời trở lên. Bậc tổ tiên xa này gọi là pờ xi.

Phong tục Lô Lô chỉ lập bàn thờ duỳ khế, còn pờ xì chỉ còn đọng lại

ở tâm tưởng kính trọng biết ơn của lớp con cháu. Vì thế, nhà người Lô Lô

nào cũng có bàn thờ duỳ khế. Bàn thờ được tạo ra bằng miếng gỗ hoặc nóc

tủ kê sát vách của gian chính đối diện với cửa chính trên đó có đặt bát

hương để cắm hương khi hành lễ. Đặc biệt trên bàn thờ có đẽo các miếng

gỗ hình nhân, trên đó có vẽ mặt với đầy đủ mắt, mũi, mồm... tượng trưng

cho người đã quá cố, cắm theo từng thế hệ một. Nếu người quá cố chỉ có

một vợ một chồng thì cắm hai hình nhân; nếu họ có tới hai vợ thì cắm ba

hình nhân, nhưng nếu ông bố chết mà bà mẹ vẫn còn thì lại cắm ba hình

nhân… Các hình nhân tượng trưng cho tổ tiên này được cài vào vách bàn

thờ theo thứ bậc thế hệ tính từ trái sang phải. Đầu tiên là bố mẹ, rồi đến ông

bà và cuối cùng là các cụ sinh ra ông bà. Phần nhiều các bàn thờ tổ tiên của

người Lô Lô cũng chỉ thể hiện đến đời thứ ba cách gia trưởng. Nên người

lạ đến nhà người Lô Lô nhìn vào bàn thờ tổ tiên của họ là người ta có thể

biết được bố mẹ của chủ nhà còn hay mất, tình trạng hôn nhân của các thế

hệ trước của chủ nhân ra sao và chủ nhân có phải là trưởng tộc họ hay

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 13

Page 14: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

không… Cách bày đặt bàn thờ tổ tiên của người Lô Lô thật độc đáo, là nét

văn hoá chưa thấy ở các dân tộc khác ở Việt Nam.

Việc cúng lễ tổ tiên của đồng bào được tiến hành vào dịp tết nguyên

đán, tết tháng 7 và những dịp trong nhà có các công việc lớn như nhà mới,

dựng vợ gả chồng cho con… họ đều dâng lễ cúng trình tổ tiên. Nếu trong

nhà có người ốm họ cúng tổ tiên để cầu xin tổ tiên che chở, phù hộ độ trì.

Lễ vật cúng là gà, cơm, hoa quả, rượu, thắp hương. Tuy nhiên hành lễ ở

nhà người trưởng họ (thấu chủ) là chính.

Đối với tổ tiên xa pơxi, việc thờ cúng không có quy định gì chặt chẽ.

Như đã nói người Lô Lô thường chỉ thờ ba đời. Khi có một đời tiếp theo

qua đời thì sau khi đưa đám xong, con cháu thịt gà làm mâm cỗ rước hình

nhân bằng gỗ trên bàn thờ tổ tiên của đời cao nhất vào hang núi khô ráo để.

Kể từ hôm đó đời này ra nhập nhóm tổ tiên pơxi và không thờ cúng gì chặt

chẽ nữa. Người già trong nhóm Lô Lô đen ở Lũng Cú Đồng Văn kể rằng,

theo phong tục cổ xưa, thì mỗi nam giới ở đây trong đời phải ba lần đứng

ra tổ chức mổ bỏ cúng pờ xi. Nhưng tập tục này không thấy nhắc đến ở

những vùng Lô Lô khác.

Các nghi lễ liên quan đến sản xuất và sức khỏe

Người già Lô Lô ở Lũng Cú - Đồng Văn kể rằng, cách ngày này

khoảng 50-60 năm làng họ vẫn còn một ngôi nhà chung ở gần giữa xóm,

thờ thổ công, cứ vào tháng 7 dân làng lại làm lễ cúng thổ công, cúng cho tổ

tiên họ và cúng các loại ma xa gần, cầu cho mùa màng tốt tươi, con người

được khỏe mạnh. Theo tục lệ, cứ 2 năm cúng 1 lần thì cúng nhỏ vào ngày

24-7 với lễ vật ít hơn và tổ chức múa hát 3 ngày, nhưng nếu ba năm mối

cúng một lần thì cúng lớn hơn vào ngày 25-7 và tổ chức múa hát 5 ngày

liền. Thanh niên nam nữ mặc quần áo mới và múa hát theo nhịp trống

đồng. Trong những ngày lễ hội dân làng nghỉ việc đồng áng chỉ làm việc

nhà. Suốt những ngày diễn ra đám cúng, ở đầu làng và các đường vào làng

người ta cắm những cây trúc, trên ngọn có cài mấy cái lông gà ám hiệu cho

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 14

Page 15: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

khách lạ không được vào làng. Khách lạ tới coi như đám cúng không thành

và người đó phải mua lễ vật khác cho dân làng làm lại. Cây nêu ám hiệu

cấm kỵ ở đầu làng và các lối vào làng cũng cấm luôn người dân trong làng

không được ra khỏi làng trong những ngày đó, với quan niệm ra khỏi làng

hoặc khách lạ đến là tha bệnh và tha ma quái vào làng.

Tổ chức cúng chung toàn làng xong, mỗi gia đình lại thịt gà làm cỗ

mang ra ruộng cúng thần đất, thần rừng núi, tổ tiên phù hộ cho mùa màng

tốt tươi, con người được khỏe mạnh.

Trước kia, khi cày cấy xong thì người Lô Lô thịt gà làm lễ mang ra

đầu bờ ruộng cúng ma ruộng, ma rừng, ma sông suối... phù hộ cho mùa màng

tốt tươi. Người Lô Lô cổ xưa có công khai ruộng và diệt sâu bọ cho lúa. Ông

bị chết, dân tưởng nhớ tới ông và tổ chức cúng lễ mỗi khi cày cấy xong.

Khi lúa bị sâu bệnh hoặc hạn hán, các gia đình Lô Lô đóng góp tiền

gạo làm lễ cầu mưa, cầu cho không bị dịch bệnh. Ở Lũng Cú xưa họ lễ

chung ở nhà thờ thổ công trong làng, còn ở Mèo Vạc thì cúng ở ngoài đồng

ruộng. Và quan niệm người đi coi ruộng nương và bị chết. Cúng cho ông

Cù nếu lễ vật thừa không dùng hết thì phải để lạị, sợ mang về thì sự cầu vũ

không thành.

Người Lô Lô còn kể lại rằng, ngày xưa đã lâu lắm rồi cứ vào tháng 4

hay tháng 5 hàng năm, cả làng góp tiền mua một con dê, rồi một vài người

trong xóm dắt dê đi theo sau một thầy mo tay cầm dao. Đoàn người đi lần

lượt hết các nhà trong xóm, đến nhà nào nhà nấy mang hai chén rượu, bát

ngô và hai bó cỏ ngựa tượng trưng với ý nghĩa dâng cho ngựa và đoàn

người nhà trời dùng. Cúng xong thầy mo thu 3 hình nhân mà mỗi nhà đã

làm sẵn đặt ở trước cửa - ý tống tiến ma trời gây bệnh ra đi. Đi hết các nhà

trong làng họ ra cánh đồng gần làng thịt dề làm lễ cúng ma trời. Quan niệm

của người Lô Lô Hoa ở đây thì ma trời có tên là Mùa Puỳ Nậy và ma mặt

trăng là Lo Pọ Nậy. Cúng và ăn uống xong, lễ vật thừa không được mang

về nhà sợ ma trời theo về. Còn các hình nhân thì mang lên núi bỏ.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 15

Page 16: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Người Lô Lô quan niệm con người ai cũng có vía (xăng luồi) ở ba

trạng thái: quanh quẩn giữ bàn thờ ma nhà, ở trong cơ thể mình hoặc đi

chơi lang thang. Vía đi chơi lang thang lâu thì người sẽ ốm, và vì vậy, phải

cùng gọi vía về. Lễ vật cúng vía là bát gạo, con gà hoặc quả trứng. Thầy

cúng đặt lễ vật ở cửa cúng gọi vía về, cúng xong ở cửa thì cúng ở bàn thờ

tổ tiên, thỉnh cầu tổ tiên bảo ban không cho hồn vía đi xa. Và họ tin rằng,

cúng xong như vậy người ốm sẽ khỏi và khỏe dần.

1.2.4. Văn học nghệ thuật dân gian

Người Lô Lô có một di sản văn học dân gian truyền thống rất phong

phú và độc đáo, gồm truyện cổ, dân cả, tục ngữ, câu đố... Ngoài ra còn là

những điệu dân vũ hết sức đặc sắc thường được thể hiện trong những dịp

hội hè, đình đám và đặc biệt là trong những nghi lễ tang ma. Mặc dù cho

đến nay, số người có thể hát hoặc kể chuyện ngày càng thưa dần và cũng

không thể nào nhớ được nguyên vẹn kho tàng xưa, nhưng một phần lớn di

sản truyền thống lâu nay đã được các nhà nghiên cứu say mê, tâm huyết,

sưu tầm. Kho tàng truyện cổ có thể chưa phải thật sự đồ sồ nhưng đó là

những truyền thuyết, cổ tích giàu tính hình tượng, giàu ý nghĩa nhân văn và

mang nhiều sắc thái riêng. Nếu như trong truyện cổ còn một số yếu tố có

thể coi là sản phẩm chung của quá trình giao lưu văn hoá nhiều tộc người

trong cùng khu vực, cùng địa bàn sinh sống, thì kho tàng dân ca, dân vũ có

thể coi là một hệ thống những làn điệu đặc sắc, độc đáo... biểu hiện những

tâm hồn lãng mạn, giàu trí tưởng tượng nên thơ, bay bổng làm nên bản sắc

riêng mà chỉ người Lô Lô mới có.

1.2.5. Lễ tết

Trong một năm có hai kỳ lễ lớn cũng có thể gọi là 2 cái tết lớn: Tết

cả và tết tháng 7 mà tết cả (tết năm mới) là cái tết tiêu biểu nhất. Xưa đồng

bào ăn tết cả kéo dài suốt từ 30, mùng 1 tết đến tận rằm tháng giêng. Ngày

30 tết nhà nào nhà nấy thịt lợn, để cả con vật mới mổ cúng cho tổ tiên

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 16

Page 17: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

chứng giám lòng thành, sau đó mới làm mâm cỗ cúng vào tối 30 và ngày

mùng 1 tết. Và cũng chỉ cúng vào ngày mùng 1 và 15 tháng giêng là ngày

cuối cùng của tết năm mới. Những ngày khác của tết chỉ bày rượu, bánh

trái trên bàn thờ và thắp hương.

Người già Lô Lô Lũng Cú kể rằng, xưa ở đây tồn tại một tập tục lạ

gọi là "khù mi" (ăn cắp chơi - ăn cắp lấy may). Tối 30 tết, mỗi gia đình

phải đi ăn cắp cái gì đó và phải lấy cho đủ con số 12. Ví dụ, lấy ngô đủ 12

bắp, lấy gà, lấy gạo, hoa quả cứ đủ con số 12. Đó là con số ứng với 12

tháng trong năm tới may mắn. Nếu mới lấy được 2 hoặc 3,4… tức chưa đủ

12 mà đã bị phát hiện thì bỏ chạy và năm sau, tháng ứng với những con số

phải bỏ chạy thì phải kiêng kị không được làm những công việc lớn sợ rủi

ro. Sáng mống 1 tết kiêng phụ nữ đến nhà, sợ là không may mắn cho cả

năm. Từ mùng 1 đến 15 tháng giêng bà con nghỉ ngơi vui chơi ăn tết, họ

hàng bạn bè đến nhà nhau chúc tết và ngoài bãi cỏ gần làng, người ta tổ

chức các trò chơi đánh cú, đánh bóng chuyến… Đến ngày 15 tháng giêng

hết tết, mọi người thu các mảnh giấy vàng (tượng trưng cho tiền) dán vào

các đồ vật trong nhà ngoài sân hôm 30 tết mang đi đốt, phần để báo hiệu

các đồ vật biết đã hết thời kỳ nghỉ ngơi bắt đầu làm việc và giấy đó cũng

tượng trưng là tiền đố tạ vàng cho ma nhà. Ở nhóm Lô Lô Hoa Mèo Vạc

cũng ăn tết như người Lô Lô Đen ở Lũng Cú, nhưng không thấy nhắc đến

tục "Khù Mi".

Tết tháng 7 xưa ở người Lô Lô Đen Lũng Cú ăn từ 24 đến 29. Ngày

đầu mỗi gia đình làm cỗ cúng bái tổ tiên rồi nghỉ công việc đồng áng suốt 5

ngày liền. Và cả làng xưa còn có tục cúng chung ở miếu nhỏ hơn, chỉ ăn

một ngày. Còn các ngày lễ khác như mùng 3 tháng 3, mùng 5 tháng 5... có

nơi có, nơi không và nếu có cũng tổ chức nhỏ trong vòng 1 ngày.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 17

Page 18: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

CHƯƠNG 2ĐẶC ĐIỂM DÂN CA LÔ LÔ Ở ĐỒNG VĂN - HÀ GIANG

2.1. Khái quát về dân ca Lô Lô ở Đồng Văn - Hà Giang

Cùng với trống đồng thì vốn nghệ thuật dân gian ở dân tộc Lô Lô

thật đáng khâm phục. Nó được biểu hiện ở tất cả các mặt trong đời sống vật

chất và tinh thần của đồng bào từ các mẫu hoa văn trên trống đồng, nhất là

trên y phục của phụ nữ, rồi truyện cổ tích, điệu múa, bài ca... Hầu như các

mặt sinh hoạt chủ yếu về vật chất và tinh thần từ dĩ vãng xa xăm cho đến

đời sống thường nhật đều được phản ánh trong dân ca của họ. Qua những

bài ca thần thoại "Trời, đất, con người", "Mẹ trời, mẹ đất" hay "Chuyện

mặt trời, mặt trăng"... phản ánh rõ vũ trụ quan tối thiếu và tinh thần đấu

tranh chinh phục thiên nhiên của họ. Hàng hoạt bài ca ca ngợi tinh thần lao

động cần cù và dạt dào tình yêu cuộc sống. Những mốc lớn của cuộc đời

mỗi con người: Cưới hỏi, tang ma... đã đi vào dân ca một cách hết sức tự

nhiên.

Sinh hoạt dân ca Lô Lô thường vào lúc nông nhàn nhân tuần trăng

sáng, đặc biệt vào dịp trong làng có đám cưới, đám ma. Lời ca làm cho

đám cưới thêm vui và đám ma nhẹ bớt nỗi u buồn và cũng như múa ma, để

tiễn biệt người quá cố về với tổ tiên. Đó là triết lý Lô Lô và trở thành tập

quán.

Dân ca Lô Lô có một đặc điểm chung là đều được sáng tác theo thể

thơ năm chữ và từng cặp hai câu bổ sung nhau.

Ví dụ:

"Sắp đến lúc làm nương

Sắp đến lúc làm ruộng"

Lời ca nhìn chung là mộc mạc, gần gùi với ngôn ngữ hàng ngày. Cái

gây xúc động cho người nghe chính là nội dung bài ca.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 18

Page 19: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Tuy nhiên, nhiều đoạn cũng đã đạt tới trình độ nghệ thuật khá cao.

Ví dụ trong bài "Đón khách":

"Tối nay là tối gì?

Mà thoang thoảng hương bay

Đêm nay là đêm gì?

Mà ấm áp cỏ cây…"

Quan sát lối hát đối đáp trong dân ca của dân tộc Lô Lô ta sẽ thấy có

rất nhiều biểu hiện của tính diễn xướng ở trong đó. Phần nhiều khi người ta

hát dân ca là người ta không lệ thuộc vào sự ngăn cách tuổi tác, cho nên

nhiều người cao tuổi vẫn xưng mình còn "Thanh tân" còn "Đợi chờ"… Vì

vậy trong dân ca dân tộc Lô Lô mới có những bài, những câu:

" Gặp anh em muốn chào

Nhưng lời ca có hạn

Lời ca anh thật lòng

Sao anh không cất giọng

Chưa ca đã thấy thương

Chưa nhìn đã thấy mến

Tiếng ca anh đến đâu

Lời chứa chan đến đó"

Hoặc

"Mình nói mình còn son

Xa cũng biết mình rồi

Chồng con mong mình đó

Còn ta chẳng ai mong".

Như vậy trong dân ca dân tộc Lô Lô chẳng những có tính chất thơ

mà còn có tính chất kịch. Hơn nữa, trong dân ca Lô Lô còn có tính chất tự

sự đi đôi với yếu tố trữ tình. Hai yếu tố đó không thể tách rời nhau cho nên

hầu hết các bài dân ca dù ngắn hay dài cũng thường có yếu tố của một cốt

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 19

Page 20: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

truyện, đơn giản, trong đó tác giả nêu rõ về thời gian, địa điểm nhân vật và

một số biến cố nhất định, chẳng hạn như:

"Xe chỉ để trao duyên

Ô mở để trao duyên

Chỉ không trao không nhớ

Ô không mở không thương

Chỉ để thêu tình đẹp

Ô để che tình duyên

Che mối tình chung thủy

Vững như cây với cành

Như nước suối bên ta

Không trong không hề uống

Duyên đã trao từ đây

Nhớ thương đã từ đây

Nóc nhà có cột giữ

Cành cây có thân cây

Mối tình ta cũng vậy

Giữ mãi cho đến cùng.

Ta thấy sự tồn tại và phát triển của dân ca Lô Lô cũng như các dân

ca nói chung của nhiều dân tộc khác, không bị ràng buộc bởi các yếu tố

như nhạc và vũ. Sự thật trong dân ca dân tộc Lô Lô gắn với các cốt truyện

ngắn hoặc dài nhưng yếu tố nhạc không cảm thấy cần thiết bằng làn điệu

(thường chỉ làn điệu trầm bổng khoan thai của người ca lặp đi lặp lại). Ở

đây vấn đề trở nên khó khăn và phức tạp hơn vì sự gắn bố giữa lời ca và làn

điệu chặt chẽ hơn nhiều so với các lĩnh vực khác. Nếu tách giữa làn điệu và

lời ca thì người ca khó có thể nhớ được lời một cách tuần tự và thường bị

ngưng rồi hát lại.

Nhìn chung dân ca Lô Lô phổ biến dùng để hát đối đáp trai gái lứa

đôi. Nó nảy nở, phát triển theo thời gian, trong hoàn cảnh đó, thơ ca dân

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 20

Page 21: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

gian phát triển theo quy luật riêng của mình, nó không bị chi phối, lệ thuộc

vào các yếu tố khác, nghĩa là không mất đi tính độc lập của nó.

Cũng như các dân tộc khác trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam,

dân ca Lô Lô cũng đã có một lịch sử phát triển lâu dài. Những kết quả

phong phú đúc kết từ trong lao động sản xuất và trong việc phòng chống

thiên tai, chống ngoại xâm của dân tộc và không một ai có thể phủ nhận

được.

Nếu dựa vào phương thức diễn xướng và nội dung của dân ca, thì có

thể phân chia dân ca Lô Lô theo ba loại là: dân ca trong lễ hội, dân ca trong

sinh hoạt, dân ca giao duyên.

2.2. Dân ca trong lễ hội

Lễ hội dân tộc Lô Lô với tư cách là một hình thức sinh hoạt văn hoá

đặc biệt không thể thiếu được trong cộng đồng tộc người. Một môi trường

văn hoá đặc thù mang màu sắc rõ nét, thể hiện bản sắc độc đáo được bản

thân tộc người Lô Lô hết sức trân trọng, gìn giữ và quan tâm như một

chuẩn mực ứng xử. Nó còn là một loại hình sinh hoạt văn hoá tinh thần từ

lâu đời của dân tộc, có sức hấp dẫn, lôi cuốn các tầng lớp trong xã hội của

cộng đồng và trở thành một nhu cầu và khát vọng của dân tộc qua các thời

kỳ lịch sử.

Lễ hội Lô Lô là một giá trị văn hoá tinh thần cần được bảo lưu, giữ

gìn và phát triển. Là một thành tố bền vững của lễ hội theo nguyên tắc

nguyên hợp của văn hoá dân gian, dân ca Lô Lô có một vị trí quan trọng

trong lễ hội. Nội dung của dân ca Lô Lô phối hợp với các hành vi diễn

xướng, cho các yếu tố trang trí - hội hoạ - vũ đạo... giúp người dân thể hiện

được lòng thành của mình đối với đáng siêu nhiên để cầu mong mưa thuận

gió hoà, mùa màng bội thu, cuộc sống yên ấm. Những lời ca trong lễ hội đã

góp phần bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách, đạo đức, lối sống cho con người.

Tâm hồn dân tộc bắt nguồn từ tình cảm gia đình, làng xóm, bạn bè, từ đạo

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 21

Page 22: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

lý sống, từ hành vi ứng xử giữa người với người, giữa con người với thiên

nhiên - đất trời - vũ trụ.

Lễ hội, với bản chất cao đẹp đã ăn sâu vào ký ức của mỗi người

trong cộng đồng từ thuở ấu thơ. Nhờ được tổ chức thường xuyên trong suốt

chiều dài lịch sử, lễ hội của dân tộc Lô Lô được bảo lưu khá bền vững và

nhờ vậy, nghệ thuật diễn xướng, các làn điệu dân ca cổ truyền của dân tộc

được gìn giữ và phát triển.

2.2.1. Lễ tế trời đất

Ở người Lô Lô, trời đất đã trở thành vị thần được tôn kính, trời được

coi như cha, đất được coi nhà mẹ. Triết lý của người Lô Lô là trời đất sinh

ra tất cả muôn loài, muôn vật. Lễ tế trời đất là sự kiện quan trọng của người

Lô Lô, là ngày vui mang tính chất ngày hội của cả cộng đồng. Vì vậy dân

ca trong lễ tế trời đóng vai trò quan trọng trong lễ hội của người Lô Lô.

Với quan niệm ngày tế trời đất là ngày cúng giỗ cha mẹ, nên phải tế

vào một nơi trên đồi lớn và chỉ được đánh trống, thổi kèn, thanh la... đều

bằng đồng.

Đến ngày tế, người ta định hướng để treo các màu cờ, phía Nam treo

cờ màu đỏ, phía Bắc treo cờ màu đen, phía Đông treo cờ màu xanh, phía

Tây treo cờ màu trắng cùng với màu vàng.

Trong lễ tế trời, có một ngày lễ long trọng nhất, được tiến hành vào

ngày mở đầu cho sự sinh sôi phát triển. Cuộc tế bắt đầu tư lúc nửa đêm.

Dân làng tập trung đông đủ trong ánh đuốc sáng rực, tiếng trống, chiêng

vang động cả góc trời. Các nhạc cụ đặt trên những tấm đá ghép tài tình, tạo

khuếch âm thanh lạ lùng, làm cho âm thanh vang rất xa cũng như rất rõ nét.

Thay mặt dân làng, thầy cúng đọc chúc văn kính cáo trời đất sinh hạ muôn

dân, ơn trời, ơn thiên hạ thái bình, muôn dân cùng hưởng...

Thuở chưa có trời đất

Trời đất nằm sát nhau

Mặt hai người nhợt nhạt

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 22

Page 23: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Chưa tách rời được nhau

Một hôm mẹ Đất bảo

Có lẽ phải tách ra

Ai nằm trên là bố

Ai ở dưới là mẹ

Bố trời nghe nói vậy

Tại sao lại làm thế

Cứ thế này thì sao

Ai mà tách ra được.

Mẹ Đất lại nằn nì

Bố Trời cũng nghe ra

Liền vùng dậy xem sao

Nhưng không sao dậy nổi.

Ôi! Làm sao lại thế này

Có ai xui ai khiến

Làm sao lại thế kia

Có ai xui ai bẩy.

