hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh ... - hcmahcma.vn/uploads/2017/5/4/la _ nguyen...
TRANSCRIPT
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN DUY HÙNG
LỄ HỘI PHỦ DẦY TRONG
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN DUY HÙNG
LỄ HỘI PHỦ DẦY TRONG
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC
Mã số: 62 31 06 40
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. PHẠM DUY ĐỨC
2. PGS.TS. PHẠM TRỌNG TOÀN
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
qui định.
Tác giả
Nguyễn Duy Hùng
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
CỦA ĐỀ TÀI 8
1.1. Tình hình nghiên cứu lễ hội Phủ Dầy và ảnh hưởng của nó đối với
đời sống văn hóa cộng đồng 8
1.2. Cơ sở lý thuyết 28
Chương 2: TỔNG QUAN CHUNG VỀ LỄ HỘI PHỦ DẦY 35
2.1. Tục thờ Mẫu và thờ Mẫu Tứ phủ ở Việt Nam 35
2.2. Khái quát về sự hình thành và phát triển của lễ hội Phủ Dầy 38
2.3. Giá trị đặc thù của lễ hội Phủ Dầy 48
2.4. Vai trò của lễ hội Phủ Dầy 56
Chương 3: TÁC ĐỘNG - ẢNH HƯỞNG QUA LẠI GIỮA LỄ HỘI PHỦ DẦY
VỚI ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG 62
3.1. Tác động tới đời sống văn hóa cộng đồng 62
3.2. Tác động của cộng đồng cư dân tới lễ hội Phủ Dầy 97
3.3. Đánh giá chung về tình hình tác động của lễ hội Phủ Dầy đối với
đời sống văn hóa cộng đồng 109
Chương 4: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO LỄ HỘI PHỦ DẦY TRONG
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG 115
4.1. Các nhân tố tác động đến sự biến đổi giá trị lễ hội Phủ Dầy hiện nay 115
4.2. Những xu hướng phát triển và biến đổi của lễ hội Phủ Dầy 130
4.3. Một số vấn đề đặt ra đối với việc bảo tồn, phát huy giá trị lễ hội Phủ Dầy
trong đời sống văn hóa cộng đồng 135
4.4. Một số khuyến nghị về giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị của lễ hội
Phủ Dầy 139
KẾT LUẬN 147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 162
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Số liệu phân loại thành phần cư dân cộng đồng địa phương ở
lễ hội Phủ Dầy 64
Bảng 3.2: Số liệu đánh giá tác động tích cực của lễ hội Phủ Dầy tới
đời sống văn hóa cộng đồng địa phương 67
Bảng 3.3: Số liệu đánh giá tác động tiêu cực của lễ hội tới đời sống văn
hóa cộng đồng địa phương 70
Bảng 3.4: Số liệu đánh giá mức độ tác động của các giá trị lễ hội Phủ
Dầy tới đời sống cộng đồng địa phương 75
Bảng 3.5: Số liệu đánh giá tầm quan trọng của vai trò lễ hội Phủ Dầy tới
đời sống cộng đồng địa phương 77
Bảng 3.6: Số liệu đánh giá mức độ tác động của lễ hội Phủ Dầy tới đời
sống của nhóm học sinh địa phương 81
Bảng 3.7: Số liệu phân loại thành phần nhóm cộng đồng cư dân thập
phương trong lễ hội Phủ Dầy 86
Bảng 3.8: Số liệu đánh giá mức độ tác động tích cực của lễ hội đến
đời sống văn hóa cộng đồng cư dân thập phương 88
Bảng 3.9: Số liệu đánh giá mức độ tác động tiêu cực của lễ hội tới
đời sống văn hóa cộng đồng cư dân thập phương 89
Bảng 3.10: Số liệu đánh giá mức độ tác động của giá trị lễ hội Phủ Dầy
đối với đời sống cộng đồng thập phương 91
Bảng 3.11: Số liệu đánh giá mức độ quan trọng của vai trò lễ hội Phủ Dầy
đối với đời sống cộng đồng thập phương 93
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lễ hội dân gian truyền thống và lễ hội Phủ Dầy (Vụ Bản, Nam Định) là
một bộ phận cấu thành quan trọng của văn hoá dân tộc nói chung và văn hóa tín
ngưỡng - tâm linh người Việt nói riêng. Là một đền/phủ thờ của nữ thần/thần
Mẫu trong tâm thức văn hóa Việt cổ truyền, Phủ Dầy là hiện thân của sự tích
hợp, kế thừa và phát triển của tục thờ nữ thần mang yếu tố nội sinh mà phát triển
thành tín ngưỡng thờ thần Mẫu. Từ đây, tín ngưỡng thờ thần Mẫu tiếp tục hỗn
dung với các tôn giáo ngoại lai (mang yếu tố ngoại sinh như Đạo, Phật, Nho), để
nâng cấp trở thành hệ thống thờ Mẫu Tam - Tứ phủ trong đời sống tâm linh Việt
Nam. Vị thần chủ Liễu Hạnh được tổng hợp từ tâm thức Mẹ trong văn hóa Việt
Nam, rồi được lịch sử hóa mà trở thành nhân thần, ngồi ở ngôi vị “tứ bất tử”
trong hệ thống thần linh đất Việt. Phủ Dầy đã trở thành thần điện đặc biệt, quan
trọng gắn với hành trạng, công đức, sự linh thiêng của thần chủ Liễu Hạnh nói
riêng và tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ nói chung. Trong quá trình phát triển, tín
ngưỡng lễ hội Phủ Dầy đã dần hoàn thiện và tạo ra những giá trị riêng có của
mình trong đời sống tâm linh Việt Nam. Những giá trị đó, theo thời gian đã ảnh
hưởng/tác động đến đời sống văn hóa cộng đồng ở khu vực châu thổ Bắc
Bộ/sông Hồng nói riêng và Việt Nam nói chung. Chính vì vậy, nghiên cứu sinh
(NCS) cho rằng việc nghiên cứu, đánh giá những ảnh hưởng, tác động, vai trò và
sự tương tác qua lại của loại hình lễ hội này đối với đời sống văn hóa cộng đồng
là hết sức cần thiết, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay. Nhất là, hoàn cảnh thực
tế của đời sống tâm linh hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề cho đời sống văn hóa
đương đại. Đặc biệt là, trong lĩnh vực quản lý văn hóa và những tác động của đời
sống tâm linh tới đời sống chính trị xã hội hiện nay.
Tín ngưỡng Tứ phủ và lễ hội Phủ Dầy có vai trò quan trọng trong đời
sống tâm linh của cộng đồng người Việt cổ truyền cũng như trong bối cảnh hiện
nay. Tuy nhiên, trong hành trình định hình, tồn tại, phát triển, tín ngưỡng thờ
Mẫu Tứ phủ và lễ hội Phủ Dầy cũng chịu trải qua những “cung bậc” thăng trầm
của thời cuộc - những giai đoạn lịch sử khác nhau. Có thời gian, tín ngưỡng Tứ
phủ và lễ hội Phủ Dầy bị ngăn cấm và coi là một sinh hoạt mang nhiều yếu tố mê
2
tín dị đoan, ảnh hưởng tiêu cực/xấu đến đời sống văn hóa cộng đồng. Tuy nhiên,
cho đến nay, tín ngưỡng Tứ phủ và lễ hội Phủ Dầy vẫn tồn tại trong dân gian,
phát triển một cách mạnh mẽ, tác động với nhiều mức độ khác nhau trong đời
sống tín ngưỡng của người Việt ở Bắc Bộ; và, bản thân nó cũng nhận sự tác
động trở lại của đời sống văn hóa cộng đồng. Chính vì vậy, nghiên cứu lễ hội
Phủ Dầy và những ảnh hưởng/tác động qua lại của giá trị tín ngưỡng này tới đời
sống văn hóa cộng đồng là không thể thiếu trong thế giới tâm linh Việt truyền
thống. Rồi chỉ ra được những vấn đề đặt ra cho lễ hội Phủ Dầy trong bối cảnh
đời sống xã hội hiện nay. Từ đó, cũng rút ra được những bài học trong công tác
bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội Phủ Dầy hiện nay và trong tương lai.
Lễ hội Phủ Dầy với các thành tố của nó như: cúng tế, hát văn, hầu đồng…
đang có những biến đổi phức tạp về nội dung cũng như hình thức và đặc biệt là
nhận thức của con người. Điều đó, đã dẫn đến nguy cơ làm mất đi những giá trị
đặc thù của lễ hội truyền thống nói chung, làm phương hại tới bản sắc văn hóa
dân tộc. Hoạt động của lễ hội Phủ Dầy đã thu hút một khối lượng không nhỏ
người dân tham gia. Đồng thời, lễ hội này cũng thu hút sự quan tâm, tìm hiểu
của các nhà nghiên cứu văn hóa ở Việt Nam và trên thế giới. Hiện tượng lên
đồng lại một lần nữa được nghiên cứu và phân tích ở nhiều phương diện, trong
đó có nhiều ý kiến có giá trị cả về mặt học thuật cũng như tính thời đại. Nhiều tài
liệu về Đạo Mẫu đã được xuất bản, không ít các cuộc hội thảo ở trong nước và
quốc tế được tổ chức như: Hội thảo quốc tế về hầu đồng nói riêng và Shaman
giáo nói chung (tổ chức tại Nam Định, do Viện Nghiên cứu Văn hoá chủ trì năm
2004). Hội thảo có sự tham gia của nhiều nhà khoa học trong nước cũng như
quốc tế, những nghiên cứu đã một lần nữa làm sáng tỏ thêm nhiều vấn đề của tín
ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam nói chung và nghi lễ lên đồng nói riêng. Hiện nay,
tín ngưỡng hầu đồng đã xây dựng hồ sơ và được công nhận là di sản văn hoá phi
vật thể của nhân loại. Điều đó cho thấy tín ngưỡng thờ Mẫu là một hiện tượng
văn hoá độc đáo, nó đóng vai trò quan trọng trong đời sống của người Việt nói
riêng và người dân Việt Nam nói chung. Trong diễn trình phát triển, đạo Mẫu
(bao gồm cả lễ hội) đã và đang có xu hướng loại bỏ dần những phức tạp của
chính nó để trở thành một dạng của diễn xướng dân gian tổng hợp mang màu sắc
3
văn hoá, nghệ thuật nhiều hơn là ma thuật, nghi lễ. Tuy nhiên, một số nơi vẫn
còn những hiện tượng lạm dụng tín ngưỡng thờ Mẫu (trong đó có lễ hội Phủ
Dầy) phục vụ cho mục đích cá nhân gây nên nhiều hậu quả xấu, việc nhìn nhận
về loại hình di sản này vẫn còn nhiều chiều hướng khác nhau. Để đánh giá đúng
về giá trị, vai trò của lễ hội Phủ Dầy, cũng như loại bỏ những yếu tố lạc hậu,
phản văn hóa… đối với đời sống văn hóa cộng đồng, cần phải có những nghiên
cứu cụ thể cho vấn đề này.
Bên cạnh các yếu tố tâm linh liên quan đến các nghi thức của lễ hội Phủ
Dầy, thì chính những hoạt động có tính chất kinh tế xã hội mang danh “dịch vụ
tâm linh” đang chi phối và tác động mạnh mẽ tới các mặt của đời sống văn hóa
cộng đồng. Không những thế, nó còn ảnh hưởng không nhỏ tới các phương
thức hoạt động của lễ hội Phủ Dầy. Yếu tố kinh tế, đã dần trở thành chủ đạo
trong các hoạt động của lễ hội Phủ Dầy; hoặc, chính yếu tố kinh tế đã chi phối
yếu tố tâm linh/niềm tin tín ngưỡng của lễ hội Phủ Dầy và ảnh hưởng trực tiếp
tới đời sống văn hóa cộng đồng cư dân. Tuy nhiên, tương tác qua lại của yếu tố
kinh tế trong lễ hội Phủ Dầy tới đời sống văn hóa cộng đồng ở những mức độ
đậm nhạt khác nhau.
Với những lý do kể trên, NCS đã chọn đề tài nghiên cứu "Lễ hội Phủ Dầy
trong đời sống văn hóa cộng đồng hiện nay" để hoàn thành luận án tiến sĩ của mình.
2. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung vào nghiên cứu đối tượng sau: đó là sự tác động của lễ
hội Phủ Dầy đối với đời sống văn hóa cộng đồng và ngược lại, những tác động
của cư dân cộng đồng đối với lễ hội Phủ Dầy. Hay diễn giải theo cách khác,
chính là sự tương tác qua lại giữa lễ hội Phủ Dầy đối với đời sống văn hóa cộng
đồng, trên các phương diện: ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất nông nghiệp, ảnh
hưởng đến công việc học tập, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, ảnh hưởng
đến mối quan hệ trong gia đình - xã hội, ảnh hưởng đến sức khỏe… Đặc biệt là,
luận án đề cập đến mức độ tác động của các giá trị lễ hội Phủ Dầy như: giá trị tín
ngưỡng tâm linh, giá trị giáo dục truyền thống lịch sử, giá trị thẩm mỹ nghệ
thuật, giá trị kinh tế xã hội… tới đới sống văn hóa cộng đồng.
4
Trong đó, để làm rõ các thành phần trong đối tượng nghiên cứu đó, NCS
tập trung khảo sát: phỏng vấn bằng bảng hỏi, phỏng vấn sâu…, bao gồm các
thành phần:
- Người tham gia vào hoạt động lễ hội (cả trực tiếp lẫn gián tiếp) như:
người dân địa phương (người dân địa phương không làm nghề dịch vụ và người
dân địa phương làm nghề dịch vụ) và du khách hành hương tới lễ hội Phủ Dầy.
- Nghi lễ lên đồng với tất cả những thành tố liên quan (trang phục, đạo cụ,
âm nhạc, nghệ thuật trình diễn...) và những thành viên là chủ thể, khách thể của
lễ hội Phủ Dầy: Thanh đồng, cung văn, hầu dâng, con nhang đệ tử, thủ nhang các
đền phủ…
2.2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.2.1. Mục đích nghiên cứu
- Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và vai trò của lễ hội Phủ Dầy đối
với đời sống văn hóa cộng đồng, luận án sẽ đi sâu vào đánh giá thực trạng tác
động của lễ hội Phủ Dầy đối với đời sống văn hóa cộng đồng. Từ đó nhằm chỉ ra
những vấn đề đang đặt ra cho lễ hội Phủ Dầy và phương hướng bảo tồn, phát huy
giá trị văn hóa của lễ hội này đối với đời sống văn hóa cộng đồng hiện nay.
2.2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích đánh giá những thành tựu nghiên cứu về tác động của lễ hội
Phủ Dầy đối với đời sống văn hóa cộng đồng.
- Xác định một số vấn đề lý luận/lý thuyết về giá trị của lễ hội thờ Mẫu Tứ
phủ nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng đối với đời sống văn hóa cộng đồng.
- Khảo sát đánh giá sự tương tác giữa lễ hội Phủ Dầy với đời sống văn hóa
cộng đồng hiện nay.
- Chỉ ra những vấn đề đang đặt ra và đưa ra khuyến nghị nhằm bảo tồn,
phát huy những giá trị của lễ hội Phủ Dầy trong đời sống văn hóa cộng đồng.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được luận án, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Luận án sử dụng phương pháp điền dã thực tế: quan sát, ghi chép mô tả,
phỏng vấn sâu các mẫu nghiên cứu để có thể định tính được tác động, ảnh hưởng
của lễ hội Phủ Dầy đối với đời sống văn hóa cộng đồng. Phương pháp này cho
5
phép NCS tạo dựng một cái nhìn tổng thể về lễ hội Phủ Dầy và định tính được sự
tương tác qua lại với đời sống văn hóa cộng đồng. Phương pháp này sẽ được tiến
hành trên cơ sở tham dự trực tiếp tại địa bàn nghiên cứu trong thời gian diễn ra lễ
hội cũng như ngoài thời gian lễ hội. Việc tiến hành phỏng vấn sâu sẽ được thực
hiện trên cơ sở chọn mẫu ngẫu nhiên và chọn mẫu có chủ đích. Các bước tiến
hành và câu hỏi phỏng vấn được xây dựng trên cơ sở xác định đối tượng, mục
đích, nội dung của luận án. Đối với việc chọn mẫu ngẫu nhiên: là do vào mùa lễ
hội, nên rất ít người/cư dân cộng đồng bỏ thời gian đi hội của mình giúp đỡ cho
người phỏng vấn; đối với chọn mẫu có chủ đích là do NCS cũng cần xác định cụ
thể các mẫu tiêu biểu trong quá trình phỏng vấn, phục vụ cho đối tượng và mục
đích nghiên cứu của đề tài.
- Tiếp theo, do tính chất của đối tượng nghiên cứu tương đối phức tạp, nên
trong quá trình triển khai luận án, tác giả cũng lưu ý sử dụng phương pháp đa
ngành/liên ngành như: Văn hoá học, Nhân học, Xã hội học, Sử học,... Trong việc
sử dụng phương pháp đa ngành này trong quá trình thực hiện luận án, NCS đã sử
dụng phương pháp của Văn hóa học - Nhân học để nghiên cứu, diễn giải và trình
bày kết quá của luận án. Phương pháp Sử học để định vị khung niên đại, sắp xếp
theo trình tự thời gian, luật nhân - quả để bổ trợ cho việc diễn giải và trình bày
kết quả trong quá trình thực hiện luận án, trên cơ sở diễn giải, rút ra những kết
luận khoa học dựa trên số liệu thống kê và sản phẩm định tính tại thực địa.
- Đặc biệt, NCS sử dụng phương pháp Xã hội học: sử dụng bảng hỏi để
điều tra thu thập số liệu, trên cơ sở đó để định lượng được những tương tác của
lễ hội Phủ Dầy đối với đời sống văn hóa cộng đồng. Phương pháp này được
NCS sử dụng để xây dựng bảng hỏi liên quan đến đối tượng và mục đích nghiên
cứu để tiến hành khảo sát, thu thập số liệu dưới dạng định tính. Trên cơ sở đó,
đánh giá mức độ tác động của lễ hội Phủ Dầy đổi với đời sống văn hóa cộng
đồng. Phương pháp điều tra xã hội học được tiến hành từng bước cơ bản từ: xây
dựng bảng hỏi trên cơ sở đề cương nghiên cứu chi tiết của luận án, đến việc
thành lập nhóm điều tra, tập huấn và tiến hành xác định mẫu để phỏng vấn. Các
thành viên trong nhóm điều tra trực tiếp phỏng vấn và điền vào bảng hỏi đối với
cộng đồng cư dân tại địa bàn nghiên cứu là khu vực Phủ Dầy, Vụ Bản, Nam
6
Định. Riêng đối với các mẫu phỏng vấn sâu, NCS trực tiếp phỏng vấn trên cơ sở
đặt câu hỏi liên quan đến nội dung cần nghiên cứu. Quá trình phỏng vấn sâu
được tiến hành tại các phủ và không gian của Phủ Dầy. Số phiếu thu thập sau
phỏng vấn được xử lý trên hệ thống SPSS để rút ra số liệu và tính phần trăm tác
động và mức độ ảnh hưởng, tương tác qua lại giữa lễ hội với cộng đồng cư dân.
- Ngoài ra, NCS còn sử dụng phương pháp chuyên gia để đưa ra những
đánh giá khách quan nhất về tác động, ảnh hưởng của lễ hội Phủ Dầy đối với đời
sống văn hóa cộng đồng. Phương pháp này, NCS đã tận dụng ý kiến của các nhà
nghiên cứu/chuyên gia về lĩnh vực văn hóa tâm linh (cụ thể là các nhà nghiên
cứu thờ Mẫu Tứ phủ như: Ngô Đức Thịnh, Trần Lâm Biền, Bùi Hoài Sơn…) để
làm sáng tỏ hoặc định hướng trong quá trình lý giải và hoàn thiện luận án.
4. Câu hỏi nghiên cứu
Để thực hiện luận án, chúng tôi đặt ra những câu hỏi nghiên cứu sau:
Sự tương tác qua lại giữa lễ hội Phủ Dầy đời sống văn hóa cộng đồng hiện
nay đã diễn ra như thế nào?
Để trả lời câu hỏi trên, chúng tôi đặt ra những câu hỏi cụ thể sau:
Các giá trị của lễ hội Phủ Dầy đã tác động đến đời sống văn hóa cộng
đồng cư dân địa phương như thế nào? Và ngược lại, cộng đồng cư dân địa
phương đã có tác động gì tới lễ hội Phủ Dầy?
Các giá trị của lễ hội Phủ Dầy đã tác động đến đời sống văn hóa cộng
đồng cư dân khách thập phương như thế nào? Và ngược lại, cộng đồng cư dân
khách thập phương đã có tác động gì tới lễ hội Phủ Dầy.
Những tác động của lễ lội Phủ Dầy đã ảnh hưởng đến những lĩnh vực nào
của đời sống văn hóa cộng đồng?
5. Phạm vi nghiên cứu của luận án
5.1. Về thời gian
Luận án tập trung nghiên cứu bối cảnh xã hội của lễ hội Phủ Dầy trong
thời điểm hiện nay (đương đại). Chính vì vậy, tư liệu được sử dụng trong quá
trình thực hiện luận án dựa trên hai nguồn cơ bản: 1. Nguồn tài liệu của các nhà
nghiên cứu đi trước, trong các lĩnh vực: văn hoá học, tôn giáo học, xã hội học,
tâm lý học tôn giáo…; 2. Nguồn tư liệu điều tra thực địa của NCS, được khai
7
thác từ phương pháp phỏng vấn sâu với những nghiên cứu trường hợp, điều tra
qua bảng hỏi, qua tư liệu quan sát tham dự trong nhiều năm gần đây để làm căn
cứ phân tích, đánh giá, trình bày kết quả của luận án.
5.2. Về không gian
Luận án tập trung vào nghiên cứu sự tác động - ảnh hưởng qua lại giữa lễ
hội Phủ Dầy với đời sống văn hóa cộng đồng ở hai dạng không gian: không gian
hẹp và không gian rộng. Không gian hẹp là NCS tập trung khảo sát lễ hội ở quần
thể di tích Phủ Dầy thuộc huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Không gian rộng là
thành phần cư dân địa phương và du khách hành hương từ khắp nơi về dự lễ hội.
Những thông tin mà tác giả đưa ra trong luận án cũng như những kết luận của
luận án chỉ có tính chất nhận diện lễ hội Phủ Dầy và tác động - ảnh hưởng qua
lại giữa lễ hội Phủ Dầy với đời sống văn hóa cộng đồng
6. Những đóng góp của luận án
6.1. Đóng góp về mặt lý luận
Luận án sẽ hệ thống hóa, khái quát hóa và làm rõ hơn một số vấn đề lý luận
về lễ hội Phủ Dầy trong đời sống văn hóa cộng đồng, nhìn từ góc độ văn hóa học.
6.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
- Thông qua phân tích, đánh giá những biến đổi trong lễ hội Phủ Dầy, luận
án nhận diện mối quan hệ tương tác giữa lễ hội này với đời sống văn hoá của cư
dân vùng đồng bằng/châu thổ Bắc bộ hiện nay.
- Trên cơ sở chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế của lễ hội Phủ Dầy,
luận án đề xuất, kiến nghị nhằm phát huy giá trị của lễ hội này trong đời sống
văn hoá của vùng đồng bằng Bắc bộ hiện nay.
- Luận án sẽ trở thành một tài liệu tham khảo cho các học giả trong và
ngoài nước về một hoạt động văn hóa tâm linh đặc thù của người Việt ở đồng
bằng/châu thổ Bắc Bộ nói riêng và Việt Nam nói chung. Đặc biệt, là các học giả
nghiên cứu về lễ hội nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học của tác giả đã
công bố liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án
gồm 4 chương, 13 tiết.
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LỄ HỘI PHỦ DẦY VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA
NÓ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG
1.1.1. Những công trình đề cập đến vấn đề lý luận chung về lễ hội
Đó là những bài báo khoa học, những cuốn sách chuyên khảo có tính chất
lý luận/lý thuyết tạo nền tảng nhận thức, quan điểm cho những nghiên cứu lễ hội
cụ thể của các học giả tiền bối là vô cùng quan trọng đối với người làm nghiên
cứu nói chung. Các nghiên cứu có tính chất lý luận này, là tiền đề cho tác giả
tiếp nhận và vận dụng để thực hiện luận án của mình. Trong đó, bài viết Mấy
nhận thức về lễ hội cổ truyền của Ngô Đức Thịnh [110] đã đưa ra một quan điểm
mới về khái niệm lễ hội cổ truyền. Theo ông, lễ hội là một hoạt động tín ngưỡng
dân gian tổng thể: trong lễ có hội, trong hội có lễ. Điều này đã khác với tư duy
trước đó thường phân biệt/tách biệt lễ hội thành hai yếu tố: lễ và hội. Tuy nhiên,
trong thực tế, rất nhiều nghi thức lễ đã được biểu hiện dưới dạng hội (trò chơi/trò
diễn) và ngược lại, rất nhiều trò chơi/trò diễn gắn liền với ý nghĩa lễ nghi, thiêng
liêng. Quan điểm này của Ngô Đức Thịnh, theo tác giả của luận án là đúng đắn
phù hợp trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và diễn giải các vấn đề của luận án.
Đây là một cái nhìn có tính chất tổng thể, không chỉ đặt đối tượng nghiên cứu
trong chính nó, mà còn đặt nó trong mối quan hệ, tương tác qua lại với các mặt
của đời sống xã hội. Điều này cũng phù hợp với quan niệm/khái niệm tổng thể
của M. Mauss (sau này được khái quát, phát triển thành lý thuyết tổng thể trong
quá trình nghiên cứu của Ngô Đức Thịnh).
Marcel Mauss (1872 - 1950) là một nhà xã hội người Pháp, ông là người
kế tục, cộng sự của Émile Durkheim. Trong quá trình nghiên cứu một hiện
tượng phổ biến trong các xã hội nguyên thủy đó là “sự tặng quà”, đúng hơn là
sự trao đổi quà tặng. Nguyên lý của việc trao đổi này tuy không còn là nguyên
lý của những xã hội theo chế độ cống nạp thuần túy, nhưng chưa đạt đến
nguyên lý của thị trường. Trong đó, ngoài sự biếu tặng lẫn nhau, người ta còn
9
tặng biếu thần linh (hiến tế) bằng cách đập phá, đốt cháy, đánh chìm quà tặng.
Sự phá hủy quà tặng trong hiến tế sẽ được thần linh bảo trợ và kích thích sản
xuất. Sự trao đổi quà tặng, như vậy là tuân theo một hệ thống tượng trưng,
không thể đơn giản quy về một hiện tượng kinh tế hay bất kỳ một chiều kích
riêng biệt nào như pháp lý, tôn giáo, đạo đức, thẩm mỹ… Quà tặng đã là một
hiện tượng xã hội tổng thể, hay chính quà tặng, tính xã hội tổng thể được thể
hiện. Chính vì vậy, trong quá trình thực hiện luận án, NCS sử dụng lý thuyết
tổng thể của M. Mauss để tìm hiểu, đặt lễ hội Phủ Dầy trong đời sống văn hóa
cộng đồng hiện nay trong mối quan hệ đa chiều của xã hội. Từ đó, thông qua
nghiên cứu trường hợp Lễ hội Phủ Dầy ở Nam Định để đánh giá những ảnh
hưởng, tác động của hoạt động tín ngưỡng - lễ hội này tới đời sống cá nhân,
cộng đồng và ngược lại [76]. Trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay, những
dư tồn của các hình thái kinh tế, quan niệm về “quà tặng” không mất đi, đặc
biệt là việc “tặng quà cho thần linh” vẫn còn tồn tại và còn trở nên phát triển.
Chính vì vậy, NCS mong muốn vận dụng được quan niệm/lý thuyết này của
Mauss để làm sáng tỏ mối tương tác - ảnh hưởng qua lại giữa lễ hội Phủ Dầy
với đời sống văn hóa cộng đồng.
Ngoài ra, không thể bỏ qua cuốn Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo
ở Việt Nam của Đặng Nghiêm Vạn [133], mặc dù nội dung cuốn sách đề cập chủ
yếu đến vấn đề tôn giáo nói chung và tôn giáo ở Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên,
phần cơ sở lý luận (chương 1, 2, 3) của cuốn sách đã cung cấp nền tảng lý thuyết
quan trọng để tác giả luận án có thể kế thừa, triển khai và thực hiện diễn giải các
vấn đề một cách hiệu quả nhất. Trong đó, lễ hội cổ truyền nói chung và lễ hội
thờ Mẫu Tứ phủ nói riêng luôn được coi là một phần quan trọng của đời sống
văn hóa tâm linh (gồm cả tôn giáo và tín ngưỡng). Mục đích của cuốn sách là
nghiên cứu một số vấn đề lý luận liên quan đến vấn đề tôn giáo ở Việt Nam,
nghiên cứu vai trò và đặc điểm của tôn giáo ở Việt Nam trong đời sống hiện nay.
Đặc biệt là đời sống văn hóa khi đất nước đang bước vào thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, chủ động hội nhập vào xu thế toàn cầu hóa. Tuy nhiên, mục
đích của cuốn sách tập trung vào nghiên cứu các vấn đề lý luận của tôn giáo và
10
tôn giáo ở Việt Nam, nên hầu như không đề cập đến các loại hình tín ngưỡng,
trong đó có tín ngưỡng thờ Mẫu.
Bên cạnh đó, cuốn Các hình thức tôn giáo sơ khai của A. Tôcarep [124]
được coi là một trong những tài liệu quan trọng về mặt lý luận đối với tác giả
trong quá trình thực hiện luận án. Cuốn sách không chỉ đề cập đến những hình
thức tôn giáo sơ khai (bao gồm cả tín ngưỡng nguyên thủy) một cách chung
chung, mà còn cung cấp một hệ thống lý thuyết đầy đủ, với cách lập luận, phân
tích sắc sảo, logic… về các loại hình tôn giáo, tín ngưỡng này. Cuốn sách đã tái
hiện được cơ bản diện mạo các hình thức tôn giáo sơ khai (có tính chất nền tảng
cho các tôn giáo sau này) trên thế giới. Từ đó, với tư duy và luận thuyết chung
như vậy, NCS có thể kế thừa, vận dụng những quan điểm về tôn giáo, tín
ngưỡng trong quá trình thực hiện luận án.
Cuốn Quản lý lễ hội truyền thống của người Việt của Bùi Hoài Sơn [98],
công trình đề cập đến các hoạt động của quản lý lễ hội của người Việt ở châu thổ
Bắc Bộ từ năm 1945 đến nay. Đó là một hệ thống các văn bản pháp quy, quy
định của các cơ quan quản lý nhà nước đối với lễ hội. Đặc biệt là việc triển khai
những văn bản đó tới các hoạt động thực tiễn của lễ hội trong bối cảnh hiện nay.
Công trình nghiên cứu này của Bùi Hoài Sơn đã đề cập đến việc quản lý lễ hội ở
Việt Nam một cách đầy đủ, toàn diện và bài bản nhất đứng từ góc nhìn của khoa
học quản lý/người làm quản lý. Trong đó, các lễ hội cổ truyền trong quá trình
hoạt động của mình, đều chịu sự chi phối của cơ quan quản lý nhà nước thông
qua các văn bản pháp quy (bộ luật, nghị định, quy chế…). Cuốn sách của Bùi
Hoài Sơn đã giúp cho NCS thực hiện nghiên cứu đề tài của mình luôn đặt lễ hội
Phủ Dầy trong sự quản lý của nhà nước và nhận diện một nghiên cứu lễ hội
truyền thống từ góc nhìn quản lý, nhất là đối với lễ hội Phủ Dầy. Cuốn Lễ hội cổ
truyền của người Việt cấu trúc và thành tố của Nguyễn Chí Bền [6]. Cuốn sách
là một công trình nghiên cứu tổng thể về các loại hình lễ hội truyền thống trên
lãnh thổ Việt Nam được tác giả tiếp cận dưới góc nhìn cấu trúc và thành tố.
Công trình nghiên cứu này đã đặt lễ hội cổ truyền Việt Nam nói chung và lễ hội
ở châu thổ Bắc Bộ nói riêng trong mối quan hệ, tương tác với nhau trên nền tảng
lý thuyết cấu trúc luận và các thành tố vốn có của nó. Với góc nhìn riêng có của
11
mình, tác giả cuốn sách đã cho thấy các mặt của lễ hội truyền thống Việt Nam
trong mối quan hệ, tương tác với mọi phương diện của đời sống xã hội. Công
trình nghiên cứu này của Nguyễn Chí Bền đã giúp cho NCS có được cái nhìn
bao quát hơn về lễ hội cổ truyền ở Việt Nam trên cả phương diện lý thuyết lẫn
thực tiễn. NCS coi đây là công trình vừa mang tính lý thuyết vừa mang tính tổng
kết cao được rút ra từ thực tế của lễ hội trên khắp các vùng miền ở Việt Nam.
Đặc biệt là, trên cơ sở lý thuyết, tác giả đã chỉ ra được kết cấu/cấu trúc và thành
tố cơ bản của một lễ hội cổ truyền ở Việt Nam nói chung và ở châu thổ Bắc Bộ
nói riêng.
Những công trình có tính chất lý luận chung về tôn giáo tín ngưỡng đã
được xuất bản khá nhiều. Tuy nhiên, những công trình/tác phẩm đề cập đến
những vấn đề lý luận chung về tôn giáo tín ngưỡng ở Việt Nam chưa có nhiều.
Những công trình nghiên cứu kể trên là những cuốn sách, bài báo khoa học tiêu
biểu liên quan trực tiếp đến công việc thực hiện luận án, trong đó, bài viết của
Ngô Đức Thịnh về nhận thức mới về lễ hội như một hiện tượng tổng thể đã giúp
tác giả luận án có cách tiếp cận đa chiều, nhiều góc độ. Cùng với quan điểm của
M. Mauss, tác giả có thể xây dựng khung lý thuyết trong quá trình thực hiện
nghiên cứu, đánh giá tác động qua lại giữa lễ hội thờ Mẫu đối với mọi mặt của
đời sống cộng đồng. Đối với công trình của Đặng Nghiêm Vạn, phần lý luận
thiên nặng về lý thuyết tôn giáo học và từ đó soi chiếu đến đời sống tôn giáo ở
Việt Nam, mà chưa đề cập đến các vấn đề tín ngưỡng nói chung (trong đó có tín
ngưỡng thờ Mẫu). Mặc dù vậy, công trình của Đặng Nghiêm Vạn cũng cung cấp
cho tác giả luận án hệ thống lý luận cơ bản về tôn giáo ở Việt Nam nói riêng,
làm tiền đề lý luận cho việc thực hiện luận án. Công trình của A. Tôcarep là hệ
thống lý luận/lý thuyết về tôn giáo tín ngưỡng nói chung. Đây chính là tiền đề
quan trọng cho các nhà nghiên cứu về tôn giáo tín ngưỡng nói chung và cá nhân
tác giả luận án nghiên cứu về lễ hội thờ Mẫu nói riêng. Những công trình của các
tác giả tiêu biểu kể trên cũng đã đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp, nhiều hoặc ít liên
quan tới đề tài của luận án. Tác giả luận án đã tiếp thu, vận dụng trong quá trình
thực hiện nghiên cứu của mình.
12
1.1.2. Những nghiên cứu về lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ và lễ hội Phủ Dầy
Để có cái nhìn tổng quan về tình hình nghiên cứu lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ
nói chung và lễ hội Phủ Dầy (Nam Định) nói riêng, chúng tôi chia thành những
nhóm công trình nghiên cứu sau:
Các công trình nghiên cứu đề cập trực tiếp tới lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ nói
chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng không nhiều. Tuy nhiên, trong các công trình
nghiên cứu về tín ngưỡng Việt Nam, đạo Mẫu nói chung, thì các hoạt động có
tính chất nghi lễ liên quan đến lễ hội được đề cập đến một cách gián tiếp. Chính
vì vậy, để nhận diện rõ hơn các công trình nghiên cứu của học giả đi trước, tác
giả luận án phân loại thành những nhóm vấn đề sau:
+ Các công trình nghiên cứu lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ
Công trình viết về lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ nói chung có một khối lượng
không nhỏ ở dưới dạng các sách chuyên khảo và bài báo khoa học. Tuy nhiên,
không có những công trình chuyên khảo (dưới dạng sách) riêng cho lễ hội thờ
Mẫu Tứ phủ, mà nó được lồng ghép vào các công trình chuyên khảo về Đạo
Mẫu nói chung.
Trước hết, có thể kể đến Le Culte des immortels en Annam (Việc thờ cúng
các vị Thần bất tử ở Việt Nam, Imprimerie D’Extrême - Orient của Nguyễn Văn
Huyên [45]. Đây là một tập chuyên luận đề cập đến các vị thần linh Việt nói
chung và các nữ thần nói riêng. Trong đó, thần nữ Liễu Hạnh được đề cập đến từ
nguồn gốc hình thành phát triển trong đời sống tâm thức dân gian Việt Nam.
Thân phận của vị thần nữ (được coi là tứ bất tử này) cũng chìm nổi long đong
trong mối quan hệ, tương tác với các thần linh đất Việt khác. Đây là một công
trình nghiên cứu tương đối toàn diện, đầy đủ và cách phân tích sắc sảo về những
loại hình tín ngưỡng bản địa với các vị thần linh của loại hình đó. Trong quá
trình định hình, tồn tại, phát triển, các loại tín ngưỡng đã có những xung đột, va
chạm, thậm chí loại bỏ nhau, thần Mẫu Liễu Hạnh cũng không phải là trường
hợp ngoại lệ. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, học giả Nguyễn Văn Huyên cũng
chưa đề cập đến lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ, đặc biệt là trường hợp lễ hội Phủ Dầy.
Thứ hai, nhóm tác giả Trần Quốc Vượng, Lê Văn Hảo và Dương Tất Từ
đã cho xuất bản cuốn Mùa xuân và phong tục Việt Nam [138]. Cuốn sách đề cập
13
đến những phong tục truyền thống của người Việt, trong đó có tục thờ nữ Thần
và tín ngưỡng thờ Mẫu. Tuy nhiên, việc nghiên cứu, đánh giá và những tác động
tới đời sống của cộng đồng lại chưa được nhóm tác giả đề cập đến. Nhưng,
những quan điểm, thông tin, kiến thức về các tục thờ nói chung và tục thờ Mẫu ở
Việt Nam sẽ được tác giả kế thừa trong quá trình thực hiện luận án.
Thứ ba, cuốn Các nữ thần ở Việt Nam của Mai Thị Ngọc Chúc, Đỗ Thị
Hảo [17]. Đây là một công trình nghiên cứu tổng hợp về các nữ thần ở Việt
Nam, về nguồn gốc, quá trình hình thành, sự thiêng hóa cũng như vai trò và tầm
ảnh hưởng của những thần nữ này đối với đời sống tâm linh của cộng đồng
người Việt nói riêng và người Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, trong cuốn sách
này, tác giả Đỗ Thị Hảo cũng chưa đề cập đến lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ, trong đó
có Phủ Dầy ở Nam Định.
Thứ tư, cuốn Thần Người và đất Việt của Tạ Chí Đại Trường [129]. Nội
dung cuốn sách đã dựng lên diện mạo của các thần linh đất Việt, trong đó các nữ
thần, Mẫu… được thể hiện sinh động dưới góc nhìn độc đáo, sắc sảo. Tạ Chí Đại
Trường đã cho thấy sự hình thành, phát triển và những va đập, chìm nổi của các
thần linh Việt trong diễn trình lịch sử dân tộc. Ông cũng chỉ ra mối quan hệ
chằng chéo, tiếp nhận, ảnh hưởng lẫn nhau của các vị thần trong bối cảnh giao
thoa giữa các vùng miền, các tôn giáo và tôn giáo với tín ngưỡng… Đây là một
trong những cuốn sách đặc biệt xuất sắc của học giả Tạ Chí Đại Trường khi
nghiên cứu sang vấn đề văn hóa tâm linh với tư cách là một nhà sử học. Ông
cũng chỉ ra những ảnh hưởng, tiếp nhận, hòa trộn tâm linh giữa các vùng miền
trên lãnh thổ Việt Nam của hệ thống nữ thần linh đất Việt, trong đó có Mẫu Liễu
Hạnh - Vị thánh Mẫu được coi là một trong “Tứ bất tử” của người Việt.
Cuốn Hát Văn của Ngô Đức Thịnh [106], nội dung đề cập chủ yếu đến
một số vấn đề cơ bản của tín ngưỡng thờ Mẫu nói chung và nghi thức lên
đồng/hầu đồng nói riêng. Trong đó, ông tập trung vào khảo sát các nghi thức hát
văn và lên đồng. Từ đây, Ngô Đức Thịnh cũng chỉ ra những giá trị nghệ thuật,
tín ngưỡng tâm linh của hát văn. Cùng với những đánh giá, phân tích khoa học
về hát văn, ông đã sưu tầm bài bản, nội dung ca từ của loại hình diễn xướng tâm
linh này. Việc sưu tầm nội dung, câu chữ, lời bài hát trong hát văn gắn với đạo
14
Mẫu là hết sức quan trọng và cần thiết. Nó không chỉ cung cấp cho chúng ta lời
ca trong những điệu hát văn, mà trong đó còn là nội dung tư tưởng, nguồn gốc
lịch sử các thần linh trong hệ thống và giá trị nghệ thuật nhân văn. Việc nghiên
cứu về lễ hội Tứ phủ nói chung và ở Phủ Dầy nói riêng mà không khai thác, đề
cập đến nội dung của hát văn quả là thiếu sót, chưa đầy đủ.
Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu ở Việt Nam, cuốn sách gần như liên tục được
tái bản, sửa chữa, có bổ sung vào các năm 2001, 2007, và 2010 [107]. Sau mỗi
lần tái bản như vậy, việc sửa chữa bổ sung không chỉ thuần túy là thêm thắt tư
liệu, mà còn có những thay đổi về nhận thức, quan điểm nghiên cứu. Chính vì
vậy, phiên bản năm 2010 của cuốn sách về cơ bản có nhiều điểm ưu việt so với
các phiên bản trước đó. Theo tác giả Ngô Đức Thịnh: Thứ nhất, tên cuốn sách đã
bỏ chữ “ở”, để khẳng định ở Việt Nam đã hình thành một tín ngưỡng thờ Mẫu
(nữ thần) khác biệt so với giá trị phổ biến trên thế giới. Thứ hai, các phiên bản
trước (1996, 2001, 2007), sau phần trình bày hệ thống thờ Mẫu, mà chủ yếu là
Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, còn các chương sau đi vào các hiện tượng thờ Mẫu ở địa
phương (Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ), thì phiên bản 2010 xây dựng hệ thống thờ
Mẫu với ba cấp độ:
+ Thờ Nữ thần, Mẫu thần và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, sự tác động và
chuyển hóa giữa chúng
+ Khái quát ba dạng thức thờ Mẫu đầu tiêu biểu cho Bắc, Trung, Nam với
các đặc trưng địa phương
+ Quan trọng hơn, với mỗi vùng như vậy, cuốn sách tập trung nghiên cứu
các vị Thánh Mẫu tiêu biểu, như Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở Bắc Bộ, Thiên Ya Na
- Pô Inư Nagar ở Trung Bộ và Bà Chúa Xứ, Bà Đen, Thiên Hậu ở Nam Bộ. Hệ
thống trình bày này giúp chúng tôi vừa thể hiện được tính thống nhất lại vừa thể
hiện được tính đa dạng của Đạo Mẫu Việt Nam.
Thứ ba, nếu như các phiên bản trước chủ yếu mới đi vào xây dựng và
trình bày tính hệ thống của Đạo Mẫu, cho người đọc có ý niệm chung, giống như
cái khung của ngôi nhà, thì phiên bản này, một mặt tiếp tục xây dựng cái khung
chung ấy, nhưng quan trọng hơn là nghiên cứu Đạo Mẫu từ khía cạnh xã hội và
con người, từ cộng đồng tới cá nhân, tức là muốn phả vào cái bộ khung có phần
15
khô cứng ấy hơi thở, sức sống, làm cho nó có phần sinh động hơn. Nghiên cứu
các chiều kích khác nhau của môi trường xã hội, lịch sử và văn hóa với hiện
tượng Đạo Mẫu theo lý thuyết xã hội tổng thể của M. Mauss.
Thứ tư, cuốn sách này đi sâu vào nghiên cứu Đạo Mẫu chứ không nghiên
cứu tục Lên đồng, tuy nhiên, đây là hiện tượng vừa đồng nhất và vừa khác biệt.
Do vậy, tác giả cuốn sách luôn đặt chúng trong mối quan hệ chung riêng, tổng
thể và bộ phận.
Thứ năm, lần xuất bản năm 2010 này, ngoài 100 bài Hát văn đã công bố
trong lần xuất bản trước (năm 1996, tập 2), cuốn sách đã được tác giả bổ sung
đáng kể những những tư liệu thành văn liên quan tới các vị Thánh Mẫu, nhất là
Mẫu Liễu Hạnh. Đây là phần tài liệu vô cùng quý giá đối với những người
nghiên cứu nói chung và tác giả luận án nói riêng.
Cuốn Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc người ở Việt
Nam và châu Á của Ngô Đức Thịnh [114]. Đây là một cuốn sách tập hợp nhiều
bài viết của các tác giả khác nhau liên quan đến vấn đề của Đạo Mẫu và các
sinh hoạt tâm linh liên quan. Mặc dù, là tập hợp các bài viết của nhiều tác giả
khác nhau, nhưng nhìn chung nội dung cuốn sách tập trung vào ba vấn đề cơ
bản: một là, đạo Mẫu ở Việt Nam; hai là, các hoạt động lên đồng của người
Việt; ba là các shaman của các tộc người thiểu số ở Việt Nam. Trong đó, có
nhiều bài viết đề cập trực tiếp đến lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ nói chung và ở Phủ
Dầy nói riêng. Không những thế, vị thần chủ Liễu Hạnh với nơi thờ Phủ Dầy,
Nam Định đã trở thành tâm điểm nghiên cứu của các học giả. Đặc biệt, các
nghi thức lên đồng (một nghi thức quan trọng của tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ,
nhất là trong lễ hội Tứ phủ) đã trở thành đối tượng quan trọng để nghiên cứu
xem xét. Những đánh giá, so sánh với các hoạt động lên đồng (có tính chất
shaman) của các tộc người thiểu số khác ở Việt Nam như: Tày, Thái, Mường,
Chăm,... Đây là một cuốn sách quan trọng để tác giả luận án có thể khai thác
trong quá trình thực hiện luận án.
Cuốn Lên đồng hành trình của thần linh và thân phận của Ngô Đức Thịnh
[116]. Đây là một chuyên khảo về nghi thức lên đồng gắn liền với tín ngưỡng
thờ Mẫu Tứ phủ ở Việt Nam trong bối cảnh cảnh đối sánh với các nghi thức lên
16
đồng của các tộc người thiểu số khác. Qua đây, tác giả Ngô Đức Thịnh đã tái
hiện một bức tranh sinh động về thân phận những ông đồng, bà đồng, thanh
đồng... trong nghi thức sinh hoạt thờ Mẫu Tứ phủ. Nghi thức lên đồng đã trở
thành đối trung tâm với những yếu tố cấu thành lên nó. Gương mặt của các thần
linh trong điện Mẫu Tứ phủ cũng qua sự thăng giáng vào các thầy đồng đã trở
nên rõ ràng, đa dạng và sinh động hơn đối với đời sống tâm linh. Các yếu tố như:
thần linh, thầy đồng, trang phục, âm nhạc (cung văn, nhạc cụ), điện thờ,... đã hòa
quyện, tạo nên một nghi thức lên đồng hoàn hảo. Qua những trường hợp cụ thể,
Ngô Đức Thịnh đã đưa ra những đánh giá, nhận định, lý giải thuyết phục người
đọc về hiện tượng lên đồng vốn đang gây nhiều tranh cãi trong đời sống hiện
nay. Đây là một chuyên khảo quan trọng cho tác giả của luận án khi tiến hành
nghiên cứu lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ.
Cuốn Văn hóa thờ nữ thần - Mẫu ở Việt Nam và châu Á, bản sắc và giá trị
của Ngô Đức Thịnh [119]. Cuốn sách là tập hợp các bài viết của các học giả
trong và ngoài nước được trình bày trong Hội thảo cùng tên do Trung tâm
nghiên cứu và bảo tồn văn hóa tín ngưỡng Việt Nam, Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch Nam Định, Hội Folklore châu Á tổ chức. Từ cuốn sách này, tục thờ các
nữ thần, thần Mẫu Việt Nam được đặt trong mối liên hệ, so sánh đối chiếu với
tín ngưỡng này với các nước trong khu vực châu Á. Trong đó, hệ thống thờ nữ
thần, thờ Mẫu ở Việt Nam được dựng lên khá sinh động, từ những trường hợp
được thờ cúng phổ biến như Mẫu Tam/Tứ phủ, Mẫu Liễu Hạnh... đến các trường
hợp đơn lẻ có tính chất địa phương. Bên cạnh đó, hiện tượng lên/hầu đồng cũng
được các tác giả quan tâm đề cập khá chi tiết. Đây là một tập hợp những bài viết
của nhiều tác giả về tín ngưỡng thờ Mẫu nói chung và lễ hội Phủ Dầy ở Nam
Định nói riêng.
Ngoài các công trình của Ngô Đức Thịnh, có bài viết Tục thờ Mẫu và
những truyền thống văn hóa dân gian Việt Nam của Đinh Gia Khánh [51]. Công
trình đã khái lược lại được và chỉ ra nguồn gốc, những điều kiện hình thành tâm
thức coi trọng người phụ nữ trong văn hóa Việt Nam, để từ đó định hình và phát
triển các tục thờ Nữ thần. Bên cạnh việc bài báo chỉ ra được hệ thống thần Mẫu
cơ bản ở Việt Nam, Đinh Gia Khánh cũng nhấn mạnh đến tục thờ Mẫu Liễu
17
Hạnh trong tương quan với hệ tục thờ Mẫu nói chung của người Việt. Ông cho
rằng, Mẫu Liễu Hạnh đã xuất hiện trong đạo Tam phủ như là một sự bổ sung tất
yếu cho đạo Tam phủ để đáp ứng tình cảm của nhân dân. Vì khác với các Mẫu
khác (Thượng Thiên, Thượng Ngàn, Mẫu Thoải), Mẫu Liễu Hạnh có nguồn gốc
xuất thân trong đời sống thực, gần gụi với con người. Đinh Gia Khánh cũng chỉ
ra, Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện vào thế kỷ XVI, thay vì ban phúc, bà đi trừng phạt
những kẻ ác, chống lại sự độc đoán của triều đình. Với sự xuất hiện của Mẫu
Liễu Hạnh, thì đạo Tam phủ đã phát triển, trở thành đạo Tứ phủ.
Công trình Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam của
Nguyễn Đức Lữ [67]. Đây là một tập hợp những bài viết của nhiều tác giả đề cập
đến 2 vấn đề cơ bản: Thứ nhất, những bài viết có tính chất lý luận về tôn giáo tín
ngưỡng và tôn giáo tín ngưỡng ở Việt Nam. Phần này, tác giả Nguyễn Đức Lữ
đặc biệt tập trung nghiên cứu vai trò của tín ngưỡng dân gian trong đời sống xã
hội Việt Nam. Thứ hai, những bài viết đề cập tới các loại hình tín ngưỡng dân
gian cụ thể, trong đó có công trình viết trực tiếp đến tín ngưỡng thờ Mẫu và lễ
hội điển hình trong tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam. Có thể nói, đây là một
trong những công trình vừa đề cập đến vấn đề lý luận, nhận thức, vừa đề cập đến
các vấn đề cụ thể của mỗi loại hình tín ngưỡng dân gian cơ bản ở Việt Nam.
Chính điều này đã làm công trình này đảm bảo tính khoa học trên hai khía cạnh lý
luận và thực tiễn. Từ đây, các tín ngưỡng dân gian, trong đó có tín ngưỡng thờ Mẫu
được nhìn nhận đánh giá dựa trên nền tảng lý thuyết và nhận thức mới. Chính vì
vậy, tín ngưỡng dân gian và đạo Mẫu ở Việt Nam được đánh giá đúng với vai trò,
chức năng của nó trong đời sống xã hội và cộng đồng. Công trình do Nguyễn Đức
Lữ chủ biên không chỉ cho tác giả luận án kế thừa những nội dung nghiên cứu, mà
còn cả phương pháp, kỹ năng khi nghiên cứu một vấn đề khoa học.
Công trình Văn hóa và phong tục của Hoàng Quốc Hải [33] là một tập
hợp các bài viết về phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa Việt Nam
nói chung. Trong đó, bài viết về “Tín ngưỡng thờ Mẫu và tục hầu bóng” đã đưa
ra một cách kiến giải về nguồn gốc tục thờ Mẫu nói chung và Mẫu Liễu Hạnh
nói riêng. Ông cũng chỉ ra việc thờ cúng Mẫu Liễu xuất hiện muộn so với tín
ngưỡng thờ Mẫu nguyên thủy của người Việt và nghi thức hầu bóng/lên đồng là
18
một sản phẩm đặc thù của loại hình tín ngưỡng này. Tuy nhiên, bài viết của
Hoàng Quốc Hải chỉ mang tính chất tổng hợp giới thiệu chung chung, cho nên
nó chưa thành một nghiên cứu chuyên khảo có giá trị cao về khoa học.
Ngoài những công trình nghiên cứu về Mẫu Tứ phủ và lễ hội Tứ phủ như
đã đề cập, thì không thể không nhắc đến cuốn kỷ yếu hội thảo Quốc Mẫu Tây
Thiên Vĩnh Phúc trong Đạo Mẫu ở Việt Nam [84]. Đây là một tập hợp những
tham luận của các nhà khoa học trong nước về hiện tượng thờ Mẫu nói chung ở
Vĩnh Phúc, quá trình hình thành, phát triển và sự phụng thờ Quốc Mẫu Tây
Thiên. Khẳng định vai trò của Mẫu Tây Thiên ở Vĩnh Phúc trong hệ thống tín
ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam. Trong đó, quá trình hình thành, phát triển của Mẫu
Tây thiên được nhìn nhận trong sự tương tác với các loại hình tín ngưỡng, tôn
giáo khác ở Vĩnh Phúc nói riêng và Việt Nam nói riêng. Đặc biệt bài viết Di tích
và lễ hội Tây Thiên - tiềm năng và triển vọng của tác giả Lê Hồng Lý [73], bài
viết đề cập đến trong mối tương quan với tiềm năng kinh tế và phát triển du lịch.
Tham luận của Lê Hồng Lý ngoài việc đề cập đến hệ thống cảnh quan di tích của
không gian lễ hội Tây Thiên, ông còn đề cập đến quá trình phục hưng của tín
ngưỡng - lễ hội Tây Thiên gắn với thập phương khách hành hương. Những con
số về số lượng khách đến Tây Thiên trong các năm của thập niên 90 (thế kỷ XX)
đã chỉ ra tiềm năng phát triển của loại hình tín ngưỡng - lễ hội này. Qua đó, ông
khẳng định, lễ hội Tây Thiên là một Yên Tử, một chùa Hương của Vĩnh Phúc; lễ
hội Tây Thiên là một hoạt động du lịch sinh thái tâm linh đầy hấp dẫn; đi hội
Tây Thiên là sự khám phá về văn hóa tộc người ở Vĩnh Phúc; lễ hội Tây Thiên là
một tiềm năng kinh tế lớn của Vĩnh Phúc. Trên cơ sở đó, Lê Hồng Lý cũng đưa
ra các giải pháp cho việc quản lý cũng như góp phần quy hoạch, phát triển khu di
tích tín ngưỡng - lễ hội thờ Mẫu Tây Thiên ở Vĩnh Phúc.
+ Các công trình nghiên cứu về lễ hội Phủ Dầy
Các công trình nghiên cứu về lễ hội Phủ Dầy cũng có một khối lượng
khiêm tốn, phần lớn là những bài viết trên các tạp chí khoa học, hoặc nằm trong
những cuốn sách tổng hợp của nhiều tác giả. Đôi khi, lễ hội Phủ Dầy chỉ được
cấu trúc thành một chương hoặc một phần trong các cuốn sách chuyên khảo liên
19
quan đến đạo Mẫu hoặc tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam. Mặc dù vậy, cũng có
một số tác giả - tác phẩm tiêu biểu đề cập đến lễ hội Phủ Dầy như:
Trong bộ Nếp cũ - Hội hè đình đám (quyển thượng) của học giả Toan Ánh
[3] có đề cập đến các lễ hội của Việt Nam nói chung. Trong đó ông đề cập đến rất
nhiều lễ hội thờ Mẫu ở cả ba miền Bắc - Trung - Nam. Lễ hội Phủ Dầy được tác
giả Toan Ánh đề cập từ lịch sử, thần tích, hành trạng tới công tích của thần. Lễ hội
Phủ Dầy được nhắc đến với những nghi thức cơ bản như rước kiệu, kéo chữ (của
nhân dân trong vùng), hầu đồng (con nhang, đệ tử) và khách thập phương nô nức
kéo về dự hội. Có thể nói, công trình của Toan Ánh cho người đọc những thông
tin cơ bản nhất có tính chất tư liệu về thánh Mẫu Liễu Hạnh sự tích liên quan đến
bà. Trên nền tảng đó, lễ hội Phủ Dầy được thể hiện ra ngắn gọn, có phần sơ sài,
chỉ cung cấp những thông tin chung nhất của lễ hội mà thôi. Tuy nhiên, đây có thể
được coi là những tìm hiểu đầu tiên của các học giả nghiên cứu về đạo Mẫu nói
chung và Lễ hội Tứ phủ liên quan đến Mẫu Liễu Hạnh nói riêng.
Bài viết Quanh tín ngưỡng dân dã Mẫu Liễu và điện thờ của Trần Lâm
Biền [7]. Có thể nói, đây là bài viết khái quát được những đặc điểm cơ bản nhất
của hiện tượng thờ Mẫu nói chung và Mẫu Liễu Hạnh nói riêng. Trong bài viết,
tác giả Trần Lâm Biền có đưa ra những nhận thức mới/khác về cái gọi là “mê tín
dị đoan” của giai đoạn trước. Theo ông, mê tín hay tín ngưỡng thực chất có cùng
nội hàm, những được gọi bằng tên gọi khác nhau mà thôi. Từ đây, ông cũng
dựng được sơ lược về hệ thống điện thờ của Mẫu Tứ phủ, trong đó có nơi thờ
Mẫu Liễu Hạnh. Tuy nhiên, dưới góc nhìn của người làm về kiến trúc mĩ thuật
truyền thống, nên nghiên cứu này của ông chưa đề cập đến lễ hội thờ Mẫu Tứ
phủ, trong đó có Phủ Dầy. Tuy nhiên, việc đề cập đến không gian thờ cúng của
đạo Mẫu nói chung và Mẫu Liễu Hạnh nói riêng, Trần Lâm Biền cũng đã chỉ ra
được không gian tổ chức lễ hội gắn liền với di tích - các công trình kiến trúc tâm
linh. Cùng với những yếu tố kiến trúc, nghệ thuật tạo hình gắn liền với tín
ngưỡng là một hệ thống các giá trị biểu tượng của Đạo Mẫu nói chung, tín
ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh nói riêng được Trần Lâm Biền bóc tách, giải mã và
chỉ ra tính hội nhập với các tôn giáo khác như Nho, Đạo, Phật…
20
Cùng thời gian với bài viết của Trần Lâm Biền, còn có cuốn sách chuyên
khảo của Vũ Ngọc Khánh, Phạm Văn Ty về Vân Cát thần nữ [53]. Cuốn sách là
một tập hợp những sưu tầm và nghiên cứu về Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Mặc dù
dung lượng/số trang của cuốn sách không nhiều, nhưng đã nêu được những sự
tích tiêu biểu, giá trị đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu nói chung và Mẫu Liễu
Hạnh ở Phủ Dầy nói riêng. Đặc biệt, cuốn sách còn tích hợp những sưu tầm về sự
tích của Mẫu Liễu Hạnh được diễn nôm qua các thời kỳ/giai đoạn lịch sử. Thông
qua những văn bản khác nhau về thần tích Mẫu Liễu Hạnh, cho thấy sự đa dạng
này quá trình sáng tạo, tích hợp những giá trị bản địa với các giá trị ngoại lai.
Được nhào nặn qua thời gian mà thành một hệ thống như vậy. Mặc dù tác phẩm
này của Vũ Ngọc Khánh và Phạm Văn Ty chỉ dừng lại ở việc sưu tầm, đánh giá sơ
bộ những tích truyện về Mẫu Liễu Hạnh, nhưng đây là một công trình khảo cứu có
nhiều giá trị về tư liệu đối với tác giả thực hiện đề tài của luận án.
Sau bài viết của Trần Lâm Biền và cuốn sách chuyên khảo Vũ Ngọc
Khánh, năm 1991, nhà nghiên cứu Đặng Văn Lung đã ra cuốn Tam tòa Thánh
Mẫu [68]. Nội dung cuốn sách đề cập đến hệ thống thờ Mẫu nói chung và hiện
tượng thờ Mẫu Liễu Hạnh nói riêng. Trong đó, hiện tượng thờ Mẫu Liễu Hạnh
được Đặng Văn Lung nhìn nhận, đánh giá trên cơ sở đối chiếu, so sánh với
những nữ thần khác của các tộc người trên lãnh thổ Việt Nam. Ông cũng đưa ra
những lý giải/giải mã những giá trị biểu tượng vốn có, nay đã bị khuất lấp trong
đời sống xã hội. Có thể nói, cuốn sách đã trình bày một số quan điểm khá độc
đáo về hiện tượng thờ Mẫu Liễu Hạnh. Tuy nhiên, cuốn sách đi sâu vào trình bày
quan điểm của tác giả là chủ yếu, mà không đề cập đến lễ hội Phủ Dầy. Mặc dù
vậy, đây là một cuốn sách chuyên khảo quan trọng đối với tác giả thực hiện đề
tài luận án này. Năm 2004, nhà nghiên cứu Đặng Văn Lung đã cho xuất bản bộ
sách Văn hóa thánh Mẫu gồm 3 quyển [70]. Trong đó, quyển 3 của bộ sách này
đề chính là tái bản lại cuốn in năm 1991, có sửa chữa và bổ sung.
Thanh Hà trong cuốn Âm nhạc hát Văn [31] đã giới thiệu một số đặc điểm
của hát văn và các làn điệu, điệu thức, thang âm... do tác giả sưu tầm và ký âm.
Đây là một công trình khảo cứu hát văn dưới góc độ âm nhạc học. Đối với
những cá nhân thực hành hát văn/nghệ sĩ biểu diễn, thì đây là cuốn sách tham
21
khảo rất lý thú. Dưới góc độ người làm nghiên cứu văn hóa học, cuốn sách cung
cấp cho tác giả luận án này những thông số kỹ thuật, những bài bản, cách phân
tích của người làm nghiên cứu âm nhạc, trên cơ sở đó, có thể đối chiếu, so sánh
với những công trình nghiên cứu khác. Năm 1996, Bùi Đình Thảo cũng xuất bản
cuốn Hát chầu văn [101], tác giả tập trung nghiên cứu địa điểm, không gian diễn
xướng của hát văn. Ông cũng đề cập tới vai trò của hát văn đối với đời sống
cộng đồng và trình bày những làn điệu, bài bản của loại hình nghệ thuật này.
Mặc dù các tác giả trên chỉ chuyên khảo cứu về âm nhạc trong hát văn, linh hồn
của các nghi thức hầu đồng - không thể thiếu trong tín ngưỡng thờ Mẫu. Âm
nhạc trong hầu đồng - hát văn đã trở thành đặc trưng điển hình không chỉ trong
các nghi thức lên đồng, mà còn gắn liền với không gian lễ hội, để giúp khách
hành hương sống trong những làn điệu, ngẫm về công đức của các vị thánh Mẫu.
Chính âm nhạc, đã góp phần tạo nên không gian thiêng của lễ hội thờ Mẫu Tứ
phủ nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng.
Năm 2000, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật đã cho xuất bản cuốn Kho tàng
Lễ hội cổ truyền Việt Nam [83], đây là một tập hợp các bài viết của nhiều tác giả
viết về lễ hội cổ truyền ở cả ba miền: Bắc, Trung, Nam. Trong đó, các lễ hội thờ
nữ thần, thờ Mẫu nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng được tái hiện một cách
sơ lược, đơn giản, nhưng những thông tin cơ bản cũng được tác giả cung cấp đầy
đủ trọn vẹn. Đặc biệt, bài viết của Ngô Đức Thịnh về lễ hội ở Phủ Dầy, Nam
Định được tái hiện lại khác chi tiết, cụ thể tất cả các bước của một lễ hội truyền
thống/cổ truyền ở Việt Nam. Từ thần tích của Mẫu Liễu Hạnh, khâu chuẩn bị
cho đến trình tự các nghi thức như: rước, kéo chữ, hát văn, hầu đồng... Gắn với
mỗi nghi thức như vậy, Ngô Đức Thịnh diễn giải về nguồn gốc, hoàn cảnh... làm
nảy sinh các nghi lễ đó thông qua các thần tích hành trạng của Mẫu Liễu Hạnh.
