dan trang

80
Tập san VGD * Văn hoá - Gii Trí - Đời sng Số 1 * 4-2010 Trang 1 Quý độc giả thân ái. Một căn gác nhỏ êm đềm nhìn ra bầu trời cao rộng, một công việc thường ngày đem lại áo ấm cơm no, một quê hương tú lệ để ta yêu ta rong chơi thưởng thức, đó l à những ước mơ không của riêng ai. Việt Nam! Đất nước! Con người. Bốn ngàn năm văn hiến đã kết tập nên một pho sử bi hùng và một nền văn hóa đặc sắc muôn màu muôn vẻ. Đất nước ta có một vị trí vô cùng ưu đãi về nhiều mặt, đặc biệt là về thổ nhưỡng và khí hậu. Do đó, mỗi vùng có những tài nguyên, sản phẩm, phong tục, hình thái văn hóa riêng… thể hiện qua di tích, thắng cảnh, làng nghề, lễ hội, thơ ca, ẩm thực… vô cùng phong phú. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt nam là nhiệm vụ thừa kế muôn đời muôn thế hệ người Việt trong và ngoài nước và cũng chính là mục tiêu của đặc san VGD Văn hoá, giải trí, đời sống - muốn chia sẻ cùng quý độc giả thân yêu. Xin trân quý những tâm hồn mở lòng đón nhận. Ban chủ trương Tập san VGD Chủ nhiệm: Thái Thanh Tùng Chủ bút: Thái Thanh Nguyên Design: Cao Thái Thanh Với sự cộng tác thường xuyên của các cây bút uy tín: Bảo Anh, Triều Âm, Lê Phương Châu, Quỳnh Dao, Phục Sinh Đường, Trần Ngọc Hưởng, Thái Lộc, Vũ Tiến Phúc, Bút Tâm, Bùi Bội Trân, Đoàn Thuận, Hà Trung Yên… Gửi thư và bài cộng tác: [email protected] [email protected] Liên lạc và đăng quảng cáo Chez Thi 5557 Chemin de la Côte des Neiges, Montreal, QC, H3T 1Y8 Canada Montréal, (Québec) Canada, H3T-2A9 - Tel: (514) 531-4527 Số đăng bạ : ISSN 1911-012X Thông báo Kính mời Quý tác giả và Quý độc giả cùng tham gia khai mạc Diễn đàn VGD, chủ đề đầu tiên cho số tới “Cho và Nhận”. Chúng tôi sẽ chọn lọc và trích đăng những đoạn tiểu luận hay nhất. Trân trọng.

Upload: tungthai

Post on 17-Jan-2015

1.165 views

Category:

Education


0 download

DESCRIPTION

Vietnamese magazine published in Montreal

TRANSCRIPT

Page 1: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 1

Quý độc giả thân ái.

Một căn gác nhỏ êm đềm nhìn ra bầu trời cao rộng, một công việc thường ngày đem lại áo ấm cơm no, một quê hương tú lệ để ta yêu ta rong chơi thưởng thức, đó là những ước mơ không của riêng ai.

Việt Nam! Đất nước! Con người. Bốn ngàn năm văn hiến đã kết tập nên

một pho sử bi hùng và một nền văn hóa đặc sắc muôn màu muôn vẻ. Đất nước ta có một vị trí vô cùng ưu đãi về nhiều mặt, đặc biệt là về thổ nhưỡng và khí hậu. Do đó, mỗi vùng có những tài nguyên, sản phẩm, phong tục, hình thái văn hóa riêng… thể hiện qua di tích, thắng cảnh, làng nghề, lễ hội, thơ ca, ẩm thực… vô cùng phong phú.

Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt nam là nhiệm vụ thừa

kế muôn đời muôn thế hệ người Việt trong và ngoài nước và cũng chính là mục tiêu của đặc san VGD – Văn hoá, giải trí, đời sống - muốn chia sẻ cùng quý độc giả thân yêu.

Xin trân quý những tâm hồn mở lòng đón nhận.

Ban chủ trương

Tập san VGD

Chủ nhiệm: Thái Thanh Tùng Chủ bút: Thái Thanh Nguyên

Design: Cao Thái Thanh Với sự cộng tác thường xuyên của các cây bút uy tín:

Bảo Anh, Triều Âm, Lê Phương Châu, Quỳnh Dao, Phục Sinh Đường, Trần Ngọc Hưởng, Thái Lộc, Vũ Tiến Phúc, Bút Tâm,

Bùi Bội Trân, Đoàn Thuận, Hà Trung Yên… Gửi thư và bài cộng tác:

[email protected][email protected] Liên lạc và đăng quảng cáo

Chez Thi 5557 Chemin de la Côte des Neiges, Montreal, QC, H3T 1Y8 Canada Montréal, (Québec) Canada, H3T-2A9 - Tel: (514) 531-4527

Số đăng bạ : ISSN 1911-012X Thông báo Kính mời Quý tác giả và Quý độc giả cùng tham gia khai mạc Diễn đàn VGD, chủ đề đầu tiên cho số tới “Cho và Nhận”. Chúng tôi sẽ chọn lọc và trích đăng những đoạn tiểu luận hay nhất. Trân trọng.

Page 2: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 2

TTrrưưnngg NNữữ VVưươơnngg ((4400 –– 4433)) Anh thư khởi nghĩa mở đường

Vào đầu thế kỷ thứ I, nước ta còn bị lệ thuộc nhà Đông Hán (25-220) bên Trung Hoa, Thái thú Giao Chỉ là Tô Định vô cùng bạo ngược, làm lắm điều tàn ác, người người oán hận. Chính sách ngoại biên của nhà Hán với nhiều luật lệ ngặt nghèo, khắt khe đã khơi dậy ngọn lửa oán hờn trong lòng dân nước Việt.

Trưng Trắc sinh năm Giáp Tuất (năm 14 sau Tây Lịch), quê ở Mê Linh (Yên Lãng, Phúc Yên nay thuộc vùng Hạ Lôi, Yên Lãng, Vĩnh Phú). Cha là Trưng Định, làm quan Lạc Tướng ở huyện Mê Linh. Mẹ là bà Man Thiên, tức Trần Thị Đoan, dòng dõi Hùng Vương.

Gia đình ông Đặng Tập ở Chu Diên thuộc dòng dõi Lạc Tướng, con trai ông là Đặng Thi Sách, khôi ngô, giỏi võ nghệ, có tinh thần yêu nước. Được tin ở Mê Linh có hai nữ lưu có ý chí kiên cường, dám chém đầu Tích Lâm khi buông lời khả ố, chọc ghẹo nên tìm đến kết thân. Thi Sách và Trưng Trắc cùng chung chí hướng, tài giỏi võ nghệ, tâm đầu ý hợp nên kết nghĩa phu thê.

Năm 39, Tô Định giết Thi Sách. Vừa giận thù nhà, vừa hận nợ nước, nên Trưng Trắc cùng với em là Trưng Nhị chiêu binh mãi mã phất cờ khởi nghĩa đánh quân nhà Hán. Sau khi làm lễ để tang chồng, Trưng Trắc thảo tờ hịch kể tội ác của quân nhà Hán và kêu gọi dân chúng đứng dậy chống giặc thù để phổ biến khắp nơi.

Dưới Bóng cờ nương tử, nghĩa binh Mê Linh phá quận trị Giao Chỉ của nhà Hán, ngày càng có thêm nhiều đoàn quân từ các nơi đổ về dưới trướng khởi nghĩa nhằm tiêu diệt quân xâm lăng. Chẳng bao lâu, quân của Hai Bà Trưng đã đánh hạ được tất cả 65 thành, Tô Định khiếp sợ, chạy về Nam Hải chịu tội với vua Hán.

Tin thắng trận bay đi, nhân dân các quận Hợp Phố (Quảng Đông ngày nay), Cửu Chân và Nhật Nam (Bắc Việt và Bắc Trung Việt ngày nay) hưởng ứng rất đông theo tiếng gọi của hai vị nữ anh thư. Thanh thế của lực lượng khởi nghĩa thật lừng lẫy.

Trưng Trắc lên ngôi vua, tự xưng là Trưng Nữ Vương, đóng đô ở Mê Linh chấm dứt 150 năm Bắc thuộc lần thứ nhất (111 trước Tây Lịch đến 39 sau Tây Lịch), phong cho Trưng Nhị làm Bình Khôi Tướng Quân nắm giữ toàn thể quân lực.

Tháng Chạp, năm 41, vua Hán Quang Võ phong Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, mang 20 vạn quân sang đánh. Trận kịch chiến dữ dội giữa đại quân của Mã Viện với dân binh do Trưng Nữ Vương thống lĩnh đã diễn ra ở Lăng Bạc (Đông Triều - Yên Phong, Hà Bắc). Quân Mã Viện mai phục trên các

Page 3: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 3

triền đất cao giữa vùng Lăng Bạc bị Trưng Nữ Vương đem quân tới chận đánh. Trận chiến đầu tiên với đạo quân của Mã Viện đã mang lại thắng lợi nhưng quân sĩ đã hy sinh quá nhiều; trước tình thế đó, Trưng Nữ Vương thu quân về giữ Cấm Khê (Hà Nội - Quốc Oai - Hà Tây).

Mã Viện xin tăng cường thêm quân rồi tiếp tục kéo binh xâm lược, trận huyết chiến lại xảy ra, máu chảy đỏ sông Hồng, sông Đáy. Qua bốn trận thư hùng với quân địch, hàng vạn quân dân Việt đã bị giết và bị bắt. Quyết chống trả với quân giặc đến cùng, Trưng Nữ Vương phải bỏ Cấm Khê lui quân về đến Hát Giang, nơi đây vì quân ít, thế cô và cùng đường, hai vị anh thư không muốn rơi vào tay quân địch bèn gieo mình xuống sông tự vận để bảo toàn danh tiết. Đó là ngày 6 tháng 2 năm Quý Mão (năm 43). Theo Nam Sử, Trưng Trắc hưởng dương 29 tuổi. Mã Viện đem phủ trị về đóng ở Mê Linh, dựng trụ đồng nơi phân chia địa giới, khắc sáu chữ: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” nhằm đe dọa, người dân cam phận sống trong cảnh lầm than!

Ngày nay, ngoài quê hương Mê Linh, tại bãi Đồng Nhân ở vùng ngoại ô thành phố Hà Nội có ngôi đền cất từ năm Nhâm Tuất (1142) thờ Hai Bà Trưng rất lớn. Tại Hát Môn, Sơn Tây có Miếu Hát thờ Hai Bà Trưng, theo dân gian, nơi nầy rất linh thiêng... Để tỏ lòng tôn kính, hàng năm vẫn tổ chức lễ kỷ niệm hai vị anh thư Trưng Trắc và Trưng

Nhị vào ngày mùng 6 tháng 2 Âm lịch.

Trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca có những câu:

Bà Trưng quê ở Châu Phong Giận người tham bạo, thù chồng

chẳng quên Chị em nặng một lời nguyền Phất cờ nương tử, thay quyền tướng

quân...

Sách Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập có những vần thơ vịnh Hai Bà Trưng:

Giúp dân dẹp loạn trả thù mình Chị rủ cùng em kết nghĩa binh Tô Định bay hồn vang một trận Lĩnh Nam mở cõi vững trăm thành Mới dày bảo vị gia ơn trọng Đã đội hoa quan xuống phúc lành Còn nước, còn non, còn miếu mạo Nữ trung đệ nhất đấng tài danh.

Đây là hai vị nữ lưu trong lịch sử nước nhà đã dấy lên ngọn cờ khởi nghĩa đầu tiên chống trả ách xâm lược của Bắc Phương. Sau cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, đất nước lại rơi vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai kéo dài đến 5 thế kỷ (43-544).

Vương Trùng Dương biên soạn

Nguồn http://www.xuquang.com/vanhoc/vtd-danhnhan1.html

Ñeàn thôø Hai Baø Tröng taïi Gia Ñònh

Page 4: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 4

Trong cuộc

đời chiến đấu

của mình,

Nguyễn Huệ có

ba lần ra

Thăng Long

với thời gian

rất ngắn

nhưng để lại

dấu ấn rất sâu

đậm trong ký

ức và tình cảm

của nhân dân

kinh thành.

Lần thứ nhất vào giữa năm 1786. Lúc bấy giờ nghĩa quân Tây Sơn đã đánh bại chính quyền chúa Nguyễn, đập tan cuộc xâm lược của quân Xiêm và kiểm soát vùng đất từ Quảng Nam trở vào. Thành Phú Xuân và đất Thuận Hóa do quân Trịnh chiếm đóng. Tháng 6 năm 1786, Nguyễn Huệ được lệnh của Nguyễn Nhạc đem quân ra giải phóng vùng đất phía bắc Đàng Ngoài cho đến sông Gianh và củng cố hệ thống thành lũy phòng vệ ở đây. Quân Tây Sơn dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Huệ đã nhanh chóng chiếm lại Phú Xuân và tiến ra bờ nam sông Gianh. Tại đây, sau khi nghiên cứu kỹ tình hình Đàng Ngoài, ông đã quyết định tiếp tục phát triển phong trào Tây Sơn ra bắc, lật đổ chế độ chúa Trịnh. Đó là một quyết định mang tính lịch sử chứng tỏ tầm mắt nhìn xa thấy rộng và tấm lòng yêu nước thương dân, ý chí thống nhất giang sơn mạnh mẽ của Nguyễn Huệ. Bài Hịch xuất quân đánh

Trịnh cho thấy rõ suy tính và tư tưởng của ông:

“Quảng Nam đã quét sạch bụi trần,

Thuận Hóa lại đem về bờ cõi. Nam: một giải tăm kình

phẳng lặng, cơ thái bình đứng đợi đã gần,

Bắc: mấy thành tin nhạn chưa yên, bề cứu viện ngồi trông sao tiện.

Vả bấy nay, thần nịnh chúa hôn, mở bình trị lòng người hẳn muốn,

Lại gặp hội binh kiêu dân oán, sửa mối giềng tài cả phải ra”.

Từ giới tuyến chia cắt đã kéo dài trên 200 năm, lệnh xuất quân của chủ soái Tây Sơn biểu thị quyết tâm và niềm tin sắt đá:

“Chước vạn toàn đã tạc đá Hoành Sơn,

Binh tức khắc lại giương buồm Bắc Hải”.

Chỉ trong khoảng 10 ngày, quân đội Tây Sơn dưới danh nghĩa “phù Lê diệt Trịnh” đã đánh tan toàn bộ quân Trịnh, lật đổ nền thống trị của chúa Trịnh. Ngày 21-7-1786, Nguyễn Huệ dẫn đại quân vào Thăng Long và đặt chỉ huy sở ở phủ chúa Trịnh. Nguyễn Huệ đến yết kiến vua Lê Hiển Tông và ngày 30-7, lễ triều kiến chính thức được tổ chức trọng thể tại điện Kính Thiên, tuyên bố công cuộc phù Lê của quân đội Tây Sơn. Sau đó, vua Lê Hiển Tông ban bố Chiếu thư nhất thống, đem niêm yết tại cửa Đại Hưng. Vua Lê phong Nguyễn Huệ làm Nguyên súy Phù chính Dục vũ Uy quốc công và đem công chúa Ngọc Hân gả cho chủ soái Tây Sơn. Ngày 4-8-1786 kinh thành Thăng Long chứng kiến đám cưới của vị anh hùng “áo vải cờ đào” với một công chúa cành vàng lá ngọc. Sau đó, vua Lê Hiển Tông bị ốm nặng và từ trần

Page 5: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 5

ở tuổi 70, hoàng tôn Lê Duy Kỳ lên ngôi, tức vua Lê Chiêu Thống.

Nguyễn Nhạc ở Quy Nhơn được tin cấp báo rằng Nguyễn Huệ đã tự đem quân ra Đàng Ngoài và đã chiếm giữ thành Thăng Long, vội vàng ra Bắc và rồi đêm 5-9-1786 cùng em rút quân về Nam. Như vậy là trong cuộc tiến quân ra bắc lần thứ nhất vào giữa năm 1786, Nguyễn Huệ đã chấm dứt tình trạng phân chia Đàng Trong - Đàng Ngoài, bước đầu thống nhất đất nước và phế bỏ chế độ chúa Trịnh. Thời gian Nguyễn Huệ lưu lại ở Thăng Long chỉ 45 ngày, nhưng đã làm đảo lộn cả trật tự kinh thành và để lại những sự kiện làm kinh ngạc mọi người dân ở đây.

Do sự bất lực của Lê Chiêu Thống, các thế lực chúa Trịnh và quân phiệt lại trỗi dậy, tình hình Thăng Long, Bắc Hà lại lâm vào tình trạng rối loạn và Nguyễn Hữu Chỉnh thâu tóm mọi quyền hành. Phủ chúa Trịnh xây dựng bên bờ phía tây hồ Hoàn Kiếm là một quần thể kiến trúc gồm 52 cung điện lớn, đã bị Lê Chiêu Thống sai người phóng hỏa đốt phá “khói lửa bốc lên ngút trời, hơn mười ngày chưa tắt, thế là một khu lâu đài cung khuyết hơn hai trăm năm trời thành bãi đất cháy sém” (Hoàng Lê nhất thống chí). Cuối năm 1787, Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm cùng Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân đem quân ra Bắc lần thứ hai diệt trừ Nguyễn Hữu Chỉnh. Lê Chiêu Thống bỏ trốn và Sùng Nhượng công Lê Duy Cẩn được lập làm giám quốc trông nom việc nước. Nhưng rồi Vũ Văn Nhậm có ý chuyên quyền nên mùa hè năm 1788, Nguyễn Huệ đem quân ra Thăng Long lần thứ ba diệt trừ Vũ Văn Nhậm. Lần này, Nguyễn Huệ lo sắp xếp lại bộ máy chính quyền, ổn định tình hình Bắc Hà. Nhiều sĩ phu tiến bộ của Thăng Long và Bắc Hà đã tự nguyện theo Tây Sơn phò tá

Nguyễn Huệ như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thế Lịch, Trần Bá Lãm, Vũ Huy Tấn, Đoàn Nguyễn Tuấn... Ảnh hưởng của Tây Sơn và uy tín của Nguyễn Huệ đã thấm vào các tầng lớp xã hội của đất kinh thành và làm thức tỉnh một số trí thức Bắc Hà. Cuối năm 1788, lợi dụng sự cầu cứu của Lê Chiêu Thống, nhà Thanh cử Tôn Sĩ Nghị làm thống soái chỉ huy 29 vạn quân Thanh xâm lược Đại Việt và chiếm đóng kinh thành Thăng Long. Thực hiện chủ trương của Ngô Thì Nhậm “nay ta toàn quân rút lui, không bị mất một mũi tên, cho chúng ngủ trọ một đêm rồi lại đuổi chúng đi” (Hoàng Lê nhất thống chí), quân Tây Sơn rút về giữ Tam Điệp - Biện Sơn và cho người cấp tốc về Phú Xuân phi báo cho Nguyễn Huệ biết. Tối ngày 17-12-1788, quân Thanh vượt sông Nhị tiến vào chiếm giữ thành Thăng Long. Nhân dân kinh thành trải qua những ngày tháng đau thương, chứng kiến những tội ác của quân xâm lược và hành động bán nước của bè lũ vua tôi Lê Chiêu Thống.

Ngày 24-11 năm Mậu Thân (21-12-1788) , tại Phú Xuân, Nguyễn Huệ nhận được tin cấp báo, ngày hôm sau làm lễ lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung rồi lập tức ra lệnh xuất quân, lên đường ra Bắc diệt giặc.

Sau khi tập kết đại quân ở Tam Điệp - Biện Sơn, đúng đêm giao thừa Tết Kỷ Dậu (25-l-1789), cuộc tấn công đại phá quân Thanh của quân Tây Sơn bắt đầu. Đạo quân chủ lực do Quang Trung trực tiếp chỉ huy đánh thẳng vào hệ thống phòng thủ của quân Thanh ở phía nam thành Thăng Long, trong đó đồn Ngọc Hồi giữ vị trí then chốt. Mờ sáng ngày 5 Tết Kỷ Dậu (30-l-1789), quân Tây Sơn mở cuộc công phá đồn Ngọc Hồi. Cùng lúc

đó, một đạo quân Tây Sơn khác theo đường “thượng đạo” qua Chương Mỹ (Hà Tây), tiến về Nhân Mục (phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân) rồi bất ngờ công phá đồn Đống Đa ở phía tây nam thành Thăng Long và thừa thắng thọc sâu vào đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị ở cung Tây Long bên bờ sông Nhị. Hai mũi “chính binh” và “kỳ binh” của Quang Trung tạo thành một thế trận hết sức lợi hại cùng với sức tấn công thần tốc, vũ bão của quân Tây Sơn khiến cho hệ thống phòng ngự của quân Thanh bị sụp đổ tan tành và Tôn Sĩ Nghị “không còn hồn vía nào nữa, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, dẫn bọn lính kỵ mã dưới trướng vượt qua cầu phao rồi nhằm hướng bắc mà chạy” (Hoàng Lê nhất thống chí). Quân Thanh đại bại, một bộ phận bị tiêu diệt, số còn lại tháo chạy trong cảnh hỗn loạn, “đói cơm khát nước, không kiếm đâu ra được ăn uống, cứ phải đi suốt bảy ngày bảy đêm mới đến trấn Nam Quan” (An Nam quân doanh kỷ yếu).

Trưa ngày 5 Tết, Quang Trung trong bộ chiến bào sạm màu thuốc súng, ngồi trên mình voi chiến, tiến vào thành Thăng Long giữa sự nô nức đón chào của nhân dân kinh thành như nhà thơ Ngô Ngọc Du đã ghi lại trong bài thơ Long Thành quang phục kỷ thực:

Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến, Trăm họ chật đường vui tiếp

nghênh. Mây tạnh mù tan trời lại sáng, Đầy thành già trẻ mặt như

hoa, Chen vai thích cánh cùng

nhau nói: “Cố đô vẫn thuộc núi sông

ta”.

