i; -...
TRANSCRIPT
1
Kinh tế vĩ mô quý I năm 2017: Những điểm nổi bật
Những điểm nổi bật của kinh tế, giá cả, tài chính tiền tệ quốc tế
- Các nền kinh tế đầu tàu có nhiều chuyển biến, các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi
cũng đang có nhiều cải thiện;
- Chỉ số giá cả hàng hóa toàn cầu chỉ giữ được đà tăng trong 2 tháng đầu năm và giảm khá
mạnh trong tháng 3, do đó kết thúc quý I chỉ số giá chung và của hầu hết các nhóm mặt hàng
trong đó có giá dầu đều giảm so với cuối năm 2016;
- Diễn biến của thị trường ngoại hối trong quý I nhìn chung không có biến động lớn, bị ảnh
hưởng mạnh mẽ bởi kỳ vọng của thị trường, đồng USD đã mất giá ngay cả khi Fed tăng lãi
suất, đồng GBP, EUR đã tăng giá so với USD – trái với xu hướng dự báo, đồng CNY và JPY
đã lấy lại đà tăng;
- Vàng tiếp tục hưởng lợi trước những diễn biến còn bất ổn về kinh tế, chính trị tại các nước
lớn và rủi ro địa chính trị ở Syria, khủng bố tại các nước châu Âu;
- Các thị trường chứng khoán toàn cầu diễn biến khởi sắc;
- Trong bối cảnh lạm phát toàn cầu đang quay trở lại, định hướng điều hành CSTT, đặc biệt
tại một số NHTW chủ chốt như Mỹ, Trung Quốc đã có dấu hiệu thắt chặt rõ rệt, điều đó đã
tác động khiến lãi suất trái phiếu dài hạn có xu hướng gia tăng trong khi lãi suất cho vay
ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng và thị trường tín dụng có sự biến động tùy vào định
hướng điều hành CSTT của mỗi quốc gia.
Những điểm nổi bật của kinh tế trong nước
- Tăng trưởng kinh tế Quý I đạt mức tăng thấp nhất trong 3 năm gần đây;
- Diễn biến của sản xuất công nghiệp tiếp tục xấu đi do công nghiệp chế biến chế tạo có xu
hướng giảm tốc so với cùng kỳ năm ngoái và công nghiệp khai khoáng tiếp tục suy giảm;
- Tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng nếu loại trừ yếu tố
giá đã tăng thấp hơn so với cùng kỳ năm ngoái;
- Tăng trưởng vốn đầu tư toàn xã hội ở mức thấp hơn so với cùng kỳ năm ngoái do sự chững
lại của cả 3 khu vực đầu tư, đặc biệt là sự suy giảm của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài;
- Xuất nhập khẩu đều đạt mức tăng cao so với cùng kỳ năm trước, trong đó sự hồi phục mạnh
của nhập khẩu đã khiến cán cân thương mại tiếp tục thâm hụt trong quý I;
- CPI bình quân đã tăng mạnh ở mức 4,96% so với bình quân cùng kỳ năm 2016;
- Thu NSNN đã có sự cải thiện tuy nhiên cơ cấu chi NSNN vẫn ở mức bất hợp lý;
- Lãi suất huy động tăng chủ yếu ở các kỳ hạn ngắn trong khi lãi suất cho vay ổn định, lãi
suất liên ngân hàng diễn biến phù hợp;
- Tỷ giá VND/USD diễn biến chủ động, không phản ánh áp lực; Giá vàng trong nước đã có
diễn biến ngược chiều với giá vàng thế giới;
- TTCK Việt Nam tiếp tục tăng trưởng và diễn biến tích cực theo sự khởi sắc của thị trường
chứng khoán trong khu vực.
2
I. KINH TẾ THẾ GIỚI
1. Kinh tế thế giới
Các nền kinh tế
đầu tàu có nhiều
chuyển biến
ngoại trừ Trung
Quốc
Kinh tế toàn cầu khởi đầu năm 2017 với nhiều chuyển biến trên mọi mặt: Hầu
hết các nền kinh tế đầu tàu đã phát đi những tín hiệu hồi phục tích cực trong
khi các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi đang lấy lại đà tăng trưởng sau
một giai đoạn chững lại. Sự chuyển biến của kinh tế toàn cầu còn có thể nhìn
nhận thấy qua những thay đổi của diễn biến giá cả hàng hóa toàn cầu, biến
động lạm phát tại các quốc gia và sự thay đổi trong định hướng điều hành
chính sách của các NHTW trên thế giới. Những thay đổi đó đã tạo ra những
tác động chi phối đến dòng chảy lãi suất trong những tháng đầu năm, đồng
thời tác động không nhỏ đến diễn biến trên các thị trường ngoại hối, vàng,
chứng khoán.
Kinh tế Mỹ diễn biến tương đối khả quan khi các chỉ số vĩ mô trong quý I vẫn
duy trì đà tăng trưởng ổn định. Tốc độ tăng doanh số bán lẻ hàng hóa qua hai
tháng đầu năm hiện đang ở mức cao nhất trong vòng 1 năm qua. Trên thị
trường lao động, tỷ lệ thất nghiệp hiện chỉ ở mức thấp nhất kể từ tháng 5/2007
là 4,5% trong khi số việc làm được tạo ra hiện cũng đang ở mức cao nhất kể từ
thời điểm tháng 6 năm ngoái1. Trong khi đó, lạm phát vẫn trong chiều hướng
đi lên với mức lạm phát tháng 2 đã đạt 2,7%, đánh dấu tháng thứ 3 liên tiếp
lạm phát vượt mức 2%. Mặc dù vậy, một điểm đáng chú ý là hoạt động sản
xuất có xu hướng giảm tốc, thể hiện qua chỉ số PMI toàn phần đi xuống liên
tục từ đầu năm đến nay, trong đó tháng 3 chỉ đạt 53,2 điểm – mức thấp nhất
trong vòng 6 tháng qua.
Tỷ lệ thất nghiệp
Diễn biến lạm phát (yoy)
Doanh số bán lẻ hàng hóa tại Mỹ (yoy)
Chỉ số PMI sản xuất của Mỹ
Nguồn: Trading economicsics
Kinh tế khu vực châu Âu đang cho thấy những tín hiệu phục hồi rõ nét nhất,
thể hiện ở xu hướng mở rộng mạnh mẽ của khu vực sản xuất2, những diễn
biến tích cực của lạm phát3 và thị trường lao động4. Ngoài ra, kết quả thuận lợi
của cuộc bầu cử tại Hà Lan và hệ thống ngân hàng đang ổn định trở lại cũng
1 Số việc làm mới được tạo thêm ở Mỹ trong 2 tháng 1 và 2 lần lượt đạt 238.000 và 235.000 việc làm. 2 Chỉ số PMI toàn phần đạt các mức điểm cao lần lượ t 56 và 56,7 điểm trong hai tháng 2 và 3, trong đó tháng 3 là mức điểm cao nhất kể từ
tháng 4/2011. 3 Lạm phát tại Châu Âu gia tăng liên tục qua 3 tháng đầu năm 2017 trong đó tháng 3 đã chạm ngưỡng mục tiêu 2%. 4 Tỷ lệ thất nghiệp hiện ở mức 9,5%, mức thấp nhất kể từ tháng 5/2009.
3
tiếp thêm sức mạnh cho đà phục hồi của khu vực. Vấn đề đặt ra đối với kinh tế
khu vực châu Âu hiện nay là sự trì trệ trong tiêu dùng5 vẫn chưa được giải
quyết và những lo ngại về tác động của những sự kiện chính trị sắp diễn ra
như cuộc bầu cử tại Pháp, Đức hay quá trình Anh đàm phán rời khỏi EU.
Tỷ lệ thất nghiệp
Diễn biến lạm phát (yoy)
Doanh số bán lẻ hàng hóa tại Châu Âu (yoy)
Chỉ số PMI sản xuất của Châu Âu
Nguồn: Trading economicsmics
Kinh tế Nhật Bản đang cho thấy sự phục hồi toàn diện trên nhiều mặt. Khu
vực sản xuất có 2 tháng đầu năm vẫn tiếp tục duy trì xu hướng mở rộng với chỉ
số PMI đều đạt mức trên 52 điểm. Trong khi đó, khu vực tiêu dùng tiếp tục đạt
tốc độ tăng trưởng dương kể từ đầu năm, trái ngược với xu hướng sụt giảm của
cùng kỳ năm ngoái. Lạm phát có tháng thứ 4 tăng liên tiếp trong khi đó tỷ lệ
thất nghiệp hiện giảm xuống mức 3%. Một điểm đáng chú ý là cán cân thương
mại đang đạt được mức thặng dư lớn nhất trong hơn 6 năm qua nhờ kim ngạch
xuất khẩu danh nghĩa của nước này trong tháng 2/2017 đã tăng 11,3% so với
cùng kỳ năm ngoái – mức tăng mạnh nhất trong 2 năm trở lại đây.
Tỷ lệ thất nghiệp
Diễn biến lạm phát (yoy)
Doanh số bán lẻ hàng hóa tại Nhật Bản
Chỉ số PMI khu vực sản xuất
Nguồn: Trading economics
5 Các số liệu gần đây cho thấy tăng trưởng bán lẻ hàng hóa của khu vực EU vẫn ở mức thấp, trong đó 2 tháng đầu năm chỉ đạt mức tăng
1,5% và 1,8% so với cùng kỳ.
4
Kinh tế Anh vẫn duy trì xu hướng tăng trưởng ổn định mặc dù những lo ngại
về tác động của sự kiện Brexit chưa kết thúc. Khu vực sản xuất tiếp tục mở
rộng trong 3 tháng đầu năm với chỉ số PMI luôn ở mức trên 53 điểm nhờ số
lượng đơn đặt hàng mới gia tăng. Lạm phát tăng liên tục và đã vượt ngưỡng
mục tiêu 2% trong khi thất nghiệp hiện giảm xuống mức thấp nhất trong vòng
nhiều năm qua. Tuy nhiên, những lo ngại về Brexit cũng đang tạo áp lực về
nguy cơ thu hẹp mức sống, gia tăng sức ép lạm phát và khả năng chi tiêu thực
tế giảm sút thể hiện qua doanh số bán lẻ hàng hóa chỉ tăng trưởng ở mức thấp
trong những tháng gần đây6.
Tỷ lệ thất nghiệp
Diễn biến lạm phát (yoy)
Doanh số bán lẻ hàng hóa
Chỉ số PMI khu vực sản xuất
Nguồn: Trading economics
Trái với những tín hiệu khả quan tại các nền kinh tế phát triển, tại Trung Quốc,
hoạt động sản xuất và tiêu dùng đều có chiều hướng chững lại trong những
tháng đầu năm, trong đó có tác động từ yếu tố mùa vụ. Xuất khẩu sau những
tháng đạt được tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ đã quay đầu giảm 1,3% trong tháng
2 do những lo ngại liên quan đến căng thẳng thương mại gia tăng giữa Trung
Quốc với một số đối tác quan trọng như Mỹ, Hàn Quốc. Lạm phát sau những
tháng liên tục đạt mức tăng trên 2% đã đột ngột giảm xuống chỉ còn 0,8% và
0,9% trong tháng 2 và 3, chịu ảnh hưởng một phần từ sự chững lại của hoạt
động sản xuất và tiêu dùng trong nước.
Lạm phát tại Trung Quốc (yoy)
Doanh số bán lẻ hàng hóa của Trung Quốc
6 Tăng trưởng doanh số bán lẻ hàng hóa tại Anh trong tháng 1 đã giảm xuống 1% mức thấp nhất trong vòng 1 năm qua.
5
Tăng trưởng xuất khẩu của Trung Quốc (yoy)
Chỉ số PMI khu vực sản xuất
Nguồn: Trading Economics
Các nền kinh tế đang phát
triển và mới nổi lấy lại đà
tăng trưởng
Cùng với những tín hiệu khả quan đến từ các nền kinh tế đầu tàu, tăng
trưởng tại nhóm các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi cũng đang
có nhiều cải thiện. Tại khu vực Mỹ La Tinh, những áp lực tồn tại từ
những năm trước như tình trạng gia tăng lạm phát và đồng nội tệ mất
giá đã giảm đi khá nhiều. Trong khi đó, sự phục hồi của giá cả hàng hóa
toàn cầu đã khiến tăng trưởng tại nhiều nền kinh tế như Brazil,
Venezuela, Argentina đang có những chuyển biến. Ngoài ra, tình hình
kinh tế tại các quốc gia xuất khẩu dầu như Nigeria và Nga cũng được
cải thiện mạnh mẽ nhờ đà hồi phục của giá dầu trong những tháng vừa
qua.
Tại khu vực châu Á, ngoại trừ Trung Quốc, tình hình kinh tế tại Ấn Độ
và một số quốc gia Đông Nam Á vẫn diễn biến khá tốt. Trong khi Ấn
Độ và Indonesia đang triển khai các chương trình cải cách thuế quan
trọng là động lực thúc đẩy tăng trưởng thì Thái Lan được đánh giá sẽ
tăng tốc trở lại nhờ môi trường chính trị đã được thiết lập ổn định.