Sao mà tách được ra

Làm sao rời được ra

Mọi vật xung quanh ta

Chặt như chôn như dính

Ôi! Một vật rất cao to

Tên là Sáng đâu tới

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 23

Page 24: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Đặt Trời lên trên đầu

Rồi đội trời lên cao

Ôi! Đây là nơi nào vậy

Đâu phải là trời cao

Nhìn lên còn xa lắm

Làm sao tới tận cùng

Phải sống nơi lưng chừng

Không muốn sống phải sống

Lên thì làm sao đây

Muốn xuống không xuống nổi.

Ôi! Đã tới lưng chừng

Không muốn cũng phải đi

Lấy chân đạp mà đi

Dùng tay cào mà tới

Phải mất mười mấy năm

Vật lộn với gian nan

Cúi đầu không ngoảnh lại

Mới tới nơi cùng trời.

Cuộc sống nơi cùng trời

Không biết từ bao lâu

Có ai đếm được ngày

Không ai nhớ được tháng.

Dù sống ở trên cao

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 24

Page 25: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Cuộc sống buồn làm sao

Bố Trời nhớ Mẹ Đất

Nhưng không sao xuống được

Phải làm thế nào đây

Miệt mài không nản trí

Để tạo ra mặt trăng

Mặt trăng có đây rồi.

Trong suốt mười hai năm

Mười hai năm trăng sáng

Trăng sáng soi đường đi

Bố Trời gặp Mẹ Đất.

……………………

Bài hát của thầy cúng là loại thanh nhạc có sắc thái âm nhạc dân tộc,

cũng được sáng tác theo thể thơ năm chữ. Thầy thường đọc các bài cúng,

tính chất âm nhạc của giai điệu chưa thật xa ngôn ngữ nói bao nhiêu. Âm

nhạc của bài cúng nghèo nhưng bà con vẫn xúc động và thích nghi vì giá trị

nội dung lớn của bài ca.

Qua bài dân ca trên, ta thấy những khúc hát này thật dân dã, gần gũi

với cơ sở. Nó gợi lên cội nguồn xa xôi của con người. Ngoài ra, ta còn thấy

nói lên những tâm hồn khác nhau trong đời sống tinh thần của họ. Nội dung

bài ca cũng cho thấy, tuy sống trong điều kiện núi non trùng điệp, giao lưu

khó khăn, nhưng người Lô Lô vẫn muốn mở rộng nhận thức của mình ra

ngoài vũ trụ để giải thích nguồn gốc đất trời.

Những bài ca trong lễ tế trời đất, cũng như các nghi lễ khác đều đã

được quy định rõ. Bài nào hát trước, cách diễn xướng ra sao đều nhằm

phục vụ nghi lễ. Do đó các bài ca đều được chuẩn bị kỹ, có khuôn mẫu sẵn;

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 25

Page 26: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

các nhân vật tham gia phân nghi lễ của lễ hội đều có "vai trò" rõ ràng, được

quy định rõ, và vai trò của thầy cúng là rất quan trọng.

Nói chung, lễ tế là một hành vi thiêng liêng của dân làng cầu mong

mối giao hoà giữa trời đất và con người, giữa thần bản mệnh với muôn dân.

Cả về bố trí kiến trúc lễ vật, thời gian lễ đều quy tụ về một ý nghĩa triết học

âm dương ngũ hành giao thoa, tương sinh, cũng là mối quan hệ giữa văn

hoá địa lý với văn hoá nhân dân.

2.2.2. Lễ cầu mưa

Như đã giới thiệu ở phần trên, đồng bào Lô Lô sống trong điều kiện

địa lý khó khăn, thiên nhiên khắc nghiệt, sản xuất nông nghiệp lạc hậu, phụ

thuộc rất nhiều vào thiên nhiên. Với nghề trồng trọt, yêu cầu về nước tưới

là tối quan trọng. Nhưng, người dân Lô Lô không chủ động được nguồn

nước tưới cho hoa mầu, cho nên tất yếu họ trông chờ vào thiên nhiên. Bởi

vậy, lễ cầu mưa ra đời, có vị trí quan trọng trong lễ hội của đồng bào Lô

Lô. Ở tộc người Lô Lô, mỗi vùng có cung cách, lý do và cốt truyện với

nhiều dị bản khác nhau để tổ chức lễ cầu mưa. Ở huyện Đồng Văn - Hà

Giang tổ chức lễ cầu mưa vào cuối tháng 5 (âm lịch) hàng năm.

Lễ cầu mưa có nguồn gốc từ một câu chuyện rất thương tâm: Ngày

xưa ở Vùng Mèo Vạc có một ông tên là Cồ vào một năm nọ, trời nắng hạn

kéo dài, cỏ cây, hoa màu đều không mọc được, ruộng bị cạn khô và nứt nẻ,

dân làng không có nước uống, trâu bò cũng bị chết khát, chết khô... Thấy

thương những người thân bị khổ và muôn vật có thể bị chết hết, ông Cồ

liền nghĩ ra cách để trêu trời và cho trời biết rằng dưới trần đang cần mưa

và chờ mữa. Ông đem cuốc khơi các rãnh xung quanh nhà để chờ mưa.

Ông đi khơi hết các rãnh từ nhà nọ đến nhà kia, làng này đến làng khác mà

trời vẫn nắng to kéo dài. Ông gọi dân làng đào những con mương để chờ

mưa dẫn nước vào ruộng, nhà nào cũng thi nhau đào những con mương thật

to vào khu ruộng của nhà mình. Càng chờ càng thất vọng, ruộng nương

không làm được, cỏ cây gia súc chết dần, chết mòn. Ông Cồ lại động viên

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 26

Page 27: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

dân làng đi chặt cây mai về làm máng hứng nước từ mái nhà. Dân làng đi

khắp vùng để chặt cây mai về làm máng nước - quanh nhà chờ dẫn nước

vào bể, vào ao.

Mọi việc từ khơi rãnh, đào mương đến làm máng nước đã xong mà

trời vẫn không mưa. Ông gọi dân làng khua chiêng, gỗ trống, gõ mõ, đốt

giẻ rách làm khói tung bụi mù cả một vùng trời đất.

Bỗng trời đất tối sầm lại, sấm sét đánh rung cả đất, gió bão nổi lên

những cơn lốc, trời đổ những cơn mưa như trút nước mấy ngày đêm. Các

cánh đồng ruộng, hồ, ao nước mênh mông ngập khắp nơi không đi lại

được. Ông Cồ bụng vui lắm, ông chạy ra sửa máng, chỉnh mương, dân làng

không ai để ý. Ông phấn khởi mải mê không để ý đến mưa gió rồi chẳng

may trượt chân bị nước cuốn trôi, mấy ngày sau dân làng mới tìm thấy xác

ông nổi lên ở hồ Rồng.

Dân làng thương tiếc, đưa xác ông về và chỉ còn lại vài con chó cúng

thịt để đưa tiễn ông lên đường đến nơi yên nghỉ. Dân làng trồng cây mai

trên mộ ông để làm dấu hàng năm đến viếng sửa.

Đã qua nhiều đời, đời này qua đời khác, con cháu truyền lại cho

nhau luôn nhớ đến ông như một biểu tượng thiêng. Vì ông Cồ có công với

dân nên ông Trời đã đưa ông lên trời để quản mưa gió cho dân làng. Hàng

năm cứ đến tháng 5 âm lịch dân làng lại tổ chức lễ cầu mưa xin ông Cồ cho

mưa xuống để dân làng cấy trồng và có nước ăn. Người ta cử những thanh

niên khỏe mạnh tới mộ ông chặt cây mai về cắm tại nơi quy định làm lễ rồi

lấy mo cau cắt tròn và đào những hố tròn đặt tấm mo cau có cắm ngọn cao

lương tưới nước lên, rồi dùng tay kéo phát ra những tiếng kêu như tiếng

ếch, nhái, ễnh ương, tiếng cóc...

Già làng đọc lời cầu khấn ông Cồ, dân làng vây quanh cây mai múa

với những tiếng hú, tiếng kèn trống, tiếng mo cau vang động đất trời. Dưới

đây xin giới thiệu trích đoạn bài khấn trong lễ cầu mưa:

"Hôm nay ngày đẹp trời

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 27

Page 28: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Chúng con xin ông Cồ

Ông Cồ cho mưa gió

Để làm ruộng làm nương

Ông Cồ giờ ở đâu

Trong nấm mồ chôn sâu

Một mẩu đời bạc mệnh

Hay vừa mới nguội lạnh

Thiên hạ được ngày nay

Nhờ có công ông Cồ

Ông Cồ xin trời mưa

Nhờ ngọn mai cao vút

Ông Cồ xin trời mưa

Nhờ có lửa có khói

Dân làng nổi trống lên

Bụi tung bay mặt đất.

…………………….

Trời vẫn không chịu mưa

Ông khua chiêng gõ mõ

Rung cả động cây rừng.

Bụi bay từ bốn phía

Bỗng trời cao tối lại.

Sấm sét nổ ầm vang

Gió nổi cơn như xé

Lốc cuốn bay tung trời

Trời đã đỗ cơn mưa

Đồng ruộng mênh mông nước

Lũ tràn quanh nơi ở

Nước thở từng đợt hả.

Ông Cồ nhìn thấy vậy

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 28

Page 29: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Nỗi mừng không kể xiết

Dân làng có nước rồi.

Thoả lòng như mong ước

........................................"

Các bài cúng này vẫn được sáng tạo theo thể thơ năm chữ và có tình

nguyên hợp cao. Các bài của thầy cúng, già làng được hát trong hoàn cảnh

cụ thể phục vụ cho nghi lễ. Diễn xướng và một bộ phận ngôn từ (lời ca)

gắn bó chặt chẽ với âm nhạc, vũ điệu, tạo hình.

Trong bài khấn của thầy cúng, lời ca mang đầy chất trữ tình, thể hiện

tình cảm thương tiếc, yêu mến giữa dân làng với ông Cồ, người có công

với làng bản.

Về giai điệu trong diễn xướng thì lời ca trong nghi lễ của lễ hội dân

tộc Lô Lô thường được hát với giọng trầm thấp, chầm chậm. Cùng với lời

ca giàu chất trữ tình, những giai điệu và phương thức diễn xướng rất hồn

nhiên chân thực đó cũng tăng thêm sự linh thiêng trong lễ hội.

2.3. Dân ca trong sinh hoạt

2.3.1. Hát ru

Hát ru là những bài hát có âm điệu du dương êm đềm của người mẹ

ru con, bà ru cháu, chị ru em. Những giọng hát ngọt ngào cùng với cử chỉ

âu yếm vỗ về đưa trẻ thơ vào giấc ngủ ngon lành sâu lắng.

Những bài hát ru của người Lô Lô thường ngắn gọn, câu hát mộc

mạc, giản đơn, nhưng các từ cuối phải hợp với vần trắc hoặc bằng để trao

được trường độ ngân nga theo thành điệu của mỗi câu, mỗi đoạn trong bài.

À ơi à ời ơi

Ngủ đi, ngủ đi con

Ngủ say, ngủ say con

Bố lên núi, lên non

Tay sao bố chặt củi

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 29

Page 30: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Củi mọt ăn hết rồi!

Chỉ còn một cành khô

Thiếu củi lo khách đến

Lửa không đủ ấm tay,

Chủ nhà dùng không có...

Khi đứa trẻ ra đời đã gắn liền với những câu hát, lời ru của bà, mẹ,

chị, lúc nào đứa trẻ cũng được mẹ bồng bế và có thể hát ru bất cứ lúc nào,

ban ngày hoặc mỗi tối, trong nhà hoặc ngoài sân, bên chiến võng, nôi ru, có

khi đem con trên nương họ vẫn hát những bài ru, như những lời tâm sự về

tình thương yêu càu mẹ giành cho con.

Nín đi nào, con ơi

Đừng khóc nhiều con hỡi!

Bố đang bận ở nhà

Mẹ thương con, con à

Ngủ đi nào, con ơi

Đừng khóc nhiều, con à

Mẹ lấy củi gần nương

Bố kéo nước gần nhà

Nín đi nào, con ơi,

Đừng khó nhiều, con hỡi!

Đi nương mới có ăn,

Lấy nước mới có uống

Hổ dữ sống trong rừng.

Thuồng luồng bơi trong nước

Nín đi, con nín đi

Thuồng luồng, hổ không về.

Ngủ say nào con ơi,

Con hỡi im tiếng đi!

Con khóc bố không thương,

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 30

Page 31: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Con khóc, mẹ không quý!

Lời hát ru của người Lô Lô có nội dung hiện thực độc đáo nhưng sắc

thái tình cảm hồn hậu, dung dị cùng với những hình ảnh ngôn từ khi mộc

mạc, khi thì được chọn lọc tinh tế. Cho nên tiếng hát ru đã tạo ra thành hoài

niệm sâu lắng và biểu tượng thân thương của người Lô Lô nói riêng và của

các dân tộc nói chung.

Tuy là hát ru, mang sắc thái trữ tình, nhưng lời ca vẫn phản ánh phần

nào cuộc sống của đồng bào Lô Lô, cuộc sống làm ruộng nương, gần gũi

thiên nhiên.

2.3.2. Hát than thân

Những bài dân ca than thân thường mang tính tự sự, đó là những bài

hát phản ánh nỗi khổ của người dân nghèo. Đặc biệt là những người mồ côi

cha mẹ, những người con dâu. Đó là tiếng khóc than thân trước cảnh đời ai

oán của người không cha, không mẹ, nỗi u uất của người con dâu. Những

bài ca loại này phản ánh xã hội Lô Lô đã phân chia giai cấp, có kẻ giàu

người nghèo, người bóc lột và kẻ bị bóc lột.

Trong xã hội cũ, nhân dân các dân tộc vùng cao đã phải chịu đựng

một cuộc sống khổ cực, đói rách dưới bao tầng áp bức của thực dân phong

kiến, cuộc sống cô đơn, không lấy được vợ được chồng… Trước những

hoàn cảnh ấy đồng bào các dân tộc đã sáng tác những bài hát "than thân"

khá sâu sắc để chia sẻ, cảm thông bao nỗi khổ của đồng loại.

Tiếng hát mồ côi: Là những bài hát nói nên nỗi khổ đau cơ cực của

những người bất hạnh, có cha mẹ mất sớm, chủ yếu là những bài mang tính

tự sự, người ta hát trong bất cứ lúc nào, ở hoàn cảnh nào để làm người khác

nghe xúc động. Hát cho mình nghe, hát cho người khác nghe, thậm chí hát

lên hộ người khác nữa.

"Mẹ chết đã lâu rồi,

Bố chết đã lầu rồi,

Mưa về, trốn gốc cây,

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 31

Page 32: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Mưa về trú gốc cối,

Trú dưới cây không xong.

Trú dưới cối không được

Nước từ cành rơi xuống

Nước theo lá giỏ giọt

Mưa về, dựa hang đá:

Hang đá nước chảy buốt.

Bố bỏ ta lúc bé,

Mẹ bỏ ta lúc nhỏ.

Con chim làm chín tổ

Ta phải dựng chín nhà

Chim làm nổi mười tổ

Ta dựng nổi mười nhà.

Bố bỏ ta lúc bé

Muốn uống, không có rượu

Muốn ăn không có đường

Mẹ bỏ ta lúc nhỏ

Muốn may, không có vải

Muốn mặc không có quần.

Làm nhà, không có em

Một người, sức không đủ

Nhiều người, sức mới lên!

Nội dung của bài hát không chỉ nêu lên nghịch cảnh về tâm sự đau

thương của đứa trẻ mồ côi, mà hơn nữa còn có giá trị tố cáo sự bất công

của chế độ xã hội cũ đối với những kẻ thân cô mất cha, mất mẹ.

Từ tiếng kêu ai oán cho số phận mồ côi vùi nỗi đau vào cái chết hoặc

mơ ước cuộc sống hạnh phúc, đến việc tự khẳng định niềm tin, vùng lên

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 32

Page 33: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

chống kẻ áp bức đến quyết liệt. Đó là bản lĩnh của con người Lô Lô, là bản

sắc trong dân ca Lô Lô.

Xã hội dân tộc Lô Lô ngày xưa cũng đầy rẫy những bất công, địa vị

phụ nữ thấp kém. Những cảnh làm dâu bị đầy đoạ như trâu ngựa, suốt đời

người phụ nữ bị buộc chết vào nhà chồng.

Trong gia đình người vất vả nhất, gánh nặng cuộc sống và tập tục đè

nặng nhất lên đôi vai người con dâu. Người con dâu vô cùng đau khổ, hầu

như không có quyền sống, tình cảm họ bị chà đạp, thể xác bị dập vùi, họ

chỉ biết dùng lời hát mà kể lể than thở cho cảnh ngộ đau thương của mình.

Chặt cây bẻ lá (lời than của nàng dâu) là tiếng hát khóc than của

cuộc sống cùng cực, than cho thân phận làm dâu, đồng thời chặt cây bẻ lá

là tiếng hát căm phẫn phản kháng chế độ cũ, chế độ phong kiến đầy rẫy

những bất công.

"Đã đến mùa chặt cây

Đã đến ngày bẻ lá

Chặt cây vào tháng này

Buổi sáng trời mù sương

Buổi trưa trời trắng xoá

Mắt không nhìn thấy rừng

Chân vẫn leo vách đá

Chặt cây không muốn chặt

Kiếm rau chẳng muốn đi

Không chặt, thiếu cái đun

Không đi, thiếu cái nấu

Ở nhà, thiếu củi sưởi

Ở nhà thiếu rau ăn

Không đi, người già buồn

Người trẻ, mặt không vui…"

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 33

Page 34: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Nhìn chung: Những bài hát về cảnh mồ côi, lời than của nàng dâu đã

nói lên nỗi khổ của kẻ mồ côi, những phụ nữ đi làm dâu, lên ăn những bất

công của chế độ phong kiến. Những tiếng hát này giàu tính nhân đạo và

tính chiến đấu, làm cho người nghe càng thêm bất bình với chế độ xã hội

cũ và nung nấu ý chí của con người nghèo khổ muốn phá bỏ tất cả những gì

đã mang lại cho họ sự nghèo khổ, bất hạnh. Bằng những giai điệu chậm rãi

buồn thương, tiếng hát đã cho người nghe cảm nhận và cảm thông cho cuộc

sống nghèo và thiếu thốn của người Lô Lô. Tuy nhiên những sáng tác dân

gian của người Lô Lô vẫn tạo cho họ có niềm tin, hy vọng và sức mạnh để

vượt qua cảnh sống khổ đau hoà nhập với cộng đồng mà họ đang sống.

2.4. Dân ca giao duyên

Như nhiều dân tộc anh em khác, người Lô Lô rất thích múa hát. Đặc

biệt lứa tuổi trẻ, trai gái tìm hiểu và yêu nhau, nên vợ chồng sau này,

thường cũng nhờ vào sinh hoạt ca hát làm nhịp cầu liên kết. Hát về tình yêu

của người Lô Lô khá phong phú, nhưng điểm nổi bật là người ta hay hát ở

trong nhà, vì hát ở trong nhà được ấm áp, dễ kéo dài cuộc hát do nơi người

Lô Lô ở thường rét lạnh quanh năm và khi hát thường là nam nữ đối đáp,

mỗi bên một đôi "khách" tới hát (bên nam thường chủ động tới nhà các cô

gái), thoạt đầu phải đứng ngoài nhà mà "đánh tiếng", kế đó "chủ" (nữ giới)

có mời đón thì khách mới được vào, và từ khi vào nhà là coi như cuộc hát

bắt đầu.

......................

Khách (nam)

Tối nay là tối gì

Đêm nay là đêm gì

Mà ấm áp cỏ cây

Gốc thảo quả trên trời

Hương toả thơm mặt đất

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 34

Page 35: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Quả dù piăng trên cao

Hương quả lan ngây ngất

Chưa thấy lá gừng đâu

Mà đã thoáng thơm cay

Quả dù xó nơi nào

Mà hương bay qua đây...

Nghe giọng biết hát hay

Mặt một lần chưa gặp...

Chủ (nữ)

Chúng ta là người quen

Chúng ta là anh em

Nhà anh tận trên trời

Nhà em ngay mặt đất

Khách tới chủ phải hỏi

Đuổi ngay gà ra sân

Rồi nhốt ngay chó lại.

…………………….

Về nội dung loại hát tình yêu trai gái của người Lô Lô rất phong phú,

đó là những bài dân ca về tình yêu nam nữ. "Lồ Mi Fo" tức tiếng hát tình

yêu, là một dạng trường ca dài trên 2000 câu diễn ra một cách lôgíc, có quá

trình tiến triển từ lúc tìm hiểu yêu nhau đến lúc lấy nhau, sinh con đẻ cái

của đôi trai gái. Lời ca chất phác, rất gần với cuộc sống thực, câu chuyện

được diễn tả dễ hiểu, nhưng lối ví con khá trừu tượng. Bài ca này, nếu nghe

quen và nghe nhiều lần thì mới có thể hiểu được.

Nam:

- Xóm này là xóm gì?

Mà tiếng lành bay xa

Vùng này là vùng nào?

Mà tiếng thơm toả rộng.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 35

Page 36: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

……………………….

Nhạc kèn, nguồn có hạn

Nhịp trống, gõ phải vơi

Con gái bao giờ hết?

Gái xinh mãi vẫn còn!

Em đẹp, ra em trắng,

Trắng như dây đeo dao

Tên em gọi thế nào?

Tên chị gọi làm sao

Chị đẹp như ống tre

Chị xinh như ống trúc…

Nữ:

Nhà anh tận nơi đâu,

Tên anh gọi thế nào?

Tay có biết gõ trống

Chân có vững nhịp không

Nhịp điệu trống có hạn,

Con gái mãi vẫn còn!

Kèn này em đã sẵn

Sáo trúc em có rồi,…

Lồ Mi Fo là dân ca cổ truyền dài, dành cho những đôi nam, nữ hát

đối đáp tuỳ hứng phát triển hay kéo dài hai ba ngày đêm. Là dạng tình ca

mang nội dung phong phú, chứa đựng tính tự thuật câu chuyện dài của đôi

trai gái đã trải qua nhiều thế hệ. Dạng trường ca này vừa là truyện kể, vừa

là bài học cho các thế hệ tiếp theo mang tính quy luật. Từ khi đôi trai gái

gặp nhau, tìm hiểu, có lời ước hẹn, rồi lấy nhau thành vợ thành chồng. Họ

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 36

Page 37: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

sinh con trở thành bố mẹ, trở thành những người có ích trong cộng đồng xã

hội và lo dựng vợ gả chồng cho con cái…

Loại hát đối này thường xảy ra ở những đôi trai gái, vùng này với

vùng khác, thường hát theo lối song ca, một đôi nam và đôi nữ.

Nam:

Đẹp như em, như anh

Cớ sao em không yêu?

Không cùng anh chung sống

Vật gì em muốn tặng,

Của tin nào em ưa?

Thuốc lá ngon anh đưa,

Thuốc thơm mười hai điếu

Mười hai điều thuốc vàng

Mười hai lần quý yêu!

Yêu em, yêu thật bụng

Quý em, quý hết lòng

Không thể rời xa em

…………………….

Nữ:

Đẹp như anh, như em,

Mối tình anh, em rõ,

Lời anh ngỏ, em hay.

Quà anh vẫn còn đây

Biết lấy gì đáp lại?

Thuốc thơm mười hai điếu

Mười hai điếu thuốc vàng

Mười hai lần quý yêu;

Thuốc thơm em cũng sẵn

Thuốc vàng em còn nhiều

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 37

Page 38: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

………………………….

"Lồ Mi Fo" là loại tình ca tự sự mang tính thầm kín, nên người ta chỉ

hát về đêm. Người Lô Lô gọi loại hát này là "Vuir Tror Tangx", nghĩa là

"Câu chuyện xấu hổ".

