giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế

105
Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë níc ta hiÖn nay 1 LỜI CẢM ƠN Để luận văn đạt kết quả tốt đẹp, trước hết em xin gửi tới toàn thể các thầy cô khoa Ngân Hàng - Tài Chính lời chúc sức khoẻ, lời chào trân trọng và lời cảm ơn sâu sắc nhất.Với sự quan tâm, dạy dỗ chỉ bảo tận tình chu đáo của thầy cô, sự giúp đỡ nhiệt tình của các bạn, đến nay em đã có thể hoàn thành - luận văn tốt nghiệp, đề tài: “Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay”. Để có được kết quả này em xin đặc biêt gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới cô giáo - TS .Nguyễn Thị Bất- đã quan tâm giúp đỡ, vạch kế hoạch hướng dẫn em hoàn thành một cách tốt nhất luận văn tốt nghiệp trong thời gian qua. Không thể không nhắc tới sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ phòng Quản lý thu thuế ngoài quốc doanh, đã tạo điều kiện thuận lợi nhất trong suất thời gian thực tập tại Tổng Cục Thuế. Với điều kiện thời gian có hạn cũng như kinh nghiệm còn hạn chế của một sinh viên thực tập nên luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cô cùng toàn thcác bạn để em có điều kiện bổ sung, nâng cao ý thức của mình, phục vụ tốt hơn công tác thực tế sau này.

Upload: blue-pink

Post on 30-Jun-2015

1.096 views

Category:

Documents


4 download

TRANSCRIPT

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

1

LỜI CẢM ƠN

Để luận văn đạt kết quả tốt đẹp, trước hết em xin gửi tới toàn thể các thầy cô khoa Ngân Hàng - Tài Chính lời chúc sức khoẻ, lời chào trân trọng và lời cảm ơn sâu sắc nhất.Với sự quan tâm, dạy dỗ chỉ bảo tận tình chu đáo của thầy cô, sự giúp đỡ nhiệt tình của các bạn, đến nay em đã có thể hoàn thành - luận văn tốt nghiệp, đề tài:

“Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay”.

Để có được kết quả này em xin đặc biêt gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới cô giáo - TS .Nguyễn Thị Bất- đã quan tâm giúp đỡ, vạch kế hoạch hướng dẫn em hoàn thành một cách tốt nhất luận văn tốt nghiệp trong thời gian qua.

Không thể không nhắc tới sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ phòng Quản lý thu thuế ngoài quốc doanh, đã tạo điều kiện thuận lợi nhất trong suất thời gian thực tập tại Tổng Cục Thuế.

Với điều kiện thời gian có hạn cũng như kinh nghiệm còn hạn chế của một sinh viên thực tập nên luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cô cùng toàn thể các bạn để em có điều kiện bổ sung, nâng cao ý thức của mình, phục vụ tốt hơn công tác thực tế sau này.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

2

LỜI NÓI ĐẦU Thuế ra đời và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của

Nhà nước và là một đòi hỏi khách quan đối với sự tồn tại của Nhà nước đó.

Do vậy, thuế là một khoản đóng góp mang tính bắt buộc, cưỡng chế, pháp lý

cao, là nguồn thu chủ yếu cho ngân sách Nhà nước mà trong đó thu thuế đối

với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng cao trong Ngân sách

Nhà nước. Phải quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế NQD như thế nào?

Đó là một câu hỏi cấp bách đặt ra cần có những giải pháp.

Thực hiện công cuộc đổi mới các thành phần kinh tế NQD hình thành

và phát triển góp phần quan trọng và việc thực hiện thành công các mục tiêu

kinh tế, xã hội do Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI, VII, VIII đề ra.

Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã xác định “Từ nay đến năm 2020, ra

sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp có cơ sở vật

chất kinh tế hiện đại, cơ cấu kinh tế pháp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù

hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần

cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh XHCN, dân chủ

văn minh”. Để đạt được mục tiêu này cần phải sử dụng các giải pháp nhằm

hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế NQD ở nước ta

hiện nay. Theo xu hướng phát triển kinh tế của các nước trên thế giới, nên

kinh tế thị trường hoạt động theo cơ chế thị trường bao gồm nhiều thành phần

kinh tế trong đó có 5 thành phần kinh tế cơ bản đựơc phân tích trong Kinh tế

Chính trị Mác- Lênin

Nền kinh tế Việt nam không nằm ngoài sự chi phối của quy luật khách

quan của một nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường..

Có thể phân chia nền kinh tế thành hai khu vực. Kinh tế trong nước và kinh tế

có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó khu vực kinh tế trong nước lại chia thành

hai khu vực là khu vực Kinh tế Nhà nước và khu vực Kinh tế Ngoài quốc

doanh.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

3

Trong phạm vi của luận văn này chỉ đề cập đến các giải pháp để hoàn

thiện công tác quản lý thu thuế NQD, mà hẹp hơn là đối với 2 thành phần

kinh tế là tư bản tư nhân và kinh tế cá thể tiểu chủ, cụ thể là khu vực kinh tế

này bao gồm các doanh nghiệp NQD và các hộ kinh doanh cá thể hoạt động

trong lĩnh vực phi nông nghiệp.

Lý do em chọn đề tài này là do khu vực kinh tế có phạm vi rộng nguồn

thu lớn cho Ngân sách Nhà nước, đồng thời 2 thành phần kinh tế này mới

được Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI chính thức thừa nhận tồn

tại khách quan trong thời kỳ quá độ.

Luận văn được kết cấu như sau:

Chương I: Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và nội dung của quản lý

thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.

Chương II: Thực trạng công tác quản lý thu thuế khu vực kinh tế ngoài

quốc doanh ở nước ta hiện nay.

Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với

khu vực kinh tế ngoài quốcdoanh ở nước ta hiện nay.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

4

CHƯƠNG I

KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH VÀ NỘI DUNG CỦA

QUẢN LÝ THU THUẾ ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ

NGOÀI QUỐC DOANH

I. ĐẶC ĐIỂM CỦA KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH

1.Sự tồn tại khách quan của khu vực kinh tế Ngoài quốc doanh

Thời kỳ quá độ lên CNXH theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin sẽ

trải qua một thời gian dài trong lịch sử. Trong suốt thời kỳ đó vẫn tồn tại các

thành phần kinh tế phi CNXH cạnh tranh gay gắt với thành phần kinh tế

CNXH. Nhà nước XHCN có vai trò to lớn trong việc làm cho các thành phần

kinh tế XHCN ngày càng phát triển và chiếm ưu thế, đảm bảo thắng lợi của

CNXH.

Vậy quá độ đi lên CNXH bỏ qua phát triển TBCN không thể không quan

tâm đến sự tồn tại và phát triển tất yếu khách quan của các thành phần kinh tế

khác trong đó có các thành phần kinh tế của khu vực kinh tế ngoài quốc

doanh (NQD). Nước ta quá độ lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu,

tiềm lực kinh tế còn chưa mạnh, cơ sở vật chất còn nghèo nàn không đồng

nhất giữa các ngành các vùng, trình độ quản lý kinh tế còn thấp kém lại vừa

qua khỏi chiến tranh. Mâu thuẫn giữa nhu cầu cải tiến đời sống nhân dân với

khả năng của sức sản xuất đang hết sức gay gắt. sự lựa chọn có phát triển kinh

tế nhiều thành phần trong đó có kinh tế NQD hay không có tính chất quyết

định. Tuy nhiên chấp nhận sự tồn tại của kinh tế NQD không có nghĩa là để

quan hệ sản xuất TBCN xác lập thống trị xã hội mà chỉ để quan hệ sản xuất

tồn tại phục vụ cho các mục đích phát triển kinh tế, đẩy mạnh sự phát triển

của các lực lượng sản xuất, tăng nhanh năng xuất lao động, tăng trưởng kinh

tế. Do đó bỏ qua chế độ TBCN là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan

hệ sản xuất chứ không có nghĩa xoá bỏ hoàn toàn kinh tế NQD. Nhưng muốn

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

5

quan hệ sản xuất TBCN không trở thành thống trị trong nền kinh tế của xã hội

thì không phải bằng con đường bóp nghẹt như đã làm trước đây, mà phải

bằng cách xoá bỏ dần dần bằng sự tác động của các nhân tố khác trong đó

kinh tế nông nghiệp là quan trọng nhất.

Vậy sự tồn tại khách quan của khu vực kinh tế NQD trong thời kỳ quá

độ đã được khẳng định và nó tiếp tục phát triển trong nền kinh tế thị trường,

kinh tế NQD là thành phần kinh tế không thể thiếu được và đóng vai trò ngày

càng quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Hiện nay nước ta đang trong

quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, một số định kiến xã hội

trước đây đối với khu vực kinh tế NQD vẫn còn khá nặng nề. Khuôn khổ

pháp luật để phát triển kinh tế NQD đang xây dựng, chưa hoàn chỉnh. Song từ

khi có Luật Doanh nghiệp (DN) có hiệu lực, môi trường kinh doanh đã bước

đầu được cải thiện, các loại giấy phép bất hợp lý đã được xoá bỏ, nhiều doanh

ngiệp đã phát huy được tính chủ động sáng tạo, tận dụng được hết năng lực

vốn có và tăng vốn đầu tư, mở rộng địa bàn để phát triển sản xuất, kinh

doanh...

Vậy định hướng đi lên XHCN, bỏ qua chế độ TBCN tất yếu khách

quan phải trải qua thời kỳ quá độ bên cạnh đó khẳng định sự tồn tại tất yếu

khách quan của kinh tế NQD và xu hướng nền kinh tế này phục vụ cho các

mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước trong thời nền kinh tế thị trường theo

định hướng XHCN.

2. Vai trò của khu vực kinh tế NQD trong nền kinh tế

Khu vực kinh tế NQD bao gồm các doanh nghiệp NQD (Công ty TNHH,

công ty Cổ phần, công ty Hợp danh, doanh nghiệp tư nhân) và các hộ cá nhân

có hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, kinh tế NQD

là thành phần kinh tế không thể thiếu và đóng vai trò ngày càng mạnh mẽ,

tương xứng với tiềm năng và đóng góp xứng đáng vào sự tồn tại vào sự phát

triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đòi hỏi Nhà nước phải có

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

6

các chính sách, điều kiện thuận lợi để khu vực này phát huy được vai trò của

mình trong tình hình kinh tế hiện nay.

2.1. Khu vực kinh tế NQD phát triển góp phần làm tăng của cải vật

chất cho xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

Nước ta là nước có nền kinh tế đang trên đà phát triển, chuyển dịch cơ

cấu kinh tế nhiều thành phần do vậy mục tiêu phát triển kinh tế là hàng đầu.

Khu vực kinh tế NQD là khu vực có nhiều đặc điểm thuận lợi cho quá trình

làm tăng của cải vật chất cho xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như là: khu

vực thu hút nhiều lao động, đối tượng hoạt động rộng tạo thuận lợi cho việc

phát triển kinh tế ở mọi nơi trong nước rút ngắn khoảng cách về thu nhập giữa

thành thị và nông thôn, đồng thời góp phần khai thác những tiềm năng to lớn

của nền kinh tế như tài nguyên, sức lao động, thị trường...mà vẫn chưa được

khai thác một cách hiệu quả. Bên cạnh đó do đặc thù rất linh hoạt, nhanh nhậy

trong sản xuất để thu lợi nhuận cao nhất nên khu vực này có khả năng phát

huy nội lực, mở rộng sản xuất kinh doanh phù hợp với nhu cầu của thị trường.

Vậy khu vực kinh tế NQD là khu vực có vai trò hết sức quan trọng đồng thời

là khu vực góp phần vào việc thực hiện các chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế do

Nhà nước đề ra.

2.2. Khu vực kinh tế NQD phát triển góp phần giải quyết công ăn việc

làm cho người lao động

Nước ta là nước có dân số hơn 80 triệu dân, do đó đối tượng lao động

là rất lớn. Vấn đề thất nghiệp được đặt ra cần được giải quyết. Trong khi khu

vực kinh tế Nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn đòi

hỏi lao động phải có văn hóa, trình độ kỹ thuật nhất định thì mới có thể làm

việc trong khu vực trên dẫn đến một khối lượng lớn lao động đang ở tuổi lao

động không thể làm việc ở trong hai khu vực này. Vậy điều đáng nói ở đây là

so với 2 khu vực trên thì khu vực kinh tế NQD có vai trò thu hút nhiều thành

phần lao động, từ những lao động có trình độ cao đến những lao động thủ

công, từ những hợp đồng ngắn hạn đến những hợp đồng dài hạn, theo mùa vụ

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

7

hoặc theo thời gian nhất định... Do đó khu vực này góp phần giải quyết thất

nghiệp và tạo ra sự phát triển cân đối cho nền kinh tế.

2.3. Khu vực kinh tế NQD phát triển tạo cho ngân sách có nguồn thu

ổn định và ngày càng tăng

Trước hết phải khẳng định các khoản nộp ngân sách của khu vực kinh tế

NQD mới đúng bản chất là “thuế”. Vì khác với các doanh nghiệp Nhà nước,

Nhà nước không phải chủ sở hữu tư liệu sản xuất, Nhà nước thu thuế của khu

vực này mà không phải đầu tư trực tiếp vào khu vực này. Nguồn thu từ khu

vực này rất lớn ngày càng tăng và được dùng chủ yếu để đầu tư vào các ngành

nghề kinh tế mũi nhọn, xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ các ngành kinh tế yếu

kém...đồng thời khu vực này còn tham gia đóng góp tài chính cho đất nước

nhiều hơn nữa thông qua các hoạt động tự nguyện hưởng ứng các phong trào

do Nhà nước, đoàn thể phát động như ủng hộ đồng bào bị lũ lụt, thương binh,

gia đình liệt sĩ, xây dựng trường học, đường xá đóng góp vào các quỹ an ninh,

đền ơn đáp nghĩa....Vậy khu vực kinh tế NQD có vai trò điều hoà thu nhập và

đóng góp vào ngân sách Nhà nước rất lớn.

2.4. Khu vực kinh tế NQD phát triển góp phần tăng vốn đầu tư cho

xã hội

Khu vực này tạo ra một thị trường vốn tín dụng lớn và hứa hẹn nhiều

tiềm năng cho sự phát triển của các ngân hàng ở nước ta do sự đổi mới kinh

tế, nhờ chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần nên khu vực NQD đã

hình thành và huy động một lượng vốn đầu tư lớn cho xã hội. Đây là một

nguồn vốn quan trọng, song khai thác chưa hiệu quả. Bên cạnh đó khu vực

kinh tế NQD càng phát triển thì nhu cầu về vốn ngày càng gia tăng và có mối

quan hệ mật thiết với các ngân hàng, đóng góp vào sự lớn mạnh của hệ thống

ngân hàng trong công tác huy động vốn.

2.5. Ngoài những vai trò trực tiếp nêu trên, khu vực kinh tế NQD tồn

tại và phát triển còn có tác dụng trên nhiều mặt sau

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

8

- Khu vực NQD phát triển thoả mãn một phần nhu cầu tiêu dùng xã

hội, giúp cho Nhà nước trong điều kiện vốn còn hạn hẹp, có thể tập trung đầu

tư vào những ngành nghề mũi nhọn, có tác dụng đến toàn bộ nền kinh tế và

đời sống xã hội, tránh đầu tư phân tán, dàn trải...Thực tiễn cho thấy có khu

vực này nhiều ngành nghề, mặt hàng và lĩnh vực kinh doanh Nhà nước không

cần phải đầu tư hoặc chỉ đầu tư có hạn còn về cơ bản khu vực kinh tế NQD đã

đảm đương các chức năng bán lẻ các mặt hàng tiêu dùng và tổ chức các dịch

vụ tiêu dùng cho xã hội, đặc biệt ở địa bàn nông thôn và miền núi.

- Khu vực kinh tế NQD tồn tại và phát triển góp phần thúc đẩy sự

hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa, tạo ra sự cạnh tranh sống động trên

thị trường, thúc đẩy kinh tế Nhà nước tăng cường hạch toán kinh doanh, đổi

mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Trước

đây trong điều kiện chỉ có kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác, sản phẩm

hàng hóa dù sản xuất ra với bất kỳ chất lượng nào, giá cả ra sao đều được tiêu

thụ. Nhưng từ khi có kinh tế NQD với đặc điểm tư hữu cao, khu vực này rất

linh hoạt năng động với tinh thần trách nhiệm rất cao trong sản xuất, tìm kiếm

thị trường đồng thời luôn tập trung cao độ tinh thần làm việc, phát huy mọi

khả năng sẵn có của mình. Để cạnh tranh với khu vực NQD thì buộc khu vực

kinh tế quốc doanh phải cải tiến hàng hoá sản xuất ra nếu không sẽ không

được thị trường chấp nhận. Bên cạnh sự cạnh tranh đó thì nếu hai khu vực này

không còn hợp tác, thúc đẩy nhau để sản phẩm sản xuất ra được hoàn thiện

với chất lượng cao hơn. Vậy hợp tác và cạnh tranh chính là động lực thúc đẩy

sự phát triển của hai khu vực kinh tế này.

- Khu vực kinh tế NQD hình thành và phát triển còn tác động cả vào

cơ chế quản lý làm thay đổi phương thức quản lý sản xuất kinh doanh, thay

đổi tác phong, lề lối làm việc của cán bộ công chức nhà nước, của người lao

động.

Trước hết đối với các cơ quan quản lý và cán bộ công chức Nhà nước,

phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cơ chế quản lý tập trung bao cấp

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

9

không còn thích hợp nữa vì Nhà nước không thể ra lệnh cho các đơn vị kinh

tế NQD phải sản xuất cái gì, phải bán theo giá quy định, mà cho quy luật giá

trị, do thị trường do nhu cầu xã hội quyết định. Với khu vực kinh tế NQD các

cơ quan quản lý, công chức Nhà nước không thể can thiệp vào quá trình sản

xuất kinh doanh của họ. Đây chính là những tiền đề đặt ra cần phải đổi mới cơ

chế quản lý và phải luôn hoàn thiện cơ chế quản lý của nền kinh tế thị trường

theo định hướng XHCN.

Phát triển khu vực kinh tế NQD cũng có tác động và làm thay đổi ý

thức, tác phong làm việc của công chức các cơ quan quản lý Nhà nước. Vì

khu vực kinh tế NQD toàn bộ vốn và tài sản thuộc sở hữu tư nhân, họ có

quyền quyết định phương án sản xuất kinh doanh và chỉ chịu sự quản lý của

Nhà nước thông qua pháp luật. Cán bộ công chức Nhà nước không có quyền

can thiệp vào công việc kinh doanh của họ. Quan hệ giữa đơn vị kinh tế NQD

và công chức Nhà nước là quan hệ bình đẳng trước pháp luật.

Đối với người lao động và những người quản lý sản xuất kinh doanh,

câu hỏi đặt ra là làm sao thu được lợi nhuận cao nhất. Muốn vậy phải cải tiến

sản xuất, kinh doanh, nâng cao trình độ chuyên môn để sản xuất ra hàng hoá

chất lượng cao, giá thành hạ.

Quan hệ giữa người bán hàng dịch vụ và người mua hàng dịch vụ được

thay đổi từ quan niệm “bán như cho” thời bao cấp bằng quan niệm coi “khách

hàng là thượng đế” đã được hình thành.

Khu vực kinh tế NQD phát triển tác động cả vào các cơ quan quản lý

trong việc hoạch định chính sách và cải cách hành chính.

Vậy chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần trong đó vai trò của khu

vực kinh tế NQD đã đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn và phản ánh đúng quy luật

khách quan của thời kỳ qua độ. Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VII của

Đảng (tháng 6/1991) đã đánh giá: “Chính sách này được nhân dân hưởng ứng

rộng rãi và đã đi nhanh vào cuộc sống chính sách ấy đã góp phần phát huy

quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế, khơi dậy được nhiều tiềm năng va sức

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

10

sáng tạo của nhân dân để phát triển sản xuất, dịch vụ, tạo việc làm và sản

phẩm cho xã hội, thúc đẩy sự hình thành và phát triển nền kinh tế hàng hoá,

tạo ra sự cạnh tranh sống động trên thị trường”. Ngoài ra góp phần vào phát

triển và tăng trưởng kinh tế ngoài quốc doanh có sự tham giam tích cực của

các cơ quan quản lý trong việc hoạch định chính sách và cải cách hành chính

đồng thời Nhà nước đã ban hành 51 luật, pháp lệnh và các Nghị định, quyết

định, chỉ thị của Chính phủ điều chỉnh và quản lý mọi hoạt động kinh tế xã

hội của đất nước nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển và lành

mạnh hoá các quan hệ kinh tế xã hội.

3. Quan điểm của Đảng ta về phát triển kinh tế NQD và các chính sách

kinh tế của Nhà nước

3.1.Quan điểm của Đảng về phát triển khu vực kinh tế NQD

Nước ta đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, các luận điểm

của Mác - Ang ghen - Lênin về thời kỳ quá độ có thể vận dụng vào nước ta vì

giai đoạn này là giai đoạn Nhà nước của giai cấp công nhân đang đảm nhận

nhiệm vụ lịch sử phát triển sức sản xuất, một nhiệm vụ đáng lẽ ra giai cấp tư

bản phải làm. Mặt khác do lực lượng sản xuất phát triển không đồng đều giữa

các ngành, các vùng, vì vậy tất yếu tồn tại kinh tế NQD.

Tuy nhiên để có được nhận thức đúng đắn về sự tồn tại của các thành

phần kinh tế trong thời kỳ quá độ không phải là dễ dàng, đã có thời kỳ ta chủ

trương sớm xoá bỏ kinh tế NQD bằng làn sóng quốc doanh hóa, hợp tác hoá,

tạo nên bức tường ngăn cách giữa kinh tế XHCN và kinh tế NQD dẫn đến

những hậu quả tiêu cực làm cho tiềm lực kinh tế của đất nước không được

khai thác, lực lượng sản xuất bị lãng phí, kinh tế bị kìm hãm không phát triển

được, đời sống nhân dân gặp khó khăn.

Qua đánh giá quá trình cải tạo các thành phần kinh tế và vận dụng luận

điểm của Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Đại hội đại biểu

Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra chủ trương đổi mới toàn diện và sâu sắc

để đi tới CNXH một cách vững chắc. Trọng tâm là đổi mới kinh tế, mà trước

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

11

hết là đổi mới tư duy kinh tế. Điều quan trọng là phải nhận thức và tính toán

lại hình thức, và bước đi của quá trình cải tạo XHCN, làm sao để phát huy

được sức mạnh của các thành phần kinh tế trong công cuộc xây dựng đất

nước giầu mạnh và cái đích vẫn là CNXH. Từ những phê bình về những biểu

hiện nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi XHCN, từ thực tế

của đất nước và vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế nhiều thành

phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ, Đảng ta đã đề ra chính sách sử

dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác. Đại hội đại biểu Đảng

toàn quốc lần thứ VI đã chỉ ra nhiệm vụ đẩy mạnh cải tạo XHCN là một

nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH với

những bước đi thích hợp làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và

trình độ của lực lượng sản xuất. Cần phải “phát huy tác dụng tích cực của cơ

cấu kinh tế nhiều thành phần”.

Đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần còn được tiếp tục xác

định tại Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII, VIII, IX. Báo cáo chính

trị tại Đại hội Đảng CSVN lần IX khẳng định.

“Kinh tế cá thể ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài.

Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển, khuyến khích các hình thức

HTX tự nguyện làm vệ tinh cho các doanh nghiệp phát triển lớn hơn, khuyến

khích phát triển kinh tế tư nhân rộng rãi, trong những ngành nghề sản xuất

kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về

chính sách, pháp lý để kinh tế NQD phát triển trên những hướng ưu tiên của

Nhà nước.”

Ngoài ra còn nêu rõ ở nước ta hiện nay có các thành phần kinh tế sau:

+ Kinh tế tư bản Nhà nước.

+ Kinh tế cá thể, tiểu chủ.

+ Kinh tế tư bản tư nhân.

+ Kinh tế Nhà nước.

+ Kinh tế Hợp tác.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

12

Thành phần kinh tế Nhà nước: là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở

hữu nhà nước về tư liệu sản xuấtchủ yếu, gồm những đơn vị kinh tế mà toàn

bộ số vốn thuộc về Nhà nước hoặc phần của Nhà nước chiếm phần khống

chế.

Kinh tế quốc doanh hiện nay vẫn giữ vững vai trò chủ đạo trong nền

kinh tế nước ta, được hình thành do Nhà nước đầu tư xây dựng các cơ sở kinh

tế trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, ngoài ra còn

được hình thành bằng con đường quốc hữu hoá các xí nghiệp tư nhân.

Thành phần kinh tế tập thể: là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tập

thể, gồm các dơn vị kinh tế do nhũng người lao động tự nguyện góp vốn, góp

sức kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, bình đẳng và cùng có lợi.

Hợp tác xã là hình thức chủ yếu của nền kinh tế tập thể, bao gồm hợp

tác xã nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã mua bán, tín dụng.

Những loại hình hợp tác xã trên được hình thành với quy mô và mức độ khác

nhau phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, yêu cầu của sản xuất

và đời sống. Xu hướng vận động và phát triển của kinh tế tập thể theo hướng

kinh thành những cơ sở, tổ hợp kinh tế công nông nghiệp để đi lên sản xuất

lớn.

Thành phần kinh tế tư bản tư nhân: là thành phần kinh tế dựa trên chế

độ tư hữu tư bản chủ nghĩa và bóc lột lao động làm thuê, mặc dù không còn

nguyên nghĩa như xã hội cũ. Nó tồn tại trong những ngành có lợi trong quốc

kế dân sinh, được Nhà nước khuyến khích, kiểm soát và hướng theo con

đường kinh tế tư bản Nhà nước.

Thành phần này bao gồm các đơn vị kinh tế phần lớn vốn của tư nhân

(cả trong và ngoài nước) đầu tư, hoạt động dưới hình thức xí nghiệp tư doanh,

hoặc công ty cổ phần được luật pháp quy định. Thành phần này có ưu điểm

mạnh về vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm và trình độ quản lý. Nó có vai

trò to lớn trong việc phát triển lực lượng sản xuất, giải quyết việc làm, tăng

thu nhập kinh tế quốc dân, nâng cao đời sống.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

13

Thành phần kinh tế cá thể: là thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu

về tư liệu sản xuất và lao động của bản thân người sản xuất.

Đặc điểm cơ bản của thành phần kinh tế này là tư liệu sản xuất và sức

lao động được kết hợp trực tiếp bởi cùng một chủ thể. Mặc dù người sản xuất

được tự do sản xuất kinh doanh, nhưng vẫn chịu tác động trực tiếp của các

thành phần kinh tế khác và của thị trường. Trong suốt thời kỳ quá độ, đặc biệt

chặng đường đầu, thành phần kinh tế cá thể có vai trò rất quan trọng trong

việc sản xuất dịch vụ, tư liệu sinh hoạt phục vụ đời sống và sản xuất. Kinh tế

cá thể tồn tại độc lập, có thể liên doanh liên kết với các đơn vị kinh tế của các

thành phần kinh tế khác bằng nhiều hình thức, hoặc tham gia hợp tác xã tự

nguyện nếu người lao động thấy cần thiết.

Thành phần kinh tế tư bản Nhà nước: là thành phần kinh tế mà chủ thể

của nó là tư bản Nhà nước cùng góp vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh;

gồm các đơn vị kinh tế ở các ngành, các lĩnh vực dưới các hình thức công ty

hợp doanh, gia công, thuê tài sản...Có thể khẳng định rằng trong thời kỳ quá

độ, đây là hình thức kinh tế trung gian thích hợp nhất để chuyển từ sản xuất

nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta.

Các thành phần kinh tế cơ bản trên tồn tại trên cơ sở ba loại sở hữu chủ

yếu: sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Ngoài ra, còn có

những hình thức tổ chức kinh tế hoạt động không thuộc thành phần kinh tế

nào như hình thức kinh tế hỗn hợp nhiều loại sở hữu công ty, xí nghiệp cổ

phần, liên doanh, liên kết hai bên và nhiều bên giữa các chủ thể, giữa các

thành phần kinh tế trong và ngoài nước.

Trên giác độ nghiên cứu, có thể phân chia khu vực kinh tế trong nước

thành hai khu vực nhỏ hơn: khu vực kinh tế quốc doanh và khu vực kinh tế

ngoài quốc doanh cho phù hợp với những thuật ngữ đang được sử dụng phổ

biến trong nhiều văn bản của Nhà nước và trong các cuộc hội thảo.

Điểm khác biệt căn bản giữa thành phần kinh tế quốc doanh (KTQD)

và thành phần kinh tế NQD là tính chất sở hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

14

Kinh tế quốc doanh dựa trên sở hữu của Nhà nước, kinh tế ngoài quốc doanh

dựa trên sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp giữa tư nhân với tập

thể hay giữa các tư nhân với nhau. Đảng và Nhà nước ta qua các kỳ Đại hội

đã khẳng định kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, kinh tế ngoài quốc

doanh giữ vai trò mở đuờng cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất

nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.

3.2.Các chính sách kinh tế của Nhà nước để phát triển kinh tế NQD

Quán triệt đường lối đổi mới kinh tế của Đảng nêu tại đại hội Đảng

Cộng sản Việt nam lần thứ VI, lần thứ VII, lần thứ VIII và Nghị quyết các hội

nghị Trung ương. Nhà nước đã nhanh chóng cụ thể hóa thành những chính

sách cụ thể và luật hoá để thực hiện. Trước hết cần phải được thể chế thành

điều luật trong hiến pháp, điều 15 Hiến pháp năm 1992 đã qui định “ Nhà

nước phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có

sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Cơ cấu kinh tế nhiều

thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên

chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn

dân và sở hữu tập thể là nền tảng”.