Qua đây, ông cũng bước đầu chỉ ra những ảnh hưởng, tác động của lễ hội tới đời
sống cộng đồng. Tuy nhiên, bài viết chỉ dừng lại ở việc mô tả mà chưa có số liệu
cụ thể về những tác động của lễ hội tới đời sống cộng đồng và ngược lại. Mặc dù
vậy, cuốn sách đã cung cấp cho tác giả của luận án những thông tin ban đầu về
nội dung của các lễ hội ở Việt Nam, đặc biệt là các lễ hội liên quan trực tiếp đến
22
đề tài của luận án. Những thông tin ban đầu này, sẽ được tác giả luận án khai
thác để đối chiếu, so sánh với lễ hội diễn ra trong thực tế hiện nay.
Công trình Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam của Nguyễn
Đăng Duy [26]. Đây là một công trình khảo cứu chuyên sâu về các hình thái tín
ngưỡng và tôn giáo nói chung ở Việt Nam. Trong đó, ông dành chương 3 của
cuốn sách đề cập - lý giải hiện tượng thờ Mẫu nói chung và Mẫu Liễu Hạnh nói
riêng. Ngoài việc khảo cứu về nguồn gốc Mẫu Liễu Hạnh, ông cũng đưa ra
những giải thích về hiện tượng thờ cùng này. Theo ông, Mẫu Liễu Hạnh ra đời
để đáp ứng cho nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân, bổ sung cho những khuyết
thiếu của các tôn giáo khác (như: Nho, Đạo, Phật); cùng với đấu tranh chống
phong kiến, Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện còn hàm ý đấu tranh chống văn hóa
phương Tây du nhập; Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện là để hoàn thiện triết lý thờ Mẫu
trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và tín ngưỡng thờ Thần. Cuốn sách của
Nguyễn Đăng Duy cung cấp cho người đọc một hệ thống đầy đủ của đạo Mẫu
với những vị thần linh có tính danh gốc tích rất cụ thể. Bên cạnh đó, ông còn đề
cập tới các nghi thức hầu đồng gắn liền với hiện thượng thờ Mẫu Tứ phủ, và
khảo cứu từng không gian thiêng gắn với những phủ Mẫu lớn như: Phủ Dầy, phủ
Tây Hồ... với hệ thống điện thờ và vị trí - tên gọi của từng thần linh rất cụ thể và
chi tiết.
Trong số các bài viết về Hát Văn có bài của Phạm Trọng Toàn với tiêu đề
Bước đầu tìm hiểu văn hoá Hát Văn [126]. Bài viết đã khái quát toàn bộ những
vấn đề về nguồn gốc lịch sử, phong tục tập quán, lề lối diễn xướng của Hát Văn
ở Phủ Dầy, Nam Định... Các tác giả này đã có nhiều phân tích sắc sảo về nguồn
gốc thờ nữ thần và sự thâu nhận một số tín ngưỡng khác trong tín ngưỡng thờ
Mẫu Tứ phủ của người Việt. Đồng thời, sách cũng cung cấp một số thông tin về
hình thức diễn xướng, khái niệm của nghi lễ. Từ đó, cho thấy đây là một hiện
tượng văn hoá dân gian phổ biến và có những giá trị độc đáo. Ngoài ra, tín
ngưỡng thờ mẫu cũng được một số nhà nghiên cứu ở các địa phương quan tâm
tìm hiểu như sưu tầm văn bia, bia kí, huyền tích về thờ Mẫu.
Cuốn Huyền tích Thánh Mẫu Liễu Hạnh và di sản văn hóa - lễ hội Phủ
Dầy của Hồ Đức Thọ [120]. Cuốn sách đã giới thiệu khái quát về lễ hội Phủ Dầy
23
ở Nam Định, tác giả coi “hội Phủ Dầy tháng ba là lễ hội truyền thống, là sinh
hoạt văn hóa dân gian trữ tình đáng trân trọng”. Đây cũng là cuốn sách chuyên
khảo đề cập trực tiếp đến đề tài của luận án. Tuy nhiên, do mục đích của tác giả
chỉ giới thiệu, nghiên cứu lễ hội Phủ Dầy, nên những yếu tố tác động của lễ hội
tới đời sống xã hội dường như chưa đề cập đến. Mặc dù vậy, cuốn sách cũng cho
tác giả luận án có thể kế thừa những kết quả nghiên cứu, cũng như có thể triển
khai hướng tìm hiểu của riêng mình.
Cuốn Nghi lễ thờ Mẫu văn hóa và tập tục của Ngô Bạch [4] cũng là một
công trình đáng lưu ý trong quá trình tác giả thực hiện luận án. Đó là một công
trình tương đối tổng hợp về đạo Mẫu ở Việt Nam nói chung: từ đặc trưng, bản
chất, nguồn gốc của các thần Mẫu, các nghi lễ thờ cúng, diễn xướng... đến các vị
thần linh gắn liền với không gian di tích, lễ hội gắn với tục thờ... Trong đó, lễ hội
thờ Mẫu nói chung và Mẫu Liễu Hạnh ở Phủ Dầy nói riêng được tác giả đề cập
đến với những thông tin cơ bản. Mặc dù đây là một công trình chuyên khảo về
Mẫu, nhưng nội dung lại đề cập khá tản mạn, nhiều thông tin chung chung, nặng
về cung cấp kiến thức cơ bản/phổ thông. Chính vì thế, ở góc độ chuyên ngành,
cuốn sách chưa đạt đến một chuyên khảo hoàn chỉnh có tính khoa học cao. Tuy
nhiên, do tổng hợp được tương đối đầy đủ những không gian, di tích, lễ hội cơ
bản gắn liền đạo Mẫu, nên cuốn sách có thể giúp cho người đọc kết nối, so sánh,
đối chiếu... hoặc đặt Mẫu Liễu Hạnh với không gian lễ hội ở Phủ Dầy trong mối
tương quan của hệ thống thờ Mẫu và tín ngưỡng dân gian Việt Nam.
+ Các công trình nghiên cứu về lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ trong đời sống văn
hóa cộng đồng
Các công trình nghiên cứu lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ trong đời sống cộng
đồng cũng không có nhiều. Những cuốn sách hay bài viết chủ yếu đề cập đến lễ
hội nói chung trong đời sống cộng đồng, chứ không có những chuyên khảo riêng
biệt cho lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng tới đời
sống văn hóa cộng động. Mặc dù vậy, những công trình cũng có ít nhiều đề cập
tới lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ trong đời sống văn hóa cộng đồng. Có thể kể tới các
công trình tiêu biểu sau:
24
Bài viết Ý nghĩa xã hội và văn hóa của lễ hội dân gian của Đinh Gia
Khánh [50] đã đặt vấn đề lễ hội như một thánh tố của văn hóa và có vai trò quan
trọng đối với đời sống cộng đồng. Nhận thức này gần như khác hẳn với những
quan niệm trước đó coi lễ hội dân gian cổ truyền là mang tính tiêu cực. Theo
Đinh Gia Khánh, lễ hội dân gian là phản ánh nhu cầu xã hội và văn hóa của
người xưa, đã tất yếu nảy sinh để thỏa mãn những nhu cầu ấy. Lễ hội của người
xưa còn xuất phát từ nhu cầu trong sản xuất và chiến đấu, người ta luyện tập cho
nhau để đạt hiệu quả cao nhất. Chính vì vậy, các lễ hội nguyên thủy thường gắn
với việc tập hợp và tổ chức lực lượng, với việc tổng diễn tập, kiểm tra kỹ năng,
sức khỏe… Nói theo cách khác, lễ hội xưa có vai trò vô cùng quan trọng là tập
hợp cộng đồng, cùng nhau lao động, sản xuất, chiến đấu để bảo vệ lãnh thổ.
Thông qua lễ hội này, vai trò, tài năng của các cá nhân được bộc lộ và phát triển.
Kéo theo đó, là các loại hình nghệ thuật truyền thống có cơ hội được thể hiện
trong đời sống con người. Trong bài báo khoa học này, Đinh Gia Khánh chỉ ra,
trong thời buổi ngày nay: Lễ hội diễn ra không chỉ nhằm tái hiện, nhắc nhở lại
truyền thống lịch sử, công trạng của vị thánh/thần, mà còn tạo niềm tin về một
sức mạnh linh thiêng, cầu cho “an khang, vật thịnh” tới đời sống cộng đồng. Lễ
hội gắn bó các thành viên trong cộng đồng lại với nhau trong niềm tự hào về
làng xóm, quê hương, đất nước, dân tộc, về bản thân và gia đình. Lễ hội là thời
điểm mà trong đó đời sống văn hóa của nhân dân được tổ chức một cách tập
trung có quy mô và do đó được nâng lên những trình độ cao hơn so với ngày
bình thường. Lễ hội được cộng đồng tổ chức còn đem lại niềm phấn khởi cho
mọi người. Ngày hội đem lại không khí vui tươi, niềm mơ ước về cuộc sống tốt
lành cho cộng đồng, cho mỗi cá nhân trong đó. Ông còn cho rằng, ngày hội lễ
thể hiện tính tổ chức cao của cộng đồng và theo định kỳ lại nhắc nhở một cách
sâu sắc, theo những nghi thức và quy cách có tính chất gây ấn tượng mạnh mẽ,
mối quan hệ của các thành viên trong cộng đồng. Ngày lễ hội dân gian là thời
điểm hội tụ mọi khả năng sáng tạo văn hóa, văn nghệ cũng như khả năng thưởng
thức văn hóa nghệ thuật của tất cả mọi người. Ngày hội lễ dân gian là thời điểm
hội tụ mọi loại thể của nghệ thuật tạo hình dân gian, của nghệ thuật biểu diễn dân
gian. Hội lễ dân gian là khung cảnh trong đó có thể thấy rất rõ mối quan hệ qua
25
lại giữa đời sống và nghệ thuật, giữa thực tiễn và nhận thức thẩm mĩ, giữa sáng
tạo của cá nhân và vai trò của cộng đồng.
Công trình Lễ hội truyền thống trong xã hội hiện đại của Đinh Gia Khánh
và Lê Hữu Tầng là một tập hợp các bài viết của nhiều tác giả [52]. Trong đó, các
tác giả bàn đến vai trò, chức năng và ảnh hưởng của nó đến đời sống cộng đồng
trên một số mặt: kinh tế, du lịch, phát triển, cố kết cộng đồng... Tuy nhiên, các
bài viết chỉ dừng lại nêu ra vấn đề (những ảnh hưởng của lễ hội tới một số mặt
của đời sống văn hóa cộng đồng), nhưng chưa đi vào phân tích đánh giá trên cơ
sở số liệu; và, cũng chưa tìm hiểu xem những tác động đó ảnh hưởng như thế
nào tới đời sống cộng đồng. Mặc dù vậy, cuốn sách cũng là một tập hợp những
quan điểm, góc nhìn về lễ hội nói chung và tới các lễ hội cụ thể nói riêng. Trong
đó, có đề cập đến vai trò của lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ tới sự phát triển du lịch. Đây
là cuốn sách đã phần nào ít nhiều đề cập trực tiếp đến nội dung đề tài của luận
án, chính vì vậy, việc tiếp thu thành quả nghiên cứu của những bài viết này là tất
yếu đối với tác giả luận án.
Các công trình của Nguyễn Thụy Loan về Tín ngưỡng tôn giáo và ca nhạc
cổ truyền Việt Nam [65] đã cho thấy mối quan hệ mật thiết giữa nghệ thuật âm
nhạc dân gian với các loại hình tín ngưỡng tôn giáo. Trong nghi lễ hầu đồng của
Đạo Mẫu nói chung và lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ nói riêng đã trở thành một phần
vô cùng quan trọng. Âm nhạc dẫn dắt người hành lễ hoặc tham dự hành lễ.
Không có âm nhạc, ông/bà đồng không thể thăng hoa mà đạt tới cảnh giới giao
tiếp với thần linh. Người tham dự cũng bị âm nhạc chi phối, khuyến khích và
dẫn dắt. Nghi lễ gắn liền với âm nhạc, âm nhạc có tác động mạnh mẽ lên tính
linh thiêng của nghi lễ, mối quan hệ biện chứng này đã cho thấy vai trò, chức
năng của âm nhạc trong các sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng. Đặc biệt là tín
ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ và trong lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ (điển hình là hiện
tượng thờ Mẫu Liễu ở Phủ Dầy).
Một công trình Việc phụng thờ Mẫu Liễu ở Phủ Dầy của Nguyễn Minh
San [92]. Công trình đề cập đến sự hình thành đạo Mẫu ở Việt Nam nói chung
và sự hành thành và phát triển của hiện tượng thờ phụng Mẫu Liễu Hạnh nói
riêng. Trên nền tảng đó, Nguyễn Đình San đã nghiên cứu tổng hợp về hoạt động
26
văn hóa dân gian tổng thể qua truyền thống di tích - điện thờ, nghi lễ thờ cúng và
lễ hội ở Phủ Dầy; những đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở Nam
Định. So sánh việc phụng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở Phủ Dầy với một số nơi thờ mẫu
khác. Tuy nhiên, việc nghiên cứu lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ ở Phủ Dầy của Nguyễn
Đình San lại chủ yếu đề cập đến các bước tiến hành lễ hội, chứ không đề cập đến
vai trò và những tác động của nó tới đời sống cộng đồng.
Bài viết Về tín ngưỡng lễ hội và sự phát triển của xã hội hiện nay của Ngô
Đức Thịnh, Lê Hồng Lý [109]. Nội dung bài viết xoay quanh các vấn đề của tín
ngưỡng lễ hội trong bối cảnh xã hội của thập niên 90 (thế kỷ XX), vai trò cũng
như ảnh hưởng của lễ lội truyền thống trong đời sống văn hóa xã hội Việt Nam
đương đại. Đây là một bài báo khoa học đề cập đến quá trình ảnh hưởng, tương
tác của lễ hội dân gian truyền thống tới đời sống cộng đồng. Các tác giả của bài
viết nhấn mạnh đến sự hình thành của lễ hội dân gian Việt Nam nói chung và vai
trò cũng như những hạn chế của lễ hội tới đời sống cộng đồng. Theo hai tác giả
thì: lễ hội và tín ngưỡng gắn liền với nó đã tác động mạnh mẽ tới việc bảo tồn và
làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc; chúng còn có tác dụng cố kết cộng đồng; trong
bối cảnh hiện đại tín ngưỡng và lễ hội còn tạo ra những cơ hội để phát triển du
lịch. Nhưng kéo theo những mặt tích cực bao giờ cũng có những hạn chế, nếu
như công tác quản lý bị bỏ quên, buông lỏng. Con người sẽ lợi dụng lễ hội để
trục lợi.
Ngô Đức Thịnh trong cuốn Về tín ngưỡng và lễ hội cổ truyền [115] đã đề
cập đến các hoạt động của tín ngưỡng và lễ hội cổ truyền của Việt Nam nói
chung. Trong đó, ông dành phần thứ 2 và một mục trong phần thứ 3 để đề cập
đến đạo Mẫu và lễ hội Tứ phủ ở Phủ Dầy. Đặc biệt, khi đề cập về lễ hội Tứ phủ
ở Phủ Dầy, Ngô Đức Thịnh đã đưa ra những nhận thức mới có tính chất lý luận
về đạo Mẫu nói chung và lễ hội Mẫu Tứ phủ ở Phủ Dầy nói riêng. Bên cạnh việc
trình bày, diễn giải về các nghi thức liên quan đến lễ hội (tế, rước kiệu, kéo
chữ...), không gian lễ hội (di tích, kiến trúc,...), thì Ngô Đức Thịnh còn chỉ ra
những yếu tố tác động của lễ hội tới đời sống cộng đồng, từ người dân đến chính
quyền và nhận thức của các nhà quản lý. Ông cho rằng: a. mối quan hệ giữa di
tích, tín ngưỡng và lễ hội phủ Dầy là sự thống nhất biện chứng giữa văn hóa vật
27
thể và phi vật thể, tựa như giữa thân xác và linh hồn, cái nọ là tiền đề cho sự tồn
tại và phát triển của cái kia; b. Đạo Mẫu là một hệ thống các tín ngưỡng dựa trên
nền tảng thờ nữ thần, rồi trên cơ sở tiếp thu những giao lưu ảnh hưởng từ bên
ngoài để hình thành các lớp Mẫu thần và Mẫu Tam - Tứ phủ. Đạo Mẫu sản sinh
và tích hợp vào nó những giá trị văn hóa, giá trị đạo đức, nó sớm được lịch sử
hóa và trở thành biểu tượng của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Đạo Mẫu đã trở
thành một trong những tín ngưỡng cổ xưa và mang tính bản địa nhất, giống như
thờ cúng tổ tiên, thành hoàng làng, các anh hùng dân tộc...; c. Hầu bóng là một
trong những nghi lễ tiêu biểu của đạo Mẫu tam - Tứ phủ. Để đáp ứng nhu cầu
của con người trong xã hội, nghi lễ hầu bóng đã sản sinh và tích hợp nhiều giá trị
văn hóa, nghệ thuật, khiến nó trở thành bảo tàng sống của văn hóa Việt Nam cổ
truyền; d. Lễ hội Phủ Dầy cũng giống như các lễ hội cổ truyền khác, chứa đựng
các giá trị nhân văn sâu sắc: hướng về cội nguồn, biểu dương và cố kết sức mạnh
cộng đồng, thỏa mãn và cân bằng nhu cầu đời sống tâm linh, đáp ứng nhu cầu
sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa, do vậy lễ hội thực sự trở thành bảo
tàng sống của văn hóa Việt Nam.
1.1.3. Đánh giá chung về tình nghiên cứu liên quan đến đề tài của
luận án
Nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ và lễ hội Phủ Dầy nói chung
đã có rất nhiều công trình khoa học đề cập đến. Đây có thể được coi là những
thành tựu có tính chất đột phá trong việc nghiên cứu, tìm hiểu, sưu tầm về một
loại hình tín ngưỡng dân gian mang đậm bản sắc và đặc trưng của văn hóa Việt
Nam. Những công trình nghiên cứu đi trước như đã trình bày ở trên, đã cung cấp
cho tác giả luận án một khối lượng kiến thức, quan điểm nghiên cứu vô cùng
quan trọng. Trên cơ sở đó, tác giả luận án nhận thấy rằng:
Các công trình chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu sự hình thành, tồn tại, phát
triển của tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ ở Việt Nam trên cơ sở hội tụ, hỗn dung với
các tín ngưỡng bản bản địa và tôn giáo ngoại lai khác. Đặc biệt là, sự hoàn thiện
về hệ thống thần điện, nghi thức thờ cúng (nhất là nghi thức lên đồng/hầu bóng),
cơ sở thờ tự, sự lan tỏa tâm thức đến cộng đồng… Nhiều tác giả còn đi sâu vào
phân tích những đặc điểm, tính chất, giá trị… của tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ.
28
Một số học giả khác đi vào công tác sưu tầm tài liệu liên quan đến tín ngưỡng
thờ Mẫu Tứ phủ như: thần tích, thần sắc, bia ký, văn bản thi ca (giáng bút)…
Bên cạnh đó, cũng có một số học giả đi vào nghiên cứu tìm hiểu lễ hội thờ Mẫu
Tứ phủ nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng. Tuy nhiên, việc nghiên cứu các lễ
hội này chỉ tập trung việc mô tả chung chung các bước, nghi lễ tiến hành lễ hội,
từ đó đưa ra những nhận định có tính chất khái quát, tổng hợp. Một số học giả
khác lại đặt tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ trong bối cảnh hệ thống tín ngưỡng tâm
linh của Việt Nam, hoặc, trên cơ sở so sánh với các tín ngưỡng thờ Mẫu khác
của khu vực Đông Á (gồm Đông Bắc Á, Đông Nam Á). Trong đó, các nghi thức
lên đồng được so sánh với các hình thức Shaman khác trên thế giới. Ngoài ra, có
một số công trình (dưới dạng bài viết nghiên cứu trên tạp chí chuyên ngành) đề
cập đến sự tương tác/tác động của tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ nói chung và lễ
hội thờ Mẫu Tứ phủ nói riêng tới đời sống cộng đồng, nhưng ở góc độ khái quát
thành quan điểm, lý thuyết mà chưa đi sâu vào phân tích, đánh giá trên nền tảng
số liệu.
Các công trình của học giả đi trước chưa đi vào nghiên cứu đánh giá
những tác động của tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ nói chung và lễ hội tín ngưỡng
thờ Mẫu Tứ phủ nói riêng (đặc biệt là lễ hội Phủ Dầy) đến đời sống văn hóa xã
hội của cộng đồng cư dân như một hệ thống chuyên biệt. Đây là khoảng trống để
tác giả luận án đi sâu vào tìm hiểu, nghiên cứu và đánh giá những tác động của lễ
hội Phủ Dầy tới đời sống văn hóa cộng đồng. Việc đánh giá này dựa trên việc kế
thừa những thành tựu nghiên cứu của các học giả đi trước, vừa dựa trên hệ thống
số liệu điều tra, phỏng vấn cộng đồng cư dân địa phương tại một trong lễ hội thờ
Mẫu Tứ phủ lớn nhất Bắc Bộ - lễ hội Phủ Dầy.
1.2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.2.1. Các khái niệm cơ bản
1.2.1.1. Các khái niệm về: lễ hội, lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ, lễ hội Phủ Dầy
- Để làm rõ khái niệm thờ Mẫu Tứ phủ, cần phải hiểu thuật ngữ lễ hội cổ
truyền nói chung trong đời sống văn hóa. Trong Việt Nam phong tục của Phan Kế
Bính, không đưa ra một khái niệm cụ thể nào, tuy nhiên, ông xếp các nghi thức
29
của lễ hội vào “phong tục của hương đảng” gồm có các việc: sự thần (thành
hoàng, đình miếu, đồ phụng sự, tự điền - tự trạch, người thủ từ), tế tự (lễ sóc vọng,
các tuần tiết, tế kỳ phúc), nhập tịch (trà nhập tịch, lễ mộc dục, đại tế, xướng ca,
giao hiếu, cơm quả - cơm quan viên, khoản đãi), đại hội (mở hội, sửa sang, luyện
tập, rước nước, gia quan, phụng nghênh hồi đình, tế lễ - hát xướng, bách hý, hát
bội, hát tuồng, trò quỷ thuật, trò dưới nước, hát quan họ, bắt bài, múa bông, tổ tôm
điếm, bài phu điếm, cờ người, cờ bỏi, đánh vật, đốt cây bông, bơi chải, chọi trâu,
chọi gà, chọi chim, thả chim, thả diều, cây đu, đáo đĩa, leo cột, bịt mắt bắt dê,
quàng vai bắt chạch, nhảy bị, thổi cơm thi, tuyên lời khánh chúc, rã đám) [12,
tr.94-136]. Thông qua việc xác định, chia tách và phân loại các nghi thức trong lễ
hội, Phan Kế Bính đã bước đầu cung cấp thông tin để chúng ta có thể định hình
khái niệm cơ bản về lễ hội cổ truyền dân gian ở Việt Nam.
Theo Toan Ánh, trong Nếp cũ, quan niệm lễ hội bằng bốn chữ: Hội - Hè -
Đình - Đám. Căn cứ vào từ điển, Toan Ánh chú dẫn rằng: hội là cuộc vui tổ chức
cho mọi người dự; hội hè chỉ chung các cuộc vui tổ chức cho mọi người dự; đình
là nhà họp việc làng; đình đám chỉ những cuộc hội họp chốn thôn quê. Và, ông
đưa ra kết luận: “hội hè đình đám là những cuộc tổ chức hội họp tại các xã thôn
nhân dịp làng vào đám và trong dịp vào đám này có nhiều trò mua vui cho dân
thôn giải trí. Làng vào đám hàng năm để cúng lễ thần linh và nhân dịp này cũng
để dân làng hội họp mua vui và tìm hiểu nhau” [3, tr.9-10]. Mặc dù chưa đưa ra
một khái niệm hoàn chỉnh, nhưng Toan Ánh đã bước đầu đưa ra một cách hiểu
tương đối đầy đủ, đúng với bản chất của lễ hội cổ truyền dân gian của người Việt.
Theo cách hiểu tương đối phổ biến hiện nay, quan niệm lễ hội cổ truyền
gồm hai phần, đó là: phần lễ và hội. Trong đó, lễ gồm các hoạt động có tính
chất lễ nghi, thiêng liêng, thần bí,… đòi hỏi sự tôn nghiêm, kính cẩn; hội gồm
các hoạt động có tính chất vui chơi, giải trí, thậm chí xô bồ, hỗn loạn. Tuy
nhiên, theo cách hiểu của các nhà chuyên môn, thì lễ hội được khái niệm là một
hiện tượng văn hóa tổng thể, trong đó phần lễ đã bao gồm cả hội và phần hội
bao gồm cả phần lễ (trong lễ có hội, trong hội có lễ). Không những thế, lễ hội
còn được coi là một hình thức diễn xướng tâm linh dân gian. Nhận thức thuật
30
ngữ lễ hội như vậy có lẽ gần hơn/đúng hơn với bản chất của lễ hội cổ truyền
hiện nay.
- Lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ là một dạng (một loại hình) của lễ hội cổ truyền
dân gian Việt Nam, chính vì vậy, nó cũng đảm bảo các yếu tố văn hóa tổng thể
và mang tính diễn xướng tâm linh dân gian. Tuy nhiên, bên cạnh cái chung, lễ
hội thờ Mẫu Tứ phủ còn tồn tại những đặc trưng riêng có của mình so với các lễ
hội dân gian cổ truyền khác ở Việt Nam nói chung và vùng châu thổ sông Hồng
nói riêng.
Lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ được hiểu như là một tổng thể các hoạt động tâm
linh dân gian truyền thống/cổ truyền của người Việt ở châu thổ sông Hồng/Bắc
Bộ nói riêng và cả Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, khác với các lễ hội dân gian
cổ truyền khác, lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ gắn liền với hệ thống thờ Mẫu Tứ phủ -
một loại hình tín ngưỡng dân gian đặc sắc của Việt Nam, có mối quan hệ mật
thiết với tục thờ các Nữ Thần, Thần Mẫu, sau này được nâng cấp/phát triển, hệ
thống hóa mà trở thành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam - Tứ Phủ. Không những thế, lễ
hội thờ Mẫu Tứ phủ còn là một hình thức diễn xướng tâm linh dân gian, trong
đó, các nghi thức lên đồng được coi là linh hồn, cốt lõi… gắn với sự tôn vinh/ca
ngợi công lao, vẻ đẹp, linh thiêng… của các thần linh trong hệ thống điện thờ.
- Trên cơ sở những khái niệm trên, chúng tôi tạm hiểu: Lễ hội Phủ Dầy là
một sinh hoạt văn hóa tâm linh dân gian tổng thể; một hình thức diễn xướng tâm
linh dân gian của người Việt ở địa bàn/không gian Phủ Dầy thuộc huyện Vụ Bản
tỉnh Nam Định. Các sinh hoạt tổng thể, diễn xướng tâm linh ấy gắn liền với Đức
thánh Mẫu Liễu Hạnh, một trong tứ bất tử của người Việt ở châu thổ sông Hồng
nói riêng và Việt Nam nói chung. Không những thế, lễ hội Phủ Dầy còn gắn với
một hệ thống phức thể các thần linh tín ngưỡng dân gian Việt truyền thống và
tam giáo: Phật - Nho - Đạo.
Về thời gian, lễ hội Phủ Dầy diễn ra trong hai khoảng thời gian sau:
Khoảng thời gian thứ nhất, chúng tôi tạm gọi là khoảng thời gian mở, được diễn
ra từ sau ngày 8 tháng giêng (sau chợ Viềng) đến hết tháng 3 âm lịch hàng năm.
Khoảng thời gian thứ hai, chúng tôi tạm gọi là khoảng thời gian cố định, được
diễn ra từ ngày mùng 1 đến hết mùng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm.
31
1.2.1.2. Các khái niệm về: Đời sống văn hóa, Đời sống văn hóa cộng đồng
Đã có rất nhiều tác giả bàn về khái niệm Đời sống văn hóa, có thể kể đến
như: Nguyễn Thanh Tuấn, Đỗ Huy, Lê Quý Đức, Nguyễn Hữu Thức, Định Thị
Vân Chi, Từ Thị Loan, Hoàng Vinh… Trong đó, Nguyễn Thanh Tuấn cho
rằng: khái niệm Đời sống văn hóa là tổng hòa lối sống và các điều kiện tự
nhiên và điều kiện xã hội của một hình thái xã hội nhất định. Là tổng hòa
những tính chất cơ bản nhất của các mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần, cái
riêng và cái chung (cá nhân và xã hội, dân tộc và quốc tế,…) cho nên các đặc
điểm của đời sống văn hóa được thể hiện qua tất cả các hình thức hoạt động
sống của con người phù hợp với điều kiện sống trong phạm vi một hình thái xã
hội. Tuy vậy, đặc trưng bản chất của đời sống văn hóa trực tiếp gắn với hệ
thống giá trị tinh thần - văn hóa của con người [15, tr.13-14]. Đỗ Huy lại dựa
trên quan điểm của chủ nghĩa Mác, cho rằng: đời sống văn hóa là hoạt động sản
xuất của con người trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Sản xuất của
con người không chỉ duy nhất tạo ra cuộc sống của một cá nhân, còn tạo ra đời
sống của nhiều người khác. Hoạt động sản xuất vật chất cũng như hoạt động
sản xuất tinh thần đều tạo ra những mối quan hệ, ra những hình thức giao tiếp
mới. Đó là đặc trưng của của đời sống văn hóa [15, tr.29-30]. Theo cuốn Xây
dựng đời sống văn hóa ở cơ sở do Trần Độ chủ biên (Nxb Văn hóa, 1982), thì
các nhà nghiên cứu cho rằng: Đời sống văn hóa là một tập hợp những yếu tố
vật thể và phi vật thể văn hóa, nằm trong những cảnh quan văn hóa, những yếu
tố hoạt động văn hóa của con người, những sự tác động lẫn nhau trong đời sống
xã hội để tạo ra những quan hệ có văn hóa trong cộng đồng người, trực tiếp làm
hình thành lối sống con người trong xã hội [15, tr.41]. Theo Nguyễn Hữu Thức,
thì “đời sống văn hóa là hiện thực sinh động các hoạt động của con người trong
môi trường sống để duy trì, đồng thời tái tạo các sản phẩm văn hóa vật chất,
văn hóa tinh thần theo những giá trị và chuẩn mực xã hội nhằm không ngừng
tác động, biến đổi tự nhiên, xã hội và đáp ứng nhu cầu đổi mới, nâng cao chất
lượng sống của chính con người” [15, tr.57].
32
Mặc dù có rất nhiều các khái niệm, cách định nghĩa khác nhau về đời sống
văn hóa, tuy nhiên, tựu chung lại, có thể hiểu:
Đời sống văn hóa là toàn bộ các hoạt động sống của con người được sáng
tạo, tích lũy và biểu hiện qua hai dạng vật chất, tinh thần, nhằm ứng xử, tương
tác với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Trên cơ sở khái niệm về đời sống văn hóa đã trình ở trên, NCS mạnh dạn
đưa ra khái niệm về đời sống văn hóa cộng đồng như sau:
+ Đời sống văn hóa cộng đồng, được hiểu là mọi hoạt động sống của một
cộng đồng trong một không gian văn hóa nhất định. Nó bao gồm các phương
diện hoạt động như: chính trị, tôn giáo - tín ngưỡng, lao động sản xuất (sản xuất
nông nghiệp, kinh doanh…), giáo dục, nghệ thuật, chăm sóc sức khỏe, các mối
quan hệ gia đình - xã hội, vui chơi giải trí… Các phương diện hoạt động này của
cộng đồng có mối quan hệ đan xen, mật thiết, tương tác lẫn nhau. Từ đó, nó định
hình các giá trị văn hóa đặc trưng cho cộng đồng người trong môi trường văn
hóa nhất định.
Từ khái niệm về đời sống văn hóa cộng đồng này, NCS sẽ đi vào tìm
hiểu, đánh giá mức độ tác động qua lại giữa lễ hội Phủ Dầy với đời sống văn hóa
cộng đồng trên các phương diện đã được xác định trong khái niệm. Chính vì thế,
mục đích của các cuộc điều tra xã hội học, phỏng vấn sâu cũng như việc đánh
giá tác động đều tập trung vào các yếu tố đã được xác định trong khái niệm.
1.2.2. Khung lý thuyết phân tích của luận án
Căn cứ vào thực tiễn nghiên cứu trong lễ hội Phủ Dầy và quá trình đánh
giá mức độ tương tác giữa lễ hội Phủ Dầy đối với đời sống văn hóa cộng đồng,
NCS tạm đưa ra khung lý thuyết phân tích của luận án, trong đó: Lễ hội Phủ Dầy
được đặt ở vị trí trung tâm với các giá trị cơ bản của nó như: giá trị tín ngưỡng -
tâm linh, giá trị lịch sử văn hóa, giá trị thẩm mỹ nghệ thuật, giá trị kinh tế. Các
giá trị cơ bản của lễ hội Phủ Dầy chịu sự tương tác qua lại (cả tích cực và tiêu
cực) với đời sống văn hóa cộng đồng cư dân dân địa phương và cộng đồng khách
thập phương. Khung lý thuyết phân tích được mô hình hóa như sau:
33
Giá trị lịch sử
văn hóa
Giá trị tín ngưỡng,
tâm linh
Giá trị
kinh tế Giá trị thẩm mỹ
nghệ thuật
LỄ HỘI PHỦ DÀY
Cộng đồng
dân cư địa phương
Cộng đồng
khách thập phương
34
Tiểu kết chương 1
Những nghiên cứu của các học giả đi trước đã trở thành nền tảng khoa học
quan trọng vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn cao. Những nghiên cứu
ấy không chỉ cung cấp nền tảng lý luận, phương pháp nghiên cứu…, mà còn cung
cấp một khối lượng kiến thức, quan điểm nghiên cứu cho chúng tôi thực hiện
nghiên cứu này.
Trên cơ sở những vấn đề đã được giải quyết, giải quyết chưa thấu đáo hoặc
thậm chí bỏ ngỏ…, đã được tác giả của luận án khai thác, kế thừa và tìm ra những
khoảng trống cần tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu. Nền tảng tri thức nghiên cứu này
đã trở thành bệ đỡ quan trọng cho chúng tôi thực hiện hiệu quả luận án với nội
dung: đánh giá tác động của giá trị lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ (qua trường hợp lễ hội
Phủ Dầy) tới đời sống văn hóa cộng đồng. Và, những tác động của đời sống cộng
đồng tới các giá trị của lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ trong bối cảnh hiện nay.
Qua những nghiên cứu của các học giả đi trước, chúng tôi nhận thấy rằng
chưa có nhiều công trình (rất ít, thậm chí chưa có) đề cập, nghiên cứu đánh giá sự
tác động, ảnh hưởng của lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ đối với đời sống văn hóa cộng
đồng. Đặc biệt là những giá trị của lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ (cụ thể là lễ hội Phủ
Dầy) ảnh hưởng tới đời sống văn hóa của các nhóm cộng đồng cư dân (nhóm cộng
đồng địa phương, nhóm cộng đồng khách thập phương, nhóm cán bộ địa phương).
Chính vì thế, NCS đã hướng nghiên cứu của mình vào vấn đề này.
Các khái niệm cơ bản về lễ hội, lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ và lễ hội thờ Mẫu
Tứ phủ ở Phủ Dầy được xây dựng cùng với hệ thống lý thuyết về lễ hội, đời sống
văn hóa cộng đồng, giá trị văn hóa, hiện tượng xã hội tổng thể. Trên cơ sở hệ
thống khái niệm và lý thuyết này, khung lý thuyết phân tích về sự tác động, ảnh
hưởng của lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ tới đời sống văn hóa cộng đồng được xác lập.
Đó là mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại giữa đời sống kinh tế - chính trị -
xã hội với với Lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ và đời sống văn hóa cộng đồng.
35
Chương 2
TỔNG QUAN CHUNG VỀ LỄ HỘI PHỦ DẦY
2.1. TỤC THỜ MẪU VÀ THỜ MẪU TỨ PHỦ Ở VIỆT NAM
2.1.1. Tục thờ Nữ thần và thần Mẫu
Văn hóa Việt Nam xuất phát từ nền tảng kinh tế nông nghiệp lúa nước và
ý thức xã hội mẫu hệ (vốn đề cao vai trò của người phụ nữ). Theo diễn trình của
lịch sử dân tộc, xã hội Việt đã “đụng độ” với văn minh Trung Hoa, rồi tiếp nhận
những yếu tố/tư tưởng Nho giáo (vốn mang đậm chất gia trưởng phụ hệ), dần
dần, mà chuyển sang xã hội phụ hệ. Quyền lực, vai trò của người phụ nữ bị đẩy
ra phía sau hình bóng/ảnh của người đàn ông, theo quan niệm “nam tôn nữ ti”.
Tuy nhiên, người phụ nữ Việt vẫn có ảnh hưởng nhất định (nếu như không muốn
nói là mạnh mẽ) tới đời sống xã hội, đặc biệt là trong các hoạt động của gia đình.
Bên cạnh đó, công việc sản xuất nông nghiệp lúa nước vốn không chỉ thuần túy
dành cho đàn ông, mà người cả người phụ nữ cũng tham gia vào quy trình lao
động này. Đôi khi, người phụ nữ còn làm lụng, vất vả và có vai trò quan trọng
hơn người đàn ông trong sản xuất nói chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng.
Nhiều lúc, có những công việc trong sản xuất nông nghiệp còn kiêng kỵ đối với
người đàn ông (đàn ông không được làm), chỉ người phụ nữ được làm. Chính vì
vậy, ở góc độ nào đó, phụ nữ (người bà, người mẹ, người vợ…) luôn được coi
trọng và có tiếng nói quan trọng trong cuộc sống gia đình. Lớp phủ phụ hệ gia
trưởng của Nho giáo đã che khuất đi cái bản chất thực của yếu tố nữ tính, tinh
thần mẫu hệ trong văn hóa Việt Nam. Nhưng, cốt lõi bên trong - yếu tố âm
tính/nữ tính vẫn tồn tại và phát triển theo một mạch ngầm riêng có của mình.
Gương mặt của các nữ thần trong tâm thức người Việt nói riêng và Việt
Nam nói chung cũng rất đa dạng. Thường thì, họ là những vị thần có sức mạnh
siêu nhiên, có công tạo lập trời đất, vũ trụ như: Nữ thần Mặt Trời, Nữ thần Mặt
Trăng; cũng có khi họ hóa thân vào các hiện tượng tự nhiên mây, mưa, sấm,
chớp mà trở thành các nữ thần Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện (hiện
tượng thờ Tứ Pháp).
36
Trên bình diện tổng thể, các nữ thần còn đóng vai trò là các Bà mẹ Xứ sở
sinh ra vạn vật/muôn loài, trong đó có con người. Ở Việt Nam, mỗi một vùng
miền hay không gian văn hóa thường gắn liền với những nhóm tộc dân chủ thể,
vì vậy mà, các bà mẹ cũng có những danh xưng/tên gọi khác nhau. Không gian
văn hóa Bắc Bộ, là Mẹ Âu Cơ cùng Bố Lạc Long Quân đẻ ra trăm trứng, nở
thành trăm con sinh ra dân Việt. Không gian văn hóa Trung Bộ, là Poh Inư
Narga (Bà Mẹ Xứ Sở Chăm, sau Việt hóa còn có tên Thiên Ya Na) sinh ra người
Chăm. Không gian văn hóa Nam Bộ, là Bà Đen (Bà Chúa Xứ, Thiên Hậu…). Ở
miền núi phía Bắc, truyền thuyết của người Thái, Khơ Mú… cho rằng: một Bà
Mẹ sinh ra quả bầu, trong đó có chứa tổ tiên của các tộc người… Bên cạnh đấy,
các nữ thần/các Bà Mẹ cũng chính là người nắm giữ nhiều bí quyết nghề nghiệp,
ngành nghề thủ công truyền thống. Có thể kể đến, Mẹ Âu Cơ chính là tổ nghề
nông tang, Mẹ Phan Thị Ngọc Đô được dân Bưởi (Hà Nội) coi là Bà chúa, tổ
nghề dệt vải Lĩnh…
Xuất phát điểm là nền tảng xã hội mẫu hệ, thế nên trong diễn trình lịch sử
dân tộc, các Bà Mẹ không chỉ chỉ gắn liền với cuộc sống canh nông, gia đình,
nghề nghiệp, mà còn gắn liền với các chiến công đánh đuổi ngoại xâm, xây
dựng, quản lý đất nước. Rồi từ đó mà trở thành các anh hùng dân tộc, được thờ
cúng và tôn vinh trong hệ thống nữ thần đất Việt. Có thể kể đến Hai Bà Trưng
với các nữ tướng của mình như: Lê Chân, Ả Lã,… Bà Triệu, Dương Vân Nga
(thời Đinh - Tiền Lê), Ỷ Lan (thời Lý), Trần Thị/Ngọc Dung (thời Trần), Bùi Thị
Xuân (thời Tây Sơn), vợ Ba Đề Thám (thời Pháp thuộc)… Ngoài ra, còn có thể
kể đến rất nhiều phụ nữ là những người dân thường, nhưng đã có công giết giặc,
phù giúp quân vương, hỗ trợ nghĩa binh… cũng được phong thần, nhập vào hệ
thống thần linh đất Việt như: Bà Chúa Kho, Bà Vú Thúng, Bà Áo The, Bà bán
nước chè…
Từ việc tôn vinh hình ảnh và vai trò của người phụ nữ, cụ thể là người mẹ
người vợ đã dẫn đến tục thờ các nữ thần nói chung. Trong đó, tục thờ/tín ngưỡng
thờ Mẫu và Mẫu Tứ phủ là những biểu hiện sinh động nhất trong đời sống tâm
linh văn hóa Việt Nam nói chung và người Việt nói riêng. Tuy nhiên, cũng cần
phải khẳng định rằng, các Mẫu đều là các nữ thần, nhưng không phải nữ thần
37
nào cũng trở thành các Thánh Mẫu. Chỉ có một số ít các nữ thần được tôn vinh là
Mẫu. Theo Ngô Đức Thịnh, đạo Mẫu có xuất phát điểm từ những tín ngưỡng thờ
Mẫu dân gian, nhưng không phải tất cả các Mẫu đều thuộc thần điện của hệ
thống này. Mẫu Tam/Tứ phủ (tức Tam tòa Thánh Mẫu) chính là sự phát triển cao
hơn, chặt chẽ hơn, hệ thống hơn so với những hành vi tôn thờ các Mẫu nằm rải
rác ở các địa phương trên cả nước.
2.1.2. Hệ thống thờ Mẫu Tứ phủ
Trong quá trình phát triển, biến đổi tục thờ Mẫu đến Mẫu Tam/Tứ phủ,
vào thế kỷ XVI, chúng ta thấy có sự xuất hiện của Mẫu Liễu Hạnh. Dân gian
thường coi bà là hóa thân, thậm chí đồng nhất với Mẫu Thượng Thiên, trở thành
một thần chủ trong đạo Mẫu Tam/Tứ phủ. Việc xuất hiện Thánh Mẫu Liễu
Hạnh, theo nhiều nhà nghiên cứu, là do bắt nguồn từ những nhu cầu nội tại của
đời sống xã hội đương thời (thế kỷ XVI). Đó là một xã hội buôn bán, xã hội rối
loạn, nhân tâm ly tán… Chính vì vậy, vị Thần chủ Liễu Hạnh đã xuất hiện trong
đạo Mẫu để đáp ứng những nhu cầu, khát vọng của con người về: tài lộc, ban
phúc, chữa bệnh… Và, cùng với việc Thần chủ Liễu Hạnh xuất hiện, thì hệ
thống thần điện, quan niệm về vũ trụ, nhân sinh, đặc biệt là những nghi lễ, lễ hội
cũng mang tính hệ thống, bài bản hơn.
Về cơ bản, hệ thống thần điện của đạo Mẫu Tam/Tứ phủ được xếp theo
thứ tự như sau:
Hàng thứ nhất, trên cùng là Ngọc Hoàng
Hàng thứ hai là Tam tòa Thánh Mẫu: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng
Ngàn, Mẫu Thoải (hoặc Tứ phủ: có thêm Mẫu Địa)
Hàng thứ ba: Ngũ vị Vương Quan (từ Đệ Nhất đến Đệ Ngũ)
Hàng thứ tư: Tứ vị Chầu Bà (là hóa thân trực tiếp của các vị Thánh Mẫu:
Mẫu Thiên, Mẫu Địa, Mẫu Thoải và Mẫu Thượng Ngàn)
Hàng thứ năm: Ngũ vị Hoàng Tử (từ Đệ Nhất đến Đệ Ngũ)
Hàng thứ sáu: Thập Nhị Vương Cô (gọi theo thứ tự từ 1 đến 12)
Hàng thứ bảy: Thập vị Vương Cậu (gọi theo thứ tự từ 1 đến 10)
Hàng thứ tám: Ngũ Hổ
Háng thứ chín: Ông Lốt
38
Các vị Thánh trong đạo Mẫu không chỉ phân biệt theo các hàng, mà còn
phân biệt theo các phủ. Tứ phủ tương ứng với các miền khác nhau trong vũ trụ:
Thiên phủ - miền trời, Địa phủ - miền đất, Thoải/Thủy phủ - miền sông biển,
Nhạc phủ - miền rừng núi. Mỗi một phủ do một Thánh Mẫu cai quản: Mẫu
Thượng Thiên cai quản Thiên phủ, Mẫu Địa cai quản Địa phủ, Mẫu Thoải cai
quản Thoải phủ, Mẫu Thượng Ngàn cai quản Nhạc phủ. Riêng đối với Mẫu Liễu
Hạnh, thường được hóa thân thành Mẫu Thượng Thiên, nên nơi thờ cũng được
gọi là “phủ”. Và, có hai nơi thờ Mẫu Liễu Hạnh là Phủ Dầy (Nam Định), phủ
Tây Hồ (Hà Nội). Hàng Ngọc Hoàng mặc dù ngồi ngôi cao nhất trên thần điện
của đạo Mẫu, nhưng vai trò của vị thần linh này lại rất mờ nhạt trong nghi thức
thờ cúng cũng như tâm thức dân gian Việt Nam.
2.2. KHÁI QUÁT VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LỄ HỘI
PHỦ DẦY
Tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ là câu nói quen thuộc của dân gian
Việt Nam thể hiện sự kính trọng đối với hai vị: thánh Cha - Đức Thánh Trần và
thánh Mẫu - Đức Liễu Hạnh. Đến ngày giỗ kỵ của Cha và Mẹ, dân gian lại tổ
chức lễ hội nhằm tôn vinh công đức của Thánh Cha Trần Hưng Đạo và Thánh
Mẹ Liễu Hạnh. Bên cạnh đó, lễ hội tôn vinh gắn liền với các Thánh Mẫu, Vương
Mẫu khác,… cũng được diễn ra trong những không gian văn hóa khác nhau trên
cả nước. Có thể nhắc đến, lễ hội Mẫu Tây Thiên ở Vĩnh Phúc, lễ hội Bà Chúa
Xứ ở An Giang… Tuy nhiên, trong tâm thức người dân Việt nói chung và ở Bắc
Bộ nói riêng, Thánh Mẫu Liễu Hạnh luôn đóng một vai trò quan trọng đối với
đời sống văn hóa tâm linh. Chính vì vậy mà, tháng ba giỗ Mẹ được diễn ra trong
các đền/phủ thờ Mẫu trên cả nước.
Lễ hội Phủ Dầy, Nam Định là một trường hợp tiêu biểu và điển hình cho
lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ ở Việt Nam nói chung. Đây là nơi gắn liền với một nữ
Thần Chủ trong hệ thống Đạo Mẫu ở Việt Nam, người được tôn xưng là một
trong tứ bất tử của người Việt.
2.2.1. Không gian của lễ hội Phủ Dầy
Hiện nay, Phủ Dầy thuộc xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Đây là một quần thể di tích gồm hai phủ Tiên Hương, Vân Cát và lăng Chúa
39
Liễu Hạnh. Bên cạnh đó còn có các ngôi đền thờ Lý Nam Đế, chùa Linh Sơn và
nhiều di tích khác [Phụ lục 1.1, 1.2]. Phủ Tiên Hương và Vân Cát đều nằm trên
một không gian thoáng đãng và đều quay về hướng Tây Nam. Theo Trần Lâm
Biền, thì đây là hướng phù hợp với quan niệm tâm linh truyền thống của dân
tộc (Phương Nam là miền thánh thiện, trong sáng, miền của trí tuệ, mát mẻ,
thánh nhân ngồi quay hướng này để biểu hiện uy quyền hơn hết. Quay hướng
Tây là hợp với quy luật đối đãi của âm dương, để di tích có sức linh, vì thuận với
hướng của trời đất. Mặt trước của thần (dương) quay về hướng tây (âm), lưng
(âm) ở hướng đông (dương), tay trái (âm) ở hướng nam (dương), tay phải
(dương) ở hướng bắc (âm)… cách ngồi này yên ổn hợp thế, nên thường có mặt
để ban phát ân huệ cho chúng sinh. Cả hai phủ với hướng Tây - Nam đã như hội
mọi sự tốt đẹp cho thần) [114, tr.114-123]. Bước vào phủ Tiên Hương là một
giếng tròn, có ý nghĩa là tụ thủy, tụ phúc; giữa giếng là một ụ đất để dựng cột
cắm cờ. Từ bờ giếng vào, một khoảng sân rộng, dẫn tới hệ thống nghi môn trụ.
Tiếp tới là 3 chiếc phương đình tượng trưng cho Tam Sơn, gồm có: phương du,
nhà bia và trống, nhà bia và chiêng. Mỗi tòa đều có kết cấu hai tầng tám mái
cân xứng. Từ phương du đi xuống có hai hệ thống bậc được kẹp trong bốn con
hổ quay đầu vào chầu. Một đường bao lát đá ôm lấy chiếc hồ bán nguyệt. Cùng
với hồ bán nguyệt là chiếc bình phong kiểu cuốn thư, có chức năng chống
những khí/gió ô trược thổi vào điện phủ. Nối hai bên là hàng lan can đá, từng
quãng bổ trụ. Phía trong có hai cầu nước cũng đều lát bậc đá và mối cầu có hai
rồng cuộn chạy lên để chầu vào cửa phủ. Đối xứng qua hồ, bên phải toàn phủ
chính là nhà bia và lầu Cô, bên trái công trình chính là nhà bia và lầu Cậu.
Chạm trổ của kiến trúc phủ chính là một chỉnh thể nghệ thuật, vẻ đẹp xuất phát
từ lòng thành kính đã thể hiện lên các đề tài trang trí: rồng, phượng, lân, hoa
quả… và những vật thiêng khác [Phụ lục 2.1].
Kiến trúc của phủ Vân Cát lại được bố cục theo một hướng khác so với
phủ Tiên Hương. Một con đường vòng ôm lấy hồ bán nguyệt. Tòa phương du
gần như trùm hết hòn đảo; từ hồ hai cây cổ thụ tạo lên vẻ trầm mặc, tôn nghiêm
của không gian thiêng và hệ thống ngũ môn. Điện chính của phủ Vân Cát gồm
ba lớp, tòa tiền bái gồm bảy gian được chạm trổ công phu, tinh xảo. Hệ thống
40
thờ cúng gồm có: cung đệ tứ và bàn thờ Quan giám sát; cung đệ tam với bàn thờ
Tứ phủ công đồng và Bà chúa bản đền; cung đệ nhị thờ Tứ vị chầu bà và Tam
tòa quan lớn, cùng hai khám thờ quan Hoàng Mười (bên phải) và quan Hoàng Ba
(bên trái), cung đệ nhất thờ Tam tòa thánh Mẫu.
Lăng mộ Thánh Mẫu Liễu Hạnh nằm ở giữa cánh đồng thôn Tiên Hương
trên một khu đất có diện tích rộng 652m2. Phía ngoài lăng là 5 vòng tường, cạnh
ngoài là 24m. Lăng thánh Mẫu Liễu Hạnh quay về hướng Tây, các hướng còn lại
đều có cửa, các cửa đều bổ trụ và có đặt các nụ sen bằng đá ở trên (gồm 60 nụ
sen). Mỗi mặt tường lại có bốn cột đồng trụ vuông, hai cột chính có khắc câu đối
ở ba mặt, hai cột ngoài khắc câu đối ở hai mặt. Hoa văn trên tường là chữ Thọ,
hay khắc nổi chữ Vạn. Trên cùng là lăng mộ Mẫu Liễu, hình bát giác với đồ hình
bát quái, xung quanh có đường viền tạo thành những núm vú hình quả lựu (dân
gian gọi là bầu sữa mẹ) [7, tr.44-45]. Lăng mộ chính là minh chứng cho hiện
thân thực tế, có thật trong cuộc sống của Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Nó cũng khẳng
định chân thật về vị Thần chủ của bản phủ là một nhân vật lịch sử được huyền
thoại hóa mà thành.
2.2.2. Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong lễ hội Phủ Dầy
Dân gian Việt vẫn tin rằng, Liễu Hạnh vốn là con gái của Ngọc Hoàng
Thượng Đế, vì xảy tay đánh vỡ chiếc cốc mà bị đày xuống trần gian, thác sinh
vào nhà họ Lê (Lê Thái Công) nên được đặt tên là Giáng Tiên. Thời điểm bà
thác sinh được nhiều văn bản (sự tích, thần phả) ghi chép là vào thế kỷ XVI,
trong đó có tập truyện của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Đến năm mười tám tuổi, Giáng
Tiên cưới chồng tên là Đào Lang và sinh được một con trai và một con gái. Ba
năm sau, vào ngày 3 tháng 3, Giáng Tiên không mắc bệnh gì mà mất (năm 21
tuổi). Khi về tiên giới, vì tình duyên chưa hết nên thường rỏ lệ, Thượng đế
phong làm Liễu Hạnh công chúa và cho quay lại hạ giới. Liễu Hạnh đã gặp lại
cha, mẹ và người chồng là Đào Lang. Rồi Tiên Chúa Liễu Hạnh đi chu du thiên
hạ, gặp trạng Bùng (Phùng Khắc Khoan), cử nhân họ Ngô và tú tài họ Lý ở Lạng
Sơn và Hồ Tây, cùng đối đáp thơ văn (thường gọi là hiện tượng giáng bút). Sau,
Liễu Hạnh lại kết duyên với một thư sinh ở xứ Nghệ, giúp chàng đỗ đạt làm
quan. Vừa lúc đó, Liễu Hạnh lại có lệnh phải về trời. Trái lệnh Ngọc Hoàng, một
41
lần nữa, Liễu Hạnh lại giáng sinh, lần này thì không ở cố định một nơi, mà cùng
hai thị nữ chu du thiên hạ. Tương truyền, Liễu Hạnh đến vùng Phố Cát (Thanh
Hóa) thấy phong cảnh đẹp, hiển linh thành cô gái bán nước chè ven đường để
trêu ghẹo, trừng phạt những kẻ ác, gia ân cho người hiền. Triều đình nhà Lê -
Trịnh khi đó cho rằng đây là hành vi của yêu quái nên đem quân, dùng pháp
thuật (phái Nội đạo tràng) để trừ. Hai bên có đánh nhau, tích truyện còn lại về
một trận gọi là “Sùng Sơn đại chiến”. Trong trận chiến này, triều đình dùng
mưu, Liễu Hạnh có nguy cơ thất bại. Nhưng vào lúc đó, đức Phật Thích Ca đã ra
tay, giảng hòa, cứu và thu phục Liễu Hạnh. Sau này, nhờ hiển linh như vậy, Liễu
Hạnh được triều đình phong thần là Nữ Hoàng Công Chúa rồi Chế Thắng Đại
Vương. Từ đó trở đi, Liễu Hạnh công chúa không gây kinh sợ cho mọi người,
mà luôn ban phát ân đức, được nhân dân tôn thờ là Thánh Mẫu [58].
2.2.3. Diễn biến của lễ hội Phủ Dầy
Tương truyền, trước kia lễ hội Phủ Dầy kéo dài 10 ngày, bắt đầu từ ngày
30 tháng 2. Ngày đầu hội thường diễn ra nghi lễ cúng tế, ngày cuối hội rước
Thánh Mẫu. Ngoài ra, trong lễ hội còn diễn ra các trò vui chơi dân gian khác.
Ngày 30 tháng 2 và mùng 1 tháng 3 dành cho dân làng tế kỵ, từ ngày mùng 3
tháng 3 trở đi là ngày quốc tế, ngày tế của các quan chức hàng tỉnh, hàng huyện.
Theo đúng tục xưa, quan tổng đốc hàng tỉnh vào làm chủ tế, rồi đến quan tri
huyện cùng chánh, phó tổng cũng vào chủ tế hàng huyện và hàng tổng. Về nghi
thức tế lễ cũng giống như nhiều nơi khác, như dâng hương, hoa, trà, rượu, đọc
chúc văn, lễ tất…
Theo như nhiều nghiên cứu về lễ hội tại địa phương (của các nhà nghiên
cứu cũng như nhà quản lý), cụ thể diễn trình như sau:
Mở đầu lễ hội, ngày 1 tháng 3 (âm lịch), người dân trong hai làng Tiên
Hương và Vân Cát tế lễ mở cửa Phủ - lễ khai hội. Xưa kia, lễ này diễn ra thì các
tiên chỉ, thứ chỉ, hương lý, kỳ mục ở địa phương đều phải có mặt. Truyền thống
này vẫn duy trì cho đến ngày nay, quan chức cấp xã thôn đều có mặt.
Ngày 2 tháng 3, phủ Tiên Hương tiến hành lễ rước nước và mộc dục.
Trong lễ này, 8 cô gái đồng trinh khiêng kiệu bát cống. Trên kiệu có bình sứ,
miệng bình phủ vải đỏ, được buộc bằng giải lụa xanh. Đoàn rước nước đi từ phủ
42
Tiên Hương ra đến đền Giếng Găng. Sau khi làm lễ xong, cụ cao niên nhất làng
(xưa là ông Tiên chỉ) xuống giếng lấy nước vào bình, đặt lên kiệu rồi rước về
phủ Tiên Hương làm lễ mộc dục. Bốn cô gái đồng trinh dùng khăn lụa đỏ nhúng
nước lau mình tượng.
Mùng 3 tháng 3, là ngày giỗ Mẫu, nghi lễ được tổ chức ở cả hai phủ Tiên
Hương và Vân Cát (phủ Vân Cát thường giỗ sau Tiên Hương 1 ngày, vào 4
tháng 3). Các hoạt động tế lễ diễn ra đối với các quan chức từ cấp tỉnh (tổng đốc)
đến chánh, phó tổng… Mỗi tuần tế thường diễn ra khoảng 2 tiếng đồng hồ. Lễ
vật dâng thánh ngoài hương, hoa, oản quả còn có nhiều lễ vật khác. Theo như
người xưa tương truyền lại, xưa kia mỗi phủ (Tiên Hương, Vân Cát) đều có
ruộng để cầy cấy. Người được giao ruộng này phải cầy cấy trong năm, tới ngày
giỗ kỵ Mẫu hàng năm phải sắm sửa lễ vật gồm 10 mâm cỗ lễ. Mỗi cỗ có 100
chiếc bánh dầy, mặt bánh được dán chữ thọ bằng giấy trang kim. Một con lợn
mổ thịt để sống và một hương án chuối tiêu. Ngoài ra còn các lễ khác do các hội
hào hàng huyện đóng góp thường có: một cỗ xôi với 20 quan tiền, 30kg gạo nếp
thơm, một con lợn quay và một mâm cau tươi.
Ngày 5 tháng 3, diễn ra lễ rước thỉnh kinh ở phủ Vân Cát lên chùa Dần
(chùa Pháp Vân) thuộc xã Trung Thành, Vụ Bản. Ngày 6 tháng 3, rước Thánh
Mẫu từ phủ Tiên Hương lên chùa Gôi, thuộc thị trấn Gôi, Vụ Bản. Trong đó lễ
rước thỉnh kinh được coi là quy mô hoành tráng nhất, thời gian diễn ra từ 6 giờ
sáng đến 4h chiều ngày 6 tháng 3.
Để cho lễ hội trở nên ý nghĩa, thiêng liêng, đúng không khí thì không thể
thiếu sự góp mặt của khách hành hương. Hằng năm, hàng vạn khách lại nô nức
kéo về trảy hội, đặc biệt là, trong những ngày có diễn ra lễ rước. Lễ rước thường
có đầy đủ những đồ nghi trượng, tế tự như: cờ phướn, cầu giải oan, hòm tư trang
của Thánh Mẫu, kiệu bát cống, kiệu võng, kiệu hoa, lọng xanh, đỏ, vàng; hàng
chục phường bát âm; các đội múa rồng, lân, sư tử, phường kéo chữ “Hoa -
Trượng - Hội”. Đi đầu đoàn rước thỉnh kinh là các cụ cao niên, đầu đội cầu/kiều,
tay cầm cành phan, tay lần tràng hạt, miệng niệm kinh Phật. Tiếp theo là xe tay
chở nhà sư, ăn vận trang phục tu hành, tay cầm gậy tích trượng, tay lần tràng hạt,
theo sau là hàng trăm tăng ni phật tử. Sau đó là kiệu long đình rước lư nhang
43
Thánh Mẫu, bát cống rước sắc phong và phẩm vật. Vai trò khiêng kiệu thường
do các nam thanh niên đảm nhiệm. Còn các kiệu võng (kiệu đỏ, trắng, xanh) do
các các cô gái chưa chồng, mặc trang phục cùng màu với kiệu đảm nhiệm. Theo
sau các kiệu Mẫu là các con công/nhang, đệ tử trong trang phục, khăn chầu áo
ngự đủ các màu sắc khác nhau. Những con công/nhang, đệ tử này thường đầu
đội lễ, hoặc đội quả, khăn chầu áo ngự, trình xin Thánh Mẫu để dược làm đệ tử
của người [114, tr.62-71].
Một trong những hoạt động quan trọng trong lễ hội Phủ Dầy là nghi thức
“kéo chữ” (Hoa Trượng Hội) vào ngày 7 tháng 3, nhằm tôn vinh và tạ ơn thánh
Mẫu Liễu Hạnh. Trò kéo chữ được thực hiện như sau: người ta dùng chiếc gậy
tre dài 4 đến 5 mét, có quấn giấy xanh đỏ, trên đầu gậy cắm một búi lông gà.
Người ta xếp những chiếc gậy như vậy thành chữ, hay còn gọi là Hoa Trượng
Hội. Tùy vào từng năm, mà người ta chọn những chữ sau như: Mẫu nghi thiên
hạ, Quốc thái dân an, Thiên hạ thái bình (bằng chữ Hán) để xếp. Nghi thức xếp
chữ chỉ diễn ra sau khi người ta xin được chữ trong phủ Mẫu. Tất cả các phu cờ
trong đồng phục: áo cánh vàng, quần trắng, đầu đội khăn đen, có phủ dải lụa
vàng ra ngoài, đi chân đất, vác gậy từ nơi tập trung. Tất cả phải theo Tổng cờ
chỉ huy, đi hàng đôi tiến vào trước Phương Du của phủ chính. Khoảng trưa, có
lệnh của tổng cờ cho phu khuân cờ chuẩn bị xếp chữ (ngả chữ). Giữa tiếng
trống cái, trống con gõ liên hồi rộn rã, theo cờ lệnh trong tay tổng cờ, các phu
cờ tiến lùi, đứng lên, ngồi xuống thành hình chữ. Mỗi một chữ, tổng cờ lại mời
quan/một cụ già có học vấn cao duyệt chữ. Khi ngồi xuống, các phu cờ vứt gậy
xuống đất, như mô phỏng lại tục vứt cuốc xẻng của dân phu trước đền Thánh
Mẫu [Phụ lục 2.3].
Tục kéo chữ được bắt nguồn tích truyện, thời Hậu Lê, ở thôn Đông Khê
(có sách viết là Thông Khê), tổng Đồng Nội, Vụ Bản, Nam Định có người kỹ nữ
tài sắc tuyệt vời, tên là Phùng Thị Ngọc Đài (có sách viết là Trần Thị Ngọc Đài).
Cô hai lần xuất giá làm lẽ cho hai ông Quận Công Ngà và Quận Công Hiển.
Nhưng cả hai ông đều mất sớm, bà góa chồng từ tuổi đôi mươi. Nhưng bà lại là
người có nhan sắc lại có tài làm thơ ứng đối, múa đẹp, đàn hay. Tương truyền,
hàng năm vào mùa xuân, bà thường cùng phường hội đi hát quanh huyện. Mỗi
44
khi qua phủ Mẫu Liễu Hạnh, bà thường vào lễ Mẫu. Vào năm 1623, vua Lê Thần
Tông phong chức Thành Đông Vương cho chúa Trịnh Tráng, nên ông cho tuyển
nhiều gái đẹp tiến dẫn về Thăng Long để múa hát cho đại tiệc. Ngọc Đài xin đi
ứng thí, trước khi lên đường, bà đến Phủ Dầy quỳ trước bàn thờ Thánh Mẫu và
cầu khẩn: “nếu lần này đi mà được vua yêu, chúa dùng thì không bao giờ quên
Mẫu, xin hứa sẽ làm cái gì để ghi nhớ Mẫu mãi mãi về sau”. Quả nhiên, lời
Ngọc Đài được ứng nghiệm. Trong bữa tiệc, biết bao ca kỹ dung nhan tuyệt vời,
giọng hát hay mà chúa Trịnh Tráng chỉ say đắm một mình Ngọc Đài. Sau bữa
tiệc, nàng được vời vào dinh, được chúa sủng ái và phong cho làm Vương Phi.
