i b - sacombank.com.vn tin kinh te... · trương hạn chế đô la hóa của chính phủ và...

12
1 hoav BẢNG CHỈ SỐ Chng khoán (ngày 21/11) VN - Index 922,56 0,39% HNX - Index 103,90 0,01% D.JONES CK Mỹ 24.464,69 0,00% STOXX CK C.Âu 3.153,91 1,21% CSI 300 CK TQ 3.226,49 0,25% Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 22/11) SJC Ng.đ/L 36.590 - 0,00% Quốc tế USD/Oz 1225.80 0,56% Tgiá USD/VND BQ LNH 22.733 0,01% EUR/USD 1,1388 0,16% Du WTI USD/th 54,66 2,00% 6 NHNN vừa công bố dự thảo thông tư quy định cho vay bằng ngoại tệ của các tổ chức tín dụng, trước thềm cơ chế hiện hành sẽ kết thúc vào 31/12/2018. Dự thảo đưa ra nhằm tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế trong việc giảm chi phí vay vốn, từ đó hỗ trợ tăng khả năng cạnh tranh trong thương mại quốc tế. NHNN tiếp tục nhấn mạnh định hướng lâu dài, chuyển dần quan hệ vay - gửi ngoại tệ sang quan hệ mua - bán ngoại tệ, giảm dần tỷ lệ tín dụng ngoại tệ/tổng tín dụng, tiến tới ngừng cho vay ngoại tệ để chậm nhất đến năm 2030 cơ bản khắc phục tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế. Tin nổi bật Chuẩn bị nắn lại có lộ trình tín dụng ngoại tệ Việt Nam vay qua kênh trái phiếu gần 53 tỷ USD, xấp xỉ 23% GDP NHNN bơm ròng hơn 107.000 tỷ đồng vào thị trường kể từ đầu tháng 10 Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước: Cần vượt qua tư duy cũ Kinh tế Internet: VN phát triển vượt bậc OECD: Kinh tế toàn cầu năm 2019 sẽ chỉ tăng 3,5% ThNăm, ngày 22/11/2018 BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH [a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM [t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]

Upload: others

Post on 02-Sep-2019

0 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

1

hoav

BẢNG CHỈ SỐ

Chứng khoán (ngày 21/11)

VN - Index 922,56 0,39%

HNX - Index 103,90 0,01%

D.JONES CK Mỹ 24.464,69 0,00%

STOXX CK C.Âu 3.153,91 1,21%

CSI 300 CK TQ 3.226,49 0,25%

Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 22/11)

SJC Ng.đ/L 36.590 - 0,00%

Quốc tế USD/Oz 1225.80 0,56%

Tỷ giá

USD/VND BQ LNH 22.733 0,01%

EUR/USD 1,1388 0,16%

Dầu

WTI USD/th 54,66 2,00%

6

NHNN vừa công bố dự thảo thông tư quy

định cho vay bằng ngoại tệ của các tổ chức

tín dụng, trước thềm cơ chế hiện hành sẽ kết

thúc vào 31/12/2018. Dự thảo đưa ra nhằm

tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế

trong việc giảm chi phí vay vốn, từ đó hỗ trợ

tăng khả năng cạnh tranh trong thương mại

quốc tế. NHNN tiếp tục nhấn mạnh định

hướng lâu dài, chuyển dần quan hệ vay - gửi

ngoại tệ sang quan hệ mua - bán ngoại tệ,

giảm dần tỷ lệ tín dụng ngoại tệ/tổng tín

dụng, tiến tới ngừng cho vay ngoại tệ để

chậm nhất đến năm 2030 cơ bản khắc phục

tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế.

Tin nổi bật

Chuẩn bị nắn lại có lộ trình tín dụng ngoại tệ

Việt Nam vay qua kênh trái phiếu gần 53 tỷ

USD, xấp xỉ 23% GDP

NHNN bơm ròng hơn 107.000 tỷ đồng vào

thị trường kể từ đầu tháng 10

Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước: Cần

vượt qua tư duy cũ

Kinh tế Internet: VN phát triển vượt bậc

OECD: Kinh tế toàn cầu năm 2019 sẽ chỉ

tăng 3,5%

Thứ Năm, ngày 22/11/2018

BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH

[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM

[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]

2

Chuẩn bị nắn lại có lộ trình tín

dụng ngoại tệ

NHNN vừa công bố dự thảo thông tư quy định cho vay bằng ngoại tệ

của các TCTD, trước thềm cơ chế hiện hành sẽ kết thúc vào

31/12/2018. Cụ thể, dự thảo này đưa ra những điểm mới dự kiến sửa

đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 24/2015/TT-NHNN ngày

08/12/2015 của Thống đốc NHNN quy định cho vay bằng ngoại tệ. Khi

cơ chế hiện hành sẽ kết thúc vào cuối năm nay, nhưng hoạt động cho

vay các loại sẽ được gối đầu, từng bước kết thúc một số loại theo lộ

trình để các thành viên chủ động thực hiện. Theo dự thảo, NHNN dự

kiến tách nội dung quy định cơ chế cho vay đối với các loại nhu cầu tín

dụng khác nhau, ứng với thời hạn kết thúc khác nhau trong năm 2019.

