ĐẠi ĐỒng -...

260
TÔN - GIÁO ĐẠI - ĐỒNG RAMAKRISHNA VIVEKANANDA THEO ROMAIN ROLLAND NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

Upload: others

Post on 30-Aug-2019

16 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

TÔN - GIÁO

ĐẠI - ĐỒNG

RAMAKRISHNA

VIVEKANANDA

THEO

ROMAIN ROLLAND

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

GIÁO - LÝ ĐẠI -ĐÔNG

CỦA

VIVEKANANDA

SƯ-PHỤ

RAMAKRISHNA

TRONG THẾ-GIỚI HIỆN-ĐẠI

*

Tác-Giả : ROMAIN ROLLAND

Dịch-Giả : NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

NGUYỆN-ĐĂNG-THỤC

" Ta là sợi chỉ xuyên qua tất cả

những ý-tưởng khác nhau,

mỗi ý-tưởng là một hạt ngọc ".

_ Chúa Krishna nói .

( Vivekananda dẫn trong diễn-văn nhan-

đề " Ảo-hóa và Sự Tiến-hóa của Ý-tưởng

Thượng-Đế " . )

NGUYỆN-ĐĂNG-THỤC

1

PHẦN THỨ NHẤT

*

TUỒNG ẢO-HÓA VÀ

HÀNH-TRÌNH VỀ TỰ-DO

Tôi không có ý-định bàn-luận ở đây toàn-

bộ về tư-tưởng của hai vĩ-nhân Ấn mà tôi vừa

kể tiểu-sử. Chất-liệu tư-tưởng của Vivekananda

cũng như của Ramakrishna không phải là sự

chinh-phục cá-nhân riêng. Nó thuộc về cái vốn

chung của Ấn-độ-giáo. Ramakrishna có tính

chất-phác và khiêm-tốn, không từng đòi cái

danh-dự sáng-lập ra một học-phái siêu-hình.

Và Vivekananda, cao-đệ của ông, trí-thức và ý-

thức hơn về học-thuyết của mình, thường biết

và nói, nó không phải mới mẻ. Hơn nữa, có lẽ,

ông đòi là bậc tiền-nhân tinh-thần trứ-danh của

mình. Ông tuyên-bố :

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

2

_ " Tôi là Çankara ! ( Tầu dịch là

Thương-Yết-La , một nhà Bất-

nhị-luận ( Advaïtiste ) trứ-danh thế-kỷ

VIII ở Ấn-Độ ) .

Cả hai ( Ramakrishna và Vivekananda )

có lẽ đã mỉm cười về cái ảo-tưởng chung này,

của thời-đại chúng ta là một người có thể tự-tin

sáng-tạo hay là sở-hữu một hình-thức tư-tưởng.

Chúng ta đều biết chắc rằng tất cả tư-tưởng của

loài người lưu-hành trong một cái vòng hữu-

hạn và chúng lần lượt hiện ra lại biến đi, nhưng

vẫn luôn luôn còn đấy. Và những tư-tưởng đối

với chúng ta có hiệu-quả như là những tư-

tưởng mới nhất, thì thường lại là xưa nhất : sở

dĩ như thế là vì đã lâu quá thiên-hạ không được

thấy ...

Vậy, bàn về con Hạc-Trời (Paramahamsa)

và người cao-đệ của Ngài, tôi sẽ không thảo-

luận về Ấn-độ-giáo. Nhiệm-vụ ấy sẽ hão-huyền

và ngoại khổ, quá lớn lao. Hơn nữa, nếu tôi

muốn đi vào căn-bản vấn-đề, thì không có thể

NGUYỆN-ĐĂNG-THỤC

3

giới-hạn vào một mình Ấn-độ-giáo. Bản-chất

của những thực-nghiệm và quan-niệm tâm-linh

thần-bí của các Ngài, cũng như một phần kiến-

trúc siêu-hình mà những thực-nghiệm ấy là

nền-tảng và chìa khóa cửa tò-vò thì chẳng phải

đặc-biệt của Ấn-Độ như Ấn-Độ đã có khuynh-

hướng tin-tưởng. Chúng là của chung với các

đại hệ-thống siêu-hình tôn-giáo Tây-phương,

thuộc Hy-Lạp hay Cơ-Đốc. Vô-cực Thần-linh,

Thượng-Đế Tuyệt-đối, nội-tại siêu-nhiên, tuôn

ra trong dòng liên-tục của Natura Rerum

( nhan-đề tác-phẩm của Epicure về triết-lý

thiên-nhiên thần-bí ) và kết-tinh trong mảnh

vụn nhỏ nhất của nó _ Thiên-khải Thần-linh,

phổ-biến trong vũ-trụ và ghi dấu tại trung-tâm

linh-hồn _ các Đạo lớn về hợp-nhất với Năng-

lực vô-hạn và đặc-biệt con đường Phủ-định

toàn-diện, _ sự Thần-hóa của người giác-ngộ,

tự đồng-nhất-hóa với cái Nhất _ tất cả đã được

Plotin D'Alexandrie và các nhà sư-phụ đầu tiên

về tâm-linh-học Cơ-Đốc, phô-diễn mạnh mẽ,

có thứ-tự và mỹ-thuật chẳng kém gì những

kiến-trúc vĩ-đại của Ấn-Độ. Và các nhà tâm-

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

4

linh-học Ấn-Độ, trái lại, có lẽ còn có lợi lớn để

nghiên-cứu .

Nhưng ai cũng biết rằng tôi không có thể

trong giới-hạn của tác-phẩm như thế này, trình-

bày, dù một cách đại-quan, các biến-chuyển

trong lịch-sử của quan-niệm về Vô-cực Thần-

linh và cái khoa-học lớn về sự hợp-nhất với

Tuyệt-đối. Đấy phải là một lịch-sử thế-giới.

Bởi vì những ý-tưởng như thế nhập-thể vào

nhân-loại, chúng thuộc về quá-khứ, hiện-tại và

tương-lại. Tính-chất của chúng thì đại-đồng và

vĩnh-cửu .

