KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM 1. Một số khái niệm
Trước đây VHTĐ còn được gọi là văn học phong kiến, văn học cổ, văn học cổ điển (cổ xưa,
mẫu mực).
+ Thực ra VHTĐ dùng để chỉ văn học từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX. Khái niệm này được
dùng khá phổ biến bấy lâu nay và khái niệm VHTĐ được đại đa số các nhà nghiên cứ thống
nhất và sử dụng rộng rãi.
+ Người đầu tiên đưa ra khái niệm VHTĐ là Niculin - một chuyên gia Đông phương học người
Nga. Khái niệm này vừa có tính khoa học vừa giúp chúng ta dễ dàng nhận ra tính loại hình của
VHTĐ Việt Nam.
- Khái niệm này được hình thành trên cơ sở của khái niệm thời Trung đại. Thời Trung đại là
khái niệm do các nhà nhân văn chủ nghĩa đưa ra từ thế kỷ XV. Họ dùng khái niệm này để chỉ
một giai đoạn hoặc một thời kì lịch sử của dân tộc Châu âu.
- Vào thế kỷ V, kể từ khi Tây La Mã sụp đổ cho đến khi bắt đầu xuất hiện thời đại Phục hưng
thế kỷ XV, khái niệm thời Trung đại được đặt trong bộ ba: thời cổ đại, thời trung đại, thời cận
đại.
- Xác định khái niệm thời Trung đại, nhà khoa học Konrat cho rằng: Thời trung đại là thời đại
được tính từ khi chế độ chiếm hữu nô lệ sụp đổ, hình thành chế độ phong kiến và cho đến khi
chế độ phong kiến bị thay thế bởi một chế độ khác với nến kinh tế hàng hoá và công nghiệp
phát triển.
Thời cổ đại
(Chiếm hữu nô lệ)
Thời trung đại
(Phong kiến)
Cận đại
(Tư bản)
- Tuy nhiên khái niệm thời trung đại ở phương Tây và phương Đông có nhiều điểm khác nhau.
Đối với các sử gai phương Tây, khi gọi thời trung đại thì thường gắn với một cái nhìn khinh bỉ,
coi thường và mỉa mai. Họ cho rằng, thời trung đại ở Châu âu và phương tây là “Đêm trường
trung cổ”, thời kì chìm đắm trong bóng tối, trong bất hạnh, trong phi nhân tính, phi nhân đạo.
Đây là thời kì ngự trị tuyệt đối của quân quyền và thần quyền. Mọi phát minh khoa học đều bị
vùi dập nên nó kìm hãm sự phát triển của xã hội và sự tiến bộ của loài người. Còn ở Việt Nam
không có cái gọi là đêm trường trung cổ như ở Châu Âu.
1
- Khái niệm trung đại có những mặt tích cực, tiến bộ, nhiều giá trị làm nền cho văn minh văn
hoá hiện đại.
- Còn ở Việt Nam, VHTĐ bắt đầu từ thế kỷ X đến XIX. (Với sự kiện 938 Ngô Quyền chiến
thắng quân Nam Hán, năm 939 Ngô Quyền xưng vương). VHTĐ Việt Nam có nhiều giá trị lớn
thành, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân đạo bắt đầu hình thành từ đây. Trình độ tiếng Việt
đạt đến độ điêu luyện (ví dụ như Truyện Kiều).
- Khái niệm trung đại Việt Nam ra đời muộn. Ở Trung Quốc khái niệm trung đại bắt đầu hình
thành từ thế kỉ IV, ở Nhật từ thế kỉ IX còn ở Việt Nam bắt đầu thế kỉ X cho đến hết thế kỉ XIX.
Cho nên có thề gọi trung đại Việt Nam là trung đại muộn.
+ VHTĐ Việt Nam là loại hình văn học tồn tại và phát triển trong bối cảnh thời trung đại VN,
là loại hình văn học thời kì dài, được viết bằng chữ khối vuông, chữ Hán và chữ Nôm. VHVN
vừa mang tính loại hình của nhiều nước VHTĐ trên thế giới, đặc biệt là các nước phương
đông, nhất là chịu ảnh hưởng của văn hoá Trung hoa. Đồng thời đây là loại hình mang đậm
dấu ấn Việt Nam
2. Cơ sở ý thức hệ và quan niệm sáng tác
a. Cơ sở ý thức hệ
VHTÐ được sáng tác dựa trên cơ sở hệ ý thức Nho- Phật- Lão, chủ yếu là đạo Nho. Ảnh
hưởng của các học thuyết triết học này đã dẫn đến việc hình thành những nét đặc thù trong
quan niệm của con người trung đại về:
+ Bản chất của vũ trụ
+ Không gian và thời gian
+ Thiên nhiên
+ Con người
Những quan niệm này có quan hệ đến việc hình thành những đặc trưng về nội dung và
hình thức nghệ thuật của văn chương trung đại. Vì vậy, muốn lý giải những vấn đề thuộc về
bản chất của văn chương trung đại, cái hay, cái đẹp của các tác phẩm thời trung đại, tất yếu,
phải dựa trên cơ sở những quan niệm nghệ thuật đặc thù về thế giới và đời sống con người ở
thời kỳ trung đại.
b. Về quan niệm sáng tác
Văn học viết là sản phẩm của trí thức dân tộc. Ngày xưa, các tầng lớp trí thức luôn chịu
ảnh hưởng rõ rệt của Nho học. Từ lâu, Nho gia đã gắn văn với đạo: Văn sở dĩ tải đạo dã. Chu
Ðôn Di đời Tống, qua nhận định của mình, thừa nhận một quan niệm rất quan trọng của rất
2
nhiều thế hệ Nho gia trước đó về tính chất và ý nghĩa của văn học. Quan niệm này coi văn là
cái hình thức, cái để chứa, để chuyên chở đạo lý. Vì vậy, đạo mới chính là nội dung. Mệnh đề
văn dĩ tải đạo và thi ngôn chí có thể khái quát được một cách căn bản quan niệm sáng tác của
các nhà văn thời trung đại.
Người xưa đời hỏi tác phẩm phải thực sự chân thành, văn học phải là tiếng nói phát ra từ
đáy lòng nhưng nội dung đó phải được thống nhất trong một hình thức đẹp để phục vụ, làm
cho nội dung thêm hay.
Do nhận thức rằng văn là dùng để biểu hiện các chân lý phổ biến, là hình thức đẹp để
chuyển tải nội dung đi xa (Ngôn nhi vô văn, hành chi bất viễn- Khổng Tử) nên ở thời kỳ trung
đại, phạm vi của văn học được quan niệm rất rộng. Từ công việc chép sử, luận triết học, viết
chiếu, chế, biểu, cáo, hịch,.. đều trau chuốt hình thức câu văn sao cho ý đẹp lời hay.
Văn dùng để chuyên chở đạo lý nên người xưa rất xem trọng văn chương. Nó có chức
năng giáo hóa (giáo dục, làm thay đổi nhân cách của con người theo hướng tốt đẹp hơn) và di
dưỡng tính tình (giúp bản thân nhà văn thanh lọc tâm hồn, bày tỏ tâm sự trung quân ái quốc,
nuôi dưỡng nhân cách người quân tử).
Nhìn chung, quan niệm Văn chở đạo ảnh hưởng rất rõ đến mục đích viết văn, phạm vi đề
tài, hình thức thể hiện. Tuy nhiên, càng tách rời khỏi giáo điều Nho gia, càng gần với thực tế
cuộc sống dân tộc, các tác giả trung đại càng phát huy được mặt tích cực của quan niệm đó. Xu
hướng này thể hiện rất rõ trong suốt chiều dài phát triển của VHTÐ.
3. Các giai đoạn phát triển của VHTĐ
a. Phân kì VHTĐ
Lịch sử văn học luôn quan hệ mật thiết với vận mệnh dân tộc, đến cuộc đấu tranh dựng
nước và giữ nước của dân tộc. Mỗi khi dân tộc bước vào một thử thách mới, lập tức, nội dung
văn học cũng phải có sự chuyển biến và dần dần diễn ra những thay đổi về nội dung, hình thức
thể hiện.
Lịch sử văn học có những quy luật nội tại và tính độc lập tương đối của nó. Trong từng
giai đoạn, có thể không có sự trùng hợp hoàn toàn giữa lịch sử văn học và lịch sử dân tộc
nhưng vẫn có thể căn cứ vào lịch sử dân tộc để phân kỳ lịch sử văn học, bởi xét đến cùng, văn
học bao giờ cũng là tấm gương phản ánh trung thành thời đại. Căn cứ vào các yếu tố lịch sử,
đặc trưng nội dung và hình thức nghệ thuật, có thể phân kỳ lịch sử VHTÐ VN như sau:
+ Giai đoạn văn học từ X đến XIV
+ Giai đoạn văn học XV - XVII
3
+ Giai đoạn văn học từ TK XVIII đến nửa đầu TK XIX
+ Giai đoạn văn học nửa cuối TK XIX
b. Các giai đọan phát triển
+ Giai đoạn một: từ thế kỷ X-XIV
Bối cảnh lịch sử, xã hội
Thế kỷ X đánh dấu mốc son hết sức quan trọng trong lịch sử nước nhà. Với chiến thắng
Bạch Đằng 938, dân tộc ta đã thoát khỏi ách đô hộ của phong kiến phương Bắc kéo dài hơn
1000 năm. Giờ đây chúng ta vừa phải nhanh chống xây dựng một quốc gia độc lập vừa chống
lại những âm mưa chống phá của kẻ thù. Nhiệm vụ đặt ra của lịch sử giai đoạn này là khôi
phục lại nền văn hiến của dân tộc bị mất trong một ngàn năm mất nước.
Từ nhiệm vụ chính trị như vừa nên cho nên cảm hững chủ đạo của văn học giai đoạn
này là cảm hứng ngợi ca và khẳng định dân tộc.
Tình hình văn học
Đây là giai đoạn hình thành VHVNTĐ và cũng là đặt nền móng cho toàn bộ nền văn
học nước nhà.
Bước đầu, các thể loại đều vay mượn của Trung Quốc, và đều viêt bằng chữ Hán.
* Thơ : - thơ Cổ phong
- thơ Đường luật
* Văn xuôi tự sự: truyện pha trộn với ký (tác phẩm chủ yếu lấy từ nguồn tự sự dân gian hay tự
sự lịch sử,tự sự tôn giáo)
Các tác phẩm tiêu biểu như:
- “Việt điện u linh ”của Lý Tế Xuyên (Tác phẩm này lấy từ nguồn tự sự dân gian) .
- “Tam tổ thực lục” (khuyết danh) – tác phẩm này kể lại công đức của ba vị tổ sư của thiền
phái Trúc lâm đó là: Trần nhân Tông, Đồng kiên Cương (pháp sư), Huyền Quang (nhà thơ).
- “Thiền uyển tập anh ngữ lục”(khuyết danh). Tác phẩm này là sự tập hợp những vị anh tú
trong vườn thiền 67 truyện viết về 68 vị thiền sư.
- Đại Việt sử lược, Tổ gia thực lục (khuyết danh)
- “Lĩnh nam chích quái” (Trần thế Pháp) tác phẩm này do Vũ Quỳnh và Kiều Phú biên
soạn.
* Biền văn: hịch, cáo, biếu chiểu.
4
Điểm đáng chú ý nhất của văn học giai đoạn này chính là sự Việt hóa thành công thể
thơ Đường và phú. Những người có công lớn trong việc này là Hàn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố,
Chu An, Hồ Quý Ly… Điều này chứng tỏ ý thức dana tộc trong việc sáng tác văn học đã phát
triển đến một bước cao, tạo tiền đề cho văn học tiếng Việt phát triển ở các giai đoạn sau.
+ Giai đoạn hai: VHVN từ thế kỷ XV-XVII
Tình hình lịch sử- xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIV
- Chế độ phong kiến Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XIV bước vào tình trạng suy
sụp nghiêm trọng.
- Các vị vua cuối đời Trần ngày càng phản bội lại lợi ích của nhân dân, tự mãn, ăn chơi sa
đọa. Chính sách thuế khóa thắt ngặt. Bọn quý tộc lợi dụng chế độ Ðại điền trang để cướp đoạt
ruộng đất của nông dân biến họ thành nông nô và nô tỳ. Nền kinh tế bị kìm hãm cùng với nạn
mất mùa, đói kém xảy ra liên miên khiến nhân dân phải rơi vào tình cảnh cùng khốn, bất mãn
dẫn đến sự bùng nổ của rất nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân và nông nô
- Sự rối ren từ nhiều phía tạo nên một hoàn cảnh xã hội đầy phức tạp và mâu thuẫn dẫn
đến sự sụp đổ tất yếu của triều đại nhà Trần.
Năm 1400 Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần: Nhà Hồ Thành lập
+ Chính sách cải cách của nhà Hồ:
Hồ Quý Ly là người có tài, có đầu óc tiến bộ, cải cách, có cái nhìn thực tế trước tình thế
nguy ngập của đất nước. Ông đưa ra một loạt cải cách quan trọng:
- Dời đô về Thanh Hóa
- Tăng cường quân sự võ bị
- Ðề ra chính sách hạn điền hạn nô
- Phát hành tiền giấy
- Mở khoa thi chọn người tài với quan điểm trọng chữ Nôm hơn chữ Hán.
Tháng 11 năm 1406, quân Minh lấy chiêu bài Phù Trần diệt Hồ tràn sang xâm lấn nước
ta. Hồ Quý Ly tiến hành chống giữ nhưng thế yếu lại không được nhân dân tin theo nên đành
chịu thất bại. Tháng 4- 1407, trận phản công cuối cùng của Hồ Quý Ly cũng đại bại, cha con
và toàn bộ triều thần bị bắt về Ttrung Quốc.
+ Ách đô hộ của nhà Minh
Sau khi bình định được nước ta, nhà Minh thiết lập một chhế độ cai trị hà khắc và dã
man:
5
- Ðổi nước ta thành Giao Chỉ, đặt bộ máy cai trị với hệ thống đồn trại khắp nơi để tiến
hành trấn áp ngay những cuộc khởi nghĩa của người Việt.
- Bóc lột nhân dân bằng hệ thống thuế khóa, khai thác, vơ vét tài nguyên, khoáng sản.
- Tiến hành chính sách đồng hóa, ngu dân, bắt người dân theo phong tục phương Bắc,
thiêu hủy kkho tàng, sách vở, bia mộ, hạn chế trường học, tuyên truyền mê tín dị đoan.
- Trong tình hình đó liên tiếp những cuộc khởi nghĩa bùng nổ điển hình là hai cuộc khởi
nghĩa của các vị tông thất nhà Trần là Giản Ðịnh đế và Trùng Quang Ðế nhưng do sứ mệnh
lịch sử của nhà Trần đã chấm dứt nên cả hai cuộc khởi nghĩa lớn này đều thất bại.
+ Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1417- 1427)
Ðược tiến hành trong 10 năm dưới sự chỉ huy của Lê Lợi, một người hào trưởng đất Lam
Sơn. Ông biết dựa vào dân, tập hợp quần chúng, dấy động phong trào kháng chiến mạnh mẽ.
Cuộc khởi nghĩa trải qua những thất bại ban đầu nhưng sau đó, nhờ biết tập hợp sức
mạnh của nhất dân, biết vận dụng những chiến lược, chiến thuật tài tình nên cuộc khởi nghĩa
đã phát triển mạnh và tiiến đến thắng lợi hoàn toàn vào cuối năm 1427.
Thành công của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đánh dấu một bước ngoặc mới trên con đường
trưởng thành của dân tộc, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên thịnh trị của triều đại Hậu Lê.
+ Giai đoạn xây dựng, củng cố địa vị thống trị của chế độ phong kiến Hậu Lê ở nửa sau thế kỷ
XV.
Kháng chiến thành công, Lê Lợi lên ngôi vua lập nên nhà Hâụ Lê. Tuy nhiên, Lê Thái Tổ
chỉ là người đặt nền móng. Phải đợi đến triều đại của Lê Thánh Tông, chính quyền phong kiến
hậu Lê mới thực sự bước đến giai đoạn cực thịnh.
Ở thời Lê, các mặt kinh tế, văn hóa, chính trị,.. đều phát triển mạnh mẽ:
- Về chính trị, Lê Thánh Tông chủ trương xây dựng một chính quyền quân chủ chuyên
chế cao độ, tất cả quyền hành đều tập trung trong tay nhà vua. Thế lực của tầng lớp đại quý tộc
bị hạn chế tối đa, chính sách thân dân tiết kiệm được thực hiện nghiêm túc nhằm điều hòa mâu
thuẫn giữa nhân dân với giai cấp thống trị.
- Về kinh tế, nhà Lê thủ tiêu chế độ đại điền trang, thi hành chính sách quân điền, thực
hiện lĩnh canh nộp thuế (Phương thức sở hữu cá nhân về mặt ruộng đất).
- Dưới triều Lê Thánh Tông, một ông vua hay chữ, siêng năng đọc sách và làm chính trị,
việc giáo dục, thi cử, Nho học được kích thích phát triển mạnh mẽ.
Tình hình văn học
6
Văn học giai đoạn XV – XVII chuyển hướng mạnh mẽ theo hướng dân tộc hóa từ ngôn
ngữ đến thể loại.
- Trên đà cải cách chư Nôm của Hồ Quý Ly, giai đoạn này càng được chuẩn hóa, hoàn
thiện, tạo điều kiện cho văn học chữ Nôm phát triển. Thơ Nôm Đường luật đã xuất hiện những
tập hàng trăm bài có giá trị lớn về nội dung và nghệ thuật như: Quốc Âm thi Tập của Nguyễn
Trãi, Hồng Đức Quốc Âm thi tập (hủ yếu của Lê Thánh Tông), Bạch Vân Quốc Ngữ Thi Tập
của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Bên cạnh đó các thể loại văn học viết bằng chữ Hán vẫn tiếp tục phát huy vai trò của
mình. Văn học chức năng hành chính, nghi lễ phát triển mạnh. Tiêu biểu cho dòng này có các
tác phẩm như: Bình Ngô đại cáo, Quân trung từ mệnh tập, các bài văn bia, tựa…
- Văn bình sử, thơ ca, phú vẫn tiếp tục phát triển
- Truyện truyền kỳ đạt được những thành tựu nhất định. Các tác phẩm nổi tiếng như: Lê
Thánh Tông di thảo, Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ
Tóm lại: gai đoạn văn học này co những nội dung chính
+ Nội dung yêu nước, ca ngợi tinh thần quật khởi anh dũng và chiến thắng vẻ vang của dân
tộc:
Thơ văn viết về đề tài này tập trung vào giai đoạn nửa đầu thế kỷ XV, phát triển mạnh
mẽ, đa dạng với nhiều loại thể như: thực lục, chiếu, chế, biểu, cáo, văn bia, thơ, phú. Nổi bật
nhất và thành công nhất chính là tác phẩm Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi.
Rất nhiều bài phú xoay quanh chủ đề chống Minh xâm lược và chiến thắng oanh liệt
của dân tộc. Nhiều người cùng làm đề tài giống nhau, lựa chọn thể loại sáng tác giống nhau
nhưng ý tứ, tình cảm, phong cách có những khác biệt tạo nên tính đa dạng, phong phú cho các
tác phẩm phú thời kỳ này (Cùng đề tài Núi Chí Linh, rất nhiều tác giả đã viết phú núi Chí Linh
như Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn..
+ Ca ngợi sự thịnh trị của chế độ phong kiến và tài đức của vua Lê Thánh Tông.
Văn học nửa sau thế kỷ XV chứng kiến một sự bột phát về cả số lượng lẫn chất lượng
tác phẩm. Lực lượng sáng tác chủ yếu là các nho sĩ quan liêu, nhất là các triều thần được Lê
Thánh Tông tuyển chọn vào Hội Tao Ðàn. Các nhà thơ sáng tác dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của
nhà vua về đề tài, cảm hứng nên đôi khi, khuynh hướng ca ngợi, thù tạc không kém phần khiên
cưỡng, thụ động.
Bên cạnh đó văn học thế kỷ XV – XVII xuất hiện khuynh hướng bất mãn thời thế
7
Ngay trong thời kỳ cực thịnh của nhà Hậu Lê, tư tưởng bất mãn thời thế vẫn có ở một
số sĩ phu tiết tháo, khao khát đem tài trí giúp đời nhưng bị vùi dập, phải trở về ở ẩn, trong đó
có cả Nguyễn Trãi, Nguyễn Húc,.. Hay thế kỷ XVI là tâm sự u uất của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Tất cả đã phản ánh rõ bản chất xấu xa của chế độ phong kiến.
+ Giai đoạn ba: VHVN từ đầu XVIII đến nửa đầu XIX
Bối cảnh lịch sử
Đây là giai đoạn có nhiều biến cố trong lịch sử. Chế độ phong kiến đã đến hồi suy vong,
đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi, trong đó
tiêu biểu là phong trào Tây Sơn. Phong trào này đã lật đổ tập đoàn phong kiến ở đằng trong,
đánh tan quân Chiêm Thành và quân Thanh ở đằng Ngoài.
Tây Sơn (1788-1802)
- Vua Quang Trung 1788-1792
- Vua Cảnh Thịnh 1792-1802
Vua Thanh Càn Long mượn cớ Lê Chiêu Thống cầu viện để thôn tính nước Việt, đã sai
Tôn Sĩ nghị đem 20 vạn quân sang đánh. Quân Thanh theo ba đường: Tuyên quang, Cao bằng
và Lạng sơn (1788).
Được tin quân Thanh sang xâm lăng, Bắc Bình Vương lên ngôi Hoàng Đế (1788), lấy
hiệu Quang Trung, rồi kéo 10 vạn quân ra Bắc đánh quân Tàu.
Sau khi đại phá quân Thanh, Quang Trung lo sắp xếp, ổn định nội trị và ngoại giao. Vì
vua Thanh Càn Long có lòng kinh nể Hoàng Đế Quang Trung nên việc giao hòa giữa hai nước
sớm được ổn định tốt đẹp. Việc nội trị, Quang Trung định đô tại Nghệ An, là Phượng Hoàng
Trung Đô và gọi Thăng Long là Bắc Thành. Nước được chia thành nhiều trấn, có trấn thủ coi
việc võ, hiệp trấn coi việc văn. Dùng chữ Nôm làm quốc tự, bỏ chữ Hán.
Nhà vua rất chú trọng việc quân sự, lập sổ đinh, tuyển chọn binh sĩ và tập luyện chuyên
cần, để lo việc tương lai đánh Tàu lấy lại đất Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây). Nhưng
vị vua anh tài bậc nhất trong lịch sử bị mất sớm (1792) nên quốc sách không thi hành được.
Con của Quang Trung là Quang Toản lên ngôi lấy hiệu Cảnh Thịnh. Quang Toản nhỏ
tuổi, trong nước gặp lúc khó khăn lộn xộn, nên về sau bị Nguyễn Ánh lấy mất nghiệp (1802).
Thời Tây Sơn, nước Việt bị chia làm ba miền: Miền Bắc do Nguyễn Huệ cai trị; Miền Trung
do anh cả Nguyễn Nhạc cai quản; Miền Nam do anh thứ hai Nguyễn Lữ chỉ huy. Khi chúa
Nguyễn mất nghiệp thì còn sót lại một người dòng dõi nhà Nguyễn là Nguyễn Ánh. Nguyễn
8
Ánh tụ tập quân sĩ đánh nhau với Nguyễn Lữ, chiếm được thành Gia Định, xưng vương năm
1780.
Sau Nguyễn Ánh lại bị thất bại phải chạy ra vùng hải đảo cùng trốn sang Xiêm La (Thái Lan)
cầu cứu quân Xiêm và thế lực Tây Phương.
Năm 1788 Nguyễn Ánh lại chiếm được Gia Định, rồi nhân cơ hội anh em Tây Sơn bất
hòa, cùng nhờ được một số người Pháp giúp sức và luyện tập binh sĩ nên tính việc đánh Bắc
Hà.
Nguyễn Ánh đánh Quy Nhơn 3 lần mới thắng (1799) rồi đổi tên là Bình Định.
Năm 1801 Nguyễn Ánh mang toàn lực hạ thành Phú Xuân (Huế). Vua Cảnh Thịnh phải
chạy ra Bắc. Chiếm được Phú Xuân, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, xưng là Gia Long năm 1802.
Lập kinh đô ở Phú Xuân và đổi tên nước là Việt Nam.
Gia Long ra đánh Bắc Hà trong vòng một tháng thì toàn thắng, vua Quang Toản cùng các
tướng đều bị bắt rồi bị giết. Thời Tây Sơn chấm dứt năm 1802, Nguyễn Ánh chiếm được
Thăng Long và thống nhất đất nước ngày 20 tháng 7 năm 1802.
Tình hình văn học
- Trước bối cảnh lịch sử đó, nhiệm cụ của văn học là thể hiện sức mạnh của người Việt,
dân tộc Việt; phản ánh những mặt trái của xã hội; các số phận con người. Đặc biệt, cảm hứng
nhân đạo chủ nghĩa đã xuất hiện, các nhà văn hướng vào số phận và bi kịch của những con
người bé nhỏ để bênh vực quyền sống cho họ.
- Cùng với văn tự bằng chữ Hán, chữ Việt được khẳng định. Ngôn ngữ văn học được dân
tộc hóa cao độ. Những lời ăn tiếng nói của nhân dân đã đi vào trong văn học, điều này làm
giảm tính quy phạm, ước lệ, tượng trưng trong văn hóa Hán thay vào đó là sự uyển chuyển,
giàu sức biểu cảm.
- Về thể loại: Văn xuôi tự sự viết bằng chữ Hán vẫn tiếp tục phát triển.
+ Thể ký khá thành công với các tác phẩm như: Công dư tiệp kí của Vũ Phương Đề, Niên
Phả Lục của Trần Tiến, Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác, Bắc hành tùng kí của Lê Quýnh,
Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Tang thương ngẫu lục của Tùng Niên và Kính Phủ…
+ Thể truyện ngắn chuyển sang hướng sáng tác mới, xuất hiện loại truyện ngụ ngôn và
truyện người thực việc thực.
+ Trên cơ sở kế thừa kinh nghiệm sáng tác truyện ngắn, tiểu thuyết chương hồi đã ra đời
và có giá trị nhất định: các tác phẩm tiêu biểu như: Nam triều công nghiệp diễn chí của
9
Nguyễn Khoa Chiêm, Thiên Nam liệt truỵên của tác giả họ Nguyễn Cảnh ở Hoan Châu, Hoàng
Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái.
+ Thơ chữ Hán có nhiều giá trị mới. Các nhà thơ không chỉ viết về đạo đức tam cương
ngũ thường mà còn đi sâu vào từng số phận con người, về những điều trông thấy, về nỗi đau
nhân tình nên các tác phẩm thơ mang dấu ấn cá nhân rất cao. Các tác phẩm của các tác giả
như: Đặng Trần Côn, Nguyễn Du, Nguyễn Cư Trinh đều mang nặng nỗi niềm nhân thế.
- Văn học chữ Nôm nở rộ: thơ đường luật có Bà chúa thơ Nôm, Bà Huyện Thanh Quan,
truyện có Sơ kính tân trang của Phạm Thái, Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự, Song Tinh bất dạ
của Nguyễn Hữu Hào, đặc biệt là Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du và hàng loạt truyện
Nôm khuyết danh khác. Khúc ngâm song thất lục bát cũng nở rộ, tiêu biểu có Chinh phụ ngâm
khúc của Đặng Trần Côn – Đoàn thị Điểm, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, Ai Tư
Vãn của Lê Ngọc Hân… Ngoài ra còn có thơ Hán nói của Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát…
Nói chung, với sự xuất hiện một loạt các tác giả lớn như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Công Trứ, Cao bá Quát, Phạm Thái… văn học giai đoạn này đã đạt đến đỉnh cao của
văn học quá khứ.
+ Giai đoạn nửa sau XIX
Giai đoạn văn học nửa cuối thế kỉ XIX của văn học VN, về lịch sử được bắt đầu bằng cuộc
xâm lược của TD Pháp và kết thúc bằng sự kiện các cuộc kháng chiến của nhân dân ta tạm thời
bị thát bại.
- Sự xâm lược của thực dân Pháp trên đất nước ta
Thực dân Pháp đã có ý đồ xâm chiếm nước ta từ cuối thế kỷ XVIII, nhưng âm mưu này
chưa thực hiện được (vì cuộc cách mạng tư sản pháp 1789-1794). Mãi đến cuối thế kỷ XIX,
lấy cớ triều đình nhà Nguyễn đã bắn giết các giáo sĩ và ngăn chặn thông thương, thực dân Pháp
đã nổ tiếng súng chính thức xâm lược Việt Nam vào ngày 01-9-1958 tại cửa biển Đà Nẵng.
Thực dân Pháp phải mất gần 40 năm mới đặt ách thống trị trên đất nước ta và non một thế
kỷ nhân dân ta phải sống dưới sự cai trị của Pháp.
Trong điều kiện xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX thì sự kiện Pháp xâm lược Việt
Nam là sự kiện quan trọng, nổi bật, chi phối các sự kiện khác và có ảnh hưởng rất lớn đến mọi
tầng lớp người trong xã hội.
- Sự đấu tranh của nhân dân ta chống Pháp
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, nhân dân ta đấu tranh chống Pháp quyết liệt.
10
Giai cấp phong kiến lúc đầu còn chống đối nhưng ngày càng yếu ớt và cuối cùng thì
nhượng bộ, thỏa hiệp, đầu hàng thực dân Pháp.
Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra khắp nơi. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của nông dân chống
triều đình phong kiến đầu hàng và chống Pháp xâm lược. Chẳng hạn như cuộc khởi nghĩa của
Ba Cai Vàng, Ðoàn Hữu Trưng, Trần Tấn…
Phong trào đấu tranh yêu nước của các sĩ phu, các lãnh binh đã lãnh đạo nhân dân chống
Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương cũng nổ ra rầm rộ kéo dài từ Bình Ðịnh, Quảng Bình (Lê Trực
1886) ra đến Hưng Yên, Thái Bình (Tạ Quang Hiện 1886), Tây Bắc. Các cuộc khởi nghĩa tiêu
biểu như Phan Ðình Phùng (1885-1896), Ðinh Công Tráng (1886 Thanh Hoá), Tống Duy Tân
(1892), Nguyễn Thiện Thuật (ở Bãi Sậy Hưng Yên năm 1885-1889), Hoàng Hoa Thám…
Phong trào chống Pháp tuy sôi nổi, đều khắp nhưng không có lực lượng hậu thuẫn làm
nồng cốt nên cuối cùng phong trào đấu tranh chống Pháp bị thất bại.
