ĐẠi hỌc quỐc gia hÀ nỘi - hus.vnu.edu.vn · hầu hết các kim loại nặng đều...

32
ĐẠI HC QUC GIA HÀ NI TRƢỜNG ĐẠI HC KHOA HC TNHIÊN NGUYN HOÀNG LINH NGHIÊN CU ẢNH HƢỞNG CA HOẠT ĐỘNG CHUYÊN CANH HOA ĐẾN MÔI TRƢỜNG ĐẤT VÙNG VEN ĐÔ HÀ NỘI Chuyên ngành: Môi trường đất và nước Mã s: 62440303 DTHO TÓM TT LUN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC MÔI TRƢỜNG Hà Ni 2016

Upload: others

Post on 09-Sep-2019

1 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

NGUYỄN HOÀNG LINH

NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA HOẠT ĐỘNG

CHUYÊN CANH HOA ĐẾN MÔI TRƢỜNG ĐẤT

VÙNG VEN ĐÔ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Môi trường đất và nước

Mã số: 62440303

DỰ THẢO TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC MÔI TRƢỜNG

Hà Nội – 2016

Công trình được hoàn thành tại

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

1. PGS.TS. Lê Văn Thiện

2. PGS.TS. Ngô Thị Tƣờng Châu

Phản biện 1:……………………………………..

Phản biện 2:……………………………………..

Phản biện 3:……………………………………..

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng cấp Đại học Quốc gia

chấm luận án Tiến sĩ họp tại: Trường Đại học Khoa học Tự nhiên

vào hồi giờ ngày tháng năm 2016

Có thể tìm hiểu Luận án tại:

- Thư viện Quốc gia Việt Nam

- Trung tâm Thông tin – Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội

1

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của Đề tài Những năm gần đây việc sử dụng phân bón, chất kích thích sinh trưởng và hóa chất

bảo vệ thực vật (HCBVTV) trong thâm canh sản xuất, đặc biệt trong thâm canh hoa, rau đang có xu hướng gia tăng cả về số lượng lẫn chủng loại. Một thực tế hiện nay là việc sử dụng HCBVTV tràn lan, không thể kiểm soát đã và đang gây ảnh hưởng xấu đến môi trường đất, nước, không khí, sức khoẻ con người và môi trường sinh thái.

Mặt khác, xã hội đang ngày càng phát triển nên nhu cầu lương thực và làm đẹp cho cuộc sống ngày càng tăng, vì thế nghề trồng hoa và rau trở thành nghề sản xuất chính tại một số vùng chuyên canh ngoại thành Hà Nội nhằm đáp ứng nhu cầu an ninh lương thực và thú chơi hoa trong nước và xuất khẩu. Người dân trong một số vùng đã chuyển đổi từ trồng lúa sang chuyên canh trồng hoa, rau và nổi lên trong đó có phường Tây Tựu, huyện Từ Liêm, Hà Nội và xã Mê Linh, huyện Mê Linh, Hà Nội. Trong khoảng 20 năm trở lại đây đã có sự chuyển đổi cơ cấu canh tác nên đến nay kinh tế trong các hộ nông dân tại đây đã hoàn toàn thay đổi, nhiều hộ gia đình trở thành “triệu phú”, cơ sở hạ tầng được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ lúa sang hoa, rau với mức thâm canh cao đã làm phát sinh những vấn đề môi trường do sử dụng phân bón hóa học, chất kích thích sinh trưởng, HCBVTV quá mức trong chuyên canh nhằm tối đa hoá lợi nhuận nên đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng môi trường đất, nước, không khí và sức khỏe cộng đồng.

Chính vì vậy, chúng tôi đã tiến hành đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của hoạt động chuyên canh hoa đến môi trường đất vùng ven đô Hà Nội” nhằm đánh giá tổng thể tác động của hoạt động chuyên canh hoa đến chất lượng môi trường đất và đề xuất các giải pháp canh tác bền vững cho địa bàn nghiên cứu. Đề tài có ý nghĩa khoa học và thực tiễn cao, hướng tới nền nông nghiệp bền vững cho các vùng ngoại thành Hà Nội nói riêng và ở Việt Nam nói chung.

2. Mục tiêu, nhiệm vụ của Luận án Nghiên cứu, đánh giá tác động của hoạt động chuyên canh hoa đến chất lượng môi

trường đất, đặc biệt thông qua sự đánh giá mức độ tồn dư hoá chất bảo vệ thực vật, kim loại nặng trong môi trường đất và ảnh hưởng của chúng đến hệ sinh học đất; trên cơ sở các kết quả nghiên cứu đề xuất giải pháp nhằm làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường đất chuyên canh trong hoa.

3. Những đóng góp mới của Luận án a) Đã đánh giá một cách có hệ thống các yếu tố tác động đến môi trường đất vùng chuyên canh hoa tại các ruộng trồng hoa tại phường Tây Tựu và Xã Mê Linh (Hà Nội) thông qua kết quả phân tích nước tưới, phân bón, vôi bột, hóa chất bảo vệ thực vật, tàn dư của cây hoa trong đất và đất trồng hoa hồng, hoa đồng tiền, hoa cúc. b) Đã xác định thấy mối liên hệ giữa mức độ bón phân và vôi cho đất trồng cây hoa đến mức độ tích lu Cu, Cd, n, s, Hg trong môi trường đất ở cả hai khu vực nghiên cứu. Hầu hết các kim loại nặng đều giảm dần theo độ sâu của phẫu diện đất. Mức độ tích lũy kim loại nặng trong đất chuyên canh hoa giảm dần theo thứ tự đất trồng hoa hồng > đất trồng hoa cúc và hoa đồng tiền > đất trồng rau. Ở tầng đất 0-20 cm trồng hoa Hồng thuộc vùng chuyên canh hoa Tây Tựu thì Cu, Cd và Pb dạng tổng số đều vượt ngưỡng QCVN 03:2008 tương ứng là 3,17 lần, 2,62 lần và 1,57 lần; Hg, n nằm trong mức an toàn, và còn ở vùng chuyên canh hoa xã Mê Linh, hàm lượng Cd và Cu tổng số trong đất vượt ngưỡng cho phép theo QCVN 03:2008/BTNMT tương ứng là 2,42 lần và 2,58 lần; As, Zn, Hg nằm trong mức an toàn. d) Đã xác định thấy mối liên quan giữa sử dụng và tích lũy hóa chất bảo vệ thực vật

trong môi trường đất trồng hoa. Trong đất trồng hoa ở hai vùng nghiên cứu tìm thấy nhiều

loại hóa chất bảo vệ thực vật, nhưng chỉ có các chất clo hữu cơ thì vượt ngưỡng cho phép theo

QCVN 15:2008/BTNMT. Ở Tây Tựu, DDT trong đất trồng hoa Hồng vượt 1,42-1,65 lần, đất

trồng hoa cúc vượt không đáng kể; Ở Mê Linh, mức độ tích lũy trong đất trồng hoa hồng lớn

hơn trong đất trồng hoa cúc và hoa đồng tiền, thấp nhất là đất trồng rau. Lượng BHC, DDT,

DDE vượt ngưỡng cho phép theo QCVN 15:2008/BTNMT, trong đó BHC trong đất trồng hoa

Hồng vượt 10,4-12,7 lần.

e) Đã dụng chỉ số đa dạng H’ và chỉ số đồng đều J’ để đánh giá tác động của hoạt

động chuyên canh hoa, cho thấy cấu trúc quần xã chân khớp bé Collembola ở các ruộng thu

mẫu ở Tây Tựu và Mê Linh đã chịu ảnh hưởng bởi lượng sự ô nhiễm KLN và HCBVTV.

Điều này thể hiện ở chỗ, trong ruộng chuyên canh trồng hoa mức độ đa dạng H’ của quần xã

2

động vật chân khớp bé Collembola thấp hơn so trong đất đối chứng; so với đất đối chứng,

quần xã ở các ruộng chuyên canh trồng hoa lại kém bền vững, kém ổn định hơn so với đất đối

chứng không bị tác động bởi sự tích tụ chất gây ô nhiễm.Kết quả nghiên cứu đã ghi nhận các

loài ưu thế vượt trội ở các ruộng chuyên canh trồng hoa riêng biệt ở Tây Tựu là Isotomurus

palutris, Cryptopygus thermophilus, Sminthurides bothrium, Isotomurus punctiferus,

Cyphoderus javanus; và ở Mê Linh là Isotomurus palutris, Cyphoderus javanus,

Protaphorura tamdaona. Các loài này giảm dần trong đất chuyên canh trồng hoa theo thứ tự:

rau, hoa cúc, hoa hồng 2 năm, hoa hồng 6 năm, hoa hồng 4 năm, hoa đồng tiền.

g) Lần đầu tiên sử dụng k thuật điện di trên gel biến thiên (DGGE) để xác định loài

và đánh giá sự biến động về thành phần, số lượng vi sinh vật đất chuyên canh trồng hoa tại hai

vùng nghiên cứu. Số lượng VSV tổng số ở mẫu đất đối chứng cao hơn các mẫu đất chuyên

canh trồng hoa. Các nhóm VSV chức năng ở các mẫu đất chuyên canh trồng hoa lớn hơn mẫu

đối chứng, nhưng chênh lệch không nhiều. Dựa vào trình tự 16S r RN, đã xác định thấy, năm

trong số sáu loài vi khuẩn ưu thế là các vi khuẩn chưa được nuôi cấy (B1-B5). Chỉ có loài vi

khuẩn B6 là loài thuộc chi Klebsiella đã được công bố với tên gọi là Klebsiella sp. Những loài

vi khuẩn chưa được nuôi cấy này được kỳ vọng là những loài mới.

4. Bố cục của Luận án

Luận án có 137 trang gồm phần mở đầu 04 trang; Chương 1: Tổng quan dài 28 trang,

có 05 bảng; Chương 2: Đối tượng và phương pháp nghiên cứu dài 15 trang, có 04 bảng;

Chương 3: Kết quả và Thảo luận dài 68 trang, có 29 bảng và 09 hình; Kết luận dài 03 trang,

có 06 kết luận; Kiến nghị: có 04 kiến nghị; Danh mục các công trình khoa học có liên quan

đến Luận án đã được công bố dài 01 trang, có 06 công trình; Tài liệu tham khảo dài 18 trang,

có tổng số là 184 tài liệu trong đó có 25 tài liệu tiếng Việt và 159 tài liệu tiếng nh; Phụ lục

gồm 36 Phụ lục.

3

NỘI DUNG CHÍNH CỦA LUẬN ÁN

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Đất canh tác và nhóm chỉ tiêu đánh giá chất lƣợng đất

Kết cấu của đất ảnh hưởng rất lớn tới các tính chất đất, nhất là tính chất vật lý của đất.

Tỷ trọng của đất được quyết định chủ yếu bởi các loại khoáng nguyên sinh, thứ sinh và hàm

lượng chất hữu cơ trong đất. Nhìn chung do tỷ lệ chất hữu cơ trong đất thường không lớn nên

tỷ trọng đất sẽ phụ thuộc chủ yếu vào thành phần khoáng vật của đất, thường dao động từ 2,5

- 2,8.

- Một số nhóm chỉ tiêu lý hóa học đất:

+ Phản ứng của đất. Phản ứng của đất biểu thị mức độ chua hay kiềm của đất, được

đo và biểu hiện bằng giá trị pH [69].

+ Dung tích hấp thụ (dung tích trao đổi cation - CEC), tổng bazơ trao đổi (S), độ bão

hòa bazơ của đất (BS): Dung tích hấp thụ của đất phụ thuộc vào thành phần keo, thành phần

cơ giới đất, tỷ lệ SiO2/R2O3 và pH. Đất càng nhiều mùn và montmorilonit thì CEC càng lớn;

thành phần cơ giới đất càng nặng thì CEC càng lớn; tỷ lệ SiO2/R2O3 càng lớn thì CEC càng

lớn; độ pH đất tăng lên thì CEC cũng tăng lên [69]. Khi pH của đất bằng 8,2 thì giá trị CEC

của mỗi loại đất là khác nhau.

+ Hàm lượng kim loại nặng trong đất. Đất luôn có chứa một số lượng KLN nhất định

[19]. Ở Việt Nam, đất sử dụng trong nông nghiệp có qui định ngưỡng giá trị giới hạn cho

phép của tổng số một số KLN [3], theo đó hàm lượng (mg/kg) của Cu là 50, Zn là 200, Pb là

70, As là 12, Cd là 2, Hg là 2.

+ Hàm lượng một số chất dinh dưỡng chủ yếu trong đất: Chỉ tiêu đánh giá hàm lượng

phốt pho tổng số (P2O5 tổng số) được chia thành 3 mức như sau: Giàu: P2O5 tổng số > 0,10%;

trung bình: P2O5 tổng số từ 0,06 - 0,10%, nghèo: P2O5 tổng số < 0,06% [11] . Hàm lượng của

nguyên tố nitơ trong đất được chia thành các mức: rất cao (> 0,35%), cao (0,226 - 0,3%),

trung bình (0,126 - 0,226%), thấp (0,05 - 0,126%), rất thấp (< 0,05%) [69].

- Một số nhóm chỉ tiêu sinh học đất

Tính toán của các nhà khoa học đất cho thấy, trên 1ha đất trồng trọt (độ sâu 20-30 cm)

có 5-7 tấn vi khuẩn, 2-3 tấn nấm men, nấm mốc, xạ khuẩn, động vật nguyên sinh... và 3-4 tấn

động vật không xương sống (giun, ấu trùng, sâu bọ, tuyến trùng...). Vì vậy khi đánh giá về

sinh học đất, các nhà khoa học đất đã đề xuất các chỉ tiêu về số lượng vi sinh vật trong đất;

khả năng nitrat hóa và khả năng cố định đạm trong đất; cường độ phân giải xenlulorơ, hô hấp

của đất, và hoạt tính men của đất.

1.2. Ảnh hƣởng của hoạt động canh tác nông nghiệp tới chất lƣợng đất

1.2.1. Ảnh hưởng của quá trình canh tác tới chất hữu cơ trong đất

Khi bón phân hữu cơ sẽ là tăng hàm lượng SOM trong đất. SOM là thành phần quan

trọng góp phần làm tăng độ phì của đất, tăng hoạt tính của đất và tăng tính bền vững của cấu

trúc đất. Nó góp phần làm giảm thiểu tác động tiêu cực của môi trường, và do đó cải thiện

chất lượng đất [11].

Loại cây trồng ảnh hưởng tới SOM cũng như chất lượng đất rất mạnh mẽ trong các hệ

độc canh liên tục. Những tác động tiêu cực của độc canh nổi bật là nghèo hóa hệ động vật đất;

tăng số lượng dịch hại cây trồng; giảm hoạt động của quá trình dehidrogenaza và phốt phát

hóa và tăng hàm lượng các axit phenolic trong đất.

1.2.2. Ảnh hưởng của bón phân tới hàm lượng các nguyên tố trong đất Bón phân là một trong những hoạt động quan trọng nhất trong sản xuất nông nghiệp,

ảnh hưởng của nó trên các chất dinh dưỡng sẵn có trong đất. Các nhà khoa học đã chỉ ra rằng, khi sử dụng phân bón bón cho cây trồng sẽ làm tăng đáng kể hàm lượng N, P, K và SOM trong lớp đất canh tác so với lớp đất phía dưới [90]. Nếu duy trì lớp phủ tàn dư thực vật sau thu hoạch và tăng tỷ lệ lượng phân bón các loại sẽ có thể duy trì được chất lượng đất [35].

4

Bên cạnh đó các loại phân bón vô cơ, vôi và phân hữu cơ, phân bùn,… có một lượng đáng kể các KLN. Thành phần KLN trong phân bón đã nêu trên đã được một số tác giả nghiên cứu. Trong số các loại phân nghiên cứu các tác giả chỉ ra rằng phân lân có chứa hàm lượng KLN khá cao.