Về kinh tế NQD, điều 21 Hiến pháp năm1992 qui định: “kinh tế ngoài

quốc doanh được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập

doanh nghiệp không bị hạn chế về qui mô hoạt động trong những ngành nghề

có lợi cho quốc kế dân sinh”. Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là

làm cho dân giàu, nước mạnh đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và

tinh thần của nhân dân. Chính sách kinh tế của Nhà nước còn nhằm giải

phóng năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế

thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Bằng các qui định của Hiến pháp, Nhà nước và xã hội đã chính thức

thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế NQD trong thời kỳ quá độ. Tuy nhiên,

nếu chỉ công nhận khu vực kinh tế NQD tồn tại thôi thì chưa đủ mà cần phải

định hướng cho khu vực kinh tế NQD phát triển theo đúng đường lối của

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

15

Đảng, đúng mục đích đã định ra không để kinh tế NQD phát triển tự phát,

chệch hướng. Vì vậy cần tiếp tục thể chế đường lối của Đảng, Hiến pháp

thành những chính sách cụ thể. Trong những năm qua Nhà nước đã nghiên

cứu, ban hành các chính sách cụ thể tạo hành lang pháp lý cho kinh tế NQD

phát triển, đồng thời liên tục chỉnh lý cho các chính sách thật phù hợp với đời

sống thực tiễn, khơi dậy mọi tiềm năng của khu vực kinh tế này. Trong các

chính sách đó đáng chú ý là:

- Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân được Quốc hội thông qua

năm 1990 và được thay thế bằng Luật doanh nghiệp được Quốc hội khoá X

thông qua ngày 16/6/1999 và thống nhất thực hiện từ 1/1/2000.

- Luật doanh nghiệp ra đời qui định việc thành lập, tổ chức quản lý và

hoạt động của các doanh nghiệp. Từ Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân

nay là Luật doanh nghiệp (Bao gồm các công ty Cổ phần, công ty TNHH,

công ty Hợp doanh và Doanh ngiệp tư nhân) vừa thể hiện được tính nhất quán

của Đảng và Nhà nước ta, vừa thể hiện sự phát triển về nhận thức và hành

động nhằm khuyến khích phát triển khu vực kinh tế này. So với Luật công ty,

Luật doanh nghiệp tư nhân ban hành trước đây, Luật doanh nghiệp mới có

nhiều sửa đổi bổ xung cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống, tạo môi trường

thoáng cho doanh nghiệp thành lập và hoạt động nên tuy mới chỉ sau một vài

năm đã phát huy những tác dụng to lớn.

- Nghị định của Chính phủ về cá nhân và nhóm cá nhân kinh doanh

công thương nghiệp dịch vụ: qui định về đăng ký kinh doanh, tổ chức quản lý

và hoạt động của cá nhân và nhóm cá nhân kinh doanh có vốn thấp hơn vốn

pháp định để thành lập doanh nghiệp. Theo Nghị định này mọi cá nhân, nhóm

cá nhân có nguyện vọng sản xuất kinh doanh chỉ thực hiện thủ tục khai báo

đơn giản, cơ quan quản lý Nhà nước có trách nhiệm phải cấp đăng ký kinh

doanh, nếu cá nhân và nhóm cá nhân kinh doanh những ngành nghề không

thuộc loại cấm.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

16

- Ban hành các luật thuế xuất nhập khẩu, thuế doanh thu, thuế tiêu thụ

đặc biệt, thuế lợi tức - sau này thuế doanh thu thay thế bằng thuế gía trị gia

tăng, thuế lợi tức thay bằng thuế thu nhập doanh nghiệp, được áp dụng thống

nhất cho các thành phần kinh tế.

Việc ban hành các luật thuế áp dụng cho mọi thành phần kinh tế là sự

thể hiện rõ nét nhất tính chất bình đẳng của các thành phần kinh tế trong cạnh

tranh. Trước năm 1990 nhằm phục vụ công cuộc cải tạo XHCN, Nhà nước ta

áp dụng ba chính sách thu ngân sách cho ba khu vực khác nhau: Khu vực kinh

tế Nhà nước áp dụng chính sách thu quốc doanh và phân phối lợi nhuận, khu

vực công thương nghiệp và dịch vụ NQD áp dụng chính sách thu thuế công

thương nghiệp và thuế hàng hoá, khu vực nông nghiệp áp dụng chính sách thu

thuế nông nghiệp. Ngay khu vực ngoài quốc doanh công thương nghiệp và

dịch vụ cũng có sự phân biệt giữa kinh tế tập thể và kinh tế cá thể, theo

khuynh hướng khuyến khích kinh tế tập thể bằng ưu đãi khi tính thuế, miễn

giảm thuế...

Để phù hợp với chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành

phần theo cơ chế thị trường, cần phải có một chính sách thuế thống nhất để

tạo điều kiện cạnh tranh công bằng và bình đẳng. Do đó việc ban hành các

luật thuế áp dụng chung cho mọi cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành

phần kinh tế là kịp thời và cần thiết. Về nguyên tắc chung, hệ thống chính

sách thuế mới đã đảm bảo sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, khuyến khích sản

xuất phát triển, hướng dẫn tiêu dùng hợp lý.

- Ban hành luật khuyến khích đầu tư trong nước, thể hiện cụ thể về

chủ trương của Đảng và Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi

người dân bỏ vốn sản xuất kinh doanh. Trong luật khuyến khích đầu tư trong

nước cũng ban hành luôn các danh mục ngành nghề, danh mục các địa bàn

khuyến khích đầu tư và chính sách ưu đãi cụ thể đối với từng ngành nghề và

từng địa bàn. Trong đó đặc biệt là các chính sách ưu đãi miễn giảm thuế được

các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế NQD quan tâm và hoan nghênh.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

17

Ngoài ra các chính sách về tín dụng như áp dụng chung một mức lãi

suất, chính sách về xuất nhập khẩu quy định mọi cơ sở sản xuất kinh doanh

thuộc mọi thành phần kinh tế đều được tham gia trực tiếp xuất nhập khẩu,

chính sách về lao động quy định mọi công dân đến tuổi lao động ở mọi hình

thức, mọi thành phần kinh tế đều có quyền lợi ngang nhau, chính sách về tiền

lương cũng được ban hành mới và sửa đổi, bổ xung cho phù hợp với chủ

trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Đồng thời Nhà nước

cũng chỉ đạo mạnh mẽ việc cải tiến thủ tục hành chính tạo môi trường sản

xuất kinh doanh, môi trường đầu tư lành mạnh, thông thoáng đã góp phần

quyết định cho sự tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.

4. Đặc điểm của khu vực kinh tế NQD tác động đến quản lý thu thuế

- Các thành phần kinh tế thuộc khu vực kinh tế NQD dựa trên quan hệ sở

hữu tư nhân, toàn bộ vốn, tài sản... đều thuộc sở hữu tư nhân. Trong hầu hết

trường hợp chủ sở hữu là người quản lý và ra quyết định kinh doanh và chịu

toàn bộ trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Mục tiêu lớn nhất của tất cả các

doanh nghiệp NQD là lợi nhuận. Vì vậy các doanh nghiệp rất nhanh nhậy

trong tìm hiểu đầu tư và đầu tư có thể sẵn sàng bằng bất cứ giá nhào để kiếm

được thật nhiều lợi nhuận với những phương án kinh doanh rất táo bạo và

mạo hiểm. Đôi khi để đạt được mục đích họ có thể xem thường pháp luật kể

cả trốn thuế... gây hậu quả cho xã hội.

- Đối tượng kinh doanh lớn, kinh doanh ở tất cả các lĩnh vực nhưng về

mặt quy mô còn nhiều hạn chế, một số hoạt động ở lĩnh vực sản xuất do trình

độ công nghệ lạc hậu nên năng suất lao động thấp... Đối tượng kinh doanh

vừa lớn lại trải trên diện rộng ở khắp các địa phương trong cả nước làm cho

việc quản lý đối tượng thêm phức tạp.

- Khu vực kinh tế NQD có số đông người lao động là trình độ văn hoá

thấp dẫn đến trình độ quản lý, trình độ công nghệ thấp trong số những người

lao động ở khu vực này có cả những người già, cán bộ công nhân viên nghỉ

hưu, nghỉ mất sức hoặc không có công việc làm phải kinh doanh để kiếm

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

18

sống... Do đó việc tuyên truyền giải thích chính sách gặp nhiều vấn đề khó

khăn, công tác quản lý có nhiều trở ngại do hạn chế về khả năng ngoại ngữ,

thiếu thông tin về thị trường... vì vậy khó ứng phó được với tác động thị

trường bên ngoài.

- Khu vực kinh tế NQD có ý thức chấp hành pháp luật rất kém. Tình

trạng kinh doanh không có giấy phép hay vi phạm điều lệ đăng ký kinh doanh

tương đối phổ biến. Theo số liệu điều tra liên ngành thì năm 1997 có 65% số

hộ kinh doanh là không đăng ký, 25% số doanh nghiệp kinh doanh vi phạm

về đăng ký kinh doanh... Đa số doanh nghiệp có sử dụng lao động vi phạm

chế độ sử dụng lao động như không đóng bảo hiểm xã hội...Cũng tương tự

như trên có 1 bộ phận không nhỏ số hộ kinh doanh không xin cấp mã số thuế,

không đăng ký nộp thuế đối với các doanh nghiệp NQD cũng có tình trạng

tương tự, nhiều doanh nghiệp xin thành lập nhưng không hoạt động, còn tình

trạng lập sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ không đúng thực tế nhằm mục

đích trốn thuế diễn ra phổ biến.

- Khu vực kinh tế NQD có mô hình tổ chức quản lý và kinh doanh gọn

nhẹ, năng động và nhậy bén, là khu vực chiếm phần đông trong nền kinh tế

song quy mô nhỏ do vốn ít, cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, linh hoạt, dễ dàng thích

ứng nhanh với sự biến động của thị trường và sự tiến bộ không ngừng khoa

học kỹ thuật, đồng thời trong các doanh nghiệp số lượng lao động ít và

thường đảm nhận chức vụ theo kiểu đa năng giúp cho chi phí nhân công thấp

tạo lợi thế cạnh tranh về giá và sản phẩm cung cấp cho thị trường trong nước

nhưng do quy mô quá nhỏ bé dẫn đến khó cạnh tranh được trên thị trường

quốc tế.

Trên đây là một số đặc điểm cơ bản của các thành phần kinh tế NQD. Từ đó

ta có thể thấy được những ưu, nhược điểm để tìm cách tạo điều kiện phát huy

thế mạnh cho khu vực kinh tế NQD góp phần vào quá trình hội nhập và phát

triển kinh tế đất nước.

ii. NỘI DUNG QUẢN LÝ THU THUẾ ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ NQD

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

19

1. Các sắc thuế áp dụng đối với khu vực kinh tế NQD 1.1. Thuế môn bài

Thuế môn bài thu một năm một lần nhằm mục đích hoàn thiện việc

kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước đối với các cơ sở kinh doanh qua đó có căn

cứ phân loại cơ sở kinh doanh theo quy mô lớn, vừa hay nhỏ để có biện pháp

quản lý thích hợp với từng đơn vị và động viên một phần đóng góp của cơ sở

kinh doanh ngay từ đầu mỗi năm để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho ngân sách

Nhà nước trong khi nhiều khoản thuế chưa phát sinh nguồn thu. Thuế môn bài

hiện nay đang áp dụng theo Nghị định số 52/CP ngày 9/9/1996 quy định:

- Về đối tượng nộp thuế môn bài bao gồm:

+ Các cơ sở kinh doanh hạch toán kinh tế độc lập (DNNN, công ty,

DN tư nhân, xí nghiệp tư nhân, DN hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài, tổ

chức, các cá nhân người nước ngoài đang kinh doanh tại Việt nam, các tổ

chức hành chính sự nghiệp, đoàn thể đăng ký hoạt động kinh tế) nộp thuế theo

mức 850 nghìn đồng/năm.

+ Các cơ sở kinh doanh, cửa hàng, cửa hiệu hạch toán phụ thuộc hoặc

báo sổ, Hợp tác xã, nộp thuế môn bài theo mức 550 nghìn đồng/ năm

+ Ở các cơ sở kinh doanh trên có cửa hàng, điểm kinh doanh dịch vụ

ở nhiều nơi khác nhau, thì cửa hàng đó phải nộp thuế môn bài theo mức 325

nghìn đồng/năm.

- Các đối tượng khác nộp thuế môn bài theo biểu sau.

Các đối tượng khác gồm:

+ Hộ sản xuất kinh doanh cá thể.

+ Cán bộ công nhân viên, xã viên hợp tác xã, người lao động trong

các doanh nghiệp NQD nhận khoán tự trang trải mọi khoản chi phí, tự chịu

trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh.

+ Nhóm cán bộ công nhân viên, nhóm xã viên Hợp tác xã, nhóm

người lao động nhận khoán nhưng từng cá nhân trong nhóm nhận khoán lại

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

20

kinh doanh riêng rẽ, từng cá nhân trong nhóm còn phải nộp thuế môn bài

riêng.

+ Các cơ sở kinh doanh trên danh nghĩa là các công ty Cổ phần,

công ty TNHH...nhưng từng thành viên của công ty vẫn kinh doanh độc lập

chỉ nộp một khoản tiền nhất định cho công ty để phục vụ yêu cầu quản lý

chung thì thuế môn bài thu theo từng thành viên.

Bảng 1: Biểu thuế môn bài áp dụng cho đối tượng khác nộp thuế

Đơn vị tính: nghìn đồng

Bậc thuế Thu nhập/ tháng Mức thuế cả năm

1 Trên 1250 850

2 Trên 900 đến 1250 550

3 Trên 600 đến 900 325

4 Trên 350 đến 600 165

5 Trên 150 đến 350 60

6 Dưới 150 25

Nguồn: Thông tư số 69 TC/TCT - Bộ Tài chính ngày 5/11/1996

- Thời gian nộp thuế môn bài:

+ Cơ sở kinh doanh có hoạt động sản xuất trong khoảng thời gian

của 6 tháng đầu năm thì nộp thuế môn bài cả năm.

+ Cơ sở kinh doanh có hoạt động sản xuất trong khoảng thời gian

của 6 tháng cuối năm thì nộp 50% mức thuế cả năm.

+ Cơ sở đang sản xuất kinh doanh thì nộp thuế môn bài ngay tháng

đầu của năm dương lịch

+ Cơ sở mới ra kinh doanh thì nộp thuế môn bài ngay tháng bắt đầu

kinh doanh.

- Nơi nộp thuế môn bài:Cơ sở kinh doanh đăng ký nộp thuế với cơ quan

thuế cấp nào thì nộp thuế môn bài tại cơ quan thuế cấp đó.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

21

1.2. Thuế Giá trị gia tăng (GTGT).

Luật thuế GTGT thay thế luật doanh thu được áp dụng thống nhất kể từ

1/1/1999. Thuế GTGT tính từ trên khoản GTGT thêm của hàng hoá, dịch vụ

phát sinh ở từng khâu trong quá trình sản xuất, lưu thông, tiêu dùng nên khắc

phục được nhược điểm đánh thuế trùng lặp của thuế doanh thu. Thuế được

hoàn đối với hàng hóa xuất khẩu sẽ phát huy hết tác dụng khi xuất khẩu, tạo

điều kiện cho xuất khẩu có thể cạnh tranh trên thị truờng quốc tế. Thuế GTGT

kết hợp với hàng nhập khẩu làm tăng giá vốn đối với hàng nhập khẩu, góp

phần tích cực bảo vệ hàng hóa sản xuất trong nước tăng cường hạch toán kế

toán kinh doanh, thúc đẩy việc mua bán hàng hóa thực hiện tốt chế độ hóa

đơn để được khấu trừ thuế GTGT đầu vào, khuyến khích hiện đại hoá, chuyên

môn hóa sản xuất, nâng cao chất lượng, hạ gía thành sản phẩm...

- Đối tượng đánh thuế GTGT là hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng ở nước

ta kể cả hàng hoá sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu, hàng tiêu dùng nội

bộ hay làm quà biếu, tặng, đem trao đổi trừ 26 mặt hàng được quy định trong

luật thuế GTGT.

- Đối tượng nộp thuế là mọi tổ chức, cá nhân (không phân biệt thành

phần kinh tế) có hoạt động sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa,

dịch vụ. Đối tượng phải kê khai thuế GTGT từng tháng và nộp thuế theo hạn

thời hạn ghi trong báo cáo nộp thuế của cơ quan thuế, chậm nhất không quá

ngày 25 của tháng tiếp theo. Hết năm phải kê khai để quyết toán thuế.

- Giá tính thuế GTGT là giá chưa có thuế GTGT. Khi bán hàng hoá

hay cung cấp dịch vụ trên hoá đơn phải ghi rõ giá bán hàng chưa có thuế

GTGT, tiền thuế GTGT phải nộp và giá bán gồm cả thuế GTGT.

- Về thuế suất: Có 4 mức thuế suất áp dụng đối với từng loại hàng hoá,

dịch vụ.

+ Mức 0% áp dụng cho hàng hoá xuất khẩu.

+ Mức 5% áp dụng đối với hàng hoá và dịch vụ cần khuyến khích

sản xuất tiêu dùng cần thiết cho nhu cầu đời sống.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

22

+ Mức 10% áp dụng đối với các hàng hoá và dịch vụ phổ thông.

+ Mức 20% áp dụng cho các loại hàng hoá, dịch vụ không khuyến

khích cần điều tiết cao

- Về phương pháp có 2 phương pháp: Khấu trừ thuế và tính trực tiếp

trên GTGT:

+ Phương pháp khấu trừ thuế được áp dụng đối với mọi cơ sở kinh

doanh phải thực hiện chế độ hoá đơn GTGT và sổ sách kinh doanh, có căn cứ

xác định thuế đầu ra và thuế đầu vào để thực hiện chế độ khấu trừ thuế:

Thuế GTGT = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào

+ Phương pháp trực tiếp được thực hiện đối với các cơ sở kinh

doanh không có điều kiện thực hiên chế độ sổ sách hoá đơn GTGT, chủ yếu

áp dụng đối với các hộ nhỏ, thuế tính theo tỷ lệ GTGT trên doanh thu khoán

trong một thời gian 6 tháng đến một năm.

Thuế GTGT = GTGT x Thuế suất.

+ Về nguyên tắc: Thuế GTGT là thuế gián thu mà cơ sở kinh doanh

đã thu hộ Nhà nước khi bán hàng nên không có chế độ miễn giảm thuế cho cơ

sở kinh doanh. Tuy nhiên trong bước đầu chuyển từ thuế doanh thu có 11

mức thuế sang thuế GTGT có 4 thuế suất, một số cơ sở kinh doanh phải nộp

thuế GTGT cao hơn thuế doanh thu trong những năm đầu bị lỗ thì được xét

giảm thuế GTGT trong từng năm dương lịch. Thời gian được xét giảm thuế

tối đa từ 3 năm kể từ khi luật thuế GTGT tương ứng với số lỗ của năm xét

giảm thuế, nhưng tối đa không quá 50% số thuế GTGT phải nộp trong năm và

theo thêm quyền xét giảm thuế GTGT được quy định cho từng cấp.

1.3. Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN)

Thuế TNDN thay thế Luật thuế lợi tức được thi hành từ 1/1/1999 nhằm

bao quát và điều tiết tất cả các khoản thu nhập đã, đang và sẽ phát sinh của cơ

sở kinh doanh trong cơ chế thị trường, khuyến khích các nhà đầu tư nước

ngoài và khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong nước tiết kiệm vốn cho đầu

tư phát triển kinh doanh qua các chế độ miễn giảm thuế từng bước thu hẹp sự

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

23

khác biệt về chính sách thuế để đảm bảo sự bình đẳng và cạnh tranh lành

mạnh giữa các thành phần kinh tế, hệ thống hoá những quy định ưu đãi về

thuế.

- Về giá tính thuế:

Điều 7 Nghị định 54 của Chính phủ ngày 28/8/1993 quy định. Giá tính

thuế hàng nhập khẩu là giá mua tại cửa khẩu nhập (bao gồm cả phí vận

chuyển, phí bảo hiểm...) theo hợp đồng. Còn với hàng xuất nhập khẩu không

đủ điều kiện xác định giá tính thuế theo hợp đồng hay giá ghi trên hợp đồng

quá thấp so với giá mua bán tối thiểu tại cửa khẩu và đối với hàng hoá xuất,

nhập khẩu theo phương thức khác không phải là mua, bán, không thanh toán

qua ngân hàng) thì giá tính thuế là giá mua, bán tối thiểu tại cửa khẩu.

- Về chính sách miễn giảm thuế:

Ngoài các đối tượng được miễn giảm thuế sau khi đã làm thủ tục hải

quan như: hàng Viện trợ không hoàn lại, hàng là tài sản di chuyển, hàng trong

tiêu chuẩn hành lý miễn thuế của khách nhập cảnh... Luật thuế xuất, nhập

khẩu hiện hành còn quy định những đối tượng sau được xét miễn giảm thuế:

hàng chuyên dùng cho an ninh quốc phòng, nghiên cứu giáo dục và đào tạo...

Quy định nói trên cho thấy chính sách miễn giảm thuế hiện nay còn khá

rộng rãi so với các nước trong khu vực làm cho chính sách thuế thiếu tính

minh bạch, giảm tính trung lập của thuế.

1.4. Thuế Tiêu thụ đặc biệt (TTĐB)

Như các luật thuế khác, luật thuế TTĐB quy định mọi tổ chức cá nhân

không phân biệt thành phần kinh tế có sản xuất kinh doanh hàng hoá và kinh

doanh dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB là đối tượng nộp thuế TTĐB.

Căn cứ tính thuế TTĐB là giá tính thuế của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế và

thuế suất.

1.5. Các sắc thuế khác

Ngoài các sắc thuế nói trên, các cơ sở sản xuất kinh doanh còn phải nộp

các khoản thuế khác như thuế nhà đất, thuế tài nguyên...Tuy nhiên vì các

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

24

khoản này không phát sinh thường xuyên hay rất nhỏ nên không trình bày kỹ

mục đích ý nghĩa, nội dung chính sách thu.

2- Nội dung quản lí thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh

2.1 Qui trình quản lí thu thuế đối với các doanh nghiệp

2.1.1 Đăng ký thuế và cấp mã số thuế

1- Doanh nghiệp lập đăng ký thuế:

Doanh nghiệp mới ra kinh doanh phải đăng ký với Cục thuế. Sau đó

doanh nghiệp gửi tờ khai đăng ký thuế tới cơ quan thuế.

2- Tiếp nhận đăng ký thuế:

Phòng Hành chính nhận tờ khai đăng ký thuế của các doanh nghiệp, từ

các chi cục gửi lên sau đó phân loại tờ khai đăng ký thuế của các doanh

nghiệp theo từng phòng quản lý thu sau đó chuyển cho Phòng quản lý thu và

Phòng máy tính.

3- Kiểm tra tờ khai đăng ký thuế - Phòng quản lý thu thực hiện.

4- Nhập đăng ký thuế và cấp mã số thuế - phòng máy tính thực hiện:

5- Chuyển dữ liệu đăng ký thuế về tổng cục thuế: Phòng máy tính của

Tổng cục thuế truyền dữ liệu đăng ký thuế về Tổng cục Thuế để tránh sự

trùng lập mã số thuế trên phạm vi toàn quốc.

6- Kiểm tra tại Tổng cục: Tổng cục kiểm tra dữ liệu đăng ký thuế các

cục thuế trên phạm vi toàn quốc để tránh việc đăng ký trùng lắp đồng thời

kiểm tra quan hệ doanh nghiệp chủ quản với đơn vị trực thuộc thông qua mã

số thuế.

7- In giấy chứng nhận cấp mã thuế.

2.1.2 Xử lý tờ khai và chứng từ nộp thuế

1- Hướng dẫn đối tượng nộp thuế (ĐTNT) lập tờ khai thuế: Phòng quản

lý thu hướng dẫn các doanh nghiệp lập và khai thuế theo mẫu và gửi cơ quan

thuế theo đúng hạn quy định của luật thuế.

2- Tiếp nhận tờ khai: Phòng Hành chính tiếp nhận tờ khai và chuyển

đến phòng quản lý thu.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

25

3- Kiểm tra tờ khai ban đầu: Phòng quản lý nhận tờ khai và phát hiện

lỗi của đối tượng nộp sau đó gửi xuống phòng máy tính.

4- Nhập tờ khai: Phòng máy tính tiến hành xử lý kiểm tra sau đó thông

báo cho phòng quản lý thu biết để báo cho ĐTNT về những sai sót trên tờ

khai mà cơ quan thuế đã sửa.

5- Sửa lỗi kê khai: ĐTNT liên hệ với cơ quan thuế để sửa với thuế

GTGT trước ngày 15 hàng tháng, với thuế TNDN trước ngày 28/2 của năm.

6- ấn định thuế: Phòng quản lý thu theo dõi ĐTNT không nộp tờ khai

hoặc quá hạn sửa lỗi thì thực hiện việc ấn định thuế.

7- In thông báo thuế:

+ Thông báo thuế lần 1: Phòng máy tính tính nợ kỳ trước chuyển

sang, tính nợ phải nộp kỳ này đưa vào danh sách ấn định thuế và in thông báo

thuế thời gian đối với thuế GTTG là in trước ngày 18 hàng thàng và đối với

thuế TNDN là ngày 15 của tháng thứ 3.

+Thông báo thuế lần 2: phòng quản lý thu theo dõi ĐTNT chưa

nộp thuế lần1. Phòng máy tính ra thông báo thuế lần 2 số tiền là: số tiền thuế

chưa nộp + số tiền phạt của thuế.

8- Xử lý nộp phạt:

+ Tính phạt nộp chậm: Phòng KH - KT - TK(MT) tính phạt 0,1%/

ngày trên số tiền thuế nộp chậm đối với các đối tượng nộp thuế nộp chậm tiền

thuế. Việc tính phạt nộp chậm căn cứ vào số ngày và số tiền thuế chậm.

+ Phạt hành chính: Phòng Quản lý thu hoặc phòng TT-XLTT xem

xét, lựa chọn đối tượng nộp thuế cần phạt thuế theo quy định tại thông tư số

128/1998/TT-BTC về xử phạt hành chính để trình lãnh đạo Cục duyệt.

9- Lập lệnh thu: Phòng Quản lý thu theo dõi tình hình nợ đọng thuế, lựa

chọn và lập danh sách các đối tượng nộp thuế.

10- Nộp thuế: Đối tượng nộp thuế căn cứ vào tờ khai tính thuế của

mình để nộp thuế vào Kho bạc, phòng Quản lý thu có trách nhiệm theo dõi

đối tượng nộp thuế theo đúng hạn định.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

26

11- Thu thuế tại Kho bạc:

12- Nhận giấy nộp tiền:

13- Lập kế hoạch kiểm tra đối tượng nộp thuế về kê khai thuế:

Phòng Thông tin - Xử lý thông tin và các phòng Quản lý thu khai thác

danh sách đối tượng nộp thuế có nghi vấn về kê khai thuế trên máy tính.

14- Xử lý danh sách đối tượng nộp thuế nghi vấn:

15- Kiểm tra trực tiếp đối tượng nộp thuế: Phòng TT – XLTT phối hợp

với phòng quản lý thu thực hiện kiểm tra trực tiếp theo quy trình quy định.

16- Nhập kết quả sau kiểm tra:

17- Lập sổ thuế, báo cáo kế toán:

2.1.3 Xử lý hoàn thuế:

1- Lập và gửi hồ sơ đề nghị hoàn thuế: Đối tượng hoàn thuế lập hồ sơ

theo quy định để đề nghị hoàn thuế và gửi đến cơ quan thuế trực tiếp thu.

2- Tiếp nhận hồ sơ:

3- Kiểm tra hồ sơ, xác định số thuế được hoàn: Phòng Quản lý thu kiểm

tra các thủ tục hoàn thuế của đối tượng nộp thuế. Sau khi kiểm tra hồ sơ đề

nghị hoàn thuế phòng Quản lý thu thông báo cho đối tượng nộp thuế để bổ

sung chỉnh sửa kịp thời.

4- Lãnh đạo duyệt.

5- Gửi và lưu các Quyết định hoàn thuế.

6- Lập danh sách ĐTNT được hoàn thuế.

Phòng Quản lý thu căn cứ vào quyết định hoàn thuế để lập danh sách

kết quả hoàn thuế, lãnh đạo Phòng Quản lý thu ký xác nhận danh sách.

7- Kho bạc hoàn thuế.

8- Nhập chứng từ hoàn thuế: Có hai cách là:

+ Nhập số thuế được hoàn theo Quyết định.

+ Nhập số đã hoàn theo chứng từ kho bạc.

2.1.4 Xử lý miễn thuế, giảm thuế, tạm giảm thuế:

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

27

1- Lập, gửi hồ sơ đề nghị miễn thuế, giảm, tạm giảm thuế:

ĐTNT thuộc diện được miễn, giảm thuế theo Luật thuế phải lập hồ sơ

đề nghị miễn, giảm, tạm giảm thuế theo qui định để gửi tới cơ quan thuế.

2- Tiếp nhận hồ sơ.

3- Kiểm tra hồ sơ, xác định số thuế miễn hoặc giảm, tạm giảm thuế.

Phòng Quản lý thu nhận hồ sơ đề nghị miễn, giảm, tạm giảm thuế của

ĐTNT, tiến hành kiểm tra thủ tục hồ sơ để xác định số thuế được miễn, giảm,

tạm giảm.

4- Duyệt hồ sơ, ký quyết định miễn thuế, tạm giảm hoặc giảm thuế.

5- Gửi quyết định miễn thuế, tạm giảm hoặc giảm thuế .

6- Lập danh sách miễn, giảm, tạm giảm thuế.

7- Điều chỉnh số thuế phải nộp.

Phòng KH-KT-TK(MT) nhận danh sách kết quả quyết định miễn

thuế, nhập số thuế được miễn, tạm giảm hoặc giảm để điều chỉnh số thuế phải

nộp từng kỳ của ĐTNT.

