giÁo dỤc hỌc ĐẠi cƯƠng -...

158
GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG Biên soạn: NGUYỄN THỊ BÍCH HỒNG - VÕ VĂN NAM LỜI NÓI ĐẦU Giáo dục học là một môn học trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ tác nghiệp cho sinh viên sư phạm. Việc giảng dạy, học tập bộ môn Giáo dục học và học phần Giáo dục học đại cương đòi hỏi sinh viên phải tham khảo nhiều nguồn tài liệu và đối chiếu lý luận với thực tiễn giáo dục ở nhà trường. Để hỗ trợ việc học tập của sinh viên, chúng tôi biên soạn tài liệu “Giáo dục học đại cương” theo chương trình phần giáo dục cốt lõi chuyên nghiệp cho các trường Đại học sư phạm và Cao đẳng sư phạm trong quyết định số 2677/GD - ĐT của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo. Tài liệu gồm có 4 chương. Mỗi chương đều giới thiệu mục tiêu học tập định hướng cho sinh viên trong việc tìm hiểu nội dung đồng thời giúp sinh viên tự thẩm định kết quả học tập của mình. Ngoài phần trình bày lý thuyết, tài liệu còn đưa ra những câu hỏi hướng dẫn học tập và thảo luận ở cuối chương để sinh viên có thể tự học cùng với việc tiếp thu bài giảng trên lớp. Một vài triết lý giáo dục được nêu lên ở đầu chương nhằm nhấn mạnh ý nghĩa bài

Upload: vothu

Post on 30-Jan-2018

251 views

Category:

Documents


6 download

TRANSCRIPT

Page 1: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNGGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Biên soạn:

NGUYỄN THỊ BÍCH HỒNG - VÕ VĂN NAM

LỜI NÓI ĐẦU

Giáo dục học là một môn học trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ tác

nghiệp cho sinh viên sư phạm. Việc giảng dạy, học tập bộ môn Giáo dục học

và học phần Giáo dục học đại cương đòi hỏi sinh viên phải tham khảo nhiều

nguồn tài liệu và đối chiếu lý luận với thực tiễn giáo dục ở nhà trường. Để hỗ

trợ việc học tập của sinh viên, chúng tôi biên soạn tài liệu “Giáo dục học đại

cương” theo chương trình phần giáo dục cốt lõi chuyên nghiệp cho các

trường Đại học sư phạm và Cao đẳng sư phạm trong quyết định số 2677/GD

- ĐT của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo.

Tài liệu gồm có 4 chương. Mỗi chương đều giới thiệu mục tiêu học tập

định hướng cho sinh viên trong việc tìm hiểu nội dung đồng thời giúp sinh

viên tự thẩm định kết quả học tập của mình. Ngoài phần trình bày lý thuyết, tài

liệu còn đưa ra những câu hỏi hướng dẫn học tập và thảo luận ở cuối chương

để sinh viên có thể tự học cùng với việc tiếp thu bài giảng trên lớp. Một vài

triết lý giáo dục được nêu lên ở đầu chương nhằm nhấn mạnh ý nghĩa bài

học đồng thời làm nổi bật tính chất sư phạm của một tài liệu thuộc lĩnh vực

giáo dục. Tài liệu đã cố gắng cập nhật tri thức và liên hệ lý luận với thực tiễn

để giúp sinh viên tiếp thu môn học thuận lợi hơn.

Tài liệu đã được điều chỉnh dựa trên nhận xét phản biện của Giáo sư

Bùi Ngọc Hồ và ý kiến của Hội đồng thẩm định gồm một số giảng viên Tổ

Giáo dục học, khoa Tâm lý Giáo dục trường Đại học Sư phạm TPHCM.

Nhóm biên soạn chân thành đón nhận và cảm ơn các ý kiến đóng góp

để tài liệu được hoàn chỉnh nhằm phục vụ tốt hơn cho việc học tập của sinh

viên trong quá trình đào tạo ở nhà trường sư phạm.

Page 2: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Nhóm biên soạn

Võ Văn Nam và Nguyễn Thị Bích Hồng

Bài mở đầu. Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU GIÁO DỤC HỌC

Mục tiêu: Sau bài học này, người học có khả năng

1. Về kiến thức:

a. Biết cấu trúc chương trình học

b. Xác định mục tiêu của học phần “Giáo dục học đại cương”

2. Về thái độ:

a. Khẳng định sự cần thiết của việc nghiên cứu và vận dụng tri thức

Giáo dục học đối với giáo viên trong công tác giáo dục học sinh.

b. Chủ động tìm hiểu nội dung môn học.

“Nghệ thuật giáo dục có một đặc điểm là một việc mà ai cũng có thể

hiểu được, nhận thức được, thậm chí có một số người cho là một việc dễ

dàng. Thật ra, chính những người cho giáo dục là dễ và quen thuộc lại là

những người trên thực tế cũng như trên lý luận chẳng hiểu gì về giáo dục cả”.

K. D. Usinxki (Nga; 1824 - 1870):

Nội dung bài học:

I. Giáo dục học với việc giáo dục con người

Giáo dục là hoạt động nhằm rèn luyện, bồi dưỡng nhân cách cho con

người. Hoạt động này không thể tiến hành một cách tùy tiện theo những ý

muốn chủ quan hay kinh nghiệm riêng lẻ mà phải dựa trên những hướng dẫn

có tính khoa học.

Giáo dục học là khoa học nghiên cứu về việc giáo dục con người.

Những ai quan tâm đến việc giáo dục con người đều có thể tìm thấy trong

Giáo dục học những chỉ dẫn cần thiết về phương hướng, biện pháp và cách

thức tổ chức giáo dục để đạt kết quả mong muốn.

Page 3: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Vì vậy nghiên cứu Giáo dục học có tầm quan trọng đối với mỗi người

tùy theo góc độ quan tâm của họ.

II. Ý nghĩa của việc nghiên cứu Giáo dục học

a. Đối với giáo viên

Một trong những điều kiện để giáo viên có thể phát triển năng lực sư

phạm, có thể giải quyết tốt các nhiệm vụ giáo dục là phải có kiến thức, kỹ

năng, thái độ nghiêm túc trong việc nắm bắt các quy luật, các phương pháp

giáo dục..., tức là phải nắm vững khoa học giáo dục.

Giáo dục học là một môn học nghiệp vụ, trang bị tay nghề cho giáo

viên, giúp họ thực hiện tốt đẹp sứ mạng giáo dục thế hệ trẻ đã được xã hội

giao phó. Cụ thể là:

- Nghiên cứu Giáo dục học giúp giáo viên có cơ sở lý luận vững chắc

để tổ chức tốt quá trình giáo dục ở nhà trường. Tri thức Giáo dục học định

hướng cho giáo viên trong việc thiết kế, tổ chức các hoạt động giảng dạy và

học tập; hoạt động giáo dục và rèn luyện cụ thể đối với học sinh. Giáo viên

biết vận dụng tri thức Giáo dục học một cách phù hợp sẽ xây dựng được

những tác động giáo dục hiệu quả và gặt hái thành công trong công tác giáo

dục, chứng tỏ được bản lĩnh nghề nghiệp của mình. Ngược lại nếu không

quan tâm nghiên cứu vận dụng Giáo dục học trong các tác động giáo dục học

sinh, giáo viên sẽ có nhiều sai sót và cho thấy trình độ nghề nghiệp còn non

yếu. Trong thực tiễn giáo dục học sinh, phần lớn những sai sót của giáo viên

đều do họ đã xa rời lý luận, không tuân thủ các nguyên tắc giáo dục cơ bản

mà Giáo dục học đã xác định.

- Nghiên cứu Giáo dục học giúp giáo viên làm tròn chức năng tham

mưu, cố vấn hướng dẫn công tác giáo dục của gia đình và xã hội. Để công

tác giáo dục học sinh đạt hiệu quả cao cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa

ba lực lượng giáo dục của nhà trường, gia đình và xã hội. Trong đó nhà

trường đóng vai trò chủ đạo trong sự phối hợp giáo dục học sinh là con em

của các gia đình và là công dân của xã hội. Vì vậy ngoài việc trực tiếp giáo

Page 4: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

dục học sinh, giáo viên còn có chức năng hướng dẫn, hỗ trợ hoạt động giáo

dục của gia đình, xã hội và thống nhất các tác động giáo dục này đối với học

sinh để tạo hiệu quả giáo dục cao nhất. Tri thức Giáo dục học giúp giáo viên

có cơ sở khoa học để giải thích, hướng dẫn và tổ chức phối hợp các hoạt

động giáo dục của gia đình và xã hội theo định hướng giáo dục của nhà

trường.

- Nghiên cứu Giáo dục học giúp giáo viên rèn luyện nâng cao năng lực

sư phạm, làm cho hoạt động nghề nghiệp ngày càng tinh xảo. Thực tế hoạt

động giáo dục sẽ tạo nên nhiều kinh nghiệm quý báu để mỗi giáo viên điều

chỉnh và phát huy khả năng hoạt động nghề nghiệp của bản thân. Vì vậy có

những giáo viên tuy không được trang bị tri thức Giáo dục học nhưng họ vẫn

thành công trong nghề nghiệp bằng cách tự học hỏi, tự đúc kết kinh nghiệm

để rèn luyện tay nghề thông qua hoạt động giáo dục trong thực tiễn. Tuy

nhiên, nếu giáo viên được trang bị Giáo dục học hoặc luôn chú trọng nghiên

cứu Giáo dục học thì hoạt động nghề nghiệp của họ sẽ không diễn ra một

cách mày mò với nhiều vấp váp mà sẽ nhanh chóng thành công ở đỉnh cao

của nghệ thuật giáo dục.

b. Đối với các bậc cha mẹ

Gia đình có vai trò to lớn trong việc hình thành nhân cách trẻ em. Giáo

dục gia đình thành công không chỉ mang lợi ích cho từng cá nhân con người

mà còn liên quan đến hạnh phúc gia đình và sự tiến bộ của xã hội. Trên thực

tế các bậc cha mẹ thường tiến hành giáo dục con bằng những kinh nghiệm ít

ỏi vốn có, thiếu tính hệ thống nên gặp nhiều lúng túng, khó khăn. Việc nghiên

cứu Giáo dục học giúp các bậc cha mẹ có thể thực hiện việc giáo dục con

khoa học hơn và hiệu quả hơn.

Giáo dục con cái là một lĩnh vực quan trọng trong đời sống chúng ta.

Con cái chúng ta là những công dân tương lai của nước ta và thế giới. Chúng

sẽ làm nên lịch sử. Con chúng ta sẽ là những người cha và người mẹ tương

lai, chúng cũng sẽ phải nuôi dạy con cái sau này. Con chúng ta phải trở thành

những công dân tốt, cha mẹ tốt. Mặt khác, tuổi già của chúng ta phụ thuộc ở

Page 5: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

con cái. Được giáo dục tốt chúng sẽ làm cho tuổi già của chúng ta sung

sướng, không được giáo dục tốt, chúng sẽ làm cho chúng ta đau khổ và

chính chúng ta lại là người chịu trách nhiệm về chúng trước tổ quốc.

(A.C. Macarenko)

c. Đối với các cán bộ xã hội và các nhà quản lý giáo dục

Hoạt động giáo dục diễn ra không chỉ trong nhà trường mà cả ở những

đơn vị, tổ chức xã hội (nhà văn hóa, cơ quan truyền thông, trại giam. Giáo

dục học giúp cho các nhà quản lý, các cán bộ chuyên trách tại các đơn vị xã

hội tiến hành các hoạt động quản lý và giáo dục một cách chủ động, hiệu quả

đồng thời phối hợp với các hoạt động giáo dục của gia đình và nhà trường

một cách đúng đắn, tối ưu hơn.

Kết luận

Tất cả những người làm công tác giáo dục đều cần phải nghiên cứu

Giáo dục học - khoa học về giáo dục con người. Đối với giáo viên, nghiên cứu

Giáo dục học càng có ý nghĩa quan trọng vì giáo viên vốn được xem là những

chuyên gia giáo dục, hơn ai hết họ phải am tường khoa học giáo dục để giáo

dục học sinh ở nhà trường và giáo dục con em của họ trong gia đình. Đây là

một kết luận rút ra từ những thành công, thất bại của hoạt động giáo dục

trong thực tiễn.

III. Cấu trúc chương trình học

Chương trình học bộ môn Giáo dục học dành cho sinh viên trường Đại

học Sư phạm bao gồm 2 học phần như sau:

* Học phần 1: 60 tiết

- Giáo dục học đại cương

- Lý luận dạy học

- Lý luận về người giáo viên trung học phổ thông

- Báo cáo thực tế

Page 6: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

* Học phần 2: 60 tiết

- Lý luận giáo dục;

- Lý luận về công tác chủ nhiệm lớp

- Giao tiếp sư phạm

- Báo cáo thực tế

- Hội thi nghiệp vụ sư phạm

IV. Giới thiệu học phần “Giáo dục học đại cương” (dành cho sinh viên các khoa không phải chuyên ngành Tâm lý Giáo dục).

* Mục tiêu của học phần:

Sau khi học xong học phần này, người học có khả năng:

- Nhận thức khái quát và cơ bản về hoạt động giáo dục và Giáo dục

học

- Xác định vai trò quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển của cá

nhân và của xã hội.

- Định hướng công tác giáo dục trong thực tiễn nhà trường phổ thông

thông qua việc nhận thức mục tiêu và các con đường giáo dục.

- Tìm hiểu hệ thống lý luận giáo dục một cách thuận lợi trong quá trình

tiếp thu các học phần sau.

* Nội dung của học phần gồm 4 chương:

- Chương 1: Giáo dục học là một khoa học

- Chương 2: Giáo dục và sự phát triển nhân cách

- Chương 3: Mục đích giáo dục

- Chương 4: Các con đường giáo dục

- Chương 1: Trình bày sự nảy sinh, phát triển và tác động biện chứng

của hiện tượng giáo dục đối với quá tình phát triển xã hội. Tóm tắt lịch sử ra

đời của Giáo dục học và định hướng nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện Giáo

Page 7: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

dục học trong giai đoạn hiện nay. Phân tích những yếu tố cơ bản giúp xác

định Giáo dục học là một khoa học: đối tượng - nhiệm vụ nghiên cứu; hệ

thống khái niệm cơ bản; phương pháp nghiên cứu...

- Chương 2: Phân tích vai trò của giáo dục đối với sự phát triển nhân

cách trong mối liên hệ với các yếu tố ảnh hưởng khác như di truyền, môi

trường, hoạt động - giao lưu của cá nhân. Trình bày nội dung và cách thức

giáo dục tương ứng với các giai đoạn phát triển nhân cách của trẻ em.

- Chương 3: Xác định các cấp độ mục đích giáo dục và nhiệm vụ của

giáo viên tương ứng với từng cấp độ. Phân tích cơ sở xác định và nội dung

của mục đích giáo dục tổng quát trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam

hiện nay. Trình bày hệ thống giáo dục quốc dân và các nhiệm vụ giáo dục

tổng quát.

- Chương 4: Trình bày nội dung, cách thức thực hiện và tác động của

các con đường giáo dục cơ bản trong nhà trường phổ thông.

Chương 1. GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC

Mục tiêu: Sau bài học này người học có khả năng

1. Về kiến thức

a. Mức độ Biết:

i. Phát biểu được đối tượng nghiên cứu của Giáo dục học

ii. Phát biểu nội dung các khái niệm: giáo dục, tự giáo dục, giáo dục lại,

giáo dưỡng, dạy học, tự học

iii. Nêu ra được thời điểm và người xây dựng Giáo dục học thành một

khoa học độc lập.

b. Mức độ Hiểu:

i. Trình bày các chức năng xã hội và các tính chất của giáo dục với tư

cách là một hiện tượng xã hội.

Page 8: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

ii. Phân tích cấu trúc của quá trình giáo dục: trình bày vai trò của từng

yếu tố và phân tích mối liên hệ giữa các yếu tố.

iii. Đưa ra những căn cứ để chứng minh Giáo dục học là một khoa học.

c. Mức độ Vận dụng:

i. Phân tích những xu hướng cải tiến quá tình giáo dục nhằm nâng cao

chất lượng giáo dục học sinh.

2. Về thái độ

i. Trân trọng thành quả xây dựng hệ thống lý luận giáo dục thành một

khoa học.

ii. Quan tâm nghiên cứu vận dụng Giáo dục học vào thực tiễn công tác

giáo dục.

“Chỉ có những người biết tự giáo dục mới là những người thực sự có

giáo dục. ”

(Bennet - Anh)

Nội dung bài học:

I. GIÁO DỤC LÀ MỘT HIỆN TƯỢNG XÃ HỘI ĐẶC BIỆT

1. Giáo dục là một hiện tượng xã hội

Giáo dục là một hiện tượng làm thỏa mãn nhu cầu to lớn của xã hội là

truyền kinh nghiệm của các thế hệ trước cho thế hệ sau để duy trì và phát

triển loài người. Giáo dục nảy sinh và phát triển trong lao động sản xuất và

đời sống của con người.

* Nảy sinh: Khoa học chứng minh rằng con người có nguồn gốc từ

động vật (loài vượn). Hai nhân tố chủ yếu quyết định cho sự chuyển biến từ

vượn thành người là: lao động và có tiếng nói.

Khi loài người xuất hiện trên trái đất họ đã tiến hành lao động. Hoạt

động lao động giúp con người thích ứng và cải tạo môi trường sống để tồn

tại, qua đó họ tích lũy được các kinh nghiệm và những hiểu biết về thế giới tự

Page 9: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

nhiên, xã hội. Cuộc đấu tranh sinh tồn đòi hỏi con người phải phân công và

truyền đạt những kinh nghiệm lao động cho nhau (săn bắt, hái lượm, chăn

nuôi, trồng trọt...), kinh nghiệm tìm kiếm các phương tiện sinh sống, kinh

nghiệm chống thú dữ... Nhờ có ngôn ngữ nên con người có thể trao đổi và

truyền thụ các kinh nghiệm, sự hiểu biết từ người này sang người khác. Sự

trao đổi và truyền thụ kinh nghiệm đó chính là hiện tượng giáo dục. Lúc ban

đầu, việc truyền thụ thường do người già, người lớn tuổi có nhiều kinh

nghiệm truyền lại cho lớp trẻ một cách trực tiếp hay gián tiếp. Khi xã hội hình

thành gia đình thì việc truyền thụ kinh nghiệm do các bậc cha mẹ đảm nhận.

* Phát triển: Xã hội ngày càng tiến lên thì sự tích lũy kinh nghiệm ngày

càng nhiều, phong phú, đa dạng về nhiều lĩnh vực: từ kinh nghiệm lao động

sản xuất, đấu tranh xã hội, kinh nghiệm về đời sống xã hội (phong tục, lễ

nghi...) đến những hiểu biết về tự nhiên, thẩm mỹ, đạo đức, triết học... Nội

dung phong phú đòi hỏi hình thức truyền thụ phải thích hợp hơn. Hình thức

truyền thụ của người già và sau đó của các bậc cha mẹ trong từng gia đình

không còn thích hợp với yêu cầu của cuộc sống nữa. Từ đó, việc giáo dục bắt

đầu được giao cho những người có kinh nghiệm truyền đạt và nhiều hiểu biết

tiến hành. Trong xã hội dần dần xuất hiện đội ngũ những nhà trí thức chuyên

tiến hành việc truyền thụ kinh nghiệm và tri thức cho người khác. Từ đó dẫn

đến sự ra đời của nghề dạy học.

Như vậy thực chất của giáo dục là truyền thụ kinh nghiệm lịch sử xã hội

cho thế hệ sau nhằm chuẩn bị cho họ bước vững vàng vào cuộc sống xã hội.

Nét đặc trưng cơ bản của giáo dục là truyền đạt và lĩnh hội những kinh

nghiệm đã tích lũy trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Nhờ lĩnh

hội được những kinh nghiệm xã hội lịch sử mà cá thể trở thành nhân cách.

Giáo dục gắn bó với tiến trình phát triển của lịch sử - xã hội làm cho nhân

cách của con người được phát triển đầy đủ và phong phú hơn.

2. Giáo dục là hiện tượng xã hội đặc biệt

2.1. Giáo dục là chức năng không thể thiếu của xã hội loài người

Page 10: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Muốn được duy trì và phát triển, xã hội nhất định phải thực hiện chức

năng giáo dục để tái sản xuất những nhân cách, những nhu cầu, năng lực

của con người, tái sản xuất những sức mạnh của bản chất con người. Giáo

dục chuẩn bị cho thế hệ trẻ bước vào cuộc sống, bảo đảm mối liên hệ kế tục

giữa các thế hệ. Giáo dục giúp cho thế hệ trẻ thu nhận những kinh nghiệm do

thế hệ trước đã tích lũy, nhờ vậy họ không rơi vào những sai lầm hay thất bại

của người đi trước và có thể tiếp cận trình độ văn minh của xã hội để tham

gia vào đời sống hiệu quả hơn. Giáo dục còn thúc đẩy xã hội tiến lên không

ngừng thông qua việc bồi dưỡng cho thế hệ trẻ những phẩm chất cần thiết để

họ giải quyết những nhiệm vụ mới nảy sinh do sự phát triển của xã hội mà

kinh nghiệm cha anh chưa từng trải.

Ví dụ: Trước đây con người đã từng bó tay trước một số bệnh nan y

như: lao phổi, bệnh phong.... Giáo dục thúc đẩy y học phát triển để phát hiện

phương thuốc chữa trị đối với các bệnh này. Ngày nay con người lại đang đối

diện với các vấn đề mới nảy sinh như: bệnh Aisd, sự bùng nổ dân số, ô

nhiễm môi trường...

Nhờ có giáo dục, con người sẽ tìm được cách giải quyết cho các vấn

đề đó và làm cho xã hội ngày càng văn minh tiến bộ hơn.

2.2. Nhu cầu về giáo dục không bao giờ suy giảm mà sẽ ngày càng gia tăng

Một số hiện tượng xã hội sau khi nảy sinh, phát triển sẽ có những giai

đoạn bị suy thoái như các hiện tượng về thời trang, về phong tục tập quán, về

tôn giáo... Nhưng giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt bởi vì trình độ xã

hội càng nâng cao thì nhu cầu của xã hội và con người về giáo dục không

giảm sút mà ngày càng gia tăng theo xu thế “giáo dục là cho tất cả mọi người”

trong một “xã hội học tập” như Lênin đã từng khẳng định “giáo dục là phạm

trù phổ biến và vĩnh hằng”.

3. Các chức năng xã hội của giáo dục

Page 11: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Chức năng trọng yếu của giáo dục đối với xã hội là hình thành và phát

triển nhân cách con người, là chuẩn bị hành trang cho cá nhân con người với

tư cách là chủ thể tham gia có hiệu quả vào các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Do tác động đến nhân cách con người thông qua việc đào tạo một thế hệ

công dân, một đội ngũ lao động lành nghề và đội ngũ các nhà trí thức cho xã

hội, giáo dục có khả năng tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã

hội mà con người là chủ thể.

Là một hiện tượng xã hội nên giáo dục tác động chi phối đến các quá

trình xã hội khác thông qua ba loại chức năng xã hội của giáo dục như:

3.1. Chức năng kinh tế- sản xuất

Con người là sản phẩm của giáo dục, với tư cách là một lực lượng sản

xuất quan trọng bậc nhất xã hội. Mỗi thời kỳ lịch sử đòi hỏi phải có người lao

động thích ứng. Giáo dục tái sản xuất sức lao động cho xã hội, tạo ra sức lao

động mới có chất lượng và hiệu quả hơn để thay thế cho sức lao động cũ đã

hoàn thành nhiệm vụ lao động cống hiến cho xã hội. Giáo dục trước hết giúp

cho người lao động có được thể lực khỏe mạnh, có trí tuệ phát triển kịp với

trình độ phát triển của thời đại, được đào tạo về chuyên môn để tiến hành

hoạt động nghề nghiệp hiệu quả. Ngoài ra giáo dục còn rèn luyện những

phẩm chất đạo đức để người lao động tận tâm, tận tụy công hiến sức lực cho

sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Giáo dục có tác dụng đẩy mạnh sản xuất

xã hội, phát triển kinh tế. Ngày nay giáo dục được xem là một nhân tố quan

trọng nhất thúc đẩy sản xuất, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội một cách

nhanh chóng và bền vững. Đầu tư cho giáo dục cũng là đầu tư cho nền kinh

tế xã hội, là sự đầu tư sáng suốt nhất và đem lại nhiều lợi ích nhất.

3.2. Chức năng chính trị - xã hội

Chức năng trọng yếu của giáo dục là hình thành và phát triển nhân

cách nên giáo dục tác động đến toàn bộ cấu trúc xã hội, đến các bộ phận hợp

thành của xã hội, các tầng lớp, các nhóm xã hội và tính chất các mối quan hệ

giữa các bộ phận đó. Giáo dục không chỉ tạo nên một lớp người lao động mới

cho xã hội, một lực lượng sản xuất quan trọng bậc nhất mà giáo dục còn làm

Page 12: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

thay đổi cả bộ mặt chính trị xã hội. Giáo dục làm thay đổi cả bề ngoài và nội

dung bên trong của các nhóm xã hội, các bộ phận dân cư, các tầng lớp xã

hội, các dân tộc trong cộng đồng. Giáo dục góp phần làm cho các tầng lớp xã

hội xích lại gần nhau bằng cách nâng cao trình độ văn hóa, tạo điều kiện

thuận lợi cho mọi người được học tập, lựa chọn nghề nghiệp và thay đổi vị trí

xã hội của cá nhân. Đặc biệt là các hoạt động giáo dục bình đẳng, giáo dục

thường xuyên, giáo dục ý thức công dân của một nước, ý thức một thành viên

của nhân loại, làm cho các tầng lớp xã hội trong một nước cũng như các dân

tộc trên thế giới xích lại gần nhau hơn để tiến đến một thế giới hòa bình.

3.3. Chức năng tư tưởng - văn hóa

Giáo dục có tác động to lớn trong việc xây dựng một hệ thống tư tưởng

cho toàn xã hội, làm cơ sở xác định hệ thống giá trị và các chuẩn mực trong

cuộc sống xã hội.

Ví dụ: Ngày nay, công tác giáo dục đang xây dựng tư tưởng bình đẳng

về vai trò của giới trong xã hội, làm thay đổi nhận thức “trọng nam khinh nữ”

và hình thành những giá trị và chuẩn mực xã hội mới đối với nam giới và nữ

giới.

Giáo dục còn bồi dưỡng một lối sống lành mạnh, giúp con người xây

dựng cuộc sống tích cực, và mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp. Các tác động giáo

dục truyền thống trong xã hội thường xuyên nâng cao nhận thức và nhắc nhở

mọi người thực hiện những thói quen tốt trong sinh hoạt hàng ngày như cách

dinh dưỡng, luyện tập cơ thể để bồi dưỡng sức khỏe. Hệ thống các nhà văn

hóa xây dựng các loại hình hoạt động đa dạng phục vụ cho mọi lứa tuổi,

thành phần xã hội (thiếu nhi, thanh niên, phụ nữ, lao động...) giúp con người

có một cuộc sống phong phú khi tham gia các sinh hoạt vui chơi, giải trí, mở

rộng quan hệ giao lưu, trang bị thêm những kiến thức và kỹ năng tổ chức

cuộc sống cá nhân...

Ngoài ra, giáo dục xây dựng một nền văn hóa kết tinh được tinh hoa

nhân loại đồng thời mang đậm bản sắc dân tộc bằng cách phổ cập giáo dục

phổ thông ngày càng cao cho thế hệ trẻ và các tầng lớp nhân dân.

Page 13: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Tóm lại giáo dục thực hiện ba chức năng của mình đó là tái sản xuất

lao động xã hội, cải biến cấu trúc xã hội và hình thành ý thức hệ tư tưởng mới

trên nền tảng văn hóa mới của thời đại nhằm tạo ra con người thời đại có khả

năng hòa nhập quốc tế và khu vực nhưng không bị hòa tan.

4. Các tính chất của giáo dục

Giáo dục và các hiện tượng xã hội khác có tác động biện chứng với

nhau. Sự chi phối của các quá trình xã hội đối với hiện tượng giáo dục gây

nên những tính chất sau đây của giáo dục:

4.1. Tính lịch sử-xã hội

Giáo dục luôn vận động và biến đổi theo trình độ phát triển kinh tế xã

hội của từng giai đoạn lịch sử nhất định. Lịch sử nhân loại đã có nhiều kiểu

giáo dục khác nhau thể hiện ở sự biến đổi mục đích, nội dung, phương pháp

phương tiện và hình thức tổ chức giáo dục theo sự qui định của những điều

kiện xã hội lịch sử cụ thể.

Vì vậy:

- Khó có thể có sự phù hợp tuyệt đối giữa hai nền giáo dục ở hai quốc

gia có điều kiện phát triển khác nhau.