Trong cuộc đấu tranh chông Pháp, từ giai cấp phong kiến đã xuất hiện rất nhiều anh hùng
nghĩa sĩ, bên cạnh đó cũng có những kẻ can tâm bạc nhược làm tay sai cho giặc như: Nguyễn
Thân, Hoàng Cao Khải, Lê Hoan…..
Mất nước là do nhà Nguyễn bạc nhược, giai cấp thống trị chỉ lo đến quyền lợi giai cấp
mình hơn là vận mệnh đất nước chứ hoàn toàn không phải do định mệnh.
Mặc dù thất bại nhưng cũng chứng tỏ được tinh thần yêu nước nồng nàn, tinh thần dũng
cảm của nhân dân, khẳng định phong trào đấu tranh mang tính nhân dân sâu sắc. Có thể nói,
đây là giai đoạn lịch sử đau thương mà hùng tráng của dân tộc, nhiều hi sinh mất mát nhưng
rất tự hào, giai đoạn khổ nhục nhưng vĩ đại.
- Sự phân hóa giai cấp trong xã hội
Trước những biến cố lớn lao, xã hội có sự phân hóa giai cấp sâu sắc. Mỗi tầng lớp bị phân
hóa đều mang sắc thái tâm lý riêng, một thái độ chính trị riêng.
Trong hàng ngũ giai cấp phong kiến, giai cấp thống trị cũ của xã hội, thái dộ của họ không
giống nhau nhưng tâm lý chủ yếu của tầng lớp này là đầu hàng, thỏa hiệp. Bên cạnh đó có một
số sĩ phu, trí thức phong kiến thấy rõ quyền lợi của phong kiến cũng chỉ là quyền lợi làm tay
sai cho đế quốc(*)) , họ tiếp thu truyền thống yêu nước của dân tộc, sống gần gũi với nhân dân
nên đã hăng hái cùng với nhân dân chống giặc.
Số khác là những nhà thơ, nhà văn yêu nước đã dùng ngòi bút để chiến đấu, để nói lên tâm
tư, nguyện vọng và thái độ của mình trước cảnh nước mất, nhà tan. Bên cạnh lực lượng nho sĩ,
nhiều tầng lớp mới xuất hiện như tư sản, tiểu tư sản và vô sản, quyền lợi đối lập nhau.
11
Giai cấp tư sản mới hình thành nên chưa đủ mạnh để chống lại tư sản chính quốc, cũng
chưa đủ sức để vươn cao ngọn cờ yêu nước.
Giai cấp vô sản hầu hết xuất thân từ giai cấp nông dân, giai cấp này lớn mạnh nhanh
chóng nhất là sau chiến tranh thế giới I. Tuy nhiên, sáng tác văn học giai đoạn này vẫn thuộc
về giai cấp cũ nên văn học vẫn chịu sự chi phối của ý thức hệ phong kiến rõ nét.
- Về văn hóa tư tưởng, khoa học kỹ thuật
Vẫn trong tình trạng lạc hậu, trì trệ. Triều đình tôn sùng nho học, xem nho giáo là quốc
giáo, lợi dụng tôn giáo là công cụ để thống trị xã hội…Khổng, Mạnh, Trình… được xem là
những vị thánh. Sách vở của họ là thiên kinh địa nghĩa. Học trò đi thi chỉ học thuộc lòng một
số câu, đoạn trong sách vở… Ðiều này làm hạn chế óc sáng tạo của con người.
Ngoài nho giáo thì Ðạo giáo, Phật giáo và các tín ngưỡng khác cũng rất phát triển. Binh
tướng đều xem bổn mạng trước khi ra trận, trời hạn hán lâu ngày, các triều thần lập đàn cầu
đảo để được mưa… Ðiều đó lộ rõ được sự bảo thủ nặng nề trong mọi hoạt động. Con người tin
vào mệnh trời. Họ tin vào lực lượng siêu hình có khả năng giải quyết mọi thành bại ở trên đời.
Ðiều đó làm hạn chế sự cố gắng của con người.
Trước tình hình đó vẫn có một số sĩ phu có đầu óc canh tân như Nguyễn Lộ Trạch,
Nguyễn Trường Tộ… có dịp học hỏi khoa học kỹ thuật tiến bộ nên đã nhiều lần đưa ra những
kiến nghị cải cách xã hội.
Nguyễn Trường Tộ đả kích lối học từ chương, hư văn, chủ trương học khoa học kỹ thuật,
học thiên văn, địa lý, luật, sinh ngữ… Học tức là học cái chưa biết để mà biết, biết để mà làm
(Tế cấp bát điều). Ông say sưa với những đề nghị cải cách đất nước thậm chí viết cả trên
giường bệnh.
Giống như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch chủ trương mở rộng giao thiệp với nước
ngoài, trọng việc học kỹ nghệ Việc học kỹ nghệ không phải khó như việc cắp nách túi Thái
Sơn để vượt qua biển Bắc như lời thầy Mạnh. Vả lại, theo tình hình khẩn cấp, lúc khát mới lo
đào giếng thì đã chậm, nhưng chậm còn hơn là không biết mãi. Dù mất dê mới lo làm chuồng
cũng chưa phải là muộn (Thời vụ sách thứ hai)
Nhưng triều đình mục nát không nghĩ gì đến vận nước nên nhiều bản điều trần của hai ông
bị vùi trong quên lãng. Tư tưởng con người quay về với nề nếp nho gia, cổ hủ, có ảnh hưởng
làm hạn chế sự phát triển của văn học đương thời.
Tình hình văn học
Văn học mang tính thời sự
12
Tính chất thời sự chi phối toàn bộ đời sống văn học và làm thay đổi diện mạo văn học. Văn
học giai đoạn này ra đời trong hoàn cảnh lịch sử xã hội đặc biệt có nhiều biến cố trọng đại nên
văn học gắn với chính trị và phục vụ cho cuộc đấu tranh chính trị. Với yêu cầu cấp thiết đó,
văn học đã phản ánh những vấn đề trung tâm nóng hổi của thời đại: Cuộc đấu tranh của nhân
ta chống thực dân Pháp. Ðây là chủ đề chính của văn học thời kỳ này. Trước kia chưa có một
giai đoạn nào mà sự chuyển biến về chủ đề và đề tài trong văn học lại nhanh chóng và theo sát
biến cố đến vậy.
Văn học mang tính trữ tình
Văn học giai đoạn này đã thể hiện tình cảm yêu nước của nhân dân bằng những lời lẽ
thiết tha sâu nặng. Do đó yếu tố lãng mạn đã giữ vai trò không thể thiếu được để đảm bảo cái
nhìn vừa đúng hiện thực vừa vừa phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Ngay Nguyễn
Khuyến và Tú Xương là những nhà thơ hiện thực trào phúng nhưng cũng có những bài thơ trữ
tình độc đáo.
Có thể nói, văn thơ yêu nước phong phú về trữ tình nhưng không thiếu tự sự kể cả trào
phúng, tính trữ tình là yếu tố căn bản của văn học yêu nước chống Pháp.
Thể loại
Thể loại thể hiện tính đại chúng, tính nhân dân sâu sắc.
- Các thể loại dài như: Truyện thơ Lục vân Tiên, Dưong Từ Hà Mậu, Ngư Tiều y thuật vấn
đáp.
- Các thể loại ngắn như: Sử ca, thơ Ðường, thơ lục bát, vè hịch, văn tế… Trong đó hịch và
văn tế là hai thể loại tiêu biểu vì nó thích hợp cho việc kêu gọi và diễn đạt tình cảm lớn. Các
thể loại ngắn là thể loại thành công hơn cả vì nó sáng tác nhanh, mang tính thời sự và phục vụ
kịp thời đáp ứng được yêu cầu của cuộc chiế đấu và tình cảm của nhân dân.
- Các thể loại sân khấu: Tuồng, chèo cũng phát triển. Về nội dung chưa có gì đổi mới
đáng kể so với trước nhưng về hình thức thì có nhiều đóng góp.
CÁC KHUYNH HƯỚNG VĂN HỌC
- Khuynh hướng yêu nước chống Pháp
Yêu nước vốn là truyền thống lâu đời của dân tộc và là một trong hai nội dung quan trọng
nhất, được ví như sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trinh phát triển của nền văn học Việt Nam. Trải
qua hàng chục thế kỷ chống ngoại xâm, từ buổi đầu dựng nước cho đến khi có văn học thành
văn, nhân dân ta thể hiện lòng yêu nước mãnh liệt của mình.
13
Ðến nửa cuối thế kỷ XIX, khi Pháp sang, truyền thống yêu nước vốn là truyền thống lâu
đời của dân tộc lại có dịp bùng lên một cách mạnh mẽ. Văn học chống Pháp ra đời đã kế thừa
một cách tốt đẹp truyền thống yêu nước trong lịch sử và và có những bước phát triển phù hợp
với hoàn cảnh mới của lịch sử.
Văn thơ yêu nước đã vạch trần những luận điệu hèn nhát, bạc nhược của triều đình, bọn
vua quan vô trách nhiệm, bè lũ Việt gian bán nước bằng những bản án đanh thép hoặc những
trang châm biếm sắc sảo. Mặt khác, nó còn phản ánh tâm lý đau xót của nhân dân trước cảnh
nước mất, nhà tan (bài Cảm tác của Phan Văn Trị, Vè thất thủ kinh đô của nhân dân Huế, Văn
tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Ðình Chiểu…)
Khuynh hướng này đã đem đến cho văn học một luồng sinh khí mới, một sức sống mới.
Các tác giả tiêu biểu của khuynh hướng này là Nguyễn Ðình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn
Thông, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Xuân Ôn…
- Khuynh hướng hiện thực trào phúng
Khuynh hướng văn học này có quan hệ chặt chẽ với khuynh hướng yêu nước chống Pháp.
Các nhà văn, ban đầu sáng tác văn học yêu nước nhưng về sau khi phong trào kháng pháp thất
bại, Pháp chiếm toàn bộ đất nước ta, xã hội bộc lộ những chướng tai gai mắt nên các nhà văn
này đã dùng ngòi bút của mình để phơi bày những mặt trái của xã hội bằng khiếu hài hước
nhạy bén của mình. Họ đã lấy việc tố cáo làm phương tiện để gây căm thù nhằm mục đích kêu
gọi chiến đấu. Khuynh hướng này phát triển thành một khuynh hướng độc lập, tuy không đông
đúc như khuynh hướng yêu nước chống Pháp nhưng cũng khá đa dạng, phát triển khắp trong
Nam ngoài Bắc. Các tác giả tiêu biểu của khuynh hứơng này là Nguyễn khuyến, Trần Tế
Xương, Học Lạc, Nguyễn Thiện kế, Tú Quỳ, Kép trà, Trần Tích Phiên, Nguyễn Hiển Dĩnh,
Học Quế… Bên cạnh đó còn có những tác giả dân gian, của loại truyện Ba giai Tú Xuất, chất
tố cáo càng mạnh mẽ.
Các bài thơ tiêu biểu:
- Ông làng hát bội, Chó chết trôi của Học lạc.
- Vịnh Lê Hoan, Vịnh tri phủ Quảng Oai của Nguyễn Thiện kế.
- Ông Phỗng đá, Thầy đồ ve gái góa của Nguyễn Khuyến.
- Ðất Vị hoàng, Mùng hai tết viếng cô Ký của Trần Tế Xương…
Khuynh hướng này có nhiều đóng góp đáng kể cho sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc.
- Khuynh hướng thoát ly hưởng lạc
14
Khuynh hướng này ra đời và phát triển song song với khuynh hướng hiện thực trào phúng.
Ða số các nhà thơ thuộc khuynh hướng này đều xuất thân từ tầng lớp quan lại phong kiến suy
tàn, mang tâm lý hưởng lạc, cá nhân, tùy thời. Trong bối cảnh chung là sự thất bại của phong
trào chống Pháp và việc đặt ách thống trị lên đất nước ta, một số khác ra làm quan mục đích để
hưởng nhàn chứ không đàn áp phong trào kháng chiến, số khác thoát ly vào thơ, rượu, vào
mộng, vào tình yêu…
Khuynh hướng này thường viết về thiên nhiên, thời thế,tâm trạng, thỉnh thoảng có bày tỏ
nỗi lòng yêu nước thầm kín nhưng chủ yếu nói về cuộc sống ăn chơi, hưởng lạc của họ. Các
tác giả tiêu biểu như Dương Lâm, Dương Khuê, Chu Mạnh Trinh…
Sáng tác của họ thường bằng chữ Nôm nên đã có những đóng góp nhất định trong việc
trau dồi ngôn ngữ dân tộc. Tuy nhiên, khuynh hướng này thường chủ trương là co về mình,
thích hưởng lạc, lao vào ăn chơi nên ít nhiều cũng gây ảnh hưởng tai hại.
- Khuynh hướng nô dịch
Ðây là khuynh hướng phản động bao gồm những tên tay sai cho Pháp, như Tôn Thọ
Tường, Hoàng Cao Khải.
Nội dung của khuynh hướng này là ca ngợi người Pháp, bênh vực biện hộ cho những tên
tay sai, phục vụ cho mục đích chính trị của Pháp.
Trong thời kỳ đầu khuynh hướng này còn tỏ ra ra dè dặt, úp mở nhưng càng về sau càng lộ
rõ tính chất phản động của nó. Tiêu biểu có Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh.
4. Những đặc điểm cơ bản của VHTĐ
4.1. Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo - hai dòng chủ lưu của VHTÐVN (thực ra
hai dòng này cũng tiêu biểu cho toàn bộ nền văn học)
a. Chủ nghĩa yêu nước
Văn hóa Ðại Việt, văn chương Ðại Việt khởi nguồn từ truyền thống sản xuất và chiến
đấu của tổ tiên, từ những thành tựu văn hóa và từ chính thực tiễn hàng nghìn năm đấu tranh
chống giặc ngoại xâm phương Bắc.
Hiếm thấy một dân tộc nào trên thế giới lại phải liên tục tiến hành những cuộc chiến
tranh chống giặc ngoại xâm như dân tộc Việt Nam. Nhà Tiền Lê, nhà Lý chống Tống. Nhà
Trần chống Nguyên Mông. Nhà Hậu Lê chống giặc Minh. Quang Trung chống giặc Thanh.
Những cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại được tiến hành trong trường kỳ lịch sử nhằm bảo vệ
nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc không những tôi luyện bản lĩnh dân tộc, nâng cao lòng tự
15
hào, tự tin, khí thế hào hùng của dân tộc mà còn góp phần làm nên một truyền thống lớn trong
văn học Việt Nam: Chủ nghĩa yêu nước.
Ðặc điểm lịch sử đó đã quy định cho hướng phát triển của văn học là phải luôn quan
tâm đến việc ca ngợi ý chí quật cường, khát vọng chiến đấu, chiến thắng, lòng căm thù giặc
sâu sắc, ý thức trách nhiệm của những tấm gương yêu nước, những người anh hùng dân tộc
quên thân mình vì nghĩa lớn. Có thể nói, đặc điểm này phản ánh rõ nét nhất mối quan hệ biện
chứng giữa lịch sử dân tộc và văn học dân tộc.
Quá trình đấu tranh giữ nước tác động sâu sắc đến sự phát triển của văn học, bồi đắp,
phát triển ý thức tự hào dân tộc, tinh thần độc lập tự chủ. Cho nên, chế độ phong kiến có thể
hưng thịnh hay suy vong nhưng ý thức dân tộc, nội dung yêu nước trong văn học vẫn phát triển
không ngừng.
Các tác phẩm văn học yêu nước thời kỳ này thường tập trung thể hiện một số khía cạnh
tiêu biểu như:
- Tình yêu quê hương
- Lòng căm thù giặc
- Ý thức trách nhiệm
- Tinh thần vượt khó, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc
- Ý chí quyết chiến, quyết thắng
- Ðề cao chính nghĩa của người Việt Nam trong những cuộc kháng chiến.
b. Chủ nghĩa nhân đạo
Văn học do con người sáng tạo nên và tất yếu nó phải phục vụ trở lại cho con người. Vì
vậy, tinh thần nhân đạo là một phẩm chất cần có để một tác phẩm trở thành bất tử đối với nhân
loại. Ðiều này cũng có nghĩa là, trong xu hướng phát triển chung của văn học nhân loại,
VHTÐVN vẫn hướng tới việc thể hiện những vấn đề của chủ nghĩa nhân đạo như:
- Khát vọng hòa bình
- Nhận thức ngày càng sâu sắc về nhân dân mà trước hết là đối với những tầng lớp thấp
hèn trong xã hội phân chia giai cấp
- Ðấu tranh cho hạnh phúc, cho quyền sống của con người, chống lại ách thống trị của
chế độ phong kiến.
- Ca ngợi vẻ đẹp của con người lao động
- Tố cáo mạnh mẽ và đấu tranh chống những thế lực phi nhân.
16
4.2. Văn học viết phát triển dựa trên những thành tựu của văn học dân gian
- Văn học viết Việt Nam hay bất kỳ một nền văn học dân tộc nào khác đều phải phát
triển trên cơ sở kế thừa những tinh hoa của văn học dân gian. Trong tình hình cụ thể của
VHTÐVN, mối quan hệ giữa văn học viết và văn học dân gian chủ yếu là do các nguyên nhân
sau:
+ Sau khi nước nhà độc lập, nhu cầu thiết yếu mà nhà nước phong kiến Việt Nam cần
phải chú ý là việc xây dựng một nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc, chống lại âm mưu
bành trướng, đồng hóa của kẻ thù phương Bắc và nâng cao lòng tự hào dân tộc.
+ Những tác phẩm bằng chữ Hán trong thời kỳ này thường dễ xa lại với quần chúng
bình dân, tác phẩm ít được truyền tụng rộng rãi. Vì vậy, càng về sau, nhu cầu quần chúng hóa,
dân tộc hóa tác phẩm ngày càng mạnh mẽ. Trong quá trình giải quyết vấn đề này, chỉ có văn
học dân gian là nhân tố tích cực nhất.
+ Văn học viết tiếp thu từ văn học dân gian chủ yếu là về đề tài, thi liệu, ngôn ngữ, quan
niệm thẩm mỹ, chủ yếu là khía cạnh ngôn ngữ và thể loại.
+ Trong quá trình phát triển, hai bộ phận luôn có mối quan hệ biện chứng, tác động, bổ
sung lẫn nhau để cùng phát triển (Những tác động trở lại của văn học viết đối với văn học dân
gian.)
- Biểu hiện cụ thể của văn học TĐ lấy VHDG làm nền tảng đó là: nhờ các truyện như Lí
Ông Trọng, Bà Trưng, Trương Hống, Trương Hát mà Lí Tế Xuyên viết nên Việt Điện U linh
tập (gồm 27 truyện), Hya Trần Thế Pháp viết nên Lĩnh Nam chích quái nhờ các truyện Trầu
cau, Bánh chưng bánh dày, Thánh Gióng…Ngay cả phần ngoại kỷ (gồm 05 quyển) trong Đại
Việt Sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên cũng có nguồn gốc từ dã sử. Không chỉ có văn xuôi,
VHDG còn giữ vai trò rất quan trọng trong việc hình thành thơ ca qua cách gieo vần, ngắt nhịp
của thơ dân giankết hợp với thơ Đường thể thất ngôn tứ tuyệt để sinh ra thể song thất lục bát.
4.3. Văn học viết phát triển dựa trên cơ sở tiếp thu, tinh lọc những yếu tố tích cực của hệ
ý thức nước ngoài (chủ yếu là Trung Hoa và Ấn Độ)
Trước hết phải kể đến chữ viết.
- Cha ông ta mượn chữ Hán đọc theo âm Hán Việt để làm công cụ sáng tác. Trên cơ sở
này cha ông ta đã sáng chế loại văn tự dân tộc dùng để ghi âm tiếng Việt, đó là chữ Nôm. Từ
thế kỷ XIII chữ Nôm được dùng vào sáng tác văn học.
17
- Cuối XVII giao lưu với văn hóa phương Tây một loại hình ghi âm tiếng Việt bằng chữ
cái la tinh ra đời. Đến cuối thế kỷ XIX chúng ta chuyển sang chữ Việt ghi âm bằng chữ cái la
tinh – chữ quốc ngữ hiện đại.
Cùng với chữ viết là các thể loại văn học
Chủ yếu là từ Trung Hoa và Ấn Độ như: Cáo chiếu, biểu, hịch, văn tế ….hay thơ ca, từ
phú, truyện… Người Việt đã tiếp thu các thể loại này để phản ánh tình cảm nhận thức và tâm
linh người Việt. CÓ những thể loại bị Việt hóa đi hoặc đựa vào nó để sáng tạo ra một thể loại
mới của người Việt (song thất lục bát)
Thứ ba là sự du nhập các học thuyết
- Sự du nhập của các học thuyết vào Việt Nam chủ yếu do các nguyên nhân sau:
+ Vấn đề giao lưu văn hóa giữa các dân tộc là một vấn đề mang tính quy luật. Từ xưa,
nước ta và các vùng phụ cận đã có sự giao lưu văn hóa nhưng chỉ trong phạm vi hẹp, chủ yếu
là từ Trung Quốc sang.
+ Hơn 1000 năm bắc thuộc, dân tộc ta không tránh khỏi bị ảnh hưởng bởi sự bành trướng
văn hóa và nhất là âm mưu đồng hóa của kẻ thù. Những tên quan lại phương Bắc sang đô hộ
Việt Nam không chỉ bóc lột, vơ vét tài nguyên mà còn truyền bá rộng rãi các học thuyết triết
học có nguồn gốc từ Trung Quốc vào Việt Nam một cách khéo léo và thâm hiểm.
+ Khi nhà nước phong kiến VN bắt đầu hình thành, giai cấp thống trị không có mẫu
mực nào khác hơn là nhà nước PK TQ đã tồn tại trước đó hàng nghìn năm và có rất nhiều kinh
nghiệm trong việc lợi dụng các học thuyết triết học như một công cụ đắc lực trong việc củng
cố ngai vàng, thống trị nhân dân.
- Các học thuyết Nho- Phật- Lão đều có những điểm tích cực nhất định nên các nhà tư
tưởng lớn của Việt Nam thời Trung đại đã chú ý khai thác, tinh lọc, vận dụng sao cho nét tích
cực đó phát huy tác dụng trong hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn lịch sử.
4.4. Gắn bó với vận mệnh đất nước, với số phận của con người Việt Nam
Hoàn cảnh lịch sử đất nước đã đặt VHTĐ vào nhiệm vụ đi cùng suốt chiều dài để phản
ánh những hưng vong, vui buồn của lịch sử, từng giọt nước mắt nụ cười của nhân dân.
- Trong buổi đầu dựng nước, văn học tập trung khẳng định sự trường tồn và tất thắng của
người Việt. Lĩnh Nam chích quái cho thấy rằng, nước Nam không chỉ có thần linh che chở mà
còn có lịch sử lâu đời sánh với Trung Hoa, có nền văn minh cổ xưa rực rỡ…Non sông có “Đế”
và khi kẻ thù xâm lược thì từ phụ nữ (bà Trưng) đến em bé (Trần Quốc Toản) đều đánh giặc
18
với một khí thế “át sao ngưu” để cuối cùng là Muôn thủa nền thái bình vững chắc, ngàn thu vết
nhục nhã sạch làu (Bình Ngô đại cáo).
- Bên cạnh những chiến công và niềm tin tất thắng đó, VHTĐ còn phản ánh vẻ đẹp của một
giang sơn gấm vóc, những nét tinh tế trong tâm hồn người Việt. Đó là cảnh hùng vĩ của núi
sông hay một làng quê yên bình khi chiều về… hay những số phận bé nhỏ như Vũ Thị Thuyết,
hay nỗi sầu muộn của người chinh phụ, của người cung nữ hay cảnh “sống đọa thác đày” của
nàng Kiều…
4.5. Văn học chữ Hán phát triển song song với văn học chữ Nôm (song ngữ)
Ngay từ khi được các nhà văn mạnh dạn đưa vào sáng tác văn học, chữ Nôm ngày càng
khẳng định vị trí của mình bên cạnh chữ Hán vốn đã có ảnh hưởng sâu sắc trong văn học thời
Lý Trần.
Sự phát triển của Văn học chữ Nôm khẳng định ý thức dân tộc phát triển ngày càng cao,
biểu hiện lòng tự hào, ý thức bảo vệ ngôn ngữ, văn hóa dân tộc chống lại âm mưu đồng hóa
của kẻ thù.
Ở thời Lý, Trần, việc sử dụng chữ Nôm trong sáng tác văn học chưa được phổ biến.
Từ thế kỷ XV về sau, Nguyễn Trãi đã mạnh dạn đưa chữ Nôm vào sáng tác văn học.
Thơ ông tuy chưa được trau chuốt nhưng đậm đà bản sắc dân tộc.Thành công của Nguyễn Trãi
chính là tiền đề cho con đường phát triển của văn học chữ Nôm đến đỉnh cao Truyện Kiều.
4.6. Việc sử dụng điển tích và các hình ảnh tượng trưng ước lệ- những thủ pháp nghệ
thuật được sử dụng phổ biến trong văn chương trung đại
VHTĐ mang tính tượng trưng, ước lệ cao. Tính ước lệ trở thành một hệ thống chi phối,
ràng buộc tác giả. Ngoài ra còn phải kể đến tính sùng cổ, tính quy phạm, điều này trói buộc
con người làm cho con người ít có sự phá cách, sáng tạ
Ðể miêu tả, người ta cho rằng cần phải có những mẫu mực mà qua nhiều thời kỳ đã
được mặc nhiên chấp nhận sử dụng. Quan điểm ước lệ không chú ý đến logic đòi sống, đến
mối quan hệ thực tế của các hình ảnh mang tính chất mẫu mực, công thức. Vì thế, khi phân
tích các hình ảnh ước lệ, chúng ta không cần đặt vần đề có lý hay không có lý, đúng hay không
đúng thực tế mà chỉ xem xét sức mạnh khơi gợi của hình tượng có sâu sắc hay không, hình
tượng có được dùng đúng tình đúng cảnh và thể hiện được tư tưởng tình cảm của nhà thơ hay
không.
Chương 2: VHTĐ VN TỪ X - XIV
2.1. Văn học Lí - Trần
19
2.1.1. Bối cảnh lịch sử của thời đại Lý - Trần
Năm 1010 Lí Công Uẩn dời đo từ Hoa Lư về Đại La, đổi tên thành Thăng Long.
- Thời đại Lý- Trần đảm đương hai sứ mệnh lịch sử to lớn: chấn hưng xây dựng đất
nước và bảo vệ tổ quốc.
- Ðời Lý, Lý Thường Kiệt chống Tống; đời Trần, Trần Hưng Ðạo chống Nguyên Mông
(3 lần). Thời kỳ này, triều đại Lý - Trần còn phải tiến hành những cuộc chiến tranh chống họa
xâm lăng phương Nam (Chiêm Thành). Chiến tranh tất yếu phải có hủy hoại, hao người tốn
của nhưng tính chất chính nghĩa và thắng lợi vẻ vang của những cuộc kháng chiến vệ quốc đã
tạo thêm khí thế hào hùng, bản lĩnh, sự tự tin cho một dân tộc nhỏ bé ở phương Nam.
- Mặt khác, thời đại Lý- Trần còn phải đảm đương sứ mệnh xây dựng chế độ phong
kiến, chế định kỷ cương, điển lễ, văn hiến cho một quốc gia phong kiến có chủ quyền, tạo nền
tảng cho sự ổn định và phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam trong các thế kỷ sau.
Ở thời Lý, chế độ đại điền trang vẫn còn mang một số yếu tố tích cực nên vẫn có khả
năng thúc đẩy sự phát triển của kinh tế xã hội.
- Năm 1225- Nhà Trần thay thế nhà Lý
- 1257, 1285, 1287- ba lần kháng chiến chống Nguyên Mông
- Nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc gắn liền với xây dựng đất nước.
Nhìn chung các triều vua đầu thời kỳ Lý- Trần đều rất quan tâm phát triển sản xuất
nông nghiệp. Từ đời Lê Hoàn đã tổ chức lễ cày ruộng để thể hiện tinh thần coi trọng nghề
nông (Cứ đến đầu tháng giêng, nhà vua đích thân cày một thửa ruộng mở đầu năm sản xuất).
Hệ thống đê ở các con sông lớn được quan tâm triệt để nhằm bảo vệ mùa màng, chống lụt lội.
Các chức quan Hà đê (chánh sứ và phó sứ) đưọc đặt ra để chuyên coi việc đào kênh ngòi, đắp
đê phục vụ giao thông, thủy lợi. Việc mở rộng diện tích canh tác, tổ chức khuyến khích khai
hoang cũng được quan tâm.
Ở thời Lý, đạo Phật lan truyền khắp nước ta, có xu hướng phát triển thành quốc giáo.
Đến thời Trần, đạo Phật vẫn còn ảnh hưởng rất sâu sắc đến đời sống tinh thần của dân tộc
nhưng vị trí độc tôn của nó đã dần phải nhường chỗ cho Nho giáo.
Do đạo Nho phát triển, nho sĩ trở thành giai cấp được trọng vọng bên cạnh giai cấp quý
tộc và trở thành lực lượng chính trong công cuộc xây dựng, bảo vệ tổ quốc, góp phần nắm giữ,
thiết chế kỷ cương, ca ngợi, bảo vệ uy quyền phong kiến và đấu tranh chống nạn ngoại xâm.
Việc giáo dục đã được quan tâm từ rất sớm. Năm 1070, Lý Thánh Tông lập Văn Miếu ở
quốc đô Thăng Long. Năm 1075, Lý Nhân Tông mở khoa thi tam trường và năm 1076 mở
20
Quốc Tử giám chuyên lo việc giảng thuật Nho giáo. Các năm 1086, 1152, 1165, 1193 đều có
mở kỳ thi. Ðến đời Trần, các kỳ thi Nho giáo được tổ chức thường lệ và có quy mô rộng rãi
hơn thời Lý.