8- Lưu hồ sơ.

2.1.5 Xử lý quyết toán thuế:

1- ĐTNT lập và gửi quyết toán.

2- Nhận quyết toán thuế.

3- Kiểm tra số liệu quyết toán thuế.

Kiểm tra ban đầu: Phòng Quản lý thu nhận quyết toán thuế, kiểm tra

phát hiện các chỉ tiêu kê khai sai trong quyết toán thuế.

Kiểm tra xác minh số liệu quyết toán thuế:

Đối với các bản quyết toán thuế kê khai rõ ràng, đầy đủ chứng từ chứng

minh số liệu, Phòng Quản lý thu kiểm tra tính chính xác của các số liệu kê

khai trên quyết toán.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

28

4- Xác định kết quả quyết toán thuế:

5- Điều chỉnh thuế phải nộp: Phòng KH-KT-TK (MT) điều chỉnh số

thuế phải nộp vào tháng hoặc quý hiện tại.

6- Lưu hồ sơ quyết toán: Phòng Quản lý thu lưu vào hồ sơ doanh

nghiệp

2.1.6 Lập hồ sơ đối tượng nộp thuế:

Phòng Quản lý thu: Có nhiệm vụ tạo lập và quản lý hồ sơ các doanh

nghiệp. Mỗi doanh nghiệp sẽ có một cặp hồ sơ riêng lưu trữ các tài liệu như:

1- Đăng ký thuế.

2- Thông báo thuế.

3- Các hồ sơ và quyết định hoàn thuế, giảm, tạm giảm thuế.

4- Quyết toán thuế.

5- Các biên bản kiểm tra, quyết định xử lý kiểm tra.

6- Các quyết định phạt hành chính thuế.

7- Lệnh thu.

8- Các tài liệu, giấy tờ có liên quan đến doanh nghiệp

2.2. Qui trình quản lý thu thuế: (đối với hộ cá thể kinh doanh công

thương nghiệp)

2.2.1 Đăng ký thuế

1- Quản lý địa bàn: Đội thuế có trách nhiệm phối hợp với chính quyền

phường, xã nắm số hộ sản xuất, kinh doanh trên địa bàn.

2- ĐTNT kê khai đăng ký thuế: Có hai trường hợp:

- Cá nhân (hộ) ra kinh doanh lần đầu phải tiến hành kê khai đăng ký

thuế để được cấp mã số thuế.

- Cá nhân (hộ) trước đó đã được cấp mã số thuế, nhưng nghỉ kinh

doanh dài hạn, sau đó lại kinh doanh lại vẫn phải thực hiện đăng ký nộp thuế

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

29

lại cơ quan thuế, nhưng cấp mã số thuế mới (ĐTNT sử dụng mã số thuế đã

có).

3- Nhận tờ khai đăng ký thuế: Đội thuế nhận tờ đăng ký thuế của các

ĐTNT. Kiểm tra các chỉ tiêu kê khai và trực tiếp liên hệ với ĐTNT chỉnh sửa

tờ khai đăng ký thuế nếu có lỗi .

4- Nhận Giấy chứng nhận đăng ký thuế:

5- Gửi giấy chứng nhận đăng ký thuế (ĐKT) cho ĐTNT: Các đội thuế

nhận giấy chứng nhận đăng ký thuế và lập sổ theo dõi việc phát giấy chứng

nhận ĐKT theo mẫu số 02/NQD .

2.2.2 Điều tra doanh số ấn định:

1- Giao chỉ tiêu phấn đấu

2- Phân loại ĐTNT

3- Hướng dẫn ĐTNT kê khai thuế

4- Điều tra xác định doanh số của ĐTNT: Trực tiếp điều tra hoặc phối

hợp với hội đồng tư vấn thuế phường, xã tổ chức điều tra xác định doanh số

điển hình theo mẫu số 03/NQD để làm căn cứ tham khảo khi xác định doanh

số chung của các hộ.

5 -Thực hiện công khai hoá doanh số dự kiến.

6 -Tham khảo ý kiến của hội đồng tư vấn thuế.

7- Duyệt mức doanh số ấn định: Sau khi hội đồng tư vấn thuế xem xét

và tham gia ý kiến về mức doanh số dự kiến ấn định cho các hộ mới phát sinh

và hết hạn ổn định thuế, tổ KH-NV tập hợp, kiểm tra lại kết quả của ấn định.

2.2.3 Xét miễn giảm thuế:

1- ĐTNT nộp đơn đề nghị miễn, giảm thuế: Các hộ kinh doanh trong

diện được miễn thuế và các hộ tạm nghỉ kinh doanh trên 15 ngày phải viết

đơn đề nghị cơ qua thuế xét miễn, giảm thuế.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

30

2 -Kiểm tra, giải quyết đơn đề nghị miễn, giảm thuế: Tổ kiểm tra Chi

cục phối hợp với các đội thuế tổ chức tiến hành kiểm tra các hộ có đơn nghỉ

kinh doanh.

2.2.4 Tính thuế, lập sổ bộ thuế (đối với hộ ấn định thuế):

1- Tập hợp các căn cứ tính thuế: Tổ Kế hoạch - Nghiệp vụ (KH- NV)

thu nhập danh sách dự kiến doanh số ấn định của các hộ mới ra kinh doanh và

các hộ dự kiến điêù chỉnh doanh số ấn định để làm căn cứ tính thuế cho kỳ

thuế tới.

2- Tính thuế, tính nợ và phạt (nếu có) và lập sổ bộ thuế:

- Đối với các hộ còn trong thời hạn ổn định thuế: Tổ KH-NV thực

hiện chuyển sổ, giữ nguyên mức doanh số, thuế và tính tiền nợ, tiền phạt ngay

từ đầu tháng, sau đó thực hiện in thông báo ngay.

- Đối với các hộ mới phát sinh hoặc hết hạn ổn định thuế: Tổ KH-NV

căn cứ vào bảng dự kiến doanh số ấn định của từng hộ mới phát sinh hoặc hết

hạn ổn định thuế, dựa vào bảng tỷ lệ giá trị gia tăng... để tính thuế cho từng hộ

này. Đồng thời tính nợ thuế và phạt nộp chậm đối với các hộ hết hạn ổn định

thuế.

- Tính phạt: Tổ KH-NV và tổ kiểm tra Chi cục qua theo dõi việc nộp

thuế của các hộ, đề xuất danh sách các hộ phạt hành chính thuế về xử phạt vi

phạm hành chính trong lĩnh vực thuế.

3- Tổ chức duyệt sổ bộ thuế:

4- Công khai thuế:

Các đội thuế thực hiện niêm yết công khai hoá mức thuế của các hộ này

tại trụ sở UBND phường, xã, các tổ ngành hàng để các ĐTNT được biết.

5- Thông báo thuế

Thông báo thuế ghi đầy đủ mã số ĐTNT (do Cục thuế cấp), số thuế nợ

tháng trước chuyển qua, số thuế phải nộp tháng này, địa điểm nộp thuế và các

chỉ tiêu khác.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

31

6- Công tác kiểm tra: Tổ kiểm tra khai thác thông tin về tình hình thu

nộp, giám sát quá trình tính thuế, lập bộ để kịp thời phát hiện các trường hợp

có hiện tượng trốn, lậu thuế để lập kế hoạch kiểm tra lại cơ sở.

2.2.5. Xử lý tờ khai:

1. ĐTNT lập tờ khai thuế: Hộ kinh doanh phải lập các tờ khai thuế theo

mẫu quy định và gửi cơ quan thuế.

2. Nhận và kiểm tra tờ khai: Đội thuế nhận tờ khai thuế từ các hộ kinh

doanh. Ghi sổ theo dõi việc nhận tờ khai. Sau đó tiến hành kiểm tra tờ khai để

phát hiện các lỗi như:

+ Ghi sai tên ĐTNT.

+ Không ghi mã số thuế.

+ Khai thiếu chỉ tiêu hoặc sai mẫu tờ khai.

+ Áp thuế suất sai, tính toán sai.

+ Các chỉ tiêu tiền bằng ngoại tệ chưa quy đổi ra tiền việt.

2. Ấn định thuế: Tổ KH - NV lập danh sách ấn định thuế cho kỳ thuế

trước ngày 15 của tháng để trình lãnh đạo duyệt.

4. Tính thuế, tính nợ, tính phạt và lập sổ bộ thuế:

Tổ KH - NV căn cứ vào tờ khai thuế, danh sách ấn định thuế, các kết

quả kiểm tra, quyết định phạt hành chính,... để tiến hành tính thuế, tính nợ kỳ

trước chuyển qua và tính phạt nộp chậm tiền thuế. Sau đó lập sổ bộ thuế.

5. Thông báo thuế:

- Thông báo thuế lần 1:

Tổ KH - NV tính nợ kỳ trước chuyển sang, tính thuế phải nộp tháng

này dựa vào tờ khai và danh sách ấn định thuế, tính phạt và in thông báo thuế.

- Thông báo thuế lần 2: Qua theo dõi thu nộp của ĐTNT, tổ KH - NV

lựa chọn ĐTNT cần phát hành thông báo thuế lần 2. Số tiền trong báo lần 2

gồm: số tiền chưa nộp và số tiền phạt của số thuế nộp chậm.

6. Phạt hành chính thuế:

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

32

Trong quá trình quản lý thu, nếu phát hiện ĐTNT vi phạm quy định về

phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực thuế, các đội thuế hoặc tổ kiểm tra Chi

cục để xuất và dự thảo quyết định phạt hành chính thuế trình lãnh đạo Chi cục

duyệt.

7. Lập lệnh thu:

Tổ KH - NV phối hợp với đội thuế và tổ kiểm tra Chi cục lập danh sách

ĐTNT nợ thuế lớn, kéo dài đề nghị lập lệnh thu trình lãnh đạo duyệt.

8. Công tác kiểm tra:

Tổ kiểm tra khai thác thông tin về tình hình thu nộp để lựa chọn các đối

tượng nộp thuế trong diện kê khai cần kiểm tra tại cơ sở. Lập kế hoạch kiểm

tra trình lãnh đạo duyệt và tiến hành kiểm tra tại cơ sở kinh doanh.

9. Quyết toán thuế:

Hộ kê khai lập quyết toán thuế và nộp cho cơ quan thuế. Đội thuế nhận

quyết toán và chuyển quyết toán cho tổ KH - NV để xác định số thuế phải nộp

để tổ KH - NV điều chỉnh số thuế trong kỳ thuế hiện tại.

2.2.6. Xử lý giấy nộp tiền, lập báo cáo KT - TK thuế:

1. Nộp thuế: ĐTNT căn cứ vào thông báo thuế để nộp thuế.

2. Thu thuế tại Kho bạc:

3. Theo dõi tình hình nộp thuế (chấm bộ thuế):

Tổ KH - NV hàng ngày nhận giấy nộp tiền từ Kho bạc. Căn cứ vào số

liệu trên giấy nộp tiền để chấm sổ bộ thuế, theo dõi tình hình nộp thuế và nợ

đọng thuế của các ĐTNT.

4. Kiểm tra các ĐTNT nợ đọng thuế:

Qua việc theo dõi tình hình thu nộp thuế, tổ kiểm tra phối hợp với các

đội thuế lựa chọn các ĐTNT nợ đọng thuế lớn, nợ kéo dài hoặc có hiện tượng

nghi ngờ về trốn lậu thuế để lập kế hoạch kiểm tra trình lãnh đạo Chi cục

duyệt, sau đó, tiến hành kiểm tra ĐTNT theo kế hoạch.

5. Chuyển chứng từ nộp thuế của ĐTNT theo phương pháp khấu trừ về

Cục thuế.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

33

6. Thẩm hạch biên lai

7. Lập báo cáo kế toán, thống kê

Theo kỳ hạn quy định, tổ KH - NV lập các báo cáo kế toán, thống kê

theo chế độ để gửi lãnh đạo Chi cục và cấp trên để phục vụ cho công tác chỉ

đạo thu.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

34

CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ KHU VỰC

KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

I. KHÁI QUÁT VỀ BỘ MÁY QUẢN LÝ THU THUẾ

1. Giới thiệu chung về bộ máy quản lý thu thuế

Lịch sử ngành thuế Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn phát triển để thành

lập nên ngành thuế Nhà nước thống nhất vào ngày 7/7/1990. Nhằm thực hiện

có hiệu quả những mục tiêu đổi mới của hệ thống chính sách thuế. Hội đồng

Chính phủ đã ban hành nghị định số 281-HĐBT về việc thành lập ngành thuế

Nhà nước (trực thuộc Bộ Tài chính) được hợp nhất từ ba hệ thống tổ chức:

Thu Quốc doanh, Thu Công thương nghiệp, thuế Nông nghiệp thành một hệ

thống thuế thống nhất từ TW đến địa phương, kiện toàn bộ máy, đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, đảm bảo các mục tiêu cải cách của hệ thống thuế mới với hiệu

quả cao nhất. Ngành thuế Nhà nước được tổ chức qua 3 cấp từ Tổng cục

Thuế, Cục Thuế, Chi cục Thuế; được xác đinh rõ quyền hạn, trách nhiệm và

sự phân công cụ thể hợp lý giữa cơ quan thuế với ngành dọc cấp trên và

chính quyền từng cấp trong tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm chỉnh

chính sách, chế độ thuế chung cả nước và trên địa bàn lãnh thổ theo nguyên

tắc song trung lãnh đạo

Hệ thống bộ máy tổ chức ngành thuế được xây dựng theo nguyên tắc

sau.

- Hệ thống thu thuế Nhà nước được thống nhất thành hệ thống dọc từ

Trung ương đến quận, huyện, thị xã:

+ Ở Trung ương: Có Tổng cục thuế trực thuộc Bộ Tài chính là bộ máy

quản lý thu thuế cao nhất trong hệ thống thu thuế Nhà nước, có nhiệm vụ giúp

Bộ Tài chính soạn thảo các Luật, Pháp lệnh, các văn bản pháp quy liên quan

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

35

đến chính sách, chế độ thuế đông thời hướng dẫn chỉ đạo việc thực hiện chính

sách, chế độ quản lý thu thuế và thu khác trong cả nước.

+ Ở cấp Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương: Cục thuế.

Nhiệm vụ chính là hướng dẫn tổ chức việc chỉ đạo, thực hiện thống nhất

các chính sách, chế độ, nguyên tắc về quản lý thu thuế trên địa bàn theo đúng

pháp luật, pháp lệnh, các quy định của hội đồng Nhà nước, hội đồng Bộ

trưởng và hướng dẫn Bộ Tài chính và cơ quan thuế cấp trên: Tuyên truyền,

phổ biến nội dung chính sách thuế cho các đối tượng nộp thuế, các ngành, các

cấp và toàn dân chấp hành.

+ Ở các quận, huyện và các cấp hành chính tương đương: Có chi cục

thuế. Nhiệm vụ là tổ chức việc triển khai thực hiện chính sách, chế độ thuế

trên địa bàn (như tổ chức các biện pháp thu thuế, tính thuế. đến từng đối

tượng nộp thuế, tổ chức công tác, kiểm tra chống khai man, lậu thuế..., tổ

chức công tác thống kê, kế toán, thông tin).

2. Bộ máy quản lý thu thuế khu vực kinh tế NQD

- Ở cấp TW: Có phòng thuế NQD của Tổng cục Thuế.

Phòng nghiệp vụ thuế khu vực kinh tế NQD có chức năng giúp Tổng

cục trưởng Tổng cục Thuế hướng dẫn chỉ đạo cơ quan thuế địa phương tổ

chức thực hiện công tác quản lý và thu thuế khu vực kinh tế NQD.

Nhiệm vụ cụ thể:

+ Phối hợp, tham gia với phòng chính sách và các phòng nghiệp vụ

có liên quan nghiên cứu, xây dựng, hướng dẫn các chính sách, chế độ về thuế

đối với khu vực kinh tế NQD bao gồm mọi loại hình doanh nghiệp tư nhân,

các hộ kinh doanh cá thể, các HTX để trình bày các cấp có thẩm quyền để ban

hành.

+ Nghiên cứu, xây dựng các quy trình, quy chế và các biện pháp

nghiệp vụ quản lý thu thuế đối với khu vực này đảm bảo thực hiện chính sách

chế độ thuế, chống thất thu có hiệu quả, chống buôn lậu trốn thuế.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

36

+ Hướng dẫn, chỉ đạo và kiểm tra cơ quan thuế các cấp trong việc

thực hiện chính sách, quy chế, quy trình và biện pháp nghiệp vụ quản lý thu

thuế đối với khu vực NQD (như quy trình tách 3 bộ phận, tổ chức thu thuế

qua Kho bạc, triển khai kế toán tư nhân, tổ chức duyệt sổ bộ thuế tổng hợp,

quy trình điều chỉnh thuế v.v...).

+ Xem xét, giải quyết những vướng mắc của cơ sở kinh tế NQD

trong quá trình thi hành pháp luật, pháp lệnh thuế; xem xét đề nghị và kiểm

tra việc giảm thuế, miễn thuế của cơ quan thuế các cấp địa phương trong khu

vực kinh tế NQD.

+ Phối hợp với các phòng có liên quan trong Tổng cục Thuế để xây

dựng kế hoạch thu, tổng hợp đánh giá, phân tích tình hình kết quả thu, đề xuất

với Tổng cục, Bộ có những chủ trương, biện pháp chỉ đạo thích hợp trong lĩnh

vực thuế khu vực kinh tế NQD nhằm tăng thu cho ngân sách.

+ Phối hợp với phòng ấn chỉ nghiên cứu biểu mẫu, biên lai chỉ thuế

phù hợp với đối tượng quản lý cũng như kiểm tra quá trình quản lý, sử dụng

các loại biên lai, ấn chỉ thuế tại các địa phương.

+ Tham gia với các ngành, các cấp về chủ trương, biên pháp khuyến

khích phát triển kinh doanh sản xuất NQD, mở rộng giao lưu hàng hoá, chống

buôn lậu kinh doanh hàng hoá trái phép v.v...

+ Tham gia biên soạn các tài liệu, giáo án cũng như giảng dạy cho

các lớp đào tạo, bồi dưỡng của ngành.

+ Tổ chức công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ nghiệp vụ các văn bản

pháp quy của Nhà nước thuộc lĩnh vực quản lýcủa phòng theo đúng quy định

của ngành; quản lý và điều hành cán bộ, nhân viên trong phòng thực hiện đầy

đủ các quy định của Nhà nước và làm tốt nhiệm vụ được giao.

- Ở cấp Tỉnh, Thành phố: Có phòng NQD, phòng nghiệp vụ, phòng

thanh tra của Cục Thuế: Các phòng này đều có những nhiệm vụ riêng trong

việc thực hiện, chấp hành các chế độ chính sách của Tổng cục Thuế, BTC đưa

ra đối với khu vực kinh tế NQD.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

37

- Ở cấp quận, huyện: Có các tổ nghiệp vụ, tổ thanh tra, các đội thuế

chủ yếu là quản lý các hộ kinh doanh trên địa bàn.

II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÍ THU THUẾ KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

1. Kết quả công tác thu thuế

1.1. Về số lượng

1.1.1.Đối với các doanh nghiệp:

- Trước khi có Luật Doanh nghiệp:

Từ năm 1990 ban hành luật doanh nghiệp tư nhân, đồng thời một số chỉ

thị quyết định, chính sách khác đã được triển khai. Nhờ đó số lượng doanh

nghiệp đã tăng lên nhanh chóng, chủ yếu là các loại hình doanh nghiệp tư

nhân, công ty TNHH, công ty CP, cụ thể năm 1991 có tất cả 494 doanh

nghiệp hoạt động thì năm 1992 có 5198 doanh nghiệp, năm 1993 có 6808

doanh nghiệp, năm 1994 có 10881 doanh nghiệp, năm 1996 có 15.276 doanh

nghiệp, năm 1999 có 37.577 doanh nghiệp. Như vậy tính bình quân từ 1991-

1999 mỗi năm tăng hơn 3000 doanh nghiệp.

Có thể nói rằng với nền kinh tế gồm 80 triệu người thì số DNNQD ở

mức 37575 DN là quá ít. Trong đó số lượng các DNNQD hoạt động thương

mại, dịch vụ hầu như luôn tăng nhanh hơn số các DNNQD hoạt động trong

lĩnh vực sản xuất, cụ thể:

Bảng 2: Cơ cấu các doanh nghiệp NQD

Đơn vị: doanh nghiệp

Năm

Tổng số DN

NQD(1)

DN trong

lĩnh vực

TMDV(2)

Tỷ lệ

(3)=(2)/(1)

(%)

DN

trong

lĩnh vực

SX (4)

Tỷ lệ

(5)=(4)/(1)

(%)

1991-1996 15.276 5.958 39 5.347 35

1997-1998 28.708 14.067 49 6.316 22

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

38

1999-2000 51.468 27.793 54 7.720 15

Nguồn: Báo cáo của Phòng Thương mại và công nghiệp.

- Sau khi có Luật DN (năm 2000):

Nhờ xoá bỏ thủ tục xin giấy phép thành lập DN loại bỏ 165 loại giấy

phép kinh doanh, đơn giản hoá thủ tục hành chính trong đăng ký kinh doanh

mà trong vòng chỉ 1 năm kể từ khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực 13.891 DN

mới được thành lập bằng 1/5 tổng số doanh nghiệp thành lập từ năm 1990 đến

1999. Và một điểm đáng chú ý là trong một thời gian này có khoảng hơn 500

công ty Cổ phần mới được thành lập lớn hơn tổng số công ty Cổ phần được

thành lập suốt 9 năm trước cộng lại vì từ năm 1991 đến 1999 có 214 công ty

CP.

Theo số liệu tổng hợp của DNNQD đã đăng ký nộp thuế (đã được cấp

mã số thuế) của Bộ Tài Chính thì số DNNQD đang hoạt động thấp hơn mức

cơ quan đăng ký kinh doanh ghi nhận được.

Bảng 3: Tổng hợp số DNNQD đăng ký nộp thuế

Đơn vị tính: nghìn doanh nghiệp

Đến 31/12/2000 Đến 31/12/2001

Loại DN 31/12/98 31/12/99 Tổng số

đăng ký

Đang

Nghỉ

KD

Tổng số

đăng ký

Đang

Nghỉ

KD

Cty TNHH 9.375 13.850 21.031 20.255 776 30.160 29.356 804

Cty CPhần 582 933 1.178 1.668 50 3.986 3.928 58

DNTN 18.751 22.794 28.719 27.277 1.442 34.925 33.459 1.466

Tổng số 28.708 37.577 51.468 49.200 2.268 69.071 66.743 2.328

Nguồn: Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê.

Như vậy số DN nêu trên chưa kể HTX, quỹ tín dụng, các chi nhánh của

các công ty. Số liệu quản lý thu thuế thấp hơn so với số liệu cấp đăng ký kinh

doanh số liệu cấp đăng ký kinh doanh là cộng theo luỹ kế chưa loại trừ các

trường hợp có đăng ký kinh doanh nhưng không khai báo nộp thuế hoặc tạm

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

39

nghỉ kinh doanh, do vậy số DN đăng ký hoạt động lớn hơn nhưng số lượng

DN thu thuế thì ít hơn.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

40

1.1.2. Đối với hộ cá thể:

Ta xét bảng sau:

Bảng 4: Số hộ kinh doanh trong các năm

Đơn vị tính: nghìn hộ.

Năm Số hộ kinh doanh

1990 750

1995 1.150

1997 1.400

2000 1.700

2001 1.954

Nguồn: Tổng cục Thuế

Nổi lên trong những năm gần đây do Chính Phủ khuyến khích thành

lập doanh nghiệp, vì vậy nhiều hộ kinh doanh lớn đã chuyển lên thành lập

DN, tức là có sự chuyển dịch thu từ cá thể sang DN. Theo phản ánh của các

địa phương, trong năm 2000 có đến 2/3 số doanh nghiệp mới thành lập và

chuyển từ hộ kinh doanh cá thể lên.

1.2. Về vốn đầu tư

Theo số liệu điều tra liên bộ năm 1997 tổng số vốn đăng ký toàn ộ khu

vực kinh tế NQD là 26.845 tỷ đồng. Trong đó khu vực doanh nghiệp là

18.945 tỷ đồng, khu vực hộ cá thể là 7.900 tỷ đồng. Số vốn thực tế đưa vào

hoạt động sản xuất là 47.676 tỷ đồng. Trong đó: - Khu vực Doanh nghiệp :

2.436tỷđồng.

- Khu vực Hộ cá thể : 15.134 tỷ đồng.

Cũng theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê, trong năm 2000 các

DN NQD đã đăng ký vốn lên đến 37.000 tỷ đồng, tài sản cố định (TSCĐ) với

số vốn gần 7 tỷ đồng, và là một trong những thành phần kinh tế có tốc độ tăng

vốn đầu tư phát triển vào loại cao. Điều đó được thể hiện ở bảng sau

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

41

Bảng 5: Vốn theo đăng ký tính đến 31/12/1999.

Loại hình DN Vốn đăng ký(Tỷ đồng) Tỷ lệ(%)

DN Nhà nước 113.562 80,626

DN Tư nhân 6.177 4,385

Cty TNHH 13.373 9,495

Cty Cổ phần 5.280 3,749

HTX phi nông nghiệp 254 0,180

DN của các tổ chức 2.203 1,564

Tổng 140.849 100

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Vốn đầu tư của các hộ kinh doanh năm 1999 đạt 30.000 tỷ đồng chiếm

19,7% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội, tuy nhiên chỉ có khoảng 50% trong

tổng số vốn này dùng cho phát triển hoạt động sản xuất, 50% còn lại là dùng

vào xây nhà ở làm cơ sở vật chất cho các năm sau.

Số vốn trên còn thấp xa so với số vốn thực tế cần được huy động vào quá

trình sản xuất kinh doanh. Vì tính chung hàng năm khu vực NQD đầu tư vào hoạt

động sản xuất chỉ chiếm 14-15% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội. Tình hình này cho

thấy, trong thời gian tới cần có nhiều chính sách, giải pháp phù hợp để khuyến

khích khu vực này tăng cường đầu tư phát triển, sản xuất kinh doanh.

1.3 . Về lao động

Theo số liệu điều tra thống kê liên bộ giữa Bộ Thương mại, Bộ Kế

hoạch và Đầu tư, Bộ Công nghiệp, Tổng cục Thống kê thực hiện theo chỉ thị

675 của Thủ tướng Chính phủ. Đến 31/12/1996 khu vực kinh tế NQD đã thu

hút: 2.978.600 lao động trong đó:

- Khu vực Doanh nghiệp: 560.000 lao động.

- Khu vực Hộ cá thể : 2.418.800 lao động.

Số lao động trên chưa kể lao động thời vụ, nếu tính cả số lao động này

có thể lên đến 4-4,5 triệu lao động. Hiện nay tính đến 31/12/2001 khu vực này

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

42

đã có khoảng 7-8 triệu lao động. Nếu so với khu vực DNNN và DN có vốn

đầu tư nước ngoài thì số lượng lao động làm việc ở khu vực NQD là không nhỏ.

Bảng 6: Tốc độ tăng trưởng việc làm trong các khu vực doanh nghiệp

Đơn vị tính: %

Khu vực DN 1996 so với 1995 1997 so với 1996 1998 so với 1997

DNNN 21,7 4,7 0,3

Hộ cá thể 3,4 3,1 3,4

DN khối tư nhân 13,7 12,0 16,2

HTX 20,1 16,9 - 3,7

Nguồn: Tổng cục thuế

1.4. Về đóng góp cho ngân sách

Trước hết phải khẳng định các khoản nộp ngân sách của khu vực kinh tế

NQD mới đúng bản chất là “ thuế”. Vì khác với DNNN, nhà nước không phải

là chủ sở hữu tư liệu sản xuất. Nhà nước thu thuế của các khu vực kinh tế

NQD mà không phải đầu tư trực tiếp vào khu vực này.

Ta có bảng sau:

Bảng 7: Thu ngân sách của khu vực kinh tế NQD

Năm Số thu (tỷ đồng) Tốc độ tăng (%)

1995 4.330 100

1996 5.187 119,7

1997 5.665 109,2

1998 5.828 102,8

1999 5.581 95,7

2000 5.830 104,5

2001 6.643 113,9

Nguồn: Tổng cục Thuế.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

43

Trong đó thu từ khu vực DN có xu hướng tăng nhanh và chiếm tỷ trọng

lớn trong khi khu vực hộ cá thể chiếm tỷ trọng ngày càng giảm. Cụ thể là số

thu DNNQD năm 1995 chiếm 15% tổng số thu NQD, năm 1996 chiếm 27,4%

tổng số thu, khu vực DN NQD năm 2000 chiếm 40% tổng số thu, năm 2001

chiếm 45% tổng số thu. Trong khi thu từ hộ kinh doanh tăng 3%, số thu này

chưa bao gồm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế nhà đất, thuế xuất nhập

khẩu, lệ phí, thuế GTGT nhập khẩu, thuế thu nhập của người có thu nhập cao.

Năm 1999 số thu về thuế có giảm so với năm 1998 vì một phần thuế

gián thu (GTGT) đối với hàng hóa nhập khẩu chuyển cho ngành Hải quan thu.

Những số liệu trên chỉ là số phản ánh vào ngân sách nhà nước, thực tế khu

vực NQD còn tham gia đóng góp tài chính cho đất nước thông qua các hoạt

động như ủng hộ lũ lụt, thương binh liệt sĩ, đóng góp cho quỹ an ninh, xây

dựng trường học....

1.5. Về đóng góp vào GDP

Theo số liệu của Tổng cục Thuế, từ năm 1995-2000 GDP ( Tổng sản

phẩm quốc nội) khu vực kinh tế NQD thường chiếm trên 10% tổng GDP xã

hội.

Ta có bảng sau

Bảng 8: Đóng góp vào GDP của khu vực kinh tế NQD.

