danh sÁch thÀnh viÊn tham gia ĐỀfiles.ubdt.gov.vn/files/ecm/source_files/2020/12/23... ·...
TRANSCRIPT
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA ĐỀ TÀI
1. PGS.TS Lê Văn Lợi, Học viện CTQG Hồ Chí Minh (Chủ nhiệm)
2. TS. Nguyễn Duy Sơn, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
3. PGS.TS Vũ Công Giao, Đại học Quốc gia Hà Nội
4. TS Vũ Trường Giang, Học viện Chính trị khu vực I
5. TS Trần Thị Thu Hiền, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
6. TS Trần Thị Hòe, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
7. PGS.TS Tường Duy Kiên, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
8. PGS.TS Nguyễn Thị Ngân, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
9. PGS.TS Phạm Minh Tuấn, Học viện Chính trị khu vực II
10. PGS.TS Trần Trung, Học viện Dân tộc
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CEDAW : Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, 1979
CERD : Ủy ban giám sát Công ước về loại trừ mọi hình thức phân biệt
đối xử về chủng tộc
CRC : Công ước về quyền trẻ em, 1989
CSSKBM : Chăm sóc sức khỏe bà mẹ
DTTS : Dân tộc thiểu số
HDDT : Hội đồng Dân tộc của Quốc hội
HĐND : Hội đồng nhân dân
ICCPR : Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, 1966
ICERD : Công ước quốc tế về loại trừ mọi hình thức phân biệt đối xử về
chủng tộc, 1965
ICESCR : Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, 1966
LHQ : Liên hợp quốc
UBDT : Ủy ban Dân tộc
UBND : Ủy ban nhân dân
UDHR : Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, 1948
UNDP : Chương trình Phát triển Liên hợp quốc
UNESCO : Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc
UNICEF : Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc
UPR : Cơ chế Rà soát Định kỳ Phổ quát
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VÀ THỰC TIỄN VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG BỐI CẢNH
TOÀN CẦU HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU
SỐ TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc bảo đảm quyền của các
dân tộc thiểu số trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
a. Khái niệm bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số
* Về khái niệm "Dân tộc", "Tộc người", "Dân tộc thiểu số" và "Dân tộc
bản địa".
- Dân tộc (tiếng Latinh: Nation) và tộc người (Ethnie/Ethnic): Ở Việt
Nam, khái niệm dân tộc được dùng khá phổ biến với hai hàm nghĩa: (i) để chỉ
quốc gia hay đất nước tương đồng với thuật ngữ nation (quốc gia) trong tiếng
Anh, như dân tộc Việt Nam, Trung Quốc,...; (ii) để chỉ một cộng đồng tộc
người cụ thể (như Ethnic/Ethnie trong tiếng Anh) cùng chung tên tự gọi, tiếng
nói (hay cả chữ viết) và văn hóa, như: dân tộc Thái, dân tộc Mường. So với bộ
tộc thời phong kiến1, dân tộc trong thời kì phát triển tư bản chủ nghĩa và xã
hội chủ nghĩa có lãnh thổ ổn định, tình trạng cát cứ bị xoá bỏ, có nền kinh tế
hàng hóa phát triển, thị trường quốc gia hình thành thống nhất, các ngữ âm,
thổ ngữ bị xoá bỏ, tiếng thủ đô được coi là chuẩn và ngày càng lan rộng ảnh
hưởng, giảm sự cách biệt về văn hóa giữa các vùng, miền và giữa các bộ phận
của tộc người, ý thức về quốc gia được củng cố vững chắc. Còn khái niệm tộc
người là thuật ngữ dùng để chỉ một cộng đồng gồm những đặc trưng chung về
nguồn gốc tộc người, ngôn ngữ, văn hóa nhưng không nhất thiết phải cư trú trên
cùng một lãnh thổ hay dưới sự quản lý điều hành của một Nhà nước với những đạo
luật chung. Theo cách hiểu như vậy thì trên thế giới hiện nay, đa số các quốc gia
(dân tộc) đều là quốc gia có nhiều tộc người. Trong đề tài này, khái niệm Dân tộc
được hiểu theo nội hàm của thuật ngữ Tộc người (ethnie/ethnos).
1 https://luatminhkhue.vn/dan-toc-la-gi---khai-niem-ve-dan-toc.aspx (truy cập ngày 18/01/2020)
2
- Dân tộc thiểu số: Trong khi khái niệm "người thiểu số" ít được sử
dụng thì khái niệm "Dân tộc thiểu số" được dùng phổ biến trong các văn bản
chính thức của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Theo Từ điển bách khoa Việt
Nam, DTTS là "dân tộc có số dân ít (có thể có hàng trăm, hàng nghìn cho đến
hàng triệu) cư trú trong một quốc gia thống nhất có nhiều dân tộc, trong đó có
một dân tộc có số dân đông nhất". Như vậy, ở nước ta dân tộc Kinh là dân tộc
đa số, 53 dân tộc khác là các DTTS.
- Dân tộc bản địa: Quan điểm của Việt Nam khác so với quan điểm của
các tổ chức Liên hợp quốc, đặc biệt là của Cao Uỷ Liên hợp quốc về Người Tị
Nạn, Ngân hàng Thế giới, Diễn đàn Thường trực của Liên hợp quốc về Các
Dân tộc Bản địa (UNPFII)...) cho rằng, hầu hết các nhóm DTTS của Việt Nam
là các dât tộc bản địa. Vì vậy, cần khẳng định ở Việt Nam hiện nay không có
dân tộc nào là "dân tộc bản địa" mà tất cả các dân tộc đều là chủ nhân của dân
tộc - quốc gia Việt Nam.
- Quyền của các dân tộc thiểu số:
+ Quyền của DTTS thuộc phạm trù quyền con người và được công nhận
trong Bộ luật nhân quyền quốc tế và một số văn kiện nhân quyền khác, cũng
như trong Hiến pháp của nhiều quốc gia.
+ Quyền của DTTS là những quyền đặc thù/đặc biệt, chung của một
nhóm DTTS nhất định, mà để được hưởng thụ các quyền này cần phải là thành
viên của DTTS đó, và nhiều trường hợp cần phải thực hiện cùng với các thành
viên khác của DTTS đó.
+ Quyền của DTTS là các quyền bình đẳng được pháp luật bảo vệ bình
đẳng với dân tộc đa số; bình đẳng giữa các DTTS; bình đẳng trong phát triển.
+ Quyền của DTTS có sự phân biệt với quyền tự quyết dân tộc, như đã
được quy định tại Điều 1, ICCPR.
* Bảo đảm quyền của các DTTS: Bảo đảm quyền của các DTTS là việc
các chủ thể có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp tổng hợp (bao gồm cả các biện
pháp đặc biệt) về lập pháp, hành pháp, tư pháp, kinh tế...nhằm hiện thực hóa
các nguyên tắc và tiêu chuẩn về quyền phổ biến và đặc thù của DTTS trong
quản lý nhà nước và trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của quốc
gia, dân tộc.
3
b. Đặc điểm bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số trong bối cảnh
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
Một là, bảo đảm quyền trong đa dạng và thống nhất của các DTTS.
Hai là, bảo đảm quyền con người gắn với quyền dân tộc - tộc người và
quyền dân tộc - quốc gia của đồng bào các DTTS.
Ba là, bảo đảm quyền của các DTTS đòi hỏi phải áp dụng những biện
pháp đặc biệt, phù hợp với đặc trưng về văn hóa, ngôn ngữ và trình độ phát
triển của các DTTS.
c Ý nghĩa của việc bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số trong bối
cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế
Một là, thúc đẩy xóa đói, giảm nghèo, sự đa dạng của tri thức và thực
hiện công bằng xã hội nhằm bảo đảm sự phát triển bao trùm, bền vững theo
hướng đa dạng mà thống nhất của các DTTS
Hai là, bảo đảm ngày càng tốt hơn địa vị bình đẳng của các DTTS
Ba là, bảo vệ sự đoàn kết, tương trợ trong quan hệ giữa các DTTS
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc Việt Nam và một số lý thuyết đƣơng đại
về bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số
a. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về bảo đảm quyền của
các DTTS
Theo các nhà kinh điển mác - xít, quyền của các DTTS gắn liền với giải
phóng dân tộc và giải phóng giai cấp; quyền tự quyết dân tộc gắn với quyền
bình đẳng giữa các dân tộc. Cương lĩnh mác-xít về vấn đề dân tộc, là: "Bình
đẳng hoàn toàn của các dân tộc; quyền của các dân tộc được tự quyết; liên hiệp
công nhân tất cả các dân tộc".
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo đảm quyền của các DTTS ở Việt Nam
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin về quyền con người,
quyền dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm rõ những nội dung cụ thể quyền
dân tộc ở Việt Nam gồm: (i) Bình đẳng dân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả
xâm phạm của mỗi dân tộc; (ii) Độc lập dân tộc là cơ sở, điều kiện để thực hiện
quyền bình đẳng dân tộc"; (iii) Thực hiện bình đẳng dân tộc là yếu tố quyết
4
định để củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc; (iv) Xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội tạo lập sự bình đẳng giữa các dân tộc; (v) Các dân tộc
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; Đảng, Nhà nước là chủ thể chính trong việc xác lập
và thực hiện quyền bình đẳng dân tộc.
c. Quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về bảo đảm quyền của
các DTTS ở Việt Nam, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã
hội (Cương lĩnh 1991) đã xác định tầm quan trọng của chính sách dân tộc;
trong đó nhấn mạnh quyền bình đẳng, quyền văn hóa, quyền phát triển của các
DTTS. Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Hội nghị Trung ương lần
thứ bảy khoá IX Đảng khẳng định luôn xem vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và
đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng trong cách mạng nước ta.
Hội nghị này đã đề ra nhiều giải pháp thực hiện chính sách dân tộc nhằm bảo
đảm các quyền của đồng bào DTTS, như: Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội và an ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi;
gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính
sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây
dựng đội ngũ cán bộ DTTS; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hoá
truyền thống các DTTS trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc
Việt Nam thống nhất".
d. Quan điểm của một số lý thuyết đương đại về bảo đảm quyền của
các dân tộc thiểu số
Một là, lý thuyết quyền con người phổ biến: Nghiên cứu của đề tài đã
nhấn mạnh lý thuyết quyền con người phổ biến gắn với bảo vệ quyền của tất cả
các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, ngộn ngữ, tôn giáo.