Trong chiến công vang lừng của mùa xuân Kỷ Dậu, nhân dân

Page 6: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 6

Thăng Long đã có nhiều đóng góp tích cực tạo nên kỳ tích đại phá quân Thanh. Nhân dân vùng Ngọc Hồi đã đem những tấm phản, cánh cửa để quân Tây Sơn

ghép lại những tấm mộc chắn tên đạn khi công phá đồn Ngọc Hồi. Nhân dân sáu làng xã vùng Khương Thượng - Đống Đa dùng

rơm rạ bện thành hình rồng, tẩm chất cháy, đốt lửa tạo thành “trận rồng lửa” uy hiếp quân giặc trong đồn Đống Đa...

Ngày nay trên đất Hà Nộic òn lưu giữ lại biết bao di tích, địa danh gắn liền với chiến công xuân Kỷ Dậu và hàng năm vào ngày 5 Tết, nhân dân cử hành lễ hội Đống Đa để tôn vinh anh hùng Quang Trung - Nguyễn Huệ và tưởng niệm những người đã hi sinh vì độc lập dân tộc, vì sự nghiệp giải phóng kinh thành.

Theo GS. Phan Huy Lê

Tác giả - tác phẩm

Thơ

Từ những thập niên 70, Lê

Phương Châu xuất hiện trên thi đàn như một đoá hoa tường vi nở sớm. Thơ chị có sức lôi cuốn riêng bởi những hình ảnh nhẹ nhàng của một gót nhàn du miền thanh cảnh.

Mai này trời đổ cơn giông Ngàn thu tay khép ngựa dông nẻo về

Sau khi ra mắt vài tuyển tập, Phương Châu bỗng vắng bặt tiếng thơ, mãi đến năm 2000 mới trở lại giao lưu với vài bút nhóm bạn. Những tưởng lẩn quẩn trong cảnh “áo cơm nhà cửa” thơ Phương Châu sẽ khác xa với thời mai trúc, hay đâu Phương Châu vẫn mãi là Phương Châu với những tứ thơ mang mang giữa đôi bờ thực mộng. Thể hiện trong Nắng hát chiều đông là những tứ thiền thi thanh thoát:

Page 7: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 7

Mùi hương lạ sương rơi sáng sớm

Trên tay ta run rẩy một mùa đông

Giọt vô thường tình cờ qua rất vội

Tiếng gọi đò ngày ấy bên sông

Không bao lâu, Mây trắng

đầu non lại tiếp tục thả vào không gian những thanh âm của chuỗi trần lãng đãng:

hoàng hôn giục giã lên

ngàn trong veo giọt suối lang

thang tự tình đếm bong bóng nước vỡ

tênh đếm sao trời rụng mông

mênh phiêu bồng bình yên chân bước thong

dong dấu xưa đỉnh lặng phù

vân nghiêng mình! Nhắm mắt lại nghe tang

bồng hồ thỉ. Bầy chim sẻ sớm mai hót vang chào ngày mới bắt đầu. Cành hồ điệp chỉ còn lơ thơ vài cánh hoa nghiêng mình sang cội mai già đơm đầy hạt xanh hạt xám.

Mùa xuân đã lặng lẽ trôi

qua… người đàn bà cũng sang mùa, tóc nhuốm sương ngàn từ cơn khuya khát vọng oằn vai gánh phong trần phiêu lãng.

Bên góc sân vườn nhỏ, một

cõi riêng ai nhàn lạc thả từng

bước khoan thai hoà cùng nhịp thở thiên nhiên tĩnh lặng. Ánh dương vầng nguyệt luân lưu dìu dịu, bảng lảng hằn in trên chiếc bàn đá thấp thoáng ngời lên những tứ thơ

Ba sinh hương lửa đời như mộng Ngước mặt nhìn lên núi vẫn cười. (Một cõi riêng ta)

Đó là cõi riêng của Lê Phương Châu từ nắng

hát chiều đông đến đầu non mây trắng.

THÁI THANH NGUYÊN

Page 8: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 8

Tên thật: Lê Thị Tuyết Phượng

Nguyên quán: Nha Trang

Trú quán: 69/7 Kinh Dương Vương, P.12, Q.6, TP.HCM

ĐT: 08.8756785 - 0919775392

Email: [email protected]

Tác phẩm đã xuất bản:

- Tình khúc mưa tháng năm 1969

- Thơ Lê Phương Châu 1972

- Nắng hát chiều đông 2006

- Mây trắng đầu non 2008

Bìa: Thanh Thái

Thư pháp: Thanh Hà

Trình bày ruột: Phan Thị Quỳnh Dao

Vài bài thơ Lê Phương Châu: Đêm giao thừa giao thừa vọng tiếng chuông ngân đất trời tịch chiếu xoay vần huyễn chơn chạnh lòng nhìn nén tàn hương đời người uẩn khúc vô thường tự nhiên! Vô tình tuổi hồng nương mây xám đáy cốc đọng tình ai soi bóng mình vất vưởng tiếng khóc cười không hai không gian ngời nét ngọc bừng ánh sáng ban mai tỉnh cơn say dừng lại vô tình trên ngón tay. Hoài niệm ta về cố quận tìm hoa rụng cài ánh sao trời lên tóc mai bao năm lưu lạc miền viễn xứ tản mạn bên mình dấu khứ lai lặng đứng ngược bờ soi bóng hiện dòng sông con nước gội trần ai! Ru ta dìu em cuối dặm đường quên níu thời gian đọng ướt mềm mắt mi tự thân còn mất những gì cơn mê hấp hối vận suy nửa vời khoanh tay đủ kín giọng cười bình yên hơi thở ru hời đêm qua.

Page 9: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 9

Trích cú tầm chương

ĐĐĐIII TTTÌÌÌMMM DDDIII CCCẢẢẢOOO CCCỤỤỤ LLLƯƯƯUUU TTTHHHUUUỶỶỶ

ần đầu tôi nghe danh cụ Lưu Thủy là nhờ thầy Thái

Đờn, Chủ nhiệm CLB Đông Y Đà Nẵng nhắc đến. Đó là một danh y rất giỏi về Thương hàn luận, vào những năm 50 thế kỷ trước, đích thân BS.Nguyễn Văn Ba, Hội trưởng Hội (Đông) Y Dược Việt Nam ở Sài Gòn đã ra Đà Nẵng mời cụ Lưu Thủy vào Đông y Học Viện Sài Gòn (BS.Ba là Giám đốc) để học về Thương hàn luận. Sau này tôi được thầy Thái Đờn cho sao lại một tập bản thảo (150 trang) có ghi tựa đề “Sách dạy về học luận Thương hàn Á Đông”, phần tác giả ghi là “Người Việt Nam, Cụ Lưu Thủy soạn”. Bản này do chính thầy Đờn đánh máy lại từ bản dịch của cụ Hương Nhự do cụ Phạm Châu Tuân, chủ nhà thuốc Mặt Trăng cho mượn.

Một dịp tình cờ, một đồng nghiệp là L.Y Trầm Quang Bá cho tôi xem một tập bản thảo đánh máy (87 trang) do cô Quách Thị Phong Vân sao tặng vào tháng 5/1987.

Tôi phát hiện ra đây chính là bản dịch khác của sách trên (nguyên bản cụ Lưu Thủy soạn bằng Hán văn, có tựa đề “Á Đông Thương Hàn Giáo Khoa”), do hai học trò của Cụ là Phương Thế Minh và Trương Chứng dịch xong ngày 8/4/1963.

Xem cả hai bản dịch, tuy chưa thể lãnh hội hết ý nghĩa tác phẩm, nhưng tôi thấy có nhiều kiến giải hết sức mới lạ, nhiều đề xuất sự cách tân mạnh bạo nhằm chấn hưng việc học và hành Đông y theo tôn chỉ của Trương Trọng Cảnh. Vì vậy tôi bắt đầu lưu tâm

tìm hiểu nhân thân và sưu tầm di cảo của cụ Lưu Thủy để học tập và khi có thời cơ sẽ giới thiệu rộng rãi cho mọi người.

Biết ý định của tôi, thầy Thái Đờn rất ủng hộ. Thầy đã nhiều lần cùng tôi đến nhà thuốc Mặt Trăng, nơi sinh thời cụ Lưu Thủy trú ngụ dạy y cho học trò. Tiếp chúng tôi, cô Phạm Thị Láng, ái nữ của cụ Phạm Châu Tuân cho biết khi cụ Lưu Thủy mất, ba cô đã thiết lập bàn thờ có di ảnh của Thầy trong nhà. Khi cụ Tuân mất, cô Láng vốn cũng là Đông y sĩ vẫn tiếp tục thờ tự. Nhưng hiện nay do tuổi

L

Di ảnh c ụ L ưu Thu ỷ

Page 10: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 10

cao sức yếu, việc leo lên gác phụng sự hương khói hàng ngày khó bề chu đáo, nên cô có ý muốn tìm kiếm người nhà cụ Lưu Thủy để giao lại di ảnh cho con cháu thờ cụ, nhưng chưa liên hệ được, mong chúng tôi tìm giúp.

Rất may, ở đầu bản thảo “Á Đông Tạp Bệnh Luận Bản Nghĩa” (5 tập, 680 trang chép tay) mà cô Láng cho xem có bản tiểu sử cụ Lưu Thủy soạn bằng chữ Nho (tôi có dịch dưới đây),nhờ đó mà biết quê Cụ ở làng La Thọ (Điện Bàn). Khi nghe địa danh này, một người bạn là lương y Đinh Thanh Tường vốn từng hành nghề ở đó, đã tình nguyện đưa tôi tìm về quê Cụ.

Nghe hỏi đến cụ Học Ngôn, tên thường gọi của cụ Lưu Thủy, hầu hết các cụ cao niên trong làng đều biết. Việc cụ soạn sách thì họ không rõ, nhưng nói đến tài xem mạch chữa bệnh, quyết đoán sinh tử như thần của Cụ thì ai cũng sẵn sàng kể cho chúng tôi nghe vài chuyện. Có cụ sốt sắng hướng dẫn chúng tôi đến thăm nhà thờ tộc Nguyễn Văn, gặp các cụ cao niên trong tộc, và một số nhân chứng như cụ bà Nguyễn Thị

Châu (88 tuổi, thuở thiếu thời thường đến giúp việc nhà Cụ Học), ông Nguyễn Văn Tân (tức Tốc), 75 tuổi, là cháu gọi Cụ là ông nội chú,... (Còn một người cùng vai gọi ông nội chú khác là thầy giáo Long, nhưng rất tiếc khi chúng tôi đến thầy đi vắng. Về sau, có dịp gặp vợ thầy tôi mới biết cô Phong Vân tặng sách cho L.Y Bá là chị dâu của thầy Long).

Nhiều chuyện nghe được tôi chưa thể kể hết, chỉ muốn nói ở đây là nhờ chuyến đi ấy mà tôi biết cụ không chỉ là lý thuyết gia mà còn là thầy thuốc lâm sàng cực

kỳ giỏi, nhiều bệnh thập tử nhất sinh nhưng Cụ chữa vài ba thang thuốc là lành. Ngoài ra, được biết thêm nhiều chuyện về gia cảnh Cụ, về nơi an táng mà bản tiểu sử ghi “hoa viên” chính là vườn nhà của Cụ và người viết tiểu sử cụ Lưu Thủy, cụ Giáo Nhự, chính là cụ Hương Nhự.

Khi tôi ngỏ ý muốn tìm đến thắp hương mộ Cụ, ông Tốc cho biết cách đây ba năm, các cháu nội đích tôn của Cụ đã về cải cát đưa vào hỏa thiêu để thờ trong một ngôi chùa ở TP.HCM.

Tuy biết mộ Cụ không

Page 11: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 11

còn, nhưng chúng tôi vẫn tìm đến khu vườn xưa, trước cánh đồng lúa làng La Thọ, bên một dòng sông nhỏ rợp bóng tre xanh,... Đứng lặng hồi lâu, ngước nhìn những đám mây trắng lơ lửng trên bầu trời xanh thẳm, tôi bất giác mỉm cười với ý nghĩ không biết trong cõi vô hình xa xăm nào đó, liệu Cụ có biết đến tôi, một kẻ hậu sinh không bà con thân thích lại vượt bao dặm đường đến đây tìm Cụ và sẽ còn tiếp tục đi tìm những di cảo tản mác đó đây, mặc dù chưa được xuất bản, nhưng tôi biết vẫn âm thầm len lỏi ngấm vào dòng chảy Đông y dược nước nhà.

Sẽ có người hoài nghi, nhưng riêng tôi hoàn toàn tin tưởng điều đó như tin

ở định luật bảo toàn năng lượng. Gần đây, nhà văn Phạm Ngọc Cảnh Nam có cho tôi một tập ghi chép cách đây ba mươi năm khi còn học thuốc với Đông y sĩ Võ Hoán. Thì ra đó là bài giảng Thương hàn của cụ Lưu Thủy do cụ Võ Hoán biên soạn lại, đặt tên là “Việt Quốc thương hàn bệnh giải nghĩa”, nhưng vẫn ghi tên Cụ là đồng tác giả (“Lưu Thủy và Phước Long”) ở cuối lời tựa.

Tôi tin rằng học trò của cụ Lưu Thủy không chỉ có một số ít người được nhắc tên trong bài này, mà chắc là còn nhiều hơn nữa, và di cảo của Cụ được lưu trữ sao chép rải rác ở nhiều nơi. Để sưu tầm toàn bộ, tiến tới thẩm định, biên tập, giới thiệu các di cảo quý báu

đó cho nhiều người cùng học tập thảo luận là một chuỗi công việc hết sức khó khăn mà sức lực một vài người khó bề kham nổi. Nên chăng chúng ta cần huy động thật nhiều tập thể, cá nhân cùng đóng góp công sức trí tuệ trong một tổ chức thống nhất?

Tạp chí CTQ đã sẵn sàng cho công việc này, còn bạn đọc, gia đình dòng họ và học trò của học trò cụ Lưu Thủy cũng như các danh y khác thì nghĩ sao? Tòa soạn CTQ mong nhận được ý kiến phản hồi từ quý vị!

Đà Nẵng 21/7/2008 Lương y Phan Công Tuấn

(Nguồn tạp chí Cây Thuốc Quý số 116, tháng 9/2008)

Liên khúc Hoài niệm Của 3 thi nhân Phan Thiết Ngồi gần bụi chuối trăng lên Ngồi gần bà mẹ thiên nhiên ngàn đời Phận người đôi lúc rã rời Kiếp người đôi lúc nhìn đời nín câm Đêm nghe tiếng dế lầm thầm Đêm nghe chim bỏ tổ nằm bay đi Một giàn mây trắng vân vi Một hàng tre ngả nghiêng vì bóng trăng Một ngàn năm, một vạn năm Vẫn còn mây trắng, bóng trăng nụ cười!! Nguyễn Bắc Sơn

Phận tôi đôi lúc rã rời Chắt chiu kỷ niệm một thời đã qua Nhớ ngày còn mẹ, bên cha Đời ta như gấm như hoa “ Nhị Hồng”(*) Bây giờ khuất núi ngăn sông Ta, chim lìa tổ tung bồng một thân Bơ vơ cánh nhạn trầm vân Bay tìm vận mệnh giữa trần phong ba… Nguyên Phiên (*): Tên tác phẩm của Nguyễn Bắc Sơn Cung đình thuở ấy ông cha Để nay con cháu uống trà gẫm suy Hương đồng gió nội bay đi Cho ta níu bóng tà huy vọng Người Vương Hợp

Page 12: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 12

Truyện “lắm thầy nhiều ma” không phải chỉ có hai nhân vật “thầy” và “ma”, không phải chỉ đúng với “thầy” và “ma”... Câu nói đơn giản ấy phải chăng đã chứa đựng cả cái lẽ huyền vi nhân thế. Ai không tin đã có câu chuyện làm chứng sau đây.

Đạo vốn là cái có sẵn trong khoảng trời đất. Thánh nhân may mắn cảm nhận được rồi phô ra. Lại để cho người đời tưởng lầm rằng thánh nhân chính là người làm ra đạo(?). Thánh nhân bất nhân là ở chỗ ấy. Đạo ấy ví như Thái sơn, không ai có thể xô đẩy hay di chuyển mảy may. Ấy thế mà người đời vì sự tưởng lầm kia nên cứ đem gọt dần, gọt dần... Gọt đến khi (đạo) chỉ còn lại bằng viên đá cuội thì bắt đầu mặc sức tung hứng, chuyền qua chuyền lại cho nhau như những anh hề trên sân khấu. Rốt cuộc lại hô hoán lên rằng chính mình đã “phát minh” ra cái đạo (đá cuội) ấy, rằng cái giống (đá cuội) ấy là tuyệt đối đúng, tuyệt đối hay hơn mọi thứ trên đời(!)... Không những thế, còn dựa vào mớ kiến thức nhỏ bé, u tối đó mà phê phán, mà kết tội những kẻ không chịu chung ý nghĩ với mình. Thật đã đến lúc phải rát tai, lờn óc.

Việc đời thường theo qui luật quân tử khởi xướng, tiểu nhân a dua. Vì thế, ban đầu dẫu tử tế đến mấy, rốt cuộc về sau đều chẳng ra gì. Huống chi...? Chẳng trách có kẻ đã coi câu thành ngữ: “đầu voi đuôi chuột” như một thứ... triết học của muôn đời kể cũng đáng thay. Tóm lại, tư tưởng là tội đồ, chính trị là thủ phạm, nhân quần là nạn nhân. Than ôi! Phải qua cửa một loạt thầy thuốc thì con bệnh chỉ còn biết thở hắt ra. Phải học hết một rừng thầy thì học trò lên cơn điên dại... Vẫn “Lời tựa” trong “Luận ngữ Tân thư”. Sau đây lại xin trích một đoạn trong bộ sách đó.

Bấy giờ học thuyết nở rộ như nấm mọc sau mưa. Thiên hạ sinh ra lắm “nhà” (bách gia), lại nhan nhản thầy (chư tử). Các thầy không những tranh nhau rao giảng đạo lý, mà thầy nào cũng cho rằng đạo của mình hay hơn, hợp (thời trang) hơn của người khác. Học trò có lúc hoang mang, không biết nên học theo thầy nào cho phải. Khổng Tử bảo: “Thế gian có nhiều cách cảm nhận, chẳng cách nào giống cách nào. Giả dụ một kẻ nào đó có cách cảm nhận khác ta, thì ta cũng chẳng lấy làm ngạc nhiên, bởi ta biết chắc chắn rằng đó không thể là cách thứ nhứt”. Rồi Ngài bảo các học trò rằng đạo lý chẳng ở đâu xa, mà có ở trong chính những công việc hàng ngày của họ. Vấn đề là có nhận ra hay không mà thôi. Tử Lộ nghe vậy bèn hỏi:

“Như trong việc rèn luyện cái dũng của mình thì thế nào?”

Khổng Tử trả lời:

“Không phải vì thiên hạ lắm kẻ ác mà thi nhau rèn luyện cái dũng, rồi đem ra thi thố, sở dĩ cũng gây được tiếng tốt nọ kia. Nhưng dũng chắc chỉ dừng lại ở đấy, khó mà tiến triển thêm được. Thậm chí dần dần sẽ thui chột đi. Rèn luyện cái dũng là để thắng chính mình, đừng bao giờ nghĩ tới việc thắng ai. Thiên hạ nhiều người dũng không có nghĩa là

Page 13: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 13

một nền chính trị lành mạnh, thậm chí đó là dấu hiệu của sự bất ổn. Người thấu hiểu chữ dũng không phụ thuộc vào thiên hạ nhiều hay ít kẻ ác. Giả sử cả thiên hạ chỉ còn mỗi một kẻ ác cần trừng trị, thì kẻ dũng vẫn phải không ngừng trau dồi cái dũng của mình. Như thế mới hy vọng trở thành người tử tế được.”

Tử Cống hỏi:

“Vậy như cái việc làm ăn, buôn bán thì thế nào?”

Khổng Tử bảo:

“Ngươi không thấy những người dệt vải đó sao? Nếu chỉ vì thiên hạ lắm người mặc quần áo nên họ thấy lợi mà đua nhau dệt, rồi cũng thu lời được ngay đấy. Nhưng tay nghề thì dừng lại ở đó, mãi mãi họ chỉ làm ra một vài loại vải mà thôi. Thiên hạ sẵn người dệt vải không có nghĩa là ai cũng có được vải đẹp mà dùng. Kẻ say mê thuật dệt vải không phụ thuộc vào số người dùng vải nhiều hay ít. Giả sử thiên hạ chỉ còn đúng một người dùng

đến vải, thì những người dệt vải vẫn phải cần mẫn nâng cao cái nghề của mình, như thế sẽ càng ngày càng có những loại vải đẹp hơn.”

Tăng Tử hỏi:

“Còn trong việc đối xử với cha mẹ?” Khổng Tử bảo:

“Không phải vì thiên hạ lắm kẻ bất hiếu, mà cố thi nhau thực hiện cái đạo hiếu để làm gương, để mong có được tiếng tăm ngay. Như thế chẳng qua chỉ là cái hiếu giả vờ, hiếu để làm sang mà thôi. Thiên hạ không thiếu những kẻ có hiếu không có nghĩa là đạo hiếu đang thịnh trị. Người hiểu sâu sắc chữ hiếu không phụ thuộc vào thiên hạ nhiều hay ít kẻ bất hiếu. Giả sử cả thiên hạ chỉ còn đúng một kẻ bất hiếu, thì mình vẫn cứ rèn luyện cái đạo hiếu của mình. Như thế đạo hiếu mới càng ngày càng tinh tiến được.”