Và nếu giá-trị của chúng còn tranh-luận _

vấn-đề nghi vấn như giá-trị của tất cả những ý-

tưởng, không trừ một ý-tưởng nào _ nếu vấn-đề

ấy quan-hệ mật-thiết với vấn-đề khoa-học lớn

của " Nội điển " _ tôi không thể nêu cuộc thảo-

luận ở đây : vấn-đề ấy đòi cả một tập sách

riêng .

NGUYỆN-ĐĂNG-THỤC

5

Ở đây tôi chỉ để tâm toát-yếu tư-tưởng

triết-lý Vệ-Đà ( Vedanta ) như đã được phát-

biểu, ngày nay, qua miệng Vivekananda .

Tất cả đại học-thuyết, trải qua các vận-hội

tuần-hoàn của nó, nó phản-ánh thời-đại nó tái-

hiện ; và nó ghi nhận dấu vết của tâm-hồn cá-

nhân mà nó đã truyền vào. Chính qua đấy, nó

ảnh-hưởng vào nhân-dân một thời. Tất cả ý-

tưởng coi như ý-tưởng thuần-túy thì còn ở

trạng-thái nguyên-tử, ví như điện-lực tràn lan

trong không-trung nếu nó không thấy được một

bộ máy tích điện mạnh của một nhân-cách. Nó

phải tự thể-hiện cũng giống như chư-vị Thần-

linh. " Và Lời nhập vào xác thịt " ( Et carofacta

est ) .

Chính cái xác thịt hữu-tử của cái ý-tưởng

bất-tử nó đem lại bộ mặt một ngày hay một

thế-kỷ của nó, và khiến nó thông-cảm với

chúng ta .

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

6

Tôi muốn thử chứng-minh bộ mặt tư-

tưởng của Vivekananda bà con với bộ mặt tư-

tưởng của chúng ta là nhường nào, thân-mật

với những nhu-cầu của chúng ta, với những nỗi

lòng của chúng ta, với những khát-vọng và

hoài-nghi của chúng ta, như con chuột chũi,

đào chui theo bản-năng, tìm con đường đi ra

ánh-sáng. Người ta sẽ hiểu rằng tôi mong mỏi

chia sẻ với những ai ở Tây-phương giống với

tôi _ ( họ không ít, những ai theo tôi từ Thời

Niên-thiếu của Jean Christophe ! ) _ cái sức

hấp-dẫn mà tôi đã cảm thấy đối với người anh

cả, con đẻ sông Hằng ( Gange ), người đã thục-

hiện được thế quân-bình tối-cao của con người

cận-đại giữa những năng-lực tư-tưởng của

mình, và là một trong những người đầu tiên đã

ký hòa-giải hai thế-lực mà chúng ta là bãi

chiến-trường : Lý-trí và Tín-ngưỡng .

***

Nếu có một ý-niệm nào thật cốt-yếu đối

với tôi, _ ( và cái tôi xen vào đây chỉ như là

NGUYỆN-ĐĂNG-THỤC

7

đại-diện cho hàng ngàn người Ấu ) _ ấy là cái

ý-niệm về Tự-do. Thiếu nó, không còn gì đáng

giá... " Das Wesen des Geites ist die Freiheit..."

( Bản-thể của tinh-thần là tự-do. ) _ ( Hegel ).

" Không gì quý hơn độc-lập _ tự-do "

_ ( Hồ-Chí-Minh, 1975 )

Những ai hiểu được giá-trị độc-nhất của

nó hơn cả là những người đã hiểu hơn hết sự

đau khổ của xiềng-xích. Hoặc vì trường-hợp

áp-bức đặc-biệt, hoặc vì chính bản-tính họ mà

xiêng-xích trói buộc làm chảy máu. Tôi chưa

được bẩy tuổi, thình-lình vũ-trụ hiện ra trước

mắt tôi như là một cái cạm-bẫy vĩ-đại mà chính

tôi đã bị mắc vào đấy. Từ đấy tất cả cố-gắng,

nỗ-lực của tôi là để thoát ra khỏi vòng xích _

cho tới ngày thanh-niên, do sức vươn lên

chậm-chạp và bền-bỉ, thình-lình một vòng xích

mở ra, và tôi thoát ra tự-do .

Những thực-hiện nội-tâm ấy đã để lại dấu

vết của chúng vào toàn-thể cuộc đời tôi khiến

cho tôi đặc-biệt gần-gũi với tâm-hồn Ấn-Độ,

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

8

mà mãi sau này tôi mới biết. Cái tâm-hồn Ấn-

Độ ấy trải hàng ngàn năm cảm thấy bị bao vây

trong một mạng lưới khổng-lồ, và kể từ hàng

ngàn năm nó đã tìm thấy những phương-tiện để

luồn qua mắt lưới. Sự vượt ngục thường-xuyên

khỏi cái cạm luôn luôn giăng bẫy ấy đã truyền

vào cho tất cả thiên-tài Ấn-Độ, thần-linh nhập-

thể, thánh-hiền, triết-gia hay là thi-sĩ, một lòng

ham mê tự-do, thanh-tân và nhiệt-thành không

bao giờ chán mỏi _ ( vì nó luôn luôn bị đe dọa )

_ mà tôi thấy ít có mô-thức nào cảm-kích bằng

con người Vivekananda .

Con chim đà-điểu, cũng như Pascal của

chúng ta, bay từ cực này sang cực kia, khắp cả

vòm trời tư-tưởng, vỗ cánh từng hồi : từ vực

thẳm nô-lệ sang hố sâu tự-do. Có lúc thì người

ta nghe tiếng kêu bi-kịch, khi nào người ta gợi

ra cho ông cái chuỗi giây tái-sinh :

_ " Những kỷ-niệm của một đời

khác nào hàng ngàn năm tù-ngục ! Vậy

mà người ta còn muốn gọi dậy kỷ-niệm

NGUYỆN-ĐĂNG-THỤC

9

hàng ngàn đời ! Mỗi ngày, đủ khó-nhọc

của nó ... " _ ( 1899 _ trong cuộc du-lịch

lần thứ hai sang Tây-Âu ) .

Có lúc ông ca-tụng sự vẻ-vang của đời

sống :

_ " Đừng nên quên vinh-quang của

tình nhân-loại ! Chúng ta là Thượng-Đế

lớn nhất từng đã có và sẽ có mãi. Những

đấng Cơ-Đốc và những đức Phật chỉ là

các ngọn sóng trên mặt đại-dương vô-

hạn, là Tôi Tồn-tại ." _ ( 1896 _ trong

những vấn-đáp ở vườn Ngàn Đảo bên

Mỹ-quốc ) .