Phân lân là một trong những nguồn đầu vào KLN vào các hệ thống nông nghiệp. Quặng phốt phat chứa nhiều nguyên tố KLN với giá trị dao động khoảng 1-100 mgCd/kg, 70-110 mg Cr/kg, 1-1000 mgCu/kg, 0-117 mgNi/kg, 0-45 mgPb/kg, 4-1000 mgZn/kg, 0-710 mgF/kg và 8-220 mgU/kg [39, 55, 100]. Trong k thuật trồng hoa, để cho cây hoa cứng cáp và mầu hoa đẹp người ta đã bón một lượng lớn các phân khác nhau, trong đó có một lượng lớn phân lân, vì vậy làm tăng đáng kể hàm lượng KLN trong môi trường đất.

1.2.3. Ảnh hưởng của nước tưới tiêu tới hàm lượng các nguyên tố trong đất

Chất lượng nước sử dụng để tưới tiêu được nêu trong tiêu chuẩn Việt Nam QCVN 08:2008/BTNMT. Hiện nay, một số vùng nông nghiệp sử dụng nước tưới tiêu có hàm lượng một số KLN cao hơn tiêu chuẩn cho phép, dẫn đến làm gia tăng hàm lượng các kim loại này trong đất trồng trọt. Ví dụ, ở Hà Nội, sông Nhuệ được sử dụng để tưới cho một vùng rộng lớn đất nông nghiệp, trong đó có vùng trồng hoa Tây Tựu. Theo các kết quả nghiên cứu giai đoạn 2011-2012 cho thấy, chất lượng nước sông Nhuệ đã và đang bị ô nhiễm nghiêm trọng, không đáp ứng tiêu chuẩn cho sản xuất nông nghiệp, các thông số phân tích đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép đối với chất lượng nước tưới tiêu QCVN 08:2008/BTNMT [9].

Từ kết quả theo dõi sự biến động hàm lượng KLN trong đất nông nghiệp Việt Nam trong giai đoạn 2002–2007 đã chỉ ra rằng, sự tích lũy KLN trong các loại đất nông nghiệp có xu hướng gia tăng theo thời gian và nhóm đất đỏ trong hệ thống canh tác nông nghiệp của nước ta hiện đang trong tình trạng báo động về sự tích lũy KLN vượt giới hạn cho phép [24].

1.2.4. Ảnh hưởng của kỹ thuật làm đất đến tính chất hóa lý của đất

Hoạt động làm đất giúp tăng khả năng tiếp cận chất hữu cơ của vi sinh vật đất [51, 36]

qua đó tăng quá trình giải phóng N cho đất [101]. Các nhà khoa học cho rằng biện pháp lên

luống vĩnh cửu kết hợp với giữ lại dư lượng sinh khối sau thu hoạch giúp vi đoàn lạp đất ổn

định hơn qua đó tăng cường bảo vệ C và N so với biện pháp cày bừa thông thường [108].

Nhiều nghiên cứu cho thấy, đất không cày bừa có thể duy trì và tăng tính tính linh động của

các chất dinh dưỡng, chẳng hạn như K ở tầng đất gần bề mặt đất nơi có hệ rễ thực vật hoạt

động [71]. Biện pháp lên luống vĩnh viễn cho hàm lượng K cao hơn 1,65 lần trong lớp đất 0-5

cm và 1,43 lần trong lớp 5-20 cm so với canh tác lên luống thông thường khi cả hai phương

thức canh tác đều kết hợp với sự duy trì tàn dư thực vật trền bề mặt [77]. Các nghiên cứu khác

đã cho thấy mức độ K có thể chiết rút cao hơn trong tầng đất mặt khi cường độ cày bừa giảm

[91, 173], và hàm lượng K tăng trong đất không cày bừa so với đất cày bừa thông thường,

nhưng tác dụng này giảm theo độ sâu [60]; và cũng đã quan sát thấy sự tích tụ trên lớp đất bề

mặt của K linh động không phụ thuộc vào thực tế cày bừa hay độ sâu của đất [61, 68, 88, 88,

114, 150].

1.2.5. Ảnh hưởng của tàn dư thực vật tới chất lượng đất

Sử dụng tàn dư thực vật như một loại phân bón hữu cơ cho đất đã có tác động đáng kể

đến chất lượng đất. Sự phân hủy chậm của tàn dư thực vật của lớp phủ trên mặt đất có thể

giúp giảm thiểu quá trình thẩm thấu nhanh chóng qua phẫu diện đất của các nguyên tố dinh

dưỡng [34, 103]. Tuy nhiên, mật độ cao hơn của các khoảng hổng trong đất có thể khiến quá

trình thẩm thấu của các chất dinh dưỡng hòa tan nhanh hơn và thấm sâu hơn vào các tầng đất

bên dưới tầng canh tác [70, 94]. Một phương thức khác sử dụng tàn dư thực vật làm phân bón

dưới dạng đốt các tàn dư này. Những báo cáo về biện pháp đốt tàn dư sinh khối sau thu hoạch

cho thấy, điều này có thể tăng lượng dinh dưỡng dễ tiêu một cách tức thời trong tầng đất mặt

cho cây trồng hút thu [60]. Tuy nhiên, đốt tàn dư cây trồng không được coi là một hình thức

bền vững do các tác động tiêu cực tới tính chất vật lý đất, đặc biệt là khi quá trình này được

kết hợp với các biện pháp giảm làm đất trước khi gieo trồng [109].

1.2.6. Ảnh hưởng khi sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật đến hệ sinh vật đất

1.2.6.1. Ô nhiễm hóa chất bảo vệ thực vật trong đất canh tác

5

Việc sử dụng hóa chất BVTV trong canh tác nông nghiệp sẽ dẫn đến làm ô nhiễm môi

trường đất bởi các hóa chất này. Tùy thuộc vào loại hóa chất BVTV mà đất có thể bị nhiễm các chất

ở dạng hữu cơ và KLN hoặc cả hai loại này. Trong thực tế, nếu không sử dụng hóa chất BVTV

cho các mục đích khác nhau, trong đó có trồng trọt thì trong môi trường đất nói chung và đất

canh tác nông nghiệp nói riêng không bị ô nhiễm bởi hóa chất BVTV dạng hữu cơ và KLN

hoặc cả hai loại này. Đất bị ô nhiễm hóa chất BVTV gây ảnh hưởng xấu tới chất lượng đất và

gây ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng. Vì vậy, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quy

định ngưỡng giá trị cho phép hàm lượng hóa chất BVTV trong môi trường đất. Việt Nam đã

có quy định về ngưỡng hàm lượng hóa chất BVTV cho phép trong môi trường đất [2].

Nghiên cứu tại hai khu vực nông nghiệp Alau Dam và Gongulong thuộc Bang Borno

của Nigeria cho thấy, dư lượng hóa chất BVTV dạng phốt pho hữu cơ (dichlorvos, diazinon,

chlorpyrifos và fenitrothion) đã được phát hiện trong tất cả các các mẫu đất nghiên cứu. Nồng

độ tất cả các loại hóa chất BVTV ở độ sâu 21-30cm trong các mẫu đất cao hơn ở độ sâu 0-

10cm; và đều cao hơn nhiều lần so với giới hạn cho phép của Liên minh châu Âu [29]. Kết

quả nghiên cứu trên đất nông nghiệp thâm canh ở phía Bắc Ấn Độ về hàm lượng hóa chất

BVTV cho thấy, 4,27% trong tổng số 49 mẫu đất phát hiện có dư lượng của DDT và 100% số

mẫu đất có ô nhiễm chất hữu cơ bền (OCPs) là lindan, aldrin, endrin, dieldrin, p,p’-DDE,

p,p’-DDD, p,p’-DDT [41].

Ở Việt Nam, các loại hóa chất BVTV đã được sử dụng từ những năm 50-60 của Thế

kỷ trước để phòng trừ các loại dịch bệnh khác nhau. Từ năm 1957 đến 1980, hóa chất BVTV

được sử dụng khoảng 100 tấn/năm. Những năm gần đây việc sử dụng hóa chất BVTV đã tăng

đáng kể cả về khối lượng lẫn chủng loại. Vào các năm cuối của thập kỷ 80, lượng hóa chất

BVTV sử dụng là 10.000 tấn/năm; và đến các năm của thập kỷ 90, lượng hóa chất BVTV sử

dụng đã tăng lên gấp đôi (21.600 tấn/năm vào năm 1990), và tăng lên gấp ba (33.000 tấn/năm

vào năm 1995). Diện tích đất canh tác sử dụng hóa chất BVTV cũng tăng theo thời gian từ

0,48% (năm 1960) lên khoảng 80-90% (năm 1997).

1.2.6.2. Ảnh hưởng của hóa chất bảo vệ thực vật đến hệ sinh vật đất

Trong những năm gần đây thuốc hóa học đã được sử dụng nhiều và đã góp phần quan

trọng trong việc bảo vệ cây trồng, đẩy mạnh sản xuất. Tuy nhiên việc sử dụng thuốc hóa học

với số lượng lớn, liên tục đã biểu hiện các mặt trái của nó như: tiêu diệt nhiều thiên địch,

nhiều loại vi sinh vật có ích, tích lũy chất độc trong nông sản, gây ô nhiễm môi trường đất do

tồn lưu trong đất… Tác động của mỗi loại thuốc hóa học đến hệ vi sinh vật đất là khác nhau

tùy thuộc vào loại thuốc, nồng độ sử dụng, phương pháp sử dụng…

1.2.7. Ảnh hưởng của nước tưới và bón phân đến hệ sinh vật đất

1.2.7.1. Ảnh hưởng của nước tưới

Đất úng nước được thoát nước, đất bị hạn được tưới nước là biện pháp canh tác có ý

nghĩa đối với cải tạo tính chất lý, hóa đất, làm thay đổi chế độ thoáng khí, phản ứng môi

trường, điện thế hóa khử trong đất.

1.2.7.2. Ảnh hưởng của phân bón

Bón các loại phân vô cơ và hữu cơ vào đất sẽ phát huy tác dụng nhanh hay chậm,

nhiều hay ít phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động chuyển hóa của vi sinh vật đất. Ngược lại, phân

bón có tác dụng tốt tăng cường số lượng và hoạt tính vi sinh vật đất. Tùy theo loại phân, liều

lượng bón và phương pháp bón mà ảnh hưởng đến hệ sinh vật đất khác nhau.

+ Phân vô cơ: Bón phân hóa học một cách hợp lý có ảnh hưởng tốt đến sự phát triển

vi sinh vật đất. Các nguyên tố N, P, K, Ca, vi lượng rất cần thiết đối với vi sinh vật và chúng

đòi hỏi các nguyên tố theo một tỉ lệ nhất định.

+ Phân hữu cơ: Vì hầu hết các loại phân bón hữu cơ là các sản phẩm chất thải, tỷ lệ

sử dụng chúng thường được quyết định bởi tính sẵn có hơn là nhu cầu. Hầu hết việc bón phân

hữu cơ chủ yếu để mang lại lợi ích tăng trưởng thực vật.

1.2.7.3. Ảnh hưởng của việc bổ sung chế phẩm vi sinh vật vào đất

Việc bổ sung các chế phẩm vi sinh vật tự nhiên hay được biến đổi di truyền có thể

được phân chia theo đặc tính của chúng: (i) tồn tại chính trong môi trường đất của chúng (bản

6

địa), (ii) cư trú trong vùng rễ, (iii) hình thành các mối quan hệ cộng sinh với thực vật, hoặc

(iv) thúc đẩy hoạt động của vi sinh vật trên bề mặt lá hoặc rơm.

1.3. Kỹ thuật điện di biến tính DGGE trong nghiên cứu sự biến động thành phần loài

của hệ vi sinh vật đất

1.3.1. Phương pháp “dấu vân tay” phân tích quần xã vi sinh vật đất Phần lớn các phương pháp “dấu vân tay” dựa vào các k thuật sinh học phân tử với

việc sử dụng ADN hoặc RN đã được tách chiết, thực hiện phản ứng khuếch đại (PCR) và

theo sau là k thuật điện di. Trong số các phương pháp “dấu vân tay” hiện đang được sử dụng

để so sánh sự biến động của các quần xã vi sinh vật theo không gian và thời gian ở một phạm

vi rộng của các môi trường khác nhau, k thuật DGGE dựa vào sự khác nhau trong đặc tính

tan chảy của các phân tử ADN sợi đôi được sử dụng rộng rãi nhất. Điều quan trọng là sau đó

nó cho phép một định danh của ít nhất một loài ưu thế nhất trong quần xã vi sinh vật. Chính vì

thế DGGE được xem là một phương pháp chuẩn trong nghiên cứu sinh thái vi sinh phân tử

môi trường.

1.3.2. Kỹ thuật phân tích DGGE

K thuật này bao gồm những bước cơ bản như sau:

+ Tách chiết ADN/ARN trực tiếp từ mẫu môi trường.

+ Khuếch đại các đoạn gen 16S rARN bằng phản ứng PCR.

+ Điện di biến tính DGGE.

+ Nhân dòng, xác định trình tự gen 16S rARN và định danh.

1.4. Kỹ thuật canh tác trồng hoa tại các vùng nghiên cứu

Phần này đề cập tới k thuật canh tác trồng các loại Hoa hồng, hoa cúc, hoa đồng tiền.

K thuật trồng các loại hoa được tổng hợp dựa trên phương pháp bón các loại Phân bón và

chế độ bón phân, k thuật bón phân, tưới nước và phòng trừ sâu bệnh

1.5. Ảnh hƣởng của chuyên canh trồng hoa tới chất lƣợng đất

1.5.1. Ô nhiễm kim loại nặng và hóa chất bảo vệ thực vật

Ngày nay, hoa và cây được coi không chỉ các sản phẩm nông nghiệp mà hàng hóa đi

kèm với khám phá, trồng trọt, vận chuyển, phân phối và hoạt động kinh doanh trên thị trường

[184]. Việc sử dụng hóa chất BVTV và phân bón trong nông nghiệp góp phần tăng năng suất

cây trồng [57]. Cho đến nay, ngành trồng hoa đã trở thành ngành tiêu thụ lượng phân bón và

hóa chất BVTV cao nhất trong nông nghiệp. Trong chuyên canh trồng hoa sử dụng một lượng

lớn phân lân, phân đạm và vôi đã làm cho hàm lượng KLN trong đất tăng. Đặc biệt là phân

lân có hàm lượng KLN khá cao [28, 46, 115, 160].

1.5.2. Làm suy giảm hệ sinh vật đất

Việc cày bừa xới xáo đất trồng hoa rất hạn chế. Chu kỳ cày bừa xới xáo đất thường kéo

dài hàng năm hoặc vài năm. Quan hệ giữa hệ sinh vật đất và cây trồng là mối quan hệ tương hỗ,

có tác động qua lại lẫn nhau. Mỗi loại cây trồng có số lượng và thành phần vi sinh vật vùng rễ

nhất định. Vì vậy thay đổi cây trồng, thay đổi chế độ luân canh sẽ dẫn đến sự thay đổi quần thể vi

sinh vật. Những vấn đề ảnh hưởng của chuyên canh hoa đến chất lượng đất, trong đó có các

tác động xấu được nêu ở trên chưa được các nhà khoa học trong nước vàquốc tế quan tâm

nghiên cứu. Điều đó sẽ được đề cập trong công trình nghiên cứu này.

7

CHƢƠNG 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tƣợng nghiên cứu

- Các mẫu đất lấy ở các ruộng chuyên canh hoa hồng, hoa cúc, hoa đồng tiền. Mẫu

nước mặt và nước ngầm ở khu vực ruộng trồng hoa tương ứng.

- Các mẫu phế thải của cây hoa đồng tiền, cây hoa cúc, lá cây hoa hồng ở các ruộng

trồng hoa được lấy đất để nghiên cứu.