- Ngay trong cùng một nước ở những giai đoạn lịch sử khác nhau thì

trình độ phát triển giáo dục cũng có những nét khác nhau.

- Cần đổi mới liên tục hệ thống giáo dục, đảm bảo cho giáo dục thích

ứng với chiều hướng mới của quá trình phát triển xã hội.

4.2. Tính giai cấp

Giáo dục là chức năng đặc biệt của nhà nước, do giai cấp cầm quyền

chỉ đạo nhằm củng cố địa vị của tầng lớp thống trị. Trong xã hội có giai cấp,

giáo dục mang tính giai cấp thể hiện ở việc xây dựng những hệ thống giáo

dục phù hợp với các mục đích chuẩn bị khác nhau cho con em của những

giai cấp khác nhau bước vào đời sống.

4.3. Tính phổ quát

Page 14: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Tính phổ quát thể hiện trong sự hiện diện của giáo dục trong tất cả các

chế độ xã hội, các giai đoạn lịch sử của nhân loại. Trong đó nổi bật là sự

chăm sóc, bồi dưỡng con người ở lứa tuổi học sinh, là truyền thụ một cách có

ý thức cho thế hệ trẻ những kinh nghiệm xã hội, những giá trị văn hóa, tính

thần của loài người và dân tộc, giúp họ bước vững vàng vào cuộc sống và

góp phần phát triển xã hội.

4.4. Tính nhân văn

Giáo dục luôn hướng con người đến những cái đẹp, cái tốt, đó là

những giá trị văn hóa, đạo đức thẩm mỹ chung nhất của nhân loại và những

nét bản sắc dân tộc, truyền thống văn hóa của từng quốc gia dân tộc đồng

thời phát huy những yếu tố tích cực trong mỗi con người để giúp họ ngày

càng hoàn thiện nhân cách.

II. KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA GIÁO DỤC HỌC

1. Thời cổ đại

Giáo dục học chưa hình thành mà xã hội chỉ xuất hiện nhiều tư tưởng

giáo dục nổi tiếng vẫn được coi trọng đến ngày nay.

Cách chúng ta 2.500 năm, Heraclitus (540 - 480 TCN), nhà hiền triết Hy

lạp cổ đại đã nhận định: “Giáo dục, dạy học không phải là rót kiến thức vào

đầu người học như người ta rót chất lỏng vào chai, thông qua cái phễu. Thực

chất giáo dục là thắp lên một ngọn đuốc để soi sáng, để người học nhận ra

những con đường, tự mình chọn lấy cho mình một con đường, rồi tự bước đi

trên con đường đã chọn, dưới ánh sáng của ngọn đuốc ấy"

Như vậy, giáo dục chỉ là soi sáng. Soi sáng để người học TỰ CHỌN,

rồi TỰ BƯỚC ĐI. Người dạy không áp đặt con đường, cũng không bước đi

thay cho người học.

Sau Heraclitus, Socrate (470 - 399 TCN), nhà hiền triết Hy lạp Cổ đại,

đã nêu ra phương châm nổi tiếng: “Hỡi con người, hãy tự khám phá bản thân

mình!”

Page 15: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Để người học tự khám phá mình, ông nói: “Mục đích của giáo dục

không phải là tách con người ra khỏi đám đông, càng không phải là làm cho

con người ấy mất hút trong đám đông; mục đích của giáo dục là làm cho con

người nhận ra chính mình giữa đám đông. Đó là một quan điểm giáo dục có

tính nhân văn cao. Để khám phá được bản thân con người phải biết tự bộc lộ

bản thân. Nhằm giúp cá nhân tự bộc lộ, ông đề ra phương pháp sản ý,

thường gọi là phương pháp Socrate. Thực chất đó là phương pháp đàm thoại

gợi mở bằng hệ thống câu hỏi của nhà giáo dục mà khi trả lời những câu hỏi

đó, cá nhân sẽ bộc lộ và tự khám phá năng lực của bản thân

Nối tiếp tư tưởng của Socrate, học trò ông, nhà triết học Hy lạp Cổ đại

Platon (427 - 348 TCN) cũng đã đưa ra những quan điểm giáo dục tiến bộ.

Platon cho rằng mục tiêu số một của con người là sống phù hợp với đạo đức.

Đó là hành động theo điều thiện. Thiện là cái gì phù hợp với chân lý mà chân

lý chính là sự công bằng. Xã hội công bằng khi nó được sắp xếp theo một trật

tự hoàn hảo, trong đó mỗi người và mỗi vật được đặt đúng vị trí và làm đúng

phận sự của mình, ở đây chúng ta nhận thấy Platon đã tiếp cận và kế thừa

phương châm sống của Socrate. Bởi vì chỉ khi con người tự khám phá và biết

rõ bản thân thì họ mới có thể chọn đúng vị trí và làm đúng phận sự, nhờ vậy

trở thành một cá nhân có đạo đức.

Theo Platon, một xã hội chiếm hữu nô lệ lý tưởng có các tầng lớp như

sau: nhà triết học (những người quản lý đất nước); quân nhân (người bảo vệ

quốc gia); người làm ruộng, làm nghề thủ công và buôn bán; người nô lệ (lao

động trực tiếp trong sản xuất và kinh doanh). Platon đã khẳng định sự cần

thiết của việc giáo đục đối với con người: “Mọi công dân phải được giáo dục

như nhau, ngay từ đầu. Ngay tầng lớp nông dân và binh sĩ cũng phải học ít

nhất là 30 năm trước khi hành nghề! Còn quan lại, để cai trị dân, cần được

học thêm 15 năm nữa, vị chi 45 năm học tập, thì mới có thể cai trị người

khác: Đặc biệt là người thầy, để dạy người, anh ta phải được giáo dục đến

nơi đến chốn. Bởi "người thợ giày tồi thì khách hàng có người phải xỏ chân

vào chiếc giầy không vừa vặn chút ít! Còn người thầy giáo tồi thì... hại cả ba

Page 16: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

thế hệ" Để đạt được mục đích trên ông cũng hình dung một hệ thống giáo dục

phù hợp với kiểu xã hội tương ứng với 4 tầng lớp đã nêu. Trong đó tầng lớp

nô lệ không hề được giáo dục!

Đó là phương Tây. Còn phương Đông nơi mang nặng truyền thống

"Tôn sư trọng đạo", thì sao?

Khổng tử (551- 479 TCN), người thầy tiêu biểu của muôn đời (vạn thế

sư biểu) và không riêng của Trung Hoa, đã hết sức coi trọng sự học và đặc

biệt coi trọng người học. Ông đã để lại những câu nói bất hủ sau hơn 50 năm

dạy học. Như là: “Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri đạo!" (Ngọc

- đá quý, không mài không thành vật quý, người không học không biết đạo).

Vì vậy ông chủ trương “Hữu giáo vô loại”: Quyền được đi học là quyền tự

nhiên của mọi người, không phân biệt địa vị xã hội! Đó là một tư tưởng tiến

bộ trong xã hội bấy giờ. Bởi vì ngay cả phương Tây mà mãi đến năm 1850,

có nghĩa là đến 2300 năm sau Khổng tử, người ta mới mở cửa trường học

cho mọi tầng lớp xã hội.

Khổng tử đặc biệt nhấn mạnh tính chủ động, tích cực và độc lập ở

người học. Ông nói: “Ai không biết tức giận vì tri thức hạn hẹp của mình, ta

không gợi mở cho được. Ai không biết tự mình nỗ lực bộc bạch tâm tư, ta

không giúp cho phát biểu tư tưởng được. Vật có 4 góc, ta vén cho một góc, ai

không tự mình vén 3 góc còn lại thì... là người không thể giáo dục lại được!

(Bất phẫn, bất khải; bất phỉ, bất phát. Cử nhất ngung, bất dĩ tam ngưng phản,

tắc bất phục dã! - Luận ngữ)

Đặc biệt Khổng tử đòi hỏi người học phải tích cực suy nghĩ, suy nghĩ

độc lập, để tự phát hiện vấn đề và tự đặt câu hỏi - nêu - vấn - đề ra trước để

được người dạy giải đáp. Điểm khác biệt giữa phương pháp đàm thoại của

Khổng tử với phương pháp đàm thoại Socrate là ở chỗ: Khổng tử không đặt

câu hỏi cho học trò trước mà ngược lại, ông đòi hỏi học trò phải chủ động đặt

câu hỏi trước. Nếu ai không tự đặt câu hỏi ra trước, Khổng tử sẽ không dạy

cho người ấy (bất viết như chi hà, như chi hà giả, ngô mạt như chi hà dã dĩ hỉ

- Luận ngữ). Khổng tử, ngoài việc đòi hỏi người học phải chủ động, tích cực

Page 17: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

hỏi, còn căn cứ vào câu hỏi để biết người hỏi đang gút mắc chỗ nào, trình độ

vốn có đến đâu, để dạy tiếp. Điều này hoàn toàn phù hợp với một ngạn ngữ

phương Tây: “Hỏi một câu chỉ dốt trong chốc lát. Nhưng nếu không hỏi sẽ dốt

suốt đời”. Chính vì vậy người xưa thường học bằng cách hỏi. Và ta có từ học

- hỏi rất hay! Đấy cũng là một cách để “Sát đối tượng” trong nguyên tắc dạy

học hiện đại!

Không những đòi hỏi người học phải học một cách chủ động, tích cực

và độc lập, Khổng tử còn yêu cầu người học phải học bằng cả tâm hồn - học

một cách vui thú. Ông nói “Biết mà học, không bằng thích mà học; thích mà

học không bằng vui mà học "Lạc học - Luận ngữ).

2. Thời Trung đại

Trong thời kỳ Trung đại xuất hiện hình thái xã hội mới - xã hội phong

kiến. Nhà thờ Thiên chúa giáo trở thành công cụ tư tưởng chủ yếu của chế độ

phong kiến châu Âu. Mọi sự phát triển về văn hóa và giáo dục đều bị chi phối

bởi tư tưởng của công giáo. Nhà thờ phủ nhận hầu hết những thành tựu văn

hóa thời cổ đại, ngoại trừ ngôn ngữ La tinh. Xã hội xuất hiện các trường học

giáo hội do giáo hội mở và cấp kinh phí. Nội dung giáo dục gồm 7 môn học

đáp ứng lợi ích cho nhà thờ và xã hội phong kiến. Việc dạy học mang tính

chất nhồi nhét, áp đặt, kinh viện, giáo điều và áp dụng một kỷ luật rất khắc

nghiệt. Trong trường giáo hội, việc dạy học không chia thành học kỳ, không

có thời khóa biểu. Trong cùng một phòng học, học sinh nhiều lứa tuổi, nhiều

trình độ khác nhau cùng ngồi học chung. Khi giảng dạy thầy giáo làm việc với

từng học sinh.

Từ thế kỷ X giai cấp tư sản dần dần hình thành và bắt đầu tích tụ hệ tư

tưởng và văn hóa tư sản, kéo theo nhiều quan niệm mới mẻ về thế giới và

con người, mâu thuẫn với thế giới quan giáo điều tôn giáo. Nhiều nhà tư

tưởng đặc biệt chú ý nghiên cứu sự phong phú của văn hóa cổ đại vốn bị lãng

quên trong nhiều thế kỷ. Lịch sử xã hội bắt đầu bước vào thời kỳ Phục hưng,

ở đó tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa ảnh hưởng nhiều đến thực tiễn giáo dục.

Page 18: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Cuộc đấu tranh của các nhà theo chủ nghĩa nhân văn đã làm giảm đi nhiều

ảnh hưởng của nhà thờ đối với trường học.

* Các tư tưởng giáo dục:

1. Francois Rabelais (1494 - 1553, người Pháp):

Rabelais là một trong những đại biểu xuất sắc nhất của chủ nghĩa nhân

đạo Pháp và các tư tưởng giáo dục thời kỳ Phục hưng. Ông đã phê phán lối

học kinh viện và chủ trương giáo dục nhân đạo chủ nghĩa. Ông đả phá lối

giảng dạy cũ kỹ, bắt học sinh thuộc lòng các tín điều khô khan, khó hiểu.

Rabelais coi trọng sự phát triển nhiều mặt trong nhân cách của trẻ vì vậy nội

dung giáo dục bao gồm trí dục, đức dục, mỹ dục và giáo dục thể chất, về trí

dục ông đòi hỏi học trò phải học nhiều kiến thức, vì vậy phải theo một thời

khóa biểu tỉ mỉ và căng thẳng từ 4 giờ sáng cho đến tối. Ông đề cao những

hiểu biết thực tế, có ích và các phương pháp dạy học tích cực, trực quan. Do

đó ông có chú ý đến lao động chân tay và có sáng kiến trong việc tổ chức các

hình thức giáo dục phong phú ngoài trường học.

2. Michel de Montaigne (1533 - 1592, người Pháp):

Ông là một nhà tư tưởng lỗi lạc và là một trong các đại biểu của chủ

nghĩa hoài nghi triết học, một sản phẩm đặc sắc của chủ nghĩa nhân đạo,

quan tâm đến thế giới xung quanh và phê phán thái độ sợ sệt, sùng phục

trước uy quyền. Ông nghi ngờ các tập tục và quan điểm của xã hội đương

thời và phủ nhận lòng tin vào đấng siêu nhiên. Ông chống đối khoa học kinh

viện và ủng hộ khoa học kinh nghiệm, nghiên cứu chính xác sự vật và đi sâu

vào bản chất của chúng. Các quan điểm giáo dục của ông hình thành chính

trên cơ sở đó. Montaigne không đồng tình với lối dạy học nhồi nhét và quan

niệm thầy giáo có nhiệm vụ rèn luyện cho học sinh khả năng phán đoán, xây

dựng tư tưởng riêng của mình từ những điều đã học. Về nội dung giáo dục

ông quan tâm đến giáo dục trí tuệ và giáo dục thể chất, tuy nhiên còn hời hợt

và thiếu hệ thống. Ông cũng ít chú trọng việc giáo dục đối với phụ nữ. Về

phương pháp giáo dục ông phản đối cách trừng phạt thể xác đối với học sinh,

Page 19: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

ông đã sớm nhận thấy rằng “roi vọt không có tác dụng gì khác là làm cho tâm

hồn của trẻ hèn nhát hơn hoặc bướng bĩnh một cách ranh mãnh hơn.

3. Thời cận đại

Sau đêm dài Trung cổ, nhân loại bước vào thời kỳ Phục hưng, thời kỳ

chủ nghĩa nhân văn toả sáng.

Nền giáo dục Cận đại được manh nha từ những tư tưởng tiến bộ của

J.A.Komensky (1592 - 1670). Dù sống trọn vẹn trong lòng xã hội phong kiến,

song tư tưởng của Komensky đã vượt ra ngoài khuôn khổ Trung đại để mở

màn cho nền giáo dục Cận đại. Vì vậy J.A.Komensky được mệnh danh là ông

tổ của nền giáo đục Cận đại.

Trước hết, về đối tượng giáo dục cũng như về nội dung giáo dục,

Komensky khẳng định phải “Dạy mọi điều cho mọi người”. Tuy đơn giản

nhưng cực kỳ tiến bộ, bởi trước đó, loài người còn học từ chương, sách vở,

và không phải ai cũng có quyền đi học.

Nhưng công đầu của Komensky có lẽ là công tách Lý luận giáo dục ra

khỏi triết học để hình thành một khoa học độc lập: Khoa sư phạm học

(Didaktika). Trước Komensky khoa sư phạm chỉ là một bộ phận nằm trong

triết học.

Sáng kiến thứ hai mà lịch sử giáo dục thế giới trân trọng ghi nhận ở

Komensky là sáng kiến vĩ đại, sáng kiến hình thành "lớp học" mà gắn liền với

nó là bài học, tiết học... Trước Komensky, thế giới chưa có cái gọi là "Lớp

học" mà chỉ có "trường học", ngay cả trường thầy đồ giới hạn trong 4 bức

tường nhỏ hẹp cũng không thể gọi là "lớp học", vì ở đó tập hợp nhiều học

sinh ở nhiều lứa tuổi và nhiều trình độ cách biệt xa nhau. Nhờ sáng kiến

thành lập lớp học và giảng dạy theo lớp mà giáo dục có thể tăng năng suất

đào tạo lên gấp bội lần, đáp ứng đủ nguồn nhân lực cho guồng máy kinh tế

phát triển theo hướng công nghiệp hóa.

Cuối cùng, không thể không kể đến một đóng góp đặc sắc của

Komensky khi ông kêu gọi mọi nền giáo dục phải được tổ chức và hoạt động

Page 20: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

sao cho đúng quy luật. Mà quy luật lớn nhất là quy luật của tự nhiên. Do vậy

giáo dục đúng quy luật phải được tổ chức và hoạt động sao cho thích ứng với

thiên nhiên. Bởi lẽ con người là một bộ phận của thiên nhiên, phương thức

tồn tại, vận động của thiên nhiên cũng là phương thức tồn tại và vận động của

con người, của giáo dục loài người. Mà “thiên nhiên thì không bao giờ làm

điều gì không có ích”. Vậy giáo dục theo cái chuẩn, cái mẫu của thiên nhiên là

giáo dục mang lại lợi ích cho con người và cho loài người. Đi ngược quy luật

tự nhiên thì giáo dục sẽ tàn hại con người và loài người!

Loài chim không sinh sản về mùa đông rét mướt, hoặc về mùa hạ nóng

nực hay về mùa thu khi mọi vật đã tàn tạ, mà về mùa xuân, khi ánh mặt trời

đem lại sức sống cho muôn vật. Vậy thì việc giáo dục con người ta cũng bắt

đầu từ tuổi thanh xuân của cuộc đời, cũng như giờ học tốt nhất phải là buổi

sáng của một ngày.

Muốn cho chim con nở nhanh, chim mẹ không ném trứng vào lửa mà

dùng sức ấm tự nhiên sưởi nóng những quả trứng một cách từ từ... Người

kiến trúc sư cũng vậy không vội vã xây tường ngay trên móng, đặt mái ngay

trên tường, khi móng và tường chưa khô, chưa đủ chắc chắn... Người làm

vườn cũng không đòi hỏi cái cây phải lớn lên ngay trong tháng đầu, hoặc

muốn cho cây được sưởi ấm thì anh ta cũng không đốt lửa cạnh gốc, không

chất vôi sống vào...

Vậy thì thật hành hạ đối với học sinh nếu hàng ngày người ra bắt chúng

phải học bài, làm bài tám, chín giờ trên lớp và về nhà làm thêm mấy giờ

nữa... Thật là khờ khạo khi một thầy giáo không dạy theo khả năng tiếp thu

của học sinh mà lại dạy theo ý muốn chủ quan của thầy.

4. Thế kỷ XIX

Nhờ sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác, Giáo dục học phát triển, chứng

minh một cách khoa học các vấn đề có tính qui luật trong giáo dục như:

- Tính quy định của kinh tế - xã hội đối với giáo dục.

- Tính lịch sử của giáo dục trong tiến trình phát triển xã hội.

Page 21: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

- Vai trò của giáo dục trong điều kiện xã hội có giai cấp.

III. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA GIÁO DỤC HỌC

1. Đối tượng nghiên cứu của Giáo dục học

Giáo dục học là khoa học về việc đào tạo, giáo dục con người, khoa

học về sự hình thành và phát triển nhân cách con người trong quá trình nhà

giáo dục và người được giáo dục hoạt động với nhau theo một sự tổ chức

đặc biệt.

Việc giáo dục con người là một quá trình có sự vận động, diễn ra trong

một thời gian, không gian nhất định, có nội dung, quy luật và động lực nhất

định.

Đối tượng của Giáo dục học là quá trình đào tạo con người dưới những

tác động có mục đích của xã hôi.

Trong nhà trường quá trình đào tạo con người (còn gọi là quá trình giáo

dục theo nghĩa rộng) bao gồm toàn bộ các tác động giáo dục và dạy học

được định hướng theo mục đích xác định, được tổ chức một cách hợp lý,

khoa học nhằm hình thành và phát triển nhân cách cá nhân.

QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC (rộng) = DẠY HỌC + GIÁO DỤC

Có mục đích

Có tổ chức

Hình thành nhân cách toàn vẹn

Giáo dục với tư cách là một hiện tượng xã hội được nhiều ngành khoa

học nghiên cứu: Kinh tế học, Xã hội học, Đạo đức học, Tâm lý học... Kinh tế

học nghiên cứu mối quan hệ giữa giáo dục và sự phát triển nền kinh tế xã hội.

Xã hội học xem xét quan hệ giữa quá trình giáo dục với các quá tình xã hội

khác. Đạo đức học quan tâm đến giáo dục như là một con đường quan trọng

để rèn luyện các phẩm chất đạo đức cho con người. Tâm lý học tìm hiểu vai

trò tác động của yếu tố giáo dục tới sự phát triển tâm lý, nhân cách cá nhân...

Page 22: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Trong phạm vi của mình Giáo dục học nghiên cứu bản chất bên trong của quá

trình giáo dục thông qua việc tìm hiểu cấu trúc và cơ chế vận động của nó

đồng thời soi sáng các qui luật của quá trình giáo dục, nghiên cứu lý luận và

phương pháp tổ chức quá trình giáo dục.

2. Cấu trúc của quá trình giáo dục

2.1. Cấu trúc tổng thể

QTGD tổng thể = QT sư phạm = QT đào tạo

Quá trình giáo dục tổng thể là sự thống nhất của hai quá trình dạy học

và giáo dục (nghĩa hẹp) trong nhiệm vụ chung là hình thành và phát triển

nhân cách toàn diện cho con người. Bên cạnh đó mỗi quá trình lại có chức

năng trội riêng như:

- Chức năng trội của quá trình dạy học là giáo dưỡng: tổ chức trau dồi

học vấn, tổ chức cho học sinh tìm hiểu, lĩnh hội hệ thống tri thức khoa học,

hình thành kỹ năng, kỹ xảo nhận thức và hành động.

- Chức năng trội của quá trình giáo dục (nghĩa hẹp) là xây dựng một hệ

thống niềm tin, lý tưởng, động cơ, hình thành những phẩm chất và thói quen

hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội.

- Hai quá trình này gắn bó chặt chẽ với nhau. Giáo dưỡng, trau dồi học

vấn phải đi đôi với việc trau dồi đạo đức và ngược lại việc hình thành niềm tin,

phẩm chất, thói quen hành vi phải dựa trên cơ sở giáo dưỡng, học vấn.

2.2. Cấu trúc bộ phận

Quá trình giáo dục là một quá trình vận động nên cấu trúc bộ phận gồm

có hai hệ thống: hệ thống tác nhân (gây nên sự vận động của quá trình) và hệ

thống các thành tố cơ bản.

* Hệ thống các thành tố tác nhân

Trong sơ đồ trên yếu tố chính tạo nên sự vận động của quá trình giáo

dục là sự tác động qua lại và phối hợp chặt chẽ với nhau giữa chủ thể giáo

dục (CT) và khách thể giáo dục (KT). Tác động qua lại được diễn ra trong một

Page 23: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

môi trường sư phạm (bao gồm cơ sở vật chất của trường học, những đặc

điểm tâm lý, thể chất và trình độ của chủ thể và khách thể) và trong một môi

trường xã hội với những đặc điểm kinh tế, văn hóa và chính tri xã hội, đó là

những điều kiện ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng của quá trình giáo

dục. Sự phối hợp giữa chủ thể và khách thể giáo dục diễn ra trên các mối liên

hệ thông tin, giao tiếp, tổ chức hoạt động và quản lý - tự quản lý.

* Hệ thống các thành tố cơ bản

Trên thực tế quá trình giáo dục diễn ra rất đa dạng về nội dung, thời

gian, không gian... nhưng dù diễn ra ở bất cứ dạng nào, quá trình giáo dục

cũng được thể hiện qua những thành tố cơ bản như trên.Trong hệ thống các

thành tố cơ bản, thành tố mục đích là xuất phát điểm của quá trình giáo dục

và qui định trước kết quả của toàn bộ quá trình. Thành tố nội dung là sự cụ

thể hóa của mục đích vì vậy nội dung phải có sự tương ứng phù hợp với mục

đích đặt ra. Muc đích và nội dung qui định cách thức tổ chức hoạt động qua

việc sử dụng phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức giáo dục. Từ

đó dẫn đến kết quả giáo dục là mức độ phát triển của khách thể sau quá trình

giáo dục. Cách thức tổ chức hoạt động là thành tố trực tiếp quyết định cho

chất lượng của quá trình giáo dục.

Như vậy trong từng hệ thống các yếu tố có sự liên hệ mật thiết và chi

phối lẫn nhau. Sự biến đổi của một yếu tố sẽ dẫn đến những biến đổi của

những yếu tố khác một cách tương ứng. Ngoài ra hai hệ thống tác nhân và hệ

thống các thành tố cơ bản cũng không tách rời mà chúng luôn kết hợp thống

nhất với nhau trong một quá trình giáo dục. Nếu sự tương tác giữa chủ thể

giáo dục và khách thể giáo dục không được định hướng theo mục đích giáo

dục với nội dung giáo dục tương ứng và cũng không thông qua các phương

pháp giáo dục thì sự tương tác giữa họ không phải là một quá trình giáo dục

mà chỉ là một quá trình giao tiếp, ứng xử mà thôi. Vì vậy có thể cho rằng cấu

trúc của quá trình giáo dục bao gồm các nhân tố chủ thể, khách thể, mục

đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức và kết quả giáo

dục. Trong đó hai nhân tố trọng tâm là chủ thể và khách thể, bởi vì các nhân

Page 24: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

tố còn lại đều thể hiện qua hai nhân tố này. Có thể hình dung cấu trúc chung

của quá trình giáo dục như sau:

2. Nhiệm vụ nghiên cứu của giáo dục học

* Nhiệm vụ cơ bản:

+ Nghiên cứu bản chất của giáo dục và mối quan hệ giữa giáo dục với

các bộ phận khác của xã hội.

+ Nghiên cứu các qui luật của quá trình giáo dục: qui luật phát triển giáo

dục trong mối quan hệ với nền kinh tế - xã hội, qui luật hình thành và phát

triển nhân cách...

+ Nghiên cứu các nhân tố của quá trình giáo dục, từ đó xác định mục

tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức... nhằm đạt chất lượng và

hiệu quả tối ưu trong những điều kiện của một xã hội nhất định.

+ Xây dựng một hệ thống lý luận để soi sáng các hoạt động giáo dục

trong thực tiễn.

Giáo dục học nghiên cứu quá trình giáo dục trong tính tổng thể, toàn

vẹn. Cũng như nghiên cứu các bộ phận, các yếu tố của nó.

* Nhiệm vụ trước mắt:

- Nghiên cứu và hoàn thiện các vấn đề thuộc phạm trù phương pháp

luận khoa học giáo dục, làm cho Giáo dục học phát triển có định hướng, tiếp

cận với xu thế phát triển mới ở thế kỷ 21.

- Nghiên cứu góp phần giải quyết mâu thuẫn lớn giữa việc phát triển

nhanh quy mô và gấp rút nâng cao chất lượng đào tạo trong những điều kiện

hạn chế.

- Nghiên cứu phát hiện các nhân tố mới mang tính quy luật trong sự

phát triển giáo dục về mặt lý luận và thực tiễn: trong nội dung như các vấn đề

về giáo dục quốc tế, giáo dục môi trường; trong phương pháp như vấn đề tự

học, phát huy nội lực của người học.

Page 25: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

- Nghiên cứu các vấn đề về hệ thống giáo dục quốc dân trong tiến trình

đổi mới và phát triển, những vấn đề đặt ra trong công tác quản lý giáo dục...

- Nghiên cứu làm rõ vấn đề giáo dục giá trị trong điều kiện xã hội hiện

đai.

Các nhiệm vụ nói trên vừa có tính định hướng cho mọi hoạt động

nghiên cứu, sáng tạo trong phạm vi Giáo dục học vừa có ý nghĩa thiết thực

đối với quá trình điều chỉnh, hoàn thiện Giáo dục học.

3. Đặc trưngg của quá trình giáo dục

a) Là một dạng vận động và phát triển liên tục của các hiện tượng, tình

huống giáo dục và dạy học, được tổ chức thực hiện theo những quy trình xác

định.

b) Là một dạng vận động xã hội liên quan đến các quá trình xã hội khác

(kinh tế, chính trị, văn hóa...) được tổ chức một cách chuyên biệt (theo quy

luật giáo dục)

c) Chỉ tồn tại và biểu hiện thông qua hoạt động của nhà giáo dục và

người được giáo dục trong sự phối hợp chặt chẽ và tác động lẫn nhau.

4. Phương hướng và phương pháp nghiên cứu Giáo dục học

* Cơ sở phương pháp luận: Việc nghiên cứu dựa trên các quan điểm

Triết học của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử.

Tức là:

+ Phải đặt các hiện tượng giáo dục trong không gian thời gian cụ thể,

trong mối quan hệ tương tác với các hiện tương khác trong xã hội.

+ Hoạt động giáo dục luôn vận động phát triển vì vậy phải nghiên cứu

nó trong sự vận động phát triển.