Tử Hạ hỏi:

“Thế còn đối với văn chương?”

Khổng Tử bảo:

“Không phải vì thiên hạ nhiều người thích đọc, mà đua nhau làm ra văn chương, rồi cũng được kẻ này, kẻ nọ tung hô ầm ĩ. Nhưng văn chắc sẽ dừng lại ở đó. Vì như thế có thể làm ra được thứ văn thuận tai, hợp thời đấy nhưng chẳng có gì đáng giá, cùng lắm chỉ quanh quẩn chuyện đời vặt vãnh mà thôi. Văn ấy may ra thì tồn tại được trong khoảng một đời rồi mất tích. Thiên hạ nhan nhản kẻ làm ra văn chương cũng không thể gọi đó là một nền văn trị. Thậm chí phải gọi đó là một nền văn loạn. Kẻ say mê văn chương không phụ thuộc vào thiên hạ nhiều hay ít người đọc. Giả sử cả

thiên hạ chỉ còn đúng một người biết đọc, thì mình vẫn phải nghiền ngẫm mà làm ra văn chương. Văn ấy may ra mới có thể kéo dài

Page 14: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 14

được đến đời sau.” Bốc Hạ hỏi:

“Với nghề thầy thuốc thì sao?”

Khổng Tử bảo:

“Không phải vì thiên hạ lắm người có bệnh, mà mình treo bảng hành nghề, rồi cũng kiếm ăn dễ dàng, cũng mua sắm được thứ nọ thứ kia... Nhưng như thế không những tay nghề dừng lại, mà tất có khối kẻ nhân cơ hội ấy cũng a dua theo để bịp bợm, móc túi thiên hạ. Nền y học trong đời cũng vì thế mà dẫm chân tại chỗ. Thiên hạ đầy rẫy thầy thuốc không có nghĩa là mọi người luôn luôn được khỏe mạnh, thậm chí có khi ngược lại. Kẻ yêu thích nghề y không phụ thuộc vào thiên hạ có nhiều hay ít con bệnh. Giả sử thiên hạ chỉ còn đúng một người có bệnh, thì mình vẫn ra sức trau dồi kiến thức, tìm cách phát huy đến những chỗ tột cùng, tinh vi của nghề nghiệp. Như thế y học mới có thể đạt tới mức tinh thâm, ảo diệu được.”

Các học trò có vẻ ngơ ngác chưa hiểu. Khổng Tử nói tiếp:

“Các ngươi chưa tin ư? Hãy xem chính cái nghề dạy học của ta đây. Không phải vì thiên hạ lắm kẻ vô học, mà mình chưa chi đã hí hửng đem đạo ra dạy, rồi cũng có khối kẻ theo học, dạy mãi vẫn không hết học trò. Đạo của mình vì thế cũng sẽ dừng lại ở đó mà thôi. Bách gia, chư tử có khi hay, có khi không hay. Vì chính sự phát triển của tri thức, mà từ đó sinh ra nhiều “nhà”, nhiều “thầy” thì đó là một nền giáo dục chân chính, sáng sủa. Song chỉ vì có nhiều học trò mà sinh ra lắm “nhà”, lắm “thầy”, thì đó là một nền giáo dục con buôn, ngu tối. Kẻ am hiểu đạo lý giáo dục không phụ thuộc vào thiên hạ có học hay vô học, cũng như không phụ thuộc vào thiên hạ có nhiều hay ít học trò. Giả sử thiên hạ chỉ còn đúng một kẻ vô học, thì ta vẫn cứ phải trau dồi cái đạo của mình. Như thế đạo của ta mới càng ngày càng rực

rỡ lên được...” Khổng Tử vừa nói đến đó thì Cáo Tử đi qua. Cáo Tử hỏi:

“Thế còn nghề ăn cắp thì thế nào?”

Khổng Tử trả lời:

“Chẳng phải vì thiên hạ lắm người hớ hênh nên mới sinh ra chứng ăn cắp. Ăn cắp vốn có sẵn trong mỗi con người, chỉ chờ dịp là thi triển ngay. Ăn cắp hạ đẳng thì mắt la mày lét, là thò tay móc túi hoặc lừa đảo nhì nhằng. Ăn cắp thượng đẳng thì mặt mũi oai nghiêm, là nhân danh thiên hạ, coi của thiên hạ chính là của mình, hoặc đợi người ta phải tự giác đem của cải đến dâng. Đạt tới mức thượng đẳng ấy, suy cho cùng cũng từ triết học mà sinh ra cả. Đó gọi là một nền chính trị a dua. Chính trị a dua tuy cũng là ăn lộc thiên hạ, song không giống ăn mày, mà giống ăn cắp, (nhiều lúc còn giống ăn cướp) hơn. Thiên hạ toàn kẻ cắp không có nghĩa là cuộc đời đã cạn hết đạo lý. Kẻ thạo nghề ăn cắp không phụ thuộc vào thiên hạ nhiều hay ít người hớ hênh. Giả sử thiên hạ chỉ còn đúng một người hớ hênh có thể ăn cắp được, thì (kẻ đó) vẫn cứ nghiên cứu, phát triển cái thuật (ăn cắp) của mình thành trăm phương ngàn kế. Như thế không những vẫn ăn cắp được của cải, mà còn có thể ăn cắp được cả ý nghĩ, thậm chí thu được cả linh hồn của người khác vào trong tay mình. Đạt đến trình độ xuất quỷ nhập thần rồi, thì không những chỉ ăn cắp được những gì có ở trong đời này, mà còn có thể ăn cắp được của cải, linh hồn ở cả những đời sau...”

Bùi Bội Trân Trích Luận Ngữ Tân Thư

Page 15: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 15

Văn học

TThhơơ VVưươơnngg DDuuyy

Cùng những bản dịch Việt Và lời bình của Thái Thanh Nguyên

Vương Duy (701 – 761), tự là Ma Cật, người huyện Kỳ nay thuộc phủ Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình Phật tử thuần thành, mẹ và anh em ông đều quy y và trường trai. Ngoài tài thơ như đã nói, Vương Duy còn giỏi về âm nhạc, lừng danh sành điệu về thư pháp và hơn nữa ông còn là Tổ sư của hoạ phái Nam tông. Thiên hạ xưa nay quen gọi ông là Thi Phật - để phân diện với Thi Tiên Lý Bạch và Thi Thánh Đỗ Phủ.

Người ta chỉ gọi ông là Thi Phật mà không dùng danh xưng đó cho Bạch Cư Dị là vì dù ông không sáng tác nhiều thơ về kinh điển Phật giáo như Bạch Cư Dị nhưng thơ ông gần như toàn bộ đều hàm chứa tinh chất Thiền thi của Phật giáo. Văn học Trung Quốc tác giả Trịnh Ân Ba – Trịnh Xuân Lôi, dịch giả Lê Hải Yến, nhận xét về Thi Phật Vương Duy như sau:

“Vương Duy để lại hơn 400 bài thơ. Thơ sơn thủy điền viên của ông chủ yếu miêu tả cuộc sống an nhàn và cảnh đẹp núi sông nơi ông sống ẩn cư ở Giang Nam Võng Xuyên. Thơ Vương Duy đạt thành tựu rất cao về nghệ thuật. Bất luận là cảnh tượng hùng vĩ rộng lớn như : “Đại mạc cô yến trực, trường hà lạc nhật viên” (Làn khói cô độc bay thẳng lên không trung giữa sa mạc rộng vô bờ bến, trên sông Hoàng Hà mênh mông hoang vắng, vầng mặt trời đỏ ối đang từ từ lặn xuống), hay vẻ đẹp thiên nhiên tinh tế như : “Minh nguyệt tùng gian chiếu, thanh tuyền thạch thượng lưu” (Ánh trăng sáng rọi chiếu qua khe rừng thông soi bóng xuống thảm cỏ, gần đó là suối nước trong lành chảy từ núi len lỏi qua những hòn đá), ông đều có sự cảm nhận tinh tế, nhạy bén về thiên nhiên, nắm bắt được màu sắc, thanh âm và động thái của thiên

Page 16: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 16

nhiên, rồi phác họa, miêu tả lại bằng thơ một cách tự nhiên trôi chảy với ý cảnh độc đáo.

Người xưa khái quát đặc sắc nghệ thuật trong thơ Vương Duy bằng câu: “Thi trung hữu họa, họa trung hữu thi”. Thơ ông lấy cảnh theo con mắt của nhà họa sĩ, hơn thế, màu sắc hình ảnh trong thơ ông thường ẩn hiện lúc đậm, lúc nhạt, điều này được thể hiện tập trung trong tác phẩm Võng Xuyên tập của ông. Ngôn ngữ trong thơ của Vương Duy mới mẻ, cô đọng, súc tích, trong giản dị toát ra vẻ hoa lệ, đẹp đẽ.”…

送 別 下馬 飲 君 酒 問君 何 所 之 君 言 不得 意 歸 臥 南山 陲 但 去 莫 復 問 白 雲 無 盡 時

Dịch âm:

TỐNG BIỆT

Há mã ẩm quân tửu Vấn quân: “Hà sở chi?” Quân ngôn: “Bất đắc chí” Quy ngoạ Nam sơn thuỳ Đãn khứ mạc phục vấn Bạch vân vô tận thì.

Page 17: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 17

Dịch nghĩa:

ĐƯA TIỄN

Mời anh xuống ngựa uống cùng tôi một chén rượu Xin hỏi anh sẽ đi về nơi đâu Anh nói vì trong lòng không được như ý nguyện Nên muốn quay về nằm ẩn bên núi Chung Nam Nghe nói ta chẳng hỏi lại làm gì Chỉ thấy trên trời mây trắng bay hoài không ngớt.

Dịch thơ:

ĐƯA TIỄN

I

Xuống ngựa cùng uống rượu Hỏi bạn : “ Chốn nào đi ?” Rằng : “Tôi chẳng thỏa ý Về núi Nam nằm lì” Đi rồi không hỏi nữa Bất tận trắng ngàn mây.

II

Mời nhau xuống ngựa cạn ly Chia tay hỏi bạn định đi đâu là Bạn cười chẳng thỏa lòng ta Thôi về nghỉ lại non nhà Nam Sơn Ta còn biết nói chi hơn Một màu mây trắng rập rờn nghìn năm.

Trần Ngọc Hưởng

Bản dịch khác:

Xuống yên chuốc chén rượu đào Hỏi anh đi đến nơi nào hỡi anh Thưa rằng lòng đã bất bình Nam sơn kia để cho mình nghỉ ngơi Anh đi tôi chẳng dài lời

Page 18: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 18

Kìa làn mây trắng bên trời ngổn ngang.

Nguyễn Hữu Bông

Bản dịch khác:

Xuống yên uống rượu cùng anh Hỏi anh sắp sửa cất mình đi đâu Rằng ta chán chuyện mưu cầu Định về nằm ở mé đầu Nam sơn Đi đây đừng có hỏi han Mây kia trắng xóa chẳng tan bao giờ.

Trần Trọng Kim

Lời bình:

Chỉ cần mượn hình tượng một làn mây trắng thôi là chuyển tải biết bao trạng thái tâm tư con người đang lặn lội trong dòng thế cuộc.

Vui chăng? Sắc nhuộm như hồng lĩnh Buồn mấy! Màu pha tựa lãnh đài.

Đi hay không đi, làm hay không làm nếu không tự quyết bằng chính kiến của mình thì về sau bạn cũng hối hận về việc đó. Huống hồ, dòng đời đâu chỉ một phương, tâm người cũng không một niệm, nên trên vòm trời cứ vẫn bất tận trắng ngàn mây.

Bạn cười chẳng thỏa lòng ta Thôi về nghỉ lại non nhà Nam Sơn.

(Trần Ngọc Hưởng dịch)

Thôi thì hãy tạm nằm nghỉ ngơi bên lề cuộc thế để lắng nghe duyên nghiệp tương sinh.

Thái Thanh Nguyên

Page 19: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 19

送 春 詞 日 日人 空 老 年年 春 更 歸 相 歡 有 樽 酒 不 用 惜 花 飛

Dịch âm:

TỐNG XUÂN TỪ

Nhật nhật nhân không lão Niên niên xuân cánh quy Tương hoan hữu tôn tửu Bất dụng tích hoa phi.

Dịch nghĩa:

LỜI TIỄN XUÂN

Ngày lại ngày người cứ già thêm Năm theo năm xuân cứ về hoài Hãy cứ vui thú cùng chén rượu Chẳng cần phải tiếc thương cánh hoa bay làm gì !

Dịch thơ:

LỜI TIỄN XUÂN

I

Page 20: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 20

Ngày ngày người luống tuổi dần Năm năm qua vẫn mùa xuân lại về Cùng vui cất chén rượu đầy Tiếc làm chi cánh hoa bay hỡi người.

II

Ngày ngày người cứ lão Năm năm xuân lại đây Cùng vui say cất chén Tiếc gì cánh hoa bay.

Trần Ngọc Hưởng

Bản dịch khác:

Ngày một ngày hai tuổi đã già Mỗi năm xuân lại đến cùng ta Chung vui còn có vài ly rượu Bay mất thì thôi mặc kệ hoa.

Đinh Vũ Ngọc

Bản dịch khác:

Năm năm xuân lại về đây Người ta già với ngày này, như không Làm vui, đây chén rượu nồng Hoa rơi, tiếc cũng uổng công, ích gì…

Nguyễn Văn Tùng

Lời bình:

Bởi duyên và nghiệp tương sinh nên duyên nghiệp có luật tuần hoàn của nó. Vạn vật sinh trưởng thu tàng rồi lại sinh.

Page 21: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 21

Muốn tống cũng không được, lưu cũng không xong. Sao không để mặc nhiên nó đến đi như nó đã tự định.

Năm năm xuân lại về đây Người ta già với ngày này, như không.

(Nguyễn Văn Tùng dịch)

Như thế con người, có là gì khác hơn một kiếp hoa dài ngày nhởn nhơ trong cuộc luân hồi miên viễn của hữu tình vô hạn!

Xuân khứ xuân lai xuân khai mãn Vô ưu hoa lai khứ tự nhiên thành.

Cứ vậy đi, cứ sống an nhiên, cứ vui trọn vẹn với cái ngang trái cũng như cái ân sủng từ cuộc đời này thì cuộc đời sẽ thi vị biết bao từ một thời rộn ràng cùng hương sắc đến những ngày cô độc với trăng sao.

Thái Thanh Nguyên

酬 張 少 府 晚 年 惟 好 靜 萬 事 不 關 心 自 顧 無 長 策 空 知 返 舊 林 松 風 吹 解 帶 山 月 照 彈 琴 君 問 窮 通 理 漁 歌 入 浦 深

THÙ TRƯƠNG THIẾU PHỦ

Vãn niên duy hiếu tĩnh

Page 22: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 22

Vạn sự bất quan tâm Tự cố vô trường sách Không tri phản cựu lâm Tùng phong xuy giải đới Sơn nguyệt chiếu đàn cầm Quân vấn cùng thông lý Ngư ca nhập phố thâm.

Dịch nghĩa:

ĐÁP QUAN THIẾU PHỦ HỌ TRƯƠNG

Tuổi già chỉ thích yên tĩnh Chẳng để ý chi đến mọi việc đời Tự thấy không có mưu kế gì hay Chỉ còn biết trở về rừng xưa Gió thông thổi bay dải áo lỏng Trăng núi dọi sáng đàn cầm đang gẩy Ông hỏi tôi cái lẽ cùng thông ở đời Xin cứ nghe tiếng hát dân chài vọng vào đầm sâu.

Dịch thơ:

ĐÁP QUAN THIẾU PHỦ HỌ TRƯƠNG

Già cả ưa tĩnh lặng Việc đời mặc gió đưa Nghĩ mình không kế giỏi Đành trở lại rừng xưa Đai lỏng gió tùng thổi Đàn rung trăng núi đùa Lẽ cùng thông chớ hỏi Khúc ngư ca vào bờ.

Trần ngọc Hưởng

Page 23: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 23

Bản dịch khác:

Chuỗi ngày còn lại sống âm thầm Mọi việc trên đời chẳng để tâm Đã biết tập bầy mưu chẳng có Thà về trở lại núi xưa thăm Gió thông phất phới bay tà áo Trăng núi lung linh rọi phím cầm Cái lẽ "Cùng thông" người mới hỏi Hãy nghe chài hát vọng bên đầm.

Trần Nhất Lang

Bản dịch khác:

Tuổi già nương chốn thanh bình Lo chi thế cuộc điêu linh thêm sầu Nghĩ mình chắng có kế mưu Lui về rừng vắng ngẩm câu vô thường Gió lùa bay áo lam sương Trăng treo đỉnh núi chiếu loang phím đàn Người về hỏi lý cùng thông! Hãy nghe ngư phủ giữa giòng hát ngâm.

Hoa Sơn

Lời bình:

Những tháng ngày mang mang với duyên sự; như ai sống cầm chừng chưa tận nhân lực thì về già cũng chẳng thể tri thiên mệnh. Họ ôm ấp hoài bão hoặc trăn trở với tham vọng đến phút giây trút hơi tàn. Thậm chí tham vọng đó còn trút gánh vào kẻ truyền thừa mà chẳng biết người ta có làm được hay không!

Còn như ai đã cống hiến trọn vẹn, dù thuận duyên mà ra cơ nghiệp rạng rỡ hay nghịch cảnh mà thất bại triền miên thì họ cũng hoàn toàn yên tâm với chính mình.

Page 24: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 24

Thì thôi như thế cũng đành Mấy gian nhà cũ khuyên anh nên về Khi say rót rượu nhà quê Vui xem sách cũ cận kề cổ nhân.

(Tống Mạnh Lục… - Trần Ngọc Hưởng dịch)

Khi đã bằng lòng với tri túc thì sẽ thấy chuỗi thành bại vừa qua như mây bay gió thoảng. Lúc đó, chỉ việc quay về nguồn xưa cội cũ tự nguyên nguyên là cái vui viên mãn nhất.

Tự cố vô trường sách Không tri phản cựu lâm.

(Thù Trương thiếu phủ - Vương Duy)

Nơi đây không có quan quân vấn cật, không có mão đai đè thắt, mặc tình cho hương tùng len lỏi áo mong manh, mặc tình trăng mờ trăng tỏ phím đàn cầm. Chỉ những sự bình thường, vô tư, trong trẻo, không mưu cầu, không phiền lụy mới may ra đồng hành với sự rốt ráo của cái thấy biết tận cùng.

Người về hỏi lý cùng thông Hãy nghe ngư phủ giữa giòng hát ngâm.

(Thù Trương thiếu phủ - Hoa Sơn dịch)

Thái Thanh Nguyên

過 香 積 寺 不 知 香 積 寺 數 里 入 雲 峰 古 木 無 人 徑 深 山 何 處 鐘 泉 聲 咽 危 石 日 色 冷 青 松

Page 25: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 25

薄 暮 空 潭 曲 安 禪 制 毒 龍

Dịch âm:

QUÁ HƯƠNG TÍCH TỰ

Bất tri Hương Tích tự Sổ lý nhập vân phong Cổ mộc vô nhân kính Thâm sơn hà xứ chung Tuyền thanh yết nguy thạch Nhật sắc lãnh thanh tùng Bạc mộ không đàm khúc An thiền chế độc long.

Page 26: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 26

Dịch nghĩa:

QUA CHÙA HƯƠNG TÍCH

Chẳng biết chùa Hương Tích ở nơi nào Đi mấy dặm mới tới được đám mây trên chóp núi Cây cỏ đan đầy không người qua Núi sâu tiếng chuông chẳng biết từ đâu vọng lại Tiếng suối trên ghềnh đá cao chảy rì rầm Mặt trời chiếu lạnh lẽo hàng thông xanh Chiều tàn chỉ còn lại khúc đầm quạnh quẽ Ngồi xuống định thiền để chế phục con rồng độc .

Dịch

Chẳng hay chùa Hương Tích Mấy dặm gió mây lồng Đường bặt trơ cây rậm Chuông đâu dội núi cùng Suối reo đau ghềnh đá Trời ánh lạnh màu thông Chiều xuống bên đầm vắng Thuồng luồng tựa cửa không.

Trần Ngọc Hưởng

Bản dịch khác:

Chẳng hay Hương Tích chùa đâu Đi đôi ba dặm, lên đầu non cao Cây um, đường tắt vắng teo Núi sâu chuông vẳng nơi nào tiếng đưa Suối kêu nghẽn đá ria bờ Lạnh lùng bóng nắng chui lùa thông xanh Trời hôm, tấc dạ thanh minh Quy y đạo Phật sửa mình là hơn.

Tản Đà

Page 27: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 27

Bản dịch khác:

Chẳng hay Hương Tích ở nơi đâu Mấy dặm mây lồng ngọn dốc cao Cây cỏ quạnh hiu đường núi vắng Chuông chùa văng vẳng chốn khe sâu Suối tuôn róc rách len dòng đá Thông nhuốm lạnh lùng xế bóng câu Thanh thoát cõi lòng, đầm một giải Độc long hàng phục phép Thiền mầu.

Trần Nhất Lang

Lời bình:

Tìm đến một di vật hay một sự kiện để thỏa mãn cái biết hay làm một điểm hầu nương tựa thân tâm là hành vi của một hành giả hay một con người đang cầu tiến. Thế nhưng có khi do bạc phước thiếu duyên mà đi không đến nơi, hoặc đến nơi mà không biết ra hoặc gặp rồi thì cũng chẳng ảnh hưởng nhau được chút gì.

Cây um đường bặt vắng teo Núi sâu chuông vẳng nơi nào tiếng đưa.

(Tản Đà dịch)

Đó là những sự vật cụ thể hữu danh hữu hình, hoàn toàn nằm trong tầm cảm nhận bằng mắt tai mũi lưỡi ... của con người mà đôi khi vẫn khó nhận ra. Hoặc có khi trong cuộc hành trình hành giả chỉ chuốc thêm phiền não thất vọng.