Không mâu-thuẫn chút nào, vì đối với

ông cả hai tâm-trạng con người đi đôi cùng có :

_ " Trong Tự-do vũ-trụ yên-nghỉ "

_ ( 1896 _ trong bài diễn-thuyết về Maya

ở Londres ) .

Và tuy thế, ở mỗi vận-động của ông, mỗi

thực-thể làm cho những giây nô-lệ vào sâu hơn

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

10

trong da thịt của ông. Hai tính-tình pha-trộn

âm-điệu bất-hòa du-dương ấy, theo kiểu

Heraclite, thì đối-lập với khúc đồng-âm bình-

lặng và tối-thượng của đức Phật Bouddha.

Phật-giáo dạy người đời :

_ " Hãy thực-hiện tất cả cái này là

ảo-huyễn."

Và Vedanta Bất-nhị-pháp dạu :

_ " Hãy thực-hiện trong ảo-huyễn là

thực-tại ." _ ( nói chuyện giữa

Vivekananda ở Londres với đệ-tử

Nivedita vào năm 1900 ).

Không có gì của thế-giới bị phủ-nhận ; và

Maya = Ảo-huyễn có thực-tại của nó. Chúng ta

bị trói buộc trong cái mạng lưới hiện-tượng. Có

khôn-ngoan, kiêu-hãnh hơn và căn-bản hơn,

như Phật-giáo cắt đứt bằng phủ-định toàn-thể

mà nói :

_ " Chúng không có thực ."

NGUYỆN-ĐĂNG-THỤC

11

Nhưng nhân-loại hơn và giầu lửa lạc-thú

thương-tâm của những cắt xé bi thảm, mà

người ta muốn được biết với bất cứ giá nào để

rồi nói :

_ " Chúng có thật. chúng có thật là

cái mồi giả ."

Và để rồi tự dứt khỏi nhìn vào tâm gương dạy

sáo kia mà khám phá rằng đấy là trò đùa ánh

nắng mặt-trời. Trò chơi của mặt-trời Brahman

là Maya = Ảo-hóa, nàng đi săn với cái lưới của

mình là Thiên-nhiên, Tạo-hóa .

_ " Hãy biết rằng Tạo-hóa là Maya

= Ảo-hóa, và người cai-quản Ảo-hóa ấy

là chính Chúa Tối-cao ." _ ( Çvetaçvatara

Upanisad ) .

Trước khi đi xa hơn, hãy đánh tan cái sự

hàm hồ nó làm sai lạc ý-nghĩa Maya Ảo-Hóa

đối với độc-giả Tây-phương, cả độc-giả có học

nhất, ý-nghĩa đúng như nó đã được nhà trí-thức

Vedanta vĩ-đại ngày nay quan-niệm ; và đồng

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

12

thời sự sai lạc ấy dựng lên giữa ông ta với

chúng ta một bức tường ngăn cách giả-tạo.

Chúng ta lầm gán cho Maya Ảo-hóa ý-nghĩa

toàn-thể Ảo-huyễn, thuần-túy hư-ảo, khói mù

không lửa : do đấy chúng ta giữ ý-kiến miệt-thị

người Đông-phương, cho họ là bất-lực để tóm

bắt thực-tại sinh-tồn như chúng ta, họ chỉ nhìn

thấy ở đấy chất-liệu của một giấc mộng. Và

trong trạng-thái nửa thức, nửa ngủ, im-lìm,

nằm dài, đăm đăm nhìn lên trời xanh thăm-

thẳm, họ để cho cái mộng đời trôi nổi lênh-

đênh, như trong trời thu phất-phới sợi tơ nhện

phiêu-lưu .

Nhưng, tôi tưởng trung-thực với chân tư-

tưởng Bất-nhị-pháp - Vedanta vĩ-đại cận-đại

như nó đã thể-hiện qua Vivekananda, để chứng

minh trái lại rằng quan-niệm về Tạo-hóa Thiên-

nhiên không khác xa mấy với cái quan-niệm

của khoa-học chúng ta hiện nay, Vivekananda

có dành riêng nghiên-cứu về Maya một số bốn

bài diễn-văn đọc ở Londres năm 1896 :

NGUYỆN-ĐĂNG-THỤC

13

1/ Maya và Ảo-hóa

2/ Maya và sự tiến-hóa trong quan-niệm

Thượng-Đế

3/ Maya và Tự-do

4/ Tuyệt-đối và sự Biểu-hiện. ( Tức thế-

giới hiện-tượng ) .

_ Thường ông hay nhắc lại vấn-đề trong

những cuộc nói chuyện vấn-đáp và những tác-

phẩm triết-học và tôn-giáo khác của ông . _

Tinh-thần Bất-nhị-pháp Vedanta chân-

chính không bắt đầu từ một hệ-thống những tư-

tưởng. Nó tự-do tuyệt-đối và mạnh-bạo, không

một tôn-giáo nào bì kịp đối với những thực-

hiện quan-sát và những giả-thuyết đề-nghị để

hệ-thống-hóa chúng. Đã không có đoàn-thể

tăng-sĩ để ràng buộc, nó để cho mỗi người

hoàn-toàn tự-do cầu tìm bất cứ ở đâu tùy ý lấy

giải-thích tâm-linh cho cảnh-tượng vũ-trụ.