Tiếp thu những thành tựu rực rỡ của văn nghệ dân gian, các ông vua thời Ðinh, Tiền Lê,
Lý, Trần đã nối tiếp xây dựng một nền văn nghệ cung đình giàu bản sắc dân tộc. Ca múa nhạc
cung đình ở các triều Lý- Trần đều bắt nguồn từ ca múa nhạc dân gian (Múa rối, hát chèo, hát
tuồng thường được các ông vua thời Lý- Trần đặc biệt yêu thích)
Phần lớn các công trình kiến trúc điêu khắc ở thời Lý- Trần đã bị hủy hoại trong 20 năm
đô hộ của giặc Minh nhưng theo các tài liệu sử học, khảo cổ học và một số di chỉ còn lại, có
thể khẳng định rằng vương triều Lý- Trần đã cho xây dựng nhiều công trình lớn (Năm 1031, có
950 ngôi chùa được xây. Tháp Báo Thiên cao 12 tầng. Tháp Sùng Thiên ở Sơn Nam, Hà Nam
Ninh ngày nay, cao đến 13 tầng. Các di tích chùa Một cột, chùa Keo, chùa Thầy, tháp Bình
Sơn, chuông Quy Ðiền,.. đều cho thấy sự phát triển rực rỡ của nghệ thuật kiến trúc và điêu
khắc thời Lý Trần)
2.1.2. Nội dung văn học Lý – Trần
2.1.2.1. Văn học mang cảm hứng tôn giáo, ý thức hệ Phật giáo
Do thời Lý lấy nho giáo làm quốc giáo nên đội ngũ trí thức, sáng tác chủ yếu là Tu sĩ,
do vậy văn học thời lý nổi bật với mảng thơ thiền.
Theo sách Thiền uyển tập anh, đời Lý có khoảng hơn 40 nhà sư sáng tác với những tên
tuổi tiêu biểu như: Mãn Giác, Viên Chiếu, Viên Thông, Không Lộ, Quảng Nghiêm,..Trong số
đó, nhiều nhà sư chiếm địa vị cao trong xã hội và triều đình nhà Lý. Sự thống lĩnh văn đàn
chủa các nhà sư đời Lý có thể giải thiïch bằng những nguyên nhân sau:
Thiền Tông thể hiện quan niệm triết học của nhà phật. Nó thiên về sự tu dưỡng tự thân,
lấy tâm định làm phép tu dưỡng.
Quan niệm Thiền tông cho rằng:
+ Thiên địa vạn vật cùng một bản thể và chính vì thế, trước đức Phật, mọi người đều
bình đẳng. Dựa trên quan niệm đó, văn học Phật giáo đời Lý thường thể hiện sự tương đồng,
sự vĩnh cửu của bản ngã
Bát nhã chân vô tông
Nhân không ngã diệc không
Quá hiện vị lai Phật
Pháp tính bản tương đồng (Lý Thái Tông)
21
Bản ngã của mọi người đều giống nhau, đều quy về chữ Không vốn là bản thể vũ trụ, là cái
hằng thường, bất diệt, là điểm tận cùng của mọi quá trình biến đổi. Cho nên, Ðoàn Văn Khâm
trong bài Vãn Quảng Trí thiền sư đã viết:
Các đạo hữu không nên đau thương về sự vĩnh biệt
Nùi sông trước chùa trông ra ấy là chân hình của nhà sư
Nhà sư đã mất nhưng chân thể, bản thể vẫn còn tồn tại trong thế giới, trong vạn vật. Ðó
chính là sự tương đồng và vĩnh cửu của bản ngã.
+ Quan niệm Sắc không cho rằng thế giới biến hóa vô cùng. Kiều Bản Tịnh trong Kính
trung xuất hình tượng đã so sánh cái có trong thế giới hiện hữu của con người thực chất chỉ là
huyễn, cái không mới chính là thực, là sự tồn tại vĩnh cửu của con người. Ðiều này giống như
sự tồn tại của cái bóng trong gương:
Huyễn thân bản tự không tịch mịch
Do như kính trung xuất hình tượng
Hình tượng giác liễu nhất thiết không
Huyễn thân tu du chứng thực tướng
Nguyên phi Ỷ Lan kêu gọi hãy gạt bỏ mọi phán đoán về cái sắc và cái không trong thế
giới vật chất và chỉ có như vậy, người học đạo mới tiến đến chỗ khế hợp với chân tông:
Sắc tức không, không thị sắc
Không thị sắc sắc tức không
Sắc không câu bất quản
Phương đắc khế chân tông
Bài kệ nổi tiếng Cáo tật thị chúng của nhà sư Mãn Giác là một ví dụ tiêu biểu cho quan
niệm sắc không thâm thúy của nhà Phật qua sự đối sánh giữa thời gian tuần hoàn, vô cùng vô
tận của vũ trụ với thời gian tuyến tính ngắn ngủi trong cuộc đời con người.
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai
22
Bài kệ thể hiện quan niệm triết học của Phật giáo, đó là quy luật tuần hoàn của vũ trụ,
của thiên nhiên của con người. Thân xác có thể mất đi nhưng “chân nhân” của người tu thành
chính quả thì sẽ vượt ra khỏi vòng sinh tử để đi vào cõi vĩnh hằng.Bên cạnh đó bài kệ cũng
thẫm đẫm nhân sinh đó là khi con người vợt lên những ảo tưởng trường sinh (vì sinh lão bệnh
tử vốn là quy luật) của kiếp người mà vẫn ung dung tự tại, không bế tắc bi quan trước sự mong
manh ngắn ngủi của cuộc đời.
Bài Thị đệ tử của Vạn Hạnh đã chỉ rõ quan niệm cảu thiền học về phạm trù hữu, vô,
sinh, diệt
“Thân như điện ảnh…..lão đầu phô”
Mặc dù là những bài kệ mang nặng tư tưởng phật giáo nhưng vượt lên khuôn khổ
đó, với tâm hồn nhạy cảm và tài năng, các bài kệ đã mang đậm chất trữ tình của thơ ca để
trở thành những tác phẩm nghệ thuật mang tình yêu quê hương, yêu thiên nhiên tha thiết.
2.1.2.2. Văn học mang cảm hứng về thiên nhiên
Nếu văn học thời Lý mang chất trữ tình thiên nhiên sâu sắc thì sang đến văn học thời
Trần, thiên nhiên đã trở thành đối tượng miêu tả của văn học. Đất nước thanh bình, yên vui
chính là nguồn cảm hứng cho các thi nhân lúc bấy giờ. Qua đó họ bọc lộ tình yêu đời yêu thiên
nhiên của mình.
Thụy khởi phải song phi
Bất tri xuân dĩ quy
Nhất song bạch hồ điệp
Phách phách sấn hoa phi
Trần Nhân Tông
(Ngủ dậy ngỏ song mây
Xuân về vẫn chưa hay
Song song đôi bướm trắng
Phất phới sấn hoa bay)
Sự trách mình thờ ơ trước thiên nhiên, không biết mùa xuân về đã chứng tỏ tình yêu đời
tha thiết của ông vua nhiều tài đức này.
Bài thơ Thiên Trường vãn vọng của Trần Nhân Tông là một trong những ví dụ tiêu biểu
cho cái nhìn mới của các nhà thơ đời Trần đối với cuộc sống bình dị của người lao động:
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
23
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lý ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền
Cảnh vật được miêu tả bằng ngôn từ giản dị nhưng vẫn thể hiện được cái thần, cái đẹp
của bức tranh đường đi Lạng Sơn, cảnh chùa Bảo Phúc, động Chi lăng, Thạch Môn sơn, cảnh
Thiên Trường, cảnh hồng rụng, tiếng chuông văng vẳng, tiếng sáo thuyền câu,..:
Mưa tạnh vườn cây màn biếc rủ
Tiếng ve chiều tối rộng bên tai
(Hạ cảnh - Trần Thánh Tông)
Hoặc:
Cổ tự thê lương thu ái ngoại
Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ
Thủy minh, sơn tĩnh, bạch âu quá
Phong định, vân nhàn, hồng thụ sơ
(Lạng Sơn vãn cảnh-Trần Nhân Tông)
Yêu thiên nhiên, các nhà thơ càng tự hào hơn nữa về những chiến tích oanh liệt của dân
tộc:
Lâu Lãi hang sâu hơn đáy giếng
Chi Lăng ải hiểm tựa trời cao
Ngựa leo, gió lướt ngoảnh đầu lại
Cửa khuyết trời tây mây ráng treo
(Ải Chi Lăng - Phạm Sư Mạnh)
Các tác giả thường khai thác đề tài sông Bạch Ðằng với cảm hứng ca ngợi đầy sảng
khoái, tự hào:
Ánh nước chiều hôm màu đỏ khé
Tưởng rằng máu giặc vẫn chưa khô
(Bạch Ðằng giang- Trần Minh Tông)
Có thể nói, thiên nhiên trong thơ văn đời Trần hết sức phong phú đa dạng. Các nhà thơ đã
phát hiện, cảm nhận những vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên chứng tỏ họ ngày càng gắn bó hơn
với cuộc đời, với con người. (sẽ trở lại những bài thơ này ở phần giảng văn và thực hành)
24
Nói chung mảng thơ ca viết về thiên nhiên tươu đẹp đã thể hiện những rung động tinh
tế, những tình cảm yêu đời yêu người chứa chan sâu nặng
2.1.2.3. Phản ánh tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc
Hai tác giả tiêu biểu của chủ nghĩa yêu nước trong văn học đời Lý là Lý Công Uẩn và
Lý Thường Kiệt. Chủ đề yêu nước trong thơ văn họ thường thể hiện ở những cung bậc trầm
hùng khác nhau nhưng ý nghĩa chung nhất vẫn là tiếng nói lạc quan, chiến đấu của thời đại,
tiếng nói tự hào của một dân tộc đang vượt qua những thử thách để khẳng định mình
Tác giả Lý Công Uẩn: Trong lịch sử văn học, tên tuổi của ông gắn liền với bài Chiếu
dời đô có giá trị lịch sử to lớn bởi lẽ việc đổi quốc hiệu, quốc đô đánh dấu bước chuyển mình
trong công cuộc xây dựng cơ đồ độc lập tự chủ của dân tộc Ðại Việt, đáp ứng nhu cầu củng cố
vương quyền phong kiến và nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Giá trị văn học của tác phẩm là ở chỗ nó đánh dấu những thành công bước đầu về nghệ
thuật viết văn chính luận trong VHTÐ.
Bài chiếu đã nâng Lý Thái Tổ lên một tầm cao khác thường. Nó khẳng định một cái
nhìn đúng đắn về xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử của vị vua khai sáng nhà Lý cách đây
gần nghìn năm.
Tác giả Lý Thường Kiệt: Tên tuổi của ông gắn liền với chiến công chống Tống và hai
tác phẩm có giá trị là Văn lộ bố và bài thơ Thần.
- Văn lộ bố:
Ðặc điểm của bài văn là ngắn gọn, trang trọng, nêu cao chính nghĩa, vạch trần phi
nghĩa, lời lẽ hòa nhã nhưng không kém phần đanh thép và thuyết phục
- Bài thơ Thần:
Chiến thắng quân Tống vẻ vang gắn liền tên tuổi của Lý Thường Kiệt với bài thơ Nam
quốc sơn hà nổi tiếng. Ra đời trong khoảnh khắc nhưng bài thơ lại có giá trị vĩnh viễn bởi nó
biểu hiện bản lĩnh, khí phách dân tộc, khẳng định chân lý ngàn đời: chính nghĩa bao giờ cũng
thắng phi nghĩa. Bài thơ còn là viên ngọc quý trong kho tàng văn học cổ:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Cũng như mảng thơ văn đời Lý, văn học đời Trần tập trung xoáy mạnh vào đề tài chống
quân Nguyên xâm lược với cảm hứng chủ đạo là lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc. 25
Ðiển hình cho chủ nghĩa yêu nước trong văn học đời Trần là tác phẩm Hịch tướng siî của Trần
Quốc Tuấn, bởi lẽ tác phẩm tập trung phản ánh những khía cạnh sâu sắc nhất của lòng yêu
nước cao độ. Ðây là một tác phẩm có giá trị lịch sử và văn học cao, khẳng định bước tiến của
lịch sử dân tộc và lịch sử văn học.
Bên cạnh đó, cuộc chiến đấu chống Nguyên Mông cũng là đề tài phong phú của nhiều
nhà thơ khác đời Trần. Tác phẩm của họ mang âm hưởng chung hào hùng, ca ngợi khí phách,
chiến thắng vẻ vang của dân tộc:
Ðoạt sóc Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu nỗ lực
Vạn cổ thử giang san
(Tụng giá hoàn kinh sư- Trần Quang Khải)
Các nhà thơ thường tập trung miêu tả hào khí Ðông A bằng những hình ảnh đẹp đẽ, kỳ
vĩ cùngvới ý thức trách nhiệm của mỗi người công dân trong công cuộc chiến đấu chung của
toàn dân tộc:
Hoành sóc giang san cáp kỷ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
(Thuật hoài- Phạm Ngũ Lão)
Các nhà thơ cũng chú ý nêu cao sức mạnh của chính nghĩa, của vấn đề đức trong cuộc
chiến đấu bảo vệ tổ quốc:
Giặc tan muôn thuở thanh bính
Phải đâu đất hiểm cốt mình đức cao
(Bạch Ðằng giang phú- Trương Hán Siêu
Nội dung yêu nước không chỉ được thể hiện trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống
xâm lược mà còn phát triển trên những khía cạnh tình cảm phong phú của nhà thơ. Có khi, đó
là nỗi nhớ nhà thầm lặng nhưng mãnh liệt của một nhà Nho xa quê hương:
Dâu già lá rụng tằm vừa chín
Lúa sớm nở hoa cua béo ghê
Nghe nói quê nhà nghèo vẫn tốt
26
Giang Nam vui thú chẳng bằng về
(Quy hứng- Nguyễn Trung Ngạn)
Có khi, đó là niềm khát khao được xây dựng một đất nước thịnh vượng hòa bình muôn
đời:
Xã tắc hai phen bon ngựa đá
Non sông nghìn thuở vững âu vàng
(Xuân nhật yết Chiêu lăng- Trần Nhân Tông)
Yêu nước còn được thể hiện bằng niềm hạnh phúc được nhìn thấy đất nước hòa bình,
được sống trong hòa bình:
Trăng vô sự chiếu người vô sự
Nước ngậm thu lồng trời ngậm thu
Bốn bề đã yên nhơ đã lắng
Chơi năm nay thú vượt năm xưa
(Hạnh Thiên Trường hành cung- Trần Thánh Tông)
Có thể nói, trong lịch sử dân tộc, vương triều nhà Trần là một vương triều hùng mạnh
nhất. Ðây là thời kỳ mà mọi ý thức về quốc gia dân tộc đều phát triển mạnh mẽ và đó cũng
chính là nền tảng cho sự phát triển của văn học yêu nước.
2.1.3. Quan niệm về con người trong văn học Lý - Trần
+ Con người tự do tự tại: Quan niệm này hướng đến mục đích cái tâm trống không, vì như vậy
mới đạt được cái trong sáng của “chân như”, tự do tự tại. Các nhà sư không đồng tình cách
nhìn nhận copn người theo lối nhị nguyên: xấu - tốt, phàm – thánh, họ cho đây như cái vòng
dây con người tự buộc lấy mình để suốt đời vất vả phấn đấu để trở thành cái này, cái kia và
đau khổ khi không đạt được cái này, cái nọ. Có thể thấy đây là tư tưởng giải phóng con người
xét về mặt nào đó nó cũng mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Trần Quốc Tuấn việt hịch kêu gọi đánh giặc nhưng không ngần ngại nêu các gương trung
nghĩa từ bên kia chiến tuyến, vua Trần cởi bỏ ngai vàng nhẹ nhàng như cởi một chiếc dày
cũ…. Thì ra tốt xấu, khôn dại chỉ do con người tự đặt ra chứ nó vốn không tồn tại trong quan
niệm duy tâm chủ quan.
Để đạt đến tự do cần thoát khỏi những quy ước giáo đièu có sẵn và tự tìm thấy cách sống,
hành động phù hợp với mình. Và khi không còn phụ thuộc, vướng mắc vào điều gì con người
sẽ không lo sợ trước lẽ thịnh suy, sống chết ở đời.
27
+ Con người vô ngã: là con người vượt lên sự hữu hạn để đạt đến cái vô biên, quyên mình đi
để có những phút giây hòa cùng vũ trụ. Kiểu con người này được thể hiện khá nhiều trong thơ
Huyền Quang; Quên tháng ngày vì trên núi không có lịch; không bận tâm lò tàn, củi lụi, mặt
trời đã lên ba sào…Hòa mình vào thiên nhiên, quên đi cái “tôi”, để cho cái tôi hòa lẫn vào
thiên nhiên tạo vật. Con người vô ngã vượt lên sự tranh chấp phải trái, sự bon chen hơn thua
của người đời để đạt đến độ tự do tự tại, cái tâm bình đẳng và cái nhìn độ lượng với vạn vật
+ Con người – vô ý: Con người vô ý là hệ quả của tình thần vô ngã.
Nước chảy xuống đồi không cố ý
Mây ra khỏi núi vốn vô tâm
(Ngữ lục vấn đáp môn hạ, Trần Thái Tông)
Ổi dư cốt đột tuyệt phần hương
Khẩu đáp sơn đồn vấn đoản chương.
Thủy bả suy thương hòa thái thác,
Đồ giao nhân tiếu lão tăng mang
Địa lô tức sự, Huyền Quang
(Củi đã tàn cũng chẳng thắp hương
Miệng trả lời chú bé con trong núi hỏi về những chương sách ngắn
Tay cầm ống thổi, tay nhặt mo nang,
Luống để người ta cười ông sư già này bận bịu)
Hình ảnh một ông già bình dị, cởi mở, vui vẻ sống khác hẳn một vị sư suốt ngày chỉ lo
tụng kinh niệm phật. Thực ra niệm kinh cốt để đạy đến “tâm không” tức là vẫn còn lầm lạc,
ham muốn. Bài thơ đề cao lối sống tùy duyên mà hành động, mặc sức tung hoành không rơi
vào “có” hay “không”. Có lẽ điểm này triết lí nhà phật đã gặp gỡ tư tưởng vô vi của Lão Tử.
+ Con người vô ngôn: Chân lí vốn là cái cao siêu, ngôn ngữ hạn chế không diễn đạt hết được,
do vậy mà nhà phật chủ trương “Dĩ tâm truyền tâm”. Họ bác bỏ tư duy lí luận, đề cao tư duy
trực cảm. Con đường duy nhất đạt đến chân lí là sự chứng nghiệm của bản thần.
Tâm khôi oa giác mộng
Bộ lí đáo thiên đường
Xuân vãn hoa dung bạc
Lâm u thiền vận trường
Vũ thu thiên nhất bích
28
Trì tịnh nguyệt phân lương
(Đề Gia Lâm tự)
Lòng nguội lạnh với giấc mơ đua chen danh lợi
Dạo bước đến cửa thiền
Xuân muộn, dáng hoa mỏng mảnh
Rừng sâu, tiếng ve ngân dài
Mưa tạnh, trời một màu xanh biếc
Ao lạnh, trăng tỏa hơi mát dịu
Trước cái “hư tâm” của trời đất, con người như rũ bỏ được mọi ưu phiền, gội sạch
những âu lo. Do vậy mà khi chia tay cả người ở và người về đều lặng yên. Trong cái lặng yên
ấy, mùi hoa vẫn lặng thầm lan tỏa như một thông điệp không lời. Toàn bài thơ chỉ tả cảnh, kể
việc, không một lời bình luận. Chính điều đó đã gợi nên cho người đọc sự đa âm vô giới hạn.
Con người trong bài thơ cũng yên lặng dạt dào hơn bao giờ hết. Giây phút thực tại hòa điệu
giữa con người và thiên nhiên mang lại niềm vui thú an lạc. Giây phút huyền diệu ấy không thể
diễn tả bằng lời mà chỉ người trong cuộc mới cảm nhận được.
Phong đả tùng quan, nguyệt chiếu đình
Tâm kỳ phong cảnh cộng thê thanh
Cá trung tự vị vô nhân thức
Phó dữ sơn tăng lạc đáo minh
(Kí Thanh Phong am tăng Đức sơn)
Gió đập cửa thông, trăng chiếu trên sân
Lòng hẹn với phong cảnh cùng lạnh lẻo, trong trẻo
Trong đó có cái ý vị riêng mà không ai biết được
Mặc tình cho nhà sư trong núi vui đến sáng
Nói chung thơ thiền đời Lý - Trần có xu hướng đạt đến con người vũ trụ. Con người
hòa quyện với vũ trụ, mang được tất cả sức mạnh, cái tự do của vũ trụ. Đó là con người được
giải thoát khỏi những ràng buộc của trần thế ngay chính nơi trần thế. Để thực hiện được mục
đích, con người phải tự tin vaòp sức mạnh chính mình, một “xung thiên chí” để khỏi dẫm lại
vết Như Lai như Quãng Nghiêm hay “chớ nên dựa vào cửa ngõ nhà người khác” của Tuệ
Trung Thượng Sĩ.
Giảng văn:
29
Hịch Tướng Sĩ
Trần Quốc Tuấn
Bản dịch Khuyết danh
Ta thường nghe: Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu chìa lưng chịu
giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay
để cứu nạn cho nước. Kính Đức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây
Thái Sung; Cảo Khanh một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc.
Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào chẳng có ? Ví thử mấy người đó
cứ khư khư theo thói nhi nữ thường tình thì cũng đến chết hoài ở xó cửa, sao có thể lưu danh
sử sách cùng trời đất muôn đời bất hủ được ?
Các ngươi vốn dòng võ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ.
Thôi việc đời trước hẵng tạm không bàn. Nay ta lấy chuyện Tống, Nguyên mà nói: Vương
Công Kiên là người thế nào ? Nguyễn Văn Lập, tỳ tướng của ông lại là người thế nào ? Vậy
mà đem thành Điếu Ngư nhỏ tày cái đấu đương đầu với quân Mông Kha đường đường trăm
vạn, khiến cho sinh linh nhà Tống đến nay còn đội ơn sâu ! Cốt Đãi Ngột Lang là người thế
nào ? Xích Tu Tư tỳ tướng của ông lại là người thế nào ? Vậy mà xông vào chốn lam chướng
xa xôi muôn dặm đánh quỵ quân Nam Chiếu trong khoảng vài tuần, khiến cho quân trưởng
người Thát đến nay còn lưu tiếng tốt !
Huống chi, ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Lén nhìn sứ
ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm
thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham
khôn cùng; khoác hiệu Vân Nam Vương mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật
khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau.
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa
thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn
thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.
Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì
ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Đi thủy thì ta cho thuyền; đi bộ
thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng nhau vui cười.
So với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi người phụ tá, nào có kém gì?
Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn.
Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường đãi yến sứ 30
ngụy mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có
kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ.
Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có
kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm. Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa
gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà
binh. Vườn ruộng nhiều không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con bận không ích gì cho
việc quân quốc. Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được
quân thù. Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc điếc
tai. Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết chừng nào ! Chẳng những thái ấp của ta
không còn mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác; chẳng những gia quyến của ta bị
đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày
xéo mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào; chẳng những thân ta kiếp này
chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng
không khỏi mang danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa thích,
phỏng có được chăng ?
Nay ta bảo thật các ngươi: nên lấy việc "đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ" làm nguy; nên lấy điều
"kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" làm sợ. Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến
cho ai nấy đều giỏi như Bàng Mông, mọi người đều tài như Hậu Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất
Liệt dưới cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhaị Như thế chẳng những thái ấp
của ta mãi mãi vững bền mà bổng lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng; chẳng những gia
thuộc ta được ấm êm giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng trăm tuổi sum vầy; chẳng những
tông miếu ta được hương khói nghìn thu mà tổ tiên các ngươi cũng được bốn mùa thờ cúng;
chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí, mà đến các ngươi, trăm đời sau còn để tiếng thơm;
chẳng những thụy hiệu ta không hề mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền. Lúc
bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui chơi, phỏng có được không ?
Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một tuyển, gọi là Binh Thư Yếu Lược. Nếu các
ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là thần tử; nhược bằng khinh
bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù.
Vì sao vậy ? Giặc Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm
nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay
mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên
nghịch tặc, để thẹn muôn đời, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa ?
Cho nên ta viết bài hịch này để các ngươi hiểu rõ bụng ta.
31
---
Chú thích
Kỷ Tín: tướng của Hán Cao Tổ Lưu Bang. Khi Lưu Bang bị Hạng Vũ vây ở Huỳnh Dương, Kỷ Tín giả làm Hán
Cao Tổ ra hàng, bị Hạng Vũ thiêu chết. Hán Cao Tổ nhờ thế mới thoát được.
Do Vu: tướng của Sở Chiêu Vương thời Xuân Thu. Theo Tả Truyện, Sở Chiêu Vương bị nước Ngô đánh phải
lánh sang phương Đông, một đêm bị cướp vây đánh. Do Vu đã chìa lưng ra đỡ giáo cho vua mình.
Dự Nhượng: gia thần của Trí Bá thời Chiến Quốc. Trí Bá bị Triệu Tương Tử giết, Dự Nhượng bèn nuốt than
cho khác giọng đi, giả làm hành khất, mưu giết Tương Tử để báo thù cho chủ.
Thân Khoái: quan giữ ao cá của Tề Trang Công thời Xuân Thu. Trang Công bị Thôi Trữ giết, Thân Khoái bèn
chết theo chủ.
Kính Đức: tức Uất Trì Cung đời Đường. Khi Đường Thái Tông (bấy giờ còn là Tần Vương Lý Thế Dân) bị
Vương Thế Sung vây, ông đã lấy mình che chở, hộ vệ cho Thái Tông chạy thoát.
Cảo Khanh: họ Nhan, một bề tôi trung của nhà Đường. Khi An Lộc Sơn nổi loạn, đánh đuổi Đường Huyền
Tông và Dương Quý Phi, ông đã cả gan chưởi mắng An Lộc Sơn và bị cắt lưỡi.
Vương Công Kiên: tướng tài nhà Tống, giữ Hợp Châu, lãnh đạo quân dân Tống cầm cự với quân Mông Cổ do
Mông Kha chỉ huy ở núi Điếu Ngư suốt bốn tháng trời. Mông Kha cuối cùng bị loạn tên chết, quân Mông Cổ
đành phải rút lui.
Điếu Ngư: tên ngọn núi hiểm trở ở Tứ Xuyên, ba mặt nhìn xuống sông. Đời Tống, Dư Giới đắp thành ở đó.
Mông Kha: tức Mongke, anh của Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt, làm Đại Hãn Mông Cổ từ năm 1251. Mông Kha
trực tiếp chỉ huy cuộc viễn chinh sang Trung Quốc và các nước phía Đông. Ông bị tử trận năm 1259 dưới chân
thành Điếu Ngư trong cuộc vây hãm đội quân Tống do Vương Công Kiên chỉ huy.
Cốt Đãi Ngột Lang: tức Uriyangqadai, tướng giỏi của Mông Cổ, con của viên tướng nổi tiếng Subutai. Cốt Đãi
Ngột Lang nhận lệnh của Mông Kha, cùng Hốt Tất Liệt đánh chiếm nước Nam Chiếu. Cốt Đãi Ngột Lang cũng
là viên tướng chỉ huy đạo quân Mông Cổ xâm lược Đại Việt lần thứ nhất (1258).
Xích Tu Tư: chép Xích theo Hoàng Việt Văn Tuyển. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép Cân. Hai chữ gần giống
nhau, không biết quyển nào chép nhầm. Hiện nay, chưa có tài liệu nào nói gì về viên tướng này, và việc khôi
phục lại tên Mông Cổ từ Hán tự cũng không phải là chuyện đơn giản.
Nam Chiếu: nước nhỏ nằm ở khoảng giữa tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam ngày nay; thủ đô là Đại Lý, thuộc Vân
Nam.
Hốt Tất Liệt: tức Qubilai, em ruột và là tướng của Mông Kha. Sau khi Mông Kha tử trận ở Điếu Ngư, Hốt Tất
Liệt tự xưng làm Đại Hãn ở Khai Bình, khiến xảy ra cuộc nội chiến tranh giành ngôi báu với em ruột là Ariq-
Buka. Năm 1264, Ariq-Buka đầu hàng, Hốt Tất Liệt bèn dời đô về Yên Kinh (tức Bắc Kinh ngày nay), xưng
Nguyên Thế Tổ, lập nên nhà Nguyên.
Vân Nam Vương: tức Hugaci hay Thoát Hoan, con ruột Hốt Tất Liệt, được phong làm Vân Nam Vương năm
1267 với nhiệm vụ khống chế các dân tộc thiểu số vùng này cũng như mở rộng biên cương nhà Nguyên về phía
Nam. Thoát Hoan là người chỉ huy quân Nguyên xâm lược Đại Việt lần thứ hai năm 1285 và lần thứ ba năm
1287-1288.
32
Nghìn thây ta bọc trong da ngựa: điển tích lấy từ câu nói của viên tướng khét tiếng Mã Viện đời Hán chép trong
Hậu Hán Thư - Đại trượng phu dương tử ư cương trường, dĩ mã cách khỏa thi nhĩ. (Bậc đại trượng phu nên chết
ở giữa chiến trường, lấy da ngựa mà bọc thây.)
Thái thường: tên loại nhạc triều đình dùng trong những buổi tế lễ quan trọng ở tông miếu. Bấy giờ là thời kỳ
ngoại giao căng thẳng giữa ta và quân Nguyên, trong những buổi yến tiệc tiếp sứ Nguyên, triều đình nhà Trần
nhiều khi phải buộc dùng đến nhạc thái thường để mua vui cho sứ giả. Trần Quốc Tuấn xem đó là một điều
nhục nhã.
Thái ấp: phần đất vua Trần phong cho các vương hầu.
Đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ: từ câu văn trong Hán Thư - phù bão hỏa, thố chi tích tân chi hạ nhi tẩm kỳ
thượng, hỏa vị cập nhiên nhân vị chi an. (Ôm mồi lửa, đặt dưới đống củi rồi nằm lên trên, lửa chưa kịp cháy vẫn
cho là yên.)
Kiềng canh nóng mà thổi rau nguội: xuất xứ từ một câu văn trong Sở Từ - trừng ư canh nhi xuy tê hề. (Người bị
bỏng vì canh nóng, trong lòng đã e sợ sẵn, dù gặp rau nguội đi nữa, cũng vẫn thổi như thường.)
Bàng Mông: danh tướng đời nhà Hạ, có tài bắn cung trăm phát trăm trúng.
Hậu Nghệ: một nhân vật bắn cung giỏi nữa trong thần thoại Trung Quốc.