Chỉ số giá cả hàng hóa
toàn cầu giảm trong quý I
Trong 3 tháng đầu năm 2017, chỉ số giá cả hàng hóa toàn cầu đã có diễn
biến đảo ngược đáng chú ý so với cuối năm 2016. Nếu như trong 2
tháng đầu, chỉ số giá cả hàng hóa toàn cầu vẫn tiếp tục giữ được đà gia
tăng ổn định với mức tăng so với tháng trước lần lượt đạt 2,34% trong
tháng 1 và 1,48% trong tháng 2 thì bước sang tháng 3 đã quay đầu giảm
ở mức 3,83%. Diễn biến đó đã khiến kết thúc quý I, chỉ số giá cả hàng
hóa chung đã giảm nhẹ 0,13% so với cuối năm 2015.
Diễn biến của các nhóm hàng chính cũng bám sát theo diễn biến của chỉ
số giá hàng hóa chung. Cụ thể là, hầu hết các nhóm hàng như năng
lượng, lương thực thực phẩm, nông nghiệp thô đều giảm giá so với cuối
năm ngoái, ví dụ như khí thiên nhiên giảm 16,61%; dầu đốt giảm
9,75%, đường giảm 14%, cao su giảm 7%, đậu tương giảm 6,13%. Duy
chỉ có nhóm hàng kim loại vẫn giữ được đà tăng giá trong quý I do
nguồn cung khan hiếm và nhà đầu cơ đang tăng tích trữ. Chỉ số giá 6
kim loại cơ bản theo thống kê của IMF tiếp tục gia tăng 6,18% trong
quý I và là quý tăng thứ 5 liên tiếp, chuỗi tăng giá dài nhất kể từ năm
2010.
Giá dầu cũng chỉ giữ được đà tăng trong 2 tháng đầu năm nhờ được tiếp
tục hỗ trợ từ chính sách cắt giảm nguồn cung tại các nước xuất khẩu dầu
mỏ. Tuy nhiên đà tăng đã bị chặn lại trong tháng 3 do Mỹ vẫn tiếp tục
tăng số lượng giàn khoan dầu và nhiều quốc gia chưa thực hiện cắt giảm
sản lượng theo đúng cam kết. Theo đó, giá dầu WTI hiện ở mức 49,58
USD/thùng (giảm 4,67% so với cuối năm trước), giá dầu Brent ở mức
6
51,97 USD/thùng (giảm khoảng 3,88% so với cuối năm trước).
Giá hàng hóa thế giới
Giá dầu thế giới
Nguồn: IMF commodity price index
Lạm phát toàn
cầu có xu hướng
gia tăng trở lại
Lạm phát toàn cầu có xu hướng gia tăng trong những tháng đầu năm 2017. Cụ
thể, theo thống kê của Focus Economics, lạm phát toàn cầu vào thời điểm hiện
tại đã vượt ngưỡng 4% so với cùng kỳ, cao hơn mức lạm phát 3,5% của năm
2016 và cũng là mức tăng cao nhất kể từ năm 2012 trở lại đây. Xu hướng gia
tăng của lạm phát có thể quan sát thấy ở cả nhóm các nền kinh tế phát triển
cũng như các nền kinh tế đang phát triển. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm
phát gia tăng chủ yếu dưới tác động của chuỗi tăng giá cả hàng hóa toàn cầu
kéo dài từ giữa năm 2016.
Lạm phát tại một số nền kinh tế phát triển Lạm phát tại khu vực châu Âu
Lạm phát tại một số nền kinh tế mới nổi châu Á Lạm phát tại một số nền kinh tế mới nổi khác
Nguồn: Bis Statistics
7
2. Điều hành chính sách của NHTW các quốc gia
Xu hướng thắt
chặt CSTT đã trở
nên rõ nét hơn,
đặc biệt tại các
nền kinh tế chủ
chốt
Trong 3 tháng đầu năm 2017, có 29 NHTW đã thay đổi lãi suất điều hành trong
đó có 16 quốc gia tiến hành tăng lãi suất và 13 quốc gia cắt giảm lãi suất. Trong
đó, đáng chú ý có nhiều NHTW chủ chốt đã tiến hành tăng lãi suất như Fed,
PboC và NHTW Hồng Kông. Áp lực lạm phát đang gia tăng trên toàn cầu cũng
khiến nhiều quốc gia đang phát triển tại châu Á và châu Phi phải tăng lãi suất.
Trong khi đó, xu hướng cắt giảm lãi suất diễn ra chủ yếu tại các nền kinh tế
đang phát triển và mới nổi thuộc Đông Âu và khu vực Mỹ La Tinh trước áp lực
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tại Mỹ, Fed đã tăng lãi suất thêm 0,25% lên mức 0,75 – 1% vào ngày 15/3.
Đây là lần tăng lãi suất thứ 3 của Fed từ cuối năm 2015 và lần thứ 2 chỉ trong
vòng 3 tháng. Theo lộ trình Fed sẽ còn tiếp tục tăng lãi suất hai lần nữa trong
năm 2017.
Tại khu vực Châu Âu, NHTW châu Âu ECB vẫn quyết định giữ nguyên định
hướng nới lỏng CSTT trong quý I mặc dù các điều kiện kinh tế vĩ mô trong khu
vực đã có nhiều cải thiện và áp lực lạm phát đang có xu hướng gia tăng. Tuy
nhiên, điểm đáng chú ý là bắt đầu từ tháng 4 quy mô của chương trình thu mua
tài sản đã được cắt giảm từ mức 80 tỷ EUR hàng tháng xuống còn 60 tỷ EUR .
Đồng thời, chủ tịch ECB cũng đưa ra cam kết ECB sẽ vận dụng tất cả các công
cụ CSTT cần thiết để đảm bảo mức mục tiêu lạm phát 2% đề ra. Điều này là
hàm ý cho khả năng thắt chặt CSTT nếu lạm phát tiếp tục gia tăng như hiện
nay.
Tại Nhật Bản, NHTW Nhật BoJ vẫn tiếp tục giữ nguyên định hướng và quy
mô các chương trình nới lỏng định lượng để hỗ trợ việc thực hiện mục tiêu lạm
phát 2% và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, mặc dù cả hai mục tiêu trên đã có sự cải
thiện nhất định trong thời gian qua. Tiêu dùng cá nhân, nền tảng cốt lõi trong
chiến lược thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Thủ tướng Shinzo Abe vẫn còn
chậm chạp do tiền lương vẫn còn tăng trưởng yếu trong khi thị trường lao động
sụt giảm.
Tại Trung Quốc, NHTW Trung Quốc đã điều chỉnh tăng hai lần các mức lãi
suất cho vay ngắn hạn và lãi suất cho vay trung dài hạn trên thị trường mở trong
3 tháng đầu năm 2017. Cụ thể, trong tháng 2 PBOC đã tăng lãi suất đối với các
thỏa thuận bán và mua lại giấy tờ có giá (repo) đảo ngược thời hạn 7 ngày từ
2,25% lên 2,35%; lãi suất qua đêm đối với các khoản vay ngắn hạn thuộc cơ
chế cho vay thường trực (SLF) từ 2,75% lên 3,1% và tăng lãi suất cho vay trung
hạn (MLF) thêm 0,1% lên mức 2,95% đối với khoản vay 6 tháng và 3,1% đối
với khoản vay 1 năm. Tiếp đó, đến tháng 3, PboC tiếp tục tăng lãi suất MLF 6
tháng lên 3,05%, MLF 1 năm lên 3,2% và lãi suất repo đảo ngược các kỳ hạn 7,
14 và 28 ngày lên lần lượt 2,45%, 2,6% và 2,75%.
Xu hướng thắt
chặt CSTT trên
toàn cầu khiến
lãi suất dài hạn
gia tăng
Lãi suất dài hạn đã có xu hướng gia tăng trên toàn cầu kể từ giữa năm 2016, đặc
biệt sau khi một số sự kiện chính trị quan trọng diễn ra như Brexit hay cuộc bầu
cử tổng thống Mỹ. Hiện tại, lãi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm tại hầu khắp các
nền kinh tế chủ chốt đều tăng cao hơn so với năm ngoái, trong đó mức tăng
mạnh được ghi nhận tại Mỹ, Pháp và Ý. Cụ thể, so với thời điểm giữa năm
ngoái, lãi suất trái phiếu 10 năm tại Mỹ đã tăng thêm khoảng 1%, trong khi đó
mức tăng này tại các nước khu vực EU là từ 0,4% - 0,9%; Nhật có mức lãi suất
dài hạn tăng 0,23% - một nỗ lực lớn sau 9 tháng liên tục lãi suất trái phiếu dài
hạn của quốc gia này duy trì ở mức âm trong năm 2016.
8
Trong khi đó, lãi
suất cho vay trên
các thị trường
tiền tệ, tín dụng
có sự vận động
khác nhau tùy
theo định hướng
điều hành CSTT
của mỗi quốc gia
Diễn biến lãi suất trái phiếu dài hạn tại một số nền kinh tế chủ chốt
Nguồn: OECD
Trái ngược với xu hướng gia tăng chung của lãi suất cho vay dài hạn, lãi suất
cho vay ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng tại các quốc gia có sự vận động
khác nhau, tùy thuộc vào định hướng điều hành lãi suất của mỗi NHTW. Tại
các nền kinh tế phát triển, trong khi lãi suất cho vay ngắn hạn tại Mỹ có xu
hướng gia tăng phù hợp với định hướng thắt chặt CSTT thì lãi suất cho vay tại
hầu khắp các nền kinh tế chủ chốt khác như khu vực EU, Nhật, Anh vẫn trong
xu hướng giảm.
Diễn biến lãi suất cho vay ngắn hạn của một số nền kinh tế chủ chốt
Nguồn: OECD
Tương tự như vậy, dòng chảy lãi suất trên thị trường tín dụng cũng vận hành
theo những hướng khác nhau. Trong khi lãi suất cho vay tại Mỹ gia tăng ngay
sau khi Mỹ có quyết định tăng lãi suất cuối năm 2016, tăng nhẹ tại khu vực EU
trước khả năng thắt chặt lãi suất trong thời gian tới, giảm tại các nền kinh tế có
xu hướng nới lỏng chính sách như Nga, Brazil và hầu như không thay đổi tại
các nền kinh tế chưa có nhiều thay đổi trong điều hành chính sách như Nhật,
Anh.
-0.5
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
Đức
Canada
Ý
Pháp
Mỹ
Anh
Nhật
9
Diễn biến lãi suất cho vay tại một số nền kinh tế chủ chốt từ tháng 1/2016 đến nay
Mỹ EU Nhật
Brazil Anh Nga
Nguồn: Trading Economics
3. Diễn biến thị trường ngoại hối, chứng khoán
Thị trường ngoại hối không bị sốc trước quyết định tăng lãi suất của Fed
Diễn biến chỉ số USD
Nguồn: investing.com
Đồng USD đã
mất giá ngay cả
khi Fed tăng lãi
suất
Diễn biến của thị trường ngoại hối trong quý I nhìn chung không có biến động
lớn. Bên cạnh những tác động từ diễn biến kinh tế vĩ mô, các đồng tiền chủ chốt
tiếp tục bị chi phối mạnh mẽ bởi kỳ vọng của thị trường đối với các định hướng
chính sách của các nước lớn, diễn biến xung quanh hiệp ước Brexit, tín hiệu từ
các cuộc bầu cử tại khu vực Châu Âu và sức mạnh của đồng bạc xanh.
Diễn biến của chỉ số USD index trong 3 tháng đầu năm nay đã giảm ở 2,02%
thấp hơn gần một nửa so với tổng mức giảm trong quý I/2016. Diễn biến giảm
của đồng USD đã xảy ra ngay cả khi nền kinh tế đang có nhiều tín hiệu tốt.
Thực tế này được cho là một sự điều chỉnh cần thiết khi đồng USD đã tăng giá
liên tục kể từ sau kết quả bầu cử của Mỹ. Bên cạnh đó, những thất bại bước đầu
của chính quyền mới trong việc thông qua đạo luật y tế thay thế đạo luật
Obamacare đã có ảnh hưởng nhất định đến sức mạnh của đồng đô la. Ngoài ra,
những tín hiệu phản ánh định hướng sẽ duy trì trạng thái nới lỏng hơn so với kỳ
vọng của thị trường được phát đi sau các cuộc họp của Ủy ban thị trường mở
gần đây cũng có tác động đến diễn biến giảm của đồng USD. Phản ứng của thị
trường có thể thấy rõ vào những thời điểm ngay sau khi Fed tăng lãi suất trong
tháng 3 hoặc khi quyết định trì hoãn việc bỏ phiếu thông qua dự luật thay thế,
có lúc đồng USD đã giảm gần như liếp tiếp trong 06 ngày giao dịch với tổng
mức giảm lớn hơn 2% - gần bằng với mức giảm trong tháng 1. Kết thúc quý I,
chỉ số USD giao dịch ở mức 100.22.