Đơn vị: Nghìn tỷ đồng

Năm GDP NQD GDP xã hội Tỷ trọng (%) Tốc độ tăng

trưởng (%)

1995 29.268 228.656 12,80 100,0

1996 31.675 271.888 11,65 108,2

1997 39.740 312.913 12,70 125,4

1998 44.090 361.393 12,20 110,9

1999 47.339 399.485 11,85 107,3

2000 52.734 462.579 11,40 111,3

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

44

Nguồn: Tổng cục Thuế.

Cũng theo số liệu thống kê của Tổng cục Thuế, tốc độ tăng trưởng GDP

hàng năm của khu vực NQD năm nào cũng đạt cao hơn tốc độ tăng trưởng

kinh tế chung và tăng cao hơn khu vực kinh tế Nhà nước.

Cụ thể trong 5 năm từ 1996-2000 tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là

6,94% trong đó khu vực kinh tế NQD có tốc độ tăng như trên.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế khu vực kinh tế NQD góp phần vào việc thực

hiện các chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế do nhà nước đề ra hàng năm, làm cho

bức tranh kinh tế xã hội cả nước ngày càng sáng sủa, lành mạnh.

2. Tình hình thực hiện các biện pháp quản lý thu thuế trong thời gian qua

Để hoàn thành công tác quản lý thu thuế năm 2001, từ tháng

11,12/2000 và liên tục trong một vài tháng đầu năm 2001 Tổng cục Thuế đã

chỉ đạo tập trung vào một số biện pháp sau đây:

- Rà soát nắm hoạt động đối tượng kinh doanh đưa vào diện quản lý thuế.

- Điều chỉnh ngay doanh thu, mức thuế đối với hộ khoán, ổn định, phấn

đấu mức thuế mới tăng bình quân 10% so với mức thuế tháng 12/2000.

- Đẩy mạnh triển khai chế độ kế toán hộ kinh doanh đưa tất cả hộ kinh

doanh có môn bài bậc 1, bậc 2 vào diện triển khai.

- Tăng cường quản lý các doanh nghiệp NQD, thu đúng, thu đủ số thuế

phát sinh.

- Đẩy mạnh kiểm tra, phát hiện các trường hợp gian lận thuế, lập hoá

đơn, chứng từ không đúng giá thực tế thanh toán.

- Thực hiện nghiêm túc các qui trình quản lý thu....

Thực hiện chỉ đạo của Tổng cục Thuế đã tích cực triển khai và đã đạt

được một số kết quả góp phần tăng thu nhập Ngân sách, chấn chỉnh công tác

quản lý, khai thác nguồn thu.... thể hiện ở một số điểm sau.

2.1. Về quản lý đối tượng kinh doanh

2.1.1 Về quản lý các DN NQD

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

45

Công tác quản lý các DNNQD đã có chuyển biến đáng kể, các cục thuế

đều bám sát tiến độ cấp đăng ký kinh doanh (ĐKKD)của Sở Kế hoạch và Đầu

tư để thực hiện đăng ký thuế, cấp mã số thuế đưa vào diện quản lý điển hình.

Cục thuế thành phố Hồ Chí Minh đã phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu

tư trong việc thực hiện, tức là người xin thành lập DN chỉ nộp hồ sơ cho Sở

KH-ĐT. Cục thuế phối hợp với Sở KH- ĐT ngay từ khi xem xét cấp đăng ký

kinh doanh đảm bảo khi được cấp ĐKKD, doanh nghiệp được cấp ngay mã số

thuế. Với tốc độ thành lập tương đối nhiều nhưng bằng cách này, Cục Thuế đã

bám rất sát tiến độ cấp ĐKKD, đảm bảo cấp ĐKKD đến đâu là có tên ngay

trong danh bạ quản lý thuế.

Nhưng cũng có nhiều địa phương chưa có điều kiện thực hiện được theo

phương án trên nên các cơ quan thuế đã chủ động liên hệ với Sở KH - ĐT

định kì nắm số doanh nghiệp đã được cấp ĐKKD để thông báo kịp thời cho

DN đến đăng ký thuế xin cấp mã số thuế, do đó cơ sở đã được cấp ĐKKD và

cơ sở được cấp mã số thuế tương đối khớp nhau. Như Hải Phòng có 1138 DN

được cấp ĐKKD thì có 1132 cơ sở được cấp mã số thuế, Bến Tre có 367 DN

được cấp ĐKKD thì có 366 DN được cấp mã số thuế, ngoài ra còn có Bắc

Giang, Khánh Hoà, Bắc Cạn... doanh nghiệp được cấp đăng ký đến đâu thì

cấp ngay mã số thuế đến đấy.

Với các biện pháp phối hợp chặt chẽ với cơ quan cấp ĐKKD ngay từ đầu

khi DN xin cấp ĐKKD các địa phương đã phát hiện ngay nhiều trường hợp có

những dấu hiệu không lành mạnh, như khai khống địa chỉ, trụ sở, người đứng

tên điều hành công ty không đủ năng lực và trách nhiệm dân sự. Không đủ

trình độ quản lý để chỉ đạo tiếp các biện pháp nhằm ngăn ngừa các hành vi lợi

dụng....

Cũng do thực hiện tốt việc rà soát các DN nên các cục thuế đã nắm chắc

hơn số lượng DN đã giải thể, số lượng DN ngưng hoạt động, số DN đã rời địa

bàn chuyển đi nơi khác kinh doanh để có các biện pháp ngăn chặn tiêu cực

xảy ra, như chỉ đạo quyết toán thuế, thu hồi hoá đơn, thông báo hoá đơn bị

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

46

thất thoát, thông báo DN đã chuyển địa điểm chưa tìm thấy, thông báo DN

không đến cơ quan thuế để khai nộp thuế... Như cục thuế Hà Nội qua rà soát

có 158 DN không tìm thấy,448 DN không hoạt động, 82 DN giải thể. Hà Tây

qua rà soát có 43 DN đã bỏ kinh doanh chưa thu hồi giấy phép, 41 doanh

nghiệp tạm nghỉ. Tiền Giang cũng có 22 DN đã phá sản còn ở Đồng Tháp đã

phát hiện 54 doanh nghiệp giải thể, 20 doanh nghiệp không hoạt động, 6

doanh nghiệp không tìm thấy.... Qua đó Cục thuế phối hợp kịp thời với các cơ

quan chức năng khác có biện pháp giải quyết như thu hồi ĐKKD, tạm đình

chỉ kinh doanh....

2.1.2. Về quản lý hộ kinh doanh cá thể

Mặc dù nhà nước bảo hộ nhiều giấy phép ảnh hưởng đến quản lý của

ngành thuế nhất là với một số ngành như vận tải tư nhân, khách sạn tư nhân,

nhà nghỉ, thuê nhà... Nhưng do chỉ đạo tập trung rà soát lại đối tượng kinh

doanh nên một số hộ quản lý thu thuế vẫn tăng hàng tháng. Nhiều địa phương

có số hộ ghi thu môn bài năm 2001 tăng cao hơn so với năm 2000 và cao hơn

cả số hộ điều tra thống kê. Như Hà Nam số hộ môn bài năm 2001 tăng hơn số

hộ thu môn bài năm 2000 là 400 hộ, Hưng Yên là 400 hộ, Bắc Ninh 400 hộ,

Phú Thọ 800 hộ, Bến Tre 1500 hộ, Quảng Trị 1200 hộ, Phú Yên là 1600 hộ.

Bạc Liêu số hộ ghi thu môn bài là 1200 hộ so với điều tra thống kê, Bắc Ninh

tăng 2500 hộ, Bắc Cạn tăng 300 hộ, Quảng Bình tăng 1800 hộ...

Theo số liệu tổng hợp nhiều địa phương đã kịp thời báo cáo UBND chỉ

đạo các ngành có trách nhiệm phối hợp với cơ quan Thuế để quản lý đối với

một số khu vực khó quản lý như: Cục thuế Nghệ An phối hợp với cơ quan

đăng ký phương tiện ô tô (cơ quan đăng kiểm) ô tô nắm số lượng phương tiện

ô tô, phân loại xác đinh đối tượng sử dụng, mục đích kinh doanh. Trên cơ sở

đó rà soát đối chiếu với số phương tiện đang quản lý thu thuế môn bài, thuế

tháng sau đó trình bày với UBND để chỉ đạo buộc phải đến trình báo với cơ

quan thuế. Kết quả đã truy thu được gần 500 triệu đồng tiền thuế của các chủ

phương tiện lâu nay kinh doanh không nộp thuế. Cũng tương tự việc quản lý

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

47

thu thuế đối với một số khu vực khó quản lý thì Cục thuế các tỉnh như Phú

Yên, Bà Rịa - Vũng Tàu, Kiên Giang... đã có văn bản hướng dẫn quản lý thu

thuế đối với hộ kinh doanh đánh bắt thuỷ hải sản. Các tỉnh Quảng Ninh,

Thanh Hoá, Hải Phòng... có khu du lịch cũng cần phối hợp với cơ quan thuế

và các ngành chức năng để có biện pháp quản lý thu, chống thất thu đối với

khu vực NQD.

2.2 Về xác định doanh thu, mức thuế đối với hộ khoán

Qua nắm tình hình cho thấy, ngoài những địa phương do ảnh hưởng của

lũ lụt cuối năm 2000, các hộ hoạt động mới ổn định kinh doanh, chưa kịp xác

định lại doanh thu, mức thuế ngay từ đầu năm. Còn lại các địa phương đều đã

chỉ đạo điều chỉnh lại doanh thu, mức thuế đối với hộ khoán. Vì vậy, mặc dù

một số lượng lớn các hộ kinh doanh lớn chuyển lên DN và số hộ triển khai kế

toán tăng lên chuyển nộp thuế theo kê khai nhưng doanh thu, mức thuế hộ

khoán vẫn tăng, tuy chưa đạt yêu cầu của Tổng cục Thuế đề ra. Một số địa

phương có mức tăng cao là Hà Nam 15%, Quảng Bình gần 10%.

Việc quản lý doanh thu, mức thuế đối với hộ kê khai cũng được các địa

phương tập trung chỉ đạo, khắc phục tình trạng bán hàng nhưng không xuất

hóa đơn, lập sổ sách kế toán hình thức. Vì vậy doanh thu hộ kê khai nhiều địa

phương cũng tăng. Điển hình như là Hải Dương tăng 50%, Hưng Yên tăng

80%, Bắc Ninh 40%, An Giang tăng 40%, Bạc Liêu tăng 70%....

Vậy để đạt được những kết quả đó, công tác quản lý thu thuế hộ kinh

doanh đã được đẩy mạnh công khai, dân chủ trong việc xác định doanh thu,

tính thuế các biện pháp của Bộ Tài chính đã hướng dẫn việc thành lập các Hội

đồng tư vấn Thuế ở các phường xã, ban hành quy chế phối hợp giữa chi cục

thuế, đội thuế với hội đồng tư vấn, nhằm đảm bảo sự lãnh đạo và chỉ đạo cũng

như sự giám sát của cấp Uỷ và chính quyền phường xã địa phương đối với

công tác quản lý thu thuế.

2.3 Ngành thuế đã nghiên cứu, xây dựng các quy trình nghiệp vụ

và chỉ đạo thực hiện các quy trình đề ra

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

48

Tổng cục Thuế đã xây dung các quy trình:

- Quản lý thu thuế các doanh nghiệp nộp theo phương pháp khấu trừ.

- Quản lý thu thuế với hộ kinh doanh khoán ổn định.

- Quản lý hộ xin nghỉ kinh doanh.

- Xét miễn giảm thuế đối với hộ có thu nhập thấp.

2.4 Việc phân cấp quản lý đẩy mạnh triển khai chế độ kế toán,

chế độ lập hoá đơn chứng từ

2.4.1. Về quản lý đối với các doanh nghiệp Ngoài quốc doanh

Ngành thuế đã chỉ đạo cho tất cả các doanh nghiệp đều phải thực hiện

chế độ kế toán hoá đơn chứng từ theo phương pháp kê khai để đảm bảo công

tác tự tính thuế của doanh nghiệp. Đặc biệt từ năm 1999 cùng với việc triển

khai luật thuế GTGT, thuế TNDN và đổi mới tổ chức quản lý thu đã có những

chuyển biến tích cực; theo đánh giá của các cục thuế từ chỗ chỉ có 40-50%

doanh nghiệp thực hiện kế toán nay lên đến 80 - 85% doanh nghiệp thực hiện

tốt chế độ kế toán và 100% doanh nghiệp thực hiện kê khai nộp thuế trong đó

90% đã lập và nộp tờ khai đúng thời hạn. Đã cơ bản chấm dứt được tình trạng

nộp thuế khoán trong các doanh nghiệp...

Theo thống kê số thu thì khu vực doanh nghiệp NQD chiếm tỷ trọng

ngày càng lớn trong tổng thu của khu vực NQD. Do vậy phản ánh kết quả

quản lý doanh nghiệp tương đối tốt. Nguyên nhân thu ở khu vực NQD tăng

cao và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu NQD là do số lượng doanh nghiệp

tăng nhiều nhưng về cơ bản vẫn là công tác quản lý đã có chất lượng cao hơn.

Thể hiện ở những điểm sau:

- Trong việc quản lý đối tượng kinh doanh (trình bày ở mục 2.1.1).

- Thực hiện chỉ đạo của Tổng cục thuế phân cấp một số doanh nghiệp

cho các chi cục quản lý, một mặt tạo điều kiện cho cục thuế có điều kiện để đi

sâu quản lý các doanh nghiệp lớn, phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi

phạm các biểu hiện gian lận thuế, đồng thời tập trung nguồn thu hơn, mặt

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

49

khác đối với các doanh nghiệp được phân cấp cho chi cục, các chi cục quản lý

sát hơn nên số thu cũng tăng.

- Cục thuế đã chú ý hơn đến việc kiểm tra quyết toán thuế, đối chiếu

hoá đơn, chứng từ mua bán hàng hoá, phát hiện và xử lý kịp thời các trường

hợp lợi dụng trốn lậu thuế, hoàn thuế không đúng... nhất là đối với các doanh

nghiệp kinh doanh hàng hoá nông sản.

Cục thuế Thành phố Hồ Chí Minh, có số lượng doanh nghiệp NQD rất

lớn, qua công tác xét cấp kinh doanh, cấp mã số thuế và quản lý, cục Thuế đã

tổng hợp và đưa ra một số dạng, hình thức kinh doanh trốn lậu thuế giúp cho

phòng quản lý, các Chi cục Thuế sớm nhận diện để có biện pháp ngăn ngừa.

Thực hiện chỉ đạo của Tổng cục Thuế về quản lý chống hành vi lập hóa đơn,

chứng từ không đúng giá thanh toán, cục Thuế đã sớm có văn bản hướng dẫn

và chỉ đạo xử lý thống nhất trên địa bàn thành phố vì vậy nhiều doanh nghiệp

kinh doanh xe máy đã lập hóa đơn tương đối trung thực, nộp thuế GTGT đầu

ra và thuế TNDN đều đặn...

Cục thuế Thành phố Hà nội ngay từ đầu năm đã chỉ đạo đôn đốc các

doanh nghiệp kê khai tạm nộp thuế TNDN, tổ chức kiểm tra tờ khai, thực hiện

ấn định thuế TNDN đối với các doanh nghiệp kê khai không trung thực nên

kết quả thu 6 tháng từ khu vực doanh nghiệp đạt khá. Đồng thời qua kiểm tra

quyết toán thuế, cũng chỉ đạo đối chiếu tờ khai để điều chỉnh kịp thời. Do đó

nhiều doanh nghiệp kê khai lỗ nhưng qua kiểm tra quyết toán, đấu tranh vẫn

chấp nhận phải nộp thuế TNDN theo số liệu ấn định của cơ quan Thuế.

Cục thuế Thành phố Đà nẵng, Đồng nai... chú trọng kiểm tra, đối chiếu

việc lập chứng từ mặt hàng nông sản của các doanh nghiệp, phát hiện nhiều

trường hợp lập không đúng, truy thu hàng tỷ đồng.

Các cục Thuế Thái Bình, Nghệ An, Quảng Ninh, Cần Thơ cũng chỉ đạo

kiểm tra, xử lý các cơ sở kinh doanh xe máy ghi hoá đơn không đúng giá trị

thực tế góp phần tăng thu ngân sách.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

50

Để chống thất thu ngân sách đối với doanh nghiệp kinh doanh nhà nghỉ,

khách sạn, Cục thuế Quảng Ninh, Khánh Hoà, Lâm Đồng đã tham mưu trình

UBND ban hành bảng giá tính thuế áp dụng cho từng loại phòng nghỉ, yêu

cầu khách sạn, nhà nghỉ phải nộp hồ sơ, phòng nghỉ, khách đến nhà nghỉ phải

đánh dấu vào sơ đồ để tiện cho công tác kiểm tra.

2.4.2. Về quản lý đối với các hộ kinh doanh cá thể

Đối với hộ cá thể ngành thuế cũng đã triển khai việc thực hiện kế toán hộ

kinh doanh, khuyến khích mọi hộ kinh doanh thực hiện kế toán và lập hoá

đơn, chứng từ. Để thúc đẩy các địa phương đẩy mạnh triển khai kế toán hàng

năm, Tổng cục Thuế đều giao chỉ tiêu cho các Chi cục Thuế phải tổ chức triển

khai. Theo số liệu tổng hợp đến hết năm 2000 có trên 100 ngàn hộ kinh doanh

thực hiện chế độ kế toán chiếm khoảng 70% số hộ kê khai kinh doanh lớn,

trong đó khoảng 50% số hộ làm kế toán đã được cơ quan thuế chấp thuận

chuyển sang nộp thuế theo kê khai ở các mức độ khác nhau. Số còn lại tuy đã

kê khai nhưng do nội dung kê khai chưa đúng, thiếu trung thực nên cơ quan

thuế phải áp dụng việc ấn định thuế. Về số hộ kinh doanh triển khai hết tháng

6/2001, theo số liệu kiểm tra của 48 địa phương số hộ được giao triển khai là

85.570 hộ, số hộ đã triển khai là 72.100 hộ đạt 85% số hộ được giao và so với

tháng 12/2000 số lượng hộ kinh doanh đã triển khai kế toán tăng 2 lần. Theo

thống kê số hộ lớn chiếm 45% tổng số hộ kinh doanh nhưng số thuế chiếm

trên 80% tổng số thuế ở khu vực hộ cá thể. Vì vậy cần tiếp tục đẩy mạnh triển

khai kế toán và tập trung chống thất thu vào những hộ này, còn lại 55-60% hộ

vừa và nhỏ sẽ tiếp tục thực hiện ổn định thuế để họ yên tâm kinh doanh.

Vậy qua triển khai chế độ kế toán hộ kinh doanh kết quả thu thuế đối với

hộ kinh doanh nộp thuế theo kê khai tăng lên rõ rệt (như nêu ở phần trên)

nhiều hộ kinh doanh qua triển khai thực hiện sổ sách kế toán, số thuế tăng gần

gấp nhiều lần so với số thuế thu khoán. Ngoài ra qua doanh thu phản ánh trên

sổ sách kế toán còn giúp cho cơ quan Thuế đánh giá đầy đủ hơn tình hình

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

51

quản lý doanh thu, thất thu về doanh thu, làm cơ sở để điều chỉnh doanh thu

đối với hộ khoán.

Để triển khai tốt chế độ kế toán hộ kinh doanh các địa phương đã tập

trung chỉ đạo kiên quyết vừa chú trọng công tác cán bộ, từ giao nhiệm vụ cụ

thể cho đội trưởng đội thuế chịu trách nhiệm triển khai đến việc tăng cường

chế độ báo cáo định kỳ để nắm tình hình, rút kinh nghiệm và chỉ đạo kịp thời

vừa kết hợp với các biện pháp khác như kết hợp triển khai chế độ kế toán với

việc sử dụng hoá đơn của hộ kinh doanh, thành lập và mở rộng các loại dịch

vụ kế toán, tăng cường kiểm tra xử lý vi phạm, tháo gỡ kịp thời các khó khăn

trong quá trình triển khai... nên kết quả vừa tăng về số hộ, doanh thu mức thuế

kê khai cũng tăng.

2.5 Tình hình quản lý và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế khu vực kinh tế

NQD

2.5.1. Đối với hộ kinh doanh cá thể

Để tránh cho cán bộ thuế phải trực tiếp đi thu tiền của từng hộ kinh

doanh dễ dẫn đến tiêu cực, từ nhiều năm nay ngành Thuế đã phối hợp với

Kho bạc tổ chức cho hộ kinh doanh nộp tiền trực tiếp vào Kho bạc. Theo báo

cáo của các địa phương về cơ bản các doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh

doanh lớn, hộ sản xuất kinh doanh ở những địa bàn tập trung đều đã thực hiện

nộp thuế trực tiếp vào Kho bạc, cơ quan Thuế chỉ làm nhiệm vụ đôn đốc và

kiểm tra việc nộp thuế, cơ quan Kho bạc trực tiếp thu tiền thuế. Trường hợp

cơ quan Kho bạc chưa tổ chức thu trực tiếp thì cơ quan Thuế mới tổ chức thu.

Tuy nhiên do lực lượng của Kho bạc còn mỏng nên ở một số nơi để hỗ

trợ thu thuế nhanh nên cơ quan Thuế phải cử cán bộ cùng tham gia với Kho

bạc tổ chức thu nộp thuế.

Với những biện pháp chủ đạo nêu trên, công tác quản lý thu thuế NQD

trong những năm qua đã có những chuyển biến tương đối tích cực, giảm dần

thất thu thuế cả về đối tượng và về doanh số.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

52

Theo thống kê số hộ quản lý thu thuế trong mấy năm gần đây đạt khoảng

1,6 triệu hộ bằng khoảng 85% số hộ điều tra thống kê. Số hộ chưa quản lý thu

thuế tập trung vào những loại hộ sản xuất trong các làng nghề, hộ kinh doanh

sớm tối, hộ hành nghề xe ôm, xích lô, xe súc vật kéo. Tất cả các hộ kinh

doanh có địa điểm cố định về cơ bản đã được đưa vào diện quản lý thu thuế

thường xuyên.

2.5.2. Đối với khu vực doanh nghiệp

Cơ quan thuế đã phối hợp với kho bạc tổ chức cho doanh nghiệp nộp

thuế qua kho bạc đồng thời để giám sát chặt chẽ hơn việc thành lập, hoạt động

và ngừng hoạt động của doanh nghiệp. Từ năm 1999 chuyển giao lên cục

Thuế quản lý đã xác định được 5.000 doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh

nhưng thực tế không hoạt động hoặc giải thể, nhưng cơ quan cấp đăng ký

kinh doanh vẫn không thu hồi giấy phép. Năm 2001 dự toán từ NQD nhà

nước giao tăng trên 10% so với thực thu năm 2000. Để thực hiện được dự

toán trên, ngay từ tháng 12/2000 Tổng cục Thuế đã chỉ đạo cơ quan Thuế các

cấp tập trung hoàn thiện các biện pháp đã nêu trên: III. MỘT SỐ TỒN TẠI VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ ĐỐI VỚI KHU

VỰC KINH TẾ NQD Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

A. Những tồn tại chung

1. Một số tồn tại trong các chính sách thuế

1.1. Thuế GTGT

Theo quy định tại Luật thuế GTGT thì mọi tổ chức, cá nhân không phân

biệt thành phần kinh tế, quy mô kinh doanh đều là đối tượng nộp thuế GTGT

và đòi hỏi mọi đối tượng nộp thuế phải thực hiện chế độ sổ sách kế toán, hoá

đơn, chứng từ. Nhưng trên thực tế, việc chấp hành chế độ sổ sách kế toán, hoá

đơn, chứng từ tại các doanh nghiệp nhỏ, hộ kinh doanh cá thể không nghiêm,

đa số không thực hiện, do đó ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách thuế.

Theo thông lệ quốc tế, thuế GTGT thường chỉ áp dụng đối với các tổ

chức kinh tế đạt đến một quy mô kinh doanh nhất định. Luật thuế GTGT hiện

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

53

hành áp dụng với tất cả các đối tượng, nhất là các đối tượng chưa thực hiện

chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ vừa làm công tác quản lý thuế thêm phức

tạp, vừa ảnh hưởng đến nghĩa vụ và quyền lợi của các tổ chức kinh doanh.

Về thuế suất thuế GTGT: Nguyên tắc của thuế GTGT là thuế suất được

xây dựng và áp dụng theo mặt hàng. Qua một số lần điều chỉnh, bổ sung

nguyên tắc này đã không được duy trì, thuế suất thuế GTGT một số hàng hoá,

dịch vụ vừa theo mặt hàng, vừa theo công dụng. Cùng là sản phẩm cơ khí

nhưng máy móc thiết bị thì áp thuế 5%, sản phẩm cơ khí tiêu dùng thì áp

dụng thuế suất 10%, dẫn đến có mặt hàng nếu cơ sở kinh doanh mua về thì

được coi là máy móc thiết bị, nhưng đối tượng khác mua về thì bị coi là sản

phẩm tiêu dùng. Ví dụ: Máy in nếu bán đồng bộ với máy tính thì được coi là

máy móc thiết bị và được áp dụng thuế suất 5%, nhưng nếu bán rời thì áp

dụng thuế suất 10%.

Việc phân biệt các máy móc, dụng cụ chuyên dùng cho y tế, giáo dục,

quốc phòng, an ninh rất phức tạp. Ví dụ: Bảng nếu bán cho nhà trường được

coi là dụng cụ để giảng dạy được áp dụng thuế suất 5%, các đối tượng khác

mua thì áp dụng thuế suất 10%.

Về kê khai nộp thuế: Theo Luật thuế GTGT, mọi tổ chức và cá nhân

kinh doanh hàng tháng đều phải nộp tờ khai gửi cơ quan thuế, không phân

biệt quy mô, có phát sinh doanh số hay không... Cùng với việc kê khai cơ sở

kinh doanh còn phải lập bảng kê hoá đơn, chứng từ liên quan đến hàng hoá

mua vào, bán ra. Đối với khu vực kinh tế NQD, nhất là đối với những cơ sở

có quy mô nhỏ, bộ máy quản lý gọn nhẹ, không có người chuyên trách, việc

lập tờ khai và bảng kê hàng tháng như vậy gặp nhiều khó khăn và tăng chi

phí.

Theo luật thuế GTGT hiện hành cho áp dụng khấu trừ theo tỷ lệ đối với

một số hàng hoá, chủ yếu là hàng nông sản là nhằm hỗ trợ cho các đối tượng

nộp thuế mua hàng hoá nông sản. Nhưng trên thực tế đang bị lợi dụng, trong

khi việc đối chiếu, xác minh của cơ quan thuế không thể thực hiện được đối

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

54

với mọi trường hợp, do đó đã có nhiều đối tượng nộp thuế lợi dụng quy trình

này kê khai tăng giá mua, lập bảng kê khống, tăng số thuế đầu vào nhằm mục

đích trốn thuế hoặc hoàn thuế khống, gây thất thoát cho ngân sách Nhà nước

và ảnh hưởng đến các doanh nghiệp kinh doanh nghiêm túc.

Việc thực hiện tính thuế theo hai phương pháp: khấu trừ và trực tiếp đã

dẫn đến cùng kinh doanh một mặt hàng nhưng mức thuế phải nộp khác nhau,

có mặt hàng thực hiện theo phương pháp khấu trừ thì số thuế phải nộp lớn

hơn nếu tính theo phương pháp trực tiếp hoặc ngược lại, điều này vừa gây bất

bình đẳng giữa các đối tượng nộp thuế, vừa sơ hở để đối tượng kinh doanh lợi

dụng.

Về hoá đơn chứng từ: Luật thuế GTGT chỉ được phát huy đầy đủ tính ưu

việt nếu thực hiện đầy đủ việc mua bán hàng hoá có hoá đơn, chứng từ. Thực

tiễn ở nước ta, việc thực hiện hoá đơn, chứng từ khi mua bán hàng hoá chưa

nghiêm túc, chưa phải là yêu cầu bắt buộc đối với mọi đối tượng mua hàng.

Vì vậy nhiều tổ chức và cá nhân kinh doanh không xuất hoá đơn giao cho

người mua, làm ảnh hưởng đến việc xác định nghĩa vụ thuế. Nhiều doanh

nghiệp còn vi phạm việc lập và sử dụng hoá đơn như: ghi hoá đơn không

đúng phát sinh kinh tế, mua bán và sử dụng hoá đơn của cơ sở khác để lập

giao cho khách hàng... cũng ảnh hưởng đến việc xác định nghĩa vụ thuế của

bên mua.

1.2. Thuế TNDN

- Các doanh nghiệp NQD hiện nay đang áp dụng thuế suất thuế TNDN

32% cao hơn so với doanh nghiệp có vốn đầu tư ngoài nước đang được hưởng

thuế suất TNDN 25%.

- Theo quy định chi phí tiền lương đối với kinh tế NQD được xác đinh

tính vào chi phí căn cứ vào hợp đồng lao động và phải phù hợp với định mức

tiền lương được áp dụng cho doanh nghiệp Nhà nước hoạt động cùng lĩnh

vực, ngành nghề, không được chấp nhận một khoản chi phí có tính chất tiền

công, tiền lương nào.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

55

Tuy nhiên trong thực tế để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh

có hiệu quả cao, các doanh nghiệp phải trả lương cho người lao động theo

mức độ cống hiến và đòi hỏi của họ, dẫn đến không phản ánh đúng lợi nhuận

kinh doanh của doanh nghiệp

+ Đối với các trường hợp không có hợp đồng lao động về nguyên

tắc được xác định theo mức lương do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố quy

định cho từng ngành nghề. Nhiều doanh nghiệp lợi dụng lập danh sách lao

động khống nhằm mục đích tăng chi phí, giảm thu nhập chịu thuế.