Xuất phát từ nhu cầu trao đổi tâm tình của người Lô Lô nên bài hát

Lồ Mi Fo ra đời. Bởi vậy lối hát đã trở thành hình thức trao đổi tâm tình

không thể thiếu được của người Lô Lô nói chung và của người Lô Lô ở

Đồng Văn nói riêng. Vì họ thích kín đáo, tế nhị trong lời ăn tiếng nói nên

bài hát Lồ Mi Fo được coi là "người bạn" tin cậy nhất để họ gửi gắn tâm

sự, đặc biệt là tâm sự của thanh niên nam nữ trong tình yêu từ bước đầu

thăm hỏi, mời chào nhau, đắn đo ướm ý thử lời đến chỗ tỏ tình.

Người Lô Lô cảm thấy hát Lồ Mi Fo rất hay, rất thắm thiết, đượm

nồng và say đắm. Đây cũng chính là lý do tại sao hát Lồ Mi Fo lại có sức

sống mãnh liệt trong đời sống tinh thần của người Lô Lô ở Đồng Văn - Hà

Giang, đã vượt qua thử thách của thời gian, lưu truyền cho tới ngày nay.

2.5. Vài nét về âm nhạc dân gian Lô Lô

Âm nhạc dân gian Lô Lô gồm hai loại: Thanh nhạc và khí nhạc.

Thanh nhạc có các làn điệu dân ca, thể hiện các đề tài nghi lễ (đám

cưới), thần thoại, lao động, sinh hoạt, hát ru… Đây là loại hát trữ tình mà ai

cũng biết và ưa thích, không kể lứa tuổi giới tính. Phụ nữ đã có công lớn

trong việc gìn giữ và phổ biến loại thanh nhạc này. Trong dân ca, trừ hát ru,

các đề tài khác đều dùng chung một giai điệu âm nhạc. Mỗi nhóm trong

dân tộc đều có làn điệu riêng của mình, song tương quan về mặt nghệ thuật

vẫn khá rõ, khá nhất quán (ví dụ về thang âm, số âm, phong cách diễn

tấu…). Các bài hát ru có giai điện riêng và tiết tấu phong phú hơn, mặc dầu

số âm vẫn rất hạn chế (ba âm). Màu sắc âm nhạc vẫn giữ cái chung của dân

tộc (thang âm, quãng…).

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 38

Page 39: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Còn các bài hát của thầy cúng là loại thanh nhạc có sắc thái dân tộc,

song tính chất dân gian không đậm bằng dân ca. Thầy thường "đọc" các bài

cúng ấn, hát các bài cúng làm ma, đưa tiễn hồn người qua đời (làm ma tươi,

ma khô). Tính chất âm nhạc của giai điệu chưa thật xa ngôn ngữ nói bao

nhiêu. Xét riêng về mặt nghệ thuật, âm nhạc của bài cúng còn nghèo và có

phần kém hấp dẫn hơn dân ca (nhưng bà con vẫn xúc động và thích nghe vì

giá trị nội dung của bài ca). Loại cúng này chỉ thầy cúng biết hát. Nói

chung là chỉ nam giới đảm nhiệm, theo quy cách riêng. Nhìn chung, loại

dân ca này còn giữ nguyên tính nguyên hợp vủa văn hoá dân gian, gắn bó

mật thiết với các yếu tố nghệ thuật khác và với nghi lễ tín ngưỡng, có tính

thực hành cao.

Về khí nhạc: Có những nhạc cụ thật tiêu biểu như trống đồng, sáo

(nam, nữ). Ngoài ra có nhị (hoặc hồ).

Những đêm trăng sáng, ấm áp, sau lúc thu hoạch mùa màng hay lúc

chờ đợi lúa chín, ngô vàng, trai gái thường rủ nhau ra đồi hoặc bãi cỏ bằng

phẳng, giao lưu tình cảm với nhau bằng sáo.

Con trai có sáo M - Pi (làm bằng ống sây dài khoảng 50cm, đường

kính ống khoảng 1cm. Khoét bốn lỗ, thổi dọc, đầu sáo, nơi thổi có cắt lưỡi

gà ở ngay trên thân ống. Sáo phát năm âm) ngân nga bằng một tiết tấu

chậm rãi, mà giai điệu thì tha thiết nhờ những đồng âm được tiến hành liên

tiếp, và bán âm tự nhiên, dùng tiết kiệm đã rất gợi cảm, để lại nỗi bâng

khuâng cho người nghe (Mi - Fa - Mi). Người ta còn biết sử dụng nghịch

phách và đảo phách để giãi bày nỗi xúc động nội tâm.

Nữ có sáo Ca - lế (là loại sáo độc đáo, hiếm thấy, bé như chiếc đũa),

luôn luôn sử dụng nét nhạc hồn nhiên, tươi sáng, nghe vui, phản ánh tâm tư

trong sáng của các cô gái lao động, mới lớn, yêu đời. Chắc chắn rằng,

những điệu múa với nhiều động tác đẹp và sử dụng được toàn thân với

những cử động tinh tế (cổ tay, ngón tay, thân, chân, đầu gối…) mà phụ nữ

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 39

Page 40: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

bộc lộ khả năng đặc sắc đã có ảnh hưởng tới tâm hồn và nét giai điệu nhẹ

nhõm của sáo Ca - lế.

Trống đồng là loại nhạc cụ truyền thống nổi tiếng của người Lô Lô,

tồn tại không phải bằng sự tích mà bằng hiện vật hiển nhiên, đầy sinh khí,

nghĩa là vẫn được diễn tấu trong cuộc sống, bằng nghi lễ quy định. Quan

niệm về âm dương, phồn thực, sự sinh sôi… của người thời cổ có lẽ còn

được bảo tồn rõ ràng với lối hoà tấu hai trống đực, cái một lúc. Trống đồng

chỉ được dùng trong đám tang, giữ nhịp cho các điệu múa dân gian rộng rãi

(không quy định giới tính, lứa tuổi, số người…) mang nội dung sinh hoạt

lành mạnh. Tuỳ theo đề tài điệu múa mà tiết tấu trống thay đổi: nhanh,

chậm hoặc rộn rã, biểu diễn trống đồng bao giờ cũng tạo ra ba tiết tấu một

lúc, do một người ngồi đánh: Hai tiết tấu ở hai mặt trống cái (trống A, tiết

tấu A, bản nhạc), trống đực (trống B, tiết tấu B ở bản nhạc) dùng chung dùi

a, cầm bằng tay phải. Còn thanh tre gõ vào tang trống A (tiết tấu C ở bản

nhạc) bằng tay trái. Tấm lòng chân trọng của người xưa trước âm thanh gợi

cảm như chức năng của trống đã được hát lên trong bài Tâm sự với trống

đồng, kết thúc bằng những lời thơ đẹp mà giản dị.

"Nàng trống xinh thật xinh

Chàng trống đẹp thật đẹp".

Phụ hoạ kích thích thêm người múa là giai điệu của cây nhị (hoặc

hồ) hoà tầu rất nhịp nhàng với đôi trống đồng, tuy âm lượng không lớn,

nhưng vẫn rõ. Người kéo nhị cũng là người múa và chỉ múa chân và phần

thân dưới, còn bầu nhị tì vào phía bên trái bụng người biểu diễn.

Nhìn chung, âm nhạc dân gian Lô Lô chưa thật sự phát triển về mặt

giai điệu, trừ sáo có năm âm, còn nhị và các loại dân ca chỉ có ba - bốn âm,

chủ yếu là ba âm với lối nhảy quãng ba thứ quen thuộc. Tất cả, thanh nhạc

và khí nhạc, âm vực đều chưa vượt khỏi quãng tám. Về mặt nào đó, tiết tấu

trong âm nhạc phong phú hơn giai điệu.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 40

Page 41: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Có lẽ, do ít giao lưu rộng rãi với các dân tộc khác và thường tụ cư t

ập trung từng xóm nên màu sắc âm nhạc và phong cách diễn tấu, từ rất lâu

vẫn bảo tồn được bản sắc dân tộc sâu xa (thang âm, quãng nhảy âm thanh,

số lượng âm, tần số rung ngân lúc hát và cảm giác âm nhạc để lại trong

người nghe).

CHƯƠNG 3

SỬ DỤNG DÂN CA LÔ LÔ TRONG HOẠT ĐỘNG THÔNG

TIN TUYÊN TRUYỀN

3.1. Dân ca trong sinh hoạt cộng đồng của người Lô Lô ở Đồng Văn

hiện nay

Mang đặc tính chung của dân ca là sản phẩm của nhân dân, được lưu

truyền trong nhân dân, dân ca Lô Lô gắn bó truyền đời với đời sống của

người Lô Lô. Con người đều phải trải qua một chu kỳ: sinh ra, lớn lên, lấy

vợ, lấy chồng, sinh con rồi già cả, cuối cùng lại đi vào lòng đất mẹ. Suốt

dòng đời ấy, người Lô Lô gắn chặt với các làn điệu dân ca. Các làn điệu

dân ca cũng theo sát vòng đời của con người mà phản ánh và phục vụ.

Tìm hiểu dân ca của một dân tộc, một địa phương, điều cần thiết là

phải hiểu sâu sắc cuộc sống và quan hệ ứng xử của người dân - chủ nhân

của dân ca. Dân ca gắn liền với phong tục tập quán của một dân tộc. Một

câu dân ca hay là nhờ xây dựng được những hình tượng đẹp, đi sâu vào tâm

hồn người dân, phản ánh được những tình ý sâu kín trong mỗi con người.

Trong tất cả các loại hình nghệ thuật dân gian cổ truyền của người

Lô Lô, âm nhạc vẫn là loại hình gắn với cả cuộc đời con người. Âm nhạc đi

với người Lô Lô theo suốt chiều dài của sự lớn lên của từng lứa tuổi, nó

chia sẻ mọi niềm vui, nỗi buồn, làm cho con người càng thêm yêu cái thiện,

ghét bỏ cái ác.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 41

Page 42: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Ở người Lô Lô, âm nhạc đến đầu tiêu với con người chẳng phải là

cái gì xa lạ - đó chính là tiếng hát ru. Là những làn điệu trìu mến vang lên

theo nhịp đu đưa của chiếc nôi, vuốt ve bao bọc đứa trẻ trong giấc ngủ yên

lành. Khi đứa trẻ lớn lên, chúng đùa chơi trong sân làng hoặc nô đùa bên

sườn đồi, những câu hát cũng xen vào trò chơi của chúng. Có khi thiếu câu

ca, không thành được trò chơi cho lũ trẻ làng.

Đối với những chàng trai, cô gái Lô Lô ở Đồng Văn, trong ngày hội

hoặc những dịp gặp gỡ khác, tiếng hát đưa họ vào những rung cảm của lứa

tuổi yêu đương, mở ra những mối quan hệ mới, và dần dần đưa họ vào lứa

tuổi trưởng thành. Rồi nhiều đôi lứa bén duyên cũng từ buổi đầu trao nhau

tiếng hát giao duyên.

Trong bản, một người nhà mới dựng xong, chủ nhân làm lễ mừng

nhà mới. Vào dịp này, âm nhạc (dân ca) cũng góp phần vào sự hoan hỷ

chung của xóm bản, ca ngợi tinh thần hỗ trợ, tương thân của khối cộng

đồng xóm bản của người Lô Lô.

Trong gia đình có người ốm, phải có thuốc men cho người bệnh.

Nhưng người Lô Lô Đồng Văn cũng cầu viện câu ca của ông thầy cúng,

làm lễ giải thoát cho người đang ốm hoặc để cầu xin với tổ tiên đừng về

"qưở trách" gây hại cho con cháu.

Một người qua đời, tang lễ được tổ chức, tiếng hát chia sẻ nỗi đau

thương của gia quyến làm cho nỗi đau vơi bớt đi. Âm nhạc góp phần vào

các nghi thức tang lễ để người quá cố được siêu hinh tĩnh độ. Còn trong

đám cưới, tiếng hát làm cho đám cưới thêm rộn ràng, những bài hát là lời

dặn dò cô dâu chú rể bắt dầu bước vào cuộc sống mới.

Dân ca gắn với vòng đời con người, trong từng giai đoạn thay đổi

trưởng thành của con người và trong mọi sinh hoạt thường ngày của con

người. Đối với người Lô Lô ở Đồng Văn thì dân ca là một yếu tố gắn liền

với mọi sinh hoạt tinh thần của dân tộc. Nó là nguồn động viên sâu sắc, là

sức mạnh tinh thần giúp cho con người vươn tới những điều tốt đẹp hơn

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 42

Page 43: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

trong cuộc sống. Vì vậy dân ca có vai trò quan trọng trong đời sống của

dân tộc người Lô Lô không những trong quá khứ mà ngay cả trong thời đại

ngày nay.

"Cội nguồn chẳng những không trở thành dĩ vãng mà luôn là nguồn

gốc, là nền tảng của hôm nay".

3.2. Hoạt động thông tin tuyên truyền cổ động trong công tác xây dựng

đời sống văn hoá ở cơ sở

Trong đời sống con người, nhu cầu thông tin là một nhu cầu rất cơ

bản. Nhu cầu đó không ngừng tăng lên cùng với sự gia tăng các mối quan

hệ trong xã hội. Trong tiến trình lịch sử, con người luôn luôn không ngừng

nâng cấp hoàn thiện mình, song song với sự sáng tạo ra của cải vật chất,

tiến bộ khoa học công nghệ, đã đưa thông tin và sự chuyển tải thông tin

phát triển tới mức tối tân. Đó là hệ thống các kênh truyền hình, sóng phát

thanh, các mạng vi tính… Đó là các phương tiện thông tin đại chúng đã và

đang phát huy những ưu thế, những đặc thù của mình để chuyển tải các

thông tin cần thiết nhanh nhậy kịp thời, chính xác nhất nhằm phục vụ, đáp

ứng và thoả mãn nhu cầu thông tin của con người.

Thông tin trong xã hội ta luôn luôn đi liền với các khái niệm tuyên

truyền và cổ động, đóng một vai trò quan trọng, bởi đó là chiếc cầu nối

tiếng nói, chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước tới

nhân dân, nhằm quán triệt, giáo dục chính trị, tư tưởng, nhận thức và ý

thức về pháp luật, về tinh thần xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong lĩnh

vực kinh tế, thông tin nhằm tuyên truyền phổ biến khoa học kỹ thuật, các

quy trình công nghệ, các quy định của luật pháp về kinh doanh sản xuất,

không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế nhằm phát huy tính sáng tạo trong

lao động, học tập, tạo ra của cải vật chất cho nhân dân. Trong lĩnh vực văn

hoá xã hội, thông tin, tuyên truyền cổ động hơn bao giờ hết đã trở thành

một công cụ, một phương tiện hoạt động hữu hiệu nhất để tuyên truyền

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 43

Page 44: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

đường lối phát triển văn hoá văn nghệ của Đảng và Nhà nước, tuyên truyền

cổ động những tinh hoa, những giá trị văn hoá nghệ thuật của các dân tộc

sống trên địa bàn, những gương người tốt, việc tốt, phát huy truyền thống

văn hoá, những phong tục tập quán tốt đẹp, châm biếm, đả kích, bài trừ

những thói hư tật xấu, những hủ tục, những tệ nạn xã hội, nhằm giáo dục ý

thức công dân, xây dựng tình cảm trong sáng lành mạnh, xây dựng hành vi

cao đẹp, ứng xử có văn hoá, có nếp sống và lối sống văn hoá của mỗi cá

nhân trong một tập thể, mỗi thành viên trong cộng đồng xã hội.

Tuyên truyền luôn luôn gắn liền với cổ động và muốn cổ đông cũng

phải có tuyên truyền. Cổ đông là sự khích lệ một tư tưởng, đường lối hay

khẩu hiệu, nhiệm vụ chính trị nào đó để đánh thức và kích thích, động viên

quần chúng thực hiện. Công tác thông tin tuyên truyền cổ động có những

tính chất và đặc điểm riêng như: tính tư tưởng cao, tính chân thực, chính

xác, tính thiết thực, cụ thể, tính rõ ràng, giản dị, dễ hiểu, nhanh nhạy, liên

tục. Chính những tính chất này làm cho thông tin cổ động đóng vai trò hết

sức quan trọng trong đời sống xã hội.

Công tác thông tin tuyên truyền và cổ động được thể hiện bằng nhiều

hình thức như:

- Thông tin tuyên truyền cổ động trực quan: Tác động trực tiếp vào

trực giác của con người, gây ấn tượng mạnh, có sức cổ vũ, động viên lớn.

- Tuyên truyền cổ động miệng: Dựa vào những lời nói của tuyên

truyền viên, sinh động, hấp dẫn, dễ hiểu, nắm bắt được tâm tư nguyện vọng

của quần chúng ở cơ sở.

- Tuyên truyền cổ động nghệ thuật: Sử dụng tổng các hình thức trình

diễn nghệ thuật, trực quan và lời nói của tuyên truyền viên.

- Tuyên truyền cổ động sân khấu hoá: Dùng phức hợp thông tin nghệ

thuật và sự trình diễn của quần chúng.

Nhìn chung với các hình thức đa dạng phong phú, công tác thông tin

tuyên truyền cổ động đã thực sự góp phần xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 44

Page 45: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Công tác thông tin tuyên truyền có tầm quan trọng đặc biệt được

Đảng và Nhà nước quan tâm hàng đầu. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V

đã nhấn mạnh: "Công tác thông tin tuyên truyền cổ động là một bộ phận

quan trọng trong công tác tư tưởng của Đảng".

Trong thông tin tuyên truyền chủ trương đường lối chính sách pháp

luật của Đảng: Tuyên truyền đúng đường lối chủ trương, đồng thời sát với

tình hình ở cơ sở, các nghị quyết của Đảng bộ địa phương, vận dụng đường

lối chính sách chung vào điều kiện riêng của cơ sở, tuyên truyền cho nhân

dân biết và làm đúng, làm tốt mọi chủ trương lớn. Các hình thức tuyên

truyền lưu động ở các tụ điểm tập trung đông dân cư, phổ biến rộng rãi

phong trào đến mọi người dân. Xây dựng phong tục tập quán văn minh, giữ

gìn nếp sống văn minh ở các cơ sở, quan tâm giải quyết các điều kiện cụ

thể và vướng mắc cụ thể trong từng cụm dân cư. Hoạt động của công tác

thông tin tuyên truyền, xây dựng nếp sống mới xoá bỏ tệ nạn mê tín, các hủ

tục lạc hậu… phòng chống dịch bệnh và tệ nạn xã hội.

Tóm lại, đời sống văn hoá của một cơ sở được nâng cao, hoặc một

cơ sở xây dựng đời sống văn hoá tốt là cơ sở có môi trường văn hoá lành

mạnh, có cơ sở hạ tầng thuận lợi tạo điều kiện cho người dân tham gia hoạt

động trên mọi lĩnh vực văn hoá xã hội. Để thoả mãn nhu cầu tinh thần của

người dân, điều kiện không thể thiếu được là kết hợp song song giữa việc

đẩy mạnh các hoạt động văn hoá thông tin với việc xây dựng cải tạo và

hoàn thiện cơ sở vật chất, trong đó công tãc tuyên truyền cổ động đóng vai

trò hết sức quan trọng.

3.3. Một số kết quả đạt được trong công tác thông tin tuyên truyền cổ

động của huyện Đồng Văn và việc vận dụng dân ca Lô Lô trong hoạt

động thông tin tuyên truyền

3.3.1. Một số kết quả đạt được trong công tác thông tin tuyên truyền cổ

động của huyện Đồng Văn

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 45

Page 46: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Trong những năm gần đây, huyện Đồng Văn hoà mình cùng với

không khí thi đua trong toàn tỉnh tiếp tục thực hiện nhiệm vụ chính trị, các

nghị quyết của Đảng, đặc biệt là nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) về

xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân

tộc và các nghị quyết Đại hội Đảng tỉnh và huyện. Được sự quan tâm giúp

đỡ của Trung ương và tỉnh, nhất là Sở Văn hoá - Thông tin, cùng với sự

lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ huyện Đồng Văn và sự cố gắng của các cấp

các ngành, lực lượng vũ trang cùng với cấp uỷ chính quyền các xã đã

không ngừng đẩy mạnh các phong trào lao động sản xuất, xây dựng cơ sở

hạ tầng nông thôn. Huyện Đồng Văn đã từng bước thu hẹp dần các khoảng

cách các hộ nghèo, xóa hộ đói, nâng cao đời sống kinh tế, vật chất tinh thần

của nhân dân. Trong thành tích chung đó, có phần đóng góp không nhỏ của

ngành Văn hoá - Thông tin, Truyền thanh, Truyền hình. Những đơn vị này

đã làm tốt công tác thông tin tuyên truyền cổ động các nhiệm vụ chính trị,

xây dựng đời sống văn hoá trên địa bàn huyện bằng nhiều hình thức đa

dạng phong phú như: dàn dựng kịch thông tin, sinh hoạt văn nghệ chợ,

panô áp phích, băng zôn khẩu hiệu chuyển tải những thông tin về đường lối

chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trên các phương

tiện thông tin đại chúng, qua truyền thanh truyền hình.

3.3.1.1. Công tác thông tin lưu động

Thông tin lưu động là hình thức tuyên truyền cổ động tổng hợp, đây

là mũi nhọn xung kích, thông tin nhanh chóng, với các hình thức tuyên

truyền gọn nhẹ, cổ động bằng lời nói, bài hát, kịch ngắn thông tin, các

chương trình văn nghệ, trực quan. Tất cả được kết hợp một cách lôgíc, chặt

chẽ, tạo cho người xem dễ hiểu, giữ được ấn tượng lâu dài.

Đội thông tin lưu động thuộc Trung tâm Văn hoá - Thông tin là một

điển hình. Đội có 5 thành viên, được trang bị phương tiện gọn nhẹ để phục

vụ trong địa bàn, thường xuyên biên tập tin bài dịch ra tiếng Mông, in vào

băng casseste, dàn dựng các chương trình kịch thông tin tổng hợp, trung

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 46

Page 47: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

bình 3 kịch bản/năm. Số buổi hoạt động 65 tuổi/năm, phục vụ được hàng

trăm nghìn lượt người xem, đặc biệt là hình thức sinh hoạt văn nghệ ngày

chợ được đội thông tin thường xuyên tổ chức vào các buổi chợ phiên. Đây

là hình thức tuyên truyền rất hiệu quả, tạo ra cơ hội giao lưu văn hoá văn

nghệ giữa các dân tộc trong huyện, kết hợp việc tuyên truyền trực tiếp của

các tuyên truyền viên trong đội thông tin, được nhân dân nhiệt tình tham

gia. Hàng năm đội thông tin có một lần tham gia liên hoan đưa thông tin về

cơ sở do Sở Văn hoá - Thông tin tổ chức yheo hình thức luân phiên mỗi

năm ở một huyện trong tỉnh.

3.3.1.2. Công tác chiếu phim lưu động

Toàn huyện có 23 tổ, đội chiếu phim lưu động, cụ thể: 19 đội của 19

xã và thị trấn, 3 đội của 3 đồn biên phòng và 1 đội của Trung tâm Phát

hành phim và chiếu bóng của tỉnh nằm ở địa bàn huyện. Các đội này được

trang bị các thiết bị video đảm bảo gọn nhẹ, dễ vận chuyển, phù hợp với

địa hình vùng cao còn nhiều khó khăn về đi lại, để đi sâu tới tận các xóm

bản chiếu phim phục vụ nhân dân, chuyển tải những thông tin thời sự kịp

thời, đồng thời chiếu những phim tuyên truyền chủ trương của Đảng cũng

như những bộ phim phổ biến khoa học kỹ thuật, chăn nuôi trồng trọt tới tận

từng người dân… Chỉ tính riêng đội chiếu phim lưu động của huyện hàng

năm chiếu trung bình 180 buổi/năm, phục vụ được 45 nghìn lượt người

xem.