10
Diễn biến tỷ giá của các đồng tiền mạnh
7 Tháng 1 đồng EUR tăng 2,68%; đồng GBP tăng 1,95% so với đồng USD. 8 Ngày 15/3, đồng EUR tăng 1,24%; đồng 1,14% so với đồng USD. 9 Tháng 1 đống CAD tăng 3%; đồng AUD tăng 5,11% so với đồng USD.
1.03
1.05
1.07
1.09
2-J
an-1
7
9-J
an-1
7
16
-Jan
-17
23
-Jan
-17
30
-Jan
-17
6-F
eb-1
7
13
-Feb
-…
20
-Feb
-…
27
-Feb
-…
6-M
ar-1
7
13
-Mar
-…
20
-Mar
-…
27
-Mar
-…
EUR/USD
1.21.221.241.261.28
2-J
an-1
7
9-J
an-1
7
16
-Jan
-17
23
-Jan
-17
30
-Jan
-17
6-F
eb-1
7
13
-Feb
-…
20
-Feb
-…
27
-Feb
-…
6-M
ar-1
7
13
-Mar
-…
20
-Mar
-…
27
-Mar
-…
GBP/USD
Đồng GBP, EUR
đã tăng giá so với
USD – trái với xu
hướng dự báo
Ngay từ đầu năm, trước những áp lực về diễn biến kinh tế vĩ mô cũng như rủi ro
chính trị có thể gia tăng khi nhiều nước trong khu vực sẽ tiến hành bầu Chính phủ
mới, nhiều dự báo cho rằng 02 đồng tiền mạnh của khu vực Châu Âu nhiều khả
năng sẽ diễn biến theo xu hướng giảm. Tuy nhiên, điều đó đã không xảy ra, kết
thúc quý I, đồng EUR đã tăng 1,29%; đồng GBP đã tăng 1,72% so với đồng
USD. Diễn biến của hai đồng tiền này trong quý I, bên cạnh những tín hiệu khả
quan về lạm phát, kinh tế và kỳ vọng của thị trường về định hướng điều hành
CSTT trong tương lai đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi diễn biến của đồng USD.
Điều này có thể thấy rõ nét thông qua diễn biến trong từng tháng. Xu hướng thay
đổi của GBP và EUR nhìn chung khá tương đồng, cả hai đều có xu hướng tăng
trong tháng 1 và tháng 3, trong đó đều tăng mạnh vào tháng 17 và giảm vào tháng
2 – diễn biến trái với xu hướng của đồng USD và đều tăng mạnh vào ngày 15/3
khi Fed tăng lãi suất8, trong đó đáng chú ý là đồng GBP đã tăng gần như liên tục
cho đến gần hết quý với tổng mức tăng đã lớn hơn 3%. Vào ngày giao dịch cuối
tháng 3, đồng GBP và đồng đã EUR chốt giao dịch ở mức 1.255 và 1.0652.
Bên cạnh đó, đồng AUD và đồng CAD mặc dù có diễn biến khác nhau qua các
tháng nhưng kết thúc quý I cả 02 đồng tiền này đều đã tăng giá so với đồng USD.
Trong đó cả đồng CAD và AUD đều tăng mạnh trong tháng 19 và diễn biến trái
chiều trong tháng 2 và tháng 3. Kết thúc quý I, đồng CAD và đồng AUD đã tăng
lần lượt là 0,89% và 5,72%; chốt giao dịch ở mức 1.3313 và 0.7629.
Đồng CNY và
JPY đã lấy lại đà
tăng
Trong quý I, đồng JPY đã tăng liên tục qua 3 tháng với tổng mức tăng là 4,71%
so với đồng USD. Xu hướng đó được hỗ trợ bởi những tác động cùng một lúc
của tình hình kinh tế trong nước, diễn biến giảm của đồng USD và nhu cầu tài
sản đầu tư an toàn trong bối cảnh còn nhiều bất ổn. Điều đó có thể nhận thấy
ngay sau những quyết định quan trọng liên quan đến nước Mỹ, cụ thể như đồng
JPY đã tăng liên tục từ ngày 14/3 đến gần cuối quý với mức tăng hơn 3%, gần
bằng với mức tăng trong tháng 1. Kết thúc tháng 3, đồng JPY giao dịch ở mức
111.39.
Mặc dù không có được diễn biến tăng liên tục như đồng JPY nhưng đồng CNY
cũng đã tăng 0,83% so với đồng USD sau 3 tháng giao dịch. Đồng CNY đã tăng
trong tháng 1, tháng 2 và giảm vào tháng 3 ở mức 0,28%. Đà giảm của đồng
CNY diễn ra ngay từ đầu tháng, có phần như phản ứng đón trước đà tăng của
USD sau quyết định nâng lãi suất của Fed. Tuy nhiên sau đó với động thái nâng
lãi suất tiền gửi trung hạn và lãi suất repo đảo ngược của PBoC, đồng CNY lập
tức điều chỉnh tăng trở lại cho đến hết tháng. Kết thúc tháng 3, tỷ giá đồng
USD/CNY giao dịch ở mức 6.8871.
11
Nguồn: investing.com
Vàng tiếp tục hưởng lợi trước những diễn biến còn bất ổn của kinh tế, chính trị của các
nền kinh tế lớn
Diễn biến giá vàng thế giới
Nguồn: usagold.com
0.710.730.750.770.79
2-J
an-1
7
7-J
an-1
7
12
-Jan
-17
17
-Jan
-17
22
-Jan
-17
27
-Jan
-17
1-F
eb-1
76
-Feb
-17
11
-Feb
-17
16
-Feb
-17
21
-Feb
-17
26
-Feb
-17
3-M
ar-1
7
8-M
ar-1
71
3-M
ar-1
7
18
-Mar
-17
23
-Mar
-17
28
-Mar
-17
AUD/USD
1.291.311.331.351.37
2-J
an-1
77
-Jan
-17
12
-Jan
-17
17
-Jan
-17
22
-Jan
-17
27
-Jan
-17
1-F
eb-1
76
-Feb
-17
11
-Feb
-17
16
-Feb
-17
21
-Feb
-17
26
-Feb
-17
3-M
ar-1
78
-Mar
-17
13
-Mar
-17
18
-Mar
-17
23
-Mar
-17
28
-Mar
-17
USD/CAD
110112114116118120
2-J
an-1
7
7-J
an-1
7
12
-Jan
-17
17
-Jan
-17
22
-Jan
-17
27
-Jan
-17
1-F
eb-1
7
6-F
eb-1
7
11
-Feb
-17
16
-Feb
-17
21
-Feb
-17
26
-Feb
-17
3-M
ar-1
7
8-M
ar-1
7
13
-Mar
-17
18
-Mar
-17
23
-Mar
-17
28
-Mar
-17
USD/JPY
6.82
6.87
6.92
6.97
2-J
an-1
77
-Jan
-17
12
-Jan
-17
17
-Jan
-17
22
-Jan
-17
27
-Jan
-17
1-F
eb-1
76
-Feb
-17
11
-Feb
-17
16
-Feb
-17
21
-Feb
-17
26
-Feb
-17
3-M
ar-1
78
-Mar
-17
13
-Mar
-17
18
-Mar
-17
23
-Mar
-17
28
-Mar
-17
USD/CNY
Kết thúc quý I/2017, vàng đã đánh dấu một quý khởi đầu được xem là tốt nhất
trong năm nay. Xu hướng diễn biến của giá vàng, mặc dù không tăng quá mạnh
như về cơ bản khá tương đồng với cùng thời điểm so sánh của năm ngoái. Sau 3
tháng giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 8,41%; vàng kỳ hạn tháng 4 tăng hơn
8%, giao dịch ở ngưỡng 1.249,13 USD/oz. Vàng đã giữ được xu hướng gia tăng
trước những bất ổn về các chính sách kinh tế của Tổng thống Trump, kết quả
bầu cử tại một số nước lớn trong khu vực Châu Âu và những dữ liệu kinh tế
đáng quan ngại của nước Mỹ vào cuối tháng 3.
Trong quý I, vàng đã giữ đà tăng liên tục trong 3 tháng đầu năm. Trong quý,
diễn biến giảm của giá vàng chỉ diễn ra rõ nét nhất vào đầu tháng 3 trước kỳ
vọng mạnh của thị trường về việc điều chỉnh lãi suất của Fed, giá vàng đã giảm
gần như liên tục trong 09 ngày với tổng mức giảm lớn hơn 4%. Tuy nhiên, mức
giảm này đã được san bằng trong 06 ngày giao dịch tiếp theo sau khi Fed nâng
lãi suất. Đây là một diễn biến không đúng với những gì mà thị trường đã dự
báo và được xem là một sự điều chỉnh cần thiết trước những phản ứng nhanh
của giá vàng trong nửa đầu của tháng 3.
12
Thị trường chứng khoán toàn cầu
10 Trong tuần cuối tháng 3, theo dữ liệu của Bank of America Merrill Lynch, nhà đầu tư đã rút tổng cộng 800 triệu USD khởi các quỹ chứng
khoán Mỹ và đổ 1.9 tỷ USD vào các quỹ chứng khoán châu Âu. Đây là tuần hút vốn mạnh nhất của chứng khoán EU trong 60 tuần qua.
TTCK toàn
cầu duy trì
đà tăng
điểm trong
quý I
Thị trường chứng khoán toàn cầu vẫn duy trì đà tăng trưởng ổn định trong quý I
năm 2017. Hầu hết các thị trường chứng khoán chủ chốt đều giữ được đà tăng điểm,
trái ngược hoàn toàn với xu hướng mất điểm mạnh của quý I năm 2016.
Diễn biến các chỉ số chứng khoán chủ chốt quý I/2016 so với quý I/2017
Nguồn: Bloomberg
Thị trường chứng khoán Mỹ với sự tiếp sức của nhiều thông tin hỗ trợ như đà cải
thiện kinh tế vĩ mô, kỳ vọng về các chương trình kích thích tài khóa của chính
quyền mới và hai đợt tăng lãi suất liên tiếp đã duy trì đà tăng điểm liên tục suốt từ
tháng 11 năm ngoái đến giữa tháng 3 năm nay. Tuy nhiên, từ nửa cuối tháng 3, các
chỉ số chủ chốt đã bắt đầu quay đầu giảm nhẹ khi yếu tố tác động từ các thông tin hỗ
trợ bắt đầu trở nên bão hòa và những lo ngại mới phát sinh từ các mâu thuẫn chính
trị trong nội bộ Đảng Cộng hòa. Mặc dù vậy, kết thúc quý I, các chỉ số chủ chốt tại
Mỹ vẫn tăng điểm khá cao so với cuối năm ngoái, trong đó, Dow Jones tăng 3,64%;
S&P 500 tăng 4,52% và Nasdaq tăng 8,76%.
Diễn biến các chỉ số chứng khoán chủ chốt tại Mỹ
Nguồn: Bloomberg
Tại khu vực Châu Âu, sự hồi phục của kinh tế khu vực, những diễn biến khả quan
của bầu cử tại Hà Lan đã tiếp sức cho đà leo dốc của các chỉ số chứng khoán trong
khu vực. Sự gia tăng diễn ra mạnh mẽ hơn trong nửa cuối tháng 3 khi các nhà đầu tư
bắt đầu có xu hướng chuyển vốn từ thị trường Mỹ có dấu hiệu bão hòa sang thị
trường khu vực EU10. Chỉ số Euro Stock đã đạt mức tăng 2,79% trong quý I với sự
gia tăng trên hầu khắp các thị trường chủ chốt: chỉ số DAX của Đức tăng 4,15%, chỉ
số CAC 40 của Pháp tăng 5,34%, chỉ số FTSE của Ý tăng 7,79%... Duy chỉ có thị
trường chứng khoán Anh với những lo ngại xung quanh việc Anh đã chính thức
khởi động Brexit nên kết thúc quý I chỉ đạt mức tăng nhẹ 0,74%.
-15.00%
-10.00%
-5.00%
0.00%
5.00%
10.00%
15.00%
QI/2016
QI/2017
-10.00%
-5.00%
0.00%
5.00%
10.00%
Dow Jones S&P 500 Nasdaq
13
4. Triển vọng kinh tế thế giới đến cuối năm 2017
Diễn biến các chỉ số chứng khoán chủ chốt tại khu vực EU
Nguồn: Bloomberg
Tại Châu Á, diễn biến khả quan về kết quả kinh tế những tháng đầu năm của các
nền kinh tế trong khu vực và đà gia tăng của giá cả hàng hóa toàn cầu là những lực
đẩy kéo chứng khoán khu vực đi lên trong quý I. Chỉ số MSCI khu vực châu Á Thái
Bình Dương đạt mức tăng lên đến 8,79% chỉ trong vòng 3 tháng đầu năm. Trong đó,
Hồng Kông là thị trường đón nhận mức tăng trưởng tích cực nhất khu vực với chỉ số
Hang Seng đạt mức tăng lên đến 10,28% so với cuối năm trước do lực mua từ phía
các nhà đầu tư đại lục gia tăng. Thị trường chứng khoán Trung Quốc cũng tăng
trưởng tương đối tích cực với mức tăng 4,52% của chỉ số Shanghai. Ngay cả chứng
khoán Hàn Quốc trong bê bối chính trị cũng vẫn đứng vững với chỉ số Kopsi đạt
mức tăng 6,61% trong quý I. Trong diễn biến tích cực chung của toàn khu vực, chỉ
duy có chỉ số Nikkei 225 của Nhật Bản đã giảm 2,66% trong quý I.