Hai là, lý thuyết pháp quyền trong bảo đảm quyền của DTTS: ICERD
(1965) ghi nhận: tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền
được pháp luật bảo vệ như nhau chống lại bất cứ sự phân biệt nào (Lời nói
đầu); trừng trị bằng pháp luật mọi hành động gieo rắc các ý tưởng dựa trên
tính vượt trội về chủng tộc, hoặc sự căm thù, kích động phân biệt chủng tộc...
(Điều 4) v.v...
5
Ba là, thuyết tương đối văn hóa về quyền DTTS: Nghiên cứu của đề tài
cho rằng, thuyết tương đối văn hóa có nhiều yếu tố hợp lý trong việc khẳng
định văn hóa, sự đa dạng văn hóa là cái cần thiết cho sự tồn tại của quyền con
người. Nó xem mỗi cá nhân, các nhóm dân tộc là chủ thể của văn hóa và các
quyền. Do vậy, lý thuyết này gắn với bảo vệ quyền của các DTTS được duy trì,
bảo vệ sự đa dạng, sự khác biệt.
Bốn là, lý thuyết về bảo đảm quyền của các nhóm thiểu số: Lý thuyết
này xem quyền của các nhóm thiểu số là một sự bổ sung đối với quyền cá nhân
mang tính phổ quát và có chức năng kép: Một mặt, cá nhân thuộc nhóm thiểu
số được sử dụng cơ chế nhân quyền phổ quát; mặt khác, nó nhấn mạnh sự tồn
tại thực tế trong đa dạng, họ cần được áp dụng những biện pháp bảo vệ đặc biệt
nhằm tạo cơ hội cho các nhóm người đạt được sự bình đẳng đối với các nhóm
đa số. Lý thuyết bảo đảm quyền của nhóm thiểu số là một hợp phần quan trọng,
tất yếu trong xây dựng khung lý thuyết phân tích luật pháp; chính sách về bảo
đảm quyền của các DTTS ở Việt Nam hiện nay.
Năm là, quan điểm của Liên hợp quốc: i) Tất cả mọi người sinh ra đều
bình đẳng về phẩm giá và các quyền; Tất cả các nhóm và cá nhân có quyền có
sự khác biệt, được tự đánh giá và được nhìn nhận như vậy; ii) Đấu tranh chống
sự phân biệt đối xử dựa trên cơ sở dân tộc, chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo; iii)
Sứ mạng của văn hóa, giáo dục, khoa học và các phương tiện thông tin là thúc
đẩy sự tôn trọng bản sắc văn hóa của các dân tộc; sự hiểu biết khoan dung và
tình hữu nghị; tôn trọng giá trị, nhân phẩm và các quyền của DTTS; iv) Trách
nhiệm của nhà nước là xây dựng các biện pháp tích cực xóa bỏ sự phân biệt
chủng tộc, sự tuyên truyền phân biệt đối xử và chủng tộc, dân tộc, sắc tộc; bổ
sung, hoàn thiện các biện pháp về chính trị, kinh tế, pháp lý nhằm ngăn ngừa
mọi hành động phân biệt đối xử về chủng tộc; bảo đảm sự tham gia hiệu quả
của các nhóm DTTS vào quản lý nhà nước, xã hội và phát triển; v) Mục đích
của LHQ là phấn đấu cho một xã hội toàn cầu không có kỳ thị và phân biệt đối
6
xử cũng như các nhân tố gây nên sự hận thù và chia rẽ2. Bảo vệ quyền của
những người thuốc nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn, ngôn ngữ sẽ góp
phần vào ổn định chính trị, xã hội ở các quốc gia, tăng cường hữu nghị và hợp
tác giữa các dân tộc3.
1.1.3. Phƣơng pháp, nguyên tắc, tiêu chí đánh giá bảo đảm quyền
của các DTTS trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
a Phương pháp tiếp cận
+ Tiếp cận liên ngành khoa học xã hội và khoa học pháp lý.
+ Tiếp cận dựa trên quyền con người.
+ Tiếp cận bình đẳng thực chất.
+ Tiếp cận thực chứng pháp lý.
+ Một số phương pháp tiếp cận khác.
b Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sử dụng phổ biến là: Phương pháp phân tích,
tổng hợp; Phương pháp lịch sử; Phương pháp chuyên gia; Phương pháp xã hội
học; Phương pháp so sánh; Phương pháp chuyên gia; Phương pháp dự
báo…Bên cạnh các phương pháp nêu trên, đối với đề tài bảo đảm quyền của
các DTTS còn được khuyến khích sử dụng các phương pháp khác như: Phương
pháp thu thập tài liệu và số liệu (cả tài liệu sơ cấp và tài liệu thứ cấp); phương
pháp xử lý thông tin, số liệu nhằm đánh giá tính xác thực của các hành động
của các cơ quan nhà nước cũng như hiệu quả tác động chính sách, pháp luật về
bảo đảm quyền của các DTTS ở Việt Nam.
c. Nguyên tắc bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số trong bối cảnh
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế:
Một là, nguyên tắc về quyền bình đẳng dân tộc.
Hai là, nguyên tắc về tính phổ biến và tính phụ thuộc vào bối cảnh lịch
sử, văn hóa, dân tộc, tôn giáo.
Ba là, nguyên tắc về không thể chuyển nhượng (Inalienability).
2 Trung tâm Nghiên cứu quyền con người (2002), Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người,Hà
Nội, tr.188-190. 3 Viện Nghiên cứu quyền con người (2005), Bình luận và khuyến nghị chung của các Ủy ban Công ước
thuộc Liên Hợp quốc về quyền con người, Nxb Công an nhân dân, tr.224-225.
7
Bốn là, nguyên tắc về không thể phân chia (Indivisibity), liên hệ và phụ
thuộc lẫn nhau (Interrelation, Interdependence).
d Tiêu chí đánh giá hiệu quả bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số
trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
Một là, tiêu chí đánh giá theo cấp độ: cấp độ quốc tế, cấp độ khu vực,
cấp độ quốc gia.
Hai là, tiêu chí đánh giá theo quy trình bảo đảm quyền của các dân tộc
thiểu số: (i) Công nhận pháp lý; (ii) Xây dựng thể chế; (iii) Xây dựng chiến
lược lồng ghép, tích hợp; (iv) Cơ chế giám sát; v) Thực hiện các thủ tục báo
cáo theo quy định của Công ước quốc tế về; (vi) Xây dựng hệ thống thông tin,
dữ liệu; (vii) Triển khai các hoạt động nghiên cứu.
1.2. CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU
SỐ TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA, HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
1.2.1. Pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền của các DTTS
Nội dung cụ thể các quyền của DTTS được ghi nhận trong nhiều văn
kiện nhân quyền quốc tế như: Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị
(1966, Điều 27); Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1966, Điều
13); Công ước về quyền trẻ em (1989, Điều 30); Tuyên bố của Liên hợp quốc
về quyền của các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo
(1992, Điều 5) và nhất là Công ước về xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử về
chủng tộc (1965). Một số quyền như: Quyền sống; quyền bình đẳng, không bị
phân biệt đối xử; quyền được đối xử bình đẳng trước tòa án cũng như trước các
cơ quan bảo vệ pháp luật khác bất kể là người có nguồn gốc chủng tộc hay dân
tộc nào; quyền tự do an ninh cá nhân và được nhà nước bảo vệ chống lại mọi
hành vi bạo lực gây thiệt hại đến thân thể. Các quyền chính trị, đặc biệt là
quyền bầu cử - đi bầu và ứng cử trên cơ sở phổ thông đầu phiếu hoặc theo địa
bàn, được tham gia chính phủ cũng như các hoạt động công cộng khác ở mọi
cấp và được bình đẳng tham dự vào các dịch vụ công cộng. Các quyền dân sự
đặc biệt là: quyền có quốc tịch, quyền kết hôn và lựa chọn người kết hôn;
quyền sở hữu riêng hoặc chung với người khác; quyền tự do tư tưởng, tín
ngưỡng, tôn giáo; quyền được hưởng lợi từ những biện pháp tích cực do Nhà
8
nước tiến hành để thúc đẩy sự hài hòa giữa các dân tộc và quyền của người
DTTS. Các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa như: quyền có nhà ở, quyền về việc
làm; quyền được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe; quyền được được
bảo hiểm xã hội; quyền được giáo dục, đào tạo; quyền được sử dụng ngôn ngữ
riêng; quyền được tham gia vào đời sống văn hóa...
1.2.2. Hiến pháp và pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền của
các DTTS
Một là, gia nhập và nội luật hóa pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền của
các DTTS; Hai là, chế định trong Hiến pháp về bảo đảm quyền của các DTTS;
Ba là, chế định trong chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền của các DTTS.
Xét dưới góc độ nhân quyền của các DTTS, hệ thống pháp luật của nước ta đã
có những bước phát triển và tiến bộ đáng kể trong quá trình hội nhập quốc tế.