Suối reo đau ghềnh đá Trời ánh lạnh màu thông.

(Trần Ngọc Hưởng dịch)

Huống hồ, có những điều nghe rất trừu tượng như tình cảm, trường sinh, nhân duyên, thần thông hay trí tuệ ... con người vẫn khát khao hăm hở đi tìm. Tìm đâu? Khi con người luôn vận dụng cái khả năng hoạt động trong tần số hạn hẹp của bộ não và ngũ quan để hòng khám phá ra một thế giới huyền bí diệu kỳ?

Page 28: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 28

Chiều đã xuống chỉ còn thấy một vùng không gian hẹp dần, chốc nữa sẽ không còn ánh sáng để thấy biết nữa. Bất như ý, con người sẽ sinh ra tâm trạng bất mãn hoặc manh nha một mối nghi ngờ rạo rực như con mãng xà rọ rạy trong tâm thức.

Đường cùng ắt có lối. Trong thời điểm đó, nếu có một khoảnh khắc chợt nhận ra thì con người lập tức phát hiện một lối đi quang đãng. Thực chất những điều tốt đẹp đó hoàn toàn có thật. Nó ở quanh ta, bên cạnh ta và chính trong ta. Ay là tìm lại với chính mình, là “Tự tại thân, Phật tại tâm”.

Bạc mộ không đàm khúc An thiền chế độc long.

(Vương Duy)

Cũng là lúc con cá chép sẽ có cơ hội được hóa thành rồng mà không lộn thành loài rắn độc.

Thái Thanh Nguyên

青 溪 言 入 黃 花 川 每 逐 青 溪 水 隋 山 將 萬 轉 趣 途 無 百 里 聲 喧 亂 石 中 色 靜 深 松 裏 漾 漾 汛 菱 荇 澄 澄 映 葭 葦 我 心 素 已 閒 清 川 澹 如 此 請 留 盤 石 上 垂 釣 將 已 矣

Page 29: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 29

Dịch âm:

THANH KHÊ

Ngôn nhập Hoàng Hoa xuyên Mỗi trục thanh khê thủy Tùy sơn tương vạn chuyền Thú đồ vô bách lý Thinh huyên loạn thạch trung Sắc tĩnh thâm tòng lý Dạng dạng tấn lăng hạnh Trừng trừng ánh gia vi Ngã tâm tố dĩ nhàn Thanh xuyên đạm như thử Thỉnh lưu bàn thạch thượng Thuỳ điếu tương dĩ hĩ!

Dịch nghĩa:

SUỐI THANH KHÊ

Nghe nói vào sông Hoàng Hoa Sẽ đến con suối Thanh Khê Theo thế núi chảy quanh co muôn khúc Trên đường dài chưa tới trăm dặm Tiếng ào ào đổ nhào vào đám đá lô nhô Cảnh sắc trong rừng thông thực là u tĩnh Cỏ ấu rau hạnh bập bềnh trên mặt nước lay động Lau lách đôi bờ soi bóng nước trong veo Lòng ta vốn ưa thảnh thơi Con suối xanh trong lại êm đềm như thế Mời ở lại trên tảng đá này Thả cần câu quên hết chuyện đời.

Dịch thơ:

Page 30: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 30

SUỐI THANH KHÊ

Suối hoa vàng muốn đến Phải nương dòng nước trong Quanh co muôn thế núi Trăm dặm cứ lượn vòng Nước ào ào ghềnh đá U tĩnh sắc ngàn thông Au, hạnh con sóng dợn Hoa lau bóng nước lồng Lòng ta thanh thản lạ Êm đềm mạch suối trong Muốn ngồi lại bàn đá Buông cần xuống… thong dong.

Trần Ngọc Hưởng

Bản dịch khác:

Chảy nhập sông Hoàng Hoa Xanh trong suối nước hòa Men sườn núi uốn khúc Trăm dặm quãng đường xa Róc rách reo ghềnh đá Rừng tùng yên bóng sà Chèo lung lay ấu hạnh Lau sậy nắng trong sa Lòng ngập tràn nhàn hạ Nơi đây nước lặng qua Ngồi câu bên tảng đá Quên lãng mọi phiền hà.

Túc Mỡ

Bản dịch khác:

Lời rằng qua ngả Hoàng Hoa Khe Thanh trong vắt thật là nên thơ Giữa vùng non nước mộng mơ

Page 31: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 31

Quanh co trăm dặm bên bờ núi cao Xuyên vách đá… nước rì rào Thông nghiêng soi bóng khác nào Bồng lai Bập bềnh lăng, hạnh nổi trôi Nước trong lau sậy đứng soi ven bờ Yêu đời thanh thản… ngẩn ngơ Theo làn nước biếc lững lờ… xuyến xao Bên dòng êm… mỏm đá cao Cần buông… hồn thả dần vào… lãng quên.

Nguyễn Tâm Hàn

Lời bình:

Xưa nói rằng: “Quân tử đãi nhau nhạt như nước lã”.

Ngày nay người ta dùng rất nhiều loại nước. Ơ vùng quê, từ loại đơn sơ nhất như nước lọc qua lu cát hoặc nước máy cũng được gia vị vài thứ phèn khử hoặc thêm flour thêm iod đến nước đóng thùng cũng quảng cáo rằng có nhiều chất khoáng. Thậm chí có dùng nước mưa chăng nữa cũng được bốc từ sông biển ao hồ đầy ô nhiễm lên để tạo thành những cơn mưa acid, mưa đỏ, mưa đen hoặc nồng nặc mùi này mùi nọ.

Tại các thị tứ đã ngập tràn các loại nước đóng chai, lê thê bia bọt … có kẻ suốt ngày họ chỉ uống bia trừ nước. Ở thành thị các loại nước đóng chai càng cao cấp càng đa hệ càng lung tung.

Từ “nước lã” đối với người bây giờ thật mơ hồ. Họ tưởng rằng thứ nước ấy chắc dở ẹc hơn nước mở từ “la fontaine” ra để rửa rau rửa chén giặt đồ!

Có ai thực sự có được đôi ngày rảnh rang không? Có ai được rảnh đến mức nhàm chán các kiểu thụ hưởng khoái lạc nơi đô thành mà phải tìm về rừng sâu đảo vắng chưa? Và có ai vô sự đến có thể ngồi lâu bên một dòng suối đến khát mà thử hớp một ngụm nước trong chưa? Kẻ đó chính là một người rất giàu có đã chịu đánh đổi rất nhiều thứ lùm xùm trong cuộc đời để thọ hưởng một ngụm nước, chính là nước lã vậy.

Page 32: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 32

Ngã tâm tố dĩ nhàn Thanh xuyên đạm như thử.

(Vương Duy)

Cho nên, nước lã chỉ có ở nơi người nhàn và người quân tử bởi họ thường được dùng nước lã. Nước lã tính đạm nhưng uống vào nghe mát ngọt cả tâm can, như thế tâm họ thường xuyên được gôt rửa nên cũng rất đạm rất thanh rất giản dị. Tâm là thể của tánh, tánh thì thường hằng khó đổi dù hoàn cảnh nào tánh cũng hoàn như nhất. Như thế mới rõ câu: “Quân tử tánh như thủy”

Do đó, tánh người quân tử lại rất hào phóng như nước ban cho không tất cả mọi người. Có cảnh đẹp sẵn mời những ai thích đến và mặc nhiên với kẻ quay lưng.

Thỉnh lưu bàn thạch thượng Thùy điếu tương dĩ hĩ!

(Vương Duy)

Và không đơn giản mà có được thứ tánh tự nhiên ấy. Dòng nước càng trong xanh càng êm đềm là nó đã phải chảy qua bách lý sơn khê, cũng như người đã trãi qua trăm dâu ngàn bể mà vẫn giữ được tâm trạng trong trẻo vô sự như nước lã mới thực sự là người nhàn vậy.

Quanh co muôn thế núi Trăm dặm cứ lượn vòng Tiếng rì rầm ghềnh đá U tĩnh sắc ngàn thông.

(Trần Ngọc Hưởng dịch)

Thái Thanh Nguyên

Thái Thanh Tùng (Trích lời bình cho thơ Vương Duy)

Page 33: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 33

Người của công chúng

:

Ngoài đời và trên video

Phần 1: Nguyễn Ngọc Ngạn ngoài đời

Nguyễn Ngọc Ngạn là một người nổi tiếng, trong lãnh vực văn chương cũng như trong vai trò MC. Điều đó ai cũng biết. Sự nổi tiếng của anh đưa tới lòng yêu thích nơi nhiều người và ngược lại cũng không tránh được tình trạng trái ngược hoặc có khi là sự dửng dưng. Một người được coi là “người của đám đông” chắc chắn không sao tránh khỏi những dị biệt nơi vấn đề tình cảm ở phía độc giả hoặc khán thính giả dành cho mình. Ái mộ anh hoặc không là một chuyện khác, tưởng chẳng nên đề cập tới.

Nhưng dù thế nào, không ai phủ nhận được những đóng góp của anh trong giới chữ nghĩa. Và nhất là từ 12 năm qua, anh đã trở thành một người điều khiển chương trình – thường được gọi là MC – vững vàng với một con đường đi riêng biệt.

Tuy nhiên, cuộc sống ngoài đời của anh cùng những sinh hoạt của anh, đặc biệt trong những sinh hoạt trình diễn có những điều ít hoặc chưa được biết tới. Có lẽ đây là thời điểm để có được một số khám phá về Nguyễn Ngọc Ngạn, do chính anh kể...

Page 34: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 34

“Tôi không có e-mail, không có computer và là người nghệ sĩ duy nhất trên thế gian này không có Cell phone. Tôi không biết computer là gì. Người ta cứ bảo tôi làm e-mail, tôi không hiểu e-mail là gì . Người ta hỏi ông có vào internet không? Tôi bảo không biết internet là cái gì mà vào”.

Lời Nguyễn Ngọc Ngạn vừa nói hẳn cũng đáng được coi như một khám phá thú vị về một người được coi như ở trong thành phần những nghệ sĩ nổi tiếng nhất, không những ở hải ngoại mà còn ở cả trong nước.

Việc không sử dụng những phương tiện hiện đại trong một xã hội văn minh, tân tiến của Nguyễn Ngọc Ngạn cũng đã khiến cho ban giám đốc trung tâm anh hợp tác từ 12 năm nay là Thúy Nga lưu ý, khi có việc cần liên lạc gấp.. Tuy nhiên, Nguyễn Ngọc Ngạn có một lý do xác đáng

cho việc không dùng điện thoại di động, chẳng hạn:

“Thủy với ông Lai bảo tôi là làm việc hàng ngày mà sao không có e-mail, không có Cell phone. Tôi trả lời là thứ nhất tôi không ra khỏi nhà, tôi xài cell phone làm chi?”

Như vậy, những khán thính giả của Nguyễn Ngọc Ngạn còn có được thêm một khám phá về một con người mà họ cho rằng rất bận rộn trong việc giao tế và có những tiếp xúc rất rộng rãi.. Nhưng thật ra con người đó sống một cách gần như biệt lập cùng vợ và một con trai trong một ngôi nhà khang trang tại thành phố Toronto , là nơi chỉ tiếp đón những bạn bè thân.

Ngoài những chuyến lưu diễn cho các “live shows” hoặc thu hình cho trung tâm Thúy Nga, Nguyễn Ngọc Ngạn chỉ dành thì giờ cho việc đọc sách, viết sách hoặc coi phim: “Nhất là phim thì tôi phải coi thường xuyên, gần như ngày nào cũng phải coi những shows Mỹ để có thể học hỏi ở đó rất nhiều”.

Chính nhờ sự học hỏi và tìm tòi đó, Nguyễn Ngọc Ngạn đã có thêm được nhiều kinh nghiệm để bổ sung cho hai nghề nghiệp chính của anh từ nhiều năm qua là viết văn và điều khiển chương trình. Nghề sau này càng ngày càng tỏ ra lấn lướt nghề trước là nghề anh bắt đầu theo đuổi từ năm 1979...

Nguyễn Ngọc Ngạn sinh ngày 9 tháng 3 năm 1946 tại Sơn Tây và là người con thứ ba trong một gia đình có 6 người con, 5 trai và một gái. Năm lên 8, anh theo gia đình xuống Hà Nội, sau đó ra Hải Phòng để theo “tầu há mồm” di cư vào Nam năm 1954. Những năm đầu tiên, gia đình anh cư ngụ trong một xóm Công Giáo gần Củ Chi.

Page 35: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 35

Nhờ có một trí nhớ tốt cùng với một đầu óc quan sát tinh tế từ khi còn nhỏ, nên những sinh hoạt diễn ra trong cái giáo xứ nhỏ bé và nghèo nàn thời đó đã in sâu trong đầu một cậu thiếu niên chưa quá 10 tuổi. Bối cảnh đó sau này đã được Nguyễn Ngọc Ngạn khai thác để viết thành tiểu thuyết Xóm Đạo. anh nói: “Trời sinh cho tôi được một trí nhớ rất là đặc biệt tức là có những chuyện gì tôi đọc qua hoặc tôi nghe người ta kể qua một lần thì có thể mấy chục năm sau tôi vẫn nhớ”.

Mặc dù không nuôi giấc mơ đến với lãnh vực văn chương, nhưng Nguyễn Ngọc Ngạn công nhận là do sự mê đọc sách từ khi còn nhỏ đã giúp anh rất nhiều trong nghề viết văn mà anh bước vào một cách thật tình cờ sau khi rời Việt Nam:“Đặc biệt là tôi mê đọc tiểu thuyết từ nhỏ. Bố mẹ cấm tôi cũng đi ra lề đường Lê Văn Duyệt để mua sách và về trùm mền đọc. Thí dụ những cuốn đầu tiên là của Tự Lực Văn Đoàn trong khi tôi học năm đệ Thất, đệ Lục. Nhiều khi gia đình ngủ rồi, tôi vẫn ra ngoài hè đọc sách một mình dưới trời sáng trăng hay thắp ngọn đèn dầu ngồi đọc lén. Thời bấy giờ bố mẹ khó khăn, cấm đọc tiểu thuyết mà! Phải công nhận là tôi đã có năng khiếu về văn chương từ nhỏ”.

Cũng do có một khả năng ghi nhận đặc biệt, cộng với một trí nhớ tốt, mặc dù không sống nhiều ở Việt Nam sau tháng 4 năm 75, nhưng qua những chuyện kể lại từ những người quen biết về những trường hợp “đổi đời” mang nhiều nét châm biếm trong một xã hội đổi thay, Nguyễn Ngọc Ngạn đã có một số vốn liếng tích lũy – về ngôn từ cũng như những câu chuyện thật được kể lại hay do chính mắt thấy tai nghe - dồi dào để đưa vào những tác phẩm của anh sau này. Đó là do “sự quan sát, do những tiếp

xúc, do đọc báo cùng với 3 năm trong trại cải tạo. Tôi về được có mấy tháng rồi vượt biển, đâu có sống ở trong nước”.

Với cách sử dụng ngôn ngữ dí dỏm và lối hành văn gọn gàng và xúc tích, Nguyễn Ngọc Ngạn đã gây được nhiều chú ý ngay từ tập sách được phát hành đầu tiên của anh tại hải ngoại là “Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Ngạn”.

Vào năm 57, gia đình Nguyễn Ngọc Ngạn di chuyển vào Sài Gòn và cư ngụ trên đường Thoại Ngọc Hầu, vùng ngã ba Ông Tạ. Những năm trung học, anh theo học trường Nguyễn Bá Tòng đến năm đệ nhị. Nhờ đậu cao kỳ thi Tú Tài 1, anh được nhận vào trường Chu Văn An và lấy được mảnh bằng Tú Tài 2 tại đây.

Một điểm đặc biệt là trong những năm theo học trường Nguyễn Bá Tòng, anh luôn được giữ vai trò trưởng ban kịch của

Page 36: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 36

lớp. Ít người ngờ rằng một nhà văn, một MC nổi tiếng như Nguyễn Ngọc Ngạn khi còn trẻ lại nuôi một giấc mơ là bước vào lãnh vực kịch mặc dù tự nhận có năng khiếu về văn chương “Lúc trẻ tôi có 2 giấc mộng. Thứ nhất là kịch, tôi mong trở thành một người viết kịch hay một người diễn kịch, chứ giấc mộng nhà văn nó mờ nhạt lắm.”

Khi lên đệ Tam, Nguyễn Ngọc Ngạn chuyển qua ban Văn Chương, được giáo sư Pháp Văn là nhạc sĩ Lê Thương chú ý đến khả năng đóng kịch nên đã khuyến khích anh theo học bộ môn này tại trường Quốc Gia Âm Nhạc. Do đó, Nguyễn Ngọc Ngạn đã ghi danh theo học kịch vào năm đệ Nhị, là thời kỳ mà hai nghệ sĩ Trần Quang và Bích Thủy vừa tốt nghiệp về kịch nghệ.

Nhưng sau hai tháng theo học, anh nhận ra mình bị hạn chế rất nhiều do bị cận thị nặng, trong khi thời đó chưa có sự xuất hiện của “contact lens”. Sau khi quan sát những vai trò trên sân khấu, anh cho rằng nếu có đóng kịch thì chỉ có vai trò... thầy giáo là thích hợp nhất đối với mình do cặp kính cận dầy cộm. Trong khi đó thân phụ anh - cùng với thân mẫu anh mở một tiệm bán tạp hoá ngay tại nhà - khuyên anh nên để tâm vào việc học hành để phải lấy cho được mảnh bằng Tú Tài toàn phần hơn là đi theo con đường văn nghệ.

Nhưng trước khi giã từ trường Quốc Gia Âm Nhạc, Nguyễn Ngọc Ngạn còn chuyển qua lớp chèo cổ một thời gian ngắn “Là vì có mấy cô gái học chèo cổ rủ tôi sang, tôi cũng sang, cũng học vài câu chèo cổ như “Ông Giăng khuyết chứ ông Giăng lại tròn này kia!” Tôi học chèo cổ thêm được mấy tháng nữa. Rồi bố tôi bảo sắp thi thì đi về, tôi mới đành về đấy chứ !”

Cũng vì yêu thích văn nghệ, Nguyễn Ngọc Ngạn đã tự học nhạc lấy qua sách vở, và có một thời gian được mời dạy nhạc cho các trường Lê Bảo Tịnh và Saint Thomas. Hết trung học, Nguyễn Ngọc Ngạn theo học đại học Văn Khoa và sau đó trở thành giáo sư ngoại ngạch cho một số trường công.

Ngoài giấc mơ trở thành một diễn viên hay một nhà viết kịch lúc còn trẻ, Nguyễn Ngọc Ngạn còn mong muốn thực hiện được những công tác xã hội “Thí dụ như thích xây một ngôi trường hoặc xây một cái cô nhi viện. Ngay từ nhỏ tôi đã thích làm được những việc như vậy...”

Nhưng riêng về việc làm MC thì anh chưa bao giờ nghĩ tới. Nhất là thời đó chưa có nghề MC hay làm talk show tại Việt Nam ngoài những người được gọi là hoạt náo viên hay giới thiệu chương trình.

Năm 1970, Nguyễn Ngọc Ngạn bước vào đời sống quân ngũ, sau khi lập gia đình với một nữ sinh trường Saint Thomas tên Lê Thị Tuyết Lan. Đầu tiên anh ở Sư Đoàn 9 Bộ Binh, sau đó được đổi về Tiểu Khu Định Tường, nhưng không về tiểu khu mà về tiểu đoàn tác chiến ở quận Cái Bè. Đến năm 74 , khi anh mới có con được nửa năm thì được bộ giáo dục biệt phái về dạy học tiếp với cấp bậc trung úy đến 4 năm 75.

Nhớ lại cuộc đời quân ngũ, Nguyễn Ngọc Ngạn có rất nhiều kỷ niệm, nhưng anh nhớ nhất là những kỷ niệm trong thời gian phục vụ tại Tiểu Đoàn Địa Phương Quân Tác Chiến: “Gần như cả một tiểu đoàn không có một người nào là người Bắc cả cho nên ông tiểu đoàn trưởng không cần nhớ tên tôi. Ông ấy cứ kêu tôi là thiếu úy Bắc Kỳ”.

Page 37: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 37

Tại đây, “thiếu úy Bắc Kỳ” giữ chức vụ trung đội trưởng vũ khí nặng, coi về súng cối và đại bác 75 ly không giật, mặc dù cận thị nặng 5 độ rưỡi và nhất là ốm yếu - anh nói đùa - “như Hoài Linh bây giờ”. Thời gian này là năm 1972. sau đó anh được làm đại đội phó và một thời gian sau được chuyển về bộ chỉ huy và cuối cùng được làm sĩ quan quản trị nhân viên, coi quân số của tiểu đoàn.

Được trả tự do sau 3 năm trong trại cải tạo, trở về vào năm 78, Nguyễn Ngọc Ngạn tìm đường vượt biên ngay với người vợ đầu tiên cùng con trai lúc đó được hơn 4 tuổi. Anh là người đầu tiên trong gia đình vượt biển một cách bán chính thức vào mùa Giáng Sinh năm 78 đúng vào mùa có nhiều bão lớn, với vợ lúc đó mới 26 tuổi với một con tên Nguyễn Trần Lê Chân, được đặt tên theo địa danh Tống Lê Chân, nơi xẩy ra những trận đánh khốc liệt vào năm 74 “Lúc đó là những ngày mà đài phát thanh quân đội loan những tin về vụ đánh đồn ở Lê Chân. Tôi cứ nghe đài phát thanh suốt ngày nói về Tống Lê Chân. Để nhớ cái thời

gian mà tôi trong quân đội và lúc đang có biến cố về đồn Lê Chân nên tôi đặt tên cháu là Lê Chân”.