Thời kỳ Ngọc Đài làm Vương Phi trong phủ chúa, thì cuộc chiến Trịnh - Nguyễn
nổ ra dữ dội hơn, chúa Trịnh ra lệnh bắt phu về Thăng Long xây dựng hệ thống
phòng thủ, phòng chúa Nguyễn tấn công. Trong số phu bắt về Thăng Long, có
nhiều người quê ở Vụ Bản. Bà Vương Phi biết tin này nên tìm cách cứu giúp
dân phu của quê hương bản quán mình, nên đã mật báo cho dân phu khi về tới
Kinh chỉ mặc áo rách và ăn cháo cám mà thôi. Một hôm, chúa và cung phi đi
thị sát dân phu, chúa thấy đám phu ngồi ăn cháo cám. Chúa hỏi mới biết là
người Vụ Bản. Nhân lúc đó, Vương Phi tỏ ra buồn rầu, khiến chúa Trịnh vặn
hỏi. Khi được biết dân phu đó chính là người cùng quê với Vương Phi, chúa
Trịnh tức khắc ra lệnh miễn phu cho họ, cấp lương thực, quần áo về quê quán
làm ăn, sinh sống. Hơn thế nữa, chúa còn cấp lương thực, vải vóc cho toàn bộ
dân làng Bảo Ngũ (làng của Vương Phi sinh ra và lớn lên). Ghi nhớ công đức
đó, dân làng thờ Vương Phi làm thành hoàng làng. Sau khi nhận gia ân của
chúa Trịnh, Vương Phi đã thực hiện lại lời hứa với Thánh Mẫu trước kia. Bà đã
dặn dân làng Phủ Dầy là cứ sau ngày rước Mẫu từ phủ Chính lên chùa Gôi, thì
dân làng đem xẻng, cuốc, mai, thuổng đến trước Phủ Dầy vứt ngổn ngang
xuống đất, tỏ ý nhờ linh ứng của Thánh Mẫu nên dân làng không phải nhọc
nhằn phu phen, rồi xếp người thành hai chữ “Cung tạ”. Từ đó về sau, năm nào
cũng có tục kéo chữ [83, tr.812-818].
2.2.4. Nghi thức hầu đồng trong lễ hội Phủ Dầy
Đây có thể được coi là một hoạt động quan trọng nhất trong tín ngưỡng
thờ Mẫu Tứ phủ nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng. Mặc dù, thời điểm diễn
45
ra nghi thức hầu đồng/bóng diễn ra trong một năm luôn khác nhau gắn với
những đối tượng thần linh trong hệ thống Mẫu Tứ phủ khác nhau. Nhưng về cơ
bản, những bước tiến hành của một nghi thức hầu đồng luôn tuân thủ theo quy
định và bài bản tương đối thống nhất. Theo Ngô Đức Thịnh, thì:
Hầu đồng thường diễn ra vào nhiều dịp trong một năm. Với những
thầy Đồng đền, trong một năm có lễ hầu xông đền (sau lễ giao thừa
năm mới), lễ hầu Thượng Nguyên (tháng giêng), lễ hầu Nhập hạ
(tháng 4), lễ Tán hạ (tháng 7), lễ Tất niên (tháng chạp), lễ Chạp ấn (25
tháng chạp)… Trong các dịp trên, hai lễ hầu được coi là quan trọng
hơn cả là vào tháng ba giỗ Thánh Mẫu và tháng tám là dịp giỗ Vua
Cha Bát Hải, Đức Thánh Trần. Đối với mỗi đền hay mỗi ông Đồng và
bà Đồng thì các dịp hầu đồng còn nhiều hơn nữa, như đầu tiên là lễ
trình đồng, lễ lên đồng, lễ hầu bản mệnh, lễ hầu ngày tiệc của các vị
thánh như: Cô Bơ (12-6), tiệc quan Tam Phủ (24-6), tiệc Ông Hoàng
Bảy (17-7), tiệc Trần Triều (20-8), tiệc Đức Vua Cha (22-8), tiệc Chầu
Bắc Lệ (tháng 9), tiệc Ông Hoàng Mười (10-10), tiệc Quan Đệ Nhị
(11-11)… [114, tr.23-59].
Hầu đồng trong lễ hội Phủ Dầy là một hoạt động không thể thiếu. Đó là
nghi lễ nhập hồn của các vị Thánh Tứ phủ vào thân xác các ông Đồng, bà Đồng,
là sự tái hiện lại hình ảnh các vị Thánh, nhằm phán truyền, chữa bệnh, ban phúc
lộc cho các tín đồ đạo Mẫu. Trước khi hầu, ông Đồng hay bà Đồng phải thông
qua người chủ đền làm “lễ chúng sinh và lễ Thánh”. Lễ chúng sinh có mặt trong
tất cả các nghi lễ của tín ngưỡng Tứ phủ và các tín ngưỡng dân gian khác dành
cho các vong hồn lang thang, cơ nhỡ không người thờ cúng. Giúp việc trực tiếp
cho ông/bà Đồng có những người hầu dâng và cung văn. Người hầu dâng là
những người đã từng hầu đồng, họ giúp ông/bà đồng những việc như thắp
hương, dâng các loại vũ khí, thuốc lá, rượu, trầu… nhất là, giúp người hầu thay
lễ phục khi chuyển các giá hầu. Hai người hầu dâng thường ngồi hai bên ông/bà
Đồng trước bàn thờ Thánh, họ mặc áo dài đen quần trắng, đàn ông đội khăn xếp,
đàn bà mặc áo dài màu. Cung văn giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong nghi thức
hầu bóng. Họ dùng các loại nhạc cụ và hát để dẫn nhịp các giá đồng. Cung văn
46
hát càng hay, dừng đúng nhịp khi Thánh nhập, sẽ được ông/bà Đồng thưởng cho
rất nhiều tiền hoặc ban lộc.
Trình tự của một buổi hầu đồng có thể diễn ra theo các bước: Thánh
giáng, Thánh thăng, thay lễ phục, thắp hương làm phép, múa đồng, ban lộc và
nghe chầu văn, Thánh thăng. Sau khi đứng lên làm lễ và xin phép mọi người
được nhập đồng, ông/bà Đồng trùm khăn đỏ phủ diện lên đầu để thực hiện nghi
thức Thánh giáng. Có hai hình thức Thánh giáng, là giáng trùm khăn (hầu tráng
mạn) và Thánh nhập (mở khăn). Đối với các Thánh Mẫu thường hầu theo kiểu
tráng mạn. Để nhận biết các Thánh giáng, ông/bà Đồng dùng ngón tay để ra
hiệu, và dùng tay bắt chéo trước trán báo hiệu Mẫu đã thăng. Ngoài ba vị Thánh
Mẫu bao giờ cũng giáng, thì còn có các vị Thánh nhập nhiều và giáng lâu như:
Quan Lớn Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Ngũ; Chầu Đệ Nhị, Chầu Lục; Ông
Hoàng Bơ, Hoàng Bảy, Hoàng Mười, Cô Bơ Thoải, cô Bé Thượng Ngàn, Cậu
Bơ… các vị khi giáng nhập thường ban lộc cho những người cầu xin. Trong một
buổi hầu đồng, thông thường là có nhiều vị Thánh giáng (khoảng từ 10 đến 15
vị, có thể đến 20 vị). Việc Thánh giáng cũng theo thứ tự rất chặt chẽ: từ Thánh
Mẫu, hàng Quan, hàng Chầu, hàng ông Hoàng, hàng Cô Cậu, Ngũ Hổ, Ông Lốt,
vong linh tổ tiên ông/bà Đồng. Trong nghi thức hầu đồng, trùm khăn phủ diện có
ý nghĩa quan trọng nhất. Lúc trùm khăn, ông/bà Đồng coi như đã chết, họ chỉ là
“cái giá/ghế” để Thánh nhập. Khi Thánh đã giáng và nhập đồng, lúc này ông/bà
Đồng không còn là mình nữa, mà là hiện thân của thần linh, mọi người ngồi dự
lễ cũng phải cung kính, thưa gửi như “tế thần như thần tại”. Khi ông/bà Đồng
được thánh nhập, họ sẽ dùng tay để ra hiệu (thánh nam thì ra hiệu tay trái, thánh
nữ thì tay phải). Những người hầu dâng/giúp việc hầu cho ông/bà Đồng có nhiệm
vụ thay trang phục phù hợp với Thánh đã nhập. Mỗi vị thánh đều có những kiểu
dáng và màu sắc lễ phục riêng phù hợp với tính cách từng người. Sau khi thay đổi
lễ phục, các ông/bà Đồng phải làm nghi thức dâng hương. Đối với thánh nam thì
quỳ lậy, giơ cao bó hương trước trán; thánh nữ thì quỳ dâng hương, dập đầu
xuống đất ba lần. Đây là một nghi thức không thể thiếu đối với sự giáng nhập của
các vị thánh. Ông/bà Đồng sẽ nhận một bó hương từ tay người hầu dâng, rút một
nén hương cầm tay phải huơ làm động tác “khai quang/cuông”. Sau khai quang,
47
ông/bà Đồng sẽ dùng số hương còn lại, tiến tới bàn thờ thánh để dâng hương.
Mỗi lần vái lậy, một tiếng chuông được cất lên. Theo Ngô Đức Thịnh: “dâng
hương là một hành vi tôn kính, một lời cầu nguyện thầm lặng, biểu hiện bằng làn
khói bốc lên trời. Hương cũng như màu sắc chói lọi, mùi hương thơm của nước
hoa, mùi trái cây… không những làm các vị thần linh thích, mà còn có tác dụng
xua đuổi tà ma, chống lại những cái gì chết chóc, không có sự sống” [114, tr.48].
Trong hầu đồng, nghệ thuật vũ đạo là một hoạt động quan trọng và có thể
được coi là bằng chứng cho việc nhập hồn, tái sinh của Thánh vào cơ thể của
ông/bà Đồng. Tùy theo mỗi vị trí và tính cách của vị Thánh mà các động tác múa
cũng khác nhau. Lúc này, động tác múa của người hầu đồng phải kết hợp nhịp
nhàng với âm nhạc và lời hát của cung văn, tạo nên không khí nhộn nhịp, khi
hào hùng khi duyên dáng. Mỗi lần múa xong, Thánh lại ngồi xuống, lúc này,
cung văn hát những bài chầu văn kể lại sự tích, lai lịch và ca ngợi tài năng, sắc
đẹp, công đức của vị Thánh đang giáng. Những người hầu dâng cũng dâng lên
Thánh rượu, trà, thuốc lá, trầu,…; trước khi dâng, lễ vật đều được khai quang,
làm sạch các đồ dâng cúng cho thần linh. Đây cũng là lúc mà người tham dự lễ
hầu đồng đều ngồi gần lại ông/bà Đồng để xin Thánh phán truyền về hậu vận,
hoặc xin dâng lễ vật cầu xin bảo hộ, chữa bệnh, cầu tài lộc… Trong khi Thánh
nghe chầu văn, cũng là lúc phát lộc cho con công/nhang đệ tử, những người
tham gia lễ hầu. Lễ vật có thể là nén hương cháy dở, bánh trái, hoa quả, điếu
thuốc, gương lược, kẹp tóc… và cả tiền bạc nữa. Sau khi phát lộc xong, Thánh
thường Thăng đường, cử chỉ của các ông/bà Đồng là rùng mình và làm dấu hai
tay bắt chéo trên đỉnh đầu. Theo Ngô Đức Thịnh, thì hầu đồng có những đặc
trưng cơ bản sau:
Trước hết, đó là nghi lễ nhập hồn nhiều lần. Một ông Đồng hay bà
Đồng thôi nhưng trong một buổi lễ, tùy theo tính chất của buổi lễ
trong năm hay tính cách đồng (căn đồng), theo nhu cầu của từng ông
Đồng bà Đồng mà họ làm giá (ghế) để cho các vị Thánh nào nhập…
Thứ hai, trong các nghi thức Hầu đồng, các vị thánh nhập hồn bao giờ
cũng là các vị Thánh làm những điều tốt lành, phù hộ cho ông Đồng
bà Đồng và các con nhang đệ tử làm ăn may mắn, chữa khỏi các bệnh
48
tật, trừ đuổi rủi ro, ma quỷ quấy ám. Trong nghi thức hầu đồng, để cho
Thánh nhập, người hầu phải thoát khỏi trạng thái tâm sinh lý bình
thường, họ không còn là họ nữa, mà chỉ là cái xác để Thánh nhập
vào… Thứ ba, một chức năng cơ bản nữa của nghi thức nhập hồn của
các Thánh vào các ông Đồng bà Đồng là để chữa bệnh, đoán số và ban
phúc lộc… [114, tr.50-51].
Cho đến nay, đã có nhiều lý giải về việc giáng, nhập của các vị Thánh vào
các ông/bà Đồng. Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ, chưa được
giải quyết một cách thấu đáo. Nó cũng chính là một hướng mở cho những nghiên
cứu tiếp theo [Phụ lục 2.2].
2.3. GIÁ TRỊ ĐẶC THÙ CỦA LỄ HỘI PHỦ DẦY
2.3.1. Giá trị tín ngưỡng, tâm linh
Trước hết, phải khẳng định và thống nhất với nhau rằng, lễ hội thờ Mẫu
Tứ phủ là một phần quan trọng của tín ngưỡng dân gian Việt Nam nói chung và
tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ nói riêng. Thông qua các nghi thức và lễ hội thờ
Mẫu Tứ phủ mà tín ngưỡng thờ Mẫu đã tạo ra những đặc trưng và có sức sống
riêng biệt trong đời sống văn hóa của cộng đồng. Chính vì vậy, giá trị của tín
ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ cũng chính là giá trị của lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ. Tuy
nhiên, do lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ nói riêng và lễ hội cổ truyền nói chung có cơ
chế vận hành riêng, nên tự thân nó cũng tạo nên những giá trị đặc thù, riêng biệt.
Sau đó, trên cơ sở nhận thức chung về giá trị tâm linh của tín ngưỡng thờ
Mẫu Tứ phủ, NCS thấy rằng, nó đã tạo ra được niềm tin thiêng liêng đối với
cộng đồng cư dân, đặc biệt là đối với người phụ nữ. Cũng chính từ đây, lễ hội
Phủ Dầy đã tạo ra được một không gian “diễn xướng tâm linh” sinh động của
mình, đáp ứng nhu cầu của cộng đồng. Cũng giống với nhiều tín ngưỡng bản địa
dân gian Việt Nam khác, tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ trong quá trình hình thành
và phát triển cũng phải giao thoa với nhiều tín ngưỡng tôn giáo khác, nhất là các
tôn giáo ngoại lai như: Đạo, Phật, Nho. Có thể nói, tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ
là sự kết hợp giữa tín ngưỡng thờ Mẫu của dân gian Việt Nam với Đạo giáo để
dần hoàn thiện thần điện và các nghi lễ của mình. Chi tiết này cũng được Ngô
49
Đức Thịnh cho rằng, chính sự kết hợp với Đạo giáo, nên thần điện cũng như hệ
thống tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ trở nên bài bàn hơn, chặt chẽ hơn, hoàn thiện
và đầy đủ hơn. Không những thế, các yếu tố Phật giáo cũng chi phối mạnh mẽ
đến tín ngưỡng này, bằng việc sau khi thánh Mẫu Liễu Hạnh thất bại bởi phái
Nội Đạo Tràng trong cuộc chiến tại Sòng Sơn, Phật Bà Quan Âm (có tích cho
rằng, Phật Tổ) đã ra tay cứu giúp. Bên cạnh đó, nhiều nghi thức, lễ tiết lại “vận
hành” theo quan điểm của Nho giáo như tế lễ, rước sách… Vì vậy, lễ hội Phủ
Dầy cũng hội tụ đầy đủ các giá trị của các tôn giáo như đã kể ở trên. Nó cũng
tham gia góp phần vào định hướng đời sống tâm linh của cộng đồng. Giúp cộng
đồng cư dân không chỉ hướng về cội nguồn, mà còn hướng vào đức tin tốt đẹp,
vào cuộc sống thánh thiện hơn. Từ đây, con người trong cộng đồng hình thành
cuộc sống an vui: làm việc thiện, tránh việc ác; tìm đến hạnh phúc, tránh xa bi
lụy; cộng đồng tin tưởng vào cuộc sống thực tại, có sự phù trợ của các Mẫu và
thần linh trong bản điện. Với niềm tin tâm linh như vậy, lễ hội Phủ Dầy đã trở
thành một thành tố quan trọng của văn hóa, một “hiện tượng tín ngưỡng tâm
linh” gắn bó mật thiết với tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ nói riêng và tín ngưỡng
thờ Mẫu ở Việt Nam nói chung.
Bên cạnh đó, thông qua các hoạt động của lễ hội Phủ Dầy, tín ngưỡng thờ
Mẫu Tứ phủ phát huy vai trò của mình tới đời sống cộng đồng một cách trực tiếp
và sâu sắc nhất. Lễ hội Phủ Dầy không chỉ tác động và ảnh hưởng tới những lớp
người già, người lớn tuổi (từ trung niên trở lên) trong cộng đồng (đặc biệt là các
bà, các mẹ), mà còn có tác động đến cả tầng lớp thanh thiếu niên. Vì vậy, giá trị
tín ngưỡng của lễ hội Phủ Dầy đã không chỉ thỏa mãn nhu cầu tâm linh của một
nhóm hay một thế hệ tuổi nhất định, mà còn thỏa mãn nhu cầu tâm linh của
nhiều lứa tuổi, thế hệ khác nhau trong cộng đồng.
Ngoài ra, giá trị tín ngưỡng tâm linh của lễ hội Phủ Dầy còn được thể hiện
qua các nghi thức hành lễ/tế lễ/cầu cúng. Các nghi thức này vừa đảm bảo tính
chuẩn mực nghiêm cẩn, bài bản… vừa đảm bảo tính thiêng liêng nhất định.
Những thành viên tham gia lễ hội được tuyển chọn kỹ lưỡng, nghi thức được tập
dượt cẩn trọng. Không những thế, các yếu tố như đọc văn tế bằng chữ Hán, hay
kéo chữ (hoa trượng) với tính tôn nghiêm trên dưới đã thể hiện rõ những ảnh
50
hưởng tác động của quan niệm Nho giáo vào nội dung lễ hội. Cùng với các hoạt
động rước xách trong lễ hội Phủ Dầy, các hoạt động giao tiếp với thần linh thông
qua nghi thức hầu đồng đã tạo nên cho lễ hội có sức sống và giá trị thiêng liêng
riêng có của mình. Không những thế, hoạt động lên đồng còn tạo ra sự sinh
động, gắn bó mật thiết và không thể thiếu trong lễ hội Phủ Dầy. Sự giao tiếp với
thần linh (thông linh) đã tạo nên giá trị tín ngưỡng của lễ hội Phủ Dầy. Cộng
đồng khi tham dự lễ hội Phủ Dầy thường với tấm lòng thành kính, tin tưởng vào
thế giới tâm linh, vào thánh Mẫu, vào thần linh, mong được phù hộ, độ trì cho
cuộc sống được yên bình, công việc làm ăn được hanh thông, đạt được những
thành tựu cao hơn trong công việc.
Nói tóm lại, giá trị tín ngưỡng tâm linh của lễ hội Phủ Dầy là sự phát triển
trên cơ sở hội tụ - kết hợp giữa một loại hình tín ngưỡng bản địa cổ truyền của
người Việt (mang tính chất nội sinh) với các tôn giáo ngoại lai (mang tính chất
ngoại sinh). Tính thiêng liêng của lễ hội Phủ Dầy được đảm bảo diễn ra trong
một không gian thiêng (các đền, phủ, miếu, lăng mộ, chùa, đình… - gọi chung là
Phủ Dầy) và thời gian thiêng (thời điểm mạnh - cách dùng chữ của Đinh Gia
Khánh và Ngô Đức Thịnh). Đặc biệt, lễ hội gắn liền, mật thiết với các nghi thức
tế lễ, kéo chữ và lên đồng/hầu đồng.
2.3.2. Giá trị giáo dục truyền thống lịch sử
Bản chất của văn hóa mang trong nó tính lịch sử và đại diện cho một dân
tộc nhất định. Chính vì thế, lễ hội dân gian nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói
riêng là một thành tố cơ bản của văn hóa, nên nó cũng mang trong nó tính lịch sử
và đại diện cho một dân tộc nhất định. Tính lịch sử được thể hiện khác nhau qua
các giai đoạn khác nhau. Lễ hội dân gian và lễ hội Phủ Dầy vừa mang “hơi thở”
của quá khứ, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những giá trị, tinh hoa tốt đẹp; vừa
mang “hơi thở” của thời đại, đáp ứng nhu cầu của đời sống cộng đồng trong bối
cảnh hiện đại.
Lễ hội Phủ Dầy một mặt khẳng định giá trị lịch sử văn hóa dân tộc Việt
Nam, mặt khác, nó định hướng giá trị tâm linh tới cộng đồng trong việc hướng
về cội nguồn dân tộc. Hàng năm, mỗi khi xuân về người dân lại nô nức tề tựu về
đây để một lòng hướng về vùng đất thiêng liêng, cùng nhau ca ngợi công đức
51
của tiền nhân, những người đã từ quá khứ, đặt nền móng cho con cháu sau này.
Công trạng của các vị tiền nhân của thánh Mẫu và các thần linh khác được con
cháu ôn lại, tái hiện lại sự tích và những nét đặc trưng, tính cách của họ trong
quá khứ. Việc Mẫu Liễu Hạnh đã hiển linh, giúp người đời, trị người ác… hay
trong nghi thức kéo chữ (hoa trượng hội) gắn liền với vương phi Trần Thị Ngọc
Đài giúp dân địa phương bớt được/miễn được phu phen, tạp dịch…
Việc tái hiện lại các sự tích, ca ngợi công trạng… của thánh Mẫu Liễu
Hạnh và các vị thần linh nhằm duy trì sự tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác,
từ lớp người già trao truyền cho lớp người trẻ, để rồi, tính kế thừa được liên tục
theo thời gian. Đối với con người, hiểu biết những giá trị của quá khứ chính là
hiểu biết được con người của chính mình và cộng đồng quanh mình. Những giá
trị quá khứ chính là “căn cước/bản sắc văn hóa” của mỗi cá nhân, mỗi dòng họ,
mỗi làng xã, mỗi địa phương, mỗi vùng miền và rộng hơn nữa là quốc gia/dân
tộc. Để hiểu biết quá khứ, những giá trị của lịch sử, con người không chỉ học qua
sách vở, trường lớp… mà học ngay trong chính những sinh hoạt thực tế của cộng
đồng. Và, một kênh giáo dục truyền thống lịch sử tới mỗi người dân trong cộng
đồng (gồm cả cư dân địa phương lẫn khách hành hương/thập phương) là thông
qua các hoạt động tâm linh hoặc lễ hội. Lễ hội Phủ Dầy đã đóng vai trò kết nối
giữa quá khứ với hiện tại, là khâu trung gian/trung chuyển những giá trị truyền
thống/cổ truyền tới đời sống đương đại/hiện đại. Lễ hội Phủ Dầy đã góp phần
giáo dục truyền thống cội nguồn cho thế hệ trẻ nói riêng và cộng đồng cư dân
nói chung. Theo chúng tôi, thông qua các hoạt động lễ hội nói chung và lễ hội
Phủ Dầy nói riêng, giáo dục truyền thống lịch sử được truyền tải hiệu quả nhất,
nhanh nhất và sinh động nhất tới đời sống văn hóa cộng đồng. Từ đây, những giá
trị truyền thống lịch sử này lại tiếp tục được duy trì, trao truyền cho thế hệ sau.
Việc phục dựng lễ hội Phủ Dầy từ sau năm 1994 cho đến nay (sau một
thời gian dài gián đoạn, sau năm 1945), với các bài bản, nghi thức đầy đủ, trọn
vẹn… đã cho thấy, sức sống của truyền thống lịch sử vẫn sống trong lòng người
dân. Được người dân ghi nhớ, giữ gìn và bảo tồn và phát huy những giá trị của
nó vào thời điểm thuận lợi nhất. Và, cũng từ sau năm 1994 cho đến nay, lễ hội
Phủ Dầy đã đáp ứng không chỉ nhu cầu tâm linh của cộng đồng cư dân, mà còn
52
giúp tạo dựng giá trị truyền thống lịch sử trong bối cảnh/không gian văn hóa
đương đại.
2.3.3. Giá trị thẩm mỹ nghệ thuật
Tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng là một
hiện tượng văn hóa dân gian tổng thể, một hình thức diễn xướng tâm linh. Chính
vì vậy, bản thân tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ và lễ hội Phủ Dầy đã hội tụ đầy đủ
các loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống. Từ trang phục, nghệ thuật trang
điểm, âm nhạc, ca từ, vũ đạo… dân gian, đến nghệ thuật tạo hình, điêu khắc…
dân gian. Không những thế, trong lễ hội còn diễn ra các nghi thức tế lễ gắn liền
với các sinh hoạt nghệ thuật diễn xướng. Nhất là trò kéo chữ (hoa trượng hội),
vừa thể hiện tính hàn lâm trong việc sử dụng Hán tự, vừa là một nghệ thuật sắp
đặt công phu, đòi hỏi người tham dự phải luyện tập chăm chỉ, có hiểu biết và
tính kỷ luật cao.
Nghệ thuật diễn xướng được thể hiện rõ nét nhất là trong nghi thức hầu
đồng. Vào lúc này, các ông/bà đồng phải cải trang, thay đổi trang phục liên tục
mỗi khi chuyển các giá hầu. Trong quá trình thánh thăng giáng vào ông/bà đồng,
các cung văn sử dụng giai điệu cũng như lời ca mà lúc lên bổng xuống trầm, lúc
từ tốn khoan thai, lúc déo dắt, dồn dập… Từ âm nhạc sôi động, các ông/bà đồng
cảm nhận bài bản gắn liền với xuất thân, hành trạng, công đức của vị thần linh ấy
mà thăng hoa. Nghệ thuật trang phục đạt tới sự tinh tế, chặt chẽ về màu sắc, kiểu
dáng. Cùng với âm nhạc từ các cung văn, trang phục của các ông/bà đồng hòa
vào vũ đạo mà tạo ra tính cách, sở thích… của mỗi vị thần linh trên điện thờ.
Đây là sự pha trộn hài hòa giữa các loại hình nghệ thuật dân gian cổ truyền của
người Việt nói riêng và Việt Nam nói chung trong nghi thức hầu bóng/lên đồng
thường diễn ra tại lễ hội Phủ Dầy.
Bên cạnh giá trị thẩm mỹ của nghệ thuật diễn xướng, không thể không đề
cập đến giá trị của nghệ thuật tạo hình. Trong lễ hội Phủ Dầy, nghệ thuật tạo
hình/điêu khắc được thể hiện qua hệ thống tượng thờ trên Tứ phủ công đồng.
Mỗi một vị thần đều có những đặc điểm về khuôn mặt, màu sắc, trang phục,
trang sức khác nhau. Đây cũng là những dấu hiệu nhận biết cho các con nhang
đệ tử, người dân cộng đồng địa phương và khách thập phương. Ngoài ra, nghệ
53
thuật trang trí trên kiến trúc cũng tạo nên dấu ấn đặc trưng của không gian thiêng
liêng với các đồ án trang trí truyền thống: tứ linh, tứ quý, tứ thời… Các đồ án
trang trí này là sự hội tụ của nghệ thuật tạo hình tín ngưỡng dân gian với các
quan niệm của Đạo giáo, Nho giáo. Sự kết hợp giữa hình thức, kỹ thuật tạo tác
dân gian Việt truyền thống với các ý nghĩa biểu tượng khác nhau của tôn giáo
ngoại nhập đã tạo nên giá trị thẩm mỹ nghệ thuật của tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ
phủ nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng.
Trò kéo chữ (hoa trượng hội) trong lễ hội Phủ Dầy là một hoạt động nghệ
thuật diễn xướng mang tính chất tạo hình cao. Có thể nói trò kéo chữ là một
nghệ thuật tổng hợp vừa có tính chất diễn xướng (vũ đạo, trình diễn), vừa mang
giá trị thẩm mỹ tạo hình. Không những thế, nó còn mang trong mình giá trị của
nghệ thuật thư pháp Hán tự. Người đạo diễn cũng như người tham dự xếp chữ
đều ít nhiều có hiểu biết chữ Hán (có học, đảm bảo tính hàn lâm, quý tộc). Vì
vậy, thứ nhất, chữ được xếp/kéo phải chuẩn, đúng chữ, đúng - đủ nét; thứ hai,
chữ xếp phải đẹp, đảm bảo tính thẩm mỹ; thứ ba, lúc chuyển sang những chữ
khác nhau, đòi hỏi người tham dự phải di chuyển đúng, kỷ luật phải được đặt ra
trên hết. Dụng cụ xếp chữ cũng được trang trí cẩn thận về màu sắc, vừa không
lòe loẹt sặc sỡ, nhưng vẫn đảm bảo tính sinh động, nổi bật trong quá trình ghép -
tạo chữ. Cái đẹp của nghệ thuật kéo chữ không chỉ nằm ở màu sắc, sự ngay ngắn
vuông vắn của chữ, mà còn đẹp về ý nghĩa bên trong mỗi câu chữ được xếp.
Thường là những câu có ý nghĩa mang tính cầu mong cho cuộc sống của muôn
dân/bách tính, đất nước bình an, phát triển hoặc ca ngợi công đức, tôn vinh
Thánh Mẫu.
Lễ hội Phủ Dầy đã thể hiện giá trị thẩm mỹ nghệ thuật sâu sắc. Từ nghệ
thuật diễn xướng đến nghệ thuật tạo hình được kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn,
tạo ra một đặc trưng riêng có của lễ hội Phủ Dầy trong tương quan với tín
ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ của người Việt ở châu thổ Bắc Bộ.
2.3.4. Giá trị kinh tế xã hội
Bên cạnh các giá trị về tín ngưỡng tâm linh, giáo dục truyền thống lịch sử,
thẩm mỹ nghệ thuật…, lễ hội Phủ Dầy còn mang trong nó cả giá trị về kinh tế xã
hội. Có lẽ, giá trị về kinh tế xã hội là một phần vô cùng quan trọng nhằm đảo
54
bảo/duy trì sự vận hành, hoạt động, phát triển của không chỉ lễ hội Phủ Dầy, mà
còn cho cả hoạt động của tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ nói chung.
Thông qua các hoạt động tâm linh, người dân hướng về cội nguồn (giáo
dục truyền thống lịch sử), nhận thức các giá trị thẩm mỹ thuật…, từ đó họ phát
tâm công đức (bằng điền sản, tiền tài, công sức…) để hưng công sửa chữa, xây
mới, tổ chức các hoạt động tâm linh (cũng lễ, lên đồng, tổ chức lễ hội… và các
lễ thức, sinh hoạt liên quan). Từ những nền tảng ban đầu, khách thập phương
hàng năm đến với Phủ Dầy, hướng tâm thành của bản thân tới thần linh, cầu
mong tai qua nạn khỏi, làm ăn phát đạt, cuộc sống no đủ hạnh phúc, thịnh
vượng, công việc được thuận lợi, hanh thông. Cũng chính từ lý do mong muốn
một cuộc sống tốt đẹp hơn đó, cộng đồng cư dân sẵn sàng hằng tâm, đóng góp,
công đức cho nhà đền. Xét trên phương diện “lý thuyết xã hội tổng thể”, sự đóng
góp này không chỉ là thuần túy là “quà tặng” của cá nhân, nhóm người đó dâng
cúng cho thần linh, mà đổi lại họ nhận được sự bình an, khỏi bệnh tật, làm ăn
phát đạt (buôn may bán đắt), thậm chí thăng tiến vị trí trong xã hội. Hay có thể
nói, thần linh sau khi nhận quà biếu, sẽ “tặng lại” cho người đi tặng một món
“quà tặng” vô giá, vô hình. Món quà đó vô hình, nhưng lại hiện hữu trong mọi
hoạt động sống của người đi tặng. Người đi tặng sẽ nhận được những món quà
có ý nghĩa lớn gấp nhiều lần so với tặng phẩm mà họ đem đi “biếu tặng”. Xét
trên góc nhìn kinh tế học, đây chính là hình thức trao đổi buôn bán có tính chất
nguyên thủy xuất hiện trong các xã hội cổ sơ. Hình thức trao đổi quà tặng này sẽ
mất đi khi xã hội bước vào xã hội có nền kinh tế thị trường, trao đổi hàng hóa có
tính chất thương mại. Tuy nhiên, do sự phát triển không đồng đều giữa các nền
văn hóa, nên luôn có những dư tồn của các loại hình/yếu tố cổ sơ (nguyên thủy)
trong đời sống xã hội đương đại. Hơn thế nữa, quan niệm về một thế giới luôn có
“vạn vật hữu linh”, nên bản thân quà tặng biếu cũng có tính linh ma của nó.
Chính vì vậy, người tặng thường không tiếc những món quà mình tặng biếu cho
thần linh (xét trên giá trị kinh tế) hoặc trong lúc thực hiện các nghi thức thiêng,
bằng cách: đốt, phá hủy, đánh chìm,… hay phân phát cho những người khác một
cách rất hào phóng.
55
Trong lễ hội Phủ Dầy, giá trị kinh tế thông qua sự trao đổi giữa người
hành lễ với thần linh, đặc biệt là nghi thức lên đồng/hầu đồng. Người đến hầu
đồng phải đóng góp một khoản phí nhất định cho thủ nhang đồng đền (số lượng
tiền phụ thuộc vào vị trí ngồi hầu, thời điểm diễn ra giá hầu, thời gian hầu và địa
vị cũng như khả năng tài chính của ông/bà đồng). Ông/bà đồng cũng phải bỏ tiền
để thuê cung văn trong những buổi hầu đồng, số tiền thuê phụ thuộc vào hai yếu
tố: thứ nhất, tên tuổi của cung văn (người có thâm niên trong nghề, tài năng,
nghệ sĩ nổi tiếng…); thứ hai, là cung văn của bản đền hay cung văn được ông/bà
đồng mang từ nơi khác đến (nếu là người bản đền, thì chi phí trả cho thủ nhang
đồng đền sẽ rẻ hơn, nếu mang từ nơi khác về thì chi phí sẽ cao hơn). Bên cạnh
đấy, ông/bà đồng cũng phải chịu những chi phí khác cho việc chuẩn bị lễ vật
dâng thánh, trang phục hầu và có một đội ngũ giúp việc (người hầu dâng) trong
quá trình hầu. Trong quá trình hầu, khi thánh giáng - nhập đồng, ông/bà đồng
hưng phấn mà tán lộc bằng những tờ tiền có mệnh giá khác nhau. Vậy, giá trị
kinh tế xã hội trong lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ ở phủ Giầy chính là tạo ra được
nguồn thu cho bản đền, cho ngân sách của địa phương. Người dân cộng đồng địa
phương cũng dựa vào lễ hội, những buổi hầu đồng mà cung cấp các mặt hàng
khác nhau, từ lễ vật (vàng hương, hoa, oản, quả…), vàng mã… đến các dịch vụ
ăn uống, nghỉ ngơi… Từ việc cung cấp dịch vụ trong lễ hội, cụ thể là các đoàn
đến hầu đồng, người dân cộng đồng địa phương cũng tạo ra nguồn thu tài chính
cho bản thân và gia đình.
Ngoài ra, đối với cộng đồng cư dân địa phương, lễ hội Phủ Dầy đã tạo ra
cơ hội công ăn việc làm. Ngoài việc tham gia trực tiếp vào các hoạt động của lễ
hội, thì chủ yếu họ tham gia vào các công việc làm dịch vụ, phục vụ lễ hội và
khách thập phương đến trảy hội. Các công việc: viết sớ, cúng thuê, bán đồ cúng
lễ (hương, vàng mã, nến, hoa, quả, bánh kẹo…), phục vụ ăn uống… Từ những
công việc đó đã tạo ra nguồn thu không nhỏ cho không chỉ bản thân các gia đình,
mà còn tạo ra nguồn thu ngân sách cho địa phương bằng việc: bán chỗ, đấu thầu
các kiot, thu thuế kinh doanh. Trong thời điểm diễn ra lễ hội Phủ Dầy (3 tháng
mùa xuân và đặc biệt 10 ngày chính tiệc), khách hàng tập trung đông nhất trong
56
năm, đây cũng là thời điểm hoạt động kinh doanh diễn ra sôi động nhất. Nguồn
thu tài chính trong thời điểm này cũng nhiều nhất, người dân địa phương còn có
câu nói: “làm ba tháng, ăn cả năm”. Bên cạnh hai nguồn thu chính từ các hoạt
động của ông/bà đồng, của các hộ kinh doanh dịch vụ, thì khách thập phương về
làm lễ, vãn cảnh đền, tham dự lễ hội cũng tạo ra một nguồn thu không nhỏ cho
bản đền, ngân sách địa phương. Đó là tiền đóng góp đèn nhang, tiền công đức…
của cộng đồng thập phương tới tham dự lễ hội, tham quan di tích Phủ Dầy. Đặc
biệt là có sự tham gia đóng góp của gia đình các quan chức (từ trung ương tới
địa phương) và đội ngũ doanh nghiệp hoặc những nhà buôn lớn khắp mọi miền
của đất nước.
Nói tóm lại, giá trị kinh tế xã hội của lễ hội Phủ Dầy chính là nguồn thu
tài chính từ các nguồn khác nhau và môi trường kinh doanh, tạo nên công ăn
việc làm cho người dân địa phương. Nguồn tài chính liên tục được tái đầu tư vào
cơ sở hạ tầng, duy trì vận hành của đền nói chung và tổ chức lễ hội nói riêng.
Bên cạnh đó, nguồn tài chính còn đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội của địa
phương. Đây cũng chính là giá trị của lễ hội Phủ Dầy đối với kinh tế xã hội của
cộng đồng nói chung và địa phương nói riêng.
2.4. VAI TRÒ CỦA LỄ HỘI PHỦ DẦY
2.4.1. Vai trò đáp ứng nhu cầu tâm linh cộng đồng
Mỗi một loại hình tôn giáo tín ngưỡng tâm linh đều giữ vai trò riêng có
của mình trong việc đáp ứng nhu cầu tâm linh của cộng đồng con người. Tín
ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng cũng không nằm
ngoài mục đích đó.
Do Việt Nam là một nước nông nghiệp, mọi hoạt động sản xuất đều theo
chu kỳ sinh trưởng phát triển của cây lúa, nên vào mùa xuân, luôn là mùa nông
nhàn, các lễ hội nói riêng và các hoạt động nghi thức tâm linh dân gian nói
chung thường được tổ chức vào thời gian này (khoảng từ tháng giêng đến tháng
3 âm lịch). Không những thế, mùa xuân là mùa của cây cối đâm chồi, nảy lộc;
động vật sinh nở…; đây cũng là thời điểm mà người nông dân đi cầu mong cho
57
một năm mưa thuận, gió hòa, sức khỏe dồi dào và gia đình được an khang,
thịnh vượng.
Đáp ứng nhu cầu tâm linh đó, tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ và lễ hội Phủ
Dầy đã phát huy vai trò của mình đối với đời sống cộng đồng. Nhằm cân bằng
giữa nhu cầu hưởng thụ vật chất với đời sống tinh thần, giúp mỗi cá nhân trong
xã hội hoàn thiện thêm về bản thân và sống nhân ái, vị tha hơn. Chính vì vậy,
mỗi dịp xuân về, các di tích tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ trên cả nước nói chung
và đặc biệt ở châu thổ sông Hồng nói riêng lại đón hàng vạn lượt khách hành
hương về chốn thiêng liêng. Mùa xuân chính là thời điểm quan trọng, mà nhiều
nhà nghiên cứu cho rằng đó là “thời điểm mạnh” trong một không gian thiêng
liêng. Cộng đồng cư dân ở đây được hiểu là: không chỉ có khách hành hương,
thập phương tới tham dự lễ hội, mà còn cả cư dân tại địa phương (trong địa bàn
tỉnh, huyện, xã…). Đối với cộng đồng cư dân tại địa phương, họ vừa tham gia
với tư cách là người hành hương vào lễ Thánh, nhưng đồng thời họ cũng tham
gia trực tiếp vào các hoạt động của lễ hội.
Trong hoạt động tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ nói chung và lễ hội Phủ Dầy
nói riêng, vai trò của nó chính là đáp ứng nhu cầu tâm linh cho mỗi cá nhân
trong cộng đồng. Người làm ăn buôn bán (bao gồm cả người làm thương nghiệp
truyền thống cho đến doanh nhân thời hiện đại) thì đến cầu “buôn may bán đắt”,
công việc làm ăn được hanh thông, thuận lợi. Theo Ngô Đức Thịnh, thì:
Các con đường buôn bán đường dài, mà ở đó lực lượng chính vẫn là
phụ nữ. Và không có gì đáng ngạc nhiên, khi ven các con đường buôn
bán như vậy mọc lên không biết bao nhiêu là đền phủ của Đạo Mẫu,
nơi mà các thương lái nữ giới đi buôn thường ghé vào cầu cúng Thánh
Mẫu phù hộ cho họ buôn bán được may mắn. Đây cũng là con đường
mà các đoàn hành hương của các ông đồng, bà đồng, các con nhang đệ
tử đi lễ Mẫu, lên đồng vào các dịp xuân thu nhị kỳ. Như vậy, có thể
nói con đường thương nghiệp vươn tới đâu thì đền phủ thờ Mẫu, các
nghi lễ Lên đồng vươn tới đó [112, tr.387].
58
Chính vì vậy, thường là vào dịp đầu năm (mùa xuân), các con nhang đệ tử
thường hướng về các ngôi đền thờ Mẫu Tứ phủ để hành lễ, đây cũng chính là
thời gian (tháng giêng đến tháng 3 âm lịch) lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ được diễn ra
sôi động nhất.
Không chỉ đóng vai trò đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu tâm linh cho những cá
nhân trong cộng đồng trên phương diện hoạt động kinh doanh buôn bán, tín
ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ và lễ hội Phủ Dầy còn đáp ứng nhu cầu chữa bệnh (chủ
yếu là tâm bệnh hay bệnh tâm lý) nữa. Nói theo cách khác, do đời sống xã hội
thực tại vốn có nhiều sức ép tác động trực tiếp đến người phụ nữ, gây nên những
bức xúc tâm lý. Trong những lúc này, người phụ nữ thường tìm đến với tâm linh,
trong đó Đạo Mẫu và những hoạt động quanh nó chính là liều thuốc tâm lý vô
cùng quan trọng, trị liệu cho họ ổn định, lấy lại thăng bằng trong cuộc sống.
2.4.2. Vai trò cố kết cộng đồng
Bản chất của các lễ hội nói chung, lễ hội cổ truyền thống nói riêng (trong
đó có lễ hội Phủ Dầy) đều mang vai trò cố kết/gắn kết các thành viên trong cộng
đồng. Một nguyên tắc bắt buộc trong các lễ hội là phải hội tụ được số lượng
người đông đảo. Lượng người này nhiều hay ít thường phụ thuộc vào quy mô,
tầm ảnh hưởng của lễ hội và sức linh thiêng của vị thần được thờ cúng. Đối với
những lễ hội có quy mô nhỏ, ít tên tuổi thường chỉ có người địa phương hoặc
vùng lân cận tham dự, nếu làng có tục “kết chạ” thì những làng liên quan sẽ cùng
tham dự. Tuy nhiên, đối với các lễ hội có quy mô lớn, nổi tiếng, thì không chỉ có
người dân cộng đồng địa phương tham gia, mà cả khách thập phương đến dự.
Hơn nữa, thời gian tổ chức lễ hội thường diễn ra vào “thời điểm mạnh” (thường
là mùa xuân, nông nhàn) nên quy tụ được toàn bộ nhân dân trong cộng đồng địa
phương tham gia. Ngoài ra, đây không chỉ là dịp người dân cầu xin một năm mới
tốt lành, mà còn là dịp để dân làng nghỉ ngơi, giải trí, giao lưu… sau những ngày
mùa lao động vất vả.
Bên cạnh các vai trò cơ bản khác, lễ hội Phủ Dầy cũng mang trong nó vai
trò cố kết, gắn bó các thành viên trong cộng đồng địa phương, nơi diễn ra lễ hội.
Có thể thấy, đối với người dân cộng đồng địa phương tại khu vực Phủ Dầy, tham
59
gia lễ hội chính là dịp để người dân cùng nhau gặp gỡ, kết nối tình đoàn kết, thân
mật thông qua việc giúp đỡ, chỉ bảo… trong việc luyện tập các tiết mục trong tế
lễ, đám rước, văn nghệ… Hơn nữa, ngoài các nghi thức diễn ra phổ biến trong
các lễ hội cổ truyền, thì ở Phủ Dầy còn diễn ra trò/tục kéo chữ (hoa trượng). Đây
là một trong những lễ thức đòi hỏi sự kết hợp ăn ý, động tác nhuần nhuyễn,
luyện tập chăm chỉ. Nếu không có tinh thần gắn kết/đoàn kết giữa các thành viên
trong cộng đồng, không có sự động viên chỉ bảo lẫn nhau của các thành viên
tham gia, có lẽ lễ hội Phủ Dầy nói chung và nghi thức kéo chữ nói riêng sẽ
không thể thành công.
Lễ hội Phủ Dầy chính là thời điểm quan trọng nhất để nhân dân trong
cộng đồng địa phương và khách hành hương khắp nơi về tham dự. Lễ hội không
chỉ gắn kết các thành viên trong cộng đồng địa phương, mà còn là nơi hội tụ,
giao lưu của người dân thập phương. Chính không gian thiêng, thời gian thiêng
và sức mạnh tâm linh của tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ nói chung và lễ hội Phủ
Dầy nói riêng đã làm nên sự cố kết, gắn bó giữa các thành viên trong cộng đồng,
tình thân ái được thể hiện. Sau mỗi năm cùng chung tay tổ chức, thực hiện diễn
xướng lễ hội, người dân cộng đồng địa phương lại gắn bó hơn nữa trong đời
sống, công việc sản xuất… Hay, nói theo cách khác, lễ hội Phủ Dầy là trường
hợp điển hình, tiêu biểu cho lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ nói riêng và lễ hội truyền
thống của người Việt về tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng. Nó tạo nên sự gắn
bó, thắt chặt quan hệ tình làng nghĩa xóm và mở rộng hơn nữa là sự gắn kết con
người giữa các vùng miền trên cả nước.
2.4.3. Vai trò giáo dục truyền thống cộng đồng
Lễ hội truyền thống ở Việt Nam nói chung và ở châu thổ sông Hồng nói
riêng đều mang trong nó các giá trị của quá khứ - lịch sử. Nó chính là hiện thân
sinh động nhất những giá trị của truyền thống, được lưu truyền theo không gian
và thời gian cho đến tận ngày nay. Lễ hội Phủ Dầy cũng không là trường hợp
ngoại lệ. Tín ngưỡng gắn liền với việc thờ cúng Thánh Mẫu Liễu Hạnh và các
thần linh trong hệ thống Tứ phủ đã đã được lịch sử hóa mà gắn với mỗi giai đoạn
khác nhau của quá khứ. Thần tích của Mẫu Liễu đã cho thấy sự xuất hiện/ra đời,
60
tồn tại và phát triển của một loại hình tín ngưỡng tâm linh phổ biến ở châu thổ
sông Hồng nói riêng và Việt Nam nói chung. Cùng với Mẫu Liễu, lễ hội Phủ
Dầy còn xuất hiện tích truyện về vương phi Trần/Phùng Thị Ngọc Đài đã giúp
nhân dân địa phương thời Lê Trịnh, sau bà được tôn vinh công đức mà có tục
kéo chữ (hoa trượng). Các lớp lang lịch sử trong lễ hội Phủ Dầy đã ngày càng
được làm rõ và phát huy giá trị đối với truyền thống cộng đồng.
Chính vì hàm chứa bên trong mình những giá trị của lịch sử - truyền
thống, lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng đã góp phần
tái hiện quá khứ một cách sinh động trong bối cảnh đương đại. Không chỉ người
dân cộng đồng địa phương nơi diễn ra lễ hội, mà còn cả khách thập phương lại
có dịp được ôn lại, nhắc lại một phần quá khứ ấy. Không những thế, chính người
dân cộng đồng địa phương đang trực tiếp tham gia tái dựng quá khứ, làm nó
sống lại trong lòng cuộc sống hiện tại. Những người tham gia trực tiếp lễ hội Phủ
Dầy ấy đang truyền tải quá khứ đến với cuộc sống, tiếp tục bảo lưu và duy trì giá
trị của lịch sử tới những thế hệ tiếp theo.
Tiểu kết chương 2
Tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ được định hình trên cơ sở tín ngưỡng thờ Nữ
thần và Mẫu thần của dân gian Việt Nam truyền thống. Trải qua thời gian và
cùng với sự phát triển của xã hội, tục thờ thần Mẫu đã tích hợp tư tưởng tôn giáo
đương thời (Phật, Đạo, Nho) mà hình thành tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ. Đến thế
kỷ XVI, thần điện của tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ xuất hiện vị thần chủ Liễu
Hạnh và trở nên hệ thống, chặt chẽ và bài bản hơn. Lễ hội Phủ Dầy là sự kết
tinh, biểu hiện rõ nét nhất của tín ngưỡng thờ Mẫu này tới đời sống tâm linh
cộng đồng ở Việt Nam hiện nay.
Lễ hội Phủ Dầy được tổ chức có quy mô hoành tráng và hội tụ những
bước cơ bản của một lễ hội cổ truyền dân gian Việt Nam. Trong lễ hội Phủ Dầy,
các bước cơ bản nói chung và các bước đặc thù nói riêng của lễ hội thờ Mẫu Tứ
phủ được sáng tỏ. Đặc biệt nghi lễ hầu/lên đồng được coi là linh hồn, trung tâm,
61
biểu hiện đặc sắc của lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ. Từ đó tạo ra hệ thống vai trò, đặc
trưng của lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng tác động
tới đời sống văn hóa cộng đồng cư dân Việt ở vùng châu thổ sông Hồng và trên
cả đất nước Việt Nam. Lễ hội sinh ra từ nhu cầu của cộng đồng, đáp ứng nhu cầu
của cộng đồng và từ đó nó có những ảnh hưởng/tác động đến đời sống văn hóa
của cộng đồng.
Lễ hội nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng luôn tạo ra các giá trị hoặc
hệ thống các giá trị đối với đời sống văn hóa cộng đồng. Trong lễ hội Phủ Dầy,
các giá trị của loại hình sinh hoạt tâm linh này được chỉ ra một cách rõ ràng.
Trong đó, nổi bật lên là các giá trị cơ bản như: giá trị tín ngưỡng tâm linh, giá
trị giáo dục truyền thống lịch sử, giá trị thẩm mỹ nghệ thuật, giá trị kinh tế xã
hội. Mỗi một giá trị đóng một chức năng, vai trò khác nhau đối với đời sống
văn hóa cộng đồng cư dân. Nhưng tựu chung lại, các giá trị của lễ hội Phủ Dầy
đã được tạo bởi/kết tinh từ những nhu cầu, mong muốn, nhận thức chuẩn mực
của cộng đồng cư dân Việt Nam nói chung và người dân ở châu thổ sông Hồng
nói riêng.
62
Chương 3
TÁC ĐỘNG - ẢNH HƯỞNG QUA LẠI GIỮA LỄ HỘI PHỦ DẦY
VỚI ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG
3.1. TÁC ĐỘNG TỚI ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG
3.1.1. Tác động đến đời sống văn hóa cộng đồng địa phương
Lễ hội Phủ Dầy đã tác động trực tiếp và mạnh mẽ nhất tới đời sống của
người dân địa phương sinh sống trên địa bàn hai xã Kim Thái và Vân Cát, huyện
Vụ Bản, Nam Định. Không những thế, lễ hội còn tác động gián tiếp tới đời sống
văn hóa, xã hội của người dân các xã lân cận trong huyện Vụ Bản. Để làm rõ
những tác động của giá trị lễ hội Phủ Dầy tới đời sống cộng đồng địa phương,
NCS dự định phân chia thành hai nhóm dân sau: nhóm thứ nhất, cộng đồng địa
phương tham gia trực tiếp vào các hoạt động của lễ hội (trong ban tổ chức lễ hội,
ban khánh tiết, đội tế lễ, đội nghi trượng, bát âm, đội hoa trượng…); nhóm thứ
hai, cộng đồng tham gia gián tiếp vào các hoạt động của lễ hội (cung cấp dịch vụ
tâm linh: viết sớ, bán đồ hàng vàng mã, đồ lễ, cúng thuê…; cung cấp các dịch vụ
ăn uống, nghỉ ngơi, vui chơi - giải trí: nhà hàng, khách sạn, trò chơi, bán hàng
lưu niệm…). Tuy nhiên, khi phân loại, bóc tách theo phương án này lại không
thấy được sự tác động tổng thể của lễ hội Phủ Dầy đối với đời sống văn hóa
cộng đồng. Vì, suy cho cùng, các giá trị của lễ hội Phủ Dầy luôn có tác động đa
chiều, đa diện và một cách tổng thể tới đời sống văn hóa của cộng đồng. Nhưng,
mỗi nhóm cộng đồng thì mỗi giá trị của lễ hội Phủ Dầy lại có những tác động
đậm nhạt, mạnh yếu… khác nhau. Ngoài ra, có nhiều/một số gia đình hoặc cá
nhân trong cộng đồng địa phương vừa tham gia trực tiếp, vừa tham gia gián tiếp
vào các hoạt động của lễ hội Phủ Dầy. Điều này cũng gây ra khó khăn cho việc
đánh giá sự tác động của giá trị lễ hội thờ Phủ Dầy tới đời sống văn hóa xã hội
cộng đồng địa phương.
Đối với nhóm cộng đồng cư dân địa phương tham gia vào các hoạt động
của lễ hội, họ vừa là chủ thể duy trì, thể hiện và sáng tạo ra các giá trị tín ngưỡng
tâm linh của lễ hội, nhưng đồng thời, họ cũng chính là khách thể hưởng thụ
63
những giá trị tín ngưỡng tâm linh của lễ hội. Trong lễ hội Phủ Dầy, nhóm cộng
đồng cư dân địa phương còn mang một chức năng khác là truyền/chuyền tải các
giá trị tín ngưỡng tâm linh đến cộng đồng. Và, cũng thông qua các hoạt động của
lễ hội Phủ Dầy, nhóm cộng đồng cư dân địa phương cũng thỏa mãn nhu cầu tâm
linh thông qua các giá trị tín ngưỡng của lễ hội. Nói theo cách khác, các giá trị
tín ngưỡng tâm linh của lễ hội Phủ Dầy đã đáp ứng nhu cầu tâm linh của nhóm
cộng đồng cư dân địa phương.
Các giá trị tín ngưỡng tâm linh của lễ hội đã tác động mạnh mẽ tới quan
niệm và đời sống văn hóa của cộng đồng cư dân địa phương. Người được chọn
trở thành thành viên tham gia các công việc trong lễ hội thường rất vinh dự và tự
hào. Họ thường tin rằng, sau khi hoàn thành công việc phục vụ thần linh mà dân
làng giao phó, họ sẽ được thánh Mẫu, ông Hoàng, Thần, Phật… phù hộ, độ trì
cho sức khỏe, bình an, may mắn trong công việc (làm ăn, học hành, thăng tiến
trong xã hội). Trên nền tảng quan niệm và nhận thức như vậy, NCS đã tiến hành
khảo sát, điều tra xã hội học và phỏng vấn sâu đối với nhóm cộng đồng cư dân
tại địa phương ở Phủ Dầy vào tháng 3 năm 2016 (NCS tiến hành điều tra khảo
sát trên cơ sở dùng bảng hỏi và phỏng vấn sâu các nhóm cộng đồng địa phương
tại quần thể di tích Phủ Dầy, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định trong 2
năm: 2015 - 2016. Những đợt khảo sát này chủ yếu tập trung vào mùa lễ hội của
Phủ Dầy (diễn ra từ tháng giêng đến tháng 3 âm lịch). Số liệu trong luận án là
kết quả khảo sát gần đây nhất, được NCS triển khai từ ngày 29/2 đến 15/3/2016
(tức tháng 2 âm lịch). Bên cạnh đấy, chúng tôi còn tổ chức những chuyến khảo
sát nhanh vào dịp chính hội (từ 1 đến hết 10 tháng 3 âm lịch) vào giữa năm
(ngày rằm, mùng 1, ngày nghỉ lễ, ngày cuối tuần) và vào dịp lễ tạ cuối năm).
Trên cơ sở điều tra 200 mẫu ngẫu nhiên là người dân địa phương, và 20 mẫu
phỏng vấn sâu các thành phần công việc tại địa bàn huyện Vụ Bản (Danh sách
những người được phỏng vấn sâu xin xem thêm ở phần phụ lục, mục 3.4, trong
đó có 11 mẫu là các công dân của địa phương và 3 mẫu là khách thập phương:
tổng 14 mẫu), kết quả tổng hợp số liệu sơ bộ như sau:
64
Bảng 3.1: Số liệu phân loại thành phần cư dân cộng đồng địa phương
ở lễ hội Phủ Dầy
Nam Nữ Giới tính
(49%) (51%)
Dưới 35 tuổi 35- 50 tuổi Trên 50 tuổi Độ tuổi
(18%) (35%) (47%)
Nông dân NV nhà nước (cả về hưu)
Kinh doanh Lao động
tự do Nghề nghiệp
(62 %) (08%) (12%) (18%)
Nguồn: Theo điều tra, khảo sát của NCS vào tháng 3 năm 2016
Qua bảng thống kê trên, cho thấy: thành phần giới tính của người dân địa
phương được hỏi có tỉ lệ tương đương nhau, nam chiếm 49%, nữ chiếm 51%. Độ
tuổi dưới 35: chiếm 18%. Từ 35 đến 50 tuổi: chiếm 35%, độ tuổi trên 50 tuổi:
chiếm 47%. Trong đó, thành phần nghề nghiệp: nông dân chiếm 62%, cán bộ
nhân viên nhà nước (kể cả đã nghỉ hưu) chiếm 8%, người làm kinh doanh chiếm
12%, lao động tự do chiếm 18%. Thành phần nông dân khi tiến hành phỏng vấn
vẫn chiếm số đông trong cộng đồng cư dân địa phương khi được tiến hành phỏng
vấn; thành phần là cán bộ nhà nước chiếm ít nhất trên tổng số người ở địa
phương được phỏng vấn. Tuy nhiên, thành phần nông dân đông như vậy không
có nghĩa là họ làm nghề nông thuần túy, mà bản thân họ và gia đình vẫn hành
nghề cung cấp dịch vụ cho 3 tháng diễn ra lễ hội, thời gian còn lại, họ quay về
với công việc làm ruộng.
Trong quá trình tiến hành khảo sát, khi được hỏi về mức độ hiểu biết về
thời gian diễn lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ ở Phủ Dầy đối với cộng đồng cư dân địa
phương, thì có 99% trả lời chính xác, 1% không biết. Điều này cho thấy mức
độ quan tâm của cư dân cộng đồng địa phương tới hoạt động văn hóa tín
ngưỡng dân gian truyền thống này. Chính vì vậy, có đến 92% người dân địa
phương được hỏi tham gia lễ hội đều đặn hàng năm, 8% không thường xuyên
tham gia và 0% chưa từng đến/tham gia. Thông qua những số liệu thống kê
trên, cho thấy không chỉ sự quan tâm của người dân cộng đồng địa phương tới
65
lễ hội, mà còn cho thấy sự nổi tiếng, sức hấp dẫn của lễ hội Phủ Dầy đối với
nhóm cư dân này. Cụ thể hơn, lễ hội Phủ Dầy là chỗ dựa kinh tế vững chắc cho
cư dân cộng đồng địa phương sinh sống, nên việc họ tham gia các hoạt động
thường xuyên của Phủ Dầy là điều hiển nhiên. Đặc biệt là, đối với nhóm cộng
đồng địa phương làm công việc cung cấp dịch vụ cho khách thập phương đến
trảy hội.
Cộng đồng cư dân địa phương tham gia vào lễ hội với nhiều tư cách
khác nhau, trong số 200 người được hỏi thì: 6% số người được hỏi là thành
viên Ban tổ chức lễ hội; 2% số người được hỏi là thành viên đội tế lễ; 6% số
người được hỏi là thành viên đội văn nghệ; 5% số người được hỏi là thành viên
đội kéo chữ; 10% số người được hỏi là cung văn; 1% số người được hỏi là
ông/bà đồng; 39% số người được hỏi là cung cấp dịch vụ; 51% số người được
hỏi là người dân địa phương đến chơi hội. Con số trên cho thấy, những thành
viên tham gia trực tiếp vào các hoạt động của lễ hội không nhiều, trong khi đó,
những thành viên tham gia gián tiếp vào các hoạt động của lễ hội lại chiếm một
con số khá lớn (gồm người làm dịch vụ và người tham dự lễ hội với tư cách đi
chơi hội). Những con số thống kê này, chưa cho những kết luận cơ bản về
thành phần tham gia các hoạt động khác nhau của lễ hội, nhưng nó lại cung cấp
những thông tin ban đầu về vai trò cũng như đóng góp của người dân địa
phương đối với lễ hội Phủ Dầy.
Tuy nhiên, khi tiến hành phỏng vấn sâu chị Xuân (38 tuổi) (Gia đình chị
Xuân gồm có 4 thành viên: chồng chị là anh… (40 tuổi) và hai cháu gái đang
học phổ thông cơ sở. Gian hàng của gia đình nằm ngay bên tay trái của cổng
đền chính, hàng ngày chị vẫn mở hàng đều đặn, vào mùa lễ hội, hai con chị
cũng ra phụ giúp mẹ sau giờ đi học. Chồng chị tham gia đội bảo vệ duy trì trật
tự an ninh ở phía bên ngoài đền Chính [Phụ lục 3.4]), làm công việc cung cấp
dịch vụ tâm linh ở cổng đền chính, chị cho biết: “người dân sở tại ở quanh Phủ
Dầy hiện nay đã tham gia vào các hoạt động cung cấp dịch vụ như bán hàng,
viết sớ, trông xe, cúng thuê… Như nhà tôi có 4 người, hai cháu nhỏ đi học, sau
giờ học thì cũng về giúp mẹ bán hàng, nên cũng không tham gia trực tiếp vào
66
các chương trình của lễ hội được. Chồng tôi, thì làm ở đội bảo vệ quanh Phủ,
trông xe, phân luồng giao thông… cũng không có thời gian để tham gia vào các
hoạt động khác”. NCS có hỏi, thế các nghi thức như tế lễ, rước kiệu, kéo chữ…
trong những ngày chính hội Phủ Dầy nhân lực lấy ở đâu và họ làm sao biết
được các bài bản của nghi lễ? Chị Xuân cho biết: “ngày xưa, mỗi khi vào dịp
chính hội như vậy, nhà đền sẽ huy động người dân trong xã Kim Thái để làm
những công việc nghi lễ như rước kiệu, tế lễ, kéo chữ… Nhưng, trong nhiều
năm trở lại đây (khoảng từ năm 1994), do nhân lực của địa phương tham gia
vào các khâu cung cấp dịch vụ, nên nhà đền đã thuê người ở các xã lân cận,
thậm chí qua bạn bè giới thiệu mà người ở nơi khác cũng có thể tham gia
những nghi lễ này. Những người được thuê hay tham gia như vậy, họ vừa có
kinh phí, vừa làm được việc liên quan đến tâm linh, nên họ rất vui vẻ, tự
nguyện, nhiều người còn tin rằng, làm điều này sẽ đem may mắn đến cho bản
thân và gia đình”. Cũng theo chị Xuân cho biết: “việc thuê mướn người tham
gia vào các hoạt động của lễ hội là do có người trong xã hoặc những người các
xã lân cận đứng ra bao thầu, họ nhận tiền từ nhà đền, rồi tổ chức thuê người,
tập huấn và đến ngày lễ hội thì đến diễn. Người đứng ra thầu công việc này ở
Phủ Dầy có thể là một cá nhân ở trong xã, hoặc xã khác; nhiều khi là đại diện
Đoàn Thanh niên hoặc các tổ chức đoàn hội của xã Kim Thái đứng ra”.
Mục đích, nhu cầu tham gia của người dân cộng đồng địa phương cũng rất
đa dạng, trong 200 người được hỏi thì có: 48% số người được hỏi là thỏa mãn
nhu cầu giải trí; 47% số người được hỏi thoả mãn nhu cầu tìm hiểu văn hóa
truyền thống; 28% số người được hỏi thỏa mãn nhu cầu cố kết cộng đồng, tình
làng nghĩa xóm; 12% số người được hỏi thỏa mãn nhu cầu học tập; 56% số
người được hỏi thỏa mãn nhu cầu tâm linh (cầu tài lộc, cầu bình an); 12% số
người được hỏi cho những ý kiến khác nhau:…
Lễ hội Phủ Dầy đã tác động/ảnh hưởng tích cực đến các mặt của đời sống
cộng đồng theo các mức độ khác nhau như sau:
67
Bảng 3.2: Số liệu đánh giá tác động tích cực của lễ hội Phủ Dầy
tới đời sống văn hóa cộng đồng địa phương
Không ảnh hưởng
Ít ảnh hưởng
Ảnh hưởng Rất ảnh hưởng
Ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất nông nghiệp
(65%) (22%) (06%) (06%)
Ảnh hưởng đến công việc học tập
(42%) (33%) (21%) (03%)
Ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh
(16%) (23%) (34%) (26%)
Ảnh hưởng đến mối quan hệ trong gia đình, xã hội
(30%) (21%) (31%) (17%)
Ảnh hưởng đến sức khỏe (34%) (21%) (26%) (17%)
Các ảnh hưởng khác………………..