Cảo Nhai: nơi trú ngụ của các vua chư hầu khi vào chầu vua Hán ở Trường An.
Mãi mãi vững bền: nguyên văn chữ Hán là vĩnh vi thanh chiên. Sách Thế Thuyết chép chuyện Vương Tử Kính
đêm nằm ngủ thấy bọn trộm vào nhà "sạch sành sanh vét" mọi vật. Ông từ tốn bảo chúng rằng: cái nệm xanh
(thanh chiên) này là đồ cũ của nhà ta, các ngươi làm ơn để lại. Tác giả dùng điển tích này để chỉ những của cải
được lưu truyền từ đời này sang đời khác.
Binh Thư Yếu Lược: tức Binh Gia Diệu Lý Yếu Lược, nay đã thất truyền. Tác phẩm với đầu đề tương tự được
lưu truyền hiện nay không phải là văn bản thực thụ, trong đó có vài đoạn chép các trận đánh thời Lê Nguyễn sau
này.
Dẹp yên nghịch tặc: nguyên văn chữ Hán là bình lỗ chi hậu. Các dịch giả Dương Quảng Hàm, Trần Trọng Kim
đoán Bình Lỗ là tên đất ở đâu đó vùng Phù Lỗ thuộc tỉnh Vĩnh Phú ngày nay. Ở đây, chúng tôi theo Ngô Tất Tố
và Phan Kế Bính dịch thoát là bình định nghịch tặc nói chung.
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI
Những ý kiến khác nhau về thời điểm ra đời của bài hịch
- Ý kiến 1: Cho rằng tác phẩm ra đời vào năm 1285 khi quân Nguyên Mông kéo sang
nước ta lần thứ II. (Trần Trọng Kim, Bùi Văn Nguyên,..)
- Ý kiến 2: Cho rằng bài Hịch phải ra đời trước thời điểm 1285 (Khoảng 1282- 1283)
( Quan niệm của Hà Văn Tấn trong Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược ở thế kỷ
XIII)
33
- Ý kiến 3: Cho rằng bài Hịch cần phải ra đời sớm hơn thời điểm 1282.
II THỂ LOẠI
- Hịch thuộc loại văn chính luận được vua, lãnh tụ khởi nghĩa hay tướng lĩnh quân đội
viết ra nhằm động viên mọi người chiến đấu. Văn phong hịch trang trọng, cách xưng hô rõ
ràng, lập luận chặt chẽ, bố cục hợp lý.
III. TỰA ĐỀ CỦA BÀI HỊCH
Hưng Ðạo đại vương dụ chư tỳ tướng hịch văn. Qua tựa đề có thể xác định:
- Tác giả viết bài hịch
- Ðối tượng chủ yếu cần thuyết phục
- Thể loại của tác phẩm
IV. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
1. Nêu gương trung thần nghĩa sĩ bỏ mình vì nước
2. Tâm trạng của tác giả trước họa xâm lăng và mối quan tâm của tác giả đối với các tỳ
tướng.
3. Phê phán thái độ thờ ơ vô trách nhiệm của các tỳ tướng và vạch ra hậu quả tai hại của
nó.
4. Xác định nhiệm vụ của các tỳ tướng trong tình thế khó khăn của đất nước và khẳng
định lập trường quan hệ bạn thù.
CHƯƠNG 3: NGUYỄN TRÃI
I. Cuộc đời
II.
1. Vài nét về gia phả, dòng họ Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi, hiệu Ức Trai, ông sinh năm 1380.
Do có công lao lớn Nguyễn Trãi được vua Lê Thái Tổ ban họ vua là Lê Trai và phong chức
tước: "Khai quốc công thần, Nhập nội hành khiển, Trung thư hàn lâm ngự sử, Lục Bộ Thượng
Thư, Tứ Kim Ngư Đại Thượng Hộ Quan Phục Hầu”. Năm 1442, vụ án Lệ Chi Viên oan khuất
đã kết thúc đời ông cùng ba họ.
Nguyễn Trãi có năm người vợ.
+ Bà họ Trần: Sinh ra Nguyễn Khuê, Nguyễn Ứng, Nguyễn Phù.
+ Bà họ Phùng: Sinh ra Thị Trà, Nguyễn Bảng, Nguyễn Tích.34
+ Bà Thị Lộ: Không có con.
+ Bà Phạm Thị Mẫn: Sinh ra Nguyễn Anh Võ (có tài liệu là Nguyễn Ánh Vũ ) (sau vụ án Lệ
Chi Viên)
+ Bà họ Lê: Sinh ra con cháu ở chi Quế Lĩnh, Phương Quất- huyện Kim Môn, Hải Dương.
Sau vụ án Lệ Chi Viên, dòng họ Nguyễn Trãi ở Chi Ngại, Nhị Khê gần như bị thảm sát
hết. Trong các phả hệ ghi lại số ít thoát nạn là: Nguyễn Phi Hùng con Nguyễn Phi Khanh là em
thứ ba của Nguyễn Trãi chạy về Phù Khê, Từ Sơn, Bắc Ninh; Nguyễn Phù con Nguyễn Trãi
chạy lên Cao Bằng, đổi họ sang họ Bế Nguyễn. Bà họ Lê vợ thứ năm của Nguyễn Trãi mang
thai chạy về Phương Quất, huyện Kim Môn, Hải Dương.
Bà Phạm Thị Mẫn vợ thứ tư của Nguyễn Trãi có mang ba tháng, được người học trò cũ của
Nguyễn Trãi là Lê Đạt đưa bà chạy trốn vào xứ Bồn Man (phía Tây Thanh Hóa); Sau lại về
thôn Dự Quần, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Nay là thôn Dự Quần, xã Xuân
Lâm, huyện Tĩnh Gia. Tại Đây, bà sinh ra Nguyễn Anh Vũ. Để tránh sự truy sát của triều đình,
Nguyễn Anh Vũ đổi sang họ mẹ là Phạm Thanh Vũ.
Mặc dù trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn Nguyễn Anh Vũ vẫn nối chí cha ông, dùi mài kinh
sử, thi đỗ hương cống.
Năm 1464, vua Lê Thánh Tông ra chiếu giải oan cho Nguyễn Trãi, vụ án Lệ Chi Viên mới đến
hồi kết thúc sự truy sát của triều đình. Nguyễn Anh Vũ được Lê Thánh Tông phong cho chức
Đồng Tri Phủ Tĩnh Gia- Thanh Hóa, cấp cho 100 mẫu ruộng gọi là "Miễn hoàn điền" (ruộng
không phải trả lại) con cháu đời đời được hưởng. Nhớ ơn ông cha tổ tiên, Nguyễn Anh Vũ xây
dựng mộ chí của Nguyễn Trãi tại xứ đồng Tai Hà, làng Dự Quần. Lấy sọ dừa, cành dâu táng
làm cốt. Ông xây dựng từ đường tổ tiên và người cha quá cố của mình. Lấy ngày mất của
Nguyễn Trãi, 16 tháng 8 là ngày giỗ họ. Đời sau do khó khăn về kinh tế, tháng 8 lại gió bão
nhiều, không thuận tiện cho việc tế tổ, họ chuyển ngày giỗ sang ngày 21 tháng Giêng (ngày
mất của tổ Nguyễn Anh Vũ).
Nguyễn Anh Vũ có hai bà vợ, tám người con: Bà cả sinh hạ sáu con trai một con gái.
- Con cả là Nguyễn Tạc năm 23 tuổi đỗ tiến sĩ đệ tam danh "Thám hoa" được bổ nhiệm chức
trấn thủ xứ An Bang (khu vực tỉnh Quảng Ninh hiện nay). Sau đi sứ Trung Quốc bị đắm
thuyền mất ở hồ Động Đình, tỉnh Hà Nam- Trung Quốc.
Sau vụ Lệ Chi Viên ở quê tổ Chi Ngại và Nhị Khê, dòng họ thất tán không còn ai. Nguyễn
Anh Vũ cử người con thứ hai là Nguyễn Đám trở về Nhị Khê để khởi dựng lại dòng họ, tu sửa
từ đường phần mộ tổ để thờ cúng.
35
Cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, dòng họ Nguyễn ở Nhị Khê lại cử cụ Nguyễn Thung hiệu
là Phúc Khánh trở về chốn tổ là thôn Chi Ngại để chấn hưng dòng họ và trông coi phần mộ tổ
ở núi Bái Vọng. Vì vậy chi họ Nguyễn ở Chi Ngại lấy đệm là Nguyễn Quy (Quy là quay trở lại
gốc tổ tiên).
- Người con thứ ba của Anh Vũ là Nguyễn Quân, thi trúng Sùng Văn Quán, được bổ nhiệm
làm Thừa tuyên phủ Tĩnh Gia. Hậu duệ là con cháu làng Dự Quần ngày nay.
- Con thứ tư là Nguyễn Thiêm.
- Con thứ năm là Nguyễn Giáp, về Xuân Dục, lập gia chi họ Xuân Dục, ở huyện Mỹ Hào, tỉnh
Hưng Yên.
- Con thứ sáu là Nguyễn Thung, về xã Hải Phương huyện Hải Hậu - Nam Định.
+ Bà vợ thứ hai của Anh Vũ sinh được một con trai là Nguyễn Chân Phượng sau đổi sang họ
Phạm về thôn Nỗ Vệ, xã Thụy Phú, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây, để trông coi phần mộ và
từ đường bà Phạm Thị Mẫn - thân mẫu của Anh Vũ. Nay thành chi họ Phạm Nguyễn.
Như vậy kể từ sau vụ án Lệ Chi Viên năm 1442, đến năm 1464 khi vua Lê Thánh Tông xuống
chiếu giải oan cho Nguyễn Trãi, con cháu Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi mới phục hưng trở
lại. Đến nay thành dòng họ lớn, các lớp con cháu không ngừng kế tiếp truyền thống tổ tiên,
cống hiến nhiều công lao cho đất nước.
Theo phả các chi họ, từ cụ Nguyễn Phi Khanh đến các đời sau, đời nào cũng có người đỗ đạt
làm quan giúp nước. Qua thống kê ở năm chi họ là: Dự Quần, Canh Hoạch, Thuỵ Phú, Phù
Khê, Xuân Dục, từ nửa thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX đã có 11 tiến sĩ nho học, một quận công,
cùng hàng chục người đỗ cử nhân, tam trường, tứ trường... Họ được bổ nhiệm nhiều chức vụ
quan trọng trong triều đình làm tri phủ, tri huyện, võ quan... ở các địa phương.
Họ Nguyễn ở Phủ Khê, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh có tới 10 tiến sĩ (6 tiến sĩ nho học), 2 tiến sĩ,
3 giáo sư 42 cử nhân, 9 bác sĩ, 1 nhạc sĩ... Trong phong trào cách mạng vô sản đồng chí
Nguyễn Văn Cừ - Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương (1938-1940) là hậu duệ đời thứ 17 của
dòng họ này.
Chi họ Nguyễn Xuân Dục- Mỹ Hào- Hưng Yên, có 4 tiến sĩ (2 tiến sĩ nho học), 1 giáo sư, 4
phó giáo sư, 30 cử nhân. Trong phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, một người con ưu tú của
dòng họ là Nguyễn Thiện Thuật tự là Mạnh Hiếu, (cử nhân khoa Bính Tý 1866) cùng các em
là Nguyễn Thiện Kế, Nguyễn Thiện Dương đã thu nạp thân hào nghĩa sĩ, tế cờ khởi nghĩa Bãi
Sậy, chống thực dân Pháp. Khởi nghĩa Bãi Sậy tan rã (1892), Nguyễn Mạnh Hiếu; Nguyễn
Thiện Kế, Nguyễn Thiện Dương, Nguyễn Tuyễn Chi... còn tiếp tục phò vua Hàm Nghi, vua
36
Duy Tân trong phong trào Cần Vương. Các ông còn tham gia khởi nghĩa Hoàng Hoa Thám,
phong trào Quang Phục Hội của Phan Bội Châu chống thực dân Pháp.
Hơn năm thế kỷ hồi sinh phát triển dòng họ Nguyễn Trãi qua biết bao thăng trầm, có lúc tưởng
như đã tuyệt diệt. Nhưng bởi phúc ấm tổ tiên với lòng nhân nghĩa thấu đất trời, dòng họ
Nguyễn từ một mầm non đơn độc giữa phong ba bão tố, vẫn tồn tại phát triển đến ngày nay.
Các thế hệ con cháu nối tiếp nhau kế thừa xứng đáng truyền thống: Yêu nước, hiếu học, "Bình
dị, Cận dân"; "Lo trước vui sau giữ nếp nhà" của Ức Trai, để không ngừng học hành cống hiến
xây dựng Tổ quốc Việt Nam.
Thực hiện truyền thống tốt đẹp của dân tộc "Uống nước nhớ nguồn", từ năm 2000 đến năm
2002, nhân dân tỉnh Hải Dương đã xây lập đền thờ rất khang trang Người anh hùng dân tộc -
Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi tại quần thể di tích Côn Sơn, để hàng năm du khách
thập phương ngưỡng mộ Người về thắp hương tưởng niệm.
Bước đầu Ban quản lý quần thể di tích Côn Sơn tổ chức khảo sát lập phả hệ dòng họ Nguyễn
Trãi, tuy đã cố gắng nhưng chắc chưa hoàn chỉnh, mong độc giả xa gần tham gia góp ý bổ
sung.
2. Cuộc đời:
Sống trong một giai đoạn lịch sử nhiều biến động phức tạp, cuộc đời Nguyễn Trãi gắn
liền với từng bước đi của lịch sử. Có thể chia cuộc đời ông thành 3 giai đoạn:
2.1. Nguyễn Trãi- thời chuẩn bị bước vào đời: Nguyễn Trãi hiệu Ức Trai, sinh năm 1380,
quê quán làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang, tỉnh Hải Dương sau dời về xã
Ngọc Ổi (sau đổi thành xã Nhị Khê) huyện Thượng Phúc,châu Thượng Phúc, lộ Đông Đô, nay
thuộc tỉnh Hà Tây
Ông là con thứ của Nguyễn Phi Khanh (Có sách nói là con trưởng). Tròn 6 tuổi, mẹ
mất, ông phải về Côn Sơn ở với ông ngoại (Trần Nguyên Đán). Năm 1390, quan Tư đồ cũng
mất, NT theo cha trở về sống ở làng Nhị Khê.
Tuổi thơ Nguyễn Trãi là một thời kỳ thanh bần nhưng ông vẫn quyết chí gắng công học
tập, nổi tiếng là một người học rộng, có kiến thức rộng về nhiều lĩnh vực, có ý thức về nghĩa
vụ của một kẻ sĩ yêu nước thương dân.
2.2. Nguyễn Trãi - Thời đánh giặc cứu nước: - Năm 1400 thi đỗ Thái học sinh triều Hồ
- Năm 1407, giặc Minh sang xâm lược, Hồ Quý Ly thất bại, Nguyễn Trãi nghe lời cha
trở về tìm đường cứu nước nhưng bị giặc giam nơi thành Ðông Quan suốt mười năm dài.
37
- Năm 1416, ông tìm đến cuộc khời nghĩa Lam Sơn, dâng cho Lê Lợi tác phẩm Bình
Ngô sách. Từ đó, ông gắn bó với phong trào khởi nghĩa Lam Sơn, tham gia xây dựng đường
lối quân sự, chính trị phù hợp và đảm đương những nhiệm vụ quan trọng như soạn thảo thư từ
địch vận, tham mưu, vạch ra chiến lược chiến thuật cho nghĩa quân.
- 1428, kháng chiến thành công, ông được Lê Lợi giao cho soạn bài cáo Bình Ngô nổi
tiếng.
2.3. Nguyễn Trãi thời hoà bình
- Ðược phong chức vị cao trong triều đình và trở thành đầu tàu gương mẫu trong công
cuộc xây dựng đất nước
- Tuy nhiên, tài năng và đức độ của ông cũng bắt đầu bị bọn quyền thần ganh ghét. Ðặc
biệt, sau vụ Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo bị bức tử, Nguyễn Trãi bị bắt giam một thời
gian ngắn. Thời kỳ này, ông bắt đầu cay đắng nhận ra sự độc ác của miệng đời:
Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn
Lòng người quanh nữa nước non quanh
(Bảo kính cảnh giới 9)
- Sau đó, ông được tha nhưng không còn được tin dùng.
- 1433, Lê Thái Tổ mất. Ông chán nản xin về ở ẩn ở Côn Sơn
- Khi Lê Thái Tôn lớn lên, hiểu rõ Nguyễn Trãi, nhà vua đã cho vời ông trở lại làm
quan, giữ chức Tả gián nghị đại phu.
- Rất mừng rỡ, ông viết bài Biểu tạ ơn hết sức xúc động và lại hăng hái ra giúp nước,
chỉnh đốn kỷ cương, đào tạo nhân tài.
- Năm 1442, vụ án Lệ Chi viên xảy ra. Nguyễn Trãi bị can tội giết vua, cả dòng họ bị
tru di tam tộc.
- Sau này, khi lên ngôi, Lê Thánh Tông đã tiến hành minh oan, phục hồi chức tước và
sai Trần Khắc Kiệm tìm lại toàn bộ trước tác của Nguyễn Trãi.
4. Nhận xét chung
Cuộc đời Nguyễn Trãi là cuộc đời chiến đấu không ngừng nghỉ- chiến đấu chống bạo lực
xâm lược và chống gian tà
- Tư tưởng nhân nghĩa là đỉnh cao chói sáng trong thơ ông. Quan điểm xem văn chương
là vũ khí chiến đấu thể hiện rõ trí tuệ sáng suốt của một thiên tài và bản lĩnh của một chiến sĩ
dũng cảm.
38
- Cuộc đời Nguyễn Trãi cho chúng ta bài học quý báu về tinh thần nhân đạo, nhiệt tình
chiến đấu, quan điểm mạnh dạn đổi mới, sáng tạo.
II. SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
Tác phẩm của Nguyễn Trãi dự đoán là rất nhiều nhưng đã bị thất lạc sau vụ án Lệ Chi
viên. Hiện nay, chỉ còn lại một ít có thể kể tên sau:
1. Về văn
- Tác phẩm Bình Ngô đại cáo ghi trong Lam Sơn thực lục và Ðại Việt sử ký toàn thư.
- Quân trung từ mệnh tập: Ðây là một tập văn chính luận thư từ địch vận (Có hơn 70
bức thư, trong đó đa số các bức thư gửi cho tướng tá nhà Minh, phần còn lại là những thư từ
viết gửi cho quân ta.
- Văn loại gồm chiếu biểu làm thay cho Lê Lợi
- Băng Hồ di sự lục soạn năm 1428
- Văn bia Vĩnh Lăng soạn năm 1435
- Dư địa chí soạn năm 1435
2. Về thơ
- Ức Trai thi tập gồm 105 bài thơ chữ Hán
- Quốc âm thi tập, gồm 254 bài thơ Nôm (ước đoán, đây là quyển thơ Nôm duy nhất còn
sót lại sau thảm án Lệ Chi viên.
III. NỘI DUNG THƠ NGUYỄN TRÃI
Nguyễn Trãi không những là nhân chứng cho những biến động bão táp của lịch sử thế kỷ
XV mà còn là người trực tiếp tham gia vào chính những biến động đó. Ngay cả cuộc đời ông
cũng là một cuộc đời đầy những bão táp, thăng trầm. Vì vậy, thơ ông thể hiện rõ một vốn sống
đã ở độ chín, một suy nghĩ sâu sắc về cuộc đời đầy phức tạp và một tình cảm nhân hậu đối với
thiên nhiên, con người.
Qua thơ Nguyễn Trãi, ta có thể hiểu thêm rất nhiều điều về con người Nguyễn Trãi với
những khát vọng lớn lao và những tâm tư u uất.
3.1. TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG TRONG THƠ NGUYỄN TRÃI
- Ðối với Nguyễn Trãi, quê hương chính là nơi xuất phát của những tình cảm cao đẹp.
Thơ ông nói rất nhiều về quê hương bằng một tình cảm thiết tha, lắng đọng.
Có khi, đó là những hồi ức đẹp thời thơ ấu:
Quê cũ nhà ta thiếu của nào
39
Rau trong nội, cá trong ao
(Ngôn chí 13)
Có khi, đó là nỗi nhớ day dứt trong những năm tháng xa quê tìm đường cứu nước:
Cố sơn tạc dạ triền thanh mộng
Nguyệt mãn Bình Than tửu mãn thuyền
(Mạn hứng)
Có khi, đó là tình cảm thân thiết của tác giả đối với quê cũ, ngày trở về ở ẩn:
Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
(Côn Sơn ca)
Nhà thơ cảm thấy hạnh phúc với cuộc sống thanh bần, trong sách nơi quê hương, nơi
thanh lọc tâm hồn, gìn giữ phẩm giá người quân tử:
Ngày tháng kê khoai những sản hằng
Tường đào ngõ mận ngại thung thăng
Yêu quê hương, nhà thơ luôn trăn trở với khát vọng: làm gì cho quê hương
Gia sơn cách đường nghìn dặm
Sự nghiệp buồn, đêm trống ba
3.2. TẤM LÒNG ƯU QUỐC ÁI DÂN SÂU NẶNG
Tình yêu đối với nhân dân, đất nước trong văn chương không phải đến Nguyễn Trãi
mới có, nhưng với ông nó mang một sắc thái riêng, son sắt, thuỷ chung từ đầu đến cuối. Điều
này đựơc thể hiện rất rõ từ Bình Ngô đại cáo. Sở dĩ áng thiên cổ hùng văn này có sức lay động
đến toàn thể nhân dân, đến kẻ thù và đến cả chúng ta hôm nay chính là m\nhờ nó được viết từ
tấm lòng yêu nước thiết tha sâu nặng của Nguyễn Trãi. Tinh thần vì dân vì nước của ông còn
được thể hiện ngay cả khi khó khăn nhất
Khó khăn thì mặc có màng bao
Càng khó bao nhiêu chí mới hào
(Thuật hứng, bài 21)
Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Ðêm ngày cuồn cuộn nước triều đông
(Thuật hứng 5)
40
Hay:
Còn có một lòng âu việc nước
Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung
(Thuật hứng, bài 23)
Ông luôn nghĩ đến dân, đến nước hơn bản thân mình, nó như hình tượng cây tùng “Cội rễ bền
dời chẳng động”. Theo ông cứu vua, trước hết là cứu nước (việc nhân nghĩa cốt để yên dân).
Thương dân, tin dân và thấy được sức mạnh của nhân dân chính là một điểm sáng trong tinh
thần của dân tộc ta suốt mười thế kỷ mà Nguyễn Trãi đã nhận thấy. Có lẽ ông đã rất đau xót
khi viết ra câu:
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh , kết oán trải hai mươi năm
Có thể nói tinh thần yêu nước trong văn chương đến Nguyễn Trãi đã đạt đến độ kết tinh bởi tư
tưởng ấy đã được soi sáng bằng suy nghiệm, xác đáng, thuyết phục.
Suốt đời mình, Nguyễn Trãi xem công danh chỉ là điều kiện giúp đời:
Một thân lẩn quất đường khoa mục
Hai chữ mơ màng việc quốc gia
Vì nợ quân thân chưa báo được
Hài hoa còn bận dặm thanh vân (Ngôn chí 11)
Nhà thơ luôn ý thức rõ ràng về trách nhiệm của một kẻ sĩ chân chính:
Ðầu tiếc đội mòn khăn Ðỗ Phủ
Tài còn lọ hái cúc Uyên Minh (Mạn thuật 9)
Quốc phú binh cường chăng có chước
Bằng tôi nào thuở ích chưng dân
Ông luôn mong muốn, khát khao làm sao cho dân được no ấm, dân được an bình trong cuộc
sống.
Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương
(BKCG 43)
Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn
Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền
41
(Tự thán 4)
Từ mơ ước, tác giả thể hiện rõ một quyết tâm hành động:
Khó ngặt qua ngày xin sống
Xin làm đời trị mỗ thái bình
(Tự thán 28)
Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược
Có nhân, có trí, có anh hùng
(Báo kính cảnh giới 5)
Những năm cuối đời nhiều bất hạnh, thơ Nguyễn Trãi đôi khi lắng đọng một nỗi niềm u
uất, chán nản, bi quan, thậm chí thấm thía giọng điệu mỉa mai cho sự nghiệp anh hùng dở dang
của mình:
Say mùi đạo trà ba chén
Tả lòng phiền thơ bốn câu
Uất uất thốn hoài vô nại xứ
Thuyền song thôi chẩm đáo thiên minh
Có lúc, ông mỉa mai chính bản thân mình:
Cưỡi gió lên cao chín vạn tầng
Xưa kia lầm ví với chim bằng
Có lúc, thơ ông thấm lạnh một nỗi cô đơn tê tái trong những đêm dài trên núi Côn Sơn:
Rượu đối cầm đâm thơ một thủ
Ta cùng bóng lẫn nguyệt ba người
Có lúc, ông ví mình như một chiếc thuyền con, giữa trời chiều mênh mông chẳng biết
ghé bến nào:
Thuyền mọn còn chèo chẳng khứng đỗ
Trời ban tối biết về đâu
Tuy nhiên, vượt qua tất cả những bất hạnh, thăng trầm của cuộc đời làm quan bị ganh
ghét, đố kỵ, Nguyễn Trãi vẫn giữ cho mình “Một tấc lòng son còn nhớ chúa - Tóc hai phần bạc
bởi thương thu”. Có âm điệu buồn trong thơ ông nhưng đó không phải là âm điệu chủ đạo. Vấn
đề lớn lao nhất mãi làm ông quan tâm chính là ưu quốc, ái dân, lo cho đất nước và thương
nhân dân. Ðiều làm tỏa sáng nhân cách lớn lao của một người anh hùng, một kẻ sĩ chân chính.
42
3.3. MỘT TRÍ TUỆ UYÊN BÁC LUÔN TÌM HIỂU ĐỂ NẮM BẮT NHỮNG QUY
LUẬT VẬN ĐỘNG CỦA ĐỜI SỐNG
Trong thơ ông, ta thường thấy những tư tưởng triết học phương Ðông được dân tộc hóa
và những kết luận có giá trị về quy luật của đời sống. Nhà thơ là con người giàu suy tư để dằn
vặt với nỗi đau hữu hạn của đời người cho dù đó là cuộc đời của người anh hùng:
Kim cổ vô cùng giang mạc mạc
Anh hùng hữu hận diệp tiêu tiêu
(Vãng hứng)
Giang san như tạc anh hùng thệ
Thiên địa vô tình sự biến đa
Họa phúc hữu môi phi nhất nhật
Anh hùng di hận kỷ thiên niên (Quan hải)
Nhà thơ có những kết luận có giá trị về vai trò và sức mạnh vĩ đại của quần chúng, những
người làm nên lịch sử:
Phúc chu thủy tín dân do thủy
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên (Quan hải)
Ở yên thì nhớ lòng xung đột
Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày
Có khi, chính vốn sống, sự nếm trải trong cuộc đời thăng trầm đã giúp nhà thơ thấy rõ
hơn bản chất của lòng người:
Dễ hay ruột biển sâu cạn
Khôn biết lòng người ngắn dài
Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn
Lòng người quanh nữa nước non quanh
Phải là người có vốn sống, sự từng trải mới có thể có những nhận xét sâu sắc về cuộc đời:
Tĩnh lý càn khôn kinh vạn biến
Nhàn trung nhật nguyệt trị thiên kim (Thu nguyệt ngẫu thành)
3.4. MỘT CHÍ KHÍ HÀO HÙNG, MỘT NHÂN CÁCH CAO THƯỢNG
Mạnh mẽ, hào hùng, khẳng khái, trong sách, đó là nhân cách và chí khí Nguyễn Trãi
được thể hiện qua thơ ông.
43
- Nhà thơ luôn có ý thức vươn lên trong thử thách để khẳng định chí khí hào hùng của
mình:
Khó khăn thì mặc có màng bao
Càng khó bao nhiêu chí mới hào
Ông thường thể hiện chí chí của mình bằng những hình ảnh kỳ vĩ:
Nghĩa khí tảo không thiên chướng vụ
Tráng tâm hô khởi bán phàm phong (Quá hải)
Với bản lĩnh và nghị lực của một người anh hùng, ông luôn tự hào, tự tin về mình:
Thừa chỉ ai rằng thời khó ngặt
Túi thơ chứa hết mọi giang san (Tự thán 2)
Gánh khôn đương quyền tướng phủ
Lui ngõ được đất Nho thần (Trần tình 1)
Vì tự tin, tự hào nên trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhà thơ vẫn giữ được phong thái ung
dung, tự tại:
Ðủng đỉnh chiều hôm dắt tay
Trông thế giới phút chim bay
Ðạp áng mây, ôm bó củi
Ngồi bên suối gác cần câu
Quét trúc bước qua lòng suối
Thưởng mai về đạp bóng trăng
Không chỉ có phong thái ung dung tự tại, cách nói của nhà thơ cũng thật khẳng khái,
mạnh mẽ:
Dầu bụt dầu tiên ai kẻ hỏi
Ông này đã có thú ông này
Chớ cậy sang mà ép nề
Lời chẳng phải vẫn không nghe
- Là một kẻ sĩ có nhân cách cao thượng Nguyễn Trãi luôn tự hào về những năm tháng
làm quan thanh liêm của mình:
Nhất phiến đan tâm chân hống hỏa
Thập niên thanh chức ngọc hồ băng
44
Ðó là một con người Cốt lãnh hồn thanh chăng khứng hóa, luôn sống thanh bạch, giản dị,
không chấp nhận luồn cúi để nhận bổng lộc:
Mắt hòa xanh đầu dễ bạc
Lưng không uốn, lộc nên từ
Cơm kẻ bất nhân ăn, ấy chớ
Aïo người vô nghĩa mặc, chẳng thà
Ðó cũng là con người trải bao thăng trầm dâu bể, bao đau đớn bất hạnh vẫn cứ nhìn cuộc đời
bằng con mắt xanh, con mắt tin yêu, hy vọng:
Tuổi cao tóc bạc cái râu bạc
Nhà ngặt đèn xanh con mắt xanh
Không những thế, Nguyễn Trãi luôn luôn có ý thức bảo vệ nhân cách trong sáng của
mình, chống lại mọi cám dỗ của đời sống:
Ngọc lành nào có tơ vết
Vàng thực âu chi lửa thiêu
3.5. MỘT TÂM HỒN NHẠY CẢM RỘNG MỞ
Thơ Nguyễn Trãi luôn chan hòa tình cảm đối với thiên nhiên, con người. Ông có cách
nhìn, cách cảm tuyệt với trước vẻ đẹp của thiên nhiên, chân thành tha thiết trong tình bạn, hóm
hỉnh nhưng tế nhị, sâu sắc trong tình người.