Diễn biến các chỉ số chứng khoán chủ chốt tại khu vực châu Á Thái Bình Dương
Nguồn: Bloomberg
Nhìn chung, với những diễn biến của kinh tế, chính trị của các nước lớn trên thế
giới, nhiều dự báo cho rằng sự bất ổn chưa dừng lại, diễn biến kinh tế mặc dù
đã có những tín hiệu đủ để truyền cảm hứng cho sự lạc quan trước mắt, tuy
nhiên rủi ro tiềm ẩn cũng đã có dấu hiệu xuất hiện, cụ thể là lạm phát, sự gia
tăng nợ Chính phủ và nợ của các hộ gia đình,…. Trong khi đó các diễn biến
chính trị cũng còn rất nhiều quan ngại. Tất cả các yếu tố đó sẽ cản trợ quá trình
bình thường hóa các chính sách quản lý kinh tế của các nước. Chính vì vậy,
trong những tháng còn lại của năm 2017 các nhận định vẫn hết sức thận trọng
đối với triển vọng kinh tế thế giới:
- Về tăng trưởng kinh tế, hầu hết dự báo của các tổ chức quốc tế đều thống nhất
trong nhận định cho rằng kinh tế thế giới sẽ tiếp tục đà phục hồi, với mức tăng
trưởng dự tính của quý II đạt được cao hơn so với quý I; bên cạnh đó thương
mại toàn cầu sẽ đạt được mức tăng trưởng khả quan hơn;
- Thị trường giá cả hàng hóa dự kiến sẽ tiếp tục có những biến động phức tạp
một phần do chịu tác động từ những diễn biến thiếu ổn định về nguồn cung trên
-10.00%
0.00%
10.00%
FTSE 100 Euro Stock DAX
-40.00%
-20.00%
0.00%
20.00%
HangSeng Nikkei 225 Shanghai
14
KINH TẾ TRONG NƯỚC
1. Tăng trưởng kinh tế
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước quý I các năm 2015, 2016 và 2017
Tốc độ tăng so với cùng kỳ năm trước (%) Đóng góp của các khu vực
vào tăng trưởng quý I/2017
(Điểm phần trăm)
Quý I/2015 Quý I/ 2016 Quý I/2017
Tổng số 6.12 5.48 5,1 5.1
Nông, lâm nghiệp và thuỷ
sản 2.25 -1.31 2,03 0,24
Công nghiệp và xây dựng 8.74 7.16 4,17 1,46
Dịch vụ 5.68 5.98 6,52 2,65
Thuế sản phẩm trừ trợ cấp
sản phẩm 4.51 6.05 6 0.75
các thị trường, một phần do chịu tác động truyền dẫn từ sự thay đổi trên các thị
trường tài chính tiền tệ toàn cầu.
- Trên thị trường ngoại hối, nhiều dự báo cho rằng trong tháng tới, có thể đồng
USD sẽ tiếp tục xu hướng giảm, các đồng tiền chủ chốt khác sẽ tăng giá nhưng
không mạnh, ngoại trừ đồng JPY. Và trên thị trường xét trong dài hạn, duy nhất
chỉ có vàng được nhìn nhận sẽ tiếp tục diễn biến tích cực theo xu hướng gia
tăng.
- Thị trường chứng khoán toàn cầu có thể sẽ đón nhận những tín hiệu không
mấy lạc quan trong những quý sắp tới trước tác động của xu hướng tăng lãi suất
và những quan ngại về rủi ro địa chính trị tiềm ẩn. Các chuyên gia dự báo, chỉ
số chứng khoán của các nền kinh tế chủ chốt có thể đạt mức tăng từ 6% - 10,2%
nếu có tín hiệu tốt về lãi suất và các gói kích cầu của Chính phủ Mỹ. Trong tình
huống xấu nhất, nếu các nhà đầu tư quan ngại vấn đề giá cổ phiếu quá cao và nợ
công vượt trần thì thị trường chứng khoán toàn cầu có thể giảm trung bình 6,5%
trong năm 2017.
Tăng trưởng
kinh tế Quý I đạt
mức tăng thấp
nhất trong 3 năm
gần đây
Tăng trưởng kinh tế quý I/2017 ước tính tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước –
đạt mức thấp nhất so với mức tăng của GDP trong quý I/2015 và quý I/2016.
Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,03% đóng góp 0,24
điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung, khu vực công nghiệp và xây dựng
tăng 4,17%, đóng góp 1,46 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 6,52%, đóng
góp 2,65 điểm phần trăm.
So với cùng kỳ năm ngoái, nếu xét trên mức độ đóng góp của các nhóm ngành
có thể nhận thấy mặc dù đã có những cải thiện từ khu vực nông, lâm nghiệp và
thủy sản, diễn biến tiếp tục thuận lợi của khu vực dịch vụ nhưng diễn biến tăng
thấp của ngành công nghiệp, xây dựng đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến xu hướng
tăng của GDP trong quý I.
Trong khi đó, xét trên góc độ sử dụng thì hiện tại tiêu dùng cuối cùng tiếp tục là
động lực dẫn dắt đà tăng GDP, với mức tăng 6,73% so với cùng kỳ năm 2016,
đóng góp 7,25 điểm phần trăm vào mức tăng chung. Trong đó nổi bật là tiêu
dùng cuối cùng của hộ dân cư (đóng góp 6,65 điểm phần trăm). Tiếp đến là
đóng góp của tích lũy tài sản tăng 8,5%, đóng góp 2,27 điểm phần trăm. Tuy
nhiên mức tăng của hai cấu phần trên đã bị ảnh hưởng bởi tình trạng nhập siêu
nên diễn biến của hoạt động xuất nhập khẩu đã làm giảm 4,42 điểm phần trăm
vào mức tăng trưởng chung.
15
Nguồn: TCTK
Diễn biến chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo
Diễn biến chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo
11 IIP so với tháng trước trong Tháng 1 giảm 6,2%, tháng 2 giảm 2,1%, tháng 3 tăng 12,5%. 12 IIP trong quý I năm 2012 tăng 5,9%; năm 2013 tăng 5%; năm 2014 tăng 5,3%; năm 2015 tăng 9,3% và năm 2016 tăng 7,4%. 13 Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 2 tháng đầu năm tăng 9,1%; Chỉ số hàng tồn kho vào 1/3/2016 tăng 8,7% so với cùng
thời điểm năm 2015.
Diễn biến của sản xuất
công nghiệp tiếp tục
xấu đi
Trong 3 tháng đầu năm, sản xuất công nghiệp chưa có tín hiệu tích cực, thậm
chí đang có xu hướng diễn biến xấu đi so với cùng kỳ năm ngoái. Diễn biến
của chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp theo tháng – IIP đã không giống
như các năm trước, giảm trong 2 tháng đầu năm nhưng vẫn chưa phản ánh
được xu hướng cải thiện vào tháng 311. Trong đó, công nghiệp chế biến chế tạo
vẫn giữ vai trò chủ lực, công nghiệp khai khoáng tiếp tục suy giảm mạnh.
Trong quý I/2017, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 4,1% so với
cùng kỳ năm trước – thấp nhất trong vòng 5 năm trở lại đây12. Trong các
ngành công nghiệp, ngành chế biến, chế tạo tăng 8,3% - đóng góp 5,9% điểm
phần trăm vào mức tăng chung. Tuy nhiên điều đáng chú ý là nhóm ngành này
đang có xu hướng giảm tốc so với cùng kỳ năm ngoái; ngành sản xuất và phân
phối điện tăng 9,4%, đóng góp 0,6 điểm phần trăm, ngành cung cấp nước và
xử lý rác thải, nước thải tăng 7,2% đóng góp 0,1 điểm phần trăm và ngành
khai khoáng giảm 11,4% - làm giảm 2,5 điểm phần trăm so với mức tăng
chung.
Diễn biến IIP so với tháng trước
Diễn biến IIP so với cùng kỳ
Nguồn: TCTK
Diễn biến không tích cực của nhóm ngành công nghiệp, chế biến chế tạo còn
được thể hiện qua diễn biến của chỉ số tiêu thụ đã tăng thấp hơn và chỉ số tồn kho
đã tăng mạnh hơn so với cùng thời điểm so sánh của năm 2016. Chỉ số tiêu thụ
toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 2 tháng đầu năm tăng 7,9, chỉ số tồn
kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 1/3/2017 tăng 12,5%
so với cùng kỳ năm trước13.
16
Nguồn: TCTK
Tiêu dùng tiếp
tục đóng vai trò
quan trọng dẫn
dắt tăng trưởng
về phía cầu
Hoạt động bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng trong 3 tháng đầu năm 2017
có nhiều biến động do chịu tác động của yếu tố thời vụ. Cụ thể, tổng mức bán
lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng so với tháng trước đạt mức tăng
khá mạnh 5,6% trong tháng 1, giảm mạnh 6,5% trong tháng 2 và nhanh chóng
hồi phục lại với mức tăng 1,03% trong tháng 3. Diễn biến này đã tích cực hơn
so với cùng kỳ năm ngoái14.
Tính chung quý I, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
ước tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 9,1% của quý I
năm 2016. Nếu loại trừ yếu tố giá, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu
dịch vụ tiêu dùng chỉ đạt mức tăng 6,2%, thấp hơn mức tăng 7,5% của cùng
kỳ năm 2016.
Hoạt động tiêu dùng đã đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng GDP
chung trong quý I năm 2017, theo đó đóng góp của tiêu dùng cuối cùng trong
tăng trưởng GDP chung ở mức 7,25 điểm %, cao hơn khá nhiều mức đóng
14 Trong quý I năm 2016, tăng trưởng doanh số bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng có 2 tháng giảm so với tháng trước là tháng 2
và tháng 3 với mức giảm lần lượt là 3,28% và 3,4%; chỉ có tháng 1 đạt mức tăng 3,5% so với tháng trước.
Diễn biến chỉ số
PMI tiếp tục
phản ánh vai trò
dẫn dắt tăng
trưởng của
ngành sản xuất
trong nước
Kết thúc quý I, diễn biến của chỉ số PMI đã khép lại quý tăng mạnh nhất được
ghi nhận kể từ năm 2011. Trong 3 tháng đầu năm, PMI đã có diễn biến tích
cực, tháng sau cao hơn tháng trước, phản ánh điều kiện kinh doanh liên tục
được cải thiện mạnh mẽ. Sau khi giảm xuống mức 51,9 điểm vào tháng 1, chỉ
số này đã tăng mạnh lên mức 54,2 điểm vào tháng 2 và kết thúc tháng 3 ở mức
54,6 điểm - mức cao nhất trong 22 tháng qua và đứng đầu khu vực Đông Nam
Á. Diễn biến của chỉ số PMI trong 3 tháng đầu năm đã kéo dài chu kỳ cải
thiện tình hình sản xuất tại Việt Nam trong suốt 16 tháng.
Trong đó, tất cả các chỉ số thành phần phản ánh điều kiện kinh doanh được
khảo sát đều được cải thiện ở mức đáng kể nhất kể từ tháng 5/2015. Theo đó,
tổng số lượng đơn đặt hàng mới đã tăng mạnh kể từ tháng 2, đặc biệt là số
lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới đã nhanh hơn và đạt mức cao nhất kể từ
đầu năm đến nay. Diễn biến tích cực của đơn đặt hàng mới đã tác động lan tỏa
đến tốc độ tăng của sản lượng, việc làm, hoạt động mua hàng hóa đầu vào, tồn
kho hàng mua .
Theo đánh giá của Nikkei, các nhà sản xuất được khảo sát vẫn rất tự tin rằng
sản lượng sẽ tăng trong 12 tháng tới, khi có tới 63% số thành viên nhóm khảo
sát dự báo tăng. Những dự báo số lượng đơn đặt hàng mới tăng, cùng với các
kế hoạch mở rộng kinh doanh, là nhân tố dẫn đến triển vọng tích cực.
Đồ thị Diễn biến chỉ số PMI trong Quý I năm 2017
Nguồn: nikkei.com
4849505152535455
17
góp 5,39 điểm % của quý I năm 2016.
Tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh
thu DV TD so với tháng trước và cùng kỳ (%)
Tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu
dịch vụ tiêu dùng đã loại trừ yếu tố giá (% yoy)
Nguồn: TCTK
Tổng vốn đầu tư
toàn xã hội sụt
giảm so với cùng
kỳ các năm trước
Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý I năm 2017 ước đạt 297,8 nghìn tỷ
đồng, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước và bằng 32% GDP, thấp hơn đáng
kể tốc độ tăng trưởng của cùng kỳ 2 năm liền trước. Trong cả ba khu vực,
hiện khu vực tư nhân vẫn tiếp tục duy trì vai trò dẫn dắt hoạt động đầu tư nói
chung với mức tăng trưởng tốt nhất đạt 13,8%. Trong khi đó, khu vực có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài cho thấy sự sụt giảm mạnh mẽ nhất với tốc độ
tăng trưởng chỉ còn bằng một nửa so với cùng kỳ năm ngoái.
Tốc độ phát triển vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện quý I các năm 2015 - 2017 so với
cùng kỳ năm trước (%)
Nguồn: TCTK
Quý I
2015 Quý I
2016 Quý I
2017
Tổng số 109,7 110,9 108,6
Khu vực Nhà nước 107,7 105,9 104,9
Khu vực ngoài Nhà nước 111,4 114,5 113,8
Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 110,2 112,8 106,2
Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước thực
hiện quý I ước tính đạt 45,4 nghìn tỷ đồng, bằng 15,6% kế hoạch năm và tăng
5,3% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng trưởng 9,2% của cùng kỳ
năm 2016. Sự chững lại này một phần mang tính quy luật hàng năm khi vốn
đầu tư từ ngân sách nhà nước thường giải ngân chậm trong những tháng đầu
năm.
Diễn biến vốn đầu tư từ NSNN
18
Nguồn: TCTK
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 3 tháng đầu năm 2017 ước tính đạt
3,62 tỷ USD, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm 2016, là mức tăng thấp nhất
trong 3 năm gần đây so với mức tăng trưởng lần lượt đạt 14,8% và 7% của
cùng kỳ hai năm liền trước. Điều này là lý do giải thích cho tình trạng tăng
trưởng chậm lại của nguồn vốn đầu tư từ khu vực nước ngoài trong tổng vốn
đầu tư toàn xã hội.
So sánh diễn biến vốn FDI thực hiện qua các tháng năm 2015, 2016 và 2017
Nguồn: TCTK
Vốn FDI thu hút
mới, tăng thêm
và góp vốn mua
cổ phần gia tăng
77,6% so với
cùng kỳ năm
trước với nhiều
chuyển biến mới
Tính đến 20/3/2017, dòng vốn FDI thu hút mới, tăng thêm và góp vốn mua cổ
phần ước đạt 7,71 tỷ USD, tăng 77,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó,
riêng lượng vốn tăng thêm đã chiếm trên một nửa tổng vốn FDI khi đạt 3,94
tỷ USD, tăng tới 206,4% so với cùng kỳ năm 2016. Việc nhà đầu tư nước
ngoài mở rộng quy mô dự án tại Việt Nam đã giúp thu hút FDI mở màn khá
thuận lợi trong quý đầu tiên của năm 2017.
Các dự án tăng vốn nhiều nhất đều thuộc về những nhà đầu tư quen thuộc là
Samsung (tăng vốn đầu tư thêm 2,5 tỷ USD tại Bắc Ninh); Coca-Cola (tăng
vốn đầu tư 319,8 triệu USD tại Hà Nội); Khu công nghiệp Việt Nam
Singapore III (đầu tư 284,75 triệu USD tại Bình Dương)… Bên cạnh đó,
dòng vốn FDI đến từ các nhà đầu tư Trung Quốc cũng đã có sự bứt phá trong
3 tháng đầu năm với tổng số vốn đăng ký tăng thêm là 823,6 triệu USD, vươn
lên vị trí thứ 2 trong số các đối tác đầu tư hàng đầu tại Việt Nam bằng khoảng
65% so với tổng vốn mà quốc gia này đầu tư trong năm 2016 là 1,26 tỷ USD.
Diễn biến vốn FDI thu hút mới và tăng thêm quý I/2017 so với quý I/2015 và 2016
Nguồn: TCTK
-
500.0
1,000.0
1,500.0
2,000.0
2,500.0
Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3
Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017
0
1000
2000
3000
4000
5000
Quý I/2015 Quý I/2016 Quý I/2017
Triệ
u U
SD
Vốn FDI thu hút mới Vốn FDI tăng thêm
19
Trong bối cảnh hoạt động thu hút FDI mới trên toàn cầu đang gặp nhiều khó
khăn do sự dịch chuyển bất định của dòng vốn thì việc nhà đầu tư nước ngoài,
đặc biệt là các nhà đầu tư lâu năm, tiếp tục mở rộng hoạt động tại Việt Nam
một lần nữa khẳng định rằng họ tin tưởng vào môi trường đầu tư và khả năng
phát triển thuận lợi của thị trường Việt Nam.
Xuất khẩu đạt
mức tăng cao so
với cùng kỳ năm
trước
Trong 3 tháng đầu năm 2017, hoạt động xuất khẩu diễn biến thuận lợi với kim
ngạch xuất khẩu qua các tháng đều tăng khá mạnh so với cùng kỳ năm 201615.
Nhờ đó, kim ngạch xuất khẩu quý I ước đạt 43,7 tỷ USD, tăng 12,8% so với
cùng kỳ năm 2016, cao gấp 3 lần so với mức tăng trưởng 4,1% của quý I năm
ngoái. Trong đó hoạt động xuất khẩu đều có mức tăng trưởng cao trong cả hai
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước với mức tăng
trưởng quý I của 2 khu vực lần lượt đạt 13% và 12,1% so với cùng kỳ, cao
hơn nhiều tốc độ tăng trưởng lần lượt chỉ đạt 5,8% và 0,3% trong quý I/2016.
Sự phục hồi của xuất khẩu là nhờ các mặt hàng chế biến chế tạo vẫn duy trì
tốc độ tăng trưởng khả quan16, cao hơn tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nói
chung và cao hơn tốc độ tăng trưởng xuất khẩu các mặt hàng này trong cùng
kỳ năm 2016. Trong khi đó, xuất khẩu các mặt hàng nông thủy sản và khai
khoáng cũng đã có sự phục hồi trở lại17.
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chế biến chế tạo chủ lực
QI/2017 so với QI/2016 và so với tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu chung
Nguồn: TCTK
Về cơ bản thì cơ cấu xuất khẩu không có nhiều thay đổi nhưng đã có sự dịch
chuyển về kim ngạch xuất khẩu sang thị trường các nước trong khu vực.
Trong bối cảnh xuất khẩu vào Mỹ và EU đang gặp nhiều khó khăn do những
điều chỉnh về mặt chính sách thương mại, tăng trưởng xuất khẩu của Việt
Nam trong quý I tập trung khai thác các thị trường truyền thống trong khu vực
như Trung Quốc, Hàn Quốc, Asean. Cụ thể xuất khẩu vào Trung Quốc đạt
mức tăng trưởng mạnh nhất trong quý I lên đến 43,3%, tiếp đến là Asean tăng
21,8%, Hàn Quốc tăng 24,1% và Nhật tăng 15,4% so với cùng kỳ năm 2016.
Hai thị trường Mỹ và EU chỉ đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu lần lượt 4,1%
và 4,2%, thấp hơn rất nhiều mức tăng trưởng thường xuyên ở mức 2 con số
trong những năm trước đây.
15 Kim ngạch xuất khẩu tháng 1 đạt 14,3 tỷ USD tăng 7,33%, tháng 2 đạt 13,1 tỷ USD, tăng 29,78% và tháng 3 ước đạt 16,3 tỷ USD, tăng
7,83% 16 Qua 3 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng điện tử, máy tính và linh kiện tăng 42,3% so với cùng kỳ, máy móc, thiết bị,
dụng cụ phụ tùng khác tăng 34,6%; dệt may tăng 10,2%%; giày dép tăng 10,5%; phương tiện, vận tải và phụ tùng tăng 21%,… 17 Qua 3 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu rau quả tăng 24,3% so với cùng kỳ; xuất khẩu cà phê tăng 30,7%; dầu thô tăng 29,7%; xăng
dầu tăng 53,7%; thủy sản tăng 6%,…
0
20
40
60
Tổng kim ngạch XK
Dệt may Giày dép Điện tử, máy tính và linh
kiện
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng
khác
%
Quý I/2016 Quý I/2017
20
Nhập khẩu tăng
mạnh so với năm
2016
Tỷ trọng XK vào các thị trường QI/2016 Tỷ trọng XK vào các thị trường QI/2017
Nguồn: TCTK
Tương tự xuất khẩu, nhập khẩu cũng tăng liên tục qua các tháng của quý I và
tăng với tốc độ cao18. Tính chung 3 tháng, nhập khẩu ước đạt 45,6 tỷ USD,
tăng 22,4% so với cùng kỳ năm 2016 (3 tháng đầu 2016 nhập khẩu giảm gần
4,4%). Trong đó, tốc độ tăng nhập khẩu của khối doanh nghiệp trong nước đạt
24,4%, cao hơn so với mức tăng 21,1% của khối doanh nghiệp FDI.
Sự gia tăng của nhập khẩu trong quý I chủ yếu là do nhập khẩu tư liệu sản
xuất tăng rất mạnh 22,7% so với cùng kỳ năm 2016 trong khi 3 tháng đầu năm
2016 nhập khẩu nhóm hàng này giảm 4,7%. Đáng chú ý, nhiều mặt hàng có
tốc độ tăng cao hơn tốc độ tăng của cùng kỳ năm 2016 và tốc độ tăng của kim
ngạch nhập khẩu chung, ví dụ như máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng tăng
22,5%, nguyên nhiên vật liệu tăng 22,7%, sắt thép tăng 45,4%, chất dẻo tăng
33,2%,...
Bên cạnh đó, nhập khẩu hàng tiêu dùng cũng tăng mạnh ở mức 19,7% so với
cùng kỳ năm 2016, trái ngược với xu hướng giảm 8,3% của cùng kỳ năm
trước, trong đó nhập khẩu ô tô nguyên chiếc tăng mạnh 82,1% trước tác động
kép của việc giảm thuế nhập khẩu của ASEAN và giảm thuế tiêu thụ đặc biệt
cho các dòng xe có dung tích xi-lanh thấp.
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng tư liệu sản xuất QI/2017 so
với QI/2016 và so với tốc độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu chung
Nguồn: TCTK
18 Kim ngạch nhập khẩu tháng 1 đạt 13,2 tỷ USD, tăng 4,68% so với cùng kỳ 2016, tháng 2 đạt 15,2 tỷ USD, tăng 47,23%, tháng 3 đạt 17,4
tỷ USD, tăng 20,06%.
21
Cán cân thương
mại nhập siêu
mạnh trong quý I
Nhập khẩu từ tất cả các thị trường đều có sự phục hồi nhưng tốc độ phục hồi
là khác nhau. Cụ thể, nhập khẩu từ Trung Quốc, Asean, Hàn Quốc, Nhật Bản,
EU, Mỹ đều gia tăng mạnh ở mức hai con số so với cùng kỳ năm 2016, trái
ngược với xu hướng sụt giảm mạnh mẽ trong quý I năm ngoái19. Cơ cấu thị
trường nhập khẩu không có nhiều thay đổi so với cùng kỳ năm ngoái, với
Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, theo sau là Hàn
Quốc, Asean, Nhật Bản.
Tỷ trọng NK từ các thị trường QI/2016 Tỷ trọng NK vào các thị trường QI/2017
Nguồn: TCTK
Cán cân thương mại thực hiện tháng 1 xuất siêu 1,15 tỷ USD, tháng 2 nhập
siêu 2 tỷ USD, tháng 3 ước nhập siêu 1,1 tỷ USD. Tính chung quý I năm
2017, nhập siêu ước đạt 1,9 tỷ USD, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập
siêu 6,06 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu
4,16 tỷ USD. Nhập siêu đã gia tăng mạnh trở lại trong quý I năm nay do nhập
khẩu tăng mạnh phục vụ nhu cầu sản xuất trong nước. Điều này trái ngược
hoàn toàn với quy mô xuất siêu 776 triệu USD trong quý I năm ngoái.
Diễn biến XK, NK và nhập siêu giai đoạn 1/2016 – 3/2017
Nguồn: TCTK
2. Lạm phát
19 Trong quý I/2016, nhập khẩu từ Trung Quốc giảm 8%, Asean giảm 5,8%, Nhật Bản giảm 8,8%, EU giảm 14,5% so với cùng kỳ năm trước 20 CPI bình quân Q1/2015 tăng 0,74%; Q1/2016 tăng 1,25%. 21 CPI cơ bản bình quân Q1/2015 tăng 2,39%; Q1/2016 tăng 1,76%.
Diễn biến lạm phát trong ba tháng đầu năm nay có xu hướng tăng cao hơn so
với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng tính đến hết tháng 3/2017 tăng
0,9% so với cuối năm 2016 (trong đó: tháng 1 tăng 0,46%, tháng 2 tăng 0,23%
và tháng 3 tăng 0,21% so với tháng trước). CPI bình quân quý 1/2017 tăng
4,96% so với bình quân cùng kỳ năm 2016 và cao nhất trong 3 năm gần đây20.