Nội dung các quyền của DTTS bao gồm: Các quyền về dân sự, chính trị, như
quyền sống; quyền không bị phân biệt đối xử, bình đẳng trước pháp luật; quyền
bầu cử, ứng cử và tham gia công việc quản lý nhà nước; quyền tự do tôn giáo,
tín ngưỡng; một số quyền trong lĩnh vực tư pháp; quyền về hôn nhân, gia
đình…đã được quy định trong Hiến pháp Việt Nam 1992 và 2013 (Ví dụ, các
điều từ 16 đến 31, Hiến pháp năm 2013). Các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa,
như quyền về việc làm; quyền thoát nghèo và có mức sống thích đáng; quyền
tiếp cận với giáo dục; quyền tiếp cận với các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe;
quyền tham gia vào đời sống văn hóa, bảo vệ ngôn ngữ riêng.. đã được quy
định trong Hiến pháp Việt Nam 1992 và 2013 (Ví dụ, các điều từ 33 đến 42,
Hiến pháp năm 2013). Về quyền của nhóm xã hội dễ bị tổn thương, như phụ
nữ, trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật…cũng đã được quy định trong
Hiến pháp Việt Nam 1992 và 2013 (Ví dụ Điều 26, 36, 37, Hiến pháp năm
2013). Bên cạnh những quy định bảo đảm quyền con người nói chung còn có
những điều luật quy định đặc thù và các chính sách cụ thể như chính sách về
đất đai, giáo dục, y tế, vay vốn tạo việc làm, chính sách bảo tồn và phát triển
kinh tế - xã hội các dân tộc rất ít người…nhằm bảo đảm quyền và thúc đẩy
thực thi quyền cho các đối tượng đồng bào DTTS, phấn đấu cho mục tiêu
chung là thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
9
1.3. CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA CÁC DÂN TỘC
THIỂU SỐ TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở
VIỆT NAM
1.3.1. Đặc điểm các dân tộc thiểu số Việt Nam trong bối cảnh toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay
Tại Việt Nam dân tộc Kinh (hay tộc Việt) chiếm đa số với khoảng
86.2%, còn lại 53 DTTS chiếm khoảng 14% dân số cả nước.Có thể khái quát
một số đặc điểm sau đây của các DTTS Việt Nam: Một là, cư trú trên phần lớn
diện tích đất liền Việt Nam nhưng chủ yếu ở miền núi, biên giới, vùng sâu,
vùng xa có nhiều khó khăn; Hai là, cư trú phân tán và đan xen với nhau mà
không có vùng lãnh thổ tộc người riêng; Ba là, khác biệt, chênh lệch nhau về
quy mô dân số giữa các DTTS; Bốn là, trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở
mức thấp và không đều nhau; Năm là, di sản văn hóa truyền thống đặc sắc, đa
dạng cùng góp phần làm nên sự đa dạng phong phú của văn hóa dân tộc Việt
Nam; Sáu là, truyền thống đấu tranh dựng nước, giữ nước và xây dựng dân tộc
- quốc gia Việt Nam thống nhất
1.3.2. Tác động của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đến bảo đảm
quyền của các dân tộc thiểu số trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc
tế ở Việt Nam hiện nay
a. Khái quát về toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay
Trong những năm gần đây, các quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
ngày càng diễn ra sâu rộng và tạo ra nhiều cơ hội. Các quá trình đó đã và đang
hướng nhân loại bước vào nền văn minh trí tuệ với hai đặc trưng cơ bản là "kinh
tế tri thức" và "xã hội thông tin". Hiện nay, trên nền tảng của công nghiệp 4.0 và
những thành tựu quản lý hiện đại, các nước phát triển đang tiên phong xây dựng
một mô hình xã hội "siêu thông minh" và "siêu hiệu quả" với tên gọi "xã hội
5.0"4. Xã hội 5.0 mang lại môi trường gắn kết tốt nhất ba yếu tố: con người, thể
chế và công nghệ; trong đó, coi việc lấy con người làm trung tâm và vì con
người là tiêu chí cốt lõi để tiến hành phát triển bao trùm và bền vững.5 Để con
người làm trung tâm và vì con người thì con người mặc nhiên và đương nhiên
4 Center for Research and Development Strategy - Japan Science and Technology Agency (2016), Future
Services & Societal Systems in Society 5.0, November 2016. 5://www8.cao.go.jp/cstp/english/society5_0/index.html
10
phải có quyền, trong đó có quyền DTTS. Ở nước ta, xu hướng này dẫn đến
những gợi mở có tính đột phá cho việc xác định khát vọng và tầm nhìn phát triển
đến năm 2030 và 2045 với chiến lược "đi tắt, đón đầu" của Việt Nam, để tận
dụng những cơ hội mà cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại nhằm xây
dựng thành công "xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
b. Đặc điểm của bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay
Toàn cầu hóa đang thúc đẩy mạnh mẽ xu hướng giao lưu, kết nối các
quốc gia, dân tộc, mở ra nhiều cơ hội mới cho hội nhập quốc tế và cho sự học
hỏi, hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc. Như vậy, hội nhập quốc tế tích cực
trong bối cảnh toàn cầu hóa sẽ làm thay đổi nhận thức của con người về vấn đề
dân tộc, bản sắc dân tộc trong bảo đảm quyền con người, quyền dân tộc theo
hướng hình thành, phát triển các bản sắc dân tộc đa tầng, mềm dẻo. Mặt khác,
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang đe dọa bản sắc văn hóa của các dân tộc.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, khi nhiều giá trị phổ
quát của quyền con người được đề cao thì ranh giới, lợi ích của quyền dân tộc -
quốc gia và dân tộc - tộc người cũng đang đứng trước những thách thức mới.
Giải quyết mối quan hệ giữa quyền dân tộc với quyền con người ở mỗi quốc
gia, trong đó có Việt Nam, vì thế, trở thành một vấn để cơ bản, không thể thiếu
được trong quan hệ đối nội và đối ngoại hiện nay.
c. Một số phương diện tác động của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đến
việc bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay.
Thứ nhất, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế tạo ra cả cơ hội và thách thức đối
với bảo đảm quyền của các DTTS ở Việt Nam; Thứ hai, toàn cầu hóa, hội nhập
quốc tế thúc đẩy cả quyền con người và cả quyền dân tộc trong các cộng đồng
DTTS ở Việt Nam; Thứ ba, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tếthúc đẩy hội nhập, kết
nối về quyền của mỗi người và quyền cộng đồng các DTTS ở Việt Nam
d. Cơ chế quốc tế về bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số, trong bối
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
Thực tế hiện nay đã hình thành một số cơ chế quốc tế bảo đảm quyền
của các DTTS trong đó quan trọng nhất là cơ chế giám sát của ICERD (1965),
như: Thành lập Ủy ban về xóa bỏ phân biệt chủng tộc (CERD) nhằm giám sát
việc thực hiện Công ước này của các quốc gia thành viên; Quy định về thủ tục:
11
ICERD quy định 3 thủ tục6 để Ủy ban Công ước xem xét các quốc gia thực
hiện nghĩa vụ chống phân biệt chủng tộc, dân tộc. Ngoài ra việc bảo đảm quyền
của các DTTS còn cần phải tuân thủ các cơ chế có liên quan, như: Cơ chế theo
quy định của Điều 27, ICCPR về bảo vệ quyền của người thiểu số và dân tộc,
tôn giáo, ngôn ngữ; Cơ chế theo ICESCR; Cơ chế theo CEDAW...Bên cạnh cơ
chế theo Công ước nêu trên, quyền của các DTTS còn chịu sự giám sát theo cơ
chế Hiến chương, đặc biệt là Cơ chế UPR của Hội đồng nhân quyền LHQ.
1.3.3. Tác động và hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về bảo
đảm quyền của các DTTS trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ở
Việt Nam hiện nay
a. Chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền của các DTTS trong bối
cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay
Chính sách, pháp luật trước hết tập trung xác định rõ các chủ thể quyền
và các chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm quyền (Nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội,
doanh nghiệp,...) của các DTTS. Tiếp đó xác định rõ nội dung quyền và
phương thức bảo đảm quyền của các DTTS. Và tiếp đó là tổ chức triển khai,
thực hiện nội dung quyền và phương thức bảo đảm quyền của các DTTS. Cuối
cùng là tổng kết thực tiễn, đánh giá để hianf thiện chính sách, pháp luật, nhằm
đáp ứng yêu cầu và thách thức mới cao hơn về bảo đảm quyền của mỗi người
và quyền dân tộc trong các cộng đồng DTTS. Nội dung cốt lõi và có tính đặc
trưng của chính sách, pháp luật về quyền và bảo đảm quyền của các DTTS
gồm: quyền bình đẳng không bị phân biệt đối xử, quyền được giữ gìn bản sắc
văn hóa, quyền được Nhà nước hỗ trợ phát triển.
b. Một số phương diện tác động của chính sách, pháp luật về bảo đảm
quyền của các dân tộc thiểu số trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc
tế ở Việt Nam hiện nay7
Thứ nhất, tác động đến nhận thức của các cấp, các ngành, các cá nhân và
cộng đồng về quyền, bảo đảm quyền của các DTTS; Thứ hai, thúc đẩy đánh giá
6 Đại học Quốc gia - Khoa Luật (2010), Quyền con người - Tài liệu của Liên hợp quốc, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội, tr.212.
7Nguyễn Thanh Tuấn (2010), Đa dạng văn hóa và quyền văn hóa hiện nay ở Việt Nam, Nxb Văn hóa-
Thông tin&Viện Văn hóa, Hà Nội, tr.371-381.
12
thực trạng bảo đảm quyền bảo tồn, phát triển các di sản văn hóa vật thể và phi
vật thể của các DTTS, đặc biệt của các DTTS có số dân thấp; Thứ ba, thúc đẩy
nghiên cứu, chỉ đạo việc xây dựng các mô hình bảo đảm quyền của các DTTS;
Thứ tư, thúc đẩy rà soát lại các văn bản pháp lý về quyền và bảo đảm quyền
của các DTTS; Thứ năm, tác động đến đổi mới công tác hoạch định chính sách,
pháp luật, cách thức quản lý nhà nước theo hướng hỗ trợ phát triển và xã hội
hóa công tác bảo đảm quyền của các DTTS.
1.3.4. Kinh nghiệm quốc tế trong việc bảo đảm quyền của các dân
tộc thiểu số và giá trị tham khảo với Việt Nam
a. Kinh nghiệm quốc tế trong việc bảo đảm quyền của các DTTS
Đề tài đã tiến hành nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia và tổ chức
quốc tế sau:
* Kinh nghiệm của một số quốc gia châu Âu: i) kinh nghiệm của Vương
quốc Anh; ii) kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp; iii) kinh nghiệm của CHLB
Đức; iv) kinh nghiệm của Thụy Điển; v) kinh nghiệm của Liên bang Nga.
* Kinh nghiệm của một số quốc gia Châu Á và khu vực Đông Nam Á về
bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số:i) kinh nghiệm của Trung Quốc;ii)
kinh nghiệm của Ấn Độ; iii) kinh nghiệm của Nhật Bản; iv) kinh nghiệm của
Thái Lan; v) kinh nghiệm của Indonesia; vi) kinh nghiệm của Philippines; vii)
kinh nghiệm của Malaysia; viii)kinh nghiệm của Campuchia.