Nguồn: Theo điều tra, khảo sát của NCS vào tháng 3 năm 2016
Qua bảng thống kê trên cho thấy, lễ hội Phủ Dầy đã tác động tích cực đến
các mặt của đời sống cộng đồng cư dân tại địa phương như sau: Trong sản xuất
nông nghiệp, 65% người được hỏi cho rằng không ảnh hưởng, 22% cho rằng ít
ảnh hưởng, tổng chiếm: 87%; chỉ có 6% cho rằng ảnh hưởng và cũng 6% ảnh
hưởng nhiều, tổng chiếm: 12%. Vậy, những tác động tích cực của lễ hội Phủ Dầy
tới sản xuất nông nghiệp của cộng đồng cư dân địa phương ở mức độ thấp, nếu
như không muốn nói là ít/yếu. Trong công việc học tập, 42% cho rằng không
ảnh hưởng, 33% cho rằng ít ảnh hưởng, tổng chiếm: 75%; chỉ có 21% cho rằng
ảnh hưởng và 3% cho rằng ảnh hưởng nhiều, tổng chiếm: 24%. Vậy, ảnh hưởng
tích cực của lễ hội tới công việc học tập của người dân địa phương ở mức thấp.
Trong hoạt động kinh doanh, 16% cho rằng không ảnh hưởng, 23% ít ảnh
hưởng, tổng chiếm: 39%; 34% cho rằng ảnh hưởng và 36% cho rằng ảnh hưởng
nhiều, tổng chiếm: 70%. Vậy lễ hội ảnh hưởng tích cực đến hoạt động kinh
doanh của người dân địa phương ở mức cao. Trong các mối quan hệ gia đình -
xã hội, 30% cho rằng không ảnh hưởng, 21% cho rằng ít ảnh hưởng, tổng chiếm:
51%; 31% cho rằng ảnh hưởng và 17% cho rằng ảnh hưởng nhiều, tổng chiếm
48%. Vậy, lễ hội ảnh hưởng/tác động tích cực đến các mối quan hệ xã hội của
người dân địa phương ở mức trung bình thấp. Trong sức khỏe, 34% cho rằng
68
không ảnh hưởng, 21% cho rằng ít ảnh hưởng, tổng chiếm: 55%; 26% cho rằng
ảnh hưởng và 17% cho rằng ảnh hưởng nhiều, tổng chiếm: 43%. Vậy, ảnh hưởng
tích cực của lễ hội tới sức khỏe cộng động cư dân địa phương ở mức trung bình
thấp. Tác động tích cực của lễ hội Phủ Dầy tới các mặt của đời sống văn hóa
cộng đồng cư dân địa phương ở các mức độ khác nhau. Trong đó, tác động đến
đời sống kinh tế - hoạt động kinh doanh sản xuất là mạnh mẽ nhất; và, tác động
đến hoạt động sản xuất nông nghiệp là yếu nhất.
Con số thống kê trên cho thấy những tác động ảnh hưởng tích cực chưa
thực sự rõ ràng đến các mặt của đời sống văn của cộng đồng cư dân địa phương.
Chính vì vậy, khi tiến hành hỏi chuyện một số hộ gia đình làm công việc bán
hàng, cung cấp dịch vụ tâm linh trong khu vực Phủ Dầy, đã cho thấy sự tác động
của lễ hội cũng như vai trò của nó tới đời sống văn hóa cộng đồng cư dân. Theo
bà Lan (54 tuổi) (Bà Lan hiện đang bán hàng dưới chân đền Mẫu Thượng tại
khu vực Phủ Dầy, công việc này gia đình bà đã duy trì gần 20 năm nay. Gia đình
bà có 7 người, tuy nhiên, chỉ có hai vợ chồng bà tham gia vào công việc kinh
doanh này; các con bà đều đi làm ăn xa, đứa út thì đang học đại học trên Hà
Nội [Phụ lục 3.4]) cho biết: “từ khi mở hàng bán ở Phủ Dầy đến giờ, chúng tôi
vẫn có ruộng để làm, vẫn phải bám lấy ruộng chứ anh! Đặc biệt là trước kia,
công việc bán hàng chỉ có 3 tháng đầu năm, những ngày còn lại khách ít, chúng
tôi vẫn phải làm các công việc khác. Nên công việc đồng áng chúng tôi vẫn phải
làm. Những năm gần đây, do nhà neo người, công việc bán hàng vẫn duy trì đều
đặn vào các ngày trong năm, nên ruộng chúng tôi thuê người làm, hai vợ chồng
ra đây bán hàng”. Khi hỏi nhà chị Xuân, thì đây cũng là tình hình chung của
nhiều gia đình làm công việc cung cấp dịch vụ trên địa bàn xã Kim Thái. Ruộng
cho sản xuất nông nghiệp vẫn được chia, nhưng hầu hết họ không làm mà đi
thuê, cả gia đình tập trung vào công việc bán hàng hoặc các công việc khác liên
quan đến khu Phủ Dầy. Tác động của lễ hội đến công việc học tập của các thành
viên trong gia đình, đặc biệt là tới con cái, bà Lan cho biết: “những ngày lễ hội,
đông khách, sau giờ học các cháu cũng được huy động ra cửa hàng để giúp bố
mẹ, nhưng, chúng tôi cũng không bắt buộc, nếu các cháu bận học, chúng tôi
cũng không đòi hỏi. Mình vất vả một chút cho các cháu nó được học hành tử tế,
69
chúng nó cứ học được là tôi mừng”. Chị Xuân cũng không là trường hợp ngoại
lệ: “hai đưa nhà tôi còn đang học phổ thông, nên hầu như chúng tôi không yêu
cầu các cháu ra phụ mẹ bán hàng, thi thoảng chúng nó ra cửa hàng chơi thôi, chứ
không phải làm gì”. Công việc kinh doanh có quan hệ trực tiếp đến các hoạt
động lễ hội Phủ Dầy, theo chị Xuân: “chúng tôi bận bịu chủ yếu vào ba tháng
đầu năm, đây cũng là chính lễ của hội Phủ Dầy. Công việc kinh doanh chủ yếu
sôi nổi vào khoảng thời gian này, chúng tôi liên tục nhập hàng để bán, thu nhập
cũng chủ yếu dựa vào đây và mùa lễ hội. Còn những ngày khác trong năm,
khách vắng, hàng bán chậm, thi thoảng có một vài đoàn khách đến lễ hoặc tham
quan, chúng tôi chỉ bán cầm chừng. Đấy là vị trí bán hàng của chúng tôi nằm
trong sân đền chính, chứ các gian hàng phía bên ngoài gần như hết lễ hội là họ
đóng cửa”. Khi được hỏi về việc chi phí thuê kiot bán hàng, chị Xuân cho biết:
“những gian hàng trong khu vực của đền chính, chúng tôi chỉ làm việc với cụ
Đức, sau mỗi mùa lễ hội, chúng tôi tự nguyện và tùy tâm công đức cho nhà đền
(NCS có hỏi về mức kinh phí phải đóng để có chỗ ngồi thuận lợi trong sân đền
như thế này là bao nhiêu? Nhưng, câu trả lời không được đáp lại, đây là vấn đề
rất khó khi tiến hành phỏng vấn sâu liên quan đến mức thu nhập và những khoản
đóng góp). Còn những gian kiot phía bên ngoài là do Ủy ban nhân dân xã trực tiếp
quản lý và cho đấu thầu hàng năm, tất nhiên là ưu tiên người của địa phương. Vì
cho đấu thầu, nên những kiot bên ngoài không chỉ có người dân trong địa bàn xã
Kim Thái, mà có cả người dân ở nơi khác đến bán”. Cũng theo chị Xuân: “trước
kia, xung quanh sân đền là những bãi đất trống, các gia đình trong xã đến xin với
cụ Đức (nhà đền) được cất quán bán hàng ở đó; sau theo quy định phải lập thành
những kiot, nên mới có gian hàng như ngày nay”. Khác với chị Xuân, bà Lan ngồi
bán hàng dưới chân đền Thượng, gian hàng mà bà ngồi bán do xa trung tâm của
đền chính nên quán xá có vẻ tạm bợ hơn. Bà Lan cho biết: “chúng tôi phải đấu
thầu chỗ ngồi bán hàng, do ở xa trung tâm nên mức thuê cũng nhẹ nhàng hơn (Khi
hỏi là mức thuê bao nhiêu? Bà Lan cũng cười và không trả lời. Theo bà, nếu là
người địa phương sẽ rẻ hơn người ngoài đến, vị trí cũng vào chỗ thuận lợi hơn);
hơn nữa tôi là người địa phương nên cũng được ưu tiên và thuận tiện hơn rất nhiều
trong việc đấu thầu thuê chỗ”. Liên quan đến các mối quan hệ trong cộng đồng và
70
sức khỏe gia đình, chị Xuân cho biết: “buôn có bạn, bán có phương, người bán
hàng quanh đây toàn là người trong xã, trong làng… nên chúng tôi không xảy ra
những xích mích gì, không những thế, chúng tôi còn hỗ trợ nhau trong lúc bán
hàng. Nói thật với anh, trong quá trình bán hàng, cũng thi thoảng xảy ra việc mời
chào khách, dẫn đến việc va chạm, không hài lòng, tuy nhiên chúng tôi cũng thỏa
thuận hoặc nhường nhịn nhau, nếu mình đã có khách nhiều rồi thì để khách sang
mua ở các chỗ khác. Nên, quan hệ giữa chúng tôi hầu như không có va chạm
nhiều và khá tốt đẹp. Còn về sức khỏe cả gia đình thì chủ yếu là hai vợ chồng vất
vả, nhất là vào mùa lễ hội, thức khuya dậy sớm, quần quật bán hàng cả ngày nên
không có nhiều thời gian để nghỉ ngơi. Ban ngày bán hàng, rảnh lúc nào lại nhập
hàng, lấy hàng lúc đấy. Chồng tôi lại làm việc an ninh bảo vệ, nên công việc cũng
bận rộn và khá vất vả. Sau ba tháng lễ hội, thời gian cũng rảnh hơn, chúng tôi có
dịp được nghỉ ngơi lấy lại sức khỏe; không những thế, mình làm ăn được lộc của
Thánh Mẫu, nên được ngài ban sức khỏe, nên không có vấn đề gì”.
Bên cạnh những tác động/ảnh hưởng tích cực, thì bản thân lễ hội Phủ Dầy
cũng có những tác động tiêu cực đối với đời sống văn hóa cộng đồng địa phương
theo các mức độ như sau:
Bảng 3.3: Số liệu đánh giá tác động tiêu cực của lễ hội
tới đời sống văn hóa cộng đồng địa phương
Không ảnh hưởng
Ít ảnh hưởng
Ảnh hưởng
Rất ảnh hưởng
Ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất nông nghiệp
(84%) (13%) (01%) (01%)
Ảnh hưởng đến công việc học tập
(69%) (26%) (03%) 0
Ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh
(43%) (30%) (17%) (09%)
Ảnh hưởng đến mối quan hệ trong gia đình, xã hội
(47%) (25%) (16%) (12%)
Ảnh hưởng đến sức khỏe (40%) (25%) (13%) (16%)
Các ảnh hưởng khác………………..
Nguồn: Theo điều tra, khảo sát của NCS vào tháng 3 năm 2016
71
Qua bảng thống kê trên, có thể thấy những tác động/ảnh hưởng tiêu cực
của lễ hội Phủ Dầy tới các mặt đời sống văn hóa xã hội cư dân cộng đồng địa
phương như sau: Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, 84% cho rằng không ảnh
hưởng, 13% cho rằng ít ảnh hưởng, tổng chiếm: 97%; 1% cho rằng ảnh hưởng và
1% cho rằng ảnh hưởng nhiều, tổng chiếm: 2%. Vậy tác động tiêu cực của lễ hội
tới hoạt động nông nghiệp cộng đồng cư dân địa phương ở mức rất thấp. Trong
công việc học tập, 69% cho rằng không ảnh hưởng, 26% cho rằng ít ảnh hưởng,
tổng chiếm 9%; 3% cho rằng ảnh hưởng (3%) và ảnh hưởng nhiều ở mức 0%,
tổng chiếm: 3%. Vậy, tác động tiêu cực của lễ hội tới công việc học tập cộng đồng
cư dân địa phương ở mức rất thấp. Trong hoạt động kinh doanh, 43% cho rằng
không ảnh hưởng, 30% cho rằng ít ảnh hưởng, tổng chiếm: 73%; 17% cho rằng
ảnh hưởng, 9% cho rằng ảnh hưởng nhiều, tổng chiếm: 26%. Vậy, lễ hội tác động
tiêu cực tới hoạt động kinh doanh của cư dân địa phương ở mức thấp. Trong quan
hệ gia đình - xã hội, 47% cho rằng không ảnh hưởng, 25% cho rằng ít ảnh hưởng,
tổng chiếm: 72%; 16% cho rằng ảnh hưởng, 12% cho rằng ảnh hưởng nhiều, tổng
chiếm: 28%. Vậy, tác động tiêu cực của lễ hội đến mối quan hệ gia đình, xã hội
của cộng đồng cư dân địa phương ở mức thấp. Trong sức khỏe, 40% cho rằng
không ảnh hưởng, 25% cho rằng ít ảnh hưởng, tổng chiếm: 65%; 13% cho rằng
ảnh hưởng, 16% cho rằng ảnh hưởng nhiều, tổng chiếm: 29%. Vậy, tác động tiêu
cực của lễ hội tới sức khỏe cộng đồng cư dân địa phương ở mức thấp. Trong số
những tác động tiêu cực của lễ hội Phủ Dầy tới các mặt của đời sống văn hóa cộng
đồng cư dân địa phương, về cơ bản ở mức độ thấp.
Bên cạnh những con số thống kê đánh giá mức độ tác động tiêu cực đến
đời sống văn hóa nhóm cộng đồng cư dân địa phương như trên. NCS tiếp tục
phỏng vấn sâu, thì được chị Xuân trả lời: “Vì công việc làm ăn kinh doanh, nên
chúng tôi hầu như không quan tâm nhiều lắm đến nông nghiệp, mặc dù là có
ruộng nhưng thuê người làm, mình chỉ thu về ít thóc còn lại thì trả công thợ. Có
lẽ ảnh hưởng tiêu cực nhất của lễ hội Phủ Dầy tới chúng tôi là trong những tháng
hội này ít quan tâm đến đời sống gia đình con cái. Ban ngày bán hàng, tối về đến
nhà lại lo nhập hàng, cộng sổ sách… những việc cơm nước, nhà cửa đều phó
mặc cho mấy đứa trẻ. Nhiều khi chúng tôi cũng không quan tâm được đến công
72
việc học hành của chúng nó. Sau khi cộng sổ sách, nhập hàng sau, rồi đi ngủ,
sáng hôm sau lại dậy sớm ra bán hàng, nhiều khi, do phục vụ khách hầu đồng
buổi đêm, chúng tôi chỉ đáo qua nhà tắm rửa, ăn vội bát cơm là lại ra đền ngay.
May mà có ông bà nội ngoại ở gần, nên thường nhờ ông bà sang trông nom các
cháu những hôm bận rộn”. Bà Lan cũng cho biết: “theo tôi, lễ hội Phủ Dầy ảnh
hưởng tiêu cực đến chúng tôi nhiều nhất là việc chăm sóc cho gia đình, vì vào
dịp lễ hội, chúng tôi đi từ sáng đến tối mịt mới về, mọi công việc nhà cửa con
cái, cơm nước đều phó mặc cho mấy đứa con, bây giờ chúng nó đi cả thì lại nhờ
cậy vào ông bà. May là ông bà còn khỏe cả, nếu không thì chúng tôi cũng chả
biết làm thế nào”.
Ngoài những tác động tích cực và tiêu cực, người dân cộng đồng địa
phương tham gia lễ hội Phủ Dầy còn vì các lý do khác nhau, trên cơ sở tổng hợp
câu trả lời của 200 người, chúng tôi có con số như sau: 48% người được hỏi tin
rằng Mẫu hiển linh cứu nhân độ thế; 49% tưởng nhớ đến Đức Mẫu Liễu; 64%
làm theo phong tục của địa phương; 41% làm theo truyền thống gia đình; 40%
muốn giáo dục con cháu về văn hóa dân tộc; 50% sợ bị Thánh Mẫu quở phạt;
8% làm theo phong trào; 8% vì những lý do khác. Thông qua con số trên cho
thấy, lý do tham gia lễ hội của cộng đồng cư dân địa phương có khác nhau,
nhưng hành động theo thói quen - phong tục của địa phương được người dân ở
mức độ cao nhất so với các lý do khác, đặc biệt là cao hơn những lý do tín
ngưỡng tâm linh. Các lý do liên quan đến đời sống tâm linh chỉ đạt ở mức trung
bình thấp, điều này cũng phần nào phản ánh sự chuyển biến trong nhận thức của
người dân cộng đồng địa phương đối với lễ hội Phủ Dầy hiện nay.
Lý do của cư dân cộng đồng địa phương khi khảo sát bằng phiếu đã cho
thấy mức độ ảnh hưởng, tác động của lễ hội Phủ Dầy như con số ở trên. Tuy
nhiên, các câu trả lời cụ thể lại cho thấy những quan điểm khác nhau. Quan điểm
khác nhau này cho thấy vị trí công việc mà mỗi cá nhân đang đảm nhiệm hoặc
hướng tới Phủ Dầy trong những ngày lễ hội. Khi hỏi về lý do tham gia lễ hội,
ông Trần Văn Năm (47 tuổi) (Ông Trần Văn Năm, vốn là người dân ở địa
phương, trước kia ông có đi bộ đội, sau giải ngũ ra đền làm công việc phục vụ
nhà đền. Ban đầu, ông xuất thân là một cung văn, sau ăn lộc Thánh Mẫu, có căn
73
quả nên làm thủ nhang đền Mẫu Thượng [Phụ lục 3.4]) là thủ nhang đền Mẫu
Thượng cho biết: “tôi cho rằng Mẫu hiển linh cứu nhân độ thế, vì vậy tôi làm
công việc phụng sự nhà Thánh cũng vì căn duyên và được Thánh lựa chọn. Mọi
người làm công việc phụ giúp cho nhà đền ở đền Thượng này cũng mang một
niềm tin giống tôi. Nhiều người là người thân của tôi, vì nhiều năm đau ốm bệnh
tật, đi các bệnh viện chữa không khỏi, nhưng từ ngày ra đền làm công việc đèn
nhang cho đến nay, bệnh tật khỏi hẳn”. Khi hỏi ông Trần Vũ Toán (60 tuổi) ở
phủ Bóng (Ông Trần Vũ Toán là thủ nhang của phủ Bóng (còn gọi là Nguyệt Du
Cung), gia đình ông đã nhiều thế hệ xây cất, trông nom và sửa chữa phủ Bóng
này. Phủ Bóng chính là nơi sản sinh ra nghệ nhân bậc thầy trong nghi thức lên
đồng. Theo lời ông kể, đây chính là nơi các ông/bà đồng phải thi sát hạch trước
khi mở phủ hoặc tham gia lên đồng [Phụ lục 3.4]), ông cho rằng: “chúng tôi là
người kế thừa lại truyền thống của tổ tiên và gia đình, phủ Bóng là nơi cho các
ông/bà đồng về học nghề và thông qua thi tuyển mới được ra hầu hoặc lập phủ.
Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng Thánh Mẫu và tổ sư hầu bóng ban phúc lành
cho mọi người”. Đối với chị Xuân hay bà Lan đều cho rằng: “chúng tôi bán hàng
ở đây được hưởng lộc của nhà đền, Thánh Mẫu đã phù hộ độ trì cho công việc và
gia đình chúng tôi, vì vậy hàng năm, trước khi vào mùa lễ hội, chúng tôi đều làm
lễ lên nhà đền, xin với Thánh Mẫu phù hộ cho công việc làm ăn được buôn may
bán đắt, sức khỏe dồi dào; hết mùa lễ hội chúng tôi lại lên lễ tạ, đóng góp công
đức đèn nhang cho nhà đền phụng sự Thánh Mẫu” (Lược theo lời kể của bà Lan
và chị Xuân vào tháng 3 năm 2016).
Liên quan đến vấn đề kinh tế, tạo nguồn thu nhập và công ăn việc làm: 90%
người được hỏi cho rằng lễ hội Phủ Dầy có tạo ra công ăn việc làm cho người dân
trong vùng; chỉ có 9% cho rằng không và 1% có ý kiến khác. Trong đó, có 58% số
người được hỏi có gia đình tham gia vào các hoạt động dịch vụ quanh lễ hội Phủ
Dầy; 42% không có gia đình tham gia hoạt động này. Nguồn thu tài chính của
người dân cộng đồng địa phương theo các cấp độ như sau: 58% cho rằng có mức
thu nhập thấp (từ 1 đến 3 triệu đồng/tháng); 17% cho rằng có mức thu nhập trung
bình (từ 4 đến 6 triệu/tháng); có 3% cho rằng có mức thu nhập cao (từ 7 đến 10
triệu/tháng); 22% cho rằng có mức thu nhập rất cao (trên 10 triệu/tháng).
74
Cùng với số liệu thống kê ở trên về tình hình tạo cơ hội việc làm và thu
nhập đối với cộng đồng địa phương thông qua lễ hội, NCS có đặt câu hỏi với
ông Trần Khắc Thiềng (53 tuổi) Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Kim Thái
[Phụ lục 3.4], ông cho biết: “Lễ hội Phủ Dầy đã tạo ra cơ hội công ăn việc làm
cho người dân trong xã, tuy nhiên do tính chất lễ hội chỉ diễn ra trong 3 tháng
đầu năm, nên phần lớn thời gian còn lại trong năm các lao động này phải làm
những công việc khác như: làm ruộng, làm thợ xây,… Không những thế, gần
50% các gia đình trong xã không tham gia các hoạt động liên quan đến lễ hội
Phủ Dầy, lý do theo tôi thì có rất nhiều: thứ nhất, trong xã có một số thôn theo
công giáo; thứ hai, nhiều gia đình không đủ điều kiện về vốn để mở cửa hàng
hoặc vị trí nhà ở nằm xa khu vực trung tâm các ngôi đền thuộc Phủ Dầy”. Khi
hỏi về thu nhập của các hộ kinh doanh, ông Thiềng cũng cho biết: “để nói về con
số cụ thể thì tôi không nắm rõ, nhưng chắc chắn thu nhập từ các hộ dân kinh
doanh dịch vụ như vậy là không nhỏ; kể cả những khu vực xa đền chính. Ở xã
chúng tôi cũng chưa có những thống kê đầy đủ về thu nhập của các hộ kinh
doanh làm công việc cung cấp dịch vụ tâm linh quanh đền. Nhưng đối với nguồn
thu ngân sách cho xã, chúng tôi đã đảm bảo thông qua việc tổ chức đấu thầu các
kiot, trông xe, thu các phí dịch vụ từ các gian hàng như: môi trường, an ninh...”.
Các nhà đền cũng có một nguồn thu không nhỏ, riêng việc nộp vào ngân sách
cho địa phương là huyện sau mỗi mùa lễ hội là gần 10 tỷ đồng. Theo ông Vũ
Quang Trung (43 tuổi) phó trưởng phòng Văn hóa Thông tin huyện Vụ Bản [Phụ
lục 3.4] cho biết: “nguồn thu của các đền là rất lớn, thông qua việc bán chỗ cho
các kiot, khách thập phương công đức và đặc biệt là bán chỗ ngồi hầu đồng cho
các con nhang đệ tử… Nguồn thu này do các thủ nhang đồng đền trực tiếp nắm
giữ, hàng năm theo thỏa thuận họ đóng về ngân sách của huyện khoảng trên
dưới 7 tỷ đồng. Theo tôi, con số này là quá ít so với số kinh phí họ thu được. Tuy
nhiên, cho đến nay, chính quyền địa phương vẫn chưa can thiệp/quản lý được
nguồn tài chính cũng như cách thức vận hành của lễ hội tại các đền trong quần
thể di tích Phủ Dầy”. Nguyên nhân về việc chính quyền không trực tiếp quản lý
này, có rất nhiều lý do. Theo ông Trung: “Cho đến nay, mối quan hệ giữa chính
quyền huyện và Phủ Dầy vẫn hết sức nhạy cảm, vì có quá nhiều vấn đề phức tạp.
75
Vì các đền ở Phủ Dầy là do các gia đình xây dựng và vận hành từ xưa đến nay,
truyền thống đó tiếp tục được kế thừa bởi các thành viên trong gia đình họ. Nên
chính quyền can thiệp vào rất khó, bởi chính quyền không bỏ tiền xây dựng hay tổ
chức vận hành lễ hội này. Về mặt quản lý nhà nước, chúng tôi chỉ có thể quản lý
các hoạt động trái quy định của pháp luật hoặc ảnh hưởng đến chính trị, còn hoạt
động tâm linh và tài chính chúng tôi không can thiệp được. Không những thế, còn
có nhiều lý do tế nhị khác, tôi không tiện đề cập đến ở đây”. Còn theo ông Năm:
“hằng năm, không chỉ có đền Thượng mà cả các đền khác, ngoài việc đóng góp
cho ngân sách cho huyện Vụ Bản theo quy định, chúng tôi còn trích quỹ cho các
hoạt động khác của địa phương, như đầu tư cho các trường phổ thông trong xã,
làm đường xá và cơ sở hạ tầng, hỗ trợ kinh phí cho các đoàn thể trong xã đi nghỉ
dưỡng hàng năm…”. Việc này cũng được ông Thiềng, chị Xuân, chị Nguyễn Thị
Phúc (Cán bộ phụ trách Văn hóa xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định
[Phụ lục 3.4]) (36 tuổi) xác nhận và cho chúng tôi biết: “hàng năm, các thủ đền
đều có đóng góp để sửa chữa, sắm trang thiết bị cho trường học, hỗ trợ kinh phí
cho đoàn thanh niên, hội người cao tuổi, cựu chiến binh… đi nghỉ dưỡng tham
quan, cấp kinh phí cho việc làm mới hoặc tu sửa đường xá…”.
Cùng với những tác động của lễ hội Phủ Dầy đến các mặt đời sống văn
hóa xã hội của nhóm cư dân cộng địa phương nói chung, thì các giá trị cụ thể của
lễ hội này cũng tác động đến nhóm cộng đồng này nhau sau:
Bảng 3.4: Số liệu đánh giá mức độ tác động của các giá trị lễ hội Phủ Dầy
tới đời sống cộng đồng địa phương
Không tác động
Ít tác động Tác động Rất tác động
Giá trị tín ngưỡng tâm linh
(06%) (17%) (39%) (37%)
Giá trị giáo dục truyền thống lịch sử
(07%) (13%) (36%) (42%)
Giá trị thẩm mỹ nghệ thuật
(18%) (30%) (31%) (21%)
Giá trị kinh tế xã hội (05%) (15%) (44%) (35%)
Nguồn: Theo điều tra, khảo sát của NCS vào tháng 3 năm 2016
76
Từ bảng thống kê trên cho phép NSC có thể làm rõ những tác động của
các giá trị cơ bản của lễ hội Phủ Dầy tới đời sống cộng đồng cư dân địa phương.
Có thể thấy:
Giá trị tín ngưỡng tâm linh không tác động (6%) hoặc ít tác động (17%)
đến đời sống cộng đồng cư dân địa phương chỉ chiếm 23%. Trong khi đó, giá trị
tín ngưỡng tâm linh tác động (39%) hoặc tác động nhiều (37%) đến đời sống cộng
đồng cư dân địa phương chiếm tới 76%. Con số cho thấy, giá trị tâm linh của lễ
hội Phủ Dầy đã có tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ (ở mức độ cao) tới đời sống văn
hóa cộng đồng cư dân địa phương. Điều đó cũng cho thấy, vai trò và tầm quan
trọng của lễ hội này tới đời sống văn hóa tâm linh của người dân địa phương.
Giá trị giáo dục truyền thống của lễ hội Phủ Dầy cũng tác động mạnh mẽ
đến đời sống văn hóa của nhóm cư dân cộng đồng địa phương. Căn cứ vào số liệu
thống kê cho thấy, sự tác động của giá trị giáo dục truyền thống lịch sử đối với
cộng đồng cư dân địa phương như sau: giá trị giáo dục truyền thống lịch sử không
tác động (7%) với ít tác động (13%) đối với đời sống cộng đồng địa phương chỉ
chiếm 20%. Trong khi đó, giá trị giáo dục truyền thống lịch sử tác động (36%) với
tác động nhiều (42%) đối với đời sống cộng đồng cư dân địa phương chiếm 78%.
Đây cũng có thể coi là một tác động mạnh mẽ (ở mức độ cao) của lễ hội Phủ Dầy
tới đời sống văn hóa xã hội của cộng đồng cư dân địa phương.
Giá trị thẩm mỹ nghệ thuật của lễ hội Phủ Dầy tác động đến đời sống văn
hóa cộng đồng cư dân địa phương không mạnh. Căn cứ trên số liệu khảo sát, có
thể thấy giá trị thẩm mỹ nghệ thuật không tác động (chiếm 18%) với tác động ít
(chiếm 30%) tới đời sống cộng đồng địa phương chiếm 48%. Trong khi đó, giá
trị thẩm mỹ nghệ thuật tác động (chiếm 31%) với tác động nhiều (21%) tới cộng
đồng cư dân địa phương chiếm 52%. Mặc dù tác động của giá trị thầm mỹ nghệ
thuật tới đời sống của cộng đồng địa phương không cao (ở mức độ trung bình) so
với các giá trị khác trong lễ hội Phủ Dầy, nhưng nó cũng đủ để chúng ta thấy tầm
vai trò của giá trị này đối với đời sống văn hóa cộng đồng.
Giá trị kinh tế của lễ hội Phủ Dầy tác động đến đời sống văn hóa cộng
đồng cư dân địa phương không chỉ thuần túy về vật chất, mà theo quan niệm “xã
hội tổng thể”, công sức này, chính là “quà tặng”, mà người “tặng biếu” cho đi, để
77
mong muốn nhận lại từ thần linh một món quà phi vật chất, nhưng có giá trị gấp
nhiều lần so với “quà tặng công sức”. Đó là sự bảo trợ cho sức khỏe, làm ăn phát
tài, công việc hanh thông thăng tiến… Theo số liệu thống kê, thì giá trị kinh tế
không tác động (chiếm 5%) với ít tác động (chiếm 15%) đến đời sống cộng đồng
cư dân địa phương chiếm 20%. Trong khi đó, giá trị kinh tế xã hội của lễ hội Phủ
Dầy tác động (chiếm 44%) với tác động nhiều (chiếm 35%) tới đời sống cộng
đồng cư dân địa phương chiếm tới 79%. Căn cứ vào con số kể trên, giá trị kinh
tế xã hội có lẽ tác động mạnh mẽ nhất (ở mức độ cao) đến đời sống văn hóa xã
hội của cộng đồng cư dân địa phương. Mặc dù mức thu nhập kinh tế từ lễ hội
Phủ Dầy giữa các thành viên trong cộng đồng địa phương là có khác nhau,
nhưng có thể khẳng định rằng, nó cũng tạo ra nguồn lợi nhất định, đảm bảo công
ăn việc làm cho cá nhân và gia đình. Nhưng cũng phải thẳng thắn thừa nhận
rằng, việc khảo sát về thu nhập của cá nhân hay gia đình luôn rất tế nhị, phức
tạp,… những con số thu thập được chỉ mang tính tương đối mà thôi; tuy nhiên,
nó cũng cung cấp đủ thông tin cho chúng ta thấy giá trị kinh tế xã hội của lễ hội
đã ảnh hưởng đến cộng đồng như thế nào.
Chính vì những giá trị của lễ hội Phủ Dầy tác động mạnh đến đời sống
văn hóa xã hội của cộng đồng cư dân địa phương như vậy, chúng tôi đã tiến hành
đánh vai trò quan trọng của nó trong đời sống xã hội hiện nay. Bảng số liệu
thống kê sau cho thấy quan điểm trên:
Bảng 3.5: Số liệu đánh giá tầm quan trọng của vai trò lễ hội Phủ Dầy
tới đời sống cộng đồng địa phương
Vai trò của lễ hội Phủ Dầy Không
quan trọng Quan trọng
Rất quan trọng
Giáo dục văn hóa truyền thống 06% 36% 57%
Củng cố niềm tin đối với các vị Thánh, Thần 08% 29% 62%
Định hướng tâm linh cộng đồng 08% 49% 33%
Cố kết tình cảm cộng đồng 10% 50% 40%
Phát triển kinh tế gia đình 19% 40% 40%
Đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí của cộng đồng
38% 33% 28%
Nguồn: Theo điều tra, khảo sát của NCS vào tháng 3 năm 2016
78
Số liệu trên bảng thống kê cho thấy, vai trò - tầm quan trọng của lễ hội Phủ
Dầy đối với đời sống xã hội của cộng đồng cư dân đạt được ở các mức độ khác
nhau. Có thể thấy, vai trò không quan trọng của giáo dục văn hóa truyền thống chỉ
chiếm 6%, trong khi đó, vai trò quan trọng (36%) và rất quan trọng (57%) đối với
đời sống xã hội cộng đồng cư dân địa phương chiếm đến 93%. Vai trò củng cố
niềm tin đối với các vị thánh thần: không quan trọng chiếm 8%, quan trọng (29%)
với rất quan trọng (62%) đối với đời sống cộng đồng cư dân địa phương chiếm tới
91%. Vai trò định hướng tâm linh cộng đồng: không quan trọng chiếm 8%, quan
trọng (49%) với rất quan trọng (33%) tới đời sống cư dân địa phương chiếm tới
82%. Vai trò cố kết tình cảm cộng đồng: không quan trọng chiếm 10%, quan
trọng (50%) với rất quan trọng (40%) tới cư dân địa phương chiếm tới 90%. Vai
trò phát triển kinh tế gia đình: không quan trọng chiếm 19%, quan trọng (40%) với
rất quan trọng (40%) tới cộng đồng cư dân địa phương chiếm 80%. Vai trò đáp
ứng nhu cầu vu chơi, giải trí: không quan trọng chiếm 38%, quan trọng (33%) với
rất quan trọng (28%) tới đời sống cộng đồng cư dân địa phương chiếm 61%. Trên
nền số liệu thống kê kể trên, chúng ta thấy vai trò về tâm linh, giáo dục truyền
thống, cố kết tình cảm cộng đồng, phát triển kinh tế luôn có tâm quan trọng ở mức
cao, trong khi đó, vai trò đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí đạt ở mức độ thấp hơn,
mặc dù vẫn được đánh giá ở mức quá bán. Điều này cũng cho thấy, bên cạnh các
vai trò khác của lễ hội Phủ Dầy vẫn được đề cao, thì vai trò vui chơi giải trí đã
giảm đi rõ rệt. Có lẽ, do trong bối cảnh hiện đại, việc thỏa mãn nhu cầu vui chơi
giải trí không phải đợi đến lễ hội người dân cộng đồng địa phương mới có dịp “xả
stress”, mà đã có nhiều phương tiện, yếu tố khác đã “gánh vác” bớt nhiệm vụ này.
Vì thế, vai trò về nhu cầu giải trí vui chơi của lễ hội không được cộng đồng địa
phương đặt lên hàng đầu hoặc không được coi trọng như các vai trò khác.
Bên cạnh những mặt tích cực của lễ hội Phủ Dầy tác động/ảnh hưởng đến
đời sống cộng đồng cư dân địa phương thì cũng có những tiêu cực tồn tại, nếu
như xét trên phương diện chủ quan, có tính chất lý thuyết. Nhưng trong thực tế,
khi tiến hành điều tra về những ảnh hưởng/tác động tiêu cực của lễ hội Phủ Dầy
tới đời sống cộng đồng địa phương thì chỉ có 4% số người được hỏi là nói có tác
động tiêu cực, 96% trả lời là không. Đây chính là yếu tố bất ngờ đối với chúng
79
tôi khi tiến hành hành điều tra phỏng vấn bằng bảng hỏi. Điều này có thể do
người dân cộng đồng địa phương hiện đang sống nhờ/dựa vào hoạt động của lễ
hội Phủ Dầy, nên việc bảo vệ hình ảnh, giá trị của nó cũng chính là bảo vệ được
nguồn thu nhập cho họ. Nên gần như không có ai phản đối hay có ý kiến về các
hiện tượng hay hành động tiêu cực xảy ra trong lễ hội. Số liệu khảo sát này, tác
giả luận án cũng nhằm đánh giá lại một lần nữa tác động tiêu cực của lễ hội Phủ
Dầy tới các mặt đời sống văn hóa xã hội nhóm cộng đồng cư dân địa phương.
Với số liệu này, chúng tôi tạm khẳng định rằng, những tác động tiêu cực của lễ
hội Phủ Dầy tới đời sống của nhóm cộng đồng địa phương là rất ít (ở mức độ rất
thấp, hay có thể nói là không đáng kể) [Phụ lục 4.1].
Cùng với những tác động/ảnh hưởng của lễ hội Phủ Dầy tới đời sống cộng
đồng cư dân địa phương nói chung, NCS còn tiến hành khảo sát, điều tra, đánh
giá tác động của lễ hội này tới nhóm học sinh phổ thông tại địa phương nói
riêng. Về cơ bản, nhóm học sinh phổ thông tại địa phương thuộc nhóm cộng
đồng cư dân địa phương. Tuy nhiên, để thấy rõ hơn nữa những ảnh hưởng/tác
động của giá trị lễ hội Phủ Dầy đến nhóm cộng đồng địa phương, NCS tiến hành
điều tra cụ thể với học sinh phổ thông này. Lần khảo sát điều tra này, NCS tiến
hành chọn mẫu điều tra là các em học sinh lớp 9 thuộc trường Trung học cơ sở
xã Kim Thái, Vụ Bản, Nam Định. Lý do chọn nhóm học sinh này: Thứ nhất đây
là lứa tuổi bắt đầu bước vào giai đoạn trưởng thành về thể chất cũng như hiểu
biết về các vấn đề xã hội. Thứ hai, lứa tuổi này dễ bị những tác động, ảnh hưởng
bởi môi trường xung quanh (đặc biệt là môi trường xã hội). Thứ ba, với lứa tuổi
này, có thể các em chưa đủ chín chắn nhưng cũng không còn quá non trẻ khi đối
mặt với các vấn đề của đời sống xã hội. Vì vậy, để khách quan và rõ ràng hơn,
NCS đã tiến hành khảo sát 100 mẫu ngẫu nhiên với các em học sinh lớp 9 như đã
đề cập, kết quả như sau:
Về giới tính của nhóm được điều tra này có 57% là nam, 43% là nữ.
Trong đó, có 72% các em có tham gia vào lễ hội Phủ Dầy, 28% chưa tham gia
lần nào (Đối với các em chưa tham gia lễ hội Phủ Dầy lần nào, được lý giải đây
là các em có gia đình theo Công giáo. Mặc dù là người của địa phương nhưng
bản thân các em chưa đến và chưa tham gia vào các hoạt động của lễ hội này.
80
Căn cứ qua chi tiết nhỏ này, chúng tôi cũng tạm đưa ra nhận định: lễ hội Phủ
Dầy không tác động/ảnh hưởng gì đến nhóm cư dân theo Công giáo ở địa
phương. Do khuôn khổ của luận án cũng như phạm vi nghiên cứu, NCS chưa
tiến hành điều tra cụ thể đối với nhóm dân cư này, nên chỉ dừng việc tìm hiểu ở
đây. Nếu có thể, chúng tôi sẽ bổ sung trong những nghiên cứu sau này). Có 84%
biết thời gian, thời điểm diễn ra lễ hội phủ Giầy, 16% không biết. Trong tổng số
các em học sinh được hỏi, có 9% là thành viên đội rước kiệu, 2% trong đội kéo
chữ, 2% trong đội văn nghệ, 4% trong đội an ninh trật tự của lễ hội, 8% có tham
gia hoạt động cung cấp dịch vụ, 82% còn lại làm các việc khác hoặc đi xem lễ
hội như các khách thập phương. Trong tổng số các em được hỏi, có 20% gia
đình các em tham gia các hoạt động cung cấp dịch vụ trong thời gian diễn ra lễ
hội. 80% gia đình các em không tham gia hoạt động cung cấp dịch vụ. Cùng với
số lượng bảng hỏi, chúng tôi cũng tiến hành phỏng vấn sâu hai trường hợp học
sinh thuộc trường trung học cơ sở xã Kim Thái để làm rõ hơn những số liệu đánh
giá sau khi thu thập thống kê được.
Cùng với các số liệu chung về nhóm học sinh được khảo sát điều tra ở trên,
thì số liệu đánh giá tác động của lễ hội tới công việc học tập của các em như sau:
18% các em cho rằng lễ hội có ảnh hưởng đến công việc học tập, 82% cho rằng
không ảnh hưởng. Cụ thể hơn: 8% cho rằng làm mất thời gian học bài ở nhà; 6%
cho rằng làm mất thời gian học tập ở lớp (phải nghỉ học, đi muộn về sớm); 17%
cho rằng học hành không tập trung; 45% cho rằng không ảnh hưởng đến thời gian
học bài ở nhà; 23% cho rằng không ảnh hưởng đến việc học tập trên lớp; 42% cho
rằng rất thỏa mái và vui vẻ; 5% cho rằng không thỏa mái, vui vẻ. Thông qua số
liệu thống kê từ việc khảo sát ý kiến các em học sinh, có thể thấy rằng, lễ hội Phủ
Dầy không ảnh hưởng tiêu cực đến công việc học tập của các em hoặc ở mức độ
thấp. Mặc dù vậy, nhưng những tác động tích cực đến công việc học tập của các
em cũng không cao. Điều này cho thấy, lễ hội Phủ Dầy tác động/ảnh hưởng không
nhiều/không mạnh mẽ tới công việc học tập của các em.
Ngoài ra, lễ hội Phủ Dầy cũng có những ảnh hưởng, tác động nhất định
đến các sinh hoạt đời thường của các em. Tuy nhiên, tác động ở mức độ nào thì
chúng ta có thể thấy qua bản thống kê sau:
81
Bảng 3.6: Số liệu đánh giá mức độ tác động của lễ hội Phủ Dầy tới đời sống
của nhóm học sinh địa phương
Tác động
Nội dung Tích cực Tiêu cực
Không
tác động
Tác động tới công việc học tập (09%) (14%) (77%)
Tác động tới sức khỏe của bản thân em (12%) (12%) (76%)
Tác động tới các mối quan hệ trong gia đình
em (quan tâm chăm sóc, giúp đỡ công việc…) (22%) (01%) (77%)
Tác động tới mối quan hệ giữa em với bạn bè (28%) (01%) (71%)
Tác động tới hoạt động kinh tế của gia đình
em (tài chính, kinh doanh, sản xuất…) (27%) (02%) (71%)
Tác động tới các sinh hoạt khác của gia đình
(ăn uống, tắm giặt, nghỉ ngơi,…) (04%) (04%) (92%)
Tác động tới hoạt động vui chơi của em (36%) (08%) (56%)
Nguồn: Theo điều tra, khảo sát của NCS vào tháng 3 năm 2016
Căn cứ vào số liệu điều tra, lễ hội Phủ Dầy tác động đến đời sống sinh
hoạt của em trên các phương diện: Công việc học tập: tích cực (9%), tiêu cực
14%, không tác động chiếm 77%. Số liệu này càng khẳng định việc lễ hội phủ
Giầy có tác động rất yếu tới công việc học thập của các em. Sức khỏe của bản
thân: tích cực (12%), tiêu cực (12%), không tác động chiếm 76%. Vậy, ảnh
hưởng/tác động của lễ hội Phủ Dầy tới sức khỏe của các em cũng rất hạn chế (ở
mức độ thấp). Các mối quan hệ trong gia đình (quan tâm chăm sóc, giúp đỡ các
công việc khác…) học sinh: tích cực (22%), tiêu cực (1%), không tác động
chiếm 77%. Sự tác động của lễ hội Phủ Dầy tới các mối quan hệ trong gia đình
học sinh cũng không mạnh mẽ. Tuy nhiên, con số tác động tích cực 22% cũng
cho chúng ta đáng lưu ý, mặc dù mức độ ảnh hưởng này không cao (ở mức
thấp). Mối quan hệ giữa cá nhân học sinh với bạn bè: tích cực (28%), tiêu cực
(1%), không tác động chiếm 71%. Việc tác động của lễ hội Phủ Dầy không
mạnh tới mối quan hệ của học sinh với bạn bè cũng là hợp lý. Tuy nhiên, có tới
82
28% tác động tích cực, có lẽ đây là những em học sinh tham gia trực tiếp vào các
hoạt động của lễ hội. Những yêu cầu/quy định về phẩm chất người tham gia
cũng như tính chất đoàn kết, ăn ý trong các hoạt động của lễ hội đã khiến các em
mối quan hệ tích cực mật thiết hơn. Hoạt động kinh tế của gia đình: tích cực
(27%), tiêu cực (1%), không tác động chiếm 71%. Đây cũng là con số cho thấy
mức độ tác động thấp của lễ hội Phủ Dầy đối với hoạt động kinh tế của gia đình
học sinh. Tuy nhiên, con số 26% có lẽ rơi vào đối tượng là các em có gia đình
tham gia hoạt động cung cấp dịch vụ trong thời gian diễn ra lễ hội. Các sinh hoạt
khác của gia đình học sinh (ăn uống, tắm giặt, nghỉ ngơi): tích cực (4%), tiêu cực
(4%), không tác động chiếm tới 92%. Số liệu này cho thấy mức độ tác động, ảnh
hưởng của lễ hội Phủ Dầy tới các sinh hoạt của gia đình học sinh là rất thấp.
Hoạt động vui chơi của các em: tích cực (36%), tiêu cực (8%), không tác động
chiếm 56%. Con số thống kê này cho thấy, tác động tích cực tới các hoạt động
vui chơi của các em khá cao, mặc dù con số không tác động chiếm ở mức trung
bình. Theo NCS, bản thân lễ hội đã mang tính chất vui chơi giải trí, nên việc tác
động tích cực tới hoạt động này của các em học sinh ở mức độ này là hợp lý.
Hơn nữa, chính bản thân một số em tham gia trực tiếp vào các hoạt động có tính
chất nghi thức của lễ hội. Hoạt động này khiến các em thỏa mãn được phần nào
nhu cầu vui chơi giải trí của bản thân.
Lý do của nhóm học sinh tham gia lễ hội Phủ Dầy cúng có nhiều mức độ
khác nhau. Trong đó, 23% các em tin Thánh phù hộ, độ trì cho công việc học
tập. 37% các em đưa ra lý do tưởng nhớ đến Đức Mẫu Liễu. 24% các em làm
theo phong tục địa phương. 7% các em làm theo truyền thống gia đình. 50% các
em đưa ra lý do tìm hiểu truyền thống văn hóa dân tộc. 11% các em đưa ra lý do
là để được Thánh Mẫu phù hộ. 1% các em sợ bị Thánh Mẫu quở phạt. 18% các
em làm theo phong trào. 2% các em cho rằng “có thờ có thiêng, có kiêng có
lành”. 20% các em đưa ra các lý do khác. Căn cứ trên số liệu khảo sát nhóm học
sinh tại địa phương, chúng tôi cho rằng lễ hội Phủ Dầy tác động đến đời sống
sinh hoạt của các em ở mức độ thấp [Phụ lục 4.2].
Ngoài những số liệu thống kê kể trên, NCS tiến hành phỏng vấn sâu các
em Lê Tuấn Anh (14 tuổi) (Em Lê Tuấn Anh là học sinh lớp 9 trường Trung
83
học cơ sở Kim Thái, có gia đình hoạt động cung cấp dịch vụ tâm linh ở lễ hội
Phủ Dầy. Bố mẹ em bán hàng ở kiot bên ngoài đền chính của Phủ Dầy) và
Trần Thúy Hà (12 tuổi) (Em Trần Thúy Hà, học sinh lớp 7 trường Trung học
cơ sở Kim Thái, gia đình không kinh doanh hay tham gia các hoạt động liên
quan đến lễ hội Phủ Dầy. Tuy nhiên, do là người dân địa phương, nên đến mùa
lễ hội (đặc biệt là những ngày chính hội) em và gia đình vẫn đến xem hội [Phụ
lục 3.4]) để thấy rõ hơn những tác động và ảnh hưởng của lễ hội Phủ Dầy tới
đời sống của các em và gia đình. NCS có đặt các câu hỏi nhỏ để làm rõ hơn
những tác động của lễ hội Phủ Dầy tới sinh hoạt của các em và gia đình. Theo
em lễ hội Phủ Dầy diễn ra trong ba tháng (từ tháng Giêng đến tháng 3 âm lịch)
có ảnh hưởng đến bản thân em và các sinh hoạt của gia đình không? Em Tuấn
Anh cho biết: “cháu không rõ lắm, nhưng vì bố mẹ cháu đi bán hàng cả ngày,
đến tối mới về, nên cháu với chị cháu phải tự nấu cơm dọn dẹp nhà cửa. Thỉnh
thoảng bố, mẹ cháu mới về ăn cùng, nếu bận quá bố mẹ cháu ăn ngoài cửa hàng
luôn. Đến tối muộn bố mẹ cháu mới về, ăn cơm xong là đi ngủ luôn, sáng hôm
sau lại dậy sớm đi ra cửa hàng. Có những hôm, khách làm lễ buổi đêm, bố mẹ
cháu phải mang đồ lễ ra đền cho khách, có khi gần sáng mới về. Bọn cháu phải
tự làm mọi việc, may có chị cháu nấu cơm rửa bát, cháu được phân công quét
và lau nhà”. Hai chị em có hay ra cửa hàng giúp bố mẹ bán hàng không?
“Thỉnh thoảng vào những ngày không phải đi học, bố mẹ cháu cũng gọi ra cửa
hàng để trông coi thêm; chủ yếu là chúng cháu đi học về, qua cửa hàng lấy tiền
mua thức ăn hoặc đem thức ăn về nhà để nấu cơm”. Bố mẹ đi cả ngày như vậy,
có ảnh hưởng gì đến công việc học tập của em không? “Không ảnh hưởng gì ạ!
Vì chị cháu ở nhà cũng thúc cháu học suốt, hơn nữa, bố mẹ cháu gọi điện về
kiểm tra thường xuyên”. Làm việc nhà như vậy, em có thời gian đi chơi không?
“Ngoài thời gian làm việc nhà và học bài, cháu vẫn đi chơi với bạn trong làng
hoặc bạn cùng lớp, nhiều khi ra chơi ở đền, gần chỗ bố mẹ cháu bán hàng”. Đã
có khi nào em cùng các bạn bỏ học đi xem hội chưa? “Cười! cháu chưa bỏ học
buổi nào để đi xem hội, về bố mẹ cháu mắng chết”. Các bạn trong lớp em, có ai
bỏ học để đi xem hoặc tham gia vào lễ hội không? “Trong lớp cháu có mấy bạn
84
trong đội văn nghệ, đến những hôm chính hội, các bạn ấy xin nghỉ học có phép,
còn những bạn khác cháu không biết ạ”. Khi đi chơi hội cùng các bạn, em thấy
có thỏa mái, vui vẻ không? “Vui chứ ạ, nhất là những hôm chính hội có tổ chức
kéo chữ, rước kiệu và nhiều trò chơi khác nữa ạ”. Những lần ra đền vào ngày
hội, em có vào trong đền cầu xin Thánh Mẫu phù hộ cho sức khỏe, học giỏi
không? “Cười! cháu không ạ, chỉ có vào đầu năm, bố mẹ cháu có lên đền làm
lễ, ngày còn bé cháu hay đi theo, nhưng bây giờ cháu không đi cùng nữa”. Em
có biết bố mẹ cầu khấn gì cho cháu và gia đình không? “Cháu không biết đâu
ạ”. Vào những lúc em hoặc chị gái em chuẩn bị đi thi, bố mẹ có lên đền làm lễ
không? “Có ạ, mỗi lần chuẩn bị thi học kỳ, bố mẹ cháu thường lên đền thắp
hương. Như mấy năm trước, chị cháu thi lên cấp 3, bố mẹ cháu sắm lễ lên đền
cúng cho chị cháu thi được điểm cao”. Em có thấy lời cúng của bố mẹ có linh
nghiệm không? “Cháu không biết ạ, nhưng năm ấy chị cháu đỗ vào trường cấp
3 Lương Thế Vinh, đây là trường điểm của huyện ạ”. Vào mùa lễ hội, bố mẹ
vắng nhà nhiều như vậy, em có cảm thấy buồn không? “Cháu không rõ lắm,
nhưng chắc quen rồi, không thấy có vấn đề gì ạ”. Có khi nào em cảm thấy
không được bố mẹ quan tâm chăm sóc trong những ngày diễn ra lễ hội không?
“có ạ, nhưng không sao, cháu quen rồi, hơn nữa cũng chỉ có mấy tháng đầu
năm thôi, thời gian còn lại bố mẹ cháu vẫn thường xuyên ở nhà”.
Khi đặt câu các hỏi với Trần Thúy Hà, em trả lời: “lễ hội Phủ Dầy không
ảnh hưởng gì đến sinh hoạt của bản thân và gia đình cháu. Đến ngày lễ hội,
cháu thỉnh thoảng được theo ông bà, bố mẹ,… cho ra đền chơi, nhất là hôm nào
có khách quen hoặc người nhà ở xa về. Nhiều khi, do bố mẹ, ông bà bận, cháu
được cử để dẫn khách (là người nhà ở xa về) ra đền làm lễ”. Vào những hôm
chính hội (có kéo chữ..), cháu có đi xem không? “Có ạ! Cháu thường đi cùng
bố mẹ hoặc mấy anh chị em, các bạn trong làng rủ nhau đi xem”. Những lần đi
cùng ông bà, bố mẹ lên lễ đền, cháu có biết ông bà, bố mẹ cầu xin điều gì
không? “dạ, cháu không biết ạ. Cháu thấy bố mẹ mang hoa quả, hương đèn lên
đền thắp hương và khấn gì đó, cháu chỉ chắp tay đứng cạnh và làm theo thôi ạ”.
Cháu thích hay không thích lễ hội Phủ Dầy ở quê mình? “Cháu rất thích ạ, vì
85
đây là lễ hội truyền thống của quê hương, thu hút rất nhiều khách tới chơi, rất
đông vui. Nhưng mỗi tội đông người đến, nên hay xảy ra tắc đường, ồn ào và
chật chội quá ạ”.
3.1.2. Tác động đến đời sống văn hóa cộng đồng cư dân thập phương
Bên cạnh việc ảnh hưởng/tác động đến nhóm cộng đồng cư dân địa
phương, lễ hội Phủ Dầy còn tác động đến nhóm cộng đồng cư dân là khách
thập phương nữa. Nhóm cộng đồng cư dân khách thập phương chính là nhân tố
quan trọng quyết định đến quy mô và tính chất đặc thù của lễ hội thờ Mẫu Tứ
phủ nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng. Không giống với các lễ hội dân
gian truyền thống tại các làng xã Việt Nam khác, chỉ diễn ra trong phạm vi và
cộng đồng cư dân địa phương. Nhưng, lễ hội Phủ Dầy đã đạt đến quy mô cấp
vùng - miền (thậm chí cấp quốc gia), nên nó được tổ chức không chỉ dành cho
người dân địa phương, mà còn dành chủ yếu cho cộng đồng cư dân thập
phương. Qua đó, để đáp ứng nhu cầu “trảy hội” của cư dân cộng đồng thập
phương, người dân cộng đồng địa phương, chính quyền sở tại đã tổ chức cung
cấp các dịch vụ khác nhau: bán đồ lễ, ăn uống… Từ các hoạt động cung cấp
dịch đó, người dân cộng đồng địa phương đã tạo ra nguồn thu ngân sách và
công ăn việc làm cho chính mình. Vì vậy, đối với lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ nói
chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng, cộng đồng thập phương chính là nguồn lực
quan trọng để lễ hội mở rộng về quy mô và phát triển theo thời gian. Để đánh
giá sự tác động của lễ hội đối với cộng đồng thập phương, NCS tiến hành khảo
sát, điều tra 200 mẫu ngẫu nhiên tại địa bàn của Phủ Dầy, Nam Định. Cùng với
quá trình điều tra bằng bảng hỏi, chúng tôi cũng tiến hành phỏng vấn sâu một
số trường hợp là du khách thập phương đến lễ ở đền (NCS phỏng vấn được 3
du khách, đó là: Ông Nguyễn Văn Ngọc (27 tuổi) quê Hà Nam, hiện đang công
tác và sinh sống tại Hà Nội, ông là giảng viên của một trường đại học ở Hà
Nội; bà Lê Thị Mai (45 tuổi) là chủ doanh nghiệp ở Bắc Giang; Ông Đinh Đắc
Hải (72 tuổi) làm ruộng ở Ninh Bình. Do việc kết nối phỏng vấn sâu rất khó
khăn, nên chúng tôi không chọn được mẫu, mà chỉ tiến hành phỏng vấn ngẫu
nhiên mà thôi). Thành phần được điều tra như sau:
86
Bảng 3.7: Số liệu phân loại thành phần nhóm cộng đồng cư dân thập phương
trong lễ hội Phủ Dầy
Nam Nữ Giới tính
(56%) (44%)
Dưới 35 tuổi 35- 50 tuổi Trên 50 tuổi Độ tuổi
(30%) (46%) (23%)
Nông dân NV nhà nước
(cả về hưu) Kinh doanh Lao động tự do
Nghề nghiệp
(23%) (21%) (20%) (35%)
Nam Định Hà Nam- Ninh
Bình- Thái Bình
Thanh Hóa -
Nghệ An
Các tỉnh khác
(chủ yếu các tỉnh ở
châu thổ Bắc Bộ) Địa chỉ
(23%) (23%) (01%) (52%)
Nguồn: Theo điều tra, khảo sát của NCS vào tháng 3 năm 2016
Trong số 200 mẫu ngẫu nhiên là cộng đồng khách thập phương được
điều tra tại lễ hội Phủ Dầy vào tháng 3 năm 2016, thì có: 21% đến lần đầu tiên,
18% thỉnh thoảng và 60% đến thường xuyên (hàng năm). Thời gian đi lễ hội
Phủ Dầy trong năm chủ yếu là vào dịp đầu năm, 98% số người được hỏi đi vào
thời điểm này. Chỉ có 5% đi vào dịp cuối năm (chủ yếu là đi lễ tạ). Những số
liệu thống kê này cho thấy, lễ hội Phủ Dầy vẫn là địa chỉ quen thuộc của khách
thập phương (chủ yếu là người miền Bắc - các tỉnh vùng châu thổ sông Hồng).
Thời điểm khách hành hương lựa chọn vẫn chủ yếu là những tháng đầu năm
(mùa xuân), chỉ có một số rất ít đi vào thời điểm cuối năm để tiễn hành lễ tạ
cuối năm.
Mục đích tham gia lễ hội Phủ Dầy của cộng đồng du khách thập phương
cũng có những mức độ khác nhau. Theo số liệu điều tra thì có: 36% đến để tham
quan lễ hội, 85% cầu bình an cho ra đình, 68% cầu tài lộc, 66% cầu công danh,
50% cầu tai qua nạn khỏi, 48% cầu khỏi bệnh tật, 16% giao lưu bạn bè - tăng
tình đoàn kết, 3% là các nhu cầu khác. Có thể nhận thấy rằng, mục đích đến với
87
lễ hội Phủ Dầy của cộng đồng khách thập phương vẫn chủ yếu là cầu bình an, tài
lộc, công danh. Những chỉ số thống kê cho thấy, các mục đích này của cộng
đồng cư dân thập phương nằm ở mức độ cao.
Một số liệu khác mà NCS thống kê được để làm rõ hơn nữa về việc đi
lại đều đặn lễ hội Phủ Dầy. Thông qua việc thử mức độ linh nghiệm sau khi đi
lễ hội của cộng đồng khách thập phương, kết quả như sau: có 3% cho rằng
không linh nghiệm, 15% cho rằng ít linh nghiệm, 26% cho rằng linh nghiệm
và 56 % cho rằng rất linh nghiệm. Vậy, theo kết quả số liệu thống kê này, có
thể tạm khẳng định, tổng mức độ linh nghiệm (26%) và rất linh nghiệm (56%)
chiếm 82%, ở mức độ cao. Theo chúng tôi, chính yếu tố linh nghiệm - thiêng
liêng để tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ nói chung, tín ngưỡng và lễ hội Phủ Dầy
nói riêng trở nên quan trọng trong đời sống văn hóa của cộng đồng cư dân là
du khách thập phương. Chính yếu tố linh nghiệm về mặt tâm linh của lễ hội
Phủ Dầy đã thu hút được nhóm cộng đồng cư dân/du khách thập phương hành
hương về đất Mẫu.
Trong số những thành viên khách thập phương được phỏng vấn, điều tra,
thì có 1% là ông/bà đồng, 2% là người hầu dâng, 7% là con nhang đệ tử, 82% là
khách đến làm lễ, hành hương du xuân thuần túy. Và, chỉ có 20% là tham gia
sinh hoạt động lên đồng, 80% là không tham gia. Có thể nhận thấy rằng, mặc dù
hoạt động lên đồng vốn là sản phẩm đặc thù của tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ nói
chung và Phủ Dầy nói riêng, nhưng số lượng người tham gia đông đảo hơn cả
vẫn là khách hành hương, du xuân bình thường. Có thể trong có trình đi làm lễ
tại phủ, họ có thể tham dự với tư cách là người xem các nghi thức của hầu đồng,
chứ không phải là người trực tiếp hầu hoặc cùng nhóm tham gia đi hầu. Đây
cũng chính là điểm khó khăn khi tiến hành phân loại, tính toán số liệu liên quan
đến nghi lễ này.
Cũng giống với nhóm cộng đồng cư dân địa phương, lễ hội Phủ Dầy cũng
có những tác động/ảnh hưởng tới đời sống văn hóa của cộng đồng cư dân thập
phương. Những tác động/ảnh hưởng tích cực của lễ hội Phủ Dầy đến các mặt đời
sống cộng đồng cư dân khách thập phương được thống kê như sau:
88
Bảng 3.8: Số liệu đánh giá mức độ tác động tích cực của lễ hội
đến đời sống văn hóa cộng đồng cư dân thập phương
Không
ảnh hưởng Ít ảnh hưởng Ảnh hưởng
Rất
ảnh hưởng
Ảnh hưởng đến hoạt động
sản xuất nông nghiệp (70%) (17%) (08%) (04%)
Ảnh hưởng đến công việc
học tập (54%) (32%) (12%) (02%)
Ảnh hưởng đến hoạt động
kinh doanh (22%) (23%) (36%) (18%)
Ảnh hưởng đến mối quan
hệ trong gia đình, xã hội (35%) (19%) (30%) (14%)
Ảnh hưởng đến sức khỏe (36%) (24%) (20%) (20%)
Các ảnh hưởng khác………………..(04%)
Nguồn: Theo điều tra, khảo sát của NCS vào tháng 3 năm 2016
Bảng thống kê trên cho thấy mức độ ảnh hưởng/tác động tích cực của lễ
hội Phủ Dầy đến các mặt của đời sống cộng đồng thập phương như sau: Trong
hoạt động sản xuất nông nghiệp: 70% số người cho rằng không ảnh hưởng, 17%
cho rằng ít ảnh hưởng, tổng chiếm: 87%; 8% cho rằng ảnh hưởng với 4% cho
rằng ảnh hưởng nhiều, tổng chiếm: 12%. Vậy, tác động của lễ hội Phủ Dầy đến
hoạt động sản xuất nông nghiệp của cộng đồng thập phương ở mức độ rất thấp.
Trong công việc học tập, 54% cho rằng không tác động, 32% cho rằng ít tác
động, tổng chiếm: 86%; 12% cho rằng tác động và 2% tác động nhiều, tổng
chiếm: 14%. Vậy, tác động của lễ hội Phủ Dầy tới công việc học tập của cộng
đồng khách thập phương ở mức độ rất thấp. Trong hoạt động kinh doanh, 22%
cho rằng không tác động, 23% cho rằng ít tác động, tổng chiếm: 43%; 36% cho
rằng tác động và 18% cho rằng tác động nhiều, tổng chiếm: 54%. Vậy, ảnh
hưởng tích cực của lễ hội Phủ Dầy tới hoạt động kinh doanh cộng đồng thập
phương ở mức trung độ trung bình. Trong quan hệ gia đình, xã hội, 35% cho
rằng không tác động, 19% cho rằng ít tác động, tổng chiếm: 54%; 30% cho rằng
89
tác động và 15% cho rằng tác động nhiều, tổng chiếm: 45%. Vậy, tác động tích
cực của lễ hội tới mối quan hệ gia đình, xã hội cộng đồng thập phương ở mức độ
thấp. Trong sức khỏe của cộng đồng, 36% cho rằng không tác động, 24% cho
rằng ít tác động, tổng chiếm: 60%; 20% cho rằng tác động và 20% cho rằng tác
động nhiều, tổng chiếm: 40%. Vậy, tác động của lễ hội Phủ Dầy tới sức khỏe
cộng đồng thập phương ở mức độ thấp.