+ Đối với hộ kinh doanh cá thể không được tính vào chi phí giá trị

sức lao động của bản thân chủ hộ bỏ ra để phục vụ cho sản xuất kinh doanh.

Tiền công trả cho người lao động khác thường không được xác định rạch ròi

trong chi phí vì hộ kinh doanh áp dụng biện pháp khoán do không thực hiện

chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ. Điều này ảnh hưởng đến tính công bằng

của chính sách thuế.

- Chi phí khác: Thường trong qúa trình kinh doanh ngoài các chi phí

như KH TSCĐ, tiền lương, cơ sở kinh doanh còn phải chi các hoạt động có

tính chất tự nguyện như: lũ lụt, tiếp khách... Những khoản này đều bị khống

chế khi chi cao hơn thì không được tính vào chi phí. Vì vậy thuế TNDN đã

tính khống mà cơ sở kinh doanh vẫn phải nộp.

- Về miễn thuế đối với hộ kinh doanh có thu nhập thấp theo quy định

hộ kinh doanh có thu nhập dưới mức lương tối thiểu là 210.000 đồng/ tháng

thì được miễn thuế, nếu thu nhập cao hơn thì phải nộp thuế. Điều này mâu

thuẫn với mức miễn thuế theo chính sách thuế thu nhập của người có thu nhập

cao, chính sách này quyết định khởi điểm đánh thuế là 2 triệu trở lên/

tháng/người.

- Thuế TNDN bổ sung: Theo quy định thì căn cứ vào lợi thế khách

quan của doanh nghiệp để xác định với mức thuế suất là 25%, nhưng trong

thực tế điều này khó xác định nên mọi đối tượng có thu nhập cao đều phải

nộp thuế thu nhập bổ sung.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

56

1.3. Thuế XNK

Thuế xuất nhập khẩu trong thời gian qua về cơ bản đã thực hiện được

mục tiêu kinh tế của Đảng và Nhà nước trong 10 năm đổi mới là khuyến

khích sản xuất trong nước thay thế cho hàng nhập khẩu, tăng nguồn thu cho

Ngân sách Nhà nước, bước đầu phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên

chính sách Thuế XNK của ta đã bộc lộ những hạn chế là.

- Việc xác định các mức thuế bảo hộ còn thiếu chọn lọc chưa tính đến

lợi thế so sánh của nền kinh tế, chưa tính đến điều kiện và thời hạn bảo hộ,

một mặt đã tạo tâm lý ỷ lại cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước chủ yếu

hướng vào sản xuất thay thế hàng nhập khẩu, không vươn rộng lên mở rộng

thị trường ra bên ngoài.

- Biểu thuế nhập khẩu hiện hành còn tương đối phức tạp với nhiều mức

thuế khác nhau, tạo kẽ hở để các doanh nghiệp trốn lậu thuế gây khó khăn cho

quản lý thuế.

- Chính sách miễn giảm thuế còn khá rộng rãi một mặt tạo kẽ hở cho

việc trốn, lách thuế làm thất thu cho ngân sách Nhà nước, mặt khác làm cho

chính sách thuế XNK thiếu tính minh bạch.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

57

1.4. Thuế Môn bài

Thuế môn bài một năm thu một lần nhằm mục đích kiểm kê, kiểm soát,

phân loại cơ sở kinh doanh.

Thuế môn bài hiện đang có 6 mức: 850.000 đồng, 550.000 đồng,

325.000 đồng, 165.000 đồng, 60.000 đồng, 25.000 đồng, không phân biệt tổ

chức kinh tế hay hộ kinh doanh cá thể nên đã bộc lộ những nhược điểm.

- Thuế môn bài chưa thể hiện được đầy đủ mục đích phân loại cơ sở

kinh doanh vì tổ chức kinh tế có thu nhập hàng chục tỷ đồng/năm cũng nộp

thuế môn bài theo mức 850.000 đồng/năm trong khi hộ kinh doanh cá thể thu

nhập từ 1.250.000 đồng trở lên đều phải nộp theo mức thuế môn bài trên. Như

vậy đã không khuyến khích được đối tượng nộp thuế một cách công bằng.

- Thuế môn bài đang áp dụng chỉ phù hợp với thuế doanh thu và thuế

lợi tức của những năm 1996. Từ năm 1999 thực hiện luật thuế GTGT và thuế

TNDN thì thuế môn bài đã không còn phù hợp nữa.

2. Về nhận thức tư tưởng vẫn còn sự phân biệt đối xử.

Thực tiễn đến nay vẫn chưa thay đổi nhiều trong cả các cơ quan quản lý

Nhà nước và nhân dân.

Báo Doanh nghiệp 4/2001 trong bài “có sự phân biệt đẳng cấp trong

kinh doanh ở Việt nam” tác giả đã đăng một chuyên đề khoa học của Viện

nghiên cứu về Đào tạo và quản lý. Qua 11 chỉ tiêu đưa ra để đánh giá cho

thấy.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

58

Bảng 10: Phân loại tiêu chí so sánh các loại hình doanh nghiệp

Tiêu chí so sánh DNNN DN vốn F.D.I DNNQD

1- Về thành lập và đăng ký kinh doanh C B A

2- Về giải thể doanh nghiệp. C B A

3- Về phá sản doanh nghiệp. A A A

4- Về vay vốn và tham gia thị trường A B C

5- Tuyển dụng lao động A B C

6- Chính sách tiền lương, tiền công B A C

7- Thuế và các chính sách tài chính B A C

8- Chính sách về đất đai. A B C

9- Hợp tác kinh doanh và liên doanh với

nước ngoài. B A C

10- Xuất, nhập khẩu và xúc tiến thương

mại. A B C

11- Thanh tra, kiểm tra. B A C

Nguồn: Báo Doanh nghiệp số 4 - 2000

Nếu quy định sự thuận lợi cao nhất là A, sự thuận lợi ở mức trung bình

là B và sự khó khăn là C thì với 11 tiêu chí đã nêu cho thấy các doanh nghiệp

NQD chỉ có 3 tiêu chí là giành được sự thuận lợi cao, 3 tiêu chí này có thể do

bản thân doanh nghiệp tự quyết định còn 9 tiêu chí khác có liên quan đến các

cơ quan quản lý thì đều thuộc loại C.

Bảng so sánh phản ánh sự nhận thức của cơ quan quản lý vừa thể hiện

sự phân biệt đối xử của bản thân cơ quan quản lý và các thành phần kinh tế.

Trong dân cư quan niệm rằng kinh tế NQD vẫn gắn liền với ý nghĩ

“buôn gian bán lậu” vẫn chưa phải đã hết, thể hiện qua việc mua sắm hàng

hoá vẫn muốn mua của Nhà nước, con em xin việc làm cũng muốn trở thành

công chức hoặc cán bộ công nhân viên Nhà nước...

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

59

Bản thân các ông chủ kinh doanh cũng chưa tự thoát được những mặc

cảm mà xã hội đã gán cho từ đó chưa mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất

kinh doanh, nhiều người kinh doanh vẫn còn có ý thức nghe ngóng chờ đợi.

Bên cạnh đó trong chính sách thuế và tổ chức quản lý thuế cũng còn thực hiện

tương đối rõ nét sự đối xử này.

3.Các chính sách chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, chồng chéo gây khó

khăn cho hoạt động kinh tế NQD

Trước hết nói về Luật Doanh nghiệp đã được thực hiện từ 1/1/2000

nhưng đến nay còn nhiều văn bản hướng dẫn vẫn chưa được ban hành hoặc

chưa có hướng dẫn cụ thể làm cho cơ sở kinh tế NQD lúng túng khi thực hiện,

các cơ quan quản lý gây phiền hà sách nhiễu như qui định các ngành nghề

kinh doanh có điều kiện và những điều kiện để kinh doanh các ngành nghề

đó; các lĩnh vực kinh doanh bỏ giấy phép và chuyển thành điều kiện kinh

doanh; thế nào là ngành nghề mới... Danh mục các ngành nghề khu vực kinh

tế NQD được ban hành từ năm 1993 đã lạc hậu so với thực tế nhưng chưa

được sửa đổi lại. Hệ thống phân loại và đăng ký mã số ngành nghề, mặt hàng

có sự khác biệt và không thống nhất giữa các ngành gây khó khăn cho cơ sở

đăng ký khi nhập khẩu, khi áp thuế suất. Nhiều trường hợp xảy ra tranh chấp

cuối cùng các cơ sở kinh tế NQD vẫn là người thiệt nhất.

Trong chính sách thuế có tình trạng tương tự. Các luật và các văn bản

hướng dẫn chuyên ngành thường đưa nội dung thuế nhưng mâu thuẫn với các

luật thuế hiện hành, làm cho doanh nghiệp rất lúng túng khi triển khai thực

hiện. Do đó ngày 24/4/2001 Thủ tướng Chính phủ đã phải có chỉ thị 07/2001-

CT-TTg yêu cầu tất cả các ngành khi xây dựng các văn bản pháp luật thuộc

lĩnh vực chuyên ngành không được đưa nội dung quy định về thuế trong các

văn bản đó đồng thời phải rà soát ngay nội dung quy định về thuế trong các

văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành, phát những điểm không phù hợp

với luật thuế để kiến nghị Bộ Tài chính và Chính phủ xem xét quyết định.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

60

4. Khu vực kinh tế NQD thiếu thông tin, dịch vụ tư vấn thuế

Trước hết, đó là các thông tin liên quan đến luật pháp điều chỉnh và chi

phối quá trình thành lập và hoạt động của doanh nghiệp. Theo phản ánh của

các doanh nghiệp họ đều biết được các văn bản pháp quy qua hệ thống thông

tin báo chí và đến khi các văn bản pháp luật họ tiếp nhận được thường rất

chậm. Không có cơ quan nào đứng ra chịu trách nhiệm phổ biến và hướng

dẫn họ. Trong các trường hợp xảy ra tranh chấp, chưa có cơ quan pháp luật

nào đứng ra trung gian giải quyết hoặc tư vấn cho họ giải quyết.

Phát triển kinh tế thị trường đặc biệt là trong hoạt động xuất nhập khẩu

những thông tin về thị trường, giá cả và dự báo diễn biến rủi ro của thị trường

và giá cả là rất quan trọng giúp họ có thể tránh được rủi ro. Tuy nhiên đến nay

chưa có cơ quan nào tư vấn giúp họ trong việc này dẫn đến nhiều trường hợp

bán hàng bị ép giá, mua hàng bị nâng giá... Tư vấn về kỹ thuật cũng đang là

vấn đề nổi cộm, nhiều cơ sở kinh doanh do không nắm được tính năng tác

dụng của các thiết bị trên nên thường bị khách hàng lừa, thậm chí phải mua cả

máy móc, thiết bị cũ lạc hậu bằng giá của máy mới mà không biết.

Trong lĩnh vực thuế đến nay chưa hình thành các trung tâm dịch vụ về

thuế, về kế toán để người kinh doanh có thể qua đó được hướng dẫn, giúp đỡ

mà vẫn tập trung gặp tìm hiểu trực tiếp qua cơ quan thuế.

Tư vấn thuế là một loại hình tư vấn nằm trong tư vấn tài chính, vì công

tác thuế là một cấu thành của công tác tài chính xét ở phạm vi doanh nghiệp

hay trên phạm vi xã hội. Dịch vụ tư vấn thuế là dịch vụ cung cấp các thông

tin, kiến thức, cách thức sử lý các mối quan hệ liên quan đến các đối tượng

nộp thuế, tính thuế, thuế suất thủ tục khai nộp, thời hạn nộp thuế, điều kiện

miễn giảm thuế, hoàn thuế: Cho các đối tượng phải nộp thuế có nhu cầu tư

vấn về thuế. Dịch vụ tư vấn thuế tồn tại dưới hai dạng chủ yếu:

Thứ nhất: Tư vấn thuế là dịch vụ công do các cơ quan thuế cung cấp

cho các đối tượng nộp thuế để họ thực hiện tốt các nghĩa vụ thuế đối với Nhà

nước.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

61

Thứ hai: Tư vấn thuế còn là một dịch vụ tư do các tổ chức, nhà tư vấn

thuế cung cấp cho khách hàng theo hợp đồng. Cơ sở tạo nên tư vấn thuế suất

phát từ các đối tượng nộp thuế, từ hệ thống pháp luật về thuế và từ chính các

cơ quan thuế. Trước hết, số lượng các đối tượng nôp thuế tạo nên nhu cầu

không nhỏ dịch vụ tư vấn thuế. Hiện nay, cả nước có hơn 5.700 DNNN,

khoảng 60.000 DNTN, CTHH, Công ty Cổ phần và trên 1,6 triệu hộ kinh

doanh đang tham gia vào đời sống kinh tế của đất nước, phục vụ nhu cầu xã

hội. Nhưng việc hiểu biết đầy đủ các quy trình như kê khai, tính thuế, nộp

thuế và việc áp dụng hai sắc thuế mới không phải tất cả các đối tượng nộp

thuế và không bị lúng túng trong quá trình thực hiện. Do vậy nhu cầu về tư

vấn thuế là rất lớn.

Nhưng bên cạnh đó dịch vụ tư vấn còn có một số tồn tại:

Thứ nhất: Các tổ chức cung ứng dịch vụ tư vấn thuế chưa phát triền,

dịch vụ tư vấn thuế mơi định dạng rõ nét ở dạng dịch vụ công nhưng hoạt

động chưa đủ “độ sâu” mới chỉ ở hình thức tuyên truyền phổ biến trên

phương tiện thông tin đai chúng, dịch vụ tư vấn thuế tư chưa được phát triển

có tổ chức, hoạt động tư vấn chủ yếu là dịch vụ kế toán, kiểm toán, xác định

cơ cấu tài chính… Về cán bộ tư vấn khôngchỉ thiếu về số lượng mà năng lực

tư vấn cũng là một vấn đề bất cập dẫn đến các doanh nghiệp gặp nhiều khó

khăn về thuế.

Thứ hai: Về hình thức dịch vụ tư vấn còn quá đơn điệu chưa đáp ứng

kịp thời nhu cầu tư vấn đa dạng của doanh nghiệp. Nội dung tư vấn mới chỉ

dừng lại ở thông tin về thuế suất, thủ tục đăng ký, kê khai thuế, chưa thực sự

thể hiện tính cách một quá trình hỗ trợ doanh nghiệp từ khâu lập sổ sách kế

toán đến các khoản thuế phải nộp.

5. Các cơ quan quản lý Nhà nước, thuế gây nhiều phiền hà cho khu

vực kinh tế NQD

Theo báo cáo điều tra do phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam

thực hiện thì có tới 88% doanh nghiệp NQD bị kiểm tra, thanh tra về thuế,

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

62

48% bị kiểm tra về quản lý thị trường, 36% bị kiểm tra về lao động, 26% bị

kiểm tra về môi trường... Trong đó nhiều doanh nghiệp bị thanh tra, kiểm tra

nhiều lần trong một năm, nhiều việc, nhiều nội dung có sự kiểm tra, thanh tra

trùng lặp nhưng không cơ quan nào có trách nhiệm giải quyết... Mỗi cuộc

kiểm tra, thanh tra đều lãng phí thời gian và tiền của các doanh nghiệp.

Tình trạng hình sự hoá các quan hệ kinh tế cũng đang là vấn đề cần

chấn chỉnh, không ít các tranh chấp chỉ mang tính chất hành chính hoặc dân

sự cũng được các cơ quan pháp luật can thiệp.

Trong việc cấp mã số thuế, bán hoá đơn, hoàn thuế, miễn giảm thuế

cũng đang bị các doanh nghiệp kêu ca, đặc biệt là trong việc hoàn thuế. Theo

quy định của ngành Thuế trong thời gian 15 ngày kể từ khi nhận được hồ sơ

xin hoàn thuế, cơ quan thuế phải có quyết định hoàn thuế cho cơ sở kinh

doanh. Tuy nhiên chỉ 30-40% là thực hiện đúng, còn lại 60-70% chủ yếu của

cơ sở kinh tế NQD là không được giải quyết đúng hạn. Nhiều trường hợp

hoàn thuế yêu cầu cơ sở kinh doanh phải cung cấp hoặc giải thích những điều

không có trong quy định, do vậy nhiều cơ sở kinh doanh đáng lễ được hoàn

thuế họ cũng không xin hoàn mà để trừ vào phát sinh kỳ sau - dẫn đến ảnh

hưởng đến sản xuất kinh doanh.

Theo các luật thuế, các doanh nghiệp được hoàn lại số thuế nộp thừa

nhưng thủ tục và thời gian xin hoàn số thuế nộp thừa rất phức tạp. Các doanh

nghiệp kêu ca nhiều nếu nộp thừa xin hoàn lại rất khó, muốn xin hoàn thuế

phải xuất trình đủ loại chứng từ, gửi hồ sơ cho đủ cấp ngân sách... mới được

trả lại, có những trường hợp kéo dài hàng năm.

6. Quản lý đối tượng nộp thuế

Còn đang thất thu cả ở khu vực doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể:

- Đối với khu vực doanh nghiệp, theo số liệu thống kê của 48 địa

phương đến 31/5/2001 số doanh nghiệp được cấp đăng ký kinh doanh là

35.866, số doanh nghiệp được cấp mã số thuế là 33.105, so với số doanh

nghiệp đã được cấp đăng ký kinh doanh vẫn thấp hơn khoảng 8%. Nhiều địa

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

63

phương có chênh lệch lớn giữa số lượng doanh nghiệp được cấp đăng ký kinh

doanh và doanh nghiệp đựoc cấp mã số thuế như Bà Rịa - Vũng Tàu khoảng

70 doanh nghiệp, Tiền Giang 98 doanh nghiệp, Đồng Tháp 180 doanh nghiệp,

Vĩnh Long 150 doanh nghiệp, Kiên Giang 600 doanh nghiệp, Bắc Ninh 50

doanh nghiệp...

Nhiều địa phương vẫn có tình trạng doanh nghiệp được cấp đăng ký kinh

doanh, mã số thuế xin cấp hoá đơn nhưng không kê khai nộp thuế còn nhiều,

trong đó có nhiều doanh nghiệp không tìm thấy địa chỉ như Hà Nội 158 doanh

nghiệp, Bà Rịa - Vũng Tàu 8 doanh nghiệp không tìm thấy địa chỉ, Kiên

Giang 17 doanh nghiệp, Thành phố Hồ Chí Minh 15% doanh nghiệp không

còn đóng tại trụ sở đang ký, đồng thời không kê khai thuế, 6% doanh nghiệp

một năm vẫn chưa đăng ký mã số thuế, 0,2% doanh nghiệp địa chỉ kê khai

không thật. Một số doanh nghiệp đã bỏ trốn nhưng vẫn giữ hoá đơn của cơ

quan Thuế như Đồng Tháp 5 doanh nghiệp bỏ trống còn giữ 639 hoá đơn,

Thừa Thiên Huế 3 doanh nghiệp bỏ trốn còn giữ 150 hoá đơn, Khánh Hoà 3

doanh nghiệp bỏ trốn còn giữ 270 hoá đơn... Trong số hoá đơn này một số đã

thấy xuất hiện trong quan hệ mua bán. Một số doanh nghiệp được cấp đăng

ký kinh doanh, cấp mã số thuế nhưng doanh nghiệp không đến nhận.

- Đối với khu vực hộ cá thể: Nổi lên là năm 2001 theo số liệu tổng hợp

của 48 địa phương, số hộ quản lý thu môn bài chỉ bằng 87,8% so với số hộ

điều tra thống kê, trong đó có nhiều địa phương tỷ lệ quản lý thu môn bài thấp

hơn nhiều so với hộ điều tra thống kê như Hà Tây bằng 70%, Hải Dương

76%, Cần Thơ 67%, Phú Thọ 63%, Thừa Thiên Huế 69%... Nhiều địa

phương, số hộ lập môn bài, hộ ghi thuế hàng tháng lại thấp hơn hộ lập môn

bài năm 2000 và hộ thu thuế năm 2000.

Cũng theo số liệu điều tra của 48 tỉnh, số hộ ghi thu môn bài năm 2001

giảm 25.046 hộ bằng 3% so với số hộ thực thu môn bài năm 2000. Điển hình

ở một số địa phương như sau: Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 2100 hộ, Long Giang

giảm 1700 hộ, Tiền Giang giảm 1900 hộ, Đồng Tháp giảm 2800 hộ, An

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

64

Giang giảm 5000 hộ, Bắc Giang giảm 400 hộ, Vĩnh Phú giảm 700 hộ, Nghệ

An giảm 800 hộ....

Một số địa phương số hộ ghi thu thuế GTGT, TNDN năm 2001 giảm so

với ghi thu GTGT, TNDN năm 2000 như Vĩnh Long giảm xấp xỉ 1000 hộ,

Quảng Nam giảm 1800 hộ, Lạng Sơn giảm 200 hộ...

Trong quản lý hộ kinh doanh một số ngành bị thất thu lớn là cho thuế

nhà, vận tải tư nhân, xây dựng tư nhân, khai thác thuỷ sản, nhiều người ngồi

chung một cửa hàng...

Tổng cục Thuế đã điều tra thực tế quản lý hộ kinh doanh ở một số địa

bàn, qua kiểm tra cho thấy thất thu về số hộ còn chiếm khoảng từ 5-7%

Tình trạng hộ lợi dụng xin nghỉ kinh doanh còn được miễn giảm thuế

nhưng thực tế vẫn kinh doanh cũng đang diễn ra tương đối phổ biến. Riêng

địa bàn quận Hai Bà Trưng tháng 6 năm 2001 có đến 450 hộ nghỉ kinh

doanh...Vậy tồn tại trong quản lý đối tượng kinh doanh.

7. Về quản lý doanh thu nộp thuế

- Với doanh nghiệp: Quản lý doanh thu nộp thuế cũng còn nhiều tồn tại

làm ảnh hưởng công tác quản lý thu thuế nhiều doanh nghiệp chưa thực

hiện đúng các quy trình quản lý thu, việc thực hiện chế độ kế toán, không

xuất hoá đơn khi bán hàng … làm ảnh hưởng lớn đến việc xác định doanh

thu tính thuế của doanh nghiệp.

- Với hộ kinh doanh cá thể:

+ Về điều chỉnh doanh số với hộ khoán

Nhìn chung việc điều chỉnh doanh thu đối với hộ khoán, ổn định 6 tháng

đầu năm của các địa phương chưa đạt yêu cầu, chưa tương xứng với mức độ

kinh doanh và tăng trưởng kinh tế, mức thuế bình quân hộ khoán tháng 6 năm

2001 so với tháng 12 năm 2000 tăng rất thấp, trong đó nhiều địa phương

không tăng.

Theo số liệu của 48 địa phương, 20 địa phương có số thuế bình quân hộ

khoán tháng 6 năm 2001 cao hơn hoặc bằng bình quân tháng 12 năm 2000.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

65

Còn lại đều thấp hơn bình quân hộ khoán tháng 12 năm 2000 trong đó nhiều

địa phương bình quân hộ khoán giảm liên tục trong 6 tháng đầu năm như Hải

Phòng thuế bình quân hộ khoán tháng 12 năm 2000 là 135.000 đ/hộ, tháng 3

năm 2001 là 125.000 đ/hộ, tháng 6 năm 2001 là 98.000 đ/hộ, Phú Thọ tháng

12 năm 2000 là 65.000 đ/hộ, tháng 3 năm 2001 là 60.000 đ/hộ, tháng 6 năm

2001 là 62.000 đ/hộ...

+ Về triển khai chế độ kế toán hộ kinh doanh

Qua kiểm tra tình hình triển khai cụ thể ở một số địa phương, Tổng cục

Thuế nhận thấy, nhìn chung kết quả đạt được còn rất hạn chế và mang tính

hình thức.

Theo số liệu tổng hợp của 48 địa phương, số hộ triển khai kế toán đến

31 tháng 5 mới đạt 82% số hộ được giao phải triển khai trong năm 2000. Bên

cạnh một số địa phương đã triển khai đạt chỉ tiêu Tổng cục giao như Hà Tây,

Hải Dương, Bạc Liêu, Bắc Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ, Bình Thuận, Quảng

Ngãi... thì có nhiều địa phương có số hộ triển khai đạt thấp như Long An,

Đồng Tháp, Vĩnh Long, Kiên Giang, Cần Thơ, Ninh Bình, Tây Ninh, Lạng

Sơn...

Qua kiểm tra triển khai chế độ kế toán hộ kinh doanh ở một số địa

phương Tổng cục Thuế thấy rằng việc triển khai vẫn còn mang tính hình thức,

cơ quan Thuế mới chỉ chú ý đến số lượng hộ triển khai, chưa quan tâm đến

thực chất ghi chép, phản ánh vào sổ sách kế toán của hộ kinh doanh, chưa áp

dụng các biện pháp cương quyết buộc các hộ kinh doanh phải thực hiện, phải

hạch toán kế toán, lập hoá đơn chứng từ trung thực: Tại Chi cục Thuế quận

Đống Đa và quận Hai Bà Trưng, Tổng cục Thuế đã kiểm tra một số hộ phải

thực hiện chế độ kế toán, có nhiều hộ bán hàng nhiều ngày không lập hoá

đơn, không hạch toán kế toán.

Nguyên nhân chính của việc trên là do cơ quan Thuế chưa chỉ đạo các

đội thuế và các cán bộ Thuế kiểm tra, giám sát chặt chẽ các hộ kinh doanh

phải mở sổ sách kế toán, nên chưa phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

66

vi phạm, các hộ kê khai không trung thực đối với những đội thuế, cán bộ thuế

thiếu tinh thần trách nhiệm, không hướng dẫn hoặc hướng dẫn không đến nơi

đến chốn, không kiểm tra giám sát thực hiện... chưa kịp thời xử lý.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

67

8. Về quá trình thực hiện quy trình quản lý thu thuế

Sau hai năm thực hiện Quyết định số:1386/TCT/QĐ/TCCB ngày

16/12/1998 của Tổng cục Thuế với việc thực hiện Luật Thuế GTGT và thuế

TNDN, quy trình quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp đã cải cách một bước

công tác hành thu, nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế. Thông qua

việc quy định các doanh nghiệp tự tính thuế, tự kê khai và nộp thuế đã khơi

dậy được ý thức trách nhiệm trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế của doanh

nghiệp. Mặt khác, phát huy được chức năng, quyền hạn của cơ quan thuế

trong việc hành thu theo chức năng Nhà nước quy định, từng bước xoá bỏ chế

độ chuyên quản thuế. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện một số văn bản quy

định về thuế thiếu tính thống nhất đồng bộ dẫn đến những vướng mắc cho cả

cơ quan thuế người nộp thuế và một số tồn tại sau:

Số thuế phải nộp trên thông báo thuế thường không đồng nhất với số

thuế phải nộp trên tờ khai thuế hoặc trên sổ sách kế toán của doanh nghiệp do

việc tính toán lại số thuế phải nộp trên máy vi tính của cơ quan thuế hoặc do

việc nhập số liệu không kịp thời, không đồng bộ các loại tờ khai thuế và giấy

nộp tiền vào Ngân sách Nhà nước của doanh nghiệp. Dẫn đến tình trạng, khi

gửi thông báo nộp thuế đến các doanh nghiệp, đã gây phản ứng làm giảm lòng

tin của doanh nghiệp.

Thời điểm gửi tờ thông báo nộp thuế đến doanh nghiệp nhiều khi còn

chậm so với thời hạn nộp thuế được quy định ở trong các luật thuế, dẫn đến

các doanh nghiệp nộp chậm thuế. Từ đó đã làm giảm đi tính tích cực chủ

động của doanh nghiệp trong việc nộp thuế.

Việc in ấn, chỉnh sửa số liệu nhiều lần dẫn đến việc ra thông báo nộp

thuế lãng phí nhiều thời gian, công sức, tiền bạc và kém hiệu quả.

9. Thất thu thuế ở một số ngành nghề, một số lĩnh vực còn rất lớn

Tình trạng các cơ sở kinh doanh bán hàng hoá không lập hoá đơn hoặc

lập hoá đơn không đúng giá thanh toán đang diễn ra khá phổ biến không chỉ ở

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

68

mặt hàng xe máy mà cả đối với mặt hàng điện tử, điện lạnh, trang trí nội thất,

vật liệu xây dựng...

Riêng đối với mặt hàng xe máy, Bộ Tài chính đã có công văn số 3645

TC/TCT ngày 6/9/2000 và Tổng cục Thuế đã có công văn 740/TCT/NV6

ngày 23/3/2001 chỉ đạo biện pháp ngăn chặn và xử lý vi phạm, tuy nhiên bên

cạnh một số địa phương triển khai tích cực như Nghệ An, Thái Bình, Quảng

Ninh, Cần Thơ, Kiên Giang... thì còn nhiều địa phương đến nay vẫn chưa

triển khai. Việc triển khai không nghiêm túc chỉ đạo của Bộ, của Tổng cục tại

một số địa phương làm giảm hiệu quả chung, gây khó khăn cho địa phương

triển khai và tạo điều kiện cho các cơ sở kinh doanh xe máy ở những địa

phương đã triển khai thông đồng với chủ kinh doanh xe máy ở các địa

phương chưa triển khai trốn thuế như bán hàng không xuất hóa đơn ở địa

phương mà yêu cầu doanh nghiệp bán hàng ở địa phương khác xuất thẳng hoá

đơn cho khách hàng. Các địa phương triển khai còn chịu sức ép rất lớn từ phía

dư luận và các cơ sở kinh doanh xe máy.

Đối với những mặt hàng khác, thủ đoạn của các cơ sở kinh doanh có ý

đồ trốn thuế là lập hoá đơn bán hàng ghi giá thấp hơn giá thực tế thanh toán

nhưng địa chỉ người mua không ghi rõ ràng, không ghi mã số, cơ quan Thuế

có nghi vấn cũng không có điều kiện xác minh hoặc ghi liên lưu thấp hơn liên

giao cho khách hàng. Bằng cách này nhiều cơ sở vừa trốn được thuế đầu ra,

vừa được hoàn thuế hàng tỷ đồng...

