Transcript

Chiến Khu miền đông bị quân Mỹ đánh ác liệt từ sau tết Mậu Thân, đặc biệt kể từ 1970 khi Mỹ ủng hộ Lon Nol lật đổ ông hoàng Sihanouk. Các căn cứ Trung Ương Cục R phải di chuyển thường xuyên để tránh pháo đài bay B52 ném bom rải thảm. Căn cứ chúng tôi phải di dời vào ban đêm để tránh máy bay trinh sát Mỹ. Vậy mà cũng không khỏi bị ném bom rải thảm. Đêm đó đoàn chúng tôi đang di chuyển trên biên giới rừng miền Đông, nửa đêm bỗng bị bom B52. Đợt một, đoàn chúng tôi chưa bị sát thương, qua đợt hai người trưởng đoàn bảo vệ là anh Hải quê Cần Đước bị bom cắt đứt mông chết liền tại chỗ, sau đó chúng tôi tiếp tục chạy mong thoát khỏi vòng bom rải thảm, nhưng đến đợt ba thì đoàn chúng tôi bị bom đánh tan nát, người chết nằm la liệt, người bị thương kêu cứu inh ỏi, tro bụi bốc lên trời cao rồi rơi xuống nghe rào rào như mưa. Ca Sĩ Quế Mùi vợ Bảy Tui trong cơ quan tuyên truyền Binh Vận bị thương kêu cứu mãi cho đến chết. Gốc cây tôi đang núp gồm có 4 người, tôi bị thương đùi phải máu ướt cả ống quần và tay mặt bị liệt vì sức ép hơi bom làm chấn thương dây thần kinh, nghẹt thở khó chịu; anh Ba Quận cán bộ tập kết hai lỗ tai ra máu lênh láng vì màn nhĩ bị rách do hơi bom cực mạnh…Kể từ đợt bom thứ tư trở đi, chúng tôi nằm một chỗ chịu trận cho tới đợt thứ 12 thì trời hừng sáng. Trên trời máy bay bắn đạn liên thanh nghe như tiếng bò rống, dưới đất xe tăng hụ máy rầm rộ bao vây, biệt kích Mỹ cùng trực thăng quần quật lùng sục tìm kiếm bắn tỉa. Cuối cùng ngó đi ngó lại toán tôi chỉ còn có 2 người: tôi và Hùng Bắc. Hùng còn khỏe hơn tôi, thúc dục tôi đi, nhưng tôi quá đuối và trăn trối: “- Mình không đi nổi nữa, Hùng cứ đi mà tìm đàng sống.” Nói xong, tôi kiệt sức thiếp đi thật lâu. Khi tôi dần dần tỉnh lại, tôi nghĩ mơ hồ rằng Hùng đã đi xa lắm rồi. Tôi từ từ mở mắt nhìn lên, thì tôi thấy Hùng vẫn còn ngồi trước mặt. Tôi nói: “-Sao Hùng còn đây? Tại sao không đi?”. Hùng đáp: “- Giữa rừng sâu này, một mình tôi biết đi đâu bây giờ. Có chết thì cùng chết với ông thôi.” Như vậy là số mệnh hai chúng tôi đã dính chặt vào nhau trên con đường sinh tử. Trưa nắng nóng, chúng tôi kiệt sức, vừa đói vừa khát, lại thêm phải càn vào rừng rậm bị dây leo cùng cây rừng cản trở lối đi. Dọc đường thấy có phân voi đống bự còn mới tinh, chứng tỏ chúng tôi đã lạc vào rừng sâu lắm rồi. Chúng tôi vô cùng hoang mang, sợ thú dữ vồ, sợ đói khát…Bỗng dưng chúng tôi bắt gặp một căn nhà sàn nhỏ như cái chòi con, quanh căn nhà trồng chuối, bắp, rau, đậu thật tươi mát, trong nhà có một hũ muối, một hũ gạo, một hũ nước và một cái nồi nhỏ. Nhìn quanh không thấy ai, thế là chúng tôi vội trút gạo nước vào nồi rồi chạy ra gốc cây rừng lớn có tàn dày che phủ, và nổi lửa nấu cơm. Khi cơm gần chín, bỗng nghe có tiếng máy bay trực thăng Mỹ, chúng tôi liền dập tắt lửa rồi ăn vội vã cơm sừng sực chưa chín. Đang đói, ăn cơm sừng sực với muối hột mà ngon như ăn tửu lầu cao lương mỹ vị vậy. Cho đến khi tiếng trực thăng áp tới gần, và tiếng súng liên thanh nổ vang, tiếng đạn ghim vào gốc cây quanh tôi nghe bụp bụp ớn da gà. Vậy mà sao đạn không trúng ai, chúng tôi chạy trối chết thoát được vòng vây đạn Mỹ. Hú hồn. Không thể nào tưởng tượng nổi là mình sống sót… Cứ nhắm hướng rừng sâu mà chúng tôi đi càn tới. Chiều mặt trời sắp lặn, chúng tôi khát nước gần như kiệt lực không thể nào tiến bước được nữa. Bỗng dưng chúng tôi thấy phía trước có một lỗ mội từ lòng đất có nước trào lên, trong vắt, cứ tưởng như nằm mơ. Cả hai chúng tôi nằm úp mặt xuống lỗ mội nước mà uống cho đã một bụng, no nốc, lăn ra ngủ qua đêm. Nếu không gặp căn nhà sàn và lỗ mội nước, chắc là chúng tôi chầu Diêm Vương rồi. Sau này, tôi cứ thắc mắc tại sao giữa rừng sâu mà lại hiện ra một căn nhà sàn sạch sẽ, cây trái rau quả tươi xinh, mát mẻ, không có vẻ gì dơ bẩn của người trần tục ở. Nếu có người ở giữa rừng sâu như vậy, thì trong nhà sàn chắc chắn phải có khô nai, khô nhím…hay là thực phẩm để khô như bắp khô vv… Đằng này trong nhà sàn chỉ thấy vỏn vẹn có một hũ gạo, một hũ muối hột, một hũ nước, và một cái nồi. Sau này tôi thiết tưởng chính Thánh Nguyễn An Ninh đã cứu tôi sống sót trong trận bom pháo đài bay B52 Mỹ rải thảm. ____________________________________________________________