Trong khi đó, CPI cơ bản bình quân quý 1 tăng 1,66% so với bình quân cùng kỳ
năm trước, là mức tăng thấp nhất trong 3 năm qua21.
22
Nguồn: Tổng cục thống kê
22 Xăng RON 92 giảm 280 đ/l, E5 giảm 223 đ/l; Dầu Diezen tăng 405 đ/l, dầu hỏa tăng 234 đ/l, mazut tăng 216 đ/l. 23 Giá bán lẻ gas tăng khoảng 45.000 đồng/bình (tương đương 14%) so với cuối năm 2016. 24 Quý 1/2017: giá bán thép trong nước điều chỉnh tăng 3 lần với tổng mức tăng 700.000 - 1.000.000 đồng/tấn.
Trong số 11 nhóm hàng hóa dịch vụ, ngoại trừ Bưu chính viễn thông có CPI
bình quân quý 1 giảm nhẹ so với cùng kỳ năm trước thì chỉ số giá bình quân của
các nhóm còn lại đều tăng. Trong đó một số nhóm tăng mạnh nhất đó là:
+) Nhóm Thuốc và dịch vụ y tế có CPI quý I tăng 49,69% so với cùng kỳ năm
2016 (trong đó dịch vụ y tế tăng 68,63%) - đóng góp 2,66 điểm % vào mức tăng
CPI chung. Trong quý 1 có 13 tỉnh thành phố trên cả nước điều chỉnh giá dịch
vụ y tế bước 2.
+) Nhóm Giáo dục có CPI quý 1 tăng 10,2% so với cùng kỳ (trong đó giá dịch
vụ giáo dục tăng 11,80%), một số địa phương tiếp tục thực hiện tăng học phí
theo lộ trình từ năm 2016.
+) Nhóm Giao thông có CPI quý 1 tăng 9,78% - đóng góp 1,45 điểm % vào
mức tăng CPI chung. Giá nhiên liệu trên thị trường thế giới tăng thời gian gần
đây làm giá xăng dầu bình quân quý 1 tăng 34,9% so với cùng kỳ. Sau 6 đợt
điều chỉnh giá xăng dầu trong nước kể từ đầu năm, giá bán lẻ xăng có xu hướng
giảm nhẹ trong khi đó giá các mặt hàng dầu lại tăng cao22. So với cùng kỳ năm
2016.
+) Nhóm Hàng ăn và dịch vụ ăn uống, CPI quý I tăng 0,99% so với cùng kỳ -
đóng góp 0,36 điểm % vào mức tăng CPI chung do yếu tố thời vụ khi hai tháng
đầu năm nay trùng với dịp Tết, nhu cầu tiêu thụ lương thực, thực phẩm tăng
cao.
+) Nhóm Nhà ở và VLXD có CPI quý 1 tăng 4,53% so với cùng kỳ. Giá một số
mặt hàng nhiên vật liệu xây dựng như giá khí hóa lỏng (LPG) nhập khẩu đã
tăng khoảng 60% khiến giá mặt hàng gas và khí đốt trong nước tăng cao23. Giá
thép thế giới có xu hướng tăng cộng với nhu cầu tiêu thụ trong nước đã đẩy giá
bán thép tăng mạnh24.
Ngoài ra, các nhóm hàng hóa còn lại chiếm tỷ trọng nhỏ trong rổ tính CPI có
mức tăng CPI quý I từ 1%-2% so với cùng kỳ năm 2016.
23
Nguồn: TCTK
Một số VBPL chính sách quan trọng về điều tiết giá cả được ban hành trong tháng 3 năm 2017
Công văn số 1775/BCT-TTTN ngày 6/3/2017 của Bộ Công Thương về việc điều hành kinh doanh xăng dầu
Điều chỉnh giá xăng dầu: Xăng RON 92: giảm 76 đồng/lít; Xăng E5: giảm 58 đồng/lít; Dầu diesel 0.05S: tăng
142 đồng/lít; Dầu hỏa: tăng 76 đồng/lít; Dầu mazut 180CST 3.5S: tăng 55 đồng/kg.
Công văn số 2284/BCT-TTTN ngày 21/3/2017 của Bộ Công Thương về việc điều hành kinh doanh xăng dầu
Điều chỉnh giá xăng dầu: Xăng RON 92: giảm 708 đồng/lít; Xăng E5: giảm 661 đồng/lít; Dầu diesel 0.05S: giảm
609 đồng/lít; Dầu hỏa: giảm 657 đồng/lít; Dầu mazut 180CST 3.5S: giảm 528 đồng/kg.
Thông tư 23/2017/TT-BTC ngày 16/3/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 11/2016/TT-BTC
ngày 19/1/2016 hướng dẫn một số điều của Nghị định số 42/2015/NĐ-CP ngày 5/5/2015 của Chính phủ về
chứng khoán phái sinh và thị trường chứng khoán phái sinh
3. Thu chi ngân sách Nhà nước
25 Quý I năm 2016, thu NSNN bằng 18% dự toán trong đó thu nội địa đạt 19,4% dự toán, thu từ dầu thô bằng 13,3% dự toán và thu từ hoạt
động XNK bừng 13,2% dự toán.
Như vậy, diễn biến tăng của CPI trong quý I tiếp tục chịu tác động từ xu hướng
tăng của một số nhóm hàng hóa theo thời vụ, sự gia tăng của giá các mặt hàng
do Nhà nước quản lý như xăng dầu và giá các dịch vụ công trong lĩnh vực như
Y tế, Giáo dục tiếp tục tăng theo lộ trình và diễn biến tăng giá của hàng hóa và
giá dầu thế giới trong 2 tháng đầu năm.
Thu chi NSNN
đã có thay đổi Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/3/2017 ước tính đạt
216,7 nghìn tỷ đồng, bằng 17,9% dự toán năm. Trong đó thu nội địa 175,5
nghìn tỷ đồng, bằng 17,7%; thu từ dầu thô 9 nghìn tỷ đồng, bằng 23,4%; thu
cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 32,2 nghìn tỷ đồng, bằng
17,9%. Về cơ bản thu ngân sách trong quý I năm nay đã diễn biến khả quan hơn
so với cùng kỳ năm ngoái nhờ sự phục hồi của hai nguồn thu từ hoạt động xuất
nhập khẩu và thu từ dầu thô25 .
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/3/2017 ước tính đạt
229,1 nghìn tỷ đồng, bằng 16,5% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển
32,6 nghìn tỷ đồng, bằng 9,1%; chi thường xuyên 173,2 nghìn tỷ đồng, bằng
19,3%; chi trả nợ lãi 23 nghìn tỷ đồng, bằng 23,2%. Chi trả nợ gốc từ đầu năm
đến thời điểm 15/3/2017 ước tính đạt 38,4 nghìn tỷ đồng, bằng 23,4% dự toán
năm. Trong cơ cấu chi của NSNN, chi đầu tư phát triển hiện chỉ chiếm khoảng
14% tổng chi, thấp hơn mức 17,6% của cùng kỳ năm 2016.
24
Nguồn: GSO
4. Tình hình doanh nghiệp, việc làm
Tình hình doanh nghiệp
Nguồn: Cục quản lý đăng ký kinh doanh
26 Tháng 3/2017: có 12.027 DN thành lập mới (tăng 120%) với tổng số vốn đăng ký 118.680 tỷ đồng (tăng 91%) so với tháng trước. 27 Quý 1/2017: có 3.268 DN phá sản (tăng 12%) và 9.942 DN tạm dừng kinh doanh (tăng 23,9%) so với cùng kỳ năm trước.
Qua 3 tháng đầu năm cả nước có 26.478 doanh nghiệp thành lập mới với tổng
số vốn đăng ký là 271.238 tỷ đồng - tăng 11,4% về số doanh nghiệp và tăng
45,8% về vốn so với cùng kỳ năm trước. Đáng chú ý, trong tháng 3/2017 có số
lượng doanh nghiệp thành lập và vốn đăng ký mới đạt mức cao nhất trong hai
năm gần đây26, cho thấy cộng đồng doanh nghiệp vẫn tiếp tục tin tưởng và kỳ
vọng vào cơ hội kinh doanh từ thị trường.
Tuy nhiên, số doanh nghiệp phải giải thể và tạm dừng kinh doanh có thời hạn
trong quý 1 cũng tăng lên so với cùng kỳ27. Trong đó chủ yếu là các doanh
nghiệp nhỏ có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, chiếm 92%.
25
Nguồn: Cục quản lý đăng ký kinh doanh
Tình hình lao động, việc làm
Nguồn: Tổng cục thống kê
Xét về số lượng doanh nghiệp thành lập mới, tất cả các ngành nghề kinh doanh
trong quý 1 đều có số doanh nghiệp mới tăng lên so với cùng kỳ năm 2016.
Trong đó nhóm ngành Kinh doanh bất động sản, Xây dựng tiếp tục dẫn đầu nhờ
diễn biến khởi sắc của thị trường BĐS. Một số ngành có tỷ lệ gia nhập thị
trường cao trong năm trước vẫn đang duy trì được mức tăng trưởng cao như:
Giáo dục đào tạo, Khoa học công nghệ, Tài chính ngân hàng và bảo hiểm,…
Xét về số lượng vốn đăng ký kinh doanh, quý 1/2017 ghi nhận sự chuyển biến
tích cực của một số ngành có tỷ lệ vốn kinh doanh suy giảm trong năm trước
như: Nghệ thuật, vui chơi và giải trí; Khai khoáng; Dịch vụ việc làm và du lịch;
Dịch vụ lưu trú và ăn uống, cho thấy đời sống của người dân đã có sự cải thiện
nhất định và nhu cầu tiêu dùng, sử dụng dịch vụ tăng lên.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước tính đến thời điểm cuối quý
1/2017 là khoảng 54,5 triệu người, trong đó số có việc làm là 53,4 triệu người -
tăng 0,1 triệu người so với cùng kỳ năm 2016. Số lao động thất nghiệp trong
quý 1 là khoảng 1,14 triệu người, cao hơn cùng kỳ nhưng đã giảm so với quý
trước. Theo đó, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động ở mức 2,3%, tỷ lệ thất
nghiệp trong độ tuổi thanh niên là 6,96% - tỷ lệ này mặc dù đã giảm trong thời
gian gần đây nhưng vẫn cao hơn nhiều lần tỷ lệ thất nghiệp chung, phản ánh
những khó khăn về việc làm của lực lượng lao động trẻ ở nước ta.
26
Nguồn: TCTK
III. DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ, CHỨNG KHOÁN
Một số VBPL chính sách quan trọng điều tiết hoạt động trên thị trường tiền tệ, ngân hàng được ban hành
trong tháng 3 năm 2017
Quyết định số 312/QĐ-NHNN ngày 14/3/2017 về việc đính chính một số nội dung tại Thông tư số 39/2016/TT-
NHNN (Thông tư 39) ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định về hoạt động
cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng
Quyết định 625/QĐ-NHNN ngày 30/3/2017 ban hành Chương trình hành động của ngành Ngân hàng thực hiện
Nghị quyết số 27/NQ-CP ngày 21/2/2017 của Chính phủ về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi
mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế
và cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020
Quyết định số 637/QĐ-NHNN ngày 31/3/2017 ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 2545/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai
đoạn 2016-2020
Trong tổng số 53,4 triệu lao động trên 15 tuổi có việc làm, khu vực nông lâm
nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng lớn nhất với 40,6%; sau đó là khu vực công
nghiệp và xây dựng chiếm 25,5%; khu vực dịch vụ chiếm 33,9%. Có thể thấy
xu hướng chuyển dịch vẫn đi theo hướng giảm bớt lao động ở khu vực nông
lâm nghiệp thủy sản và tăng số lượng lao động ở khu vực công nghiệp xây dựng
và dịch vụ. Xu hướng chuyển dịch lao động này phù hợp với diễn biến của khối
doanh nghiệp và phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của đất nước.
Lãi suất huy
động tăng chủ
yếu ở các kỳ hạn
dài
Trong 3 tháng đầu năm, mặt bằng lãi suất huy động bình quân của nhóm các
NHTM khảo sát đã có sự thay đổi. Trong đó, lãi suất huy động bình quân kỳ
hạn ngắn (3 tháng, 6 tháng) tăng mỗi tháng giao động từ 0,01% – 0,02%/năm;
lãi suất huy động bình quân kỳ hạn dài từ 12 đến 36 tháng tăng mạnh hơn, giao
động trong khoảng từ 0,03% – 0,08%/năm. Diễn biến tăng của lãi suất huy
động không diễn ra trên diện rộng, chủ yếu là các NHTM CP có quy mô nhỏ,
lãi suất huy động tăng tập trung vào các kỳ hạn trên 12 tháng. Tuy nhiên việc
một số NHTM CP tăng lãi suất huy động dưới hình thức chứng chỉ tiền gửi
VND ở mức 8,2% - 9,2%/năm, tập trung ở các kỳ hạn huy động dài từ ngày
20/3 đã thu hút sự chú ý của thị trường. Mặc dù vậy, nếu xem xét tổng thể các
diễn biến của thị trường tiền tệ (tăng trưởng tín dụng, huy động, diễn biến tỷ
giá,….) thì thực tế này được xem là động thái điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn của
27
Diễn biến lãi suất huy động bình quân của Khối
NHTM Nhà nước
Diễn biến lãi suất huy động bình quân Khối
NHTM Cổ phần
Nguồn: tổng hợp
28 Theo Thông tư 06/2016/TT-NHNN kể từ ngày 1/7/2016, tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn của các ngân hàng thương mại (NHTM) sẽ giảm dần từ mức 60% về 50% trong năm 2017 và 40% từ ngày 1/1/2018.