3.3.1.3. Công tác cổ động trực quan

Trong những năm qua, huyện Đồng Văn luôn chú trong công tác cổ

động trực quan, được đông đảo các cấp, các ngành trong huyện hưởng ứng

và tham gia bằng nhiều hình thức như: triển lãm ảnh từ nhỏ lẻ ở các buổi

chợ, các công sở cơ quan, trường học đến những kỳ cuộc lớn của huyện,

những hình thức trang trí cổ động như: băng zôn, khẩu hiệu, cờ, đèn hoa, từ

các panô nhỏ đến những cụm panô lớn, biển tường, áp phích… để cổ động

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 47

Page 48: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

cho ngày lễ, tết, ngày kỷ niệm trong năm hoặc những chiến lược lâu dài của

địa phương. Tất cả những hình thức của cổ động trực quan đã tạo nên được

những hình ảnh ấn tượng, tạo nên được không khí vui tươi phấn khởi, động

viên quần chúng nhân dân thêm hào hứng, yêu quê hương, tích cực vượt

khó để gia tăng lao động sản xuất, xây dựng quê hương mình giàu đẹp hơn.

3.3.1.4. Công tác truyền thanh truyền hình

Là một cơ quan báo chí nằm trên địa bàn huyện, trong những năm

qua công tác truyền thanh truyền hình cũng đã có nhiều khởi sắc, ngày

càng được đầu tư và phát triển. Hiện nay toàn huyện có 5 trạm phát lại

truyền hình, 68 trạm TVRO, 2 trạm phát sóng FM, tỷ lệ phủ sóng truyền

hình đạt 67%, tỷ lệ sóng phát thanh đạt 100%, việc tiếp sóng, tiếp âm của

đài tỉnh và trung ương được duy trì thường xuyên, số giờ phát sóng các

chương trình ngày càng được nâng cao. Năm 2006 số giờ tiếp sóng chương

trình VTV1, VTV2, VTV3 đã thực hiện được 20.851 giờ, ngoài ra còn thực

hiện được 104 chương trình tuyên truyền địa phương, việc tiếp âm đài tiếng

nói Việt Nam thực hiện được 11.044 giờ, phát sóng FM được 3.334 giờ,

ngoài ra các chương trình phát thanh địa phương được 85 chương trình, số

lượng tin bài ngày càng nhiều, phong phú về nội dung. Đặc biệt, các

chương trình truyền thanh, truyền hình địa phương đã có nhiều đổi mới về

hình thức và ngày càng nâng cao về chất lượng, đã bám sát định hướng

tuyên truyền của huyện, kịp thời tuyên truyền những chủ trương, đường lối,

chính sách của Đảng và Nhà nước, của cấp uỷ chính quyền địa phương,

phản ánh rõ nét các hoạt động diễn ra trên địa bàn huyện đến với nhân dân.

Vì vậy, chương trình truyền thanh truyền hình địa phương được đông đảo

người dân đón nhận và quan tâm theo dõi, phần nào đã đáp ứng được

nhiệm vụ tuyên truyền và nhu cầu thưởng thức của nhân dân trên địa bàn

huyện.

3.3.2. Vận dụng dân ca Lô Lô trong hoạt động thông tin tuyên truyền

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 48

Page 49: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

3.3.2.1. Vận dụng dân ca Lô Lô trong thông tin lưu động

Thông tin lưu động là lực lượng nòng cốt cho hoạt động của Trung

tâm Văn hoá - Thông tin huyện Đồng Văn, bởi đây là thiết chế có tính

chuyên nghiệp, có hiệu quả cao đối với công tác thông tin, tuyên truyền ở

các xã. Hơn nữa đối với một tỉnh miền núi, dân trí thấp thì việc có đội

thông tin lưu động gắn với cơ sở là vấn đề hết sức cần thiết để tuyên truyền

có hiệu quả các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước tới dân.

Trước đây, thông tin lưu động của huyện chỉ hoạt động với hình thức

tuyên truyền tiểu phẩm, chiếu bóng lưu động… Đó có thể là do đặc điểm

tâm lý hoặc sự đòi hỏi của tộc người, vì cuộc sống sinh hoạt trước đây của

họ gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn vật chất. Nhưng, bây giờ do sự phát triển

của nền kinh tế thị trường nên cuộc sống đỡ khổ hơn và việc tiếp thu văn

hoá cũng nâng cao làm cho nhu cầu hưởng thụ văn hoá của người dân càng

cao.

Hướng đi đầu tiên là đưa dân ca (Lô Lô) lồng ghép vào các chương

trình của đội thông tin lưu động, để đi tuyên truyền ở các xã cho đồng bào

tộc người Lô Lô, vì nếu chỉ dừng ở một hình thức thông tin đơn thuần là

những bài viết, bài xã luận, bài phát biểu khô khan thì có lẽ thông tin khó

mà đi vào lòng người và thôi thúc người ta hoạt động.

Do tính cấp thiết của thực tế đặt ra là làm sao để thông tin dễ gần gũi

và đi vào lòng người nhất sử dụng dân ca trong thông tin tuyên truyền là

một việc làm hết sức cần thiết và quan trọng. Bởi dân ca gần gũi, bình dị và

dễ cảm hoá được tâm hồn con người, vì vậy dân ca được phổ cập rộng rãi

nhất, sâu xa nhất và lành mạnh nhất. Vì vậy đối với hoạt động thông tin lưu

động, đây sẽ là một hình thức tuyên truyền mới, có hiệu quả.

Có thể nói, đưa dân ca lồng ghép vào hoạt động của đội thông tin lưu

động là nhằm làm cho công tác tuyên truyền không bị nhàm chán. Mặt

khác nó cũng làm thay đổi không khí, giúp cho những người xem có tâm

trạng thoải mái. Người diễn xướng thì cần thuộc nhiều bài dân ca và là

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 49

Page 50: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

nghệ nhân dân tộc thiểu số, bởi khi diễn xướng cùng đội thông tin lưu động

phải diễn xướng bằng tiếng dân tộc. Vì cùng thứ tiếng nên đồng bào nghe

dễ dàng hơn và hiểu hết toàn bộ nội dung tuyên truyền. Mặt khác, do cùng

ngôn ngữ, nên cán bộ thông tin tuyên truyền dễ tiếp xúc hơn với người dân.

Nếu, vận dụng dân ca lồng ghép vào hoạt động của đội thông tin lưu

động mà trong đó đội thông tin lưu động lại tuyên truyền bằng một tiểu

phẩm với thứ tiếng Lô Lô thì sự lồng ghép tuyên truyền này sẽ đạt hiệu quả

cao. Nhưng nếu tiểu phẩm tuyên truyền bằng tiếng Việt thì khi đi tuyên

truyền ở vùng đồng bào dân tộc Lô Lô hiệu quả sẽ không cao,

Chương trình lồng ghép dân ca và đội thông tin lưu động (bằng một

tiểu phẩm) có thể theo chương trình mẫu như sau:

- Có thể đưa dân ca lên tiết mục đầu hoặc tiểu phẩm là tiết mục đầu.

- Giới thiệu đại biểu.

- Giới thiệu nội dung tiểu phẩm cần tuyên truyền.

- Mở màn:

+ Tuyên truyền miệng: vai trò, giá trị của dân ca trong đời sống của

dân tộc, của làng bản.

+ Tiểu phẩm tuyên truyền: kịch ngắn về chủ đề giữ gìn văn hoá

truyền thống (cùng với tuyên truyền tiểu phẩm thì đội ngũ thông tin lưu

động chúng tôi gửi tới bà con những bài dân ca bằng tiếng đồng bào).

Chương trình của chúng tôi đến đây là kết thúc.

Mặt khác, có thể đưa dân ca lồng ghép với đội chiếu bóng. Đây là cơ

hội đưa dân ca đến với đồng bào tộc người Lô Lô nhiều hơn. Bởi vì, đội

thông tin lưu động tuyên truyền bằng chiếu bóng có thể ở lại xã ít nhất 2 - 3

ngày, có thời gian để đưa dân ca tới nhân dân nhiều hơn và làm cho họ có

sự quan tâm tới dân ca hơn.

Như vậy, việc lồng ghép dân ca vào hoạt động thông tin lưu động đi

lưu diễn, cũng chỉ là một mảng nhỏ của hoạt động thông tin cổ động, có

tác dụng nâng cao đời sống văn hoá làng bản, định hướng và giúp đỡ làng

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 50

Page 51: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

bản trong tổ chức hoạt động văn hoá, kích thích sự sáng tạo văn hoá của

quần chúng nhân dân ở làng bản.

Dân ca là đứa con tinh thần của nhân dân lao động, có sức truyền

cảm lớn trong nhân dân. Để nó phục vụ đồng bào có hiệu quả hơn, ta có thể

đặt lời mới cho các làn điệu dân ca, với nội dung thông tin tuyên truyền. Vì

dân ca khi tham gia tuyên truyền chứa đựng sức nặng nghệ thuật to lớn,

dân ca mang màu sắc trữ tình nhẹ nhàng, duyên dáng, có sức lôi cuốn mãnh

liệt, gây xúc động lòng người, chủ đề dân ca thật phong phú, nó ca ngợi

tình yêu quê hương đất nước, ca ngợi tình yêu lứa đôi, truyền thống đạo

đức, phê phán các tệ nạn xã hội và ở đâu, bất cứ lúc nào dân ca cũng đem

đến cho người nghe, người xem những nội dung thông tin đặc sắc bằng

nhiều thể loại sinh động và đầy chất dân gian…

Ví dụ: Nội dung tuyên truyền tới đồng bào là luật hôn nhân và gia

đình thì nghệ nhân hát dân ca phải nói đến đề tài hôn nhân.

Nghệ nhân hát (nói đến hôn nhân), được hát theo làn điệu của dân ca

(dân ca giao duyên) và được trình bày theo lối hát đối đáp. Như vậy, vừa

tuyên truyền được nội dung cần thiết tới người dân vừa phát huy được vốn

văn hoá truyền thống.

3.3.2.2. Vận dụng trong văn nghệ quần chúng

Trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước hiện nay, âm

nhạc đã đi sâu vào đời sống sinh hoạt của con người. Âm nhạc đã trở thành

món ăn tinh thần không thể thiếu được của người dân trên toàn thế giới.

Đối với người Lô Lô, âm nhạc hiện đại ngày nay cũng lôi cuốn họ theo

vòng xoáy chung của thế giới âm nhạc. Trong đó, đặc biệt là những thanh

thiếu niên có thể bất chấp mọi công việc kể cả để âm nhạc dân gian truyền

thống của dân tộc mình mai một theo thời gian, mà để chạy theo xu hướng

chung của thế giới âm nhạc hiện đại. Cho nên, không chỉ đối với tộc người

Lô Lô mà kể cả các tộc người thiểu số khác trên đất nước đều cho rằng âm

nhạc là linh hồn, là cầu nối giữa con người với con người xích lại gần nhau

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 51

Page 52: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

hơn trong cuộc sống. Chính âm nhạc cũng giúp con người có sự thoải mái

hơn về cuộc sống tinh thần sau một ngày làm việc mệt mỏi.

Tâm lý con người Lô Lô cũng giống như tâm lý chung của bao dân

tộc khác đều mong muốn học hỏi. Khi đưa văn nghệ quần chúng đi diễn ở

làng bản nhiều người Lô Lô thì ta có thể lợi dụng chương trình tiết mục văn

nghệ mà đưa dân ca lồng ghép với văn nghệ quần chúng. Ta vận dụng hài

hoà giữa dân ca và các bài hát dân ca, thì nghệ nhân hát bằng cách hát dân

ca với tiếng dân tộc hoặc hát bằng cả hai thứ tiếng kết hợp. Hơn nữa, người

nghệ nhân mời bà con nếu có ai biết hát dân ca thì lên cùng tôi hát. Lúc đó

chắc chắn sẽ sôi nổi hơn và người biết ít hay nhiều về hát dân ca cũng có

cơ hội thể hiện mình trước công chúng đi lưu diễn như thế nhiều lần một

điều chắc chắn là trong một thời gian sẽ có nhiều người biết đến dân ca.

Khi biết về giá trị của dân ca thì họ sẽ quý trọng và lưu truyền cho con

cháu đời sau, từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng hình thức truyền miệng.

Làm như vậy dân ca sẽ mãi lưu truyền trong người dân mà không bị mất

mát. Mà đời sống của người dân cũng được cải thiện về nhiều mặt nhất là

về văn hoá tinh thần. Mặt khác, kiên quyết chống những hiện tượng và

hành vi thô bạo, lai căng, phản văn hoá. Kế thừa phát huy truyền thống

nhân ái nghĩa tình, thuần phong mỹ tục, đi đôi với bài trừ hủ tục mê tín dị

đoan và các tệ nạn xã hội khác.

Chương trình mẫu đưa dân ca vào văn nghệ quần chúng.

- Nhân lực tham gia:

+ Nghệ nhân hát dân ca (2 nghệ nhân).

+ Người tham gia văn nghệ quần chúng (10 người).

- Kinh phí đầu tư cho đêm lưu diễn và tập chương trình.

- Đạo cụ và trang phục cho đêm diễn.

Chương trình.

+ Giới thiệu đại biểu đến dự

+ Đọc lý do đến biểu diễn

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 52

Page 53: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

+ Mở màn:

- Giới thiệu nghệ nhân và hát dân ca

- Tiết mục văn nghệ quần chúng của huyện

- Tiết mục văn nghệ quần chúng của xã

Kết thúc chương trình mọi người đều ra sân khấu hát.

3.3. Một số giải pháp để bảo tồn và phát triển dân ca Lô Lô trong cuộc

sống hiện nay

Văn hoá dân tộc là di sản vô giá cha ông để lại. Không những thế mà

'Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vưa là động lực

thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội" Chúng ta tự hào vì văn hoá Việt Nam

là văn hoá đa dân tộc nhiều màu sắc. Vì vậy, việc nghiên cứu giữ gìn phát

huy bản sắc văn hoá và di sản văn hoá quý báu của từng dân tộc người

trong cộng đồng dân tộc Việt Nam là công việc có tầm quan trọng lớn lao

đối với mỗi thế hệ người Việt Nam.

1. Trước hết Đảng và Nhà nước cùng các cơ quan chính quyền sở tại

địa phương cần quan tâm hơn nữa đối với đời sống xã hội của người Lô

Lô, nhất là vấn đề kinh tế. Kinh tế xã hội của người Lô Lô ở Đồng Văn -

Hà Giang là dựa vào nông nghiệp. Đồng bào ở đây quanh năm làm ruộng,

nương rẫy nên thời gian giành cho hoạt động văn hoá tập thể hầu như là

không nhiều. Nhà nước cần có chính sách ưu tiên cho đồng bào của dân

tộc, bởi kinh tế có vững thì các hoạt động văn hoá mới có thể duy trì

thường xuyên được.

2. Khôi phục, sưu tầm các làn điệu dân ca. Hiện nay, với nền kinh tế

thị trường mở cửa, cho nên đời sống văn hoá các dân tộc ít người cũng thay

đổi theo cụ thể là những làn điệu dân ca thể hiện các phong tục tập quán, lễ

nghi và cuộc sống sinh hoạt cũng đã bị quên lãng. Cùng với sự di dân từ

nơi khác đến. Vì vậy, mà các làn điệu dân ca bằng cách điền dã ở những

nơi vẫn còn văn hoá truyền thống về dân ca, sưu tầm một số tài liệu qua

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 53

Page 54: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

sách báo nói đến dân ca, khảo cứu, ghi âm qua những gì nghe được, ghi

hình các tư liệu thấy được ở mọi nơi, phục dựng lại môi trường diễn xướng

dân ca (ghi chép, truyền lại cho thế hệ trẻ, tích cực xây dựng phong trào

thông tin tuyên truyền, làm sao giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc theo

khuynh hướng chung ngày nay trở về cội nguồn bản địa.

Công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước hiện nay đã ảnh

hưởng đã ảnh hưởng đến lứa trẻ quá mạnh. Bởi vì, ở lứa tuổi là quãng đời

họ thấy trong sáng đẹp đẽ nhất, thích tìm hiểu và khám phá những cái mới

lạ chưa từng gặp, thích cảm giác mạnh cho nên giới trẻ bây giờ quên đi

những tác phẩm dân ca truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc mà họ

không hề hay biết.

Vì thế những làn điệu dân ca của nhiều dân tộc ít người ở Việt Nam

nói chung và đồng bào Lô Lô nói riêng bị mai một dần trong bàn tay chủ

nhân của tương lai đất nước. Đó là, điều đáng buồn trong đời sống thanh

thiếu niên hiện nay.

3. Phổ cập kiến thức nâng cao mặt bằng dân trí cho đồng bào các

dân tộc, đặc biệt là đối với dân tộc Lô Lô. Khi có kiến thức con người có

thể định hướng mọi vấn đề, giúp họ hiểu được vai trò và tác dụng các làn

điệu dân ca của dân tộc.

4. Cần tổ chức sưu tầm các làn điệu dân ca để đặt lời mới cho một

nội dung thông tin, trước hết phải hiểu rõ, hiểu sâu ngôn ngữ dân ca cho

phù hợp với vùng, với địa phương mà ta cần tuyên truyền, phải đảm bảo

hai tiêu chuẩn đúng và hay, nhanh nhạy, kịp thời, có hiệu quả thiết thực mà

ít tốn kém về tài chính.

Về đặt lời mới cho các làn điệu dân ca phải chuẩn bị thật chu đáo,

làm sao thông tin rõ ràng, chính xác, tránh sự gượng ép thô thiển, gây cười

vô bổ, gây khó chịu cho người xem, người nghe.

Muốn vậy nên chọn những làn điệu ngắn, có tiết tấu sôi nổi phong

phú, sinh động. Đó cũng là một yêu cầu quan trọng đối với người tuyên

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 54

Page 55: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

truyền viên, biên tập viên - sáng tác, dàn dựng và trình diễn các chương

trình văn nghệ thông tin.

5. Xây dựng đội ngũ cán bộ. Con người là nguồn lực phú cường của

đất nước, cùng với việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, việc đầu tư, tuyển

chọn đội ngũ cán bộ có đủ năng lực là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Sự

phát triển xã hội phải được thực hiện bằng chính sức mạnh của con người.

Mỗi công ty, xí nghiệp muốn phát triển được sản xuất thì yếu tố hàng đầu

không phải là máy móc thiết bị mà là con người và "chất xám" của con

người. Công việc sưu tầm bảo quản giới thiệu những sản phẩm văn hoá

truyền thống của dân tộc cần phải tiếp nhận những cử nhân được đào tạo

đúng chuyên ngành có chuyên môn nghiệp vụ, có ý thức cộng đồng và phát

huy tính tích cực của cá nhân có óc tư duy sáng tạo, có tác phong công

nghiệp, có tính tổ chức và kỹ thuật cao thúc đẩy tiến độ hoàn thành các

khâu tổ chức thông tin tuyên truyền, sớm đưa thông tin lưu động ra mắt

công chúng hoạt động đạt hiệu quả nhất.

6. Tổ chức các hoạt động nghiệp vụ cho nghệ nhân, nghệ sĩ.

Để bảo tồn được giá trị của những làn điệu dân ca, cần phải tiến hành

các bước bằng nghiệp vụ của công tác bảo tồn sưu tầm tổ chức các buổi tập

huấn ngắn hạn cho các nghệ nhân, nghệ sĩ, khuyến khích nghệ nhân, nghệ

sĩ truyền khẩu sau đưa về ứng dụng vào cuộc sống của đồng bào.

Trung tâm văn hoá thông tin trong đó có nghệ nhân, nghệ sĩ phối hợp

với làng xã hay các trường học phát động cuộc thi tìm hiểu về dân ca. kết

quả cuộc thi sẽ cho lượng thông tin có ích nhất, phục vụ cho công tác sưu

tầm, kiểm kê. Đó chính là một phần của công tác giáo dục quần chúng.

Tổ chức các cuộc liên hoan văn nghệ có sự tham gia của lực lượng

đông đảo quần chúng, cơ quan đoàn thể để khai thác các làn điệu dân ca,

các vốn văn nghệ dân gian tạo nên sự linh động phong phú, giản dị, gần gũi

với cuộc sống của nhân dân.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 55

Page 56: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Tổ chức các cuộc thi hát dân ca, đặc biệt là dân ca Lô Lô để bà con

dân tộc đặc biệt là dân tộc Lô Lô có nhiều dịp thưởng thức, tìm hiểu các làn

điệu dân ca của dân tộc mình.

Trung tâm văn hoá thường xuyên tổ chức các cuộc thi sáng tác các

ca khác dựa trên các chất liệu dân ca Lô Lô để có thêm các tác phẩm mới,

có chất lượng cao phục vụ cho công tác thông tin tuyên truyền. Bởi trong

thời đại thông tin bùng nổ như hiện nay, nó cũng làm cho tính lỗi thời của

thông tin càng trở nên phố biến hơn, không chỉ có thôn tin mà bất cứ một

hiện tượng gì, sự vật nào cũng có thể bị lỗi thời nếu không có sự phát triển

và đổi mới. Sự lặp lại đơn điệu thường gây một cảm g ác nhàm chán và dân

ca chũng vậy, nếu chính ta cứ sử dụng mãi những điều hát đó thì sẽ làm

cho người nghe, người xem cảm giác nhàm chán và họ sẽ chuyển sáng các

hình thức thông tin khác.

Đông viên khuyến khích nghệ nhân truyền khẩu dậy bảo các làn điệu

dân ca cho những lứa tuổi trẻ. Chú trọng bồi dưỡng các tài năng.

7. Đầu tư kinh phí. Muốn thực hiện tốt giải pháp trên cần phải có

nguồn kinh phí hơn. Do vậy cần cung cấp kinh phí cho các hoạt động của

trung tâm văn hoá huyện và nghệ nhân, nghệ sĩ, các ngành các cấp hỗ trợ

ủng hộ về vốn để nghệ nhân, nghệ sĩ cùng đội thông tin tuyên truyền nhanh

chóng vào hoạt động, phục vụ quần chúng, thực hiện được sứ mệnh lịch sử

giao phó.

Không chỉ hôm qua mà hôm nay dưới sự lãnh đạo của Đảng văn hoá

thông tin gắn bó với nhau, hỗ trợ nhau và một mục đích phục vụ cho sự

nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước có hiệu quả.

Trên đây chỉ là một số giải pháp mang tính chất chung nhất. Nó có

thể gợi mở phần nào công việc bảo tồn hữu hiệu nhất đối với dân ca, tạo

thêm lực cho dòng chảy dân ca ngày một lớn đủ sức vượt qua xu thế toàn

cầu hoá hiện nay.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 56

Page 57: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

KẾT LUẬN

Hát dân ca của người Lô Lô nói riêng và của các dân tộc nói chung

là một loại hình văn hoá dân gian có nguồn gốc và quá trình hình thành từ

lâu đời. Nó ra đời, hình thành và phát triển là nét đặc sắc riêng của đồng

bào Lô Lô. Môi bài dân ca với những âm thanh nhịp điệu, tiết tấu với các

hình tượng văn hoá sâu sắc giản dị, trong sáng mà đẹp đẽ.

Dân ca tồn tại và phát triển trong lòng tộc người Lô Lô nên nó có

mặt trên tất cả mọi lĩnh vực của hoạt động xã hội, kinh tế chính trị, đời

sống văn hoá và quan trọng hơn là trong hoạt động thông tin tuyên truyền.

Do đó sử dụng những làn điệu dân ca trong công tác thông tin tuyên truyền

là công việc vô cùng quan trọng, nhất là trong thời kỳ đổi mới, đất nước

mở cửa, hoà nhập giao lưu văn hoá quốc tế, thì những giá trị văn hoá

truyền thống dân tộc cần được bảo lưu, phát triển chống nguy cơ suy thoái,

mai một bởi âm nhạc cũng như nhiều sản phẩm văn hoá nghệ thuật của các

nước ồ ạt tràn vào bằng nhiều con đường, bằng nhiều phương tiện khác

nhau, rất dễ làm băng hoại đạo đức và truyền thống dân tộc. Đứng trước

những thử thách lớn đó nếu chúng ta không nắm vững vốn văn hoá nghệ

thuật dân tộc, vốn dân ca truyền thống của cha ông thì chắc chắn nên văn

hoá của ta dễ bị mất phương hướng và không còn lưu giữ được bản sắc dân

tộc tốt đẹp của chính mình nữa.