Khi chiếc tầu chở khoảng 300 người, trong đó có tiểu gia đình Nguyễn Ngọc Ngạn, đến gần Mã Lai thì bị cảnh sát Mã Lai ở trong bắn ra. Do tình trạng cuống quít của tài công nên đã loay hoay khiến tầu bị lật úp do bị sóng lớn khiến 161 người bị chết, trong số có vợ và con anh. Anh chỉ nhìn thấy được xác đứa con thân yêu bị sóng cuốn đi, trong khi không được thấy tận mắt hình ảnh cuối cùng của người vợ trẻ.

Những người sống sót của chiếc tầu định mệnh đó được đưa vào trại tỵ nạn trên đảo Kota Baru ở Mã Lai. Tại đây, Nguyễn Ngọc Ngạn được bầu làm phó trưởng trại, từ tháng 12 năm 78 đến tháng 5 năm 79. Trong thời gian này cái chết của vợ và con đã là một nỗi ám ảnh ghê gớm với Nguyễn Ngọc Ngạn, để từ đó mang nhiều suy tư khi hồi tưởng về thân phận những người phụ nữ.

Và cũng từ đó, anh đã không ngờ là mình bắt đầu bước vào nghề viết văn, trước đó rất mờ nhạt trong đầu óc, với tiểu thuyết đầu tay “Những Người Đàn Bà Còn Ở Lại”, theo lời anh kể “Khi bà xã tôi mất với lại cháu mất thì tôi ngồi trên đảo thì tương đối tôi cũng nhàn vì là phó trưởng trại. Tôi mới ngồi tôi nghĩ lại một điều quan trọng trong đầu tôi lúc đó là trong cuộc chiến VN thì hoá ra người đàn ông không khổ bằng người đàn bà. Là bởi rằng đàn ông dù sao tuy là ra mặt trận, kề cận cái chết nhưng không như người phụ nữ ở hậu phương vừa bương chải nuôi con vì lương của chồng lại ít quá. Đôi khi lại phải làm dâu, nhiều khi lại chạy loạn vì chiến tranh. Rồi sau đó khi người chồng đi vào cải tạo thì người vợ ở nhà lại phải đi tiếp tế

Page 38: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 38

chồng ở trong trại cải tạo. Sau đó chồng được thả về thì có nhiều người đàn bà lại phải hy sinh, dành dụm lo cho chồng vượt biên trước, mình ở lại sau là bởi biết rằng chồng ở lại thì vất vả hơn. Thì tôi mới nghĩ lại là trong cuộc chiến và hậu chiến của mình thì người đàn bà VN là khổ nhất chứ không phải là đàn ông, cho nên vì cái ý nghĩ đó tôi mới xin giấy bút để viết truyện dài đầu tiên mà tôi chưa viết bao giờ.

Tôi xin giấy bút của bà Sơ trong trại để viết truyện dài đầu tiên lấy tên là Những người đàn bà còn ở lại”.

Tiểu thuyết “Những Người Đàn Bà Còn Ở Lại” được viết liên tục trong vòng 3 tháng, dưới cái nóng như thiêu đốt trên đảo Kota Baru. Nguyễn Ngọc Ngạn cho biết anh viết tác phẩm đầu tay này vừa để tưởng niệm cái chết của vợ và con, vừa để thông cảm với những người đàn bà còn ở trong nước.

Khi mang bản thảo tiểu thuyết này sang hải ngoại, anh cho nhiều người đọc và họ rất thích thú. Vì vào thời đó những chuyện về VN còn lạ đối với những người ở hải ngoại, ra đi từ những ngày đầu vì được viết trong bối cảnh sau năm 75. Nhiều người có ý ủng hộ anh để xuất bản, trong số có ông Nguyễn Thế Năng, chủ nhân tiệm vàng nổi tiếng ở Sài Gòn trước kia.. Ông Nguyễn Thế Năng viết thơ cho nhà xuất bản Dziên Hồng đề nghị xuất bản, nhưng được những người chủ trương là các giáo sư Lê Bá Kông và Lê Bá Khanh trả lời là còn người thân ở VN nên không tiện xuất bản mặc dù rất thích.

Sau đó anh giao đứa con tinh thần của mình cho nhà báo Quốc Nam, nhưng mãi đến năm 87 mới ra mắt độc giả, sau khi một số tác phẩm của anh đã thành hình và đã tạo được tên tuổi cho Nguyễn Ngọc

Ngạn. Đó là những tác phẩm: Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Ngạn, Nước Đục, Biển Vẫn Đợi Chờ, vv... Tổng cộng cho đến nay đã có 32 tựa sách được phát hành, phần lớn là truyện dài, mang tên tác giả là Nguyễn Ngọc Ngạn.

Trả lời cho câu hỏi tại sao chọn Canada làm nơi cư trú, Nguyễn Ngọc Ngạn cho biết “… tôi thấy ngồi chờ lâu quá tôi cũng sốt ruột mà thứ hai nữa là buồn bã. Coi như hàng tuần tôi phải tiếp các phái đoàn thì tôi thấy phái đoàn Canada rất là lịch sự. Họ hỏi tôi là có muốn đi Canada không thì chúng tôi bốc ông đi ngay. Tôi liền nói là vâng, ông kiếm cho tôi một vùng nào ấm, thì họ bảo vậy thì ông đi Vancouver , có vậy thôi”.

Thế là Nguyễn Ngọc Ngạn được đưa về một đảo gần Vancouver là Prince Rupert cho đến năm 86, anh chuyển về sống tại Toronto cho đến nay. Sau khi đặt chân đến thành phố này, anh dành ra hai năm để ôn lại Anh Ngữ vì được một số thân hữu có ý định giới thiệu anh vào làm cho đài VOA tại Washington, D.C. và BBB ở Luân Đôn. Cuối cùng vì có những quan hệ ở Toronto nên anh quyết định lưu lại đây để đi làm cho công ty bảo hiểm Canada Life, ngoài việc viết sách và hoạt động trong lãnh vực văn chương, báo chí cho đến khi được mời cộng tác với trung tâm Thúy Nga vào năm 1992...

Theo anhoang365 http://anhoang365.multiply.com/journal/item/347 (Kỳ sau: Phần 2 - Ngọc Ngạn Nguyễn trên video)

Page 39: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 39

Diễm xưa là một bài hát nổi tiếng của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết năm 1960, được phát hành trong băng nhạc Sơn Ca 7, lấy từ ý "Diễm của những ngày xưa". Diễm xưa cũng được dịch ra tiếng Nhật dưới nhan đề Utsukushii mukashi, Năm 2004, được xếp hạng 11 trong 20 ca khúc hay nhất trên kênh cáp của Nhật Bản năm 2004. Diễm xưa là nhạc phẩm Á Châu đầu tiên được Đại học Kansai Gakuin đưa vào chương trình giáo dục của mình trong môn Văn hoá và Âm nhạc. (Wikipedia)

Buổi giao lưu đầy bất ngờ vì là quyết định trong thoáng chốc của GS.TS Thái Kim Lan - chớp thời cơ bà Ngô Vũ Bích Diễm ghé Huế theo đoàn Phật giáo làm từ thiện đến từ Los Angeles, California, Mỹ.

Có đến hơn 100 thân hữu của nhạc sĩ quá cố và công chúng Huế tập trung, và nói như nhà văn Bửu Ý: “nhiều người tới đây để nhìn mặt Bích Diễm xem có thật hay chỉ là huyền thoại...”.

Ðêm giao lưu diễn ra trong không khí đầm ấm, thân mật, với những giọng ca đồng thời là những người mê nhạc Trịnh qua những cung trầm, cung bổng mượt mà, đầy chất thơ, chất triết lý với Ca dao mẹ, Ở trọ, Tiến thoái lưỡng nan, Ðể gió cuốn đi, và tất nhiên, với Diễm xưa như là chủ đề chính xuyên suốt.

Về "huyền thoại Diễm" trong bài hát Diễm xưa, "người xưa" tâm sự: “Trong bài này anh Trịnh Công Sơn viết về vẻ đẹp của Huế nhiều hơn là về... tôi. Tôi nghĩ vậy. Ðó là bóng dáng của Thành nội cổ kính, của dòng sông Hương xanh mát và huyền hoặc, là không khí lãng đãng của thơ, của nhạc”.

Diễm (thứ ba từ phải sang) và những người bạn trong đêm giao lưu

Page 40: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 40

Nhiều người tò mò “vì sao Diễm im lặng trong suốt mấy mươi năm?”. Diễm xưa nói: “Vì tính tôi như vậy, không muốn ra trước công chúng. Tôi cũng không biết nói gì và không biết có ai cần gì ở mình hay không. Và cũng bởi vì bóng dáng to lớn của anh Trịnh Công Sơn đã đủ rồi!”

Và điều chờ đợi của tất cả mọi người trong đêm, đó là câu chuyện của Diễm: “Tôi là gái Bắc, theo cha vào Huế năm 1952, bố tôi là giáo sư Ngô Đốc Khánh, dạy tiếng Pháp ở Trường Quốc học. Tôi theo học lần lượt ở Trường Đồng Khánh, Quốc học, đến năm 1963 tôi vào học đại học ở Sài Gòn, sau đó sang định cư ở Mỹ. Nhà tôi ở số 46 đường Phan Chu Trinh (cũ), gần cầu Phủ Cam, là nơi gần anh Sơn ở (khu cư xá trên đường Nguyễn Trường Tộ - TP Huế). Lần đầu tôi gặp anh Sơn ngay tại nhà tôi. Anh đi theo anh Đinh Cường đến thăm Nguyễn Việt Hằng, một người bạn thân của tôi lúc đó đang ở lại nhà tôi để học hè. Sau đó thấy anh Sơn một mình quay trở lại. Anh viết nhạc và có tặng tôi mấy bài. Hồi đó còn trẻ lắm nên cũng biết lơ mơ vậy thôi… Sau này tôi mới biết thông qua hai người em của anh Sơn về câu chuyện nhánh dạ lan hương mà tôi tặng anh đã gây một chấn động mạnh nơi anh. Đó là một kỷ niệm thật đẹp, thật liêu trai…!”.

Bài và Ảnh: Thái Lộc

Sau gần 50 năm bà Ngô Vũ Bích Diễm gặp lại người bạn học cũ Nguyễn Thị Tâm, người học chung ở trường Đồng Khánh từ năm 1955 - 1961

Với nhà văn - dich giả Bửu Ý, một người bạn rất thân với cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ở Huế

Page 41: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 41

HHữữuu LLooaann đđãã rraa đđii……

Vào lúc 19g00 tối ngày 18.3.2010, nhà thơ Hữu Loan, tác giả của bài thơ "Màu tím hoa sim" đã vĩnh viễn từ giã cõi đời khi chuẩn bị bước sang tuổi 95 (12.4.1916 – 18.3.2010). Trong lúc chờ đợi con cháu về đông đủ, bà Nhu, vợ ông và 4 người con ở quê đã khâm liệm đặt ông vào quan tài yên nghỉ vào lúc 23g cùng ngày.

Nhà thơ Hữu Loan tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Loan, quê làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông đậu tú tài nhưng về quê mở trường dạy học và hoạt động phong trào Mặt trận Bình dân. Năm 1943 , ông gây dựng phong trào Việt Minh. Cách mạng Tháng Tám nổ ra, ông làm Phó chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông được cử làm Uỷ viên Văn hóa trong Uỷ ban hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính. Kháng chiến chống Pháp ông thuộc Đại đòan 304. Sau năm 1954, ông làm việc tại báo Văn Nghệ.

Page 42: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 42

Đến nay, "Màu tím hoa sim" được xem là một trong những bài thơ tình hay nhất của thế kỷ 20 và là bài thơ đầu tiên được mua bản quyền bởi một doanh nghiệp với giá 100 triệu đồng. Nhưng quanh sự kiện này, cũng không ít độc giả còn thắc mắc về bản cũ và bản mới chỉnh sửa sau này của bài thơ.

Tại Sài Gòn, trước năm 1975, giới văn nghệ sĩ cũng như đông đảo bạn đọc yêu thích thơ nhạc đều rất quen thuộc với bài Màu tím hoa sim của nhà thơ Hữu Loan. Tuy bấy giờ tác giả đang sống ngoài Bắc, nhưng tác phẩm ấy đã chiếm một chỗ đứng trong lòng người yêu thơ miền Nam . Bài thơ được giới thiệu không những qua sách báo, mà còn được phổ nhạc, hát rộng rãi trên đài phát thanh, các buổi trình diễn văn nghệ trên sân khấu đương thời, nhất là vào những năm thập niên 60 của thế kỷ 20. Bản Màu tím hoa sim thời ấy ngắn hơn bản tác giả công bố sau này. Nghĩa là dừng lại, chấm hết ở mấy câu: "Tôi hát trong màu hoa. Áo anh sứt chỉ đường tà. Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu" chứ không có thêm “Tôi ví vọng về đâu. Tôi với vọng về đâu. Áo anh nát chỉ dù lâu...” ở cuối bài như sau này.

So với bản Màu tím hoa sim "nay" thì bản "xưa" tuy ngắn hơn nhưng ý thơ đi rất trọn nghĩa, trọn tình, không trúc trắc, không khiến người đọc phải dừng lại suy nghĩ. Nhà thơ có quyền sửa thơ của mình, hoặc thêm vào những đoạn mới. Song về phía những độc giả đã cảm nhận, yêu thích, hoặc có những kỷ niệm gắn bó với Màu tím hoa sim theo bản cũ thì khó "làm quen" với những đoạn mới, chữ mới, với hơi thơ có vẻ xa lạ với bài thơ từng biết. Do vậy, một số độc giả đã tỏ ra tâm đắc với bài Màu tím hoa sim

Nguyễn Hữu Đán – người con thành đạt nhất của nhà thơ , hiện là chủ tịch hội đồng quản trị Công ty cổ phần bảo tồn di sản văn hóa kiến trúc Việt.

Page 43: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 43

trước kia. Nhưng dù Màu tím hoa sim bản "xưa" hay "nay" vẫn chỉ để viết về một người, một mối tình.

Đó là người vợ trẻ Đỗ Thị Lệ Ninh đã mất sau ngày cưới không lâu vì chết đuối. Các anh của “nàng”, theo tài liệu của Hàn Anh Trúc là 3 người có thực ở chiến trường Đông Bắc. Đó là Đỗ Lê Khôi - tiểu đoàn trưởng hy sinh trên đồi Him Lam, Đỗ Lê Nguyên nay là Trung tướng Phạm Hồng Cư

và Đỗ Lê Khang - nguyên Thường vụ Trung ương Đoàn. Hữu Loan kể và Hàn Anh Trúc ghi lại trong một cuốn biên khảo văn học rằng, bố vợ ông trước kia làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên “vợ mình sinh ở trong ấy, quen gọi mẹ bằng má”, bài thơ mới có câu “má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối”. Hàn Anh Trúc viết là Hữu Loan sáng tác bài thơ ngay tại mộ người vợ trẻ, rồi: "ghi vào chiếc quạt giấy để lại nhà một người bạn ở Thanh Hóa. Bạn anh đã chép lại và chuyền tay nhau suốt những năm chiến tranh". Điều đó đã được chính nhà thơ Hữu Loan xác nhận.

Bài thơ "Đèo cả" mở đầu sự nghiệp thi văn của ông đã vang danh khắp chiến trường kháng chiến chống Pháp. Tiếp đó, người vợ đầu tiên Nguyễn Thị Ninh mất (1949) và ông nghe tin dữ khi đang trên đường hành quân khiến ông đã viết lên những vần thơ bất hủ "Màu tím hoa sim" đi sâu vào lòng người cho đến tận bây giờ và có lẽ cũng là mãi mãi.

Lấy người vợ thứ hai vào năm 1954, bà Nguyễn Thị Nhu, ông tiếp tục làm ở báo Văn Nghệ cho đến khi bị đi tù với nỗi oan nghiệt dính vào nghiệp văn chương. Ra tù, ông trở về quê đục đá kiếm sống nuôi 10 người con và sống với những ký ức vừa đẹp đẽ vừa đau thương cho đến ngày hôm nay, bên cạnh người vợ tần tảo, thủy chung.

Những người mến mộ bên thi sĩ khi ông đau yếu. Ảnh: X.B

Nhà thơ Hữu Loan và vợ – bà Phạm Thị Nhu năm 2009. Ảnh: Hồ Trần

Page 44: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 44

Nhạc sĩ Phạm Duy đón xe ôm về về Thanh Hóa thăm Hữu Loan vào năm 2006 trong một ngày mưa lạnh

Nhạc sĩ tặng thi sĩ một cuốn video trong đó có đoạn Phạm Duy được phỏng vấn về bài “áo anh sứt chỉ đường tà”, và chia tay nhau khi trời đã tạnh mưa...

Theo Thanh Niên

Page 45: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 45

Màu tím hoa sim khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh Nàng có ba người anh đi bộ đội Những em nàng Có em chưa biết nói Khi tóc nàng xanh xanh Tôi người Vệ quốc quân xa gia đình Yêu nàng như tình yêu em gái Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo mới Tôi mặc đồ quân nhân đôi giày đinh bết bùn đất hành quân Nàng cười xinh xinh bên anh chồng độc đáo Tôi ở đơn vị về Cưới nhau xong là đi Từ chiến khu xa Nhớ về ái ngại Lấy chồng thời chiến binh Mấy người đi trở lại Nhỡ khi mình không về thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê... Nhưng không chết người trai khói lửa Mà chết người gái nhỏ hậu phương Tôi về không gặp nàng Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối Chiếc bình hoa ngày cưới thành bình hương tàn lạnh vây quanh Tóc nàng xanh xanh ngắn chưa đầy búi Em ơi giây phút cuối không được nghe nhau nói không được trông nhau một lần Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím

Page 46: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 46

áo nàng màu tím hoa sim Ngày xưa một mình đèn khuya bóng nhỏ Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa... Một chiều rừng mưa Ba người anh trên chiến trường đông bắc Được tin em gái mất trước tin em lấy chồng Gió sớm thu về rờn rợn nước sông Đứa em nhỏ lớn lên Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị Khi gió sớm thu về cỏ vàng chân mộ chí Chiều hành quân Qua những đồi hoa sim Những đồi hoa sim những đồi hoa sim dài trong chiều không hết Màu tím hoa sim tím chiều hoang biền biệt Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa Áo anh sứt chỉ đường tà Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau Chiều hoang tím có chiều hoang biết Chiều hoang tím tím thêm màu da diết Nhìn áo rách vai Tôi hát trong màu hoa Áo anh sứt chỉ đường tà Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu... Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm Tím tình ơi lệ ứa Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím Tôi ví vọng về đâu Tôi với vọng về đâu Áo anh nát chỉ dù lâu... 1949 Hữu Loan

Page 47: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 47

Sức khoẻ và đời sống

Nhiều người hỏi phải tắc kè có tác dụng bổ dưỡng, chữa được đau lưng, yếu sinh lý và hen suyễn? Điều đó cũng không sai, song phải biết rõ dược tính của nó, sử dụng đúng trường hợp thì mới có ích lợi.

Tắc kè có tên thuốc là Bích hổ hay Cáp giới, tên khoa học Gekko Gekko L. Thuộc họ Tắc kè (Gekkonidae), bộ Thằn lằn (Lacertilia). Hình dạng Tắc kè giống con thạch sùng nhưng lại to bằng con thằn lằn. Đầu bẹp hơi tam giác, mắt có con ngươi thẳng đứng. Có bốn chân, mỗi chân có năm ngón rời nối với nhau thành hình chân vịt. Đầu lưng và đuôi đều có vẩy nhỏ, thay đổi được nhiều màu sắc. Đuôi dài bằng thân, khi đứt có thể mọc lại được. Tên tắc kè do đặt phỏng theo tiếng kêu của con trống.

Khi dọ tìm được ổ tắc kè, người ta chỉ cần dụ bắt một con đầu tiên thì các con khác sẽ tiếp nối ló đầu ra chịu chung số phận. Muốn dụ Tắc kè, thường buộc một con châu chấu vào một đầu que cùng với một mớ tóc rối. Đưa que vào hốc ổ, một con sẽ ngoạm lấy con mồi liền bị tóc rối vướng vào kẽ răng. Ta chỉ việc lôi ra mà bắt. Khi bắt phải nắm bằng gáy để phòng bị cắn. Tắc kè thu hoach được quanh năm. Song vào mùa hè thu chúng kêu nhiều nên dễ bị phát hiện, nên vào thời gian này cũng chính là lúc bội thu. Khi chế biến cần chú ý quấn đuôi cho đừng rụng, móc bỏ mắt và chặt bỏ 4 bàn chân.

Theo tài liệu cổ, Cáp giới vị mặn, tính ôn, vào hai kinh phế và thận. Có tác dụng tăng lực, bổ phế thận, ích tinh trợ dương, nạp khí. Dùng chữa hư lao, ho có mủ, ho ra máu, hen suyễn, tiêu khát. Người có đờm ẩm mà hen suyễn thì không dùng được bởi hàm lượng đạm cao trong tắc kè sẽ sinh thêm đàm. Do đó để trả lời cho câu hỏi của nhiều người, từ tính chất trên có thể rút ra kết luận: Tắc kè có thể chữa được đau lưng, mệt nhọc, yếu sinh lý và hen suyễn ở thể thận dương hư và phế khí hư. Ngoài ra,

Page 48: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 48

các chứng hen suyễn, xuất tinh sớm do thực hoả, thực tích, đàm thấp thì không được dùng.