- Các phân bùn, phân chuồng, phân lân, phân urê, vôi sử dụng trong trồng hoa.

- Sinh vật đất trong đất chuyên canh trồng hoa.

Khu vực lấy mẫu nghiên cứ thuộc vùng chuyên canh hóa tại phường Tây Tựu và xã

Mê Linh, thành phố Hà Nội.

2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu

2.2.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích dữ liệu, số liệu

Dựa trên các tài liệu, số liệu đã thu thập, tiến hành tổng hợp, lựa chọn và phân tích các

số liệu, dữ liệu có liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài.

2.2.2. Nhóm phương pháp hóa lý phân tích KLN và hóa chất BVTV

2.2.2.1. Phương pháp ICP-OES

2.2.2.2. Các phương pháp sắc ký

+ Phương pháp sắc ký khí đetectơ cộng kết điện tử.

+ Phương pháp sắc ký khí lỏng cao áp đetectơ diod array

2.2.3. Nhóm các phương pháp nghiên cứu sinh học

2.2.3.1. Phương pháp đánh giá biến động về thành phần và số lượng của vi sinh vật trong đất

bằng kỹ thuật DGGE

2.2.3.2 Phương pháp đánh giá biến động động vật chân khớp béCollembola

- Số lƣợng loài: Số lượng loài được tính bằng tổng số loài có mặt trong điểm thí

nghiệm ở tất cả các lần thu mẫu.

- Số cá thể: Tổng số lượng cá thể có ở tất cả các lần thu mẫu của điểm thí nghiệm.

- Chỉ số đa dạng Shannon-Weaver (H’): được sử dụng để tính sự đa dạng loài hay

số lượng loài trong quần xã và tính đồng đều về sự phong phú cá thể của các loài trong quần

xã.

H ' = -ni

Nln

i-1

s

åni

N

- Chỉ số đồng đều (J’) hay chỉ số Pielou:

)ln(

''

S

HJ

Giá trị của J’ dao động trong khoảng từ 0 đến 1; Giá trị của J’ lớn nhất khi tất

cả các loài trong quần xã có số lượng cá thể bằng nhau hay nói cách khác độ phong

phú của các loài trong quần xã như nhau.

- Loài ƣu thế: là loài có giá trị chỉ số ưu thế bằng hoặc lớn hơn 5%.

100xn

nD a

2.3. Địa điểm và nơi lấy mẫu nghiên cứu

8

2.3.1. Lấy mẫu đất và mẫu nước

Mẫu đất và mẫu nước được lấy ở các ruộng trồng hoa và rau ở các địa điểm: phường

Tây Tựu (quận Bắc Từ Liêm) và xã Mê Linh (huyện Mê Linh), Hà Nội. Mẫu đất và nước được

lấy 2 lần trong một năm vào tháng 5 và tháng 7 hàng năm. Mẫu lấy vào các năm 2009, 2012,

2014 ở Tây Tựu và năm 2010, 2012, 2014 ở Mê Linh. Các mẫu đất và nước được lấy hàng năm

tại cùng một vị trí. Việc lấy mẫu và bảo quản mẫu được thực hiện theo tiêu chuẩn Việt Nam [4].

+ Mẫu đất được lấy ở các ruộng trồng hoa và trồng rau để phân tích xác định hàm

lượng các ion Ca2+

, Mg2+

, Cd2+

, Cu2+

, Pb2+

, Zn2+

, Hg2+

, As3+

và các hóa chất BVTV.

+ Các mẫu nước được lấy ở các ruộng trồng hoa và trồng rau để phân tích xác định

các ion Cd2+

, Cu2+

, Pb2+

, Zn2+

, Hg2+

, As3+

.

+ Các mẫu đất và nước lấy ở các ruộng trồng hoa, gồm:

- Ruộng trồng hoa hồng 2 năm; Ruộng trồng hoa hồng 4 năm; Ruộng trồng hoa hồng

6 năm; Ruộng trồng hoa cúc; Ruộng trồng hoa đồng tiền;

- Các mẫu đất so sánh được lấy ở ruộng trồng rau cải ngọt; các mẫu đất đối chứng

được lấy ở bãi đất hoang bên đường (ở Tây Tựu) và bên bờ đê sông Hồng (ở Mê Linh) gần

khu vực lấy mẫu nghiên cứu.

Ký hiệu mẫu đất và thông tin hiểu về ký hiệu mẫu như sau:

- Mẫu ký hiệu 3Đ20-H2-T5-10 được hiểu là mẫu của cùng một ruộng trồng hoa hồng

2 năm số 3, mẫu đất, lấy ở độ sâu 0-20 cm, trồng hồng 2 năm, nơi lấy Tây Tựu, lấy tháng

5/2010.

- Mẫu ký hiệu 1Đ40-HC-M7-12 được hiểu là mẫu của cùng một ruộng trồng hoa cúc

số 1, mẫu đất, lấy ở độ sâu 20-40 cm, trồng hoa cúc, nơi lấy Mê Linh, lấy tháng 7/2012.

- Mẫu ký hiệu 6Đ20-ĐC-M7 được hiểu là mẫu đất của cùng một vị trí lấy mẫu số 6, ở

độ sâu 0-20 cm, đất đối chứng, nơi lấy Mê Linh, lấy vào tháng 7 có giá trị trung bình 3 năm.

Tương tự như cách ký hiệu mẫu với các mẫu đất và nước khác.

+ Các mẫu nước lấy ở khu vực nghiên cứu gồm nước mặt, nước giếng khoan. Lấy 5

mẫu nước mặt ở giữa lòng nương dẫn nước tưới ở gần các ruộng trồng hoa và trồng rau lấy

mẫu đất nêu trên; các mẫu nước giếng được lấy từ các vòi hút trưc tiếp từ giếng khoan lên

hoặc lấy trực tiếp ở giếng khoan hở. Mỗi mẫu nước lấy là 500 mL đựng đầy trong chai nhựa

PVC có dung tích 500 mL. Cho vào mỗi lọ mẫu nước 1 mL axít nitric 5N.

2.3.2. Lấy mẫu đất và mẫu nước ở vùng trồng hoa ở Tây Tựu

Sơ đồ và vị trí tọa độ lấy mẫu đất và mẫu nước ở vùng trồng hoa ở Tây Tựu được nêu

trong phần phụ lục của luận án. Ký hiệu mẫu đất và nước lấy ở các ruộng trồng hoa, mẫu đất

so sánh trồng rau và mẫu đất đối chứng lấy ở phường Tây Tựu được nêu ở bảng 2.1.

Tổng số mẫu đất và nước lấy ở vùng trồng hoa ở Tây Tựu là 152 mẫu, trong đó có 88

mẫu đất và 64 mẫu nước.

2.3.3. Lấy mẫu đất và mẫu nước ở vùng trồng hoa ở Mê Linh

Sơ đồ và vị trí tọa độ lấy mẫu đất và mẫu nước ở vùng trồng hoa ở Mê Linh được nêu

trong phần phụ lục của luận án. Ký hiệu mẫu đất và nước lấy ở các ruộng trồng hoa, mẫu đất

so sánh trồng rau và mẫu đất đối chứng lấy ở Mê Linh được nêu ở bảng 2.2.

Tổng số mẫu đất và nước lấy ở khu vực trồng hoa ở Mê Linh là 152 mẫu, trong đó có

88 mẫu đất và 64 mẫu nước.

2.3.4. Lấy mẫu phân bón và mẫu thực vật

Các mẫu này được lấy để xác định hàm lượng KLN gồm:

9

- Các loại phân bón và hóa chất khác, gồm phân bùn, phân chuồng, phân đạm, phân

lân, phân NPK và vôi; các loại mẫu này được lấy tại các hộ dân có ruộng trồng hoa và trồng

rau được lựa chọn làm đối tượng nghiên cứu.

- Các mẫu thực vật gồm phế thải của cây hoa đồng tiền, cây hoa cúc, lá cây hoa hồng

được lấy tại ruộng trồng hoa, trồng rau ngay sau khi thu hoạch. Các loại mẫu này được lấy tại

các ruộng trồng hoa được lựa chọn làm đối tượng nghiên cứu.

2.3.5. Lấy mẫu đất xác định động vật chân khớp béCollembola

Mẫu định lượng Collembola thu theo phương pháp chuẩn trong nghiên cứu khu hệ và

sinh thái động vật đất được áp dụng để nghiên cứu ở 6 sinh cảnh. Mẫu đất lấy nghiên cứu ở 2

vùng Tây Tựu và Mê Linh ở hai thời điểm, đợt 1 vào tháng 7/2012, đợt 2 vào tháng 5/2013.

Ký hiệu mẫu đất lấy nghiên cứu được chỉ ra trong bảng 2.3.

2.3.6. Lấy mẫu đất xác định vi sinh vật

Các ruộng trồng hoa, trồng rau và đất đối chứng ở Tây Tựu và Mê Linh đã được lấy

mẫu để xác định các KLN, hóa chất BVTV, động vật chân khớp bé Collembola cũng được

thực hiện lấy mẫu để xác định vi sinh vật. Thông tin mẫu đất xác định VSV được thể hiện

trong bảng 2.4.

2.4. Các bƣớc trong nghiên cứu thực nghiệm

2.4.1. Xác định kim loại nặng trong các mẫu nghiên cứu

Các mẫu đất, nước, phân bón, vôi và phế thải của cây hoa đồng tiền, cây hoa cúc, lá

cây hoa hồng được lựa chọn để nghiên cứu xác định hàm lượng KLN. Việc xác định các

KLN trong các mẫu này được thực hiện theo các tiêu chuẩn của Việt Nam.

2.4.2. Xác định hóa chất bảo vệ thực vật trong các mẫu nghiên cứu

Các mẫu đất lấy được sử dụng để xác định hàm lượng các hóa chất BVTV. Các hóa

chất BVTV được xác định theo các phương pháp tiêu chuẩn của Việt Nam và quốc tế (US

EPA).

2.4.3. Xác định Collembola trong các mẫu nghiên cứu

Collembola và các động vật không xương sống khác được tách ra khỏi đất bằng phễu

Tullgren trong thời gian 7 ngày đêm ở nhiệt độ phòng thí nghiệm.

Xử lý mẫu vật, bảo quản và định loại: Tính đếm số lượng và sử dụng các tài liệu để so

sánh định loại. Các số liệu thu được sử dụng để xác định các giá trị sau: số lượng loài, số cá

thể, chỉ số đa dạng Shannon-Weaver (H’), chỉ số đồng đều (J’) hay chỉ số Pielou, loài ưu thế.

Phương pháp xác định các giá trị này nêu trong phần phương pháp nghiên cứu mục 2.3.3.2.

2.4.4. Xác định vi sinh vật đất bằng kỹ thuật DGGE

Thực hiện 6 bước để xác định VSV bằng phương pháp điện di trên gel biến tính. Bước

1. Tách chiết ADN; Bước 2. Khuếch đại vùng V3 của gen 16S rARN; Bước 3. Điện di

DGGE; Bước 4. Phân tích dữ liệu DGGE; Bước 5. Nhân dòng các sản phẩm PCR được tái

khuếch đại từ các băng DGGE; Bước 6. Xác định trình tự gen 16S r RN và định danh loài.

10

CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. Đặc điểm đất, nƣớc và cơ cấu cây trồng khu vực nghiên cứu

3.1.1. Đặc điểm vùng chuyên canh hoa phường Tây Tựu, Quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội

Địa hình của Tây Tựu tương đối bằng phẳng, cao trung bình phổ biến từ 5,3-6,5 m so

với mặt nước biển. Từ nửa cuối tháng 5 đến tháng 10 trong năm khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều.

Từ tháng 11 đến tháng 4 và nửa đầu tháng 5 năm sau khí hậu lạnh và khô. Mùa mưa thường

kéo dài từ giữa tháng 5 đến tháng 10, tập trung 85% lượng mưa cả năm. Trong vùng có sông

Pheo chạy dọc theo ranh giới phía Tây của xã. Theo tài liệu khoan thăm dò, nguồn nước ngầm

của xã gồm có 3 tầng. Với các điều kiện nêu trên, việc chủ động tưới, tiêu trong canh tác nông

nghiệp nói chung và ngành trồng hoa nói riêng ở phường Tây Tựu là thuận lợi. Tây Tựu đã

phát triển nghề trồng hoa từ năm 1995 với diện tích trồng hoa, rau ban đầu có 120 ha đạt

31,65% diện tích đất nông nghiệp. Tới nay, 100% diện tích trồng lúa đã chuyển sang trồng

hoa và rau màu. Điều này cho thấy sự đột phá trong việc thay đổi cơ cấu cây trồng ở Tây Tựu

hiện nay được cả nước biết đến là một vùng trồng hoa, rau quy mô lớn. Ở Tây Tựu trồng chủ

yếu vẫn là hoa hồng (chiếm hơn 50% diện tích), còn lại là cúc, đồng tiền, lily, lay ơn, loa

kèn... Thị trường tiêu thụ mở rộng tới thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Huế hay xuất khẩu

sang Trung Quốc.

3.1.2. Đặc điểm vùng chuyên canh hoa xã Mê Linh, huyện Mê Linh, Hà Nội

Mê Linh có địa hình tự nhiên khá bằng phẳng, độ cao trung bình so với mặt nước biển

10-13m, không có đất lâm nghiệp, độ dốc nền địa hình thấp.Chế độ mưa, nắng theo mùa ở

vùng này giống như vùng Tây Tựu. Chế độ thủy văn ổn định, nước mặt và nước ngầm khá dồi

dào, tương đối thuận lợi cho ngành trồng hoa. Nghề trồng hoa ở Mê Linh bắt đầu phát triển từ

năm 1995 khi những hộ dân đầu tiên đưa một số giống hoa từ Đà Lạt về trồng, khởi đầu với

diện tích 58 ha tại xã Mê Linh. Đến nay diện tích trồng hoa đã lên tới hàng trăm ha, chiếm

hơn 50% đất nông nghiệp của xã và chiếm hơn 80% diện tích hoa của huyện.Giá trị sản xuất

rau là 30-40 triệu đồng/ha (gấp 2-4 lần trồng lúa) và hoa đạt 50-60 triệu đồng/ha (gấp 5-6 lần

trồng lúa). Có khoảng 10 loại hoa được trồng ở Mê Linh như hoa hồng, hoa cúc, hoa loa kèn,

hoa phăng… nhưng hoa hồng chiếm tới 80% và cũng là nguồn thu nhập chủ yếu trong sản

xuất nông nghiệp.

3.2. Kỹ thuật trồng hoa tại vùng trồng hoa phường Tây Tựu và xã Mê Linh

3.2.1. Hoa hồng

- Phần này thể hiện k thuật trồng hoa hồng thông qua lượng phân bón và chế độ bón phân đối

với hoa hồng.

3.2.2. Hoa cúc

- Phần này thể hiện k thuật trồng hoa hồng thông qua lượng phân bón và chế độ bón phân đối

với hoa cúc.

3.2.3. Hoa đồng tiền - Phần này thể hiện k thuật trồng hoa hồng thông qua lượng phân bón và chế độ bón phân đối với hoa

đồng tiền.

3.3. Kim loại nặng trong nƣớc tƣới trồng hoa ở Tây Tựu và Mê Linh

3.3.1. Khu vực Tây Tựu Nhìn chung, nước mặt và nước ngầm khu vực chuyên canh trồng hoa ở Tây Tựu chưa bị

ô nhiễm bởi một số kim loại nặng Cd, Zn, Pb, riêng với Cu đã có dấu hiệu bị ô nhiễm vào mùa mưa và ô nhiễm vào mùa khô. Do vậy nếu sử dụng nước ao bị ô nhiễm Cu để tưới cho cây trồng thì nguy cơ làm tăng sự tích lũy Cu trong đất là rất cao. Kết quả phân tích xác định hàm lượng trung bình của một số KLN trong nước tưới tại vùng chuyên canh trồng hoa ở Tây Tựu được nêu trong bảng 3.2 và 3.3.