Việc tìm hiểu dân ca Lô Lô nhằm kế thừa và phát triển để sử dụng

trong hoạt động thông tin tuyên truyền là nhiệm vụ quan trọng không

những của người làm công tác văn hoá nghệ thuật mà là nhiệm vụ của tất

cả mọi người.

Dân ca phản ánh niềm lạc quan và khát vọng của người Lô Lô, là

những giá trị văn hoá được nhân dân sáng tạo ra để phục vụ cuộc sống lao

động, sinh hoạt của cộng đồng dân tộc, đồng thời nó đem lại cho con người

trí tưởng tượng phong phú và nguồn cảm xúc thẩm mỹ được đúc kết lại

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 57

Page 58: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

thành kho tàng tri thức dân gian vô cùng phong phú. Vì vạy trong thời kỳ

hiện nay khi chúng ta sắp bước vào kỷ nguyên của nền văn minh thông tin,

với sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ thông tin, trong đó quan trọng

nhất là vai trò của máy tính. Có thể hình dung trong tương lai không xa ở

nước ta và nhiều nước đang phát triển khác công nghệ thông tin học máy vi

tính sẽ đi sâu vào từng lĩnh vực của đời sống mỗi gia đình, thậm chí mỗi cá

nhân đều biết sử dụng máy vi tinh và có máy vi tính, để dùng, giải phóng

sức lao động cần thiết cho con người. Do đó chúng ta cần phải hiểu rõ tầm

quan trọng của dân ca trong chương trình thông tin tuyên truyền, để bảo tồn

được vốn dân ca trong thời buổi hiện đại ngày qua. Các đội thông tin lưu

động cần phải có một nội dung, một hình thức dân ca thích hợp, dễ hiểu, dễ

nhớ để đáp ứng nhu cầu của người dân trong từng giai đoạn. Bên cạnh các

hình thức cổ động trực quan như panôápphích, băngzôn, khẩu hiểu… để

gây sự chú ý thì sử dụng các làn điệu dân ca lại dễ dàng đi vào lòng người,

khơi dậy tình cảm của họ giúp họ hiểu được điều hay lẽ phải và hành động

đúng.

Nghệ thuật dân ca nếu được sử dụng tốt trong hoạt động thông tin

tuyên truyền sẽ làm cho cuộc sống của chúng ta ngày càng lành mạnh, văn

minh hơn, ngày càng đẩy lùi các tệ nạn xã hội, đẩy lùi các hủ tục lạc hậu.

Vì vậy Đảng và Nhà nước ta cần có kế hoạch cụ thể về việc bảo tồn nền

văn hoá ở những vùng đồng bào dân tộc ít người trong đó có dân ca của

người Lô Lô. Các cơ quan nghiên cứu cần liên kết với nhau để nghiên cứu

sưu tầm dân ca một cách có hệ thống và đồng bộ. Bởi dân ca là di sản văn

hoá hàm chứa những giá trị, bản sắc độc đáo của người Lô Lô nói riêng và

của Việt Nam nói chung.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 58

Page 59: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Trung Vũ - Dân ca Lô Lô - Nhà xuất bản Văn hoá Hà Nội - 1975

2. Lô Giàng Páo - Dân ca trong lễ hội của người Lô Lô - NXB Văn hoá

Dân tộc - 2004.

3. Hoàng Văn Thụ - Dân ca các dân tộc thiểu số Việt Nam NXB VHDT - 1997

4. Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc) - Nhà xuất bản

khoa học xã hội. H. 1987

5. Bế Viết Đẳng - Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế xã hội

ở Việt Nam - Nhà xuất bản chính trị Quốc Gia - VHDT, H. 1996

6. Lò Giàng Pào - Tìm hiểu Văn hoá các dân tộc thiểu số - NXB Văn hoá

dân tộc, H. 1997.

7. Lò Giàng Pháo - Trống đồng cổ với các dân tộc người Hà giang -

NXB Văn hoá Dân tộc, H. 1996.

8. Lịch sử tộc người vùng biên giới phiá Bắc - Nguyễn Chí Nguyên,

Hoàng Hoa Toàn, Lương Văn Bảo - Đại học Thái Nguyên - 1996.

9. Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam - Võ Quang Nhơn,

H. Đại học và Trung học chuyên nghiệp.

10. Lích sử Đảng bộ huyện Đồng Văn.

11. Trang phục các tộc người nhóm ngôn ngư Tạng - Miến - ThS. Đỗ Thị

Hoà - NXB VHDT - 2004.

12. Lò Giàng Pào - Hoàng Nam: Truyền cổ Lô Lô - NXB VHDT - 1994

13. Nguyễn Đăng Duy - Nhan diện văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam

- NXB VHDT - 2004

14. Văn hoá và sự phát triển các dân tộc ở Việt Nam - NXB VHDT -

1996.

15. Văn hoá truyền thống các dân tộc Hà Giang - Hùng Đình Quý (chủ

biên) - NXB Sở văn hoá - Thông tin Hà Giang - 19994.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 59

Page 60: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

16. Lê Duy Đại - Triệu Đức Thanh: Các dân tộc ở Hà Giang - NXBTG -

TT TTVH các dân tộc.

17. Lời ca tỏ tình - NXB văn học.

NHỮNG NGƯỜI CUNG CẤP TÀI LIỆU

TT

Họ và tên Tuổi Nghề nghiệp Địa chỉ

1Nguyễn Trùng

Thương52

Giám đốc Sở Văn hoá tỉnh Hà

GiangThị xã Hà Giang - tỉnh

Hà Giang

2 Dương Ngọc Đức 45Cán bộ Ban Tuyên giáo huyện uỷ

Đồng Văn

Huyện Đồng Văn - Hà

Giang

3 Lương Mãn Doanh 42Phó giám đốc Trung tâm Văn hoá

TT - TT huyện Đồng VănĐồng Văn - Hà Giang

4 Vàng Dỉ Sùng 65 Ở nhàXã Lũng Cú - Đồng

Văn - Hà Giang

5 Lù Thị Điếng 60 Nông dânLũng Cú - Đồng Văn -

Hà Giang

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 60

Page 61: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

PHỤ LỤC

LỜI CA CỦA THẦY MO

TRONG LỄ TẾ TRỜI ĐẤT

Thuở chưa có trời đất

Trời đất nàm sát nhau

Mặt hai người nhợt nhạt

Chưa tách rời được nhau

Một hôm mẹ Đất bảo

Có lẽ phải tách ra

Ai nằm trên là bố

Ai ở dưới là mẹ

Bố trời nghe nói vậy

Tại sao lại làm thế

Cứ thế này thì sao

Ai mà tách ra được.

Mẹ Đất lại nằn nì

Bố Trời cũng nghe ra

Liền vùng dậy xem sao

Nhưng không sao dậy nổi.

Ôi! Làm sao lại thế này

Có ai xui ai khiến

Làm sao lại thế kia

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 61

Page 62: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Có ai xui ai bẩy.

Sao mà tách được ra

Làm sao rời được ra

Mọi vật xung quanh ta

Chặt như chôn như dính

Ôi! Một vật rất cao to

Tên là Sáng đâu tới

Đặt Trời lên trên đầu

Rồi đội trời lên cao

Ôi! Đây là nơi nào vậy

Đâu phải là trời cao

Nhìn lên còn xa lắm

Làm sao tới tận cùng

Phải sống nơi lưng chừng

Không muốn sống phải sống

Lên thì làm sao đây

Muốn xuống không xuống nổi.

Ôi! Đã tới lưng chừng

Không muốn cũng phải đi

Lấy chân đạp mà đi

Dùng tay cào mà tới

Phải mất mười mấy năm

Vật lộn với gian nan

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 62

Page 63: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Cúi đầu không ngoảnh lại

Mới tới nơi cùng trời.

Cuộc sống nơi cùng trời

Không biết từ bao lâu

Có ai đếm được ngày

Không ai nhớ được tháng.

Dù sống ở trên cao

Cuộc sống buồn làm sao

Bố Trời nhớ Mẹ Đất

Nhưng không sao xuống được

Phải làm thế nào đây

Miệt mài không nản trí

Để tạo ra mặt trăng

Mặt trăng có đây rồi.

Trong suốt mười hai năm

Mười hai năm trăng sáng

Trăng sáng soi đường đi

Bố Trời gặp Mẹ Đất.

Trở lại nơi cũ xưa

Bố Trời gặp Mẹ Đất

Tình giọt nước để lại

Bố Trời lại về trời.

Ôi! Sau mươì hai năm

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 63

Page 64: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Giọt nước thành đá trắng

Hòn đá to dần ra

Và to bằng quả núi.

Thời gian cứ trôi đi

Rồi mười hai năm nữa

Với mười hai con mắt

Bố Trời mở mắt ra.

Ôi! Mới hé mở mắt ra

Làm sao lại thế kia

Hòn đá nở xoè ra

Như bông hoa dưới đất.

Ôi! Làm sao có cảnh này

Sao nhìn thấy cảnh kia

Nhìn đời từ trên xuống

Sinh nở từ dưới lên

Nỗi buồn của Bố Trời

Vộn nén để trong lòng

Hòn đá thì nở ra

Lòng trời đang thắt lại

Ôi! Mưa đã rơi từ đâu

Mưa từ trên trời xuống

Nước mắt bố Trời chăng

Thấy khỉ con ra đời.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 64

Page 65: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Trời khóc tiếng sấm kêu

Trời giận tiến sét đánh

Đàn khỉ đâu biết thế

Chạy vào nấp trong hang.

Có ai mà ngờ vậy

Đàn khỉ mới chui ra

Đó là những đứa con

Của Bố Trời - Mẹ Đất

Ôi! Từ một lần gặp đó

Trở về thăm Mẹ Đất

Bố Trời đã để lại

Những đứa con đầu lòng.

Cũng đã từ rất lâu

Bố Trời cùng mặt trăng

Xuống để thăm Mẹ Đất

Và đàn con dại khờ.

Xuống nhìn thấy đàn con

Mọi vật đều lạ lẫm

Bố Trời nhìn đàn con

Chưa đứa nào biết nói.

Tiếng là có đàn con

Chúng chỉ giương mắt nhìn

Vung chân nhảy bên trái

Khua tay leo bên phải.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 65

Page 66: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Mọi vật dưới trần gian

Chưa hề có cây cỏ

Các loài vật cũng chưa

Chưa có một thứ gì.

Một thời với đàn con

Cuộc sống thật vô vị

Bố Trời lại thấy buồn

Thỉnh thoảng Bố Trời quát.

Đàn khỉ nghe tiếng sấm

Đó là tiếng Bố Trời

Đàn khỉ nghe tiếng sét

Tiếng Bố Trời quát con

Nào có biết gì đây

Cứ nghe thấy tiếng gầm

Thì đàn khỉ lại sợ

Chạy vào nấp trong hang

Ôi! Tiếng sét có lúc to

Tiếng sấm có lúc nhỏ

Lúc kêu như thì thầm

Lúc gầm xé bên tai.

Đàn khỉ đâu có ngờ

Lúc tiếng sấm sét kêu

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 66

Page 67: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Là tiếng nói của cha

Cha buồn không ai biết.

Lúc tiếng sét xé tai

Là khi cha tức giận

Cha giận không ai hay

Cha buồn không ai biết

Năm tháng cứ trôi đi

Tiếng sấm từ lúc lạ

Nay cũng đã quen dần

Đàn khỉ đỡ sợ hơn.

Tiếng sấm và cơn mưa

Diễn đi rồi diễn lại

Làm cho đàn khỉ quen

Không sợ như xưa nữa.

Từ lúc sợ tiếng sét

Nay chỉ còn giật mình

Từ khi sợ cơn mưa

Nay biết tìm chỗ trú.

Cứ mỗi khi giật mình

Từ tiếng sét inh tai

Tiếng hét lại phát ra

Gọi cả đàn tháo chạy

Cứ quen dần như thế

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 67

Page 68: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Khi nghe tiếng sấm kêu

Đàn khỉ lại ra hiệu

Cho cả đàn chạy trốn.

Quen dần với tiếng sấm

Gần dần với tiếng mưa

Đàn khỉ không lạ nữa

Nô đùa suốt ngày đêm

Ôi! Thời gian với Mẹ Đất

Không kể được ngày tháng

Ngày tháng cứ trôi đi

Không sao lôi kéo lại.

Bố Trời nhìn đàn con

Đàn con ngày khôn lớn

Bố Trời mừng trong bụng

Lại muốn trở về trời.

Nhìn cỏ cây sông núi

Mọi vật đều xanh tươi

Tranh nhau vươn cao ngọn

Hoa đua nhau chọn màu.

Mẹ Đất cũng đủ sức

Kiếm đủ nuôn đàn con

Muôn vật trên trái đất

Mẹ Đất trông không rồi.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 68

Page 69: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Nhìn cảnh sống đông vui

Bố Trời thấy nhẹ người

Không muốn trở về nữa

Nơi tận cùng trời cao.

Nghĩ lại lời nói xưa

Của Mẹ Đất từng nói

Phải tách nhau ra đi

Kẻ ở trên, người dưới

Mẹ Đất nói làm sao

Ông Sáng làm như vậy

Mẹ Đất nói thế nào

Ông Sáng làm thế đó.

Đã đến lúc Bố Trời

Phải chia tay Mẹ Đất

Đã đến lúc Bố Trời

Phải chay tay đàn con

Tất cả để lại sau

Sông núi đều lưu luyến

Mẹ Đất thầm nhìn theo sau

Đàn con rớm lệ sầu

Từ lần đó trở về

Lúc nhớ tới Mẹ Đất

Khi nhớ tới đàn con

Bố Trời thường phải nghĩ.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 69

Page 70: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Bố Trời và mặt trăng

Đã trải qua nhiều thời gian

Tạo các vì sao sáng

Để canh cho giấc ngủ

Mặt trăng dậy về đêm

Các vì sao cùng thức

Canh giấc ngủ Mẹ Đất

Canh giấc ngủ đàn con

Khi Bố Trời đi ngủ

Cũng là lúc về đêm

Về đêm Mẹ Đất ngủ

Muôn vật đều ngủ theo.

Khi bố Trời thức dậy

Là lúc trời toả sáng

Mẹ Đất cũng không ngủ

Muôn vật đều thức theo

Từ lần trở về trời

Bố Trời không xuống nữa

Hàng ngày mở mắt ra

Nhìn các con dưới đất

Lúc Bố Trời mở mắt

Sưởi ấm cho Mẹ Đất

Soi sáng cho đàn con

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 70

Page 71: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Hơi thở cho muôn loài.

Năm tháng cứ trôi qua

Những đứa con Bố Trời

Và đàn con Mẹ Đất

Đã ngày càng lớn khôn

Con trai của Bố Trời

Con gái của Mẹ Đất

Ăn chung và ở chung

Rồi sinh con đẻ cái

Con cái họ sinh ra

Cũng là con Bố Trời

Con cái họ đẻ ra

Cũng là con Mẹ Đất

Sinh khí nhờ Bố Trời

Sinh cỏ nhờ Mẹ Đất

Trên trời sống ra sao

Dưới đất cũng sống vậy.

Muốn làm đẹp cho mình

Tìm nhựa cây mà vẽ

Muốn làm đẹp cho người

Kiếm thân cây mà kẻ.

Hạt cườm sẵm bờ sông

Đông màu như hoa cỏ

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 71

Page 72: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Muốn làm đẹp cho thân

Xiên hạt cườm làm dáng.

Năm tháng cứ trôi đi

Không sao cưỡng lại được

Đàn khỉ của Bố Trời

Đàn con của Mẹ Đất

Trước khi là đàn khỉ

Nay đã biến thành người

Trước đây đi bốn chân

Nay chỉ còn hai chân

Ôi! Lạ thay từ đàn khỉ

Những tiếng ra hiệu xưa

Bằng tiếng la tiếng hét

Bằng cái nhảy cái đu.

Nay đàn khỉ khác xưa

Tiếng la bằng tiếng nói

Tiếng kêu bằng tiếng gọi

Tiếng mọi người như nhau.

Biết nghe rồi biết nói

Biết tìm đá chặt cây

Biết mò dây bới củ

Biết săn thú trong rừng.

Họ toả đi khắp nơi

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 72

Page 73: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Khắp nơi đều là họ

Hôm nay thì ở đây

Ngày mai là nơi khác.

Đi biết đó biết đây

Biết tìm cây để trồng

Cây kê trồng phía trên

Cây lúa gieo phía dưới

Từ chỗ ở trong hang

Nay làm nhà làm cửa

Đàn bà việc nhà riêng

Đàn ông mải săn thú.

Con gấu gầm phía trên

Con hổ gào phía dưới

Trông thấy gấu thì nghèo

Nhìn thấy hổ thì chết

Muốn canh giữ đám nương

Làm lều nương để ở

Làm lều phải có cây

Làm nương phải có đất.

Các giống trồng để ăn

Mỗi ngày thêm một thứ

Mỗi thứ thêm một vị

Ngày một nhiều thêm lên.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 73

Page 74: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Giống cây càng nhiều lên

Thức ăn ngày một đủ.

Không phải kiếm ăn xa.

Không đi lang thang nữa.

Lạ thay có ánh lửa

Hai hòn đá va nhau

Lửa xoè cháy cỏ tranh

Có lửa từ khi ấy.

Lửa dùng để đốt cây

Lửa nướng cho chín củ

Lửa đốt nương đốt rẫy

Lửa dùng nấu thức ăn

Ôi! Từ khi sinh ra lửa

Lửa soi đường soi lối

Lửa soi sáng tối ngày

Lúc nào cũng cần lửa.

Vật lạ từ nơi đâu

Cứng hơn gỗ hơn đá

Vật lạ lấy từ đâu

Có trong đá trong núi

Người ta gọi vật cứng

Bằng cái tên là sắt

Sắt dùng để rèn dao

Đem sắt ra rèn búa.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 74

Page 75: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Đốt rẫy đã có lửa

Chặt cây đã có búa

Lửa ấm nhà ấm cửa

Búa đẽo cột đẽo kèo.

Người ta khong dừng đó

Muốn có bữa cơm ngon

Muốn được hạt gạo trắng

Tạo ra cối để giã.

Muốn có đám nương hay

Để trồng cây cho tốt

Đỡ cho cuốc cho dao

Thì phải có cài cày.

Cày lật đất cho mau

Cuốc cào cỏ cho chóng

Cày đi được chín thửa

Cuốc theo được chín đám

Sợi đay lấy từ đâu

Từ trong rừng trong núi

Đàn bà đi tới đâu

Sợi đay có tới đó.

Cây bông ở nơi đâu

Hỏi đàn bà mới biết

Bông ở trên đồi cao

Hay mọc từ bờ suối.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 75

Page 76: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Cây đay sinh có mùa

Cây bông mọc có tháng

Tước đây dùng mũi dao

Se bông dùng ngọn đũa.

Đay cho vải để mặc

Bông cho lụa để cuốn

Vải đay dùng làm chăn

Vải bông dùng làm áo.

Vải đẹp nhờ màu pha

Áo chắc nhờ kim chỉ

Vải mịn dùng cho già

Vải thô dùng cho trẻ

Ôi! Ngày lại ngày trôi đi

Những ngày trong hang đá

Nằm giá buốt tay chân

Nay không còn đâu nữa.

Ngôi nhà cổ ngày xưa

Xa dần và xa mãi

Hòn đá trắng biến đâu

Loài khỉ cũng không còn.

Những đứa con đầu tiên

Của Bố Trời - Mẹ Đất

Từ hòn đá chui ra

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 76

Page 77: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Là tổ tiền ta đó.

LỜI KHẤN TRONG LỄ CẦU MƯA

Hôm nay ngày đẹp trời

Chúng con xin ông Cồ

Ông Cồ cho mưa gió

Để làm ruộng làm nương

Ông Cồ giờ ở đâu

Trong nấm mồ chôn sâu

Một mẩu đời bạc mệnh

Hay vừa mới nguội lạnh

Thiên hạ được ngày nay

Nhờ có công ông Cồ

Ông Cồ xin trời mưa

Nhờ có lửa có khói

Dân làng nổi trống lên

Bụi tung bay mặt đất

Dân làng nổi kèn lên

Tiếng kêu như gầm rú

Gió hú bay cổng làng

Mo cau dằng lấy cuống

Tiếng kêu lên trời cao

Để xin trời mưa gió.

Ông Cồ đã phải lo

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 77

Page 78: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Ngày ngày qua tháng khác.

Xin trời đổ cơn mưa

Xin đất hãy chuyển mình

Cho nổi hình trên sóng

Bong bóng bay trên hồ

Xin mưa phải làm sao

Trời thì ở trên cao

Đất gọi trời không thấu

Người gọi trời không thưa

Hãy gọi trời trên cao

Hỡi trời cao đất rộng

Một ngày bảy mặt trời

Một đêm bảy mặt trăng

Bảy mặt trời có mọc

Không làm được bảy ruộng

Bảy mặt trăng có lên

Không lo được bảy nương

Trời cao ở không cân

Nghiêng đằng đông cũng phải

Nghiêng đằng tây cũng đúng

Người chỉ một lòng thôi

Ông trời sao lắm dạ

Để ngày đêm gần nhau

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 78

Page 79: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Đem nắng đốt chết rừng

Đưa cái nóng nứt đất.

Ao cạn khóc nứt môi

Ruộng cạn khóc nét mép

Cây đa già mấy tuổi

Cỏ tranh xoã tóc vàng.

Cành mai chạy theo gió

Nhờ gió cứu xem sao

Gió đi không ngoảnh lại.

Cành mai khóc trở về.

Một ngày bảy mặt trời

Một đêm bảy mặt trăng

Bảy ngày trôi cả bảy

Không có bảy việc làm.

Tôi muốn ngắt bảy lá

Bảy lá chết cả bảy

Một ngày gieo bảy giống

Bảy giống không thấy lên

Trời ơi đổ cơn mưa

Trăng ơi hãy vặn mình

Mặt trời ngoảnh mặt đi

Mặt trăng quay lưng lại

Mẹo trêu trời trêu đất

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 79

Page 80: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Chỉ ông ông Cồ mới biết

Ông vác cuốc khơi mương

Đường mương dẫn ra ruộng.

Đem dao chặt cây mai

Gốc mai sâu xuống đất

Ngọn mai cao chọc trời

Trời không mở mắt cho

Trời vẫn không chịu mưa

Ông khua chiêng gõ trống

Rung cây động cả rừng

Bụi bay từ bốn phía.

Bỗng trời cao tối lại

Sấm sét nổ ầm vang

Gió nổi cơn như xé

Lốc cuốn bay tung trời

Trời đã đổ cơn mưa

Đồng ruộng mênh mông nước

Lũ tràn quanh nơi ở

Nước thở từng đợt hơi

Ông Cồ nhìn thấy vậy

Nỗi mừng không kể xiết

Dân làng có nước rồi

Thoả lòng như mong ước

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 80

Page 81: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Ôi! Những ngày đổ mưa

Có ai biết thế đâu

Có ai ngờ thế đâu

Nước cuốn ông Cồ rồi.

Trời đưa ông Cồ đi

Để trông mây trông gió

Trông mưa cho thiên hạ

Trông mạ cho muôn người.

Dân làng ơi ông Cồ

Có ai biết thế đâu

Có ai ngờ thế đâu

Ông Cồ mất đi rồi.

Dân làng tiễn ông đi

Trong cơn mưa lạnh giá

Mái đá phủ đầy sương

Nỗi thương tiếc không cùng.