Để phân biệt rõ hơn các thể bệnh, cần lưu ý các chứng trạng sau đây:

- Thể thận dương hư:

Người có dáng béo bệu hoặc gầy ốm xanh xao, tay chân mát lạnh, ớn lạnh, gặp thời tiết lạnh thì đau nhức, ăn thức mát sống thì tiêu phân sống, tiểu nhiều lần, tiểu đêm, thỉnh thoảng có phù nhẹ, khó thở, khó ngủ, mắt mờ tai váng…

- Thể phế khí hư:

Người xanh xao, hơi ngắn, làm việc một chút đã mệt mỏi đứt hơi, thường đau ê ẩm hai bả vai, tức ngực , có cơn khó thở, sợ lạnh, sợ tắm, ho dai dẳng có chút ít đàm dạng nhầy hoặc không có đàm, da khô mà lạnh lẽo.

Page 49: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 49

- Thể thực hoả, thực tích, đàm thấp:

Thường thở ồ ồ, lúc kéo đàm lên làm khó thở, người bứt rứt, da nóng, mặt đỏ, táo bón, tiểu vàng hoặc tiểu đục. Ăn nhiều thì kéo đàm khó thở, thường chóng mặt buốt đầu. Thử máu có khi thấy đường, đạm, lipid máu, cholesterol đều cao. Có khi cao huyết áp. Thể này không nên dùng tắc kè hoặc các vị thuốc có tác dụng tương đương như: hải mã, thịt dê, thịt chó, chim sẻ…

NHỮNG PHƯƠNG THUỐC KINH NGHIỆM DÂN GIAN

- Chữa thận dương hư làm đau lưng, nhức mỏi, mệt nhọc, suy nhược thần kinh:

Dùng 1 cặp hoặc 2 cặp tắc kè khô đã chế biến sẵn, mỗi cặp gồm một con trống một con mái. Ngâm vào một lít rượu 350 trong một tuần lễ. Lọc lấy nước trong uống mõi ngày một chung ốc trâu.

- Chữa ho mà ăn uống không được, chóng mặt tay chân nặng mỏi, tụt áp huyết:

Dùng tắc kè khô tẩm rượu sấy lại một đôi, Nhân sâm 20g - cả hai hiệp chung tán bột. Cất trong lọ kín. Mỗi ngày ăn 4g.

- Chữa ho lao, người già ho kèm yếu tim, có đàm khi đặc, khi loãng:

Dùng một đôi Tắc kè khô, Đảng sâm 20g, Sa nhân 20g - tất cả tán bột trộn đều. Thêm nạc táo đỏ, nhãn nhục mỗi thứ 10g quết nhuyễn hiệp chung nhào nặn thành viên nặng 1g. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 1-2 viên nhai và uống nước ấm.

Lương y TKTN

Báo Khoa học phổ thông - số 546

Page 50: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 50

ệnh mãn tính và cơ địa dị ứng là một thể lọai bệnh có tính nhạy cảm tái phát do nguyên nhân bên ngòai như mưa, gió, tiếp xúc điều kiện lạnh như máy lạnh, máy quạt mạnh liên tục, uống nước ướp lạnh, nước đá, thức ăn có tính hàn hoặc nhiệt

kết hợp một thể trạng yếu đề kháng.

Một số trường hợp lại dị ứng với điều kiện nhiệt như: đi nắng, lò cao, thức ăn có tính nhiệt như sầu riêng, nhãn, ớt,... Do đó, muốn tránh bội nhiễm tái phát ta phải hạn chế tiếp xúc nguyên nhân gây bệnh và tăng cường sức đề kháng.

Nếu kiêng cử đúng mức thì thiếu dinh dưỡng. Nếu không thì bệnh dễ tái phát, sự suy yếu có thể ngày càng trầm trọng hơn. Qua hàng ngàn ca thể nghiệm, chúng tôi đúc kết nên một số công thức dinh dưỡng tương đối an toàn và đầy đủ như sau:

I. Các món được phép dùng trong thời gian có bệnh

1. Nước uống

- Nước đun sôi để nguội lọc sạch.

- Nước trong bình nước khóang nhãn hiệu có tín nhiệm đun sôi càng tốt.

- Nước trà nóng ấm pha nhạt, vừa.

- Sữa đậu nành nóng hoặc để nguội.

- Nước chanh nóng, ngọt nhiều hơn chua.

- Nếu có sở thích dùng rượu thì mỗi ngày có thể dùng kèm mỗi lần 20 ml lọai rượu thích hợp hoặc rượu thuốc. Ngày tối đa 2 lần.

2. Lương thực

- Gạo trắng, gạo lức nấu.

- Bánh mì lạt, bánh mì ổ không bơ

B

Nấm kim châm

Page 51: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 51

đường.

- Đậu đỏ, đậu đen, mè.

- Bột dinh dưỡng, bột lúa mạch.

- Bo bo, hạt sen, khoai lang đỏ.

- Dùng được ít: Bún, bánh canh bột gạo, bánh bột gạo hấp.

3. Thực phẩm

- Cá đồng ít có rằn sọc.

- Tép nhỏ, cua đồng, lươn, rắn không độc.

- Thịt heo, bò, trâu, nai, cheo, mễn, rắn lấy nạc nấu chín.

- Cật heo, tim heo bò.

- Cá thu, cá hồi.

- Một số hải sản thông dụng như: mực, cua, tôm, sò huyết, hến, hàu... không dùng khi bệnh đang tiến triển nhưng có thể dùng lượng ít khi bệnh đang ổn định.

- Nấm mèo, nấm tuyết, đông cô, kim châm.

4. Rau

- Bồ ngót, cải cúc (tần ô), cải bó xôi, cải ná, cải cay.

- Cà rốt, khoai tây, củ dean, su hào.

- Đậu hà lan, đậu móng chim.

- Lá lốt, lá cách, lá khoai lang, hẹ.

- Khoai mỡ, khoai môn, hùynh tinh.

- Củ sen, ngó sen, ngó sún.

- Bắp chuối, bông cải xanh. Củ huỳnh tinh

Nấm tuyết

Page 52: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 52

- Cải chua nấu chín.

- Củ cải ướp muối.

5. Quả

Mỗi ngày không quá 500g, không quá 100g cho mỗi lọai quả:

- Chuối tiêu, chuối cau mẵn, chuối sứ nấu.

- Đu đủ, vải, lê ngọt, quýt ngọt, bưởi ngọt, cam ngọt, mãng cầu xiêm, chôm chôm kẽm ngọt, đào, táo, mận, ổi bỏ hạt.

- Nước cốt quả điều.

Người quá yếu sức những quả này phải hấp chín hoặc ép lấy nước đun lên uống.

6. Gia vị

- Nước tương, nước mắm tốt, đường, gừng, nghệ, riềng, chanh, tỏi, muối.

- Dầu hào, dầu mè, dầu đậu nành.

- Dùng ít: tiêu, ớt.

Lưu ý: chỉ được chọn ăn trong sách trên.

II. Bàn về một số phương thức chế biến thức ăn

1. Luận về cơm gạo lứt 5 thứ đậu

Không phải dựa vào thuyết dưỡng sinh Osawa, ai cũng tự biết rằng gạo lứt chắc chắn có trữ lượng dinh dưỡng cao hơn gạo đã chà trắng do giữ lại được lớp cám quý giá, 80% sinh tố nhóm B của hạt gạo tập trung ở phần này

Ngày nay từ các phương tiện truyền thông, chúng ta đã biết ít nhiều tầm quan trọng của sinh tố nhóm B. Nó có vai trò chính trong việc chống lão hóa, cường lực cho cơ bắp, góp phần điều tiết hócmon, nuôi dưỡng da tóc móng, trợ tiêu hóa, dưỡng não v.v… Ngoài ra lớp cám gạo còn chứa nhiều loại sinh tố khác như C, A, PP… và chất xơ có tác dụng nhuận trường.

So với gạo trắng, gạo huyết rồng hay gạo đỏ có trữ lượng protid cao hơn, ấm hơn, có tính dưỡng khí sinh huyết rất tốt.

Page 53: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 53

Năm thứ đậu cung cấp gần như toàn bộ chủng loại protid, các sinh tố, vi lượng, chất béo cần thiết, tỏa năng lượng cao… có thể thay thế cho đạm động vật nuôi dưỡng chế độ chất lượng cao.

Như vậy chỉ cần một nồi cơm gạo lứt 5 thứ đậu, ta có thể an tâm cho dinh dưỡng và năng lượng cơ bản cần thiết trong ngày. Nó tạo cho cuộc sống một sự ổn định khả quan về vật chất lẫn tinh thần. Nếu có một món hải sản xào với rau hay đậu cô ve cho người ăn mặn hoặc rau cải xào hoặc nấu canh với một trong các loại nấm thì không lo gì thiếu dinh dưỡng nữa.

2. Công thức tỉ lệ trộn gạo lứt và đậu

- Đậu xanh 200g

- Đậu đỏ 200g

- Đậu trắng bi 200g

- Đậu đen 250g

- Đậu lạc (đậu phộng) 150g

Nếu là người béo giảm đậu lạc còn 100g và tăng đậu đen 300g. Tổng cộng 1kg đậu trộn với 2kg gạo. Trộn sẵn đựng vào 1 cái xô có nắp, hàng ngày đem hong nắng cho đừng sinh mọt.

Đãi sạch phần gạo định nấu xong đổ nước ngâm từ đầu đêm đến sáng sớm thay nước khác nấu nhưng đừng vo lại. Nấu bằng nồi cơm điện lượng nước cho nhiều hơn nấu cùng lượng gạo trắng một ít. Nếu quên ngâm gạo trong đêm thì sau khi đãi sạch cho lượng nước gấp đôi khi nấu gạo trắng. Cứ bảo quản trong nồi cơm cắm điện thường xuyên ta có thể ăn dần trong vài ngày.

3. Quy trình tuyển chọn rau quả

Chọn mua tại siêu thị hay ngoài chợ cũng được, tuy nhiên mua tại siêu thị ta có thể an tâm họ không bảo quản bằng formon và hy vọng họ chỉ xử lý bằng tia và nhà lạnh. Chọn những củ quả tươi, không có dấu bầm xước đem về rửa sạch lau khô hong qua ánh nắng mặt trời từ 5 đến vài mươi phút tùy độ nắng đậm nhẹ.

Bảo quản ở nơi thoáng mát nhất trong nhà, tuyệt đối không cho vào tủ lạnh, chỉ trừ khi biết chắc sẽ rất lâu mới dùng đến. Để như vậy sau 48 giờ phần nào hóa chất xịt tẩm trong quá trình thu hái vận chuyển sẽ tự “bốc hơi”, ta mới có thể tạm cho đó là thực phẩm an toàn. Lúc đó muốn làm lạnh trước khi ăn ta mới cho vào tủ lạnh 15 phút. Những củ quả nào bị ủng trong quá trình bảo lưu đó ta phải vứt đi cả củ không nên tiếc rẻ vạt lại ăn vì nó ủng do hóa chất đã thẩm thấu toàn bộ.

Page 54: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 54

4. Xử lý các loại cải xanh và rau ăn sống

Các loại rau ăn sống không thể bảo lưu như củ quả nên phải xử lý 3 lần. Lần 1 lặt xong rửa bằng nước sạch, kỳ cọ cho rơi hết đất cát. Lần sau ngâm 15 phút trong nước pha muối tỉ lệ 2 lít nước 1 muỗng cafe lớn muối hột hoặc muối tinh không có iod. Lượng nước chỉ vừa ngập khỏi rau là đủ. Lần 3 rửa lại trong thau nhiều nước hoặc xả trong vòi nước máy. Sau đó mới thái nhỏ tùy ý.

Chú ý: Nước rửa rau vo gạo nấu ăn phải lọc bỏ chất phèn mặn và sắt gỉ đồng thời không nên ngâm lâu trong thuốc tím và rửa quá 3 lần, như vậy một số sinh tố nhạy cảm sẽ bị phân hóa.

5. Vài điều lưu ý trong chế biến thức ăn

- Nên bỏ sở thích ăn những gia vị rang cháy như hành tỏi phi, cháy mỡ, bánh mì thái lựu chiên giòn…

- Các loại rau củ có chứa nhiều bêta carôten tiền vitamin A hoặc vitamin A như cà chua cà rốt… phải nấu chín. Muốn ăn sống phải trộn dầu giấm hoặc trộn dầu ô liu, dầu mè.

- Tiêu chỉ nêm sau khi thức ăn đã chín vừa tắt lửa. Muốn ướp có mùi tiêu phải ướp cả hạt. Ớt khi khi kho phải để nguyên trái, lúc ăn nhai kỹ cho nát hoặc bỏ hạt, dùng pha nước chấm phải giã nhuyễn phần hạt

- Nấu các loại rau xanh, các bạn thường không đậy nắp vì sợ nó úa, nhưng việc ấy chỉ có ý nghĩa khi trụng (chần) rau. Nấu canh phải đậy kín và cho lửa to sau khi cho

rau vào để các chất dinh dưỡng ít bốc hơi và rau mau chín.

- Ngoài ra có các thức ăn kỵ nhau, trong phạm vi này tôi không đề cập.

Phục Sinh Đường

Page 55: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 55

Phương pháp tăng lực đơn giản

Con người hiện nay – nhất là giới trẻ – sống trong thời đại gần như cực thịnh của văn minh nhân loại, đã không ngừng phấn đấu hầu mong được hoà nhập và tồn tại tốt đẹp. Do đó tình trạng làm việc quá tải, liên tục nghiên cứu cập nhật thông tin, kiêm nhiệm công việc, ăn ngủ thất thường… không tránh khỏi đã dẫn đến suy giảm sức khoẻ, mắc nhiều bệnh tật và lão hoá sớm.

Tiến thoái lưỡng nan! Làm sao để có thể bổ sung năng lực một cách hữu hiệu mà không phải dùng quá nhiều loại thuốc. Xin giới thiệu một phương pháp đơn giản, chỉ cần quyết tâm tranh thủ mỗi buổi độ mươi phút, sẽ đạt được kết quả không ngờ.

THỞ 8 THỜI XOAY CỔ

Tư thế: hình 1

Chọn một vị trí thoáng mát, ít bụi hoặc ngay tại phòng làm việc để thực hiện động tác thở 8 thời. Ngồi giường hoặc ghế thấp sao cho bàn chân chạm đất và cơ thể hình thành thế 4 đọan 2 bậc thang, 2 bàn tay đặt trên đùi. Giữ trạng thái thư giãn, thả lỏng các bắp cơ trong 1 đến vài phút, khi nghe tâm trí thật sự thoải mái nhẹ nhàng mới bắt đầu bài tập.

Thời 1: hình 2

Vừa từ từ hít vào vừa ngả đầu ra sau đến hết mức thì cũng vừa đầy hơi, bụng phình ngực đầy. Nín hơi một chút đọan vừa hít thêm một cái vừa gặc nhẹ đầu ra sau một cái.

Thời 2: hình 1

Hình 1

Hình 2

Page 56: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 56

Từ từ thở ra vừa trả đầu về vị trí ngồi thẳng. Thở ra cho hết, bụng trống hơn.

Thời 3: Hình 3

Vừa hít vào từ từ vừa cuối đầu xuống sao cho cần đụng ngực là vừa đầy hơi, bụng phình ngực đầy. Nín hơi một chút rồi hít thêm 1 cái đọan gật đầu xuống 1 cái.

Thời 4: Giống thời 2, hình 1

Thời 5: hình 4

Vừa từ từ hít vào vừa nghiêng đầu sang một bên đến khi hết mức nghiêng cũng vừa đầy hơi, bụng phình ngực đầy. Nín hơi một chút đọan hít thêm 1 cái đồng thời gặc xuống bên 1 cái.

Thời 6: Giống thời 2, hình 1

Thời 7: hình 5

Giống thời 5 với bên còn lại.

Thời 8: giống thời 2, hình 1

Chỉ định:

Thích hợp với tất cả các thể lọai bệnh, đối với người bình thường có tác dụng phòng bệnh, nâng đề kháng, giải lao, tiếp sức

Chống chỉ định:

Đang bị gãy, nứt cột sống cổ

Tác dụng:

- Dẫn khí điều hòa khắp cơ thể, đặc biệt nâng thượng tiêu khí hỗ trợ sức đề kháng. Bài thở 8 thời xoang cổ, ngày làm 2 thời, mỗi thời từ 3 đến 10 lần, tùy sức.

Hình 3

Hình 4

Hình 5

Page 57: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 57

- Đưa máu lên não để tăng cường tuần hòan não, chống bệnh tại chỗ và phục hồi những chùm thần kinh suy yếu do viêm nhiễm lâu ngày.

- Phục hồi chùm thần kinh và cơ xương khớp vùng cổ gáy vai, để hỗ trợ hệ hô hấp, hệ tim mạch chống co thắt, khó thở, đau mỏi do ảnh hưởng của áp lực công việc. Mỗi ngày tập 2 thời, mỗi thời từ 3 đến 7 lần tùy sức.

BÀI RƯỢU THUỐC THƯỜNG DÙNG

Công thức

- Miết giáp sao chế giã nhỏ bằng quả kỷ tử 50 g

- Hồng sâm 50 g

- Lộc nhung 20 g

- Cao quy bản 20 g

- Hòang kỳ 40 g

- Đương quy 40 g

- Xuyên khung 20 g

- Bạch chỉ 20 g

- Kỷ tử 30 g

- Cúc hoa 30 g

- Hà thủ ô chế 40 g

- Đỗ trọng chế 30 g

Thực hiện

Tất cả cho vào bình thủy tinh với 2 lít rượu tốt và 100 g đường phèn, đậy nắp kín. Dùng nồi có đường kính gấp đôi đường kính đáy bình, lót 1 dĩa sành rồi đặt bình rượu vào, đổ nước vào nồi nấu sôi nước đến khi thấy sắc rượu ngả sang màu nâu. Sau đó đem ra để nơi khô thoáng 15 ngày dùng được.

Liều dùng

Mỗi lần 5 – 10ml, mỗi ngày 2 – 3 lần, uống trước bữa ăn hoặc dùng kèm bữa ăn chính.

Lương y Trịnh Bình

Page 58: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 58

Di sản văn hóa và thắng tích

oại gốm sứ thường được nhắc đến với tên gốm Chu Đậu là do lần đầu tiên người ta khai quật được các di

tích của dòng gốm này ở Chu Đậu. Sau này, khi khai quật tiếp ở Mỹ Xá - làng bên cạnh Chu Đậu thì người ta phát hiện ra khối lượng di tích còn đa dạng hơn và có một số nước men người ta không tìm

thấy trong số các di tích khai quật được tại Chu Đậu. Và nổi tiếng nhất là số lượng thu được từ cuộc trục vớt 3 con tàu cổ vật tại Cù Lao Chàm (Hội An, Quảng Nam) và đưa lên mặt đất 40 vạn cổ vật, trong đó có 38 vạn cổ vật gốm Chu Đậu còn khá nguyên vẹn với trên 40 loại hình khác nhau.

L

Page 59: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 59

Dòng gốm sứ Chu Đậu có thể đã được hình thành và phát triển trong khoảng từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 18. Kế thừa sự

thanh thoát, uyển chuyển của gốm thời Lý, vóc dáng khoẻ khoắn của gốm Trần và được nghệ nhân Chu Đậu thổi vào tác phẩm hồn dân tộc, phản ánh sinh động thiên nhiên và cuộc sống của cư dân ở vùng châu thổ sông Hồng nên đã tạo được nét riêng. Hiện nay, gốm Chu Đậu được người chơi đồ cổ trên thế giới săn tìm và được quốc tế xem như tinh hoa văn hoá vật thể của Đông Nam Á.

Sau 26 năm tìm kiếm, giới sử học Hải Dương vừa công bố tác giả bình gốm hoa lam Chu Đậu cổ cách đây trên 550 năm hiện được lưu giữ tại bảo tàng Topkapi Saray Istanbul - Thổ Nhĩ Kỳ và được mua bảo hiểm 1.000.000USD. Bình dáng hình củ tỏi, cao 54 cm, được trang trí hoa sen và cúc dây. Trên vai bình có ghi 13 chữ Hán “Thái Hòa bát niên, Nam Sách châu, tượng nhân Bùi Thị Hý bút”, nghĩa là “Năm Thái Hòa thứ tám (1450), thợ gốm tên Hý họ Bùi, người châu Nam Sách vẽ”.

Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, đã phát hiện hàng chục bình gốm cổ có đề “Thanh Lâm huyện, Hùng Thắng xã, nghệ nhân Đặng Huyền Thông tạo”; hoặc “Nghệ nhân Đặng Huyền Thông cùng vợ Nguyễn Thị Đỉnh tạo”.

Ba năm sau phát hiện gốm cổ Chu Đậu, năm 1986 ông Tăng Bá Hoành cùng các nhà sử học tâm huyết với gốm Chu Đậu bắt đầu thực hiện công trình nghiên cứu về gốm và đi tìm chủ nhân bình gốm hoa lam Chu Đậu cổ ở Thổ Nhĩ Kỳ. Trong lúc các nhà sử học Hải Dương tưởng như vô vọng thì chiều 29.5.2006, ông Tăng Bá Hoành được hai người họ Bùi tìm đến đưa cho xem gia phả Bùi tộc. Thông tin quý hiếm về bà Bùi Thị Hý bắt đầu hé mở. Đó là bà Bùi Thị Hý, nghệ nhân gốm xuất sắc thế kỷ XV - được xem là vị tổ của gốm Chu Đậu (Nam Sách - Hải Dương).

Page 60: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 60

Người ta xác định rằng kỳ tài phu nhân

Bùi Thị Hý hiệu Vọng Nguyệt là người đã chế tác nhiều hoa văn và kiểu mẫu cho gốm Chu Đậu, trong đó có 2 mẫu nói trên. Tại hội thảo do Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật tỉnh Hải Dương phối hợp với huyện Gia Lộc tổ chức vào ngày 20/6/2009 vừa qua, đại diện dòng họ Bùi, các nhà sử học đưa ra nhiều chứng cứ, hiện vật liên quan đến nhân vật lịch sử thú vị này.