Kinh doanh vận tải cũng là lĩnh vực đang thất thu lớn, mà gần đây trên

các báo đã đăng tải nhiều. Các chủ hộ kinh doanh vận tải tư nhân lợi dụng cơ

chế thông thoáng của Nhà nước để tránh sự kiểm soát cuả cơ quan Thuế như

kinh doanh không xin đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế, các doanh nghiệp

kinh doanh vận tải thì sử dụng vé tự in để thu tiền như trường hợp Công ty

TNHH Phương Vinh ở Cần Thơ... hoặc thu tiền vận tải nhưng không xuất vé

cho khách hàng...

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

69

Theo phản ánh của các địa phương có số hộ lập bộ môn bài và số hộ ghi

thu thuế GTGT, thuế TNDN giảm chính là những đối tượng này. Báo chí đã

nêu chỉ riêng Nghệ An đã thất thu hàng chục tỷ đồng thuế hàng năm. Hoạt

động kinh doanh vận tải lại thường trải rộng trên nhiều địa bàn, nhưng giữa

các địa phương chưa có quan hệ với nhau để cùng kiểm soát.

Đối với hoạt động kinh doanh khách sạn, nhà nghỉ: do khách nghỉ phần

lớn là người dân đi tham quan, nghỉ mát thanh toán bằng tiền mặt, vì vậy họ

không cần lập hoá đơn. Chủ khách sạn, nhà nghỉ tuy có thực hiện khai báo

khách nghỉ với công an nhưng chỉ khai báo lượng khách tạm trú, khi khai báo

thuế thường ghép nhiều khách vào một phòng để giảm số phòng sử dụng, vì

vậy dù có đối chiếu nắm được số khách nghỉ nhưng vẫn bị thất thu do không

nắm được số phòng sử dụng. Chủ khách sạn, nhà nghỉ còn trốn thuế bằng

cách kê khai giá thuê phòng thấp hơn giá thực tế thanh toán, đặc biệt vào các

ngày nghỉ hè, nghỉ cuối tuần.

Đối với các hoạt động kinh doanh ăn uống, đặc biệt là các nhà hàng, vũ

trường. Thủ đoạn của các chủ kinh doanh nhà hàng, vũ trường đều sử dụng

chứng từ riêng để thu tiền không phải là chứng từ đăng ký với cơ quan thuế,

họ chỉ xuất chứng từ của cơ quan thuế khi khách hàng yêu cầu. Kinh doanh

nhà hàng lại thường đông đúc vào những giờ cơ quan thuế đã hết giờ làm việc

nên không nắm được thực tế lượng khách vào, ra...

Hiện nay ở các thành phố, thị xã các dịch vụ ăn uống đêm rất phổ biến,

nhiều hộ kinh doanh cả ngày không xuất hiện nhưng cứ đến chập tối là kê bàn

ghế chiếm một đoạn vỉa hè làm điểm kinh doanh hoặc tập trung vào các chợ

đêm, họ bán có cả bia, rượu kèm theo đến 11, 12 giờ đêm với doanh thu có

cửa hàng đến 5 triệu, 7 triêu đồng/tối nhưng phần lớn vẫn nằm ngoài tầm

kiểm soát của cơ quan thuế, nguyên nhân cơ bản dẫn đến thất thu trên là do cơ

quan Thuế chưa phối hợp chặt chẽ với hội đồng tư vấn thuế rà soát đối tượng

kinh doanh, chưa bố trí, phân công cán bộ giám sát, kiểm tra ngoài giờ vì vậy

không nắm được hộ mới, doanh số của cả những hộ đã quản lý.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

70

Đối với hoạt động xây dựng tư nhân: Thời gian gần đây do những nhu

cầu cần thiết về nhà ở tăng cao, hoạt động xây dựng nhà ở cư dân phát triển

mạnh mẽ nhất là ở các thành phố, thị xã. Bên cạnh những toà nhà lớn, những

khu chung cư do các doanh nghiệp xây dựng đảm nhận thi công, còn có các

nhà tư nhân đều do chủ thầu tư nhân đảm nhận thi công. Thất thu thuế đối với

hoạt động xây dựng tư nhân là rất lớn. Cơ quan thuế do không bám sát địa

bàn, không phối hợp chặt chẽ với UBND Phường, cơ quan Thanh tra xây

dựng nên không nắm chắc được các công trình xây dựng trên địa bàn, mặc dù

mỗi công trình xây dựng thường từ khi bắt đầu đến khi kết thúc phải diễn ra

trong thời gian dài (từ 3 tháng, 6 tháng có khi đến 1 năm). Để phân loại và thu

thuế kịp thời đối với những công trình do tư nhân thi công, một số địa phương

sau khi thi công xong chủ nhà dọn đến ở mới yêu cầu chủ nhà xuất trình hợp

đồng thi công, xuất trình chứng từ nộp thuế, yêu cầu nộp thuế và xử lý truy

thu thuế nếu công trình chưa nộp dẫn đến phản ứng gay gắt từ phía chủ nhà và

dư luận.

10. Bản thân các cơ sở kinh tế NQD cũng còn nhiều tồn tại

- Trước hết, mọi đối tượng sản xuất kinh doanh đều phải có đăng ký.

Tuy nhiên kết quả khảo sát, điều tra của cục quản lý thị trường Bộ Thương

mại năm 1997 cho kết quả: 58% hộ đăng ký kinh doanh cá thể, tiểu chủ

không đăng ký; 40% doanh nghiệp NQD kinh doanh sai đăng ký... Con số

này là rất lớn.

- Trình độ của người chủ doanh nghiệp, chủ hộ sản xuất kinh doanh rất

thấp, nhiều chủ doanh nghiệp chưa tốt nghiệp Phổ thông trung học. Rất ít chủ

doanh nghiệp NQD có trình độ cử nhân kinh tế hoặc cử nhân luật...

Do trình độ văn hoá thấp kém, ảnh hưởng đến khả năng tiếp nhận, nhận

thức chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tiếp thu các văn bản pháp

luật, tất yếu dẫn đến vi phạm.

- Tình trạng kinh doanh không mở sổ sách kế toán, lập hóa đơn chứng

từ, trốn lậu thuế diễn ra phổ biến.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

71

Theo tài liệu khảo sát của cục Thuế thành phố Hải Phòng năm 1998 chỉ

có 40-45% số doanh nghiệp NQD ở Hải Phòng là thực hiện tương đối tốt chế

độ kế toán, hoá đơn chứng từ. Năm 1999 và năm 2000 cục Thuế tăng cường

chỉ

đạo, hướng dẫn, kiểm tra và xử lý vi phạm, tình hình có khá hơn nhưng vẫn

còn đến 25-30% số doanh nghiệp không thực hiện hoặc thực hiện chưa đúng

Đối với hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ đại bộ phận là không mở sổ kế

toán, lập chứng từ hoá đơn.

Mục đích của việc không thực hiện chế độ kế toán, chứng từ hoá đơn

theo quy định là trốn lậu thuế. Năm 2000 Tổng cục Thuế tổ chức kiểm tra

chấp hành chính sách thuế tại gần 500 cơ sở kinh tế NQD đã phát hiện số thuế

ẩn lậu khoảng gần 20 tỷ đồng, bằng 13-14% số thuế cơ sở tự khai.

Một số cơ sở sản xuất hàng giả, buôn bán hàng giả, hàng nhập lậu, hoặc

tiếp tay cho bọn sản xuất hàng giả, bọn buôn lậu gây hậu quả không nhỏ cho

sản xuất trong nước, cho đời sống nhân dân.

Với mục tiêu lợi nhuận cao, các cơ sở kinh tế NQD dễ dàng vi phạm

pháp luật hoặc lợi dụng sơ hở của pháp luật. Khảo cứu tình hình buôn lậu ở

biê

giới cho thấy các hộ kinh doanh tại các chợ vùng biên giới chủ yếu là kinh

doanh hàng nhập lậu. Họ có thể trực tiếp qua biên giới nhập lậu về hoặc mua

lại hàng hóa nhập lậu với giá rẻ rồi hợp thức hoá hoặc sử dụng giấy tờ giả

mạo, quay vòng giấy tờ để đưa vào nội địa. Điển hình là các mặt hàng Trung

Quốc, vật liệu xây dựng Trung Quốc....

B. Những tồn tại trong thực hiện quy trình hành thu

Những năm gần đây, công tác quản lý thu thuế đối với hoạt động sản

xuất kinh doanh CTN và dịch vụ NQD có nhiều chuyển biến tích cực đặc biệt

là từ khi triển khai luật thuế mới. Năm 2001 ước thực hiện đạt 103% so với

dự toán tăng 13% so thực thu năm 2000. Kết quả thu như trên là do trong năm

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

72

2001 ngành thuế đã triển khai đồng bộ các biện pháp chung của toàn ngành và

biện pháp quản lý cụ thể đối với khu vực kinh tế NQD.

Theo số liệu tổng hợp năm 2001 số hộ quản lý thu thuế môn bài tăng so

năm 2000 là 35.000 hộ; số hộ quản lý thu thuế hàng tháng bình quân cũng

tăng khoảng 20.000 hộ; nhiều địa phương số thuế bình quân hộ tăng cao như :

Đà Nẵng, Vĩnh Long, Hải Dương, Bắc Ninh... Nhiều địa phương đã triển khai

có kết quả chống thất thu thuế đối với kinh doanh xe máy, vận tải tư nhân,

kinh doanh khách sạn, nhà hàng như: Nghệ An, Quảng Ninh, Bình Định,

Khánh Hoà... Đối với hộ kinh doanh lớn đã triển khai được trên 135.000 hộ

thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ bằng xấp xỉ 90% chỉ tiêu Tổng

cục Thuế giao; trong đó có nhiều địa phương triển khai có kết quả góp phần

tăng thu ngân sách như Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Giang, Quảng

Ngãi, Bà Rịa - Vũng Tàu... Công tác quản lý các doanh nghiệp NQD cũng có

những chuyển biến tích cực, cơ quan thuế các địa phương đã phối hợp chặt chẽ với

sở Kế hoạch - Đầu tư nắm số doanh nghiệp được cấp đăng ký để đưa ngay vào diện

quản lý, kiểm tra và phát hiện kịp thời nhiều doanh nghiệp kinh doanh không lành

mạnh, hạn chế thất thoát hoá đơn, thất thoát hoàn thuế...

Kết quả thu năm 2001 của toàn ngành là tương đối tốt nhưng vẫn còn

một số điểm cần lưu ý như sau:

- Kết quả thu vẫn chưa tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế

khu vực NQD chung của cả nước và của mỗi địa phương. Theo số liệu của

Tổng cục Thống kê năm 2001 GDP khu vực NQD tăng khoảng 17% đến 18%

so với năm 2000 nhưng số thu chung chỉ tăng 13%. Một số địa phương có tốc

độ tăng trưởng kinh tế cao như thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng

Nai... nhưng tốc độ tăng thu thấp hơn rất nhiều so với tốc độ tăng thu chung

như thành phố Hồ Chí Minh tăng thu 10%, Bà Rịa - Vũng Tàu tăng thu 8%,

Khánh Hoà tăng thu 2,5%, Đồng Nai tăng thu 6,5%, Hải Phòng tăng thu 4%...

Qua theo dõi liên tục trong 2 năm 2000 và 2001 có 11 địa phương số

thu năm sau đều tăng cao hơn 10% so với thực thu năm trước là Yên Bái, Kon

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

73

Tum. Quảng Ninh, Hà Tây, Hà Nam, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Tĩnh, Bình

Dương, Quảng Nam, Ninh Thuận. Nhưng cũng có nhiều địa phương 2 năm

chỉ tăng dưới 5% như: Hải Phòng, Sơn La, Kiên Giang, Bình Thuận, đặc biệt

có tỉnh Bắc Cạn cả 2 năm số thu đều thấp hơn so cùng kỳ năm trước.

- So với dự toán có 5 địa phươngvượt trên 20% là Hải Dương 28,1%,

Long An là 24,5%, Lai Châu 24,8%, Cà Mau 35,3%, Bạc Liêu 36,2%. Có 8

địa phương vượt từ 15% đến 20% nhưng cũng có 7 địa phương không hoàn

thành dự toán thu là Khánh Hoà, Bắc Cạn, Tây Ninh, Kiên Giang, Đồng Nai,

Phú Yên, Đắc Lắc.

So với cùng kỳ có 10 địa phương tăng trên 20% so với năm 2000 như

Hải Dương tăng 37%, Hưng Yên tăng 22%, Sóc trăng tăng28%, Thừa Thiên

Huế tăng 33%, Lai Châu tăng 27%, Lạng Sơn tăng 23%... Có 6 địa phương

tăng từ 10% đến 20%, nhưng có 8 địa phương số thu tăng dưới 5%, đặc biệt

có 3 địa phương thấp hơn thực thu năm 2000 là: Bắc Cạn bằng 97,2%, Phú

Yên bằng 98,85, Phú Thọ bằng 98,6%.

- Số thu của từng khu vực tăng cũng không đều, trong khi khu vực

doanh nghiệp tăng trên 26% nhưng khu vực hộ kinh doanh cá thể chỉ tăng

khoảng 3%.

- Số thu của từng sắc lệnh thuế tăng cũng không đều: thuế GTGT và

thuế TNDN là hai khoản thu chủ yếu chỉ vượt từ 2% đến 3% thì khoản thu

nhỏ và không ổn định lại vượt rất cao như thuế TTĐB vượt 39%, thu khác

vượt 39%. So với năm 2000 chỉ tăng 8%, thuế tài nguyên và thu khác lại thấp

hơn (thuế tài nguyên bằng 98%, thu khác bằng 84%).

IV. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG TỒN TẠI TRÊN

1. Do đặc điểm kinh doanh của khu vực kinh tế NQD

Một là: Khu vực NQD là khu vực kinh tế có số lượng đối tượng kinh

doanh rất lớn, quy mô kinh doanh đa số nhỏ, trải rộng trên địa bàn khắp cả

nước: 65% doanh nghiệp và 70% hộ cá thể thuộc khu vực kinh tế NQD hoạt

động trên lĩnh vực thương mại và dịch vụ để kiếm chênh lệch giá, không tạo

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

74

ra giá trị hàng hoá. Do thiếu vốn để sản xuất và mở rộng sản xuất kinh doanh

là phổ biến đối với khu vực này.

Hai là: Trình độ văn hoá, trình độ quản lý, trình độ công nghệ còn thấp

so với khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực đầu tư nước ngoài nên chưa chịu

đi sâu tìm hiểu luật thuế để thực hiện mà còn chông chờ để được phổ biến nên

khi áp dụng không tránh khỏi lúng túng dẫn đến thực hiện sai luật ngoài ra

năng suất lao động và GDP bình quân một lao động tạo ra cũng còn thấp so

với hai khu vực kinh tế trên.

Ba là: Khu vực kinh tế NQD có một bộ phận lớn người kinh doanh có doanh thu, có thu nhập nhưng đối tượng được miễn giảm thuế như: Hộ sản xuất mới thành lập, hộ kinh doanh có thu nhập thấp, đánh bắt hải sản xa bờ, kinh doanh vận tải thô sơ (xe ôm, xe lôi, xe xúc vật kéo). Năm 2000 và năm 2001 số lượng các doanh nghiệp thành lập nhiều, thuộc đối tượng được ưu đãi miễn giảm thuế, ngoài ra còn một bộ phận những người làm kinh tế tư nhân và vệ tinh tham gia vào các quá trình sản xuất của doanh nghiệp Nhà nước hoặc doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, nghĩa vụ nộp ngân sách được tính chung cho khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực đầu tư nước ngoài.

Bốn là :Do khu vực này vẫn còn một số trường hợp cố tình làm sai nhằm trốn thuế, giảm thuế phải nộp bằng cáng hạch toán sai với qui định.

2. Do quản lý của cơ quan thuế còn yếu kém Một là: Nhiều địa phương chưa tranh thủ được sự lãnh đạo, chỉ đạo của

cấp uỷ và chính quyền địa phương, sự phối hợp của các ngành chưa hình thành bộ phận cưỡng chế, thiếu những biện pháp kiên quyết trong việc xử lý các sai phạm từ phía cơ quan thuế dẫn đến hiệu quả của công tác quản lý còn hạn chế.

Hai là: Nhiều địa phương chưa triển khai nghiêm túc các quy trình và biện pháp nghiệp vụ do ngành thuế đề ra như quy trình quản lý đối tượng kinh doanh, xác định doanh số đối với hộ khoán; quy trình duyệt bộ tổng hợp.

Ba là: Đối với một số ngành thất thu lớn như kinh doanh xe máy, vận tải tư nhân, kinh doanh khách sạn nhà hàng nhiều địa phương chưa triển khai

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

75

theo biện pháp chỉ đạo của Tổng cục việc triển khai các biện pháp quản lý không đồng bộ giữa các địa phương đang bị lợi dụng nên thất thu còn rất lớn.

Bốn là: Trong quản lý doanh nghiệp chưa thường xuyên kiểm tra, giám sát tình hình kinh doanh, chủ yếu để cho doanh nghiệp tự khai báo doanh số kinh doanh, số thuế phải nộp, dẫn đến nhiều cơ sở bán hàng không xuất hoá đơn, lợi dụng lập hoá đơn bán hàng ghi không đúng giá thực tế thanh toán, lập chứng từ khống đầu vào, kê khai xin hoàn thuế không đúng quy định, kê khai kết quả kinh doanh không trung thực để trốn thuế thu nhập.

Năn là: Bố chí công tác quản lý cán bộ chưa hợp lý giao một cán bộ thuế quản lý quá nhiều doanh nghiệp, thời gian quản lý lâu sẽ dẫn đến tiêu cực giữa cơ quan thuế và đối tượng nộp thuế.

CHƯƠNG III

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU

THUẾ ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH

Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

I. Quan điểm và định hướng công tác quản lý thu thuế trong thời gian tới

1. Quan điểm

Kinh tế NQD sẽ cùng tồn tại khách quan với các thành phần kinh tế

khác trong thời kỳ quá độ, và tự nó đã và đang phát huy vai trò nhất định

trong việc phát triển kinh tế tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao

động; góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy

nhận thức đúng đắn vị trí kinh tế NQD trong thời kỳ quá độ là cực kỳ quan

trọng.

Xác định đúng vị trí vai trò của nó còn giúp các ngành chức năng hoạch

định chính sách, cơ chế thực sự khuyến khích nó phát triển.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

76

Cần coi các thành phần kinh tế NQD như những tế bào của nền kinh tế

thống nhất. Cần phải có cái nhìn đúng đắn hơn với những người chủ khu vực

kinh tế NQD và những người lao động trong khu vực kinh tế này.

Nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò kinh tế NQD thể hiện trong xây dựng

chính sách thuế và quản lý thu thuế là tìm mọi giải pháp để khuyến khích khu

vực kinh tế này phát triển, xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa kinh tế quốc doanh

và kinh tế NQD, xoá bỏ ngay những quy định không phù hợp đang kìm hãm

sự phát triển của khu vực kinh tế này.

Cơ quan thuế, cán bộ thuế phải xác định khu vực kinh tế NQD là đối

tượng mình phục vụ thay cho quan niệm quản lý như hiện nay. Các cơ sở kinh

tế là nguồn cung cấp tài chính cho ngân sách, cơ sở kinh tế tồn tại và phát

triển nguồn thu tài chính cho ngân sách mới ổn định và ngày càng tăng, từ đó

hướng dẫn giúp đỡ cơ sở kinh doanh thực hiện đúng chính sách, lắng nghe ý

kiến phản ánh của cơ sở về những khó khăn trong sản xuất kinh doanh, vướng

mắc trong việc thực hiện chính sách thuế để giải đáp giúp cơ sở vượt qua.

Bản thân chủ cơ sở sản xuất kinh doanh cũng cần phải nhận thức cho

đúng đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về chủ trương phát

triển lâu dài kinh tế NQD, tự xoá bỏ mặc cảm, tranh thủ nắm bắt thời cơ mạnh

dạn đầu tư, đổi mới công nghệ để phát triển sản xuất kinh doanh, đồng thời

qua sản xuất kinh doanh kiến nghị với Nhà nước những khó khăn vướng mắc

gây cản trở đến sự phát triển của khu vực kinh tế NQD để Nhà nước nghiên

cứu tháo gỡ. Đấu tranh kiên quyết với các cơ sở kinh doanh vi phạm pháp

luật, kinh doanh theo lối chụp giật, kinh doanh trốn thuế, lậu thuế... để hạn

chế dần vi phạm trên, gây dựng lòng tin cho các cơ quan quản lý và nhân dân.

Các cơ quan tuyên truyền cần thay đổi hướng tuyên truyền về khu vực

kinh tế NQD. Công tác tuyên truyền cũng cần phải định hướng lại cho dư luận

và nhân dân coi các cơ sở kinh tế NQD là những đơn vị trong binh chủng hợp

thành của nền kinh tế Việt Nam. Những ông chủ và người lao động trong

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

77

doanh nghiệp NQD là những nguời đã và đang góp phần xây dựng đất nước,

xoá bỏ mặc cảm lâu đời trọng nông, khinh thương...

Tóm lại qua xác đinh đúng đắn vị trí, vai trò của kinh tế NQD từ đó tạo

ra sự thay đổi trong nhận thức và hành động của cơ quan quản lý, của các

quan chức chính phủ và của xã hội với khu vực kinh tế NQD.

2. Định hướng

Năm 2002 Nhà nước đã giao nhiệm vụ thu thuế đối với hoạt động sản

xuất công thương nghiệp và dịch vụ NQD cho toàn ngành và từng địa

phương. So với năm 2001 dự toán thu năm 2002 tăng khoảng 12% đến 13%.

Để thực hiện được dự toán này Tổng cục Thuế đã ra công văn số 4649

TCT/NV6 ngày 15/11/2001 nêu những biện pháp rất cụ thể. Căn cứ vào

những biện pháp chung của toàn ngành và những biện pháp cụ thể nêu tại

công văn trên đề nghị Cục thuế địa phương triển khai nghiêm túc và cụ thể

phù hợp với đặc điểm của địa phương mình. Tổng cục Thuế nhấn mạnh thêm

một số biện pháp lớn sau: 2.1. Tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ chính quyền, sự phối

hợp của các ngành rà soát nắm lại tất cả các cơ sở sản xuất, kinh doanh trên

địa bàn để đưa ngay vào điện quản lý thu thuế môn bài, trên cơ sở số hộ quản

lý thu thuế môn bài, phân loại hộ để áp dụng những biện pháp quản lý thu

thuế GTGT và thuế TNDN thích hợp theo hướng sau:

- Đối với hộ kinh doanh lớn tiếp tục triển khai thực hiện chế độ kế

toán, mở rộng diện áp dụng đối với các hộ kinh doanh lớn có điều kiện mở sổ

sách kế toán, lập hoá đơn chứng từ.

- Đối với hộ kinh doanh vừa và nhỏ, phối hợp với Hội đồng tư vấn xác

định lại doanh số, tổ chức công khai lấy ý kiến và công bố ổn định cho hộ

kinh doanh. Cục thuế phải giao chỉ tiêu tăng thu và chỉ đạo chặt chẽ các Chi

cục Thuế, các đội thuế thực hiện bằng và cao hơn chỉ tiêu đã giao. Mức tăng

thu tối thiểu phải bằng mức tăng trưởng kinh tế.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

78

- Đối với hộ kinh doanh có thu nhập thấp, phải thực hiện các thủ tục

miễn giảm thuế đúng chính sách và công bố công khai để các hộ kinh doanh

biết.

2.2. Đẩy mạnh việc triển khai chế độ kế toán:

- Đối với các doanh nghiệp: Yêu cầu 100% doanh nghiệp phải thực

hiện chế độ kế toán và thu thuế theo kê khai, nghiêm cấm thu thuế khoán. Kết

hợp kiểm tra quyết toán thuế, kiểm tra hoàn thuế với kiểm tra việc thực hiện

chế độ kế toán, kê khai nộp thuế, xử ký nghiêm khắc các doanh nghiệp vi

phạm.

- Đối với các hộ kinh doanh cá thể: Yêu cầu các hộ kinh doanh có môn

bài bậc 1, bậc 2 phải mở sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ và nộp thuế theo

kê khai. Để chống thất thu thuế và chống các hành vi lợi dụng đối với những

hộ kinh doanh qua triển khai chế độ kế toán nếu kê khai doanh số và mức

thuế lại thấp hơn doanh số ấn định hoặc doanh số của hộ kinh doanh cùng

ngành nghề cùng quy mô thì phải xử phạt vi phạm hành chính và ấn định

doanh số, mức thuế mới bằng hoặc cao hơn doanh số và mức thuế của hộ kinh

doanh cùng ngành nghề cùng quy mô, không được ấn định bằng mức khoán

trước đây.

- Đối với những hộ kinh doanh được cơ quan thuế chấp nhận cho nộp

thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ hoặc được xác định GTGT theo doanh

số bán ra trừ doanh số mua vào, yêu cầu các Chi cục Thuế phải thường xuyên

kiểm tra để phát hiện kịp thời những trường hợp vi phạm tránh lợi dụng. Thời

gian qua, đã có một số hộ kinh doanh lợi dụng chủ trương khuyến khích đăng

ký nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ chuyển từ nộp theo phương

pháp trực tiếp sang nộp theo phương pháp khấu trừ, số thuế phải nộp không

những giảm mà còn được hoàn. Cục Thuế cần chỉ đạo chặt chẽ các Chi cục

Thuế trong việc duyệt cho hộ kinh doanh được nộp thuế theo phương pháp

khấu trừ.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

79

2.3. Đẩy mạnh việc triển khai các biện pháp chống thất thu đối với một

số ngành nghề và lĩnh vực còn đang thất thu nhiều theo công văn số

3581/TCT ngày 11/9/2001 của Tổng cục Thuế. Những địa phương chưa triển

khai cần tranh thủ báo cáo Uỷ ban Nhân dân điạ phương để Uỷ ban nhân dân

chỉ đạo các ngành phối hợp thực hiện.

2.4. Nghiên cứu cải tiến các biện pháp thu nộp thuế theo hướng gắn

công tác quản lý thuế với chính quyền cơ sở, giảm các thủ tục hành chính, tiết

kiệm chi phí và tạo thuận lợi tối đa cho người nộp thuế.

Mở rộng mô hình hoạt động của các trung tâm dịch vụ đối tượng nộp

thuế để cung cấp thông tin và hướng dẫn các cơ sở kinh doanh hiểu rõ chính

sách thuế, chế độ kế toán để họ tự giác chấp hành.

2.5. Nâng cao ý thức trách nhiệm của từng cơ quan thuế và từng cán bộ

thuế. Mỗi đồng chí phụ trách cơ quan thuế, mỗi cán bộ thuế đều phải chịu

trách nhiệm về kết quả thu và kết quả triển khai các biện pháp nghiệp vụ trong

phạm vi phụ trách của mình. Gắn kết quả hoàn thành nhiệm vụ, kết quả chống

thất thu với các hình thức khen thưởng.

2.6. Trước hết để bảo đảm nhiệm vụ thu quý I cần thực hiện:

- Giao chỉ tiêu cụ thể cho từng Chi cục, từng đội thuế nhiệm vụ thu

thuế môn bài năm 2002

- Đối với hộ thuộc đối tượng khoán ổn định, phối hợp với hội đồng tư

vấn tổ chức điều tra doanh số, mức thuế và tổ chức công khai để mọi người

kinh doanh biết. Yêu cầu mức thuế mới xác định phải bảo đảm hoàn thành dự

toán và tăng hơn mức độ tăng trưởng kinh tế ở địa phương. Cục Thuế phải

căn cứ vào mức độ tăng trưởng kinh tế và mức độ thất thu giao chỉ tiêu cụ thể

cho từng Chi cục, kiểm tra và đôn đốc Chi cục thực hiện đúng chỉ tiêu đã

giao. Chi cục nào thực hiện không đúng kiên quyết yêu cầu làm lại

- Đôn đốc các doanh nghiệp, hộ kinh doanh nộp thuế theo kê khai nộp

báo cáo quyết toán thuế, báo cáo tạm nộp thu nhập đúng kỳ hạn.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

80

Kiểm tra báo cáo quyết toán doanh nghiệp kê khai, nếu phát sinh thu

thêm thì căn cứ vào kê khai của doanh nghiệp ra thông báo yêu cầu nộp ngay.

Kiểm tra tờ khai nộp thuế TNDN nếu doanh nghiệp kê khai thấp hơn thu nhập

thực tế của năm 2001 và mức độ tăng trưởng năm 2002 thì yêu cầu kê khai

lại, trường hợp doanh nghiệp không kê khai lại hoặc không nộp tờ khai thì

căn cứ vào thu nhập năm 2001, mức tăng trưởng kinh doanh năm 2002 để ấn

định mức tạm nộp quý I.

II. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ KHU VỰC

KINH TẾ NQD TRONG THỜI GIAN TỚI

1. Một số giải pháp về các chính sách thuế

1.1. Thuế môn bài

Cần xây dựng hai biều thuế để áp dụng riêng cho hai loại đối tượng,

một biểu áp dụng cho tổ chức kinh tế có mức thuế môn bài cao, một biểu áp

dụng cho hộ kinh doanh cá thể có thể chỉ duy trì hoặc điều tiết chút ít so với

mức hiện hành.

1.2. Thuế GTGT

- Về đối tượng áp dụng thuế GTGT chỉ nên áp dụng với các cơ sở

kinh doanh đạt một quy mô nhất định còn các cơ sở kinh doanh có quy mô

nhỏ thì áp dụng thuế doanh thu như trước đây.

- Về thuế suất: Nên đơn giản về thuế suất chỉ nên áp dụng ba mức:

+ 0% với hàng xuất khẩu.

+ 15% hoặc 20% đối với hàng dịch vụ không khuyến khích sản xuất

và tiêu dùng.