Con cháu tiễn ông đi

Kéo dài chín mươi dặm

Cờ vải nối đuôi nhau

Mảnh mo cau sau trước.

Người ta đem chôn ông

Trên gò đồi cao ấy

Có cây mai trên mộ

Là ngôi mộ của ông.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 81

Page 82: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Con cháu đời đời nhớ

Hàng năm trời khô cạn

Lại cúng gọi Ông Cồ

Xin ông cho mưa xuống

CÚNG TÌM HỒN

Tới năm nào cũng vậy

Tôi đi tìm ông Cồ

Ông Cồ giờ ở đâu

Trong nấm mồ chôn sâu?

Tôi tìm trong mồ sâu

Chín tầng đất ông ở

Mười tầng đất ông đi

Mà sao không tìm thấy

Tôi đi khắp mọi nơi

Qua nơi bò gặm cỏ

Bò thấy ông Cồ không

Nhìn xuống sông bò cười.

Tôi lại đi tìm tiếp

Tới nơi con lợi lòi ở

Hỏi lợn lòi về ông

Lợi lòi nhe răng hú

Đàn dê vừa chạy qua

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 82

Page 83: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Dê ơi biết ông Cồ

Ông Cồ giờ ở đâu

Dê lắc đầu không nói

Không tìm không ai tìm

Tôi đi khắp mọi nơi

Ông Cồ ơi ông Cồ

Ngựa cũng đã mỏi chân

Nơi đây là ở đâu

Nghe tiếng cuốc kêu hoài

Tôi liền hỏi chim cuốc

Cuốc có biết ông Cồ

Chim cuốc nghe tôi hỏi

Liền chui búi mạ sâu

Lặng im trong tiếng gió

Nào có biết hay không?

Lúa mạch gieo nơi sâu

Tôi cũng lần tới đó

Chỉ có tiếng chim kêu

Mạch rung rinh cành lá

Gà rừng gấy trên nương

Bìm bịp kêu dưới suối

Không biết hỏi vào đâu

Đành đi và đi tiếp

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 83

Page 84: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Ôi! Nơi hang sâu núi thẳm

Biết nơi đâu mà tìm

Đi mãi và đi mãi

Gặp phải con tinh tinh

Hỡi con tinh tinh kia

Sao mày cản đường tao

Mày nhe răng làm gì

Hãy tránh để tao đi

Lời khấn như gió bay

Tinh tinh không nhúc nhích

Ngửa mặt nhìn trời cao

Chờ mặt trời xuống núi

Ôi! Các cụ ngày xưa bảo

Hễ cứ gặp tinh tinh

Lừa nó bằng khúc gỗ

Và cứ thể mà đi

Tôi đi khắp mọi nơi

Nay mới tới đất này

Tôi gặp con bìm bịp

Bìm bịp từ hang ra

Tôi lại hỏi bìm bịp

Có thấy công Cồ không?

Trong hang sâu liệu có

Bìm bịp nói là không

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 84

Page 85: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Tôi gặp tiếp hổ vằn

Hổ vằn cũng nói thế

Không biết ông Cồ đâu

Quay lưng hổ vằn trốn

Ôi! Ngựa mỏi hết bốn chân

Người thân đâu không thấy

Chờ đã mấy ngày đêm

Không biết thêm điều gì

Ông Cồ ơi! Ông Cồ

Bìm bịp gọi thì thức

Hổ vằn gọi thì thưa

Sao ông vận lặng im

Ôi! Gà đốt đuốc đi trước

Ngựa trở nước theo sau

Mau mau lại lên đường

Tới nơi ông Cồ ở.

Tay cầm đuốc đã mỏi

Nước đem theo cũng hết

Tôi đi khắp mọi nơi

Mới tới nơi cùng trời

Mặt trời lặn là đây

Nơi tận cùng của đất

Đêm nghe tiếng sương rơi

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 85

Page 86: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Ngày nóng như lửa đốt.

Đàn chó chạy ngang qua

Tôi lại hỏi đàn chó

Chó biết ông Cồ đâu

Cả đàn đều dừng lại.

Ôi! Người ta đâu tới đây

Sao lại biết ông Cồ

Tìm ông Cồ làm chi

Nói mau đi đây chỉ

Ôi! Chúng tôi vùng khô cạn

Hạn hán đã từ lâu

Không có một giọt nước

Mới đi tìm ông Cồ.

Ôi! Cứu người để lấy phúc

Giúp người được làm ơn

Xin chỉ nơi ông Cồ

Biết ông Cồ nơi nao?

Tìm thì biết làm sao

Ông Cồ trên trời cao

Nơi sao không đếm nổi

Nơi mây như chổi lùa

Phải bắc chín cái tháng

Chín thang như chín núi

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 86

Page 87: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Chín thang bằng cây mai

Bậc thang bằng cây trúc

Làm thang sẵn cây mai

Làm bậc đã sẵn trúc

Cây mai đầu mộ ông

Cuối mộ trúc mọc đầy

Ôi! Dân làng ơi biết lối

Nơi đến với ông Cồ

Ông Cồ trên trời cao

Bắc thăng lên mà tìm

Ôi! Phải bắc chín cái thang

Nối thang như dải lụa

Cây mai dài đến đâu

Thang cũng kéo tới đó

Thang lên trời bắc xong

Gió đu không leo nổi

Chó trắng đu đi trước

Cho vàng đẩy theo sau.

Ông trong đám mây xanh

Có lính đứng canh cổng

Chó vàng gọi lính canh

Chó trắng kêu ông Cồ

Gọi mãi không ai thưa

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 87

Page 88: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Kêu mãi không ai thấu

Chó trắng kêu bên phải

Chó vàng gọi bên trái

Ôi! Hôm nay ngày đẹp trời

Đêm nay là đêm tốt

Chúng con thắp hương ông

Xin ông cho mở cửa.

Mùi hương toả đến đâu

Cho vàng đi tới đó.

Mùi nến bay đến đâu

Chó trắng lao đến đó.

Ôi! Phải thắp chín lần hương

Chín lần qua chín cổng

Chín cổng không bước qua

Không được chín gáo nước...

Cổng ông Cồ là đây

Nơi ông ở là đây

Nơi đây là cổng trời

Nơi của mưa của gió.

Ôi! Nơi ở là đây

Sao ông không thấy mở

Cửa vàng hay cửa bạc

Cửa vua hay cửa chúa.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 88

Page 89: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Phải đốt nhiều đuốc lên

Đuốc mai khói chọc trời

Phải đốt nhiều hương lên

Khói hương toả bốn hướng.

Không mở ta phá cửa

Không thưa ta gào thét

Đốt giẻ cho xẻ bay

Lay cây cho sáo xổng.

Hãy khua chiêng gỗ trống

Hãy gõ chão gõ xoong

Kéo mo cau vang vọng.

Sẽ đến tai ông Cồ.

Tiếng vọng từ đâu ra

Như xót xa vội vã

Cửa vàng đã mở ra

Cửa ngọc cũng đã hé

Ông Cồ mở cửa ra

Tiếng thanh la chưa dứt

Như nhức nhối trong lòng

Dòng thời gian thuở ấy

Chúng con xin lạy ông

Chín lần xin lạy ông

Mười lần xin lạy ông

Dưới trần gian khốn khó.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 89

Page 90: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Chó vàng thầm tai ông

Nhóm người kia xin trước

Chó trắng rỉ tai ông

Bọn người kia xin mưa.

Ôi! Đứng dậy đi các con

Làng to hay làng nhỏ

Làng trên hay làng dưới

Sao đến nông nỗi này.

Ôi! Cả làng trên làng dưới

Làng nhỏ đến làng to

Làng nào cũng như thế

Không một giọt mưa nào

Ông mở chín cửa vàng

Ông soi chín cửa ngọc

Cửa vàng bốc mùi hôi

Cửa ngọc lôi mùi thối.

Ôi! Có ai ngờ thế đâu

Có ai biết thế đâu

Phải tâu lên Ngọc Hoàng

Để Ngọc Hoàng cho nước

Ngọc Hoàng ở trên cao

Nghe trần gian chao đảo

Liền bảo ông Cồ mau

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 90

Page 91: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Cho trần gian mưa gió.

Rải lụa để đón ông

Rải chiếu để mời ông

Thịt chó vàng đã có(1)

Chó trắng cũng đầy mâm

Gà đón ông đã gáy

Gà mời ông đã đẻ

Mời ông về cùng ăn

Mời ông về cùng uống

Chó nặng mười hai cân

Gà giăng mười hai cựa

Có ngựa trắng ngựa đen

Trao ông để ông nhớ.

(1) Tục xin mưa này cúng bằng thịt chó và gà- vì lúc ông Cồ mất không còn con vật nào khác chỉ có chó và già. Người ta thịt hai loại vật này để cúng tiến ông đi - nên ý nói ông quen ăn những món này.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 91

Page 92: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Chương I: Tỏ tình

Nhân vật: Nam (Thanh niên)

Nữ (Thanh niên)

BÀI HÁT

Mùa xuân, trời đẹp, nhàn rỗi, trai các nơi tìm đến làng có nhiều

con gái lớn, đẹp để hát vui chơi đồng thời là dịp tìm hiểu nhau.

Cuộc hát bắt đầu từ tối mùa xuân ấy…

Nam:

Xóm này là xóm gì?

Mà tiếng lành bay xa.

Vùng này là vùng nào?

Mà tiếng thơm toả rộng.

Bài hát (giới thiệu):

Xóm này là xóm vui

Mùa xuân, mùa ca hát.

Quê này quê hiếu khách

Người người vẫn qua đây (1)

Xóm này sẵn người tài,

Tiếng kèn nghe trầm bổng

Tiếng sáo thật êm tai,

Tiếng trống giòn giục giã,

Nhịp nhàng đôi bàn tay

Nhịp nhàng đôi bàn chân (2)

Xóm này sẵn người tài,

Mùa xuân vui thật vui…

Nam:

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 92

Page 93: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Nhạc kèn, nguồn có hạn

Nhịp trống, gõ phải vơi,

Con gái bao giờ hết?

Gái xinh mãi vẫn còn!

Em đẹp, da em trắng,

Trắng như dây đeo dao (3)

Tên em gọi làm sao?

Chị đẹp như ống tre,

Chị xinh như ống trúc.

Ống tre dùng làm gì?

Ống tre dùng làm kèn.

Ống trúc làm được gì?

Ống trúc anh khoét sáo.

Làm kèn, tôi gửi chị,

Khoét sáo, anh tặng em!

Lại đây, lại đây em!

Tới đây, tới đây chị!

Em đẹp, dáng như bay

Em xinh, dáng như chim,

Dịu dàng, dịu như em,

Nhanh nhẹn, nhanh như em!

Nữ:

Nhà anh tận nơi đâu,

Tên anh gọi thế nào?

Tay có biết gõ trống

Chân có vững nhịp không (4)

Nhịp điệu trống có hạn,

Con gái mãi vẫn còn!

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 93

Page 94: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Kèn này em đã sẵn

Sáo trúc em có rồi (5),

Không đi đâu, anh ơi,

Không theo ai, anh à!

Có yêu, yêu người khác,

Em không yêu anh đâu!

Có lấy, lấy cô khác,

Em lấy anh làm sao?

Nam:

Đẹp như em, như anh (6)

Cớ sao em không yêu?

Không cùng anh chung sống

Vật gì em muốn tặng,

Của tin nào em ưa?

Thuốc lá ngon anh đưa,

Thuốc thơm mười hai điếu

Mười hai điều thuốc vàng (7)

Mười hai lần quý yêu!

Yêu em, yêu thật bụng

Quý em, quý hết lòng

Không thể rời xa em

Tình yêu nếu chẳng nên,

Em đi, anh kéo áo,

Em chạy anh kéo khăn (8)

Tình nếu vẫn chẳng nên

Anh ra đi, ra đi

Tìm cô nàng nhanh nhẹn,

Còn nhanh nhẹn hơn em!

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 94

Page 95: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Tìm cô nàng tươi xinh

Tươi hơn em bội phần!

Anh đi tìm người tốt

Tìm cô gái dịu dàng

Tình yêu em đã đứt!

Đẹp như em, như anh.

Nữ:

Đẹp như anh, nhe em,

Mối tình anh, em rõ,

Lời anh ngỏ, em hay.

Quà anh vẫn còn đây

Biết lấy gì đáp lại?

Thuốc thơm mười hai điều

Mười hai điều thuốc vàng

Mười hai lần quý yêu;

Thuốc thơm em cũng sẵn

Thuốc vàng em còn nhiều (9)

Tìm yêu, tìm người khác,

Đừng tìm em, anh ơi!

Tìm mến, tìm nơi khác

Đừng tìm nơi cách vời! (10)

Tìm yêu, mời vào nhà

Tìm mến, mời qua cửa.

Còn ai? Em không đi!

Em không theo anh mà

Em đi, sợ mẹ đánh,

Theo anh, bố rầy la.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 95

Page 96: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Mẹ đánh, em đau thịt,

Bố chửi, em đau lòng!

Đẹp như anh, như em.

Nam:

Đẹp như em, như anh.

Cớ sao em không đi?

Hỡi cô nàng dịu dàng,

Cớ sao em không tới,

Hỡi cô nàng xinh tươi?

Biết đưa gì cho em,

Trao tặng em gì nữa?

Mười hai hộp thuốc trắng (11)

Mười hai hộp thuốc vàng (12)

Bây giờ anh chưa có

Nhưng muốn là đủ cả!

Tay phải đưa tiền ra

Tai trái cầm hộp bạc,

Tay trái đưa tiền ra.

Tay phải lấy hộp vàng.

Hộp tặng người hoạt bát.

Hộp tặng người dịu dàng

Yêu em, yêu thật bụng

Quý em, quý hết lòng

Không thể rời xa em,

Tình yêu nếu chẳng nên

Chẳng nên, anh kéo áo,

Chẳng nên, anh kéo khăn

Đẹp như em, như anh

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 96

Page 97: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Nữ:

Đẹp như anh, như em

Anh đưa gì cho em,

Trao tặng em vật gì?

Hộp trắng mười hai cái,

Mười hai cái hộp vàng

Hộp trắng em đã có

Hộp vàng em đã đủ

Còn đi? Em không đi!

Không về cùng anh được

Có yêu, yêu người khác

Yêu em nay đã muộn

Có mếm, mếm người khác

Muộn rồi, mếm sao nên?

Em đã từng hứa hẹn,

Với người em thương mến

Ngại người yêu bất bình,

Người thương mến trách em.

Đẹp như anh, như em.

Nam:

Đẹp như em, như anh

Anh đã thăm vùng này

Anh dạo chơi miền nọ

Người đẹp ở nơi đây,

Người xinh tươi nơi đó

Anh đã gặp, đã quen,

Người yêu anh cũng có (12)

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 97

Page 98: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Những nơi đâu, nơi đâu

Tình yên anh chưa đậu

Như gặp em đêm nay.

Em hiểu rồi, vì sao

Biết đưa gì cho em.

Trao tặng em gì nữa?

Hỡi em đẹp, em xinh.

Vật gì em cũng có

Anh lại gửi em quà:

Mười hai vòng cổ mới

Mười hai dây đeo bạc,

Anh đem tiền đi đổi.

Vòng bạc tặng người yêu.

Chẳng nên, anh kéo áo

Chẳng nên, anh kéo khăn.

Đẹp như em, như anh.

Nữ:

Đẹp như anh, như em,

Anh đưa gì cho em?

Trao tặng gì mới khác?

Mười hai vòng cổ bạc,

Mười hai cái dây đeo.

Vòng cổ em đã có,

Dây bạc em đã đủ.

Không đi, em không đi,

Không theo, em không theo!

Lời trước như lời sau (13)

Có yêu, yêu người khác

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 98

Page 99: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Yêu em, chuyện chẳng xong.

Có mến, mến người khác

Mến em thêm bận lòng.

Đẹp như anh, như em.

Nam:

Đẹp như em, như anh.

Đưa gì cũng không lấy

Biết tặng em gì đây?

Đưa gì cũng không nhận,

Quà nào em ưng thuận?

Mười hai vòng tay bạc

Đường chạm trổ hình hoa

Đường khắc theo hình lá,

Mười hai nhẫn xinh xinh,

Lồng ngón tay thon nhỏ,

Bàn tay em lấp lánh

Nhẫn vòng anh chưa có

Nhưng mua đâu, anh rõ,

Tay anh mang tiền đi,

Anh lấy vòng chạm về

Tay anh mang tiền tới

Anh cầm về nhẫn mới!

Vòng ôm cổ tay em,

Cổ tay em nở hoa.

Nhẫn ôm ngón tay em

Ngón tay em rực rỡ.

Quý em, anh yêu dạ,

Yêu em, anh yêu lòng

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 99

Page 100: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Cùng em, nên chồng, vợ.

Không được, anh kéo áo,

Không xong, anh kéo khăn.

Đẹp như anh, như em.

Nữ:

Đẹp như anh, như em,

Anh đưa gì cho em,

Trao quà gì mới khác?

Mười hai vòng tay bạc,

Mười hai nhẫn xinh xinh,

Vòng chạm em đã đủ,

Nhẫn xinh em chưa cần.

Yêu anh, em không yêu

Theo anh, không thể được

Người đẹp chẳng đâu thiếu,

Người dịu dàng cũng nhiều!

Có yêu, yêu người khác,

Yêu em, chuyện chẳng xong

Có mến, mến người khác,

Mến em, thêm bận lòng.

Đẹp như anh, như em

Nam:

Đẹp như em, như anh.

Nhẫn xinh em không nhận,

Vòng hoa em không cầm.

Anh trao em quà mới:

Vải đen mười hai tấm,

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 100

Page 101: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Mười hai tấm vải hoa

Vải quý anh chưa sắm,

Vải không sẵn trong nhà.

Anh sẽ mang tiền đi,

Tay ôm vải đen về

Anh sẽ mang tiền đi

Anh sắm vải hoa về

Tình duyên nếu không thành,

Không thành, anh kéo áo,

Không thành, anh lôi khăn.

Đẹp như em, như anh.

Nữ:

Đẹp như anh, như em.

Anh đưa gì cho em,

Trao tặng quà gì nữa?

Vải đen mười hai tấm,

Mười hai tấm vải hoa.

Vải hoa hay vải đen,

Em có rồi, đủ cả.

Không đi, em không đi,

Theo anh, em không theo

Yêu anh, em không yêu!

Đẹp như anh, như em

Nam:

Đẹp như em, như anh

Trao gì cũng không nhận,

Tặng gì cũng không cầm

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 101

Page 102: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Anh cắt ruộng nhường em.

Anh sẻ nương gửi lại

Nay anh đưa hết ruộng

Nhường em hết đất nương.

Yêu em, yêu trong dạ,

Quý em, quý trong lòng.

Ước ao duyên chồng, vợ.

Tình nếu vẫn chẳng nên

Chẳng nên, anh lôi áo,

Chẳng nên, anh kéo khăn.

Đẹp như em, như anh.

Nữ:

Đẹp như anh, như em.

Anh đưa gì cho em

Trao tặng gì mới nữa?

Anh trao em hết ruộng,

Anh nhường em hết nương,

Đâu phải điều em ước?

Không đi, em không đi,

Theo anh, em không theo!

Tới nhà anh sao được,

Tình yêu này chẳng nên,

Tình duyên nay chẳng thành.

Đẹp như anh, như em.

Nam:

Đẹp như em, như anh.

Tình yêu sao nhiều lời,

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 102

Page 103: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Tình duyên sao khó khăn.

Em để anh nói mãi!

Quà tặng em không lấy

Quyết tìm em không nhận.

Để lòng anh mệt mỏi

Nhà cửa giao em trông,

Lúa, ngô phần em giữ,

Ruộng mương dành em cả.

Gì anh cũng đã hết,

Còn lại điều quý nhất,

Là tình anh yêu em!

Anh nuôi con chim quý,

Bộy được trên rừng xanh,

Lồng chim mượt nan trúc.

Chim chuyền, xinh thật xinh!

Tiếng líu lo đầu nhà,

Chim chào nắng, chào hoa,

Sao em không vừa ý.

Thả chim quý bay đi?

Ăn cơm, nghe chim hót,

Mặc áo, anh ngắm chim,

Em không ưa chim quý,

Sao không nói anh hay

Em thả chim về rừng,

Hay ném chim vào lửa?

Cực chim thế, chim ơi!

Chim chết, đau lòng người.

Gì anh cũng chẳng tiếc,

Anh chỉ đòi chim thôi! (14)

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 103

Page 104: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Đẹp như em, như anh.

Nữ:

Đẹp như anh, như em

Em vẫn ngồi giữ nhà,

Em vẫn ngồi trông cửa,

Dệt vải, tay đưa tay

Chim quý nào em thấy.

Thoi chạy đi, chạy lại

Ca lách cách, lách cách,

Em mải mệt hai tay.

Ngắm chim không được nghe

Thoi reo vui bên tai

Thịt chim em nào ăn,

Nước canh đâu có uống?

Oan em rồi, ơi anh!

Chim trở về rừng xanh,

Em lên rừng xanh hỏi,

Gọi chim quý đến anh.

Đẹp như anh, như em.

Bài hát:

Tình yêu, cô nàng ơi!

Tình yêu đang chờ đợi

Hỡi cô nàng xinh tươi,

Tiếng nói cô dịu dàng

Còn êm hơn tiếng chim,

Cô tinh nhanh, hoạt bát,

Đó là điều quý nhất!

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 104

Page 105: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

(Cô gái lắng nghe rồi hát tiếp)

Nữ:

Đẹp như anh, như em,

Bây giờ chim chưa bắt

Lòng anh buồn, em khổ.

Lấy tình em đền anh,

Lấy thân em đền anh

Tặng anh đôi ánh mắt,

Trao anh luôn, bộ mắt,

Anh đừng chê em xấu

Anh đừng khinh em nghèo

Vải thêu hoa mặc vào

Xấu, nghèo bay đi hết,

Như nấu canh trên bếp,

Có muối, canh thơm ngon!

Đẹp như anh, như em.

(Tình yêu như vậy là qua chặng đường thử thách, chặng đường khó khăn nhất.

Cô gái đã ưng thuận. Tình yêu chuyển sang tình vợ chồng. Bài hát vẫn kể tiếp về nhiệm

vụ làm vợ, làm chồng, xây dựng gia đình).

CHÚ THÍCH CHƯƠNG I(1) Ý: Nhiều người ở nhiều nơi lui tới.(2) Mua.(3) Dây bạc.(4) Ý: Con trai có biết đánh trống thì con gái mới thích. Tay trống có vững thì chân

múa của phụ nữ mới dễ mới đẹp.(5) Kèn và sáo cũng được coi như tặng phẩm và bị khước từ.(6) Ý: Xứng đôi. Từ đấy, câu này được coi như điệp khúc của cả hai người, ca ngợi

sự hoà hợp về tình cảm và lý trí trong tình yêu đằm thắm của họ.(7) Thuốc lá sợi vàng, thơm ngon. Chưa rõ con số mười hai. Có lẽ lối tính đơn vị

đại lượng xưa theo từng tả (mười hai đơn vị một). Ở đây chỉ số nhiều.(8) Nguyên văn: "Không được, tôi kéo áo.

Không được tôi kéo vải".

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 105

Page 106: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

(9) Ý:Nên tìm nơi gần. Em với anh ở xa nhau quá.(10) Từ chối tặng phẩm, chưa nhận tình yêu, chưa hứa hẹn gì, phải tìm hiểu đã.(11) Hộp đựng thuốc lá bằng bạc, bằng vàng.(12) Anh chàng muốn đối ý trên của cô gái. Rằng: cô có người yêu rồi thì tôi cũng

có người yêu. Thực ra, họ đều biết nhau là chưa có người yêu; Thực ra, họ đều biết nhau là chưa có người yêu; nhưng cứ bày tỏ, thử thách, thăm do nhau.