Trong số các hiện vật, có chiếc la bàn bằng đá trên đó khắc: Châm bàn chu hải khứ Bùi Thị Hý và gia phả do chính phu quân của bà là ông Đặng Phúc lập bia gồm

379 chữ ghi rằng: “Bùi Thị Hý, người vợ kỳ tài, hiệu là Vọng Nguyệt, là con gái trưởng của quan mã vũ Bùi Đình Nghĩa, cháu ba đời lão tướng Bùi Quốc Hưng. Phu nhân sinh năm Canh tý (1420), thời Bình Định Vương, mất ngày 12 tháng 8 năm

Cảnh thống Kỷ mùi (1499).”

Phu nhân có tài văn chương, chữ viết đẹp, lại có kỳ tài về hoạ, từng cải trang đi thi Đại khoa đến kỳ thi thứ ba, khoa Nhâm Tuất, năm đại bảo thứ ba (1442), bị quan trường (phát giác) kỷ luật, đuổi khỏi trường thi. Sau đó,bà lập gia thất cùng ông Đặng Sĩ, một đại gia về đồ gốm sứ ở làng Chu Nhẫm tức Chu Đậu, huyện Thanh Lâm châu Nam Sách. Bà có biệt tài làm bình gốm. Năm Thái Hoà thứ 10 (1452), bà cùng chồng về Quang Ánh giúp em trai dựng lò gốm, giao thương với Chu Đậu làm đặc sản gốm sứ cống Hoàng triều và xuất cho thương nhân Trung Quốc, Nhật Bản, phương Tây. Bà Hý không có con nên cuối đời về quê cha và mất tại đó vào ngày 12.8 năm Kỷ Mùi (1499), thọ 80 tuổi.

Hai vật thể tiêu biểu cho sinh khí gốm Chu Đậu.

Thợ vẽ gốm Chu Đậu.

Page 61: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 61

Đến khi đất nước đại loạn bởi cuộc chiến tranh Trịnh - Mạc cuối thế kỷ XVI, nghề vinh của dòng họ Bùi thất truyền. Bình

gốm hoa lam cao 54cm, sản xuất năm Thái Hoà thứ tám (1450) lưu ở Thổ Nhĩ Kỳ là tác phẩm của bà Bùi Thị Hý, còn có bút tích của nghệ nhân. Đó là tài liệu quí để minh chứng bà Bùi Thị Hý là một trí thức Nho học, một nghệ sỹ xuất sắc chế tác đồ gốm, một doanh nhân buôn bán trên pham vi quốc tế, một nữ hàng hải. Một nguồn tin đáng tin cậy cho biết, bình hoa lam Chu Đậu cổ ở Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay được định giá đến 25 triệu USD.

Như vậy, hơn 20 năm kể từ lần đầu tiên khai quật tìm kiếm nguồn gốc gốm Chu Đậu, ông Tăng Bá Hoành đã tìm được tài liệu tương đối hoàn chỉnh về bà Bùi Thị Hý. Hiện mộ chí của bà đã được xác định, chỉ còn việc khai quật mộ chí để chính thức khẳng định một cách khoa học và tôn vinh xứng đáng con người kỳ tài này nhưng ông Hoành giờ đã về nghỉ hưu và cũng không có kinh phí để tự mình làm việc này, nên câu chuyện vẫn dừng lại ở đây.

Bài Bút Tâm, ảnh Cao Thái Thanh

Bảo tàng gốm Chu đậu cổ...

...từ những vật thể còn nguyên vẹn đến những mảnh vỡ.

Page 62: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 62

Khoa học huyền bí và đời sống tâm linh

Có đến hơn 1/4 dân số trên hành tinh của chúng ta theo các tôn giáo ở phương Đông, gồm các tôn giáo nổi tiếng như Phật giáo, Hindu, đạo Sikh, và đạo Lão. Loại hình kiến trúc đền tháp là cơ sở thờ tự duy nhất của các tôn giáo này khá đa dạng và phong phú. Từ các kiến trúc cổ xưa của quần thể đền tháp Ankor Wat đến kiến trúc hiện đại đặc sắc như Wat Rong Khun. Sau đây là những đền tháp có kiến trúc vô cùng độc đáo ở châu Á.

Thiền viện Taktshang Goemba – Bhutan

Thiền viện Taktshang Goemba, tọa lạc trên một vách đá núi hiểm trở nằm tại độ cao 914m so với bề mặt nước biển tại thung lũng Paro, là một trong những địa danh linh thiêng nhất ở Bhutan. Truyền thuyết kể rằng, có một vị Phật tên là Guru Rinpoche, đứng thứ hai sau Đức Phật Thích Ca, đã cưỡi một con cọp vân du đến sườn núi này, ngài đã thiền định tại một hang

động được kiến tạo trong thiền viện.

Thiền viện này được xây dựng vào năm 1692 và được trùng tu vào năm 1998 sau một vụ hỏa hoạn. Ngày nay, thiền viện này không cho phép các du khách vãng lai được phép tới. Nó trở thành thiền viện hoành tráng và kỳ bí nhất thế giới.

Wat Rong Khun – Thái Lan

Ngôi đền Wat Rong Khun nằm ở Chiang Rai, Thái Lan không giống với bất kỳ ngôi đền Phật giáo nào trên thế giới. Toàn bộ ngôi đền toát lên một màu trắng tinh khiết, công trình

Page 63: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 63

kiến trúc này trang trí với những bức khảm vàng phản chiếu nét lung linh huyền ảo trong ánh nắng mặt trời, một phong cách kiến trúc đương đại khá đặc trưng.

Ngôi đền này là công trình nghệ thuật của một nghệ sĩ Thái Lan nổi tiếng tên là Chalermchai Kositpipat vẫn còn đang tiếp tục xây dựng ít nhất 90 năm nữa mới hoàn thiện. Điều đó cũng cho thấy, ngôi đền này sẽ cùng có thời gian xây dựng kỷ lục như kiến trúc Thánh đường Sagrada Familia ở Barcelona, Tây Ban Nha!.

Đền tháp Prambanan – Indonesia

Quần thể đền tháp Prambanan là một ngôi đền Hindu tọa lạc ở miền Trung Java, thuộc Indonesia. Nhóm đền này được xây dựng vào năm 850 sau Công nguyên, gồm tổng cộng 8 ngôi đền chính và khoảng 250 ngôi đền nhỏ hơn nằm bao bọc xung quanh.

Gần như tất cả các bức tường của nhóm đền tháp này được kiến tạo với những bức họa phù điêu chạm khắc khá sống động, thể hiện các truyền thuyết của vị thần Vishnu, các cuộc phiêu lưu của

thần khỉ Hanuman, các truyền thuyết và thiên sử thi Ramayana. Mặc dù nhóm đền tháp này không phải là lớn nhất ở Indonesia, nhưng sự hiện diện của Prambanan đã làm nên nét đẹp huyền bí cho đảo quốc này.

Đền vàng Shwedagon - Myanmar

Không ai biết chính xác thời điểm ngôi đền Shwedagon ở Myanmar được xây dựng khi nào, các nhà khảo cổ chỉ cho biết là ngôi đền này có lịch sử từ 2.500 năm, nhưng cứ liệu chính xác nhất thì có lẽ nó được xây dựng trong khoảng các thế kỷ thứ VI và thế kỷ X.

Ngày nay, người ta nói “đền vàng” để chỉ đến lớp vàng lá được dát lên ngôi đền này. Vào thế kỷ XV, Nữ hoàng của người Môn đã dâng tặng vàng cho ngôi chùa này. Truyền thống hiến vàng vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay, hàng năm các Phật tử thường mang theo các phiến vàng lá để dát lên bề mặt các bức tường của ngôi đền.

Page 64: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 64

Điều khâm phục nhất là ngọn tháp nhọn và mái vòm của ngôi đền được phủ đến trên 5.000 viên kim cương và 2.000 viên hồng ngọc (đặc biệt có một viên kim cương cực kỳ quý hiếm nặng đến 76 carat). Và trong ngôi đền này còn lưu giữ một quốc bảo linh thiêng nhất của Phật giáo, đó là 8 sợi tóc của Phật Thích Ca.

Đền Chion-in - Kyoto - Nhật Bản

Ngôi đền này được xây dựng vào năm 1234 sau Công nguyên, là nơi ở của nhà sáng lập hệ phái Phật giáo Jodo (Đất Lành), tên là Honen. Thủa ban đầu ngôi đền này có tổng cộng

21 tòa nhà nhưng trải qua các trận động đất và hỏa hoạn, hiện chỉ còn lại một ngôi đền duy nhất tồn tại từ thế kỷ XVII.

Du khách tham quan đền Chion-in buộc phải bước qua cánh cổng lớn nhất Nhật Bản, đó là cổng San-mon gồm có 2 tầng. Chuông của ngôi đền cũng lập một kỷ lục đáng "nể", nặng 74 tấn và vào dịp tết Nguyên Đán, người ta cần tới 17 nhà sư mới có thể đánh được quả chuông này.

Một đặc điểm lý thú của đền Chion-in là tại khu vực đại sảnh có những tiếng hát lạ vang lên. Khu vực đại sảnh này gọi là “Uguisu-bari” hay “Sảnh Họa mi”, nơi đây lắp đặt những tấm ván lót sàn bằng gỗ, hay phát ra những tiếng kêu báo hiệu những người không phận sự chớ dại dột bước vào.

Page 65: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 65

Đền tháp Borobudur - Indonesia

Vào thế kỷ XIX, người Hà Lan đặt chân đến Indonesia đã khám phá ra một di tích cổ xưa nằm ẩn sâu trong những cánh rừng già ở đảo Java. Di tích cổ xưa đó là quần thể đền tháp Borobudur, một tác phẩm kiến trúc khổng lồ được xây dựng với gần 55.000 m³ đá các loại.

Tại quần thể đền tháp này, người ta khám phá có đến gần 2.700 tác phẩm phù điêu nhiều hình dạng và khoảng 504 bức tượng Phật. Một số học giả tin rằng đền Borobudur thật sự là một tác phẩm

Phật học vĩ đại, những bức họa phù điêu mô tả gần như đầy đủ về đời sống của Phật Thích Ca và các tác phẩm kinh kệ. Để khám phá các bức kinh kệ này, các tín đồ hành hương, cần đi hết 9 căn phòng khác nhau với chiều dài trên 2 dặm.

Đền thần Vishnu Srirangam - Ấn Độ

Ngôi đền Srirangam nằm ở thành phố Tiruchirapalli (hay Trichy), là ngôi đền Hindu lớn nhất thế giới, thậm chí còn lớn hơn cả Angkor Wat. Đền thờ thần Vishnu, một trong 3 vị thần tối cao của đạo Hindu. Truyền thuyết kể rằng, ngày xửa ngày xưa, có một nhà hiền triết đã nghỉ ngơi và đặt một bức tượng thần Vishnu dựa lưng trên một con rắn lớn. Khi ngài chuẩn bị cho một chuyến đi xa, thật lạ con rắn đứng yên không nhúc nhích, ngài bèn xây một ngôi đền lên trên con rắn này.

Hàng thế kỷ trôi qua, ngôi đền ngày càng phát triển về quy mô kèm thêm một số ngôi đền khác. Quần thể ngôi đền này khá hoành tráng, nó bao phủ một diện tích rộng trên 63 ha với 7 bức tường đồng tâm, bức tường ngoài cùng dài 4 km. Mỗi bức tường này tách biệt với bức tường khác, tất thảy đều đậm sắc thái linh thiêng.

Ngôi đền Srirangam khá nổi tiếng bởi những kim tự tháp rực rỡ màu sắc có lối vào nằm ngầm dưới mặt đất. Tổng cộng toàn thể đền tháp này có tất cả 21 kim tự tháp như thế, trong đó kim tự tháp lớn

Page 66: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 66

nhất gồm có 15 tầng, và cao tới 60m.

Angkor Wat, Angkor Thom và đền Bayon - Campuchia

Angkor Wat và Angkor Thom không phải là ngôi đền lớn trong lịch sử, nhưng nó đã từng được Hollywood sử dụng làm hình mẫu trong các siêu phẩm điện ảnh. Angkor Wat được xây dựng vào đầu thế kỷ XII tại Campuchia. Lúc đầu đây là nơi thờ tự của đạo Hindu, chủ yếu thờ thần Vishnu. Trong khoảng các thế kỷ XIV hay XV, là thời kỳ mà Phật giáo truyền bá khắp châu Á thì Angkor Wat trở thành ngôi đền Phật giáo khá nổi tiếng.

Thế giới chỉ biết về Angkor Wat khi vào thế kỷ XVI, có một nhà sư người Bồ Đào Nha viếng thăm ngôi đền này và đã hùng hồn mô tả: “Thật khó có thể viết lên những gì để nói lên vẻ đẹp thanh thoát và hùng vĩ của Angkor Wat, và cũng không có công trình kiến trúc nào trên thế giới như Angkor Wat. Những tòa tháp cao ngất là những gì mà con người có thể vinh danh để nhìn ngắm nó”.

Du khách tham quan Angkor Wat thường tham quan cả Angkor Thom và đền Bayon. Hai công trình kiến trúc này nói lên giá trị văn hóa rực rỡ của đế quốc Khmer xa xưa.

Nguồn Admin http://www.phoquang.org

Page 67: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 67

Văn bút Dõi nhìn xa xăm Ngày tháng ba thơ buồn khô nắng hạn Dòng sông mơ thoi thóp giữa bình minh Đời thiêu đốt những ước vọng mông mênh Còn trơ đá lấp cõi tình vụng dại. Thơ cùng tận chết ngày tàn khắc khoải Vần yêu thương dìm tận đáy địa cầu Lời khát khao chìm xuống đáy vực sâu Còn lại đó ngày thiên thu buồn tẻ. Đời cách ngăn nên ta nhiều lối rẽ Lạc nhau rồi âm vọng giữa mê cung Ta cho nhau đôi lời cuối ngại ngùng Khô bút mực xếp tàn phai gởi gió. Hỡi càn khôn sao xoay vần bến đỗ Để tình người trôi mãi giữa phù sinh Duyên bèo nước cứ còn mãi lênh đênh Hư hao mãi một cuộc tình dâng sóng. Nơi đêm thâu ai chong đèn soi bóng Viết vần tình cho vũ trụ thêm vui Phía nơi xa ai mãi luống ngậm ngùi Tuôn lệ chảy mong sông xưa đầy lại. Tháng năm trôi ta chờ gì xa mãi Hoài công chi nơi dốc gió mù sương Đến khi nao mới khai lộ thông đường Quay trở lại cùng niềm vui sơ khởi? Xuân nhà ai trắng đơn mù gió thổi Co ro đêm bên vần cạn thơ suông Xuân bên ta còn đốt cháy nỗi buồn Thơ cùng nắng mà khô lòng mong đợi. Dõi mắt trông, phương xa buồn vời vợi Thơ khô dòng. Tim héo hắt xa xăm Phải tình ta chỉ như hòn đá lăn Qua năm tháng để tan thành cát bụi? Triều Âm 100308

Đêm nghiêng Xơ xác cành thu chiếc l á gầy Nhạt nhoà bóng nguyệt nhẹ heo may Cung thương dìu dặt mơ hồ vọng Nỗi nhớ đong đầy chất ngất say Ngõ trúc quanh hiu hồn ngỡ lạc Lối em mờ mịt mắt sao cay Đêm nghiêng trở giấc sầu lai láng Lỗi nhịp đường tơ nuối tiếc đầy. Bạch Khuê Bút Đồng quê Hoàng hôn nhuộm chín cánh đồng Lũ chim về tổ ta không lối về Nhặt trong sương khói đồng quê Lời ru của mẹ bốn bề mưa giăng. Hữu Cán

Page 68: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 68

Mái nhà thơ Ai cho tôi một nhà quê Để khi lỡ bước lại về với nhau Từ dòng sông đến nhịp cầu Trời quê đâu cũng xanh màu nguyên sơ Ai cho tôi một hồn thơ Thay tay vịn phút bất ngờ ngửa nghiêng Nương vần điệu để đứng lên Nghìn hoa mộng lại nở trên tiêu điều Ai cho tôi một tình yêu Trái tim gió lộng cánh diều trái tim Được mơ mộng đến hão huyền Sóng duềnh lên… sóng duềnh lên… điệu vần! Ai cho tôi một tình nhân Cầm tay tha thiết trăng rằm mùa xưa Khóc cười chỉ một dây tơ Qua dòng sông cạn đâu bờ bến xa Ai cho tôi một mái nhà Từ trong trầm tích bước ra cõi người Cảm ơn đời đã cho tôi Phiêu bồng thơ đến tận nơi phiêu bồng. Trần Ngọc Hưởng Thôi thì nhớ thương Người chào năm tháng rồi đi Lòng ta nhỏ dại thôi thì nhớ thương Rừng ngàn thoang thoảng mi hương Người đi miên viễn con đường nhân gian Tan vào giây phút âm vang Đôi hạt sương giữa muôn vàng mây bay Ta cùng già cỗi với cây Mai kia cây hãy tàn ngày xa xăm Ta cùng chảy với tình sông Mai kia sông sẽ ngã dòng thời gian Ta cùng trời đất lang thang Mai kia tắm gội vô vàn bình yên. Hoàng Phúc A Khuê

Một câu nói người xưa “Rồi con vua sẽ thua con Phật” Dẫu một thời sự thật đắng cay Dẫu một thời chim lặng tĩng trong cây Và vẫn trăm việc thường ngày trên vai gầy mẹ gánh Mẹ tần tảo nuôi con không quản gì mưa nắng Và dạy con nên người bằng chính chữ tâm Con của mẹ giờ tóc nhiều sợi bạc Đã vượt qua bao sóng gió thăng trầm… Mẹ! mẹ ơi! Con vua cũng thua con Phật Câu nói người xưa giờ con thấy thật rồi Câu nói người xưa giản dị ít lời Mà mãi đến cuối đời con mới hiểu. Trần Duy Lý

Tâm sự chiều thu Chiều thu lác đác lá vàng rơi Tâm sự chia ai nẻo cuối trời Bến nghĩa trang hoa tờ lụa trải Thuyền tình nét bút cánh thơ trôi Hình gieo mặt sóng theo con nước Bóng ngả chiều sương phủ núi đồi Sâu lắng tâm tư hồn giá lạnh Niềm riêng thôi thúc mạch trào khơi. Nguyễn Lý (canada)

Page 69: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 69

Thu ngàn khơi (Hoạ bài Tâm sự chiều thu cùa Nguyễn Lý) Phố tàn thu lá úa còn rơi Rút nhớ đan thơ mịt góc trời Những muốn gửi theo lời gió bạt Mà thôi đành thả sóng dòng trôi Miệt mài gót lữ mòn cung dặm Bằn bặt hương quê biệt biển đồi Ngoảnh lại sầu miên nhoà lối hẹn Đành mơ tương ngộ giữa ngàn khơi. 2.2005 Bảo Nguyên Tạc tượng Nhặt đá vùi quên ở vệ đường Ta về gột rửa dấu phong sương Tìm trong vết nứt màu hoang phế Thấy giữa vân hoa sắc đoạn trường Tạc nỗi buồn xưa lên thạch thảo Ghi niềm vui cũ xuống sa cương Mai sau núi lở sông hồ cạn Tượng trắng bên đời vọng cố hương. Đoàn Thuận

Khi Về Khi về đổi họ thay tên Núi trùng bóng tủi sông ghe cạn giòng Sông nào còn chảy đợi Ta về gội tóc mây Đường nào còn nằm đợi Ta về in dấu giày Núi nào còn vững đợi Ta về dựa lưng đơn Trăng nào còn sáng đợi Ta về soi mặt buồn Mái tranh nào đứng đợi Ta về nhóm lửa xưa Gối chăn nào ấm đợi Ta về ủ hương thừa Sân trường nào vẫn đợi Ta về nhặt tuổi thơ Giáo đường nào mở đợi Ta về hồn dại khờ Bạn bè nào còn đợi Ta về từ ăn năn Người tình nào còn đợi Ta về khóc trong lòng. Trần Mộng Tú

Page 70: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 70

Ngày xa Sài Gòn Đã cố dặn lòng không được khóc Mà sao nước mắt vẫn đong đầy! Không gian nối Sài Gòn, BangKok Chỉ một giờ, đã thăm thẳm đường mây! Vẫn còn nghe tiếng sụt sùi đâu đó Như bồi hồi nhớ phút cuối tiễn đưa Vẫn còn những thâm quầng trên mắt đỏ Chuyện ly tan buồn ơi nói sao vừa!? Vài giờ trôi tưởng chừng xa xôi lắm Những buồn vui, kỷ niệm một đời qua Trời Thái Lan trong màu nắng chiều tà Càng gợi nhớ Sài Gòn vừa xa cách . Dù đang thở hương lành trời đất khách Vẫn nghẹn ngào một nỗi nhớ không tên Mái trường xưa, khu phố cũ êm đềm Và nhớ qúa: thời hoa niên, mộng tưởng! Một chuyến bay, tương lai chưa định hướng Một đoàn người ngơ ngác đón Tự Do Bao nhiêu năm, ngày đêm sống âu lo Bờ bến mới như mơ chưa tỉnh giấc . Chưa vui đòan tụ đã coi như mất Nửa đời người và mảnh đất quê hương Sài Gòn ơi, trên lữ thứ dặm trường Sẽ nhớ mãi trời thân thương, dấu ái! Huy Văn

Xuân tha hương Trời đã mạnh đông trên đất lạ Xám mây mong gặp nắng trưa vàng Cây gầy trơ lá rơi im lặng Chim trốn về đâu tắt tiếng vang Trong phòng mở đọc thư mùa buốt Bạch tuyết hoàng hoa lửa đã tàn Chữ cũng run run vì nét nhạt Mà niềm hoài cảm thoảng hương lan Ôi nhớ bao nhiêu về chốn cũ Lúa chiêm vườn chuối bến sông dài Thương đò ngang ngủ bèo trôi khuất Ngọn núi chờ ôm ánh nắng mai Anh ở đây càng dâng nỗi nhớ Mái đình đụn rạ đám bò trâu Chuông chùa nghe vọng bên thành giếng Tưởng tuợng em qua mấy nhịp cầu Ai hát mời xuân đang trẻ lại Để hồng môi thắm với hương mơ Nước non thề hẹn ngày vui gặp Quên mọi ngày đông – én liệng chờ.