- Ông xem thiên nhiên là bạn, láng giềng, anh em, những người an ủi mình trên đỉnh Côn
Sơn cô độc
Cò nằm hạc lặc nên bầy bạn
Ủ ấp cùng ta làm cái con
Láng giềng một áng mây bạc
Khách khứa hai ngàn núi xanh
Vì yêu thiên nhiên nên Nguyễn Trãi đã viết được những câu thơ tuyệt vời về vẻ đẹp của
thiên nhiên:
Nước biếc non xanh thuyền gối bãi
Ðêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu
Hương cách gác vân thu lạnh lạnh
Thuyền kề bãi tuyết nguyệt chênh chênh
- Với bạn, tác giả luôn bày tỏ tấm lòng chân thành tha thiết: 45
Có thuở biếng thăm bạn cũ
Lòng thơ ngàn dặm nguyệt ba canh
Danh thơm một áng mây nổi
Bạn cũ ba thu lá tàn
- Với con người, tác giả tỏ ra rất sâu sắc, nhạy cảm trong khi phát hiện những biến đổi,
xao động phức tạp trong tâm hồn con người:
Bài thơ Tiếc cảnh 10, Cây chuối, cảnh hè,..
3.6. VÀI NÉT VỀ NGHỆ THUẬT THƠ NGUYỄN TRÃI
Sáng tác thơ của Nguyễn Trãi có trên 100 bài thơ chữ Hán và 254 bài thơ chữ Nôm. Ðặc
biệt, qua Quốc âm thi tập, ta có thể thấy rõ những đóng góp đáng trân trọng của Nguyễn Trãi
về nhiều phương diện mà tiêu biểu nhất là phương diện thể thơ và ngôn từ:
1. Về thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong thơ Nôm Nguyễn Trãi
- Ðây là một thể thơ được sáng tác dựa trên quy cách và cấu trúc của thơ Ðường luật.
Ðiểm khác biệt là ở hiện tượng xen kẽ những câu sáu tiếng vào các câu 7 tiếng của bài thơ bát
cú lẫn tứ tuyệt luật Ðường.
- Số lượng các bài thơ được sáng tác theo hình thức này rất lớn (186/254) chứng tỏ rằng
Nguyễn Trãi hoàn toàn có ý thức khi vận dụng thể thơ này như một sự thử nghiệm cho việc
tìm ra một thể thơ mới cho dân tộc, chống lại ảnh hưởng quá sâu sắc của thi ca Trung Hoa.
- Xét về tác dụng nghệ thuật, câu thơ 6 tiếng trong bài thơ thất ngôn xen lục ngôn khiến
lời thơ trở nên cô đọng, giản dị, ý thơ mạnh mẽ, sắc sảo, thường phù hợp với việc diễn đạt
những chân lý của đời sống, những quyết tâm hành động của nhà thơ. Ngoài ra, cách ngắt nhịp
phong phú của câu thơ 6 chữ khiến nó có khả năng diễn đạt được những cung bậc tình cảm đặc
biệt tinh tế, sâu sắc của con người.
- Tuy nhiên, sự xuất hiện của các câu thơ 6 chữ đã làm phá vỡ kết cấu hoàn chỉnh của
bài thơ Ðường luật, dẫn đến việc thất niêm, thất luật. Vì vậy, thể thơ này ngày càng ít đực sử
dụng, nhường chỗ cho những thể thơ dân tộc khác hoàn chỉnh hơn về mặt cấu trúc và niêm
luật.
2. Ngôn từ thơ Nôm Nguyễn Trãi
- Bị chi phối bởi quan niệm thẩm mỹ của văn chương trung đại, thơ Nôm Nguyễn Trãi
vẫn mang tính uyên bác, sử dụng nhiều điển cố và các hình ảnh tượng trưng ước lệ.
46
- Tuy nhiên, nhờ sử dụng chữ Nôm, thơ Nguyễn Trãi đã ngày càng dung dị, tự nhiên,
gần gũi hơn với cuộc sống của nhân dân lao động. Từ ngữ trong thơ Nôm thường có sức gợi tả
mạnh và đặc biệt độc đáo.
- Nhờ chữ Nôm, Nguyễn Trãi đã thành công trong việc đưa vào thơ ca bác học nguồn
thi liệu vô cùng quý giá của tục ngữ, thành ngữ, ca dao.
Giảng văn: Bài thơ Bảo kính cảnh giới số 43 của Nguyễn Trãi
THỰC HÀNH
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM “BÌNH NGÔ ÐẠI CÁO”
1. Hoàn cảnh ra đời
Cuối năm 1427, Vương Thông, tên tổng chỉ huy quân đội nhà Minh ở Việt Nam, đã phải
mở cửa thành Ðông Quan đầu hàng. Cuộc kháng chiến 10 năm đã kết thúc vẻ vang. Thay mặt
vua Lê, Nguyễn Trãi viết bài cáo nhằm tổng kết quá trình kháng chiến và tuyên cáo thành lập
triều đại mới.
2. Về thể loại Cáo
Nếu văn học động viên mọi người chiến đấu thì văn Cáo lại có ý nghĩa tuyên ngôn nhằm
công bố cho mọi người biết những chủ trương chính trị trọng đại của toàn dân tộc như việc xác
lập hòa bình, đánh đuổi giặc ngoại xâm và xây dựng vương triều mới.
Cáo viết bằng thể văn biền ngẫu, số câu chữ không hạn chế, văn phong mang tính chính
luận nên trang trọng, sắc bén, lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục.
Kết cấu của bài đại cáo bình Ngô tuân thủ đúng kết cấu của các tác phẩm Thang cáo
(được chép trong chương Thương Thư của sách Kinh Thư) và Vũ cáo hay đại cáo Vũ Thành
(được chép trong chương Chu thư của sách Kinh Thư).
3. Về tựa đề bài Cáo
Những quan niệm khác nhau về ý nghĩa của chữ Ngô trong Bình Ngô đại cáo
- Ngô: Một cách gọi theo thói quen của người Việt Nam thời đó để chỉ chung người trung
Quốc.
- Ngô: tên vùng đất xuất thân của Chu Nguyên Chương (tức Minh Thành tổ).
- Ngô: Một cách gọi của nhân dân để chỉ những tên giặc gian ác, tàn bạo.
4. PHÂN TÍCH
1. Nêu luận đề chính nghĩa
47
- Luận đề này được xây dựng dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa 3 yếu tố: Nhân nghĩa, dân
và nước:
+ Nhân nghĩa: điếu dân phạt tội, bênh vực cho kẻ khốn cùng, chống lại các thế lực phi
nhân.
+ Dân: Dân trong tác phẩm là những người thuộc tầng lớp thấp nhất nhưng lại chiếm đa
số trong xã hội nông nghiệp thời đó. Ðó là những dân đen, con đỏ, thương sinh, phu phen,
manh lệ, những người có vai trò lịch sử quan trọng, góp phần đánh đuổi giặc ngoại xâm và xây
dựng đất nước.
+ Nước: Khái niệm nước bao gồm mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố
* Văn hiến
* Ðịa lý
* Phong tục tập quán
* Các triều đại chính trị
* Hào kiệt
* Truyền thống lịch sử vẻ vang
Những quan niệm của Nguyễn Trãi trong bài Cáo về Nhân nghĩa, Dân, Nước đều xuất
phát từ chính thực tiễn kế thừa phát triển của truyền thống yêu nước, phù hợp với đạo đức
truyền thống và hoàn cảnh lịch sử đương thời. Những quan niệm này, so với trước, đã có nhiều
biến đổi, phát triển do sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử.
2. Vạch trần tội ác giặc
Các nhà nghiên cứu xem đoạn văn này là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác khủng
khiếp của giặc Minh trong 20 năm trên mảnh đất Ðại Việt.
Ðể đảm bảo vừa tăng cường sức thuyết phục vừa đạt được tính cô đọng, hàm súc của
ngôn từ văn chương, Nguyễn Trãi sử dụng đan xen, kết hợp hàihòa giữa những hình ảnh mnag
tính chất khái quát với những hình ảnh có tính cu, sinh động.
3. Tổng kết quá trình kháng chiến
a. Hình ảnh của Lê Lợi buổi đầu kháng chiến
Tập trung miêu tả hình ảnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã khái quát toàn vẹn nưng phẩm chất
tiêu biểu nhất của con người yêu nước ở thế kỷ XV. Những đặc điểm của con người yêu nước
trong văn học thời kỳ này thường có đặc điểm sau:
- Xuất thân bình thường:
48
Ta đây
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
- Có tấm lòng căn thù giặc sâu sắc:
Ngẫm thù lớn há đội trời
Căm giặc nước thề không cùng sống
- Khở đầu gặp nhiều khó khăn nhưng luôn có tinh thần vượt khó, kiên trì:
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng chí khắc phục gian nan
- Biết tập hợp, đoàn kết toàn dân:
Nhân dân bốn cõi một nhà dựng cần trúc ngọn cờ phất phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử hòa nước sông chén rượu ngọt ngào
- Biết sử dụng chiến lược, chiến thuật tài tình:
Thế trận xuất kỳ lấy yếu chống mạnh
Dùng quân mai phục lấy ít địch nhiều
- Biết nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa trong mọi hoạt động:
Ðem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân mà thay cường bạo
Có thể nói, Lê Lợi chính là hình ảnh tiêu biểu của những con người yêu nước dám hy
sinh quên mình đứng dậy chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập tự do của dân tộc.
b. Miêu tả quá trình kháng chiến
- Ơí đây, ta không tìm thấy những anh hùng cá nhân trong văn chương trung đại hay
trong các tác phẩm anh hùng ca của Hy Lạp cổ đại. Bài Cáo tập trung làm sáng rõ vai trò của
một tập thể anh hùng, những người mà trước kia văn học bác học chưa quan tâm đi sâu, khai
thác
- Tuy nhiên, đối với tướng giặc, tác giả lại miêu tả đầy đủ, cụ thể từng gương mặt, họ tên,
chức tước và tư thế thất bại của từng tên một.
- Cách sử dụng liệt kê ngày tháng thể hiện rõ nhịp độ dồn dập của những trận chiến
thắng.
4. Tuyên bố hòa bình, xây dựng vương triều mới
49
- Nhịp thơ dàn trải, trang trọng
- Khẳng định thế thịnh suy tất yếu
CHƯƠNG 3: LÊ THÁNH TÔNG VÀ HỘI TAO ĐÀN
3.1. Lê Thánh Tông - Từ một bậc minh quân đến một tác giả văn học
+ Lê Thánh Tông (25/8/1442-03/03/1497) còn có tên là Lê Tư Thành, Hạo. Mẹ là Ngô Thị
ngọc Dao, con gái của Thái Bảo Ngô Từ. Thuở nhỏ Tư Thành sống ngoài cung, năm bốn tuổi
được đón vào cung và được phong Bình Nguyên Vương. Từ nhỏ ông vốn thông minh hơn
người. Tư Thành sớm có tư chất đế vương: chăm chỉ học tập, dáng dấp đoan chính, thông tuệ
hơn người. Vì thế mẹ Nhân Tông càng quí và coi Tư Thành như con đẻ của bà, còn vua Nhân
Tông thì cho là người em hiếm có.
Lê Thánh Tông là một trong những ông vua ở ngôi lâu nhất trong lịch sử các ông vua
Việt Nam (38 năm). Nhưng điều đáng nhớ không phải vì ông ở ngôi lâu, (có ông vua như Lê
Hiển Tông còn ở ngôi lâu hơn (47 năm), mà vì những đóng góp của triều vua này vào đời sống
mọi mặt của quốc gia Đại Việt thời ấy. Ông là một vị vua có vai trò tích cực trong việc xây
dựng nhà nước vào nửa sau thế kỉ XV, Nhà vua đã ban hành nhiều chính sách khuyến nông,
bảo vệ đê điều, mở mang bờ cõi đất nước. Nhà vua đề cao nho giáo, đề cao và mở rộng việc
học, việc thi… ông tổ chức cho biên soạn bộ Đại Việt Sử Kí Toàn Thư (1479) và bộ Thiên
Nam Dư Tạp Lục (1483). Đặc biệt vị vua này hết sức yêu thích văn chương và chính ông đã
cho lập ra Hội Tao Đàn (1495), khuyến khích viết văn thơ Nôm. Cũng chính ông đã đứng ra
rửa oan cho gia tộc Nguyễn Trãi
Khi Nghi Dân, con cả của Thái Tông trước đó bị biếm truất rồi âm mưu thoán đoạt đã
giết mẹ con Bang Cơ (vua Nhân Tông) lên ngôi vua, lại phong Tư Thành làm Gia Vương và
vẫn cho ở nhà Tây để trong nội điện. Khi Nghi Dân bị lật đổ, trong triều có người bàn lập Tư
Thành làm vua, nhưng một viên quan là Lê Căng can rằng: Tư Thành còn có người anh nữa là
cung vương Khắc Xương, không nên bỏ anh lập em, dẫm lại vết xe đổ Nghi Dân - Bang Cơ.
Triều thần đến đón Cung vương, song ông này từ chối. Khi đó họ mới rước Tư Thành lên ngôi,
bấy giờ ông vừa tròn 18 tuổi.
Trị vì đất nước được 38 năm, đến cuối năm Hồng Đức thứ 27 năm Bính Thìn (1496) vua
bị mệt nhưng vẫn tự giải quyết các việc quan trọng. Tháng Giêng năm sau vua càng mệt nặng
rồi mất. Cho đến trước khi qua đời, vua vẫn tỉnh táo, trước đó một hôm còn ngồi ghế ngọc
truyền ngôi cho con và làm một bài thơ tuyệt mệnh:
50
dịch:
Tấm thân bảy thước nay tuổi đã năm mươi,
Gan dạ như sắt giờ hoá ra mềm.
Gió thổi ngoài song, hoa vàng tàn tạ,
Sương ra trước sân, liễu xanh gầy đi
Trông suốt bầu trời biến mây bay phơi phới
Tỉnh giấc mộng kê vàng, đêm dài dằng dặc
Tiếng người, dáng người trên chốn bồng lai đã xa cách hẳn
U hồn như vàng ngọc có vào giấc mộng được không.
Lê Thánh Tông thọ 56 tuổi và là một trong những ông vua có khá nhiều vợ và nhiều con:
14 người con trai và 20 con gái. Sử thần Vũ Quỳnh đời Lê đã từng nhận xét: "...tiếc rằng vua
nhiều phi tần quá nên mắc bệnh nặng. Trường lạc Hoàng hậu thì bị giam lâu ở cung khác, đến
khi vua ốm nặng mới được đến hầu bệnh, bèn ngầm đem thuốc độc trong tay sờ vào chỗ lở,
bệnh vua vì thế lại nặng thêm vậy!"
Nhưng nhìn toàn cục, cuộc đời ông vua này là một cuộc đời hoạt động sôi nổi trên rất
nhiều lĩnh vực mà mặt nào cũng tỏ ra xuất sắc. Người đương thời từng nhận xét: "vua tựa trời
cao siêu, anh minh quyết đoán, có hùng tại đại lược, võ giỏi văn hay, mà thánh học rất chăm,
tay không lúc nào rời quyển sách. Các sách kinh sử, lịch toán, các việc thánh thần, cái gì cũng
tinh thông. Văn thơ thì hay hơn cả các quan văn học". Chính bản thân Lê Thánh Tông cũng rất
tự ý thức về sự cần mẫn chăm lo trau dồi tri thức, bỏ công sức nhìn vào việc cai trị đất nước.
Ông từng viết:
Lòng vì thiên hạ những sơ âu
Thay việc trời dám trễ đâu
Trống dời canh còn sách
Chiêng xế bóng chửa thôi chầu.
Nhờ đó mà dưới thời trị vì của ông vua này, quốc gia Đại Việt đã đạt được sự phát triển rực rỡ
về mọi mặt.
Lê Thánh Tông là người tha thiết với chủ quyền quốc gia. Ông đã từng nói câu nói nổi
tiếng: "Một thước núi, một tấc sông của ta có lẽ nào tự tiện vứt bỏ đi được. Nếu người nào dám
đem một thước, một tấc đất của vua Thái Tổ để lại làm mồi cho giặc thì người đó sẽ bị trừng
trị nặng". Chính dưới thời Lê Thánh Tông, bản đồ đầu tiên của quốc gia Đại Việt được hoàn
51
thành. Những hành động xâm phạm biên giới bằng mọi hình thức của nhà Miinh cũng như của
các tập đoàn thống trị Chiêm Thành, Bồn Man, Lão Qua đều đã được tích cực giải quyết hoặc
giáng trả kịp thời, không để một chút đất đai của Tổ quốc lọt vào tay kẻ khác.
Bộ máy nhà nước trung ương tập quyền dưới triều Lê Thánh Tông đạt đến mức hoàn bị,
từ trung ương xuống đến xã. Thế lực của đại quý tộc bị hạn chế, thay vào đó là sự tham chính
của tầng lớp sĩ phu nho giáo được tuyển lựa bằng con đường thi cử.
Về lập pháp, đây cũng là triều đại đã cho ra đời bộ luật Hồng Đức nổi tiếng mang tên hiệu vua
Lê Thánh Tông. Các triều đại nước: Lý, Trần đều đã có biên soạn luật của mình, song vì chiến
tranh, loạn lạc đã bị mất hết vì thế luật Hồng Đức còn lại cho đến nay là một trong những bộ
luật hoàn chỉnh và có nhiều điểm tiến bộ nhất trong lịch sử luật pháp thời phong kiến nước ta.
Dưới triều Lê Thánh Tông, cũng là thời kỳ mà tư tưởng trọng nông và chế độ quân điền
được ban bố và thi hành đầy đủ nhất. Các đời sau chỉ lấy đó làm mẫu mực.
Việc giáo dục thi cử dưới thời ông vua này cũng được coi là thịnh đạt nhất trong lịch sử giáo
dục và khoa cử thời phong kiến Việt Nam. Việc học do nhà nước tổ chức được đẩy mạnh,
đồng thời việc học trong dân gian do tư nhân mở trường cũng được khuyến khích. Nhà vua cho
mở rộng nhà Thái học và trường Quốc tử giám. Các tiến sĩ thi đỗ ngoài việc được khắc tên vào
bia đá (đã được bắt đầu từ năm 1442 thời Lê Thái Tông) và được dự lễ xướng danh rất long
trọng, được treo tân bảng vàng và cấp ngựa, ban áo mũ cờ biểu để vinh qui...
+ Bản thân vua Lê Thánh Tông cũng là một nhà văn hoá lớn: ông là một nhà thơ và là
người rất chăm lo đến việc trước thuật. Trong đời ông vua này, nhiều công trình biên soạn có
tầm cỡ được tiến hành như: "Đại việt sử ký toàn thư" hoàn thành năm Kỷ Hợi (1479), "Thiên
nam dư hạ tập", một công trình có tính bách khoa lớn đầu tiên, hơn 100 bài thơ của Nguyễn
Trãi cũng được sưu tầm vào thời gian này. Lê Thánh Tông là người đã giải oan cho cái án của
Nguyễn Trãi, cho tìm con cháu còn sống sót và ra lệnh sưu tầm thơ văn của Ức Trai.
Lê Thánh Tông tự lập ra hội Tao Đàn gồm 28 ông tiến sĩ giỏi thơ văn nhất nước thời đó
gọi là "Tao Đàn nhị thập bát tú" do chính Lê Thánh Tông làm Nguyên soái. Khối lượng sáng
tác của Lê Thánh Tông và Hội Tao Đàn rất lớn, và có vị trí rất đặc biệt.
+ Lê Thánh Tông để lại khá nhiều tác phẩm:
Thơ văn chữ Nôm gồm Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập (khoảng gần 30 bài thơ viết theo thể
Đường luật), Thập giới cô hồn quốc ngữ văn (viết theo thể biền ngẫu), và một số sách khác.
Riêng Quốc Âm Thi Tập có một số bài của Lê Thánh Tông còn lại hầu hêt không đề tên,
nhưng nhìn chung tất cả đều bày tỏ niềm tự hào dân tộc, niềm vui sướng được sống trong cảnh
thái bình thịnh trị.52
- Về thơ văn chữ Hán Lê Thánh Tông cũng viết khá nhiều. Văn có Liệt Truyện tạp chí
(ghi chép tản mạn các truyện), Lam sơn Lương sĩ phú (bài phú núi Lam sông Lương), tập
truyện Thánh Tông di thảo, Liệt truyện tạp chí (ghi chép lại những ý hay từ lạ khi đọc sách)…
- Thơ chữ Hán
Thơ chữ Hán của Lê Thánh Tông gồm chín tập, trong đó có cả những bài của những người
khác bình thơ của nhà vua:
Anh hoa hiếu trị (Sửa lại tinh hoa đạo hiếu, 1468)
Chinh Tây kỹ hành (Ghi lại trên đường hành quân chinh phạt phía Tây, 1471)
Minh lương cẩm tú (lời gấm thêu của vua sngs tôi hiền,1471-1471)
Vă minh cổ xuý (cổ vũ thời bình trị, 1491)
Quỳnh uyển cửu ca (chín khúc ca nơi vườn quỳnh, 1495)
Cổ tâm bách vịnh (Trăm vần thơ vịnh tấm lòng người xưa, 1495?)
Xuân vân thi tập (Tập thơ mây xuân, 1496)
Cổ kim cung từ thi (Thơ và từ trong cung xưa nay, 1494)
Châu cơ thắng thưởng thi (Những vần thơ châu báu thưởng ngoạn danh thắng)
Viết về lê Thánh Tông, Phan Huy Chú nhận định: “Ham học không biết mỏi, tay không
rời sách; kinh, sử, chư tử, lịch số, toán, chương đều tinh thông”. Nhìn chung ông là một người
có học rộng, hiểu biết cuộc sống từ trong cung đến ngoài dân thường một cách cặn kẽ, sâu sắc.
Thơ văn Lê Thánh Tông thể hiện khuynh hướng sáng tác cung đình, nặng về ngâm hoa
vịnh nguyệt,, mượn thơ văn làm trò tiêu khiển cho lớp người đài các phong lưu, cũng rất đậm
tính chất thuyết giáo về lễ nghi, đạo đức; về minh quân, lương tướng, hiếu tử, trung thần. Với
nội dung như vậy nên hình thức không tránh khỏi khuôn sáo, mất đi vẻ tự nhiên. Tuy nhiên
bên cạnh đớ thơ văn Lê Thánh Tông cũng có những ưu điểm nhất định. Đâu đó người ta vẫn
thấy một số bài mang vẻ mượt mà, đặc biệt là khả năng miêu tả thần thái cảnh vật cũng đạt đến
độ tinh tế. Ngoài ra cần phải kể đến nữa, thơ của ông chính là tiếng nói của một giai cấp, một
con người đóng vai trò lịch sử, có ý thức trách nhiệm với nhân dân, với xã tắc. Ông đã thể hiện
một tư tưởng thân dân rất rõ. Thơ văn ông không ít lần đề cập đến người dân, ông cảm thấy vui
và hạnh phúc khi nhìn thấy dân tình sống yên vui no đủ, đó chính là những biểu hiện của một
bậc minh quân.
Lê Thánh Tông không chỉ là một ông vua đầy tài năng và nhiệt huyết với tất cả các
thành tựu nổi bật dưới thời trị vì của ông mà ông còn là một cái tên không thể mờ trong lịch sử
và nền văn hoá nước nhà.53
Các đời vua Triều Lê sơ đã trải qua:
54
1. Lê Thái Tổ (1428-1433)
2. Lê Thái Tông (1434-1442)
3. Lê Nhân Tông (1443-1459)
4. Lê Thánh Tông (1460-1497)
5. Lê Hiến Tông (1497-1504)
6. Lê Túc Tông (1504)
7. Lê Uy Mục (1505-1509)
8. Lê Tương Dực (1510-1516)
9. Lê Chiêu Tông (1516-1522)
10. Lê Cung Hoàng (1522-1527)
3.2. Hội Tao Đàn
Đây là Hội nhà văn cung đình của Việt Nam được vua Lê Thánh Tông thành lập
năm 1495. Tương truyền nhà vua thấy hai năm liền được mùa, thời tiết thuận lợi, nhân
lúc thư nhàn nhà vua đặt chín bài thơ ca ngợi điềm tốt (Quỳnh uyển cửu ca – Chín khúc
ca ca ngợi vườn quỳnh). Nhà vua làm bài tựa cho thi tập, tự xưng là Tao đàn nguyên suý,
tập hợp 28 văn thần, gọi là Tao đàn nhị thập bát tú (28 ngôi sao của Tao đàn), theo vần
chín bài thơ xướng ấy mà hoạ lại. Cuối thi tập có bài tựa của Đào Cử, một người không
có tên trong Tao đàn. Theo bài tựa này thì sở dĩ nhà vua chọn 28 người vì ứng với 28
chòm sao bốn phương, mỗi phương 7 chòm trong bầu trời, và 28 công thần đời Quang
Vũ được vẽ tượng thành bốn hàng, mỗi hàng bảy người treo ở Vân Đài toà Nam cung đời
Hán Minh Đế.
Hai mươi tám người trong Tao đàn là:
1. Thân Nhân Trung
2. Đỗ Nhuận
3. Ngô luân
4. Ngô Hoán
5. Nguyễn Xung Xác
6. Lưu Hưng Hiếu
7. Nguyễn Quang Bật
8. Nguyễn Đức Huấn
9. Vũ Dương
10. Ngô Thầm
11. Ngô Văn Cảnh
12. Phạm Trí Khiêm
13. Lưu Thư Ngạn
14. Nguyễn Nhân Bị
15. Nguyễn Tông Miệt
16. Ngô Quyền
17. Nguyễn Bảo Khuê
18. Bùi Phổ
19. Dương Trực Nguyên
20. Chu Hoán
21. Phạm Cẩn Trực
22. Nguyễn Ích Tốn
23. Đỗ Thuần Thứ
24. Phạm Lưu Huệ
25. Lưu Địch
26. đàm Thận Huy55
27. Phạm Đạo Phú 28. Chu Huân
(Danh sách này không thống nhất, có sách chép không phải 28 người mà hơn ba chục
người như thêm Nguyễn Trực, Lương Thế Vinh, Lê Tuấn Ngạn…. Có thể một số người
trong danh sách ban đầu không hoạt động nữa mới bổ sung những người sau?)
Tác phẩm của Hội để lại chủ yếu là Quỳnh Uyển cửu ca gồm vài trăm bài thơ. Quan
niệm văn học của Hội Tao đàn là quan điểm Nho gia, dùng văn học phục vụ nhà nước
phong kiến. Sáng tác văn học là: “Nghĩ đến các phép lớn của các bậc đế vương thánh
triết, đến lòng cặn kẽ của những bề tôi trung lương”, là “giữa thì nói đạo làm vua, đạo
làm tôi để khuyên người những việc nên làm; sau cùng mượn cảnh ngụ tình hoài, để kích
thích tiết tháo trong sạch của các quan…”.(Tựa của Đào Cử). Do quan niệm như vậy nên
văn chương của Tao đàn chủ yếu là xướng hoạ ngâm vịnh giải trí và ca tụng, nó phản ánh
thái độ tự mãn của giai cấp phong kiến lúc bấy giờ. Dẫu vậy trong ca tụng nó vẫn yóat
lên yếu tố tích cực là thể hiện trách nhiệm đối với lịch sử với đất nước.
3.3. Giới thiệu Hồng Đức quốc âm thi tập
Còn gọi là Tập thơ quốc âm thời Hồng Đức, thế kỷ XV . Tuyển tập thơ Nôm của vua
Lê Thánh Tông cùng sáng tác với cảc triều thần. (Có lẽ tác phẩm không chỉ được viết
trong thời Hồng Đức (1470-1497) mà được viết trong suốt cuộc đời nhà vua). Hồng Đức
quốc âm thi tập là kết quả của phong trào sáng tác thơ Nôm trong cung đình do nhà vya
khởi xướng. Đa số các bài thơ đều không đề tên tác giả cho nên đến nay chỉ xác định
được một số bài của Lê Thánh Tông.
Tập thơ được chia làm 5 môn loại: “Thiên địa môn”, gồm 59 bài. Đây là những bài
vịnh tết Nguyên đán, vịnh bốn mùa…; “Nhân đạo môn”, gồm 46 bài. Phần lớn là những
bài vịnh các nhân vật lịch sử hoặc các nhân vật truyền thuyết Trung Quốc; “Phong cảnh
môn”, gồm 66 bài. Chủ yếu là vịnh cảnh chùa chiền, thiên nhiên…; “Phẩm vật môn”, 69
bài. Chủ yếu là vịnh phong, hoa, tuyết nguyệt, cầm,kì, thi, hoạ…; “Nhàn ngâm chư
phẩm”, gồm 88 bài. Chủ yếu là tự thuật, vịnh sử (có chép 45 bài về truyện Vương
Tường).
Toàn tập Hồng Đức quốc âm thi tập có 283 bài thơ thất ngôn bát cú hoặc thất ngôn
pha lục ngôn. Do tình hình sao chép nên con số này không thống nhất (có lẫn vào một số
bài thơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm).
Nội dung của Hồng Đức quốc âm thi tập chủ yếu là ca ngợi chế độ phong kiến, nặng
về tính chất cung đình, sáng tác theo quan niệm “cao quý hoá”, “lí tưởng hoá” chủ đề, đề
tài văn học. Tuy vậy tập thơ cũng thể hiện tinh thần tự hào dân tộc, truyền thống yêu 56
nước và tinh thần trau dồi ngôn ngữ vă học. Thể hiện tâm thế và niềm vui của người dân
trong cảnh đất nước thanh bình độc lập. Nhiều bài thơ ngợi ca các nhân vật lịch sử gây
được xúc động thực sự bởi sự chân thành trong cảm xúc của người viết. Ngôn ngữ thơ
trau chuốt, vận dụng linh hoạt các thành ngữ và tục ngữ dân tộc. đáng chú ý trong đó có
một số bài thơ mang cảm hứng trào lộng, gần với bút pháp Hồ Xuân Hương sau này
Chương 4: NGUYỄN BỈNH KHIÊM
I. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
Sinh năm 1491 mất năm 1585, tên húy là Văn Ðạt, tự là Hanh Phủ, đạo hiệu Bạch
Vân cư sĩ, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương (nay thuộc Vĩnh Bảo,
Hải Phòng). Cha ông là Nguyễn Văn Ðịnh (Cù Xuyên tiên sinh), mẹ là con gái quan
thượng thư Nhữ Văn Lan
Lúc nhỏ, ông theo học bảng nhãn Lương Ðắc Bằng, nổi tiếng thông minh khác thường,
được thầy yêu mến.