11

Bảng 3.2. Hàm lượng trung bình của một số KLN trong nước tưới trồng hoa lấy tháng 5 hàng năm ở

Tây Tựu

TT Loại nước Ký hiệu mẫu Hàm lượng (mg/l)

Cu Pb Cd Zn

1

Nước mặt

1N-ĐT-T5 0,06 0,02 0,002 0,076

2 2N-CN-T5 0,18 0,02 0,001 0,176

3 3N-H2-T5 0,19 0,004 0,0003 0,139

4 4N-H4-T5 1,24 0,04 0,003 0,822

5 5N-H6-T5 1,12 0,03 0,006 0,589

6 6N-SN-T5 0,17 0,007 0,0005 0,261

7 Nước ngầm

7N-NN-T5 0,802.10-3 0,244.10-3 0,132.10-3 0,064

8 8N-GK-T5 0,798.10-3 0,148.10-3 0,109.10-3 0,048

QCVN 39:2011 0,5 0,05 0,01 2,0

Bảng 3.1. Hàm lượng trung bình của một số KLN trong nước tưới trồng hoa lấy tháng 5 hàng năm ở

Tây Tựu

TT Loại nƣớc Ký hiệu

mẫu

Hàm lƣợng (mg/l)

Cu Pb Cd Zn

1

Nước mặt

1N-ĐT-T5 0,06 0,02 0,002 0,076

2 2N-CN-T5 0,18 0,02 0,001 0,176

3 3N-H2-T5 0,19 0,004 0,0003 0,139

4 4N-H4-T5 1,24 0,04 0,003 0,822

5 5N-H6-T5 1,12 0,03 0,006 0,589

6 6N-SN-T5 0,17 0,007 0,0005 0,261

7 Nước ngầm

7N-NN-T5 0,802.10-3

0,244.10-3

0,132.10-3

0,064

8 8N-GK-T5 0,798.10-3

0,148.10-3

0,109.10-3

0,048

QCVN 39:2011 0,5 0,05 0,01 2,0

3.3.2. Khu vực Mê Linh Nước tưới tiêu dùng trong chuyên canh trồng hoa ở Mê Linh không bị ô nhiễm kim loại nặng và đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn nước tưới tiêu. Việc sử dụng nước tưới tiêu có tiêu chuẩn như trên trong chuyên canh trồng hoa ở Mê Linh sẽ không gây ô nhiễm và ảnh hưởng tới tính chất môi trường đất. Kết quả phân tích xác định hàm lượng trung bình của một số KLN trong nước tưới tại vùng chuyên canh trồng hoa ở Mê Linh được nêu trong bảng 3.4 và 3.5. Bảng 3.4. Hàm lượng trung bình của một số KLN trong nước tưới trồng hoa lấy tháng 7 hàng năm

ở Mê Linh

TT Loại nƣớc Ký hiệu

mẫu

Hàm lƣợng (mg/l)

Cu Pb Cd Zn

1

Nước mặt

1N-HC-M7 0,032 0,006 0,244.10-3

0,082

2 2N-CN-M7 0,029 0,004 0,053.10-3

0,071

3 3N-H2-M7 0,013 0,005 0,045.10-3

0,022

4 4N-H4-M7 0,026 0,007 0,129.10-3

0,091

5 5N-H6-M7 0,072 0,006 0,046.10-3

0,055

6 6N-TĐ-M7 0,038 0,007 0,137.10-3

0,059

12

7 Nước ngầm

7N-GK-M7 0,687.10-3

0,134.10-3

0,141.10-3

0,052

8 8N-GK-M7 0,744.10-3

0,183.10-3

0,038.10-3

0,045

QCVN 39:2011 0,5 0,05 0,01 2,0

Bảng 3.5. Hàm lượng trung bình của một số KLN trong nước tưới trồng hoa lấy tháng 5 hàng năm ở xã Mê

Linh

TT Loại nƣớc Ký hiệu

mẫu

Hàm lƣợng (mg/l)

Cu Pb Cd Zn

1

Nước mặt

1N-HC-M5 0,14 0,034 0,001 0,792

2 2N-CN-M5 0,21 0,036 0,002 0,645

3 3N-H2-M5 0,14 0,013 0,004 0,067

4 4N-H4-M5 0,22 0,065 0,002 0,302

5 5N-H6-M5 0,25 0,020 0,003 0,310

6 6N-TĐ-M5 0,34 0,012 0,002 0,079

7 Nước ngầm

7N-GK-M5 0,81.10-3

0,187.10-3

0,142.10-3

0,064

8 8N-GK-M5 0,768.10-3

0,168.10-3

0,150.10-3

0,075

QCVN 39:2011 0,5 0,05 0,01 2,0

3.4. Ảnh hƣởng của hoạt động chuyên canh hoa đến một số tính chất đất ở Tây Tựu và

Mê Linh

3.4.1. Ảnh hưởng của việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật a) Tình hình sử dụng thuốc BVTV

Kết quả phỏng vấn trực tiếp 36 hộ nông dân về kiến thức và cách sử dụng các loại hóa

chất bảo vệ thực vật cho thấy, nông dân chủ yếu dùng các loại thuốc thuộc nhóm lân hữu cơ

và cacbamat (bảng 3.6). Trong số đó, phổ biến nhất là monitor, wofatox và dipterex. Nhóm

thuốc trừ bệnh có 2 loại thông dụng là microthiol và asimo.Kết quả điều tra nêu ở bảng

3.6.Liều lượng sử dụng các loại thuốc đa số ở mức độ trung bình 10-20 ml/sào đến dưới 30

ml/sào. Một số hộ dùng thuốc với liều cao hơn, chủ yếu ở Tây Tựu: Đại đa số nông dân ở Tây

Tựu phun thuốc 1-3 lần/vụ (88,67%-94,73% số hộ điều tra với cả 7 loại thuốc), trong khi đó

nông dân ở Mê Linh thường phun nhiều hơn với mức 4-6 lần/vụ (46,16%-77,78% đối với 4

loại thuốc wofatox, monitor, dipterex, asimo; và 23,08% với padan).

- 100% số hộ được điều tra ở Mê Linh, 54,17% số hộ ở Tây Tựu trong quá trình sử

dụng thuốc đều tự động tăng nồng độ và thời gian phun, theo họ khi thấy xuất hiện sâu là

phun, phun một loại thuốc không thấy hiệu quả thì pha hỗn hợp 2, 3 loại với nhau,…. Nguyên

nhân của vấn đề trên có thể là do kiến thức hiểu biết về cách sử dụng hóa chất BVTV còn

thấp (bảng 3.7), do thu nhận thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, nên không có sự chọn lọc.

Bảng 3.6. Hi n tr ng s d ng h a chất B T ở Tây Tựu và Mê Linh t nh theo t ng số hộ ã

i u tra

Loại

thuốc

Số hộ s

dụng ( )

Liều lƣợng phun ( ) Thời gian phun ( )

10-20

ml/sào

21-30

ml/sào

31-45

ml/sà

o

60

ml/sào 1-3 lần vụ 4-6 lần vụ

13

Tây Tự

u

Lin

h

Tây Tự

u

Lin

h

Tây Tự

u

Lin

h

Tây Tự

u

Lin

h

Tây Tự

u

Lin

h

Tây Tự

u

Lin

h

Tây Tự

u

Lin

h

Nhóm HC lân hữu cơ

Monitor 91,76 100

56,8

1 100 6,81 0

6,6

1 0 29,45 0

88,6

7

42,8

5 11,36

57,1

5

Wofatox 39,58

26,5

3

63,1

5 100

26,3

1 0 0 0 10,52 0

94,7

3

53,8

4 5,27

46,1

6

Dipterex 20,80

55,1

0

50,0

0

55,5

5

50,0

0

44,4

5 0 0 0 0 0

22,2

2 0

77,7

8

Nhóm Cacbamat

Bassa 31,25

32,6

5

60,0

0 100

40,0

0 0 0 0 0 0 0

93,7

5 0 6,25

Padan 27,08

26,5

3

61,5

3

27,0

7

76,9

3

15,3

8 0 0 0 0 0

76,9

2 0

23,0

8

Nhóm trừ bệnh

Microthi

ol 31,25

69,3

9

93,3

3

50,0

0 6,66

50,0

0 0 0 0 0 0

94,1

1 0 5,89

Asimo 6,25

46,9

4 100

91,3

0 0 8,70 0 0 0 0 0

26,0

8 0

73,9

2

Bảng 3.8. Tồn dư h a chất B T trong lớp ất chuyên canh trồng hoa 0-20 cm vào tháng 5 hàng năm

ở Tây Tựu

TT Chỉ tiêu

phân tích

Lƣợng hóa chất BVTV tồn dƣ

(x 10-3

mg/kg) QCVN

15:2008

(mg/kg)

[2] 1Đ20-

ĐT

-T5

4Đ20-

H4-T

5

3Đ20-

H2-T

5

5Đ20-

H6-T

5

2Đ20-

CN

-T5

6Đ20-

ĐC

-T5

Nhóm clo hữu cơ

1 BHC 0,25 0,20 0,4 0,25 - - 0,01

2 Heptachlor 0,16 0,13 0,26 0,32 0,14 - 0,01

3 Aldrin - - 0,31 - - - 0,01

4 Chlordan - - - - - - 0,01

5 DDT 6,0 16,5 15,3 14,25 0,13 - 0,01

6 Diedrin 0,3 0,4 0,25 0,18 0,28 - 0,01

7 Endosunfate - 1,64 3,4 3,16 - - 0,01

8 Methoxylchlor - - - - - -

9 Endrin - 8,23 7,95 - - - 0,01

Nhóm lân hữu cơ

1 Diclovos 1,3 3,7 8,4 4,9 3,47 - 0,05

2 Dimethoate 2,6 2,8 2,6 3,4 5,92 -

3 Fenitrothion 3,2 56,2 46,3 35,1 2,75 -

4 Kitazine 6,3 25,3 20,6 28,3 14,62 -

Nhóm pyrethroit

1 Tetramethrine 32,2 28,2 29,45 29,6 5,47 -

2 Fenvalerate 21,3 14,6 54,43 48,2 15,36 -

3 Permethrine 35,4 23,20 27,20 29,46 14,05 -

4 Cypermethrine - - - - 28,2 -

14

5 Deltamethirne - - - - - -

Nhóm thuốc trừ cỏ

1 Paraquat - 12,15 10,23 10,16 - -

2 2,4-D - 26,9 28,6 22,0 10,04 - 0,1

3 2,4,5-T - - - - - -

4 Glyphosate - - - - - -

Nhóm cacbamat

1 Bassa - - - - - -

2 Padan - - - - - -

hi chú “-“ hông phát hiện được ( , 1 mg kg)

b) Mức độ ảnh hưởng việc sử dụng thuốc BVTV đối với đất chuyên canh trồng hoa

- Tây Tựu: Kết quả phân tích hàm lượng trung bình hóa chất BVTV trong các mẫu đất lấy ở

vùng nghiên cứu vào tháng 5 và tháng 7 các năm 2009, 2012, 2014 (bảng 3.8 và bảng 3.9) cho

thấy, đã phát hiện được 04 trong số 05 nhóm hóa chất BVTV trong đất nghiên cứu; tích lũy

hóa chất BVTV trong đất trồng các loại cây khác nhau là khác nhau. Hầu hết trên đất trồng

hoa đã phát hiện thấy có sự tích lu các nhóm hoạt chất cơ clo, lân hữu cơ, pyrethroit và thuốc

trừ cỏ. Kết quả nhận được ở trên cho thấy, sử dụng hóa chất BVTV trong chuyên canh trồng

hoa ở Tây Tựu đã sự tích lu chúng trong môi trường đất, trong đó đáng quan tâm về sự có

mặt DDT trong đất. (Thêm bảng số liệu vào)

Bảng 3.9. Tồn dư h a chất B T trong lớp ất chuyên canh trồng hoa 0-20 cm vào tháng 7 hàng năm

ở Tây Tựu

TT Chỉ tiêu

phân tích

Lƣợng hóa chất BVTV tồn dƣ

(x 10-3

mg/kg) QCVN

15:2008

(mg/kg)

[2] 1Đ20-

ĐT

-T7

4Đ20-

H4-T

7

3Đ20-

H2-T

7

5Đ20-

H6-T

7

2Đ20-

CN

-T7

6Đ20-

ĐC

-T7

Nhóm clo hữu cơ

1 BHC 0,12 0,05 0,09 0,15 - - 0,01

2 Heptachlor 0,07 0,09 0,18 0,22 0,03 - 0,01

3 Aldrin - - 0,20 - - - 0,01

4 Chlordan - - - - - - 0,01

5 DDT 4,0 8,9 10,5 9,95 0,24 - 0,01

6 Diedrin 0,21 0,25 0,13 0,09 0,15 - 0,01

7 Endosunfate - 1,12 2,21 1,28 - - 0,01

8 Methoxylchlor - - - - - -

9 Endrin - 7,35 6,49 - - - 0,01

Nhóm lân hữu cơ

1 Diclovos 0,25 2,24 4,65 2,36 1,53 - 0,05

2 Dimethoate 1,5 2,8 3,6 5,6 6,15 -

3 Fenitrothion 4,32 56,3 35,2 46,1 3,58 -

4 Kitazine 5,21 14,6 18,4 29,4 9,23 -

Nhóm pyrethroit

1 Tetramethrine 12,6 23,4 18,45 25,3 34,82 -

2 Fenvalerate 10,5 12,6 46,33 37,4 12,63 -

3 Permethrine 31,5 26,30 22,40 30,43 10,23 -

4 Cypermethrine - - - - 38,5 -

5 Deltamethirne - - - - - -

Nhóm thuốc trừ cỏ

1 Paraquat - 13,4 11,23 13,26 - -

15

2 2,4-D - 24,56 23,54 25,2 18,98 - 0,1

3 2,4,5-T - - - - - -

4 Glyphosate - - - - - -

Nhóm cacbamat

1 Bassa - - - - - -

2 Padan - - - - - -

hi chú “-“ hông phát hiện được ( , 1 mg/kg)

Bảng 3.10. Tồn dư hóa chất BVTV trong lớp đất chuyên canh trồng hoa

0-20 cm vào tháng 5 hàng năm ở Mê Linh

TT Chỉ tiêu

phân tích

Lƣợng hóa chất BVTV tồn dƣ (mg/kg) QCVN

15:2008

(mg/kg)

[2] 6Đ20

-

ĐC

-M5

2Đ20

-

CN

-M5

3Đ20

-

H2

-M5

5Đ20

-

H6

-M5

1Đ20

-

HC

-M5

20

-H4-

M5

1 Alpha - BHC - - 0,123 0,127 - - 0,01

2 Beta - BHC - - - - - -

3 Delta - BHC - - - - - -

4 Gamma - BHC - - - - - -

5 Heptachlor - - - - - - 0,01

6 Aldrin - - - - - - 0,01

7 Chlordane - - - - - - 0,01

8 p,p’ - DDT - - 0,014 - 0,012 - 0,01

9 Dieldrin - - - - - - 0,01

10 Endosulphan I - - - - - - 0,01

11 Endosulphan II - - - - - - 0,01

12 Methoxychlor - - - 0,052 - 0,025

13 Endrin - - - - - - 0,01

14 p,p’ - DDE - - 0,002 - 0,006 0,006

15 p,p’ - DDD - - - - - -

16 Endosulfan sulfate - - - - - -

17 Heptachlor epoxide

(B) - - - - - -

18 Endrin aldehyt - - - - - - 0,01

* Ghi chú: -: không phát hiện được (< 0,002 mg/kg)

- Mê Linh: Kết quả xác định hàm lượng trung bình của nhóm chất clo hữu cơ trong

các mẫu đất lấy vào tháng 5 và tháng 7 các năm 2010, 2012, 2014 (bảng 3.10 và 3.11), cho

thấy, các nhóm hóa chất BVTV được phát hiện thấy trong đất đều nằm trong danh mục hóa

chất BVTV cấm sử dụng tại Việt Nam. Đáng chú ý là đã phát hiện được tồn dư của các loại

hoạt chất như BHC, DDT, methoxylchlor, DDE trong một số mẫu đất nghiên cứu. Như vậy,

đất chuyên canh hoa đều xác định thấy hóa chất BVTV, tuy nhiên trong đất chuyên canh

trồng hoa hồng 2 năm và 6 năm đã nhiễm hóa chất BVTV loại BHC vượt ngưỡng QCVN

15:2008/BTNMT 10,4-12,7 lần; đất trồng hoa cúc bắt đầu có biểu hiện nhiễm DDT.