Bảng 3.9: Số liệu đánh giá mức độ tác động tiêu cực của lễ hội
tới đời sống văn hóa cộng đồng cư dân thập phương
Không ảnh
hưởng
Ít ảnh
hưởng ảnh hưởng
Rất ảnh
hưởng
Ảnh hưởng đến hoạt động
sản xuất nông nghiệp (74%) (18%) (05%) (03%)
Ảnh hưởng đến công việc
học tập (60%) (25%) (10%) (05%)
Ảnh hưởng đến hoạt động
kinh doanh (45%) (24%) (15%) (16%)
Ảnh hưởng đến mối quan
hệ trong gia đình, xã hội (53%) (20%) (12%) (15%)
Ảnh hưởng đến sức khỏe (49%) (18%) (16%) (16%)
Các ảnh hưởng khác………………..(01%)
Nguồn: Theo điều tra, khảo sát của NCS vào tháng 3 năm 2016
Thông qua số liệu thống kê kể trên, có thể thấy tác động tiêu cực trên các
mặt đời sống cộng đồng cư dân thập phương như sau: Trong hoạt động sản xuất
nông nghiệp, 74% cho rằng không tác động, 18% cho rằng ít ảnh hưởng, tổng
chiếm: 92%; 5% cho rằng tác động và 3% cho rằng ảnh hưởng nhiều, tổng
chiếm: 8%. Vậy, tác động tiêu cực của lễ hội Phủ Dầy trong hoạt động sản xuất
nông nghiệp cộng đồng thập phương ở mức độ rất thấp. Trong công việc học tập,
60% cho rằng không tác động, 25% cho rằng ít tác động, tổng chiếm: 85%; 10%
cho rằng tác động và 5% cho rằng tác động nhiều, tổng chiếm: 15%. Vậy, tác
động tiêu cực của lễ hội Phủ Dầy tới công việc học tập công đồng thập phương ở
mức độ rất thấp. Trong hoạt động kinh doanh, 45% cho rằng không tác động,
90
24% cho rằng ít tác động, tổng chiếm: 69%; 15% cho rằng tác động và 16% cho
rằng tác động nhiều, tổng chiếm: 31%. Vậy, tác động của lễ hội Phủ Dầy tới hoạt
động kinh doanh cộng đồng thập phương ở mức thấp. Trong mối quan hệ gia
đình - xã hội, 53% cho rằng không tác động, 20% cho rằng ít tác động, tổng
chiếm: 73%; 12% tác động và 15% tác động nhiều, tổng chiếm: 27%. Vậy, tác
động tiêu cực của lễ hội tới mối quan hệ gia đình xã hội cộng đồng thập phương
ở mức độ thấp. Trong việc ảnh hưởng đến sức khỏe, 49% cho rằng không tác
động, 18% cho rằng ít tác động, tổng chiếm: 67%; 16% tác động và 16% tác
động nhiều, tổng chiếm: 32%. Vậy, tác động tiêu cực của lễ hội Phủ Dầy đến sức
khỏe cộng đồng thập phương ở mức thấp.
Cộng đồng du khách thập phương khi đến tham gia lễ hội Phủ Dầy với
các lý do khác nhau. Trong đó, mức độ cao thấp của các lý do của nhóm cộng
đồng thập phương như sau: Tin rằng Mẫu hiển linh cứu nhân độ thế chiếm 59% số
người được hỏi; Tưởng nhớ đến Đức Mẫu Liễu chiếm 57% số người được hỏi;
Theo phong tục địa phương chiếm 42% số người được hỏi; Theo truyền thống gia
đình chiếm 16% số người được hỏi; Giáo dục con cháu về văn hóa dân tộc chiếm
34% số người được hỏi; Để được Thánh Mẫu phù hộ độ trì chiếm 34% số người
được hỏi; sợ bị Thánh Mẫu quở phạt chiếm 13% số người được hỏi; Theo phong
trào chiếm 4% số người được hỏi; Tin rằng “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”
chiếm 69% số người được hỏi; Lý do khác chiếm 3% số người được hỏi. Vậy, có
thể thấy rằng, lý do tin rằng Mẫu cứu nhân độ thế và “có thờ có thiêng có kiêng có
lành” theo quan niệm dân gian chiếm ở mức độ cao. Căn cứ vào số liệu thống kê
này, chúng tôi tạm nhận định, người dân cộng đồng thập phương vẫn đặt niềm tin
tâm tâm linh vào các vị thánh thần trong hệ thống thờ Mẫu Tứ phủ nói riêng và
thần linh Việt Nam nói chung. Đôi khi họ không hiểu biết cụ thể hoặc chưa hiểu
nhiều về đối tượng thần linh mà mình hướng tới để cầu cúng, nhưng niềm tin đó
vừa mang quan niệm theo lời răn dạy truyền thống (có thờ có thiêng, có kiêng có
lành), vừa mang tính chất tâm linh thuần túy (tin rằng thần, thánh cứu nhân độ
thế). Đây là một tâm lý, trạng thái ứng xử phổ biến đối với thế giới tâm linh của
người dân Việt Nam truyền thống cũng như hiện nay.
91
Cùng với các tác động tích cực, tiêu cực của lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ ở Phủ
Dầy tới các mặt đời sống cộng đồng cư dân thập phương. Thì các giá trị cụ thể
của lễ hội Phủ Dầy cũng có tác động tới đời sống cộng đồng cư dân thập phương
như sau:
Bảng 3.10: Số liệu đánh giá mức độ tác động của giá trị lễ hội Phủ Dầy
đối với đời sống cộng đồng thập phương
Không
tác động Ít tác động Tác động
Rất
tác động
Giá trị tín ngưỡng tâm linh (10%) (14%) (33%) (42%)
Giá trị giáo dục truyền thống
lịch sử (10%) (11%) (28%) (50%)
Giá trị thẩm mỹ nghệ thuật (15%) (32%) (33%) (20%)
Giá trị kinh tế xã hội (10%) (13%) (38%) (38%)
Nguồn: Theo điều tra, khảo sát của NCS vào tháng 3 năm 2016
Thứ nhất, giá trị tín ngưỡng tâm linh của lễ hội Phủ Dầy tác động đến đời
sống văn hóa xã hội cộng đồng thập phương: 10% cho rằng không tác động,
14% cho rằng ít tác động, chỉ chiếm 24%. Trong khi đó, 33% cho rằng tác động
với 42% cho rằng tác động nhiều của giá trị tâm linh lễ hội Phủ Dầy tới đời sống
cộng đồng cư dân thập phương, chiếm tới 75%. Có thể tạm nhận định rằng, giá
trị tâm linh của lễ hội thời Mẫu Tứ phủ nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng
vẫn có ảnh hưởng/tác động mạnh mẽ tới đời sống văn hóa xã hội của nhân dân
thập phương, đặc biệt là ở khu vực châu thổ Bắc Bộ/sông Hồng. Điều này cũng
cho thấy rõ ràng hơn vai trò của lễ hội Phủ Dầy đối với đời sống văn hóa xã hội
của cư dân khách thập phương ở mức độ cao. Chính giá trị tâm linh của lễ hội
Phủ Dầy đã thu hút mạnh mẽ cộng đồng cư dân thập phương đến với lễ hội.
Thứ hai, giá trị giáo dục truyền thống lịch sử: không tác động (10%), ít tác
động (14%) của lễ hội tới đời sống văn hóa xã hội nhóm cộng đồng thập phương
chiếm 24%. Trong khi đó, giá trị giáo dục truyền thống lịch sử tác động (28%),
tác động nhiều (50%) đến đời sống văn hóa xã hội cộng đồng thập phương
chiếm 78%. Có thể tạm khẳng định rằng, tác động của giá trị giáo dục truyền
thống của lễ hội Phủ Dầy nói riêng tới đời sống cộng đồng thập phương ở mức
92
độ cao. Và, có ảnh hưởng mạnh mẽ cũng như đóng vai trò quan trọng đối với đời
sống của nhóm cộng đồng cư dân này.
Thứ ba, giá trị thẩm mỹ nghệ thuật của lễ hội Phủ Dầy, không tác động
(15%), ít tác động (32%) đến đời sống cộng đồng cư dân thập phương chiếm
47%. Trong khi đó, tác động (33%) với tác động nhiều (20%) đến đời sống văn
hóa cộng đồng thập phương chiếm 53%. Qua con số trên, có thể thấy, giá trị
thẩm mỹ nghệ thuật của lễ hội Phủ Dầy có tác động ở mức trung bình tới đời
sống văn hóa cộng đồng thập phương.
Cuối cùng, giá trị kinh tế xã hội của lễ hội Phủ Dầy, không tác động
(10%), ít tác động (13%) tới đời sống văn xã hội hóa cộng đồng cư dân thập
phương chiếm 23%. Trong khi đó, giá trị này lại tác động (38%), tác động nhiều
(38%) đến đời sống văn hóa xã hội cộng đồng thập phương chiếm 76%. Điều
này cho thấy, giá trị kinh tế xã hội của lễ hội Phủ Dầy tác động ở mức cao đối
với đời sống văn hóa xã hội của cộng đồng thập phương. Những ảnh hưởng
mạnh mẽ của giá trị này tới đời sống nhóm cộng đồng địa phương cho NCS đưa
ra nhận định sau. Thứ nhất, việc du khách hành hương đến lễ hội Phủ Dầy không
tạo ra nguồn thu về kinh tế cho cá nhân hay gia đình họ một cách tức thời và trực
tiếp. Điều này khác với nhóm cộng đồng cư dân địa phương, nhận được nguồn
thu lễ hội. Không những thế, nhóm cộng đồng cư dân thập phương lại phải “đầu
tư”/bỏ tiền (thuê xe, chi phí đường: ăn uống…) cho những chuyến đi này. Thứ
hai, khi tham gia lễ hội Phủ Dầy họ không chỉ bỏ thời gian, công sức… mà cả
tiền bạc (công đức, mua lễ vật; nếu hầu đồng/bóng: số tiền bỏ ra lớn gấp bội lần).
Tuy nhiên, mỗi lần tham gia lễ hội Phủ Dầy, những đồng tiền, vật phẩm có giá
trị vật chất được con người/du khách bỏ ra, cho đi hay dâng cúng ở nơi cửa
đền/thánh/phủ như vậy có thể được coi là một hành động “tặng/biếu quà cho
thần linh”. Lúc này, “quà tặng/biếu” của của cộng đồng cư dân thập phương
không chỉ mang ý nghĩa vật chất nữa, mà đổi lại, họ nhận được những “món quà
tinh thần” không thể cân đo bằng số lượng hay giá trị vật chất hữu hình. Sự “lại
quả” của thần linh được ẩn dưới mọi hoạt động (vô hình) trong đời sống của cá
nhân, gia đình, tập thể hay cộng đồng đó như: bình an, may mắn, suôn sẻ trong
buôn bán kinh doanh, thành đạt trong học tập, tiêu tán được bệnh tật, thăng tiến
93
địa vị trong xã hội, mưa thuận gió hòa - mùa màng bội thu trong sản xuất nông
nghiệp… Đây chính là một hiện tượng “xã hội tổng thể” mà các giá trị của lễ hội
Phủ Dầy mang lại, trong đó nổi bật lên là giá trị kinh tế xã hội. Có thể hiểu rõ
thêm nữa, việc “tặng/biếu quà” cho thần linh không chỉ thuần túy là một hành
động tâm linh, mà hành động đó lại ảnh hưởng, tác động mạnh mẽ đến các mặt
khác nhau của đời sống xã hội.
Bên cạnh các giá trị của lễ hội Phủ Dầy tác động đến các mặt đời sống văn
hóa xã hội cộng đồng cư dân thập phương, thì vai trò của lễ hội này cũng khẳng
định mức độ và tầm quan trọng của nó tới nhóm cộng đồng cư dân này. Số liệu
điều tra khảo sát của chúng tôi như sau:
Bảng 3.11: Số liệu đánh giá mức độ quan trọng của vai trò lễ hội Phủ Dầy
đối với đời sống cộng đồng thập phương
Vai trò của lễ hội Phủ Dầy Không
quan trọng Quan trọng
Rất
quan trọng
Giáo dục văn hóa truyền thống 06% 33% 60%
Củng cố niềm tin đối với các vị
Thánh, Thần 06% 37% 56%
Định hướng tâm linh cộng đồng 12% 53% 34%
Cố kết tình cảm cộng đồng 10% 56% 32%
Phát triển kinh tế gia đình 25% 42% 32%
Đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí
của cộng đồng 29% 38% 32%
Nguồn: Theo điều tra, khảo sát của NCS vào tháng 3 năm 2016
Theo kết quả điều tra về vai trò giáo dục văn hóa truyền thống, các ý kiến
cho rằng: không quan trọng chiếm 6%; quan trọng (33%) với rất quan trọng
(60%) đối với đời sống cộng đồng thập phương chiếm 93%. Vậy, con số này cho
thấy, mức độ quan trọng của vai trò này đối với đời sống cộng đồng thập phương
là rất cao. Vai trò củng cố niềm tin đối với các vị Thánh, Thần: không quan trọng
chiếm 6%; quan trọng (37%) với rất quan trọng (56%) đối với đời sống văn hóa
cộng đồng thập phương chiếm 93%. Vậy, vai trò củng cố niềm tin tâm linh (các
vị Thánh, Thần) đối với người dân cộng đồng thập phương ở mức độ rất cao. Vai
94
trò định hướng tâm linh cộng đồng: không quan trọng chiếm 12%; quan trọng
(53%), rất quan trọng (34%) của lễ hội Phủ Dầy đối với nhóm cộng đồng cư dân
địa phương chiếm 87%. Vậy, vai trò định hướng tâm linh cộng đồng của lễ hội
Phủ Dầy đối với cộng đồng thập phương ở mức độ cao. Vai trò cố kết tình cảm
cộng đồng: không quan trọng chiếm 10%; quan trọng (56%), rất quan trọng
(32%) của lễ hội này đối với nhóm cộng đồng thập phương chiếm 88%. Vậy, vai
trò có kết tình cảm cộng đồng của lễ hội Phủ Dầy đối với cộng đồng thập
phương ở mức cao. Vai trò phát triển kinh tế gia đình, không quan trọng chiếm
25%; quan trọng (42%), rất quan trọng (32%) đối với cộng đồng cư dân địa
phương chiếm 74%. Mặc dù, vai trò này có thấp hơn các vai trò kể trên, nhưng
nó vẫn thể hiện tầm quan trọng đối với đời sống cộng đồng thập phương ở mức
độ cao. Vai trò đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí, không quan trọng chiếm tới
29%; quan trọng (38%), rất quan trọng (32%) đối với nhóm cộng đồng thập
phương chiếm tới 70%. So với các giá trị khác của lễ hội Phủ Dầy về mức độ
quan trọng, thì vai trò đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí là thấp nhất, nhưng nó
vẫn đạt mức độ cao đối với đời sống văn hóa xã hội nhóm cộng đồng thập
phương. Thông qua những con số kể trên, NCS tạm nhận định rằng, các vai trò
của lễ hội Phủ Dầy đã khẳng định được tầm quan trọng và mức độ của nó đối với
đời sống văn hóa xã hội cộng đồng cư dân là du khách thập phương.
Trong quá trình tiến hành điều tra, khảo sát nhóm cư dân cộng đồng thập
phương về những ảnh hưởng tiêu cực của lễ hội Phủ Dầy tới cuộc sống của cá
nhân, cộng đồng, thì chỉ có 10% trả lời là có; 90% trả lời là không. Khi tiến hành
đặt câu hỏi này, NCS muốn làm rõ hơn những tác động tiêu cực của lễ hội Phủ
Dầy tới các mặt đời sống văn hóa xã hội nhóm cộng đồng thập phương. Thông
qua số liệu này, NCS cho rằng, lễ hội Phủ Dầy nói riêng không có nhiều tác
động tiêu cực đối với đời sống cộng đồng cư dân thập phương [Phụ lục 4.3].
Số liệu thống kê đánh giá mức độ tác động của lễ hội Phủ Dầy tới đời
sống cộng đồng cư dân thập phương kể trên là như vậy. Tuy nhiên, trong quá
trình phỏng vấn sâu, một số du khách đến hành hương tại lễ hội Phủ Dầy, NCS
nhận được những ý kiến, quan điểm sau:
95
Khi được hỏi về việc quý vị có thường xuyên (hàng năm) tham gia lễ hội
Phủ Dầy không? Tham gia với tư cách là người đi lễ (lễ, hầu đồng) hay người đi
du lịch/tham quan thuần túy? Ông Nguyễn Văn Ngọc cho biết: “Vì quê tôi ở Hà
Nam, tranh thủ nghỉ tết âm lịch, hầu như năm nào cũng đến lễ Phủ Dầy, có
những năm đi đến vài lần. Do mình vừa đi Phủ Dầy cùng gia đình về, sau lại có
bạn bè ở xa đến, đôi khi là người thân trong nhà rủ, mình lại đi chơi cùng cho
vui. Đầu năm tôi đến lễ hội Phủ Dầy chủ yếu để lễ Thánh Mẫu và cũng là đi du
lịch vui xuân luôn”. Ông Đinh Đắc Hải cho biết: “tôi đến lễ hội Phủ Dầy không
đều lắm, lần đi gần đây nhất của tôi cách đây 2 hay 3 năm gì đó, năm nay mới có
thời gian thăm lại. Tôi đi theo đoàn mấy anh chị em trong gia đình, bạn bè và
người quen của hai vợ chồng tôi. Chủ yếu các bà làm lễ hầu đồng là chính, tôi
chỉ đi theo cho vui và xin lộc rơi lộc vãi thôi”. Bà Lê Thị Mai ở Bắc Giang cho
biết: “tôi cũng mới chỉ đi lễ hội Phủ Dầy được mấy năm gần đây, nhưng từ hồi
đó đến giờ, năm nào tôi cũng đi một đến hai lần. Năm nào có thời gian, thì cuối
năm tôi đến làm lễ tạ. Bận quá, thì làm lễ ở nhà vọng xin Thánh Mẫu thông cảm
cho. Tôi đến lễ hội Phủ Dầy chủ yếu để làm lễ cầu xin cho gia đình bình an sức
khỏe cho gia đình chồng con, đặc biệt là công việc làm ăn kinh doanh được
thuận lợi”.
Khi đến với lễ hội Phủ Dầy, ông/bà có cảm nhận như thế nào sự thiêng
liêng của thần linh trong những ngôi đền ông bà đến làm lễ? Ông Nguyễn Văn
Ngọc cho biết: “vì tôi là người học về ngành khoa học xã hội (ngành lịch sử),
nên đối với tôi, tính thiêng liêng của các vị thần linh mà ở đây cụ thể là Thánh
Mẫu Liễu Hạnh đã hình thành và tồn tại từ hàng trăm năm nay trong lịch sử văn
hóa Việt Nam. Cảm nhận của tôi về tính thiêng liêng đó là sự tôn nghiêm, thành
kính của một không gian văn hóa tâm linh có giá trị lịch sử hơn là giá trị về mặt
thần bí, mang tính chất phép thuật. Chính vì vậy, mà hàng năm khi đến lễ hội
Phủ Dầy, chủ yếu tôi vào lễ Thánh như một hành vi văn hóa và cầu mong sự
bình an và thanh tịnh trong tâm hồn mình, điều đó giúp tôi yên tâm hơn và có
những quyết định đúng đắn và giảm được áp lực trong công việc cũng như cuộc
sống. Nhiều khi đi đến chơi cùng bạn bè, tôi chỉ vào thắp hương vái Thánh Mẫu,
rồi đi ngắm cảnh, thăm thú như khách đi du lịch chứ không dâng lễ lạt gì. Mình
96
cầu Thánh Thần nhiều quá, mà không chịu làm thì lấy đâu ra. Thần Thánh nào
phù giúp hết cho tất thảy mọi người được. Nhưng thế giới tâm linh vẫn còn
nhiều điều bí ẩn, khoa học chưa giải thích được, nên tôi vẫn cứ đi lễ đền, lễ
Thánh Mẫu ở Phủ Giầy để cầu mong được bình an, có sức khỏe để làm việc, “có
thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Theo tôi, sự thiêng liêng của Phủ Dầy nói
chung, lễ hội gắn liền với nó đã tạo ra không gian văn hóa tín ngưỡng mang đậm
giá trị lịch sử, đây cũng chính là sức sống mãnh liệt và bền vững của nó với
không chỉ cá nhân tôi mà với cả cộng đồng cư dân nữa”.
Trong khi đó, theo bà Lê Thị Mai thì: “do gia đình tôi làm ăn kinh doanh,
ngoài việc quản lý tốt, nắm bắt thời cơ, thị hiếu của khách hàng, quy luật thị
trường… thì người làm ăn chúng tôi vẫn cần đến sự may mắn. Nhiều khi mình
chuẩn bị, tính toán rất kỹ càng, chắc thắng đến mười mươi, nhưng chỉ trong tích
tắc, mọi kế hoạch đổ bể, hợp đồng không ký được, mối hàng bị tuột mất khỏi
tay. Có khi, mọi chuyện thủ tục nhập hàng hóa đã hoàn tất, khâu vận chuyển lại
xảy ra tai nạn, hỏng hết cả hàng hóa, lại vi phạm hợp đồng (giao hàng chậm) nên
bị đối tác phạt… Chính vì vậy, theo tôi trong kinh doanh ngoài sự tính toán kỹ
càng, vẫn cần có yếu tố may mắn nữa anh ạ! Tôi cũng đã đi lễ ở nhiều nơi, các
đền chùa nổi tiếng nhất để xin được Thần Thánh phù hộ, độ trì cho công việc
làm ăn được thuận buồm xuôi gió. Cách đây vài năm, tôi mới có dịp đến lễ ở
Phủ Dầy, kể từ năm đến lễ, chắc Thánh Mẫu thương tôi nên mấy năm nay công
việc kinh doanh của gia đình rất thuận lợi gặp nhiều may mắn. Đây cũng chính là
lý do trong những năm gần đây tôi thường xuyên đi đến lễ ở Phủ Dầy”.
Ông Đinh Đắc Hải cho biết: “tôi đi theo đến Phủ Dầy cũng mấy anh chị
em trong gia đình, bạn bè, người quen… chủ yếu để cho các bà trong nhà, người
thân, người quen hầu đồng, hầu bóng; trong đó có cả vợ tôi nữa”. Ông Hải kể:
“bà nhà tôi đã theo hầu được gần hai chục năm nay, do trước kia bà ấy ốm đau
bệnh tật, đi khám chữa ở các bệnh viện mà không tìm ra bệnh và thuốc thang
mãi cũng không khỏi. Từ đó bà ấy hay sinh ra cáu gắt với mọi người trong gia
đình, chồng con, có khi với cả hàng xóm láng giềng nữa. Tôi cũng rất mệt mỏi,
nhiều khi muốn bỏ quách nhau đi cho đỡ khổ, xong vì các con lại được mọi
người động viên và bỏ bà ấy trong lúc bệnh tật như này thì không hay, nên đành
97
thôi. Nhưng được cái, từ khi bà ấy đi xem bói, xem toán gì đó, nghe thầy phán bà
ấy nặng căn đồng cốt, chứ chẳng có bệnh tật gì, thầy khuyên nên ra trình đồng
mở phủ, bà ấy nghe theo, quả thật bà ấy hết bệnh tật ốm đau và cũng chẳng còn
cáu bẳn gắt gỏng chồng con nữa. Cứ một năm hai lần, bà ấy lại theo đoàn con
nhang đệ tử, bạn bè của bà kéo nhau đi hầu ở Phủ Dầy. Tôi đi theo bà ấy đến hầu
đồng ở Phủ Dầy nói vui là để xin lộc rơi lộc vãi của Thánh Mẫu, nhưng thực ra
tôi đi để chăm sóc, phục vụ cho bà ấy, vì sức khỏe bà ấy cũng không được tốt
như trước kia. Hơn nữa, mỗi lần bà ấy đi hầu về, tôi thấy tinh thần bà ấy phấn
chấn, sức khỏe có vẻ tốt hơn và tính cách cũng thỏa mái, vui vẻ hơn; bản thân tôi
và các con cháu trong gia đình cũng thấy dễ chịu hơn. Chính chúng nó nói với
tôi, bố rảnh rỗi thì đi theo mẹ, vừa đi chơi để cho biết đây biết đó, tiện chăm sóc
mẹ luôn và có dịp cầu xin lộc lá cho con cháu. Nói thế, tôi cũng không đi được
đều lắm, vì nhiều khi cũng do công việc bận hoặc sức khỏe không tốt tôi cũng
không dám đi. Năm nay khỏe hơn, lại không bận việc tôi mới đi theo bà ấy. Bản
thân tôi, sau khi đi theo vợ và các bạn đồng cốt của bà hầu ở Phủ Dầy những lần
trước kia, tôi cũng thấy thỏa mái tinh thần, vui vẻ, sức khỏe cũng tốt hẳn lên.
Mặc dù mỗi lần đi hầu cùng cả đoàn kéo dài đến vài ngày, nhiều khi phải hầu
đêm, nhưng tôi cũng không cảm thấy mệt mỏi gì. Đặc biệt là, sau những chuyến
đi đến hầu ở Phủ Dầy về, tôi lại có thêm những mối quan hệ mới, họ là bạn bè
trong đội hầu đồng của bà nhà tôi. Không những thế, một số anh em họ hàng
trong gia đình tôi cũng tham gia, thông qua những chuyến đi này, anh chị em
trong nhà cũng hiểu nhau, gần gũi và thân nhau hơn”.
3.2. TÁC ĐỘNG CỦA CỘNG ĐỒNG CƯ DÂN TỚI LỄ HỘI PHỦ DẦY
Bên cạnh những tác động của lễ hội Phủ Dầy tới đời sống văn hóa của
cộng đồng, thì bản thân các nhóm cộng đồng cũng có những tác động nhất định
tới lễ hội Phủ Dầy. Tuy nhiên, không giống với tác động của lễ hội Phủ Dầy tới
các nhóm cộng đồng cư dân, chúng ta có thể điều tra bằng bảng hỏi và định
lượng các mức độ tác động khác nhau, từ đó đánh giá được vai trò của lễ hội này
tới đời sống văn hóa cộng đồng cư dân. Tác động ngược trở lại của các nhóm
cộng đồng tới lễ hội Phủ Dầy khó có thể định lượng bằng con số được, chính vì
98
vậy NCS tiến hành phỏng vấn sâu những thủ đền ở các đền/phủ trong quần thể di
tích Phủ Dầy. Trong đó có cụ Trần Thị Duyên (tức cụ Đức, 80 tuổi) (Cụ Đức do
tuổi cao, sức yếu nên chúng tôi tiếp cận và tiến hành phỏng vấn rất khó khăn.
Hơn nữa, do sức khỏe của bà không được tốt nên việc trả lời phỏng vấn và cung
cấp thông tin rất hạn chế) thủ nhang đền chính; ông Trần Văn Năm (47 tuổi) thủ
nhang đền Mẫu Thượng; ông Trần Vũ Toán (60 tuổi) thủ nhang Phủ Bóng
(Nguyệt Du Cung). NCS tập trung khai thác thông tin, quan điểm về sự tác động
của hai nhóm cộng đồng cư dân địa phương và cộng đồng du khách thập phương
tới lễ hội Phủ Dầy trên các phương diện: tổ chức quản lý lễ hội, đầu tư cơ sở vật
chất - hạ tầng, nguồn tài chính và yếu tố tâm linh - thiêng liêng. Lý do NCS
hướng trọng tâm câu hỏi phỏng vấn sâu vào các vấn đề này, bởi đây là những
phương diện dễ nhận thấy và nhạy cảm nhất khi có những tương tác qua lại giữa
cộng đồng với lễ hội và ngược lại. Tất nhiên, là còn nhiều phương diện khác mà
do hạn chế về thời gian và dung lượng/số trang theo quy định, nên NCS chưa đề
cập đến trong khuôn khổ luận án này và xin được để lại cho những nghiên cứu
sau này.
3.2.1. Tác động của cộng đồng địa phương tới lễ hội Phủ Dầy
Để đánh giá được tác động của nhóm cộng đồng địa phương tới lễ hội Phủ
Dầy, NCS tiến hành phỏng vấn sâu các thủ nhang đồng đền như đã đề cập ở trên.
Dựa trên tổng hợp nội dung cuộc phỏng vấn, NCS có đặt vấn đề về việc ảnh
hưởng/tác động của nhóm cộng đồng địa phương tới công tác tổ chức quản lý lễ
hội Phủ Dầy (trong đó có ngôi đền mà ông/bà đang quản lý)? NCS nhận được sự
chia sẻ như sau:
Ông Trần Văn Năm (thủ nhang đền Mẫu Thượng) cho biết: “để đánh giá
về việc tác động của cộng đồng cư dân địa phương tới khâu tổ chức - quản lý lễ
hội, theo tôi là việc khó. Nhưng theo ý kiến chủ quan của tôi, nhóm cộng đồng
cư dân địa phương đã có ảnh hưởng nhất định tới khâu tổ chức - quản lý lễ hội
Phủ Dầy. Trong quá trình tổ chức lễ hội, bản thân nhà đền phải dựa vào lực
lượng là người dân địa phương là chính. Mà lực lượng này gồm có người dân ở
các thôn thuộc xã Kim Thái, người dân ở các xã lân cận và cả chính quyền xã
99
cũng hỗ trợ giúp đỡ. Trong những tháng tổ chức lễ hội, người dân địa phương
không chỉ cung cấp các dịch vụ cho du khách thập phương đến làm lễ, mà chính
người dân địa phương đứng ra tổ chức trông xe, cùng chính quyền xã, công an
huyện phân luồng giao thông và duy trì trật tự trị an ở xung quanh các đền. Nhờ
có cộng đồng cùng ban ngành chính quyền địa phương, nhà đền chúng tôi chỉ lo
việc quản lý, tổ chức điều hành các hoạt động tâm linh của du khách trong đền.
Nhiều khi mọi phản ánh của du khách thập phương về những mặt được hay chưa
được đều thông qua người dân địa phương đến nhà đền, để chúng tôi có thể giải
quyết, đáp ứng nhu cầu hoặc có những điều chỉnh phù hợp nhất. Không những
thế, trong mười ngày chính hội, các trò diễn, rước kiệu, kéo chữ… nếu không có
người dân địa phương góp sức chung tay, nhà đền chúng tôi làm sao tự làm hết
được. Bên cạnh việc tổ chức hoạt động lễ hội Phủ Dầy như vậy, chính người dân
địa phương (tất nhiên, trong đó có cả người thân trong gia đình chúng tôi) cùng
nhà đền quản lý, điều hành các công việc khác nhau ở trong đền. Cụ thể, ở ngay
đền Mẫu Thượng của chúng tôi, có một đội ngũ người địa phương giúp việc cho
tôi ở các khâu: quản lý tài sản trong đền, hướng dẫn khách đến làm lễ, bố trí lịch
và chỗ ngồi hầu, quản lý đội ngũ cung văn, quét dọn vệ sinh đền, hậu cần cơm
nước… Theo tôi, không có người dân địa phương thì khâu tổ chức và quản lý lễ
hội Phủ Dầy sẽ không hoạt động trơn tru, bài bản như bây giờ. Chính người dân
địa phương đang tham gia vào việc xây dựng, vận hành và phát triển lễ hội Phủ
Dầy nói chung và ở đền Mẫu Thượng nói riêng”.
Cũng theo ông Năm, “bên cạnh những tác động tích cực mà nhóm cộng
đồng địa phương tới khâu tổ chức, quản lý lễ hội, thì cũng có những tiêu cực
không mong muốn. Tôi chỉ lấy ví dụ, người dân địa phương cung cấp dịch vụ
với giá cao, chất lượng hàng hóa lại thấp. Đôi khi xảy ra những va chạm, cãi cọ
giữa khách với chủ quán hoặc tranh khách giữa hai chủ hàng với nhau làm ảnh
hưởng đến hình ảnh của lễ hội Phủ Dầy hay tác động xấu đến nhà đền chúng
tôi. Ngoài ra, khi cho cư dân địa phương ngồi bán hàng trong khu vực đền,
chúng tôi đã có giao kèo với chủ quán: phải giữ gìn vệ sinh chung, không bầy
bừa hàng hóa, vật dụng ra ngoài không gian đền, lấy chỗ cho khách đi lại…
Nhưng, nhiều khi chủ quán không tuân thủ, hoặc những người trong đền được
100
giao phân công quản lý lại nể nhau là người trong thôn, hoặc người nhà không
nhắc nhở, nên hay xảy ra tình trạng chật chội, xô bồ... ở mỗi đền trong không
gian lễ hội Phủ Dầy”.
Theo ông Trần Vũ Toán (thủ đền Nguyệt Du Cung) cho biết: “tôi chính là
người dân địa phương ở đất Phủ Dầy này. Trước kia, tổ tiên tôi là người cho
dựng Nguyệt Du Cung này. Sau thời gian, tín ngưỡng thờ Mẫu bị nhà nước cấm
đoán, các công trình của đền bị xuống cấp, gia đình chúng tôi đã cho sửa chữa,
xây dựng mới lại toàn bộ phủ Bóng khang trang như bây giờ. Người dân ở địa
phương, theo tôi, chủ yếu sống dựa vào các đền của Phủ Dầy trong mùa lễ hội.
Nên họ đóng một vai trò quan trọng trong việc tổ chức và quản lý lễ hội. Quanh
phủ Bóng, vào mùa lễ hội có rất nhiều hàng quán cung cấp dịch vụ như: bán đồ
lễ (hương hoa, oản quả, vàng mã…), bán hàng quà lưu niệm, bán hàng ăn uống,
trông xe… Bên cạnh đấy, người dân trên địa bàn huyện Vụ Bản còn tham gia
trực tiếp vào các nghi lễ trong những ngày chính hội Phủ Dầy, như rước kiệu,
kéo chữ, múa, hát, tế… Đối với phủ Bóng của chúng tôi, thì chủ yếu là người
nhà tôi đứng ra tổ chức quản lý và điều hành. Bản thân Phủ Bóng là nơi thờ vị tổ
sư (Theo lời ông Toán kể lại, tổ của ông là Trần Vũ Thực, đã có công lao chữa
bệnh cho Mẫu hậu (mẹ của vua Khải Định), nên được triều đình ban cho phẩm
tước. Tương truyền sau này, chính nơi Phủ Bóng, Hoàng hậu Nam Phương đã
cầu tự và sinh ra được Hoàng Thái tử Bảo Long. Có thể nói, Phủ Bóng là nơi
đào tạo và trở thành một dạng “trường thi” của các ông bà đồng trước khi trở
thành những Thanh đồng có thể mở phủ, hành lễ… Theo lời kể của ông Toán,
trước kia các ông bà đồng đều trải qua cuộc sát hạch này rất khó khăn. Những
ông bà đồng mới đều phải chịu sự thẩm định, đánh giá của các Thanh đồng kỳ
cựu, có tiếng tăm. Nếu qua được thì mới được ra hành nghề, trình đồng, mở phủ,
làm lễ… Chính vì vậy, hàng năm, đến kỳ giỗ giỗ cụ Trần Vũ Thực, Thanh đồng
khắp nơi tề tựu về làm giỗ rất đông) của các Thanh đồng (các ông đồng bà
đồng), chính vì vậy, vào dịp lễ hội Phủ Dầy, các ông bà đồng về hầu rất đông
đúc. Để đáp ứng cho nhu cầu này không chỉ của các ông bà đồng, mà còn cả du
khách thập phương, thì nhân dân địa phương là một phần quan trọng để giúp cho
101
lễ hội Phủ Dầy nói chung và các hoạt động của Nguyệt Du Cung nói riêng thành
công trong rất nhiều năm nay”.
Khi nhắc tới hạn chế, bất cập, ông Trần Vũ Toán cũng cho biết: “theo tôi,
không có cái gì là hoàn hảo cả, với lượng khách đông như vậy đến với Phủ Dầy
và Nguyệt Du Cung thì không thể tránh được những sơ suất hoặc chưa vừa lòng
của khách thập phương đối với người dân địa phương và đối với nhà đền. Sẽ có
ý kiến, lời ra tiếng vào về khâu tổ chức, quản lý chưa chu đáo ở Phủ Dầy nói
chung và Nguyệt Du Cung nói riêng. Chủ yếu là khâu tổ chức luộm thuộm, quản
lý lỏng lẻo của nhà đền cũng như chính quyền địa phương đối với các hàng
quán, dịch vụ trông xe (lấy giá cao, lời lẽ chưa nhã nhặn với khách, chất lượng
hàng hóa không đảm bảo)… Chắc chắn, những hành động không đúng mực của
người dân địa phương, đặc biệt là nhóm làm dịch vụ sẽ ảnh hưởng, tác động
không nhỏ tới uy tín, tiếng tăm của lễ hội Phủ Dầy”.
Riêng đối với đền chính, do cụ Đức đã cao tuổi, sức khỏe yếu, nên NCS
không hỏi được nhiều thông tin như mong muốn. Tuy nhiên, cụ Đức cũng cho
biết: “mối quan hệ giữa nhà đền với nhân dân trong vùng rất tốt đẹp, người dân
trong địa bàn xã Kim Thái nói riêng và các xã quanh Phủ Dầy nói chung đã đóng
góp công sức, tiền của cho nhà đền tổ chức lễ hội. Ngược lại, nhà đền cũng tạo
điều kiện cho bà con trong vùng tới đây làm ăn, sinh sống. Các chú có thể đi hỏi
người dân quanh đây thì biết, họ làm những công việc khác nhau trong khi lễ hội
diễn ra, nhất là vào những ngày chính hội…” (Do sức khỏe không được tốt, cụ
Đức đã đi nghỉ, NCS phải dừng cuộc phỏng vấn).
Vai trò, ảnh hưởng của cộng đồng địa phương tới các hoạt động đầu tư vật
chất cơ sở hạ tầng cho lễ hội, được các thủ đền cho biết. Ông Trần Văn Năm:
“Thông qua những ý kiến đề đạt của người dân địa phương (người bán hàng
quanh đền, các đội duy trì bến bãi, đường xá…), tôi cho người hoặc đích thân
kiểm tra, nếu thấy hợp lý lập tức cho xử lý như mua sắm thêm thiết bị, hoặc sửa
chữa nếu có hỏng hóc, xuống cấp. Đối với cơ sở hạ tầng, liên quan đến xây
dựng, để tránh ảnh hưởng đến mùa lễ hội năm đó, chúng tôi sẽ cho sửa chữa, làm
mới hoặc mở rộng ngay vào sau mùa lễ hội, để kịp đưa vào sử dụng vào năm tới.
Nếu là những công trình xây dựng lớn, tôi sẽ lên phương án, chuẩn bị kinh phí
102
và cho tiến hành làm ngay, đáp ứng cho mùa lễ hội sau. Việc tiến hành sửa chữa,
xây dựng… này không chỉ mình tôi hay người nhà đền đứng ra lo liệu được, mà
còn có sự hỗ trợ, giúp đỡ của người dân trong địa phương nữa. Cách giúp đỡ nhà
đền trong những khâu này thì có nhiều cách, người giúp công, người giúp của,
người đưa ra ý tưởng hoặc giới thiệu bạn bè… Nhất là những công việc sửa chữa
cần kíp, cấp bách trong thời gian lễ hội được người dân địa phương hỗ trợ ngay”.
Ông Trần Vũ Toán cho biết: “phủ Bóng của tôi do có cơ sở hạ tầng khá
tốt, những khâu khác liên quan đến cơ sở vật chất của đền trong thời gian diễn ra
lễ hội chủ yếu được chúng tôi thuê lắp đặt. Nếu có vấn đề gì họ sẽ tới khắc phục
hoặc thay thế ngay. Hơn nữa, quản lý tổ chức điều hành sự hoạt động của phủ
Bóng nói chung và thời gian lễ hội diễn ra nói riêng chủ yếu là người trong gia
đình. Nên có vấn đề gì liên quan đến cơ sở vật chất - hạ tầng, tôi nắm bắt được
ngay và cho khắc phục kịp thời. Còn việc tác động của người dân địa phương tới
hoạt động của phủ Bóng nói riêng và Phủ Dầy nói chung trong thời gian diễn ra
lễ hội về mặt đầu tư vật chất, cơ sở hạ tầng không nhiều, đặc biệt là trong những
năm gần đây, khi mọi thứ đã được thuê mướn (dịch vụ hóa) toàn bộ”.
Nguồn tài chính do cộng đồng địa phương đóng góp, công đức… cho việc
tổ chức lễ hội Phủ Dầy được các thủ đền đề cập khá dè dặt, đặc biệt là khi đề
cập đến con số cụ thể. NCS chỉ nhận được những câu trả lời chung chung như
sau. Ông Trần Vũ Toán cho biết: “người dân địa phương có đóng góp dưới các
hình thức đặt lễ hoặc công đức cho đền hàng năm vào mùa đầu mùa lễ hội,
nhưng tổng số tiền không nhiều. Chủ yếu là đầu mùa lễ hội, họ đến xin để làm
ăn may mắn, thuận lợi; cuối mùa lễ hội họ đến để lễ tạ. Tuy nhiên, việc đóng
góp như vậy là tùy tâm của mỗi người, nhà đền không yêu cầu; số tiền này
chúng tôi sẽ sử dụng vào việc thuê mướn, mua sắm các thiết bị… cho hoạt
động của nhà đền trong mùa lễ hội”. Ông Trần Văn Năm lại cho rằng: “vai trò
và ảnh hưởng của người dân địa phương đối với lễ hội Phủ Dầy về phương diện
tài chính là rất lớn. Tôi không biết các phủ/đền khác như nào, nhưng đền Mẫu
Thượng của tôi có hai nguồn chính. Thứ nhất là nguồn công đức của nhân dân
địa phương tới làm lễ trong mùa lễ hội, đặc biệt là giai đoạn đầu mùa lễ hội.
Thứ hai là nguồn từ việc “bán mặt bằng/kiot” cho người dân địa phương kinh
103
doanh các dịch vụ tâm linh trong khuôn viên của đền. Việc đóng góp và thu
được kinh phí từ việc kinh doanh của người dân địa phương, để nhà đền chúng
tôi có nguồn vốn tổ chức và duy trì hoạt động trong mùa lễ hội, cũng như sửa
chữa, cơi nới cơ sở vật chất và hạ tầng”.
Tác động của người dân địa phương tới lễ hội Phủ Dầy trên phương diện
tâm linh - thiêng liêng. Ông Năm cho biết: “cái này thì rõ rồi, bà con ở đây tin
vào sự thiêng liêng của Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Họ đang ăn lộc nhà Thánh cơ
mà. Theo tôi, mỗi người dân ở Vụ Bản nói chung và ở quanh Phủ Dầy nói riêng
đều tín ngưỡng vào sự linh thiêng của Đức Thánh Mẫu. Tôi đố các anh ra ngoài
kia hỏi người dân mà họ lại báng bổ hay không tin vào Thánh Mẫu. Tôi cho
rằng, họ có vai trò rất lớn tới sự tạo nên sự thiêng liêng của lễ hội Phủ Dầy, đây
chính là khâu tuyên truyền danh tiếng của lễ hội Phủ Dầy tới khách thập phương
trên cả nước”. Ông Toán cho chúng tôi biết thêm: “Người dân địa phương ở đây
tin tưởng vào Đức Liễu Hạnh, chính họ đã có công trong việc giữ gìn và phát
huy giá trị thiêng liêng của lễ hội Phủ Dầy tới người dân trên cả nước. Hơn nữa,
nếu không có sự thiêng liêng, tôi nghĩ người dân, du khách thập phương sẽ
không đến với lễ hội Phủ Dầy đông như thế này. Theo tôi, nhân dân địa phương
là người trung gian để đưa các giá trị thiêng liêng của Thánh Mẫu, của lễ hội Phủ
Dầy tới đời sống cộng đồng du khách thập phương, tới nhân dân. Các anh có thể
ra ngài hỏi người dân địa phương quanh đây, xem họ nói gì và tin tưởng gì vào
Đức Thánh Mẫu thì biết ngay. Chính vì vậy, người dân địa phương đóng một vai
trò quan trọng, tác động mạnh mẽ đến lễ hội Phủ Dầy”.
Ngoài những tác động tích cực của người dân địa phương tới lễ hội Phủ
Dầy trên các phương diện: đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng; nguồn tài chính; yếu tố
tâm linh - thiêng liêng, thì còn có những tác động tiêu cực. NCS có hỏi đến vấn
đề này, ông Năm cho biết: “anh hỏi như vậy tôi cũng xin trả lời thật, rõ ràng là
bên cạnh những tác động tích cực thì không thể không có tác động tiêu cực. Như
ngay ở đền Mẫu Thượng của tôi, nhiều khi việc đóng góp, mua chỗ ngồi giữa
các chủ hàng với nhà đền cũng xảy ra việc bằng mặt chưa bằng lòng trong việc
thỏa thuận giá cả - vị trí ngồi, người thuê đắt, người thuê rẻ. Nhiều gian hàng
được làm vật liệu tạm bợ, lấn chiếm diện tích mất mỹ quan của đền. Hơn nữa,
104
nhiều người dân hiểu biết chưa đầy đủ về lịch sử của Thánh Mẫu, của đền, của lễ
hội Phủ Dầy, thành ra tuyên truyền/giới thiệu sai, làm mất đi tính thiêng liêng tốt
đẹp của tín ngưỡng. Nhiều người, nhất là du khách thập phương còn hiểu sai
thành trò mê tín dị đoan. Nhưng vì trình độ hiểu biết của mỗi người khác nhau,
nên chúng tôi cũng không biết làm cách nào để thay đổi họ được”.
3.2.2. Tác động của cộng đồng thập phương tới lễ hội Phủ Dầy
Bên cạnh những tác động của cộng đồng địa phương tới lễ hội Phủ
Dầy, thì còn có tác động của cộng đồng du khách thập phương. Theo NCS, có
lẽ tác động của du khách thập phương tới lễ hội Phủ Dầy đôi khi còn mạnh
mẽ hơn cả cộng đồng cư dân địa phương. Tuy nhiên, trong quá trình tìm hiểu,
NCS cũng không thể làm điều tra xã hội học để đo mức độ tác động bằng số
liệu thống kê. Điều này rất khó thực hiện trong việc đánh giá tác động ngược
lại. Nhưng bằng kết quả phỏng vấn sâu các thủ đền và người dân địa phương
làm dịch vụ bán hàng tại Phủ Dầy, NCS có những căn cứ định tính và xin
được diễn giải như sau:
Câu hỏi đặt ra là, ông/bà cho biết vai trò cũng những tác động của cộng
đồng du khách thập phương tới lễ hội Phủ Dầy trên phương diện tổ chức - quản
lý? Ông Năm cho biết: “Rõ ràng là lễ hội Phủ Dầy được tổ chức không chỉ đáp
ứng nhu cầu của người dân địa phương chúng tôi, mà là để dành cho du khách
thập phương xa gần. Chính vì vậy mà, du khách thập phương có những tác động
không nhỏ tới lễ hội Phủ Dầy. Lượng khách hàng năm đến với lễ hội tăng hay
giảm cũng ảnh hưởng đến công tác tổ chức - quản lý của nhà đền chúng tôi.
Nhiều năm, mình chuẩn bị khá công phu, tốn kém, nhưng lượng khách năm ấy
lại không đông như những năm trước. Ví dụ như năm 2013, du khách đến đền
Mẫu Thượng của tôi giảm đi đáng kể. Nguyên nhân sự giảm này thì tôi không
rõ, khi bàn tán thì mỗi người một ý kiến khác nhau: người cho rằng nguyên nhân
suy thoái kinh tế, người cho rằng bất động sản bị đóng băng, người cho rằng có
nhiều cơ sở tâm linh khác mọc lên đã thu hút bớt du khách… Có nhiều năm
chuẩn bị vừa phải, lượng du khách lại tăng đột biến, khiến nhà đền xoay xở
không kịp, đường dẫn lên đền bị tắc. Không những thế, mặt bằng đền Mẫu
Thượng của chúng tôi nhỏ hẹp, lại nằm trên đồi/núi, nên khách đông rất chật
105
chội, tổ chức làm lễ và quản lý rất khó khăn. Theo tôi, trình độ của du khách đến
với lễ hội Phủ Dầy cũng có những tác động không nhỏ tới khâu tổ chức, quản lý.
Nhất là du khách là người có trình độ, địa vị xã hội… ý kiến của họ được cánh
báo chí khai thác và tác động, ảnh hưởng rất nhiều đến nhà đền chúng tôi. Qua
đó, chúng tôi cũng phải xem xét và điều chỉnh, thay đổi sao cho khâu tổ chức -
quản lý được tốt hơn mà vẫn phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của mình”.
Ông Toán cũng cho biết: “lượng du khách đến với lễ hội Phủ Dầy tất
nhiên là có tác động mạnh mẽ rồi. Đối với Nguyệt Du Cung của chúng tôi, lượng
du khách đến hầu đồng đều đặn đã khiến khâu tổ chức - quản lý cũng bài bản
hơn, quy mô hơn, tránh được tình trạng luộm thuộm, nhếch nhác. Cũng chính vì
thế mà lượng khách đổ về đền phủ chúng tôi ngày càng đông hơn. Còn đối với
mười ngày chính hội, các tục rước kiệu, kéo chữ, tế lễ đã thu hút hàng vạn dân
chúng đến với Phủ Dầy. Mà theo tôi, lễ hội và những tục diễn mở ra là để cho
người dân, trong đó có du khách thập phương tới xem. Nếu không có sự góp mặt
của du khách thấp phương, lễ hội Phủ Dầy sẽ không còn là nó nữa. Trong 3
tháng lễ hội và 10 ngày chính hội, du khách thập phương đổ về, không chỉ chúng
tôi, mà cả nhân sự của chính quyền địa phương (cấp xã, huyện, thậm chí tỉnh)
được huy động cho khâu tổ chức, quản lý. Nhiều năm gần đây, tôi cho rằng lễ
hội Phủ Dầy đã ngày càng hoàn thiện trong khâu tổ chức - quản lý, nhằm đáp
ứng nhu cầu của du khách thập phương. Không còn có nhiều ý kiến phàn nàn
hay chê bai của du khách về khâu tổ chức - quản lý lễ hội Phủ Dầy nói chung và
phủ Bóng của chúng tôi nói riêng”.
Quan điểm của chị Xuân làm công việc bán hàng cho thấy tác động của
du khách tới lễ hội Phủ Dầy: “lượng khách đông, chúng em bán được nhiều, đem
lại nguồn thu nhập cho gia đình. Lễ hội mà không có khách đến thì còn gì là lễ
hội nữa anh. Em cũng bán hàng nhiều năm nay ở đây, rõ ràng khâu tổ chức -
quản lý của lễ hội Phủ Dầy có những thay đổi tích cực, từ an ninh trật tự, vệ sinh
môi trường, quy hoạch hàng quán, chỉ có mỗi tình trạng giao thông bị tắc nghẽn
là chưa giải quyết được triệt để. Sự thay đổi ấy, theo em là để đáp ứng nhu cầu
và sự an toàn của du khách. Bản thân nhà đền (đền chính) cũng có những thay
đổi trong khâu tổ chức, quản lý. Việc nhà đền kết hợp với chính quyền địa
106
phương (cấp xã, huyện) để tổ chức lễ hội được như ngày nay, theo em là cả một
nỗ lực lớn. Không những thế, đối với người bán hàng chúng em, chính quyền địa
phương và nhà đền còn bắt cam kết không được ép khách hay nâng giá, chặt
chém khách đến mua hàng. Đến cả việc trông xe cũng có quy định, niêm yết giá
cả rõ ràng đối với từng loại xe”.
Bên cạnh những tác động tích cực của du khách thập phương tới lễ hội
Phủ Dầy trên phương diện tổ chức - quản lý, còn có những tác động tiêu cực.
Khi hỏi đến vấn đề này, ông Năm cười và cho biết: “đây là điều không thể tránh
được anh ạ! Vì khách thập phương, dân tứ chiếng đến, mỗi người một kiểu, một
tính cách và nhu cầu cũng như trình độ hiểu biết khác nhau. Người có văn hóa
thì không sao, nhiều người có những hành động khiến chúng tôi rất ngán ngẩm.
Ý thức ở nơi công cộng hoặc ở chốn thiêng liêng rất kém. Nếu chúng tôi có nhắc
nhở, họ tỏ ra khó chịu, đôi lúc cãi cọ, va chạm, làm mất đi hình ảnh đẹp của lễ
hội Phủ Dầy. Từ phía những người quản lý - tổ chức lễ hội ở các đền, chúng tôi
rất mong muốn khách đến tuân thủ quy định, ứng xử có văn hóa… Tôi lấy ví dụ,
nhiều ông lên lễ đền, người thì đông cứ đứng hút thuốc lá phì phèo, vừa gây ô
nhiễm, khó chịu cho người xung quanh, rất dễ xảy ra hỏa hoạn. Hoặc nhiều đoàn
khách, muốn vào lễ trước, chen lấn xô đẩy… Những hành động thiếu văn hóa
như vậy làm cho khâu tổ chức - quản lý lễ hội Phủ Dầy ở đền Mẫu Thượng của
chúng tôi rất vất vả”. Chị Xuân có vẻ bức xúc khi hỏi đến chuyện này: “theo em
thì có nhiều người khách, đoàn khách rất vô ý thức, không hiểu họ quen biết
những ai, tiền lắm như thế nào, khi đến đền không tuân theo chỉ dẫn của đội an
ninh địa phương. Chồng em làm công việc này, lắm hôm về nhà bức xúc, quát
loạn cả nhà cửa lên. Hóa ra là, hôm ấy gặp khách đi ô tô vào đền, không tuân
theo chỉ dẫn phân luồng vào các bãi xe theo quy định, đã thế còn có lời lẽ thô
tục, xảy ra va chạm, cãi vã… may có các anh công an đến can thiệp, nên chưa
xảy ra đánh nhau, anh ạ. Trong đền chỗ em bán hàng cũng thế, người thì đông,
nhiều đoàn chen lấn đòi vào lễ trước, bị nhắc nhở thì họ dọa gọi điện cho ông
này, ông kia…”.
Bên cạnh việc tác động của du khách thập phương tới lễ hội Phủ Dầy trên
phương diện tổ chức - quản lý, thì còn ảnh hưởng đến việc xây dựng hạ tầng,
107
mua sắm thiết bị. Theo ông Toán: “lượng khách đông lên, rõ ràng chúng tôi cũng
phải có những phương án bổ sung thêm vật dụng và xây dựng cơ sở hạ tầng để
đáp ứng nhu cầu của du khách về dự lễ hội. Riêng việc, bàn ghế để cho khách
ngồi chờ hoặc đến làm lễ tham quan, chúng tôi cũng phải mua sắm liên tục, vừa
là để thay thế cho những cái bị hỏng, vừa là để phục vụ lượng khách đang tăng
lên. Nhiều khi khách đông quá, không đủ chỗ, bàn ghế… chúng tôi phải thuê để
đáp ứng luôn. Còn các công trình xây dựng, thì ngay một lúc mà làm luôn được
rất khó, nhưng lượng khách vẫn đang đến đông lên, nhu cầu của họ cũng cao
hơn… Chính vì vậy, nhà đền chúng tôi cũng phải có phương án và kế hoạch xây
dựng mới, hoặc sửa chữa, cơi nới… sao cho đền/phủ được khang trang hơn
chứ”. Ông Năm cũng cho biết thêm: “yêu cầu của khách thập phương cũng rất
khác nhau, nhưng đến với lễ hội Phủ Dầy ngoài nhu cầu thỏa mãn tâm linh, thì
bản thân họ cũng còn nhu cầu khác như thưởng lãm cảnh đẹp của đền phủ, ngồi
nghỉ ngơi đợi hết tuần hương, hay xem một giá hầu đồng… Nếu cơ sở hạ tầng và
những vật dụng thông thường mà không đáp ứng được thì chắc du khách cũng sẽ
không hài lòng. Ngay đền Mẫu Thượng của chúng tôi đây, như các anh thấy, tôi
đang cho mở rộng mặt bằng diện tích của đền, xây dựng thêm tòa kiến trúc này,
vừa là để người dân có chỗ nghỉ ngơi, làm lễ…, vừa là đáp ứng lượng khách
ngày càng đông đang đến với đền”.
Đối với sự tác động của du khách thập phương tới lễ hội Phủ Dầy trên
phương diện nguồn thu tài chính thì đã quá rõ ràng. Theo ông Năm: “khách đến
với lễ hội Phủ Dầy càng đông thì quy mô của lễ hội càng được mở rộng và phát
triển. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc nguồn thu tài chính về cho các đền ở
Phủ Dầy sẽ tăng lên. Nguồn thu tài chính ấy lại được sử dụng vào các công việc
tổ chức - quản lý - vận hành lễ hội và hoạt động chung của các đền. Đối với
khách thập phương đến với lễ hội Phủ Dầy, họ thường bỏ tiền giọt dầu hoặc
công đức cho nhà đền. Ngoài nguồn thu đó ra, nhà đền còn có nguồn thu khác từ
các ông bà đồng đến mua chiếu hầu (Giá tiền mà mỗi ông/bà đồng phải bỏ ra để
mua chiếu hầu (chỗ ngồi hầu) cũng rất khác nhau, phụ thuộc vào rất nhiều yếu
tố như: gian hầu rộng hay hẹp, nằm ở trung tâm hay ở bên cạnh; thời gian hầu
(lâu hay nhanh, sáng hay trưa, tối, đêm…); là phủ chính hay ở những đền khác
108
(phụ thuộc vào sự nổi tiếng, linh thiêng của mỗi đền/phủ). Không những thế, nếu
ông bà đồng mang theo cung văn riêng thì giá thuê sẽ cao hơn, nếu thuê cung
văn văn của nhà đền giá thuê sẽ thấp hơn; mua vàng mã ở nhà đền hay không
cũng sẽ ảnh hưởng đến giá thuê. Nhiều khi còn phụ thuộc vào mối quan hệ cá
nhân giữa ông bà đồng với thủ đển…), từ các cung văn (Các cung văn muốn có
chỗ làm ăn ở đền cũng phải thông qua thủ đền, giá cả sẽ do thỏa thuận giữa đôi
bên. Nếu là cung văn từ địa phương khác đến, nhà đền sẽ thu tiền cao hơn so với
cung văn là người địa phương. Ngoài ra, giá cả còn phụ thuộc vào mức độ nổi
tiếng và tài năng của mỗi cung văn. Nhiều nhà đền nuôi những cung văn này,
hoặc miễn phí để thu hút các ông bà đồng đến hầu…)…” Rõ ràng, du khách thập
phương đã tác động mạnh mẽ đến lễ hội Phủ Dầy trên phương diện tài chính. Tất
nhiên, nguồn thu ấy sẽ được nhà đền tái sử dụng để vận hành và tích lũy để có
thể mở mang phát triển đền, tiếp tục đáp ứng nhu cầu của du khách thập phương.
Ông Toán cũng cho biết: “lượng khách đến phủ Bóng của chúng tôi không đông
như ở đền chính hay một số đền khác ở Phủ Dầy, chính vì vậy nguồn thu tài
chính của chúng tôi cũng không bằng được những đền phủ kia. Hàng năm ngoài
du khách đến tham quan công đức, tiền đèn nhang, chúng tôi chủ yếu phục vụ
những đoàn đến hầu đồng mà thôi”.
Tác động của cộng đồng thập phương tới lễ hội Phủ Dầy trên phương diện
tâm linh - tín ngưỡng. Đây là một trong những đánh giá rất khó khăn, bởi nó
luôn có tác động hai chiều giữa lễ hội với con người và đương nhiên giữa con
người với lễ hội. Theo NCS, chính những du khách thập phương tạo ra không
khí sôi động và thiêng liêng của lễ hội Phủ Dầy. Những thói quen, hành vi, quan
niệm về sự thiêng liêng của mỗi du khách sẽ tạo nên một không gian tâm linh,
khiến cho lễ hội Phủ Dầy tồn tại, phát triển và sống được trong đời sống văn hóa
của cộng đồng. Vậy, không chỉ cư dân địa phương, mà cả du khách thập phương
đã tham gia góp phần vào tạo dựng, duy trì và phát triển tính thiêng liêng của lễ
hội Phủ Dầy trong đời sống văn hóa Việt Nam. Theo ông Năm cho biết: “theo
tôi, du khách thập phương chính là nhân tố quan trọng tạo nên và duy trì sự
thiêng liêng của lễ hội Phủ Dầy, không có niềm tin của họ vào Thánh Mẫu, có lễ
hội này sẽ không có sức sống mạnh mẽ như ngày nay”.
109
Bên cạnh những tác động tích cực của cộng đồng thập phương tới lễ hội
Phủ Dầy trên phương diện đầu tư cơ sở vật chất - hạ tầng, nguồn tài chính và yếu
tố tín ngưỡng - linh thiêng, thì còn có những tác động tiêu cực. Theo NCS,
những tác động tiêu cực chủ yếu ở hai lĩnh vực tài chính và yếu tố tín ngưỡng -
linh thiêng. Nguồn thu tài chính nhiều sẽ dẫn đến việc lợi dụng để tận thu, nhà
đền muốn thu được nhiều lại càng phải tuyên truyền, đôi khi thổi phồng giá trị
tâm linh - linh thiêng của đền, nhằm thu hút khách đến đông hơn. Những giá trị
văn hóa nguyên bản tốt đẹp của lễ hội Phủ Dầy bị mai một, thậm chí mất đi.
Thay vào đó là những toan tính, vụ lợi, chạy theo lợi ích kinh tế tiền bạc… NCS
hỏi đến việc này, các thủ đền đều nói tránh hoặc trả lời không đi vào trọng tâm
câu hỏi. Thực sự đây là vấn đề hết sức tế nhị, nhạy cảm, nên NCS tạm để ngỏ
chuyện này, và xin được giải quyết trong những nghiên cứu sau.
3.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÌNH HÌNH TÁC ĐỘNG CỦA LỄ HỘI PHỦ
DẦY ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG
3.3.1. Đối với nhóm cộng đồng cư dân địa phương
Tác động của lễ Phủ Dầy đến đời sống văn hóa xã hội của cộng đồng cư
dân địa phương diễn ra trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực. Tuy nhiên,
căn cứ trên con số thực tế, lại cho thấy rằng, những tác động của lễ hội Phủ Dầy
tới cộng đồng địa phương trên các mặt của đời sống xã hội không mạnh mẽ.
Hay, nói theo cách khác sự tác động này (cả tích cực, lẫn tiêu cực) diễn ra ở mức
độ thấp. Duy chỉ có tác động đến công việc kinh doanh - sản xuất của gia đình
tại địa phương là ở mức độ tương đối cao. Điều này cho thấy mối quan hệ giữa
lễ hội Phủ Dầy với công việc kinh doanh, cung cấp dịch vụ gia tăng rõ nhất.
Người dân cộng đồng địa phương sống dựa vào lễ hội Phủ Dầy, chính vì vậy bản
thân họ cũng nhận ra những tác động tích cực của lễ hội tới đời sống. Nhưng,
theo chúng tôi, số liệu điều tra nhiều lúc chưa đánh giá đúng thực chất của vấn
đề, nhất là trong quá trình xem xét/tìm hiểu một vấn đề của đời sống văn hóa xã
hội. Mặc dù con số/số liệu đánh giá về tác động tiêu cực luôn ở mức độ thấp
hoặc rất thấp, nhưng trong thực tế, bên cạnh những tác động tích cực không
mạnh mẽ lắm thì các tác động tiêu cực của lễ hội Phủ Dầy tới đời sống văn hóa
cộng đồng địa phương là khó có thể tránh khỏi. Có thể nhận thấy, yếu tố kinh
110
doanh của người dân địa phương vẫn mang nặng tâm lý “chộp giật”, nhiều khi
lợi dụng hoàn cảnh để “chặt chém”. Những phức tạp, hệ quả xấu của một nơi
đông người sẽ ảnh hưởng/tác động trực tiếp đến cuộc sống của người dân. Hơn
thế nữa, tình trạng ô nhiễm môi trường, ùn tắc giao thông, tệ nạn xã hội ăn theo
lễ hội… sẽ tác động không nhỏ tới đời sống của cá nhân, gia đình và cộng đồng
địa phương.
Không những thế, chính những tác động của lễ hội vào đời sống của
người dân cộng đồng địa phương làm thay đổi nhịp sống của một làng quê thuần
nông nghiệp chuyển dần sang làm công việc kinh doanh dịch vụ tâm linh hoặc
phụ vụ tâm linh. Nguồn thu nhập chính cho gia đình và của toàn bộ cộng đồng
không phải từ nông nghiệp nữa, mà từ hoạt động cung cấp dịch vụ cho du khách
hành hương. Vậy, đối với cộng đồng cư dân địa phương, lễ hội Phủ Dầy đã
chuyển dần từ một hoạt động tâm linh gắn liền với đời sống cổ truyền của làng
xã, đặc biệt gắn với chu kỳ sản xuất nông nghiệp sang một hoạt động tâm linh
gắn liền với đời sống quy mô hiện đại của một khu vực không gian rộng lớn và
đã mang màu sắc phi nông nghiệp, chuyển sang phát triển dịch vụ tâm linh, dịch
vụ ẩm thực.
Các giá trị của lễ hội Phủ Dầy tác động đến đời sống văn hóa xã hội nhóm
cộng đồng địa phương cũng có nhiều thay đổi. Nhiều giá trị đã thể hiện mức độ
tác động không còn mạnh như giá trị thẩm mỹ nghệ thuật. Trên bình diện chung,
những giá trị của lễ hội Phủ Dầy như: tâm linh, giáo dục truyền thống lịch sử,
kinh tế xã hội có những tác động, ảnh hưởng mạnh (ở mức độ cao) đến đời sống
văn hóa xã hội của cộng đồng cư dân địa phương. Hay nói theo cách khác, các
giá trị của lễ hội Phủ Dầy vẫn giữ được tầm quan trọng của nó trong đời sống
của công đồng cư dân địa phương.