Học giỏi nhưng lúc còn trẻ, nhìn thấy xã hội không còn cảnh thái bình, ông không chịu ra
thi làm quan, thích sống đời ẩn dật. Mãi đến năm 45 tuổi, ông đột ngột ra thi và đỗ ngay
Trạng nguyên khoa Ất Mùi, niên hiệu Ðại Chính thứ 6 (1535) đời Mạc Ðăng Doanh.
Ở triều được 8 năm (1535-1542) chứng kiến cảnh chia bè cánh trong quan lại, ông dâng
sớ xin chém lộng thần nhưng không được chấp nhân ông bèn xin về ở ẩn. Nhưng về sau
vì muốn tác động đến thời cuộc và mối ràng buộc với nhà Mạc lại giúp nhà Mạc khi được
yêu cầu.
Về Trung Am, ông cho xây dựng am Bạch Vân, lập quán Trung Tân bên dòng sông
Tuyết để dạy học trò nên người đời sau còn gọi ông là Tuyết giang phu tử. Học trò ông
có nhiều người lỗi lạc như Nguyễn Dữ, Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh...
ÔPng mất vào tháng 12 năm 1585, thọ 96 tuổi. Học trò truy tôn là Tuyết Giang phu tử,
ông được nhà Mạc truy phong Lại bộ thượng thư Trình quốc công, cho xây dựng miếu
thờ
II. SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
Thơ chữ Hán: Bạch Vân am tập, một bài tựa, tác phẩm Trung Tân bi quán ký, Thạch
Khánh ký.
Chữ Nôm: Bạch Vân quốc ngữ thi (khoảng 170 bài thơ), các tập sấm kí có tên Trình quốc
công sấm kí, Trình tiên sinh quốc ngữ…
57
Là một nhà thơ lớn của thế kỷ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm có nhiều tư tưởng tiến bộ:
“sức dân như nước… phải dùng nhân dân kết mối vững bền” vì “từ xưa đến nay nước lấy
dân làm gốc, được nước nên biết là chỗ được lòng dân”; “vì nước mưu toan” để “dân
khỏi vương vào đói rét” ….
III. NỘI DUNG THƠ VĂN
1. Tố cáo hiện thực xã hội đương thời
Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm giàu chất liệu hiện thực, mang tính triết lý sâu xa của thời
cuộc. Ông phê phán gay gắt bọn tham quan ô lại hút máu, hút mủ của dân. Thơ ông còn
truyền đạt cho đời một đạo lý đối nhân xử thế, đạo vua tôi, cha con và quan hệ bầu bạn,
hàng xóm láng giềng. Đọc thơ ông là thấy cả một tấm lòng lo cho nước, thương đời,
thương dân, và một tâm hồn suốt đời da diết với đạo lý: "Tiên thiên hạ chi ưu phi ưu, hậu
thiên hạ chi lạc nhi lạc" (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ).
Sống gần trọn thế kỷ XVI, Nguyễn Bỉnh Khiêm chứng kiến toàn vẹn sự suy sụp
từng bước của chế độ phong kiến. Thơ văn ông phản ánh rõ nét thực chất phi nghĩa, tàn
khốc của nội chiến phong kiến và những mặt trái của xã hội đương thời. Ở đó, từ vua,
quan đến tầng lớp kẻ sĩ xu nịnh đều xem đồng tiền là trên hết. Lễ giáo phong kiến ngày
một suy vi:
Cương thường nhật điệu thi
Lễ nghĩa thán quải trượng (Cảm hứng).
Bọn vua chúa gian dâm vô độ, thích gây chiến tranh khiến đồng ruộng biến thành bãi
chiến trường, khắp nơi đều là lũy giặc:
Nguyên dã tác chiến trường
Tỉnh ấp biến tặc lũy.
Bọn quan lại được tác giả so sánh với bọn chuột lớn bất nhân chuyên dựa vào thế lực vua
chúa để đục khoét của cải của nhân dân khiến mọi người oán đầy bụng
Thành xã ỷ vi gian
Thần dân oán mãn phúc (Tăng Thử)
Lý tưởng trọng nghĩa khinh tài của kẻ sĩ bị bôi nhọ bởi đồng tiền:
Còn bạc còn tiền còn đệ tử
Hết cơm hết rượu hết ông tôi (Thói đời)
58
Xã hội phong kiến chỉ đầy dẫy nhựng cảnh cá lớn ăn thịt cá nhỏ. Tinh thần nhân nghĩa
giờ bị mờ nhạt bởi sức nặng của đồng tiền:
Ðời nay nhân nghĩa tựa vàng mười
Có của thì hơn hết mọi lời
2. Triết lý chữ Nhàn trong thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm
Ðể chỉ tư tưởng nhàn tản, có nhiều thuật ngữ: an nhàn, nhàn tản, nhàn dật, nhàn
phóng, ản dật, nhàn,.. Nói chung đều có nghĩa là làm rất ít hoặc không làm gì cả. Thể xác
an nhàn, tâm hồn thanh thản, những kẻ sĩ ẩn dật thường không còn lo nghĩ việc đời, thích
ngao sơn ngoạn thủy, xem danh lợi như một áng phù vân.
Tư tưởng Nhàn của kẻ tu hành chịu ảnh hưởng của thuyết xuất thế của nhà Phật. Tư
tưởng nhàn của những kẻ trốn tránh nhiệm vụ, hưởng lạc, vinh thân phì da là những tư
tưởng có tính chất tiêu cực. Nhàn đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm, một kẻ sĩ có khát vọng
cứu dân giúp đời nhưng bất lực trong hoàn cảnh rối ren, là sự phản kháng, không cộng
tác với nhà nước phong kiến để giữ tròn phẩm giá của kẻ sĩ chân chính trong thời buổi
loạn lạc:
Lúc nhàn ngẫm việc xưa nay
Không gì hiểm bằng đường đời (Trung Tân ngụ hứng)
Lòng vô sự, trăng in nước
Cửa thảng lai, gió thổi hoa (Thơ Nôm 34)
Rượu đến cội cây ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao
Cũng có lúc tác giả nhắc đến sự chọn lựa vụng dại của mình mà thật ra là để chê trách sự
gian xảo của người đời:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
Người xảo thì ta vụng
Ấy vụng thế mà hay
Ta vụng thì người xảo
Ấy xảo thế mà gay (Trung Tân ngụ hứng)
Qua việc ca ngợi chữ Nhàn, có thể thấy rõ tấm lòng yêu nước thương dân chân thành của
nhà thơ.
59
3. Những quan niệm triết lý sâu sắc về cuộc sống
+ Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết học lớn của Việt Nam. Tư tưởng triết học của
ông "không bận tâm đi vào xu hướng duy lý... đi tìm khái niệm bản thể luận như Lão Tử,
như triết học Phật giáo hay cái phóng nhiệm nhiều lúc đến ngụy biện của Trang Tử. Ông
hiểu sâu sắc triết học Tống Nho nhưng không đi vào sự câu nệ vụn vặt, không lý giải quá
sâu cái lý, có khi rắc rối, hoặc chẻ sợi tóc làm tư để tìm hiểu, biện giải nhiều thứ mơ hồ
rối rắm trong những khái niệm hỗn tạp đó. Với sự uyên thâm vốn có, ông được triều đình
nhà Mạc và sĩ phu đương thời phong là Trình tuyền hầu, tức là một vị Hầu tước khơi
nguồn dòng suối triết học của họ Trình (tức Trình Di, Trình Hiện - hai nhà triết học khai
phá ra phái Lạc Dương của Tống Nho), hoặc đời còn gọi ông là cụ Trạng Trình. Tuy vậy,
triết học của ông là triết học đã được sống dậy, biểu hiện trong thơ như sự gợi ý mách
bảo của cuộc sống thực tiễn. Ông chắt lọc từ trong nhận thức triết học mà mình thu lượm
được, phép biện chứng nhìn bên ngoài có vẻ như thô sơ để giải đáp nhiều hiện tượng tự
nhiên và xã hội nảy sinh ở quanh mình. Trong thơ ông, ngoài mặt triết lý nhân sinh, nổi
bật lên những suy ngẫm chiêm nghiệm, đúc kết như muốn vươn lên khái quát "luật" đời
bằng những phạm trù triết học. Vì lẽ đó, ông rất hay dùng đến những cặp phạm trù đối
lập như: đen - trắng, tốt - xấu, đầy - vơi, sinh - diệt, vuông - tròn, để giãi bày quan niệm
triết lý nhân sinh của mình.+ Cuộc đời nhàn tản giúp Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể chiêm nghiệm được thời thế
hưng vong. Ông được xem là một nhà thơ triết học nhờ những nhận xét mang tính khái
quát, hàm súc cao độ về bản chất của đời sống, lẽ hưng vong, đắc thất, sang hèn:
Hoa càng khoe nở hoa nên rữa
Nước chứa cho đầy nước ắt vơi (Trung Tân ngụ hứng)
Ðối với NBK, sự biến đổi có tính chất tuần hoàn của tạo hóa (theo quan niệm triết học
của người trung đại) được đồng nhất với sự biến đổi, hưng vong, đắc thất của chế độ
phong kiến. Sự biến đổi này, theo ông, là rất ghê gớm:
Thế gian biến cải vũng nên đồi
Mặn nhạt chua cay lẫn ngọt bùi
Dựa vào lẽ tương sinh tương khắc, ông đã thể hiện rõ những xung đột gay gắt trong xã
hội đương thời: chiến tranh phong kiến, sự phân chia giai cấp nghèo giàu, sang hèn trong
xã hội, mâu thuẫn giữa hạnh phúc và bất hạnh trong đời người,..Chính những xung đột đó
đã dẫn đến một quá trình suy thoái mà những kẻ sĩ chân chính thời đó luôn đau lòng khi
chứng kiến. Dựa vào lẽ tuần hoàn, ông cố gắng lý giải sự biến đổi, sự suy thoái của chế 60
độ phong kiến như là một giai đoạn tất yếu trong chu kỳ hết hưng thịnh đến suy vong.
Ðiều này cũng có nghĩa là ông rất tin tưởng vào tương lai, lúc mà CÐPK tìm lại được sự
ổn định, cân bằng :
Tái nhất âm hề phục nhất dương
Tuần hoàn vãn phục lý chi thường (Khiển hứng)
Tuy nhiên, sự vận động của lịch sử dân tộc không đồng nhất với sự vận động của chế độ
phong kiến. Vì vậy, bản thân những tư tưởng của ông cũng chứa đựng những mâu thuẫn
giữa ý muốn giải quyết những khó khăn của phong kiến trong hoàn cảnh suy thoái và sự
bất lực trước hoàn cảnh nan giải đó
4. Khát vọng cứu nước giúp đời trong hoàn cảnh nhàn tản
Nói đến tính chất tích cực trong tư tưởng nhàn tản của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là
nói đến một tấm lòng tiên ưu đến già vẫn chưa thôi:
Lão lai vị ngãi tiên ưu chí
Ðắc táng cùng thông khởi ngã ưu (Tự thuật)
Sống trong hoàn cảnh loạn lạc, tâm sự lo âu khiến tóc ông bạc trắng (Nguy thời ưu quốc
mấn thành ti- Thu tứ). Tóc bạc trắng, bởi tấm lòng ưu ái vẫn đêm đêm day dứt:
Ưu thời thốn niệm bằng thùy tả
Duy hữu hàn sơn bán dạ chung (Trung Tân quán ngụ hứng)
Tóm lại, NBK thân nhàn nhưng tâm không nhàn, suốt đời lo nước thương dân
5. Tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời sâu nặng
Tác phẩm của ông phần lớn viết trong bối cảnh cuộc sống nhàn tản ở nông thôn và
ông tỏ ra rất tâm đắc với đời sống ẩn cư đó:
Một mai một cuốc một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Thơ ông thể hiện một sự gắn bó chân thành giữa con người với cảnh vật:
Non nước có mùi lòng khách chứa
Trúc mai làm bạn hứng thơ nồng (Thơ Nôm bài 33)
Ba gian am quán lòng hằng mến
Ðòi chốn sơn hà mặt đã quen (bài 8)
Ông dành trọn tình cảm chân thành của mình cho nhân dân lao động:
Vũ Dương khoái đỗ thời thời nhược 61
Thượng thụy ưng tri đại hữu niên (Hạ nhật vũ tình)
(Mừng thấy mưa nắng đúng kỳ- Biết điềm lành được mùa lớn)
Tóm lại, thơ Nguyễn bỉnh Khiêm nặng về triết lí, giáo huấn, nhưng có chiều sâu của
sự suy tưởng, có thái độ ôn tồn, chân tình. Chân tình lo cho dân, tha thiết thương đời
thương người. Thơ ông giản dị mà thanh cao. thơ Nôm của ông tiếp nối thơ Nôm
NguyểnTãi, sử dụng và vận dụng linh diệu lời ăn tiếng nói của nhân dân.
CHƯƠNG 5
NGUYỄN DỮ VÀ TÁC PHẨM TRUYỀN KỲ MẠN LỤC
I. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ
Cho đến nay vẫn chưa xác đinh dược Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông
sống đồng thời với thầy học là Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc Khoan.
Nguyễn Dữ là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu
Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi mất được tặng phong
Thượng thư. Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng
lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, Nguyễn Dữ thi Hội nhiều lần,
đạt trúng trường và từng giữ chức vụ Tri huyện Thanh Tuyền nhưng mới được một năm
thì ông xin từ quan về nuôi dưỡng mẹ già. Trải mấy năm dư không đặt chân đến những
nơi đô hội, ông miệt mài "ghi chép" để gửi gắm ý tưởng của mình và đã hoàn thành tác
phẩm "thiên cổ kỳ bút" Truyền kỳ mạn lục. Ông sinh và mất năm nào chưa rõ, nhưng
căn cứ vào tác phẩm cùng bài Tựa Truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm Vĩnh
Định thứ nhất (1547) và những ghi chép của Lê Quý Đôn trong mục Tài phẩm sách Kiến
văn tiểu lục có thể biết ông là người cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, có thể lớn tuổi
hơn Trạng Trình chút ít. Giữa Nguyễn Dữ và Nguyễn Bỉnh Khiêm tin chắc có những ảnh
hưởng qua lại về tư tưởng, học thuật... nhưng e rằng Nguyễn Dữ không thể là học trò của
Nguyễn Bỉnh Khiêm như Vũ Phương Đề đã ghi. Đối với nhà Mạc, thái độ Nguyễn Dữ dứt
khoát hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không làm quan với nhà Mạc mà chọn con đường ở
ẩn và ông đã sống cuộc sống lâm tuyền suốt quãng đời còn lại. Truyền kỳ mạn lục được
hoàn thành ngay từ những năm đầu của thời kỳ này, ước đoán vào khoảng giữa hai thập
kỷ 20-30 của thế kỷ XVI. (Lưu ý đây chỉ là giả thuyết)
Dường như Nguyễn Dữ không tìm được lối thoát trên con đường hành đạo, ông
quay về cuộc sống ẩn dật, đôi lúc thả hồn mơ màng cõi tiên, song cơ bản ông vẫn gắn bó
62
với cõi đời. Ông trân trọng và ca ngợi những nhân cách thanh cao, cứng cỏi, những anh
hùng cứu nước, giúp dân không kể họ ở địa vị cao hay thấp.
II. GIỚI THIỆU TÁC PHẨM TRUYỀN KỲ MẠN LỤC
Theo những tư liệu được biết cho đến nay, Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm duy
nhất của Nguyễn Dữ. Sách gồm 20 truyện, chia làm 4 quyển, được viết theo thể loại
truyền kỳ. Cốt truyện chủ yếu lấy từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều
trường hợp xuất phát từ truyền thuyết về các vị thần mà đền thờ hiện vẫn còn (đền thờ Vũ
Thị Thiết ở Hà Nam, đền thờ Nhị Khanh ở Hưng Yên và đền thờ Văn Dĩ Thành ở làng
Gối, Hà Nội)…cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả, hoặc của một người cùng
quan điểm với tác giả. Hầu hết các truyện xảy ra ở đời Lý, đời Trần, đời Hồ hoặc đời Lê
sơ từ Nghệ An trở ra Bắc. Lấy tên sách là Truyền kỳ mạn lục (Sao chép tản mạn những
truyện lạ), hình như tác giả muốn thể hiện thái độ khiêm tốn của một người chỉ ghi chép
truyện cũ. Nhưng căn cứ vào tính chất của các truyện thì thấy Truyền kỳ mạn lục không
phải là một công trình sưu tập như Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục... mà là một
sáng tác văn học với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Đó là một tập truyện phóng tác, đánh dấu
bước phát triển quan trọng của thể loại tự sự hình tượng trong văn học chữ Hán. Và
nguyên nhân chính của sự xuất hiện một tác phẩm có ý nghĩa thể loại này là nhu cầu phản
ánh của văn học. Trong thế kỷ XVI, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ XV;
mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội
phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài,
đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu
đứng, cơ cực. Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề
đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích
đời trước. Nhu cầu phản ánh quyết định sự đổi mới của thể loại văn học. Và Nguyễn Dữ
đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình
tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vì vậy,
tuy có vẻ là những truyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ XVI. Trên thực
tế thì đằng sau thái độ có phần dè dặt khiêm tốn, Nguyễn Dữ rất tự hào về tác phẩm của
mình, qua đó ông bộc lộ tâm tư, thể hiện hoài bão; ông đã phát biểu nhận thức, bày tỏ
quan điểm của mình về những vấn đề lớn của xã hội, của con người trong khi chế độ
phong kiến đang suy thoái.
Trong Truyền kỳ mạn lục, có truyện vạch trần chế độ chính trị đen tối, hủ bại, đả kích
hôn quân bạo chúa, tham quan lại nhũng, đồi phong bại tục, có truyện nói đến quyền
63
sống của con người như tình yêu trai gái, hạnh phúc lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng, có
truyện thể hiện đời sống và lý tưởng của sĩ phu ẩn dật... Nguyễn Dữ đã phản ánh hiện
thực mục nát của chế độ phong kiến một cách có ý thức. Toàn bộ tác phẩm thấm sâu tinh
thần và mầu sắc của cuộc sống, phạm vi phản ánh của tác phẩm tương đối rộng rãi, khá
nhiều vấn đề của xã hội, con người được đề cập tới. Bất mãn với thời cuộc và bất lực
trước hiện trạng, Nguyễn Dữ ẩn dật và đã thể hiện quan niệm sống của kẻ sĩ lánh đục về
trong qua Câu chuyện đối đáp của người tiều phu trong núi Nưa. ở ẩn mà nhà văn vẫn
quan tâm đến thế sự, vẫn không quên đời, vẫn nuôi hy vọng ở sự phục hồi của chế độ
phong kiến. Tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Dữ là tư tưởng Nho gia. Ông phơi bày những
cái xấu xa của xã hội là để cổ vũ thuần phong mỹ tục xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ
phong kiến, phủ định triều đại mục nát đương thời để khẳng định một vương triều lý
tưởng trong tương lai, lên án bọn "bá giả" để đề cao đạo "thuần vương", phê phán bọn
vua quan tàn bạo để ca ngợi thánh quân hiền thần, trừng phạt bọn người gian ác, xiểm
nịnh, dâm tà, để biểu dương những gương tiết nghĩa, nhân hậu, thủy chung.
Tuy nhiên Truyền kỳ mạn lục không phải chỉ thể hiện tư tưởng nhà nho, mà còn
thể hiện sự dao động của tư tưởng ấy trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến. Nguyễn
Dữ đã có phần bảo lưu những tư tưởng phi Nho giáo khi phóng tác, truyện dân gian,
trong đó có tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo và chủ yếu là tư tưởng nhân dân. Nguyễn Dữ đã
viết truyền kỳ để ít nhiều có thể thoát ra khỏi khuôn khổ của tư tưởng chính thống đặng
thể hiện một cách sinh động hiện thực cuộc sống với nhiều yếu tố hoang đường, kỳ lạ.
Ông mượn thuyết pháp của Phật, Đạo, v.v. để lý giải một cách rộng rãi những vấn đề đặt
ra trong cuộc sống với những quan niệm nhân quả, báo ứng, nghiệp chướng, luân hồi;
ông cũng đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng nhân dân khi miêu tả cảnh cùng cực, đói khổ,
khi thể hiện đạo đức, nguyện vọng của nhân dân, khi làm nổi bật sự đối kháng giai cấp
trong xã hội. Cũng chính vì ít nhiều không bị gò bó trong khuôn khổ khắt khe của hệ ý
thức phong kiến và muốn dành cho tư tưởng và tình cảm của mình một phạm vi rộng rãi,
ông hay viết về tình yêu nam nữ. Có những truyện ca ngợi tình yêu lành mạnh, chung
thủy sắt son, thể hiện nhu cầu tình cảm của các tầng lớp bình dân. Có những truyện yêu
đương bất chính, tuy vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo nhưng lại phản ánh lối sống đồi bại
của nho sĩ trụy lạc, lái buôn hãnh tiến. Nguyễn Dữ cũng rất táo bạo và phóng túng khi
viết về những mối tình si mê, đắm đuối, sắc dục, thể hiện sự nhượng bộ của tư tưởng nhà
nho trước lối sống thị dân ngày càng phổ biến ở một số đô thị đương thời. Tuy vậy, quan
điểm chủ đạo của Nguyễn Dữ vẫn là bảo vệ lễ giáo, nên ý nghĩa tiến bộ toát ra từ hình
64
tượng nhân vật thường mâu thuẫn với lý lẽ bảo thủ trong lời bình. Mâu thuẫn này phản
ánh mâu thuẫn trong tư tưởng, tình cảm tác giả, phản ánh sự rạn nứt của ý thức hệ phong
kiến trong tầng lớp nho sĩ trước nhu cầu và lối sống mới của xã hội.
Truyền kỳ mạn lục có giá trị hiện thực vì nó phơi bày những tệ lậu của chế độ
phong kiến và có giá trị nhân đạo vì nó đề cao phẩm giá con người, tỏ niềm thông cảm
với nỗi khổ đau và niềm mơ ước của nhân dân. Truyền kỳ mạn lục còn là tập truyện có
nhiều thành tựu nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện, dựng nhân vật. Nó vượt
xa những truyện ký lịch sử vốn ít chú trọng đến tính cách và cuộc sống riêng của nhân
vật, và cũng vượt xa truyện cổ dân gian thường ít đi sâu vào nội tâm nhân vật. Tác phẩm
kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch,
giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời
văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Truyền kỳ mạn lục là mẫu mực
của thể truyền kỳ, là "thiên cổ kỳ bút", là "áng văn hay của bậc đại gia", tiêu biểu cho
những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh hưởng của sáng tác
dân gian.
III. VÀI NÉT VỀ NGHỆ THUẬT
- Truyền kỳ mạn lúc đánh dấu một thành công mới của thể loại văn xuôi tự sự bằng chữ
Hán.
- Một số truyện ngắn có chất lượng nghệ thuật cao nhờ kết cấu tình tiết phức tạp và các
nhân vật được xây dựng khá công phu, có đời sống, tính cách, số phận riêng
- Cách miêu tả những nhân vật phản diện khá thành công .
- Ngôn ngữ chính xác, cô đọng,các biện pháp nghệ thuật được sử dụng khá nhuần
nhuyễn.
Về người thiếu phụ ở Nam Xương
--- Hoàng Tiến Tựu ---
I
Truyện được kể thật giản dị, tự nhiên và hấp dẫn. Khác với nhiều truyện cổ tích khác,
truyện này hoàn toàn không có yếu tố siêu nhiên, kỳ ảo; không hề có nhân vật thần, tiên,
ma, quái. Tất cả chỉ có ba nhân vật; hai vợ chồng và một đứa trẻ lên ba. Mỗi người đều
rất tốt nhưng cả ba đều đau khổ. Đó là đau khổ của sự hiểu lầm và do sự hiểu lầm mà có.
65
Sự hiểu lầm này, tưởng là nhỏ nhưng rất lớn, tưởng là đơn giản nhưng rất phức tạp. Cho
nên nó đã diễn biến, phát triển thành bi kịch, với cái chết của người vợ và sự mất mát đau
khổ lớn của cả gia đình.
Truyện không hề nói đến một nhân vật hay một tác nhân bên ngoài nào cả. Vậy có thể
quy kết trách nhiệm, phê phán vào ai trong ba nhân vật ấy hay không?
Có người cho rằng, trong truyện này, người vợ rất mực thủy chung với chồng nhưng lại
bị nghi oan là thất tiết, thanh minh bằng lời không được phải dùng cái chết để làm cho rõ.
Tình cảm này thật đáng thương và không có gì đáng trách. Còn đứa trẻ thì ngây thơ, tin
theo lời mẹ và nói lại với cha như lời mẹ nói, làm sao có thể trách cứ phê phán nó được?
Chỉ có người chồng là đáng bàn và đáng trách. Bởi vì, anh đã không tin vợ, không hiểu
vợ mà lại nghe theo lời con trẻ nghi oan cho vợ.
Tương truyền, Lê Thánh Tông có lần đi qua miếu "Vợ chàng Trương" cũng đã làm thơ và
có những câu nói về chàng Trương rất gần với ý kiến nhận xét trên đây (1).
Ý kiến nhận xét trên đây chỉ đúng một phần. Không thể quy trách nhiệm tất cả cho người
chồng và phê phán phiến diện một chiều được. Tục ngữ đã nói: "Đi hỏi già về nhà hỏi
trẻ", người chồng không thể không lắng nghe và suy nghĩ về lời nói của đứa con. Đứa
con chẳng những không theo anh, không cho anh bế mà còn nói rất rõ ràng, rành mạch
rằng: "Bố đến tối mới đến kia!" và: "Tối nào bố cũng đến, mẹ đi đâu bố đi đấy, mẹ đứng
bố cũng đứng, mẹ ngồi bố cũng ngồị..". Thử hỏi, có người đàn ông nào, yêu vợ và xa nhà
lâu ngày khi trở về nghe con nói như vậy mà có thể yên tâm, bình tĩnh, không suy nghĩ,
băn khoăn và đau khổ được hay không?
Không nên và không thể phê phán đứa trẻ, vì nó ngây thơ, hồn nhiên và thành thực nói
theo lời mẹ. Nhưng không phê phán đứa trẻ, không có nghĩa là bỏ qua lời nói của nó. Bỏ
qua lời nói đã trở thành đầu mối trực tiếp dẫn đến sự hiểu lầm của người chồng thì làm
sao giải đúng nổi bài toán cuộc đời rất hóc búa và nan giải này.
Hậu quả của câu nói hồn nhiên, ngây thơ và thành thực của đứa trẻ thật là khủng khiếp và
phức tạp, nhưng nguyên nhân của nó lại vô cùng giản đơn và dễ hiểu. Bởi vì đứa trẻ đã
tin theo và nói đúng theo lời mẹ nó. Trong thời gian bố nó vắng nhà, mẹ nó đã chỉ vào cái
bóng của mình trên vách mà nói với nó như thế biết bao lần và nó đã tin như vậy. Cho
nên đối với đứa trẻ bố là cái bóng của mẹ và chỉ là cái bóng của mẹ nó mà thôi. Đó là
định nghĩa đầu tiên về từ "bố" mà người mẹ thân yêu đã dạy cho nó; nó đã nhập tâm và
nhớ mãi. Và như thế là, trong truyện này, tuy có ba người nhưng lại hóa thành bốn nhân
vật vì đã xuất hiện thêm "cái bóng" của người vợ nữa.66
Cái bóng là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo, đạt tới sự hoàn chỉnh và hài hòa của
chân, thiện, mỹ. Tuy không phải là người và không tồn tại độc lập, nhưng nó (cái bóng)
thực sự là một nhân vật có vai trò quan trọng đặc biệt ở trong truyện cổ tích mang tính bi
kịch này. Nó vừa là người vợ (vì nó vốn là cái bóng đích thực của người vợ), vừa là
người chồng, tức là người cha của đứa trẻ (trong lời nói của người vợ với đứa con và
trong ý niệm, niềm tin của đứa trẻ). Và đồng thời, nó (cái bóng) còn được coi là tình nhân
của người vợ trong thời gian người chồng xa cách (trong sự nghi ngờ, băn khoăn suy
nghĩ của người chồng). Có thể nói cái bóng là sự tập trung, khái quát hóa và hình tượng
hóa những sự hiểu lầm, ngộ nhận vô tình hay hữu ý của cả ba nhân vật ở trong truyện. Do
đó mà nội dung, ý nghĩa và tác dụng của hình tượng cái bóng ở đây rất phong phú, phức
tạp. Nó có quan hệ mật thiết với chủ đề, nội dung nghệ thuật của tác phẩm và với tất cả
các nhân vật trong truyện.
II
Cái bóng giống như một ẩn số và muốn tìm ra được ẩn số này cần phải đi sâu vào mối
quan hệ cụ thể giữa nó (cái bóng) với từng nhân vật trong truyện.
Đối với người vợ, cái bóng vừa là thực, vừa là ảo. Thực, bởi vì nó chính là cái bóng của
nàng và nàng hoàn toàn biết rõ điều đó. Ảo, bởi vì nàng đã chỉ vào bóng của mình mà nói
với con là "bố" của nó. Đó là một sự nói dối hoàn toàn chủ động và tự nguyện, một sự
nói dối đầy thiện chí và yêu thương (đối với con và cả với chồng). Việc nói dối con của
người vợ chủ yếu mang tính chất nói đùa (để cho con đỡ nhớ, đỡ mong, đỡ hỏi), nhưng
đồng thời cũng phản ánh sự thiết tha nhớ chồng, sự khát khao đoàn tụ gia đình của người
vợ. Và như thế nghĩa là, cái bóng là "ảo" đồng thời cũng là "mộng" nữa.