Bảng 3.11. Tồn dư hóa chất BVTV trong lớp đất chuyên canh trồng hoa

0-20 cm vào tháng 7 hàng năm ở Mê Linh TT Chỉ tiêu Lƣợng hóa chất BVTV tồn dƣ (mg/kg) QCVN

16

phân tích

6Đ20-

ĐC

-M7

2Đ20-

CN

-M7

3Đ20-

H2

-M7

5Đ20-

H6

-M7

1Đ20-H

C-

M7

4Đ20-H

4-

M7

15:2008

(mg/kg)

[2]

1 Alpha - BHC - - 0,104 0,116 - - 0,01

2 Beta - BHC - - - - - -

3 Delta - BHC - - - - - -

4 Gamma - BHC - - - - - -

5 Heptachlor - - - - - - 0,01

6 Aldrin - - - - - - 0,01

7 Chlordane - - - - - - 0,01

8 p,p’ - DDT - - 0,009 - 0,006 - 0,01

9 Dieldrin - - - - - - 0,01

10 Endosulphan I - - - - - - 0,01

11 Endosulphan II - - - - - - 0,01

12 Methoxychlor - - - 0,023 - 0,018

13 Endrin - - - - - - 0,01

14 p,p’ - DDE - - 0,002 - 0,003 0,004

15 p,p’ - DDD - - - - - -

16 Endosulfan sulfate - - - - - -

17 Heptachlor epoxide

(B) - - - - - -

18 Endrin aldehyt - - - - - - 0,01

* Ghi chú: -: không phát hiện được (< 0,002 mg/kg)

3.4.2. Ảnh hưởng của việc sử dụng phân bón đến chất lượng đất chuyên canh trồng hoa ở

Tây Tựu và Mê Linh

a) Mức độ sử dụng phân bón tại Tây Tựu và Mê Linh

Phân bón vô cơ được dùng trong chuyên canh trồng hoa ở Tây Tựu và Mê Linh rất đa

dạng, nhưng thường dùng là phân NPK đầu trâu Bình Điền, Lâm Thao; phân lân nung chảy

Văn Điển, Lào Cai, Ninh Bình; supe lân và kali clorua Lâm Thao, phân urê Hà Bắc và Phú

M . Ngoài ra còn sử dụng các loại phân hữu cơ truyền thống như phân chim cút, phân gà,

phân lợn, phân bắc. Riêng người dân trồng hoa ở Tây Tựu dùng thêm một loại phân nữa là

phân đậu tương.

Mức bón trong thực tế ở địa phương cao hơn rất nhiều so với k thuật trồng hoa yêu

cầu (mức bón cao hơn 2-3 lần). Phân hóa học và phân bón hữu cơ bón cho cây hoa cũng

thường xuyên được sử dụng để tăng năng suất.Nông dân sử dụng vôi bột CaO và nhiều loại

phân hóa học NPK, urê, supe lân và phân hữu cơ như phân chuồng, phân bắc trong trồng hoa.

Bón phân bắc chỉ có ở Mê Linh (89,79% số hộ điều tra) là nguồn gây ô nhiễm đất đáng

kể.Mặt khác, do người dân sử dụng một lượng lớn vôi, phân bón và hóa chất BVTV đã làm

tăng chi phí sản suất và gây ảnh hưởng xấu đến môi trường, cũng như sức khỏe người dân.Kết

quả điều tra mức độ sử dụng phân bón cho hoa ở Tây Tựu và Mê Linh được chỉ ra trong bảng

3.12. Các loại phân bón chính được sử dụng trong canh tác hoa ở Mê Linh và Tây Tựu được

thể hiện trong bảng 3.12.

Bảng 3.12. Hiện trạng hộ dân sử dụng phân bón ở Tây Tựu và Mê Linh

theo tổng số hộ điều tra

Loại

phân

bón

Phần trăm

số hộ s

dụng phân

bón (%)

Phần trăm số hộ s dụng lƣợng phân bón 1 lần cho

1000 m2 đất trồng hoa (%)

Phần trăm số hộ bón

phân theo tần suất lần vụ

(%)

Dƣới 30 kg 31-50 kg 51-200 kg > 200 kg 1-3 lần vụ 4-6 lần vụ

17

Tây Tự

u

Lin

h

Tây Tự

u

Lin

h

Tây Tự

u

Lin

h

Tây Tự

u

Lin

h

Tây Tự

u

Lin

h

Tây Tự

u

Lin

h

Tây Tự

u

Lin

h

NPK 29,16 95,91 100 89,79 0 6,38 0 0 0 0 100 95,74 0 4,26

Urê 95,83 100 100 100 0 0 0 0 0 0 86,95 97,95 13,05 2,05

Supe

lân 85,41 97,95 90,25 72,91 9,75 27,09 0 0 0 0 92,68 97,91 7,32 2,09

Phân

chuồng 92,91 97,95 0 0 0 0 60,0 0 40,0 100 100 100 0 0

Phân

bắc 0 89,79 0 0 0 18,18 0 79,55 0 2,27 0 100 0 0

b) Thành phần hóa học của một số loại phân bón sử dụng để trồng hoa ở Tây Tựu và

Mê Linh

Để đánh giá được ảnh hưởng của phân bón đến đất trồng hoa, trong nghiên cứu của

mình chúng tôi đã phân tích đánh giá hàm lượng kim loại nặng trong một số loại phân bón

chính dùng trong chuyên canh hoa ở vùng trồng hoa ở Tây Tựu và Mê Linh.

+ Phân lân. Trong phân lân được sử dụng để bón cho cây hoa ở Việt Nam có hàm

lượng các kim loại nặng đã được xác định là Cu, Zn, Pb và một số KLN khác. Cụ thể được

nêu trong bảng 3.14. Phân lân là một trong những nguồn sử dụng rất lớn trong trồng hoa, do

vậy với lượng KLN trong phân lân Việt Nam cao (bảng 3.14) sẽ gây tác động xấu tới môi

trường đất trồng hoa nói chung và ở Tây Tựu và Mê Linh nói riêng.

Bảng 3.14. Hàm lượng KLN trong phân lân Việt Nam

Nguyên tố Hàm lƣợng (mg/kg)

As 2,1- 120

Cd 0,05- 8,5

Cr 3,2 - 1,9

Co 5,4 - 12

Cu <1 - 15

Hg 0,3 - 2,9

Ni 7 - 34

Pb 2 - 27

Zn 1 - 42

+ Phân đạm và phân NPK. Tuy được sử dụng với số lượng lớn nhưng hàm lượng

kim loại nặng trong phân đạm và phân NPK thấp hơn so với các loại phân bón khác. Hàm

lượng các KLN trong phân đạm dùng trong trồng hoa và rau ở Tây Tựu và Mê Linh được

chúng tôi xác định là Cu, Pb, Ni, Zn, As và một số KLN khác. Kết quả phân tích được nêu

trong bảng 3.15.

Bảng 3.15. Hàm lượng KLN trong phân đạm Việt Nam

Nguyên tố Hàm lƣợng (mg/kg)

As 2,1- 120

Cd 0,05- 8,5

Cr 3,2 - 1,9

18

Co 5,4 - 12

Cu <1 - 15

Hg 0,3 - 2,9

Ni 7 - 34

Pb 2 - 27

Zn 1 - 42

+ Các loại phân hữu cơ và vôi

Các loại phân hữu cơ được người dân trồng hoa ở Tây Tựu và Mê Linh sử dụng bao

gồm phân bùn, phân chuồng. Thành phần hóa học của các loại phân bùn, phân chuồng và vôi

bột được người dân ở Tây Tựu và Mê Linh sử dụng đã được chúng tôi phân tích xác định có

kim loại nặng chủ yếu là Ca, Zn, Cr, Cu và Pb. Kết quả phân tích được chỉ ra trong bảng 3.17. Với kết quả nêu ở bảng 3.17 có thể thấy n, Cr, Cu và Pb là 4 KLN có hàm lượng lớn nhất

trong phân bùn, phân chuồng và vôi bột (trừ Ca là chất chính có mặt trong vôi). Tuy nhiên, ở

Tây Tựu và Mê Linh ít khi sử dụng phân bùn bón cho cây hoa. Do vậy khi bón phân chuồng

và vôi vào đất trồng hoa sẽ làm tăng đáng kể lượng Ca, n, Cr, Cu và Pb trong đất và trong

cây hoa.

Bảng 3.17. Hàm lượng trung bình của các KLN trong một số phân

bón và vôi sử dụng trong trồng hoa ở Tây Tựu và Mê Linh

Chỉ tiêu phân tích Hàm lƣợng KLN (mg/kg)

Phân bùn Phân chuồng Vôi

Zn 670-5010 15 - 250 10 - 450

Cu 4,5 – 3420 2 - 60 2 - 125

Ni 13 – 4910 7,8 - 30 10 - 20

Cd 1,5 – 1390 0,3 - 0,8 0,04 - 0,1

Pb 46 – 2780 6,6 - 15 20 - 1250

Cr 16,7- 3870 5,2 - 55 10 - 15

Hg 0,2 – 48 0,09 - 0,2 0,05

As 1,7 – 23 3 - 25 0,1 - 24,0

Co 1,6 – 249 0,3 - 24 0,4 - 3,0

Bên cạnh việc sử dụng các loại phân tổng hợp, trong trong hoa người dân ở Tây Tựu

và Mê Linh cũng sử dụng một lượng lớn vôi bột để cải tạo và khử trùng cho đất trước khi

trồng hoa. Do vôi được sản xuất từ đá vôi nên hàm lượng KLN trong vôi cũng khá lớn.

c) Nhận xét: So sánh lượng phân bón thực tế trên đồng ruộng chuyên canh hoa ở Mê

Linh và Tây Tựu với lượng phân bón theo yêu cầu k thuật, thì lượng phân bón N, P2O5, K2O

mà người nông dân sử dụng trong trồng hoa không cân đối và cao hơn rất nhiều. Theo kết quả

khảo sát, lượng phân bón N, P2O5, K2O cho 1.000 m2 đất trồng hoa trong một vụ có sự chênh

lệch giữa yêu cầu k thuật với sử dụng của người dân trồng hoa ở Mê Linh và Tây Tựu là

khá lớn, bảng 3.15. Bên cạnh đó, theo phản ảnh của người dân trồng hoa ở Mê Linh và Tây

Tựu, thì hiện tượng phân bón “giả” cũng đang là vấn đề nhức nhối của người dân. Trong các

loại phân bón, tỷ lệ nitơ, phốtpho, kali chỉ bằng 1/4 đến 1/8 số liệu công bố trên nhãn mác.

3.4.3. Ảnh hưởng của phế thải của cây hoa ồng ti n, cây hoa cúc, lá cây hoa hồng

Để đánh giá hàm lượng KLN trong cây hoa, chúng tôi đã phân tích xác định các KLN

trong các phế thải của cây hoa đồng tiền, cây hoa cúc, lá cây hoa hồng tươi lấy tại nơi trồng

hoa ở Tây Tựu và Mê Linh. Kết quả phân tích nêu trong bảng 3.18.

Căn cứ kết quả phân tích có thể thấy n, Cr, Cu, Pb và Ni là 5 KLN có hàm lượng lớn

nhất trong các phế thải của cây hoa đồng tiền, cây hoa cúc, lá cây hoa hồng. Theo con đường

này, đây là nguyên nhân làm cho hàm lượng KLN gồm n, Cr, Cu, Pb và Ni trong đất chuyên

canh trồng cây hoa mất đi không đáng kể.

Như vậy, có thể nói rằng, nếu tính tổng lượng các loại vôi, phân bón vô cơ và hữu có

thì lượng KLN đưa vào đất chuyên canh là rất lớn. Theo số liệu ở bảng 3.14, 3.15, 3.16, 3.17

19

và 3.18 cho thấy, n, Cr, Cu, Pb, Ni, Cd và s là các KLN được đưa vào đất chuyên canh

trồng hoa là lớn nhất, trong đó n, Cu, Cr và Ni là những KLN có hàm lượng cao hơn hẳn.

Đây chính là các yếu tố có thể làm cho môi trường đất nơi chuyên canh trồng hoa ở Tây Tựu

và Mê Linh bị ô nhiễm nặng bởi các kim loại này.

3.5. Tồn lƣu kim loại nặng (KLN) trong đất chuyên canh trồng hoa

3.5.1. Tồn lưu KLN trong đất chuyên canh trồng hoa ở Tây Tựu

Kết quả phân tích xác định hàm lượng trung bình của một số KLN trong đất chuyên

canh trồng hoa ở Tây Tựu 3 năm 2009, 2012 và 2014 (bảng 3.19 và 3.20) cho thấy hàm lượng

KLN ở dạng tổng số có hàm lượng cao nhất là các mẫu đất trồng hoa; kế đến trong các mẫu

đất trồng rau và thấp nhất ở mẫu đất đối chứng và ở lớp đất canh tác 0-20 cm đều cao hơn lớp

đất dưới 20-40 cm. Điều này cho thấy việc canh tác các loại cây trồng khác nhau (mức độ

thâm canh, đặc điểm sinh học và nhu cầu dinh dưỡng thực vật) đã có tác động đến sự tích lu

một số KLN trong đất. Cụ thể:

- Hàm lượng Cu. Trong đất chuyên canh trồng hoa hồng có hàm lượng Cu cao nhất và

cao hơn giới hạn cho phép quy định tại QCVN 03:2008/BTNMT khoảng 3,24 lần vào tháng 5

và 3,04 lần vào tháng 7. Hàm lượng Cu trong đất chuyên canh trồng hoa cao có thể do phân

bón. Như đã nêu ở trên, hàm lượng Cu trong phân chuồng, vôi, phân đạm và phân lân tương

ứng như sau (tính hàm lượng cao nhất): 60 mg/kg, 125 mg/kg, 15 mg/kg và 155 mg/kg; và

người dân ở Tây Tựu thường bón phân vượt lượng yêu cầu k thuật hướng dẫn trồng hoa.

- Hàm lượng Pb. Trong các mẫu đất chuyên canh trồng hoa ở Tây Tựu, một số mẫu

đất chuyên canh trồng hoa ở tầng đất 0-20 cm có hàm lượng Pb vượt ngưỡng QCVN 03:2008

khoảng 1,14 - 1,64 mg/kg. Trong khi đó các mẫu đất trồng hoa đồng tiền, hàm lượng Pb tổng

số vượt ngưỡng giá trị tiêu chuẩn QCVN 03:2008 không đáng kể, khoảng 1,14 lần. Đất so

sánh (đất trồng rau cải và đất đối chứng) có hàm lượng Pb thấp hơn ngưỡng giá trị tiêu chuẩn

QCVN 03:2008/BTNMT, và thấp hơn so với trong đất chuyên canh trồng hoa khoảng 10,18

lần.