* Phương hướng chung:

+ Phải lấy bản sắc nền văn hóa giáo dục dân tộc Viêt Nam trong quá

khứ, hiện tại, tương lai làm cái gốc cơ bản quan trọng nhất để nghiên cứu và

phổ biến khoa học giáo dục.

Page 26: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

+ Phải nghiên cứu một cách nghiêm túc và khách quan những kinh

nghiệm và thực tiễn giáo dục của các nước khác trên thế giới để tiếp thu

những tinh hoa của nhân loại nhằm bổ sung cho nền giáo dục của dân tôc.

* Phương pháp nghiên cứu cụ thể:

- Quan sát

- Đàm thoại

- Nghiên cứu sản phẩm

- Thăm dò ý kiến

- Thực nghiệm

- Thống kê

Việc nghiên cứu giáo dục đòi hỏi xuất phát từ thực tiễn giáo dục và

hướng vào việc phục vụ cho hoạt động giáo dục ở cơ sở. Do đó cần có sự

phối hợp nhịp nhàng, cộng tác chặt chẽ giữa nhà khoa học và các giáo viên ở

cơ sở.

IV. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA GIÁO DỤC HỌC

1. Giáo dục

Là một khái niệm chung và rộng của Giáo dục học được giải thích qua

hai mức độ rộng và hẹp như sau:

+ Giáo dục (nghĩa rộng):

- Giáo dục là quá trình hình thành toàn vẹn nhân cách được tổ chức

một cách có mục đích, có hệ thống thông qua hai hoạt động dạy học và giáo

dục (nghĩa hẹp) để làm phát triển các sức mạnh thể chất và tinh thần của con

người, giúp họ tham gia có hiệu quả vào đời sống xã hội.

- Giáo dục là một quá trình toàn vẹn được tổ chức một cách có kế

hoạch nhằm bồi dưỡng cho người được giáo dục những kinh nghiệm xã hội

của loài người, bao gồm các quá trình giáo dục trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo

dục thể chất, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục lao động.

Page 27: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Ngoài ra chúng ta cần phân biệt: quá trình hình thành con người và quá

trình giáo dục.

- Quá trình hình thành con người là quá trình phát triển con người về

các mặt: sinh học, tâm lý, xã hội. Quá trình này chịu ảnh hưởng bởi các nhân

tố bên trong như tính di truyền, bẩm sinh, vốn sống kinh nghiệm, cá nhân... và

những yếu tố bên ngoài như hoàn cảnh tự nhiên, môi trường xã hội bao gồm

các quá trình kinh tế sản xuất, chính trình xã hội, tư tưởng - văn hóa, dân số

dân cư, sinh hoạt xã hội và gồm tất cả những tác động tự phát ngẫu nhiên

cùng các tác động có mục đích, có tổ chức.

- Giáo dục chỉ là một bộ phận của quá trình xã hội hình thành con

người, là quá trình hình thành nhân cách con người một cách tự giác thông

qua những nhân tố tác động có mục đích, có tổ chức của xã hội. Việc tổ chức

đó chủ yếu do những người có kinh nghiệm, có chuyên môn đảm nhận (các

nhà giáo dục, nhà sư phạm). Nơi tổ chức quá trình giáo dục một cách có hệ

thống, có kế hoạch chặt chẽ nhất là nhà trường.

+ Giáo dục (nghĩa hẹp):

Giáo dục là hoạt động chuyên biệt nhằm hình thành những phẩm chất,

quan điểm, niềm tin cho con người về các phương diện đạo đức, thể chất,

thẩm mỹ, lao động.

2. Xã hội hóa cá nhân

Quá trình xã hội hóa là quá trình biến đứa trẻ từ một thực thể tự nhiên

thành con người xã hội. Xã hội hóa cá nhân là quá tình các cá thể tiếp thu,

học tập nền văn hóa xã hội để thích ứng được với xã hội, thực chất của xã

hội hóa là quá trình chủ thể hóa các tri thức của xã hội - là sự tiếp nhận tri

thức, kinh nghiệm xã hội thông qua lăng kính chủ quan và sự xét đoán của

mỗi cá nhân bằng hai con đường:

- Không chính thức: quá trình cá nhân học hỏi qua bắt chước, quan sát,

trải nghiệm trong tương tác với gia đình, bạn bè,...

Page 28: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

- Chính thức: quá trình cá nhân học hỏi tiếp thu từ những tác động giáo

dục của gia đình, nhà trường và xã hội.

Vì vậy giáo dục là con đường xã hội hóa quan trọng nhất đối với cá

nhân. Giáo dục là một quá trình xã hội hóa liên tục trong cuộc đời mỗi người

và lưu ý rằng sự học hỏi từ nhà trường có thể yếu kém hơn sự học hỏi từ

những tác động không chính thức trong gia đình và ngoài cộng đồng.

3. Tự giáo dục

Quá trình cá nhân tự giác tiến hành có hệ thống những hành động có ý

thức nhằm trau dồi tính tốt khắc phục tính xấu, điều chỉnh bản thân cho phù

hợp với yêu cầu xã hội.

4. Giáo dục lại

Hoạt động giáo dục nhằm thay đổi quan điểm, ý thức tư tưởg, nhận

thức, thái độ, hành vi sai lệch với những chuẩn mực xã hội để trở thành

người tốt, có nhân cách được xã hội chấp nhận. Điều kiện tiên quyết để nhà

giáo dục tiến hành giáo dục lại cho trẻ là lòng nhân ái và lòng tin vững chắc

vào những phẩm giá tốt đẹp còn tiềm ẩn trong mỗi con người có thể làm thức

dậy được.

5. Giáo dưỡng: Được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau:

- Giáo dưỡng là quá trình nuôi nấng, giáo dục con người một cách cân

đối về thể chất và tinh thần.

- Giáo dưỡng là quá trình và kết quả bồi dưỡng các kiến thức, kỹ năng,

kỹ xảo đã được hệ thống hóa thành học vấn. Con đường chủ yếu tiếp thu học

vấn, giáo dưỡng là việc dạy học trong hệ thống các trường học.

- Giáo dưỡng được hiểu như là sự giáo dục lại (các trường giáo dưỡng

dành cho trẻ em phạm pháp).

6. Dạy học

Quá trình tác động qua lại giữa giáo viên và học sinh được tổ chức đặc

biệt (căn cứ vào chương trình, kế hoạch, tuân theo quy trình, qui chế chặt

Page 29: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

chẽ) nhằm trang bị hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo qua đó hình thành thế

giới quan khoa học và những phẩm chất nhân cách cho học sinh.

Dạy về bản chất là quá trình tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh,

giúp cho học sinh biết cách tự học tốt.

Học là quá trình tiếp thu kinh nghiệm, phương pháp tự học để tiến hành

hoạt động nhận thức chiếm lĩnh hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nhằm biến

đổi và nâng cao giá trị bản thân, hình thành nhân cách.

Dạy và học là hai mặt của một quá trình luôn luôn tác động qua lại và

bổ sung cho nhau, trong đó, dạy phải đóng vai trò chủ đạo, còn học đóng vai

trò tích cực, chủ động, sáng tạo.

7. Tự học

Tự học là quá trình cá nhân chủ động tiến hành hoạt động nhận thức có

hệ thống để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại và biến

lĩnh vực đó thành sở hữu của riêng mình, cốt lõi của hoạt động học là tự học.

Việc tự học có thể diễn ra ở ba mức độ:

- Tự học độc lập: cá nhân tự học không có sự hướng dẫn trực tiếp của

giáo viên và sự quản lý trực tiếp của cơ sở giáo dục đào tạo. Chẳng hạn, tự

học qua sách, qua hoạt động thực tiễn.

- Tự học có hướng dẫn từ xa: cá nhân tự học thông qua sự hướng dẫn

của giáo viên trên các phương tiện truyền thông hoặc bằng tài liệu hướng dẫn

học tập.

- Tự học có hướng dẫn trực tiếp: cá nhân tự học ngay trong quá trình

học giáp mặt với giáo viên ở trên lớp.

Xây dựng ý nguyện tự học và trang bị kỹ năng tự học cho học sinh là

vấn đề thời sự hiện nay của công tác dạy học trước sự bùng nổ thông tin và

sự mở rộng xa lộ thông tin trên thế giới.

8. Giáo dục cộng đồng

Page 30: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Cộng đồng là một nhóm người với nhiều thành phần giới tính, lứa tuổi

cùng sống chung trên một địa bàn, cùng có chung một truyền thống văn hóa

và những nhu cầu nguyện vọng giống nhau.

Giáo dục cộng đồng là giáo dục trong cộng đồng và có sự tham gia của

cộng đồng trong giáo dục nhằm duy trì, củng cố và phát triển cộng đồng.

Giáo dục cộng đồng là một quá trình biến đổi các loại trường học thành

các trung tâm giáo dục và câu lạc bộ văn hóa cho mọi lứa tuổi.

* Đặc trưng của giáo dục cộng đồng:

+ Giáo dục được tổ chức và phát triển ổn định cùng với các quá trình

phát triển kinh tế xã hội nhằm mục tiêu duy trì, củng cố và phát triển cộng

đồng.

+ Được tổ chức một cách hệ thống mang tính phổ biến (toàn cầu)

nhưng cũng đậm nét bản sắc dân tộc, truyền thống, tinh hoa văn hóa của

từng dân tộc, từng cộng đồng.

+ Là một hệ thống mở tạo cơ hội cho mọi tầng lớp, mọi thành viên trong

cộng đồng ngày càng gắn bó với cộng đồng, xã hội. Nguyên tắc của trường

cộng đồng là giáo dục cho mọi lứa tuổi. Mục tiêu giáo dục dựa trên lợi ích và

nhu cầu của cộng đồng, nhà trường phục vụ cộng đồng và cộng đồng phục

vụ lại nhà trường.

+ Cách thức tổ chức hoạt động đa dạng phong phú, nội dung, phương

pháp giáo dục mềm dẻo, linh hoạt để phù hợp với nhiều loại đối tượng.

Phương pháp áp dụng trong nhà trường cộng đồng là phương pháp chủ điểm

theo những nội dung thiết thực gắn liền với thực tiễn và nhu cầu phát triển

của cộng đồng.

* Tác dụng của giáo dục cộng đồng:

- Giáo dục cộng đồng là một tư tưởng, một cách làm mới mẻ nhằm xây

dựng mối quan hệ bền vững, gắn bó giữa giáo dục với các quá trình xã hội,

với đời sống và lợi ích của cộng đồng.

Page 31: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

- Giáo dục cộng đồng là một cách thức tốt và có hiệu quả nhằm tạo

những điều kiện, cơ hội thực hiện sự công bằng xã hội, tạo lập nền tảng cho

sự phát triển và ổn định xã hội.

9. Công nghệ giáo dục

Công nghệ được hiểu là một quy trình chặt chẽ trong khoa học kỹ thuật,

trong quá trình sản xuất. Khi các thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ phát

triển người ta áp dụng vào quá trình dạy học để giảm bớt lao động nặng nhọc

và nâng cao hiệu quả dạy học như áp dụng điều khiển học để chương trình

hóa dạy học, tạo các thiết bị kỹ thuật hiện đại cho quá trình dạy học. Sau này

người ta nghiên cứu áp dụng tư tưởng công nghệ để xây dựng quy trình dạy

học với các công đoạn, thao tác, được thiết kế tương tự như quy trình kỹ

thuật và công nghệ.

Gần đây các nhà khoa học đã thống nhất: công nghệ giáo dục không

chỉ là việc sử dụng các phương tiện nghe nhìn (audi- visual media) vào mục

đích dạy học mà còn là trong các lĩnh vực như tin học, viễn thông, phương

pháp đánh giá, phân tích các hệ thống khoa học nói chung. Từ đó có thể hiểu

công nghệ giáo dục là cách thức tiếp cận hệ thống trong việc thiết kế toàn bộ

quá trình dạy học và lĩnh hội tri thức có tính đến cách sử dụng các phương

tiện kỹ thuật và nguồn nhân lực trong sự tương tác giữa chúng với nhau

nhằm tối ưu hóa quá trình dạy học và đào tạo.

Công nghệ giáo dục tạo nên những cải tiến rõ rệt trong giáo dục, gia

tăng sự gắn bó chặt chẽ trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch học tập,

thi cử và đánh giá. Như vậy công nghệ giáo dục tạo sự gắn bó chặt chẽ trong

từng thành phần của quá trình giáo dục hơn là giúp đạt tới hiệu quả cao. Tuy

nhiên con ngươi cần một sự đào tạo vững vàng về nhân văn, xã hội dựa trên

những khát vọng tự do của con người do đó không thể rút gọn quá trình giáo

dục thành một quy trình cứng nhắc. Do đó không nên quá đề cao hiệu quả

của công nghệ giáo dục. Thực tế cho thấy có thể thiết kế, tổ chức quá trình

giáo dục giống nhau nhưng việc dạy học, nhất là tự giáo dục rèn luyện nhân

cách rất đa dạng, độc đáo mà không có phương pháp, hình thức hay phương

Page 32: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

tiện giáo dục nào dù hiện đại có thể thay thế hoạt động sáng tạo của con

người (giáo viên và học sinh).

10. Giáo dục hướng nghiệp

Hướng nghiệp là hệ thống những tác động giúp cá nhân lựa chọn các

công việc hoặc nghề phù hợp với nguyện vọng và năng lực cá nhân nhằm

đáp ứng các nhu cầu về kinh tế và lao động của xã hội.

Ở nhà trường phổ thông, giáo dục hướng nghiệp được hiểu là một bộ

phận của quá trình giáo dục nói chung đòi hỏi nhà trường phải cung cấp cho

học sinh nắm được:

- Hệ thống các nghề nghiệp chủ yếu hiện có trong xã hội.

- Nội dung cơ bản và các yêu cầu đối người tham gia nghề nghiệp.

- Các thông tin cần thiết về sự phân bố, tuyển chọn, sử dụng nhân lực

ở các nghề nghiệp.

Ngoài ra còn phải hướng dẫn có tính chất tư vấn để học sinh đối chiếu

với năng lực, sở trường của bản thân để định hướng đúng và lựa chọn nghề

sau khi tốt nghiệp.

Giáo dục hướng nghiệp được thực hiện thông qua các hoạt động giáo

dục và dạy học, kể cả nội dung giáo dục lao động kỹ thuật trong nhà trường.

11. Kinh tế tri thức

Kinh tế tri thức là nền kinh tế mà trong đó việc vận dụng và quản lý tri

thức đóng vai trò chủ yếu trong việc tạo nên sự thịnh vượng. Tri thức được

xem là nền tảng của vốn, và sự phát triển kinh tế có được là do sự tích lũy tri

thức mà nên.

Như vậy kinh tế tri thức là nền kinh tế phát triển trên cơ sở lấy tri thức

làm nguồn tài nguyên chủ yếu. Khoa học- công nghệ trở thành lực lượng sản

xuất trực tiếp. Các ngành công nghiệp cao trở thành ngành sản xuất quan

trọng hàng đầu trong nền kinh tế xã hội. Nhân loại đã trải qua các nền kinh tế

như: nền kinh tế sức người (nông nghiệp), nền kinh tế tài nguyên (công

Page 33: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

nghiệp) và nền kinh tế tri thức. Ngày nay người ta phân biệt rõ ba phạm trù:

dữ liệu, thông tin và tri thức.

- Dữ liệu: những khối cơ bản trong kinh tế thông tin

- Thông tin: dữ liệu được xếp thành mẫu hình có ý nghĩa

- Tri thức: áp dụng và sử dụng một cách có ích các thông tin.

(Trích theo “Kinh tế tri thức”, Viện Quản lý kinh tế Trung ương, NXB

Thống kê Hà Nội, 2000, trang 35- 36)

V. HỆ THỐNG CÁC NGÀNH THUỘC KHOA HỌC GIÁO DỤC - MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁO DỤC HỌC VÀ CÁC KHOA HỌC KHÁC

1. Hệ thống các ngành thuộc khoa học giáo dục

Khoa học giáo dục là một hệ thống các bộ môn khoa học có đối tượng

nghiên cứu chung là quá trình giáo dục, có nhiệm vụ vạch ra bản chất và cấu

trúc của quá trình giáo dục, vạch ra các mối liên hệ và quan hệ có tính qui luật

chi phối sự vận động của quá trình giáo dục, từ đó xây dựng cơ sở khoa học

để tổ chức và điều khiển quá trình giáo dục một cách tối ưu.

Hệ thống các ngành thuộc khoa học giáo dục hình thành do tác động

của ba nhân tố khách quan sau:

- Những đòi hỏi mới của đời sống xã hội và thực tiễn giáo dục.

- Logic phát triển của khoa học giáo dục (sự phát hiện những khía cạnh

mới cần nghiên cứu).

- Tác động qua lại giữa khoa học giáo dục và các khoa học khác.

Khoa học giáo dục là một lĩnh vực lý luận tương đối độc lập đang trong

quá trình vừa tự phân hóa thành những bộ môn khoa học giáo dục riêng biệt,

vừa hội nhập với các bộ môn khoa học khác để tạo thành hệ thống phát triển

các bộ môn khoa học giáo dục. Các bộ môn khoa học giáo dục được chia

thành 6 nhóm theo các tiêu chuẩn phân loại khác nhau:

Page 34: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

- Nghiên cứu ở thể hoàn chỉnh về mặt cấu trúc, vận hành và phát triển

cũng như về không gian và thời gian, có nhóm các bộ môn khoa học giáo

dục:

+ Cơ sở lý luận và phương pháp luận của Giáo dục học

+ Lý luận giáo dục

+ Lý luận dạy học

+ Lý luận tổ chức và quản lý giáo dục và nhà trường

+ Giáo dục học so sánh

+ Lịch sử giáo dục.

- Nghiên cứu thông qua việc chiếm lĩnh các lĩnh vực văn hóa khác nhau

và việc tham gia các loại hình hoạt động khác nhau:

+ Giáo học pháp bộ môn (lý luận dạy học bộ môn): khoa học về các quy

luật giảng dạy và nghiên cứu từng môn học cụ thể

+ Phương pháp tổ chức và hướng dẫn các hoạt động (trò chơi, thể

thao, nghiên cứu khoa học, lao động kỹ thuật...)

- Nghiên cứu trong mối liên hệ và tác động qua lại giữa giáo dục với

các quá trình khác như quá trình phát triển tâm sinh lý con người, quá trình

phát triển kinh tế - xã hội:

+ Tâm lý học giáo dục

+ Kinh tế học giáo dục

+ Xã hội học giáo dục

+ Vệ sinh trường học

+ Lý luận về cơ sở vật chất - kỹ thuật trường học

- Nghiên cứu quá trình giáo dục ở những lứa tuổi khác nhau, các thiết

chế và bậc học khác nhau:

+ Giáo dục học mầm non

Page 35: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

+ Giáo dục học phổ thông

+ Giáo dục học chuyên nghiệp

+ Giáo dục học đại học

+ Giáo dục học người lớn

- Nghiên cứu trong các môi trường, phạm vi khác nhau:

+ Giáo dục học gia đình

+ Giáo dục học nhà trường

+ Giáo dục học chuyên ngành: Giáo dục học y học, Giáo dục học quân

sự, Giáo dục học thể dục - thể thao, Giáo dục học sản xuất, Giáo dục học cải

tạo....

- Nghiên cứu quá trình giáo dục đối với trẻ khuyết tật:

+ Giáo dục học chuyên biệt: chuyên nghiên cứu đặc điểm dạy học, giáo

dục và chuẩn bị lao động cho trẻ em khuyết tật. Hiện nay Giáo dục học

chuyên biệt đang nghiên cứu và tổ chức hoạt động giáo dục hòa nhập cho trẻ

khuyết tật.

2. Mối quan hệ giữa Giáo dục học và các khoa học khác

Giáo dục học nghiên cứu giáo dục như một hiện tượng xã hội nên nó

liên quan đến mọi khoa học về xã hội.

+ Triết học Mác Lênin: Khoa học về các quy luật phổ biến nhất của sự

phát triển tự nhiên, xã hội và tư duy con người, là nền tảng khoa học cung

cấp các quan điểm phương pháp luận cho việc xây dựng Giáo dục học.

+ Xã hội học: nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường xã hội tới con

người và tới quan hệ giữa mọi người, nghiên cứu các đặc điểm của sự phát

triển kinh tế, văn hóa và ảnh hưởng của chúng tới sự hình thành và phát triển

nhân cách con người; nó giúp Giáo dục học giải quyết nhiều nhiệm vụ xây

dựng nhà trường, cũng như tác động qua lại giữa nhà trường, gia đình và xã

hội trong việc giáo dục trẻ em.

Page 36: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

+ Kinh tế học:

Đối tượng dạy học và giáo dục là con người, bởi vậy giáo dục học liên

quan chặt chẽ đến những khoa học nghiên cứu con người như sinh lý học và

tâm lý học.

+ Sinh lý học: được coi là nền tảng khoa học tự nhiên của cả Tâm lý

học và Giáo dục học.

Giáo dục học dựa trên tài liệu của sinh lý học về sự phát triển của hoạt

động thần kinh cao cấp và các đặc điểm loại hình của hệ thần kinh, của hệ

thống tín hiệu thứ nhất và thứ hai, về sự phát triển và vận hành của các giác

quan, các cơ quan nội tạng.

Hiểu biết cơ sở sinh lý học của các hiện tượng tâm lý sẽ giúp các nhà

giáo hình dung rõ hơn một số cơ chế dạy học và giáo dục để nâng cao hiệu

quả tác động.

+ Tâm lý học: trang bị cho Giáo dục học tri thức về nhiều điều kiện và

cơ chế diễn biến của quá trình hình thành nhân cách con người. Chẳng hạn

Tâm lý học lứa tuổi và sư phạm có vai trò rất quan trọng đối với việc nghiên

cứu và ứng dụng Giáo dục học vì trang bị cơ sở để ứng dụng hợp lý các

phương pháp dạy học và giáo dục, còn Tâm lý học xã hội lại cần thiết cho

việc nghiên cứu các vấn đề giáo dục đạo đức, nhân cách...

Như vậy Giáo dục học tuy có đối tượng và lĩnh vực nghiên cứu riêng

nhưng vẫn liên quan chặt chẽ với nhiều khoa học khác cùng nghiên cứu về

con người. Sự liên quan thể hiện dưới nhiều hình thức đa dạng: cùng nghiên

cứu những vấn đề chung; Giáo dục học sử dụng những tài liệu, sự kiện của

các khoa học khác, sử dụng những thuật ngữ và luận điểm; vận dụng phương

pháp của các khoa học khác trong các công trình nghiên cứu giáo dục.

VI. ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC HỌC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1. Nghiên cứu hoàn thiện các vấn đề thuộc phạm trù phương pháp luận

khoa học giáo dục, đảm bảo tiếp cận với xu thế phát triển mới mẻ, đa dạng

Page 37: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

của giáo dục và Giáo dục học: kế thừa những tư tưởng giáo dục tiến bộ, hội

nhập với xu thế phát triển giáo dục của thế giới, mở rộng và nâng cao tầm

bao quát của tư tưởng giáo dục, mở rộng hệ thống khái niệm giáo dục (đề

cao tính nhân văn, tính quốc tế...)

2. Xác định đối tượng nghiên cứu của khoa học giáo dục nói chung và của Giáo dục học nói riêng.

Trước đây đối tượng nghiên cứu khoa học giáo dục là quá trình vận

động và phát triển giáo dục trong các nhà trường công lập. Ngày nay cần bổ

sung nghiên cứu quá trình giáo dục trong các loại hình nhà trường khác như

bán công, dân lập, nội trú, bán trú... và các loại hình giáo dục từ xa, giáo dục

thường xuyên, giáo dục tình thương...

3. Nghiên cứu hoàn thiện nội dung của Giáo dục học

- Nhiều phạm trù lý luận vốn có trở nên quá đơn giản không đáp ứng

với thực tiễn phức tạp hiện nay, không bao hàm đầy đủ các nội dung khoa

học mới, thành tựu lý luận mới của Giáo dục học như: mục đích giáo dục,

giáo dục gia đình, giáo dục trẻ chưa ngoan, công nghệ giáo dục, hệ thống

giáo dục quốc dân.

- Nhiều vấn đề lý luận trong Giáo dục học đại cương cũng như trọng

Giáo dục học chuyên ngành cần được nghiên cứu tiếp tục.

4. Nghiên cứu vận dụng các phương tiện kỹ thuật mới trong dạy học, bổ sung và hoàn thiện các phương pháp nghiên cứu Giáo dục học

Cần lưu ý áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật, sử dụng những

phương tiện kỹ thuật mới, phương pháp nghiên cứu mới để nâng cao chất

lượng các công trình khoa học đồng thời đào tạo các nhà khoa học trẻ tiếp

cận với các phương pháp nghiên cứu hiện đại trên thế giới.

5. Nghiên cứu một số vấn đề nổi bật về lý luận và thực tiễn nhằm hoàn thiện không ngừng hệ thống giáo dục quốc dân

Page 38: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

- Cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò, vị trí, tác dụng của giáo dục trong

giai đoạn mới. Xác định mối tương quan biện chứng giữa giáo dục với sự

phát triển kinh tế xã hội.

- Phương thức tổ chức giáo dục: từ nhà trường sang toàn xã hội, mối

liên quan giữa giáo dục phổ cập, trình độ dân trí và văn hóa...

- Vấn đề giáo dục nhân cách con người – mối liên quan giữa các chuẩn

mực, giá trị đang hình thành trong xã hội với những khuôn mẫu mà nhà

trường đang giáo dục học sinh.

- Việc kết hợp giữa giáo dục văn hóa với giáo dục hướng nghiệp, dạy

nghề.

Các định hướng ảnh hưởng lớn đến việc điều chỉnh, xây dựng lại cấu

trúc của hệ thống giáo dục quốc dân để bảo đảm hiệu quả giáo dục, làm cho

giáo dục thực sự gắn với quá trình kinh tế - xã hội năng động hiện nay.

CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP

1. Hiện tượng giáo dục xuất hiện từ khi nàơ? Vì sao nói giáo dục là

hiện tượng xã hội đặc biệt?

2. Giáo dục có những chức năng xã hội và tính chất gì?

3. Giáo dục học ra đời từ khi nào, được đánh dấu bằng sự kiện gì? Ai

là người có công tách Giáo dục học thành một khoa học độc lập?

4. Vì sao Giáo dục học được xem là một khoa học?

5. Đối tượng - nhiệm vụ nghiên cứu của Giáo dục học là gì?

6. Cấu trúc của quá trình giáo dục gồm có những hệ thống nào? (phân

tích từng hệ thống)

7. Giáo dục học có những khái niệm cơ bản nào? Mỗi khái niệm có

những cách hiểu khác nhau như thế nào?

CÂU HỎI THẢO LUẬN

Page 39: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

1. Cấu trúc hệ thống các thành tố cơ bản của quá trình giáo dục đòi hỏi

việc cải tiến hoạt động giáo dục phải được bắt đầu từ yếu tố nào? Vì sao?

2. Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục chỉ tập trung vào việc cải

tiến phương pháp giáo dục là đúng hay sai?

3. Phân tích mối liên hệ giữa các yếu tố: Giáo dục và Tự giáo dục; Dạy

học và Tự học dựa trên nội hàm của các khái niệm đó.

Chương 2. GIÁO DỤC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH

Sau bài học này, người học có khả năng:

1. Về kiến thức:

a. Mức độ Biết:

- Trình bày các khái niệm: Nhân cách, sự phát triển nhân cách theo

nghĩa GDH

- Nêu đầy đủ những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách.

b. Mức độ Hiểu:

- Phân tích vai trò của từng yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân

cách.

c. Mức độ Vận dụng:

- Nhận định về vai trò chủ đạo của giáo dục trong thực tiễn giáo dục

Việt Nam hiện nay.

2. Về kỹ năng

- Đánh giá mức độ sự phù hợp hay sai lầm trong các quan niệm dân

gian về giáo dục và trong thực tế.

3. Về thái độ

- Từ bỏ, phê phán và điều chỉnh những nhận thức không đúng đắn về

các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách

Page 40: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn,

Phần nhiều do giáo dục mà nên ”

(Hồ Chí Minh)

Nội dung bài học:

I. SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CON NGƯỜI

1. Khái niệm con người và bản chất con người

* Một số quan niệm về con người:

- Con người thần bí: Quan niệm này có tính chất duy tâm khi cho rằng

trong con người có hai phần cơ thể và linh hồn. Phần cơ thể to lớn được nhìn

thấy rõ, còn phần linh hồn nhỏ bé, bí ẩn không hiển hiện ra ngoài nhưng có

khả năng điều khiển cái cơ thể to lớn của con người.