(i) Cho vay ngắn hạn để thanh toán ra nước ngoài tiền NK hàng hóa,

DV để phục vụ trong nước được thực hiện đến hết ngày 31/03/2019. (ii)

Cho vay trung, dài hạn để thanh toán ra nước ngoài tiền NK hàng hóa,

DV được thực hiện đến hết ngày 30/09/2019. (iii) Cho vay ngắn hạn để

thanh toán ra nước ngoài tiền NK hàng hóa, DV nhằm thực hiện

phương án SX, KD hàng hóa XK được thực hiện không giới hạn về thời

gian. Theo NHNN, quy định trên nhằm thực hiện lộ trình kiểm soát cho

vay ngoại tệ theo hướng thu hẹp các nhu cầu vay vốn. Tín dụng ngắn

hạn ngoại tệ liên tục tăng qua các tháng chủ yếu do tỷ giá ổn định dẫn

đến việc vay ngoại tệ ngắn hạn có lợi. Vì vậy, nhà điều hành cho rằng

tín dụng ngắn hạn ngoại tệ cần phải được kiểm soát chặt chẽ theo

hướng thu hẹp dần, nhất là trong bối cảnh tỷ giá và thị trường ngoại tệ

được NHNN điều hành tương đối ổn định. Dự thảo cũng đưa ra nhằm

tiếp tục hỗ trợ DN và nền KT trong việc giảm chi phí vay vốn, từ đó hỗ

trợ tăng khả năng cạnh tranh trong thương mại quốc tế, trong bối cảnh

bị tác động bất lợi từ xu hướng bảo hộ thương mại toàn cầu tăng cao

(đặc biệt là tác động từ xung đột thương mại Mỹ - Trung). Bên cạnh đó,

chính sách cho vay đối với nhu cầu này hoàn toàn không trái với chủ

trương hạn chế đô la hóa của Chính phủ và NHNN do cấu trúc và cách

thức cho vay đối với nhu cầu này không tạo ra bất kỳ hiện tượng đô la

hóa nào đối với nền KT (ngoại tệ không được đưa vào lưu thông mà quay trở

lại ngay hệ thống NH).

Tài chính – Ngân hàng

3

Ngoài ra, dự thảo cũng nêu hướng quy định chi tiết hơn một số điểm

thực hiện trên thực tế, theo hướng giám sát chặt nguồn ngoại tệ vay và

trả, để quản lý và hạn chế "yếu tố ảo" cung - cầu liên quan đến tỷ giá,

cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho DN giao dịch mua - bán ngoại tệ…

NHNN tiếp tục nhấn mạnh định hướng lâu dài, chuyển dần quan hệ vay

- gửi ngoại tệ sang quan hệ mua - bán ngoại tệ, giảm dần tỷ lệ tín dụng

ngoại tệ/tổng tín dụng, tiến tới ngừng cho vay ngoại tệ để chậm nhất

đến năm 2030 cơ bản khắc phục tình trạng đô la hóa trong nền KT.

Việt Nam vay qua kênh trái phiếu

gần 53 tỷ USD, xấp xỉ 23% GDP

Theo báo cáo Giám sát Trái phiếu Châu Á (Asia Bond Monitor), ADB

nhận định các rủi ro ngắn hạn tiếp tục sẽ phủ bóng đen lên thị trường

trái phiếu bằng đồng nội tệ của các quốc gia Đông Á. Tuy nhiên ADB

cũng cho rằng các quốc gia này có thể vượt qua các thử thách nếu các

nhà hoạch định chính sách tiếp tục cảnh giác và thận trọng. Báo cáo

của ADB cho thấy quy mô trái phiếu của các thị trường mới nổi KV

Đông Á trong Q.III 4,3% so với Q.II và đạt giá trị 12,8 tỷ USD vào cuối

tháng 9. Trong Q.II, KV này chỉ 3,2%. Sự tăng trưởng trong Q.III chủ

yếu đến từ khối lượng phát hành lớn của TQ, đặc biệt là chính quyền

địa phương để lấy nguồn vốn đầu tư các dự án cơ sở hạ tầng. Tính đến

cuối tháng 9 vừa qua, TQ có thị trường trái phiếu lớn nhất Đông Á với

quy mô lưu hành 9.200 tỷ USD, #72% toàn KV. Tại VN, quy mô thị

trường trái phiếu cuối Q.III 5% so với Q.II và 15,7% so với cùng kỳ

2017. Trong đó, thị trường TPCP 5,2% so với quý trước và 14,7%

so với cùng kỳ, đóng góp chính cho tăng trưởng của thị trường chung.