Cũng như Vivekananda nhắc nhở, đã có một

thời người ta có thể thấy bên cạnh nhau các nhà

tín-ngưỡng, các người vô-thần, các người duy-

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

14

vật cực-đoan đều truyền-bá học-thuyết của

mình trong cùng những nhà-thờ như nhau ; và

tôi sẽ chứng tỏ sau đây Vivekananda công-

nhiên tán-dương các nhà duy-vật lớn của khoa-

học Tây-phương. Ông nói : _ " Tự-do là điều-

kiện duy-nhất cho tiến-bộ tinh-thần. " _

Âu-Châu sớm biết thực-hiện tự-do hay là

tranh-thủ tự-do rất có nghị-lực hơn Ấn-Độ

nhiều trong phạm-vi chính-trị, nhưng đã thất

bại lớn ( và còn tưởng-tượng nữa ) trên bình-

diện tâm-linh. Sự không thông-cảm với nhau

và không dung lẫn nhau của các nhà mệnh-

danh là " tự-do tư-tưởng " và của các giáo-hội

tôn-giáo không còn là vấn-đề làm chúng ta

ngạc-nhiên : tâm-trạng bình thường của người

Âu trung-bình có thể thu vào một câu :

_ " Chân-lý, ấy là tôi ! "

Bất-nhị-pháp-luận Vedanta vĩ-đại gần

như thu nhận lới nói của Whitman : " Tất cả là

Chân-lý. " Nó không từ bỏ một chút nào trong

các khái-luận giải-thích đưa ra ; nó tìm trong

NGUYỆN-ĐĂNG-THỤC

15

tất cả để lọc ra cái hạt thực-tại bền lâu : Do đấy

nó có thái-độ tự-do đối với các khoa-học cận-

đại mà nó cho là những biểu-hiện thuần-túy

nhất của ý-thức tín-ngưỡng chân thật _ nghĩa là

sự nỗ-lực tham-thấu và thành-thực, để tóm bắt

bản-thể của Chân-lý .

Quan-niệm Maya ( Ảo-hóa ) tham-gia

vào cái tâm-trạng ấy. Vivekananda nói : _ " Nó

không phải một lý-thuyết để giải-thích vũ-trụ.

Nó là một trình-bày thuần-túy và đơn thuần

những thực-kiện," bất cứ ai quan-sát. " Nó là

cái gì chúng ta là, cái gì chúng ta nhìn thấy, "

và thực-nghiệm. Chúng ta đứng trong thế-giới

mà chúng ta chỉ có thể đạt tới bằng những

phương-tiện ( và không bảo-đảm về giá-trị,

đáng hoài-nghi ) của tinh-thần và giác-quan của

chúng ta. Thế-giới này chỉ có trong liên-hệ với

chúng. Nếu chúng biến-đổi, thế-giới sẽ biến-

đổi theo. Vậy, sự thật tồn-tại chúng ta gán cho

nó thì không có thực-tại bất-di bất-dịch, bất

biến, tuyệt-đối. Sự tồn-tại ấy xuất-phát tự một

mớ pha-trộn bất-định của thực-tại và ảo-ảnh,

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

16

của sác-thực và hư-huyễn. Không có cái này

mà thiếu cái kia. Và sự mâu-thuẫn ấy _ không

có gì là lý-thuyết cả ! vì nó nắm cổ họng

chúng ta bất cứ lúc nào trong cuộc đời dục-

vọng và hành-động _ sự mâu-thuẫn ấy đã được

tất cả tinh-thần sáng suốt của thế-giới, tự cổ chí

kim, trải qua các thời-đại, đã tri-giác thấy. Đấy

chính là điều-kiện của tri-thức chúng ta, nó

luôn luôn vươn lên những vấn-đề không đáy

mà chìa khóa đối với nó cũng thiết-yếu như

tình-yêu và cơm bữa, thì tự bản-tính nó không

có thể vượt ngoài vòng không-khí bắt buộc của

phổi nó được. Và sự mâu-thuẫn thường xuyên

giữa khát-vọng của chúng ta với cái bức tường

nó ngăn chặn chúng lại, giữa hai bình-diện của

thực-tại mâu-thuẫn không cùng chung một

kích-thước, giữa sự thực phũ-phàng và có thực

của sự chết và ý-nghĩa không kém phần thực-

tại trước mắt không sao chối cãi của sự sống,

giữa mệnh-lệnh tuyệt-đối của một số định-luật

trí-thức và đạo-đức với giòng trôi chảy lên

xuống không ngừng của tất cả những quan-

niệm tinh-thần và con tim. _ Những biến-đổi

NGUYỆN-ĐĂNG-THỤC

17

liên-tiếp về điều thiện, điều ác, về lẽ phải và

trái, bên này bên kia, giới-tuyến không-gian

hay thời-gian _ tất cả cái nút rắn quấn khúc,

trong ấy nạn-nhân Laocoon của tư-tưởng nhân-

loại ngay từ ngày đầu đã thấy bị xiết, và ngay

từ ngày đầu, nó không ngừng cởi gỡ một đầu

để lại cảm thấy xiết chặt hơn ở một đầu _ tất cả

cái ấy chính là thế-giới thực-tại. Và thế-giới

thực-tại là Ảo-hóa ( Maya ) ..

Vậy có chữ nào có thể giới-thuyết được ?

Chỉ có một chữ, và chính là chữ mà khoa-học

ngày nay mới đem vào thời thượng : chữ

Tương-đối ( Relativité ). Vào thời-đại Vive-

kananda, nó vừa mới ló lên chân-trời ; ánh-

sáng của nó còn chưa viên-mãn để tràn-ngập cả

bầu trời đêm tối của tư-tưởng khoa-học ; và

Vivekananda chỉ mới dùng lướt qua trong bài

diễn-văn thứ IV về Maya. Nhưng rõ ràng đấy là

nghĩa chính-xác quan-niệm của ông ; và đoạn

văn trích-dẫn sau đây cho ta hết nghi-ngờ :

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

18

" Điều thiện và điều ác không phải

hai mặt của sinh-tồn cách biệt. Điều thiện

một ngày có thể là điều ác ngài mai. Lửa

có thể lần lượt hay là đồng thời nuỗi

dưỡng và đốt cháy. Người ta không có thể

đình-chỉ tội ác mà không đình-chỉ việc

thiện. Người ta không có thể đình-chỉ cái

chết mà không chấm dứt sự sống... Mỗi

một trong hai thành-phần đối-lập là một

biểu-hiện khác nhau của cùng một thực-

tại... Giáo-lý Vedanta = Bất-nhị-pháp dạy

ta rằng chúng ta đi đến một lúc mà nhìn

lại đàng sau, chúng ta cười thầm về

những lý-tưởng chúng ta đã bám chặt lấy

tuyệt-vọng, trong lo sợ mất cái cá-tính

của chúng ta ."