(13) Trước sau như một: Không yêu là không yêu.(14) Biến diễn của truyện: Chàng trai thông minh và kiên nhẫn xách lồng chim đến,

treo đầu chái nhà, nói là để tặng cô gái. Nhưng chính anh ta đã lặng lẽ "tháo cũi" cho chim sổ lồng bay đi. Anh nêu chuyện ra như một sự "vu vạ". Vì chỉ với cớ này thì cô gái mới có thể phải yêu mình, vì cô sẽ không lấy gì đến được, ngoài chính tình yêu của cô. Đồng thời, qua cớ này, chúng ta thấy đôi nam nữ này chọn cơ sở của tình yêu là tình cảm chứ không phải quà tặng dù quà tặng đó có giá trị vật chất lớn như thế nào.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 106

Page 107: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Chương II: Vợ chồngNhân vật:

Chồng (vốn là nhân vật Nam ở giai đoạn Tỏ tình phát

triển lên)

Vợ (vốn là nhân vật Nữ ở giai đoạn Tỏ tình phát

triển lên)

Chồng:

Đẹp như em, như anh,

Lấy thân đền thân chim,

Lấy người trả thân chim.

Đẹp xấu không bàn tới,

Biết làm ăn, làm mặc (1),

Biết dọn dẹp cửa nhà,

Như lòng anh mong đợi.

Em như gái nhà trời (2),

Anh trai nghèo mặt đất,

Em tung cánh chim bay

Giữa trời xanh núi biếc.

Anh như con cuốc đen,

Lò dò trên đồng ruộng,

Ăn cơm không có bát

Ăn rau, đũa cũng không,

Chặt cây rừng vót đũa,

Cưa ống tre làm bát.

Hai chúng ta yêu nhau.

Nay nên vợ nên chồng.

Yêu nhau đi với nhau.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 107

Page 108: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Lấy nhau, cùng chung sống,

Em làm, anh cũng làm,

Sớm hôm trên đồng ruộng.

Mình làm để làm gì?

Mình làm để ơn bố,

Ta làm để làm gì?

Ta làm trả nghĩa mẹ (3).

Đẹp như em, như anh.

Vợ:

Đẹp như anh, như em,

Thân em thay thân chim

Yêu nhau bởi lòng tin,

Hiểu nhau bởi lòng tin,

Đã yêu, yêu say đắm

Vợ chồng duyên đằm thắm.

Bây giờ em mặc gì

Anh mặc theo cái ấy (4)

Em đi làm nơi đâu

Anh cũng làm nơi ấy (5)

Em đi trước, anh sau

Kkuya sớm nhìn thấy nhau.

Mình yêu, bố đã biết,

Mình lấy, mẹ đã hay.

Rượu thịt trao đến tay

Gửi bố cùng gửi mẹ (6)

Rượu thơm rót mời bố,

Thịt ngon mời mẹ xơi.

Bặc trắng trao tay bố

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 108

Page 109: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Tiền vàng trao tay mẹ

Ơn bố mình đã bảo

Nghĩa mẹ mình đã đến,

Anh và em không khổ (7)

Phận làm con mới yên.

Đẹp như anh, như em.

Chồng:

Đẹp như em, như anh,

Bạc trắng đưa bố cầm,

Tiền vàng trao mẹ giữ.

Cần bạc, bạc đã sẵn,

Cần vàng, vàng lo đủ.

Lo đủ vàng, trắng mắt,

Lo đủ bạc, vàng người.

Em còn đâu áo cưới?

Anh lấy đầu quần mới?

Anh đi xin quần bố,

Em đi xin áo mẹ.

Anh xin, bố đã cho

Em xin, mẹ đưa rồi.

Áo cưới may thật khéo

Quần mới mặc thật vừa.

Em đã hết băn khoăn,

Anh chẳng còn lo nữa.

Đẹp như em, như anh.

Vợ:

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 109

Page 110: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Đẹp như anh, như em.

Đúng như lời anh nói

Đúng như ý em bàn.

Xin quần, bố cho quần,

Hỏi áo, mẹ đưa áo.

Quần mới may thật khéo,

Áo cưới mặc vừa thân.

Anh mặc, thành rể đẹp,

Em mặc, thành dâu xinh.

Anh muốn rời nơi khác,

Dựng nhà riêng chúng mình,

Em muốn rời nơi đây,

Cùng tìm nơi ở mới (8).

Đẹp như anh, như em.

(Cưới xin xong thì vợ chồng ở riêng thành từng gia đình nhỏ. Trước

hết là tìm đất tốt làm nhà)

Chồng:

Đẹp như em, như anh.

Áo quần anh gọn ghẽ,

Lương khô em khoác vai

Chân anh bước ra cửa (9)

Em cũng bước theo ngay.

Anh đi về hướng nào

Chân em theo hướng ấy.

Anh tìm vùng đất mới,

Em rời bỏ đất này.

Đẹp như em, như anh.

Vợ:

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 110

Page 111: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Đẹp như anh, như em.

Lòng anh đã muốn đi

Em với anh một ý,

Anh tìm tới nơi nào,

Em về theo nơi ấy.

Anh định tới nơi xa

Em với anh một dạ.

Đường dài ta cứ đi,

Dốc cao ta cứ qua.

Chỗ vừa ý chưa thấy,

Chưa thấy, lòng áy náy.

Đã chọn, chọn chỗ tốt

Số phận mới nên hay.

Đã ở, ở đất lành,

Vợ chồng mới khoẻ mạnh

Đẹp như anh, như em.

Chồng:

Đẹp như em, như anh

Chỗ này em không ở

Em muốn ở nơi nào?

Anh muốn gần đường dài,

Em muốn bên đường rộng.

Đường dài nếu em ưng

Đường rộng anh vừa lòng (10)

Nhưng tới đâu, tới đâu

Đất vẫn toàn đất xấu.

Đẹp như em, như anh.

Vợ:

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 111

Page 112: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Đẹp như anh, như em.

Nơi nào anh vừa ý

Nơi ấy em vừa lòng.

Anh muốn ở vùng thấp,

Em muốn ở nơi cao.

Mình nên chọn chỗ nào?

Chỗ nào yên ổn nhất.

Đã chọn, chọn nơi tốt,

Số phận mới nên hay.

Đã ở, ở đất lành,

Vợ chồng mới khoẻ mạnh

Đẹp như anh, như em.

Chồng:

Đẹp như em, như anh.

Đất này em không ở,

Em ưa vùng đất nào?

Nơi này em không ở,

Em cón thích nơi nao?

Em có muốn gần sông?

Anh muốn bến bờ nước;

Chỗ ấy anh ở được,

Liệu em có vừa lòng?

Vết chân người già xưa

Còn in dấu nơi này

Đây nền nhà, bếp lửa

Khói ám đã nhạt phai.

Mặt soi dòng nước chảy (11)

Dưới thấp cơn gió bay,

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 112

Page 113: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Trên cao cây thường đổ (12)

Nếu nơi này anh ở,

Chắc em chẳng băn khoăn,

Miễn sao anh hết khổ,

Em không cực tấm thân,

Đẹp như em, như anh.

Vợ:

Đẹp như anh, như em.

Nơi nào anh vừa ý

Nơi ấy em vừa lòng

Anh ngại nơi gần nước,

Em cũng vậy, như anh.

Anh đã không ở được.

Một mình em sao nên?

Dưới hơi nước bốc lên,

Trên toả hơi đá lạnh.

Dưới thấp gió bay qua,

Trên cao cây thường đổ.

Sức nước sông rất mạnh,

Bờ đá thành dốc đứng

Mình vượt qua sông rộng

Mình vượt qua nước lớn

Tìm chốn lạ nơi xa,

Tìm vùng mới, nơi cao.

Anh trả tiền thuê thuyền,

Em chi tiền thuê mảng.

Em tháo vòng tháo nhẫn,

Thay riền công chở thuyền.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 113

Page 114: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Anh đưa dao, đưa súng

Thay tiền thuê qua mảng

Trả tiền nước đã xong,

Tra tiền bờ đã đủ.

Mình đã vượt sông rộng,

Đã vượt qua nước sâu,

Tìm đất yên, đất lành.

Nếu nơi đó ở được

Em sẽ hết băn khoăn;

Cho đời anh hết khổ

Em không cực tấm thân.

Đẹp như anh, như em.

Chồng:

Đẹp như em, như anh.

Chỗ này em không muốn

Em còn ưng nơi đâu?

Nơi này ta không ở

Ta còn đi nơi nào?

Em muốn chọn nơi tốt

Anh cũng ưa chỗ đẹp.

Ở dưới có sức nước

Ở trên đá bốc hơi.

Nếu anh định ở đây

Em có cùng dừng lại?

Vết chân người già xưa

Còn in dấu nơi này.

Đẹp như em, như anh.

Vợ:

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 114

Page 115: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Đẹp như anh, như em.

Anh tìm tới nơi nào,

Em tìm về nơi ấy

Anh chọn đất tốt này

Em cũng theo về đây.

Ở dưới sức gió lớn,

Ở trên hơi đá bay.

Đã chọn, chọn nơi tốt

Số phận mới gặp may

Đã ở, ở đất lành,

Vợ chồng mới khoẻ mạnh.

Đẹp như anh, như em.

Chồng:

Đẹp như em, như anh.

Chỗ này chưa vừa ý

Em muốn đến chỗ nào

Anh tìm tới Đồng Văn (13),

Đồng Văn em có thích?

Người già nói nơi này

Đất tốt, đất làm ăn.

Em ước mong may mắn.

Anh cũng vậy, như em.

Vượt sông, ta leo núi,

Xuyên rừng ta lội suối.

Thăm vùng nọ vùng kia,

Vùng này hẳn đất tốt.

Đẹp như em, như anh.

Vợ:

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 115

Page 116: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Đẹp như anh, như em.

Anh tìm tới nơi nào,

Em cũng theo về đấy.

Đồng Văn anh tới đây

Chân em bước theo ngay.

Đã chọn, chọn đất tốt

Số phận mới nên hay

Đã ở, ở đất lành,

Vợ chồng mới khoẻ mạnh.

Nếu anh không vừa ý,

Em cũng chẳng vừa lòng.

Anh vẫn đi, vẫn đi,

Em vẫn đi, vẫn đi…

Đẹp như anh, như em.

Chồng:

Đẹp như em, như anh.

Anh tìm tới nơi nào,

Em cũng về nơi ấy.

Anh tìm sang đất lạ

Đất lạ em có đi?

Đất này có cây lớn

Lại có cả cây cao.

Vòm lá một màu xanh,

Như trúc, thân thẳng vút.

Anh đứng đây, đất mới,

Em có cùng ý anh?

Chân ta bước đã nhiều

Chân ta đi đã mỏi.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 116

Page 117: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Leo núi, mấy núi cao,

Vượt rừng, bao rừng sâu,

Tới đây, đường hết ngả,

Tới đây, khó nẻo về.

Xưa, người già quen ở

Nay lại tới đôi ta.

Anh ưng chọn nơi này.

Như anh, em cũng vậy.

Đẹp như em, như anh.

Vợ:

Đẹp như anh, như em.

Anh dừng chân đất lạ,

Đất lạ, em dừng theo.

Chân mình đi đã mỏi

Chân mình bước đã nhiều.

Đường tới đây hết nẻo,

Đất mới có cây lớn,

Lại có cả cây cao.

Vòm lá như hoa đơm

Thân cây như trúc thẳng.

Xưa, người già đã ở,

Nay lại tới đôi ta,

Anh thấy thiếu cái gì

Em cũng cần cái ấy.

Tay em không xách nổi,

Vai anh không địu chảo

Thổi cơm, em tìm nồi,

Tìm chảo, anh nấu rau.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 117

Page 118: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Đẹp như anh, như em.

Chồng:

Đẹp như em, như anh.

Tìm nồi, em thổi cơm,

Tìm kiềng, anh đặt bếp.

Thật vất vả thân em,

Thật cực nhọc thân anh.

(Phải mất một thời gian đi tìm mua nồi, mua chảo ở xóm bên, núi

bên…)

Chảo, nồi giờ đã sẵn

Kiềng bếp đặt vừa xong.

Muốn nấu không có lửa,

Muốn đun, lửa cũng không.

Lúc sấm chạy râm ran,

Lúc sét nổ ngang trời:

Là lúc mình lấy lửa (17)

Là lúc lửa cháy bùng.

Anh khát nào có nước

Em nhóm bếp, củi không!

Em ra suối kín nước

Nước lẫn sâu vẩn đục (18)

Anh lên rừng đốn củi,

Kiến đục ruỗng thân cây (19)

Anh khát vẫn phải uống,

Uống nước bẩn, nước đục

Em cần, vẫn phải đun,

Đun củi xấu, củi mục.

Đẹp như em, như anh.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 118

Page 119: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Vợ:

Đẹp như anh, như em.

Đúng như lời anh nói, (20)

Em cùng anh một dạ, (20)

Anh lên rừng chặt củi,

Củi mục vì kiến ăn,

Cần củi, tha kiến về (21)

Địu một bó tới nhà,

Địu hai bó vào cửa.

Anh đưa em chất lửa,

Em tìm nguồn kín nước,

Nước vẩn, vì nhiều sâu,

Cần nước, múc sâu theo.

Địu một ống tới nhà

Vác hai ống vào cửa (22)

Em trao anh đổ nồi

Trên cao, sấm kêu rồi,

Lưng trời sét vừa nổ:

Đánh đá ta lấy lửa.

Em đun củi đã có,

Anh nấu, sẵn nước đấy.

Em ao ước những gì,

Anh nước ao thứ ấy.

Em ngồi không có ghế,

Anh ở không có nhà.

Không ghế, khổ thân em,

Không nhà, cực thân anh.

Đẹp như anh, như em.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 119

Page 120: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Chồng:

Đẹp như em, như anh.

Đúng như lời em nói,

Anh nghĩ giống như em

Em ngồi cần có ghế,

Anh ở phải có nhà.

Cắt tranh cần có liềm,

Đốn củi cần có búa.

Tay em không có liềm,

Nhưng túi em sẵn tiền,

Tay anh không sẵn búa,

Nhưng tiền thì anh có.

Tay phải cầm bọc tiền

Đến nhà người thợ sắt,

Tay trái mang liềm về.

Tay trái cầm gói tiền,

Tìm nhà người thợ rèn,

Tay phải vác búa về.

Liềm mới em cầm lấy,

Đi cắt tranh ngoài đồi.

Búa mới anh xác tay

Đi lên rừng đốn củi.

Lên rừng đốn cây to,

Ra đồi cắt tranh dài.

Đốn cây, cây không đổ,

Cắt tranh, tranh chẳng đứt

Búa mới đánh, chưa sắc,

Liềm mới rèn chưa ngọt,

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 120

Page 121: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Mài búa trên đá xanh,

Mài liềm trên đá biếc.

Chặt cây cao, cây đổ,

Cắt tranh dài, tranh đứt.

Tranh dài chất từng đống,

Cây cao xếp thành hàng

Sẵn gỗ, anh dựng nhà,

Sẵn tranh, em lợp mái.

Đẹp như em, như anh.

Vợ:

Đẹp như anh, như em.

Đúng như lời anh nói,

Em cùng anh một dạ.

Đốn cây nay sẵn búa,

Cắt tranh đã sẵn liềm.

Liềm sắc tay em mang,

Búa mới dành anh vác.

Lên rừng tìm cây thẳng,

Ra đồi tìm gianh già.

Đốn cây cao, cây đổ

Phát gianh già từng đám

Cây đổ, vác từng cây,

Tranh cắt, địu từng bó.

Anh lên rừng vác gỗ,

Em lên đồi địu tranh.

Vác cây, vác một mình,

Địu tranh, địu với bóng (23)

Làm nhà vất vả lắm!

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 121

Page 122: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Đẹp như anh, như em.

Chồng:

Đẹp như em, như anh.

Làm nhà thật vất vả.

Không dựng không nơi trú,

Ngày nắng, còn ngày mưa,

Trời sương, lại trời gió.

Làm nhà đúng là khổ.

Đàn ông chuyển vác cây,

Cây lớn, từng cây nặng,

Trên vai anh vác mai.

Chuyển gianh, phần đàn bà,

Từng bó, tiếp từng bó,

Trên vai em địu hoài.

Cây về, để chỗ nào,

Gianh về, xếp nơi đầu?

Cây về, kê chỗ bằng,

Gianh về, xếp chỗ rộng.

Cây lớn dùng làm gì,

Gianh dài dùng làm gì.

Cây lớn dựng nhà chắc,

Gianh dài lợp mái đây.

Làm nhà cần cưa đục

Làm nhà cần cái buộc.

Cưa thân gỗ cho bằng,

Đục gỗ thành mộng cột,

Mái gianh lạt buộc chặt.

Làm nhà đúng là khổ,

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 122

Page 123: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Mình anh đốn đủ cây,

Mình anh vác trợt vai,

Làm nhà thật vất vả,

Mình em cắt đủ tranh,

Mình em địu tất cả!

Vác cây đặt chỗ nào,

Tìm chỗ sạch mà kê,

Địu gianh xếp nơi đâu?

Chọn nơi khô mà để.

Dựng nhà cần đục cột,

Lợp mái cần buộc gianh.

Mời ai giúp chúng mình?

Anh đi mời người già,

Nhà ở đầu xóm xa.

Em mời người tuổi tác,

Nhà ở cuối xóm xa.

Em mời người tuổi tác,

Nhà ở cuối xóm xa.

Dựng nhà cực thân anh.

Lợp mái cục thân em.

Làm nhà thật vất vả.

Đẹp như em, như anh.

Vợ:

Đẹp như anh, như em.

Đúng như lời anh nói,

Em nghĩ cũng giống anh.

Phải đi mời người xa,

Phải đi đón người già.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 123

Page 124: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Mời người giúp đôi ta.

Nếu không mời thì thôi,

Đã mời, mời người giỏi.

Mời người trẻ đẽo thân

Để người già đục mộng.

Người giúp việc đã tới,

Người xóm xa đã về,

Mang theo đục, theo cưa,

Mang theo rìu, theo rựa.

Buổi sáng đẽo xong thân

Buồi chiều đục mộng cột,

Buổi trưa ngồi chẻ lạt.

Nay thân đẽo đã trơn,

Mộng đục tính thật khít,

Lạt buộc từng bó chặt.

Bữa sáng dọn gì ăn,

Bữa chiều dọn gì uống? (24)

Vui lòng cả đôi bên (25).

Đẹp như anh, như em.

Chồng:

Đẹp như em, như anh.

Đúng như lời em nói,

Anh cùng em một dạ.

Vác gỗ vai mình vác,

Địu tranh vai mình địu.

Dựng nhà phải nhờ người.

Đã không mời thì thôi,

Đã mời, mời người giỏi,

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 124

Page 125: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Đã mời, mời người khéo.

Người giúp việc đã tới,

Người xóm xa đã về.

Tay mang đục, mang cưa,

Tay mang rìu, tay rựa.

Người trẻ lo đẽo thân,

Người già lo đục mộng.

Làm nhà ăn cái gì,

Làm cửa lấy gì ăn?

Dựng nhà vất vả lắm,

Vất vả tấm thân anh,

Vất vả tấm thân em

Cực nhọc đôi chúng mình.

Đẹp như em, như anh.

(Mọi việc sửa soạn như đẽo cột, đục cột đánh gianh, chẻ lạt… đã

xong. Tới lúc dựng nhà. Phải chọn ngày tốt lành).

Vợ:

Đẹp như anh, như em.

Gỗ đã thành cột đẹp,

Gianh đánh từng chồng cao

Nhớ người già dạy bảo:

Dựng nhà chọn ngày tốt,

Lắp cửa lựa ngày lành.

Mồng một hay mồng hai,

Mồng hai hay mồng ba,

Mồng ba ha y mồng bốn.

Ngày nào lành ta chọn.

Mồng bốn hay mồng năm,

Mồng năm hay mồng bảy,

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 125

Page 126: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Ngày nào ngày tốt đây?

Mồng bảy hay mồng tám,

Mồng tám hay mồng chí

Mồng chín hay mồng mười?

Dựng nhà chọn ngày tốt,

Người già dạy, nhớ lời.

Mồng một mở một cửa,

Mồng hai mở hai cửa (26),

Mồng ba mở ba cửa,

Mồng bốn mở bốn cửa,

Mồng năm mở năm cửa,

Mồng sáu mở sáu cửa,

Mồng bảy mở bảy cửa,

Mồng tám mở tám cửa,

Mồng chín mở chín cửa,

Mồng mười mở mười cửa.

Mở cửa đón bố tới,

Mở cửa mời mẹ về,

Mở cửa đón ông tới,

Mở cửa mời bà về,

Mở cửa đón anh tới,

Mở cửa mời em về,

Mở cửa đón cậu tới,

Mở cửa mời cháu về.

Mở cửa đón khách tới (28)

Mở cửa mời người về (29).

Hôm nay được ngày tốt,

Ngày tốt, dựng được nhà.

Hôm nay đúng ngày lành,

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 126

Page 127: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Ngày lành, lắp được cửa.

Dựng nhà không có gì,

Lắp cửa không có gì (30),

Vất vả tấm thân anh,

Vất vả tấm thân em,

Cực nhọc đôi chúng mình.

Anh khổ đến bao giờ,

Em khổ bao lâu nữa?

Đẹp như anh, như em.

Chồng:

Đẹp như em, như anh.

Dựng nhà, dựng cho anh,

Lắp cửa, lắp cho em.

Nhà cửa của chúng mình

Một ngày làm một cái,

Hai ngày làm hai cái (31),

Ba ngày làm ba cái,

Bốn ngày làm bốn cái,

Năm ngày làm năm cái,

Sáu ngày làm sáu cái,

Bảy ngày làm bảy cái,

Tám ngày làm tám cái,

Chín ngày làm mười cái.

Một cửa mời bố vào,

Một cửa đón mẹ vào,

Một cửa mời ông vào,

Một cửa đón bà vào,

Một cửa mời anh vào,

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 127

Page 128: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Một cửa đón em vào,

Một cửa mời chị vào,

Một cửa đón anh vào,

Một cửa mời cậu vào,

Một cửa đón mợ vào,

Một cửa mời bạn vào,

Cửa này đón người thân,

Cửa này mời người xa,

Cửa này đón người gần (32),

Làm nhà nên cái nhà,

Làm cửa ra cái cửa.

Anh, đôi bàn tay trắng,

Em, trắng đôi bàn tay.

Sức đem lo làm nhà,

Của dồn vào làm cửa,

Nay nhà anh đã xong,

Nay cửa em đã rồi.

Có nhà anh yên lòng,

Nhìn cửa, em yên dạ.

Đẹp như em, như anh.

(Nhà cửa hoàn toàn xong. Vợ chồng chấn chỉnh cơ ngơi mới. Ước

mơ mới nảy sinh: Họ mong có con, có con mới vui vẻ, có con mới có người

giúp việc mình.

Khi có con, vợ chồng bước sang chặng đường khác của cuộc đời…

Cương vị và nhiệm vụ đã khác).

CHẶT CÂY BẺ LÁ

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 128

Page 129: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

("Lời than của nàng dâu")

Đã đến mùa chặt cây (1)

Đã đến ngày bẻ lá (2)

Chặt cây vào tháng này.

Buổi sáng trời mù sương

Buổi trưa trời trắng xoá

Mắt không nhìn thấy rừng

Chân vãn leo vách đá.

Chặt cây không muốn chặt,

Kiếm rau chẳng muốn đi.

Không chặt, thiếu cái đun,

Không đi, thiếu cái nấu.

Ở nhà, thiếu củi sưởi,

Ở nhà, thiếu rau ăn.

Rau người cùng rau lơn.

Không đi, người già buồn,

Người trẻ mặt không vui (3)

Đun nhiều là dịp này:

Người già đun thế nào,

Người trẻ đun thế ấy.

Sưởi nhiều là mùa này:

Người già đốt thế nào,

Người trẻ theo thế ấy!