Thị trường TPDN cuối Q.III 2,9% so với quý trước và 31,6% so với

cùng kỳ. Khác với đa số thị trường mới nổi khác tại Đông Á, lợi suất trái

phiếu của VN trong Q.III có xu hướng đi xuống cùng với đà giảm của LS

LNH và thanh khoản được cải thiện của các NH. NHNN VN được kì

vọng sẽ giữ ổn định LS trong những tháng cuối năm để hỗ trợ tăng

trưởng KT và sử dụng các công cụ khác để kiểm soát lạm phát. So với

quy mô nền KT, thị trường trái phiếu VN thời điểm 30/9 #23% GDP,

trong đó TPCP chiếm 21,5% GDP và TPDN 1,5%. Các trái phiếu kì hạn

dài chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong danh mục TPCP VN. Năm 2013,

Chính phủ còn chưa phát hành trái phiếu kỳ hạn >10 năm thì đến tháng

3/2018, trái phiếu có kì hạn từ 10 năm trở lên đã chiếm >27% tổng giá

trị lưu hành. Lợi suất TPCP những năm gần đây ổn định ở mức thấp

hơn nhiều so với giai đoạn bất ổn 2008-2012. Chênh lệch LS giữa trái

4

phiếu bằng VND kì hạn 10 năm và 2 năm tính đến ngày 18/11 đang

dương ở mức thấp 80 điểm cơ bản. Thời kì lạm phát cao và vĩ mô bất ổn

năm 2008, chênh lệch LS này âm tới gần 600 điểm cơ bản (6%) cho

thấy đường cong lợi suất bị đảo ngược.

Nợ xấu ngân hàng: Đại hạ giá

vẫn khó bán, nguy cơ nợ phình to

Đến thời điểm này, hầu hết các NH đã công bố công khai báo cáo tài

chính Q.III/2018, trong đó 16 NH có nợ xấu gia tăng. Tỷ lệ nợ xấu

0,4%-1,3%, tùy NH. Nếu tính cả lượng nợ xấu vẫn “nằm” tại VAMC,

nợ xấu nội bảng của các NHTM #145.000 tỷ đồng. Trước tình hình như

vậy, VAMC cùng nhiều NH đang ráo riết bắt tay xử lý nợ, thanh lý

TSBĐ, trong đó nhiều khoản nợ lớn được hạ giá hàng trăm tỷ đồng.

Thực tế này cho thấy, tiến trình xử lý nợ xấu đang gặp nhiều khó khăn,

vướng mắc. Theo TS. Lê Đăng Doanh, với khối lượng nợ xấu lớn, giảm

được như hiện nay đã là bước tiến rất đáng kể. Tuy vậy, để giảm tiếp

nữa thì đây lại là “cục xương khó nhằn” bởi nó liên quan đến các dự án

của DNNN, nếu không có nguồn vốn nào khác hỗ trợ thì các DNNN vốn

dĩ đã khó khăn rồi thì rất khó để có thể tiếp tục xử lý được. Do đó, ông

Doanh cho rằng, vấn đề xử lý nợ xấu hiện nay không hề dễ dàng. Muốn

giải quyết thì phải có quỹ, nguồn vốn để hỗ trợ việc này. Theo chuyên

gia TC-NH Nguyễn Trí Hiếu, vấn đề xử lý nợ xấu đang khó khăn, vướng

ở nhiều điểm. Đó là, Nghị quyết 42 của Quốc hội ra đời để hỗ trợ xử lý

nợ xấu, thế nhưng đó chỉ là đưa ra cơ chế, thực tế việc xử lý nợ xấu

không chỉ dựa vào cơ chế mà thành phần xử lý nợ xấu bao gồm: NH,

con nợ và các bên liên quan như, tòa án, chính quyền địa phương, cơ

quan an ninh… tùy thuộc vào sự tương tác của những đối tác đó trong

việc bắt tay xử lý nợ xấu. TS. Hiếu băn khoăn, phần lớn nợ xấu có

TSBĐ bằng BĐS. Trong khi việc xử lý loại tài sản này ở VN phải qua rất

nhiều công đoạn phức tạp. Hiện, nhiều NH cố gắng xử lý nợ xấu nhưng

thời gian quá ngắn để có thể xử lý một cách hiệu quả. Chỉ còn 1 tháng

nữa năm 2018 sẽ kết thúc, nhiều NH dùng những biện pháp kỹ thuật xử

lý chỉ để “làm đẹp” con số trong sổ sách, về thực chất không giải quyết

được vấn đề. Do vậy, tình hình xử lý nợ xấu hiện nay không khả quan.

NHNN bơm ròng hơn 107.000 tỷ

đồng vào thị trường kể từ đầu

tháng 10

Theo số liệu của CTCP Chứng khoán Bảo Việt (BVSC), trong tuần từ

12/11 - 16/11, NHNN đã bơm mới 58.066 tỷ đồng qua kênh OMO, trong

khi đó lượng vốn đáo hạn qua kênh này đạt 52.658 tỷ đồng. Trên kênh

tín phiếu, NHNN không có hoạt động phát hành tín phiếu mới trong khi

5

lượng vốn đáo hạn qua kênh này là 0 đồng. Tổng hợp hai kênh OMO và

tín phiếu, NHNN bơm ròng tổng cộng 5.408 tỷ đồng vào thị trường.