- Con người bản năng, sinh vật: Từ lập luận cho rằng con người khi

mới sinh ra đã phải dựa vào bản năng để tồn tại và sau đó tiếp tục cuộc sống

với những đòi hỏi của nhu cầu cơ thể nên quan niệm này cho rằng con người

như một sinh vật, hoàn toàn bị chi phối và lệ thuộc vào bản năng. Nhận định

này đã hạ thấp giá trị con người nhằm biện minh cho những lối sống thấp

hèn, thiếu lành mạnh ở con người kém ý chí vượt lên trên những cám dỗ vật

chất tầm thường trong cuộc sống.

- Con người vô cảm: Sự phát triển xã hội đôi khi làm cho con người

phải chạy theo nhịp độ căng thẳng của cuộc sống làm khô cằn, chai sạn cảm

xúc của họ. Từ đó xuất hiện kiểu người như “cái máy biết suy nghĩ” với lối tư

duy cứng nhắc và thái độ lạnh lùng, không đồng cảm được với tâm trạng của

người khác. Con người họ có nhân cách phiến diện, nhận thức và hành động

kém hiệu quả do tính nông cạn và lệch lạc. Tuy nhiên kiểu người này không

phổ biến trong toàn xã hội.

- Quan điểm khoa học cho rằng con người vừa là một thực thể tự nhiên

(con) vừa là một thực thể xã hội (người) trong đó phần xã hội quan trọng hơn.

Nhấn mạnh tính xã hội trong con người không có nghĩa là phủ nhận phần thể

Page 41: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

xác hoặc những nhu cầu tự nhiên của con người nhưng cần lưu ý rằng, bản

năng tự nhiên của con người không hoàn toàn điều khiển được hành vi của

họ vì cái bản năng ấy đã được xã hội hóa và con người thường thỏa mãn nhu

cầu tự nhiên của mình một cách có ý thức.

* Quan niệm về bản chất con người:

- Từ xa xưa Mạnh Tử cho rằng “Nhân chi sơ tính bổn thiện”, từ đó giáo

dục phải bảo vệ, gìn giữ và phát triển cái thiện vốn có.

- Quan niệm tôn giáo: Bản chất con người vừa thiện vừa ác. Tôn giáo

giúp cho mỗi người vừa khắc phục, kềm chế cái ác vừa phát huy, thể hiện cái

thiện hoặc lấy cái thiện để lấn át cái ác trong con người mình. “Lấy hoa thơm

lấn dần cỏ dại”.

- Quan điểm tiền định: Bản chất con người là có sẵn và do trời định

“Cha mẹ sinh con trời sinh tính”, do đó bản chất của con người không thể

thay đổi được.

- Quan điểm định mệnh hoàn cảnh: Bản chất con người hoàn toàn do

hoàn cảnh sống tạo nên “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài“.

- Quan điểm giáo dục vạn năng: Bản chất con người hoàn toàn được

quyết định bởi sự giáo dục như sự khẳng định của Watson, nhà XHH Mỹ:

“Hãy giao cho tôi những đứa trẻ khỏe mạnh bình thường và cho phép tôi nuôi

nấng dạy dỗ chúng theo cách riêng của mình thì bạn muốn chúng trở thành kĩ

sư, bác sĩ, tổng thống hay là gì đi nữa, tôi cũng có thể làm cho chúng trở

thành như vậy được”.

Các quan điểm trên đây đều có tính phiến diện hoặc sai lầm khi cho

rằng bản chất con người là có sẵn, là sản phẩm thụ động của hoàn cảnh, của

giáo dục và không thay đổi được. Dân gian thường nói: “Dò sông dò biển dễ

dò, có ai lấy thước mà đo lòng người”, với ý cho rằng bản chất của con người

không thể nhận biết được. Nhưng kinh nghiệm khác của dân gian cũng cho

rằng “Cây kim trong bọc lâu ngày cũng lồi ra” hoặc “Giấy không bọc nổi lửa”, ý

nói rằng bản chất của con người không mãi mãi bị che dấu, mà bản chất thật

Page 42: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

của con người nhất định sẽ thể hiện ra (trong quá trình con người sống, hoạt

động và giao lưu trong các mối quan hệ xã hội). Vì vậy cần xác định đúng đắn

bản chất con người theo quan điểm của Marx: “…Bản chất con người không

phải là cái gì trừu tượng, vốn có và riêng lẻ của mỗi cá nhân riêng biệt. Trong

tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã

hội”. Con người thường tồn tại trong nhiều mối quan hệ xã hội. Bằng hoạt

động con người tham gia vào các mối quan hệ xã hội, chịu tác động của

chúng và tác động trở lại làm thay đổi, củng cố hay phát triển các mối quan hệ

xã hội đó. Bản chất con người luôn được bộc lộ trong chính cuộc sống và

hoạt động giao lưu đa dạng của cá nhân.

* Các tầng bậc phát triển của phạm trù người:

Con người khi đại diện loài thì đó là cá thể; khi là thành viên xã hội thì

đó là cá nhân; khi là chủ thể hoạt động thì đó là nhân cách.

2. Khái niệm “nhân cách”

Theo Tâm lý học: Nhân cách là tổ hợp các thái độ, thuộc tính riêng

trong quan hệ hành động của từng người với thế giới tự nhiên, thế giới đồ vật

do con người sáng tạo ra, với xã hội và với bản thân. (Phạm Minh Hạc - Một

số vấn đề giáo dục và khoa học giáo dục - 1986)

Nhân cách là bộ mặt tâm lý - đạo đức của mỗi người - đó là toàn bộ

những đặc điểm, phẩm chất tâm lý qui định giá trị xã hội và hành vi xã hội của

người đó.

Như vậy, nhân cách của con người được phân tích trên ba bình diện

khác nhau và được đánh giá ở ba mức độ khác nhau:

- Mức độ bên trong cá nhân: nhân cách con người được thể hiện ở

dạng cá tính, ở sự khác biệt của người này với những người khác. Ở bình

diện này, nhân cách bộc lộ trong tính không đồng nhất với mọi người, với cái

chung, giá trị của nhân cách là ở tính tính cực của nó trong việc khắc phục

những sự hạn chế của hoàn cảnh và sự hạn chế tự nhiên của mình.

Page 43: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

- Mức độ giữa các cá nhân: nhân cách được thể hiện trong mối quan

hệ và liên hệ mà nó tham gia trong quá trình hoạt động cộng đồng. Giá trị của

nhân cách được thể hiện trong các hành vi, cử chỉ xã hội của nó.

- Mức độ cao nhất, nhân cách dường như vượt ra ngoài khuôn khổ của

cá tính và ra ngoài khuôn khổ của những mối liên hệ và quan hệ thực sự với

các cá nhân khác, ở đây nhân cách được xem xét như là một chủ thể hoạt

động đang thực hiện một cách tích cực, có chủ định hay không chủ định,

những biến đổi trong những người khác (có liên quan, quen biết hoặc không

liên quan, không quen biết). Giá trị của nhân cách là ở những tác động mà

nhân cách này gây ra đối với những biến đổi của các nhân cách khác. Tất cả

những biến đổi cơ bản mà cá nhân tạo ra được ở những cá nhân khác, đặc

biệt là ở bản thân mình như là “một người khác”, đã tạo thành nét đặc trưng

đầy đủ và có giá trị nhất của cá nhân ấy như là một nhân cách.

- Như vậy nhân cách con người là mức độ phù hợp giữa thang giá trị

và thước đo giá trị của người ấy với thang giá trị và thước đo giá trị của xã

hội, độ phù hợp càng cao thì nhân cách càng lớn.

+ Theo Giáo dục học: Nhân cách bao gồm tất cả các nét, các mặt, các

phẩm chất có ý nghĩa xã hội trong một con người.

Nhân cách là toàn bộ các đặc điểm tâm sinh lý của cá nhân được xã

hội đánh giá tạo nên giá trị của cá nhân đó. Tùy theo trình độ phát triển của xã

hội mà các đặc điểm của cá nhân được nhìn nhận và đánh giá khác nhau.

Những đặc điểm của cá nhân cũng được đánh giá khác nhau tương ứng với

những vai trò khác nhau của họ.

Ví dụ: Đặc điểm ít nói của một người có khi được đánh giá là kín đáo

khi có thái độ trầm lặng ở chốn vui chơi đông người nhưng có thể bị phê bình

là ít cởi mở khi làm việc với đồng nghiệp.

+ Quan niệm truyền thống: Nhân cách là sự kết hợp thống nhất giữa

phẩm chất và năng lực của cá nhân bao gồm các phẩm chất chính trị, tư

tưởng, đạo đức, tác phong và các năng lực, sở trường, năng khiếu. Người có

Page 44: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

nhân cách phải là người thống nhất được hai mặt phẩm chất và năng lực, tức

là thống nhất giữa mặt đức và tài.

Cấu trúc nhân cách

Đức (phẩm chất) Tài (năng lực)

- Phẩm chất hướng về xã hội (đạo

đức - chính trị) thế giới quan, niềm tin,

lý tưởng, lập trường, thái độ chính trị,

thái độ lao động...

- Phẩm chất hướng về cá nhân (đạo

đức tư cách): cái nết, cái thói, cái thú

(ham muốn)

- Phẩm chất ý chí: tính kỷ luật, tính tự

chủ, tính mục đích, tính quả quyết,

tính phê phán,...

- Cung cách ứng xử: tác phong, lễ

tiết, tính khí...

- Năng xã hội hóa: khả năng thích

ứng, năng lực sáng tạo, cơ động,

mềm dẻo, linh hoạt trong toàn bộ

cuộc sống xã hội.

- Năng lực chủ thể hóa: khả năng

biểu hiện tính độc đáo, đặc sắc, biểu

hiện bản lĩnh của cá nhân.

- Năng lực hành động: khả năng hành

động có mục đích, có điều khiển, chủ

động, tích cực.

- Năng lực giao tiếp: khả năng thiết

lập, duy trì quan hệ với người khác.

+ Theo cách tiếp cận giá trị thì cốt lõi của nhân cách là hệ thống định

hướng giá trị mà mỗi cá nhân lựa chọn cho mình, bao gồm:

- Các giá trị tư tưởng: lý tưởng, niềm tin...

- Các giá trị đạo đức: lương tâm, trách nhiệm, lòng nhân ái, lòng trung

thực...

- Các giá trị nhân văn: học vấn, nghề nghiệp, tình yêu, thời trang, tài

năng...

Như chúng ta biết giá trị là tất cả những cái gì có ý nghĩa đối với xã hội,

tập thể và cá nhân, phản ánh những mối quan hệ chủ thể - khách thể, được

đánh giá xuất phát từ những điều kiện xã hội - lịch sử cụ thể và phụ thuộc vào

trình độ phát triển của nhân cách. Khi đã được nhận thức, đánh giá và chọn

lựa, giá trị trở thành một trong những năng lực thúc đẩy con người đi theo

Page 45: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

một xu hướng nhất định. Trong thực tế, định hướng giá trị phản ánh nhu cầu,

nguyện vọng của con người, phản ánh cái mà họ yêu thích và cho là quý giá.

Định hướng giá trị chỉ đạo hoạt động của con người, nó có ý nghĩa rất quan

trọng: biết được định hướng giá trị của con người thì biết được thái độ, hành

vi của họ. Nắm được định hướng giá trị, con người sẽ dễ dàng hơn trong việc

đối nhân xử thế và tổ chức, điều khiển hoạt động cộng đồng. Định hướng giá

trị được hình thành và củng cố bởi năng lực, nhận thức, kinh nghiệm sống

của từng cá nhân. Quá trình định hướng giá trị rất phức tạp, gắn liền với việc

giải quyết các mâu thuẫn như:

* Mâu thuẫn giữa các động cơ khác nhau:

VD: Phụ nữ thường bị giằng co giữa hai động cơ xây dựng gia đình

hạnh phúc và phấn đấu thành đạt trong sự nghiệp khi định hướng giá trị vào

các chuẩn mực về phẩm chất của người phụ nữ hiện nay: dịu dàng, đảm

đang, năng động, bản lĩnh...

* Mâu thuẫn giữa ý thức nghĩa vụ và lòng ham muốn:

VD: trong quá trình định hướng vào giá trị đạo đức như tinh thần trách

nhiệm, một sinh viên gia sư có thể bị mâu thuẫn giữa ý thức nghĩa vụ (phải đi

dạy kèm tối nay) với lòng ham muốn (nghỉ dạy để dự sinh nhật của người

yêu)

* Mâu thuẫn giữa kích thích thực dụng với hành vi đạo đức:

VD: khi giá trị đạo đức là lòng trung thực chưa được định hướng rõ

ràng thì lúc làm bài thi mà bị tắt ý một sinh viên có thể bị giằng co giữa kích

thích thực dụng (giám thị không chú ý nên có thể nhìn và chép bài làm của thí

sinh ngồi gần đó) với hành vi đạo đức (không nhìn và chép lén bài làm của

người khác).

3. Khái niệm “sự phát triển nhân cách”

Con người khi mới sinh ra chưa có nhân cách. Nhân cách chỉ hình

thành và phát triển trong quá trình con người sống, hoạt động và giao lưu

trong đời sống xã hội.

Page 46: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Sự phát triển nhân cách là quá trình tăng trưởng, tích lũy, hoàn thiện về

thể chất, tâm lý và xã hội của cá nhân.

- Thể chất: biểu hiện ở những biến đổi về chiều cao, trọng lượng, cơ

bắp, sự hoàn thiện các giác quan và sự phối hợp vận động cơ thể...

- Tâm lý: thể hiện ở những biến đổi của các quá trình nhận thức, tình

cảm, ý chí... và ở sự hình thành những thuộc tính tâm lý mới của cá nhân.

- Xã hội: thể hiện ở những biến đổi trong thái độ cư xử với người xung

quanh, ở sự tham gia tích cực vào các quan hệ và hoạt động của xã hội.

Lưu ý rằng nhân cách con người không phát triển đồng đều trên ba

phương diện mà có thể có sự phát triển vượt trội của một phương diện so với

các phương diện khác. Đặc biệt là sự phát triển nhân cách không chỉ biểu

hiện ở những biến đổi về số lượng các thuộc tính bẩm sinh di truyền sẵn có

mà điều quan trọng là sự biến đổi về chất lượng các đặc điểm cơ thể và tinh

thần của con người.

Quá trình hình thành và phát triển nhân cách chịu tác động của nhiều

yếu tố như: các đặc điểm sinh học di truyền của cơ thể, môi trường sống,

hoạt động giao lưu của cá nhân và sự giáo dục. Mỗi yếu tố có những vai trò

ảnh hưởng khác nhau nhưng đều rất quan trọng đối với sự phát triển nhân

cách.

Để có thể chủ động tạo nên những ảnh hưởng tích cực đến sự phát

triển nhân cách cá nhân, chúng ta cần xác định rõ vai trò ảnh hưởng của từng

yếu tố.

II. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH

I. Vai trò của di truyền đối với sự phát triển nhân cách

a. Khái niệm về di truyền:

Di truyền là sự tái tạo lại ở thế hệ sau những thuộc tính cơ thể như của

thế hệ trước nhằm bảo đảm cho cơ thể thích ứng với những biến đổi của môi

trường và giúp cho loài người tiếp tục tồn tại. Các thuộc tính cơ thể được di

Page 47: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

truyền bao gồm cấu tạo giải phẫu sinh lý và những đặc điểm cơ thể như màu

mắt, màu tóc, vóc dáng, thể tạng, các giác quan, tư chất của hệ thần kinh...

b. Vai trò của di truyền:

- Di truyền tạo tiền đề vật chất cho sự phát triển nhân cách. Một cơ thể

lành mạnh, các giác quan đầy đủ, hệ thần kinh ổn định sẽ tạo nhiều thuận lợi

cho sự phát triển nhân cách.

- Các đặc tính cơ thể ảnh hưởng chủ yếu đến tốc độ, mức độ và tính

chất của việc hình thành các kỹ năng, kỹ xảo, các phẩm chất, năng lực của cá

nhân chứ không quyết định sẵn cho sự phát triển nhân cách con người bởi vì:

những tư chất di truyền định hướng cho con người vào các lĩnh vực hoạt

động rộng rãi chứ không vào một lĩnh vực hoạt động cụ thể và cũng không qui

định trước năng lực cụ thể của cá nhân; những tư chất di truyền tạo khả năng

cho con người hoạt động có kết quả trong một số lĩnh vực nhất định, nhưng

để tư chất biến thành khả năng hiện thực còn tùy thuộc vào hoàn cảnh sống,

vào sự giáo dục và nhất là tùy thuộc vào ý chí rèn luyện của cá nhân.

Hoàn cảnh, giáo dục, hoạt động cá nhân...

Tư chất -> Năng lực

c. Kết luận:

Cần chú ý đúng mức vai trò của di truyền trong sự phát triển nhân cách

để tránh những thái độ sau đây: 

- Không quan tâm đến những đặc điểm tư chất của học sinh và đòi hỏi

mọi học sinh phải có khả năng hoàn thành những nhiệm vụ học tập như nhau

hoặc không chú ý phát huy những tư chất thuận lợi ở một số học sinh và

không tìm cách hỗ trợ cho những học sinh không có tư chất thuận lợi.

- Đề cao ảnh hưởng của yếu tố di truyền đến mức cho nhân cách là

bẩm sinh và phủ nhận khả năng biến đổi bản chất con người

- Hạ thấp vai trò của giáo dục qua việc tổ chức giáo dục theo mức độ

phát triển đã bị qui định bởi yếu tố di truyền.

Page 48: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

2. Vai trò của môi trường đối với sự phát triển nhân cách

a. Khái niệm “môi trường”

Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự

nhiên và xã hội tác động đến hoạt động sống và phát triển của cá nhân.

Môi trường gồm hai dạng: môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.

Trong môi trường xã hội gồm có: môi trường xã hội lớn và môi trường

xã hội nhỏ.

b. Vai trò của môi trường:

* Vai trò của môi trường tự nhiên:

Những đặc điểm về địa hình, thời tiết, khí hậu tạo điều kiện rèn luyện

hình thành những phẩm chất nhân cách của cá nhân. Thông thường tính

cách của con người liên quan đến đặc điểm địa lý của khu vực sinh sống. Tuy

nhiên môi trường không ảnh hưởng tuyệt đối hay có ý nghĩa quyết định đối

với sự phát triển nhân cách. Trên thực tế vẫn có sự khác biệt nhân cách giữa

những người cùng sống trong một điều kiện tự nhiên. Môi trường tự nhiên

ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách nhưng không mạnh mẽ và quan trọng

bằng sự ảnh hưởng của môi trường xã hội. Hơn nữa môi trường tự nhiên

thực ra cũng đã bị tác động bởi con người - yếu tố xã hội.

* Vai trò của môi trường xã hội:

Sư hình thành và phát triển nhân cách chỉ có thể thực hiện trong một

môi trường xã hội. Cá nhân không sống trong môi trường xã hội sẽ không

phát triển nhân cách. Điều đó được chứng minh qua những trường hợp có

em bị lưu lạc trong rừng tuy được thú vật nuôi dưỡng nhưng chỉ có thể sống

theo kiểu động vật chứ không thể phát triển nhân cách cho dù sau đó đã

được con người đưa về nuôi dạy trong môi trường xã hội.

Môi trường xã hội qui định nội dung và chiều hướng của sự phát triển

nhân cách. Nội dung nhân cách con người đô thị có những đặc điểm khác

biệt và thường là phức tạp hơn so với nhân cách con người thôn quê do cuộc

Page 49: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

sống đô thị phong phú và đa dạng hơn ở vùng thôn quê. Chiều hướng phát

triển nhân cách của người thành thị cũng rất khác với chiều hướng phát triển

nhân cách người thôn quê bởi những điều kiện phát triển khác nhau giữa hai

khu vực.

* Cơ chế tác động của môi trường xã hội đến cá nhân

+ Môi trường xã hội lớn: không tác động trực tiếp đến cá nhân mà tác

động gián tiếp thông qua môi trường xã hội nhỏ. Môi trường xã hội lớn

thường là khó thay đổi nhưng nếu nó thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi tính

chất và các mối quan hệ của môi trường xã hội nhỏ.

+ Môi trường xã hội nhỏ: ảnh hưởng trực tiếp và tác động thường

xuyên, mạnh mẽ đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Mỗi cá nhân

tham gia cùng lúc vào nhiều môi trường nhỏ. Tính chất của các môi trường

nhỏ này chi phối rõ rệt đến cá nhân. Tuy nhiên môi trường xã hội nhỏ có thể

bị biến đổi dễ dàng bởi sự thay đổi của môi trường xã hội lớn và bởi hoạt

động của các thành viên.

Lưu ý rằng tác động của môi trường cũng không hoàn toàn trực tiếp chi

phối đến cá nhân mà phải thông qua sự chọn lựa của bộ lọc cá nhân (những

kinh nghiệm, vốn sống và những định hướng giá trị đã hình thành trong mỗi

cá nhân). Điều này góp phần lý giải hiện tượng những người cùng sống trong

một khu vực, một cộng đồng xã hội nhưng có nhiều sự khác biệt về nhân

cách.

Ngoài ra cá nhân không chỉ là đối tượng nhận sự tác động của môi

trường mà còn là chủ thể tham gia biến cải môi trường như câu nói của Marx:

“Hoàn cảnh sáng tạo ra con người trong chừng mực con người sáng tạo ra

hoàn cảnh”

Kết luận

Môi trường không đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển nhân

cách. Mức độ ảnh hưởng của môi trường tùy thuộc vào lập trường, quan

điểm, thái độ, xu hướng, năng lực của cá nhân. Do đó trẻ em chịu ảnh hưởng

Page 50: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

rất lớn của môi trường do hệ thống định hướng giá trị chưa đầy đủ và ổn

định, hoặc với những cá nhân ít có khả năng tự giáo dục thì môi trường thậm

chí có vai trò quyết định. Trong công tác giáo dục điều quan trọng là giúp cá

nhân hình thành khả năng tự giáo dục theo hệ thống định hướng giá trị phù

hợp với các chuẩn mực xã hội để họ biết chọn lựa học hỏi những điều tích

cực lành mạnh và biết loại bỏ tránh xa những điều xấu xa tiêu cực trong môi

trường sống.

3. Vai trò của hoạt động giao lưu cá nhân đối với sự phát triển nhân cách

a. Hoạt động cá nhân:

Hoạt động là tổ hợp các quá trình con người tác động vào đối tượng

nhằm mục đích thỏa mãn một nhu cầu nhất định và chính kết quả của hoạt

động là kích thích tạo ra hoạt động và kết quả của hoạt động là sự cụ thể hóa

nhu cầu của chủ thể. Cuộc sống của con người là một chuỗi hoạt động. Con

người sống là còn hoạt động, hoạt động là phương thức tồn tại của con

người, là nhân tố quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách.

Các hoạt động của con người bao gồm các quá trình con người tác động vào

khách thể, sự vật, tri thức... và các quá trình tinh thần, trí tuệ....

Hoạt động giúp cá nhân trải nghiệm và thu thập vốn sống để trưởng

thành, phát triển. Hoạt động giúp con người thích nghi đươc với hoàn cảnh và

tự khẳng định nhân cách của mình. Thông qua hai quá trình chủ thể hóa và

khách thế hóa, nhân cách con người bộc lộ và hình thành. Thông qua hoạt

động con người dần dần hoàn chỉnh bản thân, hình thành những nét nhân

cách thích hợp với yêu cầu của hoạt động và của xã hội. Quá trình phát triển

nhân cách của trẻ em thường diễn ra trong các hoạt động cơ bản như sau:

hoạt động nhận thức, hoạt động giao tiếp, hoạt động vui chơi, hoạt động học

tập và hoạt động xã hội. Những hoạt động cơ bản này cũng là những dạng

hoạt động chủ đạo của từng thời kỳ lứa tuổi chi phối mạnh mẽ đến sự phát

triển nhân cách ở lứa tuổi đó.

b. Giao lưu:

Page 51: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Giao lưu là sự tác động qua lại giữa người với người trong xã hội nhằm

thỏa mãn nhu cầu về người khác. Giao lưu là nhu cầu không thể thiếu của sự

phát triển nhân cách. Quá trình giao lưu giúp cá nhân gia nhập vào các quan

hệ xậ hội, lĩnh hội nền văn hóa xã hội, chuẩn mực xã hội, từ đó tạo nên bản

chất con người, làm cho nhân cách phát triển. Trẻ em khi mới sinh ra đã có

nhu cầu giao lưu với người lớn, nhờ sự giao lưu này trẻ sơ sinh mới có thể

tồn tại và phát triển tâm lý ổn định. Nhu cầu giao lưu phát triển dần theo sự

lớn lên của con người và trở nên thôi thúc khi con người không có điều kiện

giao lưu thuận lợi (tuổi già, phụ nữ nằm cữ sau khi sinh, phạm nhân bị biệt

giam...). Những trẻ sơ sinh mồ côi được các tổ chức xã hội nuôi dưỡng

thường phát triển tâm lý chậm chap do mật độ giao lưu của trẻ với người lớn

ít hơn so với những trẻ em sơ sinh được nuôi dưỡng trong gia đình bình

thường. Đối với trẻ em các quan hệ giao lưu với bạn bè và người lớn gần gũi

có uy tín như cha mẹ, thầy cô ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển nhân cách.

c. Kết luận:

Hoạt động và giao lưu là yếu tố quyết định đối với sự hình thành và

phát triển nhân cách. Con người luôn sống trong một môi trường nhưng môi

trường không quyết định cho nhân cách của họ mà chính những hoạt động và

các mối quan hệ giao lưu của cá nhân trong môi trường đó mới chi phối đến

đời sống tâm lý và hình thành những tính cách của cá nhân. Như những câu

nói: “anh hãy cho tôi biết, bạn của anh là ai, thì tôi sẽ nói cho anh biết, anh là

người như thế nào” hoặc “đi một ngày đàng học một sàng khôn”... Sự phát

triển nhân cách của trẻ được thúc đẩy mạnh mẽ bởi tính chất và mật độ giao

lưu của trẻ với người lớn và bởi các hoạt động chủ đạo tương ứng với mỗi

giai đoạn lứa tuổi.

4. Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách

Nói đến giáo dục là nói đến những tác động tự giác, có mục đích, có tổ

chức, có kế hoạch của môi trường xã hội. Những tác động này được tiến

hành bởi các nhà giáo dục: giáo viên, cha mẹ, các cán bộ xã hội...

4.1. Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách

Page 52: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Xã hội ngày càng phát triển nên hoạt động giáo dục cũng có nhiều biến

đổi phong phú nhưng đặc tính của giáo dục vẫn không thay đổi, đó là tính có

mục đích, có tổ chức, có kế hoạch của hoạt động giáo dục và chủ thể giáo

dục là những nhà giáo dục được xã hội phân công chuyên trách (cha mẹ,

giáo viên, các cán bộ xã hội...)

+ Các quan điểm về vai trò của giáo dục:

- Theo thuyết sinh học hay thuyết tiền định: Giáo dục không có vai trò gì

trong sự phát triển nhân cách, sự phát triển nhân cách chủ yếu do ảnh hưởng

của di truyền.

- Theo thuyết nhi đồng học: Trẻ em như tờ giấy trắng, môi trường và

giáo dục tác động như thế nào thì trẻ sẽ phát triển như thế ấy.

- Theo quan điểm mác xít: giáo dục chỉ là một trong những nhân tố ảnh

hưởng đến sự phát triển nhân cách, giáo dục không có tính vạn năng, không

có tính quyết định mà chỉ đóng vai trò chủ đạo đối với sự phát triển nhân

cách. Vai trò chủ đạo của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách thể hiện

qua:

4.1.1. Sự định hướng và dẫn dắt quá trình phát triển nhân cách của cá

nhân

- Giáo dục chủ động đề ra mục đích, qui định phương hướng, nội dung

và mức độ phát triển nhân cách phù hợp với yêu cầu xã hội.

- Giáo dục tổ chức, dẫn dắt sự phát triển nhân cách theo mục đích đã

đề ra thông qua việc sử dụng những phương pháp, hình thức, biện pháp giáo

dục tối ưu nhằm tổ chức các hoạt động và giao lưu cho cá nhân.

Tâm lý con người là kinh nghiệm xã hội - lịch sử của loài người được

biến thành kinh nghiệm của cá nhân. Chức năng của giáo dục không phải chỉ

là xác nhận đánh giá mức độ phát triển tâm lý của trẻ đến đâu mà chủ yếu là

làm phát triển tâm lý của chúng theo yêu cầu của xã hội, là xây dựng con

người của xã hội mới, tạo ra năng lực cho mỗi người tự phát triển để sống và

làm việc trong xã hội. Những phẩm chất tâm lý cần thiết của con người được

Page 53: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

hình thành dưới ảnh hưởng của kinh nghiệm xã hội con người, dưới ảnh

hưởng của những điều kiện sống có tổ chức của xã hội, nhà trường và gia

đình.