Đọc Chuyện Dõi Gót Theo Thầy. Năm 1995, có một cụ ông từ Việt Nam sang Úc, trao cho văn phòng Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo Sydney một tài liệu chép tay cuộn tròn gọn nhỏ cho dễ giấu khi vào phi trường để vân du hải ngoại. Đó là cuốn hồi ký Dõi Gót Theo Thầy của ông Ngô Thành Bá. Tôi đọc kỹ thấy đây là tài liệu quý, vội đánh máy gởi cho bạn đạo ở thủ đô Canberra ấn tống. Trong quyển Dõi Gót Theo Thầy có nhiều mục, nhưng tôi cảm nhận có một mục ứng với trường hợp mà tôi được cứu trong rừng miền đông khi chạy trối sống trối chết thoát trận máy bay B52 Mỹ đánh bom rải thảm. Sau đây là một đoạn trích trong quyển Dõi Gót Theo Thầy.

…Đức Thầy cầm một khúc cây đi trước dọn đường, tôi lần bước theo sau. Khi đi theo triền lúc vượt lên đảnh núi, đến một nơi gần suối có ba tảng đá hình như táo đất đội một hòn đá to tướng, khoảng trống giữa ba tảng đá rất lớn, đường đi trong đó dễ dàng. Tôi thấy có sạp bằng cau rừng bị lửa cháy tròm trèm, hư hết phân nửa, bên cạnh đó có một thùng thiếc bể, một giàn su lớn, dưới gốc có nước tưới còn ướt rượt, nhưng người đâu chẳng thấy. Tôi thưa cùng Đức Thầy: “-Bạch Thầy, ông nào tu ở đây chắc nghèo khổ lắm! Xin Thầy cho con kêu ông ấy về đặng giúp chút ít tiền bạc”. Đức Thầy nói: “-Đâu mày kêu coi có không”. Tôi ra sức kêu thật lớn mà cũng chẳng nghe ai lên tiếng. Đức Thầy và tôi đi được một đỗi xa, Ngài nói: “- Trên Trước giả cảnh, cho có người ở, để mày an tâm chớ không có ai tu ở đó cả”. (trích Dõi Gót Theo Thầy của Ngô Thành Bá).

Sydney, 24-10-2017, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo (facebook Mõ Tre) https://kiengxluu.wixsite.com/kinhsambuuson * https://kinhsamthatson.wordpress.com/

Năm 1995, cựu bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mac Namara sang Hà Nội gặp đại tướng Võ Nguyên Giáp. Cả hai nở nụ cười chan hòa tình cảm. Trong chiến tranh Việt Nam, Mac Namara hành sử vì quyền lợi nước Mỹ thân yêu của ông, tướng Giáp cầm quân đánh quân Mỹ cũng hành sử vì quyền lợi nước Việt yêu quý của ông. Cả hai đều là người yêu nước. Nay trang sử đã lật qua, cả hai đều hiểu rằng phải sửa đổi lại ván cờ mới {United we stand separate we fall}, cùng chung hiệp lực chống kẻ thù chung: Trung Quốc Mộng.

Chuyện mầu nhiệm ở chiến khu

Top Related