Cũng theo số liệu báo cáo thị trường hàng tuần của BVSC, lũy kế từ

đầu tháng 10 tới nay, NHNN đã bơm ròng >107.230 tỷ đồng. Trong đó,

nhà điều hành đã bơm ròng trong 6 tuần và chỉ hút ròng 1 tuần duy

nhất. Bất chấp hoạt động bơm ròng của NHNN, trên thị trường LNH, LS

trung bình tuần qua tiếp tục xu hướng tăng đối với các loại kỳ hạn qua

đêm, 1 tuần và 2 tuần. Cụ thể LS trung bình các loại kỳ hạn trên biên độ

0,034 - 0,08 điểm %. Riêng LS trung bình kỳ hạn qua đêm 0,06

điểm % đạt 4,86%/năm. LS trung bình kỳ hạn 1 tuần 0,08 điểm % đạt

4,896%/năm. LS trung bình kỳ hạn 2 tuần 0,034 điểm %, đạt

4,87%/năm. Xu hướng tăng của LS LNH đi kèm động thái bơm ròng của

NHNN tuần qua cho thấy thanh khoản toàn hệ thống vẫn tiếp tục ở

trong trạng thái eo hẹp. Trên thị trường ngoại tệ, tuần qua, tỷ giá giao

dịch trung bình tại các NHTM có xu hướng giảm nhẹ (9,4 đồng) so với

tuần trước đó, về 23.298,4 VND/USD. Trong khi đó, tỷ giá trung tâm có

bước 0,4 đồng, về 22.724,2 VND/USD. Trên thị trường TG, chỉ số

USD Index có diễn biến tăng mạnh (1,101%) so với các đồng tiền chủ

chốt khác (EUR, JPY, GBP, CAD, SEK, CHF), đạt mức 97,28 điểm.

6

Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà

nước: Cần vượt qua tư duy cũ

Đánh giá về kết quả cổ phần hoá, thoái vốn thời gian qua, Phó Thủ

tướng Vương Đình Huệ cho biết có nhiều kết quả tích cực khi giá trị

thực hiện giai đoạn 2016-2018 gấp 2,5 lần thực hiện từ 2011-2015, hiệu

quả hoạt động của DNNN tiếp tục tăng lên, tổng tài sản 3%, vốn chủ

sở hữu 4%, LNTT 4%, nộp NSNN 219.469 tỷ đồng, 5% so với

2016... Trong 8th/2018, doanh thu, lợi nhuận của các DNNN đều đạt

>70% kế hoạch cả năm. 106 DNNN sau cổ phần hoá đã niêm yết. Tuy

nhiên, DNNN vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế và khó khăn, thách thức

cần tập trung xử lý, giải quyết sớm. Đó là những bất cập trong cơ chế,

chính sách định giá quyền sử dụng đất trong xác định giá trị DN; lựa

chọn NĐT; hiệu quả SXKD; năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội

nhập và Cách mạng công nghiệp 4.0; tình trạng thất thoát, tham nhũng;

công tác cán bộ… Phó Thủ tướng đặt vấn đề cần đánh giá thực chất

kết quả cơ cấu lại DNNN khi Nhà nước vẫn còn nắm giữ #90% vốn điều

lệ tại gần 600 DNNN. Hiệu quả SXKD của DNNN còn thấp so với nguồn

lực đang nắm giữ. Mặc dù chủ trương, chính sách đã rõ, song Phó Thủ

tướng nhấn mạnh khâu thực hiện còn rất yếu, do trực tiếp liên quan đến

lãnh đạo DN và các bộ, ngành, địa phương. Thực tế cho thấy, cùng một

chủ trương, cơ chế, chính sách nhưng có nơi thực hiện tốt, có nơi chậm

trễ, làm mãi không xong, đùn đẩy trách nhiệm, kéo dài. “Chúng ta phải

quyết tâm vượt qua tư duy cũ, quyết tâm nói không với tham nhũng,

lãng phí, lợi ích nhóm; đây cũng là một nguyên nhân chính cản trở quá

trình cơ cấu lại DNNN”, Phó Thủ tướng nhấn mạnh.