4.1.2. Giáo dục can thiệp, điều chỉnh các yếu tố khác nhằm tạo sự

thuận lợi cho quá trình phát triển nhân cách

Mỗi yếu tố đã được xác định vai trò ảnh hưởng cần thiết và quan trọng

đối với sự phát triển nhân cách, tuy nhiên yếu tố giáo dục lại có thể tác động

đến các yếu tố khác để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển nhân

cách như:

- Đối với di truyền:

Giáo dục tạo điều kiện thuận lợi để những mầm mống của con người

có trong chương trình gène được phát triển. Trẻ được di truyền cấu tạo cột

sống, bàn tay và thanh quản... nhưng nếu không được giáo dục thì trẻ khó có

thể đi thẳng đứng bằng hai chân, biết sử dụng công cụ hay phát triển ngôn

ngữ...

Giáo dục rèn luyện thúc đẩy sự hoàn thiện của các giác quan và vận

động cơ thể.

Giáo dục phát hiện những tư chất của cá nhân và tạo điều kiện để phát

huy năng khiếu thành năng lực cụ thể.

Giáo dục tìm cách khắc phục những khiếm khuyết cơ thể để hạn chế

những khó khăn của người khuyết tật trong sự phát triển nhân cách (phục hồi

chức năng hoặc hướng dẫn sử dụng công cụ hỗ trợ). Ngoài ra giáo dục còn

truyền thông tăng cường nhận thức trong xã hội về trách nhiệm của cộng

đồng đối với người khuyết tật và tổ chức cho toàn xã hội chia sẻ, hỗ trợ người

khuyết tật vượt qua khó khăn và sự bất hạnh của mình.

- Đối với môi trường:

Page 54: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Giáo dục tác động đến môi trường tự nhiên qua việc trang bị kiến thức

và ý thức bảo vệ môi trường của con người, làm cho môi trường tự nhiên

khắc phục được sự mất cân bằng sinh thái để trở nên trong lành, đẹp đẽ hơn.

Giáo dục tác động đến môi trường xã hội lớn thông qua các chức năng

kinh tế - xã hội, chức năng chính trị-xã hội, chức năng tư tưởng - văn hóa của

giáo dục.

Giáo dục còn làm thay đổi tính chất của môi trường xã hội nhỏ như gia

đình, nhà trường và các nhóm bạn bè, khu phố..., để các môi trường nhỏ tạo

nên những tác động lành mạnh, tích cực đến sự phát triển nhân cách con

người. Hiện nay công tác giáo dục xã hội đang chú tâm xây dựng gia đình là

một mái ấm dân chủ, bình đẳng, ấm no, hạnh phúc; nhà trường là một môi

trường thân thiện đối với học sinh, cộng đồng dân cư là khu vực văn hóa của

một xã hội văn minh tiến bộ.

- Đối với hoạt động giao lưu cá nhân:

Giáo dục tổ chức nhiều loại hình hoạt động giao lưu bổ ích, lành mạnh

nhằm phát huy những phẩm chất và năng lực cá nhân (sân chơi ở các nhà

văn hóa cho mọi lứa tuổi, các câu lạc bộ xây dựng gia đình hạnh phúc tại địa

phương,...); xây dựng những động cơ đúng đắn của cá nhân khi tham gia

hoạt động, giao lưu đồng thời hướng dẫn cá nhân lựa chọn các hoạt động và

giao lưu phù hợp với khả năng của bản thân. Đặc biệt công tác giáo dục luôn

xây dựng các mối quan hệ giao lưu tích cực giữa thầy trò; giữa bạn bè với

nhau đồng thời tổ chức và định hướng cho trẻ tham gia vào các hoạt động

chủ đạo ở từng giai đoạn lứa tuổi để thúc đẩy sự phát triển nhân cách.

4.1.3. Giáo dục tạo tiền đề cho tự giáo dục

Tự giáo dục thể hiện tính chủ thể của cá nhân khi con người đáp ứng

hoặc tự vận động nhằm chuyển hóa các yêu cầu của giáo dục thành phẩm

chất và năng lực của bản thân. Nếu cá nhân thiếu khả năng tự giáo dục thì

các phẩm chất và năng lực của họ sẽ hình thành ở mức độ thấp hoặc thậm

chí không thể hình thành. Trình độ, khả năng tự giáo dục của cá nhân phần

Page 55: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

lớn bắt nguồn từ sự định hướng của giáo dục. Giáo dục đúng đắn và đầy đủ

sẽ giúp con người hình thành khả năng tự giáo dục, đề kháng trước những

tác động tiêu cực của xã hội để phát triển nhân cách mạnh mẽ.

“Chỉ có những người biết tự giáo dục mới là những người thực sự có

giáo dục. ”

(Bennet - Anh)

4.1.4. Giáo dục đi trước đón đầu sự phát triển

Sự định hướng của giáo dục không chỉ thích ứng với những yêu cầu

của xã hội hiện tại mà còn phải thích hợp với yêu cầu phát triển của tương lai

để thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Căn cứ trên những dự báo về gia tốc phát

triển của xã hội, giáo dục thiết kế nên mô hình nhân cách của con người thời

đại với hệ thống định hướng giá trị tương ứng.

Có những quan điểm dạy học khác nhau như:

- Dạy học theo đuôi sự phát triển

- Dạy học song hành với sự phát triển

- Dạy học đi trước sự phát triển

Từ cuối thế kỷ 20, hoạt động giáo dục được xây dựng theo quan điểm

của nhà tâm lý học Nga Vưgốtxki: “dạy học hướng vào vùng phát triển gần

nhất” nhằm đón đầu sự phát triển của cá nhân. Theo Ông “dạy học tạo nên

hiệu quả to lớn nếu nó được xây dựng trên nguyên tắc phát triển”

Như vậy thông qua các tác động đón đầu sự phát triển, giáo dục không

chỉ thúc đẩy sự phát triển nhân cách cá nhân mà còn thúc đẩy sự phát triển

của xã hội.

Tuy nhiên giáo dục không phải là vạn năng, không thể một mình quyết

định toàn bộ tiến trình phát triển nhân cách. Giáo dục chỉ là một trong những

yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển nhân cách thông qua những

tác động có tính chủ đạo. Hơn nữa, vai trò chủ đạo của giáo dục chỉ thể hiện

đầy đủ khi có những điều kiện hỗ trợ như sau:

Page 56: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

- Công tác dự báo về xu hướng phát triển của xã hội phải đưa ra những

định hướng đúng đắn để giáo dục thực hiện tốt chức năng đón đầu sự phát

triển.

- Đội ngũ giáo viên của hệ thống giáo dục phải có khả năng tác nghiệp

vững vàng để tổ chức những tác động phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của

học sinh. Bởi vì “Không có một hệ thống giáo dục nào vươn cao quá tầm của

những giáo viên làm việc cho hệ thống đó” (Roya Roy Sings)

- Phải có sự kết hợp chặt chẽ ba lực lượng giáo dục gia đình, nhà

trường và xã hội theo phương hướng xã hội hóa giáo dục. Những yếu kém

của giáo dục thường có nguyên nhân từ sự thiếu phối hợp đồng bộ giữa ba

lực lượng giáo dục này. Cần lưu ý rằng nhà trường phải chủ động tạo sự liên

kết giữa ba lực lượng trong công tác giáo dục học sinh bởi vì nhà trường tập

trung đội ngũ giáo viên là những nhà giáo dục được đào tạo, trang bị nghiệp

vụ sư phạm cho công tác giáo dục con người.

III. GIÁO DỤC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH THEO LỨA TUỔI

Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự hình thành và phát triển nhân

cách của con người diễn ra có tính quy luật theo từng lứa tuổi. Mỗi giai đoạn

phát triển đều có những đặc điểm riêng, đặc biệt là đều có những bước nhảy

vọt về chất và tạo tiền đề cho sự phát triển ở các giai đoạn tiếp theo. Giáo dục

bao giờ cũng hướng vào con người cụ thể với những đặc điểm tâm lý riêng

về lứa tuổi, giới tính... và những đặc trưng độc đáo trong nhân cách. Do đó

giáo dục phải xuất phát từ những đặc điểm tâm sinh lý của đối tượng để đề ra

các nội dung, cách thức tác động tương ứng và phù hợp.

1. Giáo dục và sự phát triển nhân cách trẻ sơ sinh (0-1 tuổi)

a. Sự phát triển nhân cách:

Đứa trẻ khi mới sinh ra chỉ là một sinh vật mang mầm mống người,

nhân cách chưa hình thành. Thông qua sự giao lưu với những người lớn trực

tiếp chăm sóc (cha mẹ, ông bà, mẹ nuôi...) trẻ sơ sinh mới học được cách

hòa nhập với cuộc sống xã hội ở ngoài bụng mẹ. Sự phát triển của trẻ sơ sinh

Page 57: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

chủ yếu là về mặt cơ thể được thể hiện ở những tiến bộ trong các hoạt động

của các giác quan và của vận động (nhìn, nghe, ngửi, nếm, lật, ngồi, bò,

đứng, đi, cầm nắm...) Chiều hướng phát triển của các giác quan và vận động

cơ thể trong giai đoạn này cũng nói lên tính chất và mức độ phát triển về trí

tuệ và tinh thần của đứa trẻ.

b. Nội dung giáo dục:

- Thúc đẩy nhanh sự hoàn thiện của các giác quan và vận động cơ thể.

- Cho trẻ tiếp xúc, làm quen dần với thế giới đồ vật để dần dần hình

thành thái độ và phương thức tác động vào đồ vật sau này.

c. Cách thức giáo dục:

- Người lớn trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục trẻ thông qua sự

giao lưu tiếp xúc và đáp ứng các nhu cầu của trẻ. Tuỳ theo cách thức chăm

sóc, nuôi dưỡng, tùy theo thái độ cư xử của người lớn đối với trẻ mà đứa trẻ

nhận được các loại ấn tượng, hình thành các thói quen hành vi trong nếp

sống và sinh hoạt sau này (ăn, ngủ, vệ sinh cá nhân...) Ngoài ra cách tiếp xúc

với trẻ em và tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với thế giới cũng giúp đứa trẻ cảm

nhận, hình thành được các loại cảm xúc, các thái độ đối với đồ vật, con

người... làm nền tảng để sau này trẻ có kinh nghiệm cư xử với thế giới xung

quanh.

2. Giáo dục và sự phát triển nhân cách trẻ nhà trẻ: (1-3 tuổi)

a. Sự phát triển nhân cách:

Đây là giai đoạn trẻ nhận được các tác động xã hội hóa một cách

phong phú và mạnh mẽ. Nhờ các tiến bộ về cơ thể và tâm lý, đặc biệt là với

ba thành tựu lớn: luyện tập dáng đi thẳng, hoạt động với đồ vật - công cụ, sự

phát triển ngôn ngữ đã góp phần thúc đẩy sự phát triển khả năng tự ý thức

của trẻ, một yếu tố thể hiện nhân cách con người.

b. Nội dung giáo dục:

Page 58: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

- Giúp trẻ đạt được ba thành tựu của sự phát triển: luyện tập dáng đi

thẳng đứng; hướng dẫn, tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc, sử dụng các loại đồ

vật theo đúng chức năng và có tính sáng tạo; giúp trẻ phát triển ngôn ngữ (tập

cho trẻ nói, diễn đạt suy nghĩ và hiểu điều người khác nói)

- Bước đầu cho trẻ học tập cách thức cư xử theo những qui tắc hành vi

trong xã hội đối với người khác (người trong gia đình, cô giáo, bạn bè...)

- Kích thích trẻ phát triển khả năng tư duy ở mức độ trực quan hành

hành động.

c. Cách thức giáo dục:

- Thông qua việc tiếp xúc với những người thân trong gia đình trẻ học

được các qui tắc hành vi đối với thế giới xung quanh. Người lớn cần chú ý

đến các biểu hiện của mình về lời nói, hành vi, cử chỉ, thái độ đối với trẻ để

giúp trẻ có một khuôn mẫu tốt đẹp để noi theo.

- Tạo điều kiện cho trẻ được tiếp xúc với nhiều loại đồ vật khác nhau,

hướng dẫn trẻ cách thức sử dụng, kích thích trẻ suy nghĩ, sáng tạo ra trò chơi

với các đồ vật ấy.

- Xây dựng những cách thức ứng xử thích hợp với các biến chuyển tâm

lý của trẻ (sự tự ý thức, thái độ bướng bĩnh...) để sự phát triển nhân cách của

trẻ được thuận lợi.

3. Giáo dục và sự phát triển nhân cách học sinh mẫu giáo: (3 - 6 tuổi)

a. Sự phát triển nhân cách:

Đây là giai đoạn hình thành nhân cách của trẻ thể hiện ở khả năng

hành động theo động cơ gián tiếp. Sự hình thành nhân cách lệ thuộc nhiều

vào khuôn mẫu hành vi của người lớn mà trẻ em tiếp xúc (cha mẹ, cô giáo,

bạn bè, người xung quanh...). Những dấu ấn ban đầu trên nhân cách của trẻ

thường được lưu giữ lại. Sự phát triển nhân cách của trẻ trong giai đoạn này

chỉ đạt mức độ thấp nhưng diễn ra với tốc độ cao. Đặc điểm nhân cách trẻ

Page 59: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

mẫu giáo nổi bật ở khuynh hướng muốn được độc lập hoạt động không có sự

kềm kẹp của người lớn, đặc biệt là sự cuốn hút trẻ vào trong các loại trò chơi.

Thông qua đó trẻ nắm được các phương thức hành động, định hướng và ý

thức được các chuẩn mực trong các mối quan hệ giữa người với người và

với thế giới xung quanh

b. Nội dung giáo dục:

- Hình thành những nét nhân cách tốt đẹp làm cơ sở cho một nhân

cách hoàn thiện sau này thông qua sự gương mẫu trong nhân cách của nhà

giáo dục.

- Phát triển các khả năng tâm lý của trẻ như: trí tưởng tượng, khả năng

tư duy, trí nhớ, các loại tình cảm cấp cao... như những phương tiện giúp trẻ

thu nhận các tác động giáo dục.

- Tiếp tục trang bị cho trẻ những qui tắc ứng xử trong cuộc sống xã hội.

- Giúp trẻ hình thành tâm thế đi học trường phổ thông vào cuối tuổi.

c. Cách thức giáo dục:

- Thông qua sự gương mẫu của các nhà giáo dục như: cha mẹ, cô

giáo...

- Tổ chức cho trẻ tham gia các loại trò chơi bổ ích, thích hợp với lứa

tuổi: sắm vai, học tập, vận động...

- Đưa trẻ vào các loại quan hệ để rèn luyện cách thức cư xử phù hợp

với các chuẩn mực xã hội.

4. Giáo dục và sự phát triển nhân cách trẻ học sinh tiểu học (6 - 11 tuổi)

a. Sự phát triển nhân cách:

Đây là giai đoạn trẻ bắt đầu tham gia vào hoạt động học tập mang tính

xã hội hóa mạnh mẽ để tiếp nhận hệ thống tri thức khoa học của loài người.

Dưới ảnh hưởng của hoạt động học tập, nhân cách của trẻ có nhiều biến đổi

Page 60: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

phong phú và sâu sắc. Đặc điểm nhân cách của học sinh tiểu học nổi bật ở

những nét sau:

- Khả năng nhận thức phát triển nhanh chóng nhờ hoạt động học tập.

- Đời sống xúc cảm, tình cảm chiếm ưu thế hơn và chi phối mạnh mẽ

đến các hoạt động, nhận thức của trẻ.

- Tính hồn nhiên, vui tươi hướng về những cảm xúc tích cực.

- Hay bắt chước những người gần gũi, có uy tín với trẻ (cha mẹ, thầy

cô, bạn bè...)

- Hành vi ý chí chưa cao, bản tính hiếu động, khó kềm chế, kém tự chủ

nên dễ phạm lỗi, nhất là đối với các yêu cầu có tính nghiêm ngặt, đòi hỏi sự

tập trung cao độ, gây căng thẳng.

Nhân cách của học sinh tiểu học chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố: gia

đình, nhà trường, xã hội. Trong đó những ảnh hưởng từ cha mẹ, thầy cô là

rất quan trọng vào đầu tuổi và sau đó là các ảnh hưởng từ bạn bè và phương

tiện thông tin đại chúng sách báo, phim ảnh...)

b. Nội dung giáo dục:

- Phát triển khả năng nhận thức và phẩm chất trí tuệ thông qua hoạt

động học tập.

- Rèn luyện tác phong và các thói quen hành vi đạo đức cơ bản của

con người theo chuẩn mực xã hội.

- Khắc phục dần các nhược điểm trong đời sống tình cảm (tính hay thay

đổi, cách biểu lộ tình cảm không phù hợp...), giúp trẻ biết cảm nhận và biểu lộ

tình cảm của mình.

- Rèn luyện các phẩm chất của hành vi ý chí (tính tự chủ, độc lập, khả

năng tự kềm chế...)

- Giúp trẻ biết chọn lựa thu nhận những tác động lành mạnh từ những

phương tiện thông tin.

Page 61: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

c. Cách thức giáo dục:

- Lấy sự gương mẫu của các nhà giáo dục làm phương tiện giáo dục.

- Xây dựng, hướng dẫn các nhóm bạn bè của trẻ để tạo nên những ảnh

hưởng tích cực trên nhân cách.

- Tổ chức, quản lý chặt chẽ các phương tiện thông tin đại chúng.

- Căn cứ trên những nhu cầu của lứa tuổi để tổ chức, hướng dẫn trẻ

tham gia các hoạt động cần thiết cho sự phát triển như: học tập, vui chơi, lao

động, hoạt động xã hội...

5. Giáo dục và sự phát triển nhân cách học sinh trung học cơ sở (11 - 15 tuổi)

a. Sự phát triển nhân cách:

Sự phát triển tâm lý, nhân cách của thiếu niên có nhiều biến động và rất

phức tạp, gây ra những khó khăn trong nội tâm thiếu niên cũng như trong mối

quan hệ giữa người lớn với các em. Cùng với những biến đổi quan trọng

trong cơ thể liên quan đến sự phát triển giới tính, đời sống tâm lý của các em

xuất hiện những nhu cầu tâm lý mới như: khuynh hướng muốn làm người lớn

(muốn sống tự lập, muốn làm những việc có ý nghĩa), nhu cầu tự khẳng định

mình (khẳng định giá trị và phẩm chất, năng lực của bản thân)... Những thúc

đẩy tâm lý này thường được thỏa mãn trong quan hệ bạn bè của thiếu niên

nên những tác động từ cha mẹ, giáo viên có khi bị giảm nhẹ trước các chi

phối của những bạn bè cùng lứa. Tuổi thiếu niên hay có những suy nghĩ

mạnh dạn nhưng có tính tuyệt đối. Các em đòi hỏi và mong muốn được đáp

ứng mà ít chịu suy xét điều kiện thỏa mãn. Tình cảm rất phức tạp, mạnh mẽ

dễ đưa đến kiểu hành động quá khích, gây hấn.

b. Nội dung giáo dục:

- Tiếp tục phát triển các khả năng trí tuệ và rèn luyện tác phong đạo

đức cho thiếu niên.

Page 62: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

- Giúp thiếu niên có những hiểu biết cần thiết về giới tính, về các chuẩn

mực trong quan hệ cư xử với người khác giới.

- Tạo điều kiện cho thiếu niên thỏa mãn các nhu cầu tâm lý một cách

hợp lý và lành mạnh,

c. Cách thức giáo dục:

- Nhà giáo cần đóng vai trò là người bạn lớn tuổi, gần gũi, đáng tin cậy

của thiếu niên để có thể kịp thời giúp các em vượt qua những khó khăn trong

sự phát triển của bản thân.

- Xây dựng, hướng dẫn các nhóm bạn của thiếu niên đi vào các hoạt

động cần thiết cho sự phát triển lứa tuổi.

- Tổ chức các loại hình hoạt động đáp ứng những nhu cầu nhận thức

và vui chơi của thiếu niên.

6. Giáo dục và sự phát triển nhân cách học sinh trung học phổ thông (15 - 18)

a. Sự phát triển nhân cách:

Nhân cách đang trong giai đoạn định hình với nội dung phong phú và

có chiều sâu. So với học sinh THCS, học sinh trung học phổ thông có khả

năng nhận thức hoàn thiện hơn, các em có thể tìm hiểu sâu và nắm được bản

chất của vấn đề chứ không nhìn nhận sự việc cách nông nổi và phiến diện.

Nếu được khuyến khích sẽ có những suy nghĩ, mạnh dạn độc đáo. Xem xét

các hoạt động và sản phẩm trí tuệ của các em thể hiện trong hoạt động học

tập hoặc sinh hoạt ngoại khóa, chúng ta dễ nhận ra sự tiến bộ nhanh chóng

về mặt nhận thức của các em. Trên một bài báo tường, một học sinh lớp 11

đã viết: “Vậy đó, trong vòng tay của cha mẹ, thầy cô, bạn bè, em đã lớn, mười

sáu, mười bảy tuổi. Mười sáu hay mười bảy, cái tuổi của một thời mộng mơ

dạt dào chắp cánh cho bao kỳ vọng vươn lên. Giờ đây em đã thôi làm thơ ca

ngợi đóa hồng trước ngõ mà biết rằng con người phải đổ bao nhiêu máu

xương cho đất nở được hoa hồng; em thôi mơ làm công chúa hay hoàng tử

Page 63: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

trên tiên giới, mà muốn rằng hôm nay, mình phải sống xứng đáng, biết cho đi

và quên mình trong hạnh phúc chung.

Đời sống nội tâm phát triển, các em ý thức rõ rệt hơn về cái tôi và thích

hình dung về hình ảnh bản thân. Nhu cầu bộc lộ bản thân để tự khẳng định

trở nên mạnh mẽ hơn, các em thích chia sẻ với bạn bè hoặc đối diện với

chính mình trên những trang nhật ký. Học sinh trung học cũng mang nhiều

suy nghĩ về kế hoạch cuộc đời và định hướng nghề nghiệp trong tương lai,

điều này bị chi phối bởi thần tượng của các em. Việc lựa chọn thần tượng lại

phụ thuộc vào khả năng xác định hình ảnh bản thân của các em. Những học

sinh không nhận thức rõ về bản thân thường định huớng vào những thần

tượng xa vời với khả năng phân đấu, do đó thường nhanh chóng thay đổi

thần tượng và càng hoang mang về bản thân. Lứa tuổi này cũng đã quan tâm

đến tình cảm giữa nam và nữ nhưng chưa đủ điều kiện để xây dựng tình yêu

đôi lứa bền vững. Hoạt động học tập vẫn là hoạt động quan trọng cho sự phát

triển nhân cách và cuộc sống tương lai của các em.

b. Nội dung giáo dục:

- Trang bị cho thanh niên những hiểu biết về tính chất và cách thức cư

xử trong tình bạn, tình yêu.

- Hướng dẫn thanh niên xây dựng kế hoạch cuộc đời phù hợp với sự

phát triển cá nhân trong xã hội.

- Giúp thanh niên xây dựng lý tưởng sống cao đẹp và biết định hướng

vào hệ thống giá trị lành mạnh, tích cực theo chuẩn mực xã hội.

- Tạo điều kiện cho thanh niên lựa chọn đúng loại nghề nghiệp của bản

thân bằng cách cung cấp thông tin về các loại nghề nghiệp trong xã hội (đặc

điểm, nhu cầu của nghề đối với người lao động). Xác định cho các em biết

những nghề nghiệp mà địa phương đang có nhu cầu phát triển. Giúp học sinh

THPT nhận ra hứng thú nghề nghiệp và khả năng tương ứng của bản thân.

c. Cách thức giáo dục:

Page 64: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

- Xây dựng một cách đa dạng, phong phú các loại hình hoạt động sôi

nổi, hấp dẫn lôi cuốn thanh niên tham gia để phát triển nhân cách lành mạnh.

- Tăng cường các ảnh hưởng tích cực qua phương tiện thông tin đại

chúng đến lứa tuổi thanh niên (tạo nhiều phim ảnh, xuất bản những đầu sách,

phát hành các loại báo chí thích hợp)

- Xây dựng hệ thống giá trị đáp ứng yêu cầu của thời đại và tuyên

truyền, thuyết phục thanh niên có niềm tin lựa chọn các giá trị được xã hội

đánh giá cao.

- Nhà giáo dục thật sự là người bạn đáng tin cậy đối với họ, có thái độ

tôn trọng, khuyến khích các khả năng sáng tạo, độc đáo của thanh niên.

CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP

1. Bạn hiểu như thế nào về nhân cách và sự phát triển nhân cách?

Hướng dẫn:

- Khái niệm nhân cách, xác định thành phần cốt lõi của nhân cách.

- Sự phát triển nhân cách: biểu hiện và đặc tính của sự phát triển.

2. Có những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách? Mỗi

yếu tố có vai trò như thế nào đến sự phát triển nhân cách?

Hướng dẫn:

a. Phân tích vai trò của yếu tố di truyền đối với sự phát triển nhân cách

b. Phân tích vai trò của yếu tố môi trường đối với sự phát triển nhân

cách

- Các loại môi trường có ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách

- Cơ chế tác động của mỗi loại môi trường đến sự phát triển nhân cách

c. Phân tích vai trò của yếu tố hoạt động giao lưu đối với sự phát triển

nhân cách

d. Phân tích vai trò của yếu tố giáo dục đối với sự phát triển nhân cách

Page 65: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

- Thể hiện của tính chủ đạo của yếu tố giáo dục

- Điều kiện để giáo dục giữ vai trò chủ đạo.

- Vai trò của yếu tố tự giáo dục

Xác định vai trò của mỗi yếu tố để đi đến kết luận đúng đắn về tầm

quan trọng của chúng đối với sự phát triển nhân cách.

3. Lứa tuổi học sinh THPTcó những đặc điểm nhân cách như thế nào?

Những nội dung và cách thức giáo dục đối với lứa tuổi này là gì?

CÂU HỎI THẢO LUẬN

1. Những câu tục ngữ, ca dao, danh ngôn...nào nói về sự ảnh hưởng

của các yếu tố di truvền, môi trường, giáo dục hoặc tự giáo dục đến sự phát

triển nhân cách?

2. Một số bậc cha mẹ quan niệm rằng: “Gần mực thì đen - gần đèn thì

sáng” cho nên hiện nay cần hạn chế sự giao lưu của con cái với môi trường

bên ngoài gia đình và nhà trường để tránh những ảnh hưởng xấu đến nhân

cách của trẻ.

Bạn có ý kiến như thế nào đối với quan niệm trên?

3. Trong tập thơ “Nhật ký trong tù”, Chủ tịch Hồ Chí Minh có viết câu

thơ sau:

Hiền dữ phải đâu là tính sẵn,

Phần nhiều do giáo dục mà nên.

Bạn giải thích như thế nào về câu thơ dựa trên sự hiểu biết về vai trò

của các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách?

Chương 3. MỤC ĐÍCH GIÁO DỤC

Sau bài học này người học có khả năng:

1. Về kiến thức

Page 66: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

a. Mức độ Biết

i. Định nghĩa khái niệm “Mục đích giáo dục”

ii. Nêu được những cơ sở để xác định mục đích giáo dục tổng quát.

b. Mức độ Hiểu

i. Phân biệt mục đích giáo dục với mục tiêu giáo dục.

ii. Phân biệt các cấp độ của mục đích giáo dục.

iii. Phân tích nội dung mục đích giáo dục tổng quát và mục tiêu phát

triển nhân cách

iv. Phân tích nội dung mục tiêu giáo dục bậc trung học phổ thông

c. Mức độ Vận dụng

i. Đối chiếu với kết quả giáo dục thực tiễn ở địa phương

2. Về kỹ năng

i. Xác định mục tiêu chuyên biệt của một quá trình giáo dục cụ thể

3. Về thái độ

i. Khẳng định sự cần thiết của việc xác định mục tiêu trước khi tiến

hành một quá trình giáo dục cụ thể.

“Liệu anh sẽ nói gì với người kiến trúc sư, khi thiết kế tòa nhà mới lại

không biết trả lời cho các anh câu hỏi về việc anh ta muốn xây dựng cái gì?

ngôi đền thờ hay đơn giản chỉ là một ngôi nhà...? Anh cũng phải nói những

điều như thế về nhà giáo dục nào mà không biết xác định một cách rõ ràng và

chính xác về mục đích hoạt động giáo dục của mình. ”

(K.D. Usinski)

Nội dung bài học:

I. KHÁI NIỆM VỀ MỤC ĐÍCH GIÁO DỤC

1. Định nghĩa và tính chất

Page 67: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Mục đích giáo dục là kết quả của toàn bộ hoạt động giáo dục được hình

dung trước dưới dạng mô hình con người thời đại ở một giai đoạn lịch sử của

xã hội.

Mục đích giáo dục có tính khách quan: phản ánh các yếu tố xã hội về

nội dung giáo dục mà hệ thống giáo dục và hoạt động giáo dục thực tiễn phải

đạt được. Mục đích giáo dục trước hết phản ánh khách quan các yêu cầu của

xã hội hiện tại, đồng thời dự kiến xu hướng phát triển xã hội trong tương lai

và phù hợp với xu thế chung của thế giới.