Hà Trung Yên (giorgia)

Page 71: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 71

Truyện ngắn

Vâng, đúng thế, thưa các bạn. Lần ấy tôi đã bị thua. Tôi sẽ kể tỉ mỉ câu chuyện ấy. Các bạn tin tôi đi, tôi thua với tỉ số kỷ lục 0-6 ! Khốn nỗi tôi thua chẳng phải vì bất lực trước những quả penalti. Dường như từ những cú sút đâu đâu của người ta mà quả bóng nó cứ hút vô khung thành của mình…

Tôi quen Phương, người được sắp đặt ngồi kế tôi trong một buổi chiều sinh nhật của Lâm. Đó là một người đàn ông trạc bốn mươi. Trông anh ta rất bình thường như chưa bao giờ tôi gặp ai có nét bình thường hơn thế. Hôm ấy, tôi phải hoàn tất hai nghĩa vụ: một là giúp vui cho chủ toạ, hai là gây ấn tượng cho tân nhân. Sự việc diễn ra tốt đẹp như bao lần dự sinh nhật, bao lần quen bạn mới. Lúc chuẩn bị ra về chúng tôi cho nhau cái địa chỉ gọi là thủ tục. Chợt Phương sửng sốt nhìn tôi:

- Cái địa chỉ này nghe quen lắm, tôi chắc là tôi có biết rành nhà cô đó.

Tôi nực cười như vừa đọc xong một tiểu phẩm:

- Lạ thật, con hẻm nhà tôi tuy rộng, nhưng chỉ có người trong xóm qua lại, sao có thể có một “thám tử tư” đi lạc vậy kìa.

Vậy là chúng tôi đánh cuộc với nhau. Sáng hôm sau Phương sẽ đến nhà tôi. Nếu anh chứng minh được điều vừa nói thì tôi sẽ thua, bằng không chứng minh được thì anh thua. Về điều kiện chung cuộc tôi để Phương đề xuất. Các bạn có tưởng tượng được không? Anh ta đã nói “Nếu cô thua, tôi sẽ yêu cầu cô làm một việc gì đó cho tôi, còn cô thấy quá khả năng thì cô có quyền từ chối cũng không sao”. Riêng tôi hơi bị sốc bởi cái đòn này. Để chứng tỏ mình không lép vế đồng thời cũng không chơi trội, tôi cũng đưa ra một cái giá… ngược lại!

Thế rồi… Sáng hôm sau và nhiều hôm tiếp theo, Phương không đến. Tôi bỗng thấy mình hối tiếc. Tiếc rằng Phương đã ngại gặp lại tôi vì thua cuộc. Tôi biết tỏng tòng tong là anh ấy thua rồi. Thua mà sợ chung cuộc nên có muốn đến cũng không dám

Bảo Anh

Page 72: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 72

***

Một tháng sau Lâm mời tôi đến dùng cơm gia đình. Là bạn thân với nhau nên tôi không đành từ chối mặc dù tôi rất buồn chán, chẳng muốn trở lại cái nơi có duyên không nợ ấy. Đến rồi mọi người hỏi thăm thắng thua tôi biết nói sao đây… rõ khổ. Cuối cùng tôi cũng đến đúng như lời mời. Không khỏi ngạc nhiên khi thấy nhà Lâm vắng lặng như sẽ chẳng có bữa cơm nào, tôi ngập ngừng hỏi nhỏ:

- Sao chẳng có ai vậy, người nhà đâu cả?

- Hôm nay chỉ dành cho ba chúng ta thôi, cả nhà đi Long Hải nghỉ mát rồi.

- Thế còn nhân vật thứ ba?

- Bí mật, chờ chút.

Có tiếng xe ngoài cổng. Lâm ra đón. Tôi chẳng muốn biết đó là ai nên cứ ngồi thẫn thờ. Chợt một bàn tay chìa ra trước mặt:

- Chào cô bạn.

Tôi bật thẳng lưng, choáng váng không khác lần nghe cái giá đánh cuộc trái tai nọ.

- Chào anh - Tôi cố làm ra tỉnh như không - Hôm nay anh đến để chung cuộc cho tôi ?

- Ngược lại đó cô bạn.

Tôi nhìn Phương bằng một con mắt rưỡi.

- Phải đấy, cả tháng rồi còn gì? Người ta có thể tìm hiểu tường tận sự việc nào đó trong vòng chỉ một ngày.

Lâm bước ra lởi xởi:

- Thôi mời các bạn sang phòng bên dùng cơm gia đình ba chúng ta đi chứ.

- Gia đình ba chúng ta! - Tôi cười nói nửa đùa nửa thật - Vậy là hôm nay nấu cơm để kết nghĩa anh em há.

- Để xem hai bạn phân tranh thắng bại rồi mới kết nghĩa thế nào chứ.

Bữa ăn do Lâm đạo diễn thật đơn sơ, nhưng rất gợi nhớ cái ngày sinh nhật hôm nào. Phương gắp thức ăn cho tôi vừa hỏi:

- Sao cô bạn, nếu như cô thua

- Có phải không đó

- Giả sử đã nào

- Thôi được cứ hãy giả sử đi

- Giả sử như cô thua, tôi nhờ cô làm cho tôi việc này

Phương cẩn thận lấy trong túi áo ra một chiếc móc tai và chiếc díp

- Có được không ?

Page 73: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 73

Tôi thật sửng sờ trong tình huống này. Hơn hai năm qua tôi đã không là việc ấy cho ai. Giờ phút này, đối diện với những hành động của Phương, một nỗi nghẹn dâng lên trong lồng ngực.

- Sao cô bạn?

Tôi chột dạ nhìn Phương dò xét

- Tôi thật không hiểu ý anh

- Được rồi nghe tôi kể đây, nhưng cấm cô bạn khi chưa có lệnh của tôi thì phải án binh bất động đó nghe.

Rồi, trong ánh mắt thân tình, anh kể cho chúng tôi nghe câu chuyện của anh, hay của ai (?) hồi ba năm về trước.

***

“Ngày ấy tôi vẫn hằng đạp xe đi về tắt qua Phú Lâm bằng con hẻm 47. Mỗi chiều ghé qua ngã ba hẻm có mấy cây dừa rũ bóng là tôi vẫn không quên để mắt vào một ngôi nhà. Ngay ngã ba ấy là một căn nhà lầu bốn tầng kiến trúc tinh xảo. Nhưng không, căn nhà lầu ấy không có gì cho tôi quan tâm, mà kế bên đó có một căn nhà trệt mái tôn hiền hoà lẫn khuất sau nhiều bóng cây râm mát.

Ngoài hàng rào, buội chuỗi ngọc rung rinh khoe những chùm quả như những trái tim vàng. Bên trong là khóm trang lúc nào cũng đỏ rực trang nghiêm. Ngó qua là một gốc xoài, có lẽ là một cây to nhất xóm vươn tàng lá xanh lá đỏ quanh năm. Bên dưới gốc xoài lúc

nào cũng là một cái ghế bành kiểu xưa và một chiếc ghế con. Trên hai chiếc ghế ấy là một đôi nam nữ. Chắc là một đôi vợ chồng, vì thỉnh thoảng tôi có thấy một bé gái độ ba bốn tuổi, khi thì tung tăng khắp sân, khi thì nhào lên mình người đàn ông, khi thì dục dặc cánh tay người đàn bà. Cô vợ trẻ ấy thỉnh thoảng móc tai cho chồng, hoặc xới trên tóc chồng ý chừng tìm tóc bạc. Còn thường thì mỗi người một tờ báo, quyển sách trên tay, hoặc cùng quây quần bên mâm trà đặt kế hòn non bộ.

Do một khoảng cách khá xa, họ lại quay mặt vào trong, nên tôi chẳng bao giờ nghe họ nói với nhau những gì, chẳng rõ dung mạo họ ra sao. Nhưng hơn một năm trời qua lại, tôi mỗi ngày chứng kiến cái cảnh đầm ấm đó rồi chợt thèm khát một mái ấm mà gần bốn mươi tuổi đời tôi chưa hề có lúc tưởng tượng tới. Bạn gái tôi cũng từng có, nhưng tại tôi hay tại họ mà lần lượt họ ra đi chưa kịp để lại vài kỷ niệm.

Rồi bỗng một hôm và nhiều hôm kế tiếp, rồi mãi mãi về sau tôi chẳng còn thấy đôi vợ chồng ấy quây quần bên nhau nữa. Giậu chuỗi ngọc vẫn đơm hoa kết quả nhưng trông rời rạc như những quả tim tan vỡ. Khóm trang vẫn nở hoa đỏ trang nghiêm nhưng chúng đứng lặng câm như những chùm hoa giả. Con bé một mình ngồi chơi dưới gốc xoài, thỉnh thoảng ra cổng đứng ngẩn ngơ nhìn người qua lại. Người thiếu phụ lâu lắm mới thấy ra sân cùng đứa bé ngồi viết gì đấy. Tóc nàng ngày một dài hơn như không buồn cắt tỉa.

Page 74: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 74

Từ đó nỗi cô đơn hoang vắng vốn đã man mác nay lại choáng ngập hồn tôi. Tôi chẳng biết vì sao người ta không sống với nhau như xưa nữa. Trước cảnh đời vô thường đó, tôi thấy tương lai mình mờ mịt như chính tôi vừa đổ vỡ một đời hạnh phúc. Trong suốt đoạn đường đi về, tôi cố tìm một hình ảnh đầm ấm tương tự. Và không, ấn tượng tuyệt vời kia không bao giờ tái hiện ở một đối tượng nào khác.

Hơn một năm nay tôi đã đổi chỗ làm, không còn đi về trên con hẻm 47 và đi qua ngôi nhà thân thương đó nữa. Nhưng mỗi khi hồi tưởng, cảnh xưa vẫn diễn ra rõ ràng trong tâm thức tôi như chuyện mới hôm qua. Nó mới như cái hôm cầm đọc địa chỉ của em. Tôi đâu cố thuộc lòng số nhà của đôi vợ chồng kia, nhưng những con số này buộc tôi phải xác định là của ngôi nhà ấy. Nhưng lẽ nào cô gái bên tôi lại chính là người thiếu phụ năm nào.

Sáng hôm sau ngày sinh nhật Lâm, tôi dạo lại cái xóm cũ thì… trời ạ! Cái dáng gầy gầy, mái tóc dài dài.. đúng là em. Vậy định mệnh nào đã đưa em đến bên tôi? Cái điều tôi khao khát khi xưa bây giờ lại hiện diện bên tôi như hư như thực. Còn em thì sao? Tại sao em phải sống cô đơn sau những chuỗi ngày hạnh phúc? Tôi quả thiếu can đảm để gõ cửa nhà em… Cho đến hôm nay, Lâm đã cho tôi bữa cơm này. Ê cô bạn, đã cấm mà… sao lại khóc?”

Tôi, chính tôi chứ không phải ai khác đã khóc ngọt ngào khi được anh đưa về dĩ vãng. Tôi khóc, những giọt lệ từ

lâu uất nghẹn nay bỗng nhẹ nhàng tuôn chảy như chẳng hề biết mình đang khóc.

Lâm thở dài bước ra, tôi ngước lên nhìn Phương. Dường như anh đã chờ đợi tôi rất lâu với chiếc khăn trên tay tự bao giờ. Đưa khăn vào sát mắt tôi, anh khẽ khàng:

- Xin lỗi, Đã đến nước này, em hãy nói đi, nói những gì bấy lâu nay em chưa thể nói

Tôi chẳng muốn giải bày, nhưng kìa ánh mắt của anh sâu thẳm bao dung quá. Tôi như đang rơi rớt vào cái thế giới vô tận ấy nên biết rằng dù muốn hay không, ít nhất một lần tôi phải đối diện với tâm sự của mình khi được ngồi bên anh.

- Thế… em có chịu chung cuộc cho tôi không?

***

Các bạn biết không, cứ mỗi lần sốc hay choáng là môt lần tôi thấy mình thua cuộc. một lần sững sờ hay hối tiếc là một lần thua cuộc. Đương nhiên thua cái chuyện đánh cuộc nữa, tất cả là sáu lần thua cuộc. Thật là dễ sợ. Tôi đã tường thuật cho các bạn trận thua cuộc ấy. Chắc các bạn muốn tôi kể nữa chứ gì? Khổ quá, đó là một câu chuyện khác rồi.

Đúng vậy, tôi, một thủ môn rách việc và anh chàng nghệ sĩ cầu thủ tên Phương ấy sau đó thế nào lại là một câu chuyện khác.

Page 75: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 75

Thơ hôm nay

Thợ vẽ Dăm nét bút hiện hình sông núi Đôi cọ khua lồ lộ gió trăng Trước chiếc giá dành riêng tranh hiền mẫu Mài ngón con rời rã mãi chưa xong. 2005 Hải Lý Anh

Về hát đồng dao Hạt lúa nứt ra cuộc đời vừa thức giấc Chuỗi bồn bồn sum họp những con sóc từ tâm Ta cưỡi trâu ngao du trên sóng lúa rập rờn Hát đồng dao nghe chồi non đâm lộc biếc. Nguyễn Vũ Anh

Page 76: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 76

Mật mã chiều Chiều gương mặt con gái mật mã buồn lũ chim bay tìm màu lục phương nao không về đậu thầm thỉ hót hoàng hôn mái phố Chiều âm âm chuông chùa viễn xứ cánh tay trần ướt bài ca gió buồn giam chân ngõ cụt màu mây lạnh rượu cay, môi mềm con kiến tha ngọn đắng ngày cũ những xù xì hoi hóp, quên thôi Chiều đã kết thúc hay chỉ bắt đầu mệnh đề lại tái sinh từ tiếng khóc & nụ cười những gãy khúc một tư duy tình Chiều cánh chim bay qua không vệt tích Quỳnh Dao

Page 77: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 77

Tuổi 51 Bên kia sườn cuộc đời Nhìn lại mình Thơ không hay Rượu chưa say Không biết cách làm giàu Không năng khiếu chỉ huy Phải chăng ? Nợ trần gian chưa trả ! Trần Duệ

Tiếng em cười Giữa đêm trùng mờ mịt Ta nghe tiếng em cười Bỗng giật mình tỉnh giấc Hừng đông cũng theo về. 14.10.09 Trần Linh Khoa

Page 78: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 78

Không đề Thế nhân đốt nỗi ngậm ngùi Ta em cùng thả khói khơi vơi Đục trong giăng mắc lưng trời Mây bay ngang độ lượng cuốn trôi. 08.10.06 Thái Thanh Nguyên

Dấu xưa Con nghê đá tạc vào cổ tích Giương mắt buồn như thầm nhủ gì tôi Cổng đã khép – một thời xưa cũng khép Dấu rêu phong trên thành quách ngậm ngùi. Ngàn Thương

Page 79: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 79

Toàn tập Nhân chủ đề chào mừng Việt Nam 1000 năm Thăng Long và 100 năm Quốc tế phụ nữ, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu đến Quý độc giả thi tuyển Sương bờ liễu hạnh với sự góp bút của nhiều thi sĩ trong và ngoài nước do Thái Thanh Nguyên tuyển chọn. Sau Sương bờ liễu hạnh 1 - 72 tác giả - 180 trang bìa mềm xuất bản năm 2006, Sương bờ liễu hạnh toàn tập - 108 tác giả - 300 trang bìa cứng, sẽ được nhà xuất bản Thanh niên tiếp tục phát hành tại Việt Nam trong quý 2 năm 2010. Kính mời Quý độc giả hết lòng ủng hộ. Khúc giao từ Ngọt ngào nôi ru suối nguồn vi diệu yêu thương, hương quả thị thơm như lòng bà mênh mang cổ tích… Cánh cò lặn lộn theo ca dao tảo tần gánh quang kẻo kịt, tình mẹ như sông độ lượng phù sa… Vành môi non cố tròn từng tiếng ê a, từng bước lon ton vấp hoài theo chân cô giáo… Bóng chiều cũng phải nghiêng vì chị ngồi vá áo, quên cả tuổi xuân vì em nhỏ mẹ già… Chiếc lá “diêu bông” ai đi tìm ở mịt mờ xa, nỗi khát khao buộc đá nở hoa cho tình yêu hiển thánh… Họ là những sông hồ thầm dòng lặng nhánh, chảy qua đời người thăm thẳm lo toan… Họ là hành trình yêu thương của từng kiếp đò ngang, nhận thua thiệt và trao đi hạnh phúc… Họ là những người hát tình ca dẫu đời sâu hố vực, đem bao dung hóa giải những niềm đau… Họ của bây giờ của nghìn năm trước vạn năm sau, bước vào thi ca thành tượng đài thủy chung nhân hậu… Xin dong cánh buồm thơ đi về phía ngợi ca giang tấu, phía chân trời vô biên vô tận của quên mình. Ngôn từ luôn bất lực trước ý nghĩa của hy sinh. Và thơ ca cũng sẽ mãi ngô nghê khi gieo vần sương bờ liễu hạnh… Nguyễn Liên Châu Tựa Mẹ là một hình tượng vô cùng lớn lao, lớn đến không thể lấy bất cứ điều gì để so sánh được. Nếu muốn nghĩ ta là một tiểu vũ trụ thì có thể nói ngay mẹ là đấng tạo hóa của cái ta này - Do đó, mẹ luôn là một nỗi niềm bất khả thuyết. Chỉ bởi sự hữu hạn của con người, nên nỗi niềm ấy không giữ được mãi trong lòng nên có lúc phải òa ra rồi cần chia xẻ, cần diễn đạt… Vì vậy, người ta mới tạm mượn vài hình ảnh để ví với người mẹ vĩ đại của mình như : Suối nguồn, Thái Bình Dương, cô tiên, cánh cò trắng, những loài hoa đẹp nhất trong

cảm nhận… Người mẹ của đứa con cũng là vợ của chồng, sẽ là bà của cháu, đã từng là con gái của cha và đôi khi hóa thân thành những cô giáo trong cuộc đời… Người phụ nữ nói chung đã từng là điều rất lớn trong một vài ai đó. Cuộc đời người phụ nữ thường tuôn đổ chứa chan mồ hôi và nước mắt. Các loại nước này không bao giờ tan mất mà biến hóa thành làn sương làm thấm đẫm cỏ cây, làm mượt mà cảnh vật, làm nhu nhuận sự gay go nóng bỏng, làm nhựa sống cho những hình tượng mạnh mẽ hiên ngang…Và thơ ca hiển nhiên được viết lên để ca tụng, bao nhiêu cũng chẳng đủ, thế nào cũng chưa

Page 80: Dan trang

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 1 * 4-2010

Trang 80

toát… Không dám nói đây là một tuyển tập hay, những vần thơ chân thành của 108 tác giả chỉ mong làm một món quà nhỏ kính quý tặng những con người xinh đẹp, đảm đang, rộng lượng… như cây hạnh cây liễu oằn mình bên bờ sóng gió để chở che cho niềm hạnh phúc, thương yêu. Không riêng là ngọn nến của gia đình, người phụ nữ còn đóng góp rất nhiều cho sự tồn tại và tiến triển của xã hội. Từ đó đã tỏa sáng những sự kiện, những tấm gương lớn đi vào lịch sử. Sương bờ liễu hạnh, nội dung không chỉ gói gọn trong tình thân tộc mà còn gửi đến bạn đọc những vần thơ dành cho người phụ nữ của dân tộc Việt Nam.

Thái Thanh Nguyên Vài vần thơ trong Sương bờ liễu hạnh

Thưa mẹ thưa mẹ ! mai con đi… bếp lửa người chiết lệ dòng sông trôi mây lượn nhớ câu thề bóng mẹ hiền mòn mỏi phía trời quê sầu chín rã hoài mong con trở lại… nhưng mẹ ơi ! đường đời là quan ải chết vì quê sống… trẻ hẹn quay về ! Vũ Đức Tô Châu

Ánh sáng mẹ tặng Phạm Trần Ánh mẹ ơi ! hơn hai mươi năm trong không gian âm u sầu thảm bóng mẹ như ánh sáng mặt trời vẫn lời âu yếm trong nôi vẫn làn ru nhẹ xanh lời nước non mẹ ơi ! mẹ ơi ! mẹ ơi ! mẹ ơi ! mẹ đã về trời bước đi xóa hết luân hồi thế gian. Cấn Đằng Phi

Tình đời thôi ! ta đừng nhắc tình đời vấn vương nỗi nhớ một thời áo bay bây chừ ngà ngọc vàng phai uyên ương lầu cát mắt nai hao gầy thôi mình ôn lại tình này tóc mây một mái đã đầy tuyết sương. Triệu Nguyên Phong

Chợ ngã ba Trước hàng rau quả đầy mơn mởn ngần ngừ hóa chất phun chăm ? hàng gà dài chật lồng, phơi phản giùng giằng dây vướng H5… ? thủ, dò kia ngờ ngợ lở, long ? mợ đứng như trồng ngã ba đường khôn dại !… Đặng Ái Thi

Thơ cho các vĩ nhân hỡi các vĩ nhân lớn lên trên vai của mẹ đầu vươn cao đụng đến đỉnh trời xin hãy nhìn xuống đôi vai trần bé nhỏ nỗi đau gánh gồng bầm tím giọt mồ hôi. Thanh Trắc Nguyễn Văn