Vai trò của lễ hội Phủ Dầy như: giáo dục văn hóa truyền thống, củng cố
niềm tin tới các Thánh Thần, định hướng tâm linh cộng đồng, cố kết tình cảm
cộng đồng, phát triển kinh tế gia đình, đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí của cộng
đồng… vẫn giữ tầm quan trọng đối với đời sống văn hóa xã hội cộng đồng cư
dân địa phương ở mức độ cao. Tuy nhiên, qua số liệu khảo sát, vai trò đáp ứng
nhu cầu vui chơi giải trí tác động/ảnh hưởng tới nhóm cộng đồng địa phương có
111
phần hạn chế, ở mức độ trung bình. Điều này cho phép NCS tạm đưa ra nhận
định rằng: Thứ nhất, do tập trung vào hoạt động cung cấp dịch vụ, nên bản thân
nhóm cộng đồng địa phương này sẽ rất bận rộn vào mùa lễ hội, không có thời
gian để ý đến việc giải trí. Thứ hai, bước sang đời sống hiện đại, có nhiều hoạt
động khác đã thỏa mãn nhu cầu vui chơi giải trí cho họ. Chính vì vậy, vai trò giải
trí của lễ hội Phủ Dầy đối với cộng đồng địa phương đã không còn chiếm ưu thế
nữa. Thứ ba, lễ hội gắn liền với đời sống thường ngày của cộng đồng cư dân địa
phương, nên yếu tố quen thuộc đã không còn hấp dẫn, thú vị đối với họ nữa.
Cùng với những giá trị của lễ hội Phủ Dầy tác động đến đời sống cộng
đồng cư dân địa phương, thì nó cũng ảnh hưởng đến đời sống của nhóm học sinh
tại địa phương. Căn cứ trên số liệu điều tra tại địa phương, NCS cho rằng, lễ hội
Phủ Dầy nói chung và các giá trị của nó nói riêng không tác động hay ảnh hưởng
nhiều tới đời sống của nhóm học sinh địa phương này. Đặc biệt là, trong việc tác
động đến hoạt động học tập của các em thì gần như không ảnh hưởng gì, hoặc ở
mức độ rất yếu. Tuy nhiên, trên thực tế, lễ hội Phủ Dầy có ảnh hưởng mạnh đến
đời sống sinh hoạt của những em học sinh có gia đình là công việc kinh doanh
dịch vụ.
Bên cạnh đấy, nhóm cộng đồng cư dân địa phương cũng có những tác
động nhất định đến lễ hội Phủ Dầy trên các phương diện: tổ chức - quản lý, đầu
tư cơ sở vật chất hạ tầng, nguồn thi tài chính và yếu tố tín ngưỡng - thiêng liêng.
Rõ ràng vai trò của cư dân địa phương đã giúp cho lễ hội trong nhiều khâu mắt
quan trọng. Nếu không có họ, lễ hội Phủ Dầy đã không hoạt động được trơn tru,
bài bản đến như vậy.
3.3.2. Đối với nhóm cộng đồng cư dân thập phương
Tác động của lễ hội Phủ Dầy đã có những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực
đến đời sống văn hóa xã hội của cộng đồng cư dân thập phương. Tuy nhiên, căn
cứ trên số liệu điều tra, thực tế những tác động tích cực và tiêu cực của lễ hội
Phủ Dầy tới đời sống văn hóa của cộng đồng cư dân thập phương ở mức độ thấp.
Nói theo cách khác, những tác động của lễ hội Phủ Dầy tới đời sống văn hóa xã
hội cộng đồng cư dân thập phương diễn ra không mạnh mẽ. Tuy nhiên, đối với
nhóm cộng đồng cư dân thập phương lại rất thành tín về sức linh của Thánh Mẫu
112
khi hành hương về Phủ Dầy. Có đến 82% số người được hỏi cho rằng những lời
cầu cúng của mình đã được chứng giám và linh nghiệm. Chính vì thế, khi đến
với lễ hội Phủ Dầy, nhóm cộng đồng du khách thập phương chủ yếu hướng đến
việc cầu bình an cho bản thân và gia đình, cầu công danh, cầu tài lộc và cầu để
tai qua nạn khỏi, thoát được bệnh tật.
Các giá trị của lễ hội Phủ Dầy cũng tác động khá mạnh mẽ đến đời sống
văn hóa xã hội nhóm cộng đồng cư dân thập phương. Hay nói theo cách khác,
giá trị của lễ hội Phủ Dầy tác động đến đời sống văn hóa cộng đồng cư dân thập
phương ở mức độ cao. Tuy nhiên, riêng giá trị thẩm mỹ nghệ thuật tác động chỉ
đạt được ở mức độ trung bình đối với nhóm cộng đồng cư dân thập phương này.
Qua đây cho thấy, các giá trị cơ bản của lễ hội Phủ Dầy như: tâm linh, giáo dục
truyền thống lịch sử, kinh tế xã hội vẫn giữ mức độ rất quan trọng tới đời sống
văn hóa xã hội của cộng đồng cư dân thập phương.
Các vai trò của lễ hội Phủ Dầy như: giáo dục văn hóa truyền thống, củng
cố niềm tin đối với Thánh Thần, đinh hướng tâm linh cộng đồng, cố kết tình cảm
cộng đồng, phát triển kinh tế gia đình, đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí cộng
đồng… vẫn giữ tầm quan trọng ở mức độ cao. Nếu như so với các vai trò của lễ
hội đối với nhóm cộng đồng địa phương, thì hầu hết vài trò của lễ hội của lễ hội
đối với nhóm cộng đồng thập phương đạt ở mức độ cao. Không có vai trò nào
tác động ở mức độ thấp. Điều này cho thấy tầm quan trọng của các vai trò lễ hội
thờ Mẫu tới đời sống văn hóa xã hội nhóm cộng đồng thập phương. Theo NCS,
để các vai trò này đạt mức độ quan trọng cao tới đời sống cộng đồng thập
phương là bởi: Thứ nhất, bản thân lễ hội Phủ Dầy đã mang trong nó những giá
trị của đời sống văn hóa xã hội, đặc biệt là giá trị tâm linh. Thứ hai, vai trò của lễ
hội Phủ Dầy đã thỏa mãn cơ bản và đầy đủ các mặt đời sống văn hóa cộng đồng.
Thứ ba, trong bối cảnh hiện nay, các vai trò của lễ hội Phủ Dầy vẫn giữ nguyên
giá trị của nó đối với đời sống văn hóa xã hội của cộng đồng nói chung và nhóm
cộng đồng thập phương nói riêng.
Nói tóm lại, tác động của lễ hội Phủ Dầy tới đời sống văn hóa xã hội của
các nhóm cộng đồng cư dân có đậm nhạt, mạnh yếu, tích cực - tiêu cực… khác
nhau, nhưng về cơ bản, NCS nhận thấy:
113
Thứ nhất, các giá trị và vai trò của lễ hội Phủ Dầy vẫn phát huy và đóng
một tầm quan trọng ở mức độ cao trong đời sống văn hóa xã hội của cộng đồng
cư dân Việt Nam nói chung và cư dân vùng Bắc Bộ nói riêng. Những giá trị và
vai trò này vẫn đảm bảo, đáp ứng tốt cho các nhu cầu lành mạnh, cơ bản tốt đẹp
của cộng đồng.
Thứ hai, quan niệm, nhận thức của các nhóm cộng đồng cư dân đối với
các giá trị, vai trò lễ hội Phủ Dầy có nhiều biến đổi, thay đổi. Hay nói theo cách
khác, cụ thể hơn, trong bối cảnh hiện nay, cộng đồng địa phương cũng có nhận
thức khác về các giá trị và vai trò của lễ hội hội Phủ Dầy. Bên cạnh những thay
đổi về nhận thức, quan niệm sẽ tạo ra xu hướng tích cực, tốt đẹp cho đời sống
văn hóa xã hội của con người, thì cũng có nhiều xu hướng tiêu cực, phương hại
tới đời sống văn hóa xã hội của cộng đồng.
Thứ ba, lễ hội Phủ Dầy chính là một hoạt động/sinh hoạt văn hóa mang
tính xã hội tổng thể. Trong đó, giá trị kinh tế xã hội được coi là một hoạt động
trung tâm, với các nghi thức “tặng/biếu quà” cho thần linh. Từ việc “tặng biếu”
đó, chính bản thân cách thành viên trong các nhóm cộng đồng cư dân đều mong
muốn nhận lại được “quà tặng” từ thần linh, mặc dù những món quà đó không
nhìn thấy bằng mắt thường, hoặc không tức thời định giá bằng vật chất, tiền tệ
như lúc họ mang đi dâng cúng. Cho đến nay, cộng đồng cư dân nói chung ở lễ
hội Phủ Dầy vẫn đang bị tác động mạnh bởi yếu tố này. Và, có lẽ giá trị kinh tế
có thể được coi là tác động mạnh mẽ nhất tới đời sống văn hóa xã hội của các
nhóm cộng đồng cư dân nói chung.
Tiểu kết chương 3
Các giá trị của lễ hội Phủ Dầy đã có tác động/ảnh hưởng tới các mặt cơ
bản đời sống văn hóa xã hội các nhóm cộng đồng cư dân (nhóm cư dân địa
phương, nhóm cư dân thập phương, nhóm cán bộ địa phương). Thông qua số
liệu thống kê tại địa phương Phủ Dầy, nơi diễn ra lễ hội, cho thấy rằng, sự tác
động của các giá trị lễ hội tới mọi mặt đời sống của các nhóm cộng đồng cư dân
là có những khác nhau:
114
Đối với nhóm cộng đồng cư dân địa phương thì giá trị kinh tế xã hội đã
tác động rất mạnh mẽ tới đời sống của họ. Thông qua lễ hội Phủ Dầy, người dân
nhóm cộng đồng địa phương đã tổ chức các hoạt động cung cấp dịch vụ cho du
khách thập phương. Việc cung cấp dịch vụ này đã tạo ra: thứ nhất, công ăn việc
làm cho cộng đồng cư dân địa phương; thứ hai, nó tạo ra nguồn thu nhập cho
không chỉ các hộ gia đình, mà còn cả nguồn ngân sách cho địa phương cấp xã,
huyện. Hơn thế nữa, chính số tiền thu được từ hoạt động lễ hội Phủ Dầy này còn
được tái đầu tư cho các công trình phúc lợi của địa phương như: điện, đường,
trường, trạm. Lễ hội cũng tác động tới đời sống sinh hoạt của nhóm các em học
sinh của địa phương trên nhiều phương diện khác nhau, đặc biệt là công việc học
tập. Tuy nhiên, con số khảo sát lại cho thấy những tác động/ảnh hưởng xấu của
lễ hội tới các em gần như ở mức độ rất thấp. Trong khi đó, nhu cầu tìm hiểu lịch
sử truyền thống, vui chơi giải trí, cố kết cộng đồng lại đóng một vai trò nhất định
đối với đời sống sinh hoạt của các em.
Đối với nhóm cộng đồng cư dân thập phương, các giá trị của lễ hội Phủ
Dầy vẫn luôn đóng vai trò quan trọng tới đời sống văn hóa xã hội của họ. Tuy
nhiên, trong bối cảnh hiện nay, tâm thức, nhận thức và cách ứng xử của nhóm
cộng đồng cư dân này có nhiều thay đổi. Chính vì vậy những tác động của giá trị
lễ hội Phủ Dầy tới nhóm cộng đồng này cũng có nhiều mức độ khác nhau.
Nhưng, căn cứ trên số liệu cho thấy, các giá trị của lễ hội Phủ Dầy vẫn có tác
động mạnh mẽ tới đời sống của nhóm cộng đồng cư dân này.
115
Chương 4
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO LỄ HỘI PHỦ DẦY
TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG
4.1. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ BIẾN ĐỔI GIÁ TRỊ LỄ HỘI PHỦ
DẦY HIỆN NAY
4.1.1. Nhân tố lịch sử
Nhân tố lịch sử đã có tác động mạnh mẽ tới các hoạt động tâm linh nói
chung và lễ hội nói riêng. Trong đó lễ hội Phủ Dầy không là một trường hợp
ngoại lệ. Bản thân mỗi một tôn giáo, tín ngưỡng cũng như lễ hội gắn liền với nó
đều có lịch sử của riêng mình, đó chính là quá trình/diễn trình phát triển, từ lúc
hình thành, phát triển, thậm chí tiêu vong hay thăng trầm của bản thân loại hình
(tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội) đó. Không những chỉ có lịch sử của riêng mình,
mỗi tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội lại phải sống trong nhịp đập, dòng chảy chung
của lịch sử dân tộc, khu vực hoặc thế giới. Yếu tố lịch sử dân tộc, hay khu vực
chính là nhân tố quyết định đến sự ra đời, định hình, phát triển, biến đổi, thậm
chí tiêu vong của mỗi tôn giáo, tín ngưỡng hay lễ hội. Lễ hội Phủ Dầy cũng nằm
chịu sự tác động của lịch sử chính bản thân tín ngưỡng thờ Mẫu và đồng thời nó
cũng chịu sự tác động của lịch sử dân tộc nói chung.
Trước hết, lễ hội Phủ Dầy chịu sự tác động của lịch sử Đạo Mẫu ở Việt
Nam. Bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ nữ thần của cư dân Việt. Nhiều học giả đều
thống nhất rằng, hiện tượng thờ nữ thần của cư dân Việt bắt nguồn từ nền tảng
sản xuất kinh tế nông nghiệp, xã hội phân hóa không cao, những yếu tố mẫu hệ
nguyên thủy vẫn dư tồn trong đời sống cộng đồng một cách mạnh mẽ. Trong sản
xuất (kinh tế tự nhiên) hái lượm đến sản xuất nông nghiệp, người đàn bà vẫn
tham gia phần lớn các công việc làm ra vật chất, họ gánh vác cùng đàn ông, nên
họ luôn nhận được sự tôn trọng của gia đình và cộng đồng. Không những thế, xã
hội phân hóa không cao, việc phân chia quyền lực giữa nam và nữ không có
nhiều khoảng cách biệt giống với các nước trong khu vực và trên thế giới. Bên
cạnh đó, nó còn bắt nguồn từ những tư duy nguyên thủy về những bà Mẹ (cây,
đất, nước và trời), vì Mẹ sinh ra muôn loài trong tự nhiên.
116
Theo thời gian, trong hàng các nữ thần có một số vị được tôn vinh làm
Thánh Mẫu - Vương Mẫu - Quốc Mẫu. Điều này cũng để khẳng định, không
phải vị nữ thần nào cũng trở thành Mẫu. Theo Ngô Đức Thịnh thì “về mặt danh
xưng, Mẫu là từ gốc Hán - Việt, còn thuần việt là Mẹ, Mụ. Mẹ, Mụ là từ danh
xưng chỉ người phụ nữ đã sinh thành ra một người nào đó, là tiếng xưng hô thân
thiết của con cái và người đã sinh hạ ra mình. Tuy nhiên, Mẹ, Mẫu còn bao hàm
nghĩa rộng hơn mang tính tôn xưng, tôn vinh” [115, tr.172-173].
Từ tục thờ Mẫu thần đến Mẫu Tam - Tứ phủ là một giai đoạn phát triển
tiếp theo của Đạo Mẫu. Nhiều nhà nghiên cứu cũng thống nhất quan điểm rằng,
không nên đồng nhất hoàn toàn giữa thờ Mẫu với Mẫu Tam/Tứ phủ, mà từ tục
thờ Nữ thần, thờ Mẫu thần đến Mẫu Tam/Tứ phủ là một bước phát triển về
nhiều mặt. Theo Ngô Đức Thịnh, tác nhân của sự phát triển ấy vừa có nhân tố
nội sinh và vừa có nhân tố ngoại sinh. Ông cho rằng, Mẫu Tam/Tứ phủ so với
tín ngưỡng thờ Nữ thần và Mẫu thần nói riêng và thờ thần nói chung đã có
bước phát triển đáng kể về tính hệ thống. Mẫu Tam/Tứ phủ đã bước đầu hình
thành, chứa đựng những nhân tố về vũ trụ luận nguyên sơ. Mẫu Tam/Tứ phủ
bước đầu thể hiện một ý thức nhân sinh, ý thức về cội nguồn dân tộc, đất nước,
chứa đựng tinh thần yêu nước. Mẫu Tam/Tứ phủ đã bước đầu hình thành một
hệ thống thờ cúng trong các Đền, Phủ, những nghi lễ thờ cúng bước đầu đã
được chuẩn hóa, trong đó nghi lễ hầu bóng và lễ hội Tháng tám giỗ Cha, tháng
ba giỗ Mẹ là một điển hình [115, tr.173-174]. Một “cú hích” quan trọng nữa để
tục thờ Nữ thần, Mẫu thần phát triển trở thành Mẫu Tứ phủ là Đạo giáo từ
Trung Quốc được du nhập vào Việt Nam. Có lẽ từ thời Bắc thuộc, Đạo giáo đã
đến Việt Nam, để sang giai đoạn Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần nó đã trở thành một
trong Tam giáo đồng nguyên.
Đến thế kỷ XVI, tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ xuất hiện thêm một thần
Mẫu quan trọng nữa, đó là thánh Mẫu Liễu Hạnh. Tương truyền bà là một nhân
vật có thật và còn được dân gian đồng nhất, cho rằng là một hóa thân của Mẫu
Thượng Thiên. Rồi, Mẫu Liễu đã trở thành thần chủ của Đạo Mẫu Tứ phủ. Ngô
Đức Thịnh cho rằng:
117
Sự xuất hiện của của vị Thánh Mẫu này vào khoảng thể kỷ XVI vừa xuất
phát từ nhu cầu phát triển nội tại của tín ngưỡng thờ Mẫu đã có từ trước,
vừa phản ánh khát vọng của quần chúng nhân dân thời Lê, xã hội rối
loạn, nhân tâm ly tán,… Với vị Thần chủ này, Đạo Mẫu vốn là một tín
ngưỡng gần với thiên nhiên, trời đất, nay được đời thường hóa, gắn liền
với những khát vọng của con người, thân phận của con người, nhất là
người phụ nữ trong đời sống hàng ngày: tài lộc, chữa bệnh, ban phúc,
giáng họa. Chính từ đây, Đạo Mẫu Tam - Tứ phủ có được bộ mặt mới,
vừa rất dân tộc, rất truyền thống lại vừa rất cập thời, làm cho nó nhanh
chóng phát triển và lan tỏa khắp mọi miền đất nước… [115, tr.174-175].
Để từ đó, hình thành các trung tâm thờ Mẫu lớn như Phủ Dầy. Cùng với
sự hoàn thiện của tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ theo thời gian, thì “hệ thống điện
Thần, quan niệm nhân sinh và vũ trụ, đặc biệt là các nghi lễ - lễ hội càng thể hiện
tính hệ thống hơn”. Các bài bản nghi thức lễ hội Phủ Dầy cũng theo đó mà dần
hoàn thiện, bài bản hơn.
Sau đó, bản thân lễ hội Phủ Dầy ở phủ cũng chịu tác nhân của lịch sử dân
tộc Việt Nam. Cho đến nay, chưa có công trình khảo cứu nào đưa ra được niên
đại lịch sử của lễ hội Phủ Dầy. Tuy nhiên, căn cứ trên thần tích của vị Thần chủ
Liễu Hạnh và những tích truyện quanh các nghi thức hiện còn trong lễ hội, tác
giả luận án xin đưa ra những giả thiết sau:
Trước khi xuất hiện Thánh Mẫu Liễu Hạnh, có lẽ đã xuất hiện các hoạt
động nghi lễ có tính chất nghi thức - manh nha của lễ hội sau này. Tuy nhiên, nó
chưa trở thành một hệ thống, bài bản với những nghi thức cụ thể, rõ ràng và
chuẩn mực như sau này. Phải sang đến thế kỷ XVI, khi vị Thần chủ Liễu Hạnh
xuất hiện với di tích - không gian thờ cúng cụ thể, lại chịu thêm tác động hệ tư
tưởng của thời cuộc (Nho giáo), thì lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ mới được tổ chức.
Sau này, các tục diễn trong lễ hội mới được bổ sung thêm vào như kéo chữ. Tích
truyện về Vương phi Phùng/Trần Thị Ngọc Đài không chỉ giải thích nguồn gốc
cho ra đời tục kéo chữ, mà còn cho chúng ta tạm xác lập một niên điểm tương
đối của lễ hội Phủ Dầy. Tóm lại, lễ hội Phủ Dầy đã định hình vào thế kỷ XVI,
nhưng hoàn thiện và bài bản hơn vào thế kỷ XVII, XVIII.
118
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 và đặc biệt trải qua hai cuộc kháng
chiến chống Pháp, Mỹ. Lễ hội Phủ Dầy không còn được tổ chức nữa. Phần vì đất
nước rơi vào hoàn cảnh chiến tranh, không có nguồn lực về kinh tế cũng như con
người để tổ chức. Hơn nữa, bối cảnh bom đạn như vậy, thì việc tổ chức một lễ
hội lại càng trở nên khó khăn và không thể thực hiện được. Đặc biệt, vào thời
điểm này, quan điểm của nhà nước là bài trừ tàn dư của chế độ phong kiến, cấm
mê tín dị đoan, nên tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ nói chung và lễ hội thờ Mẫu Tứ
phủ ở Phủ Dầy nói riêng không được phép hoạt động và tổ chức. Cũng chính vì
vậy mà lễ hội Phủ Dầy bị gián đoạn cho đến năm 1994 mới được mở trở lại.
Trong khoảng 10 năm đầu tiên tổ chức lại lễ hội, vẫn còn nhiều vấn đề còn tồn
tại. Khâu tổ chức còn luộm thuộm, thiếu bài bản, không chặt chẽ… Nhưng, bên
cạnh đó, việc phục dựng lại như vậy sẽ cần có thời gian để chỉnh sửa, bổ sung và
có những giải pháp rất cụ thể cho từng trường hợp phát sinh.
Một đặc điểm nữa của nhân tố lịch sử cũng tác động không nhỏ tới các
hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng, đó
chính là quan niệm của thời đại, của người dân sống trong thời đại đó. Mỗi thời
đại có những quan niệm về loại hình tôn giáo, tín ngưỡng và lễ hội khác nhau, từ
đó, nó cho con người của mỗi thời đại lịch sử ấy đưa ra cách ứng xử khác nhau.
Chính vì thế, lễ hội Phủ Dầy cũng chịu sự chi phối của quan niệm và cách thức
ứng xử của thời đại. Nên sự tồn tại và phát triển của lễ hội này cũng có những
bước thăng trầm theo quan niệm và cách ứng xử khác nhau trải qua thời gian.
Cho đến nay, quan niệm của thời đại đã có những thay đổi rõ rệt, nhận thức cũng
như cách ứng xử đối với tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội (trong đó có lễ hội Phủ
Dầy) của người dân hiện nay đã khoan dung và đúng đắn hơn. Họ coi đó là là
một sinh hoạt văn hóa tâm linh của đời sống cộng đồng, đôi khi còn được đề cao
bởi tính thiêng liêng và quyền năng của nó đối với đời sống xã hội. Việc phụng
thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh, thông qua lễ hội Phủ Dầy và nghi thức hầu đồng, con
người không chỉ thỏa mãn nhu cầu niềm tin tâm linh, mà còn nhận được sự che
chở ban phúc của thần linh, giúp họ ổn định về tâm lý, sức khỏe tốt mà làm ra
của cải vật chất, hướng đến cuộc sống no đủ thịnh vượng.
119
Hệ quả của nhân tố lịch sử tác động đến lễ hội thờ Phủ Dầy chính là sự
tổng hợp, hội tụ và kết tinh những giá trị văn hóa tiêu biểu của nhiều thời đại. Lễ
hội hiện nay là sự tổng hòa, hội tụ những giá trị văn hóa tinh hoa của các thời đại
trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
4.1.2. Nhân tố tôn giáo - tín ngưỡng
Bên cạnh việc lễ hội Phủ Dầy chịu sự tác động của lịch sử, thì bản thân
nó cũng chịu sự tác động của các tôn giáo tín ngưỡng khác cùng tồn tại và phát
triển trong một nền văn hóa nhất định. Sự tương tác giữa các tôn giáo, tín
ngưỡng ở Việt Nam nói chung và giữa Đạo Mẫu với các tôn giáo, tín ngưỡng
nói riêng sẽ tạo nên hai xu hướng rõ rệt: Xu hướng thứ nhất, dung hòa lẫn nhau
để cùng tồn tại và phát triển; xu hướng thứ hai, triệt tiêu, loại bỏ nhau. Tuy
nhiên, trong trường hợp ở Việt Nam, xu hướng thứ hai gần như không xảy ra
với các loại hình tôn giáo, tín ngưỡng khi định hình hoặc du nhập. Nguyên
nhân của thế cân bằng này và không tạo ra cho Việt Nam hiện tượng dị
đoan/cực đoan trong tôn giáo đó chính là nhờ có các tín ngưỡng dân gian. Theo
Trần Lâm Biền: “các tín ngưỡng dân gian đã có vai trò quan trọng trong việc
triệt tiêu đi tính cực đoan trong tôn giáo khi chúng ngoại lai vào Việt Nam. Nói
theo cách khác, chính tín ngưỡng đã buộc các tôn giáo phải bản địa hóa, tín
ngưỡng hóa, hòa nhập với tín ngưỡng để tồn tại và phát triển trong đời sống
cộng đồng Việt. Từ đó, các tín ngưỡng thông qua tôn giáo để tự nâng cấp, hoàn
thiện mình trong diễn trình phát triển” (Ý kiến này của PGS. TS. Trần Lâm Biền
được NCS tiếp thu thông qua những buổi nói chuyện, trao đổi chuyên môn. Đây
chính là ý kiến của chuyên gia mà tác giả luận án đã thực hiện trong quá trình
hoàn thiện nghiên cứu này).
Sự tương tác qua lại có tính chất hai chiều giữa các tôn giáo - tín ngưỡng
ở Việt Nam là một đặc tính chung cho đời sống tâm linh của dân tộc. Đạo Mẫu
nói chung và lễ hội Phủ Dầy cũng không là trường hợp ngoại lệ. Chính các tôn
giáo ngoại lai khi xâm nhập vào Việt Nam đã dung hòa với tín ngưỡng thờ Nữ
thần của người Việt, đó là trường hợp Phật giáo. Phật giáo đã kết hợp với hiện
tượng thờ Tứ Pháp mà tạo nên các ngôi chùa Tứ pháp: Vân, Vũ, Lôi, Điện. Rồi
chính tín ngưỡng thờ nữ thần này đã qua Phật giáo trở nên thịnh hành hơn, có
120
quyền năng hơn trong đời sống cộng đồng. Để sau này, các điện thờ Mẫu Tứ phủ
nói chung ở Việt Nam có phối thờ thêm gian thờ Phật, hoặc các ngôi chùa đều có
thêm điện thờ Mẫu. Một mặt là để đáp ứng nhu cầu tâm linh vốn đa dạng của
người Việt, nhưng mặt khác cũng cho thấy sự hỗn dung đan xen giữa Phật giáo
với tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ. Nhiều vị thánh Mẫu mang trong mình hai tư
cách vừa là Nữ/Mẫu thần, vừa là hóa thân của các nữ Bồ tát trong không gian
thờ tự của Phật giáo.
Sự tác động của Phật giáo đến tục thờ Mẫu Tứ phủ nói chung và lễ hội Phủ
Dầy nói riêng là một đặc điểm/hiện tượng rất phổ biến trong đời sống tâm linh của
người Việt ở châu thổ sông Hồng. Ngay trong lễ hội Phủ Dầy chúng ta còn thấy
có nghi thức rước kiệu thánh Mẫu từ phủ chính lên chùa Gôi vào ngày đầu tiên khi
tiến hành lễ rước. Việc rước kiệu thánh Mẫu Liễu Hạnh từ phủ lên chùa là một
hành động kết giao, dung hòa giữa đạo Thánh và Phật giáo. Theo Ngô Đức Thịnh:
Nó phản ánh sự kết giao giữa tín ngưỡng thờ Mẫu dân gian và Phật
giáo. Trong huyền thoại về chúa Liễu, trận Sùng Sơn thể hiện sự
xung đột giữa Chúa Liễu và triều đình phong kiến, sau đó cần phải
có sự trợ giúp và can thiệp của đức Phật. Tương truyền, chúa Liễu
sau đó đã nhận mũ áo nhà Phật, noi theo Phật, chỉ làm việc ban phát
ân đức. Hiện nay, trong nhiều ngôi chùa thờ Phật ở Việt Nam đều có
điện thờ Mẫu, theo kiểu “tiền Phật hậu Mẫu”. Sinh hoạt tín ngưỡng
thờ Mẫu trở thành một bộ phận sinh hoạt nhà chùa [115, tr.353-354].
Bên cạnh sự tương tác/tác động của Phật giáo, tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ
phủ và lễ hội Phủ Dầy còn chịu sự tác động của Đạo giáo rõ nét. Những tích
truyện mang đậm chất thần tiên về Mẫu Liễu Hạnh là minh chứng cho quá trình
hỗn dung giữa Đạo Mẫu và Đạo giáo. Đến nay, dân gian vẫn tin rằng:
Bà Chúa Liễu vốn là con gái của Ngọc Hoàng, vì phạm lỗi đánh vỡ
chén ngọc trong hội đào tiên, nên bị đày xuống trần gian, thác sinh
vào nhà họ Lê. Khi cất tiếng khóc chào đời, bố mẹ đặt tên là Giáng
Tiên, tới năm 18 tuổi thì gả chồng. Lấy chồng được 3 năm thì hết hạn
đầy, bị gọi về trời. Nhưng vì nhớ chồng con, Ngọc Hoàng lại cho về
hạ giới… [115, tr.351].
121
Câu chuyện huyền hoặc này, chúng ta có thể bắt gặp nhiều trong những
thần linh của Đạo giáo Trung Hoa. Chính vì vậy mà Ngô Đức Thịnh đã nhận định:
Để tục thờ Nữ thần, Mẫu thần phát triển lên thành Đạo Mẫu Tam - Tứ
phủ thì ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Quốc có vai trò quan trọng.
Theo nhiều nhà nghiên cứu, Đạo giáo Trung Quốc đã du nhập vào
nước ta từ khá sớm, ít nhất là từ thời Bắc thuộc. Đến thời Đinh, Tiền
Lê, Lý, Trần thì Đạo giáo là một trong Tam giáo đồng nguyên. Nhà
vua từng đứng ra phong cho các đạo sĩ, trong các trường thi cũng có
các đề nói về Đạo giáo, nhiều người trong hoàng tộc cũng là đạo sĩ.
Lý thuyết Lão gia đã ăn sâu vào ý thức của nhiều trí thức đương thời,
nhiều phương thuật, ma thuật của Đạo giáo lan truyền trong nhân dân.
Đến đời Hậu Lê, Nho giáo thịnh hành, Đạo giáo không được coi
trọng, nhưng triết lý cũng như pháp thuật của nó không phải không
lưu hành rộng rãi. Điển hình là việc vua Lê Thần Tông cho phép Trần
Lộc lập ra Đạo Nội Tràng. Đạo Mẫu và các tín ngưỡng dân gian khác
tiếp thu ảnh hưởng của Đạo giáo dân gian Trung Quốc về nhiều
phương diện. Đó là các quan niệm tự nhiên, đồng nhất con người với
tự nhiên, về quan niệm Tứ phủ - Tam phủ, một số vị Thánh của Đạo
giáo thâm nhập vào điện thần Tứ phủ, như Ngọc Hoàng, Thái Thượng
Lão Quân, Nam Tào, Bắc Đẩu. Đó còn là các câu chuyện thần tiên
huyền ảo, các phép thuật mang tính phù thủy để trừ ma tà… Ngay lễ
hầu bóng của Đạo Mẫu Việt Nam cũng không phải không chịu ảnh
hưởng các hình thức vũ thuật của Đạo giáo Trung Quốc. Chính những
ảnh hưởng này, một mặt giúp Đạo Mẫu lên khuôn, hệ thống hóa và
bước đầu mang tính phổ quát nguyên lý Mẫu - Mẹ, nhưng mặt khác
cũng làm tăng thêm tính ma thuật, phù thủy mà vốn trong dân gian đã
từng tiềm ẩn [115, tr.175-176].
Từ việc tác động đến bản chất của tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ, Đạo giáo
đã tác động đến trực tiếp đến các hoạt động của lễ hội Phủ Dầy. Trong đó, những
biểu hiện đầy chất cầu cúng ma thuật như trừ tà, cầu tài lộc thông qua hoạt động
hầu đồng kéo dài trong 3 tháng tổ chức lễ hội ở Phủ Dầy, Nam Định.
122
Cùng với Đạo giáo và Phật giáo, thì Nho giáo cũng có ảnh hưởng không
nhỏ đến tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ. Tuy nhiên, khác với Phật giáo và Đạo giáo,
Nho giáo không tác động trực tiếp đến Đạo Mẫu, mà nó ảnh hưởng một cách
gián tiếp thông qua những hình thức biểu hiện khác nhau. Đặc biệt là trong lễ hội
Phủ Dầy, hình thức biểu hiện có ảnh hưởng của Nho giáo là thông qua nghi lễ
kéo chữ. Nội dung chữ được xếp gắn liền cầu mong cho đất nước phát triển,
cuộc sống được thái bình hạnh phúc như: Thiên Hạ Thái Bình, Quốc Thái Dân
An… Đây chính là nội dung tư tưởng mà Nho giáo cũng như các nhà Nho đều
mong ước, họ phải cố gắng tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, để cho thiên hạ
thái bình, đời sống no đủ, thịnh vượng.
Ngoài ra, các tín ngưỡng dân gian truyền thống cũng là một trong những
nhân tố quan trọng tác động đến tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ và lễ hội Phủ Dầy.
Bản thân Đạo Mẫu được hình thành trên nền tảng tục thờ Nữ thần của tín
ngưỡng dân gian. Từ tục thờ đó rồi phát triển thành tín ngưỡng thờ các thần Mẫu
rồi hội nhập với các tôn giáo ngoại lai (Phật, Đạo giáo) mà hình thành tín
ngưỡng thờ Tam Tứ phủ. Vậy, trước khi trở thành Đạo Mẫu có hệ thống bài bản
tương đối chặt chẽ, thì nguồn gốc tín ngưỡng dân gian đã rõ. Lễ hội Phủ Dầy
cũng chịu sự tác động và gắn bó mật thiết với các tín ngưỡng và lễ hội dân gian
truyền thống. Các bước tiến hành lễ hội của lễ hội Phủ Dầy không khác so với lễ
hội dân gian khác. Hay nói theo cách khác, chính các nghi thức, trình tự của lễ
hội dân gian đã ảnh hưởng, tác động trực tiếp tới lễ hội Phủ Dầy. Các loại hình
tín ngưỡng dân gian như: cầu mùa, thờ cúng tổ tiên, thành hoàng làng, thờ các
hiện tượng tự nhiên… đã tác động đến nội dung của tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ
và lễ hội Phủ Dầy.
Hệ quả của nhân tố tôn giáo - tín ngưỡng tác động đến lễ hội thờ Phủ Dầy
là tạo ra sự tích hợp, đan xen giữa các loại hình tôn giáo ngoại lai, tín ngưỡng
bản địa với tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ. Từ đó tác động trực tiếp đến nội dung
thực hành, nghi thức tâm linh của lễ hội Phủ Dầy.
4.1.3. Nhân tố chính trị - hệ thống quản lý nhà nước
Đây là nhân tố quan trọng quyết định đến sự phát triển thăng trầm của các
tôn giáo, tín ngưỡng nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ nói riêng, trong
123
đó có lễ hội gắn liền với nó. Nếu như trong thời phong kiến, nhiều khi nhà nước
không kiểm soát, quản lý được sẽ sử dụng những tôn giáo hay tín ngưỡng khác
để triệt phá lẫn nhau. Tích truyện về cuộc đại chiến Sùng Sơn, Thanh Hóa là
mâu thuẫn đỉnh điểm giữa tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ với hệ thống chính trị, cụ
thể ở đây là vị Thần chủ Liễu Hạnh. Sự tích như sau:
Khi mãn hạn tội được về trời, không chịu được với thời gian hạnh
phúc quá ư ngắn ngủi, Liễu Hạnh xin vua Trời, một lần nữa được
giáng sinh. Nàng cùng hai thị nữ về vùng Phố Cát (Thanh Hóa). Ở
đây, Tiên chúa tiếp tục hiển linh với nhiều trò trêu ghẹo, trừng phạt
người đời. Triều đình cho là yêu quái, đem quân lính đến tiễu trừ,
nhiều lần bị Tiên chúa đánh cho thảm bại. Vua phải cầu một đạo sĩ là
Tiền quân Thánh cầm quân chống cự ở núi Sòng (Thanh Hóa). Trận
đánh diễn ra ác liệt, gọi là Sùng sơn đại chiến. Tiền quân Thánh phải
dùng mẹo mới thắng được [53, tr.7].
Mâu thuẫn được hóa giải, tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ lại phát triển mạnh,
lễ hội Phủ Dầy và các hoạt động lên đồng vẫn được diễn ra. Không những thế,
sau sự kiện này, tín ngưỡng và lễ hội Phủ Dầy còn phát triển mạnh hơn, hệ thống
được hoàn thiện, đầy đủ và chặt chẽ hơn.
Sang thời hiện đại, một thời gian dài, hệ thống chính trị, quan điểm của
Đảng và Nhà nước không ủng hộ/khuyến khích cho các loại hình tôn giáo, tín
ngưỡng phát triển. Đôi lúc còn cấm đoán, và cho rằng đó là “mê tín, dị đoan”.
Chính vì vậy, bản thân tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ không được phát triển, lễ hội
Phủ Dầy cũng vì thế không được tổ chức, các nghi thức hầu đồng gắn với lễ hội
cũng bị cấm đoán nghiêm ngặt. Chính nhân tố chính trị - quản lý nhà nước đã tác
động trực tiếp đến các hoạt động tín ngưỡng nói chung và lễ hội nói riêng.
Sau Cách mạng tháng 8 - 1945 cho đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX,
nhiều lễ hội ở Việt Nam nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng đã bị hạn chế tổ
chức. Một phần do đất nước rơi vào hoàn cảnh chiến tranh (hai cuộc kháng chiến:
chống Pháp 1946 - 1954, chống Mỹ 1954 - 1975), nên các loại hình tôn giáo tín
ngưỡng và lễ hội gắn liền với nó gần như không có hoạt động gì nổi bật. Sau chiến
124
tranh chống Mỹ, đời sống kinh tế khó khăn, hơn nữa Đảng và Nhà nước lại vận
dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin đặt nền tảng, kim chỉ nam cho mọi
hoạt động của đời sống xã hội. Chính vì vậy mà các tôn giáo - tín ngưỡng cùng
như lễ hội lại càng bị hạn chế phát triển. Những hoạt động tín ngưỡng dân gian
trong đó có tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ và lễ hội Phủ Dầy còn bị coi là “mê tín, dị
đoan”, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống văn hóa, nhất là các hoạt động hầu đồng.
Quan điểm này của Đảng và Nhà nước đã tác động không nhỏ đến hoạt động của
các lễ hội ở Việt Nam, trong đó có lễ hội Phủ Dầy. Sau nhiều năm bị cấm đoán,
hạn chế như vậy, bản thân các nghi thức, lễ tiết, bài bản cũng như các đồ nghi
trượng trong lễ hội bị lãng quên, mai một, mất mát. Điều đó, cũng gây ra những
khó khăn nhất định cho công việc phục dựng lại lễ hội sau này.
Kể từ đầu những năm 1990 cho đến nay, quan niệm của xã hội có nhiều
thay đổi, hệ thống chính trị - quản lý xã hội cũng có cái nhìn tích cực, thiện cảm
với các hoạt động của tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội nói chung và tín ngưỡng thờ
Mẫu Tứ phủ, lễ hội Phủ Dầy nói riêng. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã
đưa ra quan điểm: “xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc” là một căn cứ quan trọng để cho các hoạt động văn hóa tâm linh
được phục hưng. Lễ hội Phủ Dầy mặc dù đã được tái tổ chức từ năm 1994,
nhưng về danh nghĩa/chính danh pháp lý hợp thức hóa sau Nghị quyết này.
Trong nhiều năm qua, để quản lý chặt chẽ hơn, các cơ quan như Ban Tuyên giáo
Trung ương, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch cũng ban hành nhiều quy chế [13],
Chính phủ cũng ban hành Nghị định trong việc tổ chức và quản lý các hoạt động
của tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội. Chính vì vậy bản thân lễ hội Phủ Dầy vẫn một
mặt hoạt động công khai, phát triển; nhưng mặt khác cũng chịu sự chi phối từ
những sách và văn bản pháp quy của Nhà nước (tức hoạt động trong khuôn khổ,
quy định của pháp luật).
Hệ quả tác động của nhân tố chính trị - hệ thống quản lý nhà nước tới lễ
hội Phủ Dầy là sự định hướng, đảm bảo lễ hội vừa mang giá trị văn hóa, tác động
tích cực tới đời sống cộng đồng; vừa vận hành trên cơ sở tôn trọng quan điểm
của Đảng, Nhà nước và pháp luật.
125
4.1.4. Nhân tố kinh tế
Các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội ở Việt Nam luôn được xã hội
coi trọng. Để đảm bảo các hoạt động của tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội thì kinh tế
là một nhân tố tiên quyết đảm bảo sự vận hành của cả một hệ thống nghi lễ. Ở
mức độ kinh tế khác nhau thì quy mô, cách thức tổ chức các hoạt động cũng sẽ
khác nhau. Nếu đời sống kinh tế khó khăn, nguồn kinh phí hạn hẹp việc tổ chức
các hoạt động của tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội sẽ được bó hẹp, thu nhỏ, các tiết lễ
cũng đơn giản, tiết kiệm hơn để phù hợp với nguồn tiền hiện có. Nếu đời sống
kinh tế phát triển, nguồn kinh phí lớn, việc tổ chức các hoạt động của tôn giáo,
tín ngưỡng, lễ hội sẽ được mở rộng với quy mô lớn, các lễ tiết, nghi thức sẽ đầy
đủ, bài bản hơn. Có “phú quý” thì mới “sinh lễ nghĩa”, câu nói của người xưa
vẫn luôn đúng cho trường hợp thực hiện các hoạt động tâm linh ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, ở Việt Nam mối quan hệ giữa kinh tế với các hoạt động tôn
giáo, tín ngưỡng, lễ hội luôn mật thiết và diễn ra hai chiều. Kinh tế tạo nguồn
lực, tác động làm nảy sinh, phát triển các hoạt động của lễ hội; nhưng, chính lễ
hội khi phát triển đến độ hoàn thiện lại tạo ra nguồn thu cho kinh tế phát triển.
Mối quan hệ tương hỗ này chính là điều kiện để duy trì, phát huy, phát triển các
giá trị của lễ hội nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng. Vào những năm đầu thời
kỳ đổi mới, lễ hội Phủ Dầy được đầu tư hàng chục tỉ đồng cho công tác phục
dựng. Mặc dù sau vài năm hoạt động vẫn còn nhiều vấn đề tiêu cực phát sinh,
nhưng về cơ bản những lễ nghi, hạng mục chính của lễ hội vẫn được thực hiện
đầy đủ. Cho đến những năm gần đây, lễ hội Phủ Dầy đã được tổ chức bài bản,
chặt chẽ, đáp ứng nhu cầu một lượng khách lớn hành hương tới lễ Thánh. Các
khâu tổ chức lễ hội đã được khớp nối thành công, ban quản lý được phân công
nhiệm vụ cụ thể và vận hành hiệu quả. Chính vì vậy hàng năm sau mỗi mùa lễ
hội, Phủ Dầy thu về hàng chục tỉ đồng từ tiền khách thập phương công đức, hoặc
các ông đồng bà đồng đóng góp sau những giá hầu Thánh.
Nhờ có nguồn thu ổn định sau mỗi mùa lễ hội và các hoạt động khác trong
năm, Phủ Dầy lại cho tiếp tục tái đầu tư vào cơ sở hạ tầng như: đường xá, cầu
cống…, các công trình kiến trúc luôn được nâng cấp, tu sửa, thậm chí xây mới.
126
Ngoài ra những công trình kiến trúc, các hạng mục kiến trúc dịch vụ khác cũng
được quy hoạch đầu tư. Quần thể kiến trúc của Phủ Dầy hiện nay đã trở nên
khang trang, đáp ứng cả về không gian hành lễ lẫn phục vụ nhu cầu tham quan.
Việc có nguồn thu từ công đức của khách thập phương, Phủ Dầy không chỉ tái
đầu tư cho xây dựng các công trình cơ bản, hay mua sắm trang thiết bị, nghi
trượng phục vụ nhu cầu thờ cúng và tổ chức lễ hội, mà còn đóng góp vào ngân
sách của địa phương.
Từ đó tạo nên sự tác động hai chiều giữa nhân tố kinh tế với lễ hội Phủ
Dầy. Từ sự cho phép và nguồn đầu tư ban đầu của chính quyền tỉnh Nam Định,
huyện Vụ Bản, tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ và lễ hội Phủ Dầy có cơ hội tái hoạt
động và phục dựng trở lại. Các nguồn thu từ việc công đức hoặc xã hội hóa
thông qua các hoạt động tín ngưỡng và lễ hội lại tiếp tục tái đầu tư và đóng góp
vào ngân sách cho chính quyền địa phương. Đây là những ảnh hưởng của tác
nhân kinh tế tới các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội nói chung và lễ hội
Phủ Dầy nói riêng.
Hệ quả của nhân tố kinh tế tác động đến lễ hội Phủ Dầy là tạo nguồn thu
tài chính cho địa phương, vừa là để vận hành bộ máy hoạt động, vừa là để tái đầu
tư cơ sở hạ tầng, kiến trúc… và các hoạt động tâm linh khác. Tuy nhiên, bên
cạnh mặt tích cực, nhân tố kinh tế luôn có những mặt tiêu cực tác động đến lễ
hội thờ Mẫu Tứ phủ, đó là việc chạy theo lợi nhuận, trục lợi… mà quên đi ý
nghĩa, giá trị văn hóa tâm linh của lễ hội.
4.1.5. Nhân tố cộng đồng
Đây có thể được coi là một trong những nhân tố quan trọng nhất có sức
ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của mỗi tôn giáo, tín ngưỡng và lễ hội
không chỉ ở Việt Nam, mà cả đối với các nước trên thế giới. Bản thân các tôn
giáo, tín ngưỡng, lễ hội ra đời vì nhu cầu của cuộc sống cộng đồng. Chính cộng
đồng là nơi dung dưỡng, che chắn cho các tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội trong
những thời kỳ khó khăn và chính cộng đồng giúp cho tôn giáo có thể phát triển,
mở mang rộng rãi sức ảnh hưởng mỗi khi có điều kiện thuận lợi. Ngược lại,
chính tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội lại tác động tới đời sống của cộng đồng. Lễ hội
127
Phủ Dầy cũng chịu sự tác động mạnh mẽ của cộng đồng đến sự tồn vong và phát
triển của nó trong cuộc sống xã hội. Tuy nhiên, tác động của các nhóm cộng
đồng khác nhau thì tạo ra sức ảnh hưởng đậm nhạt khác nhau đến tín ngưỡng thờ
Mẫu Tứ phủ và lễ hội Phủ Dầy khác nhau. Vì vậy, có thể chia thành những
nhóm cộng đồng như sau:
+ Nhóm cộng đồng cư dân địa phương trực tiếp tham gia vào công việc
quản lý và vận hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ và lễ hội Phủ Dầy. Họ là những
cá nhân trực tiếp tham gia vào các hoạt động quản lý, thực hành nghi lễ và tổ
chức các nghi thức tín ngưỡng, lễ hội, như: Ban quản lý di tích, các thủ nhang
đồng đền, đội ngũ phục vụ hậu cần, bảo vệ… Trong đó, Ban quản lý di tích do
huyện Vụ Bản thành lập, để thay mặt Ủy ban nhân dân huyện, sở Văn hóa Thể
thao và Du lịch Nam Định... phân cấp quản lý các hoạt động nghi thức, lễ tiết, lễ
hội của Phủ Dầy và thu ngân sách về cho Ủy ban nhân dân huyện. Tuy nhiên,
theo điều tra thực tế, hoạt động của cơ quan quản lý này không mấy hiệu quả,
đôi lúc chỉ mang tính chất hình thức, chung chung và rất mờ nhạt. Chính vì vậy,
vai trò của một phần nhóm cộng đồng này không có tầm ảnh hưởng đến các hoạt
động tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ và lễ hội Phủ Dầy. Một phần của nhóm cộng
đồng này là các thủ nhang đồng đền (những người trực tiếp quản lý từng ngôi đề
trong quần thể di tích Phủ Dầy và những cá nhân làm công tác phục vụ, bảo vệ…
lại có ảnh hưởng rất lớn đến các sinh hoạt của tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ cũng
như lễ hội Phủ Dầy. Đây có thể coi là những cá nhân đóng vai trò trực tiếp điều
hành và tổ chức các sinh hoạt/hoạt động cụ thể của toàn bộ nghi lễ cũng như lễ hội
Phủ Dầy. Không những thế, họ cũng là người nắm nguồn thu kinh phí do khách
thập phương công đức, trực tiếp chi trả, trang trải những khâu vận hành liên quan
sinh hoạt hàng ngày và tổ chức xây dựng, tu sửa ngôi đền. Cùng với đó, chính
những thủ nhang đồng đền, người phục vụ, bảo vệ… là người đứng ra cùng với
ban quản lý, chính quyền cung cấp kinh phí để tổ chức lễ hội Phủ Dầy. Tổ chức
phát động, khuyến khích người dân trong vùng tham gia vào công việc này.
+ Nhóm cộng đồng cư dân địa phương tham gia gián tiếp vào các tổ chức
hoạt động của lễ hội Phủ Dầy. Đó là những người dân địa phương tham gia vào
128
các khâu dịch vụ xung quanh ngôi đền, phục vụ cung cấp và đáp ứng những đồ
lễ hay hàng hóa cần thiết cho nhu cầu của khách thập phương tới hành lễ. Bên
cạnh đó là những người dân địa phương tham gia trực tiếp các nghi thức rước
kiệu hay kéo chữ cũng như các hoạt động khác trong những ngày chính của lễ
hội. Nhóm cộng đồng dân cư này là nhân tố quan trọng tác động đến lễ hội.
Chính họ là những cá nhân là lễ hội có sức sống và duy trì nó trải qua thời gian
và thăng trầm của lịch sử. Người dân địa phương chính là đối tượng chủ thể/chủ
nhân của các lễ hội dân gian truyền thống nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng.
Những giá trị truyền thống, bài bản, nghi thức… của lễ hội Phủ Dầy được học
tập, đúc kết, hoạt động và trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Họ là người
bảo lưu những giá trị của lễ hội Phủ Dầy trong cuộc sống hiện tại và tương lai.
Có thể nói, nếu không có sự tham gia đóng góp công sức của nhóm cộng đồng
này, lễ hội Phủ Dầy khó lòng mà phục dựng được sau nhiều năm gián đoạn.
Hoặc sẽ thất bại nếu nhóm cộng đồng cư dân này không trở thành chủ nhân/chủ
thể của lễ hội ở Phủ Dầy. Không những thế, chính người dân địa phương hoạt
động ở khâu cung cấp các dịch vụ là một khâu mắt quan trọng của tín ngưỡng
thờ Mẫu Tứ phủ nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng. Họ là nhân tố đem lại sự
đa dạng, đáp ứng tại chỗ những nhu cầu cần thiết của khách hành hương. Không
có họ và công việc của họ chắc chắn lễ hội Phủ Dầy sẽ kém hấp dẫn, không thu
hút khách hành đến với bản đền. Vậy, có thể khẳng định cộng đồng cư dân địa
phương nói chung (bao gồm cả nhóm tham gia trực tiếp và nhóm tham gia gián
tiếp) là nhân tố quan trọng tác động mạnh mẽ đến các hoạt động lễ hội Phủ Dầy.
Họ là chủ thể/chủ nhân quyết định trực tiếp đến sự tồn tại hay mất đi của lễ hội
Phủ Dầy.
+ Nhóm cộng đồng cư dân - khách thập phương là nhân tố quyết định đến
quy mô và tên tuổi của lễ hội Tứ phủ đối với đời sống xã hội. Việc khách thập
phương tham gia hành hương, tham quan làm lễ, cầu may, buôn may bán đắt,
cầu đỗ đạt, thăng quan tiến chức, cầu sức khỏe, bình an… đã làm cho bản thân
tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ và lễ hội Phủ Dầy có vai trò nhất định đối với đời
sống cộng đồng xã hội. Riêng đối với lễ hội Phủ Dầy, khách thập phương đã làm
129
nên không khí sôi động trong những ngày diễn ra các nghi thức quan trọng.
Không khí đông vui, sôi động này không chỉ diễn ra trong những ngày chính
tiệc, mà còn diễn ra trong cả ba tháng mùa xuân. Chính sự đông đúc của khách
thập phương lại càng tăng thêm sự thiêng liêng, uy tín của tín ngưỡng thờ Mẫu
Tứ phủ và lễ hội Phủ Dầy. Không những thế, khách thập phương đến lễ đông,
chính là tạo ra nguồn thu tài chính quan trọng từ việc công đức. Từ việc công
đức này, bản thân khách thập phương đem lại cho bản thân gia đình mình sự ổn
định về tâm lý, vững tin vào một tương lai tốt đẹp hơn. Các nhóm cộng đồng cư
dân địa phương có thêm nguồn thu nhập, vừa tái đầu tư cơ sở hạ tầng, kiến
trúc… vừa tạo thu nhập cho gia đình, làm giàu cho địa phương.
Trong nhóm cộng đồng cư dân là khách thập phương này, có một tiểu
nhóm các ông đồng, bà đồng tham gia các khóa lễ lớn, cụ thể là hầu đồng. Thành
phần xã hội/xuất thân của tiểu nhóm cũng rất đa dạng: người làm ăn kinh doanh,
người có căn cốt sau những biến cố của cuộc đời, người bị bệnh tật ốm đau… Vì
hầu đồng là một nghi thức đặc biệt quan trọng trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ
ở Việt Nam, đặc biệt là trong lễ hội Phủ Dầy lại càng rõ ràng hơn nữa. Chính các
giá hầu Thánh của các ông bà đồng tạo nên một đặc trưng riêng có của Đạo Mẫu.
Theo Ngô Đức Thịnh, thì “các vị Thánh nhập hồn vào thân xác của các Ông
Đồng, Bà Đồng là để làm việc thiện: chữa bệnh, trừ ma tà, mang lại phúc lộc cho
mọi người” [115, tr.219]. Chính vì sức linh ấy, các ông đồng bà đồng đã thu hút
không chỉ những người đi theo mình hành lễ, mà còn thu hút cả khách thập
phương tham gia vào các nghi lễ này. Có thể nói, chính các hoạt động của các ông
bà đồng là nhân tố ảnh hưởng, đóng một vai trò không nhỏ tới hoạt động của lễ
hội Phủ Dầy. Đi cùng với các nghi thức hầu đồng này, là giai điệu, lời ca của các
cung văn đã lôi kéo được khách hành hương đến đây tham gia vào không gian, tạo
nên không khí lễ hội sôi động hơn. Bên cạnh đó, nhóm những ông đồng bà đồng
này cũng tạo nên một nguồn thu quan trọng cho bản đền và địa phương. Việc tổ
chức một buổi hầu với các giá đồng khác nhau, ông đồng bà đồng phải đóng góp
cho nhà đền một khoản tiền, tùy vào mức độ tham gia, buổi hầu, vị trí hầu mà
đóng góp khác nhau. Vì vậy, nhóm cộng đồng khách thập phương cũng là nhân tố
quan trọng để minh chứng cho quy mô, tầm vóc, uy tín và sự thiêng liêng của lễ
130
hội Phủ Dầy đối với cộng đồng. Họ là người tạo nên sự đông vui và thể hiện nghi
lễ hầu bóng đặc thù của Đạo Mẫu nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng.
Hệ quả của nhân tố cộng đồng tác động đến lễ hội Phủ Dầy là tạo nên
không chỉ một không gian sinh hoạt tâm linh là tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ mà
chính họ trở thành chủ thể trong các hoạt động đó. Chính vì vậy, lễ hội Phủ Dầy
có thể vận hành, tổ chức được là nhờ vào nhân tố cộng đồng này. Hay nói theo
cách khác, nhân tố cộng đồng đã tạo nên lễ hội Phủ Dầy.
4.2. NHỮNG XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ BIẾN ĐỔI CỦA LỄ HỘI PHỦ DẦY
4.2.1. Xu hướng phát triển của lễ hội Phủ Dầy
Trong bối cảnh hiện nay, các lễ hội cổ truyền nói chung và lễ hội thờ Mẫu
Tứ phủ nói riêng đang chịu sự tác động mạnh mẽ của quan niệm và bối cảnh
kinh tế, chính trị, xã hội hiện nay. Chính vì vậy, bối cảnh đương đại cũng đặt ra
nhiều cơ hội và thách cho sự tồn tại, phát triển của lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ nói
chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng.
Khoảng 20 năm trở lại đây, do tình hình kinh tế Việt Nam phát triển,
chính trị ổn định và quan niệm xã hội có nhiều đổi mới, cởi mở hơn. Đặc biệt là
Việt Nam đang đi vào một thế giới mở, giao lưu quốc tế mạnh mẽ về mọi
phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Chính vì vậy, đời sống của
người dân về cơ bản được nâng lên, thay vì “ăn no, mặc ấm” thì nay phải “ăn
ngon, mặc đẹp” và thụ hưởng những nhu cầu tinh thần khác nhau, trong đó có
việc thỏa mãn nhu cầu tâm linh. Nói như vậy, không có nghĩa là phải cho đến
ngày nay, khi đời sống được nâng cao, vấn đề thỏa mãn nhu cầu tâm linh mới
được đặt ta. Mà, cần hiểu rằng, đây là một nhu cầu gắn liền với sự xuất hiện của
con người trong lịch sử. Tuy nhiên, ở những giai đoạn khác nhau mà nhận thức
cũng như nhu cầu thỏa mãn này cũng khác nhau.
Trong đời sống hiện nay, “phú quý sinh lễ nghĩa”, đời sống kinh tế được
nâng lên, nên thỏa mãn nhu cầu tâm linh nhằm cân bằng lại cuộc sống cũng là
điều hiển nhiên. Mặc dù về lý thuyết là như vậy, nhưng trong thực tế, khi kinh tế
phát triển, đời sống được nâng lên, bên cạnh những yếu tố tích cực thì nó cũng
có vô vàn những yếu tố tiêu cực khác. Các mối quan hệ xã hội trở nên phức tạp,
131
áp lực trong công việc gia tăng, niềm tin giữa người với người dần bị mất mát,…
con người tìm đến với tâm linh như một chỗ dựa về tinh thần, giúp lấy lại thăng
bằng và niềm tin trong cuộc sống.
Lễ hội cổ truyền nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng cũng đang chịu sự
tác động mạnh mẽ của bối cảnh thời đại. Một mặt, lễ hội Phủ Dầy đáp ứng nhu
cầu tâm linh của cộng đồng; nhưng mặt khác, lễ hội Phủ Dầy cũng tìm cách tồn
tại, biến đổi và phát triển cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Vì thế, lễ hội thờ Mẫu
Tứ phủ nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm
linh, cân bằng cuộc sống tinh thần thuần túy, mà nó còn đáp ứng những nhu cầu
bức thiết đặt ra trong xã hội hiện nay. Tất nhiên, không phải chỉ đến thời điểm
này, lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ mới đáp ứng những nhu cầu của thời cuộc, mà trong
quá trình vận động của mình, nó đã phải mang chức năng này đối với đời sống
con người. Cho đến nay, bên cạnh việc người dân đến với lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ
nói chung, lễ hội Phủ Dầy nói riêng để thay đổi không gian, cân bằng lại tâm lý
cuộc sống, thì cũng có rất nhiều người đến để cầu tai qua nạn khỏi (cầu khỏi
bệnh), cầu làm ăn buôn bán phát tài phát lộc, thăng quan tiến chức. Đây cũng là
vấn đề bức thiết luôn đặt ra trong mọi giai đoạn lịch sử Việt Nam mỗi khi không
có chiến tranh, cho đến ngày nay cũng không ngoại lệ.
Trường hợp lễ hội Phủ Dầy cũng gần gũi và tương đồng với các lễ hội cổ
truyền khác nói chung và lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ nói riêng. Bên cạnh những giá
trị, đặc điểm chung có tính chất phổ biến, thì lễ hội Phủ Dầy có những nét riêng,
nổi bật. Trong cộng đồng cư dân khắp nơi, người ta truyền tai nhau về tính linh
thiêng của Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở Phủ Dầy, chuyên phù hộ giúp con người các
việc: chữa bệnh và cầu tài lộc. Chính nét đặc thù, riêng có này đã khiến Phủ Dầy
và các sinh hoạt trong lễ hội của nó đã trở nên nổi tiếng không chỉ đối với người
dân vùng châu thổ sông Hồng, mà cả người dân trên cả nước.
Cho đến nay, mặc dù kinh tế phát triển, đời sống được nâng cao về chất
lượng, nhưng nó cũng đặt ra nhiều thách thức. Về hoạt động kinh tế: áp lực công
việc, rủi ro kinh doanh, “thương trường là chiến trường”…; chất lượng sống: ô
nhiễm môi trường, cây trồng vật nuôi bị đầu độc bằng hóa chất… những bất ổn
xã hội, sự sống của con người trở nên mong manh hơn bao giờ hết. Chính vì áp
132
lực, phức tạp như vậy, con người cần tìm đến chỗ dựa tinh thần, nhằm không chỉ
cân bằng về tâm lý mà còn đáp ứng nhu cầu giải quyết những bất ổn xã hội
thông qua các hoạt động cầu cúng tâm linh.
Căn cứ vào nhu cầu và bối cảnh thực tiễn, NCS xác định xu hướng vận
động của lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng như sau:
Thứ nhất, lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng
vẫn tiếp tục đóng vai trò vốn có của mình là truyền tải những giá trị văn hóa, tâm
linh truyền thống tới đời sống hiện tại. Đáp ứng nhu cầu văn hóa cơ bản của con
người, của cộng đồng trong các phương diện của đời sống xã hội. Điều này có
thể nhận thấy, sau nhiều năm gián đoạn bởi hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của dân
tộc, nhưng lễ hội Tứ phủ nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng được phục dựng,
tồn tại và phát triển.
Thứ hai, lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng vẫn
tiếp tục đáp ứng các nhu cầu tâm linh cụ thể tới cá nhân, gia đình, cộng đồng
như: cân bằng tâm lý cuộc sống, đem lại bình an, chữa được bệnh tật, ban phát
tài lộc… Những nghiên cứu về vấn đề này đã được Ngô Đức Thịnh nghiên cứu
và chỉ ra trong các công trình nghiên cứu về Đạo Mẫu của ông.
Thứ ba, nghi thức hầu đồng trong lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ nói chung và ở
lễ hội Phủ Dầy nói riêng vẫn là chủ đề hấp dẫn không chỉ với cộng đồng du
khách thập phương đến tham quan thuần túy, mà còn tạo ra sự hấp dẫn đặc biệt
đối với những cá nhân, gia đình và cộng đồng cư dân có nhu cầu, mục đích về
chữa bệnh, làm ăn kinh doanh… Qua mỗi giá hầu, không chỉ bản thân ông/bà
đồng có thể giao tiếp với thần linh, mà cả những người chứng kiến trong buổi
hầu đó cũng cảm nhận được việc đó. Từ đây, những lời cầu khẩn, mong muốn
của họ sẽ được gửi đến cho thần linh và được thần linh che chở, giúp đỡ, ban
phát tài lộc, giải được bệnh tật cho bản thân và gia đình họ.
4.2.2. Xu hướng biến đổi của lễ hội Phủ Dầy
Bên cạnh xu hướng phát triển có tính chất kế thừa từ lịch sử của lễ hội thờ
Mẫu Tứ phủ nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng, còn có xu hướng biến đổi
của nó trong bối cảnh hiện nay và tương lai. Chắc chắn rằng, để đáp ứng với nhu
cầu của thời đại, lễ hội Phủ Dầy không chỉ đáp ứng những nhu cầu đã được mặc
133
định như đã kể ở trên, mà nó cần phải mở rộng, phát triển về quy mô, chức năng
và vai trò tâm linh nữa.