Kinh tế Internet: Việt Nam phát

triển vượt bậc

VN hiện có nền KT Internet phát triển nhất tính trên giá trị hàng hóa

mua bán trong 2018, #4% GDP quốc gia, theo một nghiên cứu mà 2

công ty Google và Temasek công bố ngày 19/11. Singapore đứng thứ 2

với 3,2% GDP. Tuy nhiên, Indonesia là nước có tốc độ phát triển nhanh

nhất và dự kiến đạt 100 tỷ USD vào 2025. Indonesia, Malaysia,

Philippines, Singapore, Thái Lan và VN là đối tượng chính của nghiên

cứu này. Theo đó, nền KT Internet tại Đông Nam Á dự kiến vượt 240 tỷ

USD và tạo 1,7 triệu việc làm toàn thời gian vào 2025, gấp 3 lần so với

Kinh tế Việt Nam

7

2018. Đông Nam Á cũng đang đẩy mạnh đầu tư vào KT Internet, với

tổng nguồn vốn đã 24 tỷ USD trong 3 năm qua và ước tính thu hút

40-50 tỷ USD đầu tư vào 2025 để phát triển ngành KT tiềm năng này.

Thời gian qua, dòng đầu tư chủ yếu rót vào các DV gọi xe hay thương

mại điện tử, #20 tỷ USD. Thương mại điện tử là lĩnh vực phát triển

nhanh nhất của KT Internet với tốc độ 100%/năm, >120 triệu người

mua và dự kiến đạt 100 tỷ USD trong vài năm tới. Trong khi đó, lĩnh vực

gọi xe, bao gồm vận chuyển và giao hàng, sẽ đạt 7,7 tỷ USD vào cuối

2018 và 5 lần vào 2025. Ngoài ra, các công ty khởi nghiệp tại KV

cũng bắt đầu nhận được nhiều đầu tư hơn trong các giai đoạn ban đầu.

KV đã chứng kiến sự phát triển kinh ngạc của những công ty khởi

nghiệp như Grab, Go-Jek, Lazada. Đầu tư cũng rót vào các mảng khác

của KT Internet như kỹ thuật tài chính, giáo dục, chăm sóc y tế…

Chờ sóng đầu tư từ Ấn Độ

Tại Diễn đàn DN VN - Ấn Độ, Tổng thống Ấn Độ Ram Nath Kovind cho

biết, quốc gia này đang tập trung vào cải cách nền KT, cải cách mô

hình tăng trưởng để có thể khai thác hết tiềm năng của người dân. Ông

nhấn mạnh, đây chính là điểm tương đồng với tiến trình phát triển của

VN. DN hai nước đang đứng trước nhiều cơ hội lớn để hợp tác, đặc biệt

trong các lĩnh vực mới như công nghệ thông tin, KT số, năng lượng tái

tạo, y tế, hàng không dân dụng... Bên cạnh đó là các lĩnh vực mang

tính truyền thống như nông nghiệp, du lịch, dược phẩm… Cùng với đó,

Tổng thống khuyến nghị hai nước cần tạo môi trường thuận lợi để

khuyến khích sáng tạo, khởi nghiệp trong bối cảnh cuộc cách mạng

công nghiệp lần thứ 4. Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng khẳng định, Ấn

Độ hiện là 1 trong 10 đối tác thương mại lớn nhất của VN. Trong vòng 8

năm qua, kim ngạch thương mại 2 chiều giữa VN và Ấn Độ đã 4 lần.

Đây là bước tăng trưởng mạnh mẽ, tạo đà để 2 quốc gia hợp tác hiệu

quả hơn trong thời gian tới. Theo số liệu của VN, năm 2017, kim ngạch

thương mại hai chiều ước đạt 7,63 tỷ USD. Tính đến tháng 9/2018, kim

ngạch thương mại hai chiều đạt 8,3 tỷ USD (47,1% so với cùng kỳ). Hai

nước đang hướng tới mục tiêu đưa kim ngạch thương mại song phương

đạt 15 tỷ USD thời gian tới. “Nhằm sớm đưa VN trở thành nước công

nghiệp theo hướng hiện đại hóa, chúng tôi đặt mục tiêu duy trì tốc độ

tăng trưởng GDP BQ 6,5 - 7%/năm tính đến 2020, quy mô GDP đạt

320 - 350 tỷ USD, GDP BQ/người đạt khoảng 3.200-3.500 USD, quy

mô thương mại đạt 600 tỷ USD”, Phó Thủ tướng cho biết.

8

OECD: Kinh tế toàn cầu năm

2019 sẽ chỉ tăng 3,5%

Theo báo cáo triển vọng KT mới nhất của OECD: (i) Toàn cầu - Tốc độ

tăng trưởng 2019 dự kiến 3,5%, 0,2% sv mức dự báo 3,7% trước

đó. Tăng trưởng KT 2018 ở mức 3,7% nhưng 2020 sẽ giảm về 3,5%; (ii)

TQ - Tốc độ tăng trưởng KT trong 2018, 2019 và 2020 giảm nhẹ lần

lượt xuống còn 6,6%, 6,3%, 6% do XK và đầu tư vào CSHT giảm; (iii)