Mục đích giáo dục có tính xã hội - lịch sử: Mục đích giáo dục luôn thay

đổi cho phù hợp với những chuyển biến mới trong xã hội tạo ra yêu cầu đổi

mới giáo dục.

2. Ý nghĩa và tầm quan trọng của việc xác định mục đích giáo dục

- Mục đích giáo dục là một phạm trù cơ bản của Giáo dục học được có

tác dụng định hướng cho công tác nghiên cứu lý luận và các hoạt động giáo

dục thực tiễn.

- Mục đích giáo dục là thành tố cơ bản của quá trình giáo dục qui định

tính chất và phương hướng, nội dung, phương pháp, phương tiện và hình

thức tổ chức giáo dục, qui định tiêu chuẩn kiểm tra và đánh giá kết quả quá

trình giáo dục.

- Mục đích giáo dục định hướng cho hoạt động thực tiễn của người

dạy, giúp họ chủ động sáng tạo hơn trong công tác giáo dục đồng thời định

hướng cho người học nhanh chóng đạt kết quả.

- Mục đích giáo đục được khẳng định như một xuất phát điểm của mọi

hoạt động sư phạm, thiếu nó hoặc xác định nó không đủ tường minh, thì hoạt

động sư phạm có thể coi như bắn tên không có đích.

“Chúng ta sẽ không thể làm tốt một việc gì nếu như chúng ta không biết

mình sẽ phải làm gì” (Macarenko)

Page 68: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

“Nếu bạn không biết chắc nơi bạn muốn đến, có nguy cơ bạn sẽ đến

một chỗ khác, mà bạn không biết...”; “Nếu thầy cho trò biết rõ nội dung của

mục tiêu đào tạo..., rất có thể là trong khá nhiều trường hợp, người thầy

không còn gì phải làm cả” (Mager)

“Nếu không có mục đích, anh sẽ không làm được gì cả. Anh cũng

không làm được cái gì vĩ đại nếu như mục đích tầm thường” (Didero)

* Tác hại của việc không nhận thức mục đích giáo dục

- Gây nên sự thụ động và hạn chế tính sáng tạo của nhà giáo dục.

- Không có sự thống nhất tác động giáo dục giữa các nhà giáo dục và

gây ra những lực cản vô lý trong hoạt động giáo dục.

+ Phân biệt hai khái niệm “Mục đích - Mục tiêu ”

Mục đích Mục tiêu

- Có tính định hướng, lý tưởng

- Thời gian thực hiện dài

- Tính rộng lớn khái quát của vấn đề

- Không thể đo được kết quả

- Cấu trúc phức tạp, được tạo thành do

nhiều mục tiêu kết hợp lại.

- Có tính cụ thể với hành động và

phương tiện xác định

- Thời gian thực hiện ngắn, xác

định.

- Tính xác định của vấn đề

- Là một bộ phận của mục đích

Có thể nói mục tiêu là một bộ phận của mục đích. Mục đích có cấu trúc

phức tạp do nhiều mục tiêu tạo thành. Nhưng mục đích không phải là tổng số

các mục tiêu mà là một sự kết hợp có qui luật.

3. Các loại mục đích giáo dục: có hai loại

- Mục đích hệ thống: là kết quả dự kiến mà hệ thống giáo dục cần đạt

được sau một thời gian nhất định. Các nhà quản lý thường quan tâm đến mục

đích hệ thống.

- Mục đích nhân cách: Thường được các nhà giáo quan tâm tới, bao

gồm:

Page 69: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Mô hình con người mà mỗi cá nhân cần phấn đấu để đạt được

Mô hình con người mà xã hội cần đào tạo. 

Quan hệ giữa mục đích hệ thống và mục đích nhân cách là quan hệ

giữa sự phát triển xã hội và phát triển cá nhân (con người)

4. Các cấp độ của mục đích giáo dục

* Cấp vĩ mô: Tên gọi là “Mục đích giáo dục”, do các cấp lãnh đạo, quản

lý xã hội đề ra dựa trên yêu cầu của xã hội. Mục đích giáo dục giữ vai trò định

hướng về giá trị nhân cách ở cấp toàn xã hội và áp dụng cho toàn bộ hoạt

động giáo dục trong xã hội. Mục đích giáo dục thường có tính chất lý tưởng

và ổn định tương đối.

Mục đích giáo dục hiện nay là: Nâng cao dân trí - Đào tạo nhân lực -

Bồi dưỡng nhân tài.

* Cấp trung gian: tên gọi là “Mục tiêu giáo dục hay mục tiêu đào tạo” do

các cấp quản lý giáo dục từ Bộ đến trường xây dựng dựa trên mục đích giáo

dục tổng quát và yêu cầu cụ thể của hoạt động giáo dục; nêu lên mục tiêu về

nhân cách, về chất lượng đào tạo cho toàn ngành giáo dục và cho từng bậc

học, cấp học (còn có thể cho từng giai đoạn, từng năm học), chủ yếu được

thể hiện bằng ngôn ngữ, thuật ngữ tâm lý - sư phạm.

Hiện nay luật giáo dục quy định mục tiêu giáo dục theo từng bậc học

như sau:

+ Mục tiêu của giáo dục bậc mầm non: giúp trẻ em phát triển về thể

chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân

cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp một.

+ Mục tiêu của giáo dục bậc phổ thông: giúp học sinh phát triển toàn

diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình

thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và

trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc

sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Page 70: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

- Giáo dục tiểu học: giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho

sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ. Thể chất, thẩm mỹ và

các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.

- Giáo dục trung học cơ sở: giúp học sinh củng cố và phát triển những

kết quả của giáo dục tiểu học, có trình độ học vấn phổ thông cơ sở và những

hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ

thông, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.

- Giáo dục trung học phổ thông: giúp học sinh củng cố và phát triển

những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông

và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học

đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống

lao động.

* Cấp vi mô: gọi là “mục tiêu chuyên biệt hay mục đích - yêu cầu”. Đó là

mục tiêu hành động của thầy và trò, do các nhà sư phạm, các giáo viên đề ra

cho từng môn học, bài học, từng hoạt động... phản ánh mục tiêu giáo dục.

* Những yêu cầu của việc xác định mục tiêu chuyên biệt

Thông thường các mục tiêu giáo dục được bày tỏ một cách chung

chung và lờ mờ nên khó hình dung được rõ ràng kết quả mong đợi của một

quá trình giáo dục cụ thể, chẳng hạn như: Mục tiêu bài giảng là “Hiểu nội

dung bài và cảm nhận được ý nghĩa; Học sinh thấy được tấm lòng yêu

thương của cô giáo...”. Thế nào là hiểu? là cảm nhận? là thấy được lòng yêu

thương? Làm sao biết được học sinh có hiểu, có cảm nhận và có thấy? Do đó

cần phải biết cách xác định mục tiêu một cách cụ thể, rõ ràng hơn để tiến

hành quá trình giáo dục một cách chủ động và tập trung vào kết quả mong

đợi qua mục tiêu đã xác định đó.

Xác định mục tiêu giáo dục là tìm cách diễn tả đơn giản nội dung giáo

dục để chỉ ra các thao tác mà người học có khả năng thực hiện nội dung đó.

Một mục tiêu được xác định tốt phải có hai tác dụng, đó là chỉ đạo tổ chức

quá trình giáo dục và làm chuẩn đánh giá kết quả đào tạo. Nếu không đạt

Page 71: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

được hai yêu cầu này, thì mục tiêu vạch ra chỉ là một “mục tiêu tuyên bố” chỉ

nêu lên cho có, cho đủ thủ tục của một giáo án.

* Các điều kiện xây dựng mục tiêu chuyên biệt chính xác và hiệu quả

1. Mục tiêu phải được diễn tả theo chức năng người học chứ không

phải theo chức năng người dạy bởi vì chính người học là chủ thể thực hiện

mục tiêu để chiếm lĩnh một khả năng mới. Vì vậy, có thể mở đầu bằng cụm từ

“Sau bài học này, người học có khả năng...”

2. Mục tiêu phải được diễn đạt bằng một động từ đơn nghĩa, chính xác

để giáo viên và học sinh nhìn nhận kết quả mong đợi dưới cùng một dạng.

Những cách phát biểu như sau là mơ hồ, đa nghĩa dẫn đến những cách hiểu

khác nhau giữa giáo viên và học sinh: “nắm được khái niệm”; “nhận thức rõ

tình bạn”; “nhận thấy trẻ em được quyền kết giao bạn bè”; “thấy tác hại của

bệnh răng miệng” “nắm vững qui tắc”

3. Mục tiêu phải được diễn tả dưới dạng hành vi có thể quan sát được.

VD: “Viết một bài không có lỗi chính tả” (thay vì phát biểu: “nắm vững

luật chính tả”)

4. Xác định hoàn cảnh, điều kiện, thời gian hành vi nói trên sẽ diễn ra.

VD: “Nghe đọc để viết một bài không có lỗi chính tả.“

5. Xác định tiêu chí thừa nhận mức độ đạt được mục tiêu

VD: Nghe đọc để viết một bài khoảng 10 dòng không có lỗi chính tả và

không có dấu vết tẩy xóa.

VÍ DỤ MINH HỌA CÁCH PHÁT BIỂU MỤC TIÊU

* Lưu ý: Những ví dụ sau đây có tính chất gợi ý cách phát biểu mục tiêu

chuyên biệt của một bài học, chứ chưa phải là một ví dụ chuẩn xác về các

mục tiêu phải đạt trong bài học

Bài học: KỸ THUẬT DI TRUYỀN

Page 72: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Môn Sinh - Lớp 12

Mục tiêu: Sau bài học, Học sinh có khả năng

1. Mức độ biết:

a. Phát biểu định nghĩa khái niệm “kỹ thuật di truyền”

2. Mức độ hiểu:

a. Vẽ và sơ đồ kỹ thuật cấy gen

b. Giải thích từng khâu của kỹ thuật cấy gen

3. Mức vận dụng:

a. Liên hệ thực tiễn để nhận biết các sản phẩm sử dụng kỹ thuật cấy

gen.

Bài học: LIÊN KẾT CỘNG HÓA TRỊ

Môn Hóa - Lớp 11

Mục tiêu: Sau bài học, Học sinh có khả năng

1. Mức độ biết:

a. Phát biểu định nghĩa khái niệm “Liên kết cộng hóa trị”

2. Mức độ hiểu:

a. Giải thích sự hình thành liên kết giữa các nguyên tử trong phân tử có

liên kết cộng hóa trị

b. Phân biệt được liên kết cộng hóa trị có cực và không có cực.

3. Mức độ vận dụng:

a. Viết được sự hình thành liên kết giữa các nguyên tử trong phân tử có

liên kết cộng hóa trị

b. Xác định phân tử có liên kết cộng hóa trị

Bài học: CÂU

Môn Văn - Lớp 10

Page 73: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Mục tiêu: Sau bài học, Học sinh có khả năng

1. Mức độ biết:

a. Nêu định nghĩa từng kiểu câu

2. Mức độ hiểu:

a. Phân loại câu theo cấu tạo ngữ pháp và theo mục đích phát ngôn.

b. Mô tả cấu tạo của từng kiểu câu

c. Cho ví dụ từng kiểu câu

d. Giải thích ý nghĩa, cách dùng từng kiểu câu

e. Phân biệt các kiểu câu hai thành phần; câu đặc biệt; câu tỉnh lược

f. So sánh câu ghép với câu phức; câu ghép đẳng lập và câu ghép

chính phụ

3. Mức độ vận dụng:

a. Viết câu đúng ngữ pháp

b. Giải hết và giải đúng các bài tập trong sách giáo khoa

Để có thể phát biểu mục tiêu một cách rõ ràng có thể dùng những động

từ theo mô hình phân bậc mục tiêu nhận thức của B.S Bloom dưới đây:

Mức độ Kết quả Động từ mẫu

Biết Học sinh gợi lại hoặc

nhìn nhận thông tin

định nghĩa, liệt kê, thuật lại, vẽ, định vị,

lựa chọn, nhận dạng, gắn nhãn, ráp nối,

nêu tên, phát biểu

Hiểu Học sinh chuyển

thông tin sang thức

biểu tượng

Phân loại, minh họa, kể lại,

Biểu lộ, gộp, viết lại,

Mô tả, nhóm, chỉ ra

Giải thích, diễn giải, tóm tắt

Khái quát, xếp thứ tự

Page 74: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Áp dụng Học sinh sử dụng kiến

thức để giải quyết vấn

đề

Áp dụng, kiểm tra, phỏng đoán,

So sánh, trình diễn, phỏng vấn

Tranh luận, điều tra, chứng minh

Vẽ sơ đồ, lưu trữ, tìm kiếm

Kết luận, làm, dịch

Khám phá, xây dựng

Phân tích Học sinh chia thông

tin thành các phần

Phân tích, kiểm nghiệm, đối chiếu

Suy luận, thuật lại, mổ xẻ, Định rõ

Tổng hợp Học sinh giải quyết

vấn đề bằng cách kết

hợp các thông tin với

nhau bằng phương tư

duy sáng tạo độc lập

Kết hợp, biểu diễn, dàn dựng

Tạo lập, lên kế hoạch, duyệt lại

Thiết kế, phát triển, kể lại

Tưởng tượng, đề xuất

Đánh giá Học sinh đưa ra

những đánh giá định

lượng và định tính

dựa trên những tiêu

chuẩn đã đặt ra

Tranh luận, tính điểm, giới thiệu

Khích lệ, đánh giá, ủng hộ

Chọn lựa, bào chữa, kiểm tra

Phê phán, xếp hạng xác minh

Phê bình, tính tỉ lệ

II. MỤC ĐÍCH GIÁO DỤC CỦA HỆ THỐNG GIÁO DỤC VIỆT NAM

1. Những cơ sở xác định mục đích giáo dục

1.1. Thực trạng giáo dục Việt Nam

* Hội nghị trung ương II (khóa VIII) đã nhận định tình hình giáo dục

trong những năm qua như sau:

- Mạng lưới trường học phát triển khắp mọi miền trên đất nước, kể cả ở

các vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo, hầu hết các xã ở đồng bằng đã

Page 75: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

có trường trung học cơ sở, các huyện đều có trung học phổ thông, nhiều

huyện, tỉnh miền núi có trường dân tộc nội trú.

- Đã ngăn chặn được sự giảm sút qui mô và có bước tăng trưởng khá.

- Cả nước có hơn 20 triệu học sinh; Hiện có 16 tỉnh, thành phố, 57% số

huyện, 76 % số xã đạt tiêu chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo

dục tiểu học. So với 91-92, năm học 95-96 H PT tăng 1.25 lần, sinh viên tăng

2.7 lần, giáo dục sau đại học đào tạo nhiều cán bộ có trình độ cao.

- Chất lượng giáo dục có nhiều tiến bộ bước đầu trên một số mặt về

các môn khoa học tự nhiên và kỹ thuật ở bậc phổ thông và đại học tập trung.

Học sinh đạt giải trong các kỳ thi quốc tế ngày càng tăng.

Xét một cách khách quan công bằng thì giáo dục đào tạo đã góp phần

quan trọng trong việc nâng cao dân trí, đào tạo đội ngũ lao động và đội ngũ

cán bộ đông đảo phục vụ các nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và quốc phòng.

Tuy nhiên giáo dục Việt Nam còn nhiều yếu kém bất cập cả về quy mô,

cơ cấu, nhất là về chất lượng và hiệu quả; chưa đáp ứng kịp những đòi hỏi

lớn và ngày càng cao về nhân lực của công cuộc đổi mới kinh tế xã hội, xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo đang đứng

trước một mâu thuẫn lớn giữa yêu cầu vừa phải phát triển nhanh quy mô đào

tạo, vừa phải gấp rút nâng cao chất lượng đào tạo.

* Những thách thức cho sự nghiệp giáo dục hiện nay:

- Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu xã hội ở các

vấn đề hình thành phát triển nhân cách, kỹ năng sống và lao động, đạo đức

công dân, ý thức chính trị, chuẩn bị cho thế hệ trẻ vào đời, hướng nghiệp,

giáo dục kỹ năng nghề nghiệp...

- ĐK thực hiện chất lượng giáo dục- đào tạo như lương giáo viên, sách

giáo khoa và các tài liệu giảng dạy, cơ sở hạ tầng của nhà trường, thiết bị đồ

dùng dạy học, hệ thống trường sư phạm... đều còn quá thấp.

Page 76: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

- Môi trường giáo dục nhiều nơi chưa lành mạnh, tích cực: chưa kết

hợp chặt chẽ và tạo sự thống nhất về phương hướng, nội dung, phương

pháp giáo dục ở ba môi trường giáo dục.

- Hiệu quả trong và ngoài còn thấp: tỉ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp

thấp; năng lực thực hành, kỹ năng sống và lao động thích ứng với yêu cầu

của bản thân, gia đình, cộng đồng, đất nước và thời đại còn yếu.

- Phần lớn học sinh tiểu học chưa học đủ 9 môn, ảnh hưởng xấu tới sự

phát triển toàn diện nhân cách.

- Phần lớn học sinh trung học phổ thông chỉ theo đuổi mục đích vào đại

học do nhà trường chưa làm tốt công tác hướng nghiệp, chuẩn bị nghề đi vào

cuộc sống lao động cho học sinh.

- Hệ thống các trường trung cấp chuyên nghiệp dạy nghề kém phát

triển, quy mô nhỏ, chất lượng thấp.

- Quy mô sinh viên còn rất nhỏ, cơ cấu đội ngũ sinh viên còn nhiều bất

hợp lý, chất lượng dạy học đại học còn quá nhiều vấn đề, hiệu quả đáp ứng

các yêu cầu xã hội còn thấp.

+ Tình hình giáo dục đào tạo sau 5 năm thực hiện NQTW2 - khóa 8:

* Những kết quả nổi bật:

- Quy mô giáo dục không ngừng tăng lên, mạng lưới trường lớp được

mở rộng, các mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học đã được

thực hiện, công cuộc phổ cập giáo dục trung học cơ sở đang được đẩy mạnh,

vừa học vừa làm đang trở thành sinh hoạt tương đối phổ biến trong đời sống

xã hội.

- Chất lượng giáo dục đã có chuyển biến tích cực. Các hoạt động

nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ đã đem lại hiệu quả thiết

thực, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Tuy nhiên, đối chiếu với yêu

cầu công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước và so sánh với trình độ giáo

dục - đào tạo của các nước có nền kinh tế phát triển trong khu vực và trên thế

Page 77: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

giới thì chất lượng và hiệu quả giáo dục của nước ta có phần yếu kém. Nâng

cấp chất lượng và hiệu quả vẫn là bức xúc, là thách thức chủ yếu mà ngành

giáo dục phải cố gắng vượt qua.

- Các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục không ngừng được củng

cố, tăng cường và có nhiều chuyển biến tích cực (đội ngũ giáo viên, cơ sở vật

chất kỹ thuật, trường lớp, thiết bị dạy học...)

+ Tập trung xây dựng đội ngũ giáo viên nhằm đồng bộ hóa về cơ cấu

và chuẩn hóa về trình độ đào tạo.

+ Kết hợp nhiều nguồn vốn để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật nhà

trường, tạo điều kiện nâng cao chất lượng dạy và học.

+ Tăng ngân sách giáo dục, bảo đảm yêu cầu định mức do NQTW2 đề

ra. Mặc dù vậy ngân sách nhà nước chỉ mới đáp ứng khả năng 70% nhu cầu

tối thiểu của giáo dục. Phần lớn ngân sách dùng để trả lương và các khoản

phụ cấp theo lương.

Tỉ lệ ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo:

1998 1999 2000 2001 2002 2004

13.7 14.1 15.0 15.3 15.5 11.83%

- Chủ trương xã hội hóa giáo dục đang phát huy tác dụng và đã góp

phần quan trọng làm cho giáo dục thực sự trở thành sự nghiệp của toàn dân,

toàn Đảng.

- Công bằng xã hội trong giáo dục được quan tâm thực hiện, có nhiều

biện pháp trợ giúp, tạo điều kiện học tập cho con em gia đình thuộc diện

chính sách, con em đồng bào dân tộc và học sinh nghèo vượt khó.

- Mở rộng quan hệ quốc tế, tranh thủ sự hỗ trợ của nhiều cơ sở giáo

dục đại học, nghiên cứu khoa học nước ngoài và các tổ chức quốc tế.

- Công tác quản lý ngành đã đạt được một số hiệu quả đáng ghi nhận.

* Những yếu kém, tồn tại và nguyên nhân:

Page 78: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

- Chất lượng và hiệu quả giáo dục còn thấp so với yêu cầu phát triển

đất nước, chưa tiếp cận với trình độ và kết quả giáo dục ở các nước phát

triển trong khu vực và trên thế giới.

+ Học sinh, sinh viên tốt nghiệp còn hạn chế về năng lực tư duy sáng

tạo, về kỹ năng thực hành, về khả năng thích ứng nghề nghiệp.

+ Nội dung, chương trình còn thiên về lý thuyết, ít gắn với thực tế cuộc

sống, thiếu tính liên thông giữa các cấp học, bậc học, các loại hình đào tạo.

+ Phương pháp dạy học còn lạc hậu, nặng về truyền thụ một chiều, ít

phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh.

+ Giáo dục thể chất và thẩm mỹ còn thiên về hình thức, thiếu điều kiện

thực hiện nên ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện.

+ Việc giảng dạy các bộ môn xã hội, nhân văn cũng như công tác giáo

dục chính trị, tư tưởng, đạo đức và nhân cách cho học sinh chưa đạt hiệu quả

cao.

- Cơ cấu giữa các cấp học, bậc học, cơ cấu ngành nghề và cơ cấu xã

hội, cơ cấu vùng miền trong hệ thống giáo dục còn chưa hợp lý.

- Đội ngũ giáo viên còn nhiều bất cập về số lượng, chất lượng và cơ

cấu.

- Công tác quản lý còn nhiều yếu kém, bất cập nên tình trạng vi phạm

kỷ cương, nền nếp, các biểu hiện “thương mại hóa” giáo dục chưa được ngăn

chặn kịp thời.

* Nguyên nhân:

- Trình độ quản lý nhà nước và giáo dục chưa theo kịp thực tiễn và nhu

cầu phát triển.

- Nền kinh tế đã chuyển sang cơ chế thị trường nhưng ngành giáo dục

vẫn chưa thoát khỏi những quan niệm và cách làm của cơ chế kế hoạch hóa

tập trung bao cấp.

Page 79: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

- Nhiều vấn đề lý luận phát triển giáo dục trong giai đoạn mới chưa

được nghiên cứu đầy đủ để làm căn cứ cho các chủ trương.

- Việc kết hợp giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội thiếu biểu hiện

cụ thể.

- Nhu cầu học tập của xã hội rất cao nhưng năng lực và điều kiện đảm

bảo chất lượng, hiệu quả giáo dục còn hạn chế.

1.2. Quan điểm phát triển con người toàn diện

Quan điểm phát triển toàn diện đã xuất hiện từ lâu và có tính xã hội lịch

sử theo từng giai đoạn phát triển xã hội ở mỗi quốc gia như:

+ Thời Cổ đại: mục đích giáo dục nhằm đào tạo thanh thiếu niên trở

thành con người phát triển toàn diện. Ở Ba tư, Hy lạp hướng đến việc đào tạo

con người giỏi võ nghệ đồng thời có uy tín, đạo đức tốt.

+ Thời Phong kiến: Nội dung giáo dục cũng mang tính toàn diện, các

lãnh chúa phong kiến hướng đến việc đào tạo con em họ thành những kỵ sĩ

phong nhã. Ở Trung quốc tính toàn diện thể hiện ở phẩm chất người quân tử

“Nhân - Trí - Dũng”.

+ Thời Phục hưng: Các nhà giáo dục đề cao vẻ đẹp thân thể và ca ngợi

những khoái cảm tinh thần trong nghệ thuật, âm nhạc, văn chương.

+ Thế kỷ XVI - XIX: Hoạt động lao động được đưa vào khái niệm phát

triển toàn diện thông qua việc kết hợp dạy học với lao động sản xuất.

J.J.Rousseau nêu lên sự cần thiết chuẩn bị cho trẻ em tham gia lao động và

thường xuyên giao tiếp với thiên nhiên.

K. Marx và F.Engels gắn việc đào tạo con người phát triển hài hòa,

toàn diện với việc xây dựng chủ nghĩa cộng sản.

Trong thời kỳ hiện đại việc hình thành nhân cách phát triển toàn diện

cho thế hệ đang lớn lên vẫn là mục đích lý tưởng của nền giáo dục các nước.

Hiện nay khái niệm này được hiểu như sau: Phát triển toàn diện con người là

phát triển hài hòa, cân đối giữa thể lực và trí lực, đức và tài, phát triển cá tính

Page 80: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

và sự phong phú của con người, phát triển một cách tự do, đầy đủ và làm

chủ, thích ứng với sự di động chức năng xã hội của con người.

1.3. Xu thế giáo dục của thế giới: gồm 4 hướng lớn

1.3.1 Tăng cường giáo dục nhân văn: Tư tưởng chủ yếu của giáo dục

nhân văn hiện nay trên thế giới là: tinh thần hòa bình, hữu nghị, hợp tác, bao

dung. Ở Việt Nam giáo dục nhân văn vẫn thường chú ý đến những giá trị của

lòng nhân ái và độ lượng.

Trên thế giới hiện nay, các nước độc lập nhưng phụ thuộc lẫn nhau,

độc lập và hội nhập, hợp tác và đấu tranh với nhau. Vì vậy cần giáo dục con

người có thái độ tôn trọng nhau, chiêm ngưỡng nhau, lắng nghe nhau.

* Các nội dung giáo dục các giá trị nhân văn cho học sinh hiện nay:

- Nhóm giá trị đối với bản thân và người khác:

+ Giữ gìn sức khỏe của mình cũng như của người khác

+ Tự trọng, tự chủ

+ Thẳng thắn, cởi mở

+ Biết chấp nhận người khác: thừa nhận và tin cậy, tiếp nhận những cái

tốt, tôn trọng ý kiến, hợp tác

- Nhóm giá trị đối với gia đình, bạn bè:

+ Kính trọng cha mẹ

+ Thương yêu anh chị em

+ Đối xử với bạn như anh em

- Nhóm giá trị đối với cộng đồng, quốc gia:

+ Có mối thiện cảm với hành xóm láng giềng

+ Biết ứng xử vì lợi ích chung

+ Quan tâm đến sự phát triển và sự an toàn, hạnh phúc của quốc gia

+ Tôn trọng luật pháp

Page 81: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

- Nhóm giá trị đối với các dân tộc trên thế giới:

+ Hiểu biết mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau và tăng cường sự hợp tác

quốc tế

+ Biết đánh giá nền văn hóa và tôn trọng các dân tộc khác

+ Hiểu biết về sư gia tăng dân số, sự ô nhiễm môi trường

+ Có trách nhiệm góp phần gìn giữ hòa bình thế giới.

- Nhóm giá trị đối với môi trường sống và các sinh vật khác:

+ Hiểu biết những mối quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên

+ Có trách nhiệm duy trì trái đất như môi trường sống hiện nay

+ Có trách nhiệm sử dụng các nguồn sống một cách khôn ngoan

+ Làm ô nhiễm môi trường ở mức thấp nhất và biết ứng xử đối với các

sinh vật khác

1.3.2. Đẩy mạnh công nghệ - thông tin: Các nước muốn thoát khỏi

nghèo nàn thì phải tiếp nhận công nghệ mới, trước nhất là công nghệ thông

tin và phải đưa công nghệ đó vào mọi lĩnh vực của sản xuất và đời sống, vấn

đề đặt ra là phải dạy tin học cho trẻ em từ mẫu giáo, tiểu học.

1.3.3. Đào tạo người có năng lực: Người có khả năng đóng góp thực sự

vào sự tiến bộ của xã hội, biết làm kinh tế, biết quản lý, phát triển xã hội. Xu

thế giáo dục cho con người có tinh thần và thái độ tự lập càng sớm càng tốt

đồng thời đào tạo con người có tri thức và những kỹ năng cụ thể để tinh

thông trong hoạt động nghề nghiệp.

1.3.4. Hiện đại hóa các phương pháp: Thực chất là dùng các phương

tiện hiện đại để thực hiện việc cá thể hóa phương pháp dạy học. Xu thế của

các nước tiên tiến hiện nay là dạy học theo từng học sinh, từng xu hướng,

năng lực, hứng thú và triển vọng của mỗi học sinh. Dạy học theo cho từng

học sinh là một xu thế hiện đại đòi hỏi phải có điều kiện rất cao, trước hết là

sự đầu tư và sử dụng ngân sách cho giáo dục.

Page 82: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

1.4. Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội từ nay đến 2010

* Mục tiêu tổng quát: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển,

nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân, tạo nền

tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo

hướng hiện đại hóa.

* Mục tiêu cụ thể:

- Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000 để đưa nước ta

thoát khỏi tình trạng kém phát triển.