_ ( Diễn-văn về Maya và Huyễn-ảo )

Chỉ có danh-từ biểu-thị là sai khác. Bất-

nhị-pháp, Vedanta ( nghĩa là nhất-nguyên vô-

ngã tuyệt-đối ) mà ông là đại-biểu lớn nhất cận-

đại, tuyên-bố rằng Mâyâ không có thể giới-

thuyết bằng không sinh-tồn, cũng chẳng phải

NGUYỆN-ĐĂNG-THỤC

19

bằng sinh-tồn. Vậy nó là trạng-thái giữa Có,

Hữu, và Không, Phi-Hữu, Vi và Vô-Vi, cả hai

tuyệt-đối. Bởi thế nó là Tương-Đối _ Nó chẳng

phải sinh-tồn, vì như Bất-nhị-pháp Vedanta Ấn

nói, nó là trò chơi của Tuyệt-Đối. Nó chẳng

phải Vô-Vi, Phi-sinh-tồn, bởi vì cái trò hý-lộng

có thật, chúng ta không thể phủ-nhận. _ Và đối

với loại người phổ-thông ở Âu-Tây chúng ta,

tự mãn với trò chơi, miễn là trong ấy họ được,

thì nó là toàn-thể sinh-tồn vừa đủ : cái Bánh xe

khổng-lồ nó quay, giới-hạn chân trời của

chúng. Nhưng đối với những tâm-hồn mãnh-

liệt thì chỉ có sinh-tồn xứng đáng với danh-từ

ấy là Tuyệt-đối. Họ phải bắt được nó và thoát

khỏi Bánh xe. Đấy là tiếng kêu của nhân-loại

trải quan hàng thế-kỷ, nó thấy những ngày sống

là cát bụi lọt qua ngón tay và tất cả cái gì mà

nhân-loại đã xây-dựng, tình-yêu, hoài-bão, sự-

nghiệp, và chính cả cuộc đời .

"... Những bánh xe thế-giới là một

bộ máy ghê-gớm ; nếu chúng ta đặt tay

vào, chúng ta liền bị thu hút và đi đời.

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

20

Chúng ta, thẩy đều bị cuốn theo cái guồng

máy toàn-năng và phức-tạp của vũ-trụ . "

_ ( Karmayoga ch. VIII )

Làm thế nào và ở đâu tìm thấy con đường

tự-do ?

***

*

Bởi vì đối với một người như Viveka-

nanda hay là bất cứ ai bẩm-thụ tinh-thần anh-

dũng, thì không có vấn-đề ném khí-giới trước,

giơ tay lên hàng, nhẫn-nhục một cách tuyệt-

vọng, hay là tệ hơn ! giống như bọn bất-khả tri-

luận, bịt mắt lại để nhắc đi nhắc lại khẩu-hiệu

" Ta biết được gì ? " mà bắt lấy những lạc-thú

vụn vặt đi qua mơn trớn da thịt , như những dòi

bọ trôi theo giòng nước ! ... Tiếng kêu của tâm-

hồn, cái bụng đói lớn kia, ai sẽ làm cho nguôi ?

Chẳng phải những mảnh thịt vụn có thể bịt đầy

được miệng há hốc của nó. Và tất cả những

bông hoa hưởng lạc của Epicure không ngăn

NGUYỆN-ĐĂNG-THỤC

21

nổi những khát-vọng chồm lên như những con

ngựa của Orcanga vẽ trên nghĩa-địa Campo

Santo ( nghĩa-địa danh-tướng của Pise thế-kỷ

XIII ) đang hít hơi xác chết hôi thối. Con người

kia phải ra khỏi nghĩa-trang, khỏi vòng các hố

chôn, bãi thiêu xác chết. Tự giải-thoát hay là

chết nếu cần để được tự-to !

_ " Thà chết trên chiến-trường còn

hơn là sống một đời thất-bại ! "

Cái tiếng nói lớn ấy của Ấn-Độ xưa mà

Vivekananda gán cho đức Phật, mới nhắc lại

cho nghe thì theo ông, nó là châm-ngôn, khẩu-

hiệu ghi trên cửa quan của tất cả các tôn-giáo,

điểm khởi đầu cuộc hành-trình muôn thủa.

Nhưng nó cũng là khẩu-hiệu và châm-ngôn của

tất cả tinh-thần khoa-học lớn : _ " Tôi muốn

vạch cho tôi một con đường đi đến Chân-lý, tôi

hiến cả cuộc đời để chinh-phục;" _ ( Diễn-văn

về Maya và Tự-do ) .

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

22

Đối với cả hai đàng, khoa-học và tôn-

giáo, động-cơ đầu tiên giống nhau. Mục-đích

mong muốn cũng giống nhau : Tự-do. Bởi vì

nhà bác-học tin vào những định-luật thiên-

nhiên và cầu tìm khám-phá ra chúng, chẳng

phải là để làm chủ chúng và bắt chúng phụng-

sự tinh-thần, mà sự hiểu-biết về chúng đã giải-

phóng. Và các tôn-giáo của tất cả thời-đại đã

tìm gì ? Cái tự-do tối cao ấy, mà mỗi cá-nhân

đã bị từ-chối, các tôn-giáo đã đối-tượng-hóa

thành một Thượng-Đế, một Thực-thể tối cao,

rộng lớn hơn, quyền-năng hơn, không bị liên-

hệ chút nào _ ( bất cứ hình-thức nào hay là vô-

hình, tưởng-tượng ) _ và các tôn-giáo đã chinh-

phục tự-do qua trung-gian của người chinh-

phục : Thượng-Đế, Chư-vị Thần-linh, Tuyệt-

đối hay là ngẫu-tượng ; chúng là đại-lý do

nhân-loại chế-định để thực-hiện tại chỗ và địa-

vị những khát-vọng vĩ-đại, mà nó không có thể

nào tìm thấy mãn-nguyện trong đời sống hay là

học hỏi để vượt qua : bởi vì chúng là cơm bánh

hàng ngày trong đời sống, lý-do chính để tốn-

tại .

NGUYỆN-ĐĂNG-THỤC

23

_ " ... Tất cả như vậy đều đi về tự-

do. Chúng ta hết thảy đều hành-trình về

tự-do ."