* Kinh nghiệm của một số tổ chức quốc tế hoạt động tại Việt Nam: i)
Kinh nghiệm của Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP); Kinh
nghiệm của Ngân hàng Thế giới (World Bank); kinh nghiệm của Ngân hàng
Phát triển châu Á (ADB).
b. Giá trị tham khảo đối với Việt Nam hiện nay
+ Giá trị tham khảo từ kinh nghiệm của một số nước châu Âu
+ Giá trị tham khảo từ kinh nghiệm của một số nước châu Á và khu vực
Đông Nam Á
+ Giá trị tham khảo từ kinh nghiệm của một số tổ chức quốc tế hoạt
động tại Việt Nam
13
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA
CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.1. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT, CHÍNH SÁCH VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN DÂN
SỰ, CHÍNH TRỊ CỦA CÁC DTTS Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Đề tài đã phân tích, đánh giá theo hai phương diện: Hiệu quả thực hiện
pháp luật, chính sách và hạn chế, thách thức trong bảo đảm một số quyền sau:
Bảo đảm quyền sống; Bảo đảm quyền không bị phân biệt đối xử, bình đẳng
trước pháp luật; Bảo đảm quyền bầu cử, ứng cử và tham gia công việc quản lý
nhà nước; Bảo đảm quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng; Bảo đảm một số quyền
trong lĩnh vực tư pháp; Bảo đảm quyền về hôn nhân, gia đình.
Chẳng hạn, về thách thức trong bảo đảm quyền sống, theo đề tài, Luật
pháp, chính sách về bảo đảm quyền sống còn thiếu hiệu quả liên quan đến liên
quan đến tỷ lệ tử vong của trẻ em (khía cạnh kinh tế - xã hội của quyền sống).
Theo đánh giá của UNDP và Ủy ban dân tộc (2017), các DTTS còn rất xa mới
hoàn thành được Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDG) của các DTTS. Cụ thể,
còn hơn 60% các DTTS chưa tiệm cận được mục tiêu tỷ suất tử vong trẻ dưới 1
tuổi thấp hơn 22‰ theo SDG đến năm 2020 và hơn 80% chưa đạt mục tiêu
thấp hơn 19‰ theo SDG đến năm 2025. Tỷ suất tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi còn
khó đạt mục tiêu hơn khi có đến 80% các dân tộc có tỷ suất tử vong cao hơn
27‰ (là tỷ suất mục tiêu đến 2020) và chỉ có 1 dân tộc có tỷ suất tử vong dưới
22‰ (là tỷ suất mục tiêu đến 2025). Đây là thách thức không nhỏ cần phải
vượt qua nếu Việt Nam muốn thực hiện các mục tiêu đã phê duyệt tại Quyết
định số 1557/QĐ-TTg8…
Hoặc, đánh giá về hạn chế, thách thức trong bảo đảm một số quyền
trong lĩnh vực tư pháp, đề tài đã cho rằng, mặc dù đã có những tiến bộ, song
việc thực hiện pháp luật, chính sách về bảo đảm quyền trong lĩnh vực tư pháp
đối với các DTTS vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, nổi bật là quyền được trợ
giúp pháp lý; quyền được xét xử công khai, độc lập, khách quan, không thiên
8 Irish Aid, Ủy ban dân tộc và UNDP (2017), Tổng quan thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu
số, Hà Nội, tr.23
14
vị; vấn đề hỗ trợ tư pháp đối với bị can, bị cáo là người DTTS chưa thành niên,
việc tham gia của đại diện gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội cũng chưa
được chú trọng đúng mức. Việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là
người DTTS còn thiếu hiệu quả, vì thiếu thông tin; mức độ sẵn có các dịch vụ
pháp lý hạn chế cùng với vấn đề chi phí nên không thể thực hiện được quyền
này trên thực tế. Người bào chữa ở nhiều địa phương vùng DTTS cũng thường
gặp nhiều khó khăn trong đọc, sao chụp tài liệu, tiếp cận bị can, bị cáo tại trại
tạm giam, tạm giữ.
2.2. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT, CHÍNH SÁCH VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
KINH TẾ, XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT
NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Đề tài đã phân tích, đánh giá theo hai phương diện: Hiệu quả thực hiện
pháp luật, chính sách và hạn chế, thách thức trong bảo đảm một số quyền sau:
Bảo đảm quyền thoát nghèo và có mức sống thích đáng; Bảo đảm các quyền
về việc làm; Bảo đảm quyền được giáo dục; Bảo đảm quyền được tiếp cận với
các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe; Bảo đảm quyền tham gia vào đời sống
văn hóa.
Chẳng hạn, đánh giá về bảo đảm quyền thoát nghèo và có mức sống
thích đáng của các DTTS, theo đề tài, mặc dù Việt Nam đã đạt được thành tựu
rất ấn tượng về giảm nghèo từ 58% thời kỳ bắt đầu đổi mới xuống còn 13,8%
năm 2014, song vẫn tồn tại khoảng cách đáng kể giữa các vùng miền và các
nhóm dân tộc. Giữa nhóm người Kinh và người Hoa với các nhóm DTTS khác
có sự gia tăng về mức độ chi tiêu và thu nhập. Theo UNDP, vào năm 2004, chi
tiêu của đồng bào DTTS bằng 59% mức chi tiêu của nhóm Kinh và Hoa thì đến
năm 2016, tỷ lệ này chỉ còn là 52%. Chênh lệch về thu nhập cũng có xu hướng
tương tự: vào năm 2004 thu nhập của nhóm đồng bào DTTS bằng 68% thu
nhập của nhóm đồng bào Kinh, đến năm 2016 tỷ lệ này giảm xuống chỉ còn
52%, tức là giảm 16 điểm phần trăm. Nguyên nhân của sự gia tăng chênh lệch
về thu nhập chủ yếu là do tốc độ tăng trưởng cao của các hoạt động phi nông
nghiệp và công việc được trả lương (và kết quả là thu nhập đã tăng hơn gấp
đôi) trong các hộ người Kinh và Hoa, trong khi các hộ DTTS không có được sự
15
gia tăng như vậy trong các hoạt động này9. Đánh giá ở phương diện phát triển,
Việt Nam đã hoàn thành Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG) của Liên
hợp quốc đặt ra cho các nước đang phát triển đến năm 2015, tuy nhiên, đánh
giá về phương diện nhân quyền trên lĩnh vực kinh tế, xã hội và nguyên tắc bình
đẳng, không phân biệt đối xử thì vấn đề không chỉ là bao nhiêu người được
giảm nghèo mà còn là ai được giảm nghèo. Thực hiện pháp luật, chính sách về
quyền con người trên lĩnh vực này nhà nước phải đi xa và toàn diện hơn; đòi
hỏi thực hiện các mục tiêu theo cách không có sự phân biệt đối xử. Vì vậy, có
thể nói, MDG đã đạt được, nhưng hiệu quả bảo đảm quyền con người về giảm
nghèo, cải thiện đời sống ở các vùng DTTS thì vẫn còn phải tiếp tục. Theo Báo
cáo đánh giá kết quả 3 năm thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã
hội vùng DTTS và miền núi (2016-2018) của Chính phủ, một số vấn đề bức
xúc trong đồng bào DTTS như: Di cư tự phát, thiếu đất ở, đất sản xuất, nước
sinh hoạt… giải quyết chưa hiệu quả, đời sống của một bộ phận đồng bào
DTTS còn nhiều khó khăn. Thu nhập bình quân của hộ đồng bào DTTS nhiều
nơi chỉ bằng 40-50% bình quân thu nhập trong khu vực; tỷ lệ dân số DTTS
chiếm 14,6% nhưng tỷ lệ hộ nghèo chiếm 52,7% số hộ nghèo của cả
nước…Hoặc, liên quan đến những thách thức trong bảo đảm quyền tham gia
vào đời sống văn hóa của các DTTS, đề tài cho rằng, vấn đề nhận diện và lựa
chọn bản sắc văn hóa của các DTTS chưa được quan tâm thích đáng trong công
tác xây dựng và thực thi luật, chính sách. Các nghiên cứu về văn hóa tộc người
chưa tương xứng với yêu cầu mới; nhiều di sản văn hoá giàu bản sắc của các
tộc người thiểu số chưa được nghiên cứu, lập hồ sơ để tôn vinh công nhận là di
sản cấp tỉnh hoặc cấp quốc gia; nhiều giá trị văn hóa truyền thống nằm trong
những "di sản sống" đứng trước nguy cơ bị mai một. Trang phục, nghệ thuật
(dân ca, dân vũ, thêu dệt thổ cẩm, các bài hát truyền thống) của nhiều tộc người
cũng có nguy cơ bị suy giảm trong đời sống của các DTTS10
. Bên cạnh đó là
tình trạng suy giảm không gia văn hóa gắn liền với sự tồn tại của những cánh
9 UNDP, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2017), Báo
cáo nghèo đa chiều ở Việt Nam: Giảm nghèo ở tất cả các chiều cạnh để đảm bảo chất lượng cuộc sống của
tất cả mọi người, Hà Nội, tr.11,12 10
Đoàn Minh Huấn (2016), Bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số và đấu tranh chống các âm mưu lợi
dụng vấn đề dân tộc ở Việt Nam, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội, tr.160.
16
rừng và đất đai sản xuất vùng DTTS và miền núi. Việc lồng ghép giáo dục văn
hóa, tri thức truyền thống của các DTTS cũng như các quyền của họ vào các
chương trình trong trường học nhằm giúp trẻ em DTTS nâng cao năng lực nhận
diện bản sắc văn hóa chưa thật sự được thiết kế một cách có khoa học trong
xây dựng luật, chính sách. Trước mắt và trong lâu dài vấn đề truyền dạy các giá
trị thuộc về bản sắc, tính đa dạng, các gia trị về quan hệ hữu nghị giữa các dân
tộc cần phải được coi trọng hơn trong hoạch định chính sách, pháp luật.
Hoặc, thách thức trong bảo đảm quyền tiếp cận với các dịch vụ y tế,
chăm sóc sức khỏe của các DTTS ở Việt Nam, đề tài cho rằng, Việt Nam tiếp
tục phải giải quyết các vấn đề như: tỷ lệ sử dụng thẻ bảo hiểm y tế; tiếp cận về
địa lý (khoảng cách và khả năng đi lại từ nhà đến các cơ sở y tế); tiếp cận dịch
vụ y tế của bà mẹ và trẻ em; chất lượng các dịch vụ y tế; khả năng chi trả cho
các dịch vụ y tế và rào cản về văn hóa trong tiếp cận với với các dịch vụ y tế,
chăm sóc sức khỏe…
2.3. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT, CHÍNH SÁCH VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA
MỘT SỐ NHÓM DỄ BỊ TỔN THƢƠNG LÀ NGƢỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT
NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.3.1. Khái quát về quyền của các nhóm dễ bị tổn thƣơng trong luật
quốc tế
Dựa trên nguyên tắc không phân biệt đối xử, nhiều văn kiện pháp luật
quốc tế về quyền của nhóm dễ bị tổn thương đã được LHQ thông qua, tiêu biểu
như: CRC (1989); CEDAW (1979); ICERD (1965); Các nguyên tắc của Liên
hợp quốc về quyền của người cao tuổi (1991); Công ước quốc tế về quyền của
người khuyết tật (2007)…Đây là những văn kiện nổi bật, tạo cơ sở pháp lý toàn
cầu bảo vệ quyền con người của nhóm dễ bị tổn thương.
2.3.2. Hiệu quả thực hiện pháp luật, chính sách về bảo đảm quyền
của các nhóm dễ bị tổn thƣơng là ngƣời dân tộc thiểu số ở Việt Nam thời
kỳ đổi mới
Đề tài đã tiến hành phân tích, đánh giá hiệu quả thực hiện pháp luật,
chính sách về bảo đảm quyền của các nhóm: Người cao tuổi DTTS; Phụ nữ
DTTS; Trẻ em DTTS; Người có HIV/AIDS là DTTS.
17
2.3.3. Hạn chế, thách thức trong việc thực hiện pháp luật, chính sách
về bảo đảm quyền của các nhóm dễ bị tổn thƣơng là ngƣời dân tộc thiểu số
ở Việt Nam thời kỳ đổi mới
Việc thực hiện luật pháp, chính sách về bảo đảm quyền của nhóm dễ bị
tổn thương là người DTTS còn nhiều bất cập. Về bảo đảm quyền của người cao
tuổi: Nổi bật là đời sống vật chất, tinh thần của người cao tuổi trong các DTTS ở
nhiều vùng chậm được cải thiện, nhiều người vẫn nằm trong tình trạng đói nghèo
và tiếp tục lao động trong các điều kiện khó khăn; khả năng tiếp cận với các dịch
vụ y tế, chăm sóc sức khỏe phù hợp, miễn phí còn hạn chế…Về bảo đảm quyền
của phụ nữ: Nổi bật là vấn đề bất bình đẳng giới trên một số lĩnh vực. Khoảng
cách giới trong các nhóm DTTS và giữa các nhóm DTTS với dân tộc Kinh còn
lớn và tồn tại dai dẳng trong nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội và phụ nữ DTTS
luôn là nhóm chịu nhiều thiệt thòi và đặc biệt dễ bị tổn thương. So với mức độ
trung bình toàn quốc, phụ nữ DTTS thuộc các hộ nghèo có nguy cơ không tiếp
cận tới được các dịch vụ chăm sóc trước sinh cao hơn ba lần và không được đỡ
đẻ bởi nhân viên y tế có chuyên môn trong lúc sinh cao hơn sáu lần. Về bảo đảm
quyền trẻ em: trẻ em một số nhóm DTTS vẫn gặp khó khăn về kinh tế, đặc biệt
là tình trạng lao động sớm và tình trạng tảo hôn đang là những thách thức lớn
trong bảo vệ quyền của trẻ em DTTS. Trong những hoàn cảnh khó khăn, nhiều
trẻ em DTTS thiếu chế độ dinh dưỡng phù hợp, phải lao động vất vả từ rất sớm
để giúp việc gia đình; hoặc tình trạng lạm dụng lao động trẻ em DTTS trong
ngành du lịch...Về bảo đảm quyền của người có HIV/AID: Mặc dù đã có những
văn bản pháp luật, chính sách, song việc bảo đảm quyền của người có
HIV/AIDS vẫn thiếu hiệu quả; dịch HIV/AIDS đang gia tăng tại các huyện, khu
vực miền núi, vùng sâu, vùng xa; đặc biệt địa phương nào có nhiều người DTTS
nghiện ma túy thì tại địa phương đó số người nhiễm HIV càng nhiều...
2.4. HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC THIẾT CHẾ TRONG VIỆC BẢO ĐẢM
QUYỀN CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.4.1. 2.4.1. Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
Các thành tựu bảo đảm quyền của các DTTS ở Việt Nam thời kỳ đổi mới
luôn gắn với vai trò lãnh đạo của Đảng. Dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu các giá trị tiến bộ của thời đại, Đảng ta
18
tiếp tục bổ sung, hoàn thiện quan điểm và phương thức lãnh đạo việc bảo đảm
quyền của các DTTS ở Việt Nam trên các phương diện sau: i) Tiếp tục thực hiện
nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết và không phân biệt đối xử; chống mọi biểu hiện
kỳ thị và chia rẽ dân tộc; thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn
kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển. ii) Các DTTS ở Việt Nam đều có các
quyền cơ bản về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Giá trị phổ biến của
quyền con người (quyền con người thuộc về tất cả mọi người) đã được khẳng
định nhất quán trong các văn kiện của Đảng: Khẳng định rõ các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công
nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp, pháp luật; gắn quyền công dân
với nghĩa vụ và trách nhiệm xã hội11. iii) Hoàn thiện chính sách về dân tộc và cơ
chế tổ chức thực hiện. Thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã ban hành nhiều chính sách để
bảo đảm bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân
tộc. Tuy nhiên, vấn đề cụ thể hóa và thực hiện chính sách dân tộc vẫn là khâu
còn nhiều bất cập. Vì vậy, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII đã nhấn mạnh
cơ chế: Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ
trương, chính sách dân tộc của Đảng, nhà nước ở các cấp12; iv) Bảo đảm quyền
của các DTTS là trách nhiệm của tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị,
trong đó nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng; v) Giải quyết hài hòa vấn đề
phát triển với vấn đề bảo đảm quyền của các DTTS. Định hướng cơ bản trong
quan điểm của Đảng là: Phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi luôn
gắn với bảo đảm quyền của các DTTS; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của các
DTTS và là một bộ phận hữu cơ trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội theo
hướng đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Phát triển kinh tế - xã hội
vùng đồng bào các DTTS là trách nhiệm chung của cả nước, trước hết và trực
tiếp là trách nhiệm của Đảng, chính quyền, các tổ chức kinh tế, xã hội; đồng
thời, đồng bào các DTTS phải vươn lên tự lực, tự cường, chống tư tưởng tự ty, ỷ
lại, nhằm đẩy mạnh phát triển sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân các dân
tộc; hoàn thành công tác định canh, định cư ở vùng đồng bào các DTTS và miền
núi; xóa hộ đói; giảm nghèo bền vững, thu hẹp khoảng cách phát triển và nâng
cao năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu, suy thoái môi trường.
11
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương
Đảng, Hà Nội, tr.166,167. 12
Như trên, tr.165
19
Đối với các tổ chức Đảng vùng DTTS. Với vai trò là hạt nhân lãnh đạo hệ
thống chính trị đã ban hành các nghị quyết, xác định mục tiêu, phương hướng,
nhiệm vụ, xây dựng kế hoạch hành động phù hợp với tình hình thực tế nhằm bảo
đảm quyền của các dân tộc thiểu số hoạt động theo định hướng chính trị của
Đảng và phù hợp với đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương. Trên cơ
sở các Nghị quyết đã ban hành, các tổ chức đảng đã coi trọng nhiệm vụ xây
dựng, đào tạo, bố trí đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực thực hiện chính sách
dân tộc của Đảng. Đồng thời đẩy mạnh công tác lãnh đạo kiểm tra, giám sát việc
thực hiện nghị quyết đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là trách nhiệm
của người đứng đầu ở các tổ chức đảng và các đoàn thể.
2.4.2. Hoạt động của Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Hội đồng nhân
dân các cấp
Trên cơ sở nghiên cứu thẩm quyền của Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Hội
đồng nhân dân, đề tài đã phân tích, đánh giá hiệu quả hoạt động của các thiết
chế này trong việc bảo đảm quyền của các DTTS ở Việt Nam thời kỳ đổi mới:
Về hoạt động của Quốc hội trong việc thể chế hóa đường lối của Đảng, nội
dung Hiến pháp trong các Bộ luật, luật liên quan đến bảo đảm quyền của các
DTTS: Trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt với Cương lĩnh năm 1991, các quyền
con người phổ biến được áp dụng đối với các DTTS theo tinh thần của Hiến
pháp năm 1992 và 2013 đã được Quốc hội đưa vào nhiều luật, bộ luật quan
trọng. Theo quy định của Hiến pháp, người DTTS là các công dân Việt Nam
được hưởng đầy đủ các quyền phổ biến theo luật định. Bên cạnh đó, do những
yếu tố đặc thù về trình độ phát triển và đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội, hệ
thống luật pháp còn qui định thêm những điều khoản cụ thể hay chính sách có
liên quan nhằm bảo đảm các DTTS có cơ hội thuận lợi trong hưởng thụ bình
đẳng các quyền con người, quyền công dân. Về hoạt động giám sát thực hiện
chính sách dân tộc của Quốc hội, Hội đồng dân tộc: Đề tài đã nghiên cứu và
đánh giá các nội dung sau:giám sát xây dựng chính sách dân tộc qui định trong
các dự án luật; giám sát theo chuyên đề; hoạt động giải trình, chất vấn và hoạt
động thẩm tra tình hình kinh tế - xã hội của HĐDT và HĐND. Chẳng hạn,
nhiệm kỳ Quốc hội khóa 13, 14 đã có bước tiến rõ rệt, tập trung vào những vấn
20
đề lớn như quản lý, sở hữu đất đai nông lâm trường; thực hiện chính sách giảm
nghèo, chính sách giáo dục vùng DTTS...đã tạo nên sự chuyển biến tích cực về
nhận thức và thúc đẩy trách nhiệm của các cơ quan có liên quan, nhất là Chính
phủ trong việc thực hiện pháp luật, chính sách nhằm bảo đảm quyền của các
DTTS trên nhiều lĩnh vực.
2.4.3. Hoạt động của Chính phủ, Bộ ngành, Ủy ban Dân tộc và chính
quyền địa phƣơng
Trên cơ sở nghiên cứu về tổ chức bộ máy nhà nước về công tác dân tộc,
đề tài đã tập trung phân tích đánh giá hiệu quả xây dựng và thực hiện chính
sách, pháp luật liên quan đến bảo đảm quyền của các DTTS theo các nội dung
sau: i) xây dựng và hoàn thiện các chủ trương, chính sách của Đảng liên quan
đến bảo đảm quyền của các DTTS; ii) xây dựng chính sách, ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật nhằm thực hiện chủ trương, quan điểm của Đảng liên
quan đến bảo đảm quyền của các DTTS; iii) hướng dẫn tổ chức thực hiện các
chính sách, pháp luật liên quan đến bảo đảm quyền của các DTTS; sự phối hợp
giữa cơ quan quản lý nhà nước về công tác dân tộc với các bộ, ngành, chính
quyền địa phương; và bảo đảm về kinh phí cho thực hiện pháp luật, chính sách.
Nhìn chung, các hoạt động ban hành chính sách, các văn bản quy phạm pháp
luật, văn bản hướng dẫn đã có nhiều bước tiến bộ. Quy trình xây dựng đã từng
bước bảo đảm những nguyên tắc cơ bản, có tính khoa học và tính phối hợp cao
hơn. Hạn chế được tình trạng cục bộ trong xây dựng và thực hiện chính sách,
các văn bản quy phạm pháp luật về dân tộc.
2.4.4. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
vùng DTTS
Trong thời kỳ đổi mới, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội vùng DTTS đã coi trọng công tác
vận động, tổ chức nhân dân thực hiện quyền làm chủ, tham gia giám sát thực
hiện chính sách, pháp luật của các cơ quan nhà nước. Nhiều năm qua, Mặt trận
Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội vùng DTTS là nơi để người dân thực
hiện quyền tham gia vào các hoạt động quản lý nhà nước, xã hội; nơi để người
dân nêu ý kiến của mình, góp phần phản biện một công trình, dự án trên địa
21
bàn, trong đó có nhiều dự án tác động xấu đến sinh kế, môi trường, sự bảo tồn
các giá trị văn hóa truyền thống và an ninh quốc phòng khu vực biên giới.
2.4.5. Hạn chế trong hoạt động của các thiết chế
Các hạn chế đã được đánh giá trên các khía cạnh: i) thẩm quyền giải
quyết và sự phối hợp trong các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp; ii)
chất lượng của luật; iii) vấn đề hướng dẫn tổ chức thực hiện luật pháp, chính
sách; iv) vấn đề giám sát chính sách, pháp luật; v) tổ chức bộ máy; vi) công tác
lãnh đạo của các tổ chức đảng vùng DTTS; vii) vấn đề giám sát và phản biện
xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội vùng DTTS.
Chẳng hạn,việc ban hành các văn bản hướng dẫn chính sách, pháp luật còn
chậm, đôi khi không phù hợp, nhất là trong lĩnh vực hỗ trợ sản xuất nông
nghiệp, sử dụng đất đai, giáo dục và đào tạo ở vùng DTTS. Hoặc,việc giám sát
quá trình ban hành các văn bản hướng dẫn cũng như tổ chức thực hiện luật
pháp, chính sách chưa được tiến hành thường xuyên và có hệ thống để bảo đảm
tính hiệu quả, khả thi của luật cũng như đưa chính sách dân tộc từ luật vào cuộc
sống. Đây là một nội dung quan trọng cần tiếp tục được triển khai trong thời
gian tới...
2.5. ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG ÂM MƢU, THỦ ĐOẠN CỦA CÁC
THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG VẤN ĐỀ NHÂN QUYỀN CỦA CÁC DÂN TỘC
THIỂU SỐ ĐỂ CHỐNG PHÁ SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI
2.5.1. Cơ sở lý luận, pháp lý
Cơ sở lý luận, pháp lý đã được quy định trong Nghị quyết 16-NQ/TW
ngày 1/8/2007 về Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí của Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương khóa X (lần thứ 5), và Chỉ thị số 41/2004/CT-TTg của Thủ
tướng Chính phủ ngày 2/12/2004 về Tăng cường công tác bảo vệ và dấu tranh
về nhân quyền trong tình hình mới.
2.5.2. Hiệu quả đấu tranh
Đề tài đã đánh giá hiệu quả đấu tranh trên các mặt: Nhận thức được mục
tiêu, phương châm, cách thức hoạt động của thế lực thù địch lợi dụng vấn đề
nhân quyền, dân tộc, tôn giáo ở Việt Nam; Nắm vững một số luận điệu xuyên
22
tạc, vu cáo quyền con người trong lĩnh vực dân tộc ở Việt Nam; và một số kết
quả thực tế trong phòng, chống các hoạt động lợi dụng vấn đề nhân quyền của
các DTTS.
2.5.3. Hạn chế, thách thức trong đấu tranh
i) Một số cấp ủy Đảng, cơ quan nhà nước, cơ quan làm công tác tư
tưởng, truyền thông, văn hóa chưa nhận thức rõ mục đích, các phương thức
hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề nhân quyền của các DTTS
để gây mất ổn định, chống phá chế độ chính trị - xã hội Việt Nam; ii) Các cơ
quan có thẩm quyền còn bị động về thông tin, phản bác cứng nhắc, chưa thực
sự có chiều sâu, thiếu tính thuyết phục; iii) Sự phối hợp thiếu đồng bộ, chưa
thường xuyên giữa các cơ quan có trách nhiệm trong đấu tranh phòng, chống
lợi dụng vấn đề nhân quyền của các DTTS; iv) Số lượng các công trình nghiên
cứu chuyên sâu, các bài viết trên tạp chí, các phương tiện truyền thông về đấu
tranh phòng, chống lợi dụng vấn đề nhân quyền của các DTTS ở Việt Nam
chưa tương xứng với nhiệm vụ đấu tranh trong bối cảnh hiện nay.
2.6. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HIỆU QUẢ TÁC ĐỘNG CỦA PHÁP LUẬT,
CHÍNH SÁCH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA
CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.6.1. Hiệu quả tác động và nguyên nhân
a. Hiệu quả tác động
Theo nghiên cứu của đề tài, mặc dù gặp nhiều thách thức trước những
tác động nhiều chiều, phức tạp của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, song về
cơ bản, hệ thống chính sách, pháp luật về dân tộc thời kỳ đổi mới đã đem lại
nhiều tác động tích cực, hiệu quả đối với bảo đảm quyền của các DTTS ở Việt
Nam cả trong lĩnh vực dân sự, chính trị cũng như lĩnh vực kinh tế, xã hội và
văn hóa, và bảo đảm quyền của các nhóm dễ bị tổn thương là DTTS.
b. Nguyên nhân
Hiệu quả tác động của pháp luật, chính sách về bảo đảm quyền của các
DTTS ở Việt Nam thời kỳ đổi mới bắt nguồn từ các nguyên nhân: Một là, hoàn
thiện pháp luật, chính sách về bảo đảm quyền của các DTTS. Hai là, cơ quan
23
quản lý nhà nước về dân tộc ở Trung ương và địa phương tiếp tục được củng
cố và hoàn thiện. Ba là, chú trọng nâng cao nhận thức về quyền con người,
quyền công dân cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức, viên chức,
đặc biệt với cán bộ có liên quan đến công tác xây dựng và thực thi luật pháp,
chính sách đối với đồng bào DTTS. Bốn là, chú trọng nâng cao trình độ, năng
lực, đạo đức, kỷ luật của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức vùng DTTS.
Năm là, đẩy mạnh các hoạt động thanh tra, giám sát. Sáu là, tích cực triển khai
các hoạt động giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý đối với đồng bào DTTS. Bảy
là, chủ động hội nhập quốc tế.
2.6.2. Những vấn đề đặt ra
Theo đề tài, đã có các vấn đề đặt ra sau đây trong bảo đảm quyền của
các DTTS ở Việt Nam thời kỳ đổi mới: Một là, Tình trạng bất bình đẳng
trong hưởng thụ quyền của các DTTS ở Việt Nam, cả về dân sự, chính trị
cũng như kinh tế, xã hội, văn hóa; Hai là, Khuôn khổ pháp lý có hiệu lực bền
vững cho việc bảo đảm toàn diện các quyền của DTTS ở Việt Nam; Ba là,
Bảo vệ bản sắc văn hóa, ngôn ngữ và tri thức bản địa của các DTTS ở Việt
Nam; Bốn là, Về nghĩa vụ áp dụng các biện pháp đặc biệt và phù hợp trong
bảo đảm quyền của các DTTS ở Việt Nam; Năm là, Về nghĩa vụ tuân thủ các
điều ước quốc tế về quyền con người trong bảo đảm quyền của các DTTS ở
Việt Nam; Sáu là, Về hoạt động giám sát việc bảo đảm quyền của các DTTS
ở Việt Nam; Bảy là, Thông tin, giáo dục và truyền thông về bảo đảm quyền
của các DTTS ở Việt Nam.
24
Chƣơng 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA
CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH
TOÀN CẦU HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ ĐẾN NĂM 2030
3.1. DỰ BÁO MỘT SỐ XU HƢỚNG TÁC ĐỘNG ĐẾN BẢO ĐẢM QUYỀN
CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU
HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ ĐẾN NĂM 2030 VÀ TẦM NHÌN 2050
3.1.1. Tác động của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên
Thái Bình Dƣơng (CPTPP)
Bên cạnh việc mang lại lợi ích tích cực cho quá trình thúc đẩy và hiện
thực hoá quyền con người, các cơ chế thương mại hiện hành đã và đang gây
nên những tác động tiêu cực, ở các cấp độ khác nhau đến việc hưởng thụ quyền
của các DTTS ở Việt Nam; điển hình như quyền được chăm sóc sức khoẻ; các
quyền về lao động, việc làm; quyền về môi trường; quyền sử dụng đất, quyền
sinh kế và các quyền về văn hóa của DTTS.Chẳng hạn,các quy định về sở hữu
trí tuệ sẽ đặc biệt tác động đến hệ thống y tế, bệnh nhân ở khắp các vùng miền
của Việt Nam. Không ai khác, các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong tiếp
cận y tế như người DTTS là đối tượng đầu tiên phải gánh chịu chi phí phát sinh
hoặc thậm chí không có cơ hội để mua các loại thuốc điều trị thiết yếu để duy
trì, hay kéo dài sự sống…
3.1.2. Tác động của suy thoái môi trƣờng và biến đổi khí hậu
Suy thoái môi trường và biến đổi khí hậu tác động trực tiếp đến một số
quyền của DTTS ở Việt Nam, như: i) Quyền sống sẽ không thể được bảo đảm
nếu nguồn nước, không khí bị ô nhiễm; ii) Quyền về sức khỏe do ô nhiễm
không khí, đất đai, và nước; iii) Quyền tiếp cận nước sạch; iv) Quyền về thực
phẩm an toàn, thỏa đáng; v) Quyền có nhà nhà ở thích đáng do bị di dời tới
những nơi điều kiện sống không bảo đảm về sức khỏe và an toàn; vi) Quyền
làm việc, sinh kế; vii) Quyền giáo dục; vii) Quyền về văn hóa: không gian, môi
trường để duy trì, bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống sẽ bị suy giảm
nghiêm trọng do sự tác động của suy thoái môi trương, biến đổi khí hậu; ix)
Quyền của phụ nữ và trẻ em…
25
3.1.3. Tác động của các xu hƣớng trong vấn đề dân tộc, tôn giáo
Các xu hướng sau đây trong quan hệ dân tộc, tôn giáo đều có các tác
động thuận chiều và trái chiều đến yêu cầu, nội dung, phương thức bảo đảm
quyền của các DTTS ở Việt Nam: i) Xu hướng phát triển, nâng cao thu nhập và
trình độ dân trí ở vùng DTTS và miền núi; ii) Khoảng cách giàu, nghèo và tình
trạng bất bình đẳng giữa các nhóm dân tộc; giữa vùng đồng bằng, đô thị với
vùng DTTS, vùng sâu, vùng xa tiếp tục tồn tại; iii) Quan hệ giao lưu giữa các
dân tộc, nhất là giữa dân tộc thiểu số với dân tộc đa số ngày càng mở rộng; iv)
Xu hướng quan hệ dân tộc, tôn giáo xuyên biên giới; v) Tín ngưỡng, tôn giáo
truyền thống của các dân tộc thiểu số biến đổi trước sự xâm nhập của các tôn
giáo độc thần, tôn giáo có xu hướng thế tục13
; vi) Tôn giáo tiếp tục bị lợi dụng
vào các mục đích chính trị phản động. Trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị
tường định hướng XHCN, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cần coi trọng các
dự báo khoa học nhằm có những phản ứng kịp thời về pháp luật, chính sách để
bảo đảm hiệu quả quyền của các DTTS.
3.1.4. Tác động của các hoạt động giám sát nhân quyền quốc tế
Trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt những năm gần đây, hoạt động giám sát
của các cơ chế nhân quyền quốc tế này đã có những tác động tích cực đến bảo
đảm quyền con người nói chung và quyền của các DTTS nói riêng, thể hiện
trên các mặt: Nâng cao nhận thức về bảo đảm quyền; sửa đổi, bổ sung, hoàn
thiện chính sách, pháp luật, cơ chế; nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm
giải trình; thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu; thúc đẩy các hoạt động đối thoại
và đấu tranh về nhân quyền tại các diễn đàn quốc tế...Tuy nhiên, các hoạt động
giám sát nhân quyền quốc tế cũng đang đặt ra những thách thức lớn về tư duy,
về nâng cao năng lực trong việc hoàn thiện và thực thi chính sách, pháp luật về
bảo đảm quyền của các DTTS ở Việt Nam trong nhiều năm tiếp theo.
3.2. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN
3.2.1. Bảo đảm quyền của các DTTS ở Việt Nam theo nguyên tắc
bình đẳng, đoàn kết và không phân biệt đối xử vì lý do dân tộc
Việc hoàn thiện luật pháp, chính sách cũng như đánh giá hiệu quả tác
động của chúng cần được đánh giá từ việc tuân thủ nguyên tắc bình đẳng, đoàn
13
Lê Văn Lợi (2018), Giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội, tr.159.
26
kết và không phân biệt đối xử. Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang tạo ra
những thách thức hết sức đa dạng và phức tạp trong việc bảo vệ nguyên tắc cơ
bản này. Do vậy, hiện nay và nhiều năm tiếp theo, các cơ quan Đảng, Nhà
nước; chính quyền các cấp; các tổ chức chính trị - xã hội cần tiếp tục quán triệt
sâu sắc hơn nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết và không phân biệt đối xử về dân
tộc trong mọi hoạt động liên quan đến công tác dân tộc, trước hết trong xây
dựng các Chiến lược, chính sách và pháp luật về dân tộc.
3.2.2. Bảo đảm quyền của các DTTS ở Việt Nam là nghĩa vụ trƣớc
tiên của các cơ quan nhà nƣớc dƣới sự lãnh đạo của Đảng
Là quyền con người chứ không phải là sự ban phát, quyền của các DTTS
đặt ra các cấp độ nghĩa vụ cơ bản: tôn trọng, bảo vệ và thực hiện. Do vậy, hệ
thống pháp luật, chính sách về dân tộc ở Việt Nam cần được xây dựng theo
định hướng hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan
nhà nước và một số chủ thể khác trong việc bảo đảm quyền của các
DTTS.Nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước như Chính phủ, các bộ, ngành,
chính quyền địa phương; cán bộ, công chức, viên chức là vấn đề chính trị đồng
thời là vấn đề pháp lý nên phải được công khai, minh bạch và trách nhiệm giải
trình trong các báo cáo đánh giá thực hiện luật pháp, chính sách về bảo đảm
quyền của các DTTS và được giám sát bởi các cơ quan như Quốc hội, chính
phủ, các cơ quan thanh tra, các tổ chức phi chính phủ, hoặc giám sát của Ủy
ban giám sát ICERD, Ủy ban giám sát ICCPR, Ủy ban giám sát ICESCR...
3.2.3. Bảo đảm quyền của các DTTS ở Việt Nam chủ yếu bằng pháp
luật, chính sách
Quyền con người không chỉ là những giá trị nhân văn về một cuộc sống
có phẩm giá, mà cần phải được đảm bảo bằng luật và thể chế thích hợp. Đối
với các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo pháp luật,
chính sách của nhà nước có vai trò nổi bật trong việc xác lập địa vị bình đẳng
và nguyên tắc không phân biệt đối xử với họ trong việc hưởng thụ các quyền
con người trên các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội. Triển
khai quan điểm này trong bối cảnh hiện nay, cần quan tâm chú ý các phương
27
diện, như: i) Rà soát, sửa đổi, bổ sung pháp luật, chính sách có liên quan đến
quyền của DTTS trên tất cả các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội; ii) Luật hóa nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc
bảo vệ, bảo đảm quyền của các DTTS; iii) Nâng cao khả năng tiếp cận với các
cơ chế hành chính, tư pháp trong giải quyết các vi phạm; iv) Xử lý các mâu
thuẫn giữa pháp luật, chính sách với các phong tục, tập quán trong bảo đảm
quyền của các DTTS, đặc biệt đối với phụ nữ, trẻ em trong các lĩnh vực hôn
nhân, gia đình; tiếp cận các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục…
3.2.4. Bảo đảm quyền của các DTTS ở Việt Nam phải phù hợp với
các điều ƣớc quốc tế về quyền con ngƣời
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc bảo đảm
quyền của các DTTS ở Việt Nam cần phải tuân thủ các điều ước quốc tế về
quyền con người, đặc biệt là các điều ước quốc tế có liên quan trực tiếp đến
quyền của các DTTS. Triển khai quan điểm này, Việt Nam phải thực hiện các
nghĩa vụ phù hợp với cơ chế Hiến chương hoặc cơ chế công ước, như: i) Nội
luật hóa các quy định, nguyên tắc về quyền con người trong các Công ước quốc
tế mà Việt Nam là một quốc gia thành viên, phù hợp với điều kiện về chính trị,
kinh tế, truyền thống lịch sử, văn hóa; ii) Đảm bảo sự tiến bộ thực sự về nhân
quyền cho mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt chủng tộc, dân tộc, màu da,
giới tính, ngôn ngữ, chính kiến, nguồn gốc xuất thân...; iii) Định kỳ thực hiện
Báo cáo quốc gia về quyền con người trước Hội đồng nhân quyền (HRC) và
Báo cáo về tình hình thực hiện Công ước về quyền con người mà Việt Nam là
thành viên; iv) Thực hiện các khuyến nghị, trả lời kháng thư về quyền con
người; v) Triển khai các hoạt động giáo dục, thông tin về quyền con người; và
một số thủ tục khác theo yêu cầu của các Ủy ban thuộc Liên hợp quốc hoặc Ủy
ban giám sát công ước.
3.3. MỘT SỐ NHÓM GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
3.3.1. Nhóm giải pháp về thông tin, giáo dục và truyền thông
Ngày nay thông tin, giáo dục và truyền thông có vai trò rất quan trọng
đối với bảo đảm quyền con người, đặc biệt là quyền của các DTTS. Do vậy,
28
cần tập trung thực hiện các biện pháp cụ thể sau: Một là, cần xem giải pháp về
thông tin, giáo dục, truyền thông là giải pháp có tính chất bao trùm, đi trước
một bước, thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình bảo đảm quyền của các
DTTS; Hai là, làm rõ và phải chỉ ra được một cách cụ thể, sinh động quyền
bình đẳng của các DTTS, những hạn chế của họ trong việc thực hiện các quyền
bình đẳng và trách nhiệm của cộng đồng, của xã hội trong việc thực hiện quyền
bình đẳng của các DTTS; Ba là, thông tin, giáo dục và truyền thông cần gắn
với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở vùng DTTS; Bốn là, thông tin, giáo
dục và truyền thông cần được thực hiện dưới các hình thức đa dạng, nhiều cấp
độ; Năm là, đề cao trách nhiệm và sự phối hợp trong các hoạt động thông tin,
giáo dục và truyền thông; Sáu là, xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá về hiệu quả
hoạt động của công tác thông tin, giáo dục và truyền thông về bảo đảm quyền
của các DTTS.
3.3.2. Nhóm giải pháp về xây dựng pháp luật, chính sách
Về nhóm giải pháp chung,cần tập trung vào các nội dung: i) Hoàn thiện
quy trình xây dựng pháp luật, chính sách về bảo đảm quyền của các DTTS; ii)
Đẩy nhanh việc thông qua Luật Dân tộc; iii) Sửa đổi, bổ sung pháp luật, chính
sách có liên quan đến bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số phù hợp với
Hiến pháp năm 2013; iv) Bảo đảm sự thống nhất giữa việc ban hành pháp luật,
chính sách và các văn bản hướng dẫn thi hành; bảo đảm sự thống nhất giữa các
văn bản pháp lý liên quan đến bảo đảm quyền của các DTTS.
Về nhóm giải pháp cụ thể, cần bổ sung, hoàn thiện pháp luật, chính sách
về: i) Hạn chế, xóa bỏ định kiến, phân biệt đối xử đối với người DTTS; đồng
thời chú trọng xây dựng văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm đối với những
hành vi phân biệt đối xử, kỳ thị với người DTTS; ii) Bảo đảm quyền bầu cử,
ứng cử và tham gia quản lý nhà nước, xã hội của các DTTS; iii) Bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các DTTS; iv) Bảo đảm quyền về hôn
nhân và gia đình; v) Bảo đảm các quyền trong lĩnh vực tư pháp của các DTTS;
vi) Bảo đảm quyền có mức sống thích đáng cho đồng bào DTTS; vi) Bảo đảm
quyền về việc làm và nâng cao thu nhập cho đồng bào DTTS; vii) Bảo quyền
có đất sản xuất, đất ở, nhà ở; viii) Bảo đảm quyền về giáo dục; ix) Bảo đảm
29
quyền tiếp cận với các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe; x) Bảo đảm quyền
tham gia vào đời sống văn hóa và thụ hưởng các giá trị văn hóa…
3.3.3. Nhóm giải pháp về hoạt động của bộ máy nhà nƣớc trong lĩnh
vực công tác dân tộc
Trong giai đoạn hiện nay, cần chú trọng áp dụng các giải pháp sau: i)
Hoàn thiện cơ cấu tổ chức các cơ quan quản lý Nhà nước về dân tộc từ trung
ương đến địa phương; ii) Nâng cao chất lượng quản lý Nhà nước về công tác
dân tộc trong tình hình mới; iii) Huy động nguồn lực với tầm nhìn dài hạn; iv)
Xây dựng các tiêu chí đánh giá hoạt động của các cơ quan nhà nước trong bảo
đảm quyền của các DTTS; v) Tăng cường chế độ trách nhiệm của các cơ quan
nhà nước; vi) Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ làm
CTDT. Chẳng hạn, để nâng cao chất lượng quản lý về công tác dân tộc hiện
nay, cầnlồng ghép quyền của các DTTS vào các chính sách phát triển vùng
DTTS và miền núi. Cần bảo đảm rằng, các nguyên tắc và tiêu chuẩn về quyền
của DTTS phải được cơ quan có trách nhiệm từ Trung ương đến địa phương
lồng ghép hợp lý vào các chính sách phát triển vùng DTTS và miền núi, như:
Chính sách đầu tư phát triển bền vững; Chính sách phát triển giáo dục và đào
tạo; Chính sách cán bộ người DTTS; Chính sách đối với người có uy tín ở vùng
DTTS; Chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa...
3.3.4. Nhóm giải pháp về hoạt động của các tổ chức chính trị, xã hội,
nghề nhiệp
- Đối với các tổ chức Đảng ở vùng DTTS: i) Nắm vững các định
hướngcơ bản của Đảng về dân tộc và công tác dân tộc; ii) Đổi mới phương
thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở
địa phương, cơ sở; iii) Tăng cường công tác cán bộ và công tác bảo vệ chính trị
nội bộ.
- Đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp
vùng DTTS: Một là, đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức chính trị - xã hội ở xã trên cơ sở Luật Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam(2014); Hai là, thể chế hóa chủ trương phản biện xã hội; Ba là, thực hiện
vai trò tham gia giám sát đối với cơ quan quyền lực nhà nước; Bốn là, thực
30
hiện vai trò tự giám sát; Năm là, thực hiện vai trò vận động nhân dân tham gia
giám sát ở cơ sở; Sáu là, tổ chức và vận động nhân dân thực hiện phong trào
quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc.
3.3.5. Nhóm giải pháp về hợp tác quốc tế
Cần tập trung vào các giải pháp sau: i) Đổi mới tư duy về hợp tác quốc
tế trên lĩnh vực quyền con người; ii) Đánh giá, tổng kết việc thực hiện Quyết
định số 2214/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ về Phê duyệt đề án tăng
cường hợp tác quốc tế hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc
thiểu số; iii) Cụ thể hóacác nghĩa vụ của nhà nước Việt Nam trong việc thực
hiện Công ước ICERD (1965) và một số Công ước nhân quyền cơ bản khác;
iv) Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, giáo dục về quyền của các
DTTS; v) Xây dựng Báo cáo quốc gia có chất lượng, đúng thủ tục về tình hình
bảo đảm quyền của các DTTS; vi) Thực hiện các Khuyến nghị của Ủy ban các
Công ước và của Hội đồng nhân quyền (HRC); vii) Hợp tác với các Thủ tục
đặc biệt của Liên hợp quốc; viii) Chủ động đối thoại và đấu tranh bảo vệ quyền
của các DTTS.
3.3.6. Nhóm giải pháp về đấu tranh phòng, chống âm mƣu, thủ đoạn
hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề quyền của các dân tộc
thiểu số để kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam
Nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, cần coi trọng các giải pháp:
i) Nhận diện âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề quyền
của các dân tộc để kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá sự
nghiệp đổi mới; ii) Tăng cường trách nhiệm của các cơ quan Đảng, nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hộ; iii) Phát triển kinh tế- xã hội,
nâng cao đời sống mọi mặt của đồng bào các dân tộc, đồng bào các tôn giáo;
iv) Xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với an ninh nhân dân vững chắc
trên địa bàn đồng bào dân tộc thiểu số; v) Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong đấu
tranh chống âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề quyền của các dân tộc thiểu số
để kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam.
31
KẾT LUẬN
Trong thời kỳ đổi mới, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; tiếp thu và vận dụng sáng tạo các quan điểm của cộng đồng quốc
tế về vấn đề dân tộc; Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng bổ sung, hoàn
thiện luật pháp, chính sách nhằm đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền của các
DTTS ở nước ta. Tính đúng đắn và hiệu quả của hệ thống pháp luật, chính sách
đã được minh chứng bằng những thành tựu có ý nghĩa về sự hưởng thụ quyền
của các DTTS ở Việt Nam trong lĩnh vực chính trị, dân sự cũng như lĩnh vực
kinh tế, xã hội và văn hóa.
Tuy nhiên, nghiên cứu của đề tài cho thấy, vẫn tồn tại nhiều bất cập, hạn
chế về chính sách, pháp luật cũng như vấn đề cơ chế thực thi và giám sát. Trên
một số lĩnh vực chính sách, pháp luật chưa cung cấp được các biện pháp cần
thiết, hiệu quả để bảo vệ các nhóm DTTS trước nhiều thách thức khác nhau,
nhất là trước các tác động của kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc
tế. Nhiều quyền về tham gia, sinh kế, việc làm, mức sống thỏa đáng, bảo tồn
các giá trị văn hóa truyền thống…đã bị bỏ qua trong thực hiện các chương
trình, dự án phát triển ở vùng DTTS; sự chồng chéo về chính sách, pháp luật đã
làm tăng chi phí cho tiếp cận phổ cập, có chất lượng một số quyền kinh tế, xã
hội. Khoảng cách giàu nghèo đang làm giảm cơ hội của các DTTS trong việc
hưởng thụ công bằng thành quả của đổi mới; một số thiết chế về dân chủ, các
cơ quan hành chính, tư pháp các cấp, các tổ chức cung cấp dịch vụ công vùng
DTTS hoạt động thiếu hiệu quả, hạn chế về tính chuyên nghiệp, tính minh bạch
và trách nhiệm giải trình. Sự bất cập này cùng với tình trạng quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, chưa thực sự am hiểu văn hóa dân tộc thiểu số của đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức đang là những trở ngại không nhỏ đối với mục tiêu
hiện thực hóa quyền của các dân tộc thiểu số ở nước ta. Hơn nữa, với sự tác
động của các vấn đề mới trong quan hệ kinh tế quốc tế; quan hệ tôn giáo, dân
tộc; ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu; tình trạng di cư trong nước và
quốc tế…đang làm bộc lộ rõ hơn sự thiếu hụt các giải pháp bảo đảm hiệu quả
quyền của các DTTS. Tình hình này đang làm cho quyền của họ vẫn thuộc
32
nhóm quyền yếu thế trong tương quan với các quyền phổ biến của các nhóm xã
hội khác ở Việt Nam. Khắc phục các bất cập, hạn chế nêu trên cùng những
thách thức phức tạp, đan xen trong bảo đảm quyền của các DTTS ở Việt Nam
tiếp tục là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay.
Dựa trên phân tích, đánh giá tác động của các xu hướng trong bối cảnh
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, đề tài đã luận giải một số quan
điểm, nhóm giải pháp và kiến nghị nhằm bảo đảm hiệu quả hơn quyền của các
DTTS ở Việt Nam trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Các nhóm giải pháp, kiến nghị bảo
đảm quyền của các DTTS ở Việt Nam hiện nay tập trung vào các vấn đề cơ bản
như: Hoàn thiện pháp luật, chính sách; Thông tin, giáo dục và truyền thông;
Hoạt động của bộ máy nhà nước trong lĩnh vực công tác dân tộc; Hoạt động
của các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp; Hợp tác quốc tế; Đấu tranh
phòng, chống âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng
vấn đề quyền của các dân tộc thiểu số để kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết
dân tộc ở Việt Nam. Tính khả thi của các giải pháp và kiến nghị đòi hỏi phải
được triển khai một cách đồng thời, sáng tạo của các cơ quan có thẩm quyền về
công tác dân tộc.
Hiện nay, Việt Nam đang có nhiều cơ hội để hiện thực hóa tốt hơn quyền
của các DTTS. Triển vọng và tiềm năng của vấn đề này đang phụ thuộc vào
việc tăng cường trách nhiệm của các cơ quan Đảng, Nhà nước, chính quyền địa
phương, các đoàn thể chính trị, xã hội; đặc biệt là những nỗ lực của các cơ
quan, đội ngũ cán bộ công chức, viên chức có trách nhiệm xây dựng và thực thi
luật pháp, chính sách về bảo đảm quyền của các DTTS. Để hỗ trợ hiệu quả quá
trình này, việc tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu toàn diện, liên ngành lý luận và
thực tiễn dựa trên hệ thống các dữ liệu được thu thập một cách khoa học, nhằm
hoàn thiện luật pháp, chính sách và cơ chế bảo đảm quyền của các DTTS trong
bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế vẫn là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết hiện nay.