Dự báo, các cơ sở thờ tự tâm linh của lễ hội tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ
nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng sẽ ngày càng chật chội và bị quá tải bởi
lượng người (cộng đồng thập phương) ngày càng đông lên không ngừng. Việc
mở rộng về quy mô lễ hội cũng như các công trình, khuôn viên di tích thờ cúng
ngày càng trở nên bức thiết. Hơn thế nữa, trình độ nhận thức của người dân
cũng có sự phân hóa khác nhau. Theo NCS, sự phân hóa này vừa mang lại sự
phát triển tiến bộ cho loại hình tín ngưỡng lễ hội này, nhưng cũng kéo lùi sự
tiến bộ phát triển, đôi khi gây ra những tác nhân tiêu cực tới đời sống văn hóa
tâm linh của người dân. Sự phân hóa về trình độ nhận thức của dân cư có thể
bóc tách thành nhiều nhóm. Tuy nhiên, trong khuôn khổ đề tài của luận án,
chúng tôi phân thành 3 loại nhóm cơ bản: Nhóm thứ nhất, là những người hiểu
biết rất rõ về các loại hình tôn giáo, tín ngưỡng với lễ hội gắn liền với nó, quy
luật hình thành, phát triển. Nhóm này hiện nay lại không có nhiều, họ chính là
người tham gia định hướng tâm linh, chỉ ra những giá trị đích thực của lễ hội
Phủ Dầy và dẫn dắt cộng động đến những hoạt động, nghi thức có chiều sâu
văn hóa, đảm bảo sự cân bằng cho đời sống tinh thần của cộng đồng. Nhóm thứ
hai, là những người hiểu biết và thực hành những hiểu biết đó một cách đúng
đắn, nhằm đảm bảo những nghi thức ứng xử trong lễ hội một cách đúng mực,
đem lại điều tốt đẹp cho bản thân và gia đình. Tuy nhiên, nhóm này cũng
không chiếm đa số. Nhóm thứ ba, là những người chỉ có niềm tin tâm linh,
nhưng thiếu hiểu biết, thường dẫn tới các hành xử tâm linh thái quá, gây nên
hậu quả tiêu cực, ảnh hưởng đến đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng, làm
mất đi nét đẹp, giá trị vốn có của lễ hội tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ nói chung
và lễ hội Phủ Dầy nói riêng. Rất tiếc, nhóm thứ ba này lại chiếm đa số trong
cộng đồng, nên hành động của họ thường dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng
trong lễ hội. Chính vì vậy, NCS cho rằng xu hướng biến đổi của lễ hội Phủ Dầy
sẽ diễn ra trên những mặt sau:
Thứ nhất, về quy mô của di tích và lễ hội sẽ ngày càng được mở rộng,
phát triển. Mở rộng về diện tích - không gian tổ chức lễ hội, mở rộng diện tích -
134
không gian của các nơi thờ cúng (kiến trúc). Phát triển về cơ sở hạ tầng nhằm
đáp ứng thuận tiện cho nhu cầu đi lại cũng như những đòi hỏi dịch vụ khác. Đặc
biệt lễ hội Phủ Dầy sẽ mở rộng về quy mô tổ chức, đáp ứng cho nhu cầu cộng
đồng tham dự các hoạt động nghi thức tâm linh.
Thứ hai, lễ hội cổ truyền nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng sẽ dần mất
đi các giá trị văn hóa tâm linh tốt đẹp, thay vào đó là những giá trị kinh tế thế tục
lấn át. Hay nói theo cách khác, vì lợi ích kinh tế mang tính thế tục đang làm
phương hại đến các giá trị tâm linh truyền thống. Chính vì vậy dẫn đến những
hành vi, ứng xử tiêu cực sẽ diễn ra trong các lễ hội cổ truyền và lễ hội thờ Mẫu
Tứ phủ, trong đó có lễ hội Phủ Dầy. Hiện nay, việc tuyển chọn người tham gia lễ
hội cũng không còn khắt khe như trước nữa, niềm tin vào thế giới tâm linh,
thiêng liêng cũng bị mai một đi bởi giá trị vật chất, kinh tế. Người cung cấp dịch
vụ lễ hội bất chấp đức tin thiêng liêng mà hành động trái đạo đức, thậm chí lố
lăng. Người thụ hưởng cũng vì bỏ đồng tiền ra chỉ mong muốn nhận được nhiều
tiền hơn mà quên đi giá trị văn hóa tinh thần. Và, xu thế này trong tương lai ngày
càng hiện hữu rõ rệt hơn nữa.
Thứ ba, lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng
không chỉ mở rộng về quy mô tổ chức, mà còn phải mở rộng về giá trị tín
ngưỡng tâm linh. Cụ thể là, ngoài việc đáp ứng nhu cầu tâm linh về chữa bệnh,
cầu tài lộc…, thì còn phát triển và mở rộng sang cả các lĩnh vực khác như: học
hành, thăng quan tiến chức, cầu con cái… Nói chung là đáp ứng nhiều hơn nữa
những nhu cầu khác nhau của đời sống xã hội. Xu hướng biến đổi này đang diễn
ra nhanh chóng trong không chỉ đối với lễ hội Phủ Dầy, mà còn đối với các hoạt
động của đời sống tâm linh ở Việt Nam nói chung.
Thứ tư, bên cạnh đáp ứng những nhu cầu có tính chất bề nổi, thế tục như
vậy, lễ hội Phủ Dầy cũng sẽ tự biến đổi theo hướng “tôn giáo hóa” để sớm bắt
nhịp với trình độ nhận thức ngày càng được nâng lên của người dân trong cộng
đồng. Thực chất, ngay trong thời kỳ định hình và phát triển, bản thân tín ngưỡng
thờ Mẫu Tứ phủ đã mang phẩm chất này, đáp ứng cho nhu cầu thời cuộc lúc bấy
giờ. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện đại và tương lai, tính chất này sẽ tiếp tục duy
trì, phát huy trong cuộc sống. Có lẽ đây chính là xu thế vận động và biến đổi
135
quan trọng của tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói
riêng trong thời gian tới.
Thứ năm, lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng
sẽ tiếp tục phát triển trên cơ sở tích hợp các loại hình tôn giáo tín ngưỡng khác
nhau trong bối cảnh đương đại và sau này. Cơ chế tích hợp, hỗn dung này đã
trở thành đặc trưng trong đời sống tâm linh của cộng đồng cư dân Việt Nam.
Nay, nó sẽ vẫn được tiếp tục vận động và biến đổi theo xu hướng này. Trong
cụm di tích Phủ Dầy không chỉ có sự kết hợp với Phật giáo, Đạo giáo, Nho
giáo, mà còn với nhiều loại hình tín ngưỡng dân gian khác. Theo chúng tôi,
trong tương lai, những công trình tâm linh khác sẽ tiếp tục mọc lên và hội hợp
với không gian này mà tạo nên sự đa dạng. Trên thần điện của tín ngưỡng thờ
Mẫu Tứ phủ đã tương đối chặt chẽ và bài bản, chúng ta sẽ bắt gặp những thần
linh khác được phối thờ… Quan điểm về xu hướng này, chúng tôi cho rằng nó
vừa mang yếu tố tích cực, vừa mang yếu tố tiêu cực. Tích cực vì chúng tôi coi
đây là sự phát triển, thích ứng với hoàn cảnh mới của một tín ngưỡng bản địa
Việt Nam. Không những thế nó cũng đáp ứng, thỏa mãn cho nhu cầu tâm linh
của con người trong tương lai. Tiêu cực vì chúng tôi coi đây là một sự phát
triển tự phát, thiếu đi những nền tảng tri thức nhất định. Điều này sẽ dễ dẫn đến
nhận thức sai lệch và nảy sinh những bất ổn trong đời sống văn hóa tín ngưỡng
của cộng đồng.
4.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ
TRỊ LỄ HỘI PHỦ DẦY TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG
Thông qua những đánh giá thực trạng, tác động và xu thế vận động, biến
đổi của lễ hội Phủ Dầy, chúng tôi xin đưa ra những vấn đề đang đặt ra với việc
bảo tồn, phát huy giá trị của lễ hội này trong bối cảnh đương đại và tương lai.
4.3.1. Vấn đề đặt ra đối với việc bảo tồn giá trị lễ hội Phủ Dầy
Trước hết, thực tế đang xảy ra nghịch lý giữa bảo tồn nguyên trạng hay
bảo tồn có phát triển. Nếu bảo tồn nguyên trạng sẽ dẫn đến việc giá trị văn hóa
đó sẽ không phát triển (thậm chí sẽ chết trong lòng cuộc sống hiện tại); nhưng,
nếu bảo tồn có phát triển sẽ dẫn đến việc giá trị văn hóa đã sẽ bị biến đổi, thậm
chí mai một và mất đi yếu tố nguyên gốc. Lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ nói chung và
136
lễ hội Phủ Dầy nói riêng cũng mang trong nó rất nhiều các giá trị văn hóa tâm
linh truyền thống. Tuy nhiên, các giá trị ấy cũng đang đứng trước những thách
thức về nghịch lý hay mâu thuẫn bảo tồn.
Tiếp theo đó, các giá trị của lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ nói chung và lễ hội
Phủ Dầy nói riêng cần được bảo tồn đang chịu nhiều tác động của đời sống kinh
tế, chính trị, xã hội đương đại. Sự tác động của thời đại đang làm mai một và mất
dần đi những yếu tố nguyên gốc của các giá trị trong lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ. Đặc
biệt là yếu tố hội nhập với những quan điểm khác nhau về cùng một vấn đề văn
hóa, đã làm nảy sinh những ý kiến trái chiều. Những ý kiến này đang tác động và
làm biến đổi mạnh mẽ các giá trị của lễ hội cổ truyền nói chung và lễ hội Phủ
Dầy nói riêng.
Bên cạnh đó, nguồn kinh phí dành cho việc bảo tồn các giá trị của lễ hội
Phủ Dầy cũng đang trở thành vấn đề bức thiết. Không có nguồn lực tài chính,
vấn đề bảo tồn chỉ được thực hiện bằng lời hứa hoặc trên giấy tờ. Tuy nhiên,
nguồn kinh phí lấy từ đâu ra, sau khi đầu tư bảo tồn rồi, có thu lại hoặc sinh lời
được không...? Luôn là những câu hỏi khó cho việc bảo tồn. Hơn nữa, nếu có
nguồn kinh phí rồi, vậy kinh phí đó của nhà nước hay của tư nhân? Hoặc, kinh
phí do nhà nước và nhân dân cùng đầu tư?...
Ngoài ra, chính sách bảo tồn cũng là một vấn đề luôn đặt ra với không chỉ
giá trị lễ hội Phủ Dầy nói riêng, mà cả đối với các giá trị văn hóa cổ truyền nói
chung. Vì, chính sách sẽ giúp chúng ta xác định rõ: đối tượng bảo tồn, phương
pháp/cách thức bảo tồn, nguồn lực bảo tồn và cách phân chia lợi ích từ công tác
bảo tồn đó (nếu có). Đặc biệt là cơ chế, chính sách và cách duy trì, vận hành sự
bảo tồn đó trong tương lai (hậu bảo tồn). Đây chính là vấn đề của nhà quản lý từ
cấp trung ương đến cấp cơ sở.
Cuối cùng, vai trò chủ thể và khách thể bảo tồn cũng là một vấn đề của lễ
hội thờ Mẫu Tứ phủ nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng. Ai sẽ là người đứng
ra thực hiện và duy trì việc bảo tồn? Chủ thể và khách thể bảo tồn này là những
ai? Chỉ khi chúng ta xác định được cụ thể đối tượng này cũng như chức năng,
vai trò của họ đối với lễ hội Phủ Dầy, thì mới bàn được chuyện bảo tồn. Hiện
nay, lễ hội Phủ Dầy ở Vụ Bản, Nam Định, công tác xác định chủ - khách thể bảo
137
tồn đang đặt ra thành vấn đề nhạy cảm. Sự tranh chấp giữa chính quyền địa
phương với nhân dân địa phương đã khiến cho việc xác định đối tượng cụ thể
không rõ ràng. Điều này đã dẫn đến việc phát triển tự phát của dân chúng, nên
việc bảo tồn các giá trị lễ hội Phủ Dầy sẽ khó có thể thực hiện được.
Cùng với những vấn đề chung đặt ra cho việc bảo tồn các giá trị của lễ hội
Phủ Dầy, thì cũng còn những vấn đề cụ thể đặt ra cho công tác này:
Trong công tác bảo tồn giá trị tín ngưỡng tâm linh của lễ hội thờ Mẫu Tứ
phủ nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng đang gặp rất nhiều khó khăn. Do quan
niệm của thời đại về giá trị tâm linh có những thay đổi rõ rệt. Việc bảo tồn giá trị
này sẽ khó xác định đâu là yếu tố nguyên gốc, đâu là yếu tố đã biến đổi, pha tạp.
Chưa kể đến việc, có nhiều yếu tố mới được đưa vào từ ngày mới phục dựng lại
(khoảng từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX).
Trong công tác bảo tồn giá trị giáo dục truyền thống lịch sử của lễ hội thờ
Mẫu Tứ phủ nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng cũng nảy sinh nhiều vấn đề.
Trong đó có việc, nhiều yếu tố không mang tính lịch sử rõ ràng, đó chỉ là truyền
thuyết dân gian. Bên cạnh đó, nhận thức của cộng đồng nói chung cũng rất hạn
chế, chưa kể là nhiều khi quay lưng lại với lịch sử. Chính vì vậy, việc bảo tồn giá
trị giáo dục truyền thống của lễ hội Phủ Dầy sẽ tập trung vào đâu, lấy văn bản
nào làm tài liệu gốc để phổ biến giáo dục?… Ngoài ra, giá trị này sẽ tập trung
vào giáo dục đối tượng nào?...
Trong công tác bảo tồn giá trị thẩm mỹ nghệ thuật của lễ hội Phủ Dầy,
đang đặt ra nhiều thách thức. Chất lượng của những sản phẩm nghệ thuật trong
tín ngưỡng và lễ hội Phủ Dầy cũng đang chịu nhiều tác động của đời sống hiện
đại. Cụ thể là trong điêu khắc, kiến trúc, trang phục, âm nhạc, vũ đạo… Nhiều
yếu tố mới được hội nhập từ nơi khác, nhất là trên nghệ thuật kiến trúc và điêu
khắc. Các công trình kiến trúc truyền thống đã được thay mới về chất liệu và
kiểu dáng, phong cách chạm khắc… Đây có lẽ là vấn đề mà chúng ta dễ nhận
thấy nhất về sự biến đổi trong giá trị thẩm mỹ nghệ thuật của lễ hội Phủ Dầy. Nó
cũng là vấn đề đặt ra nhiều thách thức đối với công tác bảo tồn các giá trị văn
hóa trong hoàn cảnh hiện nay.
138
Trong vấn đề bảo tồn giá trị kinh tế xã hội của lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ nói
chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng. Theo chúng tôi, đây là một vấn đề tế nhị khi
chúng ta đặt ra để bảo tồn. Theo lẽ thông thường, giá trị kinh tế xã hội của lễ hội
Phủ Dầy đã tự thân nó định hình, tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy, giá trị kinh tế xã hội này chính là vấn đề trao đổi “quà tặng” giữa con người
với thần linh và ngược lại. Nó thể hiện giá trị không chỉ vì đồng tiền vật chất
thuần túy, mà còn thể hiện giá trị tinh thần tác động tới mọi mặt của đời sống xã
hội. Vậy bảo tồn giá trị kinh tế xã hội ở đây chính là đảm bảo ý nghĩa tinh thần,
chứ không chỉ riêng giá trị vật chất. Để đảm bảo vấn đề kinh tế xã hội không bị
biến tướng thành việc trục lợi, làm phương hại đến các giá trị khác của lễ hội
Phủ Dầy.
Nói tóm lại, những vấn đề bảo tồn các giá trị của lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ
nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng kể trên chỉ mang tính chất cơ bản mà thôi.
Thực chất còn rất nhiều những vấn đề khác mà NCS chưa nhận thấy hết hoặc
chưa “lộ diện” trong nghiên cứu này.
4.3.2. Vấn đề đặt ra đối với việc phát huy giá trị của lễ hội Phủ Dầy
Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa luôn là bài toán giải quyết các mâu
thuẫn đầy nghịch lý. Bảo tồn thì khó phát triển vì làm biến đổi các giá trị; và
ngược lại, phát huy thì khó bảo tồn các giá trị nguyên gốc. Vì vậy, để vừa bảo
tồn và vừa phát huy chúng ta cần xác định các vấn đề đang được đặt ra trong bối
cảnh mới. Theo NCS, những vấn đề đặt ra cho việc phát huy giá trị lễ hội Phủ
Dầy gồm có:
Thứ nhất, vấn đề nền tảng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trong bối
cảnh hiện đại để cũng đặt ra cho việc phát huy các giá trị của lễ hội Phủ Dầy.
Đây là vấn đề đặt ra để chúng ta xác định môi trường phát huy các giá trị: tâm
linh tín ngưỡng, giáo dục truyền thống lịch sử, thẩm mỹ nghệ thuật, kinh tế xã
hội. Từ việc xác định được bối cảnh của môi trường để phát huy những giá trị
của lễ hội Phủ Dầy sao cho phù hợp với nhu cầu, hoàn cảnh trong những thời
điểm khác nhau. Nếu không nắm bắt được thực trạng nền tảng kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội, chúng ta sẽ phát huy giá trị lễ hội Phủ Dầy tới đời sống cộng
đồng sẽ không phù hợp, không hiệu quả.
139
Thứ hai, vấn đề phương pháp và cách thức phát huy các giá trị của lễ hội
Phủ Dầy trong đời sống văn hóa xã hội của cộng đồng cũng đặt ra hết sức bức
thiết. Việc lựa chọn phương pháp, cách thức phát huy phù hợp sẽ tạo ra tính hiệu
quả của các giá trị trong lễ hội Phủ Dầy tới đời sống cộng đồng cư dân, làm giàu
thêm kho tàng văn hóa truyền thống của dân tộc. Nếu lựa chọn phương pháp và
cách thức không phù hợp sẽ dẫn đến việc phát huy giá trị của lễ hội Phủ Dầy tới
cộng đồng không hiệu quả, thậm chí mang lại những hệ quả tiêu cực, ảnh hưởng
đến sự phát triển đời sống văn hóa nói chung của cộng đồng.
Thứ ba, vấn đề nguồn lực cũng đặt ra cho việc phát huy các giá trị của lễ
hội Phủ Dầy tới đời sống văn hóa cộng đồng. Nguồn lực ở đây bao gồm về con
người (tri thức, kinh nghiệm và công sức) và tài chính (tiền bạc, vật dụng, công
cụ…). Hai nhân tố này của nguồn lực đảm bảo cho việc phát huy giá trị của lễ
hội Phủ Dầy tới đời sống văn hóa cộng đồng có triển khai, thực hiện và thành
công hay không. Nếu thiếu một trong hai yếu tố này, việc phát huy sẽ trở nên rất
khó khăn hoặc có thể, không thực hiện được.
Thứ tư, yếu tố đồng thuận và nhất quán của cộng đồng cũng đặt ra vấn đề
phát huy những giá trị của lễ hội Phủ Dầy đối với đời sống văn hóa cộng đồng.
Sự đồng thuận này phải xuất phát từ thực tiễn cụ thể gắn liền với các lĩnh vực:
quản lý (người làm quản lý, lãnh đạo), khoa học (người làm nghiên cứu chuyên
môn) và thực hiện (người dân). Tức là phải có sự đồng thuận và nhất quán từ
trung ương đến địa phương, từ người làm công tác quản lý, nhà nghiên cứu đến
người dân. Không có sự đồng thuận, nhất quán này, việc phát huy các giá trị của
lễ hội Phủ Dầy sẽ không thể thực hiện, hoặc thực hiện không hiệu quả, theo kiểu
“đánh trống bỏ dùi” hay “đem con bỏ chợ”.
4.4. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VỀ GIẢI PHÁP BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ
TRỊ CỦA LỄ HỘI PHỦ DẦY
Căn cứ vào các vấn đề đặt ra cho việc bảo tồn các giá trị của lễ hội thờ
Mẫu Tứ phủ nói chung và lễ hội phủ Giầy nói riêng, NCS tạm đưa ra ba nhóm
khuyến nghị và giải pháp cơ bản: nhóm thứ nhất, gồm các giải pháp có tính chất
chung, liên quan đến các vấn đề bảo tồn tín ngưỡng - tôn giáo; nhóm thứ hai,
gồm các giải pháp cụ thể liên quan trực tiếp đến việc bảo tồn các giá trị của lễ
140
hội Phủ Dầy trong đời sống văn hóa cộng đồng. Nhóm thứ ba, gồm các giải pháp
liên quan đến việc phát huy các giá trị của lễ hội hội Phủ Dầy đối với đời sống
văn hóa cộng đồng. Bên cạnh đó, NCS còn dựa trên ý kiến của các chuyên gia
trong lĩnh vực này để đưa ra các khuyến nghị, giải pháp nhằm bảo tồn và phát
huy các giá trị của lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng.
4.4.1. Nhóm giải pháp bảo tồn chung
Thứ nhất, giải quyết mối mâu thuẫn, nghịch lý giữa bảo tồn và phát huy
giá trị bằng cách: lựa chọn những giá trị đặc thù (tinh hoa) để bảo tồn và thay đổi
những yếu tố không phù hợp với phát triển cho phù hợp với bối cảnh và nhu cầu
của đời sống hiện đại. Cụ thể hơn nữa, là chỉ bảo tồn và phát huy những giá trị
tinh hoa, thay đổi những yếu tố hạn chế, níu kéo phát triển. Chỉ có như vậy,
những giá trị của lễ hội Phủ Dầy mới tồn tại và phát triển bền vững trong đời
sống đương đại. Giải pháp này vừa đảm bảo tính nguyên gốc của giá trị, nhưng
đồng thời vẫn đảm bảo sự phát triển trong giai đoạn mới.
Thứ hai, các giá trị chịu sự tác động những quan niệm của thời đại: kinh
tế, chính trị, xã hội… Giải pháp đưa ra là, thay đổi những yếu tố lạc hậu, bổ sung
những quan điểm, tư tưởng tiến bộ của thời đại, làm giàu và làm phong phú, đa
dạng hơn nữa các giá trị lễ hội Phủ Dầy, thích ứng với đời sống vốn đang thay
đổi mạnh mẽ. Hơn nữa, cần đầu tư nghiên cứu, sưu tầm các nguồn tài liệu, làm
sáng rõ hơn nữa các giá trị nguyên bản, để từ đó có thể phân loại và chỉ ra những
yếu tố cốt lõi, tinh hoa để bảo tồn, và yếu tố tiêu cực để thay đổi hoặc loại bỏ.
Công tác nghiên cứu này, cần làm cẩn thận, bài bản trên cơ sở đối chiếu, so sánh,
đánh giá, phê phán tài liệu. Tranh thủ ý kiến của các chuyên gia đầu ngành trong
lĩnh vực này để tìm ra những ý kiến đồng thuận hoặc phù hợp nhất trong công
tác bảo tồn.
Thứ ba, giải pháp liên quan đến nguồn lực tài chính, đây là vấn đề nhạy
cảm và hết sức phức tạp. Bởi, muốn làm tốt việc bảo tồn các giá trị của lễ hội
Phủ Dầy, thì phải cần có nguồn đầu tư tài chính. Tuy nhiên, việc đầu tư này lại
thường xảy ra những mâu thuẫn về tỷ lệ đóng góp, đầu tư lúc ban đầu và nguồn
thu sau quá trình bảo tồn. Chính vì thế cần giải quyết những khúc mắc, mâu
thuẫn liên quan đến quyền lợi tài chính này. Để giải quyết được chuyện này, cần
141
xây dựng một bộ quy chế rõ ràng về quyền hạn, chức năng, nhiệm vụ, phân chia
đầu tư tài chính mà mức độ/phần trăm nguồn thu mà người đóng góp được
hưởng. Nếu là vốn đầu tư 100% của nhà nước cho bảo tồn giá trị của tín ngưỡng
lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ thì sau này các cơ quan nhà nước sẽ đứng ra quản lý và
nguồn thu sẽ gửi về ngân sách. Nếu, nhà nước góp một phần vốn nhất định, tư
nhân cũng đầu tư vào việc bảo tồn, thì nguồn thu sau này sẽ được chia theo tỷ lệ
đóng góp hoặc thỏa thuận giữa nhà nước và tư nhân. Nếu 100% vốn của tư nhân,
thì rõ ràng, tư nhân sẽ đứng ra quản lý - điều hành dựa trên luật và quy định của
nhà nước. Tất nhiên nguồn thu sẽ do tư nhân nắm giữ và trích lại theo phần trăm
để nộp về ngân sách nhà nước. Nếu là nguồn đầu tư xã hội hóa do người dân
đóng góp cho việc bảo tồn các giá trị của lễ hội Phủ Dầy, thì người dân sẽ đứng
ra quản lý - tổ chức - điều hành dựa trên luật pháp và quy định của nhà nước.
Nguồn thu tài chính cũng do người dân nắm giữ và trích phần trăm nhất định
đóng về ngân sách của địa phương. Nếu nguồn đầu tư dưới dạng “nhà nước và
nhân dân cùng làm”, thì nhà nước và nhân dân cùng đứng ra quản lý - tổ chức -
điều hành trên cơ sở phân công quyền hạn, chức năng, nhiệm vụ và nguồn lợi tài
chính cụ thể. Việc phân công này cần có những thỏa thuận chi tiết và được văn
bản hóa dưới dạng quy chế, rồi căn cứ theo đó mà thực hiện.
Thứ tư, liên quan đến phương pháp và chính sách bảo tồn các giá trị của
lễ hội Phủ Dầy, chúng tôi cho rằng đây là việc làm rất khó, đòi hỏi cá nhân hay
nhóm người trực tiếp thực hiện vừa phải có tâm nhưng đồng thời cũng phải có
tầm. Hơn nữa, thực hiện được việc này không chỉ một hay một vài cá nhân có
thể làm được, mà đòi hỏi công sức của rất nhiều người: từ nhà quản lý, nhà
chuyên môn đến người dân. Trong trường hợp này, vai trò của nhà chuyên môn
phải được đặt lên hàng đầu. Người làm chuyên môn sẽ là người nắm rõ nhất
ngóc ngách mọi vấn đề liên quan đến bảo tồn. Hơn nữa, họ lại có phương pháp,
kiến thức chuyên ngành… phương án bảo tồn đưa ra đã được phân tích kỹ
lưỡng những ưu và khuyết điểm; tích cực và tiêu cực để chọn những giải pháp
tối ưu nhất. Nhà quản lý trong vai trò này sẽ đánh giá dựa trên những quy định
về luật phát hiện hành và chỉ ra những giải pháp mâu thuẫn hay vi phạm quy
chế. Người dân sẽ cùng góp phần củng cố và hoàn thiện các giải pháp bảo tồn.
142
Hơn nữa chính người dân là nhân tố duy trì sự bảo tồn đó trong thực tế cuộc
sống. Họ là người quyết định việc bảo tồn các giá trị của lễ hội Phủ Dầy có
thành công hay không.
Cuối cùng, giải pháp cho đối tượng là chủ - khách thể bảo tồn các giá trị
của lễ hội Phủ Dầy. Trước hết, chủ khách thể ở đây chính là người dân, họ là
người sáng tạo, vận hành, duy trì ra lễ hội Phủ Dầy, nhưng đồng thời họ chính là
khách thể hưởng thụ những giá trị đó. Chính vì thế, đầu tư cho bảo tồn các giá trị
của lễ hội Phủ Dầy không chỉ thuần túy tập trung vào cơ sở hạ tầng, công trình
kiến trúc, phục dựng lại trang thiết bị…, mà còn phải đầu tư cho cả con người.
Việc đầu tư cho con người chính là nuôi dưỡng và bảo tồn tri thức, kinh nghiệm,
cách thức tổ chức, bài bản diễn xướng tâm linh truyền thống của lễ hội Phủ Dầy.
Đầu tư đúng đối tượng, chúng ta vừa bảo tồn đúng - hiệu quả các giá trị của lễ
hội Phủ Dầy, vừa không lãng phí nguồn lực tài chính.
4.4.2. Nhóm giải pháp bảo tồn cụ thể
Giải pháp trong việc bảo tồn các giá trị tín ngưỡng tâm linh của lễ hội
Phủ Dầy, chúng ta cần bảo tồn nguyên gốc các giá trị tinh hoa có tính chất cốt
lõi. Bằng cách, nghiên cứu, sưu tầm tài liệu gốc, cũng như khai thác tối đa tri
thức dân gian của những người cao tuổi tại địa phương. Những tài liệu thành
văn hay ký ức của người cao tuổi được đem đối chiếu so sánh và tìm ra những
đặc trưng tâm linh của lễ hội tín Phủ Dầy tại địa phương sở tại. Điều này cho
chúng ta khai thác và bảo tồn đúng hướng các giá trị tâm linh tích cực của loại
hình lễ hội - tín ngưỡng này trong cuộc sống. Nếu không khai thác và bảo tồn
đúng các giá trị tâm linh đích thực, chúng ta dễ bị lệch hướng và rơi vào yếu tố
tiêu cực, gây nên những hậu quả xấu cho cộng đồng. Cụ thể hơn nữa, nếu bảo
tồn sai sẽ đẩy các giá trị tín ngưỡng tâm linh thành “mê tín dị đoan”, đẩy cộng
đồng tin vào những yếu tố tiêu cực và có những hành động hay ứng xử phản
cảm trong đời sống xã hội.
Giải pháp trong việc bảo tồn giá trị giáo dục truyền thống lịch sử của lễ
hội Phủ Dầy. Theo chúng tôi, cần xác định và phân biệt rõ ràng những yếu tố
lịch sử và truyền thuyết và huyền thoại của lễ hội Phủ Dầy. Từ đó, thông qua
kênh tuyên truyền: trên loa phát thanh, tờ rơi, các ấn phẩm sách báo, mạng xã
143
hội, đặc biệt qua báo chí: báo giấy, báo mạng, phim tài liệu, phim khoa học… để
đưa tới cộng đồng người dân. Không những thế, tại địa phương, thông qua việc
học tập trên lớp của học sinh, các thầy cô giáo biến nội dung này thành các
chuyên đề để giảng dạy cho các em. Để các em thấy và phân biệt được những
yếu tố lịch sử, truyền thuyết đó. Chính các em học sinh là một kênh tuyên truyền
hiệu quả tới gia đình; và trong tương lại, các em lại là người tham góp vào việc
bảo tồn các giá trị nói chung của lễ hội Phủ Dầy và giá trị giáo dục truyền thống
lịch sử nói riêng.
Giải pháp bảo tồn giá trị nghệ thuật thẩm mỹ của lễ hội Phủ Dầy. Theo
chúng tôi, cần tranh thủ ý kiến của các nhà chuyên môn trong việc xây dựng,
phục dựng các yếu tố nghệ thuật kiến trúc cũng như trang phục và bài bản diễn
xướng tâm linh. Để đảm bảo tính đúng đắn, nguyên gốc và phù hợp với nội dung
tín ngưỡng tâm linh (đối tượng được thờ cúng). Trên cơ sở những sản phẩm hiện
hữu như vậy, chúng ta lý giải/giải mã/làm rõ những ý nghĩa biểu tượng của
đường nét, bố cục tạo hình, nội dung đồ án trang trí, hình thức điêu khắc tượng,
màu sắc và động tác nghệ thuật diễn xướng… Chỉ khi các ý nghĩa đó được lý
giải một cách hợp lý, khoa học thì giá trị nghệ thuật thẩm mỹ mới được bảo tồn
một cách đúng đắn và chính xác. Tuy nhiên, việc bảo tồn giá trị nghệ thuật thẩm
mỹ cũng nên tiếp nhận những tinh hoa của nghệ thuật đương thời, điều này để tự
làm mới mình trong quá trình phát huy - phát triển trong cuộc sống hiện đại.
Giải pháp bảo tồn giá trị kinh tế xã hội của lễ hội Phủ Dầy. Cần thiết loại
bỏ những quan niệm, tư tưởng trục lợi, làm giàu từ lễ hội Phủ Dầy cho cá nhân,
nhóm người. Mà, cần xác định, giá trị kinh tế xã hội là đảm bảo cuộc sống thịnh
vượng cho cả cộng đồng. Hãy coi đó là “quà tặng” của thần linh cho cộng đồng,
chính vì vậy cần tôn trọng để đảm bảo tính thiêng liêng vốn có của nó. Chỉ khi
giá trị vật chất được thần linh ban tặng cho cộng đồng được tôn trọng, thì đồng
tiền đó - giá trị vật chất đó mới đem lại cuộc sống hạnh phúc bền vững cho con
người. Hơn thế nữa, khi được tôn trọng, giá trị vật chất đó sẽ được mỗi cá nhân
coi trọng để sử dụng vào những mục đích tốt đẹp, cao cả, đúng đắn hơn trong
cuộc sống. Nếu giá trị vật chất ấy do thần linh ban tặng cho cộng đồng không
được tôn trọng, cá nhân trục lợi sẽ thường đem lại sự bất bình đẳng, mâu thuẫn
144
và nảy sinh những ý nghĩ tiêu cực. Đời sống cộng đồng sẽ chịu sự tác động tiêu
cực từ “mặt trái của đồng tiền” mà từ đó dẫn đến việc “mạnh ai nấy được”, cuộc
sống trở nên bon chen, giành giật, hạnh phúc ngắn ngủi và mất tính bền vững.
4.4.3. Nhóm giải pháp phát huy giá trị lễ hội Phủ Dầy
Căn cứ trên những vấn đề đang đặt ra cho việc phát các giá trị lễ hội
Phủ Dầy đối với văn hóa cộng đồng, chúng tôi tạm đưa ra những giải pháp cơ
bản sau:
Đối với vấn đề phát huy giá trị của lễ hội Phủ Dầy đối với đời sống văn
hóa cộng đồng trong bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…, cần phải chỉ
ra được hoàn cảnh cụ thể, thực trạng hiện nay. Muốn xác định được thực trạng
và hoàn cảnh cụ thể, chúng ta cần phải tiến hành đánh giá trên cơ sở nghiên cứu,
điều tra, thống kê hoặc tận dụng các kết quả nghiên cứu của các ngành khoa học
liên quan. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, số liệu điều tra… từ đó rút ra những
nhận định, kết luận và đưa đến kết quả cuối cùng. Kết quả nghiên cứu cuối cùng
về thực trạng đời sống hiện tại sẽ là nền tảng để chúng ta có thể triển khai và
phát huy những giá trị của lễ hội Phủ Dầy tới đời sống văn hóa cộng đồng hiệu
quả, đúng đắn và tạo được những hiệu ứng tích cực tới cuộc sống.
Đối với vấn đề phương pháp và cách thức thực hiện phát huy các giá trị
của lễ hội Phủ Dầy tới đời sống văn hóa cộng đồng. Giải pháp đưa ra là lựa chọn
phương pháp, cách thức thực hiện đúng đắn dựa trên hoàn cảnh thực tế và học
tập phương pháp thực hiện của các nước trên thế giới. Tuy nhiên, việc tiếp thu
những phương pháp của các nước trên thế giới cũng cần có biến đổi phù với
hoàn cảnh thực tế của Việt Nam. Để biến đổi những phương pháp học được,
cũng cần tranh thủ ý kiến của các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực cụ thể này. Hơn
nữa, chúng ta cũng không quên tận dụng tri thức dân gian, kinh nghiệm của
người cao tuổi… trong việc đưa ra phương pháp để phát huy. NCS cho rằng, đôi
khi, chính phương pháp phát huy các giá trị của lễ hội Phủ Dầy tới đời sống văn
hóa cộng đồng theo kinh nghiệm và tri thức dân gian lại đem lại hiệu quả tốt hơn
việc học tập các phương pháp, cách thức thực hiện từ nước ngoài. Bởi, nó phù
hợp với hoàn cảnh thực tế và tâm thức con người Việt Nam.
145
Vấn đề về nguồn lực để thực hiện phát huy các giá trị của lễ hội Phủ Dầy
đối với đời sống văn hóa cộng đồng. NCS cho rằng: đối với nguồn lực tài chính -
vật chất, cần được huy động từ nhiều nguồn từ ngân sách nhà nước đến tư nhân
hoặc cộng đồng (xã hội hóa). Để làm được điều này cần phải có cơ chế thực hiện
minh bạch, rõ ràng, công bằng và đảm bảo lợi ích cho các bên tham gia đóng góp
nguồn lực. Đối với nguồn lực con người, cần huy động người dân trong cộng
đồng tham gia, đặc biệt là nhóm cộng đồng cư dân tại địa phương. Sử dụng tối
đa tri thức, kinh nghiệm từ người già và sức khỏe, sự hăng hái nhiệt tình của
người trẻ. Để huy động nguồn lực này, cần phải đảm bảo việc tuyên truyền,
khuyến khích về vai trò và tầm quan trọng của mỗi cá nhân trong cộng đồng địa
phương khi tham gia lễ hội Phủ Dầy. Bên cạnh đó, phải tạo ra được môi trường
nhận thức về tâm linh, giá trị truyền thống văn hóa cho người dân, và lợi ích
được thụ hưởng, để họ tự nguyện tham gia.
Vấn đề đồng thuận xã hội để thực hiện phát huy các giá trị của lễ hội thờ
Mẫu Tứ phủ tới đời sống văn hóa cộng đồng. Theo NCS, cần có sự tham gia của
toàn bộ cộng đồng, xã hội; nhưng quan trọng nhất, vẫn là ba nhóm cơ bản: nhà quản
lý - nhà nghiên cứu - người dân địa phương. Trên cơ sở lấy ý kiến của cộng đồng
thông qua trưng cầu hoặc điều tra xã hội học; tổ chức gặp gỡ, thậm chí tọa đàm
hoặc hội thảo đối với ba nhóm cơ bản để tìm ra những ý kiến chung nhất cho việc
phát huy các giá trị của lễ hội Phủ Dầy đối với đời sống văn hóa cộng đồng. Trên cơ
sở đồng thuận về ý kiến giữa các bên, từ đó sẽ phân công nhiệm vụ, quyền hạn,
chức năng, quyền lợi được thụ hưởng và xây dựng bộ quy chế thực hiện chung.
Tiểu kết chương 4
Vai trò của lễ hội Phủ Dầy đồi với đời sống văn hóa cộng đồng được thể hiện
trên các phương diện: đáp ứng nhu cầu tâm linh của cộng đồng; cố kết cộng đồng,
tình làng nghĩa xóm; giáo dục truyền thống cộng đồng. Những vai trò đó của lễ hội
Phủ Dầy đã đảm bảo những nhu cầu cần thiết cho đời sống văn hóa của cộng đồng
người Việt Nam nói chung và người Việt ở châu thổ Bắc Bộ/sông Hồng nói riêng.
Những vai trò của lễ hội Phủ Dầy sẽ luôn song hành cùng cộng đồng cư dân trong
đời sống văn hóa của họ và sẽ tiếp tục được phát huy trong tương lai.
146
Những đặc trưng cơ bản của lễ hội Phủ Dầy như: gắn liền với đời sống
nông nghiệp lúa nước, mang đạm chất đa thần, mang tính cộng đồng cao, mang
nhiều nét lễ nghi cung đình và mang tính thời đại. Tất cả những đặc trưng đó, đã
làm nên một lễ hội Phủ Dầy có những đặc trưng chung của lễ hội dân gian
truyền thống Việt ở Bắc Bộ, nhưng đồng thời cũng có những dấu ấn riêng biệt,
đặc thù so với các lễ hội khác.
Những nhân tố: lịch sử, tôn giáo - tín ngưỡng, chính trị - hệ thống quản lý
nhà nước, kinh tế, cộng đồng đã có những tác động mạnh mẽ đến sự thay đổi các
giá trị của lễ hội Phủ Dầy. Việc nhận diện những nhân tố cụ thể này là rất cần
thiết, để chúng ta có thể chỉ ra được nguồn gốc, nguyên nhân của sự biến đổi của
các giá trị lễ hội Phủ Dầy trong lịch sử phát triển nói chung và bối cảnh đương
đại nói riêng. Những nhân tố này cho thấy sự tác động của nó tới lễ hội Phủ Dầy
và làm biến đổi các giá trị như thế nào. Những nhân tố này không chỉ tác động
đến các giá trị của lễ hội Phủ Dầy nói riêng, mà còn tác động mạnh đến các giá
trị của lễ hội dân gian truyền thống ở Việt Nam nói chung.
Nhận diện ra xu hướng phát triển, biến đổi của lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ nói
chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng là hết sức cần thiết. Để từ đó đưa ra được
những dự báo giải pháp bảo tồn và phát triển trong bối cảnh đương đại. Có thể
nhận thấy rằng: xu thế vận động, biến đổi của lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ luôn chịu
sự chi phối của giá trị truyền thống và những yếu tố, quan niệm mới của bối
cảnh thời đại. Xu thế vận động thích ứng với bối cảnh hiện đại luôn diễn ra và
trở thành tất yếu đối với các sinh hoạt văn hóa nói chung và hoạt động lễ hội Phủ
Dầy nói riêng.
Giải pháp bảo tồn và phát triển đổi với các giá trị của lễ hội Phủ Dầy luôn
cần phải có sự tham gia góp sức, chung tay của toàn bộ cộng đồng, trên nhiều
lĩnh vực, phương diện khác nhau của đời sống xã hội. Trong đó nổi bật lên sự
tham gia của nhóm ba nhà: nhà quản lý, nhà khoa học và người dân. Đặc biệt là
cần sử dụng nguồn nhân lực: sức người, sức của dựa trên cơ sở quy chế thỏa
thuận rõ ràng. Khi có được bộ quy chế vận hành dựa trên cơ sở đồng thuận của
toàn bộ cộng đồng, thì việc quản lý, tổ chức, vận hành lễ hội sẽ rất hiệu quả, bền
vững và đóng góp những giá trị tích cực cho cộng đồng xã hội.
147
KẾT LUẬN
Nghiên cứu và đánh giá những tác động/ảnh hưởng của lễ hội Phủ Dầy tới
đời sống văn hóa cộng đồng là một việc làm thiết thực và cấp bách trong bối cảnh
hiện Việt Nam hiện nay. Căn cứ trên những lập luận, số liệu thu thập được dưới
dạng định lượng và kết quả phỏng vấn sâu dưới dạng định tính, NCS xin đưa ra
những kết luận sau:
1. Những nghiên cứu của các học giả đi trước đã trở thành nền tảng khoa
học quan trọng vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn cao. Những nghiên
cứu ấy không chỉ cung cấp nền tảng lý luận, phương pháp nghiên cứu…, mà còn
cung cấp một khối lượng kiến thức, quan điểm nghiên cứu cho NCS thực hiện
nghiên cứu này.
Trên cơ sở những vấn đề đã được giải quyết, giải quyết chưa thấu đáo hoặc
thậm chí bỏ ngỏ…, đã được NCS khai thác, kế thừa và tìm ra những khoảng trống
cần tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu. Nền tảng tri thức nghiên cứu này đã trở thành bệ
đỡ quan trọng cho NCS thực hiện hiệu quả luận án với nội dung: đánh giá tác
động của giá trị lễ hội Phủ Dầy tới đời sống văn hóa cộng đồng và những tác động
của đời sống cộng đồng tới các giá trị của lễ hội Phủ Dầy trong bối cảnh hiện nay.
Qua những nghiên cứu của các học giả đi trước, NCS nhận thấy rằng chưa
có nhiều công trình đề cập, nghiên cứu đánh giá sự tác động, ảnh hưởng của lễ hội
Phủ Dầy đối với đời sống văn hóa cộng đồng. Đặc biệt là những giá trị của lễ hội
này ảnh hưởng tới đời sống văn hóa của các nhóm cộng đồng cư dân (nhóm cộng
đồng địa phương, nhóm cộng đồng khách thập phương). Chính vì thế, NCS đã
hướng nghiên cứu của mình vào vấn đề này.
2. Các khái niệm cơ bản về lễ hội, lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ… được xây dựng
cùng với hệ thống lý thuyết về lễ hội, đời sống văn hóa cộng đồng, giá trị văn hóa,
hiện tượng xã hội tổng thể. Trên cơ sở hệ thống khái niệm và lý thuyết này, khung
lý thuyết phân tích về sự tác động, ảnh hưởng của lễ hội Phủ Dầy tới đời sống văn
hóa cộng đồng được xác lập. Đó là mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại giữa
đời sống kinh tế - chính trị - xã hội với với lễ hội Phủ Dầy và đời sống văn hóa
cộng đồng.
148
Tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ được định hình trên cơ sở tín ngưỡng thờ Nữ
thần và Mẫu thần của dân gian Việt Nam truyền thống. Trải qua thời gian và cùng
với sự phát triển của xã hội, tục thờ thần Mẫu đã tích hợp tư tưởng tôn giáo đương
thời (Phật, Đạo, Nho) mà hình thành tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ. Đến thế kỷ
XVI, thần điện của tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ xuất hiện vị thần chủ Liễu Hạnh
và trở nên hệ thống, chặt chẽ và bài bản hơn. Lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ nói chung và
lễ hội Phủ Dầy nói riêng là sự kết tinh, biểu hiện rõ nét nhất của tín ngưỡng thờ
Mẫu này tới đời sống tâm linh cộng đồng.
Lễ hội Phủ Dầy được tổ chức có quy mô hoành tráng và hội tụ những bước
cơ bản của một lễ hội cổ truyền dân gian Việt Nam. Lễ hội Phủ Dầy, với các bước
cơ bản nói chung và các bước đặc thù nói riêng của lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ được
sáng tỏ. Đặc biệt nghi lễ hầu/lên đồng được coi là linh hồn, trung tâm, biểu hiện
đặc sắc của lễ hội Phủ Dầy. Từ đó tạo ra hệ thống vai trò, đặc trưng của lễ hội thờ
Mẫu Tứ phủ nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng tác động tới đời sống văn hóa
cộng đồng cư dân Việt ở vùng châu thổ sông Hồng và trên cả đất nước Việt Nam.
Lễ hội sinh ra từ nhu cầu của cộng đồng, đáp ứng nhu cầu của cộng đồng và từ đó
nó có những ảnh hưởng/tác động đến đời sống văn hóa của cộng đồng.
3. Lễ hội nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng luôn tạo ra các giá trị hoặc
hệ thống các giá trị đối với đời sống văn hóa cộng đồng. Lễ hội Phủ Dầy với các
giá trị của loại hình sinh hoạt tâm linh đã được chỉ ra một cách rõ ràng. Trong đó,
nổi bật lên là các giá trị cơ bản như: giá trị tín ngưỡng tâm linh, giá trị giáo dục
truyền thống lịch sử, giá trị thẩm mỹ nghệ thuật, giá trị kinh tế xã hội. Mỗi một giá
trị đóng một chức năng, vai trò khác nhau đối với đời sống văn hóa cộng đồng cư
dân. Nhưng tựu chung lại, các giá trị của lễ hội Phủ Dầy đã được tạo bởi/kết tinh
từ những nhu cầu, mong muốn, nhận thức chuẩn mực của cộng đồng cư dân Việt
Nam nói chung và người dân ở châu thổ sông Hồng nói riêng.
Các giá trị của lễ hội Phủ Dầy đã có tác động/ảnh hưởng tới các mặt cơ bản
đời sống văn hóa xã hội các nhóm cộng đồng cư dân (nhóm cư dân địa phương,
nhóm cư dân thập phương, nhóm cán bộ địa phương). Thông qua số liệu thống kê
và phỏng vấn sâu tại địa phương - nơi diễn ra lễ hội Phủ Dầy, cho thấy rằng, sự tác
149
động của các giá trị lễ hội tới mọi mặt đời sống của các nhóm cộng đồng cư dân là
có những khác nhau:
Đối với nhóm cộng đồng cư dân địa phương thì giá trị kinh tế xã hội đã tác
động rất mạnh mẽ tới đời sống của họ. Người dân nhóm cộng đồng địa phương đã
tổ chức các hoạt động cung cấp dịch vụ cho du khách thập phương trong lễ hội
Phủ Dầy. Việc cung cấp dịch vụ này đã tạo ra: thứ nhất, công ăn việc làm cho
cộng đồng cư dân địa phương; thứ hai, nó tạo ra nguồn thu nhập cho không chỉ
các hộ gia đình, mà còn cả nguồn ngân sách cho địa phương cấp xã, huyện. Hơn
thế nữa, chính số tiền thu được từ hoạt động lễ hội Phủ Dầy này còn được tái đầu
tư cho các công trình phúc lợi của địa phương như: điện, đường, trường, trạm....
Lễ hội Phủ Dầy cũng tác động tới đời sống sinh hoạt của nhóm các em học sinh
của địa phương trên nhiều phương diện khác nhau, đặc biệt là công việc học tập.
Tuy nhiên, con số khảo sát lại cho thấy những tác động/ảnh hưởng xấu của lễ hội
tới các em gần như ở mức độ rất thấp. Trong khi đó, nhu cầu tìm hiểu lịch sử
truyền thống, vui chơi giải trí, cố kết cộng đồng lại đóng một vai trò nhất định đối
với đời sống sinh hoạt của các em. Nhưng thực tế, những trường hợp cụ thể được
phỏng vấn sâu lại cho thấy được sự tác động, ảnh hưởng của lễ hội Phủ Dầy tới
đời sống sinh hoạt của các em và gia đình.
Đối với nhóm cộng đồng cư dân thập phương, các giá trị thờ Mẫu Tứ phủ
vẫn luôn đóng vai trò quan trọng tới đời sống văn hóa xã hội của họ. Tuy nhiên,
trong bối cảnh hiện nay, tâm thức, nhận thức và cách ứng xử của nhóm cộng đồng
cư dân này có nhiều thay đổi. Chính vì vậy những tác động của giá trị thờ Mẫu Tứ
phủ tới nhóm cộng đồng này cũng có nhiều mức độ khác nhau. Nhưng, căn cứ
trên số liệu cho thấy, các giá trị của lễ hội Phủ Dầy vẫn có tác động mạnh mẽ tới
đời sống của nhóm cộng đồng cư dân này.
4. Chỉ ra vai trò, đặc trưng của lễ hội Phủ Dầy đối với đời sống văn hóa
cộng đồng là hết sức cần thiết. Từ đó cho chúng ta nhận diện rõ ràng và sâu sắc
hơn lễ hội này trong đời sống văn hóa Việt Nam. Bên cạnh đó, còn nhận diện ra
những nhân tố làm biến đổi các giá trị của lễ hội Phủ Dầy, từ đó, có thể đánh giá
đúng và hiểu rõ bản chất của không chỉ riêng lễ hội Phủ Dầy, mà còn các lễ hội
truyền thống dân gian Việt Nam nói chung.
150
Nhận diện ra xu hướng phát triển, biến đổi của lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ
nói chung và lễ hội Phủ Dầy nói riêng là hết sức cần thiết. Để từ đó đưa ra
được những dự báo giải pháp bảo tồn và phát triển trong bối cảnh đương đại.
Có thể nhận thấy rằng: xu thế phát triển, biến đổi của lễ hội Phủ Dầy luôn chịu
sự chi phối của giá trị truyền thống và những yếu tố, quan niệm mới của bối
cảnh thời đại. Xu thế vận động thích ứng với bối cảnh hiện đại luôn diễn ra và
trở thành tất yếu đối với các sinh hoạt văn hóa nói chung và hoạt động lễ hội
Phủ Dầy nói riêng.
Giải pháp bảo tồn và phát triển đổi với các giá trị của lễ hội Phủ Dầy luôn
cần phải có sự tham gia góp sức, chung tay của toàn bộ cộng đồng, trên nhiều lĩnh
vực, phương diện khác nhau của đời sống xã hội. Trong đó nổi bật lên sự tham gia
của nhóm ba nhà: nhà quản lý, nhà khoa học và người dân. Đặc biệt là cần sử
dụng nguồn nhân lực: sức người, sức của dựa trên cơ sở quy chế thỏa thuận rõ
ràng. Khi có được bộ quy chế vận hành dựa trên cơ sở đồng thuận của toàn bộ
cộng đồng, thì việc quản lý, tổ chức, vận hành lễ hội sẽ rất hiệu quả, bền vững và
đóng góp những giá trị tích cực cho cộng đồng xã hội.
Nói tóm lại, những ảnh hưởng/tác động của lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ nói
chung và Phủ Dầy nói riêng tác động đến đời sống văn hóa cộng đồng ở mức độ
không nhỏ. Nó chi phối tới nhiều mặt, nhiều phương diện và đa chiều của đời
sống văn hóa xã hội trong bối cảnh hiện nay. Trong đó, vấn đề kinh tế nổi trội lên
như một tác nhân/nhân tố quyết định đến các mối quan hệ xã hội, sự dàng buộc
lẫn nhau giữa những người dân trong các nhóm cộng đồng. Điều đó, nó quy định
đến các mối quan hệ này và biến chúng trở nên nhạy cảm phức tạp. Sự biến của lễ
hội Phủ Dầy đã dẫn đến thay đổi sâu sắc về nhận thức, quan niệm của cộng đồng;
và ngược lại, cộng đồng lại tác động ngược trở lại làm lễ hội tiếp tục thay đổi để
thích ứng với bối cảnh mới. Vòng quay này vẫn đang tiếp diễn và trở nên phức tạp
hơn nữa trong tương lai nếu không có những nghiên cứu, biện pháp, quy chế, sự
thỏa thuận… trong quản lý, giám sát và minh bạch.
151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Duy Hùng (2016), "Những nhân tố tác động đến lễ hội thờ Mẫu Tứ
phủ ở Phủ Dầy", Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (381), tr.16-19.
2. Nguyễn Duy Hùng (2016), "Ứng xử của người dân trong lễ hội thờ Mẫu Tứ
phủ ở Phủ Dầy", Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (384), tr.14-15, 23.
3. Nguyễn Duy Hùng (2016), "Nhân tố tôn giáo - tín ngưỡng, cộng đồng trong lễ
hội thờ Mẫu Tứ phủ ở Phủ Dầy", Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (385),
tr.24-26.
4. Nguyễn Duy Hùng (2016), "Tính thiêng trong lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ ở Phủ
Dầy", Tạp chí Giáo dục nghệ thuật, (17), tr.11-12.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1951), Việt Nam văn hóa sử cương, Viện Khoa giáo Hiên Tân
Biên, Bốn Phương xuất bản, Sài Gòn.
2. Toan Ánh (1992), Tín ngưỡng Việt Nam (quyển thượng - quyển hạ), Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Toan Ánh (2005), Nếp cũ - Hội hè đình đám (quyển thượng - quyển hạ), Nxb
Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Ngô Bạch (2010), Nghi lễ thờ Mẫu văn hóa và tập tục, Nxb Thời đại, Hà Nội.
5. Bernard H. R.(2007), Các phương pháp nghiên cứu trong nhân học tiếp cận
định tính và định lượng, Nxb Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh, Thành phố Hồ Chí Minh (người dịch: Hoàng Trọng, Ngô Thị
Phương Lan, Trương Thị Thu Hằng).
6. Nguyễn Chí Bền (2013), Lễ hội cổ truyền của người Việt, cấu trúc và thành
tố, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Trần Lâm Biền (1990), “Quanh tín ngưỡng dân dã Mẫu Liễu và điện thờ”,
Tạp chí văn hoá nghệ thuật, (5), tr.42-45.
8. Trần Lâm Biền (1995), “Quanh không gian văn hóa/tâm linh - cây cối tại các
di tích kiến trúc Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (11+12),
tr.17-18, 80-84.
9. Trần Lâm Biền (1996), “Vài nét về hình tượng người phụ nữ qua kho tàng mĩ
thuật cổ”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (12), tr.56-60.
10. Trần Lâm Biền (2001), “Rắn trong văn hóa và tạo hình Việt Nam”, Tạp chí
Văn hóa Nghệ thuật, (1), tr.11-13.
11. Trần Lâm Biền (2003), Đồ thờ trong di tích của người Việt, Nxb Văn hoá
thông tin, Hà Nội.
12. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
Thành phố Hồ Chí Minh.
13. Bộ Văn hóa Thông tin (1994), Quy chế lễ hội, Hà Nội.
14. Lê Ngọc Canh (1996), “Hình tượng phụ nữ Việt Nam trong nghệ thuật múa”,
Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (12), tr.61-63.
153
15. Đinh Thị Vân Chi (Chủ biên) (2015), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về
đời sống văn hóa, môi trường văn hóa, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
16. Lê Thị Chiêng (2004), “Sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo nhìn từ một số điện thờ
tư gia ở Hà Nội”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (5).
17. Mai Thị Ngọc Chúc, Đỗ Thị Hảo (1984), Các nữ thần ở Việt Nam, Nxb Phụ
nữ, Hà Nội.
18. Đoàn Văn Chúc (2008), "Giá trị xã hội" (Social value), Trong cuốn: Bùi
Quang Thắng (Chủ biên), 30 thuật ngữ nghiên cứu văn hóa, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, tr.117-136.
19. Phan Hữu Dật (Chủ biên) (1992), Văn hóa lễ hội của các dân tộc ở Đông
Nam Á, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
20. Ngô Văn Doanh (2006), “Lễ vía bà Thiên Yana với tục thờ Mẫu của người
Chăm và người Việt”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, (2).
21. Vũ Dũng (2001), "Niềm tin của con người vào một thế giới khác", Tạp chí
Tâm lý học (5).
22. Vũ Dũng (2001), “Sự thoả mãn nhu cầu tinh thần qua hình thức sinh hoạt tôn
giáo tín ngưỡng”, Tạp chí Tâm lý học, (8).
23. Vũ Dũng (2001), “Một số khía cạnh tâm lý cần được quan tâm trong công tác
quản lý nhà nước về tôn giáo”, Tạp chí Quản lý nhà nước, (10).
24. Vũ Dũng (2002), “Niềm tin của con người vào lực lượng Thần Thánh (từ kết
quả nghiên cứu thực tiễn)”, Tạp chí Tâm lý học, (2).
25. Nguyễn Đăng Duy (2001), Văn hoá tâm linh, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
26. Nguyễn Đăng Duy (2001), Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam,
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Endruweit G. và Trommsdorff (2002), Từ điển xã hội học (Nguyễn Hữu
Tâm, Nguyễn Hoài Bão dịch từ tiếng Đức), Nxb Thế giới, Hà Nội.
29. Freud. S (2000), Nguồn gốc của văn hoá và tôn giáo, Nxb Đại học quốc gia,
Hà Nội.
154
30. Ninh Viết Giao (2001), “Nhân vật Hoàng Mười nhìn từ góc độ văn hóa dân
gian”, Tạp chí nghiên cứu Văn hóa dân gian, (4), tr.53-58.
31. Thanh Hà (1995), Âm nhạc hát Văn, Nxb Âm nhạc, Hà Nội.
32. Cao Đức Hải (2014), Quản lý lễ hội và sự kiện, Nxb Lao Động, Trường Đại
học Văn hóa Hà Nội, Hà Nội.
33. Hoàng Quốc Hải (2001), Văn hóa và phong tục, Nxb Văn hóa - Thông tin,
Hà Nội.
34. Đỗ Thị Hảo, Mai Thị Ngọc Chúc (1984), Các nữ thần Việt Nam, Nxb Phụ
nữ, Hà Nội.
35. Nguyễn Văn Hậu (1999), “Thế giới biểu tượng trong lễ hội cổ truyền”, Tạp
chí Văn hóa Nghệ thuật, (4), tr.27-31.
36. Nguyễn Văn Hậu (1999), “Biểu tượng phồn thực trong lễ hội nông nghiệp cổ
truyền Việt Nam và các nước Đông Nam Á”, Tạp chí Văn hóa Nghệ
thuật, (9), tr.68-71.
37. Nguyễn Duy Hinh (1996), Tín ngưỡng Thành Hoàng Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
38. Nguyễn Duy Hinh (2002), “Bàn về khái niệm phàm và thiêng”, Tạp chí
Nghiên cứu tôn giáo, (3).
39. Nguyễn Duy Hinh (2007), Một số bài viết về tôn giáo học, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
40. Nguyễn Duy Hinh (2007), Tâm linh Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa và
Viện Văn hoá, Hà Nội.
41. Lê Như Hoa (1985), “Xây dựng nếp sống xã hội chủ nghĩa trong lễ hội quần
chúng”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (3), tr.42-46, 55
42. Trương Sỹ Hùng (1992), “Mẫu Thoải, nữ thần nước tiêu biểu từ khởi thủy
Hùng Vương”, Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa dân gian, (2).
43. Trương Sỹ Hùng (Chủ biên) (2003), Mấy tín ngưỡng tôn giáo Đông Nam Á,
Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
44. Đỗ Hương (2000), “Hầu đồng từ góc nhìn sân khấu”, Tạp chí Văn hóa Nghệ
thuật, (4), tr.70-72.
155
45. Nguyễn Văn Huyên (1994), Việc thờ cúng các vị Thần bất tử ở Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
46. Nguyễn Văn Huyên (1995), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tập 1,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
47. Nguyễn Văn Huyên (1995), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tập 2,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
48. Kendall. L tuyển chọn (2007), Những phương pháp tiếp cận nhân học về tôn
giáo, nghi lễ và ma thuật, Bảo tàng lịch sử tự nhiên Hoa Kỳ và Bảo
tàng Dân tộc học Việt Nam (Tài liệu lưu hành nội bộ).
49. Trịnh Quang Khanh (2001), “Tín ngưỡng thờ Mẫu trong tâm thức loài người
nói chung, người Việt Nam nói riêng và lễ hội Phủ Giầy”, Tạp chí
Nghiên cứu Văn hóa dân gian, (4), tr.13-17.
50. Đinh Gia Khánh (1985), “Ý nghĩa xã hội và văn hóa của lễ hội dân gian”,
Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa dân gian, (1).
51. Đinh Gia Khánh (1992), “Tục thờ Mẫu và những truyền thống văn hóa dân
gian ở Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (5).
52. Đinh Gia Khánh, Lê Hữu Tầng (1993), Lễ hội truyền thống trong đời sống xã
hội hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
53. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Văn Ty (Chủ biên) (1990), Vân Cát thần nữ, Nxb
Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
54. Vũ Ngọc Khánh, Ngô Đức Thịnh (1991), Tứ bất tử, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
55. Vũ Ngọc Khánh (1993), Tín ngưỡng làng xã, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
56. Vũ Ngọc Khánh (2001) Đạo Thánh ở Việt Nam, Nxb Văn hoá thông tin,
Hà Nội.
57. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo (2002), Linh thần Việt Nam, Nxb Văn hoá
thông tin, Hà Nội.
58. Vũ Ngọc Khánh (2008), Tục thờ đức Mẫu Liễu, đức Thánh Trần (tháng 8 tiệc
cha, tháng 3 tiệc mẹ), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
156
59. Nguyễn Hồng Kiên (2001), “Vị thế và bản sắc địa - văn hóa của khu vực Phủ
Giầy”, Tạp chí nghiên cứu Văn hóa dân gian, (4), tr.22-31.
60. Trần Trọng Kim (1999), Việt Nam sử lược, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
61. Võ Hoàng Lan (2000), “Hầu đồng - một hình thức sinh hoạt sân khấu dân
gian”, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật (9), (195).
62. Nguyễn Quang Lê (1994), “Thử tìm hiểu mối quan hệ giữa lễ hội với các tín
ngưỡng dân gian”, Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa dân gian, (1).
63. Nguyễn Quang Lê (1996), Lễ hội cổ truyền, nội dung lịch sử và phương pháp
khai thác sử liệu, Luận án tiến sĩ khoa học lịch sử, Trường Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
64. Thu Linh, Đặng Văn Lung (1984), Lễ hội, truyền thống và hiện đại, Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội.
65. Nguyễn Thụy Loan (1997), “Tín ngưỡng tôn giáo và ca nhạc cổ truyền Việt
Nam”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (12), tr.76-79, 85
66. Nguyễn Thụy Loan (1998), “Tín ngưỡng tôn giáo và ca nhạc cổ truyền Việt
Nam”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (1+4+6), tr.64-67, 72-74, 86-91.
67. Nguyễn Đức Lữ (Chủ biên) (2000), Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở
Việt Nam, Trung tâm khoa học về tín ngưỡng và tôn giáo, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
68. Đặng Văn Lung (1991), Tam toà Thánh Mẫu, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
69. Đặng Văn Lung (1991), “Đôi điều về tín ngưỡng Mẫu Liễu”, Tạp chí Nghiên
cứu Văn hóa nghệ thuật, (3).
70. Đặng Văn Lung (2004), Văn hóa thánh Mẫu, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
71. Trần Ly Ly (2007), Múa lên đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu, Luận văn Thạc
sỹ Văn hóa học, Hà Nội.
72. Lê Hồng Lý (1984), “Mối quan hệ giữa hội lễ và nghệ thuật biểu diễn”, Tạp
chí Nghiên cứu Văn hóa dân gian, (4).
73. Lê Hồng Lý (2002), Di tích và lễ hội Tây Thiên - tiềm năng và triển vọng,
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
157
74. Lê Hồng Lý (2008), Sự tác động của kinh tế thị trường vào lễ hội tín ngưỡng,
Nxb Văn hoá thông tin và Viện Văn hoá, Hà Nội.
75. Nguyễn Ngọc Mai (1999), Trang phục trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hà Nội,
Luận văn Thạc sỹ Văn hóa dân gian, Hà Nội.
76. Marcel Mauss (2009), Khảo về quà tặng, Nxb Thế giới, Tạp chí Văn hóa
Nghệ thuật, Hà Nội.
77. McMillan, D. M. Chavis (1986), “Sence of Community: A Definition and
Theory”, American Journal of Community Psychology, (14), p.5.
78. Nguyễn Xuân Năm (2001), “Di tích thờ Mẫu ở Nam Định”, Tạp chí nghiên
cứu Văn hóa Dân gian, (4), tr.40-43.
79. Phạm Quang Nghị (2002), “Lễ hội và ứng xử của người làm công tác quản lý
lễ hội hiện nay”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 11, tr.3-7.
80. Trần Đăng Ngọc (2001), “Các kiến trúc tôn giáo và việc thờ tự tại quần thể di
tích phủ Giầy”, Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa dân gian, (4), tr.79-93.
81. Trần Việt Ngữ (1993), “Mấy ý kiến về góc độ sân khấu của hầu bóng”, Tạp
chí Văn hóa Nghệ thuật, (6).
82. Nhiều tác giả (1993), Hội nghị hội thảo về lễ hội, Kỷ yếu, Vụ Văn hóa quần
chúng và thư viện, Bộ Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
83. Nhiều tác giả (2000), Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân
tộc, Hà Nội.