+ 5% hoặc 10% đối với hàng sản xuất và tiêu dùng.

- Về kê khai nộp thuế: Nên có sự phân biệt: Doanh nghiệp kê khai

nộp thuế theo tháng. Doanh nghiệp vừa kê khai nộp thuế 3 tháng 1 lần. Doanh

nghiệp nhỏ kê khai nộp thuế 6 tháng 1 lần.

- Về kê khai nộp thuế: Nên bỏ khấu trừ theo tỷ lệ, chỉ áp dụng khấu

trừ nếu mua hàng hóa có hoá đơn GTGT.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

81

1.3. Thuế TNDN

Đề nghị bác bỏ thuế thu nhập bổ sung vì phân biệt lợi thế khách quan là

rất phức tạp và mang tính chủ quan, hoặc nếu áp dụng thì chỉ áp dụng đối với

một số mặt hàng Nhà nước độc quyền giá cả do Nhà nước quyết định.

Về miễn thuế đối với hộ kinh doanh có thu nhập thấp: đề nghị nâng

mức từ 210.000 đồng đến 500.000 hoặc 700.000 đồng/ tháng. Hộ kinh doanh

có thu nhập vượt quá mức này thì chỉ tính và nộp trên phần thu nhập cao hơn.

1.4. Thuế XNK

- Cần bảo hộ nền sản xuất trong nước một cách hiệu quả, thúc đẩy

mạnh mẽ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu.

- Đưa biểu thuế xuất nhập khẩu phù hợp với những cam kết quốc tế về

cắt giảm thuế quan, sau khi Việt Nam tham gia ký kết các điều ước quốc tế.

2. Về nhận thức tưởng vẫn còn sự phân biệt đối xử

- Nhà nước, cơ quan thuế cần phảI đối xử bình bẳng giữa các thành

phận kinh tế, không được ưu tiên một cách bất hợp lý khi ra các chính sách

thuế.

_ Khu vực này cần được thông thoáng, tạo điều kiện trong vay vốn,

tham gia thị trường,tuyển dụng lao động.

_Cần nhận thức đúng vai trò, vị trí của khu vực trong hoạch định chính

sách.

3. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, chính sách thuế đối với kinh tế NQD

- Trước hết phải rà soát lại các chính sách hiện hành có nội dung liên

quan đến khu vực kinh tế NQD để sửa đổi, điều chỉnh, bổ xung một cách cơ

bản nhằm tạo ra môi trường pháp lý rõ ràng, nhất quán, ổn định và khả thi cho

khu vực kinh tế NQD hoạt động và phát triển.

- Loại bỏ ngay những quy định trong các chính sách cụ thể có tính

chất phân biệt đối xử giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế NQD, tạo sự bình đẳng

giữa các cơ sở kinh tế Nhà nước và kinh tế NQD trong mọi lĩnh vực, đặc biệt

là trong lĩnh vực Tài chính, Thuế, Tín dụng, đất đai...

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

82

Những quy định trong chính sách cụ thể có tính chất phân biệt đối xử

nhậy cảm. Trước đây trong chính sách thuế lợi tức có nhiều điều mang tính

phân biệt đối xử như khu vực kinh tế NQD thì phải nộp thuế lợi tức bổ xung.

Tính chi phí tiền lương theo quy định của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố

mà không theo thoả ước ghi trong hợp đồng lao động giữa cơ sở sản xuất với

người lao động... luôn là tiêu điểm để các cơ sở kinh tế NQD phê phán. Nay

chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp đã xoá bỏ các phân biệt trên, nhưng

vẫn còn nhiều quy định ngoài luật dưới hình thức quyết định, chỉ thị, thông tư

hướng dẫn riêng cho khu vực kinh tế quốc doanh mà các cơ sở kinh tế NQD

không được áp dụng như hướng dẫn về xử lý chênh lệch giá, về trích lập quỹ

đề phòng rủi ro....

Theo văn bản này thực hiện luật thuế lợi tức các doanh nghiệp Nhà

nước được chuyển lỗ 5 năm - trong khi luật thuế lợi tức quy định chỉ được

chuyển lỗ 2 năm, với văn bản này lợi thế lại thuộc về doanh nghiệp Nhà nước,

điều mà các cơ sở kinh tế NQD không được hưởng.

- Đối với các chính sách mới ban hành hoặc mới được bổ sung, sửa

đổi có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các cơ sở kinh tế nói

chung và các cơ sở kinh tế NQD nói riêng cần được phổ biến rộng rãi cho cơ

sở biết và phải quan tâm đến khả năng thực hiện của cơ sở kinh doanh. Một

chính sách mới hoặc điều mới được sửa đổi, bổ sung có thể sẽ tạo điều kiện

hoặc gây khó khăn cho doanh nghiệp thực hiện, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu

quả sản xuất kinh doanh. Do đó doanh nghiệp cần phải biết và có thời gian để

điều chỉnh cho phù hợp. Đây chưa phải điều đã được các cơ quan hoặc chính

sách quan tâm.

- Các văn bản hướng dẫn dưới luật phải tuyệt đối tuân theo mục đích,

nội dung đã nêu ra trong luật, không được vì quyền lợi cục bộ mà vi phạm

vào những mục đích nội dung luật quy định. Làm cho mục tiêu xuyên suốt

của luật không được thực hiện hoặc thực hiện không đúng đắn, sai lệch.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

83

Trong hướng dẫn chính sách thuế và tổ chức thực hiện thường mắc tồn

tại này.

Thí dụ: Để khuyến khích các cơ sở kinh doanh đầu tư xây dựng cơ sở

sản xuất, luật thuế thu nhập doanh nghiệp và luật khuyến khích đầu tư đều

quy đinh: cơ sở sản xuất mới thành lập được miễn giảm thuế TNDN, thuế

nhập khẩu, tiền thuê đất tuỳ theo dự án đầu tư thuộc ngành nghề, địa bàn cần

khuyến khích hay không.

Thực hiện chủ trương này thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính có quy

định một điểm không rõ ràng dẫn đến khó khăn cho thực hiện và rất dễ dẫn

đến tuỳ tiện. Cụ thể quy định là: Các cơ sở sản xuất được thành lập trên cơ sở

sát nhập, chia tách, mua lại cơ sở sản xuất cũ không thuộc đối tượng miễn

giảm thuế. Thế là trong tổ chức thực hiện luôn xảy ra: Một cơ sở sản xuất cũ

làm ăn thua lỗ bán cho một người khác, đối với người mua đây là cơ sở sản

xuất mới nhưng theo quyết định trên không được miễn giảm, nhưng nếu anh

ta mua đất xây nhà xưởng, mua máy móc thiết bị về lắp đặt thì được miễn

giảm. Hoặc một cơ sở mới thành lập có đầu tư xây dựng nhà xưởng, nhưng

mua lại máy móc thiết bị của cơ sở sản xuất cùng ngành nghề trước đó cũng

được coi là chia, tách nên không được miễn giảm thuế.

Trong phát triển hàng hoá theo cơ chế thị trường sự mua đi bán lại một

doanh nghiệp, một cơ sở kinh doanh là thường xuyên xảy ra. Đối với người

mua lại cơ sở sản xuất khai cũng cần xác định đó là mới vì xét mới hay cũ

phải xét trên pháp nhân hay thể nhân, chứ không phải xét trên nhà xưởng,

máy móc.

Hay theo luật thuế GTGT, cơ sở mua hàng hoá được khấu trừ thuế đầu

vào theo tỷ lệ 2% tính trên giá mua. Tuy nhiên do không hướng dẫn rõ hàng

hoá nông sản được hiểu như thế nào nên thực hiện không thống nhất, như cây

cà phê phá chặt bán có phải là nông sản hay không? Có nơi cho là hàng hoá

nông sản, có nơi không xác định là hàng hoá nông sản, lập luận hàng hoá

nông sản là hạt cà phê... Trong hàng hóa nông sản thế nào là sơ chế, thế nào là

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

84

chế biến cũng đang có sự hiểu không thống nhất, mà chưa có sự giải thích cụ

thể dẫn đến tình trạng cùng là mặt hàng chè búp khô, long nhãn, mực khô có

địa phương cho là đã qua chế biến nên không khấu trừ theo tỷ lệ 2%, có nơi

lại cho là nông sản chưa qua chế biến nên đượckhấu trừ theo tỷ lệ 2%.

Trong điều kiện kinh tế thị trường có cạnh tranh việc thực hiện không

thống nhất nhiều khi vô tình tạo ra điều kiện cho cơ sở này phát triển nhưng

lại đưa cơ sở khác đến phá sản.

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích luật và các

chính sách để các cơ sở kinh tế NQD nắm được các quy định của pháp luật và

các văn bản hướng dẫn dưới luật phải đồng bộ và phải có thời gian cho cơ sở

kinh doanh tiếp nhận và chuẩn bị để thi hành.

Kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá X ban hành Nghị quyết sửa đổi, bổ xung

một số điều của luật thuế GTGT quy định Nghị quyết được thực hiện từ

1/1/2001 và giao Chính phủ hướng dẫn thi hành. Chưa nói thời gian từ khi

Quốc hội có nghị quyết đến thời điểm thi hành là ngắn, nhưng đến 29/12/2000

Chính phủ mới có thông tư hướng dẫn thực hiện (thực tế Nghị định của Chính

phủ và thông tư của Bộ Tài chính ký sau ngày trên). Khi các văn bản này

được các cơ sở kinh tế NQD tiếp nhận sớm nhất vào giữa tháng 2/2001. Và

thực tiễn xảy ra do tháng 1/2001 các cơ sở kinh doanh chưa tiếp nhận được

văn bản hướng dẫn nên vẫn tính toán chi phí, kết quả kinh doanh, mức thuế

theo hướng dẫn trước đó, nay hướng dẫn có một số điều chỉnh làm ảnh hưởng

đến sản xuất kinh doanh, rất nhiều doanh nghiệp đã đề nghị Bộ Tài chính,

Chính phủ phải xem xét chấp nhận thực tiễn đó, nếu không sẽ ảnh hưởng đến

hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Tương tự như vậy, mỗi khi điều chỉnh tăng thuế XNK, điều chỉnh lại

khung giá tính thuế hàng nhập khẩu thời gian thực hiện chỉ sau ngày ký

khoảng 1 tháng, nhiều trường hợp doanh nghiệp đã ký hợp đồng với khách

hàng trước đó trên cơ sở tính toán hiệu quả theo chính sách tại thời điểm, nay

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

85

tiếp tục thực hiện hợp đồng sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh,

bỏ hợp đồng sẽ bị phạt, thật là tiến thoái lưỡng nan.

Mới đây nhất ngày 18/4/2001 Bộ Tài chính vừa có quyết định thu

chênh lệch giá đối với một số mặt hàng nhập khẩu. Theo quyết định này một

số mặt hàng hoá nhập khẩu từ 1/1/2001 sẽ phải nộp chênh lệch giá, một số

trường hợp từ 1/5/2001. Đối với các trường hợp đã nhập từ 1/1 đến ngày

quyết định ban hành chắc chắn doanh nghiệp đã bán hoặc tính toán giá bán

không tính đến khả năng này, còn các trường hợp nhập từ 1/5 cũng sẽ không

thể thay đổi được vì hợp đồng đã ký rồi, hàng hóa đã xuống tàu rồi...

Kiến nghị rằng: Mỗi khi ban hành chính sách mới hoặc sửa đổi, bổ

xung chính sách cũ, nếu có ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thì

cho phép cơ sở kinh doanh được tiếp tục hưởng quy định trước trong một thời

gian nhất định đủ để cơ sở kinh doanh tính toán thay đổi hoặc điều chỉnh

phương án sản xuất kinh doanh.

4. Mở rộng hoạt động hỗ trợ, dịch vụ cung cấp thông tin, tư vấn thuế.

Trong điều kiện kinh tế thị trường, việc nắm thông tin nhanh hay chậm,

chính xác hay không chính xác đều có ảnh hưởng trực tế tiếp đến kết quả sản

xuất kinh doanh của cơ sở. Đối với khu vực kinh NQD thường tiếp nhận thông tin và không chính xác vì khác với doanh nghiệp Nhà nước, HTX có cơ

quan quản lý chuyên ngành cấp trên thường tổ chức phổ biến và hướng dẫn

các chủ trương, chính sách mới đến doanh nghiệp, khu vực kinh tế NQD

thường phải tự tìm hiều lấy. Do đó việc mở rộng các hoạt động cung cấp

thông tin là rất quan trọng.

Khu vực kinh tế NQD cũng cần Nhà nước hỗ trợ về các mặt vì vượt

quá khả năng từng cơ sở. Các hỗ trợ đó nên tập trung vào những lĩnh vực sau:

- Hỗ trợ về mặt luật pháp, đặc biệt là luật pháp về đăng ký kinh

doanh, về thuế, về hợp đồng kinh tế.

Về thuế cần mở rộng các hoạt động dịch vụ hỗ trợ để cơ sở kinh tế

NQD có thể nắm được đầy đủ và chính xác những quy chế về thuế do vậy

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

86

dịch vụ tư vấn thuế phát triển trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay

đang trở thành một yêu cầu bức thiết đòi hỏi phải có một giải pháp đồng bộ

trên các mặt: thể chế hoá bằng văn bản các dịch vụ tư vấn nói chung, tư vấn

thuế nói riêng. Khuyến khích và có cơ chế ưu đãi phát triển các tổ chức tư vấn

thuế. Hỗ trợ đào tạo, nâng cao năng lực của các chuyên gia, cán bộ làm công

tác tư vấn thuế. Cải thiện các điều kiện tiếp cận thông tin cho các tổ chức, các

nhà tư vấn. Đẩy mạnh hội nhập trong lĩnh vực tư vấn bằng việc tạo điều kiện

cho các tổ chức tư vấn trong nước thuê chuyên gia nước ngoài vào làm việc.

Tăng cường cho các doanh nghiệp sử dụng tư vấn thuế trong hoạt động của

mình như là một biện pháp minh bạch hoá tình hình tài chính doanh nghiệp và

chấp hành tốt nghĩa vụ thuế với nhà nước. Dịch vụ tư vấn để họ chủ động tính

toán nghĩa vụ nộp thuế, tránh những vi phạm dẫn đến bị xử phạt, đồng thời

nắm được sự kiểm tra, xem xét của cơ quan quản lý. Việc nắm đầy đủ và

chính xác những quy định về thuế còn giúp cho cơ sở kinh tế NQD biết được

những ưu đãi về thuế mà mình được hưởng, kiểm tra lại việc tính thuế của cơ

quan thuế...

- Hỗ trợ, tư vấn về thị trường và giá cả, đặc biệt là thị trường và giá cả

liên quan đến hoạt động XNK. Để các cơ sở kinh tế NQD có thể tham gia

hoạt động mạnh hơn nữa vào hoạt động XNK và tránh thua thiệt thì thông tin

về giá cả thị trường quốc tế là rất quan trọng, không ít những trường hợp do

không nắm được thị trường và giá cả đã bị khách hàng nước ngoài lừa bịp,

nâng giá...

- Hỗ trợ, tư vấn về mặt công nghệ, kỹ thuật giúp các cơ sở kinh tế

NQD có thể bắt kịp đựơc những tiến bộ về khoa học và công nghệ trên thế

giới để ứng dụng vào sản xuất kinh doanh và không bị đối tác lừa gạt.

- Hỗ trợ về mặt đào tạo nâng cao trình độ quản lý, trình độ chuyên

môn của người lao động.

Như trình bày ở phần những tồn tại của bản thân khu vực kinh tế NQD

có một tồn tại về mặt trình độ quản lý, trình độ chuyên môn, đa số những

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

87

người quản lý và người lao động ở khu vực kinh tế này đều không qua các

trường lớp đào tạo, họ thực hiện chức năng quản lý hoặc chức năng kỹ thuật

chủ yếu dựa vào kinh nghiệm.

Việc nâng cao trình độ cho họ cần có sự hỗ trợ của Nhà nước vì bản

thân mỗi cơ sở không đủ khả năng làm được. Nhà nước cần mở rộng các hoạt

động đào tạo, bồi dưỡng cho những cán bộ quản lý và người lao động ở khu

vực kinh tế này.

5. Nâng cao năng lực và hiệu lực của bộ máy quản lý nhà nước, thuế

Bộ máy Nhà nước là cơ quan thể chế đường lối của Đảng thành pháp

luật, chính sách, đồng thời cũng là cơ quan quản lý và giám sát các cơ sở kinh

tế NQD hoạt động. Vì vậy chất lượng lập pháp và hành pháp phụ thuộc rất

nhiều vào bộ máy Nhà nước. Nâng cao năng lực và hiệu lực của bộ máy Nhà

nước cần tập trung vào những việc sau đây.

- Đẩy mạnh cải cách hành chính, làm rõ chức năng, nhiệm vụ và

quyền hạn của các cơ quan quản lý Nhà nước, giảm tối đa sự chồng chéo,

trùng lặp, tiến tới quy định một vấn đề cụ thể, chỉ một cơ quan ở một cấp

được phân quyền hạn giải quyết và phải giải quyết trong thời hạn nhất định

Năm 2000 thực hiện Luật Doanh nghiệp mới, và các nghị định về đăng

ký kinh doanh mới các thủ tục hành chính đã được cải tiến đáng kể, thời gian

chờ đợi đã được giảm nhiều, chi phí cho thành lập cơ sở kinh doanh cũng

giảm đáng kể.

Tuy nhiên vẫn còn tồn tại thực tế là nhiều quy định chưa được hoàn

thiện, bổ xung cho phù hợp với Luật Doanh nghiệp mới và nghị định mới về

đăng ký kinh doanh. Thí dụ: Luật doanh nghiệp cho phép trong khi chờ đợi

cấp giấy phép doanh nghiệp có thể uỷ nhiệm cho tổ chức, cá nhân thực hiện

các giao dịch kể cả xây dựng cơ bản. Trong quá trình thực hiện các giao dịch

đương nhiên phát sinh chi phí và thuế GTGT đầu vào, nhưng trong thông tư

hướng dẫn thi hành luật thuế GTGT lại quy định nguyên tắc: Thuế GTGT

phát sinh tháng nào được kê khai khấu trừ trong tháng đó. Các doanh nghiệp

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

88

đang trong thời gian chuẩn bị và xin thành lập đã đăng ký thuế đâu mà kê

khai, thế là nhiều doanh nghiệp không được khấu trừ hoặc hoàn thuế GTGT

đầu vào trong trường hợp này.

Các cơ quan quản lý thực hiện chức năng theo quy định của Chính phủ.

Mỗi vấn đề phát sinh chỉ một cơ quan giải quyết và cơ quan đã giải quyết phải

chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Thực hiện luật thuế, đã quy định

công tác quản lý thu thuế do hệ thống thuế đảm nhiệm, tuy nhiên trong thời

gian qua không chỉ cơ quan thuế kiểm tra, xử lý những vấn đề liên quan đến

chính sách thuế mà nhiều ngành khác như công an, quản lý thị trường, kế

toán, thanh tra, viện kiểm sát... cũng kiểm tra và yêu cầu cơ sở kinh doanh

phải xuất trình tài liệu liên quan đến thực hiện chính sách thuế và xử lý vi

phạm. Ngay trong hệ thống Tài chính cũng còn sự chồng chéo giữa cơ quan

thuế với cơ quan thanh tra tài chính...

Trong công tác kiểm tra thuế cũng đang có hiện tượng chồng chéo, gây

phiền hà, lãng phí cho cơ sở kinh doanh. Nhiều trường hợp cơ sở kinh doanh

phải tiếp nhiều đoàn thanh tra thuế từ cấp quận, huyện đến cấp trung ương và

mỗi cơ quan kiểm tra lại có kết luận khác nhau, cơ sở kinh doanh không biết

đâu là kết luận đúng.

Yêu cầu cải cách hành chính thuế đang là vấn đề nổi cộm. Không phủ

nhận thời gian qua các thủ tục hành chính thuế có nhiều cải tiến nhưng vãn

còn gây phiền hà cho doanh nghiệp. Hướng cải cách hành chính thuế đề nghị

tập trung vào vấn các vấn đề trọng tâm sau đây:

- Tiếp tục cải cách thủ tục về đăng ký và cấp mã số thuế theo hướng

gắn việc cấp đăng ký kinh doanh với việc cấp mã số thuế để doanh nghiệp bớt

các thủ tục khai báo và thời gian chờ đợi.

- Tiếp tục cải cách lại thủ tục hoàn thuế, miễn giảm thuế:

Theo hướng đơn giản về mặt thủ tục và nâng cao trách nhiệm của

doanh nghiệp, khắc phục và chấm dứt tình trạnhg “xin cho” trong việc miễn

giảm thuế, hoàn thuế. Theo hướng này đề nghị cần hướng dẫn rõ các thủ tục,

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

89

hồ sơ về miễn giảm thuế, về hoàn thuế để doanh nghiệp nắm được và thực

hiên. Cơ quan thuế căn cứ vào hồ sơ của doanh nghiệp phải hoàn thuế trong

thời gian quy định mà không cần phải ra quyết định. Các trường hợo hồ sơ

không đầy đủ thì phải thông báo cho doanh nghiệp biết.

Đối với các dự án đầu tư đã có quyết định ưu đãi đầu tư của uỷ ban

nhân dân tỉnh, thành phố thì không cần làm thủ tục miễn giảm thuế nữa vì khi

xét cấp quyết định, doanh nghiệp đã phải lập hồ sơ và đã được uỷ ban nhân

dân xem xét trước khi ra quyết định.

- Cải tiến các thủ tục về kê khai thuế theo hướng đơn giản cả về nội

dung kê khai, và các biểu mẫu kèm theo. Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ có

thể thay thế việc kê khai nộp thuế hàng tháng thành kê khai nộp thuế theo quý

Theo quy định hiện nay, việc kê khai thuế GTGT cơ sở kinh doanh phải

lập bảng kê hoá đơn đầu vào, hoá đơn đầu ra kèm theo. Đối với những cơ sở

kinh doanh có số lượng hoá đơn đầu vào đầu ra lớn việc kê khai và lập bảng

kê sẽ mất nhiều thời gian vì nội dung bảng kê tương đối phức tạp, chưa nói

đến việc chi phí về giấy tờ, in ấn...

- Trong quản lý và sử dụng hoá đơn cũng cần cải tiến theo hướng tìm

giải pháp khuyến khích mạnh hơn nữa doanh nghiệp tự in hoá đơn để sử

dụng. Theo quyết định hiện nay việc doanh nghiệp muốn tự in hoá đơn để sử

dụng phải xin - lại xin - và được chấp nhận của Tổng cục Thuế và phải in ở

nhà in do Tổng cục Thuế chỉ định. Các doanh nghiệp NQD thường quy mô

kinh doanh không lớn muốn tự in hoá đơn để sử dụng cho tiết kiệm nhưng thủ

tục phiền hà nên đành thôi.

Trong cải cách thủ tục hành chính cần hết sức chú ý: Khi đặt ra yêu cầu

quản lý hoặc cải tiến quản lý phải tính đến những tác động đối với đối tượng

quản lý và tính hiệu quả của quản lý. Khi thực hiện luật thuế GTGT đa số các

cơ sở kinh doanh đều phàn nàn chế độ kê khai thuế GTGT quá phức tạp nên

doanh nghiệp đều phải tăng biên chế và tăng chi phí. Trước đây thực hiện luật

thuế doanh thu, hàng tháng kế toán chỉ cần khoá sổ là xác định được doanh

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

90

thu, tính được thuế phải nộp và chỉ lập duy nhất một tờ khai. Theo chế độ

thuế GTGT như trình bày trên tờ khai quá phức tạp, xác định thuế cũng phức

tạp hơn thuế doanh thu do phải xác định cả đầu vào, đầu ra...

- Nâng cao trình độ nhận thức, năng lực làm việc và đạo đức của cán

bộ cơ quan Nhà nước, đặc biệt cần giáo dục để cán bộ các ngành các cấp nhận

thức và quan tâm đúng mức đối với khu vực kinh tế NQD thực hiện nghiêm

túc những chủ trương, chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế NQD.

Cùng với sự đổi mới nhận thức về kinh tế và phát triển kinh tế hàng hoá

nhiều thành phần, cho thấy có một bộ phận không nhỏ cán bộ các cơ quan

quản lý Nhà nước không đủ năng lực, không đủ phẩm chất chính trị đã gây

cản trở cho việc phát triển kinh tế nói chung và kinh tế NQD nói riêng. Tình

trạng cán bộ các cơ quan quản lý Nhà nước lợi dụng chức quyền gây phiền hà

cho cơ sở kinh doanh thậm chí đòi hối lộ đang diễn ra tương đối phổ biến.

Trong quản lý thu thuế nhiều cán bộ thuế không nhận thức đầy đủ mục

đích tác dụng của chính sách thuế, không nắm vững được chuyên môn nghiệp

vụ thuế, quy trình quản lý thuế, nên trong giải quyết công việc thường không

đúng, nhiều trường hợp còn giảI quyết sai gây thiệt hại cho cơ sở kinh doanh.

Không ít trường hợp lợi dụng chức quyền gây ra tiêu cực. 6. Về quản lý đối tượng nộp thuế

Phải rà soát lại cả các đối tượng có thực tế sản xuất kinh doanh trên địa

bàn để đưa vào quản lý thu thuế.

- Đối với các doanh nghiệp:

Đối chiếu số doanh nghiệp đã được cấp đăng ký kinh doanh với số

doanh nghiệp đã được cấp mã số thuế, số doanh nghiệp kê khai nộp thuế trên

cơ sở đó thống kê những doanh nghiệp đã được cấp đăng ký kinh doanh

nhưng không đăng ký thuế, không xin cấp mã số thuế, số doanh nghiệp đã có

mã số thuế nhưng từ đầu năm đến nay không hoạt động, không kê khai nộp

thuế, từ đó phối hợp với các ngành ở địa phương và Chi cục thuế quận huyện

tổ chức kiểm tra phát hiện những doanh nghiệp có kinh doanh nhưng không

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

91

xin cấp mã số, không kê khai nộp thuế. Tiến hành xử phạt vi phạm hành chính

và ấn định thuế GTGT, thuế TNDN để thu những tháng không kê khai. Đối

với những doanh nghiệp qua kiểm tra không tồn tại hoặc ngừng hoạt động thì

đề nghị sở Kế hoạch Đầu tư thông báo công khai và thực hiện thu hồi đăng ký

kinh doanh. Đối với những doanh nghiệp di chuyển địa điểm nhưng không

khai báo phải phạt vi phạm hành chính và ấn định số thuế những tháng không

kê khai, yêu cầu doanh nghiệp nộp ngay thuế vào ngân sách.

- Đối với hộ kinh doanh cá thể.

Đối chiếu số hộ lập bộ môn bài, số hộ lập bộ thuế GTGT, thuế TNDN

với số hộ điều tra thống kê, xác định số hộ chưa quản lý đồng thời tổ chức

điều tra doanh thu, thu nhập của những hộ này để đưa vào bộ thu thuế môn

bài, thuế GTGT, thuế TNDN nếu thu nhập kinh doanh lớn hơn thu nhập được

miễn thuế.

Cục thuế chỉ đạo từng Chi cục thuế, đội Thuế phải tự kiểm tra rà soát

địa bàn nào qua kiểm tra lại vẫn còn thất thu về hộ phải kiểm điểm trách

nhiệm của lãnh đạo Chi cục, lãnh đạo đội Thuế.

7. Về quản lý doanh thu nộp thuế

7.1 Đối với doanh nghiệp NQD

- Tiếp tục đẩy mạnh triển khai chế độ kế toán đối với các doanh

nghiệp NQD đặc biệt đối với các doanh nghiệp mới thành lập, đảm bảo 100%

doanh nghiệp đều thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ và kê khai nộp

thuế theo quy định.

Kết hợp kiểm tra kê khai nộp thuế, kiểm tra quyết toán thuế, kiểm tra

hoàn thuế với kiểm tra việc thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ phát

hiện và xử lý nghiêm các doanh nghiệp vi phạm chế độ kế toán, hoá đơn,

chứng từ những doanh nghiệp khai khống giá mua hàng, bán hàng không lập

hoá đơn, chứng từ hoặc lập hoá đơn nhưng ghi thấp hơn giá thực tế thanh toán

nhằm mục đích trốn lậu thuế. Nếu kiểm tra phát hiện các vi phạm trên phải

kiên quyết áp dụng biện pháp ấn định giá để tính thuế.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

92

- Khẩn trương kiểm tra báo cáo quyết toán thuế của các doanh

nghiệp, qua kiểm tra nếu phát hiện thu thiếu thì ra thông báo yêu cầu doanh

nghiệp nộp ngay số phát sinh thêm vào ngân sách, đồng thời đối chiếu số phát

sinh về thuế TNDN năm 2000 so với kê khai tạm nộp thuế TNDN năm 2001,

nếu số kê khai tạm nộp năm 2001 thấp hơn so với doanh thu và thuế TNDN

năm 2000 thì yêu cầu điều chỉnh lại cho phù hợp với kết quả kinh doanh 6

tháng và kết quả kiểm tra quyết toán thuế.

- Qua kiểm tra quyết toán thuế và kiểm tra kê khai nộp thuế, nếu thấy

doanh nghiệp có dấu hiệu kê khai không trung thực hoặc có nghi vấn trốn lâu

thuế thì báo cáo lãnh đạo cục thuế tiến hành kiểm tra thực tế hoặc xác minh

hoá đơn, nếu phát hiện vi phạm thì tuỳ theo mức độ vi phạm mà xử phạt vi

phạm hành chính, truy thu thuế hoặc ấn định mức thuế phải nộp cao hơn mức

thuế đã kê khai.

- Đối với các doanh nghiệp Cục Thuế đã phân cấp cho Chi cục Thuế

quản lý, yêu cầu các Chi cục Thuế phải trực tiếp hướng dẫn và kiểm tra doanh

nghiệp thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ và kê khai nộp thuế theo

phương pháp khấu trừ. Nghiêm cấm không được áp dụng thu thuế khoán.