0.00
1.00
2.00
3.00
4.00
5.00
6.00
7.00
8.00
3 tháng 6 tháng 12 tháng 24 tháng 36 tháng
Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3
0.00
1.00
2.00
3.00
4.00
5.00
6.00
7.00
8.00
3 tháng 6 tháng 12 tháng 24 tháng 36 tháng
Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3
một số ngân hàng theo hướng tăng cường các nguồn vốn huy động ổn định, dài
hạn để một mặt đáp ứng nhu cầu của thị trường và đảm bảo tuân thủ quy định
an toàn hoạt động ngân hàng28.
Kết thúc tháng 3 mặt bằng lãi suất huy động VND không kỳ hạn phổ biến trong
khoảng 0,2% - 1%/năm ở cả hai khối NHTM Nhà nước và NHTM cổ phần, lãi
suất huy động VND có kỳ hạn phổ biến trong khoảng từ 4,8% - 7,5%/năm đối
với khối NHTM Nhà nước và trong khoảng từ 4,9% - 8%/năm đối với khối
NHTM cổ phần.
Diễn biến lãi
suất cho vay ổn
định
Lãi suất huy động USD tiếp tục ở mức 0% đối với tất cả các kỳ hạn ở cả khối
NHTM NN và NHTM CP, đối với cả huy động từ dân cư và từ TCKT.
Diễn biến lãi suất cho vay VND khá ổn định, phổ biến đối với các lĩnh vực ưu
tiên ở mức 6-7%/năm đối với ngắn hạn, các NHTM nhà nước áp dụng lãi suất
cho vay trung và dài hạn phổ biến đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 9-
10%/năm. Lãi suất cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường ở
mức 6,8-9%/năm đối với ngắn hạn; 9,3-11%/năm đối với trung và dài hạn. Đối
với nhóm khách hàng tốt, tình hình tài chính lành mạnh, minh bạch, lãi suất cho
vay ngắn hạn từ 4-5%/năm.
Đồng thời, lãi suất cho vay USD phổ biến ở mức 2,8-6,0%/năm; trong đó lãi
suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 2,8-4,8%/năm, lãi suất cho vay trung, dài
hạn ở mức 4,9-6,0%/năm.
Lãi suất liên
ngân hàng biến
động phù hợp
với diễn biến của
thị trường
Trong 3 tháng giao dịch đầu năm, về cơ bản lãi suất liên ngân hàng trong quý
I/2017 diễn ra khá phù hợp, lãi suất biến động mạnh chủ yếu đối với kỳ hạn
ngắn (qua đêm, 1 tuần, 1 tháng) vào các thời điểm giáp tết, điều chỉnh giảm ở
hầu hết các kỳ hạn trong tháng 2 và đồng loạt tăng trở lại vào tháng 3, ngoại trừ
kỳ hạn 12 tháng. Lãi suất đã tăng gần như liên tục từ ngày 8/3, trong đó tăng
mạnh trong hơn một tuần giao dịch cuối tháng – khá trùng hợp với diễn biến
tăng của lãi suất huy động.
Kết thúc tháng 3, lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn ngắn từ qua đêm, 1 tuần đến 1
tháng đã tăng lần lượt là 1,48; 0,47 và 0,57 điểm phần trăm; lãi suất kỳ hạn 6
tháng tăng 0,39 điểm phần trăm và lãi suất kỳ hạn 3 tháng giảm nhẹ là 0,04
điểm phần trăm so với đầu năm.
28
Diễn biến lãi suất liên ngân hàng trong 3 tháng đầu
năm 2017
Diễn biến doanh số giao dịch liên ngân hàng trong 3
tháng đầu năm 2017
Nguồn: NHNN
29 Tháng 1 tỷ giá bán NHTM giảm 0,68%. 30 Tháng 3 tỷ giá bán NHTM giảm 0,09%.
Tỷ giá VND/USD
diễn biến chủ
động, không
phản ánh áp lực
Trong 3 tháng đầu năm, diễn biến của tỷ giá trung tâm có những bước điều
chỉnh đảm bảo sự ổn định cần thiết và hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa
trong nước trước diễn biến của đồng USD, động thái chính sách của Mỹ và
Trung Quốc. Tỷ giá trung tâm được điều chỉnh tăng qua các tháng, mức điều
chỉnh tăng mạnh nhất là 16 đồng/ngày giao dịch và giảm thấp nhất là 10
đồng/ngày giao dịch. Mức độ biến động của tỷ giá trung tâm đã truyền dẫn tín
hiệu chủ động, đảm bảo ổn định tâm lý thị trường và có ảnh hưởng tích cực tới
năng lực cạnh tranh của hàng hóa trong nước trong bối cảnh nhập siêu gia tăng.
Kết thúc Quý I năm 2017, tỷ giá trung tâm tăng 0,53% so với cuối năm ngoái và
tăng 1,92% so với cùng kỳ năm trước, niêm yết ở mức 22.276 VND/USD.
Trong khi đó, tỷ giá niêm yết tại các NHTM có phần phản ứng trầm lắng hơn,
thậm chí là có diễn biến ngược với tỷ giá trung tâm. Trong quý I, tỷ giá giao
dịch USD của các NHTM đã giảm mạnh trong tháng 129, giảm nhẹ trong tháng
330 và tăng mạnh trong tháng 2. Nhìn chung từ đầu năm đến nay, tỷ giá giao
dịch USD của các NHTM đã tăng nhẹ khoảng 0,02% ở cả 2 chiều mua và bán.
Thực tế này đã phản ánh khá rõ trạng thái thuận lợi trong hoạt động kinh doanh
của các NHTM, đồng thời cũng phản ánh sự ổn định trong quan hệ cung – cầu
ngoại tệ trên thị trường. Kết thúc tháng 3, tỷ giá niêm yết của Vietcombank hiện
ở mức 22.720 – 22.790 VND/USD (mua vào - bán ra) và tỷ giá niêm yết của
Eximbank là 22.700 – 22.780 VND/USD (mua vào - bán ra).
Bên cạnh đó, tỷ giá giao dịch USD trên thị trường tự do đã giảm liên tục trong 3
tháng, giảm mạnh nhất vào tháng 1. Diễn biến này là sự điều chỉnh cần thiết sau
khi đã tăng quá mạnh vào tháng 12 năm ngoái. Kết thúc 3 tháng đầu năm, tỷ giá
giao dịch USD trên thị trường tự do đã giảm khoảng 1% ở cả 2 chiều mua vào
và bán ra. Xu hướng giảm mạnh trên thị trường tự do đã thu hẹp khoảng cách
chênh lệch giá bán USD trên hai thị trường, đến cuối tháng 3 tỷ giá giao dịch
trên thị trường tự do đã xấp xỉ với tỷ giá niêm yết của các NHTM.
29
Diễn biến giá vàng trong nước 3 tháng đầu năm 2017
Diễn biến giá vàng trong nước và quốc tế quy đổi
Nguồn: sjc.com.vn
31 Tháng 1 tăng 0,82%; Tháng 2 tăng 0,04%.
Diễn biến tỷ giá VND/USD trong Quý I năm 2017
Nguồn: NHNN
Giá vàng trong
nước đã có diễn
biến ngược chiều
với giá vàng thế
giới
Trái với xu hướng tăng của giá vàng thế giới, giá vàng trong nước sau 3 tháng
giao dịch đã giảm nhẹ ở mức 0,16% so với cuối năm ngoái. Trong 2 tháng đầu
năm, giá vàng đã bám sát diễn biến của giá vàng thế giới, mặc dù có tốc độ tăng
thấp hơn31. Tuy nhiên, bước sang tháng 3, giá vàng đã có diễn biến ngược với
giá vàng thế giới, đặc biệt vào nửa cuối tháng, giảm 0,97%. Diễn biến ngược so
với xu hướng của giá vàng thế giới trong tháng 3 cũng bị tác động mạnh bởi
nhu cầu ở trạng thái trầm lắng, ảm đảm của thị trường giao dịch trong nước.
Tính đến cuối quý I, nếu so với mức giá cao nhất đã từng đạt được trong quý là
38 triệu đồng/lượng thì giá vàng trong nước đã giảm gần 1,5 triệu đồng, giá
vàng trong nước giao dịch ở mức 36,34 – 36,56 triệu đồng/lượng (mua vào –
bán ra), chênh lệch giá vàng trong nước và giá vàng thế giới hiện tại là 2,167
triệu đồng/lượng.
22,000
22,200
22,400
22,600
22,800
23,000
23,200
23,400
Tỷ giá trung tâm Tỷ giá bán NHTM Tỷ giá bán tự do
30
Nguồn: UBCK
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
600
630
660
690
720
750
3/1
/20
17
9/1
/20
17
13/1
/201
7
19/1
/201
7
25/1
/201
7
7/2
/20
17
13/2
/201
7
17/2
/201
7
23/2
/201
7
1/3
/20
17
7/3
/20
17
13/3
/201
7
17/3
/201
7
23/3
/201
7
29/3
/201
7
tỷ đồng
DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HOSE Q1/2017
Giá trị giao dịch (tỷ đồng)
Chỉ số HOSE
0
200
400
600
800
1000
1200
75
80
85
90
95
3/1
/20
17
9/1
/20
17
13/1
/201
7
19/1
/201
7
25/1
/201
7
7/2
/20
17
13/2
/201
7
17/2
/201
7
23/2
/201
7
1/3
/20
17
7/3
/20
17
13/3
/201
7
17/3
/201
7
23/3
/201
7
29/3
/201
7
tỷ đồng
DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HNX Q1/2017
Giá trị giao dịch (tỷ đồng)
Chỉ số HNX
500
550
600
650
700
750
01/2
016
02/2
016
03/2
016
04/2
016
05/2
016
06/2
016
07/2
016
07/2
016
08/2
016
09/2
016
10/2
016
11/2
016
12/2
016
01/2
017
02/2
017
03/2
017
DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HOSE 2016 -
2017
Chỉ số HOSE
60
65
70
75
80
85
90
95
01/2
016
02/2
016
03/2
016
04/2
016
05/2
016
06/2
016
07/2
016
07/2
016
08/2
016
09/2
016
10/2
016
11/2
016
12/2
016
01/2
017
02/2
017
03/2
017
DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HNX 2016 - 2017
Chỉ số HNX
TTCK diễn biến
tích cực Sau 3 tháng giao dịch, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có sự bứt phá mạnh
mẽ, xu hướng tăng diễn ra liên tục và qua từng tháng cả hai chỉ số VN-Index và
HNX-Index đạt những mức đỉnh mới. Chỉ số VN-Index chốt phiên giao dịch
cuối cùng của tháng 3 đạt 722,31 điểm - tăng 57,44 điểm tương đương 8,64%
so với cuối năm 2016. Tương tự, chỉ số HNX-Index tăng mạnh 10,7 điểm tương
đương 13,35% và kết thúc phiên giao dịch ngày 31/3 ở mức 90,82 điểm.
Thị trường đã có diễn biến tích cực ngay từ đầu năm –trái ngược với xu hướng
giảm của đầu năm 2016. Theo đó, trong tháng 1 chỉ số VN-Index tăng 4,87% và
HNX-Index tăng 5,42%. Bước sang tháng 2, đà tăng trưởng được giữ vững khi
VN-Index vượt qua mốc 700 điểm và duy trì trên ngưỡng này trong suốt tháng.
Thị trường tiếp tục diễn biến tích cực trong tháng 3 mặc dù chịu tác động bất lợi
từ việc cơ cấu danh mục của các quỹ ETF và quyết định tăng lãi suất của FED.
Chỉ số VN-Index đạt mức đỉnh 9 năm vào ngày 30/3 với 723,86 điểm, tăng
8,87% so với cuối năm trước. Chỉ số HNX-Index đạt đỉnh vào ngày 27/3 với
91,38 điểm, tăng 11,26 điểm tương đương 14,05%. Với đà tăng mạnh mẽ trên,
Việt Nam tiếp tục đứng trong nhóm những thị trường chứng khoán có mức tăng
trưởng cao trong khu vực.