Đẵn gốc cây dưới thấp

Ngọn cây, chim rỉ rả.

Vào hàng sâu bẻ lá

Chim hót trên vách đá.

Chim chim hót làm gì

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 129

Page 130: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Cho người đứng không yên?

Chim quạ kêu làm gì (4)

Cho tôi thêm lo lắng?

Chim hót, chom thấy vui

Hay đâu thân gái khổ!

Quạ kêu, quạ hay đâu

Tiếng quạ, tủi phận dâu!

Không nghĩ thì không nhớ (5)

Nghĩ tới, lòng ngẩn ngơ.

Không nhớ thì không buồn

Nhớ tới lòng héo hon.

Nước mắt thấm trên đường,

Từng chặng lại từng chặng.

Nước mắt đọng núi cao,

Từng bước theo từng bước.

Khóc, bố mẹ không biết,

Người lạ nghe rõ hết

Than, bạn bè chẳng hay,

Người lạ chẳng đoái hoại…

(1) Tháng 12 âm lịch: Tháng chặt cây đốn củi, sửa soạn ăn tết và lấy

củi sưởi cho mùa đông xuân.

(2) Kiếm rau người ăn, lợn ăn, cỏ bò. Vùng nút rét, đồng bào ít trồng

được rau. Phải tìm rau rừng để ăn.

(3) Người già, người trẻ: bố mẹ, anh em nhà chồng.

(4) Quạ kêu là người chết: nghe quạ kêu là điềm gở, người ta mê tín

như vậy, nhất là đối với phụ nữ.

(5) Gần tết nhớ bố mẹ đẻ, họ hàng.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 130

Page 131: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

BÀI CA TRỒNG TRỌT

Nhân vật: - Vợ

- Chồng

- Anh rể

- Bài hát

Vợ:

Đông qua, chào xuân tới.

Mùa cấy trồng đã tới.

Trồng ngô lúa anh ơi,

Anh cày, anh đi trước

Gieo hạt, em theo sau.

Bước lại bước, theo nhau.

Lớn bé, ai cũng đi,

Già trẻ rủ cùng đi,

Con trai, con gái đi,

Làng xóm gọi nhau đi.

Không trồng, không ngô lúa,

Không trồng, không sợi bông.

Chúng ta không ra đồng,

Con trai mình sẽ đói;

HÁT RU

I. Ru em

À ơi, à ời ời,

Đừng khóc nữa, em ơi!

Bố không lúc nghỉ ngơi

Bố đi rừng chặt củi;

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 131

Page 132: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Em ơi, em đừng khóc,

Lấy củi bao cực nhọc;

Kiến ăn mục củi rồi!

Đừng khóc nữa, em ơi!

Mẹ cũng chẳng lúc nhàn,

Con ếch bơi trong nước

Khuấy vẩn đục nước rồi.

Nước trong không vục được,

Em ơi, em đừng khóc!

Mẹ không lúc nghỉ tay

Mẹ hái rau trên rẫy,

Rau ngon nào còn đâu,

Nai rừng về giẫm nát.

Rau ngắt được một tầu,

Nờu khách ăn không đủ

Chủ cũng chẳng đủ ăn,

Đừng khóc nữa, em à!

Củi không đủ khách dùng

Chủ ngừng tay chất bếp,

Lửa bốc cao, củi hết!

Em ơi, đừng khóc mà,

Nước khách còn không đủ,

Chủ chỉ một chén vơi;

Ngủ đi, em em ơi!

À ơi, à ơi à!

II. Ru con

À ơi, à ơi ơi,

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 132

Page 133: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Ngủ đi, ngủ đi con

Ngủ say, ngủ say con

Bố lên núi, lên non,

Tay dao bố chặt củi

Củi mọt ăn hết rồi!

Chỉ còn một cành nhỏ,

Chỉ còn một cành khô

Thiếu củi lo khách đến

Lửa không đủ ấm tay,

Chủ nhà dùng không có

À ơi, à ơi ơi…

Ngủ đi, ngủ đi con,

Ngủ say, ngủ say con,

Vác ống (1) theo đường mòn,

Ra ruối mẹ kín nước

Nước Rồng đã uống cạn (2)

Vét đi, mẹ vét lại

Chỉ được một gáo con

Chỉ được tròn gáo nhỏ,

Không đủ nước khách uống,

Chủ nhà dùng không có,

À ơi, à ơi ơi…

III. Ru con

À ơi, à ơi ơi…

Bố nhớ con, con ơi,

À, con bố đây rồi,

Bố thương con, con à

Con nằm trong tay bố

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 133

Page 134: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

À ơi, à ơi à…

Mẹ nhớ con, con ơi,

À, con mẹ đây rồi,

Mẹ thương con lắm mà,

Con sờ đầu vú mẹ

À ơi, à ơi ơi…

Con cần gì? Cần địu,

Trên lưng bố, con nghe,

Đàn ong rừng ca hát,

Mắt long lanh, ngơ ngác;

À ơi, à ơi à…

Cần địu gì? Địu hoa,

Trên lưng mẹ, con nghe,

Lời gió rừng ru lá

Hay lời mẹ ru con?

IV. Địu con lên nương

(Hát ru IV)

Nín đi nào, con ơi,

Đừng khóc nhiều con hỡi!

Bố đang bận ở nhà,

Mẹ thương con, con à

Ngủ đi nào, con ơi,

Đừng khóc nhiều, con à,

Mẹ lấy củi gần nương,

Bố kín nước gần nhà.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 134

Page 135: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Nín đi nào, con ơi,

Đừng khóc nhiều, con hỡi!

Đi nương mới có ăn,

Lấy nước mới có uống

Hổ dữ sống trong rừng,

Thuồng luồng bơi trong nước

Nín đi, con nín đi!

Thuồng luồng, hổ không về.

Ngủ say nào, con ơi,

Con hỡi, im tiếng đi!

Con khóc, bố không thương,

Con khóc, mẹ không quý!

(1) Ống vầu. Miền núi kín nước bằng ống vầu.

(2) Quan niệm rằng Rồng giữ nguồn nước. Rồng ở các nơi có nguồn

nước: khe núi, sông, suối.

ĐÓN KHÁCH

Trong mùa xuân nhàn rỗi, đêm đêm thanh niên thường rủ nhau vui

chơi, ca hát trong nhà. Con trai thường tới nhà con gái đối đáp những bài

ca trữ tình.

Theo tập tục hiếu khách của dân tộc, khi có khách tới thì chủ hát

chào đón trước. Rồi sau đó mới đi vào tâm tình hoặc tổ chức cuộc hát vui.

Dưới đây cũng là loại hát đối đáp giữa chủ và khách. Chủ mở đầu

nên gọi là hát ĐÓN KHÁCH.

Nhân vật: - Chủ (Nữ)

- Khách (Nam)

Tối nay là tối gì?

Mà thoang thoảng hương bay?

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 135

Page 136: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Đêm nay là đêm gì

Mà ấm áp cỏ cây?

Gốc thảo quả trên trời

Hương toả thơm mặt đất (1)

Quả dù piảng (2) trên cao

Hương quả lan ngây ngất.

Chưa thấy là gừng đâu

Mà đã thoáng thơm cay.

Quả dù xó (2) nơi nào

Mà hương bay qua đây?

Biết vị gừng đã lâu,

Củ tới nay mới thấy.

Biết hương quả thuở nào

Quả bây giờ mới hay!

Thèm vị gừng thơm cay

Đất dầy đào không được (3)

Hương quả thoang thoảng bay,

Mà quả cao, đành vậy (3)

Nghe giọng, biết hát hay (4),

Mặt chưa gặp một lần.

Mặt nhìn rõ thân cây,

Tay làm sao vít ngọn?

Chúng ta là người quen,

Chúng ta là anh em.

(Khách vẫn xấu hổ, hoặc đắn đo, giữ kẽ, chưa hát. Chủ mở cửa

khách vào, hát tiếp).

Chủ:

Chúng ta là người quen,

Chúng ta là anh em

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 136

Page 137: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Nhà anh tận trên trời (5),

Nhà em ngay mặt đất,

Khách tới chủ phải hỏi.

Đuổi ngay gà ra sân (6)

Rồi xích ngay chó lại.

Khách tới chủ không chào,

Khách ngồi không yên dạ.

Khách tới, chủ không đón,

Khách chê mình kém cỏi.

Lại phiền lòng người già,

Chuốc điều tiếng xấu xa (7)

Khách tới cửa, cửa vui,

Khách vào nhà, nhà sáng.

Nơi có tang mới buồn,

Nhà chết hết mới tẻ

Mới âm thầm lặng lẽ.

Khách đã về tới cửa,

Chủ đón mừng niềm nở.

Khách bước vào trong nhà:

Chủ ngồi, lòng như đứng,

Chân đứng mà lòng bay (8)

Đến chơi đừng xấu hổ,

Vào nhà, đừng thẹn thò.

Rồi ra, quen nhau cả!

Anh ơi, mời anh hát!

Anh đừng yên lặng quá.

Xin anh đừng thờ ơ,

Em không thể đợi chờ.

Nhà anh, phương trời xa

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 137

Page 138: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Nhà em đây, mặt đất.

Gặp nhau là vui hát.

Chúng ta là người quen,

Chúng ta là anh em…

(Xong 2 đoạn này khách phải hát đáp. Nếu vẫn không hát sẽ bị kéo

ra cửa. Sau khi kéo khách ra cửa rồi, chủ nhân nhìn lại mặt khác một lần

nữa).

Chủ:

Trước nghe tên vẫn biết

Đêm nay mới gặp mặt.

Trước phải biếu tiền anh,

Anh lặng thinh chẳng hát,

Đêm nay gặp người quen

Thân thiết như anh em

Xin mời anh cất giọng,

Nâng lời ca trầm bổng.

Gặp nhau biết nói gì?

Hát nỗi niềm ẩn ức,

Kể cuộc đời khổ nhục

Hát niềm vui, hạnh phúc:

Mùa xuân, tình đôi lứa.

Không khổ xin đừng kể,

Không vui, đừng hát ca.

Lời hát nóng như lửa,

Giọng ngân nga say sưa,

Hát đi, ngày một câu,

Một câu, đêm hát tiếp.

Giãi bày trọn tấm lòng.

Riêng anh kể không vui,

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 138

Page 139: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Mình anh hát chẳng hay.

Người hát đi, hát lại:

Tất cả cùng cao giọng,

Biến thành niềm vui chung,

Hát đi, hát đi anh!

Khách:

Tối nay là tối gì?

Mà bếp reo ánh sáng.

Đêm nay là đêm gì,

Mà hát vui làng bản?

Em mới nghe giọng nói,

Đã đoán anh hát giỏi!

Nghe vài lời chào hỏi

Vội đoán anh hát hay!

Nhưng thực ra đâu phải.

Nào anh có bao giờ,

Bao giờ cất tiếng ca.

Nghe, các cô chê dở

Rằng: "Chuyện kể không đúng!"

Rằng: "Giọng hát không hay!"

Rằng: "Sao biết ít vậy?"

Mời các cô đi nghỉ,

Mời các cô đi ngơi.

Đêm nay tôi lạc đường,

Xin một chỗ dừng chân.

Đêm nay tôi lạc lối,

Phiền một nơi nghỉ lại.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 139

Page 140: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

(Khách hát đáp tức là đã ưng ý nhận tham gia cuộc hát. Chủ lại mở

rộng cửa mời khách và mọi người vào nhà).

Chủ: (Mời mọc mọi người).

Tới đây đừng e thẹn,

Coi nhau như người thân

Gặp nhau để ca hát,

Tiếng hát giữa đêm xuân.

Tối nay nghỉ không nên,

Tuy xóm này tẻ nhạt (9),

Không sánh được xóm trên (10)

Nhà em, nhà xấu xí (11)

So sao với nhà anh?

Nhưng cứ hát, cứ hát,

Hát lên cảnh sẽ đẹp,

Hát rồi, nhà mới vui!

Bài hát vẫn còn vữa,

Bài hát hay còn nhiều.

Ăn quả, ngắm hoa thơm,

Quả ngọt đậu trên cành.

Hoa thơm nở trên cao.

Hát đi, hát lên nao!

Tâm tình anh cứ kể,

Em nghe, mọi người nghe.

Tâm sự chị giãi bày,

Thao thức suốt đêm dài.

Hát lên, cảnh sẽ đẹp!

Hát rồi, nhà mới vui.

Anh cất lời bay bổng

Giọng chị (13) ngân âm vang.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 140

Page 141: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Cứ hát, ta cứ hát!

Tối nay là tối vui,

Đừng tiếc lời, tiếc giọng

Đêm nay là đêm hội,

Không thể nghỉ giữa chừng.

Không thể ngừng giữa lối.

Lời ca tiếp lời ca,

Đêm nay ta không nghỉ!

Hát đi anh, đi chị!…

Khách:

Từ xa tới mỏi mệt,

Muốn nghỉ không được nghỉ

Muốn ngơi chưa được ngơi…

Ai biết, mời cất giống,

Ai giỏi, mời kể đi!

Lời hát, lời tâm tình,

Kể chuyện, kể đời mình (14)

Đặt chân tới xóm em,

Bài hát anh mang theo,

Chẳng đáng kể bao nhiêu

Bước qua cửa nhà em,

Câu chuyện anh muốn nói,

Chuyện không dài đủ tối (15)

Bụng anh không muốn kể,

Mồm chẳng muốn cất lời.

Không hát, người già chê,

Không kể, bạn bè giễu,

Ông cụ chê anh tồi,

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 141

Page 142: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Bà cụ (16) chê kém cỏi.

Muốn nghỉ không được nghỉ

Nào, anh hát, em hát!

Anh kể chuyện đời anh.

Mọi người kể đời mình.

Tối nay là tối vui,

Không tiếc lời, tiếc giọng.

Đêm nay là đêm hội,

Không thể nghỉ giữa chừng,

Không thể ngừng giữa lối

Anh dặn gà đừng gáy,

Để trời đừng vội khuya,

Anh nhủ gà đừng dậy

Để ta còn hát mãi

Hát đi, nào ta hát!

Anh hát, rồi em hát.

Gửi em đồng bạc già (17),

Đồng bạc nặng tình ta,

Lời ca tiếp lời ca.

Đêm nay ta không nghỉ,

Hát đi em, đi chịu…!

(Tới đây, đêm hát mới bắt đầu. Về đề tài tình yêu hoặc đề tài khác -

Kể khổ, kể chuyện làm ăn, kể chuyện nhà…- nhưng xa gần cũng muốn đạt

mục đích trao duyên).

___________

(1) Khách là khách quý, tiếng đồn từ xa. Khách từ rất xa tới. Ca ngợi

và trân trọng khách.

(2) Một loại quả có hương thơm.

(3) Muốn hát với khách mà không sao mời khách hát với mình được.

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 142

Page 143: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

(4) Nghe lời chào hỏi từ ngoài cửa, chưa trông thấy nhau.

(5) Ý: Khách là khách quý, từ rất xa tới.

(6) Khách quý đã tới, mau thu dọn nhà cửa.

(7) Bố mẹ bị chê cười là con gái vụng dại.

(8) Rôm rả, vui sướng quá

(9) Xóm này: Xóm của em, cảnh xóm này buồn tẻ. Lỗi nói nhún nhường,

cốt đề cao khách.

(10) Xóm trên: xóm quê anh.

(11) Hiểu tương tự như ghi ở chú thích 1

(12) Ví bài hát như hoa thơm, quả ngọt.

(14) Hát giãi bày tâm sự

(15) Ý: ít chuyện, ít bài hát, khả năng kém. Khách vẫn nhúng nhường,

muốn khước từ trước khi vào cuộc hát.

(16) Bố mẹ cô gái. Trong cuộc hát, các lứa tuổi thanh niên, trung niên,

người già đều có thể tham dự, làm cố vấn.

(17) Đồng bạc "đầm xoè" thời thuộc Pháp, bằng bạc thật. Đồng bào

thường dùng để kéo đồ nữ trang. Tặng bạc già coi như gửi tặng vật tình

yêu.

TIẾNG HÁT MỒ CÔI (I)

Mẹ chết đã lâu rồi,Bố chết đã lâu rồi,Mưa về (1), trốn gốc cây,Mưa về, trú gốc cối.Trốn dưới cây không xong,Trú dưới cối không đượcNước từ cành rơi xuốngNước theo lá giỏ giọtMưa về, dựa hang đá:Hang đá nước chảy buốt.

Bố bỏ mình lúc bé,

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 143

Page 144: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Mẹ bỏ mình lúc bé,Con chim xây chín tổ,Mình phải làm chính nhà (2),Chim xây nổi mười tổ,Mình làm nổi mười nhà.

Bố bỏ mình lúc nhỏ,Muốn uống không có rượu,Muốn ăn không có đường.Mẹ bỏ mình lúc nhỏ,Muốn may không có vải,Muốn mặc không có quần.Làm nhà không có anh,Làm cửa không có em,Một con sức không đủ (3)Nhiều con sức mới nên!

(1) Mưa tới.

(2) Mồ côi bơ vơ, đi lang thang. Trèo cây chơi, kiếm quả ăn. Thấy

nhiều tổ chim. Tự hỏi, chim làm được tổ mình là người sao không làm nổi

nhà… Làm chín nhà, mười nhà; vừa nói lòng tự trọng, vừa nói niềm mơ

ước.

(9, 10: ý nói số nhiều).

(3) Một con sức: một người.

TIẾNG HÁT MỒ CÔI (II)

Bố bỏ, mình còn bé,

Mẹ bỏ, mình còn nhỏ.

Bố chết, mình chưa bò,

Mẹ chết, mình chưa đứng

Bố đi, mình nằm địu

Mẹ đi, đầu còn chàm

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 144

Page 145: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Trồng ngô, nương không có,

Trồng lúa, ruộng đâu ra?

Đói từ một hạt cơm,

Khát từ một giọt nước.

Muốn đi áo đâu mặc,

Ra đường, manh quần rách,

Nhìn áo, áo hở nách,

Quần ngắn, quần hở đùi (1)

Đời mình khổ thế này,

Thân tôi sao cực vậy?

Con chim kêu trên đá,

Chim hót từ ngọn cây.

Chim mách bảo tôi rõ,

Chim dạy tôi điều hay:

"Người ơi, tìm dao quắm,

Dao quắm giắt sau lưng.

Người hỡi, tìm cái cuốc,

Vác cái cuốc lên vai.

Đất bằng người tìm tới,

Tìm đất nơi đầu suối.

Dao quắm phát sạch cây,

Người được nương đất bằng,

Cuốc kia, người bập xuống,

Người được nướng đất xốp!"

(Mồ côi nghe theo lời chim. Vỡ nương, làm đất. Đến lúc gieo trồng.

Trồng gì? Gieo gì?)

Người phát nương trồng gừng (2)

Mình phát nương trồng lúa,

Người lo trồng quả đủ (3),

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 145

Page 146: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Mình lo xới nương ngô.

Ngày qua, ngày lại qua,

Tháng đi, rồi tháng tới.

Gieo lúa, lúa đâm bông,

Vun ngô, ngô nở bắp.

Tay mình nâng hạt thóc,

Hạt thóc mình làm ra.

Tay mình đỡ quả ngô,

Quả ngô mình trồng được,

Đêm nằm, không chăn đắp

Đêm ngủ, lạnh tấm thân.

Ra đường, quần áo rách,

Nhìn người, tủi đời mình.

Chim hót từ ngọn cây,

Chim dạy tôi điều mới:

"Người ơi,

Manh áo nơi con mắt,

Người hỡi,

Mảnh chăn ở bàn tay.

Con mắt người học nghề,

Bàn tay người may cắt!"

Nghe chim, để ngủ ấm,

Ngày đủ quần áo lành.

Cọc buộc có bò rồi,

Chuồng đã sẵn lợn nuôi.

(Mồ côi nên người. Nhiều chuyện vui đến)

Mồ côi này biết lớn,

Trong nhà nhiều chuyện vui

Mồ côi này nên người,

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 146

Page 147: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

Đi nương có chồng vợ,

Về nhà vui trẻ thơ.

Mồ côi nay biết lớn,

Bò đã mượt lông bò,

Lợn béo tròn thân lợn

Trong sân, gà đi lại,

Dòng suối, đàn cá bơi.

Đói, sẵn cơm đầy bát,

Khát, sẵn nước đầy vầu (4).

Quần dài đến gót chân,

Áo dài đến bàn tay.

Trong nhà, thân ấm áp,

Ra đường nào kém ai!

(1) Đồng bào ở vùng rét, không bao giờ mặc áo ngắn tay quần

đùi. Quần áo như thế này là vì rách quá, phải xé mãi, cộc mãi đi.

(2) Người ta dư dật, lúa ngô thừa ăn. Trồng gia vị để ăn với thịt.

(3) Ống vầu dùng để lấy nước, đựng nước.

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN...........................................................................................1

LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................4

CHƯƠNG 1...............................................................................................7

KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, CON NGƯỜI Ở HUYỆN

ĐỒNG VĂN - TỈNH HÀ GIANG...........................................................7

1.1 Điều kiện tự nhiên...........................................................................7

1.2. Điều kiện kinh tế xã hội.................................................................8

2.1.1. Lịch sử tộc người Lô Lô..........................................................9

1.2.2. Đặc điểm kinh tế của người Lô Lô ở Đồng Văn - Hà Giang. 9

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 147

Page 148: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

1.2.3. Phong tục tập quán...............................................................11

1.2.4. Văn học nghệ thuật dân gian.................................................17

1.2.5. Lễ tết:.....................................................................................17

CHƯƠNG 2.............................................................................................19

ĐẶC ĐIỂM DÂN CA LÔ LÔ Ở ĐỒNG VĂN - HÀ GIANG...............19

2.1. Khái quát về dân ca Lô Lô ở Đồng Văn - Hà Giang....................19

2.2. Dân ca trong lễ hội.......................................................................22

2.2.1. Lễ tế trời đất..........................................................................23

2.2.2. Lễ cầu mưa............................................................................27

2.3. Dân ca trong sinh hoạt..................................................................30

2.3.1. Hát ru....................................................................................30

2.3.2. Hát than thân.........................................................................32

2.4. Dân ca giao duyên........................................................................35

2.5. Vài nét về âm nhạc dân gian Lô Lô.............................................39

CHƯƠNG 3.............................................................................................43

SỬ DỤNG DÂN CA LÔ LÔ TRONG HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN

TUYÊN TRUYỀN..................................................................................43

3.1. Dân ca trong sinh hoạt cộng đồng của người Lô Lô ở Đồng Văn

hiện nay...............................................................................................43

3.2. Hoạt động thông tin tuyên truyền cổ động trong công tác xây

dựng đời sống văn hoá ở cơ sở............................................................45

3.3. Một số kết quả đạt được trong công tác thông tin tuyên truyền cổ

động của huyện và vận dụng dân ca Lô Lô trong hoạt động thông tin

tuyên truyền.........................................................................................47

3.3.1. Một số kết quả đạt được trong công tác thông tin tuyên truyền

cổ động của huyện Đồng Văn.........................................................47

3.3.1.1. Công tác thông tin lưu động...........................................48

3.3.1.2. Công tác chiếu phim lưu động......................................49

3.3.1.3. Công tác cổ động trực quan...........................................49

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 148

Page 149: Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Lan

3.3.1.4. Công tác truyền thanh truyền hình.................................49

3.3.2. Vận dụng dân ca Lô Lô trong hoạt động thông tin tuyên

truyền...............................................................................................50

3.3.2.1. Vận dụng dân ca Lô Lô trong thông tin lưu động..........50

3.3.2.2. Vận dụng trong văn nghệ quần chúng...........................53

3.3. Một số giải pháp để bảo tồn và phát triển dân ca Lô Lô trong cuộc

sống hiện nay.......................................................................................55

KẾT LUẬN.............................................................................................59

TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................61

PHỤ LỤC................................................................................................63

Lớp: Văn hoá dân tộc 9A 149