GDP bình quân đầu người là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá trình

độ phát triển của một quốc gia. Những nước có GDP bình quân đầu người

dưới 500 USD mỗi năm được xem là nước kém phát triển. Hiện nay GDP

bình quân đầu người của nước ta theo giá hiện hành khoảng gần 400 USD.

Nếu tốc độ phát triển dân số đến 2010 còn 1.1 - 1,2% và nhịp độ tăng GDP

bình quân đạt 7,5%/ năm thì đến 2010 GDP bình quân đầu người của nước

ta sẽ đạt khoảng từ 700 - 750 USD. Dĩ nhiên tiêu chuẩn nước kém phát triển

lúc ấy sẽ cao hơn mức hiện nay, nhưng với mức trên nước ta sẽ thoát khỏi

tình trạng kém phát triển.

- Giảm tỉ lệ lao động nông nghiệp còn 50% để tạo nền tảng đến 2020

nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.

Có nhiều chỉ tiêu để đánh giá một nước là nông nghiệp hay công

nghiệp, nhưng chỉ tiêu quan trọng là tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng số

lao động cả nước (những nước công nghiệp phát triển cao hiện nay tỷ lệ lao

động nông nghiệp chỉ chiếm từ 2 - 6 %). Ít ra tỷ lệ này phải thấp hơn đáng kể

so với tỷ lệ lao động công nghiệp và dịch vụ thì mới có thể gọi là nước công

nghiệp. Mục tiêu đặt ra là đến 2010 tỷ lệ lao động trong nông nghiệp ở nước

ta còn khoảng 50% và 10 năm sau đó sẽ tiếp tục giảm hơn nữa để đến năm

2020 nước ta trở thành nước công nghiệp.

* Quan điểm phát triển kinh tế:

Page 83: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

- Coi phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng đồng

bộ nền tảng cho một nước công nghiệp là nhiệm vụ trung tâm.

- Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với việc chủ động

hội nhập kinh tế quốc tế.

- Phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu

kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

1.5. Những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam

Hệ thống giá trị truyền thống của Việt Nam rất phong phú, đã được lịch

sử công nhận và thế giới tôn trọng, trong đó nổi lên:

- Tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, lòng tự hào dân tộc. Ngày nay

truyền thống được giữ vững và nêu cao qua ý chí tự lập, tự cường, độc lập,

tự chủ, hòa nhập nhưng không hòa tan.

- Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng. Hiện nay toàn dân đang cùng

nhau một lòng rửa nhục đói nghèo, lạc hậu.

- Truyền thống nhân ái, nhân đạo, nhân văn.

- Truyền thống hiếu học, tôn sư, trọng đạo.

1.6. Các quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục

- Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong nội dung và phương pháp

giáo dục - đào tạo. Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, khoa

học, hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Thực sự coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu

sắc giáo dục đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định

tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát

triển. Thực hiện các chính sách ưu tiên ưu đãi đối với giáo dục - đào tạo, đặc

biệt là chính sách tiền lương và chính sách cán bộ.

- Phát triển giáo dục đào tạo gắn liền với nhu cầu phát triển kinh tế xã

hội, những tiến bộ khoa học công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh.

Page 84: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

- Giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của nhà nước và của

toàn dân.

- Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo.

- Giữ vai trò nòng cốt của các trường công lập đi đôi với đa dạng hóa

các loại hình đào tạo.

2. Mục đích giáo dục tổng quát

2.1. Nâng cao dân trí

* Khái niệm dân trí

Dân trí là trình độ hiểu biết, trình độ trí tuệ của người dân.

Dân trí có liên quan đến các vấn đề nhân quyền, dân sinh, dân chủ và

những vấn đề có liên quan đến dân tộc và toàn cầu: sự bùng nổ dân số, bệnh

AIDS, bảo vệ môi trường, bảo vệ hòa bình.

Dân trí là kết quả tổng hợp của nhiều lĩnh vực giáo dục: nhà trường, gia

đình, xã hội nhưng giáo dục nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân

đóng vai trò nòng cốt.

* Thực trạng dân trí nước ta

- Chỉ tiêu phát triển giáo dục ở các bậc học còn thấp hơn mức trung

bình.

VN Phát triển Trung bình Chậm

Bậc tiểu học 85% 98% 91% 74%

Trung học 35% 64% 46% 34%

Đại học 3% 23% 14% 5,7%

- Số năm học trung bình của người dân chưa đạt được 5 năm theo tiêu

chuẩn quốc tế để công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Xét trên góc độ

kinh tế học giáo dục tiêu chuẩn quốc tế để một quốc gia tiến hành hiện đại

hóa, công nghiệp hóa là số năm đi học trung bình của người dân tối thiểu phải

là 5 năm.

Page 85: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

1979 số năm học trung bình của Việt Nam là 4.4 năm

1989 4.5 năm

2002 4.9 năm

(nam 6.2;nữ 3.6)

- Trẻ em bỏ học còn nhiều.

* Mục tiêu nâng cao dân trí đến 2020

+ Xây dựng hoàn chỉnh và phát triển bậc mầm non. Phổ biến kiến thức

nuôi dạy trẻ trong gia đình.

+ Nâng cao chất lượng toàn diện bậc tiểu học. Hoàn thành phổ cập

giáo dục trung học cơ sở năm 2010 và trung học phổ thông năm 2020.

Nước Pháp năm 1790 có luật phổ cập tiểu học. Nhật bản phổ cập tiểu

học năm 1900, Trung quốc và Thái lan phổ cập trung học cơ sở năm 2000.

+ Phát triển giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số và khó khăn, phấn

đấu giảm chênh lệch về phát triển giáo dục ở các vùng lãnh thổ.

2.2. Đào tạo nhân lực: là một mục tiêu lớn cực kỳ quan trọng đối với

sự phát triển một đất nước nhất là trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại

hóa.

Khái niệm về nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực là số dân và chất lượng con người, bao gồm thể chất

và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất. Nguồn nhân lực dồi

dào thể hiện ở sức mạnh trí tuệ, tay nghề, chất lượng và hiệu quả lao động.

Phát triển nguồn nhân lực là đào tạo người có năng lực lao động, làm

mỗi người tự tạo và phát triển bản thân thực sự là chủ thể của lao động, đủ

trách nhiệm phát huy năng lực, tạo ra sản phẩm lao động. Phát triển nguồn

nhân lực còn tập trung vào việc chuyển dịch cơ cấu phân công lao động, giải

quyết việc làm, phân bổ nguồn nhân lực, đào tạo lại, đào tạo mới, chính sách

công nghệ, quản lý vĩ mô nguồn nhân lực.

Page 86: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Việc đào tạo nhân lực phải thông qua hệ thống giáo dục quốc dân mà

trực tiếp là ngành giáo dục chuyên nghiệp và đại học nhưng các bậc học khác

cũng phải hướng vào mục tiêu này trong việc tạo cơ sơ, nhất là cơ sở nhân

cách để tiến tới mục tiêu.

* Thực trạng nhân lực nước ta

+ Cơ cấu lao động:

- Nông nghiệp và lâm nghiệp 71%; công nghiệp, giao thông, xây dựng,

bưu điện 15%;

Số liệu thống kê cho thấy nước ta đang ở trong tình trạng cơ cấu của

một nước nông nghiệp. Hiện có 75% lao động của cả nước đang ở trong khu

vực nông nghiệp, đem lại 25% tổng sản phẩm của cả nước, cho thấy chúng

ta đang ở điểm thấp của quá trình phát triển đi lên công nghiệp hóa.

Trình độ và cơ cấu đào tạo: Hiện nay mới có 15% tổng số người lao

động đã qua đào tạo. Tỉ lệ đào tạo các lực lượng lao động rất mất hợp lý:

- số lượng công nhân gần bằng cán bộ kỹ thuật

- số cán bộ tốt nghiệp đại học nông nghiệp chỉ chiếm 8.1%

Vì vậy có nhiều sinh viên ra trường chưa có việc làm trong khi nhiều

vùng miền núi, vùng sâu vùng xa thiếu cán bộ khoa học kỹ thuật.

+ Hiện trạng đội ngũ giáo viên phổ thông năm học 1999 - 2000:

Tổng số 614.807 người, còn thiếu 98.110 giáo viên

Cơ cấu độ ngũ giáo viên thiếu đồng bộ, đặc biệt là thiếu rất nhiều giáo

viên các bộ môn: Nhạc họa, Thể dục, Công nghệ, Đạo đức - Công dân, ngoại

ngữ (50.891 người)

Trình độ đào tạo:

Cấp học Tỉ lệ G đạt chuẩn Chuẩn đào tạo

Tiểu học 66.70 Trung học sư phạm

THCS 86.32 Cao đẳng SP

Page 87: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

THPT 93.60 Đại học SP

So sánh nguồn nhân lực Việt Nam và Hàn quốc (người/ triệu dân)

Nước Đại học Kỹ thuật viên

Việt Nam 9.429 13. 636

Hàn quốc 52.000 69.790

Số lượng cán bộ hiện có của chúng ta chưa đủ đáp ứng yêu cầu của

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

* Mục tiêu đào tạo nhân lực đến 2020

- Phát triển đào tạo đại học, trung học chuyên nghiệp, đẩy mạnh đào

tạo công nhân lành nghề.

- Nâng cao chất lượng và bảo đảm đủ số lượng giáo viên cho toàn bộ

hệ thống giáo dục. Tiêu chuẩn hóa và hiện đại hóa các điều kiện. Phấn đấu

có một số cơ sở đại học và trung học chuyên nghiệp đạt tiêu chuẩn quốc tế.

2.3. Bồi dưỡng nhân tài

* Khái niệm về nhân tài

Nhân tài là người có tài năng xuất sắc, thông minh, trí tuệ phát triển, có

một số phẩm chất nổi bật, giàu tính sáng tạo trong cuộc đời, họ đạt được

thành tích mới với chất lượng cao, vượt hẳn lên so với người đương thời.

Cấu trúc của tài năng bao gồm: sự thông tuệ (trình độ tri thức, kỹ năng,

kỹ xảo rộng và cao, phong phú và đa dạng); năng lực tư duy; năng lực sáng

tạo; đạo đức trong sáng. Sự thông tuệ có thể đạt được bằng hai con đường

chủ yếu: học tập, rèn luyện trong nhà trường và học tập trải nghiệm trong

cuộc sống. Toàn bộ hệ thống giáo dục cùng với gia đình và xã hội đều phải

chăm lo đào tạo và sử dụng nhân tài.

* Vị trí của nhân tài trong sự phát triển xã hội:

Page 88: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

- Nhân tài đóng góp tích cực vào sự hưng thịnh của đất nước, mở ra

những mũi đột phá trong văn hóa, khoa học kỹ thuật, tạo đà phát triển mạnh

mẽ của kinh tế - xã hội.

- Nhân tài có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển xã hội lịch sử. Vì vậy ở

thời đại nào, quốc gia nào người tài cũng được coi trọng. Việc bồi dưỡng, sử

dụng nhân tài đều được xem là quốc sách. Chẳng hạn như:

+ Trong “Tam quốc chí” đã kể lại rằng, Lưu Bị đã kiên nhẫn cất công 3

lần mời gọi Gia Cát Lượng (Khổng Minh), một người có tài tham mưu, đi theo

hỗ trợ Lưu Bị. Sự ưu ái của Lưu Bị đối với người tài đã thuyết phục Gia Cát

Lượng đóng góp mưu trí giúp Lưu Bị bảo vệ được lãnh thổ trước sự tấn công

của các đối thủ.

+ Ông cha ta xem nhân tài là nguyên khí của đất nước. Bia tiến sĩ ở

Văn Miếu – Quốc tử Giám còn ghi: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia,

nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và càng lên cao, nguyên khí suy thì thế

nước hèn và càng xuống thấp, cho nên các bậc thánh đế minh vương đời

xưa, chẳng có đời nào không chăm bón nhân tài, bồi đắp nguyên khí cho đất

nước.”

+ Trong “Bình Ngô đại cáo” Lê Lợi, Nguyễn Trãi cũng thừa nhận những

khó khăn ban đầu của cuộc kháng chiến chống quân Minh là do thiếu nhân tài

“nhân tài như lá mùa thu, Tuấn kiệt như sao buổi sớm”

+ Ngày nay Đảng và nhân dân ta cũng hết sức chú ý đến việc bồi

dưỡng nhân tài. Việc đào tạo, bồi dưỡng nhân tài luôn được nhận thức là một

trong những yếu tố quan trọng nhất để xây dựng và bảo vệ đất nước.

2.4. Mối quan hệ giữa 3 mục tiêu nâng cao dân trí - đào tạo nhân lực - bồi dưỡng nhân tài

+ Mặt bằng dân trí là nền tảng, là điều kiện then chốt để đào tạo nguồn

nhân lực. Trình độ dân trí ảnh hưởng lớn đến trình độ nghề nghiệp và năng

suất lao động.

Page 89: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

+ Việc phát hiện và bồi dưỡng nhân tài phải dựa trên nền kinh tế - xã

hội phát triển, ổn định (có nguồn nhân lực dồi dào) và dựa trên sự phổ cập

giáo dục (dân trí)

+ Nhân tài được phát hiện và bồi dưỡng sẽ là nguồn lực to lớn để nâng

cao dân trí và phát triển nhân lực

3. Mục tiêu phát triển nhân cách

Quan điểm chỉ đạo của Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương

Đảng khóa VIII về mục tiêu phát triển nhân cách hiện nay là: “Xây dựng

những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và

chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và

bảo vệ tổ quốc; công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giữ gìn và phát huy

các giá trị văn hóa của dân tộc, có khả năng tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân

loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng

đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và

công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng giỏi, có tác phong công

nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật; có sức khỏe, là những người thừa kế xây

dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ”.

Có thể hình dung mô hình nhân cách của con người được đào tạo theo

yêu cầu của xã hội hiện nay theo cấu trúc như sau:

- Về tri thức: làm chủ tri thức khoa học công nghệ và có tư duy sáng

tạo.

- Về kỹ năng: có khả năng thực hành giỏi

- Về thái độ:

* Đối với Tổ quốc, dân tộc

+ Thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội

+ Có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc và quyết tâm tiến

hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Page 90: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

+ Giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc, tiềm năng dân tộc và con

người Việt Nam

* Đối với lao động và đời sống xã hội:

+ Có tác phong công nghiệp

+ Có tính tổ chức và kỷ luật

+ Có ý thức cộng đồng

* Đối với bản thân

+ Có đạo đức trong sáng

+ Có tính tích cực cá nhân

+ Có sức khỏe

Nhìn chung đó là mô hình nhân cách của người thừa kế xây dựng chủ

nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.

Hiện nay, thế giới có sự thay đổi trong trật tự bộ ba mục tiêu đào tạo:

Kiến thức -> Thái độ và năng lực

Kỹ năng -> Kỹ năng

Thái độ và năng lực -> Kiến thức

Nguyên nhân là do:

+ Sự bùng nổ thông tin tác động mạnh mẽ lên nội dung giảng dạy, yêu

cầu phải xác định những quan niệm cơ bản và tổ chức việc học hướng vào

những vấn đề cụ thể phải giải quyết. Trước khối lượng thông tin đồ sộ và hỗn

độn đó con người cần phải có những thái độ và năng lực cần thiết để có thể

tự định hướng, biết lựa chọn và sử dụng những dữ kiện của khoa học và

công nghệ như:

Thái độ: sự nghiêm túc, ý thức trách nhiệm, lòng khoan dung, tính nhạy

cảm, tinh thần độc lập...

Page 91: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Năng lực: đặc biệt là năng lực trí tuệ: phân tích, so sánh, khái quát hóa,

tổng hợp,...

+ Sự mở rộng mục đích dạy học và đặc trưng của việc học trong thế kỷ

21

- Học tập suốt đời: khái niệm này gắn với quan niệm về một xã hội học

tập trong đó mọi người đều có cơ hội học tập và phát huy tiềm năng của

mình.

- Bốn trụ cột của giáo dục

- Học để biết: Một cơ sở văn hóa chung và đủ rộng với khả năng làm

việc sâu trên một số lượng nhỏ chủ đề. Quan trọng nhất là học cách học,

nhằm tận dụng các cơ hội do giáo dục suốt đời mang lại.

Học là để thu nhận thông tin, tiếp thụ tri thức đồng thời biết tạo lập, sử

dụng thành thạo tri thức như là các công cụ tâm lý. Việc học tập vừa là

phương tiện vừa là mục đích.

Là phương tiện: học tập giúp con người hiểu được môi trường sống và

làm việc của mình, để sống trong nhân phẩm, phát triển kỹ năng nghề nghiệp

và giao tiếp.

Là mục đích: học tập đem lại sự thỏa mãn hiểu được, biết được, phát

hiện, phát minh, tư duy độc lập, có ý kiến riêng và có khả năng phê phán.

Học tập trong thời đại mới giúp người học có khả năng tập trung chú ý,

ghi nhớ và tư duy. Đây là ba công cụ tâm lý rất cơ bản để bảo đảm việc học

tập trong nhà trường đạt kết quả. Tóm lại, giáo dục trong nhà trường là kết

quả khi tạo được cơ sở và động lực cho người học tiếp tục học tập, rèn luyện

suốt đời.

- Học để làm: liên quan đến việc nắm vững những kỹ năng, việc ứng

dụng kiến thức và một bộ những kỹ năng gọi là những kỹ năng sống. Học để

làm nhằm nắm được những kỹ năng nghề nghiệp và khả năng đối mặt với

nhiều tình huống và biết làm việc đồng đội.

Page 92: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Ngoài ra giáo dục phải chuyển từ đào tạo kỹ năng sang việc hình thành

tay nghề và lương tâm nghề nghiệp.

- Học để cùng chung sống: Học để hiểu được người khác thông qua sự

hiểu chính mình, mong cam kết làm việc với nhau lâu dài, cảm nhận sâu sắc

sự phụ thuộc lẫn nhau trong việc thực hiện những dự án chung, hiểu rõ

những tác động qua lại và có thái độ đúng đắn, chung sống trong sự tôn trọng

lẫn nhau, cần giáo dục thái độ tôn trọng các dân tộc khác, các nền văn hóa,

các giá trị tinh thần của họ. Giáo dục phải chú ý tới hai nội dung sau:

Học biết phát hiện ra người khác: Mỗi người, mỗi dân tộc phải biết rõ

mình, đồng thời phải hiểu người khác: biết mình, biết người. Giáo dục mỗi

người có thái độ thiện cảm, thông cảm với người khác, dân tộc khác, tôn giáo

khác.

Cùng làm việc vì các mục đích chung: Dạy cho trẻ tinh thần hợp tác,

quan tâm tới nhau vì các mục đích chung.

- Học để tự khẳng định mình, giáo dục giúp con người phát triển độc

lập, có đầu óc phê phán, có chính kiến và bản lĩnh sống (tự mình quyết định

sự suy nghĩ và hành động, thực hiện suy nghĩ của mình trong những hoàn

cảnh khác nhau). Nhiệm vụ cơ bản của giáo dục thế kỷ 21 là mang lại cho

mọi người sự tự do suy nghĩ, phán đoán, tình cảm và trí tưởng tượng để có

thể phát triển tài năng của mình và tự kiểm tra cuộc sống của mình. Tránh

giáo dục cào bằng hành vi cá thể mà cần tạo ra những nhân cách đa dạng, tài

năng, khuyến khích sự phát triển đầy đủ nhất tiềm năng sáng tạo của mỗi con

người với toàn bộ sự phong phú và sự phức tạp của họ.

III. NHIỆM VỤ GIÁO DỤC

Nhiệm vụ giáo dục là những bộ phận hợp thành của quá trình giáo dục

nhằm thực hiện mục đích giáo dục một cách toàn diện và cân đối.

* Các loại nhiệm vụ giáo dục:

- Theo cấu trúc của nhân cách: giáo dục lý trí, giáo dục tình cảm, giáo

dục ý chí; hoặc giáo dục cảm giác, giáo dục nhu cầu, giáo dục tính cách...

Page 93: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

- Theo các bộ phận của nền văn hóa: giáo dục triết lí, giáo dục khoa

học, kỹ thuật, kinh tế, pháp luật, nghệ thuật, thể thao...

- Theo các chức năng xã hội cần chuẩn bị cho học sinh: giáo dục công

dân, giáo dục lao động, giáo dục quân sự, giáo dục giới tính...

- Theo Các Mác: giáo dục tâm trí, giáo dục thể chất và đào tạo kỹ thuật

tổng hợp.

- Theo Giáo dục học phương Đông gồm 4 nhiệm vụ: giáo dục đạo đức,

giáo dục trí tuệ, giáo dục thể chất và giáo dục thẩm mỹ.

- Theo định hướng của các nguyên lý giáo dục: giáo dục tư tưởng,

chính trị, đạo đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục lao động, giáo dục thể chất, giáo

dục thẩm mỹ.

* Yêu cầu của từng loại nhiệm vụ giáo dục:

1. Giáo dục đạo đức:

Nhiệm vụ này đòi hỏi phải giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, pháp

luật xã hội chủ nghĩa cho học sinh, xây dựng cho họ ý thức, tình cảm, ý chí và

thói quen hành vi về chính trị - đạo đức.

- Về mặt tư tưởng: giáo dục cho học sinh hệ tư tưởng Mác- Lê nin, bao

gồm thế giới quan duy vật biện chứng, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa,

tư tưởng độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.

- Về mặt chính trị - pháp quyền: giáo dục đường lối chính sách của

Đảng và pháp chế của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

- Về mặt đạo đức: giáo dục lòng yêu nước, yêu lao động, yêu khoa học

và yêu những giá trị văn hóa tiến bộ của loài người, đồng thời trân trọng và

phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, hình thành những phẩm

chất đạo đức tốt đẹp cho học sinh như đức hy sinh, dũng cảm, tính liêm khiết,

trung thực, khiêm tốn, tự tin, tự trọng...

Phẩm chất đạo đức là một trong các mặt quan trọng nhất của ý thức xã

hội, tiêu biểu cho bộ mặt xã hội đương thời, nên giáo dục đạo đức được coi là

Page 94: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

nhiệm vụ hàng đầu, luôn gắn chặt và thấm sâu vào các mặt giáo dục khác là

trí dục, thể dục và mỹ dục. Một con người thông minh, tài hoa, khỏe mạnh chỉ

thực sự làm nên sự nghiệp giúp ích cho xã hội khi có được cái tâm, cái đức

làm người, sẵn sàng đem trí tuệ, sức lực, tài hoa cống hiến cho lý tưởng cao

đẹp của nhân dân lao động, của dân tộc và của loài người tiến bộ mà không

tính toán do dự, khuất phục trước mọi thử thách, gian lao. Đạo đức không

phải là yếu tố bẩm sinh mà là một tố chất đặc biệt mà mỗi con người phải học

hỏi tiếp thu và dày công rèn luyện suốt đời. Vì vậy giáo dục đạo đức trong nhà

trường không gói gọn trong môn đạo đức, công dân mà cần được thực hiện

trong tất cả các môn học và các hoạt động giáo dục trong và ngoài nhà

trường. Hình thức và phương pháp giáo dục đạo đức phải phong phú và đa

dạng theo nguyên tắc lý thuyết gắn với thực tiễn, nói đi đôi với làm, nhà giáo

dục phải là tấm gương về đạo đức cho học sinh noi theo.

2. Giáo dục trí tuệ:

- Trau dồi cho học sinh hệ thống tri thức khoa học phổ thông, cơ bản,

hiện đại, toàn diện và tổng hợp về tự nhiên, xã hội, và con người.

- Xây dựng cho học sinh hệ thống những quan điểm và niềm tin khoa

học vững chắc và thái độ cải tạo đối với thiên nhiên, xã hội và con người.

- Rèn luyện cho học sinh những kỹ năng vận dụng tri thức và phương

pháp tự học, tự nghiên cứu

- Phát triển ở học sinh các năng lực trí tuệ và những phẩm chất tư duy,

thói quen lao động trí óc khoa học

- Khơi dậy lòng ham hiểu biết, nhu cầu mở rộng và thực hành tri thức.

Giáo dục trí tuệ phải theo đúng các nguyên lý giáo dục: gắn liền lý

thuyết với thực tiễn, học đi đôi với hành thông qua các dạng hoạt động học

tập, thực hành, thực tập, lao động sản xuất, lao động công ích...

3. Giáo dục lao động:

Page 95: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

- Rèn luyện cho học sinh những thao tác và kỹ năng lao động cơ bản,

linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ và máy móc đơn giản.

- Phát triển tư duy kinh tế và kỹ thuật

- Bồi dưỡng quan điểm, tinh thần, thái độ lao động đúng đắn có kỷ luật

và rèn luyện thói quen lao động có khoa học, có văn hóa.

- Giáo dục định hướng nghề nghiệp giúp học sinh làm quen với những

ngành nghề khác nhau, để biết lựa chọn nghề nghiệp thích hợp với hứng thú,

năng lực của bản thân và đáp ứng với nhu cầu của xã hội.

- Tổ chức giáo dục lao động thông qua tất cả các bộ môn, trước hết là

các môn lao động, công nghệ, trên cơ sở lồng ghép, tích hợp liên môn và các

hình thức tham gia lao động sản xuất, lao động công ích, tham quan sản xuất

công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ...

4. Giáo dục thể chất:

Cung cấp những kiến thức cơ bản về thể chất con người, hình thành

những kỹ năng và thói quen rèn luyện củng cố sức khỏe để cơ thế phát triển

cân đối, khỏe mạnh, ít ốm đau, bệnh tật bảo đảm có năng lực lao động cao và

lâu dài.

Ngoài bộ môn thể dục ra, giáo dục thể chất còn thực hiện trong sự phối

hợp với các bộ môn khác, với các mặt giáo dục khác để cùng hướng tới sự

phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần trong nhân cách học sinh. Hình

thức tổ chức và phương pháp giáo dục thể chất rất phong phú và đa dạng.

Bên cạnh những giờ học, giờ tập có hệ thống theo chương trình của bộ môn

thể dục thì các hoạt động vui chơi, thể thao, tham quan du lịch, lao động...

đều có tác dụng giáo dục thể chất tích cực. Thể chất tốt là cơ sở tâm sinh lý

đầu tiên và thuận lợi cho sự phát triển nhân cách và các mặt giáo dục khác.

5. Giáo dục thẩm mỹ:

- Hình thành cho học sinh tri thức, quan điểm lý tưởng và thị hiếu thẩm

mỹ.

Page 96: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

- Xây dựng và phát triển tình cảm thẩm mỹ, trau dồi những thái độ thẩm

mỹ đối với hiện thực và nghệ thuật, bồi dưỡng năng lực hoạt động thẩm mỹ,

năng lực thưởng thức, đánh giá và sáng tạo cái đẹp.

Thẩm mỹ là một mặt quan trọng của ý thức xã hội, luôn luôn có mặt và

gắn bó với mọi mặt hoạt động của con người. Ví vậy giáo dục thẩm mỹ không

nên chỉ đóng khung trong các môn văn học, âm nhạc và mỹ thuật mà cần

được thực hiện thường xuyên trong tất cả các bộ môn, trong giáo dục nội

khóa và ngoại khóa trong trường và ngoài trường. Giáo dục thẩm mỹ cần bắt

đầu từ những lời hay ý đẹp, từ những hành vi ứng xử hàng ngày giữa thầy

trò, bạn bè, đến việc thưởng thức vẻ đẹp một bức tranh, bản nhạc, và các

sáng tạo văn học nghệ thuật... Hình thức và phương pháp giáo dục thẩm mỹ

cũng rất phong phú và đa dạng. Ngoài các hình thức và phương pháp tổ chức

giáo dục qua các môn học, nhà trường còn có thể kết hợp với các câu lạc bộ,

các nhà văn hóa, nhà hát, đài phát thanh và truyền hình... để tổ chức các

cuộc thi, biểu diễn, trưng bày triển lãm... thu hút đông đảo học sinh tham gia

để hình thành những năng lực và phẩm chất thẩm mỹ, góp phần nâng cao đời

sống tâm hồn và tình cảm của con người trong xã hội hiện đại.

Trên thực tế các nhiệm vụ giáo dục không tồn tại riêng lẻ, độc lập mà

thống nhất và tác động qua lại trong mỗi hoạt động giáo dục. Mỗi hoạt động

giáo dục đều phải thực hiện tất cả các nhiệm vụ giáo dục nhằm phát triển

toàn diện, cân đối và hài hòa nhân cách học sinh.

Luật giáo dục đã trình bày cơ cấu của Hệ thống giáo dục quốc dân với

những quy định cụ thể như sau:

Giáo dục mầm non: giáo dục mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng,

chăm sóc, giáo dục trẻ em từ 3 tháng đến 6 tuổi. Mục tiêu giáo dục nhằm giúp

trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu

tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào học lớp một. Đặc trưng

chủ yếu của phương pháp giáo dục ở bậc này là thông qua việc tổ chức các

hoạt động vui chơi giúp các em phát triển toàn diện; chú trọng nêu gương và

khích lệ.