Nhật - Tăng trưởng KT trong 2018 sẽ giảm từ mức 1,2% xuống 0,9% và

2019 từ mức 1,2% xuống còn 1% trong bối cảnh kế hoạch tăng thuế

tiêu dùng từ tháng 10/2019 có khả năng tác động mạnh đến nhu cầu

tiêu dùng, KT 2020 sẽ 0,7%; (iv) Mỹ - Tăng trưởng trong 2018, 2019

và 2020 giữ nguyên sv dự báo trước, lần lượt ở mức 2,9%, 2,7% và

2,1% khi chính sách cải cách thuế mới đây hỗ trợ tốt cho đầu tư của

DN; (v) Eurozone - Dự kiến 1,9% trong 2018, 1,8% trong 2019 và

1,6% vào 2020, giảm nhẹ sv các dự báo trước đó… Một số thách thức

đối với tăng trưởng KT toàn cầu do căng thẳng thương mại và bất ổn

chính trị gây ra. Căng thẳng thương mại đã kéo đà tăng trưởng GDP

toàn cầu 0,1-0,2 điểm % trong 2018. Nếu Mỹ tăng thuế bổ sung lên

mức 25% đối với tất cả các mặt hàng NK từ TQ như Tổng thống Trump

đe dọa, mức tăng trưởng KT thế giới sẽ giảm xuống #3% vào 2020.

Ngành ngân hàng Mỹ ghi nhận

kết quả tài chính khả quan

Ngành NH Mỹ đã ghi nhận kết quả tài chính khả quan trong Q.III. Cụ

thể, các NHTM và các tổ chức tiết kiệm đạt tổng thu nhập ròng 62 tỷ

USD, cao hơn 29,3% sv cùng kỳ 2017. Có hơn 70% trong số 5.477 tổ

chức tăng trưởng trong báo cáo LN hàng quý. Doanh thu hoạt động

tăng và thuế thấp là nguyên nhân giúp cải thiện thu nhập ròng của

ngành NH. Sv cùng kỳ 2017, tỷ lệ các NH làm ăn không có lãi cũng

giảm từ 4% xuống mức 3,5%; cán cân cho vay tăng, tỷ lệ thu nhập lãi

ròng (NIM) được cải thiện và số lượng “NH có vấn đề” tiếp tục giảm. Có

5.044 NH phục vụ cộng đồng có thu nhập ròng đạt 6,8 tỷ USD,

21,6%. Tuy nhiên, LS thấp trong thời gian dài và sự cạnh tranh trong

việc thu hút khách hàng vay vốn có thể dẫn đến rủi ro LS và rủi ro tín

dụng. Các NH cần phải duy trì sự quản lý thận trọng đối với những rủi

ro này để giữ vững hoạt động cho vay trong suốt chu kỳ KT.

Kinh tế Quốc tế

9

Goldman Sachs: Tăng trưởng 2

con số sẽ trở lại với các thị

trường mới nổi trong 2019

Theo Goldman Sachs, việc rơi vào thị trường gấu trong 2018 khiến

nhiều người tỏ ra lo ngại cho tương lai các thị trường mới nổi. Tuy nhiên,

nền KT Mỹ có thể tiếp tục tăng trưởng tới 2020 và TQ đang nỗ lực kiểm

soát việc giảm tốc KT bằng các biện pháp kích thích có thể giúp CK ở

các nền KT mới nổi tăng trưởng tới 12%. "LN có thể tốt hơn trong 6th tới

sv 6th tiếp theo, đặc biệt là khi những lo ngại về sự suy thoái của nền

KT Mỹ tăng lên vào thời gian đó", Cổ phiếu tại các thị trường mới nổi sẽ

có sự tăng trưởng mạnh mẽ nhất, đặc biệt là sau đợt giảm nghiêm trọng

của CK TQ. Tiền tệ tại các quốc gia đang phát triển cũng có thể tăng

trung bình 2% giá trị trong bối cảnh USD yếu hơn. Lợi tức trái phiếu địa

phương cũng trở lại mức 10% trong khi TPCP là 5,5%... Cái nhìn của

Goldman Sachs hoàn toàn trái ngược sv các dự báo cho thấy 2019 sẽ

là năm khó khăn với thị trường tài chính toàn cầu. Những ảnh hưởng từ

chiến tranh thương mại giữa Mỹ và TQ sẽ chỉ được cảm nhận vào 2019

dù Tổng thống Trump đã đánh thuế hàng hóa NK của TQ từ giữa 2018.