_ ( Diễn-văn " Maya và Tự-do " )

Và Vivekananda nhắc lại giải đáp huyền-

bí của Ảo-nghĩa-thư ( Upanisads ) cho câu hỏi

mọi người đã đặt ra :

_ " Vấn-đề là : Vũ-trụ này là gì ? Từ

đâu nó xuất-hiện ? Vào đâu nó đi đến ? _

Và lời đáp : Trong tự-do nó sinh thành.

Trong Tự-do nó tồn-tại. Trong Tự-do nó

biến đi ."

_ " Chúng ta không có thể bỏ được

cái ý-niệm Tự-do, Vivekananda nói tiếp :

Không có Tự-do ta mất hết thực-thể. " _

Và ở đấy không còn cả đến vấn-đề khoa-học

hay tôn-giáo nữa, phi lý hay hợp lý, thiện hay

ác, thù hận hay yêu thương :

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

24

_ " Tất cả chúng-sinh tạo-vật, không

trừ vật nào, đều nghe tiếng gọi về Tự-do."

Và tất cả noi theo như những trẻ con theo

người thổi sáo, Rattenfänger. Cả đến quần-

chúng thế-gian hung tợn là do tất cả phấn-đấu

lẫn nhau xem ai sẽ noi theo sát hơn thuật-sĩ và

đạt tới đích hứa hẹn. Nhưng hàng triệu nhân-

vật ấy nhắm mắt hùa theo sô đẩy như mù, và

chẳng hiểu ý-nghĩa thực của tiếng gọi. Chỉ có

ai đã đi đến hiểu biết nó, đồng thời sẽ khám

phá không những ý-nghĩa mà còn hòa-điệu của

chiến-trường, trong đó tất cả hành-tinh vận-

hành là dân-tộc huynh-đệ, trong đó tất cả người

sống thánh-hiền và phạm tội, tốt và xấu ( như

người ta mệnh danh cho chúng tùy theo chúng

tiến hành, khập-khễnh hay là thẳng-thắn,

nhưng đều đi đến cùng một đích ) tất cả sô đẩy

nhau hay đoàn kết với nhau đều đi về đối-

tượng duy-nhất là Tự-do .

Vậy không phải là mở con đường về tự-

do một Đạo mới lạ, mà là làm cho loài người

NGUYỆN-ĐĂNG-THỤC

25

đang hoang-mang biết rằng bằng ngàn đường

hơn hay kém chắc chắc, hơn hay kém thẳng

thắn, chúng hết thảy đều đi vào đấy _ và làm

sao giúp chúng ra khỏi sa-lầy chúng lặn lội, ra

khỏi bụi rậm, trong đó chúng bị xâu xé, mà chỉ

cho chúng thấy trong hàng ngàn đường lối,

những đường lối thẳng, đường La-mã, đường

cái-quan, những Đại Đạo-dẫn ( Yogas ) _ :

Hành-động ( Karmayoga : Đạo Nghiệp ) ;

Tình-yêu ( Bhaktiyoga : Đạo Sùng-bái ) ; Tri-

thức ( Jñanayoga : Đạo Giác-ngộ ) .

***

*

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

27

PHẦN THỨ HAI

*

NHỮNG ĐẠI ĐẠO

BỐN ĐƯỜNG ĐẠO-DẪN

( YOGAS )

Danh-từ " Đạo-dẫn " ( Yogas ) đã bị tổn

hại ở Tây-phương bởi tất cả những kẻ quỷ-

thuật và chuyên môn lường gạt đem sử-dụng

đê-tiện. Những phương-pháp ấy của tinh-thần

vì căn cứ vào sinh-tâm-lý-học mà thực-nghiệm

đã được theo đuổi hàng nhiều thế-kỷ, bảo đảm

cho ai đã thâu-hóa được chúng để có một tự-

chủ tâm-linh, thì chúng tất nhiên không có gì là

thần-bí truyền vào nó những phương-tiện hành-

động hiệu-năng mạnh mẽ _ ( Một tâm-hồn lành

mạnh và đầy đủ là cái cần bẩy của Archimède :

hãy tìm cho nó lấy chỗ tựa ! nó bẩy cả thế-

giới ) _ chính những phương-tiện ấy, có thực

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

28

hay giả-thiết mà chủ-nghĩa ích-dụng vụ-lợi của

hàng ngàn kẻ bị lừa bịp đã sô vào, mà chủ-

nghĩa tâm-linh thô-tục không khác chi mấy với

một bài tính bán mua : tín-ngưỡng trở nên món

tiền mặc cả để mua được những hạnh-phúc

trần-gian : tiền-của, thế-lực, sức khoẻ, vẻ đẹp,

sức cường-tráng... ( Cả đến những quảng cáo

của thầy thuốc xấu sa và pháp-thuật đáng gnờ

trên các nhật-báo... ) Không một nhà Ấn-Độ-

giáo thành-tín nào lại không ghê-tởm cái cách

khai-thác đệ-tiện ấy ; và không ai hơn là

Vivekananda để mạnh mẽ nói lên điều ấy. Đối

với con mắt của tất cả tín-đồ vô-tư, đấy là dấu-

hiệu của một tâm-hồn trụy-lạc để chuyển-

hướng thành nô-lệ-hóa thậm-tệ con đường

người ta vạch ra cho nó đi đến giải-thoát. Và

tại khúc rẽ đầu tiên, nó vội bỏ Tiếng gọi của

Linh-hồn Vĩnh-cửu để theo dấu những dục-

vọng của xác thịt, của kiêu-hãnh hay là của

quyền-năng xuất-hiện trên đường đi .

Những Đạo-dẫn ( Yogas ) chân-chính của

Bất-nhị-pháp Vedanta cao-đẳng theo như

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

29

Vivekananda trình-bày trong những luận-

thuyết của ông là một qui-phạm của tinh-thần,

cũng như các triết-gia Tây-phương đã tìm kiếm

trong " Phương-pháp-luận " _ ( Descartes )

ngõ hầu đi theo con đường thẳng đến Chân-lý.

Và con đường thẳng ấy, đúng như ở Tây-

phương là con đường thực-nghiệm và lý-trí .