31
Nguồn: Bloomberg
Nguồn: UBCK
0
1000
2000
3000
4000
5000
Jan
-16
Feb
-16
Mar
-16
Ap
r-16
May
-16
Jun-1
6
Jul-
16
Au
g-1
6
Sep
-16
Oct
-16
No
v-1
6
Dec
-16
Jan
-17
Feb
-17
Mar
-17
triệu cp
KHỐI LƯỢNG GIAO DỊCH
2016 - 2017
HOSE HNX
0
20
40
60
80
100
Jan
-16
Feb
-16
Mar
-16
Ap
r-16
May
-16
Jun-1
6
Jul-
16
Au
g-1
6
Sep
-16
Oct
-16
No
v-1
6
Dec
-16
Jan
-17
Feb
-17
Mar
-17
nghìn tỷ đồng
GIÁ TRỊ GIAO DỊCH
2016 - 2017
HOSE HNX
Thanh khoản thị trường liên tục được cải thiện qua từng tháng và duy trì ở mức
cao. Tổng khối lượng giao dịch quý 1 đạt 11.942,27 triệu cổ phiếu với tổng giá
trị giao dịch hơn 214 nghìn tỷ đồng - tăng 12,65% về khối lượng và 38,96% về
giá trị so với cùng kỳ năm trước. Nếu như trong tháng 1 dòng tiền chỉ tập trung
vào nhóm cổ phiếu cơ bản và Blue-chips thì sang tháng 2 và tháng 3 nhóm cổ
phiếu nhỏ và vừa thu hút rất mạnh dòng vốn đầu cơ khiến thanh khoản của thị
trường tăng vọt. Các nhóm cổ phiếu luân phiên làm động lực dẫn dắt thị trường
nhưng đóng góp lớn nhất vào mức tăng trưởng vẫn là nhóm Blue-chips và cổ
phiếu thuộc các ngành: Tiêu dùng (VNM, MSN), Ngân hàng (VCB, BID), Xây
dựng & Bất động sản (VIC, NVL, ROS, HBC).
Hoạt động của khối ngoại có đóng góp đáng kể vào diễn biến khởi sắc của thị
trường trong quý 1. Cụ thể, khối ngoại đã mua ròng trong cả ba tháng với tổng
giá trị đạt 3.472 tỷ đồng (cùng kỳ 2016 bán ròng 966 tỷ đồng). Trên sàn HOSE,
khối ngoại mua ròng 3.247 tỷ đồng với tâm điểm là cổ phiếu VNM (2.654 tỷ
đồng), ROS (647,5 tỷ đồng) và một loạt các cổ phiếu mới lên sàn được mua
ròng mạnh như: NVL (353,63 tỷ đồng), SAB (340,9 tỷ đồng), VJC (205,11 tỷ
đồng). Trên sàn HNX, khối ngoại mua ròng với giá trị 224 tỷ đồng trong quý 1,
tập trung ở các mã DBC (57 tỷ đồng), PVS (51,8 tỷ đồng), VGC (40,6 tỷ đồng),
VHL (40,3 tỷ đồng).
32
Nguồn: UBCK
IV. TRIỂN VỌNG KINH TẾ VIỆT NAM 2017
32 Bị ảnh hưởng từ việc Samsung Bắc Ninh giảm sản lượng điện thoại thông minh và máy tính bảng do sự cố Galaxy Note 7
-4,000
-3,000
-2,000
-1,000
0
1,000
2,000
3,000
4,000
Q1/2016 Q2/2016 Q3/2016 Q4/2016 Q1/2017
tỷ đồng
KHỐI NGOẠI MUA BÁN RÒNG
TRÊN HOSE 2016 - 2017
Mua ròng - Bán ròng
-200
0
200
400
600
800
Q1/2016 Q2/2016 Q3/2016 Q4/2016 Q1/2017
tỷ đồng
KHỐI NGOẠI MUA BÁN RÒNG
TRÊN HNX 2016 -2017
Mua ròng - Bán ròng
Kinh tế trong nước đã khép lại Quý I với một kết quả nhìn chung là không được
khả quan – thậm chí còn đặt ra thách thức rất lớn đối với mục tiêu tăng trưởng
kinh tế cho cả năm 2017 ở mức 6,7%. Diễn biến đó có phần đang đi ngược lại
với xu hướng của thế giới và khu vực. Tăng trưởng kinh tế đã đạt mức thấp nhất
trong 3 năm gần đây, trong đó không chỉ là sự sụt giảm về mặt số liệu thống kê
của các khu vực đóng góp vào GDP mà nó còn phản ánh nhiều tín hiệu đáng
quan ngại về tính ổn định và bền vững của tăng trưởng với những vấn đề đáng
chú ý như sau:
+ Các nhóm ngành giữ vai trò là động lực chính của tăng trưởng kinh tế đang có
xu hướng xấu đi, cụ thể là khu vực công nghiệp và xây dựng đạt mức tăng
trưởng 4,17% - thấp hơn nhiều so với mức tăng 7,16% của cùng kỳ năm ngoái.
Trong đó, ngành công nghiệp chỉ tăng 3,85% so với cùng kỳ năm trước, thấp
nhất kể từ năm 2011 trở về đây và Ngành xây dựng tăng 6,1%, thấp hơn tốc độ
tăng 8,6% của cùng kỳ năm 2016.
Theo đó, chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành (IIP) trong ba tháng đầu năm
2017 tăng 4,1%, thấp hơn nhiều so với con số 6,3% của cùng kỳ năm trước và
ghi nhận mức thấp nhất trong 5 năm. Xu hướng sụt giảm diễn ra đối với cả hai
nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và ngành khai khoáng. Đáng chú ý
là sản lượng khai thác dầu thô trong quí 1/2017 chỉ đạt 3,4 triệu tấn thấp hơn
đáng kể so với quý I/ 2015, 2016 lần lượt đạt mức 4,2 và 4 triệu tấn; tăng
trưởng một số ngành chủ lực trong lĩnh vực chế biến, chế tạo có dấu hiệu chững
lại, ví dụ như ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy tính và quang học 32;
ngành da và các sản phẩm có liên quan,..…….
+ Các cấu phần đóng góp vào GDP từ phía cầu còn chậm chạp. Trong đó, tổng
mức bán lẻ hàng hóa tiêu dùng – động lực dẫn dắt chính ước tăng 9,2% so với
cùng kỳ năm trước nhưng nếu loại trừ yếu tố giá tăng 6,2% , thấp hơn mức tăng
7,5% của cùng kỳ năm 2016.
33
Tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đã loại trừ yếu tố
giá so sánh qua các tháng của quý I giai đoạn 2015 – 2017 (%)
Nguồn: TCTK
Bên cạnh đó, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đã giảm so với cùng thời điểm so sánh
của năm ngoái. Đáng quan tâm nhất là diễn biến giảm của vốn đầu tư từ khu
vực nhà nước và khu vực có vốn FDI. Trong khu vực Nhà nước, sẽ không có gì
phải bàn nhiều nếu lượng vốn đầu tư thực hiện từ NSNN giảm theo quy luật
(giải ngân thấp vào đầu năm) nhưng khi xem xét đầy đủ các cấu phần thu – chi
NSNN cho thấy những dấu hiệu đáng lo ngại, đặc biệt là cơ cấu chi tiêu không
có sự thay đổi, bội chi NSNN vẫn gia tăng. Thậm chí các cấu phần chi không
khuyến khích chưa có sự cải thiện trong khi cấu phần chi đầu tư phát triển đang
có xu hướng kém dần. Tính đến 15/3/2017, chi đầu tư phát triển mới đạt 32,6
nghìn tỉ đồng, chỉ bằng 9,1% dự toán năm 2017 và giảm mạnh 18,7% so với
con số hơn 40 nghìn tỉ của cùng kỳ năm 2016.
Cơ cấu thu chi ngân sách và bội chi ngân sách quý I giai đoạn 2015 – 2017
Nguồn: TCTK
Trong khi đó, vốn đầu tư từ khu vực FDI lại có sự sụt giảm mạnh so với tốc độ
tăng của cùng kỳ năm 2016. Nguyên nhân chủ yếu là do lượng vốn FDI thực
hiện theo quý tăng ở mức thấp, đặc biệt là diễn biến này đã hình thành trong 3
năm gần đây với mức tăng đã giảm khoảng ½ so với cùng kỳ so sánh của năm
trước.
0
2
4
6
8
10
12
14
1 tháng 2 tháng 3 tháng
2015
2016
2017
34
So sánh tăng trưởng vốn FDI thực hiện và tăng trưởng vốn đầu tư của khu vực nước
ngoài so với cùng kỳ thuộc quý I giai đoạn 2015 – 2017 (%)
Nguồn: NHNN
Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế từ khu vực FDI hiện nay đang bị tập trung vào
một số tập đoàn lớn. Bằng chứng là vốn FDI đăng ký tăng mạnh nhưng chủ yếu
đến từ những dự án đã hoạt động tại Việt Nam như Samsung, Coca Cola,….
trong khi lượng đăng ký mới – phản ánh khả năng thu hút nguồn vốn đa dạng từ
bên ngoài có dấu hiệu tăng chậm lại ở mức 6,5%, thấp hơn nhiều so với mức
tăng ấn tượng trên 100% của quí I/2016. Thực tế đó sẽ tiềm ẩn rủi ro cao, không
bền vững nếu tập đoàn đó thay đổi chiến lược kinh doanh.
Mặc dù, các kết quả kinh tế còn nhiều vấn đề đáng quan tâm nhưng trong quý I,
các diễn biến tài chính, tiền tệ khá khả quan. Theo đó, các chỉ tiêu tiền tệ tăng
phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và các giải pháp điều hành của NHNN.
Tính đến ngày 30/3/2017, tổng phương tiện thanh toán tăng 3,52%, tín dụng đối
với nền kinh tế tăng 4,03% so với đầu năm. Mặt bằng lãi suất nhìn chung không
có biến động lớn, việc điều chỉnh tăng không phổ biến và mang tính cân đối lại
nguồn vốn đảm bảo đáp ứng được các yêu cầu mới về an toàn hoạt động ngân
hàng; tỷ giá được điều hành chủ động, hỗ trợ hợp lý cho hoạt động trao đổi
thương mại và truyền dẫn tín hiệu để thị trường có những bước điều chỉnh cần
thiết phù hợp với cung cầu về ngoại tệ trong nền kinh tế. Diến biến tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán của Quý I giai đoạn
2015-2017
Nguồn: NHNN
-
2.0
4.0
6.0
8.0
10.0
12.0
14.0
16.0
Tốc độ tăng vốn FDI thực hiện so với
cùng kỳ quý I
Tốc độ tăng vốn đầu tư của khu vực
nước ngoài so với cùng kỳ quý I
Năm 2015
Năm 2016
Năm 2017
35
Bên cạnh đó, hoạt động phát hành trái phiếu Chính phủ diễn ra khá ổn định,
hoàn thành gần 87% kế hoạch quý I/2017, trong đó đáng chú ý là việc phát
hành vượt kế hoạch các trái phiếu dài hạn với mức lãi suất khá hấp dẫn. Cuối
cùng đó là sự thăng hoa của thị trường chứng khoán với các mốc đỉnh mới,
thanh khoản thị trường dồi dào và sự tham gia sôi động của khối ngoại trên cả
hai sàn. Giá trị gọi thầu và trúng thầu TPCP kỳ hạn 5 năm
Giá trị gọi thầu và trúng thầu TPCP kỳ hạn 15 năm
Nguồn: NHNN
Trên cơ sở diễn biến kinh tế vĩ mô trong quý I và trước những thách thức đặt ra
như đã phân tích ở trên, nhìn chung các dự báo đưa ra đối với tăng trưởng kinh
tế trong những tháng còn lại của năm 2017 kém lạc quan hơn so với những dự
báo đầu năm:
+ Theo Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia (NCIF), quý
II/2017, kinh tế Việt Nam tăng trưởng 5,6%, cả năm đạt 6,2%, thấp hơn mục
tiêu 6,7% được Quốc hội thông qua.
+ Theo Ủy ban giám sát tài chính quốc gia, tăng trưởng kinh tế những quý còn
lại của năm 2017 sẽ tiếp tục được cải thiện với mức tăng trưởng quý sau cao
hơn so với quý trước, tuy nhiên để đạt mục tiêu tăng trưởng 6,7% là một nhiệm
vụ hết sức khó khăn.
+ Các tổ chức quốc tế cũng có chung nhận định về sự cải thiện tăng trưởng kinh
tế Việt Nam trong năm 2017 tuy nhiên mức tăng trưởng được dự báo nhìn
chung thấp hơn mục tiêu mà Quốc hội đề ra: WB trong báo cáo mới nhất cập
nhật về tình hình tăng trưởng kinh tế khu vực châu Á Thái Bình Dương đã lần
thứ 3 liên tiếp hạ mức tăng trưởng 2017 của Việt Nam chỉ ước đạt khoảng
6,3%; IMF trong báo cáo triển vọng kinh tế vĩ mô mới nhất cập nhật 01/2017
cũng dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2017 chỉ đạt khoảng 6,2%;
ADB dự báo tăng trưởng Việt Nam năm 2017 chỉ đạt khoảng 6,3% do còn tồn
tại nhiều áp lực thách thức.