Những tín hiệu tích cực đằng sau

tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm

chạp của Trung Quốc

Nỗ lực của TQ trong việc kiềm chế những hoạt động cho vay mang

nhiều rủi ro, cải tổ ngành công nghiệp, hạn chế tăng giá nhà là những

mục tiêu được giữ vững ngay cả khi tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt

mức chậm nhất trong #30 năm cùng mối đe doạ từ chiến thương mại

với Mỹ… Thay vì tiếp cận với cách chi tiêu đầu tư đã cũ và CSTT đầy

hỗn loạn của 2009 hoặc 2015, TQ đang làm dịu sự căng thẳng của nền

KT với mục tiêu cắt giảm thuế, đưa ra những ưu đãi đầu tư và nỗ lực để

có thêm tín dụng cho DNTN có hoạt động hiệu quả. Theo các chuyên

gia KT: "Các nhà lãnh đạo TQ đã đạt được những thành công ấn tượng

trong việc tái cấu trúc một bộ phận có tính đầu cơ nhất của hệ thống tài

chính của nước này. Nhiều nhà phân tích lại không nhận ra những

thành tựu đáng kể này". TQ đã lớn mạnh hơn rất nhiều sv trước đây nên

mức tăng trưởng 6% có thể sẽ tạo ra nhu cầu toàn cầu tương đương với

thành tựu 02 con số trước đây. Một phần trong chính sách đó là kiềm

chế tình trạng vượt quá giới hạn là tăng trưởng năng suất (tăng từ mức

BQ #1,9%/năm trong 2014-2016 lên đến 2,4% trong 2018). Một trong những

yếu tố quan trọng để thúc đẩy những cải tiến đó là loại bỏ tình trạng dư

thừa trong các ngành công nghiệp SX thép, xi măng. TQ ước tính tình

trạng nợ gia tăng sẽ ở "đi ngang" trong 2018, khiến tỷ lệ Tổng nợ/VCSH

#276% của GDP và con số này sẽ #3% vào 2019. Nhìn xa hơn, một

số chính sách ảnh hưởng đến NĐT và công ty có thể xem là một điều

Trái phiếu CNY trong nước nắm giữ

bởi khối ngoại (ngàn tỷ CNY)

Đầu tư CSHT chậm lại, nhưng đầu tư BĐS tăng

10

tích cực. Cụ thể, nhà hoạch địch chính sách có cuộc "càn quét" đối với

hệ thống NH "bóng tối"; không có dấu hiệu nào cho thấy chính sách sẽ

nới lỏng; đầu tư BĐS đã nằm trong tầm kiểm soát... "Mỗi khi TQ bị ảnh

hưởng bởi một cú sốc, họ bị hoảng loạn và khiến các đầu mối tín dụng

không thể duy trì mức tăng trưởng. Trái ngược với trước đây, người TQ

có vẻ như đang cố gắng đặt ra mức sàn cho tốc độ tăng trưởng, chứ

không phải là lên kế hoạch phục hồi TTTD". Khi xung đột thương mại

với Mỹ trở nên căng thẳng hơn, TQ đã nới lỏng một số sự điều chỉnh đối

với tiền tệ và giảm bớt y/c quy định đối với NH để khuyến khích cho

vay.…"Các nhà hoạch định chính sách đã thực sự thay đổi hướng đi

của họ đối với việc kích thích nền KT. Họ nhắc đi nhắc lại nhiều lần

rằng họ không muốn thực hiện một "cú nổ" kích thích như 2009 và tôi

nghĩ lần này họ thực sự đã thực hiện được”.

Indonesia thâm hụt thương mại

1,8 tỷ USD trong tháng 10/2018

Cán cân thương mại của Indonesia đã ghi nhận mức thâm hụt 1,82 tỷ

USD trong tháng 10/2018, qua đó nâng thâm hụt thương mại trong 10th

tính từ đầu năm lên 5,51 tỷ USD. Theo thống kê, trong tháng 10/2018

thâm hụt thương mại phi dầu khí được ghi nhận ở mức 0,39 tỷ USD, khi

mà tăng trưởng NK phi dầu và khí vượt mức tăng trong XK tương ứng.

Cụ thể, NK phi dầu mỏ và khí đốt 2,39 tỷ USD so với tháng 9, do kim

ngạch NK nguyên liệu thô và hàng hóa như máy móc và thiết bị cơ khí,

thiết bị điện, sắt thép, nhựa và các sản phẩm bằng nhựa, cũng như

ngành thực phẩm đã tăng lên. Trong khi đó, XK phi dầu mỏ và khí đốt

0,68 tỷ USD, dẫn đầu là các mặt hàng SX bao gồm cả xe cộ và linh

kiện, trang sức, đá quý, giày dép, cũng như hóa chất vô cơ. Trong giai

đoạn từ tháng 1-10/2018, thặng dư thương mại phi dầu khí của

Indonesia ở mức 5,22 tỷ USD. Ngoài ra, thâm hụt thương mại dầu khí

của nước này cũng tăng từ 1 tỷ USD trong tháng 9 lên 1,43 tỷ USD

trong tháng 10, trong đó đóng góp chính cho con số thâm hụt này là

kim ngạch NK dầu và khí đốt trị giá 0,62 tỷ USD. Tính chung từ tháng 1-

10/2018, thâm hụt thương mại dầu khí ở mức 10,74 tỷ USD. Theo phân

tích của BI, nhu cầu trong nước liên tục tăng mạnh, đặc biệt là nguồn

vốn đầu tư, dẫn đến thâm hụt tài khoản vãng lai tăng lên trong tháng

10/2018. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư sôi nổi được kỳ vọng sẽ thúc đẩy

tăng trưởng và khả năng cạnh tranh của Indonesia trong tương lai. Tính

đến tháng 10/2018, BI dự báo thâm hụt tài khoản vãng lai vẫn thấp hơn

ngưỡng 3% GDP và vẫn trong tầm kiểm soát.

11

Tài liệu tham khảo:

Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/Modules/Cms/Web/ViewArticle/b6d10da6-7c26-40d8-b720-20e298a4ed06

https://hnx.vn/

https://www.bloomberg.com/markets/stocks

http://www.sjc.com.vn/

https://goldprice.org/vi/index.html

https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?_afrLoop=515501331129000

Tin Tài chính - NH https://vietnambiz.vn/nhnn-bom-rong-hon-107-nghin-ti-dong-vao-thi-truong-ke-tu-dau-thang-10-

111057.html

https://vietnambiz.vn/viet-nam-vay-qua-kenh-trai-phieu-gan-53-ti-usd-xap-xi-23-gdp-110915.html

http://cafef.vn/chuan-bi-nan-lai-co-lo-trinh-tin-dung-ngoai-te-20181121215413376.chn

http://cafef.vn/no-xau-ngan-hang-dai-ha-gia-van-kho-ban-nguy-co-no-phinh-to-

20181122074409751.chn

Tin KT vĩ mô http://thoibaonganhang.vn/co-cau-lai-doanh-nghiep-nha-nuoc-can-vuot-qua-tu-duy-cu-82295.html

https://vietstock.vn/2018/11/kinh-te-internet-viet-nam-phat-trien-vuot-bac-768-640276.htm

http://thoibaonganhang.vn/cho-song-dau-tu-tu-an-do-82273.html

Tin KT Quốc tế https://vietnambiz.vn/oecd-kinh-te-toan-cau-nam-2019-se-chi-tang-35-111141.html

https://vietnambiz.vn/nganh-ngan-hang-my-ghi-nhan-ket-qua-tai-chinh-kha-quan-111069.html

http://cafef.vn/goldman-sachs-tang-truong-2-con-so-se-tro-lai-voi-cac-thi-truong-moi-noi-trong-

nam-2019-20181121110006451.chn

http://cafef.vn/nhung-tin-hieu-tich-cuc-dang-sau-toc-do-tang-truong-kinh-te-cham-chap-cua-trung-

quoc-20181121153726327.chn

https://vietnambiz.vn/indonesia-tham-hut-thuong-mai-hon-18-ty-usd-trong-thang-102018-

111146.html

12

Danh mục viết tắt

Bảo hiểm tiền gửi BHTG Lãi suất LS

Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH

Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT

Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST

Bảo hiểm nhân thọ BHNT Mua bán, sáp nhập M&A

Bất động sản BĐS Ngân hàng NH

Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng trung ương NHTW

Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng Nhà nước NHNN

Chính sách tiền tệ CSTT Ngân hàng thương mại cổ phần NHTM CP

Cơ sở hạ tầng CSHT Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTM NN

Doanh nghiệp nhà nước DNNN Ngân hàng nước ngoài NHNNg

Doanh nghiệp tư nhân DNTN Ngân sách nhà nước NSNN

Doanh nghiệp vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách trung ương NSTW

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI Tài chính - ngân hàng TC-NH

Khách hàng doanh nghiệp KHDN Tài sản bảo đảm/ Tài sản đảm bảo TSBĐ/ TSĐB

Khách hàng cá nhân KHCN Tăng trưởng tín dụng TTTD

Dự trữ bắt buộc DTBB Tổ chức tín dụng TCTD

Nhà đầu tư nước ngoài/ Nhà đầu tư NĐTNN/ NĐT Tổng tài sản TTS

Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổng sản phẩm quốc nội GDP

Giấy chứng nhận GCN Việt Nam VN

Giá trị gia tăng GTGT Trung Quốc TQ

Thu nhập cá nhân/ Thu nhập doanh nghiệp TNCN/ TNDN Trái phiếu Chính phủ TPCP

Kinh tế vĩ mô KTVM Trái phiếu doanh nghiệp TPDN

Kinh tế KT Thị trường chứng khoán/ Chứng khoán TTCK/ CK

Xã hội XH Vốn điều lệ VĐL

Khu vực KV Vốn tự có VTC

Thế giới TG Xuất nhập khẩu/ Xuất khẩu/ Nhập khẩu XNK/ XK/ NK

Kho bạc Nhà nước KBNN Sản xuất kinh doanh SXKD

Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Dịch vụ DV

Cục dự trữ liên bang Mỹ FED Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP

Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Hiệp hội Lương thực VN VFA

Ngân hàng Thế giới (World Bank) WB Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA

Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Thép VN VSA

Ngân hàng trung ương châu Âu ECB Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội HNX

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM HOSE

Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO

Liên minh châu Âu EU Tổng cục thống kê GSO (TCTK)