_ " Không một Đạo-dẫn ( Yogas )

nào đòi các anh bỏ lý-trí và giao nó vào

tay giáo-sĩ hay một sứ-giả siêu-nhân. Mỗi

khoa Đạo-dẫn đều nói với anh phải bám

chặt lấy lý-trí của mình, phải giữ vững

lập-trường với tất cả sức-lực của mình ."

_ ( Jñanayoga : " Lý-tưởng về một tôn-

giáo đại-đồng " )

Nhưng sự khác biệt chính là trước hết đối

với triết-gia Đông-phương tinh-thần không

phải tự giới-hạn vào một mình trí-tuệ ; và sau

nữa là tư-tưởng là động-tác và chỉ có động-tác

mới bảo-đảm giá-trị của tư-tưởng. Con người

của đất Ấn-Độ ấy mà người Âu-Tây sẵn có

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

30

khuynh-hướng tưởng là một tín-đồ mù-quáng

đem vào tín-ngưỡng của nó những đòi hỏi

hoài-nghi như lối Thánh Thomas, người sứ-đồ :

nó muốn sờ thấy ; bằng chứng trừu-tượng

không đủ thỏa-mãn được nó, và nó có quyền

cho người Tây-phương tự mãn với bằng-chứng

ấy tức là hão-huyền...

" Nếu Thượng-Đế có thật thì phải có

thể tới được...Tôn-giáo chẳng phải lời

nói, hay là học-thuyết. Nó là thực-hiện.

Nó không phải là nghe và nhận. Nó là

thực-thể và trở nên. Nó bắt đầu với sự

thực-hành năng-khiếu thực-hiện tôn-

giáo... "

Có lẽ độc-giả đã để ý nhận-thức trong

các trang trên đây rằng sự cầu tìm chân-lý

đồng-hóa với cầu tìm tư-do. Hai danh-từ đồng-

nhất : _ Đối với Tây-phương thì hai thế-giới

khác biệt : sự suy-luận và hành-động, lý-trí

thuần-túy và lý-trí thực-tiễn _ ( và chúng ta đã

biết quá cái hố chăng thép gai, mà dân-tộc triết-

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

31

học nhất của Âu-châu, dân-tộc Đức, đã đào sâu

giữa hai đàng như thế nào.) _ Đối với Ấn-Độ

chúng là cùng một thế-giới như nhau : nghĩa là

_ khả-năng và ý-chí. " Ai biết là thành ". Vậy,

" khoa-học chân-chính là giải-thoát ."

Cái khoa-học chân-chính ấy phải có hiệu-

năng, nếu không thì chỉ là một trò chơi của

tinh-thần. Nó phải có khả-năng hành-động vào

tất cả loài người. Và nhân-loại căn-bản thu về

ba đại mô-thức : Hoạt-động, Cảm-súc và Suy-

tư. Khoa-học chân-chính đã đi vào ba hình-

thức : Động-tác, Yêu-thương và Tri-thức _

( Karma, Bhakti, Jñāna ) cả ba đều có chung

một cửa vào ( Propylée ) là Năng-học

( Energétique ), khoa-học về năng-lực nội-tại,

ý-thức, kiểm-soát và làm chủ những năng-lực

ấy : khoa Đạo-dẫn Đại-cương ( Rajayoga ) .

Cứ như lời các nhà Ấn-Độ do bá-tước

Keyserling phỏng-vấn và sẵn-sàng biều-đồng-

tình theo giới quí-phái của ông, thì trong ba

con đường Đạo-dẫn, con đường Động-tác

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

32

( Karmayoga ) là thấp hèn nhất. Tôi ngờ rằng

đối với cái tâm giác-ngộ của một vị như

Ramakrishna thì còn có con đường nào là " cao

quí " và con đường nào " thấp hèn ". Tất cả cái

gì đi đến Thượng-Đế là của Thượng-Đế. Và tôi

biết chắc rằng đối với một người như

Vivekananda, huynh-đệ nhiệt-thành của những

kẻ yếu-hèn và nghèo-khó, thì con đường nào

mà chân chúng đã đi qua thì đều thánh-hóa :

_ " Chỉ có những kẻ điên rồ mới bảo

là hành-động và triết-học khác nhau, chứ

không phải những nhà hiền-triết... Tất cả

các khoa Đạo-dẫn ( Yogas ) : đạo Hành-

động ; đạo Hiền-triết và đạo Nhân-ái, đều

có khả-năng dùng làm phương-tiện trực-

tiếp và độc-lập để đi đến giải-thoát

Moksha ( tự-do, cứu-độ ) ".

Và hãy xem tinh-thần độc-lập của các nhà

đại tín-ngưỡng tôn-giáo Ấn-Độ ! Nó khác xa

với lòng kiêu-hãnh giai-cấp của các nhà bác-

học và tín-ngưỡng Tây-phương của chúng ta !

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

33

Nhà quí-phái, bác-học, khải-ngộ Vivekananda

không lưỡng-lự để viết :

" Một người có thể không từng học

một hệ-thống triết-học nào, nó có thể

không tin vào một Thượng-Đế nào và

chưa từng có tín-ngưỡng, chưa từng bao

giờ cầu-nguyện lấy một lần trong đời

mình, mà nếu chỉ có năng-lực đơn thuần

của việc thiện, đã đưa đến cái trình-độ

sẵn-sàng hiến đời mình và tất cả cái gì

mình có và tất cả cái gì mình hiện-tại cho

tha-nhân, thì như vậy là nó đã đạt tới

trình-độ tối-cao mà như nhà tín-ngưỡng

tôn-giáo có thể thành-tựu bằng cầu-

nguyện và nhà triết-gia bằng tri-thức :

nghĩa là đạt tới Vô-tâm ( Nivritti ), quên

mình ... "

_ ( Karmayoga _ Vivekananda )

Như thế là không tìm ngẫu-nhiên qua

đồng điệu của những đại tâm-hồn, hiền-triết

Ấn-Độ tiếp nối với Thánh-giáo thuần-túy của

đất Galilée .

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

35

- I -

ĐẠO HÀNH - ĐỘNG

( Karmayoga )

Trong bốn Phúc-Âm của Vivekananda _

trong bốn Đạo-dẫn _ không một đạo nào mà

giọng thâm-trầm hơn và cảm-động hơn là

Phúc-Âm về Hành-động : _ Karmayoga .