Page 97: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

- Giáo dục phổ thông gồm hai bậc học: Tiểu học và trung học. Trong đó

bậc Trung học gồm hai cấp học THCS và THPT. Thời gian học Tiểu học là 5

năm, THCS là 4 năm và THPT là 3 năm. Mục tiêu của giáo dục phổ thông là

giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và

các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội

chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh

tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc. Học sinh được cấp bằng Tú tài khi tốt nghiệp phổ thông.

- Giáo dục nghề nghiệp trong trường trung học chuyên nghiệp và

trường dạy nghề. Giáo dục nghề nghiệp từ nói chung nhằm mục tiêu đào tạo

người lao động có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau,

có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp,

có sức khỏe nhằm tạo cho người lao động có khả năng tìm việc làm, đáp ứng

yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh. Giáo dục trung

học chuyên nghiệp nhằm đào tạo kỹ thuật viên, nhân viên nghiệp vụ có kỹ

năng nghề nghiệp ở trình độ trung cấp. Trường dạy nghề nhằm đào tạo

người lao động có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp phổ thông, công nhân kỹ

thuật và nhân viên nghiệp vụ.

- Giáo dục đại học và sau đại học (tổng quát) có mục tiêu đào tạo người

học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến

thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có

sức khỏe, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nội dung của giáo

dục đại học phải có tính hiện đại và phát triển, bảo đảm cơ cấu hợp lí giữa

kiến thức khoa học cơ bản với kiến thức chuyên ngành và các bộ môn khoa

học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống tốt

đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc, tương ứng với trình độ chung của khu vực và

thế giới.... Phương pháp giáo dục đại học phải coi trọng việc bồi dưỡng năng

lực tự học - tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy sáng

tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng

dụng... Sau từ 4 đến 6 năm học tập, sinh viên tốt nghiệp đại học được cấp

Page 98: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

bằng Cử nhân khoa học tương ứng với chuyên ngành được đào tạo. Sau đó

họ có thể học tiếp lên cao học trong thời hạn 3 năm để được cấp bằng Thạc

sĩ khoa học hoặc làm nghiên cứu sinh trong thời hạn từ 3 đến 5 năm để được

cấp bằng Tiến sĩ khoa học. Về nội dung, giáo dục sau đại học phải giúp cho

người học phát triển và hoàn thiện kiến thức khoa học cơ bản, kiến thức

chuyên ngành ở đại học, nắm vững các kiến thức về chủ nghĩa Mác - Lênin

và tư tưởng Hồ Chí Minh - từ đó phát huy năng lực sáng tạo phát hiện và giải

quyết các vấn đề thuộc chuyên ngành đào tạo, có khả năng đóng góp vào sự

phát triển khoa học, công nghệ, kinh tế - xã hội của đất nước... Ở trình độ tiến

sĩ, nghiên cứu sinh phải đạt trình độ nâng cao và hoàn chình kiến thức cơ

bản, có hiểu biết sâu về kiến thức chuyên ngành, đặc biệt là có năng lực hoạt

động chuyên môn, nghiên cứu khoa học độc lập, có sáng tạo trong lĩnh vực

khoa học của mình. Đào tạo tiến sĩ chủ yếu qua con đường tự học, tự nghiên

cứu dưới sự hướng dẫn của Nhà giáo, Nhà khoa học.

CÂU HỎI HƯỚNG DẪN ĐỌC TÀI LIỆU

1. Khái niệm mục đích giáo dục được hiểu ở những cấp độ nào? Chủ

thể nào xác định mục đích giáo dục tương ứng với mỗi cấp độ?

2. Phân biệt “Mục đích giáo dục” với “mục tiêu giáo dục”.

3. Việc nhận thức mục đích giáo dục có ý nghĩa quan trọng như thế nào

đối với người giáo viên trong quá trình giáo dục học sinh?

4. Mục đích giáo dục được xây dựng dựa trên những cơ sở nào?

5. Mục đích giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam hiện

nay gồm những mục tiêu thành phần nào?

Hướng dẫn: Phân tích mỗi mục tiêu thành phần trên 3 yếu tố: khái

niệm, thực trạng và mục tiêu cụ thể.

6. Mục tiêu giáo dục hiện nay hướng đến việc xây dựng mô hình nhân

cách như thế nào?

7. Phân tích các nhiệm vụ giáo dục cơ bản của quá trình giáo dục.

Page 99: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

8. Hệ thống giáo dục quốc dân hiện nay gồm có những bậc học, cấp

học nào? Người học sẽ được cấp các loại văn bằng nào sau khi tốt nghiệp

mỗi bậc học, cấp học?

CÂU HỎI THẢO LUẬN

1. Phân tích sự đáp ứng của mục đích giáo dục tổng quát đối với yêu

cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.

2. Phân tích sự phối hợp đồng bộ các nhiệm vụ giáo dục trong một hoạt

động giáo dục cụ thể đối với học sinh của người giáo viên.

Chương 4. KHÁI QUÁT VỀ CÁC CON ĐƯỜNG GIÁO DỤC

Sau bài học này người học có khả năng:

1. Về kiến thức:

a. Mức độ Biết:

i. Trình bày khái niệm; “Con đường giáo dục”

ii. Nêu đầy đủ các con đường giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc

dân

b. Mức độ Hiểu:

i. Phân tích vai trò của từng con đường giáo dục trong quá trình phát

triển nhân cách cho học sinh.

ii. Xác định vai trò của người giáo viên trong việc kết hợp với các lực

lượng giáo dục ở nhà trường khi tiến hành từng con đường giáo dục.

c. Mức độ Vận dụng:

i. Tổ chức việc thực hiện các con đường giáo dục trong thực tiễn giáo

dục ở nhà trường phổ thông.

2. Về kỹ năng:

Page 100: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

i. Thiết kế sử dụng phối hợp các con đường giáo dục trong thực tiễn

giáo dục ở nhà trường phổ thông.

3. Về thái độ:

i. Bổ sung các con đường giáo dục chưa được quan tâm sử dụng

ii. Điều chỉnh cách thực hiện các con đường giáo dục để nâng cao hiệu

quả.

"Giáo dục, dạy học không phải là rót kiến thức vào đầu người học như

người ta rót chất lỏng vào chai, thông qua cái phễu. Thực chất giáo dục là

thắp lên một ngọn đuốc để soi sáng, để người học nhận ra những con đường,

tự mình chọn lấy cho mình một con đường, rồi tự bước đi trên con đường đã

chọn, dưới ánh sáng của ngọn đuốc ấy"

Héraclitus (540 - 480 TCN)

Nội dung bài học:

I. NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÁC CON ĐƯỜNG GIÁO DỤC

Mọi quá trình giáo dục đều nhằm hình thành nhân cách cho học sinh

theo mục tiêu giáo dục. Nhưng thực tế cũng cho thấy rằng tâm lý nhân cách

của mỗi người là sản phẩm, là kết quả của các hoạt động năng động, sáng

tạo, có định hướng của con người. Do vậy muốn hoạt động có kết quả cao

cần phải biết lựa chọn, tìm ra các con đường hoạt động thích hợp nhất, hiệu

quả nhất. Quá trình giáo dục hình thành nhân cách cho trẻ em thực chất là

quá tình người lớn và xã hội tổ chức cho trẻ tham gia vào các hoạt động đa

dạng, phong phú, đặc biệt là hoạt động học tập và lao động sản xuất phù hợp

với tâm sinh lý và sự phát triển lứa tuổi với những phương thức thích hợp.

Muốn hoạt động giáo dục có kết quả cao cần phải tìm ra các con đường giáo

dục thích hợp, hiệu quả nhất, tức là phải tổ chức, kết hợp hợp lý các hoạt

động trong cuộc sống của con người. Việc tổ chức kết hợp này đòi hỏi vận

dụng tổng hợp các phương pháp, cách thức, các phương tiện giáo dục, tạo ra

môi trường thích hợp cho hoạt động và sự phát triển của con người. Người ta

gọi cách làm này là tạo ra các con đường giáo dục.

Page 101: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

1. Khái niệm “Con đường giáo dục” (theo Xã hội học giáo dục): là

một khái niệm rộng bao hàm sự tổ chức thực hiện các quá trình giáo dục, vận

dụng tổng hợp các phương pháp, cách thức, cách tổ chức các quá trình giáo

dục, trong đó học sinh được hoạt động một cách chủ động, sáng tạo để lĩnh

hội có kết quả các hệ thống giá trị văn hóa - khoa học - thẩm mỹ... đồng thời

góp phần sáng tạo ra các giá trị mới.

Trong phạm vi hoạt động giáo dục, đó là sự kết hợp hài hòa, chặt chẽ

các hình thức, biện pháp giáo dục phù hợp với các loại hình giáo dục nhằm

thực hiện có kết quả nhất các yêu cầu, các nội dung giáo dục, đạt tới mục tiêu

giáo dục cụ thể.

2. Phương thức giáo dục: dùng phổ biến trong các giai đoạn trước

đây, có nội hàm tương tự nhưng không hoàn toàn trùng khớp với khái niệm

“Con đường giáo dục”.

Phương thức giáo dục bao gồm tất cả các phương pháp, cách thức,

biện pháp, hình thức tổ chức nhất định được vận dụng một cách tổng hợp để

đào tạo nên những nhân cách nhất định trong một hệ thống giáo dục.

Phương thức giáo dục bao gồm tất cả các yếu tố về phương pháp dạy

học, phương pháp giáo dục, phương pháp đào tạo, kể cả các phương pháp

tổ chức thực hiện các quá tình quản lý giáo dục.

3. Phương pháp giáo dục: (theo nghĩa rộng nhất) bao hàm tất cả nội

dung trong các khái niệm con đường giáo dục hoặc phương thức giáo dục.

Như vậy con đường giáo dục cũng có thể hiểu là phương thức giáo dục

hay phương pháp giáo dục (theo nghĩa rộng) là phạm trù phương pháp tổng

quát, được hình thành trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của nền giáo dục

xã hội chủ nghĩa, đặc biệt nguyên tắc cơ bản nhất chi phối tất cả các hoạt

động giáo dục từ việc xác định mục tiêu, nội dung đến phương pháp, hình

thức tổ chức giáo dục và có tính chất nguyên lý giáo dục chính là nguyên tắc:

“Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn

liền với xã hội”.

Page 102: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

II. CÁC CON ĐƯỜNG GIÁO DỤC

1. Dạy học

Dạy học là quá trình tác động qua lại giữa giáo viên và học sinh được

tổ chức đặc biệt (căn cứ vào chương trình, kế hoạch, tuân theo quy trình, qui

chế chặt chẽ) nhằm trang bị hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo qua đó hình

thành thế giới quan khoa học cho học sinh.

Dạy học là hoạt động đặc trưng trong mọi loại hình nhà trường và chính

là con đường giáo dục tiêu biểu nhất. Có thể nói dạy học là hoạt động giáo

dục cơ bản nhất, có vị trí, nền tảng và chức năng chủ đạo trong hệ thống các

hoạt động giáo đục. Các hoạt động giáo dục trong nhà trường được phân

chia thành ba bộ phận chủ yếu: các hoạt động giáo dục trong hệ thống các

môn học, các hoạt động giáo dục trong giờ học ngoại khóa và các hoạt động

giáo dục ngoài các môn học và lĩnh vực học tập. Tất cả những hoạt động này

được thực hiện trong các môn học (dạy học) hoặc trong các hoạt động giáo

dục ngoài môn học. Nhưng các hoạt động giáo dục ngoài môn học sẽ không

có ý nghĩa gì nếu như không có ai dạy cho người học biết, hiểu, tin và áp

dụng cái gì đó, tức là phải có hoạt động dạy học giữa người dạy và người

học.

Dạy học là con đường hợp lý, thuận lợi và quan trọng nhất giúp cho học

sinh:

- Với tư cách là chủ thể nhận thức, có thể lĩnh hội được một hệ thống tri

thức và kỹ năng hành động

- Chuyển nhận thức thành các phẩm chất và năng lực trí tuệ của bản

thân

- Phát triển một cách có hệ thống năng lực hoạt động trí tuệ, đặc biệt là

năng lực hoạt động sáng tạo đáp ứng với yêu cầu của xã hội tương lai.

Ngoài ra quá trình dạy học diễn ra theo chiều hướng hội nhập văn hóa

xã hội, trong xã hội phát triển cao thì mỗi cá nhân sẽ lần lượt là người dạy lẫn

người học.

Page 103: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Chú ý rằng dạy học là một con đường giáo dục, mục tiêu cuối cùng của

dạy học là làm phát triển nhân cách của học sinh. Trong nhà trường công tác

chủ yếu của giáo viên là dạy học. Do đó, quá trình dạy học phải thực hiện đầy

đủ các nhiệm vụ giáo dục học sinh. Nhiệm vụ chủ yếu, cơ bản của dạy học là

giáo dục trí tuệ, thông qua việc hướng dẫn học sinh khám phá tri thức chứ

không chỉ là phát triển vốn tri thức cho học sinh. Bên cạnh đó các nhiệm vụ

giáo dục đạo đức, thẩm mỹ, thể chất và giáo dục lao động cũng cần được

thực hiện trong mọi hoạt động dạy học bên cạnh việc thực hiện các nhiệm vụ

này một cách chuyên biệt trong các tiết sinh hoạt chủ nhiệm hoặc các tiết học

thể dục, nhạc, họa...

2. Tổ chức lao động

Để có thể hình thành nhân cách học sinh theo yêu cầu đặt ra là con

người phải luôn luôn hoạt động năng động, sáng tạo và thích ứng với mọi

biến chuyển của cuộc sống, học sinh cần phải được hoạt động, rèn luyện

trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là trong loại hình lao động.

Thông qua lao động, học sinh hình thành thái độ và kỹ năng lao động

đúng đắn, nhận thức được quyền lợi và nghĩa vụ đối với lao động, biết kết

hợp lợi ích chính đáng của cá nhân với nhu cầu và lợi ích xã hội. Lao động

còn là con đường, phương tiện giúp con người sáng tạo nên những giá trị

mới nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần, làm cho cuộc sống vui

tươi, hứng thú, mang lại niềm vui, hạnh phúc cho mỗi cá nhân, kích thích sự

phát triển trí tuệ, xác lập kiến thức và niềm tin đạo đức, phát triển năng khiếu

và thị hiếu lành mạnh. Ngay cả trong lao động phục vụ, nếu được tổ chức

hợp lý và hữu hiệu sẽ tạo nên một nhân cách đúng đắn, biết tôn trọng người

khác và hiểu rõ giá trị của lao động đối với việc tạo lập giá trị của mỗi người.

Trước đây khi tổ chức lao động ở nhà trường, người ta thường xem

nhẹ việc kết hợp đúng đắn những lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, vì vậy

khó hình thành động cơ đúng đắn cho học sinh tham gia tự giác các hình thức

tổ chức lao động.

Page 104: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Như vậy lao động là hoạt động hữu hiệu nhất để phát triển năng lực và

các phẩm chất của con người, gắn hoạt động của học sinh và nhà trường với

đời sống xã hội hiện thực.

Việc tổ chức lao động cho học sinh có thể tiến hành bằng nhiều giải

pháp như: phân công trực nhật làm vệ sinh lớp học; tổ chức lao động làm

sạch đẹp trường lớp; tổ chức lao động công ích ngoài xã hội...

3. Tổ chức các hoạt động xã hội

Hoạt động xã hội tạo cơ hội và điều kiện cho học sinh quan hệ với

người khác, là quá trình nhận thức và chấp nhận khuôn mẫu, chuẩn mực xã

hội, thích ứng với các chuẩn mực ấy và chuyển chúng thành những giá trị của

bản thân.

Thông qua các hoạt động xã hội, kiến thức về con người, về xã hội của

con người ngày càng phong phú, mở rộng; kỹ năng giao tiếp, ứng xử có văn

hóa với mọi người ngày càng đa dạng sâu sắc và nhuần nhuyễn, bộ mặt văn

hóa đạo đức của mỗi người ngày càng hoàn thiện hơn. Ngoài ra hoạt động xã

hội còn làm con người có tâm hồn phong phú, rộng mở, giúp bộc lộ cá tính,

làm đậm nét bản sắc riêng của từng người. Điều này thực sự cần thiết để

chuẩn bị cho học sinh THPT trở thành một người công dân trưởng thành, có

nhiều kinh nghiệm sống.

So với các tổ chức khác, nhà trường vừa có những lợi thế, vừa có điều

kiện thực tế để thu hút, tổ chức cho thầy trò cùng tham gia các hoạt động xã

hội từ thấp đến cao như chơi thể dục thể thao, tham gia các lễ hội văn hóa địa

phương, tham gia các cuộc vận động chính trị- xã hội, các hoạt động nhân

đạo, từ thiện... Tuy nhiên cần chú ý bảo đảm thực hiện mục đích giáo dục của

các hoạt động xã hội được tránh hiện tượng “chạy theo thành tích”, tổ chức

kiểu “phong trào”; thậm chí gây phản tác dụng giáo dục đối với học sinh (hiện

tượng khai gian tuổi trong các giải thể thao học sinh; đề nghị học sinh đóng

góp tiền thay cho các vật dụng quyên góp làm từ thiện...)

4. Hoạt động tập thể

Page 105: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội. Hoạt động tập thể

là một con đường giáo dục tạo điều kiện cho học sinh tham gia vào các quan

hệ xã hội khác nhau. Các hoạt động tập thể của học sinh có thể được tổ chức

thông qua những hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động đoàn thể, hoạt động

văn thể mỹ, hoạt động thi đua lập thành tích chào mừng các ngày lễ lớn...

Hoạt động tập thể giúp con người:

- Có sự tương tác, học hỏi lẫn nhau, nhờ vậy làm phát triển vốn sống

- Nhận diện rõ bản thân,

- Biết chấp nhận và sống hòa hợp với người khác

- Phát triển nhân cách vững vàng, mạnh mẽ hơn.

Theo hai nhà Tâm lý học Mỹ Joseph Luft và Harry Ingham, trong hoạt

động tập thể con người sẽ sống cởi mở hơn và nhận được nhiều thông tin

phản hồi về mình, điều đó rất có lợi cho sự phát triển nhân cách. Trong thực

tế thông thường có những điều người khác biết và không biết về ta, và ngược

lại có những điều ta biết và không biết về chính bản thân. Sự tương tác trong

tập thể sẽ giúp đôi bên hiểu rõ nhau và tự biết mình hơn. Có thể phân tích

điều này qua sơ đồ như sau:

Cửa sổ JOHARRY

Người khác biết Người khác không biết

Mình biết1

CÔNG KHAI

2

CHE DẤU

Mình không biết3

4

BÍ MẬT

Vùng 1 (Công khai) gồm những điều ta và người khác cùng biết về ta

như tên tuổi, học vị, vị trí xã hội, những ý nghĩ riêng tư và sở thích (nếu đôi

bên thân nhau)...

Page 106: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Vùng 2 (Che dấu) gồm những điều ta biết về ta mà chưa có dịp hay

chưa muốn bộc lộ với người khác như lập trường chính trị riêng, tình cảm

riêng, những kinh nghiệm trong quá khứ...

Vùng 3 (Mù) gồm những điều ta không biết về mình mà người khác lại

biết như những tật xấu khi nói chuyện trước người khác (tiếng ừ, à, thì...),

những nhận xét, đánh giá của người khác về ta mà họ không nói ra...

Vùng 4 (Bí mật) gồm những điều ta và người khác không biết về ta. Đó

có thể là những chuyển biến tâm lý tạo nên nét nhân cách mới, những tài

năng còn ẩn tàng...

Cá nhân có một nhân cách mạnh mẽ thường có phần công khai rộng

lớn hơn so với các phần khác. Khi tham gia vào hoạt động tập thể, mỗi cá

nhân có nhiều cơ hội bộc lộ khả năng (phần che dấu và phần bí mật giảm đi)

và thu nhận những ý kiến nhận xét của người khác về mình (phần mù giảm).

Từ đó cá nhân nhận biết về bản thân nhiều hơn và cũng làm cho người khác

hiểu thêm về mình (phần công khai gia tăng).

Lứa tuổi học sinh THPT có nhu cầu tự khẳng định mình trong tập thể

nên việc tổ chức hoạt động tập thể càng có ý nghĩa giáo dục quan trọng đối

với các em. Học sinh sẽ hứng thú tham gia hoạt động tập thể và được rèn

luyện nhiều mặt trong nhân cách, nhất là những tác động của tập thể sẽ giúp

học sinh THPT nhận thức rõ nét về đặc điểm bản thân, nhờ vậy có những

định hướng và quyết định đúng đắn cho cuộc sống tương lai.

5. Tổ chức vui chơi

Có ba loại hình hoạt động cơ bản của con người là học tập, lao động,

vui chơi. Sự phát triển nhân cách được quân bình khi con người tham gia đầy

đủ và cân đối ba loại hình hoạt động đó. Đối với trẻ em, vui chơi có ý nghĩa

quan trọng đối với sự phát triển nhân cách. Qua việc vui chơi trẻ bộc lộ rõ

những khả năng và tính cách, nhờ vậy nhà giáo dục có thể phát hiện, điều

chỉnh hoặc đưa ra những tác động giáo dục phù hợp hơn. Vui chơi không chỉ

tạo cảm giác khuây khỏa, thoải mái mà còn giúp cho trẻ rèn luyện nhiều phẩm

Page 107: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

chất nhân cách tốt đẹp trong trạng thái hưng phấn hứng thú. Vì vậy tổ chức

vui chơi là một con đường giáo dục được học sinh hưởng ứng tích cực và có

nhiều hiệu quả.

Vui chơi là một nhu cầu tự nhiên của con người, nếu nhà trường không

tổ chức thì học sinh cũng thường chủ động tiến hành các hoạt động vui chơi

của cá nhân hoặc của nhóm. Vì vậy cần xây dựng kế hoạch tổ chức, định

hướng và lôi cuốn học sinh vào các hoạt động vui chơi bổ ích, lành mạnh đáp

ứng mục tiêu giáo dục nhân cách của học sinh.

Tổ chức vui chơi đòi hỏi tính sáng tạo, linh hoạt cao của giáo viên và

nhà trường, nhất là trong sự hạn chế những điều kiện thực hiện các hoạt

động vui chơi cho học sinh như hiện nay (cơ sở vật chất, thời gian và con

người...)

Tuy nhiên việc tổ chức vui chơi trong dạy học và giáo dục đang được

chú trọng, đặc biệt là hình thức dạy học bằng trò chơi ở trên lớp; những trò

chơi tập thể trong buổi sinh hoạt đầu tuần trên sân trường; những chuyến du

lịch tham quan học tập... được học sinh hưởng ứng đầy thích thú do đáp ứng

đúng nhu cầu tâm lý của trẻ em. Giáo dục bằng con đường tổ chức vui chơi

thể hiện trình độ nghệ thuật cao của nhà giáo dục.

CÂU HỎI THẢO LUẬN

1. Ngoài các con đường giáo dục đã nêu còn có những con đường giáo

dục nào khác trong hệ thống giáo dục quốc dân, trong giáo dục gia đình, giáo

dục xã hội?

2. Công tác giáo dục học sinh trong nhà trường phổ thông hiện nay đã

tiến hành chủ yếu theo những con đường giáo dục nào? Anh/Chị nhận xét

như thế nào về thực trạng đó?

3. Các games show trên truyền hình có phải là hình thức biểu hiện của

con đường giáo dục “tổ chức vui chơi” hay không? Hãy đưa ra nhận xét về

tác dụng giáo dục của những games show đó?

Page 108: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

4. Bạn có nhận xét gì về việc thực hiện con đường giáo dục “tổ chức

lao động” trong nhà trường THPT hiện nay?

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - Nguyễn Sinh Huy - Nguyễn Văn Lê -

NXBGD, 1997.

2. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - Nguyễn An - ĐHSP TPHCM, 1998.

3. GIÁO DỤC HỌC HIỆN ĐẠI - Thái Duy Tuyên - NXBGD, 2001.

4. GIÁO DỤC HỌC - Phạm Viết Vượng NXB ĐHQG Hà Nội, 2000.

5. GIÁO DỤC HỌC -Một số vấn đề lý luận và thực tiễn- Hà Thế Ngữ-

NXB ĐH quốc gia Hà nội, 2001.

6. MỘT SỐ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC HỌC - Võ Quang Phúc, Lê Nguyên

Lương -1986 TPHCM.

7. LUẬT GIÁO DỤC - NXB Chính trị Quốc gia, 1999.

8. TỪ ĐIỂN GIÁO DỤC HỌC - Bùi Hiền, Nguyễn Văn Giao, Nguyễn

Hữu Quỳnh, Vũ Văn Tả- - NXB Từ điển bách khoa, 2001.

9. GIÁO DỤC VIỆT NAM TRƯỚC NGƯỠNG CỬA THẾ KỶ XXI - Phạm

Minh Hạc - NXB Chính trị Quốc gia, 1999.

10. VỀ PHÁT TRỂN TOÀN DIỆN CON NGƯỜI THỜI KỲ CÔNG

NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA - Phạm Minh Hạc - NXB Chính trị Quốc gia,

2001.

11. XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC - Võ Tấn Quang - NXB Đại học Quốc gia

Hà nội, 2001.

12. DẠY HỌC HIỆN ĐẠI - Đặng Thành Hưng - NXB ĐH Quốc gia Hà

nội, 2002.

13. QUÁ TRÌNH DẠY – TỰ HỌC - Nguyễn Cảnh Toàn - NXBGD, 1997.

Page 109: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

14. LÝ LUẬN DẠY HỌC ĐẠI HỌC - Lưu Xuân Mới - NXBGD, 2000.

15. TÂM LÝ HỌC NHÂN CÁCH - Nguyễn Ngọc Bích - NXBGD, 1998.

16. GIÁO DỤC HỌC - Nguyễn Ánh Tuyết (chủ biên) - NXB GD, 1998.

17. NỀN GIÁO DỤC CHO THẾ KỶ HAI MƯƠI MỐT: NHỮNG TRIỂN

VỌNG CỦA CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG - RAJA ROY SINGH - Viện

KHGD Hà nội, 1994.

18. GIÁO DỤC CON NGƯỜI HÔM NAY VÀ NGÀY MAI - Phạm Minh

Hạc - NXBGD. 1995.

19. LỊCH SỬ GIÁO DỤC - ROGER GAL, Lê Thanh Hoàng Dân, Trần

Hữu Đức (dịch), 1971.

20. NÓI CHUYỆN GIÁO DỤC THẾ GIỚI ĐỜI XƯA - Võ Quang Phúc,

sở Giáo dục TPHCM, 1992.

21. TÂM LÝ TRUYỀN THÔNG VÀ GIAO TIẾP - Nguyễn Thị Oanh- Đại

học Mở - Bán công TPHCM, 1995.

MỤC LỤCLời nói đầu

Bài mở đầu: Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CÚU GIÁO DỤC HỌC

1. Giáo dục học với việc giáo dục con người

2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu Giáo dục học

3. Cấu trúc chương trình học

4. Giới thiệu học phần “Giáo dục học đại cương”

Chương 1: GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC

1. Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt

2. Khái quát về Lịch sử ra đời của Giáo dục học

Page 110: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

3. Đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu Giáo dục học

4. Các khái niệm cơ bản của Giáo dục học

5. Hệ thống các ngành thuộc khoa học giáo dục - Mối quan hệ giữa

Giáo dục học và các khoa học khác

6. Định hướng nghiên cứu và phát triển Giáo dục học trong giai đoạn

hiện nay

Chương 2: GIÁO DỤC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH

1. Sự phát triển nhân cách con người

2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách

3. Giáo dục và sự phát triển nhân cách theo lứa tuổi

Chương 3: MỤC ĐÍCH -NHIỆM VỤ GIÁO DỤC

1. Khái niệm về Mục đích giáo dục

2. Mục đích giáo dục của hệ thống giáo dục Việt Nam

3. Nhiệm vụ giáo dục

4. Hệ thống giáo dục quốc dân

Chương 4: CÁC CON ĐƯỜNG GIÁO DỤC

1. Nhận thức chung về con đường giáo dục

2. Các con đường giáo dục

Tài liệu tham khảo

---//---

GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Biên soạn:

NGUYỄN THỊ BÍCH HỒNG - VÕ VĂN NAM

Phản biện: GS. BÙI NGỌC HỒ

Page 111: GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/571.GiaoDucHocDaiCuong.docx  · Web viewGIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Tài liệu Lưu Hành Nội Bộ của Khoa Tâm Lý Giáo dục Trường ĐHSP TP.HCM

đăng ký năm 2004. Ban Ấn Bản Phát Hành Nội bộ Trường ĐHSP chế bản,

sao chụp 1.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm theo Biên bản số 184/BCTGT ngày

04/11/2004. In xong ngày 12 tháng 11 năm 2004.