Còn đối với đứa trẻ thì "cái bóng" chỉ có một nội dung duy nhất là "bố" của nó, chứ hoàn
toàn không có nội dung nào khác nữa. Bởi vì, khi đứa trẻ ra đời thì bố nó đã đi xa, nó
hoàn toàn chưa biết "bố thực", chỉ biết "bố giả" qua cái bóng của mẹ mà thôi. Vì tin "bố
giả" là thực cho nên khi "bố thực" trở về, đứa trẻ đã không tin và không nhận; đó là điều
rất tự nhiên và dễ hiểu, mặc dầu sự thật không phải như vậy.
Nhưng điều đó cũng chẳng có ý nghĩa nếu đứa con đã khôn lớn trưởng thành hoặc ngược
lại, nó còn bé bỏng, chưa thể nói năng rành rọt được.
Khi mãn hạn lính trở về, người chồng đáng lẽ được sống trong niềm vui và hạnh phúc
của tình vợ chồng và cha con sau những tháng năm xa cách. Nhưng do sự hiểu lầm, anh
đã phải liên tiếp sống trong sự buồn phiền và đau khổ. Ngay từ lúc mới trở về nhà, anh đã
bị hẫng và mất vui, vì gọi con, con bỏ chạy, không cho anh bế và không nhận anh là bố!
67
Sau đó đứa trẻ đã tiếp tục nói cho anh biết về người "bố" khác của nó. Và thế là niềm vui
chưa có thì nỗi buồn và sự đau khổ lớn đã ập đến với anh. Sự nghi ngờ và ghen tuông của
anh không phải là tự nhiên, vô cớ. Lời nói của đứa trẻ, chẳng những có thể làm cho anh
đau khổ vì nghi rằng vợ anh đã có người tình trong thời gian anh xa cách.
Những ý nghĩ ấy đã dày vò, hành hạ anh khiến anh đau khổ, khi từ nhà hàng xóm trở về,
vợ anh đã nhảy xuống sông tự tử. Anh trở về mò tìm xác vợ nhưng không thấy và chăm
sóc đứa trẻ, mặc dầu lúc này anh cũng chưa biết rõ sự thật và đứa trẻ vẫn không nhận anh
là bố.
Người vợ chết làm cho đứa trẻ mất luôn cả "bố", người "bố" mà mẹ nó đã chỉ cho nó biết
từ lâu qua cái bóng của mình. Sự mất mát đối với đứa trẻ thật là to lớn. Cho nên nó "luôn
luôn đòi mẹ và khóc suốt ngày, dỗ dành thế nào cũng không được" (như các dị bản khác
nhau của truyện này đều đã nói tương tự). Đến khi nhìn thấy cái bóng của bố trên vách,
đứa trẻ mới nín và gọi "bố", đồng thời người bố mới vỡ nhẽ và hiểu ra sự thật. Nhưng đã
quá muộn, anh chỉ có thể hối hận và đau khổ mà thôi!
Thế là vợ anh rất mực yêu anh, cái người mà con anh gọi là "bố" chính là cái bóng của vợ
anh trước đây (cũng như cái bóng của anh bây giờ vậy). Anh thanh toán được sự dày vò,
nghi ngờ về lòng chung thủy của vợ, nhưng lại phải chịu đựng một sự dày vò, đau khổ
mới lớn hơn, vì vợ anh đã chết, anh đã nghi oan cho vợ. Anh không thể chết theo vợ vì
còn đứa trẻ. Anh phải đau khổ và hối hận suốt đời.
----------------
(1)
Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương
Ngọn đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ.
Cung nước chi cho lụy tới nàng.
Chứng quả đã đổi vầng nhật nguyệt.
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng
Qua đây, mới biết nguồn cơn ấy.
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng.
68
Chương 6
CHINH PHỤ NGÂM
I. TÁC GIẢ VÀ DỊCH GIẢ
1.Tác giả
Tiểu sử của tác giả cho đến nay biết được còn rất ít. Kể cả năm sinh năm mất
cũng không biết chính xác. Các nhà nghiên cứu ước đoán ông sinh vào khoảng năm
1710-1720, mất khoảng 1745.
- Quê hương: Làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, phía tây kinh thành Thăng Long,
nay thuộc quận Đống Đa Hà Nội.
Thuở nhỏ ông học rất chăm, vì kinh thành cấm lửa ngặt nghèo nên ông phải đào hố đốt
đèn dưới đất để học. Ông thi đậu Hương cống nhưng hỏng kì thi Hội, sau đó có làm quan
nhưng chức quan không lớn. (ông từng làm huấn đạo trường phủ., làm tri huyện Thanh
Oai, cuối cùng làm chức Ngự sử đài chiếu khám).
- Về sáng tác: Chinh phụ ngâm là tác phẩm tiêu biểu nhất, ngoài ra ông có một số
bài thơ, bài phú tả cảnh thiên nhiên như: Trương lương bố y (Trương Lương áo vải);
Khấu môn thanh (tiếng gõ cửa)… Nhìn chung khuynh hướng của thơ văn ông là đi sâu
vào tình cảm, đi sâu vào nỗi lòng trắc ẩn, phức tạp, sâu kín của con người, nhất là đối với
người phụ nữ.
2. Dịch giả
- Chinh phụ ngâm ra đời đã gây một tiếng vang lớn trong giới nho sĩ đương thời.
Người ta chú ý đến tác phẩm này không phải chỉ vì nghệ thuật điêu luyện của nó mà
trước hết là vì tác phẩm đã thể hiện một khuynh hướng mới của văn học-khuynh hướng
hướng tới cuộc sống của con người. Tác phẩm viết bằng chữ Hán giữa thời đại văn học
Nôm đang nở rộ cho nên nhiều người đã tìm cách dịch nó ra chữ Nôm. Có nhiều bản dịch
và phỏng dịch của Ðoàn Thị Ðiểm, Nguyễn Khản, Bạch Liên Am Nguyễn, Phan Huy Ích.
Trong số có những bản dịch đó, có một bản dịch thành công nhất được gọi là Bài hiện
hành (bản đang được lưu hành). Vấn đề đặt ra là ai là tác giả của bản dịch này? Hiện nay
vẫn tồn tại hai khuynh hướng:
- Khuynh hướng thứ nhất cho rằng tác giả của bản dịch này là nữ sĩ Ðoàn Thị Ðiểm.
- Khuynh hướng thứ hai cho rằng tác giả của bản dịch này là Phan Huy Ích.
Hiện nay những người biên soạn sách giáo khoa PTTH vẫn theo khuynh hướng
thứ nhất, tức xem Đoàn Thị Điểm là dịch giả của Chinh Phụ Ngâm. Học giả Nguyễn
69
Quảng Tuân viết: "Sự truyền tụng đã trải qua nhiều đời nên đã trở thành một niềm tin
chung và cũng là niềm tự hào cho nữ giới vì có được một bậc văn taì như vậy.
+ Ðề tài chiến tranh, chinh phu, chinh phụ là đề tài truyền thống và phổ quát
của nhiều nền văn học.
- Trong văn học Việt Nam, tiếng nói oán trách chiến tranh đã vang lên từ những câu ca
dao trữ tình đầy oán hận. Từ thế kỷ XV, nhà thơ Thái Thuận cũng đã từng đặt bút với đề
tài này (Bài thơ Chinh phụ ngâm). Thế kỷ XVII, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã từng viết
về đề tài này.
- Trong văn học Trung Quốc, văn học đời Hán đã để lại những bài thơ nổi tiếng về thảm
họa chiến tranh. Ðặc biệt đến đời Ðường đã xuất hiện những nhà thơ chuyên khai thác đề
tài này: Sầm Tham, Vương Xương Linh.
+ Cảm hứng của tác giả và dịch giả.
Tác giả và dịch giả Chinh phụ ngâm có phần đã tìm nguồn thi hứng từ những trang sách
cổ. Nhưng cái chính là nguồn cảm hứng của cả hai đều bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống
+ Thể loại
Chinh phụ ngâm là tác phẩm trữ tình, tác phẩm chỉ có một nhân vật - người chinh
phụ - hình tượng cảm nghĩ. Toàn bộ khúc ngâm chỉ là sự diễn tả tâm trạng của người
chinh phụ, Tác phẩm được viết theo lối tập cổ, dài 483 câu, viết bằng chữ Hán, thể
trường đoản cú. Câu dài đến 12, 13 chữ, câu ngắn 3, 4 chữ. Hiện tại có 7 bản dịch theo
thể song thất lục bát.
+ Bút pháp
Tác phẩm được viết với bút pháp tượng trưng, ước lệ là chủ yếu. Khi phân tích
phải đặc biệt chú ý đặc điểm này.
+ Bố cục
- Phần 1:Bốn câu đầu, phần này có giá trị như phần đặt vấn đề.
- Phần 2: Tiếp đến câu 369 (Mọi bề trung hiếu thiếp xin vẹn tròn) đây là phần chính của
khúc ngâm miêu tả tâm trạng của người chinh phụ với nhiều sắc thái khác nhau.
- Phần3: Phần kết thúc tác phẩm với ước mơ sum họp trong cảnh thanh bình.
IV. NỘI DUNG
4.1. Hình ảnh người chinh phu qua hồi ức trong buổi chia tay của người chinh phụ.
- Mâu thuẫn cơ bản đạt ra trong suốt tác phẩm là mâu thuẫn giữa phép công và
niềm tư, mở đầu tác phẩm mối mâu thuẫn này cũng đã xuất hiện. Ðôi vợ chồng trẻ này 70
đang sống trong hạnh phúc, yên ổn thì chiến tranh xảy ra. Vì tình thế khẩn trương, vì ý
thức về nghĩa vụ, vì danh dự của trang nam nhi hào kiệt và đây cũng là dịp lập công
danh, đem vinh hiển về cho gia đình, người chinh phu đã "xếp bút nghiên theo việc đao
cung". Người chinh phụ sẽ nói gì cho thực tế tàn nhẫn này. Bên cạnh nỗi buồn, nỗi lưu
luyến, sầu muộn chinh phụ cũng đã khẳng khái nói:
"Phép công là trọng, niềm tây sá nào"
Trong mắt người chinh phụ, người chinh phu thật đẹp vô cùng. Nàng đã ca ngợi chí khí,
hành động của chinh phu:
"Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung
Thành liền mong tiến bệ rồng
Thước gươm thề quyết chẳng dung giặc trời.
Nàng thấy hình ảnh của người chồng rực rỡ, uy nghi như một trang dũng tướng giữa đoàn
quân:
"Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in".
Nhìn chung hình ảnh người chinh phu hiện lên thật oai phong lẫm liệt. Chàng xuất
hiện như một chàng dũng sĩ có sức mạnh xoay chuyển thời thế. Chàng từ giả vợ con lên
đường để đi thực hiện lí tưởng của chí làm trai thời loạn, đi đòi lại những phần đất đã bị
mất của nhà vua và sẵn sàng hy sinh, xem cái chết nhẹ tựa hồng mao.
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.
Giã nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu".
Tuy nhiên đây chỉ là những hình ảnh trong tưởng tượng, nó khác xa với hình ảnh
thực, con người thực của giai cấp phong kiến lúc bấy giờ. Đây chỉ là ảo tưởng của nhà
thơ về người anh hùng của gia cấp mình - một giai cấp mà thời kì vinh quang đã lìu sâu
vào dĩ vảng. Nhà thơ càng tô điểm cho hình ảnh đó bao nhiêu thì nó càng lố bịch bấy
nhiêu, Dù có mặc áo gấm hay chiến bào thì nó vẫn chỉ là con bù nhìn không hơn không
kém.
71
Người ta gặp một chinh phu bịn rịn, lưu luyến chia tay. Cái dũng khí dặm nghìn da
ngựa ban đầu tan biến đâu mất, thay vào đó là:
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Khói Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy tràng.
Rõ ràng luận điệu phép công làm trọng ban đầu chỉ là bịa đặt. Sự bịn rịn không chỉ
ở người vợ mà thể hiện ra ở chàng chinh phu đến mức người chinh phụ phải hoài nghi.
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai
4.2. Sự thật về chiến tranh
+ Cảnh chiến trường hiện lên thật đen tối. Ở đây không hề có tiếng ngựa hí, tiếng
quân reo, hay tiếng va chạm của vũ khí mà chỉ có một luồng tử khí lạnh lẽo bao trùm.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi theo
+ Trong cảnh chiến trường đen tối ấy, chinh phụ cũng đã hình dung ra cuộc sống và
vận mệnh của chinh phu. Cuộc sống của chàng thật gian lao, vất vả:
Ôm yên gối trống đã chồn
Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh
Rồi hành quân di chuyển tưởng như không bao giờ chấm dứt:
Nay Hán xuống, Bạch Thành đóng lại
Mai Hồ vào, Thanh Hải dòm qua
+ Giữa hoàn cảnh hiểm nghèo, gian lao ấy chinh phu không còn giữ được khí thế
hào hùng của buổi đầu xuất quân. Chàng trở nên mệt mỏi, bạc nhược trước cuộc sống
chiến tranh:
Hơi gió lạnh người rầu mặt dạn
Dòng nước sâu ngựa nản chân bon
Não người áo giáp bấy lâu
Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây
+ Nàng như đã nhìn thấy kết cục bi thảm của chồng mình ở chốn đạn lạc, tên rơi:
Chinh phu tử sĩ mấy người
72
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn?
hoặc Phận trai già ruổi chiến trường
Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về
+ Đối với người chồng đi chiến đấu, chiến tranh là chết chóc thì với người vợ, chiến
tranh nlà sự phá vỡ cuộc sống ấm êm gia đình, là cô đơn, sầu muộn: Chiến tranh phong
kiến không có chỗ nào dung hợp với con người, chiến tranh phong kiến là đối lập với
cuộc sống con người.
Mở đầu tác phẩm, tác giả viết:
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng lắm nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này
Nhưng câu hỏi vì ai không phải là không có lời đáp, mà tác giả ý thức đầy đủ về
cuộc chiến và nguyên nhân cuộc chiến tranh. Thực chất của cuộc chiến tranh này là mộ
cuộc chiến tranh phi nghĩa. Thủ phạm cuộc chiến do tập đoàn phong kiến phản động để
chống lại quần chúng nhân dân bị áp bức. Trong quan niệm của nhà thơ những con
người tham gia vào cuộc chiến tranh là những con người đi vào cõi chết. Quan niệm này
thực chất là một cách phản đối chiến tranh và tố cáo chiến tranh phi nghĩa đã làm cho
cuộc sống của con người điêu đứng.
4.3. Nỗi lòng người chinh phụ
Sau buổi tiển đưa đầy bịn rịn:
"Ðưa chàng lòng dặc dặc buồn
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền".
"Bóng cờ, tiếng trống xa xa
Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng"
Nàng trở về với căn phòng cô lẻ của mình
- Bằng đôi cánh của trí tưởng tượng nàng đã phóng tầm mắt ra chiến trường để theo
dõi cuộc sống, vận mệnh của chinh phu nơi chiến địa.
- Sau khi trải qua những giây phút lo âu cho cuộc sống và vận mệnh của chồng nơi
chiến địa chinh phụ trở lại với thực tại của mình. Giờ đây cuộc sống đơn chiếc, lẻ loi gợi
lên trong tâm trí nàng bao nhiêu câu hỏi về nguyên nhân của sự xa cách:
73
Trong cửa này đã đành phận thiếp
Ngoài mây kia há kiếp chàng vay,
Những mong cá nước sum vầy.
Bao ngờ đôi ngả nước mây cách vời
Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ,
Chàng há từng học lũ vương tôn
Cớ sao cách trở nước non
Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu
Khách phong lưu đương chừng niên thiếu
Sánh cùng nhau dan díu chữ duyên
Nỡ nào đôi lứa thiếu niên
Quan sơn để cách, hàn huyên bao đành
Ở đây cái nhận thức đầu tiên rõ rệt nhất của chinh phụ là cuộc sống hạnh phúc của
vợ chồng nàng bị phá vỡ, hai người phải chia lìa đôi ngả là hết sức vô lí, là không thể
chấp nhận được.
Có thể nói Chinh phụ ngâm là lời than thở bi đát về cuộc sống lẻ loi của người phụ
nữ. Chính chiến tranh đã gây nên điều đó, là làm nên cái phi lí không chấp nhận được.
Ðau khổ vì biệt li, vì chờ đợi, vì thất vọng đã làm cho nàng như khô héo thêm.
Chiến tranh đã làm tàn phai nhan sắc, làm héo hon tấm lòng người vợ trẻ trông chồng. Sự
đối lập giữa con người và chiến tranh càng trở nên mạnh mẽ.
Trâm cài, xiêm giắt thẹn thùng
Lệch vòng tóc rối, lỏng vòng lưng eo.
Nỗi sầu muộn như ngày càng chồng chất thêm trong lòng chinh phụ, nó như một
sức mạnh vật chất đè nặng lên cuộc sống của nàng:
Sầu ôm nặng hãy chồng làm gối
Muộn chứa đầy hãy thổi làm cơm
Nỗi buồn nhớ mong chồng khiến nàng biếng trang điểm, không thiết làm việc.
Nàng uống rượu, ngắm hoa để giải buồn, nhưng buôn quá, rượu và hoa không giải được.
Cuối cùng nàng phải tìm đến mộng để gặp chồng.
Tìm chàng thuở Dương Đài lối cũ
Gặp chàng nơi tương phố bến xưa74
Nhưng mộng thì ngắn ngủi và làm cho con người thêm tiếc nhớ mà thôi.
Khi mơ những tiếc khi tàn
Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không
Dương như nỗi nhớ chỉ đầy thêm mà không hề vơi bớt dù nàng đã làm đủ mọi
cách, nàng bế tắc đến tuyệt vọng:
Lòng này hoá đá cũng nên
E không lệ ngọc mà lên trong lầu
Trong tột cùng đau khổ ấy, nàng nhận ra:
Lúc ngoảnh lại ngắm màu Dương liễu
Thà khuyên chàng đừng chịu tướng phong
Ở đây sự nhận thức của người chinh phụ đã chuyển sang tự giác một cách đúng
đắn. Đối lập với giấc mộng công hầu và ảo tưởng về chiến tranh ban đầu.
Nhưng nổi lo lớn nhất của chinh phụ vẫn lo mình già đi vì cuộc chiến.
Kìa Văn Quân mỹ miều ngày trước,
E đến khi đầu bạc mà thương.
Mặt hoa nọ gã Phan lang
sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng
Nghĩ nhan sắc đương chững hoa nở
Tiếc quang âm lẫn lữa gieo qua
Nghĩ mệnh bac, tiếc niên hoa
Gái tơ mấy lúc nghĩ ra nạ dòng
Thực chất của nỗi lo lắng sợ hãi ấy là thái độ tham sống và ý thức về giá trị của
cuộc sống lứa đôi.
Có lẽ đoạn hay nhất trong Chinh phụ ngâm vẫn là đoạn tả về nỗi nhớ nhung sầu
muộn của người chinh phụ, (từ câu 209-228).
1. Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ nhung đằng dẳng đường lên bằng trời.
75
Khổ thơ là một niềm mong ước cháy bỏng. Lòng này, như một lời khẳng định về sự triền
miên của nỗi nhớ trải qua nhiều đợi chờ. Gió đông là gió mùa xuân. Mùa xuân làm cho
con người dậy lên những khát vọng yêu đương. Non Yên là cách nói ước lệ về nơi chiến
trường xa xôi xương trắng chất thành núi. Nỗi nhớ được đẩy lên cao điểm khi nhớ chàng
đằng đẳng đường lên bằng trời. Nhớ đằng đẳng là nhớ lâu, nhớ mãi, nhớ không bao giừo
nguôi ngoai. Câu thoe vừa diễn tả nỗi nhớ như đè nặng trong tâm tư đồng thời có độ dài
triền miên không dứt.
2. Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.
Sau khi hỏi gió đông không đặng, nàng bèn hỏi trời, nhưng Trời thăm thẳm xa vời khôn
thấu. Trời làm sao hiểu hết và hiểu được nỗi nhớ chồng của người vợ trẻ. Nỗi nhớ bây
giờ là đau đáu, nghĩa là vừa lo lắng, vừa áy náy day dứt khôn nguôi. Bản dịch lđã rất
thành công khi miêu tả cung bậc phát triển của tâm trạng người chinh phụ.
3. Sương như búa bổ mòn gốc liễu,
Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô.
Giọt sương phủ bụi chim gù,
Sân tường kêu vẳng, sân chùa nên khơi.
Đây là cảnh một ngày đông tàn. Hình ảnh cây liễu và ngô đồng là một hình ảnh ẩn dụ gợi
lên dáng vẻ của một goá phụ đang run rẩy giữa chiều đông giá rét. Cần biết bao một vòng
tay sưởi ấm?! Tiếng chim gù như càng trêu người khi chúng vừa quấn quýt bên nhau vừa
báo hiệu một mùa xuân nữa lại về. Lòng lại càng thiết tha lòng lại càng tái tê lòng.
4. Vài tiếng dê, nguyệt soi trước ốc,
Một hàng tiêu, gió thốc ngoài hiên,
Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
5. Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông,
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa đướ nguyệt trong lòng xiết đâu…
76
Đoạn thơ tả cảnh thiên nhiên với một mùa xuân đẹp. Trăng, hoa nương vào nhau, lồng
vào nhau càng thêm đẹp. Nhìn cảnh Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng làm sao không
chệnh lòng cho được. Nỗi khát khao yêu đương lại trỗi dậy. Nàng còn rất trẻ, khát khao
ân ái tuy âm thầm nhưng mãnh liệt vô cùng. Ngoài kia hoa thắm từng bông, nguyệt lồng
hoa nhưng ngoảnh lại mình vẫn chăn đơn gối chiếc. Bức tranh thiên nhiên tuy đẹp nhưng
vẫn gợi lên sự lãnh lẽo thê lương. Đây chính là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình rất điêu luyện
mà tác giả đã tinh tế thể hiện tâm trạng nhân vật.
Với nghệ thuật ẩn dụ và bút pháp ước lệ, đoạn thơ đã cho thấy tài năng miêu tả tâm
trạng nhân vật một cách tinh tế và niềm cảm thông sâu sắc của tác giả về khát vọng hạnh
phúc của người chinh phụ.
4.2. Giá trị của tác phẩm.
4.2.1. Tố cáo tội ác chiến tranh
Tác phẩm đề cập đến cuộc chiến tranh phi nghĩa do Lê-Trịnh phát động nhằm đàn
áp phong trào khởi nghĩa nông dân lúc bấy giờ. Nhà thơ tố cáo cuyộc chiến này từ hai
phía: đối vời người chinh phu kra đi, chiến tranh là chết chốc, tàn lụi (Hồn sĩ tử gió ù ù
thổi/ Mặt chinh phu trăng dõi dõi theo) còn đối với người chinh phụ, chiến tranh là cô
đơn, sầu muộn (Trâm cài xiêm gi thẹn thùng/ Lệch làn tốc rối, lỏng vòng lưng eo). Chiến
tranh là phi nghĩa, là vô nhân đạo với con người. Dù nhìn từ góc nhìn nào đi chăng nữa
thì tội ác của chiến mtranh gây ra cho con người vẫn đầt rẫy những đau thương không gì
bù đắp được.
- Trong quá trình diễn biến tâm trạng của chinh phụ ta thấy có quá trình vận động,
phát triển tuy rất chậm chạp khó thấy. Ðôi với cuộc chiến tranh mà chồng nàng tham gia,
chinh phụ có một thái độ mâu thuẫn - vừa tán thành, vừa oán trách. Nhưng xét trong toàn
bộ khúc ngâm, chúng ta thấy phần chủ yếu của tác phẩm không dành cho việc miêu tả
thái độ tán thành mà chủ yếu tập trung vào miêu tả thái độ chán ghét chiến tranh.
- Về chất lượng, phần tả cảnh tươi sáng của cuộc chiến không phải không thành
công nhưng phần có sức rung cảm người đọc mạnh mẽ nhất vần là phần miêu tả nỗi sầu
muộn của người chinh phụ. Phần tả cảnh chiến trường đen tối đã thật sự gây một ấn
tượng bi thảm rất nặng nề trong lòng người đọc. Vì thế, mặc dù khúc ngâm kết thúc trong
cảnh tưng bừng của chiến thắng thì âm hưởng của toàn bộ khúc ngâm vẫn là âm hưởng bi
ai, sầu oán. Khuynh hướng chính toát ra từ hình tượng của tác phẩm vẫn là khuynh
hướng oán ghét chiến tranh phi nghĩa phong kiến. Tuy nhiên tiếng nói phản chiến ở
đây sẽ có những hạn chế nhất định. Nhưng tác phẩm đã thể hiện được tấm lòng, tư tưởng, 77
tình cảm của nhân dân ta trong một thời đại. Vì vậy về cơ bản tác phẩm vẫn chứa đựng
một giá trị tiến bộ.
Có thể nói Chinh phụ ngâm là tác phẩm tố cáo chiến tranh phong kiến một cách
chân thành và sâu sắc nhất, rung động và đi vào lòng người nhất.
4.2.2. Giá trị nhân đạo.
Theo dõi quá trình diễn biến tâm trạng của chinh phụ chúng ta thấy sự thắng thế
của niềm tây đối với phép công là tất yếu vì nó có quá trình chuẩn bị và những diễn biến
phù hợp với tâm lí nhân vật. Vậy những nhân tố nào đã thúc đẩy sự thắng thế đó?
- Trước hết đó là lòng yêu thương chồng của chinh phụ, một tình yêu chân thành,
đằm thắm có tính chất vị tha tuy có mang màu sắc quí tộc nhưng nó cũng nằm trong
truyền thống tốt đẹp yêu chồng, thương con của người phụ nữ Việt Nam. Ðây chính là
cơ sở để nỗi lòng cuả nhân dân lao động đồng cảm với nỗi lòng của chinh phụ. Trong tác
phẩm ta thấy người chinh phụ muốn bù đắp cho những khổ sở của chồng nơi chiến
trường và có khi nàng trách chồng bằng những lời đầy yêu thương.
- Tình yêu của nàng có tính chất vị tha nhưng không khắc kỷ, yêu thương chồng
tha thiết nhưng đồng thời nàng cũng có ý thức khá sâu sắc về quyền sống, quyền hưởng
hạnh phúc của mình. Ðây chính là nhân tố quan trọng nhất thúc đẩy niềm tây chiến thắng
phép công.
Nói tóm lại chinh phụ vì yêu thương chồng mà oán ghét chiến tranh, thái độ oán
ghét đó được tăng lên bởi lòng khao khát hạnh phúc, bởi ý thức về quyền sống cá nhân.
Ghi nhận được điều này là một đóng góp độc đáo của Ðặng Trần Côn vào kho tàng văn
học cổ Việt Nam trong quá khứ khi viết về đề tài chinh phu, chinh phụ. Ðây cũng chính
là giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
3. Vài nét về nghệ thuật
- Với bút pháp tượng trưng và ước lệ, tác phẩm đã phản ánh chân thực cuộc sống
một cách chân thực, nói được vấn đề cơ bản của thời đại, tâm lí của con người thời đại.
- Tác giả đã xây dựng được một kết cấu chặt chẽ, miêu tả được sự diễn biến phong
phú, tinh vi trong tâm tình chinh phụ theo một trình tự lôgic tâm lí chặt chẽ bảo đảm sự
thống nhất. Tác giả đã gắn tâm lí với hoàn cảnh, tôn trọng quy luật tâm lí. Ðau khổ tăng
dần, nhận thức về chiến tranh cũng diễn biến. Ðây là kết quả của một quá trình suy ngẫm
và thể hiện.
78
- Tác giả đã chú ý tả cảnh để tả tình, tình cảnh có khi thống nhất hoặc mâu thuẫn.
Bên cạnh đó tác giả đã sử dụng thủ pháp trùng điệp (láy lại), liên hoàn (nối tiếp), chiếu
ứng (so sánh) để tạo ra những đợt sóng cảm xúc.
- Tác giả đã chú ý khai thác nhiều yếu tố tâm lí như liên tưởng, hồi tưởng, tưởng tượng.
- Ngôn ngữ điêu luyện: Chinh phụ ngâm có cả một kho từ vựng diễn tả tình cảm u sầu
với những sắc thái khác nhau.
Tóm lại tác giả đã miêu tả tâm trạng của chinh phụ khá sâu sắc và tâm trạng ấy
phản ánh con người Việt Nam - con người thiết tha với hạnh phúc. Vì thế tác phẩm giúp
chúng ta hiểu con người Việt Nam trong hiện tại.
4. Thành công của bản dịch.
Bản dịch được coi như là một sáng tác phẩm có giá trị độc lập tương đối với
nguyên văn. Với thể song thất lục bát cùng khả năng biểu hiện rất thành công của nguyên
tác, dịch phẩm đã đưa Tiếng Việt lên một tầm cao mới. Đó là việc sử dụng từ láy, thành
ngữ và các điển tích làm cho ngôn ngữ có khả năng miru tả và biểu cảm cao, góp phần
làm trong sáng TV.
Tuy có những hạn chế nhất định, nhưng Chinh phụ ngâm là tiếng nói khao khát
hạnh phúc, khao khát hòa bình của dân tộc ta trong một thời đại nhất định. Tiếng nói ấy
càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết vì nó là tiếng nói của một người phụ nữ- nạn nhân đau
khổ nhất của chế độ cũ. Ðương thời tác phẩm đã góp phần vào cuộc đấu tranh cho quyền
sống, quyền hưởng hạnh phúc của con người, đấu tranh chống áp bức của giai cấp thống
trị.
Ngày nay, tiếng nói thiết tha với hạnh phúc tình yêu của tác phẩm còn rất có ích
trong việc xây dựng tâm hồn cho thế hệ trẻ, đó cũng là lí do khiến cho tác phẩm được đưa
vào chương trình của phổ thông trung học.
Chương 7
CUNG OÁN NGÂM KHÚC CỦA NGUYỄN GIA THIỀU
1. Vài nét về tác giả và tác phẩm
+ Nguyễn Gia Thiều (22/3/1741 - 22/6/1798) sinh ra trong một gia đình đại quý tộc
lâu đời tại làng Liễu Ngạn, tổng Liễu Lâm, huyện Siêu Loại, phủ Thụân Thành, nay là
Huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Cha ông là Nguyễn Gia Ngô - một võ tướng cao
cấp, mẹ là quận chúa Ngọc Liên con gái An đô Vương Trịnh Cương. Nguyễn Gia thiều 79
gọi chúa Trịnh Doanh (1720-1767) bằng cậu ruột và là anh em con cô con cậu với Chúa
Trịnh Sâm.