Trường hợp doanh nghiệp vi phạm chế độ kế toán hoá đơn chứng từ, vi phạm

chế độ kê khai phải phạt vi phạm hành chính và ấn định mức thuế phải nộp.

- Thực hiện kiểm tra hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp đã

được hoàn thuế. Trước mắt là những doanh nghiệp có số thuế đã hoàn lớn

hoặc có dấu hiệu vi phạm.

7.2 Đối với hộ kinh doanh cá thể

- Đối với hộ kinh doanh lớn:

Yêu cầu Cục thuế chỉ đạo các Chi cục Thuế phải thống kê, phân loại và

triển khai chế độ kế toán bắt buộc với tất cả các hộ kinh doanh lớn theo đúng

chỉ thị số 03/2000/CT-BTC ngày 10/4/2000 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về

việc đẩy mạnh triển khai chế độ kế toán áp dụng đối với hộ sản xuất kinh

doanh công thương nghiệp và dịch vụ NQD. Quyết định số 169/2000/QĐ-

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

93

BTC ngày 25/10/2000 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về ban hành chế độ kế

toán hộ kinh doanh và công văn số 1210 TCT/NV6 ngày 11/4/2001 của Tổng

cục Thuế về tăng cường thực hiện chế độ kế toán hộ kinh doanh. Để có căn cứ

xét thành tích thi đua năm 2001, Tổng cục Thuế giao chỉ tiêu số hộ phải triển

khai cho từng địa phương.

Yêu cầu cục Thuế địa phương:

+ Căn cứ chỉ tiêu Tổng cục giao phân bổ cho các Chi cục và chỉ đạo

các Chi cục Thuế căn cứ chỉ tiêu số hộ được giao, số hộ triển khai, xác định

cụ thể số hộ còn phải thực hiện chế độ kế toán để hoàn thành chỉ tiêu. Chi cục

thuế căn cứ vào chỉ tiêu Cục giao phân cho từng đội Thuế thực hiện ngay,

đồng thời chỉ đạo Chi cục thuế, đội thuế lựa chọn xác định những hộ kinh

doanh, những ngành nghề kinh doanh thuộc diện phải mở đầy đủ hệ thống sổ

sách kế toán, những hộ kinh doanh, ngành nghề kinh doanh, trước mắt chỉ cần

mở sổ nhật ký bán hàng cho phù hợp trình độ của người kinh doanh và phù

hợp yêu cầu quản lý của cơ quan Thuế. Tổ chức xét duyệt cho hộ kinh doanh

nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ chặt chẽ, tránh lợi dụng.

+ Tổ chức kiểm tra việc ghi chép sổ kế toán, phát hiện kịp thời

những vướng mắc để hướng dẫn, giúp đỡ hộ kinh doanh yên tâm thực hiện

chế độ kế toán và hạch toán trung thực. Đối với những hộ kinh doanh đã thực

hiện hướng dẫn nhưng cố tình không thực hiện hoặc cố tình hạch toán, lập

hoá đơn, chứng từ không trung thực với thực tế phát sinh nhằm trốn thuế thì

phải lập biên bản xử phạt vi phạm hành chính, nếu vẫn tái phạm thì ấn định

doanh thu, thuế, mức ấn định phải bằng hoặc cao hơn so với hộ kinh doanh

thực hiện không đúng chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ, kê khai doanh thu

hoặc kê khai thuế GTGT đầu ra, đầu vào trung thực để động viên các hộ kinh

doanh thực hiện đúng chế độ kế toán và hộ kinh doanh thấy được lợi ích thực

tế, không tái phạm.

+ Tổ chức kiểm tra chặt chẽ tờ khai nộp thuế của các hộ kinh doanh.

Đối với những hộ kinh doanh kê khai doanh thu, mức thuế thấp (nếu tính thuế

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

94

theo phương pháp trực tiếp) hoặc kê khai số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu

ra (đối với hộ nộp thuế theo phương pháp khấu trừ) phải tổ chức kiểm tra, xác

minh ngay để tính trung thực của tờ khai, phát hiện và xử lý ngay nếu hộ kinh

doanh vi phạm, không để hộ kinh doanh lợi dụng triển khai chế độ kế toán

làm thất thu thuế nhiều hơn.

+ Để thúc đẩy các Chi cục Thuế thường xuyên quan tâm triển khai

kế toán hộ kinh doanh và nâng cao trách nhiệm của cán bộ thuế, Cục thuế

phải phân công cán bộ trực tiếp theo dõi năm tình hình triển khai, phản ánh

kịp thời tiến độ, kết quả triển khai, những khó khăn vướng mắc trong quá

trình triển khai. Đồng thời định kỳ tổ chức kiểm tra thực tế việc triển khai kế

toán hộ kinh doanh tại các Chi cục thuế. Qua kiểm tra tình hình thực tế, kết

hợp ý kiến phản ánh của cán bộ được phân công trực tiếp theo dõi tại Chi cục

thuế, phát hiện nhanh những nhân tố tích cực để phổ biến, nhân rộng và có ý

kiến chỉ đạo kịp thời, khắc phục thiếu sót trong việc triển khai kế toán hộ kinh

doanh để thực hiện tốt hơn. Đối với những Chi cục thuế làm chưa tốt cần phê

bình và yêu cầu chấn chỉnh ngay trong thời gian tới.

+ Triển khai chế độ kế toán hộ kinh doanh nhằm đưa công tác quản

lý thu thuế vào nề nếp theo kết quả kinh doanh phản ánh trên sổ sách kế toán

là công việc trọng tâm trong công tác quản lý hộ kinh doanh cá thể năm 2001

là căn cứ để xét thi đua, khen thưởng, vì vậy Cục thuế phải chỉ đạo từng Chi

cục thuế triển khai hoàn thành chỉ tiêu Tổng cục giao (theo biểu đính kèm).

- Đối với hộ thu khoán:

Tổng cục đã chỉ đạo các Cục thuế phải xác định lại doanh thu đối với

các hộ khoán 6 tháng cuối năm. Đề nghị cục Thuế kiểm tra ngay các Chi cục.

Đối với những Chi cục chưa làm hoặc đã làm nhưng chưa đáp ứng được yêu

cầu phải xác định lại cho phù hợp với mức độ tăng trưởng kinh tế và phát

triển sản xuất kinh doanh.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

95

Quá trình điều tra, xác định lại doanh thu, mức thuế đối với hộ khoán

phải làm đúng quy trình, thực hiện công khai và không được điều chỉnh đồng

loạt theo kiểu bình quân.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

96

8. Về quy trình quản lý thu thuế

Chỉ đạo các đơn vị thu thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các biện pháp, quy

trình quản lý đã đề ra: như quy trình quản lý doanh thu đối với hộ khoán, quy

trình quản lý doanh nghiệp nộp thuế theo phương pháp khấu trừ, quy trình cấp

mã số thuế, quy trình thanh tra, kiểm tra quyết toán thuế, các biện pháp duyệt

bộ tổng hợp, chống thất thu qua kiểm tra việc lập hoá đơn phát hiện và xử lý

các trường hợp lập hoá đơn thấp hơn giá thực tế thanh toán đối với một số

ngành nghề, mặt hàng, xử phạt các cơ sở kinh doanh vi phạm chế độ kế toán,

hoá đơn chứng từ... quy trình thu nộp thuế, quy trình quản lý hoá đơn chứng

từ...:

Một là: phải rà soát lại các văn bản pháp luật thuế hiện hành để có

những bổ sung, điều chỉnh trong phần hướng dẫn thủ tục nộp thuế. Yêu cầu

các doanh nghiệp có trách nhiệm chủ động nộp đầy đủ số thuế phải nộp đã kê

khai vào kho bạc nhà nước trong thời hạn quy định của luật thuế, thay cho

việc doanh nghiệp nộp theo thông báo thuế của cơ quan thuế. Cơ quan thuế

chỉ ra thông báo nộp thuế trong một số trường hợp đặc iệt như: thông báo ấn

định thuế, thông báo chậm nộp thuế và xử lý nộp chậm. Để thực hiện được

vấn đề như trên cần phải cải tiến lại mẫu các tờ khai thuế. Hiện nay ở mỗi tờ

khai thuế đều có phần cam kết của doanh nghiệp ở phía dưới tờ khai: “Xin

cam đoan số liệu kê khia trên là đúng, nếu sai xin chịu trách nhiệm xử lý theo

pháp luật”. Phần cam kết trên mới chỉ cam kết số liệu kê khia mà chưa gắn

việc kê khai nộp thuế của doanh nghiệp, vậy nên sửa lại là: “Xin cam đoan số

liệu kê khai trên là đúng, doanh nghiệp cam kết sẽ nộp đầy đủ, đúng hạn số

thuế kê khai trên vào kho bạc nhà nước. Nếu kê khai sai hoặc chậm nộp, xin

chịu trách nhiệm xử lý theo pháp luật”. Với dòng cam kết này, các doanh

nghiệp sẽ tự ý thức được trách nhiệm của họ trước pháp luật trong việc kê

khai và nộp thuế, không trông chờ vào thông báo nộp thuế của cơ quan thuế.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

97

Hai là: Nên bỏ chương trình tính lại thuế trên máy vi tính như hiện nay,

những sai sót trên tờ khai thuế như: kê khai thuế chỉ tiêu, kê khai sai thuế

ssuất, hoặc sai số về tính toán số học... sẽ được phòng quản lý thu kiểm tra,

kiểm soát, yêu cầu doanh nghiệp điều chỉnh hoặc kiểm tra xử lý theo đúng

trình tự của quy trình và quy định của luật thuế. Có như vậy, mới thực sự tôn

trọng số liệu tự kê khai của doanh nghiệp.

Ba là: theo quy định hiện hành, thì chậm nhất trong vòng 60 ngày, kể

từ khi kết thúc năm tài chính, các doanh nghiệp phải lập và gửi các tờ quyết

toán thuế: dẫn đến việc lập, gửi các tờ quyết toán thuế của các doanh nghiệp

đến cơ quan thuế cũng như việc thu thập và xử lý thông tin của cơ quan thuế

từ các tờ quyết toán thuế diễn ra rất rời rạc, thiếu khoa học, thậm chí nhiều

doanh nghiệp gửi các tờ quyết toán thuế không đầy đủ, không đồng nhất. Để

đơn giản trong việc lập báo cáo quyết toán thuế, vừa để đảm bảo yêu cầu của

các luật thuế, nên quy định thống nhất các doanh nghiệp chỉ phải lập một báo

cáo quyết toán thuế. Trong báo cáo quyết toán thuế phải nêu được đầy đủ 3

nội dung: chi tiết quyết toán từng loại thuế. Tổng hợp tình hình thanh toán với

ngân sách nhà nước, phản ánh tổng hợp số thuế nộp đầu kỳ, phát sinh trong

kỳ, nộp trong kỳ, miễn giảm trong kỳ và tồn đọng cuối kỳ của tất cả các loại

thuế. Phần thuyết minh báo cáo phản ánh nguyên nhân chênh lệch giữa tổng

hợp tờ khai thuế 12 tháng với quyết toán thuế của từng loại thuế, nguyên nhân

của nợ đọng thuế.

9. Tập trung chỉ đạo khai thác các nguồn thu, những ngành nghề và lĩnh

vực còn đang thất thu nhiều

Thời gian qua, do tập trung vào triển khai các luật thuế mới, các địa

phương ít quan tâm chỉ đạo tăng cường quản lý và chống thất thu thuế đối với

khu vực kinh tế NQD. Trước mắt tập trung giải quyết nợ đọng thuế của doanh

nghiệp và các hộ kinh doanh lớn vẫn đang hoạt động. Đối với doanh nghiệp

và hộ kinh doanh lớn còn nợ đọng thuế nhưng vẫn hoạt động mà cục Thuế đã

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

98

đôn đốc, đã phạt nộp chậm vãn không nộp thuế thì ra lệnh phong toả tài

khoản hoặc lập hồ sơ đề nghị các ngành chức năng can thiệp.

Đối với hộ kinh doanh vừa và nhỏ chủ yếu dùng biện pháp phối hợp

hội đồng tư vấn vận động hộ kinh doanh nộp thuế còn nợ đọng để thúc đẩy

thu nhanh gọn số thuế phát sinh. Cục thuế, Chi cục Thuế giao chỉ tiêu phấn

đấu cho từng đơn vị phải thu dóc số thuế phát sinh, không để số thuế nợ đọng

phát sinh thêm.

Đồng thời Cục thuế cần quan tâm giáo dục ý thức trách nhiệm và kỷ

luật lao động cho cán bộ thuế, đồng thời tăng cường kiểm tra thúc đẩy các Chi

cục Thuế, đội thuế, cán bộ thuế thực hiện nghiêm túc các quy trình biện pháp

nghiệp vụ và những nội dung Tổng cục Thuế tập trung chỉ đạo.

- Đối với những hộ kinh doanh xe gắn máy, đồ điện tử, điện lạnh...

tăng cường kiểm tra xác minh đối chiếu hoá đơn, chứng từ đối với các cơ sở

kinh doanh các mặt hàng này vì đang bị lợi dụng lập hoá đơn không đúng

thực tế thanh toán. Phối hợp với cơ quan Quản lý thị trường kiểm tra việc

niêm yết giá và bán theo giá niêm yết, nếu kiểm tra phát hiện thu tiền nhưng

khôn lập hoá đơn hoặc lập hoá đơn khôn đúng giá thanh toán thì căn cứ vào

giá niêm yết để ấn định doanh thu, đối với những cơ sở không niêm yết giá

tuỳ theo đặc điểm cụ thể, cục Thế kết hợp với các ngành xây dựng bảng giá

tối thiểu làm căn cứ để cơ quan thuế áp giá tính thuế, áp giá tính chi phí kiểm

tra phá hiện có lợi dụng.

Qua kiểm tra xác minh, nếu phát hiện có vi phạm, lập hoá đơn khôn

đúng phải kiên quyết bác bỏ số liệu kê khai của các hộ, thực hiện ấn định thuế

theo hướng dẫn tại công văn 740 ngày 23/3/2001 của Tổng cục Thuế.

+ Đối với hoạt động vận tải: Từng đội Thuế phải phối hợp hội đồng

tư vấn rà soát tại địa bàn, đồng thời kết hợp với Cảnh sát Giao thông, Cơ quan

đăng ký để rà soát nắm số lượng phương tiện có hoạt động kinh doanh, đối

chiếu với số phương tiện đã được các cơ sở kê khai, phương tiện các chủ

phươn tiện đang kinh doanh nhưng không khai báo nộp thuế để đưa vào diện

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

99

quản lý. Đối với các phương tiện vận tải đã kinh doanh không khai nộp thuế

phải xử phạt hành chính và truy thu thuế từ tháng bắt đầu kinh doanh.

+ Đối với các doanh nghiệp kinh doanh vận tải phải kiểm tra chặt

chẽ phương thức quản lý, phương thức hạch toán kế toán, kiểm tra việc đăng

ký, sử dụng vé, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp thu tiền của khách

hàng nhưng không xuất vé. Đối với các HTX dịch vụ vận tải: Nếu HTX có

cung ứng dịch vụ cho xã viên thì phải kê khai nộp thuế GTGT và thuế TNDN

tính trên tiền công dịch vụ HTX thu về. Các xã viên nhận khoán phải kê khai

nộp thuế trên doanh thu nhận khoán, để thuận tiện chi cục Thuế có thể bàn với

các HTX đứng ra kê khai và nộp thuế thay cho từng xã viên.

+ Đối với các doanh nghiệp vận tải có mở các đại diện ở các địa

phương khác, cần phải phối hợp với các cơ quan Thuế nơi mở đại diện để

cùng kiểm tra, giám sát tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

+ Xem xét lại doanh thu, mức thuế ấn định đối với các phương tiện

vận tải tư nhân, đảm bảo sự công bằng và bình đẳng giữa các hộ kinh doanh

vận tải tư nhân với các doanh nghiệp kinh doanh vận tải.

+ Đối với hoạt động xây dựng tư nhân: Yêu cầu đội Thuế có trách

nhiệm phối hợp hội đồng tư vấn, Thanh tra Xây dựng kiểm tra báo cáo đầy đủ

các công trình đang xây dựng trê địa bàn phường, xã để phối hợp với các Chi

cục Thuế và các phòng quản lý của cục Thuế quản lý hết các công trình xây

dựng phát sinh trên địa bàn. Đối với các công trình do doanh nghiệp ký kết

hợp đồng xây dựng thi công thì thông báo ngay cho phòng quản lý biết để

kiểm tra đối chiếu, phát hiện lợi dụng. Đối với các công trình xây dựng do tư

nhân thi công thì yêu cầu người nhận thầu phải kê khai tạm nộp thuế theo tiến

độ thi công, trường hợp chủ nhà thông đồng với chủ thi công nhận là tự xây

nhà để trốn thuế thì đề nghị hội đồng tư vấn tham gia cùng xác định có phải tự

xây dựng hay không làm cơ sở để xử lý thu hay không thu.

Để phân biệt công trình xây dựng tự làm với công trình xây dựng phải

thuê thi công, căn cứ điều lệ quản lý xây dựng cơ bản Chính phủ đã ban hành

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

100

đề nghị cục Thuế phối hợp sở Xây dựng hướng dẫn cụ thể loại công trình dân

tự làm để cơ quan Thuế làm căn cứ không thu thuế. Nguyên tắc chung là mọi

công trình từ cấp 1 đến cấp 3 đều phải do tổ chức, cá nhân có nghề xây dựng

thi công, chỉ có nhà cấp 4 mới được tự tổ chức thi công.

Doanh thu tính thuế được xác định theo hợp đồng xây dựng, trường

hợp không có hợp đồng xây dựng thì căn cứ vào giá xây nhà do Nhà nước ban

hành đối với từng loại nhà để làm căn cứ ấn định giá tính thuế.

+ Đối với hoạt động khách sạn, nhà nghỉ cục Thuế phối hợp các

ngành đề nghị khách sạn, nhà nghỉ phải lập và cung cấp sơ đồ phòng nghỉ cho

cơ quan Thuế, hàng ngày khách sạn phải tự đánh dẫu phòng có khách nghỉ

vào sơ đồ.

Cục thuế phối hợp với các ngành chức năng tổ chức kiểm tra khách

nghỉ thực tế đối chiếu với việc phản ánh trên sơ đồ có khớp không? Định kỳ

đối chiếu số lượng khách nghỉ với cơ quan công an để xác định tổng số khác

nghỉ hàng tháng và số lượng phòng sử dụng hàng tháng. Nếu phát hiện có

gian lận thì ấn định doanh thu tính thuế theo mức bình quân chung sử dụng

phòng nghỉ và giá thuê phòng ở địa phương.

Trường hợp kiểm tra thực tế không phát hiện nhưng nghi vấn những

khách sạn, nhà nghỉ kê khai công suất sử dụng phòng thấp, chi phí điện nước

tăng thì phải cử cán bộ thanh tra, giám sát ngay để phát hiện kịp thời.

Để chống thất thu về giá tiền phòng, cục thuế cần phối hợp các cơ quan

xây dựng bảng giá thuê phòng chuẩn để làm căn cứ kiểm tra, đối chiếu,

trường hợp khách sạn, nhà nghỉ kê khai giá thuê phòng thấp hơn giá quy định

phải lập biên bản xác định giá thực tế, đồng thời đối chiếu xác minh hoá đơn

để xác định tiền thực tế thanh toán làm cơ sở ấn định xử lý vi phạm hành

chính và doanh thu tính thuế.

+ Đối với hoạt động nhà hàng, vũ trường: Phải bố trí cán bộ Thuế

phối hợp hội đồng Tư vấn kiểm tra ngoài giờ để có căn cứ xác định đúng

doanh thu thực tế.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

101

Hiện nay Bộ Văn hoá đang chỉ đạo tổ chức kiểm tra sắp xếp lại các

hoạt động vũ trường, các địa phương cần phối hợp đề nghị Uỷ ban Nhân dân

ban hành quy định cho các vũ trường phải thực hiện chế độ kế toán, lập hoá

đơn chứng từ theo quy định, đồng thời thực hiện tổ chức kiểm tra thực hiện và

xử lý nghiêm minh các vũ trường vi phạm chế độ kế toán, dùng vé tự in để

thu tiền...

Đối với các nhà hàng phải nắm được số phòng, số bàn ăn, số nhân viên

phục vụ cụ thể để làm căn cứ ấn đinh doanh thu.

Đối với các vũ trường có bán vé cho người vào thì phải kiểm tra việc

phát hành vé và sử dụng vé, nếu sử dụng vé không đăng ký, chưa được sự

chấp nhận của Tổng cục Thuế thì phải sử phạt và ấn định thuế phải nộp.

10. Tăng cường sự phối kết hợp giữa cơ quan thuế với các cơ quan khác

Khi nói đến các giải pháp để quản lý, phát triển kinh tế NQD các cơ

quan quản lý hay né tránh nêu vấn đề làm thế nào để quản lý được qua đó để

hướng sự phát triển sao cho có lợi cho đất nước. Không thể nói một chiều

phát triển ngoài tầm quản lý. Thực tiễn vừa qua khi đánh giá 2 năm thực hiện

luật doanh nghiệp mới luôn có mâu thuẫn giữa cơ quan hoạch định chính sách

phát triển (Bộ Kế hoạch Đầu tư, Viện quản lý kinh tế, Ban đổi mới doanh

nghiệp) đều cho rằng các cơ quan quản lý yếu kém không đáp ứng được yêu

cầu thông thoáng để khuyến khích phát triển. Các cơ quan quản lý cho rằng

luật sơ hở đang bị lợi dụng. Ở nước ta, do trình độ dân trí còn thấp, trình độ

quản lý chưa cao, phương tiện quản lý chưa được hiện đại hoá, nếu hoạch

định chính sách vượt quá trình độ hiện tại dễ gây tác dụng xấu, ảnh hưởng đến

tình hình kinh tế, xã hội. Có quản lý được thì mới định hướng được sự phát

triển đúng hướng. Xét về mặt tài chính và thuế có quản lý được mới đảm bảo

cho tài chính doanh nghiệp lành mạnh qua đó mới đảm bảo cho sự lành mạnh

của nền Tài chính quốc gia, quản lý được mới thực hiện được việc tính đúng,

tính đủ thuế phải nộp, mới đảm bảo được sự công bằng và binh đẳng giữa các

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

102

cơ sở kinh doanh và các thành phần kinh tế, mới đảm bảo đựơc quyền lợi về

tài chính của các thành viên liên quan...

Trên tinh thần đó để hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu

vực kinh tế NQD về phía các cơ quan chức năng khác cần có các giải pháp

như sau:

9.1. Kiến nghị sửa đổi và bổ sung một số điểm còn sơ hở trong các quy

định của luật doanh nghiệp đang bị một số cá nhân và doanh nghiệp lợi dụng,

ảnh hưởng đến quyền lợi của các doanh nghiệp và cá nhân liên quan ảnh

hưởng đến công tác quản lý thu thuế, gây thất thoát tiền của Ngân sách Nhà

nước, cụ thể ở một số việc như sau:

- Cần có quy định chặt chẽ hơn để kiểm soát được người điều hành

hoặc người chủ doanh nghiệp, loại trừ được những người không đủ điều kiện

(nghiện hút, mới ra tù hoặc đang trong thời kỳ bị quản chế, những người kém

về sức khoẻ -bệnh thần kinh, những người trình độ văn hoá thấp) không được

thành lập doanh nghiệp vì những người này nếu có vi phạm trốn thuế, lậu thuế

cũng không xử lý được.

- Cần quy định những điều kiện về vốn và tài sản của doanh nghiệp

bắt buộc phải có để khi xảy ra các hành vi lừa đảo, chiếm đoạt tiền, hàng hoá

còn có cơ sở để cưỡng chế đảm bảo thanh toán cho người bị hại, kể cả chiếm

dụng tiền thuế, có tài sản cưỡng chế.

- Quy định về địa diểm kinh doanh hay địa điểm đặt trụ sở cũng cần

chặt chẽ hơn, tránh tình trạng như hiện nay, doanh nghiệp không có hiện diện

tại địa điểm quản lý đăng ký kinh doanh quá nhiều, hoặc khai không đúng địa

điểm kinh doanh dẫn đến cơ quan thuế không quản lý được...

- Có những quy định chặt chẽ hơn về quản lý doanh nghiệp trong thời

gian hoạt động. Ví dụ: Trong thời gian hoạt động doanh nghiệp vi phạm các

chính sách thuế đã bị xử phạt nếu doanh nghiệp vẫn cố tình không chấp hành

thì các ngành phải có trách nhiệm cùng cơ quan Thuế đôn đốc và xử lý việc

kê khai thay đổi kinh doanh...

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

103

9.2.Tăng cường việc quản lý tiền mặt, quản lý thanh toán yêu cầu tất cả

các tổ chức và cá nhân kinh doanh đều phải mở tài khoản tại Ngân hàng, thực

hiện thanh toán không dùng tiền mặt, có như vậy mới quản lý được đầy đủ

doanh thu, chi phí trên cơ sở đó mới tính đúng, tính đủ số thuế phải nộp, đảm

bảo sự công bằng và bình đẳng về thuế.

9.3.Cần có quy định cụ thể buộc các cấp các ngành liên quan như cơ

quan cấp đăng ký kinh doanh, cơ quan quản lý thị trường, công an có trách

nhiệm và nghĩa vụ hỗ trợ và giúp đỡ cơ quan thuế cung cấp những tài liệu liên

quan đến quá trình hình thành và hoạt động của doanh nghiệp để cơ quan thuế

có thể kiểm soát được hoạt động sản xuất kinh doanh của có sở kinh doanh.

Giúp đỡ cơ quan thuế trong việc xử lý các hành vi vi phạm thuế.

9.4. Sớm ban hành luật kế toán để nâng cao tính pháp lý của các đối

tượng kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế phải chấp hành chế độ kế

toán, hoá đơn chứng từ được tốt hơn.

9.5. Đề nghị Bộ, Chính phủ trang bị đồng bộ máy vi tính và điều kiện

làm việc cho cơ quan thuế, đảm bảo cán bộ thuế có thu nhập đủ yên tâm công

tác.

9.6. Đề nghị Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố quan tâm chỉ đạo

công tác thuế NQD, chỉ đạo các cấp, các ngành ở địa phương phối hợp và tạo

điều kiện cho cơ quan thuế triển khai các biện pháp quản lý thu, chống thất

thu, chống trốn lậu thuế.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

104

KẾT LUẬN Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước trong thời kỳ đổi mới, kinh

tế hàng hoá nhiều thành phần đã phát huy mạnh mẽ theo đường lối, chiến

lược của Đảng và Nhà Nước. Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần

vận động theo cơ chế thị trường, định hướng XHCN có sự quản lý của nhà

nước, trong đó kinh tế Nhà nước là quan trọng nhất. Bên cạnh đó khu vực

kinh tế NQD là khu vực kinh tế có tiềm năng lớn cả về số lượng và quy mô

kinh doanh, đồng thời là khu vực có đóng góp lớn cho Ngân sách Nhà nước.

Bên cạnh đó khu vực này còn thất thu nhiều trong công tác quản lý thu thuế,

phương thức quản lý của cơ quan thuế và các cơ quan chức năng khác còn

thiếu đồng bộ, bộ máy quản lý thu thuế có trình độ chưa cao... gây khó khăn

cho công tác quản thu thuế .

Vậy các giải pháp nêu ra trong luận văn hy vọng sẽ góp phần hoàn thiện

công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế NQD. Chắc chắn rằng trong

thời gian tới với các giải pháp của cơ quan thuế và các cơ quan khác khu vực

kinh tế này sẽ phát triển mạnh mẽ góp phần tích cực vào việc chống thất thu

cho Ngân sách Nhà nước thực hiện tốt các mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại

hoá của đất nước.

Do hạn chế về thời gian cũng như kiến thức nên luận văn chỉ dừng lại ở

phạm vi nghiên cứu về công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế

NQD. Trên thực tế để đạt được một vị trí vững chắc trong nền kinh tế thị

trường, cần thiết phải nghiên cứu một cách chi tiết và toàn diện đối với tất cả

các nghiệp vụ thuế của Tổng Cục Thuế.

Gi¶i ph¸p hoµn thiÖn c«ng t¸c qu¶n lý thu thuÕ ®èi víi khu vùc kinh tÕ ngoµi quèc doanh ë n­íc ta hiÖn nay

105

TÀI LIỆU THAM KHẢO.

1. Lịch sử phát triển ngành Thuế tập 1,2.

2. Thuế công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế.

3. Hệ thống chính sách thuế Việt Nam hiện nay.

4. Vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN trong thời kỳ đổi mới đất nước. NXB

Quốc gia.

5. Kinh tế Chính trị Mác - Lê nin.

6. Tạp chí Tài chính số 3+7/2000, số 5/2001, số 1+2/2002.

7. Tạp chí Kinh tế phát triển số 38/2000.

8. Tạp chí Thuế Nhà nước số 10, 11,12 năm 2001.

9. Số liệu kê khai của các cơ sở kinh tế Ngoài quốc doanh – Tổng cục

Thuế.

10. Báo cáo dự toán ngân sách năm 2001- Tổng cục Thuế

11. Báo cáo Bộ về quản lý kinh tế Ngoài quốc doanh- Tổng cục Thuế

12. Báo cáo công tác quản lý thu thuế đối với khu vực công thương nghiệp

Ngoài quốc doanh- Tổng cục Thuế.

13. Báo cáo điều tra thi hành luật doanh nghiệp – Phòng Thương mại và

công nghiệp Việt Nam.

14. Báo cáo tổng kết và tài liệu lịch sử của Tổng cục Thuế.

15. Tình hình và phương hướng, giải pháp phát triển kinh tế tư nhân của

Viện nghiên cứu Kinh tế.

16. Báo cáo tình hình quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế Tư nhân -

Tổng cục Thuế.