84. Nhiều tác giả (2010), Quốc Mẫu Tây Thiên Vĩnh Phúc trong đạo Mẫu Việt
Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Vĩnh Phúc.
85. Nguyễn Quốc Phẩm (1998), “Góp phần bàn về tín ngưỡng dân gian và mê tín
dị đoan”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (11), tr.11-13.
86. Hoàng Tuấn Phê (1990), Bà chúa Liễu, Nxb Thanh Hóa, Thanh Hóa.
87. Hoàng Phê (2007), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học.
88. Phạm Quỳnh Phương (2001), “Theo bước chân của Vân Cát thần nữ”, Tạp
chí nghiên cứu Văn hóa dân gian, (4), tr.44-52.
89. Thạch Phương, Lê Trung Vũ (1995), 60 lễ hội truyền thống Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
158
90. Lê Xuân Quang (1996), Thờ thần ở Việt Nam, tập 1, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.
91. Lê Xuân Quang (1996), Thờ thần ở Việt Nam, tập 2, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.
92. Nguyễn Minh San (1996), Việc phụng thờ Mẫu Liễu ở Phủ Giầy, Luận án Phó
tiến sĩ Khoa học Lịch sử, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, Hà Nội.
93. Nguyễn Minh San (1990), “Văn hóa - du lịch Hà Nam Ninh - tiềm năng và
hướng khai thác”, Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật, (4), tr.16-20.
94. Nguyễn Minh San (1996), “Mẫu Liễu - Phủ Giầy trong bối cảnh các trung
tâm thờ Mẫu ở nước ta”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (4), tr.35-40.
95. Nguyễn Minh San (1996), Những nữ thần danh tiếng trong văn hóa tín
ngưỡng Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
96. Nguyễn Minh San (1998), Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam, Nxb Văn
hoá thông tin, Hà Nội.
97. Trần Đăng Sinh (2002), Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
98. Bùi Hoài Sơn (2009), Quản lý lễ hội truyền thống của người Việt, Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội.
99. Huỳnh Quốc Thắng (1998), “Xu hướng dân gian hóa các yếu tố lịch sử trong
lễ hội dân gian của người Việt ở Bắc Bộ”, Tạp chí Văn hóa Nghệ
thuật, (2).
100. Hà Đình Thành (1993), Phủ Tây Hồ, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
101. Bùi Đình Thảo (1996), Hát chầu văn, Nxb Âm nhạc, Hà Nội.
102. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh.
103. Trần Ngọc Thêm (2009), "Giá trị và sự chuyển đổi hệ giá trị văn hóa truyền
thống Việt Nam", Tham luận Hội thảo khoa học Bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong quá trình đổi mới và
hội nhập, Tổ chức ngày 29/9 tại Biên Hòa, Đồng Nai.
104. Bùi Thiết (1993), Từ điển hội lễ Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
159
105. Trương Thìn (Chủ biên) (1990), Hội hè Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
106. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên) (1992), Hát văn, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
107. Ngô Đức Thịnh (1996), Đạo Mẫu ở Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin,
Hà Nội.
108. Ngô Đức Thịnh (1996), Đạo Mẫu ở Việt Nam, Tập 2 (Các bản văn), Nxb
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
109. Ngô Đức Thịnh, Lê Hồng Lý (1997), “Về tín ngưỡng lễ hội và sự phát triển
của xã hội hiện nay”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (1), tr.35-39.
110. Ngô Đức Thịnh (1999), “Mấy nhận thức về lễ hội cổ truyền”, Tạp chí Văn
hóa Nghệ thuật, (11), tr.36-40.
111. Ngô Đức Thịnh (2001), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
112. Ngô Đức Thịnh (2001), “Những giá trị của lễ hội cổ truyền trong đời sống
xã hội hiện nay”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (3), tr.6-9.
113. Ngô Đức Thịnh (2001), “Nhận thức về đạo Mẫu và một số hình thức
Shaman của các dân tộc nước ta”, Tạp chí nghiên cứu Văn hóa dân
gian, (4), tr.3-8.
114. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên) (2004), Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong
các tộc người ở Việt Nam và Châu Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
115. Ngô Đức Thịnh (2008), Về tín ngưỡng và lễ hội cổ truyền, Viện Văn hóa và
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
116. Ngô Đức Thịnh (2010), Lên đồng, hành trình của thần linh và thân phận,
Nxb Trẻ (tái bản lần thứ nhất, có sửa chữa và bổ sung; cuốn sách xuất
bản lần đầu vào năm 2008), Hà Nội.
117. Ngô Đức Thịnh (2010), Đạo Mẫu ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
118. Ngô Đức Thịnh (2010), Tín ngưỡng trong sinh hoạt văn hóa dân gian, Nxb
Thời Đại, Hà Nội.
119. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên) (2013), Văn hóa thờ nữ thần - Mẫu ở Việt Nam
và châu Á bản sắc và giá trị, Nxb Thế giới, Hà Nội.
160
120. Hồ Đức Thọ (2004), Huyền tích Thánh Mẫu Liễu Hạnh và di sản văn hoá -
lễ hội phủ Dầy, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
121. Hồ Đức Thọ (2006), Mẫu Liễu sử thi, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
122. Lưu Thủy (2008), “Lên đồng: mê tín hay nhu cầu thành danh với Thần
Thánh”, tại trang tamlinhhuyenbi.net, [truy cập ngày 3/3/2016].
123. Hà Hùng Tiến (1997), Lễ hội và danh nhân lịch sử Việt Nam, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
124. Tôcarep (1994), Các hình thức tôn giáo sơ khai, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
125. Vũ Huy Toàn (2001), “Phủ Giầy một trung tâm tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt
Nam”, Tạp chí nghiên cứu Văn hóa dân gian, (4), tr.33-39.
126. Phạm Trọng Toàn (2002), "Bước đầu tìm hiểu văn hoá Hát Văn", Tạp chí
Văn hoá nghệ thuật (12).
127. Chu Quang Trứ (1997), “Lễ hội và tâm linh người Việt”, Tạp chí Văn hóa
Nghệ thuật, (1), tr.40-42.
128. Chu Quang Trứ (1997), “Nét đẹp lễ hội”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật¸ (3),
tr.56-72.
129. Tạ Chí Đại Trường (2006), Thần Người và đất Việt, Nxb Văn hóa Thông
tin, Hà Nội.
130. Nguyễn Quốc Tuấn (2004), “Mẫu Liễu Hạnh qua góc nhìn tôn giáo học”,
Tạp chí nghiên cứu tôn giáo, (6).
131. Phạm Hồng Tung (2010), “Bàn về văn hóa cộng đồng”, Tạp chí Khoa học Đại
học Quốc gia Hà Nội, Khoa học xã hội và nhân văn, (6), tr.121-132.
132. Đặng Nghiêm Vạn (Chủ biên) (1996), Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam
hiện nay, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
133. Đặng Nghiêm Vạn (2001), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
134. Viện Nghiên cứu Tôn giáo (1994), Những vấn đề tôn giáo hiện nay, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
135. Viện Nghiên cứu Tôn giáo (1994), Về tôn giáo, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
161
136. Lê Trung Vũ (Chủ biên) (1992), Lễ hội cổ truyền, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
137. Lê Trung Vũ, Nguyễn Hồng Dương (1997), Lịch lễ hội, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
138. Trần Quốc Vượng, Lê Văn Hảo và Dương Tất Từ (1976), Mùa xuân và
phong tục Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
139. Trần Quốc Vượng (1978), “Hội hè dân gian với làng quê đổi mới”, Tạp chí
Nghiên cứu Nghệ thuật, (4).
140. Trần Quốc Vượng (1986), “Lễ hội: một cái nhìn tổng thể”, Tạp chí Nghiên
cứu Văn hóa dân gian, (1).
141. Trần Quốc Vượng (1996), Theo dòng lịch sử (Những vùng đất, thần và tâm
thức người Việt), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
142. Trần Quốc Vượng (1996), “Nam Hạ - Nam Hà”, Tạp chí Văn hóa Nghệ
thuật, (4), tr.16-19.
143. Trần Quốc Vượng (2001), “Vì sao Vân Cát - Tiên Hương là một hồi sau
tách đôi và rồi đã và đang lần kết đôi?”, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa
dân gian, (4), tr.18-21.
144. Wildavsky, Aaron (1987), “Choosing Preferences by constructing
Institutions: A Cultural Theory of Preference Fomation”, in: American
Political Science Review, (81/1), p. 6.
145. Nguyễn Văn Xuyên (2001), “Lễ hội Phủ Giầy và việc quản lí lễ hội trên
địa bàn tỉnh Nam Định”, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa dân gian, (4),
tr.9-12.
162
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Bản đồ
1.1. Bản đồ hành chính tỉnh Nam Định và huyện Vụ Bản
Bản đồ 1. Bản đồ hành chính tỉnh Nam Định
(Nguồn: Tác giả chụp từ Tập bản đồ hành chính Việt Nam, Nxb Bản Đồ, Hà Nội 2005)
Bản đồ 2. Bản đồ hành chính huyện Vụ Bản, Nam Định
(Nguồn: Tác giả chụp từ Tập bản đồ hành chính Việt Nam, Nxb Bản Đồ, Hà Nội 2005)
163
1.2. Bản đồ tổng quan về Phủ Dầy, Vụ Bản, Nam Định
Bản đồ 3. Thị trấn Gôi, Vụ Bản, Nam Định
(Nguồn: Chụp từ Google earth ngày 20 tháng 7 năm 2016)
Bản đồ 4. Bản đồ vị trí Phủ Dầy, Vụ Bản, Nam Định
(Nguồn: Chụp từ Google earth ngày 20 tháng 7 năm 2016)
164
Phụ lục 2
Ảnh tư liệu về lễ hội Phủ Dầy
2.1. Ảnh tư liệu cảnh quan không gian kiến trúc một số ngôi đền ở Phủ Dầy
Hình 1a. Phương du ở đền chính (Tiên Hương) ở Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả chụp)
Hình 1b. Phương du đền chính (Tiên Hương) ở Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
165
Hình 2. Cảnh quan bên ngoài đền Tiên Hương, Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
Hình 3. Hồ sen bán nguyệt trước cửa đền Tiên Hương, Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
166
Hình 4. Lầu Cậu ở đền Tiên Hương, Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
Hình 5. Nhà bia đá ở đền Tiên Hương, Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
167
Hình 6a. Bên trong đền Tiên Hương, Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
Hình 6b. Bên trong đền Tiên Hương, Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
168
Hình 7. Một góc cảnh quan khu vực Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
Hình 8. Tác giả ở chân đền Mẫu Thượng, Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
169
Hình 9. Cảnh quan trong sân đền Mẫu Thượng, Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
Hình 10a. Một gian thờ mới được xây dựng ở đền Mẫu Thượng, Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
170
Hình 10b. Một gian thờ mới được xây dựng ở đền Mẫu Thượng, Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
Hình 10c. Một gian thờ mới được xây dựng ở đền Mẫu Thượng, Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
171
2.2. Ảnh tư liệu về sinh hoạt tâm linh trong một số đền ở Phủ Dầy
Hình 11a. Dâng lễ ở đền Tiên Hương, Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
Hình 11b. Dâng sớ làm lễ ở đền Tiên Hương, Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
172
Hình 12a. Một chiếu hầu bóng ở đền Tiên Hương, Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
Hình 12b. Một chiếu hầu bóng ở đền Tiên Hương, Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
173
Hình 13a. Một ông/bà đồng đang hầu bóng ở đền Tiên Hương, Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
Hình 13b. Một ông/bà đồng đang hầu bóng ở đền Tiên Hương, Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
174
Hình 13c. Một ông/bà đồng đang hầu bóng ở đền Tiên Hương, Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
175
2.3. Ảnh về các nghi thức rước, kéo chữ trong lễ hội Phủ Dầy
Hình 14a. Lễ rước trong lễ hội Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
Hình 14b. Lễ rước trong lễ hội Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
176
Hình 14c. Lễ rước trong lễ hội Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
Hình 15a. Kéo chữ (hoa trượng hội) ở Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
177
Hình 15b. Kéo chữ (hoa trượng hội) ở Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
Hình 15c. Kéo chữ (hoa trượng hội) ở Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
178
Hình 16a. Đội hình kéo chữ đi theo đoàn rước ở Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
Hình 16b. Đội hình đám rước trong lễ hội Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
179
2.4. Ảnh tư liệu về hàng quán kinh doanh ở Phủ Dầy
Hình 17a. Một số hàng quán kinh doanh ở trong sân đền Tiên Hương, Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
Hình 17b. Một số hàng quán kinh doanh ở trong sân đền Tiên Hương, Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
180
Hình 17c. Một số hàng quán kinh doanh ở trong sân đền Tiên Hương, Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
Hình 17d. Một số hàng quán kinh doanh ở trong sân đền Tiên Hương, Phủ Dầy
(Nguồn: Tác giả)
181
Phụ lục 3
Bảng hỏi điều tra xã hội học
3.1. Bảng hỏi dành cho cộng đồng cư dân địa phương
PHIẾU KHẢO SÁT VỀ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA
LỄ HỘI PHỦ DẦY ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG
(Mẫu khảo sát dành cho người dân cộng đồng địa phương)
Lễ hội Phủ Dầy là một hoạt động tín ngưỡng tâm linh của người Việt ở châu thổ Bắc
Bộ. Để làm rõ vai trò cũng như ảnh hưởng của lễ hội này tới đời sống văn hóa cộng đồng,
xin ông bà (anh chị) vui lòng trả lời những câu hỏi sau bằng cách khoanh tròn vào các
phương án phù hợp hoặc trình bày ý kiến của mình vào các câu hỏi có dấu (………).
Họ và tên:………………………………………; Tuổi:……….; Giới tính: Nam/Nữ
Trình độ học vấn:…………………………………………………………………..
Địa chỉ:……………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………..
1. Ông/bà (anh/chị) có biết lễ hội Phủ Dầy diễn ra vào lúc nào trong năm?
a. Có b. Không
Nếu có, xin hỏi và ghi rõ là từ ngày nào đến ngày nào?............................................
....................................................................................................................
2. Ông/bà có thường xuyên tham gia vào các hoạt động của lễ hội Phủ Dầy không?
a. Ít tham gia b. Tham gia vừa phải
c. Tham gia thường xuyên d. Tham gia rất nhiều
e. Không tham gia
3. Ông/bà tham gia lễ hội Phủ Dầy với tư cách (có thể chọn một đến nhiều câu trả lời):
Thành viên ban tổ chức lễ hội
Thành viên đội tế trong lễ hội
Thành viên đội văn nghệ
Thành viên đội kéo chữ
Là cung văn
Thành viên cung cấp dịch vụ
Là thành viên trong cộng đồng địa phương (tham gia như khách hành
hương)
Là các ông/bà đồng
182
4. Ông/bà tham gia lễ hội vì mục đích:
Thỏa mãn nhu cầu giải trí
Thỏa mãn nhu cầu văn hóa truyền thống
Thỏa mãn nhu cầu tâm linh
Thỏa mãn nhu cầu kinh tế (cầu buôn may, bán đắt)
Thỏa mãn nhu cầu công danh (cầu công danh hoạn lộ)
Thỏa mãn nhu cầu học tập
Thỏa mãn nhu cầu cố kết tình làng, nghĩa xóm
Nhu cầu khác….
5. Theo ông/bà, lễ hội Phủ Dầy đã có ảnh hưởng/tác động tích cực đến các mặt đời sống
như thế nào? (có thể chọn nhiều nhiều phương án, theo các mức độ…)
Không
ảnh hưởng
ảnh hưởng ít
ảnh hưởng
vừa phải
ảnh hưởng nhiều
Ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất
nông nghiệp
Ảnh hưởng đến công việc học tập
Ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh
Ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa các
thành viên trong gia đình, xã hội
Ảnh hưởng đến sức khỏe
Các ảnh hưởng khác………………..
6. Theo ông/bà, lễ hội Phủ Dầy đã có ảnh hưởng/tác động tiêu cực đến các mặt đời sống
như thế nào? (có thể chọn nhiều nhiều phương án, theo các mức độ…)
Không
ảnh hưởng
ảnh hưởng ít
ảnh hưởng
vừa phải
ảnh hưởng nhiều
Ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất
nông nghiệp
Ảnh hưởng đến công việc học tập
Ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh
Ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa các
thành viên trong gia đình, xã hội
Ảnh hưởng đến sức khỏe
Các ảnh hưởng khác………………..
183
7. Lý do ông/bà tham gia vào các hoạt động của lễ hội Phủ Dầy?
(Ông bà có thể chọn một đến nhiều phương án trả lời, bằng cách khoanh tròn)
a) Tin rằng Mẫu hiển linh cứu nhân độ thế
b) Tưởng nhớ đến Đức Mẫu Liễu
c) Theo phong tục địa phương
d) Theo truyền thống gia đình
e) Giáo dục con cháu nhớ về truyền thống văn hóa dân tộc
f) Để được Thánh Mẫu phù hộ, độ trì trong cuộc sống
g) Sợ bị Thánh Mẫu quở phạt
h) Bắt chước: thấy mọi người tham gia thì mình cũng tham gia
i) Vì cho rằng “có thờ có thiêng có kiêng có lành”
j) Lý do khác:…………………………………………………..
8. Theo ông/bà lễ hội Phủ Dầy có tạo ra công ăn việc làm cho người dân trong vùng hay
không?
a. Có
b. Không
c. Khác:………………………………………………………………………….
9. Gia đình ông/bà có tham gia vào các hoạt động dịch vụ quanh lễ hội Phủ Dầy không?
a. Có
b. Không
Nếu có tham gia, xin ông/bà cho biết gia đình kinh doanh loại hình dịch vụ nào? (ghi rõ:
Kinh doanh đồ lễ, ăn uống, đổi tiền,…)…………………………………………….
…………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………..
10. Gia đình ông/bà có bao nhiêu thành viên tham gia vào hoạt động dịch vụ lễ hội ở
Phủ Dầy?
………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………….
11. Lễ hội Phủ Dầy tạo ra nguồn thu tài chính cho người dân trong vùng, theo ông/bà
nguồn thu ấy ở mức độ:
a. Thu nhập thấp (1 - 3 triệu đồng/tháng)
b. Thu nhập trung bình (từ 4 đến 6 triệu đồng/tháng)
c. Thu nhập cao (từ 7 đến 10 triệu/tháng)
d. Thu nhập rất cao (trên 10 triệu/tháng)
184
12. Theo ông/bà, các nhân tố sau đây, tác động như thế nào tới vai trò của lễ hội Phủ Dầy?
Tác động
mạnh
Tác động
vừa Tác động ít
Không
tác động
Nhân tố lịch sử (quan niệm của
mối thời kỳ lịch sử)
Nhân tố tôn giáo - tín ngưỡng
Nhân tố chính trị
Nhân tố kinh tế
Nhân tố cư dân trong cộng đồng
13. Theo ông/bà, các nhân tố cư dân trong cộng đồng sau đây, tác động tích cực như thế
nào tới vai trò của lễ hội Phủ Dầy?
Tác động
mạnh
Tác động
vừa Tác động ít
Không
tác động
Nhân tố nhóm cư dân trong cộng
đồng địa phương trực tiếp tham gia
lễ hội (tham gia phần lễ hội)
Nhân tố nhóm cư dân trong cộng
đồng địa phương gián tiếp tham gia
lễ hội (tham gia hoạt động dịch vụ)
Nhân tố nhóm cư dân là khách thập
phương
14. Theo ông/bà, các nhân tố cư dân trong cộng đồng sau đây, tác động tiêu cực như thế
nào tới vai trò của lễ hội Phủ Dầy?
Tác động
mạnh
Tác động
vừa Tác động ít
Không
tác động
Nhân tố nhóm cư dân trong cộng
đồng địa phương trực tiếp tham gia
lễ hội
Nhân tố nhóm cư dân trong cộng
đồng địa phương gián tiếp tham gia
lễ hội
Nhân tố nhóm cư dân là khách thập
phương
185
15. Theo ông/bà, các giá trị của lễ Phủ Dầy tác động như thế nào tới đời sống cộng
đồng địa phương?
Tác động
mạnh
Tác động
vừa Tác động ít
Không
tác động
Giá trị tín ngưỡng tâm linh
Giá trị giáo dục truyền thống lịch
sử
Giá trị thẩm mỹ nghệ thuật
Giá trị kinh tế xã hội
Giá trị du lịch văn hóa
Giá trị giải trí
16. Ông/bà hãy đánh giá về vai trò của lễ hội Phủ Dầy trong đời sống xã hội hiện nay
(đánh dấu X vào cột ông/bà chọn)
Vai trò của lễ hội phủ Giầy Rất quan
trọng Quan trọng
Không
quan trọng
- Giáo dục văn hóa truyền thống
- Củng cố niềm tin đối với các vị Thánh,
Thần
- Định hướng tâm linh cộng đồng
- Cố kết tình cảm cộng đồng
- Phát triển kinh tế gia đình
- Đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí của cộng
đồng
…………….
…………….
…………….
…………….
…………….
…………….
…………….
…………….
…………….
…………….
……….......
…………….
…………….
…………….
…………….
17. Theo ông/bà, lễ hội Phủ Dầy góp phần giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ ngày nay
như thế nào? ………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
18. Theo ông/bà, lễ hội Phủ Dầy có ảnh hưởng như thế nào đến đời sống kinh tế của
các hộ gia đình?
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
186
19. Theo ông/bà, lễ hội Phủ Dầy hiện nay có ảnh hưởng như thế nào đến đời sống văn
hóa cộng đồng?
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
20. Theo ông/bà, lễ hội Phủ Dầy có ảnh hưởng tiêu cực đến cá nhân và cộng đồng
không?
a) Có b) Không
Nếu có, thì nó ảnh hưởng tiêu cực như thế nào?
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………..
..............................................................................……………………………………………
Xin chân thành cảm ơn ông/bà!
187
3.2. Bảng hỏi dành cho học sinh phổ thông tại cộng đồng địa phương
PHIẾU KHẢO SÁT VỀ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA LỄ HỘI PHỦ DẦY
ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG
(Dành cho học sinh phổ thông tại địa phương)
Thân chào các bạn học sinh, lễ hội Phủ Dầy là một hoạt động tín ngưỡng tâm linh
độc đáo của người Việt ở châu thổ Bắc Bộ. Nhằm tìm hiểu vai trò cũng như ảnh hưởng của
lễ hội này tới đời sống văn hóa cộng đồng, chúng tôi xin được khảo sát các ý kiến của các
bạn thông qua việc trả lời một số câu hỏi sau.
Các bạn trả lời câu hỏi bằng cách khoanh tròn vào các phương án phù hợp hoặc
trình bày ý kiến của mình vào các câu hỏi có dấu (………)
1. Bạn đã từng tham gia lễ hội Phủ Dầy chưa?
a. Có => cụ thể………………….. b. Không
2. Em có biết lễ hội Phủ Dầy diễn ra vào thời gian nào trong năm không?
a. Có => cụ thể……………………………………… b. không
3. Em tham gia lễ hội Phủ Dầy với vai trò (có thể chọn nhiều phương án, nếu em đảm
nhận nhiều công việc):
a. Thành viên đội rước kiệu b. Thành viên đội kéo chữ
c. Thành viên đội văn nghệ d. Thành viên đội an ninh, trật tự
e. Thành viên cung cấp dịch vụ g. Thành viên trong ban khánh tiết
c. Các vai trò khác (ghi rõ):………………………………………………………………..
4. Gia đình em có tham gia các hoạt động dịch vụ trong thời gian diễn ra lễ hội Phủ
Dầy không?
a. Có => cụ thể............................................................................. b. Không
5. Em có tham gia phụ giúp việc bán hàng cho bố mẹ không?
c. Có b. Không
6. Khi tham gia các hoạt động của lễ hội, có ảnh hưởng đến công việc học tập không?
a. Có b. Không
c. Ý kiến khác:…………………………………………………………………………..
7. Khi tham gia các hoạt động trong lễ hội Phủ Dầy, em thấy:
a. Làm mất thời gian học bài ở nhà
b. Làm mất thời gian học tập ở lớp (phải nghỉ học, đến muộn - về sớm)
c. Học hành không tập trung
d. Không ảnh hưởng thời gian học bài ở nhà
e. Không ảnh hưởng đến việc học tập trên lớp
f. Rất thỏa mái, vui vẻ
g. Không thỏa mái, vui vẻ
h. Lý do khác (ghi rõ): ……………………………………………………………………..
188
8. Theo em, lễ hội Phủ Dầy đã tác động như thế nào tới bản thân mình, qua các mặt
sau đây?
Tác động
Nội dung Tích cực Tiêu cực
Không
tác động
Tác động tới công việc học tập
Tác động tới sức khỏe của bản thân em
Tác động tới các mối quan hệ trong gia đình em (quan
tâm chăm sóc, giúp đỡ công việc…)
Tác động tới mối quan hệ giữa em với bạn bè
Tác động tới hoạt động kinh tế của gia đình em (tài
chính, kinh doanh, sản xuất…)
Tác động tới các sinh hoạt khác của gia đình (ăn uống,
tắm giặt, nghỉ ngơi,…)
Tác động tới hoạt động vui chơi của em
9. Lý do em tham gia lễ hội Phủ Dầy? (Có thể chọn nhiều phương án)
a) Thánh phù hộ, độ trì cho công việc học tập b) Tưởng nhớ đến Đức Mẫu Liễu
c) Theo phong tục địa phương d) Theo truyền thống gia đình
e) Tìm hiểu truyền thống văn hóa dân tộc f) Để được Thánh Mẫu phù hộ
g) Sợ bị Thánh Mẫu quở phạt h) Theo phong trào
i) Vì cho rằng “có thờ có thiêng có kiêng có lành”
j) Lý do khác:…………………………………………………..
Một số thông tin cá nhân:
Họ và tên:……………………………………….........................
Giới tính: Nam / nữ tuổi...........................
Địa chỉ............................................................................................
Cảm ơn các bạn đã giúp đỡ !
189
3.3. Bảng hỏi dành cho cộng đồng du khách thập phương
PHIẾU KHẢO SÁT VỀ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA
LỄ HỘI PHỦ DẦY TỚI ĐỜI SỐNG CỘNG ĐỒNG
(Phiếu dành cho nhóm cộng đồng du khách thập phương)
Lễ hội Phủ Dầy là một hoạt động tín ngưỡng tâm linh của người Việt ở châu thổ
Bắc Bộ. Để làm rõ vai trò cũng như ảnh hưởng của lễ hội này tới đời sống văn hóa cộng
đồng, xin ông bà (anh chị) vui lòng trả lời những câu hỏi sau bằng cách khoanh tròn vào
các phương án phù hợp hoặc trình bày ý kiến của mình vào các câu hỏi có dấu (………).
Họ và tên:………………………………………; Tuổi:……….; Giới tính: Nam/Nữ
Trình độ học vấn:…………………………………………………………………..
Địa chỉ:……………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………..
1. Ông bà có thường xuyên đến tham gia lễ hội Phủ Dầy không?
a. Đây là lần đầu tiên
b. Thỉnh thoảng
c. Thường xuyên
d. Khác……………………………………………………………
2. Ông bà thường đến Phủ Dầy vào thời điểm nào trong năm?
a. Lễ hội xuân
b. Cuối năm âm lịch
c. Giữa năm
d. Tiện lúc nào thì rẽ qua lúc ấy
3. Ông bà tham gia lễ hội Phủ Dầy với mục đích:
Đi du xuân đầu năm
Cầu bình an cho bản thân gia đình
Cầu tài lộc
Cầu công danh (thăng quan, tiến chức)
Cầu tai qua nạn khỏi
Cầu khỏi bệnh tật
Giao lưu bạn bè, tăng tình đoàn kết
Những nhu cầu khác (ghi rõ)……………………………………………….
………………………………………………………………………………
190
4. Sau khi tham gia lễ hội Phủ Dầy, ông bà thấy những lời cầu cúng của mình:
a. Không linh nghiệm
b. Ít linh nghiệm
c. Linh nghiệm
d. Linh nghiệm nhiều
5. Ông bà có tham gia sinh hoạt lên đồng trong lễ hội Phủ Dầy không?
a. Có
b. Không
6. Nếu có, ông bà tham gia sinh hoạt lên đồng với tư cách là:
a. Ông đồng, bà đồng
b. Người hầu dâng
c. Người cùng hội với ông bà đồng
d. Khách đứng xem
7. Theo ông/bà, lễ hội Phủ Dầy đã có ảnh hưởng/tác động tích cực đến các mặt đời sống
của mình như thế nào? (có thể chọn nhiều nhiều phương án, theo các mức độ…)
Không
ảnh hưởng
ảnh hưởng ít
ảnh hưởng
vừa phải
ảnh hưởng nhiều
Ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất nông
nghiệp
Ảnh hưởng đến công việc học tập
Ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh
Ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa các thành
viên trong gia đình, xã hội
Ảnh hưởng đến sức khỏe
Các ảnh hưởng khác (ghi rõ) …………….
……………………………………….
8. Theo ông/bà, lễ hội Phủ Dầy đã có ảnh hưởng/tác động tiêu cực đến các mặt đời sống
của mình như thế nào? (có thể chọn nhiều nhiều phương án, theo các mức độ…)
Không
ảnh
hưởng
ảnh
hưởng ít
ảnh
hưởng
vừa phải
ảnh
hưởng
nhiều
Ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất nông nghiệp
Ảnh hưởng đến công việc học tập
Ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh
Ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa các thành
viên trong gia đình, xã hội
Ảnh hưởng đến sức khỏe
Các ảnh hưởng khác (ghi rõ) ………….
……………………………………….
191
9. Lý do ông/bà tham gia vào các hoạt động của lễ hội Phủ Dầy?
(Ông/bà có thể chọn một đến nhiều phương án trả lời)
a) Tin rằng Mẫu hiển linh cứu nhân độ thế
b) Tưởng nhớ đến Đức Mẫu Liễu
c) Theo phong tục địa phương
d) Theo truyền thống gia đình
e) Giáo dục con cháu nhớ về truyền thống văn hóa dân tộc
f) Để được Thánh Mẫu phù hộ, độ trì trong cuộc sống
g) Sợ bị Thánh Mẫu quở phạt
h) Bắt chước: thấy mọi người tham gia thì mình cũng tham gia
i) Vì cho rằng “có thờ có thiêng có kiêng có lành”
j) Để cầu mong cho cá nhân và gia đình
o) Để giải trí
ô) Đi do bạn bè rủ
r) Do cơ quan tổ chức
s) Để tìm hiểu phong tục tập quán
10. Theo ông/bà, các nhân tố sau đây, tác động như thế nào tới vai trò của lễ hội Phủ Dầy?
Tác động
mạnh
Tác động
vừa
Tác động ít Không
tác động
Nhân tố lịch sử (quan niệm của
mối thời kỳ lịch sử)
Nhân tố tôn giáo - tín ngưỡng
Nhân tố chính trị
Nhân tố kinh tế
Nhân tố cư dân trong cộng đồng
11. Theo ông/bà, các nhân tố cư dân trong cộng đồng sau đây, tác động tích cực như thế
nào tới vai trò của lễ hội Phủ Dầy?
Tác động
mạnh
Tác động
vừa
Tác động ít Không
tác động
Nhân tố nhóm cư dân trong cộng
đồng địa phương trực tiếp tham gia
lễ hội
Nhân tố nhóm cư dân trong cộng
đồng địa phương gián tiếp tham gia
lễ hội
Nhân tố nhóm cư dân là khách thập
phương
192
12. Theo ông/bà, các nhân tố cư dân trong cộng đồng sau đây, tác động tiêu cực như thế
nào tới vai trò của lễ hội Phủ Dầy?
Tác động
mạnh
Tác động
vừa
Tác động
ít
Không
tác động
Nhân tố nhóm cư dân trong cộng đồng
địa phương trực tiếp tham gia lễ hội
Nhân tố nhóm cư dân trong cộng đồng
địa phương gián tiếp tham gia lễ hội
Nhân tố nhóm cư dân là khách thập phương
13. Theo ông/bà, các giá trị của lễ hội Phủ Dầy tác động như thế nào tới đời sống cộng
đồng địa phương?
Tác động
mạnh
Tác động
vừa
Tác động
ít
Không
tác động
Giá trị tín ngưỡng tâm linh
Giá trị giáo dục truyền thống lịch sử
Giá trị thẩm mỹ nghệ thuật
Giá trị kinh tế xã hội
Giá trị du lịch văn hóa
Giá trị giải trí
14. Ông/bà hãy đánh giá về vai trò của lễ hội Phủ Dầy trong đời sống xã hội hiện nay
(đánh dấu X vào cột đồng chí chọn)
Vai trò của lễ hội phủ Giầy Rất quan
trọng
Quan trọng Không
quan trọng
- Giáo dục văn hóa truyền thống
- Củng cố niềm tin đối với các vị Thánh, Thần
- Định hướng tâm linh cộng đồng
- Cố kết tình cảm cộng đồng
- Phát triển kinh tế gia đình
- Đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí của cộng đồng
…………….
…………….
…………….
…………….
…………….
…………….
…………….
…………….
…………….
…………….
……….......
…………….
…………….
…………….
…………….
193
15. Theo ông/bà, lễ hội Phủ Dầy góp phần giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ ngày nay
như thế nào? ………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
16. Theo ông/bà, lễ hội Phủ Dầy có ảnh hưởng như thế nào đến đời sống kinh tế của
các hộ gia đình?
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
17. Theo ông/bà, lễ hội Phủ Dầy hiện nay có ảnh hưởng như thế nào đến đời sống văn
hóa cộng đồng?
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
18. Theo ông/bà, lễ hội Phủ Dầy có ảnh hưởng tiêu cực đến cá nhân và cộng đồng không?
a) Có b) Không
Nếu có, thì nó ảnh hưởng tiêu cực như thế nào?......................................................................
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………….................................................................
Xin chân thành cảm ơn ông/bà!
194
3.4. Danh sách những người được phỏng vấn sâu tại lễ hội Phủ Dầy
(Đợt phỏng vấn sâu này, được tác giả luận án thực hiện vào tháng 3 năm 2016, cùng với
việc điều tra xã hội học bằng bảng hỏi để thu thập số liệu)
TT Họ và Tên Tuổi Chức danh (công việc) Ghi chú
1. Trần Khắc Thiềng 53 Phó chủ tịch phụ trách văn hóa
xã Kim Thái huyện Vụ Bản
2. Nguyễn Thị Phúc 36 Cán bộ phụ trách văn hóa xã
Kim Thái huyện Vụ Bản
3. Vũ Quang Trung 43 Phó Phòng Văn hóa- Thông tin
huyện Vụ Bản
4. Trần Thị Nguyệt 49 Hiệu trưởng Trường Trung học
Cơ sở xã Kim Thái
5. Trần Thị Duyên (bà Đức) 80 Thủ nhang đền chính Phủ Dầy-
Vụ Bản
6. Trần Văn Năm 47 Thủ Nhang đền Mẫu Thượng-
Phủ Dầy- Vụ Bản
7. Trần Vũ Toán 60 Thủ nhang đền Phủ Bóng-
Nguyệt Du cung- Phủ Dầy- Vụ
Bản
8. Chị Xuân 38 Bán hàng tại phủ chính- Phủ
Dầy
9. Cô Lan 54 Bán hàng tại chân đền Mẫu
Thượng
10. Lê Tuấn Anh 14 Học sinh trường Trung học cơ
sở xã Kim Thái
11. Trần Thúy Hà 12 Học sinh trường Trung học cơ
sở xã Kim Thái
12. Nguyễn Văn Ngọc 27 Giảng viên Đại học Quốc gia
Hà Nội
Quê Hà Nam
13. Lê Thị Mai 45 Chủ doanh nghiệp sản xuất và
xuất nhập khẩu hàng tiêu dùng
Quê Bắc
Giang
14. Đinh Đắc Hải 72 Nông dân, người tham gia vào
nhóm đi hầu đồng tại đến
chính (Tiên Hương) ở Phủ Dầy
Quê Ninh
Bình
195
Phụ lục 4
Số liệu và biểu đồ thống kê từ bảng hỏi
4.1. Số liệu và biểu đồ thống kê từ phiếu khảo sát cộng đồng cư dân địa phương
KẾT QUẢ XỬ LÝ PHIẾU KHẢO SÁT
VỀ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA LỄ HỘI PHỦ DẦY ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG
(Dành cho người dân địa phương)
Thời gian thống kê: tháng 4 năm 2016
Địa điểm khảo sát: Quần thể di tích Phủ Dầy- xã Kim Thái- huyện Vụ Bản- tỉnh Nam Định
Lưu ý: Số liệu được biểu đạt dưới dạng X (Y%)
Trong đó: X là số liệu tuyệt đối (Đơn vị: Lượt ý kiến); Y là số liệu tương đối (đơn vị: %)
Do đối tượng nghiên cứu là người dân và kết quả nghiên cứu là các lượt phỏng vấn nên
các giá trị % được lấy tương đối làm tròn về số tự nhiên.
1. Tổng quan về mẫu khảo sát
Phiếu khảo sát được tiến hành trên mẫu nghiên cứu là 200 người dân ở địa phương bao
gồm các thôn Vân cát, Tiên Hương của xã Kim Thái và một số khu vực lân cận khu di tích
Phủ Dầy.
Cụ thể cơ cấu thành phần mẫu khảo sát như sau:
Nam Nữ
Giới tính
(49%) (51%)
Dưới 35 tuổi 35- 50 tuổi Trên 50 tuổi
Độ tuổi
(18%) (35%) (47%)
Nông dân NV nhà nước
(cả về hưu) Kinh doanh Lao động tự do
Nghề nghiệp
(62 %) (08%) (12%) (18%)
196
197
2. Kết quả chi tiết
1. Ông/bà (anh/chị) có biết lễ hội Phủ Dầy diễn ra vào thời điểm nào trong năm?
a. Có: (99%) => cụ thể… Mời xem túi phiếu số 3
b. Không: (01%)
2. Ông/bà có thường xuyên tham gia vào các hoạt động của lễ hội Phủ Dầy không?
a. Thường xuyên (hằng năm): (92%)
b. Không thường xuyên (đã từng đi): (08%)
c. Chưa đi lần nào: 0
198
3. Ông/bà tham gia lễ hội Phủ Dầy với tư cách (có thể chọn một đến nhiều câu trả lời):
a. Thành viên Ban Tổ chức lễ hội: (06%)
b. Thành viên đội tế lễ: (02%)
c. Thành viên đội văn nghệ: (06%)
d. Thành viên đội kéo chữ: (05%)
e. Cung văn (hát chầu văn): (10%)
f. Cung cấp dịch vụ: (39%)
g. Khách đi chơi lễ hội: (51%)
h. Các ông/ bà đồng: (01%)
Tư cách tham gia lễ hội
4. Ông/bà tham gia lễ hội vì mục đích:
a. Thỏa mãn nhu cầu giải trí: (48%)
b. Thỏa mãn nhu cầu văn hóa truyền thống: (47%)
c. Thỏa mãn nhu cầu cố kết tình làng nghĩa xóm: (28%)
d. Thỏa mãn nhu cầu học tập: (12%)
e. Thỏa mãn nhu cầu tâm linh (cầu tài, cầu lộc, cầu bình an): (56%)
f. Ý kiến khác: (12%) Chi tiết: Mời xem túi phiếu số 3
199
Mục đích tham gia lễ hội
5. Theo ông/bà, lễ hội Phủ Dầy đã có ảnh hưởng/tác động tích cực đến các mặt đời sống
như thế nào? (có thể chọn nhiều nhiều phương án, theo các mức độ…)
Không ảnh
hưởng
Ít ảnh
hưởng ảnh hưởng
Rất ảnh
hưởng
Ảnh hưởng đến hoạt động sản
xuất nông nghiệp (65%) (22%) (06%) (06%)
Ảnh hưởng đến công việc học tập (42%) (33%) (21%) (03%)
Ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh (16%) (23%) (34%) (26%)
Ảnh hưởng đến mối quan hệ trong
gia đình, xã hội (30%) (21%) (31%) (17%)
Ảnh hưởng đến sức khỏe (34%) (21%) (26%) (17%)
Các ảnh hưởng khác………………..
200
Ảnh hưởng/tác động tích cực đến các mặt đời sống
6. Theo ông/bà, lễ hội Phủ Dầy đã có ảnh hưởng/tác động tiêu cực đến các mặt đời sống
như thế nào? (có thể chọn nhiều nhiều phương án, theo các mức độ…)
Không ảnh
hưởng
Ít ảnh
hưởng ảnh hưởng
Rất ảnh
hưởng
Ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất
nông nghiệp (84%) (13%) (01%) (01%)
Ảnh hưởng đến công việc học tập (69%) (26%) (03%) 0
Ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh (43%) (30%) (17%) (09%)
Ảnh hưởng đến mối quan hệ trong
gia đình, xã hội (47%) (25%) (16%) (12%)
Ảnh hưởng đến sức khỏe (40%) (25%) (13%) (16%)
Các ảnh hưởng khác………………..
201
Ảnh hưởng/tác động tiêu cực đến các mặt đời sống
7. Lý do ông/bà tham gia vào các hoạt động của lễ hội Phủ Dầy?
(Ông bà có thể chọn một đến nhiều phương án trả lời, bằng cách khoanh tròn)
a) Tin rằng Mẫu hiển linh cứu nhân độ thế: (48%)
b) Tưởng nhớ đến Đức Mẫu Liễu: (49%)
c) Theo phong tục địa phương: (64%)
d) Theo truyền thống gia đình: (41%)
e) Giáo dục con cháu về văn hóa dân tộc: (40%)
f) Để được Thánh Mẫu phù hộ, độ trì: (50%)
g) Sợ bị Thánh Mẫu quở phạt: (12%)
h) Theo phong trào: (08%)
j) Lý do khác:….: (08%)
Lý do tham gia lễ hội
202
8. Theo ông/bà lễ hội Phủ Dầy có tạo ra công ăn việc làm cho người dân trong vùng hay
không?
a. Có: (90%)
b. Không: (09%)
c. Khác: (01%)
Lễ hội có tạo ra công ăn việc làm cho người dân không
9. Gia đình ông/bà có tham gia vào các hoạt động dịch vụ quanh lễ hội Phủ Dầy không?
a. Có: (58%) => cụ thể kinh doanh: Mời xem túi phiếu số 3
b. Không: (42%)
Có tham gia vào các hoạt động dịch vụ lễ hội không
203
10. Gia đình ông/bà có bao nhiêu thành viên tham gia vào hoạt động dịch vụ lễ hội ở
Phủ Dầy?
a. Không có: (34 %)
b. Chỉ duy nhất 1 người: (24%)
c. Từ 2 người trở lên: (42%)
Thành viên tham gia lễ hội 11. Lễ hội Phủ Dầy tạo ra nguồn thu tài chính cho người dân trong vùng, theo ông/bà
nguồn thu ấy ở mức độ:
a. Thu nhập thấp (1 - 3 tr/tháng): (58%)
b. Thu nhập trung bình (từ 4 đến 6 tr/tháng): (17%)
c. Thu nhập cao (từ 7 đến 10 tr/tháng): (03%)
d. Thu nhập rất cao (trên 10 tr/tháng): (22%)
Thu nhập từ lễ hội
204
12. Theo ông/bà, các nhân tố sau đây, tác động như thế nào tới vai trò của lễ hội thờ
Mẫu Tứ phủ ở Phủ Dầy?
Không tác
động Ít tác động Tác động
Rất tác
động
Nhân tố lịch sử (quan niệm của mỗi
thời kỳ lịch sử) (06%) (23%) (33%) (36%)
Nhân tố tôn giáo - tín ngưỡng (08%) (18%) (26%) (46%)
Nhân tố chính trị (39%) (28%) (18%) (15%)
Nhân tố kinh tế (06%) (26%) (43%) (24%)
Nhân tố cư dân trong cộng đồng (21%) (22%) (24%) (32%)
Nhân tố tác động đến vai trò lễ hội
13. Theo ông/bà, các nhân tố cư dân trong cộng đồng sau đây, tác động tích cực như thế
nào tới vai trò của lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ ở Phủ Dầy?
Không tác
động Ít tác động Tác động
Rất tác
động
Nhân tố nhóm cư dân trong cộng
đồng địa phương trực tiếp tham gia
lễ hội (tham gia phần lễ hội)
(6%) (19%) (40%) (33%)
Nhân tố nhóm cư dân trong cộng
đồng địa phương gián tiếp tham gia
lễ hội (tham gia hoạt động dịch vụ)
(08%) (17%) (28%) (46%)
Nhân tố nhóm cư dân là khách thập
phương (12%) (11%) (26%) (50%)
205
Nhân tố cư dân tác động tích cực đến lễ hội
14. Theo ông/bà, các nhân tố cư dân trong cộng đồng sau đây, tác động tiêu cực như thế
nào tới vai trò của lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ ở Phủ Dầy?
Không
tác động
Ít tác
động Tác động
Rất tác
động
Nhân tố nhóm cư dân địa phương trực
tiếp tham gia lễ hội (61%) (18%) (08%) (11%)
Nhân tố nhóm cư dân địa phương gián
tiếp tham gia lễ hội (47%) (33%) (09%) (11%)
Nhân tố nhóm cư dân là khách thập phương (36%) (36%) (15%) (11%)
Nhóm cư dân tác động tiêu cực
206
15. Theo ông/bà, các giá trị của lễ hội tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ tác động như thế
nào tới đời sống cộng đồng địa phương?
Không tác
động Ít tác động Tác động
Rất tác
động
Giá trị tín ngưỡng tâm linh (06%) (17%) (39%) (37%)
Giá trị giáo dục truyền
thống lịch sử (07%) (13%) (36%) (42%)
Giá trị thẩm mỹ nghệ thuật (18%) (30%) (31%) (21%)
Giá trị kinh tế xã hội (05%) (15%) (44%) (35%)
Giá trị giải trí và giá trị văn
hóa du lịch (3%) (11%) (35%) (51%)
Giá trị của lễ hội tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ tác động như thế nào tới đời sống
cộng đồng địa phương
207
16. Ông/bà hãy đánh giá về vai trò của lễ hội Phủ Dầy trong đời sống xã hội hiện nay
Vai trò của lễ hội phủ Giầy Không quan
trọng Quan trọng Rất quan trọng
Giáo dục văn hóa truyền thống 06% 36% 57%
Củng cố niềm tin đối với các vị
Thánh, Thần 08% 29% 62%
Định hướng tâm linh cộng đồng 08% 49% 53%
Cố kết tình cảm cộng đồng 10% 50% 40%
Phát triển kinh tế gia đình 19% 40% 40%
Đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải
trí của cộng đồng 38% 33% 28%
Vai trò của lễ hội Phủ Dầy trong đời sống xã hội hiện nay
17. Theo ông/bà, lễ hội Phủ Dầy có ảnh hưởng như thế nào đến đời sống kinh tế của
các hộ gia đình?
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
18. Theo ông/bà, lễ hội Phủ Dầy hiện nay có ảnh hưởng như thế nào đến đời sống văn
hóa cộng đồng?
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
208
19. Theo ông/bà, lễ hội Phủ Dầy có ảnh hưởng tiêu cực đến cá nhân và cộng đồng
không?
a) Có: (4%)
b) Không: (96%)
Nếu có, thì nó ảnh hưởng tiêu cực như thế nào?.................................................................
………………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………………..
Lễ hội Phủ Dầy có ảnh hưởng tiêu cực đến cá nhân và cộng đồng không
20. Theo ông/bà, lễ hội Phủ Dầy góp phần giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ ngày nay
như thế nào?
21. Ông/bà đánh giá như thế nào về tình hình lễ hội hiện nay, bằng cách trả lời các câu
hỏi sau:
+ Việc tổ chức lễ hội có tốt không?
a. Tốt: (73%)
b. Khá tốt: (19%)
c. Trung bình: (5%)
d. Không tốt: (3%)
209
Việc tổ chức lễ hội có tốt không
+ Các hoạt động thờ cúng tín ngưỡng có bị cản trở không?
a. Có; 0
b. Không: (100%)
+ Ông/bà có hài lòng với môi trường cảnh quan của lễ hội không?
a. Rất hài lòng: (85%)
b. Hài lòng: (15%)
c. Không hài lòng: 0
Có hài lòng với môi trường cảnh quan của lễ hội không
210
+ Ông bà có hài lòng về các thùng đựng tiền công đức ở đây không?
a. Rất hài lòng: (91%)
b. Hài lòng: (9%)
c. Không hài lòng: 0
Có hài lòng về các thùng đựng tiền công đức ở đây không
+ Ông/bà có hài lòng về hệ thống dịch vụ giải trí ở đây không?
a. Rất hài lòng: (58%)
b. Hài lòng: (42%)
c. Không hài lòng: 0
Có hài lòng về hệ thống dịch vụ giải trí ở đây không
211
+ Ông/bà có hài lòng về dịch vụ ăn uống ở đây không?
a. Rất hài lòng: (81%)
b. Hài lòng: (19%)
c. Không hài lòng: 0
Có hài lòng về dịch vụ ăn uống ở đây không
+ Ông/bà có hài lòng về nơi thờ tự ở đây không?
a. Rất hài lòng: (100%)
b. Hài lòng: 0
c. Không hài lòng: 0
+ Ông/bà có hài lòng về vệ sinh môi trường ở đây không?
a. Rất hài lòng: (77%)
b. Hài lòng: (18%)
c. Không hài lòng: (5%)
Có hài lòng về vệ sinh môi trường ở đây không
212
4.2. Số liệu và biểu đồ thống kê từ bảng hỏi các em học sinh tại địa phương
KẾT QUẢ XỬ LÝ PHIẾU KHẢO SÁT
VỀ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA LỄ HỘI PHỦ DẦY ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG
(Dành cho học sinh tại địa phương)
Thời gian thống kê: tháng 4 năm 2016
Địa điểm khảo sát: Trường Trung học cơ sở xã Kim Thái huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định
Lưu ý: Số liệu được biểu đạt dưới dạng X (Y%)
Trong đó: X là số liệu tuyệt đối (Đơn vị: Lượt ý kiến); Y là số liệu tương đối (đơn vị: %)
1. Tổng quan về mẫu khảo sát
Phiếu khảo sát được tiến hành trên mẫu nghiên cứu là 100 em học sinh hiện đang học lớp 9
tại trường Trung học cơ sở xã Kim Thái.
Cụ thể cơ cấu thành phần mẫu khảo sát như sau:
Nam Nữ
Giới tính
(57%) (43%)
213
2. Kết quả chi tiết 1. Bạn đã từng tham gia lễ hội Phủ Dầy chưa?
a. Có: (72%)
b. Không: (28%)
2. Bạn có biết lễ hội Phủ Dầy diễn ra vào thời gian nào trong năm không?
a. có: (84%)
b. không: (16%)
3. Bạn đã từng tham gia lễ hội Phủ Dầy với vai trò (có thể chọn nhiều phương án, nếu
đảm nhận nhiều công việc):
a. Thành viên đội rước kiệu: (09%)
b. Thành viên đội kéo chữ: (02%)
c. Thành viên đội văn nghệ: (02%)
d. Thành viên đội an ninh, trật tự: (04%)
e. Thành viên cung cấp dịch vụ: (08%)
f. Thành viên trong ban khánh tiết: 0
g. Các vai trò khác (ghi rõ): (82%) (cụ thể mời xem túi phiếu 02)
214
4. Gia đình bạn có tham gia các hoạt động dịch vụ trong thời gian diễn ra lễ hội Phủ
Dầy không?
a. Có => (20%) (cụ thể mời xem túi phiếu số 2)
b. Không: (80%)
5. Bạn có tham gia phụ giúp việc bán hàng cho bố mẹ không?
c. Có: (28%)
b. Không: (72%)
215
6. Khi tham gia các hoạt động của lễ hội, có ảnh hưởng đến công việc học tập không?
a. Có: (18%)
b. Không: (82%)
c. Ý kiến khác: 0
7. Khi tham gia các hoạt động trong lễ hội Phủ Dầy, bạn thấy:
a. Làm mất thời gian học bài ở nhà: (08%)
b. Làm mất thời gian học tập ở lớp (phải nghỉ học, đến muộn - về sớm): (06%)
c. Học hành không tập trung: (17%)
d. Không ảnh hưởng thời gian học bài ở nhà: (45%)
e. Không ảnh hưởng đến việc học tập trên lớp: (23%)
f. Rất thỏa mái, vui vẻ: (42%)
g. Không thỏa mái, vui vẻ: (05%)
h. Lý do khác (ghi rõ): …0
216
8. Theo bạn, lễ hội Phủ Dầy đã tác động tới bản thân mình như thế nào ?
Tác động
Nội dung Tích cực Tiêu cực
Không tác
động
Tác động tới công việc học tập (09%) (14%) (77%)
Tác động tới sức khỏe của bản thân em (12%) (12%) (76%)
Tác động tới các mối quan hệ trong
gia đình em (quan tâm chăm sóc, giúp
đỡ công việc…)
(22%) (01%) (77%)
Tác động tới mối quan hệ giữa em với
bạn bè (28%) (01%) (71%)
Tác động tới hoạt động kinh tế của gia
đình em (tài chính, kinh doanh, sản
xuất…)
(27%) (02%) (71%)
Tác động tới các sinh hoạt khác của
gia đình (ăn uống, tắm giặt, nghỉ
ngơi,…)
(04%) (04%) (92%)
Tác động tới hoạt động vui chơi của
em (36%) (08%) (56%)
217
9. Lý do bạn tham gia lễ hội Phủ Dầy? (Có thể chọn nhiều phương án)
a) Thánh phù hộ, độ trì cho công việc học tập: (23%)
b) Tưởng nhớ đến Đức Mẫu Liễu: (37%)
c) Theo phong tục địa phương: (24%)
d) Theo truyền thống gia đình: (07%)
e) Tìm hiểu truyền thống văn hóa dân tộc: (50%)
f) Để được Thánh Mẫu phù hộ: (11%)
g) Sợ bị Thánh Mẫu quở phạt: (01%)
h) Theo phong trào: (18%)
i) Vì cho rằng “có thờ có thiêng có kiêng có lành”: (02%)
j) Lý do khác: (20%)
218
4.3. Số liệu và biểu đồ thống kê từ bảng hỏi du khách thập phương
KẾT QUẢ XỬ LÝ PHIẾU KHẢO SÁT
VỀ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA LỄ HỘI PHỦ DẦY ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG
(Dành cho du khách thập phương)
Thời gian: tháng 4 năm 2016
Địa điểm khảo sát: Quần thể di tích Phủ Dầy- xã Kim Thái- huyện Vụ Bản- tỉnh Nam Định
Lưu ý: Số liệu được biểu đạt dưới dạng X (Y%)
Trong đó: X là số liệu tuyệt đối (Đơn vị: Lượt ý kiến); Y là số liệu tương đối (đơn vị: %)
Do đối tượng nghiên cứu là người dân và kết quả nghiên cứu là các lượt phỏng vấn nên
các giá trị % được lấy tương đối làm tròn về số tự nhiên.
1. Tổng quan về mẫu khảo sát
Phiếu khảo sát được tiến hành trên mẫu nghiên cứu là 200 du khách thập phương ngẫu
nhiên tại quần thể di tích Phủ Dầy xã Kim Thái huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định
Cụ thể cơ cấu thành phần mẫu khảo sát như sau:
Nam Nữ
Giới tính (56%) (44%)
Dưới 35 tuổi 35- 50 tuổi Trên 50 tuổi
Độ tuổi
(30%) (46%) (23%)
Nông dân NV nhà nước
(cả về hưu) Kinh doanh Lao động tự do
Nghề nghiệp
(23%) (21%) (20%) (35%)
Nam Định Hà Nam- Ninh
Bình- Thái Bình
Thanh Hóa-
Nghệ An Các tỉnh khác
Địa chỉ
(23%) (23%) (01%) (52%)
Lưu ý: Các tỉnh khác chủ yếu bao gồm Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang….
219
220
2. Kết quả chi tiết
1. Ông bà có thường xuyên đến tham gia lễ hội Phủ Dầy không?
a. Đây là lần đầu tiên: (21%)
b. Thỉnh thoảng (đã từng đến): (18%)
c. Thường xuyên (hằng năm); (60%)
221
2. Ông bà thường đến Phủ Dầy vào thời điểm nào trong năm (có thể chọn nhiều phương án)
a. Khai xuân đầu năm: (98%)
b. Lễ tạ cuối năm: (05%)
c. Ý kiến khác: (01%)
3. Ông bà tham gia lễ hội Phủ Dầy với mục đích (có thể chọn nhiều phương án)
a. Tham quan lễ hội: (36%)
b. Cầu bình an cho người thân: (85%)
c. Cầu tài lộc: (68%)
d. Cầu công danh: (66%)
e. Cầu tai qua nạn khỏi: (50%)
f. Cầu khỏi bệnh tật: (48%)
g. Giao lưu bạn bè, tăng tình đoàn kết: (16%)
h. Những nhu cầu khác: (03%)
222
4. Sau khi tham gia lễ hội Phủ Dầy, ông bà thấy những lời cầu cúng của mình:
a. Không linh nghiệm: (03%)
b. Ít linh nghiệm: (15%)
c. Linh nghiệm: (26%)
d. Rất linh nghiệm: (56%)
5. Ông bà có tham gia sinh hoạt lên đồng trong lễ hội Phủ Dầy không?
a. có: (20%)
b. không: (80%)
Lưu ý: Câu này nhiều người trả lời là không tham gia lên đồng nhưng câu sau lại đánh
dấu vào vị trí khách tham dự (mẫu khảo sát chưa hiểu rõ câu hỏi)
223
6. Nếu có, ông bà tham gia sinh hoạt lên đồng với tư cách là:
a. Ông đồng, bà đồng: (01%)
b. Người hầu dâng: (02%)
c. Con nhang, đệ tử: (07%)
d. Khách tham dự: (82%)
7. Theo ông/bà, lễ hội Phủ Dầy đã có ảnh hưởng/tác động tích cực đến các mặt đời sống
như thế nào? (có thể chọn nhiều nhiều phương án, theo các mức độ…)
Không ảnh
hưởng
Ít ảnh
hưởng ảnh hưởng
Rất ảnh
hưởng
Ảnh hưởng đến hoạt động sản
xuất nông nghiệp (70%) (17%) (08%) (04%)
Ảnh hưởng đến công việc học tập (54%) (32%) (12%) (02%)
Ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh (22%) (23%) (36%) (18%)
Ảnh hưởng đến mối quan hệ trong
gia đình, xã hội (35%) (19%) (30%) (15%)
Ảnh hưởng đến sức khỏe (36%) (24%) (20%) (20%)
Các ảnh hưởng khác……………….. (04%)
224
8. Theo ông/bà, lễ hội Phủ Dầy đã có ảnh hưởng/tác động tiêu cực đến các mặt đời sống
như thế nào? (có thể chọn nhiều nhiều phương án, theo các mức độ…)
Không ảnh
hưởng
Ít ảnh
hưởng ảnh hưởng
Rất ảnh
hưởng
Ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất
nông nghiệp (74%) (18%) (05%) (03%)
Ảnh hưởng đến công việc học tập (60%) (25%) (10%) (05%)
Ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh (45%) (24%) (15%) (16%)
Ảnh hưởng đến mối quan hệ trong gia
đình, xã hội (53%) (20%) (12%) (15%)
Ảnh hưởng đến sức khỏe (49%) (18%) (16%) (16%)
Các ảnh hưởng khác………………..(01%)
225
9. Lý do ông/bà tham gia vào các hoạt động của lễ hội Phủ Dầy?
(Ông bà có thể chọn một đến nhiều phương án trả lời, bằng cách khoanh tròn)
a) Tin rằng Mẫu hiển linh cứu nhân độ thế: (59%)
b) Tưởng nhớ đến Đức Mẫu Liễu: (57%)
c) Theo phong tục địa phương: (42%)
d) Theo truyền thống gia đình: (16%)
e) Giáo dục con cháu về văn hóa dân tộc: (24%)
f) Để được Thánh Mẫu phù hộ, độ trì: (34%)
g) Sợ bị Thánh Mẫu quở phạt: (13%)
h) Theo phong trào: (04%)
i) Vì cho rằng “có thờ có thiêng có kiêng có lành”: (69%)
j) Để cầu mong cho cá nhân và gia đình: (86%)
k) Để giải trí: (29%)
l) Đi do bạn bè rủ: (40%)
m) Do cơ quan tổ chức: (18%)
s) Để tìm hiểu phong tục tập quán: (10%)
10. Theo ông/bà, các nhân tố sau đây, tác động như thế nào tới vai trò của lễ hội thờ
Mẫu Tứ phủ ở Phủ Dầy?
Không tác
động
Ít tác
động Tác động
Rất tác
động
Nhân tố lịch sử (quan niệm của mỗi
thời kỳ lịch sử) (14%) (14%) (25%) (46%)
Nhân tố tôn giáo - tín ngưỡng (09%) (16%) (23%) (52%)
Nhân tố chính trị (36%) (30%) (24%) (10%)
Nhân tố kinh tế (15%) (17%) (42%) (25%)
Nhân tố cư dân trong cộng đồng (18%) (20%) (28%) (33%)
226
11. Theo ông/bà, các nhân tố cư dân trong cộng đồng sau đây, tác động tích cực như thế
nào tới vai trò của lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ ở Phủ Dầy?
Không tác
động
Ít tác
động Tác động
Rất tác
động
Nhân tố nhóm cư dân trong cộng
đồng địa phương trực tiếp tham gia lễ
hội (tham gia phần lễ hội)
(15%) (20%) (37%) (27%)
Nhân tố nhóm cư dân trong cộng
đồng địa phương gián tiếp tham gia lễ
hội (tham gia hoạt động dịch vụ)
(15%) (21%) (31%) (32%)
Nhân tố nhóm cư dân là khách thập
phương (22%) (17%) (28%) (32%)
227
12. Theo ông/bà, các nhân tố cư dân trong cộng đồng sau đây, tác động tiêu cực như thế
nào tới vai trò của lễ hội thờ Mẫu Tứ phủ ở Phủ Dầy?
Không tác
động Ít tác động Tác động
Rất tác
động
Nhân tố nhóm cư dân địa phương
trực tiếp tham gia lễ hội (52%) (21%) (10%) (16%)
Nhân tố nhóm cư dân địa phương
gián tiếp tham gia lễ hội (50%) (23%) (17%) (10%)
Nhân tố nhóm cư dân là khách thập
phương (46%) (27%) (10%) (16%)
13. Theo ông/bà, các giá trị của lễ hội tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ tác động như thế
nào tới đời sống cộng đồng địa phương?
Không tác
động Ít tác động Tác động
Rất tác
động
Giá trị tín ngưỡng tâm linh (10%) (14%) (33%) (42%)
Giá trị giáo dục truyền thống
lịch sử (10%) (11%) (28%) (50%)
Giá trị thẩm mỹ nghệ thuật (15%) (32%) (33%) (20%)
Giá trị kinh tế xã hội (10%) (13%) (38%) (38%)
Giá trị giải trí và giá trị du lịch
văn hóa (7%) (19%) (36%) (39%)
228
14. Ông/bà hãy đánh giá về vai trò của lễ hội Phủ Dầy trong đời sống xã hội hiện nay
Vai trò của lễ hội phủ Giầy Không quan
trọng Quan trọng Rất quan trọng
Giáo dục văn hóa truyền thống 06% 33% 60%
Củng cố niềm tin đối với các vị
Thánh, Thần 06% 37% 56%
Định hướng tâm linh cộng đồng 12% 53% 34%
Cố kết tình cảm cộng đồng 10% 56% 33%
Phát triển kinh tế gia đình 25% 42% 32%
Đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải
trí của cộng đồng 29% 38% 32%
229
15. Theo ông/bà, lễ hội Phủ Dầy có ảnh hưởng tiêu cực đến cá nhân và cộng đồng
không?
a) Có: 10%
b) Không: 90%
Nếu có, thì nó ảnh hưởng tiêu cực như thế nào?....Chi tiết mời xem túi phiếu 04.
16. Ông/bà đánh giá như thế nào về tình hình lễ hội hiện nay, bằng cách trả lời các câu
hỏi sau:
+ Việc tổ chức lễ hội có tốt không?
a. Tốt: (15%)
b. Khá tốt: (37%)
c. Trung bình: (21%)
d. Không tốt: (27%)
230
+ Các hoạt động thờ cúng tín ngưỡng có bị cản trở không?
a. Có: 0
b. Không: (100%)
+ Ông/bà có hài lòng với môi trường cảnh quan của lễ hội không?
a. Rất hài lòng: (31%)
b. Hài lòng: (48%)
c. Không hài lòng: (21%)
+ Ông bà có hài lòng về các thùng đựng tiền công đức ở đây không?
a. Rất hài lòng: (37%)
b. Hài lòng: (60%)
c. Không hài lòng: (3%)
231
+ Ông/bà có hài lòng về hệ thống dịch vụ giải trí ở đây không?
a. Rất hài lòng: (11%)
b. Hài lòng: (33%)
c. Không hài lòng: (55%)
+ Ông/bà có hài lòng về dịch vụ ăn uống ở đây không?
a. Rất hài lòng: (17%)
b. Hài lòng: (47%)
c. Không hài lòng: (36%)
232
+ Ông/bà có hài lòng về nơi thờ tự ở đây không?
a. Rất hài lòng: (82%)
b. Hài lòng: (15%)
c. Không hài lòng: (3%)
+ Ông/bà có hài lòng về vệ sinh môi trường ở đây không?
a. Rất hài lòng: (12%)
b. Hài lòng: (70%)
c. Không hài lòng: (18%)