Sinh trưởng trong một gia đình như vậy, từ nhỏ Nguyễn Gia Thiều đã dược đưa vào
trong phủ chúa để học hành. Ông nổi tiếng thông minh từ bé, hiểu biết rộng các ngành
nghệ thuật khác nhau như nhạc, hoạ, kiến trúc, trang trí…Với tài năng như vậy ông được
chúa Trịnh hết sức tin dùng. Mới 18 tuổi đã được giữ chúc Hiệu uý, quản trung mã tả đội,
sau đó được thăng lên tổng binh đồng tri, tước Ôn Như Hầu. Nhưng sau đó không lâu
ông tỏ ra chán chương với công danh, thường mượn cớ lui về nhà uống rượu giải sầu.
Đến năm 1779 ông trở lại và được thăng Đô chỉ huy sứ, đến năm 1782 được cử đi trấn
thủ ở xứ Hưng Hoá, có công dẹp loạn an dân lại đòi được phần đất châu Ninh Biên từ tay
nhà Thanh chiếm cứ.
Cho đến khi Tây Sơn kéo quân ra dẹp Trịnh, Nguyễn 1798, đại phá quân Thanh lập
nên triều đại mới, ông trốn lên vùng Hưng Hoá, thời gian này ông được nhà Tây Sơn mời
lra làm quan nhưng cáo bệnh từ chối. Ông về sống tại làng cũ Liễu Ngạn, hàng ngày
uống rượu tiêu sầu, giả câm giả dại, đến ngày 9 tháng Năm năm Mậu ngọ thì qua đời.
+ Nguyễn Gia Thiều sáng tác khá nhiều: Ôn như thi tập (viết bằng chữ Hán, hiện
nay không tìm thấy); Cung oán ngâm khúc (viết bằng chữ Nôm); Tây hồ thi tập; Tứ trai
thi tập. Tuy nhiên các sáng tác của ông còn lại hiện nay không nhiều, tác phẩm nổi tiềng
nhất là Cung oán ngâm khúc.
2. Nội dung Cung oán ngâm khúc và quan niệm nhân sinh của Nguyễn Gia Thiều
+ Trong lịch sử xã hội phong kiến, rất nhiều các vua chúa ra sức ăn chơi, hoang dâm
vô độ đã được lịch sử phản ánh khá sinh động. Để đáp ứng nhu cầu này tất yếu phải có
một số lượng lớn các cung tần mỹ nữ cho các vua chúa và tất nhiên cũng hầu hết chừng
ấy số phận con người bị vùi dập khổ đau. Lịch sử chỉ ra rằng, Đường Minh Hoàng có đến
bốn mươi ngàn cung nữ, Tần Thuỷ Hoàng hơn ba ngàn và các vua chúa Việt Nam cũng
không ngoại lệ. Họ có đến vài trăm con người chỉ để phục vụ một nhu cầu duy nhất cho
một con người.
Xuất thân từ quý tộc, lại sống trong phủ chúa từ nhỏ, Nguyễn Gia Thiều lớn lên giữa
lúc xã hội đang có nhiều biến thiên lớn lao. Ông nhìn thấy rõ tất cả những xa hoa phù
phiếm cũng như những khổ đau trong cung ngoài phủ. Đặc biệt là số phận của những
người cung nữ. Cung oán ngâm khúc là lời đã kích trực tiếp vào thói ăn chơi sa đoạ và
tính chất vô nhân đạo của chế độ cung nữ của bọn vua chúa lúc bấy giờ, đồng thời thông
80
qua số phận của những người cung nữ ông gửi gắm những tâm sự sâu kín của mình về
cuộc đời, về thời cuộc và trở trăn về số phận con người.
Trong tác phẩm của mình, nhiều lúc nhà thơ tỏ ra lo lắng, hốt hoảng về sự sụp đổ
của Lê, Trịnh nhưng mặt khác ông cũng dám nhìn thẳng vào hiện thực thối nát lúc bấy
giờ để bày tỏ thái độ không đồng tình với bọn vua chúa đương thời.
Chẳng hạn: Cờ tiên rượu thánh ai đang,
Lưu Linh, Đế Thích là làng tri âm
Ý thức về tài, kiêu căng như vậy chỉ có thể là…. Nguyễn Gia Thiều chứ không phải
là một người cung nữ được?!
Hay thái độ khinh bạc, tự kiêu về nhan sắc của mình dưới đây cũng vậy.
Bóng gương thấp thoáng trong tranh
Cỏ mây cũng muốn nối tình mây mưa
Hoặc: Dang tay muốn dứt tơ hồng / Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra là thái độ
của một người nam nhi quân tử hơn là một cung nữ chân yếu tay mềm.
Rõ ràng, nhiều lúc để bày tỏ tâm sự của mình, nhà thơ đã nói thay nhân vật, bên
cạnh đó ông cũng đã để cho nhân vật tự bộc lộ tâm sự khá thanh công.
+ Cung oán ngâm khúc được đánh giá là tác phẩm viết về cuộc đời bi đát nhất. Đó
là cuộc đời không lối thoát, đầy tăm tối. Dường như sau tất cả chẳng còn gì ngoài nắm cỏ
xanh.
Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một nắm cổ khâu xanh rì
Theo nhà thơ cái chết diễn ra ngay từ khi con người đang sống, đã chết từ khi chưa
biết sống là gì. Với Nguyễn Gia Thiều, tiếng khóc của đứa trẻ mới chào đời cũng là tiếng
khóc đưa ma cuộc đời:
Thảo nào khi mới chôn nhau,
đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra
Khóc vì nỗi thiết tha thế sự…!
81
Dường như với tác giả cuộc đời thật phù phiếm và con người trong cuộc đời chỉ là
những phù du nổi trôi không biết sẽ tan biến khi nào. Trong cái thế sự vốn nhiều bèo bọt
và đổi thay ấy con người trèo cao thì ngã đau, cứ mãi đuổi theo danh lợi, phù phiếm mà
không biết tất cả chỉ là giả dối.
Mồi phú quý dử làng xa mã,
Bả vinh hoa lừa gã công khanh
Giấc nam kha khéo bất bình
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không.
…..
Để thoát khỏi chốn đen tối của cuộc đời, chỉ có một cách là làm bạn với gió mát
trăng thanh, phải lánh xa cuộc đời tình duyên tục luỵ và tìm đến với tôn giáo:
Lấy gió mát trăng thanh làm bạn
Mượn hoa đàm đuốc huệ làm duyên
Thoát trần một gót thiên nhiên
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời
Ta có thể thấy cách nhìn nhận về cuộc đời có phần tiêu cực. Dường như những dâu
bể của cuộc đời trong giai đoạn tác giả sống đã ảnh hưởng không nhỏ đến cách nhìn nhận
cuộc đời của ông. Thực ra còn cay đắng, còn oán hận hay còn chán ghét thì vẫn còn yêu
thương. Chúng ta không tìm thấy ở Nguyễn Gia Thiều sự thanh thản ngay cả những khi
ông cáo bệnh về ở ẩn, mà hình như trong nỗi chán chương nhất lòng ông vẫn sôi sục
những nỗi niềm với cuộc đời. Nói như vậy không phải trong Nguyễn Gia thiều chỉ có
vậy, thực ra dù trong oán hờn hay yếm thế tác giả vẫn tỏ ra chân thực trong bút pháp.
Đây là một điều rất đáng quý, nó thể hiện cái nhìn khách quan về sự suy vong không gì
cứu vãn được của xã hội phong kiến lúc bấy giờ.
3. Những giá trị nghệ thuật đặc sắc của Cung oán ngâm khúc
+ Có thể thấy giá trị nhân đạo và tố cáo là hai giá trị nổi bật nhất của Cung oán
ngâm khúc. Thông qua việc khắc hoạ cuộc sống của những người cung nữ, tác giả đã nêu
lên bi kịch vền cuộc sống của những con người má phấn môi hồng này.
Cuộc sống trong cung nhìn bề ngoài rất lộng lẫy xa hoa, nó như hứa hẹn một cuộc
sống ấm êm hạnh phúc cho những con ngưzời này. Nhưng đằng sau tấm màn nhung gấm
82
lộng lẫy ấy, giấc mộng xuân cũng nhanh chóng tan tành, chỉ còn mlại cuộc sống đang
chết dần chết mòn cùng với tuổi xuân của người con gái.
Một mình đứng tủi ngồi sầu
đã than với nguyệt lại sầu với hoa.
….
Nghĩ mình lại ngán cho mình
Cái hoa đã trót treo cành biết bao
Ngày trước khi vào cung với biết bao nhiêu mơ ước về sự đổi đời, về một cuộc sống
sung sướng, thì nay chỉ toàn là lời oán than trách móc số phận bẽ bàng. Họ không chỉ
than thở, oán hận mà còn muốn kêu lên thành tiếng. Đây chính là thái độ phản kháng trực
tiếp của số phận những con người, vạch trần bản chất dâm đảng của bọn vua chúa đương
thời:
Đuốc vương giả chí công là thế
Chẳng soi cho đến khoé âm nhai
Muôn hồng nghìn tía đua tươi,
Chúa xuân nhìn hái một hai bông gần
Tóm lại, Cung oán ngâm khúc đã góp thêm một tiếng nói lên án chế độ phong kiến
bất công bạo tàn, đồng thời tác phẩm còn thể hiện quan điểm về quyền sống của con
người. Con người có quyền được yêu đương, được thoả mãn nhu cầu ái ân và hơn hết là
có quyền được làm chủ cuộc sống của mình.
+ Bút pháp nghệ thuận trong Cung oán ngâm khúc là bút pháp ước lệ tượng trưng, ngôn
ngữ có xu hướng quý tộc hoá nhưng rất chọn lọc. Tính chất đối ngẫu trong nghệ thuật
phong kiến được ông khai thác triệt để. Sự phối hợp từ ngữ, nhịp điệu khúc ngâm diễn tả
cảm hứng của chủ thể thẩm mỹ đật đến mức độ cao. Đọc Cung oán ngâm khúc người ta
cảm thấy hai dòng cảm xúc như hoà quện vào nhau. Đó là sự tái tê của người cung nữ và
sự chán chường ớn lạnh của tác giả.
Dẫu vẫn còn nhiều khen chê xung quanh tác phẩm nhưng kông thể phủ nhận mrằng,
kể từ khi ra đời, tác phẩm đã có một sức sống mãnh liệt cho tới ngày nay. Vẫn còn đó nỗi
ai oán bi thương vê số phận của những cánh hoa dập vùi, vẫn còn đó khát vọng chính
đáng về cuộc sống ái ân của con người. Đó chính là sự nhân văn, nhân bản của tác giả
vậy.
83
Chương 8
HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ.
I. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
1. Tác giả.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí là ba anh em
thuộc dòng họ Ngô Thì, người làng tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam, nay
thuộc huyện Thanh Trì Hà Nội. Ngô Thì Chí được xem là người khởi thảo viết bảy hồi
đầu. Ngô Thì Du (con của Ngô Thì Đạo, cháu gọi Ngô Thì Sĩ bằng bác ruột) và Ngô Thì
Thiến viết phần còn lại.
- Các tác giả này đều là cựu thần của nhà Lê. Bản thân Ngô Thì Chí (là con trai thứ hai
của Ngô Thì Sĩ, em ruột của Ngô Thì Nhậm) từng làm quan văn dưới thời Lê Chiêu
Thống và là người đã trung thành với vua Lê cho đến phút cuối cùng của đời mình.
- Dù là của ai đi chăng nữa thì tác phẩm vẫn thuộc dòng họ Ngô Gia Văn phái, một dòng
họ nhiều đỗ đạt và có nhiều nhà văn nổi tiếng bậc nhất Việt Nam.
2. Tác phẩm
- Hoàng Lê nhất thống chí (Truyện chí về công cuộc thống nhất nhà Hoàng Lê) thuộc thể
loại văn xuôi tự sự bằng chữ Hán. Tất cả có 17 hồi, bảy hồi chính biên và mưồi hồi tục
biên, được viết vào khoảng vài thập niên cuối thế kỷ 18 và hoàn thành vào những năm
đầu thế kỷ 19. Nội dung tác phẩm phản ánh các sự kiện lịch sử lớn nhất của xã hội phong
kiến Việt Nam vào khoảng ba mươi năm cuối thế kỷ XVIII và mấy năm đầu của thế kỷ
XIX. Cụ thể tác phẩm ghi chép các sự kiện từ khi Trịnh Sâm lên ngôi chúa, Ðặng Thị
Huệ lộng quyền cho đến khi Nguyễn Aïnh lật đổ nhà Tây Sơn lập nên triều đại nhà
Nguyễn (1768-1802).
- Cuốn sách được viết bằng chữ Hán và theo lối diễn nghĩa của tiểu thuyết chương hồi
Trung Quốc.
- Tác phẩm do nhiều người viết nhưng về nội dung và hình thức vẫn có được một sự
thống nhất bởi vì người khởi thảo cũng như người tục biên đều tuân thủ một phương
pháp: ghi chép người thực và việc thực theo một chủ đề nhất định. Và các tác giả này đều
có thái độ tôn trọng sự thật lịch sử khách quan.
84
- Cho đến nay Hoàng Lê nhất thống chí đã có tới bốn bản dịch trong đó có hai bản dịch
được coi là thành công nhất là bản dịch của Ngô Tất Tố (1942) và bản dịch của Kiều Ðức
Vân và Nguyễn Thu Hoạch (1964).
II. NỘI DUNG
1. Hiện thực lịch sử suy vong của tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh.
Mặc dù lập trường tư tưởng là lập trường tư tưởng phong kiến và với tư cách là bề
tôi trung thành của nhà Lê, momg ước cho chính quyền nhất thống về tay nhà Lê, các tác
giả Hoàng Lê nhất thống chí vẫn phải ghi nhận một sự thật lịch sử:Sự sụp đổ của tập
đoàn phong kiến thống trị Lê -Trịnh là không thể tránh khỏi.
- Tác phẩm có đến hàng trăm nhân vật và các sự kiện lớn nhỏ nhưng tất cả chỉ
xoay quanh thể hiện mấy ông vua, mấy ông chúa và các bề tôi miếu đường của chúng.
Hàng
ngày tất cả những con người này vây quanh chiêïc ngai vàng đã mục nát, ọp ẹp để tranh
giành quyền lực, địa vị. Có khi đó là cuộc tranh giành trong nội bộ nhà vua Lê hoặc trong
nội bộ nhà chúa Trịnh, có khi đó là cuộc tranh giành giữa vua Lê và chúa Trịnh.
- Ngay từ thế kỷ XVI, giai cấp phong kiến thống trị đã bộc lộ bản chất xấu xa bên
trong của mình. Nhưng có lẽ không lúc nào bằng lúc này- những ngày mạt vận, chúng
bộc lộ một cách đầy đủ nhất, sâu sắc nhất bản chất xấu xa của mình. Dưới ngòi bút miêu
tả hiện thực sắc sảo của các tác giả, bọn vua chúa, những thần tượng vốn được coi là
thiêng liêng, tôn quí thì nay chỉ còn là những con người bế tắc về trí tuệ, sa đọa về đạo
đức, cùng mòn trong đường lối chính trị.
- Vua chúa:
+ Vua Lê Hiển Tông: Ông vua đầu tiên của giai đoạn này bề ngoài có đầy đủ khí
tượng đế vương, nào là râu rồng, mũi cao, tóc hạc, mắt phượng, đi nhẹ như nước, ngồi
vững như non nhưng bốn mươi năm trên ngôi là bốn mươi năm khoanh tay rủ áo, quẩn
quanh trong một xó hoàng cung. Tiêu phí thời gian bằng cách sai các cung nữ mặc áo
trận, cầm giáo mác, chia thế ba nước: Ngụy, Thục, Ngô rồi dạy cho họ cách ngồi, đứng,
đâm, đỡ để mua vui. Ðáng sợ nhất là ở chỗ ông taý thức được thân phận bù nhìn của
mình nhưng vẫn không lấy đó làm điều sỉ nhục, trái lại vẫn vui vẻ như thường vì triết lí
sống của vua ta là: Trời sai chúa phò ta, chúa gánh cái lo, ta hưởng cái vui, mất chúa tức
cái lo lại về ta, ta còn vui nỗi gì. Y là hiện thân đầy đủ cho sự bất tài, bất lực của tập
đoàn phong kiến nhà Lê.
85
+ Vua Lê Chiêu Thống: Ðây là một tên vua bán nước cầu vinh mà lịch sử dân tộc
muôn đời lên án. Nhờ Tây Sơn mà y được lên ngôi vua. Thực tế những ngày ngồi trên
ngai vàng, y cũng chẳng làm được gì. Vì quyền lợi ích kỷ của bản thân mà y sẵn sàng bán
rẻ quyền lợi dân tộc. Nổi bật ở con người này vẫn là sự bất tài, tham lam, bạc nhược.
Ðứng trên lập trường dân tộc, tác giả đã phê phán tên vua này như sau: Nước Nam ta từ
khi có đế có vương đến nay chưa có ông vua nào đê hèn và luồn cúi như vậy . Bởi vì
tiếng là làm vua nhưng niên hiệu vẫn viết Càn Long, việc gì cũng do viên tổng đốïc họ
Tôn khác gì phụ thuộc vào Trung Quốc. Có thể nói khi bán rẻ quyền lợi dân tộc, Lê
Chiêu Thống cũng bán rẻ luôn nhân cách của mình. Những ngày cuối đời y sống ở Trung
Quốc thật là nhục nhã, cái chết mà y phải đón nhận thật xứng đáng với phần đời mà y đã
sống và làm hại dân tộc.
+ Trịnh Sâm: Tác giả giới thiệu y là một người cứng rắn, thông minh, quyết đoán,
sáng suốt, trí tuệ hơn người, có đủ tài cả văn lẫn võ. Nhưng thực tế y chỉ là một kẻ
chuyên quyền, cậy thế. Ðọc tác phẩm, chúng ta không thấy tài cán của chúa được thể
hiện ở đâu hết, chỉ thấy lúc nào chúa cũng ăn chơi trác táng, cung điện đầy ắp cung nữ để
chúa mặc ý vui chơi thỏa thích. Trịnh Sâm cũng đã trở thành đầu mối của mọi cuộc biến
loạn
trong phủ chúa với tội trạng bỏ con trưởng, lập con thứ. Y say mê Ðặng Thị Huệ mà đi
đến bỏ bê cả triều chính.
+ Trịnh Tông: Là người nối tiếp Trịnh Sâm. Nhờ đám kiêu binh mà y dành lại
được ngôi chúa và thực ra y cũng chỉ là con rối trong tay đám kiêu binh mà thôi.
- Quan lại:
+ Châu tuần xung quanh bọn vua chúa trên là những quan lớn , quan nhỏ. Tất cả
chỉ là một lũ bất tài, hám danh, tâm địa tráo trở. Có thể nói nguyên tắc sống cao nhất của
đám quan lại lúc bấy giờ là quyền lợi, là địa vị, vì những cái đó chúng sẵn sàng làm tất
cả: vu oan, tố cáo, hãm hại, chém giết, sát phạt, lẫn nhau. Và nếu cần, buôn vua bán chúa
chúng cũng không nề hà. Có nhiều kẻ đã trở thành bọn đầu cơ chính trị, nhân việc nước
trôi giạt mà mưu cầu phú quí.
+ Ðinh Tích Nhưỡng: Là một võ tướng, con nhà dòng dõi mười tám đời làm quận
công, trước y theo chúa chống vua, thấy chúa thất thế y ngã về phía vua, khi vua không
còn sức lực để tồn tại nữa thì y ngã về phía Tây Sơn và cho quân đi báo với Tây Sơn chỗ
ở của vua và xin sai quân đến bắt. Chỉ cần với một câu nói của y mà tác giả đã khái quát
được nhân cách bỉ ổi của tên võ tướng này: Vua không thương ta, ta còn cần gì vị nể nhà 86
vua nữa. Ở đây tác giả Hoàng Lê nhất thống chí đã thấy được tính chất cơ hội chủ nghĩa
hết sức bỉ ổi là nét tâm lí hết sức điển hình của bọn người này mà tập trung ngòi bút của
mình, xoáy sâu vào phê phán.
+ Nguyễn Hữu Chỉnh: con người này hiện lên trong tác phẩm như một tên gian
hùng của đời loạn. Là một con người có tài, nhưng xuất thân từ tầng lớp thương nhân nên
lúc nào y cũng mang trong mình những ý nghĩ đen tối, tham lam. Vì địa vị, quyền lợi của
mình, y sẵn sàng làm tất cả- phản chủ, giết bạn, giết người thân thích. Gió chiều nào y
xoay theo chiều đó.
- Binh lính: Từ chỗ là đội quân ưu binh, là đội quân đặc biệt đã từng là nanh vuốt
của triều đình, đến giai đoạn này chỉ còn là bọn kiêu binh. Một đội quân kiêu căng, hống
hách, tàn phá triều đình từ bên trong. Tất cả triều đình phải bó tay, ai cũng e sợ trước sức
tàn phá của bọn này.
-Trên cái đà tàn lụi đó của chế độü thì tất cả những cái được gọi là cương thường đạo lí,
nền móng của xã hội đều bị đảo lộn: Nghĩa cả vua tôi, tình thầy trò, cha con, vợ chồng,
anh em, mẹ con không còn gì là thiêng liêng nữa.
* Tóm lại, một xã hội từ vua chúa, quan lại, binh lính cho đến nền móng đều thối
nát, sụp đổ như thế thì còn sức nào đứng vững được nữa. Như thế về khách quan Hoàng
Lê nhất thống chí đã nêu được xu thế tất yếu của lịch sử: Sự sụp đổ của tập đoàn vua Lê-
chúa Trịnh là không thể tránh khỏi. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng trước hết vẫn do
bản chất xấu xa thối nát của chính giai cấp này gây nên. Và rồi chính bão tố của phong
trào nông dân khởi nghĩa đã nhanh chóng đưa chúng đến sào huyệt của mình
2. Khí thế quật khởi quyết liệt chống thù trong giặc ngoài của phong trào khởi nghĩa
Tây Sơn.
Có thể nói các tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí đã dũng cảm phản ánh phong
trào, dám ghi lại khí thế quật khởi của cuộc khởi nghĩa. Mặc dù chưa thật hiểu, chưa
miêu tả và phản ánh được một cách đúng đắn và đầy đủ về phong trào như nó vốn có
trong lịch sử, nhưng cho đến nay Hoàng Lê nhất thống chí vẫn là tác phẩm duy nhất ghi
lại được khí thế quật khởi của cuộc khởi nghĩa này.
- Thành công của tác phẩm khi phản ánh sự kiện này là ở chỗ:
+Bằng hình tượng nghệ thuật Hoàng Lê nhất thống chí đã dựng lên được hình ảnh
Nguyễn Huệ và phong trào khởi nghĩa trên một bối cảnh lịch sử rộng lớn với giai đoạn
phát triển khá dài, từ khi Tây Sơn dựng cơ dấy nghiệp, trải qua nhiều chiến công hiển
hách cho đến lúc bị bại vong. 87
+Tác phẩm đã khẳng định sức mạnh vô địch của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, khẳng
định Nguyễn Huệ như một anh hùng chân chính có nhiều công lao đối với dân tộc, đất
nước.
+ Ðặc biệt ở hồi thứ XIV của tác phẩm, các tác giả đã miêu tả cuộc hành quân,
tiến quân ra Bắc đánh tan hơn hai mươi vạn quân Thanh của nghĩa quân Tây Sơn. Hồi
thứ XIV đã được xem như một bản anh hùng ca nổi bật giữa những trang văn xám xịt
miêu tả sự khủng hoảng thối nát của tập đoàn phong kiến thống trị Lê- Trịnh. Từ chỗ là
người chứng kiến, tác giả đã nhập thân vào cuộc chiến đấu, theo sát từng trận đánh, miêu
tả thật tỉ mỉ. Ðặc biệt họ đã tập trung khắc họa Nguyễn Huệ, vua Quang Trung đã trở
thành linh hồn của cuộc chiến đấu. Ba chữ vua Quang Trung cứ trở đi trở lại như một
điệp khúc tự hào trong hồi XIV này. Chính nhiệt tình yêu nước ở các tác giả đã giúp họ
phần nào chiến thắng được định kiến giai cấp của mình. Họ không đồng tình với khởi
nghĩa Tây Sơn nhưng họ lại tán đồng, lại ca ngợi hành động chống xâm lược của nghĩa
quân.
3. Nguyên nhân thành công và hạn chế của tác phẩm
2.3.1.Nguyên nhân thành công:
Nguyên nhân chính làm nên phần thành công của tác phẩm là lập trường dân tộc và sự
tác độüng của đời sống thực tế.
2.3.2. Hạn chế của tác phẩm:
Tác phẩm có những hạn chế là tất yếu bởi vì những người cầm bút đều mang tư
tưởng chính thống phò Lê.
Các tác giả còn rơi vào duy tâm siêu hình khi đánh giá các sự kiện lịch sử. Họ cắt
nghĩa những biến cố lịch sử bằng vai trò của cá nhân và tư tưởng thiên mệnh.
III.NGHỆ THUẬT
1. Thể loại.
Cũng có thể là không nên gò ép tác phẩm thuộc thể loại nào nhưng chúng ta vẫn
phải xác định Hoàng Lê nhất thống chí là một tác phẩm thuộc thể loại kí sự lịch sử.
Khẳng định như vậy là xét về hoàn cảnh ra đời, nội dung phản ánh hiện thực và đặc trưng
kết cấu cuả tác phẩm.
2. Nghệ thuật miêu tả.
- Ðiểm đáng chú ý nhất trong Hoàng Lê nhất thống chí vẫn là nghệ thuật miêu tả.
Ðọc tác phẩm ta thấy tất cả các sự kiện lịch sử chính xác như những sự kiện trong một
88
cuốn sách sử học nhưng không phải được kể lại một cách khô khan, trần trụi mà được các
tác giả miểu tả, dựng lên thành những bức tranh cụ thể, sinh động và có ý nghĩa khái quát
hóa, có giá trị về mặt mĩ học.
- Hiện thực được phản ánh ở đây phong phú đa dạng cho nên ngòi bút miêu tả của
các tác giả cũng trở nên đa dạng, phong phú và mang nhiều sắc thái thẩm mĩ khác nhau.
Ðối với bọn vua chúa, quan lại bao giờ tác giả cũng dùng ngòi bút miêu tả có tính chất
trào phúng, khôi hài và cũng có khi châm biếm sâu cay. Khi miêu tả cảnh kiêu binh phò
Trịnh Tông lên ngôi chúa, tác giả đã dùng ngòi bút so sánh để làm nổi bật tính chất khôi
hài, trò hề trong hành động của Tông. Ðây cũng là một trong những cảnh có ý nghĩa
trong tác phẩm.
- Ngòi bút miêu tả đó cũng có khi mang không khí trang trọng hùng tráng của anh
hùng ca. Ðó là trường hợp nhà văn miêu tả Nguyễn Huệ duyệt binh và ra lệnh cho quân
lính trong buổi lễ xuất quân tiến thẳng ra Thăng Long tiêu diệt quân ngoại xâm. Dưới
ngòi bút của tác giả, chiến dịch này như một bản anh hùng ca bất diệt, tác giả miêu tả nó
với một thái độ hả hê, sảng khoái.
-Chính ngòi bút miêu tả hiện thực phong phú đa dạng với nhiều sắc thái thẩm mĩ
đã góp phần tạo nên giá trị phản ánh hiện thực lớn lao của tác phẩm.
3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật.
Các nhân vật tuy chưa đạt tới tính cách hoàn chỉnh nhưng mỗi nhân vật đã có được
vẻ mặt riêng, cuộc sống riêng độc đáo, gây ấn tượng ở người đọc. Chẳng hạn cùng tính
toán để bảo vệ lợi ích cá nhân nhưng cách làm của Lê Hiển Thông khác với cách làm của
Lê Chiêu Thống, cách làm của quận Huy khác với cách làm của Nguyễn Hữu Chỉnh.
IV.TỔNG KẾT
Trong văn xuôi chữ Hán của văn học dân tộc, trước và sau Hoàng Lê nhất
thống chí không có một tác phẩm thứ hai nào có qui mô lớn và đạt nhiều thành công như
tác phẩm này.
I. CÁC GIÁO TRÌNH
1. Lịch sử văn học Việt Nam, tập II- NXB Giáo Dục- 1978
2. Lịch sử văn học Việt Nam tập I- Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam- 1984
3. Văn học Việt Nam (Thế kỷ thứ X đến nửa đầu thế kỷ XVIII) tập I- Ðinh Gia Khánh,
Bùi Duy Tân, Mai Cao Chuơng- NXB ÐH & THCN- 1992.
89
4. Văn học Việt Nam (Thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XVIII) (Tái bản có bổ sung)- Ðinh
Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương- NXB Giáo Dục- 1997.
II. CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO BỔ SUNG.
1. Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (Tập I và II)- Xuân Diệu- NXB Văn học 1986.
2. Những phạm trù văn hóa trung cổ- Gurêvich- NXb Giáo dục- 1996
3. Văn học Lý Trần, nhìn từ góc độ thể loại- NXB Giáo dục- 1996
4. Tư tưởng phương Ðông gợi những điểm nhìn tham chiếu- Cao Xuân Huy- NXb Văn
học- 1995
5. Tư tưởng văn học Trung Quốc cổ xưa- Lixêvich- Trường ÐHSP TPHCM- 1993
6. Thơ Việt Nam- Thơ Nôm Ðường luật- Hà Xuân Liêm- NXB Văn học- 1997
7. Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung đại- Phương Lựu- NXB Giáo dục-
1997.
8. Thơ ca cổ điển Việt Nam, một số vấn đề về hình thức và thể loại- Lê Hoài Nam- Bộ
Giáo dục và đào tạo, Vụ giáo dục phổ thông, 1994
9. Những thế giới nghệ thuật thơ- Trần Ðình Sử- NXB Giáo dục- 1997
10. Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc- Khâu Chấn Thanh- NXB Giáo dục-
1994
11. Ðặc trưng văn học trung đại Việt Nam- Lê Trí Viễn- NXB Giáo dục- 1996
12. Các sách tham khảo có liên quan đến những tác gia văn học trung đại (Nguyễn Trãi,
Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ,..), hoặc những giai đoạn của văn học
trung đại (Giai đoạn văn học Lý- Trần, văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn..), các hội sáng
tác văn thơ (Hội Tao đàn, Nhóm Chiêu Anh các ở Hà Tiên,..).
90