- Hàm lượng Cd. Trong các lớp đất trồng hoa ở lớp 0-20 cm đã có dấu hiệu tích lu

Cd, hàm lượng Cd tổng số dao động từ 2,34-3,23 mg/kg vào tháng 5 và từ 2,26-2,91 mg/kg

vào tháng 7; nếu tính cho hàm lượng tích lũy cao nhất ở cả hai tháng lấy mẫu trong năm thì

Cd tổng số vượt giá trị ngưỡng giới hạn cho phép là từ 1,46-1,62 lần. Đối với các mẫu đất so

sánh (đất trồng rau và đất đối chứng) thì hàm lượng Cd tổng số đều thấp hơn ngưỡng cho

phép theo tiêu chuẩn QCVN 03:2008.

- Hàm lượng Hg. Trong tất cả các mẫu đất chuyên canh trồng hoa lấy ở Tây Tựu chưa

có dấu hiệu ô nhiễm Hg. Hàm lượng Hg tổng số đều thấp hơn nhiều so với QCVN 03:2008.

- Hàm lượng Zn. n là nguyên tố dinh dưỡng vi lượng rất cần thiết cho thực vật nên

được thực vật sử dụng với lượng rất lớn. Hàm lượng n xác định được trong các mẫu đất

nghiên cứu ở Tây Tựu (lớp đất 0-20 cm) cho thấy môi trường đất trồng hoa ở Tây Tựu chưa

bị ô nhiễm bởi Zn.

Về hàm lượng KLN linh động trong đất chuyên canh trồng hoa. Hàm lượng KLN linh

động ở lớp đất 0-20 cm đều cao hơn so với lớp đất dưới (20-40 cm).

Với hàm lượng Cu, Pb và Cd trong đất chuyên canh trong hoa ở Tây Tựu vượt ngưỡng

tiêu chuẩn cho phép, và hàm lượng Cu và Pb linh động cao, và hàm lượng n linh động thấp

có thể nói rằng chất lượng đất chuyên canh trồng hoa ở Tây Tựu đã bị suy thoái, ảnh hưởng

khá lớn tới sự sinh trưởng và phát triển của sinh vật đất.

Bảng 3.1 . Hàm lượng trung bình của một số im loại nặng dạng tổng số và linh động

trong đất chuyên canh trồng hoa lấy vào tháng 7 hàng năm ở Tây Tựu

hiệu

mẫu

Tầng

đất

(cm)

Dạng tổng số (mg kg) Dạng linh động (mg kg)

Cu Zn Pb Cd Hg Cu Zn Pb Cd H

g

Đối

chứng

6Đ20-

ĐC-T7 5,68

111,2

4 11,27

0,22

8

0,04

0 1,83

1,2

4 6,21

0,0

4 -

20

Rau

cải

ngọt

2Đ20-

CN-T7 6,92 70,13 13,65

0,26

2

0,05

2 2,18

1,7

1 9,52

0,0

7 -

2Đ40-

CN-T7 4,28 63,78 12,87

0,22

4

0,05

1 2,17

1,2

7 6,81

0,0

4 -

Hoa

đồng

tiền

1Đ20-

ĐT-T7 53,32 83,12 79,85 2,26 0,18

16,4

6

2,5

1

11,6

7

0,0

9 -

1Đ40-

ĐT-T7 38,12 73,27 17,82 1,29 0,04

13,3

2

1,1

8

10,6

1

0,0

5 -

Hoa

hồng 2

năm

3Đ20-

H2-T7

123,8

5 98,86 85,13 2,91 0,29

16,2

5

2,4

1

10,3

2

0,0

6 -

3Đ40-

H2-T7 99,35 31,43 17,78 0,29 0,06

12,4

0

1,6

0 8,72

0,0

3 -

Hoa

hồng 4

năm

4Đ20-

H4-T7 79,62

112,8

7

114,7

6 2,86 0,32

10,3

2

2,2

4 9,42

0,0

8 -

4Đ40-

H4-T7 67,46 67,09 22,34 1,19 0,02 9,39

1,1

8 6,14

0,0

5 -

Hoa

hồng 6

năm

5Đ20-

H6-T7

152,1

6 93,78 99,12 2,91 0,29

11,5

2

2,5

2 9,54

0,0

8 -

5Đ40-

H6-T7

128,4

3 31,87 19,76 0,25 0,02 9,18

1,6

4 8,90

0,0

5 -

QCVN

03:2008/BTNM

T

50 200 70 2 0,5*

* TCVN 72 9 2 2; ”-” Không phát hiện được

Bảng 3.20. Hàm lượng trung bình của một số im loại nặng dạng tổng số và linh động

trong đất chuyên canh trồng hoa lấy tháng 5 hàng năm ở Tây Tựu

hiệu

mẫu

Tầng

đất

(cm)

Dạng tổng số (mg kg) Dạng linh động (mg kg)

Cu Zn Pb Cd Hg Cu Zn Pb Cd Hg

Đối

chứng

6Đ20-

ĐC-T5 6,03 117,91 11,90 0,24 0,042 1,79 1,22 6,12 0,03 -

Rau

cải

ngọt

2Đ20-

CN-T5 7,45 74,48 14,33 0,28 0,056 2,12 1,66 9,23 0,06 -

2Đ40-

CN-T5 4,42 64,73 13,11 0,23 0,045 2,10 1,23 6,61 0,03 -

Hoa

đồng

tiền

1Đ20-

ĐT-T5 56,19 88,27 83,84 2,34 0,193 15,97 2,43 11,42 0,08 -

1Đ40-

ĐT-T5 39,14 74,81 18,23 1,30 0,045 12,92 1,14 10,31 0,04 -

Hoa

hồng 2

năm

3Đ20-

H2-T5 130,91 104,99 89,39 3,16 0,318 15,76 2,34 10,25 0,05 -

3Đ40-

H2-T5 100,25 31,38 18,78 0,31 0,062 12,03 1,55 8,46 0,02 -

Hoa

hồng 4

năm

4Đ20-

H4-T5 83,96 119,87 121,19 2,89 0,351 10,01 2,17 9,12 0,08 -

4Đ40-

H4-T5 68,97 69,12 23,68 1,24 0,023 9,11 1,16 5,79 0,04 -

Hoa

hồng 6

năm

5Đ20-

H6-T5 161,92 99,41 105,07 3,23 0,315 11,17 2,47 9,22 0,07 -

5Đ40- 129,21 32,78 20,27 0,27 0,023 9,00 1,64 8,50 0,04 -

21

H6-T5

QCVN

03:2008/BTNMT 50 200 70 2 0,5*

* TCVN 72 9 2 2; ”-” Không phát hiện được

3.5.2. Tồn lưu KLN trong đất chuyên canh trồng hoa ở Mê Linh

Kết quả phân tích hàm lượng một số KLN trong đất, phân bón, vôi và phế thải của cây

hoa sau thu hoạch đã chỉ ra rằng sự tích lũy và gây ô nhiễm KLN cho đất trồng hoa ở Mê Linh

chủ yếu do các nguồn phân bón hữu cơ, phân bón hóa học và vôi. Kết quả phân tích hàm

lượng trung bình một số KLN trong đất chuyên canh hoa ở Mê Linh trong 3 năm 2010, 2012

và 2014 vào tháng 5 và tháng 7 ở các tầng đất 0-20 cm và 20-40 cm được chỉ ra trong bảng

3.21 và 3.22, cho thấy: (Thêm 2 bảng số liệu này vào)

Bảng 3.21. Hàm lượng trung bình của một số im loại nặng dạng tổng số và linh động

trong đất chuyên canh trồng hoa lấy vào tháng 7 hàng năm ở Mê Linh

Ký hiệu

mẫu

Tầng đất

(cm)

Dạng tổng số (mg kg) Dạng linh động (mg kg)

Cu Zn As Cd Hg Cu Zn As Cd Hg

Đối chứng 6Đ20-ĐC-M7 4,10 110,45 0,184 0,25 0,037 1,825 1,210 0,001 0,015 -

Rau cải

ngọt

2Đ20-CN-M7 72,65 85,20 0,187 4,97 0,082 2,743 1,426 0,032 0,045 -

2Đ40-CN-M7 49,25 69,58 0,072 4,28 0,034 0,203 0,182 0,012 0,019 -

Hoa cúc 1Đ20-HC-M7 56,82 96,85 0,183 5,70 0,072 3,552 3,243 0,025 0,063 -

1Đ40-HC-M7 32,89 84,43 0,092 4,92 0,026 0,130 0,224 0,009 0,008 -

Hoa hồng

2 năm

3Đ20-H2-M7 115,76 98,82 0,282 7,84 0,387 7,324 2,543 0,032 0,079 -

3Đ40-H2-M7 93,47 47,64 0,048 4,83 0,036 0,356 0,184 0,007 0,018 -

Hoa hồng

4 năm

4Đ20-H4-M7 82,24 104,33 0,341 8,87 0,325 8,463 3,362 0,054 0,068 -

4Đ40-H4-M7 53,17 79,26 0,038 4,91 0,047 0,283 0,142 0,007 0,028 -

Hoa hồng

6 năm

5Đ20-H6-M7 86,83 135,31 0,245 7,93 0,094 7,358 1,342 0,046 0,093 -

5Đ40-H6-M7 71,34 89,24 0,083 5,72 0,038 0,515 0,095 0,026 0,025 -

QCVN 03:2008/BTNMT 50 200 12 2 0,5*

* TCVN 72 9 2 2; ”-” Không phát hiện được

Bảng 3.22. Hàm lượng trung bình của một số im loại nặng dạng tổng số và linh động

trong đất chuyên canh trồng hoa lấy vào tháng 5 hàng năm ở Mê Linh

hiệu

mẫu

Tầng đất

(cm)

Dạng tổng số (mg kg) Dạng linh động (mg kg)

Cu Zn As Cd Hg Cu Zn As Cd Hg

Đối

chứng 6Đ20-ĐC-M5

4,36 116,19 0,190 0,26 0,038 1,789 1,162 0,001 0,015 -

Rau cải

ngọt

2Đ20-CN-M5 76,43 90,48 0,195 5,15 0,085 2,688 1,355 0,031 0,043 -

2Đ40-CN-M5 51,81 73,89 0,075 4,43 0,035 0,199 0,173 0,012 0,018 -

Hoa

cúc

1Đ20-HC-M5 59,77 102,85 0,191 6,02 0,076 3,385 3,081 0,024 0,061 -

1Đ40-HC-M5 34,60 89,66 0,096 5,20 0,027 0,124 0,213 0,009 0,008 -

Hoa

hồng

2 năm

3Đ20-H2-M5 121,78 104,95 0,294 8,28 0,409 6,980 2,416 0,030 0,076 -

3Đ40-H2-M5 98,33 50,59 0,050 5,10 0,038 0,339 0,175 0,007 0,017 -

Hoa 4Đ20-H4-M5 86,52 110,80 0,356 9,37 0,343 8,065 3,194 0,051 0,068 -

22

hồng

4 năm 4Đ40-H4-M5

55,93 84,17 0,039 5,18 0,050 0,270 0,135 0,007 0,028 -

Hoa

hồng

6 năm

5Đ20-H6-M5 91,35 143,70 0,253 8,37 0,099 7,012 1,275 0,044 0,093 -

5Đ40-H6-M5 75,83 94,77 0,086 6,04 0,040 0,491 0,090 0,025 0,025 -

QCVN 03:2008/BTNMT 50 200 12 2 0,5*

* TCVN 72 9 2 2; ”-” Không phát hiện được

- Hàm lượng Cu trong các mẫu đất nghiên cứu có sự chênh lệch khá lớn giữa đất trồng

rau và đất chuyên canh trồng hoa hồng và hoa cúc. Nếu chỉ tính lượng Cu cao nhất vào tháng

5 và tháng 7 thì thấy, trong đất chuyên canh hoa hồng hàm lượng Cu đều cao vượt 2,44 lần

vào tháng 5 và 2,32 lần vào tháng 7 ngưỡng cho phép theo QCVN 03:2008/BTNMT và đều

cao hơn ngưỡng cho phép QCVN 03:2008, trừ mẫu đất đối chứng.

- Hàm lượng Cu trong các mẫu đất nghiên cứu có sự chênh lệch khá lớn giữa đất trồng

rau và đất chuyên canh trồng hoa hồng và hoa cúc. Nếu chỉ tính lượng Cu cao nhất vào tháng

5 và tháng 7 thì thấy, trong đất chuyên canh hoa hồng hàm lượng Cu đều cao vượt 2,44 lần

vào tháng 5 và 2,32 lần vào tháng 7 ngưỡng cho phép theo QCVN 03:2008/BTNMT và đều

cao hơn ngưỡng cho phép QCVN 03:2008, trừ mẫu đất đối chứng. - Hàm lượng Cd. Phân bón, đặc biệt trong phân lân, phân bùn là một trong các tác

nhân gây ra sự tích lũy Cd trong đất. Phân lân thường có hàm lượng Cd cao trở thành nguồn gây ô nhiễm Cd trong đất nông nghiệp. Sự tập trung Cd trong đất do bón phân lân làm tăng từ 0,07 đến 10 mgCd/kg đất nông nghiệp [1]. Nếu chỉ tính hàm lượng Cd cao nhất vào tháng 5 thì thấy, trong đất chuyên canh trồng hoa có hàm lượng Cd đều cao và vượt ngưỡng cho phép theo QCVN 03:2008/BTNMT, tương ứng đất trồng hoa hồng, hoa cúc và rau cải ngọt là 4,69 lần, 3,01 lần và 2,58 lần; trong khi đó đất đối chứng có hàm lượng Cd cao nhất là 0,26 mg/kg dưới ngưỡng cho phép theo QCVN 03:2008/BTNMT và thấp hơn các mẫu đất trồng hoa. Nguyên nhân gây ô nhiễm Cd có thể do việc bón phân lân, phân đạm, phân chuồng đã trong đất chuyên canh trồng hoa ở Mê Linh. Điều này cũng đã được chứng minh khi sử dụng phân gà bón có hàm lượng Cd là 6,721 mg/kg bón cho đất nông nghiệp [14].

- Hàm lượng Hg và As. Trong tất cả các mẫu đất chuyên canh trồng hoa ở Mê Linh chưa có dấu hiệu ô nhiễm, hàm lượng Hg và As tổng số đều thấp hơn nhiều so với QCVN [3].

- Hàm lượng Zn. Cũng như trường hợp ở Tây Tựu, hàm lượng n xác định được trong đất chuyên canh trồng hoa ở Mê Linh chưa gây nên ô nhiễm đối với môi trường đất.

Hàm lượng các KLN linh động trong đất chuyên canh trồng hoa ở Mê Linh nêu trong bảng 3.21 và 3.22 cho thấy, hàm lượng KLN linh động trong đất nghiên cứu rất khác nhau tùy thuộc vào cây trồng canh tác và thời gian canh tác; theo đó:

Hàm lượng Cu linh động trong đất nghiên cứu giảm theo hướng, cao nhất ở đất chuyên canh trồng hoa hồng, tiếp theo đến đất trồng hoa cúc, đất trồng rau và thấp nhất là đất đối chứng. Hàm lượng Cu trong đất chuyên canh trồng hoa vượt ngưỡng cho phép; hàm lượng Cu linh động cao trong đất chuyên canh trồng hoa, đặc biệt cao trong đất trồng hồng.

Hàm lượng Cd linh động trong đất nghiên cứu giảm theo hướng, cao nhất ở đất chuyên canh trồng hoa hồng, tiếp theo đến đất trồng hoa cúc, đất trồng rau và thấp nhất là đất đối chứng.