Tôi trích-dẫn một số đoạn văn liên-hệ hóa

chúng với lời nói dẫn trên có vẻ ảm-đạm về

Bánh-xe Vũ-trụ mù-quáng, nó lôi cuốn và

nghiền nát chúng ta :

" Những xoay vần của thế-giới là

một cơ-quan ghê gớm ; nếu chúng ta thò

tay vào đấy, chúng ta liền bị bắt lấy và

tuyệt-vọng. Chúng ta thẩy đều bị trói

buộc vào cái bộ máy vũ-trụ cường mạnh

và phức-tạp. Chỉ có hai lối thoát. Lối thứ

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

36

nhất là từ bỏ tất cả lo lắng về bộ máy, để

cho nó xoay vần và đứng ra bên ngoài...

Nói thế thì dễ dàng, nhưng kỳ thực hầu

như không có khả-năng làm được như

thế. Tôi không biết có một trong hàng vài

chục triệu người có thể làm được không...

Lẽ dĩ-nhiên là một khi chúng ta từ bỏ

luyến chấp vào cái vũ-trụ nhỏ nhen này

của giác-quan hay là tinh-thần, chúng ta

sẽ được tự-do ngay tức thì. Khi nào người

ta vượt quá giới-hạn của Định-luật, ra

ngoài Luật Nhân-quả thì xích sắt của nô-

lệ rơi xuống... Nhưng có ai đạt tới thái-độ

hoàn-toàn ấy vậy ? Ít lắm ! ...

" Còn một lối thoát thứ hai, không

phải là tiêu-cực chút nào mà là tích-cực...

Nó cốt là lặn vào trong thế-gian và khám-

phá trong ấy, bí-quyết của hành-động,

động-tác. Không tìm trốn tránh vần xoay

của bộ máy, nhưng ở tại đấy để học hỏi

điều-khiển vận-hành, học làm việc. Đấy

là con đường của Đạo Nghiệp, Đạo Hành

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

37

( Karma yoga ) ; nó bắt đầu đi từ trong và

nó dẫn đưa ra ngoài ...

" Vạn-vật tất cả đều phải làm

việc, hành-động trong vũ-trụ này... Giòng

suối sô xuống núi chảy vào khe làm thành

thác đổ, và sau một cuộc phấn-đấu nó

thoát ra thành giòng nước chảy tự-do theo

đuổi con đường của nó, không gặp

chướng ngại. Mỗi đời sống con người

cũng như giòng nước ấy. Nó đi vào vần

xoay, bị mắc vào trong thế-giới của

Không-gian, của Thời-gian và của Nhân-

quả, nó quay cuồng một lúc, kêu gọi : _

" Cha tôi ! Anh em tôi ! Tên tuổi tôi !

Danh-tiếng tôi !... Rồi sau cùng nó trở ra

và chinh-phục tự-do của nó. Tất cả vũ-trụ

đều như thế. Biết hay không biết, chúng

ta đều làm việc để ra khỏi cuộc xoay vần

quay cuồng. Và chính để trở nên đủ khả-

năng mà người ta trải qua kinh-nghiệm ...

" Vũ-trụ toàn-thể làm việc. Để làm

gì ? Để vì tự-do. Từ nguyên-tử cho đến

tối-cao vật-thể, tất cả làm việc vì cùng

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

38

một mục-đích : tự-do thân-thể, tự-do tinh-

thần. Tất cả vạn-vật đua nhau tìm giải-

thoát nô-lệ. Mặt-trời, mặt-trăng, trái đất,

tinh-tú đều chạy trốn. Những năng-lực

thiên-nhiên chạy trốn trung-tâm hay là sô

vào trung-tâm... Đấy là Đạo Hành-động

( Karmayoga ) nó khai mở cho chúng ta

ý-nghĩa, bí-quyết, phương-pháp hành-

động, động-tác, khả-năng tổ-chức của nó.

Hành-động, làm việc là tất-yếu ; nhưng

chúng ta phải làm việc vì mục-đích tối-

cao ... "

Và cái mục-đích tối-cao ấy là gì ? Phải

chăng là bổn-phận, luân-lý hay xã-hội ? Phải

chăng là lòng ham làm việc nó đốt cháy Faust

( nhân-vật trong vở kịch của Goethe ) luôn luôn

khao khát, mắt đã mờ tắt, và cho đến ngưỡng

cửa nhà mồ còn muốn khiến nó khuấy động và

uốn nắn vũ-trụ theo như ý muốn ?

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

39

Không ! Vivekananda sẽ trả lời, gần như

luận-điệu của Méphistophélès nhìn Faust ngã

xuống :

" Nó cố theo đuổi với tình-yêu của

nó những hình-thái biến đổi. Phút cuối

cùng, khốn-nạn, rỗng không, con người

khổ sở ấy muốn nắm giữ lại ! ... "

" Đạo Karmayoga nói : Hành-động,

làm việc không ngừng, nhưng hãy từ chối

tất cả hệ-thuộc vào việc làm ! Tinh-thần

anh hãy tự-do... Đừng phóng vào nó cái

vòi vị-kỷ : Tôi ... Của Tôi ... "

Tự-do cả đối với tất cả tín-ngưỡng, đối

với tất cả Bổn-phận ! ... Và chính đối với cái

ngẫu-tượng sau ấy, nhỏ nhen và rầu rĩ của Bổn-

phận tiểu tư-sản, mà ông ta kiêu-ngạo mỉa mai

nhất :

_ " Đạo Karmayoga dạy chúng ta

rằng cái ý-niệm phổ-thông về Bổn-phận

còn ở bình-diện thấp kém. Chắc hẳn tất cả

chúng ta, ai nấy đều phải làm bổn-phận

của mình. Nhưng cái ý-thức đặc-biệt về

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

40

bổn-phận rất thường là nguyên-nhân của

khốn-nạn. Bổn-phận biến thành một

bệnh-hoạn... Đấy là tai-họa của đời

người... Hãy xem kia, những kẻ nô-lệ cho

Bổn-phận ! Bổn-phận không còn để cho

chúng thời-giờ cầu-nguyện, tắm rửa...

Bổn-phận luôn luôn đè lên chúng. