nghiên cỨu ĐẶc ĐiỂm lâm sàng, cẬn lâm sàng · web...
TRANSCRIPT
ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm tai giữa mạn tính là quá trình viêm toàn bộ hệ thống hòm nhĩ-xương
chũm, không có bệnh sinh và căn nguyên đặc hiệu nào [10]. Thông thường người ta
nói viêm tai giữa trở thành mạn tính khi thời gian chảy tai của tai giữa kéo dài trên
ba tháng. Tuy vậy khoảng thời gian này không có tính chất cố định, chúng ta có thể
gặp những viêm tai giữa mạn tính ngay từ tháng thứ hai [42].
Đây là một bệnh còn phổ biến ở Việt Nam và trên thế giới [14], [20], [42].
Theo nghiên cứu sơ bộ của ngành Tai Mũi Họng nước ta, ước tính có khoảng 5%
dân số bị viêm tai giữa các loại, chiếm khoảng 6-10% so với các bệnh tai mũi họng
[17]. Tỷ lệ mắc bệnh viêm tai giữa ở một số phường ở Hà Nội là 8,9% [1]. Viêm tai
giữa mạn ở trẻ em là một bệnh có tần suất khá cao 6,86% [25]. Theo các tài trong
và ngoài nước, tỷ lệ viêm tai giữa khoảng 10% ở trẻ em [4], [24]. Theo thống kê tại
Viện Tai Mũi Họng biến chứng của viêm tai giữa chiếm 60% trong các bệnh cấp
cứu tai mũi họng [13].
Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, mọi giới, mọi nơi và có thể gây nhiều biến
chứng nguy hiểm đến tính mạng, nếu không được cứu chữa kịp thời đặc biệt là ở trẻ
em do sức đề kháng của trẻ yếu hơn: Viêm màng não, áp xe não, viêm tắc tĩnh mạch
bên, liệt mặt… [4], [10], [14], [15], [20], [42].
Viêm tai giữa gây chảy mủ tai kéo dài, ngoài việc gây giảm sức nghe làm
ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, còn có thể gây nhiều biến chứng nguy hiểm
đến tính mạng.
Viêm tai giữa mạn tính có triệu chứng lâm sàng đa dạng và được chia làm 2
loại: Viêm tai giữa mạn tính nhầy, bệnh tích còn khu trú ở niêm mạc và viêm tai
giữa mạn tính mủ, bệnh tích đã vượt khỏi niêm mạc và làm tổn thương đến xương
[14], [42].
1
Vấn đề điều trị viêm tai giữa mạn tính ngoài việc loại trừ bệnh tích còn nhằm
đến bảo tồn và phục hồi sức nghe cho bệnh nhân [19], [20], [23], [61].
Có nhiều phương pháp phẫu thuật chỉnh hình tai giữa: Mổ vá nhĩ đơn thuần,
mổ sào bào thượng nhĩ kèm vá nhĩ...Phẫu thuật chỉnh hình tai giữa trong điều trị viêm
tai giữa mạn tính không những giải quyết được bệnh tích, tránh biến chứng mà còn
bảo tồn và phục hồi sức nghe [19], [23], [5560], [60].
Xuất phát từ tính quan trọng, thực tiễn, khoa học của bệnh viêm tai giữa mạn
tính và vấn đề điều trị viêm tai giữa mạn tính bằng phẫu thuật như nêu trên, chúng tôi
thực hiện đề tài: "Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả phẫu
thuật vá nhĩ của viêm tai giữa mạn tính" nhằm hai mục tiêu:
1. Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của viêm tai giữa mạn tính.
2. Đánh giá kết quả phẫu thuật vá nhĩ về phương diện giải phẫu và sức nghe.
2
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ
Từ lâu người ta đã phát hiện những tai có màng nhĩ thủng và tổn thương của
xương chũm trên các xác có độ tuổi 2000 năm ở Ai Cập, họ phát hiện ra những lỗ
khoan và sự phá hủy xương chũm, người Iran tiền sử đã có những bằng chứng về
bệnh tai giữa. Viêm tai và viêm tai xương chũm đã được mô tả từ lâu, Hippocrate
mô tả "Tai đau dữ dội và sốt kéo dài sẽ đe dọa gây rối loạn về thần kinh cho bệnh
nhân và gây tử vong" [3], [4]. Ông là người đầu tiên đã nêu được vai trò của màng
nhĩ trong chức năng nghe.
Phẫu thuật xương chũm được bắt đầu thực hiện từ thế kỷ 18 [4]. Năm 1980,
Stacke lần đầu tiên tiến hành mổ triệt căn từ sau ra trước. Sau đó Zaufal tiến hành
mổ triệt căn nhưng từ trước ra sau. Cuối cùng Schwartze đã hoàn chỉnh cách mổ.
Wolf thì mở rộng ống tai phía sau trên bắt đầu mở vào sào đạo, sau đó phát triển về
sào bào và thượng nhĩ. Còn Hautant thì bằng đường đục hình cánh cung, cùng một
lúc bào mỏng mặt ngoài các hốc trên để mở đường đi vào các hốc đó.
Trong gần 4 thập kỷ qua, đã có nhiều cải tiến làm phong phú thêm phương
pháp điều trị phẫu thuật tai xương chũm và tạo hình màng nhĩ.
Từ năm 1908 đã lần lượt xuất hiện các loại phẫu thuật bảo tồn, phẫu thuật tạo
hình màng nhĩ và sau đó trở thành thường quy vào thập niên 50 của thế kỷ trước
[4], [28]. Từ năm 1952, Wullstein (Đức) và Zollner (Đức) khởi xướng nguyên lý
tạo hình tai giữa vừa giải quyết bệnh tích, vừa tăng cường sức nghe. Năm 1956,
House đã hoàn chỉnh kỹ thuật lấy biểu bì và đặt mảnh ghép lên lớp sợi của phần
màng nhĩ còn lại, gọi là kỹ thuật Overley. Năm 1958, Heermann dùng cân cơ thái
dương làm mảnh ghép. Năm 1960, Shea đề ra một kỹ thuật đặt mảnh ghép là tĩnh
mạch ở mặt dưới màng nhĩ gọi là kỹ thuật Underley. Năm 1961, Stors hoàn chỉnh
kỹ thuật Underley với mảnh ghép là cân cơ thái dương và phổ biến khắp Hoa kỳ.
3
Năm 1962, Heermann dùng sụn nắp tai làm mảnh ghép [13], [28].
Năm 1957, Hall và Rytzner giới thiệu kỹ thuật cắt xương bàn đạp, dùng vật
liệu ghép tự thân là xương đe hay xương búa. Năm 1958, Shea sử dụng vật liệu thay
thế là ống polyethylen. Năm 1965, Guilford giới thiệu và phổ cập kỹ thuật chỉnh
hình chuỗi xương con bằng xương đe tự thân, kỹ thật này được áp dụng cho đến
hiện nay [5].
Năm 1967, Mer là người đầu tiên sử dụng ống nội soi để đánh giá cấu trúc
tai giữa [26].
Năm 1998, Bùi Minh Đức đã thực hiện vá nhĩ hoàn toàn qua ống nội soi [26].
Ngày nay, phẫu thuật tai giữa dưới sự hướng dẫn của nội soi cứng là một xu
hướng phát triển của chuyên khoa tai. Ở nước ta đã có nhiều nơi đã áp dụng phẫu
thuật nội soi trong phẫu thuật điều trị viêm tai giữa mạn tính [19].
Theo tháng ngày thuật bảo tồn đã phát triển thành phẫu thuật chỉnh hình tai
giữa với mục đích là loại trừ bệnh tích, phục hồi tốt về mặt giải phẫu và chức năng
cho bệnh nhân [19].
Tình hình nghiên cứu trong nước:
Nguyễn Hoàng Nam (1999) nghiên cứu một cách có hệ thống và khoa học về
việc ứng dụng nội soi tai trong tạo hình tai giữa ở người lớn [46].
Phan Văn Dưng (2000) nghiên cứu kết quả phẫu thuật vá nhĩ tại Bệnh Viện
Trung Ương Huế, cho kết quả chung của phẫu thuật là: Tốt (40%), khá (34%), xấu
(26%) [13].
Trương Tam Phong, Nguyễn Văn Cường, Phạm Tuấn Khoa và cs (2002),
qua nghiên cứu kết quả phẫu thuật tạo hình tai giữa tại Bệnh Viện bưu điện II, nhận
thấy màng nhĩ liền sau 2 lần tái khám là 86,54% [35].
Trần Văn Khen, Nguyễn Tiến Dũng (2003) nghiên cứu kết quả phẫu thuật vá
nhĩ bằng kỹ thuật Underlay trên 131 bệnh nhân, tại Bệnh Viện Đa Khoa Tỉnh
Khánh Hòa cho kết quả: Tỷ lệ thành công về phương diện giải phẫu là 87%, về sức
nghe trung bình tăng 20-30dB [17].
4
Phạm Ngọc Chất (2005) nghiên cứu tạo hình màng nhĩ ở nhóm tuổi nghỉ hưu,
tại Bệnh Viện Đại Học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh và Bệnh Viện Thiện Hạnh,
có kết quả: Tỷ lệ lành màng nhĩ là 92,6%; sức nghe phục hồi trung bình là 7 dB [5].
Phạm Vũ Thanh Hải, Huỳnh Bá Tân (2008) nghiên cứu ứng dụng nội soi
trong phẫu thuật vá nhĩ tại Bệnh Viện Đa Khoa Đà Nẵng, các tác giả nhận xét: Kỹ
thuật đặt mảnh ghép phù hợp với phương pháp nội soi là kỹ thuật tạo vạt da ống tai
màng nhĩ [16].
Lê Trần Quang Minh, Lê Thị Hoa Tiên (2008) nghiên cứu phẫu thuật chỉnh
hình màng nhĩ đơn thuần qua nội soi tại Bệnh Viện Tai Mũi Họng thành phố Hồ
Chí Minh cho thấy phẫu thuật chỉnh hình màng nhĩ đơn thuần qua nội soi có nhiều
ưu điểm hơn so với kính hiển vi, nhờ khả năng quan sát lỗ thủng màng nhĩ qua nội
soi, vẫn có thể đánh giá đầy đủ, các tiêu chí cần thiết cho phẫu thuật viên [26].
Nguyễn Tấn Phong (2009) nghiên cứu nội soi chỉnh hình tai giữa trên hốc
mổ khoét chũm tiệt căn [37].
Lương Hồng Châu (2009) nghiên cứu kết quả phẫu thuật kín thì một trên
bệnh nhân viêm tai xương chũm có cholesteatoma, với hai mục tiêu: Nghiên cứu
tỷ lệ liền màng nhĩ ngay lần đầu tiên phẫu thuật trên bệnh nhân viêm tai xương
chũm có cholesteatom và nghiên cứu tỷ lệ tái phát cholesteatom sau phẫu thuật kín
thì 1 [8].
Tình hình nghiên cứu ngoài nước:
- Ở Pháp
Võ Quang Phúc (1993): Phẫu thuật vá nhĩ trên 82 bệnh nhân ở Bệnh Viện
Dieu-Nantes với kết quả giải phẫu sau 6 tháng là 92,2%, tăng sức nghe ở trẻ em là
5,6 ± 8,38 dB và ở người lớn là 14,5 ± 14,2 dB.
- Ở Mỹ
Bùi Minh Đức (1993) ở Caliofornia: Tác giả trình bày một số kinh nghiệm
trong việc chuẩn bị và theo dõi bệnh nhân trước và sau mổ vá nhĩ, các giai đoạn và
các kỹ thuật cần chú ý để tạo điều kiện thuận lợi cho việc mổ vá nhĩ.
5
Gersdorff-M (1995): Vá nhĩ có tỷ lệ thành công về giải phẫu là 87,7%, về sức
nghe là 67,2%. Tác giả đề nghị có thể mổ vá nhĩ phối hợp trên những tai còn ướt.
Perkins-R, Bui-HT (1996): Nghiên cứu phẫu thuật trên 113 bệnh nhân mổ vá
nhĩ, dùng mảnh ghép là cân cơ thái dương, cố định bằng formol, có kết quả 63%
bệnh nhân tăng sức nghe từ 0-10 dB, có 97% bệnh nhân tăng sức nghe sau mổ từ 0-
20 dB. Tác giả kết luận đây là phương pháp vá nhĩ có kết quả chức năng tốt và ít
biến chứng.
Lemon (1997) đã khảo sát trên 200 trường hợp bị viêm tai giữa tái phát nhiều
lần trong năm, cho thấy viêm VA là nguyên nhân quan trọng trong viêm tai giữa ở
trẻ em, đặc biệt là trẻ em bị viêm tai giữa nhiều lần. Các nguyên nhân khác như: Hở
hàm ếch, các khối u ở vòm mũi họng ảnh hưởng đến lỗ mở của vòi nhĩ gây rối loạn
thông khí tai giữa hoặc ứ đọng dịch trong hòm nhĩ đưa đến viêm tai giữa.
Từ những năm 1950 cho đến nay, phẫu thuật chỉnh hình tai giữa không
ngừng phát triển qua những nghiên cứu trong và ngoài nước, góp phần nâng cao
hiệu quả điều trị, ngày càng hoàn chỉnh về kỹ thuật nhắm đến bảo tồn, phục hồi về
mặt giải phẫu và chức năng cho bệnh nhân. Những thành công và thất bại giúp
chúng ta rút ra những kết luận bổ ích. Tuy nhiên chúng ta phải biết chọn lọc những
phương pháp phù hợp với thực tiễn Việt Nam nói chung và ở Thừa Thiên Huế nói
riêng, phù hợp với từng người bệnh góp phần chăm sóc và bảo vệ sức khỏe người
dân ngày càng tốt hơn.
1.2. SƠ LƯỢC GIẢI PHẪU VÀ SINH LÝ TAI GIỮA
Tai vừa là cơ quan thính giác, vừa là cơ quan điều chỉnh thăng bằng cho cơ
thể bao gồm tai ngoài, tai giữa và tai trong.
Về mặt phôi thai học, tai ngoài và tai giữa xuất phát từ khe mang thứ 1, rãnh
trong của khe mang sinh ra hòm nhĩ và vòi nhĩ, rãnh ngoài của khe mang sinh ra
ống tai ngoài và vành tai, màng nhĩ hình thành do sự hàn dính của đáy rãnh trong và
rãnh ngoài [41].
6
Tai giữa: Gồm có hòm nhĩ nằm trong phần đá xương thái dương, hòm
nhĩ gồm màng nhĩ, chuỗi xương con, khớp bầu dục. Tai giữa có 2 phần phụ là
vòi nhĩ và xương chũm. Tai giữa và xương chũm thông nhau bởi sào đạo. Tai
giữa có nhiệm vụ dẫn truyền và điều chỉnh âm thanh từ màng nhĩ đến tai trong
[41], [50].
Hình 1.1: Cơ quan thính giác (nguồn Chiristy Krames)
1.2.1. Hòm nhĩ
Hòm nhĩ giống một cái hộp dẹp có sáu thành, nằm trên mặt phẳng đứng dọc,
chếch từ trước ra sau. Hòm nhĩ được chia làm 2 tầng: Tầng trên gọi là thượng nhĩ
chứa chuỗi xương con, tầng dưới gọi là trung nhĩ [41].
1.2.1.1. Màng nhĩ
Vị trí và kích thước
Màng nhĩ là thành ngoài hòm nhĩ, màu trắng bóng, hình bầu dục đường kính
đứng khoảng 10 mm, đường kính ngang khoảng 8 mm [27], [28], [38]. Màng nhĩ ở
7
người trưởng thành nằm nghiêng và hợp với mặt phẳng của thành trên ống tai ngoài
một góc 1400 [27], [38].
Màng nhĩ gồm 2 phần:
Phần trên gọi là phần chùng: Nhỏ, mỏng dính trực tiếp vào xương đá ở
khuyết nhĩ.
Phần dưới gọi là phần căng: Lớn, dày hơn phần chùng, bám vào rãnh nhĩ
bởi một vòng sụn sợi.
Hai phần này ngăn cách nhau bởi nếp búa trước và nếp búa sau. Mặt ngoài
màng nhĩ lõm do cán xương búa kéo vào trong, nơi lõm nhất gọi là rốn nhĩ. Ngoài
ra còn có bóng cán xương búa và mỏm ngoài xương búa.
Hình 1.2: Màng nhĩ phải nhìn qua phểu soi [33]
1: 1/4 sau trên; 2: 1/4 trước trên; 3: 1/4 sau dưới; 4: 1/4 trước dưới
8
1
23
4
Hình 1.3: Màng nhĩ Phải nhìn bằng nội soi [61]
Cấu tạo màng nhĩ
Màng nhĩ dày khoảng 0,1 mm được cấu tạo bởi 3 lớp:
Lớp da: Liên tiếp với da ống tai ngoài.
Lớp sợi: Gồm lớp tia và lớp vòng, lớp này không có ở phần chùng.
Lớp niêm mạc: Liên tiếp với niêm mạc hòm nhĩ.
Màng nhĩ được chia làm bốn khu bởi hai đường thẳng: Một đường trùng với
cán búa, đường kia vuông góc với đường trên.
Bốn khu đó là:
Góc trước trên, góc sau trên: 2 góc này liên quan rất chặt với xương con
và thừng nhĩ.
Góc sau dưới và góc trước dưới [38], [41].
9
Mấu ngắn xương búa
Phần màng chùng (1/4 trước trên)
Màng chùng (1/4 sau trên)
Cán xương búa
Rốn nhĩ
Nón sáng
Một 1/4 trước dưới1/4 sau dưới
1.2.1.2. Các xương con của tai
Gồm một chuỗi ba xương là xương búa, xương đe và xương bàn đạp nối
màng nhĩ với cửa sổ bầu dục. Các xương này dính vào thượng nhĩ bởi mạc treo và
dây chằng.
Hình 1.4: Các xương con của tai [33]
Hình 1.5: Hòm nhĩ và chuỗi xương con (phải) nhìn bằng nội soi [61]
10
Xương búaXương đe
Thừng nhĩ
Xương bàn đạp
1.2.2. Vòi Nhĩ
Là một ống nhỏ nối liền hòm nhĩ với thành bên vòm mũi họng, dài khoảng
35 mm đi từ trên xuống dưới, từ sau ra trước, đi từ hòm nhĩ đổ vào thành bên
họng bằng một miệng vòi hình loa (gọi là loa vòi), vòi nhĩ được lót bởi niêm
mạc liên tiếp với niêm mạc hòm nhĩ ở trên và niêm mạc vòm mũi họng ở dưới.
Gồm hai đoạn, 1/3 trên bằng xương, 2/3 dưới bằng sụn, hai đầu vòi nhĩ thì
rộng nhưng chỗ nối của 2 đoạn thì hẹp và được gọi là eo vòi khoảng (2mm và
1 mm) [41].
Lỗ vòi phía dưới luôn đóng kín do hai thành sụn khép lại, mở ra khi cơ bao
màn hầu co lại (khi nuốt), quanh lỗ vòi có tổ chức lympho vòi [41].
Chức năng vòi nhĩ [22], [38] [41], [578]
- Thông khí tai giữa với hầu làm cân bằng áp lực không khí tai giữa và
bên ngoài.
- Dẫn lưu các chất dịch tiết từ tai giữa xuống họng.
Vòi nhĩ thông là một điều kiện đảm bảo cho tai được nghe tốt, nếu tắc
vòi nhĩ sẽ gây giảm áp lực trong hòm nhĩ, ứ đọng chất tiết gây viêm tai giữa.
1.2.3. Xương chũm
Về mặt giải phẫu người ta coi xương chũm như là một hình tháp tam giác bị
cắt ngọn, để ngược, có 5 mặt có tầm quan trọng phẫu thuật khác nhau.
Tế bào xương chũm: Trong khối xương chũm có nhiều hốc rỗng gọi là tế bào
chũm, một trong những hốc đó phát triển to hơn những cái khác, gọi là sào bào
thông với hòm nhĩ qua sào bào. Xung quanh sào bào là các thông bào xương
chũm thông với sào bào.
Xương chũm được chia làm 3 thể: Thể xốp, thể thông bào, thể đặc ngà [22],
[38], [41].
11
Hình 1.6: Xương chũm [54]
1.2.4. Sinh lý tai giữa
Chức năng chính của tai giữa là truyền các rung động sóng âm từ không khí
vào chất dịch ở tai trong và tăng thêm cường độ rung động (tác dụng biến thế) để bù
vào năng lượng bị mất khi rung động đi vào môi trường lỏng của tai trong.
Khi rung động đi từ môi trường không khí vào môi trường nước thì 99,9%
năng lực bị dội lại, chỉ có 0,1% là đi vào môi trường nước. Ở tai sự giảm năng lực
này làm mất 30 dB cường độ của âm thanh. Tuy nhiên, nhờ diện tích màng nhĩ lớn
hơn 20 lần diện tích cửa sổ bầu dục và hoạt động của chuỗi xương con như là một
đòn bẩy với tỷ số tăng cường lực là 1,3 nên đã bù lại được 30 dB đã mất nói trên.
Sự dẫn truyền sóng rung động được tiếp tục ở tai trong đến tận cơ quan corti.
Chức năng thứ hai của tai giữa là bảo vệ tai trong nhờ các cơ của xương búa,
xương bàn đạp và lớp đệm không khí trong hòm nhĩ.
Chức năng thứ ba là tạo ra sự lệch pha giữa của sổ bầu dục và cửa sổ tròn.
Những chức năng của tai giữa được thực hiện bằng sự hoạt động của màng
nhĩ, chuỗi xương con, các cơ xương búa, cơ xương bàn đạp và vòi nhĩ [41].
12
Xương chũmỐng tai ngoài
1.2.4.1. Sự rung động màng nhĩ
Màng nhĩ rung động như một màng vi âm (microphone) khi bị tác động bởi
sóng âm và biến sóng âm thành rung động cơ học. Biên độ dao động rất nhỏ và thay
đổi tùy theo vùng: Vùng có biên độ lớn nhất là vùng dưới rốn và sau rốn. Sự rung
động này được chuyển trực tiếp vào xương búa vì cán búa dính liền vào màng nhĩ.
Diện tích rung động của màng nhĩ lớn gấp 20 lần so với diện tích cửa sổ bầu
dục, nhờ vậy cường độ của sóng âm được tăng lên 20 lần và biên độ giảm xuống.
1.2.4.2. Sự rung động của xương búa và xương đe
Chúng ta có thể coi xương búa và xương đe như một khối thống nhất, có
cách rung động giống nhau. Sự rung động được thực hiện theo hai trục khác nhau
tùy theo đặc tính của âm thanh.
Trục trước sau đi từ mỏm trước của xương búa đến trụ ngắn của xương đe
được sử dụng đối với âm trầm.
Trục trọng lượng đi từ mấu ngắn xương búa đến khớp đe đạp. Khối búa đe
rung động theo trục này khi nó bị kích thích bởi âm cao.
1.2.4.3. Sự rung động của xương bàn đạp
Rung động cơ học từ màng nhĩ được chuyển qua khối búa-đe, rồi đến xương
bàn đạp qua khớp đe-đạp. Xương bàn đạp di động trong cửa sổ bầu dục theo hai
hướng khác nhau tùy theo cường độ. Đối với cường độ nhỏ, xương này di động
chung quanh trục thẳng đứng, ở bờ sau đế xương bàn đạp giống như một cánh cửa
mà bản lề ở bờ sau cửa sổ bầu dục. Đối với cường độ lớn, xương bàn đạp di động
theo lối nghiên lên trên và nghiên xuống dưới dọc theo trục nằm đi từ cực trước đến
cực sau của cửa sổ bầu dục.
Khớp đe-đạp và dây chằng vòng có vai trò rất quan trọng trong việc dẫn
truyền lực: Khi thì nó tập trung lực đối với cường độ nhỏ, khi thì nó phân tán bớt
lực nếu cường độ lớn.
Tóm lại màng nhĩ và các xương con hoạt động như một biến thế năng lượng
với tỷ lệ 20/1 và như đòn bẩy với hệ số tăng cường lực 1,3. Tác dụng của hai yếu tố
này là 20/1* 1,3=26/1
13
Nếu chúng ta tính bằng cường độ thính lực thì thấy rằng hệ thống màng nhĩ-
tiểu cốt giúp cho tai thu hồi được 28 dB trong số 30 dB bị mất khi rung động đi từ
môi trường không khí vào chất dịch của tai trong (ngoại dịch và nội dịch).
1.2.4.4. Hoạt động cơ búa và cơ bàn đạp
Cơ búa: Khi cơ này co nó làm căng màng nhĩ bằng cách quay đầu xương búa
ra ngoài và đưa cán búa vào trong. Đồng thời nó cũng làm tăng áp lực chất dịch
trong mê nhĩ bằng cách kéo thân xương đe ra ngoài, làm cho mỏm dài quay vào
trong và ấn xương bàn đạp vào cửa sổ bầu dục.
Trái lại cơ bàn đạp kéo chỏm bàn đạp về phía sau và vào trong làm cho mỏm
dài của xương đe bị đẩy ra ngoài và đồng thời màng nhĩ đỡ căng. Áp lực của nội
dịch và ngoại dịch cũng giảm đi.
Nói chung tác dụng của hai cơ búa và bàn đạp là thay đổi độ căng của màng
nhĩ và áp lực của tai trong, tùy theo tiếng động to hay nhỏ. Nhờ vậy tai có thể nghe
được những tiếng rất khẽ hoặc chịu nổi những tiếng ầm to. Đó là chức năng bảo vệ
của cơ búa và cơ bàn đạp.
1.3. BỆNH HỌC VIÊM TAI GIỮA MẠN TÍNHViêm tai giữa mạn tính là một bệnh còn phổ biến ở Việt Nam, gặp ở mọi lứa
tuổi, thể tiết dịch thường gặp chủ yếu ở trẻ em.
Nếu không được điều trị đúng cách sẽ làm ảnh hưởng đến sức nghe và có thể
đưa đến những biến chứng nguy hiểm.
1.3.1. Định nghĩaViêm tai giữa là quá trình viêm toàn bộ hệ thống hòm nhĩ-xương chũm,
không có bệnh sinh và căn nguyên đặc hiệu nào [10], [45]. Viêm của tai giữa có thể
bao gồm cả viêm xương chũm, đỉnh xương đá và các thông bào.
Đa số các tác giả cho rằng viêm tai giữa trở thành mạn tính khi thời gian
chảy tai kéo dài trên ba tháng. Tuy vậy khoảng thời gian này không có tính chất cố
định: Chúng ta có thể gặp những viêm tai giữa mạn tính ngay từ tháng thứ hai [42].
Theo Ủy Ban Viêm Tai Giữa của Viện Hàn Lâm Tai Mũi Họng Và Phẫu
Thuật Đầu-Cổ Hoa kỳ (1980), viêm tai giữa mạn tính là khi quá trình viêm xảy ra
sau hơn 3 tháng liền bị bệnh [10].
14
Theo WHO (1988) viêm tai giữa mạn tính khi chảy mủ tai kéo dài hoặc >2
tuần [13].
1.3.2. Nguyên nhân
Viêm tai giữa mạn tính có nhiều nguyên nhân và yếu tố thuận lợi [14], [24],
[28], [42], [45]:
Do viêm tai giữa cấp không được điều trị và theo dõi tốt.
Viêm tai giữa sau các bệnh nhiễm trùng lây: Như cúm, sởi.
Do tắc vòi nhĩ.
Viêm tai giữa do đặt ống thông nhĩ, chấn thương, áp lực.
Các yếu tố yếu tố thuận lợi:
Cấu trúc xương chũm: Loại xương chũm có nhiều thông bào, nhiều
niêm mạc lót trong các thông bào dễ bị hơn.
Độc tố của vi khuẩn.
Thể trạng, cơ địa bệnh nhân: Suy nhược, giảm sức đề kháng, mắc các
bệnh toàn thân, suy giảm miễn dịch dễ viêm tai xương chũm hơn.
Điều kiện sống đông đúc kém vệ sinh, trẻ được gởi ở nhà trẻ, mẫu
giáo...
1.3.3. Triệu chứng lâm sàng
Viêm tai giữa mạn tính có 2 loại: Viêm tai giữa mạn tính nhầy và viêm tai
giữa mạn tính mủ [14].
1.3.3.1. Viêm tai giữa mạn tính mủ nhầy
Thường gặp ở trẻ em, thường do viêm VA, tổn thương chủ yếu ở niêm mạc
tai giữa, chưa tổn thương xương.
Triệu chứng lâm sàng nghèo nàn chủ yếu là chảy mủ tai từng đợt (phụ thuộc
viêm VA), mủ nhầy, dính, không thối. Ít ảnh hưởng sức nghe.
Khám tai: Lỗ thủng thường nhỏ, sắc cạnh, thường ở góc 1/4 trước dưới.
Với viêm tai giữa mạn tính mủ nhầy, mủ chảy từng đợt kéo dài theo nguyên
nhân nếu loại trừ nguyên nhân thì tự khỏi, không để lại di chứng tới sức nghe, lỗ
thủng nhỏ nên thường tự liền, thường không gây biến chứng gì nguy hiểm.
15
1.3.3.2. Viêm tai giữa mạn tính mủ
Gặp ở mọi lứa tuổi, tổn thương cả niêm mạc và xương. Có ba thể:
Viêm tai giữa mạn tính thường
Toàn thân: Không có gì đặc biệt.
Cơ năng:
- Thường chỉ nặng hay váng đầu.
- Nghe kém tăng dần: Lúc đầu truyền âm sau thành hỗn hợp.
Thực thể:
- Chảy mủ tai kéo dài, đặc thối, có thể có cholesteame.
- Màng nhĩ thủng rộng, bờ nham nhở, sát khung xương, đáy bẩn.
Viêm tai giữa mạn tính hồi viêm
Trên cơ sở viêm tai giữa mạn tính thường, xuất hiện các dấu hiệu của đợt cấp
tính và đe dọa các biến chứng.
Toàn thân: Sốt cao kéo dài, bộ mặt nhiễm trùng rõ. Trẻ nhỏ có thể sốt cao
co giật, rối loạn tiêu hóa.
Cơ năng:
- Nghe kém tăng lên rõ rệt.
- Đau tai dữ dội, đau từng đợt, đau sâu trong tai, lan ra vùng chũm hay
lan ra cả vùng thái dương gây nên tình trạng nhức đầu.
- Ù tai, chóng mặt.
Thực thể:
- Chảy mủ tai thường xuyên hơn, thối hơn, có thể lẩn máu hoặc
cholesteatome.
- Vùng chũm sau tai nề đỏ, ấn có phản ứng đau rõ rệt.
- Soi tai: Lỗ thủng sát khung xương, có dấu hiệu sập góc sau trên rõ.
Viêm tai giữa mạn tính hồi viêm xuất ngoại
Tình trạng xuất ngoại có thể gặp trong viêm tai xương chũm cấp nhưng
thường gặp hơn trong viêm tai giữa mạn tính hồi viêm, khi mủ trong các xoang
chũm thoát ra ngoài các xoang chũm gọi là xuất ngoại.
16
Tùy vị trí mủ thoát ra mà ta có các thể xuất ngoại sau:
Xuất ngoại sau tai.
Xuất ngoại thái dương-gò má (thể Zygoma, hay gặp ở trẻ <12 tháng).
Xuất ngoại mỏm chũm (thể Bézold).
Xuất ngoại vào ống tai (thể Gellé).
Xuất ngoại nền chũm (thể Mouret).
Viêm tai xương chũm khó tự khỏi, bệnh kéo dài gây giảm sức nghe và có thể
gây nhiều biến chứng nguy hiểm đến tính mạng: Viêm màng não, áp xe đại tiểu
não, viêm tắc tĩnh mạch bên... đây là những cấp cứu trong Tai Mũi Họng.
1.4. PHẪU THUẬT VÁ NHĨ
1.4.1. Chỉ định phẫu thuật vá nhĩ
Nhờ sự phát triển của các phương tiện vi phẫu thuật và sử dụng kháng sinh,
ngày nay người ta chủ động phẫu thuật để điều trị các viêm tai giữa mủ mạn tính,
trái hẳn với thái độ thụ động điều trị bằng nội khoa. Phẫu thuật tạo hình màng nhĩ,
hòm nhĩ được đặc biệt chỉ định trong các viêm tai giữa mạn tính đã gây những di
chứng thủng màng nhĩ và nghe kém [19], [23].
Chỉ định đòi hỏi một số điều kiện cơ bản [19], [23]:
Chế ngự hẳn viêm tai.
Khả năng tai trong còn nguyên vẹn.
Vòi nhĩ hoạt động tốt.
Các cửa sổ tròn và cửa sổ bầu dục còn tốt.
1.4.2. Các loại phẫu thuật
Phẫu thuật tai hiện nay được chia làm 2 loại: Phẫu thuật điều trị viêm tai
dành cho các trường hợp viêm tai-xương chũm và phẫu thuật điều trị điếc dành cho
những trường hợp điếc dẫn truyền hoặc điếc tiếp nhận mà không có viêm tai hoặc
quá trình viêm đã ổn định (gồm phẫu thuật phục hồi hệ thống dẫn truyền âm thanh
tai giữa và phẫu thuật phục hồi chức năng tiếp âm tai trong) [49].
17
Phẫu thuật vá nhĩ phối hợp mở sào bào thượng nhĩ nhằm hai việc: Giải quyết
bệnh tích và tái tạo lại màng nhĩ, trả lại cho tai giữa khả năng dẫn truyền âm thanh
từ màng nhĩ vào tới cửa sổ bầu dục [19], [23], [28], [53], [61].
Có nhiều kiểu vá nhĩ, nhưng trong thực tế thường dùng theo phương pháp
của Wullstein, do Wullstein (1953) đề xuất và hệ thống hóa thành 5 kiểu vá nhĩ tùy
theo mức độ bệnh tích viêm. Gọi là vá nhĩ theo Wullstein I, II, III, IV, V [19], [23].
Kiểu Wullstein I: Vá màng nhĩ đơn thuần. Chỉ định cho trường hợp thủng
màng nhĩ, tiểu cốt còn tốt, tai khô hoặc chảy dịch nhầy, không chảy dịch mủ.
Kiểu Wullstein II: Mở thượng nhĩ kiểm tra các cấu trúc của tai giữa và lấy đi
bệnh tích nếu cần, nhưng khung nhĩ và tiểu cốt vẫn được bảo tồn. Mảnh ghép
sẽ che phủ thượng nhĩ và lỗ thủng màng nhĩ. Chỉ định cho viêm tai giữa mạn
tính có bệnh tích thượng nhĩ.
Kiểu Wullstein III: Khoét rỗng sào bào thượng nhĩ kèm ghép da vào màng
nhĩ và thượng nhĩ, mảnh da ghép phải tỳ vào đầu xương bàn đạp. Chỉ định
trong trường hợp hệ thống tiểu cốt búa, đe bị hỏng không dùng được nữa.
Kiểu Wullstein IV: Khoét rỗng đá chũm toàn phần và cắt bỏ hai gọng xương
bàn đạp hoặc bỏ xương bàn đạp hư hại, kèm theo ghép vá da vào hòm nhĩ và
vào cửa sổ bầu dục. Chỉ định cho trường hợp xương chũm bị tổn thương
nhiều, các tiểu cốt bị hư hết.
Kiểu Wullstein V: Khoét rỗng đá chũm toàn phần, rồi mở một cửa sổ ở ống
bán khuyên ngoài, sau đó ghép da vào hố mổ phủ lên cửa sổ mới mở. Chỉ
định trong trường hợp xương chũm bị tổn thương nhiều, các tiểu cốt bị hư và
cửa sổ bầu dục bị tắc không thể giải phóng được.
1.4.2. Các chất liệu dùng làm mảnh ghép
Màng nhĩ lành theo cơ chế di chuyển của các tế bào biểu mô thượng bì [11]:
Khi có thủng màng nhĩ, hoạt động phân bào không chỉ xảy ra ở mép lỗ thủng
mà còn ở toàn bộ màng căng, phân bào mạnh nhất ở khung nhĩ và 2 mm cách bờ lỗ
thủng màng nhĩ và hoạt động phân bào yếu nhất ở vùng cán xương búa. Sự di
18
chuyển tế bào đáy từ rìa lỗ thủng ra lỗ thủng là “Sự di chuyển tế bào đáy của biểu
mô thượng bì” giúp làm lành màng nhĩ.
Hiện tượng phì đại tế bào thượng bì màng nhĩ ở bờ lỗ thủng làm thu hẹp kích
thước lỗ thủng xảy ra khi có sự tăng sinh của các lớp của biểu mổ thượng bì, thuyết
khung nâng đỡ được thừa nhận và sử dụng trong dán vật liệu hay trong phẫu thuật
tạo hình màng nhĩ bằng các loại cân cơ, thành tĩnh mạch, màng sụn. Mảnh ghép có
tác dụng tạo khung nâng đỡ để lớp tế bào thượng bì bít dần lỗ thủng màng nhĩ.
Chất liệu được dùng làm mảnh ghép phải đáp ứng điều kiện sinh học sau [35]
- Phải mỏng, đàn hồi, không gián đoạn, 2 mặt nhẵn không tiếp xúc với
các thành phần khác của tai.
- Phải đảm bảo độ căng và mạch máu nuôi dưỡng có thể bò vào.
Các loại mảnh ghép dùng để vá nhĩ thường có 3 loại [13], [19], [28], [35]:
- Loại tự thân.
- Loại đồng chủng.
- Loại dị chủng.
- Ngoài ra còn có sử dụng vật liệu nhân tạo [23].
Trải qua nhiều năm nghiên cứu và áp dụng, hiện nay tại viện Tai Mũi Họng
Hà Nội và khoa Tai Mũi Họng Bệnh Viện Trung Ương Huế thường sử dụng chất
liệu ghép là cân cơ thái dương và sụn vành tai, lấy ngay trên bệnh nhân trong quá
trình phẫu thuật (mảnh ghép tự thân).
1.5. TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ
1.5.1. Tiêu chuẩn thành công của phẫu thuật vá nhĩ dựa vào
Tình trạng chảy mủ tai: Khô hay còn chảy mủ.
Tình trạng màng nhĩ: Bịt kín hay còn thủng.
Về thính lực [13], [18], [35].
1.5.2. Đánh giá sức nghe
1.5.2.1. Các phương pháp do sức nghe
Hiện tại ở Việt Nam có hai phương pháp để đánh giá sức nghe thông dụng là
đo sức nghe đơn giản và đo sức nghe bằng máy [2], [12].
19
Đo sức nghe đơn giản: Bằng tiếng nói và bằng âm thoa, thường dùng âm
thoa 128 Hz hoặc 256 Hz.
Đo sức nghe bằng máy: Đánh giá sức nghe trong buồng cách âm tiêu chuẩn
với máy đo sức nghe.
1.5.2.2. Các chỉ tiêu để đánh giá sức nghe
Đánh giá sức nghe theo ngưỡng nghe (dB).
Đánh giá sức nghe theo ngưỡng nghe (dB) dựa vào trung bình cộng của 4 tần
số 500, 1000, 2000, 4000 Hz. Có nhiều cách phân loại mức độ điếc theo (dB)
Phân loại mức độ điếc theo Tổ Chức Y Tế Thế Giới [62]:
- Bình thường : 0-20dB
- Điếc nhẹ : 21-40 dB
- Điếc vừa : 41-60 dB
- Điếc nặng : 61-80 dB
- Điếc sâu : >80 dB.
Phân loại điếc theo hội Thanh-Thính Học Hoa Kỳ ASHA:
- Bình thường : 0-25dB
- Điếc độ I : 26-40 dB
- Điếc độ II : 41-70dB
- Điếc độ III : 71-90dB
- Điếc độ IV : >90dB.
20
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: 32 bệnh nhân viêm tai giữa mạn tính, được phẫu thuật
vá nhĩ và tái khám sau 6 tháng, tại Bệnh Viện Trung Ương Huế.
Thời gian nghiên cứu: Từ 3/2007- 3/2009.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân
Các trường hợp được chẩn đoán viêm tai giữa mạn tính
Chảy mủ tai kéo dài >3 tháng [42].
Có thủng màng nhĩ.
X quang phim Schüllers: Giảm hoặc mất các thông bào xương chũm tai
được mổ [20].
Hiện tại tai được mổ đang ổn định:
Tai ngưng chảy mủ: Niêm mạc tai giữa khô hoặc chỉ còn ẩm ướt.
Nếu còn chảy mủ thì chăm sóc tại chỗ và điều trị nội khoa cho đến khi tai
khô thì mới mổ.
Vòi nhĩ thông được đánh giá bằng:
Nhỏ thuốc nước vào tai để tiếp xúc với màng nhĩ, bảo bệnh nhân làm
nghiệm pháp Valsalva đồng thời quan sát thấy sủi bọt và khí qua lỗ thủng
màng nhĩ.
Hoặc nhỏ thuốc nước vào tai, ấn bình tai vào ống tai vài lần thì bệnh nhân
có cảm giác đắng trong miệng.
Được phẫu thuật vá nhĩ theo phương pháp Wullstein II.
21
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân
Có tổ chức cholesteatome:
Căn cứ vào lâm sàng (mủ chảy có mùi thối khắm, có vẩy trắng óng ánh
xà cừ).
Phim Schüller:
- Trên phim có hình ảnh khoét rỗng
- Hoặc hình ảnh cuộn khói hay đám mây trắng đang bay trên nền trời
xám.
Khi phẫu thuật bệnh tích có cholesteatome.
Có viêm nhiễm ở mũi xoang và họng đang tiến triển.
Những bệnh nhân không đến tái khám.
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp nghiên cứu tiến cứu, mô tả, có can thiệp lâm sàng.
Các bước tiến hành
Ghi nhận về các đặc điểm chung.
Hỏi bệnh sử, tiền sử.
Khám lâm sàng.
Đo thính lực bằng máy.
Chụp phim Schüllers.
Làm các xét nghiệm trước mổ.
Tham gia cuộc mổ hoặc quan sát trực tiếp cuộc mổ để đánh giá các tổn
thương của tai giữa.
Theo dõi bệnh nhân giai đoạn hậu phẫu:
- Theo dõi bệnh nhân trong giai đoạn đang nằm viện.
- Theo dõi bệnh nhân giai đoạn xa sau mổ (sau khi ra viện 6 tháng).
Lập phiếu theo dõi bệnh nhân với các chỉ tiêu nghiên cứu thống nhất trước
và sau mổ cho tất cả bệnh nhân được chọn.
22
2.2.2. Phương tiện nghiên cứu
Bộ dụng cụ khám tai mũi họng thông thường.
Máy đo đơn âm tại ngưỡng.
Bộ dụng cụ vi phẫu tai.
Kính hiển vi phẫu thuật.
Khoan điện.
Phiếu điều tra.
Hình 2.1: Bộ dụng cụ vi phẫu tai
23
Hình 2.2: Khoan điện
Hình 2.3: Kính hiển vi phẫu thuật
24
2.2.3. Các chỉ tiêu nghiên cứu
2.2.3.1. Đặc điểm chung
Tuổi: Chia ra các nhóm tuổi như sau:
- Trẻ em: ≤15 tuổi.
- Người lớn: >15 tuổi.
Giới: Nam hay nữ.
Địa dư: Ghi rõ địa chỉ cụ thể và số điện thoại để đánh giá về địa dư và
mời tái khám về sau.
Nghề nghiệp: Ghi rõ nghề nghiệp cụ thể, để đánh giá theo các nhóm
như sau:
- Lao động trí óc.
- Lao động chân tay.
- Buôn bán.
- Nội trợ.
- Nghĩ hưu.
Lý do đến khám.
2.2.3.2. Các đặc điểm lâm sàng trước mổ
Tiền sử
Tiền sử về thời gian chảy tai với các mốc:
- ≤1 năm
- >1-5 năm
- >5-10 năm
- >10 năm.
Tiền sử về tính chất chảy mủ tai:
- Chảy tai từng đợt hay liên tục.
- Mùa chảy tai nhiều nhất: Quanh năm, xuân, hạ, thu, đông.
- Tính chất của mủ tai: Mủ trong loãng, mủ nhầy, mủ đặc thối.
Hiện tại: Tai được mổ đã khô hay vừa hết chảy.
25
Triệu chứng cơ năng trước mổ
Nghe kém.
Ù tai.
Đau tai.
Triệu chứng khác.
Triệu chứng thực thể trước mổ: Lỗ thủng màng nhĩ về các phương diện:
Vị trí:
- Thủng trung tâm
- Thủng ở 1/4 trước trên
- Thủng ở 1/4 sau trên
- Thủng ở 1/4 trước dưới
- Thủng ở 1/4 sau dưới
- Thủng rộng (thủng >4mm).
Bờ lỗ thủng về các phương diện:
- Nham nhở.
- Không nham nhở.
- Tính chất sát xương của lỗ thủng.
Kích thước lỗ thủng: Đường kính lỗ thủng màng nhĩ tính bằng mm.
- ≤2 mm
- >2-4 mm
- >4-6 mm
- >6 mm.
Đánh giá tình trạng tai giữa nhìn qua lỗ thủng màng nhĩ bằng mắt thường
và bằng kính lúp: Hiện tại tai giữa đã khô hay còn ướt, có nụ sùi hay
polype trong tai giữa không.
Khám xác định vòi nhĩ thông bằng cách
- Nhỏ thuốc nước vào tai để tiếp xúc với màng nhĩ, bảo bệnh nhân làm
nghiệm pháp Valsalva đồng thời quan sát thấy sủi bọt và khí qua lỗ
thủng màng nhĩ.
26
- Hoặc nhỏ thuốc nước vào tai, ấn bình tai vào ống tai vài lần thì bệnh
nhân có cảm giác đắng trong miệng.
- Nếu vòi nhĩ không thông thì điều trị đến khi thông mới mổ.
Khám xác định không có bệnh đang tiến triển ở vùng mũi họng. Nếu có
điều trị ổn mới mổ.
2.2.3.3. Các đặc điểm cận lâm sàng trước mổ
Đánh giá sức nghe trước mổ bằng thính lực đồ:
Đo sức nghe đơn âm tại ngưỡng:
- Đo khí đạo và cốt đạo bằng máy Model AC5 trong buồng cách âm
tại khoa Tai Mũi Họng Bệnh Viện Trung Ương Huế.
- Do bác sỹ ở phòng đo thính lực khoa Tai Mũi Họng Bệnh Viện
Trung Ương Huế đo.
Tính toán sức nghe của tai bệnh bằng cách lấy trung bình cộng số
décibel (dB) sức nghe trên thính lực đồ 4 tần số sinh hoạt là 500 Hz,
1000 Hz, 2000 Hz, 4000 Hz [21]. Đánh giá mức độ nghe kém (theo Tổ
Chức Y Tế Thế Giới 1988) dựa vào số dB trên thính lực đồ của tai bệnh
tính theo trung bình cộng số décibel (dB) sức nghe trên thính lực đồ 4
tần số nêu trên:
- Bình thường : 0-20dB
- Điếc nhẹ : 21-40 dB
- Điếc vừa : 41-60 dB
- Điếc nặng : 61-80 dB
- Điếc sâu : >80 dB.
Tính giảm bình quân sức nghe trước mổ của 32 bệnh nhân: Bằng trung
bình cộng mức độ mất nghe của 32 bệnh nhân.
Đánh giá khoảng Rinne trước mổ: Là hiệu số của trung bình cộng của khí
đạo và cốt đạo trên thính lực đồ ở 4 tần 500 Hz, 1000 Hz, 2000 Hz, 4000
Hz trước mổ để làm cơ sở cho chỉ định phẫu thuật và so sánh với kết quả
sau mổ.
27
Chụp phim Schüllers và đánh giá về các phương diện:
Đánh giá thể loại xương chũm, gồm 3 thể:
- Thể thông bào: Thông bào phát triển mạnh.
- Thể xốp: Thông bào phát triển vừa.
- Thể đặc ngà: Thông bào phát triển kém.
Hình ảnh bệnh lý của tai bệnh:
- Mờ đặc
- Mờ nhạt
- Các thông bào sáng (bình thường).
2.2.3.4.Phẫu thuật vá nhĩ
Phương pháp mổ:
Với kính hiển vi phẫu thuật, dụng cụ vi phẫu tai, khoan điện.
Bệnh nhân được gây mê nội khí quản hoặc tê tại chỗ.
Mảnh ghép là cân cơ thái dương.
Mổ theo phương pháp Wullstein II, với các bước phẫu thuật như sau:
- Rạch da sau tai.
- Lấy mảnh cân cơ thái dương dàn mỏng và để khô trên phiến kính.
- Làm tươi lỗ thủng để có thời gian tự cầm máu trước khi đặt mảnh vá,
trong thời gian này phẫu thuật viên sẽ phẫu thuật xương chũm.
- Bóc tách da vùng chũm sau tai và vén da bằng banh tự động, bộc lộ
các mốc phẫu thuật ở mặt ngoài xương chũm.
- Vào sào bào và thượng nhĩ để kiểm tra và lấy bỏ bệnh tích, nếu cần thì
nạo vét bệnh tích.
- Bộc lộ khớp búa-đe để kiểm tra sự nguyên vẹn và di động (dưới kính
hiển vi phẫu thuật).
- Rạch da ống tai từ vị trí 12 giờ đi vòng xuống cực dưới rồi vòng ra
phía trước tới điểm 2-3 giờ thì ngừng lại.
28
- Bóc tách da ống tai liền với màng nhĩ, rồi bóc tách màng nhĩ khỏi cán
xương búa, rồi vén toàn bộ lên phía trên.
- Mảnh ghép được đặt theo kỹ thuật underlay: Đặt mảnh ghép dưới cả 3
lớp màng nhĩ, trên cán búa. Đặt lại da ống tai kèm màng nhĩ phủ lên
mảnh lên mảnh ghép, cố định mảnh ghép bằng spongel hoặc surgicel
ở trong hòm nhĩ và ống tai ngoài [23], [56].
- Đặt mèche ống tai ngoài và dẫn lưu hố mổ sau tai.
- Đóng vết mổ ba lớp (lớp da và hai lớp cân).
- Băng ép.
Theo dõi hậu phẫu:
Bệnh nhân nằm viện từ 7 đến ngày.
Dùng kháng sinh 7 đến 10 ngày sau mổ.
Thay băng ngoài 2 ngày một lần.
Rút mèche dẫn lưu sau tai vào ngày thứ hai sau mổ, rút mèche cố định ở
ống tai ngoài sau 7-10 ngày, spongel hoặc surgicel cố định có thể để thêm
từ 3-5 ngày nữa
Cắt chỉ vết mổ sau 7 ngày.
Làm thuốc tai khô hoặc ướt (có nhỏ kháng sinh tại chỗ) 2 ngày một lần.
2.2.3.5. Theo dõi bệnh nhân sau mổ 6 tháng
Triệu chứng cơ năng:
Tai khô hay còn chảy.
Sức nghe về chủ quan có cải thiện hay không.
Ù tai.
Thực thể đánh giá tình trạng mảnh ghép về các phương diện
Liền kín hay không
Hở vị trí nào
Kích thước lỗ hở.
29
Theo dõi biến chứng trong và sau mổ 6 tháng.
Cận lâm sàng:
Đo lại sức nghe đơn âm tại ngưỡng tai đã được mổ vá nhĩ.
Tính toán lại giảm sút sức nghe đường khí đạo của tai mổ bằng cách lấy
trung bình cộng số décibel (dB) sức nghe trên thính lực đồ ở 4 tần số sinh
hoạt là 500 Hz, 1000 Hz, 2000 Hz, 4000 Hz để so sánh trước mổ.
Đánh giá mức độ nghe kém sau mổ và phân các mức độ, với các tiêu
chuẩn như trước mổ:
- Không điếc
- Điếc nhẹ
- Điếc vừa
- Điếc nặng
- Điếc sâu.
Tính lại giảm bình quân sức nghe sau mổ của 32 bệnh nhân: Bằng trung
bình cộng mức mất nghe của 32 bệnh nhân sau mổ.
Tính khoảng Rinne sau mổ: Là hiệu số của trung bình cộng của khí đạo
và cốt đạo trên thính lực đồ ở 4 tần 500 Hz, 1000 Hz, 2000 Hz, 4000 Hz
sau mổ và so sánh với khoảng Rinne trước mổ.
Tính hiệu quả Rinne [21] là hiệu số của khoảng Rinne trước và sau phẫu
thuật, nói cách khác là số dB thu lại được nhờ phẫu thuật.
Nếu hiệu quả Rinne [21]:
- >20 dB : Rất tốt.
- 11-20 dB : Tốt.
- 1-10 dB : Trung bình.
- ≤0 : Phẫu thuật thất bại.
Chúng tôi sẽ so sánh các triệu chứng cơ năng, thực thể, các thông số thính
lực đồ sau mổ với trước mổ để đánh giá kết quả phẫu thuật, đồng thời đối chiếu với
các tác giả khác.
30
2.2.3.6. Đánh giá kết quả phẫu thuật
Kết quả sau mổ 6 tháng về mặt giải phẫu, theo [13], [18]:
Tốt (Tai khô và mảnh ghép liền kín).
Khá (Tai khô và mảnh ghép thủng < trước mổ).
Kém (Tai chảy mủ, hoặc mảnh ghép thủng ≥ trước mổ).
Kết quả sau mổ về chức năng dựa vào thu hồi sức nghe tính theo hiệu quả
Rinne với tiêu chuẩn [21]:
- Tốt : >20 dB
- Khá : 11-20 dB
- Trung bình : 1-10 dB
- Kém : 0 dB
Tìm hiểu mối liên quan giữa kết quả phẫu thuật với các yếu tố lâm sàng, cận
lâm sàng.
2.2.4. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm Epi.Info 2002.
31
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG
Bảng 3.1: Số bệnh nhân được mổ vá nhĩ theo tuổi và giới (n=32)
Giới
Nhóm tuổiNam Nữ
Tổng số
n %
≤15 3 1 4 12,5
>15-30 6 10 16 50,0
>30-40 2 3 5 15,6
>40-50 1 3 4 12,5
>50 1 2 3 9,4
Tổng số 13 (40,6%) 19 (59,4%) 32 100
Biểu đồ 3.1. So sánh tỷ lệ các nhóm tuổi
32
Nhận xét: Nhóm tuổi >15-30 chiếm tỷ lệ cao nhất (50%), nhóm tuổi >50
chiếm tỷ lệ thấp nhất (9,4%). Tuổi trung bình là 29,18 ± 14,59 tuổi, nhỏ nhất là 9
tuổi, cao nhất là 65 tuổi. Sự khác biệt giữa lứa tuổi ≤15 (12,5%) và >15 (87,5%) có
ý nghĩa thống kê, với p<0,05. Sự khác biệt tỷ lệ nam và nữ không có ý nghĩa, với
p>0,05.
Bảng 3.2: Phân bố bệnh nhân theo địa dư và nghề nghiệp (n=32)
Địa dư
Nghề nghiệpThành thị Nông thôn
Tổng số
n %
Lao động trí óc 9 7 16 50,0
Lao động tay chân 6 5 11 34,4
Buôn bán 1 1 2 6,3
Nội trợ 1 0 1 3,1
Nghỉ hưu 1 1 2 6,3
Tổng số 18 (43,8%) 14 (56,2%) 32 100
Nhận xét:
- Lao động trí óc chiếm tỷ lệ lớn nhất (50 %).
- Sự khác biệt về tỷ lệ giữa thành thị và nông thông không có ý nghĩa thống
kê, với p>0,05.
33
Bảng 3.3: Lý do vào viện (n=32)
Lý do đến khám Đau tai Chảy tai Ù tai Nghe kém
Có 6 (18,8%) 25 (78,1%) 5 (15,6%) 2 (6,3%)
Không 26 (81,2%) 7 (21,9%) 27 (84,4%) 30 (93,7%)
Biểu đồ 3.2. Lý do vào viện
Nhận xét: Triệu chứng chảy tai có tỷ lệ cao nhất trong các lý do đến khám
(78,1%).
34
3.2. CÁC ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG TRƯỚC MỔ
3.2.1. Các đặc điểm lâm sàng trước mổ
3.2.1.1. Tiền sử
Bảng 3.4: Thời gian chảy mủ tai trong tiền sử (n=32)
Thời gian ≤1 năm 1>-5 năm >5-10 năm >10 năm Tổng
Số bệnh nhân 7 6 9 10 32
Tỷ lệ % 21,9 18,8 28,1 31,1 100
Biểu đồ 3.3. Tỷ lệ thời gian chảy tai ≤ 1 năm và > 1 năm
Nhận xét: Số bệnh nhân chảy tai >1 năm là 25 (78,1%), khác biệt có ý nghĩa
thống kê so với số bệnh nhân chảy tai ≤1 năm là 7 (21,9%), với p<0,05.
35
Bảng 3.5: Tính chất mủ tai trong tiền sử (n=32)
Tính chất mủ tai Loãng Nhầy Đặc thối Đặc không thối Tổng
Số bệnh nhân 5 6 18 3 32
Tỷ lệ % 15,6 18,8 56,3 9,4 100
Nhận xét: Chảy mủ đặc thối là nhiều nhất 56,3%, có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) so với chảy mủ loãng, nhầy và đặc không thối.
3.2.1.2. Triệu chứng lâm sàng trước mổ
Bảng 3.6: Các triệu chứng cơ năng trước mổ (n=32)
Triệu chứng Đau tai Nghe kém Ù tai
Số bệnh nhân 13 31 25
Tỷ lệ % 40,6 96,9 78,1
Biểu đồ 3.4. Triệu chứng cơ năng trước mổ
Nhận xét: Triệu chứng nghe kém nhiều nhât với tỷ lệ 96,9%, tiếp theo là ù tai
với tỷ lệ 78,1%, đau tai là 40,6%.
36
Bảng 3.7: Kích thước lỗ thủng màng nhĩ trước mổ (n=32)
Kích thước lỗ thủng ≤4 mm >4 mm Tổng số p
Số bệnh nhân 21 11 32p=0,125
Tỷ lệ % 65,6 34,4 100
Nhận xét: Tỷ lệ lỗ thủng ≤4 mm lớn hơn so với lỗ thủng >4 mm, không có ý
nghĩa thống kê, với p>0,05.
Bảng 3.8: Vị trí của lỗ thủng trước mổ (n=32)
Vị trí của lỗ thủng Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Trước dưới 7 21,9
Sau dưới 1 3,1
Trước trên 3 9,4
Sau trên 2 6,3
Trung tâm 8 25,0
Thủng rộng (thủng >4 mm) 11 34,4
Tổng số 32 100
Biểu đồ 3.5. Tỷ lệ vị trí lỗ thủng màng nhĩ
Nhận xét: Các vị trí thủng chiếm tỷ lệ cao là thủng rộng chiếm tỷ lệ cao nhất
(34,4%), tiếp theo là thủng trung tâm (25,0%), thủng trước dưới (21,9%), thủng
trước trên (9,4%), sau trên (6,3 %), sau dưới (3,1%) chiếm tỷ lệ thấp.
37
Bảng 3.9. Bờ lỗ thủng (n=32)
Bờ lỗ thủng Nhẵn đều Nham nhở Tổng số
Số bệnh nhân 21 11 32
Tỷ lệ % 65,6 34,4 100
Nhận xét: Lỗ thủng nhẵn đều chiếm tỷ lệ 65,6%, cao hơn lỗ thủng nham nhở
34,4%, với p<0,05.
Bảng 3.10. Tính chất sát xương của lỗ thủng
Tính sát xương Không sát xương Sát xương Tổng
Số bệnh nhân 23 9 32
Tỷ lệ % 71,9 28,1 100
Nhận xét: Thủng không sát xương chiếm tỷ lệ lớn với p<0,05
3.2.2. Các đặc điểm cận lâm sàng trước mổ
Bảng 3.11: Loại xương chũm và hình ảnh bệnh lý tai mổ trên phim Schüllers
(n=32)
Hình ảnh bệnh lýLoại xương chũm
Tổng số Tỷ lệ %Thông bào Xốp Đặc ngà
Mờ nhạt 3 6 0 9 28,1
Mờ đặc 9 12 2 23 71,9
Tổng số 12 (37,5%) 18 (56,3%) 2 (6,3%) 32 100
Nhận xét: Xương chũm loại xốp (thông bào phát triển vừa) chiếm tỷ lệ nhiều
nhất 56,3%; tiếp đến là loại thông bào (thông bào phát triển nhiều) chiếm 37,5%;
loại đặc ngà (thông bào kém phát triển) là ít nhất 6,3%. Phim Schüllers có hình ảnh
mờ đặc là 71,9%, cao hơn mờ nhạt (28,1%), với p<0,05.
38
Bảng 3.12: Mức độ nghe kém tai mổ trước mổ (n=32)
Mức độ điếc Điếc nhẹ Điếc vừa Điếc nặng Tổng số
Số BN trước mổ 16 13 3 32
Tỷ lệ % trước mổ 50,0 40,6 9,4 100
Nhận xét: Trước mổ điếc nhẹ là nhiều nhất 50%; điếc vừa 40,6%; điếc nặng
là ít nhất 9,4%. Cường độ mất nghe trung bình trước mổ là 41,8 ± 10,8 dB. Ca mất
nghe nặng nhất là 71,3 dB; ca mất nghe thấp nhất là 26,3 dB.
Bảng 3.13: Khoảng Rinne trước mổ (n=32)
Khoảng Rinne trước mổ <30 dB ≥30 dB Tổng
Số bệnh nhân 14 18 32
Tỷ lệ% 43,8 56,2 100
Nhận xét: Sự khác biệt giữa khoảng Rinne <30 và ≥30 không có ý nghĩa
thống kê, với p>0,05. Khoảng Rinne trung bình trước mổ 32,05 ± 8,97 dB. Ca có
khoảng Rinne lớn nhất là 61,3 dB; ca có khoảng Rinne thấp nhất là 18,7 dB.
3.3. KẾT QUẢ PHẪU THUẬT
3.3.1. Bệnh tích đánh giá trong khi mổ
Bảng 3.14: Bệnh tích xương chũm quan sát được khi mổ (n=32)
Bệnh tích xương chũm Ít Nhiều Tổng
Số bệnh nhân 15 17 32
Tỷ lệ % 46,9 53,1 100
Nhận xét: Sự khác biệt tỷ lệ bệnh tích nhiều và ít không có ý nghĩa thống kê
với p>0,05.
39
3.3.2. Kết quả phẫu thuật sau 6 tháng
Bảng 3.15: Các triệu chứng cơ năng sau mổ 6 tháng và so sánh với trước mổ
(n=32)
Triệu chứng Đau tai Nghe kém Ù tai
Số bệnh nhân trước mổ 13 31 25
Tỷ lệ % trước mổ 40,6 96,9 78,1
Số bệnh nhân sau mổ 4 20 9
Tỷ lệ % sau mổ 12,9 62,5 28,1
Biểu đồ 3.6. So sánh triệu chứng cơ năng trước và sau mổ
Nhận xét: Các triệu chứng cơ năng sau mổ cải thiện rõ với đau tai từ 40,6%
còn 12,9%; nghe kém từ 96% còn 62,5%; ù tai từ 78,1% còn 28,1%.
40
Bảng 3.16: Tình trạng chảy mủ tai sau mổ 6 tháng (n=32)
Tình trạng chảy mủ Có chảy Không chảy Tổng
Số bệnh nhân 3 29 32
Tỷ lệ % 9,4 90,6 100
Nhận xét: Sau mổ có 3 ca chảy tai chiếm 9,4%, giảm rõ so với 100% chảy tai
trong tiền sử.
Bảng 3.17: Tình trạng hở và liền kín của mảnh ghép sau mổ từ 6 tháng (n=32)
Tình trạng mảnh ghép Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Liền kín 18 56,3
Hở trước dưới 2 6,4
Hở sau dưới 3 9,4
Hở trước trên 1 3,2
Hở trung tâm 8 25
Tổng số 32 100
Biểu đồ 3.7. Tỷ lệ liền kín và hở màng nhĩ
Nhận xét: Tỷ lệ liền kín màng nhĩ là 56,3%. Hở ở vị trí trung tâm là nhiều
nhất 25%.
Bảng 3.18: Kích thước lỗ thủng màng nhĩ sau mổ 6 tháng (n=32)
41
Kích thước lỗ thủng Liền kín ≤2 mm >2-4 mm Tổng số
Số bệnh nhân 18 6 8 32
Tỷ lệ % 56,2 18,8 25 100
Nhận Xét: Tỷ lệ liền kín sau mổ là 56,2%; hở nhiều nhất là >2-4 mm là 25%;
hở ≤2 mm là 18,8%.
Bảng 3.19: Kết quả giải phẫu sau mổ 6 tháng (n=32)
Kết quả giải phẫu Tốt Khá Kém Tổng số
Số bệnh nhân 18 10 4 32
Tỷ lệ % 56,3 31,3 12,4 100
Biểu đồ 3.8. Tỷ lệ thành công về mặt giải phẫu
Nhận xét: Tỷ lệ thành công về mặt giải phẫu (tốt+ khá) là 87,6%.
42
Bảng 3.20: Mức độ điếc sau mổ 6 tháng và so sánh với trước mổ (n=32)
Mức độ điếc Bình thường Điếc nhẹ Điếc vừa Điếc
nặng
Tổng số
Số BN trước mổ 0 16 13 3 32
Tỷ lệ % trước
mổ0 50 40,6 9,4 100
Số BN sau mổ 2 23 5 2 32
Tỷ lệ % sau mổ 6,3 71,9 15,6 6,3 100
Nhận xét: Sau mổ điếc nhẹ chiếm tỷ lệ cao nhất (71,9%). Cường độ mất
nghe trung bình sau mổ là 32,7 ± 11 dB. Ca mất nghe nhiều nhất sau mổ là 65 dB,
có kết quả giải phẫu kém; ca mất nghe thấp nhất sau mổ là 18,8 dB, có kết quả
giải phẫu tốt.
43
Biểu đồ 3.9. So sánh mức độ điếc trước và sau mổ
44
Nhận xét: Sau mổ 6 tháng, thính lực của tai mổ có cải thiện rõ. Mức độ điếc
của bệnh nhân sau mổ giảm hơn so với trước mổ: Điếc nhẹ 71,9% so với 50%; điếc
vừa 15,6% so với 40,6%. Cường độ giảm sức nghe trung bình sau mổ là 32,7 ± 11
dB là giảm hơn rất có ý nghĩa thống kê so với cường độ giảm sức nghe trung bình
trước mổ là 41,8 ± 10,8 dB (p<0,01). Ngoài ra, mức độ nghe trung bình sau mổ cải
thiện hơn 9,1 dB so với mức độ nghe trung bình trước mổ.
Bảng 3.21. Khoảng Rinne sau mổ và so sánh với trước mổ (n=32)
Khoảng Rinne <30 dB ≥30 dB Tổng
Số bệnh nhân trước mổ 14 18 32
Tỷ lệ % trước mổ 43,8 56,2 100
Số bệnh nhân sau mổ 26 6 32
Tỷ lệ % sau mổ 81,2 18,8 100
Nhận xét:
- Khoảng Rinne sau mổ <30 dB chiếm tỷ lệ lớn (81,2%), có ý nghĩa thống kê
với p<0,05.
- Khoảng Rinne trung bình sau mổ là 23,5 ± 10 dB. Ca có khoảng Rinne sau
mổ cao nhất là 60 dB, có kết quả giải phẫu kém; ca có khoảng Rinne thấp
nhất sau mổ là 8,8 dB, có kết quả giải phẫu tốt.
- Tỷ lệ khoảng Rinne <30 dB sau mổ tăng so với trước mổ; tỷ lệ khoảng
Rinne ≥30 dB giảm so với trước mổ.
- Ta có khoảng Rinne trung bình trước mổ là 32,05 ± 8,97 dB. Như vậy hiệu
quả Rinne trung bình của trước và sau mổ là 8,6 dB.
45
Bảng 3.22: Kết quả về chức năng sau mổ 6 tháng, tính theo hiệu quả Rinne
(n=32)
Kết quả Tốt khá Trung bình Kém Tổng
Số bệnh nhân 2 9 20 1 32
Tỷ lệ % 6,2 28,1 62,5 3,1 100
Biểu đồ 3.10. Kết quả về chức năng sau mổ 6 tháng,
tính theo hiệu quả Rinne
Nhận xét: Nhóm trung bình chiếm tỷ lệ cao nhất 62,5%, với p<0,05.
46
3.4. MỐI LIÊN QUAN GIỮA KẾT QUẢ PHẪU THUẬT VỚI CÁC YẾU
TỐ LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG VÀ CUỘC MỔ
Bảng 3.23. Kết quả giải phẫu và thời gian chảy tai (n=32)
Kết quả giải phẫu
Thời gian chảy tai
Tốt và khá
(n=28)
87,5%
Kém
(n=4)
12,5%
Tổng
(n=32)
100%
p
≤1 năm 6 (85,7%) 1 (14,3%) 7 (100%)p=0,63
>1 năm 88% 12% 6 (100%)
Nhận xét: Sự khác biệt về kết quả giải phẫu của nhóm ≤1 năm và >1 năm
không có ý nghĩa thống kê với p >0,05.
Bảng 3.24. Kết quả giải phẫu và kích thước lỗ thủng màng nhĩ (n=32)
Kết quả giải phẫu
Kích thước lỗ thủng
Tốt và khá
(n=28)
87,5%
Kém
(n=4)
12,5%
Tổng
(n=32)
100%
p
Thủng rộng (thủng >4 mm) 9 (81.8%) 2 (18,2%) 11 (100%)p=0,88
Thủng ≤4mm 19 (90,5%) 2 (9,5%) 21 (100%)
Nhận xét: Sự khác biệt về kết quả giải phẫu của nhóm thủng nhĩ >4 mm và
thủng nhĩ ≤4 mm không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
47
Bảng 3.25. Kết quả giải phẫu và tính chất sát xương của lỗ thủng màng nhĩ
(n=32)
Kết quả giải phẫu
Kích thước lỗ thủng
Tốt và khá
(n=28)
87,5%
Kém
(n=4)
12,5%
Tổng
(n=32)
100%
p
Sát xương 7 (77,8%) 2 (22,2%) 9 (100%)p=0,65
Không sát xương 21 (91,3%) 2 (8,7%) 23 (100%)
Nhận xét: Sự khác biệt về kết quả giải phẫu của nhóm sát xương và nhóm
không sát xương không có ý nghĩa thống kê, với p>0,05.
Bảng 3.26: Kết quả giải phẫu và tính chất bờ lỗ thủng màng nhĩ (n=32)
Kết quả giải phẫu
Kích thước lỗ thủng
Tốt và khá
(n=28)
87,5%
Kém
(n=4)
12,5%
Tổng
(n=32)
100%
p
Nhẵn đều 19 (80,4%) 2 (9,6%) 21 (100%)p=0,70
Nham nhở 9 (81,8%) 2 (18,2%) 11 (100%)
Nhận xét: Sự khác biệt về kết quả giải phẫu của nhóm nhẵn đều và nham nhở
không có ý nghĩa thống kê, với p>0,05.
Bảng 3.27: Kết quả giải phẫu và hình ảnh bệnh lý trên phim SchÜllers (n=32)
Kết quả giải phẫu
Phim ShÜllers
Tốt và khá
(n=28)
87,5%
Kém
(n=4)
12,5%
Tổng số
(n=32)
100%
p
Mờ đặc 19 (82,6%) 4 (17,4%) 23 (100%)p=0,457
Mờ nhạt 9 (100%) 0 9 (100%)
Nhận xét: Sự khác biệt về kết quả giải phẫu giữa hai nhóm mờ đặc và mờ
nhạt không có ý nghĩa thống kê, với p>0,05.
48
Bảng 3.28: Kết quả giải phẫu và bệnh tích xương chũm quan sát được trong
khi phẫu thuật (n=32)
Kết quả giải phẫu
Bệnh tích
Tốt và khá
(n=28)
87,5%
Kém
(n=4)
12,5%
Tổng số
(n=32)
100%
p
Nhiều xơ sùi 13 (76,5%) 4 (23,5%) 17 (100%)p=0,002
Ít xơ sùi 15 (100%) 0 15 (100%)
Nhận xét: Sự khác biệt về kết quả giải phẫu giữa nhóm nhiều xơ sùi và ít xơ
sùi có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
3.5. BIẾN CHỨNG
Trong 32 ca nghiên cứu của chúng tôi không có ca nào xảy ra biến chứng
trong mổ và sau mổ.
49
Chương 4
BÀN LUẬN
4.1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG
4.1.1. Tuổi và giới
Về tuổi
Nghiên cứu của chúng tôi (bảng 3.1và biểu đồ 3.1) cho thấy nhóm tuổi >15-
30 chiếm tỷ lệ cao nhất (50%), nhóm tuổi >50 chiếm tỷ lệ thấp nhất (9,4%). Tuổi
trung bình là 29,18 ± 14,59 tuổi, nhỏ nhất là 9 tuổi, cao nhất là 65 tuổi. Sự khác biệt
giữa lứa tuổi ≤15 (12,5%) và >15 (87,5%) có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Kết quả của chúng tôi phù hợp với kết quả nghiên cứu của Phan Văn Dưng
(2000): Số bệnh nhân người lớn 78%, trẻ em 22%, tuổi trung bình 23,46 tuổi [13];
của Nguyễn Đức Minh Chính (2001) là người lớn 75%, trẻ em 25% [9].
Bảng 4.1: Tuổi trung bình của chúng tôi và một số tác giả
Tác giả Nơi nghiên cứu nTuổi
trung bình
Phan Văn Dưng (2000) [13]Bệnh Viện Trung Ương
Huế50 23,46
Hồ Xuân Trung (2005) [46]
Bệnh Viện Nhân Dân Gia
Định và Bệnh Viện Đại
Học Y Dược Hồ Chí Minh
31 29,5 ± 8,2
Adriana da Silva Lima (2007)
[60]Brazilian 47 30
Phạm Thanh Thế
(2006-2009) [44]
Bệnh Viện Tai Mũi Họng
Cần Thơ
10
831,89
Võ Nguyễn Hoàng Khôi
(2009)
Bệnh Viện Trung Ương
Huế32
29,18 ±
14,59
50
Hildmann và cs (2006) cho rằng phẫu thuật vá nhĩ chỉ nên thực hiện ở
người lớn và hạn chế ở trẻ em, đặc biệt khi điều kiện theo dõi trước và sau mổ
không tốt [57]. Vì dễ thất bại do viêm nhiễm mũi họng sau mổ của trẻ dễ xảy ra,
thậm chí cả người lớn khi đang có viêm nhiễm ở mũi họng thì cũng nên điều trị ổn
định rồi mới mổ.
Trong công trình nghiên cứu mổ vá nhĩ ở trẻ em thực hiện tại Bệnh Viện Tai
Mũi Họng Hà Nội, để phòng ngừa vấn đề viêm nhiễm ở mũi họng, Trần Lê Thủy đã
thực hiện việc nạo VA như là một thì của mổ vá nhĩ, kết quả tương đối tốt tuy nhiên
số lượng thực hiện còn ít, thời gian theo dõi chưa được lâu dài (Trích theo Phan Văn
Dưng [13]).
Đặng Hoàng Sơn khảo sát tại Cần Giuộc và thành phố Hồ Chí Minh về vi
khuẩn trong viêm tai giữa cấp, mạn và tính đề kháng kháng sinh của vi khuẩn đối
với trị liệu ban đầu, ghi nhận có sự gia tăng tỷ lệ trẻ mang vi khuẩn gây bệnh ở vòm
khi trẻ bị viêm tai giữa và có sự hiện diện của vi khuẩn gây bệnh ở trẻ bị viêm tai
giữa [39].
Đa số các công trình nghiên cứu trong nước về phẫu thuật chỉnh hình tai giữa
đều cho kết quả là nhóm tuổi trẻ em chiếm tỷ lệ rất thấp, chứng tỏ tình hình thực tế
ở Việt Nam phẫu thuật vá nhĩ được áp dụng thông thường hơn ở người lớn và còn
hạn chế ở trẻ em. Điều này là phù hợp vì vấn đề chăm sóc, theo dõi và thực hiện tái
khám sau mổ của chúng ta còn chưa tốt.
Về giới
Trong nghiên cứu của chúng tôi (theo bảng 3.1), không có sự khác biệt tỷ lệ
nam và nữ. Trong kết quả nghiên cứu của Phan Văn Dưng, Huỳnh Bá Tân và một
số công trình nghiên cứu khác cũng không có sự khác biệt về tỷ lệ viêm tai giữa
mạn tính giữa nam và nữ [13], [34].
4.1.2. Địa dư và nghề nghiệp
Về địa dư
Theo bảng 3.2, tỷ lệ bệnh nhân ở thành thị là 43,8%; ở nông thôn là 56,2%,
sự khác biệt tỷ lệ thành thị và nông thôn không có ý nghĩa thống kê, với p>0,05.
51
Kết quả của Lê Thị Hải Yến (2006) khi nghiên cứu 173 bệnh nhân viêm tai
giữa đến khám và điều trị tại trường Đại Học Y Dược Huế có tỷ lệ bệnh nhân ở
thành thị là 59,9%; ở nông thôn là 45% [407]. Trong công trình nghiên cứu của
Nguyễn Đức Minh Chính (2001) khi nghiên cứu 80 bệnh nhân phẫu thuật điều trị
viêm tai xương chũm tại khoa Tai Mũi Họng Bệnh Viện Trung Ương Huế có tỷ lệ
nông thôn là cao nhất 57,5% (p<0,05) so với thành thị và vùng khác [9].
Kết quả của chúng tôi và Lê Thị Hải Yến (2006) với sự khác biệt tỷ lệ bệnh
nhân thành thị và nông thôn không có ý nghĩa thống kê. Nhưng có thể thấy đời sống
người dân ngày nay được nâng cao, phương tiện đi lại thuận lợi, người dân ở nông
thôn có điều kiện đến khám và chữa bệnh dễ dàng hơn, khi người dân bớt lo chuyện
ăn mặc và quan tâm đến bệnh tật nhiều hơn, thì số bệnh nhân ở nông thôn đi khám
và chữa bệnh sẽ ngày càng tăng lên. Theo xu hướng đó thì có thể dự đoán tương lai
tỷ lệ bệnh nhân ở nông thôn có thể cao hơn hoặc tương đương thành thị.
Về nghề nghiệp
Theo bảng 3.2, tỷ lệ bệnh nhân lao động trí óc là 50%, lao động tay chân
34,4% và nhóm các nghề còn lại (buôn bán, nội trợ, nghỉ hưu) là 15,7%. Sự khác
biệt về tỷ lệ các nhóm nghề nghiệp không có ý nghĩa thống kê, với p>0,05.
Trong các nghiên cứu của các tác giả khác cũng ít thấy đề cập đến vấn đề
nghề nghiệp của bệnh nhân. Trong nghiên cứu của Nguyễn Đức Minh Chính (2001)
trên 153 bệnh nhân được phẫu thuật điều trị viêm tai giữa mạn tính tại Bệnh Viện
Trung Ương Huế, có kết quả nhóm nghề nghiệp là công nhân viên chức và học sinh
là 43,7%, của nông dân và các nghề khác là 56,25%, với p>0,05 [9].
4.1.3. Lý do vào viện
Theo bảng 3.3, cho thấy triệu chứng chảy tai có tỷ lệ cao nhất trong các lý do
đến khám 78%. Kết quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Lê Thị Hải Yến
(2006) khi nghiên cứu tình hình bệnh nhân bị viêm tai giữa đến khám và điều trị tại
phòng khám khoa Tai Mũi Họng Bệnh Viện Trung Ương Huế là 73,41% [47], của
Phan Thị Nho (2000) khi nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và ảnh hưởng sức nghe của
52
60 bệnh nhân viêm tai giữa mạn tính tại khoa Tai Mũi Họng Bệnh Viện Trung
Ương Huế là 86,67% [34].
Chảy mủ tai là triệu chứng gây ảnh hưởng đến sinh hoạt, giao tiếp và làm
bệnh nhân lo lắng, nên là lý do chính để bệnh nhân đến khám bệnh.
4.2. CÁC ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG TRƯỚC MỔ
4.2.1.Tiền sử
Về thời gian chảy tai:
Theo bảng 3.4, số bệnh nhân chảy tai >1 năm chiếm tỷ lệ lớn 79,1% với
p<0,05. Kết quả của chúng tôi có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với tỷ lệ chảy tai
>1 năm của các nghiên cứu khác trong nước (với p<0,05): Của Phan Văn Dưng
(2000) khi nghiên cứu 50 bệnh nhân được phẫu thuật vá nhĩ tại Bệnh Viện Trung
Ương Huế là 98% [13]; Dương Lộc tại Hà Tây (1998) khi nghiên cứu 182 bệnh nhân
phẫu thuật vá nhĩ tại khoa Tai Mũi Họng Bệnh Viện Tỉnh Hà Tây là 97,2% [61].
Sự khác biệt này cho thấy, càng ngày bệnh nhân càng đến khám và chữa
bệnh sớm do đời sống người dân ngày càng được nâng cao, khi đã đủ ăn, mặc thì
người dân quan tâm đến sức hơn, phương tiện giao thông để khám chữa bệnh tại
trung tâm lớn thuận tiện.
Tuy nhiên nghiên cứu của chúng tôi, theo bảng 3.4 cho thấy số bệnh nhân
chảy tai >1 năm cao hơn hẳn số bệnh nhân chảy tai ≤1 năm, với p<0,05. Như vậy
mặc dù nhận thức của người dân có tốt hơn nhưng vẫn đến khám chữa bệnh vẫn còn
muộn, có nhiều trường hợp chảy tai từ nhỏ cho đến lớn mới đi điều trị.
Một số nghiên cứu của các tác giả khác về thời gian chảy tai:
- Trương Tam Phong (2002) nghiên cứu kết quả phẫu thuật tạo hình tai giữa
của 62 bệnh nhân tại Bệnh Viện bưu điện II có kết quả: <5 năm là 3,22%; 5-9 năm
là 12,9%; 10-14 năm là 43,55%; >20 năm là 19,35% [35].
- Lê Thị Hải Yến (2006) khi nghiên cứu 173 bệnh nhân bị viêm tai giữa đến
khám tại Bệnh Viện trường Đại Học Y Dược Huế: ≤1 năm là 49,71%; >1 năm là
50,29% [47].
53
Về tính chất mủ tai
Bảng 3.5 cho thấy mủ đặc thối là nhiều nhất 56,3%, có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) so với chảy mủ loãng, nhầy và đặc không thối.
Phù hợp với kết quả nghiên cứu của Phan Thị Nho (2000) trong nghiên cứu
đặc điểm lâm sàng và ảnh hưởng sức nghe của 60 bệnh nhân viêm tai giữa mạn tính
tại khoa Tai Mũi Họng Bệnh Viện Trung Ương Huế cho kết quả: Mủ đặc là 66,67%
so với các loại khác, với p<0,05 [34]. Điều này cho thấy đa số bệnh nhân đến khám
khi bệnh đã nặng, kéo dài, ảnh hưởng đến sinh hoạt. Trong khi đó xu hướng hiện
nay trên thế giới đối với viêm tai giữa mạn tính điều trị chủ yếu là phẫu thuật chỉnh
hình tai giữa và vá nhĩ càng sớm càng tốt [48]. Như vậy việc điều trị của chúng ta
còn muộn, điều này do điều kiện kinh tế xã hội và nhận thức của người dân về viêm
tai giữa mạn tính tuy có tốt hơn nhưng vẫn chưa nhận thức rõ rằng cần phải khám
và điều trị sớm ngay khi bắt đầu xuất hiện triệu chứng bệnh (như ù tai, đau tai, chảy
mủ loãng....).
4.2.2. Đăc điểm lâm sàng trước mổ
4.2.2.1. Các triệu chứng cơ năng trước mổ
Theo bảng 3.6, trong các triệu chứng cơ năng trước mổ thì nghe kém có tỷ lệ
nhiều nhất 96,9%, tiếp theo là ù tai với tỷ lệ 78,1%, đau tai gặp với tỷ lệ 40,6%.
Phù hợp với kết quả nghiên cứu của Phan Thị Nho (2000) trong nghiên cứu
đặc điểm lâm sàng và ảnh hưởng sức nghe ở bệnh nhân viêm tai giữa mạn tính tại
khoa Tai Mũi Họng Bệnh Viện Trung Ương Huế [34], cũng có nghe kém chiếm tỷ
lệ cao nhất (95%), nhưng kết quả nghiên cứu này khác với chúng tôi là tỷ lệ đau tai
đứng thứ 2 (73,3%), sau cùng là ù tai (44%), còn của chúng tôi đứng thứ 2 là ù tai
(78,1%) tiếp theo là đau tai (40,6%).
Bảng 4.2: So sánh triệu chứng lâm sàng với Phan Thị Nho [34]
Triệu chứng
Tác giảĐau tai Nghe kém Ù tai
Phan Thị Nho (2000) [34] 73,33% 95% 44%
54
Võ Nguyễn Hoàng Khôi (2009) 40,6% 96,9% 78,1%
Kết quả về tỷ lệ đau tai và ù tai của chúng tôi khác biệt so với kết quả của
Phan Thị Nho về đau tai và ù tai có ý nghĩa thống kê, với p<0,05.
4.2.2.2. Về kích thước lỗ thủng
Theo bảng 3.7, lỗ thủng ≤4 mm có tỷ lệ 56,6%; lỗ thủng >4mm có tỷ lệ
34,4%. Tỷ lệ lỗ thủng ≤4 mm lớn hơn so với lỗ thủng >4 mm, không có ý nghĩa
thống kê, với p>0,05. Phù hợp với nghiên cứu của Phan Thị Nho (2000) nghiên cứu
60 bệnh nhân viêm tai giữa mạn tính tại khoa khoa Tai Mũi Họng Bệnh Viện Trung
Ương Huế [34]: Lỗ thủng ≤4 mm có tỷ lệ 58,7%; Lê Trần Quang Minh (2008)
nghiên cứu 28 bệnh nhân được phẫu thuật vá nhĩ bằng nội soi tại Bệnh Viện Tai
Mũi Họng thành phố Hồ Chí Minh [26]: Lỗ thủng ≤4 mm có tỷ lệ 77,3%.
Một số tác giả chia kích thước lỗ thủng thành các nhóm: ≤2 mm (tương
đương với ≤25%); >2-4 mm (tương đương với >25%-≤50); >4-6 mm (tương đương
với >50%-≤75%); >6 mm (tương đương với >75%).
Kích thước lỗ thủng trong các nghiên cứu của một số tác giả
- Phan Thị Nho (2000) nghiên cứu 60 bệnh nhân viêm tai giữa mạn tính tại
khoa Tai Mũi Họng Bệnh Viện Trung Ương Huế: ≤2 mm là 18,67%; >2-4 mm là
40,0%; >4-6 mm là 22,67%; >6 mm là 18,67% [34].
- Trần Văn Khen (2003) nghiên cứu 131 bệnh nhân mổ vá nhĩ tại Bệnh Viện
Đa Khoa Tỉnh Khánh Hòa: Thủng gần như toàn bộ là 5,2%; thủng từ 50-75% là
31%; thủng <50% là 17% [17].
- Phạm Ngọc Chất (2005) nghiên cứu 27 bệnh nhân mổ vá nhĩ theo phương
pháp underlay cải tiến tại Bệnh Viện Đại Học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh và
Bệnh Viện Vạn Hạnh: Thủng <25% là 14,8%; 25-75% là 59,3%; >75% là 22,2%;
khác là 3,7% [5].
55
- Lê Trần Quang Minh (2008) nghiên cứu 28 bệnh nhân được phẫu thuật vá
nhĩ bằng nội soi tại Bệnh Viện Tai Mũi Họng thành phố Hồ Chí Minh: Thủng <25%
là 3,5%; 25 -50% là 60,8%; 75-100% là 28,6% [26].
- Phạm Vũ Thanh Hải (2008) nghiên cứu 34 bệnh nhân được phẫu thuật vá
nhĩ bằng nội soi tại Bệnh Viện Đa Khoa Đà Nẵng: Thủng <25% là 35,3%; 25-50%
là 32,35%; 50-75% là 20,6%; >75% là 11,76% [16].
Nguyễn Thanh Thế (2006-2009) nghiên cứu 108 bệnh nhân vá nhĩ bằng kỹ
thuật underlay tại bệnh viện Tai Mũi Họng Cần Thơ: Thủng >50% là 77,9% [44].
Vá nhĩ đối với những tai màng nhĩ thủng rộng >6 mm, thủng toàn bộ màng
căng, rìa của màng nhĩ sát khung xương thì thường gặp khó khăn khi dùng cân cơ
thái dương, vấn đề mảnh ghép ăn dính, không bị lõm tuột vào trong hòm nhĩ hay lồi
ra ngoài là những yếu tố góp phần thành công cho phẫu thuật. Vì vậy trong những
trường hợp này phẫu thuật viên thường dùng những vật liệu để làm giá đỡ cho mảnh
ghép (Spongel, Genfoam…) lót vào trong hòm nhĩ và ống tai ngoài. Nếu dùng
mảnh ghép là sụn thì không cần vật liệu lót đỡ trong hòm nhĩ vì mảnh sụn cứng,
hình dạng cố định.
Đối với những tai có màng nhĩ thủng nhỏ, không sát rìa, việc đặt mảnh ghép
đã có chỗ tựa, mảnh ghép ít bị tuột vào trong hòm nhĩ.
Như vậy kích thước lỗ thủng và tính sát xương của lỗ thủng là những yếu tố
cần được xem xét để lựa chọn kỹ thuật mổ và có dùng vật liệu nâng đỡ mảnh ghép
hay không.
Trong nghiên cứu của chúng tôi tất cả trường hợp vá nhĩ đều được vá nhĩ
bằng mảnh cân cơ thái dương, được lót Spongel trong hòm nhĩ, để cố định, nâng đỡ
mảnh vá và giúp chống dính mảnh ghép vào đáy nhĩ. Còn phía ống tai ngoài thì đặt
mèche ống tai hoặc cũng đặt Spongel để tăng cường để cố định thêm ở phía ngoài.
Ở Bệnh Viện chúng tôi chủ yếu dùng mảnh ghép là cân cơ thái dương vì
những ưu điểm sau [13], [28], [35]:
56
- Lấy dễ dàng, đáp ứng tốt về nhu cầu diện tích lớn, nhỏ của kích thước lỗ
thủng màng nhĩ và không bị đào thải.
- Là tổ chức liên kết dẻo dai, đòi hỏi sự nuôi dưỡng tối thiểu, sự tuần hoàn
cũng tái tạo nhanh chóng nên dễ dính và dính tốt.
- Màng nhĩ tạo được có những đặc điểm giống màng nhĩ bình thường: Căng,
mỏng, rung động tốt.
57
4.2.2.3. Về vị trí lỗ thủng
Theo bảng 3.8, thủng rộng chiếm tỷ lệ cao nhất (34,4%), tiếp theo là thủng
trung tâm (25%), thủng trước dưới 21,9%; thủng trước trên (9,4%), sau trên (6,3%),
sau dưới (3,1%) chiếm tỷ lệ thấp.
Một số nghiên cứu của các tác giả khác ghi nhận (Trích theo Phan Văn
Dưng[13]):
- Huỳnh Khắc Cường: Đa số thủng màng nhĩ trung tâm, không sát xương
chiếm 72%.
- Lê Sĩ Nhơn: Đa số màng nhĩ thủng >3-4 mm hoặc thủng toàn bộ màng căng.
- Phan Văn Dưng: Thủng trung tâm chiếm tỷ lệ cao nhất 50% [13].
- Nguyễn Trọng Tài: Thủng trung tâm cũng chiếm tỷ lệ cao nhất 51,6% [40].
- Phạm Vũ Thanh Hải: Thủng trung tâm chiếm tỷ lệ cao nhất 16 ca (47%) [16].
- Lê Trần Quang Minh: Thủng trung tâm cũng có tỷ lệ cao nhất 13 ca
(46,5%) [26]
Theo nghiên cứu của đa số các tác giả thủng trung tâm chiếm tỷ lệ cao nhất,
trong nghiên cứu của chúng tôi thủng rộng chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp đến là thủng
trung tâm. Nhưng thực chất thì trong thủng rộng bao gồm cả thủng trung tâm kích
thước >4 mm, cho nên kết quả nghiên cứu của chúng tối cũng giống như đa số các
tác giả khác.
4.2.2.4. Về bờ lỗ thủng
Theo bảng 3.9, bờ lỗ thủng nhẵn đều chiếm tỷ lệ 65,6%, cao hơn lỗ thủng
nham nhở có tỷ lệ 34,4%, với p<0,05.
Phẫu thuật vá nhĩ không phải lúc nào cũng thành công 100%, luôn có tỷ lệ
màng nhĩ hở sau vá nhĩ, hoặc lành nhưng không phục hồi được chức năng nghe,
thậm chí tạo túi co lõm hay chôn biểu bì bên trong hòm nhĩ gây biến chứng nguy
hiểm cho bệnh nhân [43].
Theo Stenfor màng nhĩ sau khi thủng đầu tiên quanh lỗ thủng có phản ứng
viêm và có hiện tượng tăng tạo biểu bì, tiếp theo là hiện tượng phát triển hướng
tâm của các tế bào biểu bì ở phía ngoài và các tế bào niêm mạc ở phía trong màng
58
nhĩ (đây là khả năng tự lành của màng nhĩ). Nếu các lớp của bờ lỗ thủng từ các
phía bò vào gặp nhau và dính lại với nhau thì lỗ thủng lành, nhưng nếu các lớp
màng nhĩ bò vào không gặp nhau hoặc lớp biểu bì bò vào gặp lớp niêm mạc ngay
dưới nó thì màng nhĩ sẽ không lành. Nhiều trường hợp lớp biểu bì bò vào mặt
trong hòm nhĩ, nếu trong phẫu thuật vá nhĩ lấy không hết sẽ chôn biểu bì trong
hòm nhĩ gây thủng nhĩ tái phát sau vá nhĩ hoặc thậm chí tạo cholesteatoma nguy
hiểm cho bệnh nhân [43].
Theo nghiên cứu của Huỳnh Ngọc Thành, Nguyễn Hữu Khôi, Nguyễn
Hoàng Nam (2005), khi khảo sát cấu trúc vi thể rìa lỗ thủng màng nhĩ trên 54 bệnh
nhân cho thấy có 32,4% lớp biểu bì bò vào mặt trong hòm nhĩ [43]. Các tác giả
khuyên không nên xem thủng màng nhĩ là sự thiếu hụt đơn thuần màng nhĩ bình
thường, tất cả các mẫu nghiên cứu của các tác giả trên đều cho thấy có sự biến đổi
bất thường trong cấu trúc vi thể của vùng rìa lỗ thủng. Để tránh hiện tượng chôn
biểu bì vào trong hòm nhĩ các phẫu thuật viên cần kiểm tra thật kỹ mặt trong màng
nhĩ và hòm nhĩ để không bỏ sót biểu mô trong hòm nhĩ.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tất cả bệnh nhân được mổ vá nhĩ đều được
làm tươi lỗ thủng, tuy nhiên với kính hiển vi phẫu thuật thì không thể quan sát
tường tận bên trong hòm nhĩ và mặt trong màng nhĩ. Để khắc phục, trong thì làm
tươi lỗ thủng chúng tôi lấy bỏ lớp rìa màng nhĩ từ 1-1,5 mm và súc rửa sạch hòm
nhĩ. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi sau 6 tháng theo dõi chưa có ca nào xảy ra
biến chứng cholesteatoma sau phẫu thuật, tuy nhiên chúng tôi chưa thể khẳng định
tất cả trường hợp nghiên cứu của chúng tôi không bị biến chứng cholestatoma sau
phẫu thuật vì thời gian theo dõi của chúng tôi chưa đủ dài.
4.2.3. Đặc điểm cận lâm sàng trước mổ
4.2.3.1. Phim Schüllers trước mổ
Theo bảng 3.11, xương chũm loại xốp (thông bào phát triển vừa) chiếm tỷ lệ
nhiều nhất 56,3%. Phim Schüllers có hình ảnh mờ đặc có tỷ lệ 71,9% cao hơn mờ
nhạt 28,1%, với p<0,05.
59
4.2.3.2. Sức nghe trước mổ
Về mức độ nghe kém
Trong nghiên cứu của chúng tôi (bảng 3.12) điếc trước mổ chủ yếu là điếc
nhẹ (50%) và điếc vừa (40,6%), có 3 ca điếc nặng chiếm (9,4%). Cường độ giảm
sức nghe trung bình trước mổ là 41,8 ± 10,8 dB. Ca mất nghe nặng nhất là 71,3 dB;
ca mất nghe thấp nhất là 26,3 dB.
Kết quả của chúng tôi phù hợp với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác:
- Phan Văn Dưng (2000) nghiên cứu 50 bệnh nhân mổ vá nhĩ tại Bệnh Viện
Trung Ương Huế: Điếc trước mổ chủ yếu là nhẹ 74% và vừa 16%, cũng có 3 ca
điếu nặng chiếm 6%, cường độ giảm sức nghe trung bình là 38,02 ± 14,24 dB [13].
Trần Văn Khen (2003) nghiên cứu 131 ca phẫu thuật vá nhĩ tại Bệnh Viện
Đa Khoa Tỉnh Khánh Hòa: Điếc nhẹ 75%, điếc vừa 23%, điếc nặng cũng có 3 ca
chiếm 2% [17].
Kết quả về thính học trước mổ trong nghiên cứu của một số tác giả khác:
- Phạm Ngọc Chất, Nguyễn Văn Đức, Đặng Hoàng Sơn (2002): Thính lực
đồ mất trung bình trước mổ là 40-60 dB [7].
- Phạm Ngọc chất (2003): Thính lực giảm trung bình ở người lớn 46,3 ± 4,52
dB; trẻ em là 41,5 ± 9,14 dB [6].
- M.Cavaliere (2007): Thính lực giảm trung bình trước mổ: 36.80 ± 1.94 [51].
Về khoảng Rinne trước mổ
Trong mổ vá nhĩ, đo sức nghe trước mổ để có chỉ định phẫu thuật phù hợp,
và là cơ sở để đánh giá lại sau mổ. Tốt nhất vẫn là thính lực đồ biểu hiện điếc dẫn
truyền hoặc điếc hỗn hợp nghiêng về dẫn truyền với dự trữ cốt đạo còn tốt (cốt đạo
<30 dB) và khoảng Rinne ≥30 dB. Nhưng thực tế không phải bệnh nhân nào cũng
được điều kiện như vậy, hơn nữa phẫu thuật ngoài việc phục hồi sức nghe còn mục
đích loại trừ bệnh tích.
Theo bảng 3.13, khoảng Rinne trung bình của chúng tôi là 32,05 ± 8,97 dB
phù hợp để chỉ định phẫu thuật vá nhĩ. Ca có khoảng Rinne lớn nhất là 61,3 dB; ca
có khoảng Rinne thấp nhất là 18,7 dB. Có 14 bệnh nhân (43,8%) có Rinne <30,
60
những bệnh nhân này chúng tôi vẫn mổ vì ngoài phục hồi sức nghe còn nhằm lấy
sạch bệnh tích cho và phục hồi về mặt giải phẫu cho bệnh nhân.
4.3. KẾT QUẢ PHẪU THUẬT
Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhân thường nằm viện từ 7-10 ngày.
Cuộc mổ thường kéo dài 3-4 giờ, sau mổ thường được băng ép bằng băng cuộn. Bắt
đầu từ ngày thứ 2 thì được băng bằng băng tam giác. Việc rút mèche dẫn lưu sau tai
được thực hiện sau 24-48 giờ. Mèche cố định ống tai thường được rút sau 7-10 ngày.
Sau rút mèche ống tai hầu hết mảnh ghép dính kín, nhưng còn ẩm ướt và xuất tiết ở
ống tai, sau khi ra viện bệnh nhân được cấp thuốc uống với kháng sinh, kháng viêm
trong một tuần. Chúng tôi theo dõi và tái khám sau một tuần, một tháng, 6 tháng.
4.3.1. Kỹ thuật mổ
Về mảnh ghép
Trong 32 ca nghiên cứu của chúng tôi đều vá nhĩ bằng mảnh cân cơ vì những
ưu điểm sau [35]:
- Là vật liệu tự thân nên không gây dị ứng.
- Mảnh cân cơ vừa mềm lại đàn hồi.
- Lấy mảnh ghép dễ dàng, có thể lợi dụng đường mổ sau tai để lấy.
Tuy nhiên đối với những lỗ thủng rộng thì mảnh cân cơ dễ bị lõm vào trong
hòm nhĩ hoặc lồi ra ngoài, nên với lỗ thủng rộng thì cần lót thêm Spongel trong và
ngoài hòm nhĩ để cố định thêm cho vững chắc. Trong 32 ca nghiên cứu của chúng
tôi đều được lót Spongel trong hòm nhĩ.
Theo các nghiên cứu trong và ngoài nước thì vá màng nhĩ bằng cân cơ thái
dương thì màng nhĩ sau khi tái tạo (khoảng 6 tháng sau mổ) thường căng mỏng,
rung động tốt. Còn sụn vành tai đòi hỏi thời gian tái tạo màng nhĩ lâu hơn (khoảng 6
tháng) (trích theo Phan Văn Dưng [13]).
Kích thước lỗ thủng
Kích thước lỗ thủng là yếu tố quan trọng để chỉ định phẫu thuật. Trong 32 ca
nghiên cứu của chúng tôi (bảng 3.7), không có ca mổ vá nhĩ nào kích thước lỗ thủng
≤2mm, chúng tôi ít khi phẫu thuật vá nhĩ đối với những ca lỗ thủng nhỏ. Theo
61
Huỳnh Khắc Cường và cs (2005) và một số tác giả khác, các trường hợp lỗ thủng
nhỏ thường có khả năng tự liền nếu điều trị nội khoa tốt [11]. Theo bảng 3.24, sự
khác biệt về kết quả giải phẫu giữa thủng rộng và thủng <4 mm không có ý nghĩa
thống kê, với p>0,05.
Về phủ vạt da mảnh ghép
Tất cả bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi đều được phủ vạt da mảnh
ghép. Điều này phù hợp với khuyến cáo của nhiều tác giả.
Phủ vạc da lên mảnh ghép trong phẫu thuật vá nhĩ gọi là phương pháp tạo
hình màng nhĩ hai lớp [23], [52]. Vì phủ vạt da làm tăng cường sự cố định mảnh
ghép, tăng cường cho sự nuôi dưỡng mảnh ghép giúp cho mảnh ghép dính tốt hơn
và sống lâu hơn tạo điều kiện cho lớp biểu bì bò vào làm lành lỗ thủng. Một số tác
giả đặt mảnh ghép không phủ vạt với lỗ thủng nhỏ và đặt vạt da có cuốn đối với lỗ
thủng lớn, bảo đảm mảnh ghép được phủ bởi da ống tai màng nhĩ khoảng 2 mm
[17]. Ngoài ra đối với với lỗ thủng nhỏ có thể dùng phương pháp vạt da có chân
cuốn của Guillon, vạt da chân cuốn phía trên đối với lỗ thủng ở cao, vạt da chân
cuốn phía dưới đối với lỗ thủng ở góc sau dưới, vạt da chân cuốn phía sau với lỗ
thủng ở góc trước dưới [23].
4.3.2. Kết quả phẫu thuật sau 6 tháng
4.3.2.1. Các triệu chứng cơ năng sau mổ 6 tháng và so sánh với trước mổ
Theo bảng 3.15, sau mổ thì nghe kém vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất (62,5%), tiếp
theo là ù tai (28,1%), đau tai (12,9%).
Theo Biểu đồ 3.6, các triệu chứng cơ năng sau mổ cải thiện rõ, với nghe kém
từ 96,9% còn 62,5%; ù tai từ 78,1% còn 28,1%; đau tai từ 40,6% còn 12,9%.
4.3.2.2. Tình trạng chảy mủ tai sau mổ 6 tháng
Theo bảng 3.16, sau mổ tình trạng chảy tai giảm rõ, tỷ lệ không chảy tai
90,6%. Chứng tỏ sau mổ tình trạng nhiễm trùng được khống chế tốt. Điều này có
được là do trong quá trình phẫu thuật các phẫu thuật viên đã lấy bệnh tích khá sạch.
Còn 3 trường hợp chảy tai sau mổ nguyên nhân có thể là do khi sau xuất viện bệnh
nhân chăm sóc tai không tốt, những bệnh nhân này tái khám không đúng hẹn, chỉ tái
62
khám khi tai chảy mủ lại cho nên vấn đề chăm sóc, theo dõi ở những bệnh nhân này
không được tốt.
Qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy, phẫu thuật chỉ là một công đoạn trong
quá trình điều trị, vấn đề chăm sóc theo dõi sau mổ là hết sức quan trọng. Bệnh
nhân cần được chăm sóc và theo dõi ít nhất trong 6 tháng.
Vấn đề chăm sóc hậu phẫu (trích theo Nguyễn Hoàng Nam [28]):
Dùng kháng sinh, kháng viêm 2 tuần sau mổ. Có thể cho xuất viện 1-2 ngày
sau mổ; và tái khám như sau:
Tái khám lần 1 (sau mổ 1 tuần): Cắt chỉ vết mổ sau tai.
Tái khám lần 2 (sau mổ 2 tuần): Bắt đầu lấy từ từ gelfoam trong ống tai
ngoài và nhỏ tai bằng nước muối sinh lý hoặc các dung dịch có Ciprofloxacine.
Tái khám lần 3 (sau mổ 3-4 tuần): Đánh giá tình trạng mảnh ghép.
Tái khám lần 4 (sau mổ 6 tuần): Đo sức nghe đơn âm và nhĩ lượng đồ để
đánh giá kết quả phục hồi thính lực.
Sau đó hẹn bệnh nhân tái khám định kỳ 6 tháng tùy từng bệnh.
4.3.2.3. Tình trạng của mảnh ghép sau mổ 6 tháng
Đa số các tác giả chỉ đề cập đến tỷ lệ hở và liền kín của mảnh ghép sau mổ, ít
đề cập đến vị trí hở của mảnh ghép sau mổ.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, theo bảng 3.17, có 18 ca màng nhĩ liền kín
có tỷ lệ 56,3%; 14 ca mảnh ghép hở có tỷ lệ 43,7%; trong đó hở ở vị trí trung tâm là
nhiều nhất 8 ca có tỷ lệ 25%, hở sau dưới là 3 ca (9,4%), hở trước dưới là 2 ca
(6,4%), hở trước trên là 1 ca (3,2%).
Ngày nay với sự phát triển của nội soi, phẫu thuật vá nhĩ bằng nội soi ngày
càng phát triển và cho kết quả đáng khích lệ. Nguyễn Hoàng Nam (2002) nghiên
cứu 34 trường hợp vá nhĩ bằng ống nội soi, cho kết quả tỷ lệ đóng kín màng nhĩ
trung bình là 82,36% [31].
4.3.2.4. Kết quả phẫu thuật về mặt giải phẫu
Bảng 3.19, cho thấy với 32 ca phẫu thuật vá nhĩ. Kết quả về giải phẫu của
chúng tôi: tốt chiếm tỷ lệ cao nhất (56,3%); khá (31,3%); Kém 12,4%.
63
Tỷ lệ thành công về mặt giải phẫu của chúng tôi là 87,6%.
Chúng tôi trích dẫn kết quả vá nhĩ về mặt giải phẫu của các tác giả khác ở
bảng 33, theo nghiên cứu của Phan Văn Dưng [13].
Bảng 4.3: So sánh tỷ lệ thành công về mặt giải phẫu với một số tác giả trong và
ngoài nước
Tác giả Địa điểm Số bệnh nhânTỷ lệ %
thành công
Nguyễn Hữu Khôi TP HCM 65 85
Lê Thị Hồng Phượng TP HCM 119 97,5
Trần Văn Khen [17] Khánh Hòa 149 87
Phạm Vũ Thanh Hải
[16]
Đà Nẵng 34 85
Trần Tố Dung Hà Nội 153 85
Lê Sĩ Nhơn Hà Nội 112 90
Võ Quang Phúc Pháp 82 93,3
Wullstein H. Đức 83
Gersdoff M. Mỹ 87,7
Portmann M. Pháp 87
Adriana da Silva Lima
with all [60]
Brazilian 47 78
Võ Nguyễn Hoàng Khôi Huế 32 86,67
Tỷ lệ thành công sau mổ vá nhĩ 6 tháng của chúng tôi (87,6%) là tương
đương với kết quả của các tác giả khác, với p>0,05.
Ngoài ra đối với bệnh nhân nhỏ tuổi, nghiên cứu của chúng tôi cũng có kết
quả tương tự với các tác giả khác, đó là phẫu thuật vá nhĩ ở những bệnh nhân nhỏ
tuổi thường có kết quả kém [17]. Phẫu thuật vá nhĩ ở trẻ em dễ thất bại hơn người
64
lớn do vòi nhĩ trẻ em ngắn, rộng, nằm ngang hơn so với người lớn nên viêm nhiễm
vùng mũi họng dễ lan lên tai giữa, vòi nhĩ trẻ con dễ bị rối loạn chức năng [59], do
viêm nhiễm, hạnh nhân vòi quá phát gây tắc vòi… Tỷ lệ thành công vá nhĩ ở nhi
khoa, ở norman (trích theo Kevin Katzenmeyer [59]) là 35-93%, trong công trình
phẫu thuật vá nhĩ ở Bệnh Viện Hotel-Dieu, Tỉnh Nantes, tác giả Võ Quang Phúc đã
mổ ở bất kỳ tuổi nào nhưng kết quả còn hạn chế, mức độ tăng thính lực trung bình ở
trẻ em là 5,7 ± 8,38 dB (trích theo Phan Văn Dưng [13]).
4.3.2.5. Kết quả phẫu thuật về phương diện sức nghe
Về mức độ nghe kém trước và sau mổ 6 tháng
Biểu đồ 3.9 cho thấy mức độ nghe kém sau mổ cải thiện rõ, tỷ lệ trước và sau
mổ: Bình thường (0% và 6,3%); điếc nhẹ (50% và 71,9%); điếc vừa (40,6% và
15,6%); điếc nặng (9,4% và 6,3%). Cường độ giảm sức nghe trung bình sau mổ là
32,7 ± 11 dB là giảm hơn rất có ý nghĩa thống kê so với cường độ giảm sức nghe
trung bình trước mổ là 41,8 ± 10,8 dB (p<0,01). Ngoài ra, mức độ nghe trung bình
sau mổ cải thiện hơn 9,1 dB so với mức độ nghe trung bình trước mổ.
Bảng 3.20 và Biểu đồ 3.9 có kết quả cụ thể như sau:
Sức nghe trung bình sau mổ tăng 9,1dB. Ca mất nghe nhiều nhất sau mổ là
65 dB, có kết quả giải phẫu kém; ca mất nghe thấp nhất sau mổ là 18,8 dB, có kết
quả giải phẩu tốt.
Trong 3 ca điếc nặng, có 1 ca chuyển sang điếc nhẹ (có kết quả giải phẫu
tốt), hai ca vẫn điếc nặng (một có kết quả giải phẫu khá, một có kết quả giải
phẫu kém).
Trong 13 ca điếc vừa, có 8 ca chuyển sang điếc nhẹ (có 7 kết quả giải phẫu
tốt và một ca kết quả giải phẫu khá), còn 5 ca còn lại vẫn điếc vừa (trong đó có 2 ca
kết quả giải phẫu khá và 3 ca kết quả giải phẫu kém).
Trong 16 ca điếc nhẹ, có 2 ca chuyển sang bình thường (một có kết quả giải
phẫu tốt, một có kết quả giải phẫu kém), còn 14 ca còn lại vẫn điếc nhẹ (trong đó có
9 ca có kết quả giải phẫu tốt, 5 ca còn lại có kết quả giải phẫu khá).
65
Bảng 4.4: Kết quả về mặt thính lực sau mổ của một số tác giả
Tác giả n Năm Địa điểm Sức nghe tăng sau mổ
Phan Văn Dưng [13] 50 1999 Huế 10-20 dB
Vĩnh Thu Trang 115 1998 Đà Nẵng >20 dB
Trần Tố Dung 153 1999 Hà Nội >15 dB
Phạm Ngọc Chất [6] 36 2003 thành phố
Hồ Chí Minh
Người lớn: 14,2 ± 6,35 dB
Trẻ em: 18,7 ± 10,25 dB.
Trần Văn Khen [17] 131 2003 Khánh Hòa 20 - 30 dB
Nguyễn Trọng Tài [40] 28 1994 Hà Nội 10-30 dB
Phạm Thanh Thế [44] 108 2009 Cần Thơ 32,12 dB
Güneri EA [55] 25 2007 Thổ nhĩ kỳ 20 dB
M.Cavaliere [51] 100 2007 Italy 6.40 ± 2.20 dB
Nghiên cứu của chúng tôi sức nghe trung bình tăng sau mổ 9,1 dB thấp hơn
so với các tác giả khác. Trong các nghiên cứu của các tác giả mức tăng sức nghe sau
mổ thấp nhất là 10 dB, cao nhất là 30 dB đây là khoảng tăng sức nghe lý tưởng đã
được khẳng định qua thực tế.
Về khoảng Rinne trước và sau mổ 6 tháng
- Khoảng Rinne sau mổ <30 chiếm tỷ lệ lớn (81,2%), có ý nghĩâ thống kê
với p<0,05.
- Khoảng Rinne trung bình sau mổ là 23,5 ± 10 dB. Ca có khoảng Rinne sau
mổ cao nhất là 60 dB; Ca có khoảng Rinne thấp nhất sau mổ là 8,8 dB.
- Tỷ lệ khoảng Rinne <30 dB sau mổ tăng so với trước mổ; tỷ lệ khoảng
Rinne ≥30 dB giảm so với trước mổ.
- Ta có khoảng Rinne trung bình trước mổ là 32,05 ± 8,97 dB và khoảng
Rinne trung bình sau mổ là 23,5 ± 10 dB. Ta có hiệu quả Rinne trung bình
của trước và sau mổ là 8,6 dB, như vậy kết quả về bình quân mặt chức
năng tính theo hiệu quả Rinne chỉ thuộc nhóm trung bình (1-10 dB).
66
Đánh giá kết quả về mặt chức năngTheo bảng 3.22: Kết quả về chức năng sau mổ 6 tháng, tính dựa theo hiệu
quả Rinne: Tốt 6,2%, khá 28,1%, trung bình 62,5%, kém 3,1%. Nhóm trung bình
chiếm tỷ lệ cao nhất, với p<0,05.
4.3.3. Mối liên quan giữa kết quả giải phẫu và một số yếu tố lâm sàng, cận lâm sàng và cuộc mổ
Về thời gian chảy tai và kết quả giải phẫuTheo bảng 3.4, đa số bệnh nhân thường đến điều trị muộn tỷ lệ chảy tai >1
năm là 78,2%, cao hơn tỷ lệ chảy tai ≤1 năm (21.8%) với p<0,05. Vì vậy chúng tôi
thường áp dụng phương pháp mổ một thì (vừa lấy bỏ bệnh tích, vừa vá nhĩ). Theo
kết quả nghiên cứu của chúng tôi (bảng 3.23) sự khác biệt về kết quả giải phẫu của
nhóm ≤1 năm và >1 năm không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Về kích thước lỗ thủng và kết quả giải phẫuTheo bảng 3.24, sự khác biệt về kết quả giải phẫu của nhóm thủng >4 mm và
thủng ≤4 mm không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Theo nghiên cứu của Hồ Xuân Trung và cs (2005) những lỗ thủng <75% tạo
hình màng nhĩ thất bại không phụ thuộc vào kích thước lỗ thủng [46].
Tính chất sát xương của lỗ thủng và kết quả giải phẫuTheo bảng 3.25, sự khác biệt về kết quả giải phẫu của nhóm sát xương và
nhóm không sát xương không có ý nghĩa thống kê, với p>0,05. Đối với tính chất sát
xương của lỗ thủng thì đa số các tác giả đề cập đến sự liên quan của tính sát xương và
kỹ thuật mổ, ít đề cập đến mối liên quan giữa tính sát xương và kết quả phẫu thuật.
Về bờ lỗ thủng và kết quả giải phẫuĐa số các tác giả ít đề cập đến, trong nghiên cứu của chúng tôi bảng 3.26, sự
khác biệt về kết quả giải phẫu của nhóm bờ nhẵn đều và nham nhở không có ý
nghĩa thống kê, với p>0,05. Tất cả 32 ca nghiên cứu của chúng tôi, lỗ thủng màng
nhĩ đều được làm tươi và lấy bỏ vòng rìa quanh lỗ thủng (khoảng 0,5-1,5 mm). Nên
tính chất nhẵn đều hay nham nhở không ảnh hưởng nhiều đến kết quả phẫu thuật.
Kết quả giải phẫu và hình ảnh bệnh lý trên phim Schüllers Theo bảng 3.27, sự khác biệt về kết quả giải phẫu giữa hai nhóm mờ đặc và
mờ nhạt không có ý nghĩa thống kê, với p>0,05.
67
Kết quả giải phẫu và bệnh tích xương chũm quan sát được trong
phẫu thuật
Theo bảng 3.28, sự khác biệt về kết quả giải phẫu giữa nhóm nhiều xơ sùi và
ít xơ sùi có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Tình trạng bệnh tích xương chũm ảnh hưởng nhiều đến kết quả, mặc dù
trong quá trình mở sào bào thượng nhĩ tuy các phẫu thuật viên đã cố gắng lấy sạch
bệnh tích xương chũm nhưng với phương tiện hiện tại của chúng tôi nhiều trường
hợp bệnh tính trong sào đạo và hòm nhĩ không thể lấy hết, những trường hợp này dễ
tái nhiễm trùng sau mổ.
Nguyên Hoàng Nam (2002) qua nghiên cứu 127 ca viêm tai giữa mạn tính
thủng nhĩ, không có cholesteatoma được phẫu thuật lần đầu, cho thấy việc làm sạch mô
hạt xung quanh khớp đe đạp rất quan trọng, không những về mặt phục hồi chức năng
mà còn góp phần làm sạch bệnh tích và phục hồi thông khí tự nhiên trong tai giữa [30]
Ngày nay, với sự phát triển của phẫu thuật nội soi tai đã giúp cho các phẫu
thuật viên quan sát rõ ràng trong hòm nhĩ, có thể lấy bệnh tích tốt hơn và phẫu thuật
ít xâm lấn hơn.
Nguyễn Hoàng Nam (2000) qua nghiên cứu 95 ca phẫu thuật viêm tai giữa,
nhận thấy ống nội soi giúp phẫu thuật viên quan sát rõ hòm nhĩ, các nơi bệnh tích
khó quan sát và dễ bị bỏ sót như khớp đe đạp, cửa sổ tròn, sào đạo, lỗ vòi…[29].
Nguyễn Hoàng Nam, Nguyễn Hữu Khôi (2003) nghiên cứu kỹ thuật tạo hình
màng nhĩ đặt dưới trong ống tai qua nội soi, nhận thấy có thể thực hiện phẫu thuật
tạo hình màng nhĩ đơn thuần qua nội soi, chỉ với dụng cụ vi phẫu tai thông thường
nhưng thực hiện hoàn toàn trong ống tai là phẫu thuật ít xâm lấn [32].
Lê Trần Quang Minh, Lê Thị Hoa Tiên (2008) nghiên cứu phẫu thuật chỉnh
hình màng nhĩ đơn thuần qua nội soi, tại Bệnh Viện Tai Mũi Họng thành phố Hồ
Chí Minh cho thấy phẫu thuật chỉnh hình màng nhĩ đơn thuần qua nội soi có nhiều
ưu điểm hơn so với kính hiển vi, nhờ khả năng quan sát lỗ thủng màng nhĩ qua nội
soi đã có thể đánh giá đầy đủ các tiêu chí cần thiết cho phẫu thuật viên [26].
68
KẾT LUẬN
Qua 32 ca nghiên cứu chúng tôi rút ra những kết luận sau
1. Các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng
- Thời gian chảy tai >1 năm chiếm tỷ lệ lớn 78,1%.
- Các triệu chứng cơ năng sau mổ giảm so với trước mổ, với tỷ lệ trước và sau
mổ như sau: Nghe kém (96,9%-62,5%); đau tai (40,6%-12,9%); ù tai (78,1%-28,1%).
Chảy tai sau mổ 9,4% giảm so với 100% chảy tai trong tiền sử.
- Kích thước lỗ thũng màng nhĩ trước mổ: ≤4 mm là 56,6%; >4 mm là 34,4%.
- Vị trí thủng chiếm tỷ lệ cao nhất là thủng rộng (34,4%).
- Phim Schüllers: Xương chũm loại thông bào chiếm tỷ lệ nhiều nhất 56,3; Có
hình ảnh mờ đặc là 71,9%, mờ nhạt là 28,1%.
- Mức độ nghe kém của tai mổ trước mổ: Điếc nhẹ là nhiều nhất 50%. Cường
độ mất nghe trung bình trước mổ là 41,8 ± 10,8 dB.
- Mức độ nghe kém tai mổ sau mổ 6 tháng: Điếc nhẹ chiếm tỷ lệ cao nhất
(71,9%). Cường độ mất nghe trung bình sau mổ là 32,7 ± 11 dB. Sau mổ mức độ
nghe trung bình cải thiện hơn 9,1 dB so trước mổ.
- Khoảng Rinne trước mổ: <30 dB là 43,8%; ≥30 dB là 56,2%. Khoảng Rinne
trung bình trước mổ 32,05 ± 8,97 dB.
- Khoảng Rinne sau mổ 6 tháng: <30 dB là 81,2%; ≥30 dB là 18,8%. Khoảng
Rinne trung bình sau mổ là 23,5 ± 10 dB. Hiệu quả Rinne trung bình của trước và
sau mổ là 8,6 dB.
2. Kết quả phẫu thuật vá nhĩ
- Tỷ lệ liền kín màng nhĩ là 56,3%. Hở ở vị trí trung tâm là nhiều nhất 25%.
- Tỷ lệ thành công về mặt giải phẫu là 87,6%.
- Tỷ lệ thành công về mặt chức năng, tính dựa theo hiệu quả Rinne là:
Tốt (6,2%); khá (28,1%); trung bình (62,5%); kém (3,1%).
69
KIẾN NGHỊ
Qua nghiên cứu chúng tôi có những kiến nghị:
1. Tuyên truyền phổ biến cho cộng đồng kiến thức về viêm tai giữa mạn tính,
để khi có các triệu chứng ở tai như đau tai, chảy tai, ù tai, nghe kém…Bệnh nhân
đến khám và điều trị sớm.
2. Theo dõi tái khám và chăm sóc sau mổ tốt, ít nhất 6 tháng.
3. Phát triển phẫu thuật vá nhĩ với dụng cụ nội soi.
70
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Nguyễn Thị Hoài An (2005), “Nghiên Cứu đặc điểm viêm tai giữa ứ dịch ở trẻ
em một số phường tại Hà Nội”, Tạp chí Tai Mũi Họng, (3), tr. 1-9.
2. Chu Lan Anh, Nguyễn Hữu Khôi (2007), “Nghe kém và điếc đột ngột”, Bài
giảng lâm sàng tai mũi họng, Nhà xuất bản Y học, Thành phố Hồ Chí Minh,
tr. 58-62.
3. Võ Hiếu Bình (2005), "Biến chứng nội sọ do tai", Bài giảng tai mũi họng, (lưu
hành nội bộ), Trường Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh, tr. 142-145.
4. Lương Sĩ Cần (1991), "Viêm tai và viêm xương chủm", Bách khoa thư bệnh
học, tập 1, Nhà xuất bản Y học Từ Điển Bách Khoa, Hà Nội, tr. 378-382.
5. Phạm Ngọc Chất (2006), “Tạo hình màng nhĩ ở nhóm tuổi nghỉ hưu”, Tạp chí Y
học Thành phố Hồ Chí Minh, 10(1), tr. 81-83.
6. Phạm Ngọc Chất (2004), “Cố đinh mảnh vật liệu vào cán xương búa: một kiểu
Underlay cải tiến”, Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, 8(1), tr. 128-133.
7. Phạm Ngọc Chất, Nguyễn Văn Đức, Đặng Hoàng Sơn (2003), “Bước đầu áp
dụng chỉnh hình xương con bằng xương đe tự thân trong điều trị viêm tai
giữa mạn tính, thủng màng tai”, Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 7(1),
tr. 19-25.
8. Lương Hồng Châu (2009), “Nghiên cứu kết quả phẫu thuật kín thì một trên bệnh
nhân viêm tai xương chũm có cholesteatoma”, Kỷ yếu các đề tài khoa học
hội nghị Tai Mũi Họng toàn quốc năm 2009, Tập 1, tr. 67-71.
9. Nguyễn Đức Minh Chính, Trần Hoài Dạ Vĩnh, Đặng Thanh (2001), Nhận xét
tình hình phẫu thuật điều trị viêm tai xương chũm tại khoa Tai Mũi Họng
Bệnh Viện Trung Ương Huế, Luận văn tốt nghiệp bác sỹ Y Khoa, Đại học
Y Huế.
10. Huỳnh Khắc Cường, Phạm Kiên Hữu (2005), "Viêm tai giữa và cholesteatome",
Bài giảng tai mũi họng (lưu hành nội bộ), Trường đại học Y Dược Thành
Phố Hồ Chí Minh, tr. 99 - 103.
11. Huỳnh Khắc Cường, Huỳnh Bá Tân, Phạm Ngọc Chất, và cộng sự (2006), “Tạo
hình màng nhĩ đơn thuần”, Chẩn đoán bệnh tai, Tài liệu lưu hành nội bộ của
hội nghị Tai mũi họng Đà Nẵng 3-5/8/2006, tr. 70-80.
12. Nguyễn Thị Ngọc Dinh (2006), “Phương pháp đo sức nghe”, Tài liệu tập huấn
tai-thính học, Bệnh Viện Tai Mũi Họng Trung Ương, Tài liệu lưu hành nội
bộ, tr. 3-9.
13. Phan Văn Dưng (2000), Đánh giá kết quả phẫu thuật vá nhĩ trong viêm tai giữa
mạn tại Bệnh Viện Trung Ương Huế, Luận văn thạc sĩ y học, Đại Học Y
Dược Huế.
14. Phan Văn Dưng, Nguyễn Tư Thế (2009), "Viêm tai giữa mạn tính", Giáo trình
tai mũi họng, Nhà xuất bản Đại học Huế, Huế, tr. 83-89.
15. Phan Văn Dưng, Nguyễn Tư Thế (2009), "Biến chứng nội sọ do tai”, Giáo trình
tai mũi họng, Nhà xuất bản Đại học Huế, Huế, tr. 90-96.
16. Phạm Vũ Thanh Hải, Phạm Sỵ Hoãn, Huỳnh Bá Tân (2008), “Ứng dụng nội soi
trong phẫu thuật vá nhĩ”, Tạp chí Tai Mũi Họng, (3), tr. 6-10.
17. Trần Văn Khen, Nguyễn Tiến Dũng (2003), “Đánh giá kết quả phẫu thuật vá nhĩ
bằng kỹ thuật Underlay”, http://www.benhvienkhanhhoa.org.vn/tintucsukien.
aspx?id=2&idR=8&idn=2.
18. Nguyến Hữu Khôi, Huỳnh Khắc Cường, Phạm Kiên Hữu (1998), “Về phẫu
thuật điều trị viêm tai giữa mạn tính”, http://home.ykhoa.net/NCKH/p235-
p346/tmh06.HTM.
19. Nguyễn Hữu Khôi, Nhan Trừng Sơn (2008), “Phẫu thuật điều trị viêm tai giữa
mạn tính”, Tai Mũi Họng, tập 1, Nhà xuất bản Y Học, Thành phố Hồ Chí
Minh, tr. 336-351.
20. Ngô Ngọc Liễn (2006), “Bệnh học xương chũm”, Giản yếu bệnh học Tai-Mũi-
Họng, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 60-68.
21. Ngô Ngọc Liễn (2001), “Tính thiếu hụt sức nghe”, Thính học ứng dụng, Nhà
xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 193-206.
22. Lê Văn Lợi (2001), “Các mốc giải phẫu cần nhớ”, Các phẫu thuật thông thường
tai mũi họng, Tập 1, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 39-54.
23. Lê Văn Lợi (2001), “Các phẫu thuật tạo hình màng nhĩ hòm nhĩ”, Các phẫu thuật
thông thường tai mũi họng, Tập 1, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 84-110.
24. Trần Viết Luân (2004), “Viêm tai giữa mạn mủ”, Tai mũi họng nhập môn, Nhà
xuất bản Y Học, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 118-120.
25. Phùng Minh Lương (2005), "Đặc điểm dịch tễ bệnh viêm tai giữa mạn tại DAK
LAK trong 5 năm 2000-2004", Tạp chí Tai Mũi Họng, (4), tr. 1-9.
26. Lê Trần Quang Minh, Lê Thị Hoa Tiên (2009), “Phẫu thuật chỉnh hình màng nhĩ
đơn thuần qua nội soi”, Tạp chí Tai Mũi Họng, (1), tr. 7-11.
27. Trần Trọng Uyên Minh, Nguyễn Văn Đức (2003), “Một số kích thước và hình
dáng màng tai-chuỗi xương con của người Việt trưởng thành”, Tạp chí Y học
thành phố Hồ CHí Minh, 7(1), tr. 18-24.
28. Nguyễn Hoàng Nam (2008), “Phẫu thuật tạo hình màng nhĩ”, Tai Mũi Họng,
tập1, Nhà xuất bản Y Học, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 457-466.
29. Nguyễn Hoàng Nam (2001), “Đánh giá sử dụng nội soi trong phẫu thuật tai
giữa”, Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 5(4), tr. 104-107.
30. Nguyễn Hoàng Nam (2003), “Đánh giá eo nhĩ qua nội soi”, Tạp chí Y học thành
phố Hồ Chí Minh, 7(1), tr. 30-33.
31. Nguyễn Hoàng Nam (2003), “Sử dụng nội soi trong phẫu thuật vá nhĩ”, Tạp chí
Y học thành phố Hồ Chí Minh, 7(1), tr. 34-38.
32. Nguyễn Hoàng Nam, Nguyễn Hữu Khôi (2005), “Kỹ thuật tạo hình màng nhĩ
đặt dưới trong ống tai qua nội soi”, Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh,
9(1), tr. 120-124.
33. Netter H.F., Người dịch: Nguyễn Quang Quyền (1999), “Tai ngoài và hòm nhĩ”,
Atlas giải phẫu người, Nhà xuất bản Y Học, Thành phố Hồ Chí Minh,
tr. 102-103.
34. Phan Thị Nho, Lê Vũ Hà Thanh, Nguyễn Đình Toàn (2000), Nghiên cứu đặc
điểm lâm sàng và ảnh hưởng sức nghe ở bệnh nhân viêm tai giữa mạn tính
tại khoa tai mũi họng Bệnh Viện Trung Ương Huế, Luận văn tốt nghiệp bác
sỹ Y Khoa, Trường Đại học Y Dược Huế.
35. Trương Tam Phong, Nguyễn Văn Cường, Phạm Tuấn Khoa và cộng sự (2004),
“Nhận xét kết quả phẫu thuật tạo hình tai giữa tại Bệnh Viện bưu điện II”,
Tạp chí Tai Mũi Họng, (3), tr. 1-6.
36. Nguyễn Tấn Phong (2007), “Chỉnh hình tai giữa”, Phẫu thuật tai, Nhà xuất bản
Y Học, Hà Nội, tr. 311-319.
37. Nguyễn Tấn Phong (2009), “Nội soi chỉnh hình tai giữa trên hốc mổ khoét chũm
tiệt căn”, Kỹ yếu các đề tài khoa học hội nghị Tai Mũi Họng toàn quốc năm
2009, Tập 1, tr. 6-9.
38. Nguyễn Quang Quyền (1997), “Cơ quan tiền đình ốc tai”, Bài giảng giải phẫu
học, Nhà xuất bản Y Học, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 425-445.
39. Đặng Hoàng Sơn (2004), “Tần suất xuất độ viêm tai giữa cấp và mãn, vi khuẩn
và sự đề kháng kháng sinh trong điều trị ban đầu viêm tai giữa cấp mạn ở trẻ
em”, Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, 8(1), tr. 95-99.
40. Nguyễn Trọng Tài (1995), Góp phần nghiên cứu vá nhĩ bằng mảnh cân cơ thái
dương với mảnh sụn vành tai làm giá đỡ trong phẫu thuật chỉnh hình tai
giữa - vá nhĩ kiểu Wullstein II, Luận văn tốt nghiệp bác sỹ chuyên khoa cấp
II, Trường Đại Học Y Hà Nội.
41. Võ Tấn (2001), “Giải phẫu sơ lược về tai”, Tai Mũi Họng Thực Hành, Tập 2,
Nhà xuất bản Y học, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 5-35.
42. Võ Tấn (2001), “Viêm tai giữa mạn tính”, Tai Mũi Họng Thực Hành, Tập 2,
Nhà xuất bản Y học, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.110-124.
43. Huỳnh Ngọc Thành, Nguyễn Hữu Khôi, Nguyễn Hoàng Nam (2006), “Khảo sát
cấu trúc vi thể rìa lỗ thủng màng nhĩ", Bản tin thời sự tai mũi họng, 7(1),
tr. 10-12.
44. Phạm Thanh Thế, Hồ Lê Hoài Nhân, Đỗ Châu Minh Ngọc và cộng sự (2009),
“Đánh giá hiệu quả việc đóng kín lỗ thủng màng nhĩ bằng kỹ thuật Underlay
tại bệnh viện Tai Mũi Họng Cần Thơ trong khoảng thời gian 2000-2009”, Kỷ
yếu các đề tài khoa học hội nghị Tai Mũi Họng toàn quốc năm 2009, Tập 1,
tr. 41-45.
45. Lâm Huyền Trân, Võ Hiếu Bình, (2007), “Chảy tai-viêm tai giữa và biến chứng
nội sọ do tai”, Bài giảng lâm sàng tai mũi họng, Nhà xuất bản Y Học, Hà
Nội, tr. 83-100.
46. Hồ Xuân Trung, Nguyễn Hoàng Nam, Nguyễn Hữu Khôi (2005), “Đánh giá kết
quả tạo hình màng nhĩ qua nội soi”, Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh,
10 (1), tr. 25-27.
47. Lê Thị Hải Yến, Lê Thanh Thái (2006), Nhận xét tình hình bệnh nhân bị viêm
tai giữa đến khám và điều trị tại phòng khám khoa tai mũi họng Bệnh Viện
Trường Đại Học Y Dược Huế, Luận văn tốt nghiệp bác sỹ Y Khoa, Đại Học
Y khoa Huế.
TIẾNG ANH
48. Ballenger J.J. (1985), “Surgery in chronic ear diseases”, Diseases of Nose,
Throat, Ear, Head and Neck, Lea and Philadephia, USA, pp. 656-673.
49. Bruce B. (1999), “Middle ear surgery”, An introduction to ear disease, Singular
Pub Group, California, pp. 53-60.
50. Bruce B. (1999), “Understanding the ear”, An introduction to ear disease,
Singular Pub Group, California, pp. 3-11.
51. Cavaliere M., Mottola G., Rondinelli M., Iemma M. (2009), “Tragal cartilage in
tympanoplasty: anatomic and functional results in 306 cases”, Acta
Otorhinolaryngol Ital, 29(1), pp. 27-32.
52. Fisch U. (1994), “Tympanoplasty”, Tympanoplasty,mastoidectomy and stapes
surgery, Thieme Medical Publishers, New York, pp. 2-19.
53. Gacek R.R. (2008), Tympanoplasty and ossiculoplasty, Ear surgery, Spinger-
Verlag Berlin Heidelberg, Germany, pp.13-26.
54. Gulya A.J. (2007), “Osteology of the temporal bone”, Anatomy of the temporal
bone with surgical implications, Informa Healthcare USA, pp. 2
55. Güneri E.A., Ikiz A.O., Erdağ T.K., Sütay S. (2009), “Cartilage tympanoplasty:
indications, techniques, and results”, J Otolaryngol Head Neck Surg, 38(3),
pp. 362-368.
56. Haberman II R.S. (2004), “Underlay Tympanoplasty”, Middle ear and mastoid
surgery, Thieme Medical Publishers Inc, The United States of America,
pp. 12-21.
57. Hildmann H., Sudhoff H. (2006), “When not to do surgery”, Middle Ear
Surgery, Springer-Verlag Berlin Heidelberg, Germany, pp. 14-15.
58. Jahnke K. (2004), “Morphology, function and clinical aspects of the eustachian
tube”, Middle ear surgery, Georg Thieme Verlag, Stuttgart, pp. 1-22.
59. Katzenmeyer K. (1999), Tympanoplasty, http://www.otohns.net/default.asp?id=
14629.
60. Lima Ada S., Sanchez T.G., et al (2007), “The effect of timpanoplasty on
tinnitus in patients with conductive hearing loss: a sixmonth follow-up”,
Braz J Otorhinolaryngol,73(3), pp. 384-389.
61. Sanna M., Russo A. (1999), “The normal tympanic membrane”, Color Atlas of
Otoscopy from Diagnoisis to Surgery, Staudigl Druck, Germany, pp. 4-6.
62. W.H.O (2006), “Prevalance, cause and prevention of deafness and hearing
impairment”, Primary ear and hearing care training resource, WHO
documen production services, Geneva, Switzerland, pp. 11-20.
PHỤ LỤC
Phiếu số: ……………
PHIẾU NGHIÊN CỨUNGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG
VÀ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT VÁ NHĨ CỦA VIÊM TAI GIỮA MẠN TÍNH
Số BA:……..........Ngày vào:………….…Ngày mổ:................…Ngày ra: …….......Ngày tái khám:. ............................................................................................................
1. PHẦN HÀNH CHÍNH1.1. Họ và tên bệnh nhân: …………………………………....…………...…….........1.2. Tuổi:. .................................................. 1.3. Giới: Nam Nữ 1.4. Tên cha mẹ (nếu BN <16 tuổi):. ..........................................................................1.5. Địa chỉ:. .................................................................................................................1.6. Số điện thoại:. .....................................................................................................1.7. Nghề nghiệp:. ........................................................................................................
2. LÝ DO VÀO VIỆN.................................................................................................
3. TIỀN SỬ-BỆNH SỬ3.1. Thời gian chảy mủ tai:...................... Thời gian chảy mủ tai lần này:. .................3.2. Tiền sử phẫu thuật vá nhĩ:
Chưa Có , số lần:. ..................... Sau mỗi lần PT bao lâu thì chảy tai. ......................
3.3. Tính chất chảy mủ tai:Chảy tai liên tục Chảy tai từng đợt (vào mùa nào nhiều nhất:.............) Tính chất mủ tai: Trong loãng Nhầy Đặc không thối Đặc thối
4. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG TRƯỚC MỔ4.1. Tai bên nào viêm: Phải Trái Hai bên (P>T hay T>P)4.2. Tai bên nào được mổ: Phải Trái 4.3. Triệu chứng cơ năng:
Đau tai Chảy tai Ù tai (trầm, cao, không xác định)
Nghe kém Chóng mặt Các triệu chứng khác:. ....................4.4. Triệu chứng thực thể:
Tai phải Một số đặc điểm lỗ thủng nhĩ Tai tráiVị trí lỗ thủng nhĩ ở màng căng:
Không thủng màng căngThủng trung tâmThủng trước trênThủng trước dướiThủng sau trênThủng sau dưới
Thủng rộng >4 mm
.......... mm Kích thước lỗ thủng ở màng căng:
.......... mm
Tình trạng sát xương của lỗ thủng
Không thủng màng căngThủng không sát xươngThủng sát xương
Thủng màng căng hay chùng:Không thủng màng căng, chùngThủng màng căng đơn thuầnThủng màng chùng đơn thuầnThủng màng căng + màng chùng
Bờ lỗ thủng:Nhẵn đềuNham nhở
Niêm mạc đáy nhĩ (thủng nhĩ):Niêm mạc bình thườngNiêm mạc viêm sùiPolyp tai giữaTrơ xương
Tình trạng hòm nhĩ (thủng nhĩ):Khô sạchCó mủ
Tình trạng vòi nhĩ:Thông tốtThông vừa phải
5. TRIỆU CHỨNG CẬN LÂM SÀNG TRƯỚC MỔ5.1. Chẩn đoán hình ảnh bằng phim Schullers:- Thể loại xương chũm (dựa vào hai tai): Thông bào Xốp Đặc ngà - Hình ảnh bệnh lý của xương chũm:Tai phải Hình ảnh bệnh lý xương chũm Tai trái
Không thấy hình ảnh bệnh lýMờ nhạtMờ đặcTiêu xương
5.2.Thính lực đồ trước mổ:Các chỉ số Tai phải Tai tráiTần số (Hz) 500 1000 2000 4000 500 1000 2000 4000Khí đạoCốt đạo
Loại điếc BT Dẫn truyền Tiếp nhận Hỗn hợp (nặng DT, nặng TN)
BT Dẫn truyền Tiếp nhận Hỗn hợp (nặng DT, nặng TN)
Mức độ điếc BT Nhẹ Vừa Nặng Sâu BT Nhẹ Vừa Nặng Sâu
6. PHẪU THUẬT6.1. Tình trạng tai mổ:
Tai mổ là tai duy nhất bị bệnh Tai mổ là tai nhẹ hơn tai kia Tai mổ là tai nặng hơn tai kia
6.2. Tên phẫu thuật viên:............................................................................................6.3. Phương pháp phẫu thuật:
Mở sào bào thượng nhĩ + vá nhĩ theo phương pháp Wullstein II 6.4. Các chi tiết kỹ thuật mổ:6.4.1. Đường rạch da: Đường rạch sau tai Đường rạch Shamgbauch 6.4.2. Kết quả của sự làm thông thoáng giữa thượng nhĩ với sào bào:
Thông tốt Thông vừa Không thông 6.4.3. Thứ tự của việc đặt mảnh ghép và spongel:
Đặt mảnh ghép trước, rồi đặt spongel hòm nhĩ sau Đặt spongel hòm nhĩ trước, rồi đặt mảnh ghép sau
6.5. Đánh giá bệnh tích của xương chũm trong mổ:6.5.1. Tình trạng xơ sùi của xương chũm: Ít xơ sùi Nhiều xơ sùi 6.5.2. Tình trạng di động của chuỗi xương con: Di động tốt Di động không tốt6.6. Tai biến trong mổ:
Chảy máu nhiều Hở màng não Hở TM bên Đứt dây VII Tai biến khác:..........................................................................................................
6.7. Biến chứng sau mổ:Chảy máu Liệt mặt Nhiễm trùng hốc mổ Hẹp ống tai ngoài Biến chứng khác:. ...................................................................................................
7. KẾT QUẢ SAU MỔ 3-6 THÁNG7.1. Triệu chứng lâm sàng sau mổ:7.1.1. Triệu chứng cơ năng ở tai mổ:
Đau tai Chảy tai Ù tai (trầm, cao, không xác định)
Nghe kém Chóng mặt Các triệu chứng khác:. ....................4.4. Triệu chứng thực thể ở tai mổ:
Tai phải Triệu chứng thực thể ở tai mổ Tai tráiĐánh giá độ hẹp ống tai ngoài:Không hẹp
Hẹp ítHẹp nhiềuTình trạng chảy mủ taiKhông chảy mủ taiChảy mủ trong loãngChảy mủ nhầyChảy mủ đặc không thốiChảy mủ đặc thốiTình trạng mảnh ghépLiền kínThủng trung tâmHở góc trước trênHở trước dướiHở góc sau trênHở góc sau dưới
.......... mm Kích thước lỗ hở của mảnh ghép: .......... mm
Đánh giá kết quả sau mổ 3-6 tháng về mặt giải phẫu: - Tốt (Tai khô và Mảnh ghép liền kín). - Khá (Tai khô và Mảnh ghép thủng <trước mổ) - Kém (Tai chảy mủ hoặc Mảnh ghép thủng ≥ trước mổ)
7.2. Thính lực đồ sau mổ 3-6 tháng:Các chỉ số Tai phải Tai tráiTần số (Hz) 500 1000 2000 4000 500 1000 2000 4000Khí đạoCốt đạo
Loại điếc BT Dẫn truyền Tiếp nhận Hỗn hợp (nặng DT, nặng TN)
BT Dẫn truyền Tiếp nhận Hỗn hợp (nặng DT, nặng TN)
Mức độ điếc BT Nhẹ Vừa Nặng Sâu BT Nhẹ Vừa Nặng SâuKhoảng Rinne sau mổ 3-6 tháng (của tai mổ) của trung bình cộng ở 3 tần số 500, 1000, 2000 Hz:. ........................dBĐánh giá kết quả sau mổ 3-6 tháng về mặt thính học:
Hiệu quả Rinne (hiệu số của Rinne trước mổ và Rinne sau mổ của trung bình cộng ở 3 tần số 500, 1000, 2000 Hz):
Tốt: >20 dB Khá: 11-20 dB Trung bình: 1-10 dB Kém: 0 dB
Người điều tra