- Hàm lượng n linh động ở lớp đất 0-20 cm chuyên canh trồng hoa thấp, dao động từ 1,275 – 3,243 mg/kg. Mặc dù ở cả hai địa phương Tây Tựu và Mê Linh sử dụng phân bón trong chuyên

canh trồng hoa có hàm lượng Zn rất lớn (Zn trong phân chuồng từ 15-250 mg/kg, vôi 10-

450 mg/kg, đạm 1-42 mg/kg và phân lân từ 50-750 mg/kg), nhưng hàm lượng Zn trong các

mẫu đất chuyên canh trồng hoa ở Tây Tựu và Mê Linh còn thấp hơn tiêu chuẩn cho phép,

đất chưa bị ô nhiễm bởi n. Điều này có thể có mấy nguyên nhân sau: thứ nhất, cây hoa sử

dụng và tích lũy một lượng lớn Zn (Zn trong chất thải là thân cây và lá cây hồng dao động

từ 158-182 mg/kg); thứ hai, do sử dụng nhiều vôi làm môi trường pH của đất thay đổi lớn

hơn 6, dẫn đến n hòa tan đi sâu xuống lớp đất dưới hoặc bị rửa trôi; thứ ba, khi bón nhiều

23

phân lân, thì phân lân và kẽm có thể xảy ra đối kháng, dẫn đến Zn nằm ở trạng thái bất lợi,

cây trồng khó sử dụng làm thức ăn nhưng lại thuận lợi cho quá trình rửa trôi.

- Hàm lượng KLN Cu, n và Hg trong đất chuyên canh trồng hoa ở Tây Tựu và Mê

Linh là khá tương đồng với nhau, trừ đất trồng hoa hồng 6 năm. Hàm lượng Cd trong đất

chuyên canh trồng hoa ở Mê Linh lại cao hơn ở Tây Tựu (hình 3.1 và 3.2). Nếu so sánh giữa

đất đối chứng với đất chuyên canh trồng hoa thì thấy, sự tích lũy KLN trong đất chuyên canh

trồng hoa khá lớn. Hàm lượng KLN cao nhất trong đất chuyên canh trồng hoa so với đất đối

chứng, vào tháng 7.

- Hàm lượng Cu, Pb và Cd trong đất chuyên canh trồng hoa đã vượt ngưỡng cho phép.

Hàm lượng KLN linh động trong các mẫu đất nghiên cứu ở lớp 0-20 cm đều cao hơn lớp đất

dưới 20-40 cm. Đặc biệt với đất chuyên canh trồng hoa hồng – trong đó có hồng 6 năm, hàm

lượng Cu, Pb và Cd linh động rất lớn, nên khả năng gây tác động xấu đến sinh vật đất là rất

cao.

- Hàm lượng n linh động trong đất thấp chứng tỏ đất chuyên canh trồng hoa ở Tây

Tựu và Mê Linh bị cằn cỗi. Hàm lượng n linh động trong đất thấp có ảnh hưởng xấu đối với

cây trồng.

3.6. Ảnh hƣởng của hoạt động chuyên canh hoa đến hệ sinh vật đất

3.6.1. Ảnh hưởng quần xã động vật chân hớp bé Collembola

a) Thành phần loài và phân bố

- Tây Tựu: Họ Entomobryidae có số loài tập trung nhiều nhất (14/35 loài, chiếm 40%

tổng số loài). Kết quả phân tích cấu trúc quần xã động vật chân khớp bé Collembola ở Tây

Tựu được nêu ở bảng 3.23. Họ Entomobryidae có số loài tập trung nhiều nhất (14/35 loài,

chiếm 40% tổng số loài),tiếp theo là 3 họ (Neanuridae, Isotomidae, Sminthurididae) có số loài

xấp xỉ nhau, từ 3-5 loài. 7 họ còn lại chỉ có 1 loài. Giống Lepidocyrtus thuộc họ

Entomobryidae là giống có số loài nhiều nhất (9 loài, chiếm 64,29% tổng số loài của họ

Entomobryidae và 25,71% tổng số loài chung).

- Mê Linh: ghi nhận 23 loài (chiếm 50% tổng số loài) phân bố ở cả đất đối chứng (đất

không bị tác động bởi hoạt động canh tác) và thí nghiệm (bị tác động bởi hoạt động canh tác)

và là các loài hay gặp ở sinh cảnh đất nông nghiệp ở 6 sinh cảnh nghiên cứu ở Mê Linh. Kết

quả phân tích cấu trúc quần xã động vật chân khớp bé Collembola ở Mê Linh được nêu ở

bảng 3.24. Các loài ghi nhận ở đợt thu mẫu 2 đều là những loài ghi nhận được ở đợt thu mẫu

1, ngoại trừ 3 loài Dicranocentrus indicus, Sinella pseudomonoculata, Calvatomina

tuberculata là những loài có dạng sống trên bề mặt đất và trong lớp thảm, do đợt thu mẫu thứ

2 vào cuối mùa khô - đầu mùa mưa nên mặt đất khô hơn, thảm thực vật che phủ mặt đất nhiều

hơn.

Tóm lại: Ở cả hai khu vực nghiên cứu, trong cả hai đợt thu mẫu, ruộng trồng đồng tiền

luôn có thành phần loài nghèo nàn. Điều này cho thấy tính chất đặc biệt của ruộng này đó là

ruộng được bao xung quanh bởi hệ thống nhà lưới nên khả năng di cư hay xâm nhập của các

loài bị hạn chế, thêm vào đó chế độ chăm sóc với mật độ cao các loại thuốc diệt nấm là những

nguyên nhân làm thành phần loài ở ruộng trồng này nghèo nàn.

b) Số loài

- Tây Tựu: ghi nhận được 35 loài Collembola thuộc 23 giống, 11 họ phân bố ở 6 sinh

cảnh nghiên cứu. Số loài Collembola ghi nhận ở đất trồng hoa hồng các năm (2, 4, 6 năm) có số

loài ghi nhận hơn kém không đáng kể so với số loài ghi nhận ở đất đối chứng, nhưng ở đợt thu

mẫu thứ 2 thì số loài ở các ruộng trồng hồng giảm rõ rệt hơn, từ khoảng ½ đến ¼ số loài so với

đối chứng (tương ứng: ĐC: 15 loài, hồng 4 năm: 4 loài, hồng 2 năm: 8 loài, hồng 6 năm: 9 loài).

Kết quả trình bày ở bảng 3.25

- Mê Linh: xác định được 46 loài Collembola thuộc 25 giống, 10 họ ở đất chuyên canh

trồng hoa ở xã Mê Linh, Hà Nội. Họ Entomobryidae có số loài nhiều nhất (24/46 loài, chiếm

52,17% tổng số loài).

c) Số cá thể

24

Kết quả trình bày ở bảng 3.25 và 3.26 cho thấy: Xét từng đợt thu mẫu ở cả hai địa

điểm hay tính chung cho cả hai đợt thu mẫu, số lượng cá thể ghi nhận ở ruộng thí nghiệm có

lúc tăng, lúc giảm so với đối chứng tùy đối tượng cây trồng (ví dụ, ở Tây Tựu tăng ở ruộng

trồng hồng 2, 4, 6 năm và giảm ở ruộng rau, trồng đồng tiền). Nhìn chung, số cá thể ghi nhận

nhiều nhất ở ruộng trồng hồng các năm (đặc biệt ruộng trồng hồng 4 năm và 6 năm thường có

số lượng cá thể vượt trội so với các ruộng thí nghiệm khác), tiếp theo về số lượng ghi nhận ở

ruộng cúc, ruộng rau và thấp nhất ở ruộng đồng tiền. Việc tăng đột biến số lượng cá thể ở các

ruộng thí nghiệm nêu trên đều chỉ tập trung vào một số loài nhất định - đây có thể là những

loài phổ biến với loại đất trồng hay có khả năng thích ứng với điều kiện sống mới hoặc thích

nghi với lượng KLN ô nhiễm và các loại hóa chất BVTV, có khả năng ăn được độc tố và tích

lũy chúng trong cơ thể hoặc có khả năng phân giải độc tố thành dạng hợp chất hòa tan làm

giảm tính độc của thuốc (ví dụ như loài Isotomurus palutris, Isotomurus punctiferus,

Protaphorura tamdaona, …).

Như vậy, có thể chính do tác động của con người trong quá trình trồng và chăm bón

hoa đã gây những ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến quần xã chân khớp bé Collembola.

Những tác động chính đến đất chuyên canh trồng hoa đã làm thay đổi điều kiện và tính chất

lý, hóa đất, thay đổi hiện trạng thảm thực vật của đất.

d) Chỉ số đa dạng (H’) và chỉ số đồng đều (J’)

- Tây Tựu:

Kết quả nêu ở bảng 3.25 cho thấy, chỉ số đa dạng H’ ở đất chuyên canh trồng hoa và

rau ở Tây Tựu rất thấp, chỉ từ 0,68 (ruộng trồng hồng 4 năm) đến 1,7 (đối chứng) ở đợt thu

mẫu thứ 1 và từ 0,34 (hồng 4 năm) đến 2,42 (đối chứng) ở đợt thu mẫu thứ 2.

Giá trị của chỉ số đa dạng H’ ở ruộng trồng hồng các năm có chiều hướng tăng giảm

ngược với sự tăng giảm của giá trị số lượng cá thể ở các ruộng này so với đối chứng, đó là

ruộng trồng hồng các năm có số lượng cá thể cao hơn so với đối chứng nhưng giá trị độ đa

dạng H’ ở các ruộng này lại thấp hơn nhiều so với đối chứng. Nguyên nhân gây ra sự giảm

giá trị của H’ là do sự gia tăng vượt trội số lượng cá thể của một hay vài loài mà mật độ quần

xã động vật đất được quy định bởi chính các loài này, từ đó làm giảm giá trị của chỉ số đa

dạng H’ và chỉ số đồng đều J’. Chẳng hạn, ở ruộng hồng 6 năm đợt thu mẫu 1, riêng loài I.

palutris đã có số lượng cá thể chiếm gần 80% tổng số lượng cá thể của toàn bộ quần xã ruộng

này, hay loài này chiếm gần 80% tổng số lượng cá thể của quần xã ở ruộng hồng 2 năm trong

đợt 2 lấy mẫu.

Việc gia tăng đột biến về số lượng cá thể sẽ làm thay đổi cấu trúc nội tại của quần xã

Collembola là cho cấu trúc quần xã kém bền vững. Việc giá trị của chỉ số H’ giảm tương ứng

là sự giảm giá trị của chỉ số đồng đều J’.

- Mê Linh: Kết quả nêu ở bảng 3.26 cho thấy, chỉ số đa dạng H’ ở các ruộng thí

nghiệm đều thấp hơn so với đối chứng, đặc biệt ở ruộng hồng các năm, cúc. Riêng giá trị của

chỉ số đồng đều J’ ở các ruộng rau cải ngọt tương đương với đối chứng là do số lượng loài thu

được ở sinh cảnh này mặc dù ít nhưng sự chênh lệch về số lượng cá thể của các loài ít ỏi này

không lớn như ở ruộng trồng hồng các năm, bởi vậy chỉ số đồng đều J’ ở các ruộng này cao

hơn ruộng trồng hồng các năm và tương đương đối chứng.

Tóm lại, cấu trúc quần xã chân khớp bé Collembola ở địa điểm thu mẫu nào thuộc Mê

Linh và Tây Tựu trong đất ở các ruộng thí nghiệm, đất chịu tác động bởi KLN và hóa chất

BVTV sẽ có mức độ đa dạng thấp hơn so với độ đa dạng của quần xã trong đất đối chứng,

mặc dù trong thí nghiệm này có thể thấy quần xã Collembola ở Mê Linh có độ đa dạng cao

hơn so với Tây Tựu nhưng so với đối chứng quần xã ở các ruộng thí nghiệm kém bền vững,

kém ổn định hơn so với đất không bị tác động bởi các tác nhân này.

e) Các loài Collembola ưu thế

Các loài Collembola ưu thế được chỉ ra trong bảng 3.25 và 3.26. Loài Collembola ưu

thế là những loài có số lượng cá thể riêng chiếm từ 5% trở lên trong tổng số cá thể chung của

quần xã. Trong môi trường bị tác động xấu bởi ô nhiễm KLN và hóa chất BVTV, cấu trúc ưu

thế nhìn chung được đặc trưng bởi việc tăng các đại diện loài ưu thế (thường chỉ 1 hoặc 2

25

loài) và sự giảm đồng thời của các đại diện loài còn lại. Khi môi trường bị tác động mạnh

hơn, một tỷ lệ đáng kể của loài với số lượng ít cá thể bị biến mất. Trong những quần xã như

vậy, chỉ có các loài ưu thế là các loài đóng vai trò chính và các loài còn lại chỉ xuất hiện một

vài lần hay một lần. Loại hình cấu trúc này phản ánh sự thoái hóa của môi trường đất nơi đó.

Tóm lại, các hoạt động chuyên canh trồng hoa đã tạo ra kiểu cấu trúc đột biến động vật

chân khớp bé Collembola. Đây là kiểu cấu trúc mà trong đó xuất hiện một vài nhóm, loài phát

triển với số lượng ưu thế đột ngột, không tự nhiên. Trong nghiên cứu sinh thái học chỉ thị,

việc xuất hiện sự ưu thế bất thường trong cấu trúc quần xã động vật được xem xét như một

chỉ số xác định mức độ suy thoái của môi trường đất.

Trên phương diện sinh học, sinh thái, chất lượng đất ở các ruộng chuyên canh trồng

hoa giảm dần theo thứ tự từ rau cải ngọt, cúc, hồng 2 năm, hồng 6 năn và 10 năm, hồng 4

năm, đồng tiền.

3.6.2. Ảnh hưởng của hoạt động chuyên canh hoa đến vi sinh vật đất

ADN tổng số của vi sinh vật hiện diện trong các mẫu đất nghiên cứu đã được tách

chiết bằng PowerSoil®

DN Isolation Kit (MoBio Laboratories, Inc) và sau đó được điện di

để kiểm tra nồng độ trên gel agaroza 0,8%. Kết quả được trình bày ở hình 3.7.

Hình 3.7. Phổ điện di ADN tổng số của các mẫu đất Mê Linh trên và Tây Tựu dưới

Chú thích: M : Marker ; 1-24: ADN tổng số của 24 mẫu đất nghiên cứu.

ADN tổng số tách từ các mẫu đất nghiên cứu được sử dụng làm khuôn mẫu để khuếch

đại vùng V3 của gen 16S rADN (177 bp). Cặp mồi được sử dụng trong mục đích này là 341F

(được gắn thêm một đoạn 40 bp các nucleotit G và C ở đầu 5’) và 518R. Sản phẩm của phản

ứng PCR được quan sát trên gel agaroza 1,5% nhuộm với Ethidium bromit sau khi điện di ở

100 V trong 30 phút. Kết quả điện di được trình bày ở hình 3.8.

Sản phẩm PCR vùng V3 gen 16S r RN được trộn với loading dye sau đó được tải vào

mỗi giếng chứa mẫu tương ứng của bảng gel DGGE. Kết quả điện di DGGE được trình bày ở

bảng 3.28 và hình 3.9.

Kết quả nghiên cứu cho thấy:

a) Mê Linh

26

- Đã có sự biến động về thành phần các loài vi khuẩn chiếm ưu thế của các mẫu đất

trồng hoa hồng ở lớp đất 0-10 cm (sự xuất hiện của loài B2, sự biến mất của loài B4) sau 4 và

6 năm canh tác so với sau 2 năm canh tác. Đồng thời có sự biến động đáng kể về số lượng và

thành phần loài của các mẫu đất trồng hoa hồng ở lớp đất 10-20 cm sau 2 năm canh tác (sự

biến mất của 3 loài vi khuẩn ưu thế B4, B5, B6 và sự xuất hiện mới của 2 loài vi khuẩn ưu thế

khác B1, B3) và sau 4 và 6 năm canh tác (sự xuất hiện trở lại của loài vi khuẩn ưu thế B4).

- Đã có sự biến động đáng kể về số lượng và thành phần loài của các mẫu đất trồng cải

ngọt ở lớp đất 0-10 cm (sự biến mất của 3 loài vi khuẩn chiếm ưu thế B1, B3, B4 và sự xuất

hiện của 1 loài vi khuẩn ưu thế mới B6) và ở lớp đất 10-20 cm (sự biến mất của 2 loài vi

khuẩn chiếm ưu thế B4, B5) so với các mẫu đất đối chứng tương ứng.

- Đã có sự biến động đáng kể về số lượng và thành phần loài của các mẫu đất trồng hoa

cúc ở lớp đất 0-10 cm (sự xuất hiện một loài vi khuẩn ưu thế mới B6) và ở lớp đất 10-20 cm (sự

xuất hiện thêm 2 loài vi khuẩn chiếm ưu thế B1,B3 và sự biến mất của một loài vi khuẩn chiếm

ưu thế B5) so với các mẫu đất đối chứng tương ứng.

b) Tây Tựu:

Đã có sự biến động về số lượng và thành phần loài của các mẫu đất trồng hoa cúc ở

lớp đất 0-10 cm (sự xuất hiện 2 loài vi khuẩn ưu thế B1, B3) và không có sự biến động về số

lượng và thành phần loài vi khuẩn ưu thế ở lớp đất 10-20 cm so với các mẫu đất đối chứng

tương ứng.

- Đã có sự biến động về số lượng và thành phần loài của các mẫu đất trồng cải ngọt ở

lớp đất 0-10 cm (sự xuất hiện 2 loài vi khuẩn ưu thế B1, B3) và không có sự biến động về số

lượng và thành phần loài vi khuẩn ưu thế ở lớp đất 10-20 cm so với các mẫu đất đối chứng

tương ứng.

- Đã có sự biến động về số lượng và thành phần các loài vi khuẩn chiếm ưu thế của

các mẫu đất trồng hoa hồng ở lớp đất 0-10 cm (sự xuất hiện của 2 loài vi khuẩn chiếm ưu thế

B1 và B3) sau 2, 4 và 6 năm canh tác. Tuy nhiên không có sự khác biệt về số lượng và thành

phần loài vi khuẩn chiếm ưu thế của các mẫu đất trồng hoa hồng ở lớp đất 10-20 cm sau 2 và

6 năm canh tác.

- Đã có sự biến động về số lượng và thành phần loài của các mẫu đất trồng cải ngọt ở lớp

đất 0-10 cm (sự xuất hiện 1 loài vi khuẩn ưu thế B6) và ở lớp đất 10-20 cm (sự xuất hiện của 1

loài vi khuẩn ưu thế B4 và sự biến mất của 2 loài vi khuẩn chiếm ưu thế B1, B3) so với các mẫu

đất đối chứng tương ứng.

Nhận xét chung:

- Trong các mẫu đất thu ở các địa điểm khác nhau (Mê Linh và Tây Tựu) đã phát hiện

thấy sự khác biệt về số lượng và thành phần các loài vi khuẩn ưu thế. Đặc biệt hầu như các

mẫu đất ở Tây Tựu chỉ ghi nhận có mặt của các loài vi khuẩn B1 và B3. Trong khi phần lớn

các loài vi khuẩn khác xuất hiện trong các mẫu đất ở Mê Linh lại không có mặt trong các mẫu

đất ở Tây Tựu. Điều này có thể là do đặc tính khác nhau của các mẫu đất được thu từ hai vùng

hoàn toàn khác nhau.

- Nhìn chung tại mỗi địa điểm thu mẫu (Mê Linh hoặc Tây Tựu) đã có sự biến động về

số lượng và thành phần các loài vi khuẩn ưu thế giữa các mẫu đất trồng các loại cây khác

nhau và so với các mẫu đất đối chứng. Ngoài ra, sự biến động về số lượng và thành phần các

loài vi khuẩn ưu thế cũng được nhận thấy ở các mẫu đất thu tại các tầng khác nhau và có thời

gian trồng khác nhau (trường hợp các mẫu đất trồng hoa hồng). Điều này là do mức độ tác

động của các biện pháp canh tác (tồn dư thuốc bảo vệ thực vật, tích lũy kim loại nặng độc

hại...) đối với các mẫu đất khác nhau là khác nhau. Đồng thời khả năng đáp ứng của hệ vi sinh

vật trong các mẫu đất khác nhau có thể khác nhau.

Tiến hành nhân dòng các sản phẩm PCR-16S r RN sau khi được tái khuếch đại và

xác định trình tự gen 16S rARN của các loài vi khuẩn ưu thế. Kết quả được trình bày ở bảng

3.29.

Kết quả xác định mức độ tương đồng giữa các trình tự gen 16S rARN của các loài

vi khuẩn ưu thế trong đất chuyên canh trồng hoa ở Tây Tựu và Mê Linh với Ngân hàng

27

gen được nêu trong phần phụ lục; kết quả nhận được thấy rằng :

Thứ nhất: Năm trong số sáu loài vi khuẩn ưu thế là các vi khuẩn chưa được nuôi cấy,

các trình tự 16S rARN của chúng chủ yếu thu được trong phân tích DGGE rồi công bố trên

Ngân hàng gen (Genbank)

Thứ hai: Loài vi khuẩn B6 có trình tự 16S r RN tương đồng tuyệt đối (100%) đối với

trình tự 16S rARN của loài vi khuẩn Klebsiella sp. BCA18 nên nó có quan hệ gần gũi về mặt

di truyền với loài vi khuẩn này.

Thứ ba: Trong khi một số vi khuẩn trong đất có thể dễ dàng được nuôi cấy trong

phòng thí nghiệm vẫn tồn tại các quần thể vi khuẩn không được nuôi cấy (uncultured

bacteria). Những loài vi khuẩn chưa được nuôi cấy này được kỳ vọng là những loài mới.

28

KẾT LUẬN

1. Đất chuyên canh trồng hoa tại tại phường Tây Tựu và Xã Mê Linh (Hà Nội) chịu

ảnh hưởng đồng thời của nước tưới, phân bón, vôi bột, hóa chất bảo vệ thực vật, tàn dư của

cây hoa trong đất và đất trồng hoa hồng, hoa đồng tiền, hoa cúc.

2. Phát hiện có mối liên hệ giữa mức độ bón phân và vôi cho đất trồng cây hoa đến

mức độ tích lu Cu, Cd, n, s, Hg... trong môi trường đất ở cả hai khu vực nghiên cứu. Hầu

hết các kim loại nặng đều giảm dần theo độ sâu của phẫu diện đất. Mức độ tích lũy kim loại

nặng trong đất chuyên canh trồng hoa giảm dần theo thứ tự đất trồng hoa hồng > đất trồng

hoa cúc và hoa đồng tiền > đất trồng rau. Nguy cơ dẫn đến ô nhiễm KLN trong môi trường

đất ở hai vùng nghiên cứu là do lạm dụng sử dụng phân bón.

3. Mức độ ô nhiễm đất KLN trong đất chuyên canh hoa ở hai vùng nghiên cứu đã

được xác định. Ở đất chuyên canh hoa tại Tây Tựu, trong lớp đất 0-20 cm phát hiện Cu, Cd và

Pb đều vượt ngưỡng giá trị cho phép; đối với đất trồng hoa hồng tương ứng là 3,24, 1,62 và

1,73 lần; đất trồng hoa đồng tiền tương ứng là 1,14, 1,17 và 1,2 lần; Hg, n nằm trong

ngưỡng an toàn theo QCVN 03 : 2008/BTNMT.

- Ở đất chuyên canh hoa ở Mê Linh, đất chuyên canh hoa có hàm lượng KLN cao hơn

đất đối chứng, và cao nhất là đất trồng hoa hồng. So với ngưỡng cho phép theo QCVN

03:2008/BTNMT, hàm lượng Cd trong đất chuyên canh hoa hồng và hoa cúc vượt tương ứng

là 4,69 và 3,01 lần; hàm lượng Cu trong đất chuyên canh hoa hồng và hoa cúc vượt tương ứng

là 2,44 và 1,2 lần; As, Zn, Hg nằm trong ngưỡng an toàn.

- Dạng linh động của Cu, Pb và Cd trong đất chuyên canh hoa ở Tây Tựu và Mê Linh

có khác nhau. Ở Tây Tựu dạng linh động của Cu và Pb rất lớn tương ứng là 16,46 và 11,67

mg/kg; ở Mê Linh, Cu linh động là 8,065 mg/kg. Ở cả Tây Tựu và Mê Linh, n linh động

trong đất chuyên canh hoa rất thấp.

Các chỉ tiêu vượt ngưỡng cho phép, dạng linh động của KLN độc hại cao và dạng linh

động của chất vi lượng Zn thấp nói lên chất lượng đất chuyên canh hoa ở Tây Tựu và Mê

Linh thấp.

4. Có mối liên quan giữa sử dụng và tích lũy hóa chất bảo vệ thực vật trong môi

trường đất trồng hoa. Trong đất trồng hoa ở hai vùng nghiên cứu tìm thấy nhiều loại hóa chất

bảo vệ thực vật, nhưng chỉ có các chất clo hữu cơ thì vượt ngưỡng cho phép theo QCVN

15:2008. Ở Mê Linh, mức độ tích lũy trong đất trồng hoa hồng lớn hơn trong đất trồng hoa

cúc và hoa đồng tiền, thấp nhất là đất trồng rau. Lượng BHC, DDT, DDE vượt ngưỡng cho

phép theo QCVN 15:2008, trong đó BHC trong đất trồng hoa Hồng vượt 10,4-12,7 lần. Ở Tây

Tựu, DDT trong đất trồng hoa Hồng vượt 1,42-1,65 lần, đất trồng hoa cúc vượt không đáng

kể.

5. Sử dụng chỉ số đa dạng H’ và chỉ số đồng đều J’ cho thấy một số kết quả sau:

- Cấu trúc quần xã chân khớp bé Collembola ở các ruộng thu mẫu ở Tây Tựu và Mê

Linh đã chịu ảnh hưởng bởi lượng sự ô nhiễm KLN và hóa chất BVTV. Điều này thể hiện ở

chỗ, trong ruộng chuyên canh hoa mức độ đa dạng H’ của quần xã động vật chân khớp bé

Collembola thấp hơn so trong đất đối chứng; so với đất đối chứng, quần xã ở các ruộng

chuyên canh hoa lại kém bền vững, kém ổn định hơn so với đất đối chứng không bị tác động

bởi sự tích tụ chất gây ô nhiễm.

29

- Mức độ đa dạng H’ của quần xã động vật chân khớp bé Collembola trong đất chuyên

canh hoa ở Mê Linh cao hơn so với Tây Tựu. Kết quả nghiên cứu đã ghi nhận các loài ưu thế

vượt trội ở các ruộng chuyên canh hoa riêng biệt ở Tây Tựu là Isotomurus palutris,

Cryptopygus thermophilus, Sminthurides bothrium, Isotomurus punctiferus, Cyphoderus

javanus; và ở Mê Linh là Isotomurus palutris, Cyphoderus javanus, Protaphorura tamdaona.

Các loài này giảm dần trong đất chuyên canh hoa theo thứ tự: rau, hoa cúc, hoa hồng 2 năm,

hoa hồng 6 năm, hoa hồng 4 năm, hoa đồng tiền.

6. Sử dụng k thuật điện di trên gel biến thiên (DGGE) xác định được số lượng VSV

tổng số ở mẫu đất đối chứng cao hơn các mẫu đất chuyên canh hoa. Các nhóm VSV chức

năng ở các mẫu đất chuyên canh hoa lớn hơn mẫu đối chứng, nhưng chênh lệch không nhiều.

Dựa vào trình tự 16S r RN, đã xác định thấy, năm trong số sáu loài vi khuẩn ưu thế là

các vi khuẩn chưa được nuôi cấy (B1-B5). Chỉ có loài vi khuẩn B6 là loài thuộc chi Klebsiella

đã được công bố với tên gọi là Klebsiella sp. Những loài vi khuẩn chưa được nuôi cấy này

được kỳ vọng là những loài mới và xuất hiện dưới các điều kiện chuyên canh cây trồng khác

nhau là khác nhau.

KIẾN NGHỊ

- Cần quan tâm nhiều đến việc giáo dục, tuyên truyền nâng cao hiểu biết cho người dân và k

thuật trồng hoa và bảo vệ môi trường. Bồi dưỡng kiến thức và k thuật trồng hoa và chuyên

canh hoa; theo đó chỉ rõ cách thức sử dụng phân bón, hóa chất và hóa chất bảo vệ thuốc trừ

sâu phù hợp, đúng liều lượng, đúng thời điểm để đạt hiệu quả cao, tiết kiệm kinh phí, không

làm thoái hóa đất và bảo vệ môi trường vì sử dụng phân bón, hóa chất và hóa chất bảo vệ

thuốc trừ sâu quá mức.

- Thường xuyên thanh tra, kiểm tra thị trường phân bón và hóa chất BVTV nhằm kiểm soát

số lượng, chủng loại cũng như chất lượng, đặc biệt là các loại thuốc cấm sử dụng, thuốc giả,

thuốc nhập lậu và các loại sản phẩm kém chất lượng có khả năng gây thoái hóa đất.

- Cần mở rộng hơn nữa diện tích hoa áp dụng k thuật sản xuất tiên tiến như làm nhà lưới,

nhà kính, sử dụng hóa chất BVTV sinh học... để nâng cao hiệu quả trồng hoa, bảo vệ hoa

trước dịch bệnh.

- Nghiên cứu các k thuật canh tác hoa hiện đại và nhập khẩu k thuật trồng hoa của các nước

tiên tiến để phổ biến cho người dân áp dụng. Từ đó giúp người dân hạn chế được sử dụng

phân bón và thuốc trừ sâu không đúng cách.

30

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Lê Văn Thiện, Nguyễn Kiều Băng Tâm, Nguyễn Hoàng Linh, “Nghiên cứu ảnh hưởng

của canh tác cây trồng đến tích lũy kim loại nặng và thuốc bảo vệ thực vật trong môi trường

đất vùng thâm canh rau, hoa phường Tây Tựu, Từ Liêm, Hà Nội”, Tạp chí Khoa học 26, số 5S

(2010) 859 – 864.

2. Nguyễn Hoàng Linh, Lê Văn Thiện, Nguyễn Kiều Băng Tâm, “Ảnh hưởng của việc thâm

canh cây trồng đến môi trường đất xã Mê Linh, huyện Mê Linh, Hà Nội”, Tạp chí Khoa học

27, số 5S (2011) 147 - 156.

3. Nguyễn Hoàng Linh, Nguyễn Kiều Băng Tâm, Lê Văn Thiện, “Bước đầu đánh giá ảnh

hưởng của việc thâm canh cây trồng tới khu hệ vi sinh vật đất tại phường Tây Tựu, huyện Từ

Liêm, Hà Nội”, Tạp chí Khoa học 27, số 5S (2011) 157 – 163

4. Nguyễn Thị Thu Anh, Nguyễn Hoàng Linh, “Ảnh hưởng của chuyên canh hoa đến quần

xã bọ đuôi bật (Collembola) trong đất trồng cây rau và cây hoa tại Tây Tựu (Từ Liêm, Hà

Nội)”, Tạp chí Bảo vệ Thực vật, số 3 (248) (2013) 10 – 15

5. Nguyễn Hoàng Linh, Nguyễn Thị Thu nh, Đào Duy Trinh,”Dẫn Liệu về một số nhóm

động vật không xương sống ở đất trồng hoa ở Mê Linh, Hà Nội”, Tạp chí Bảo vệ Thực vật, số

5 (250) (2013) 14 – 19

6. Nguyễn Hoàng Linh, Nguyễn Thị Thu nh,”Quần xã bọ đuôi bật (Microarthropoda:

Collembola) trên đất chuyên canh rau màu, cây cảnh tại Mê Linh, Hà Nội”, Tạp chí Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn, số 13 (2013) 54 – 60.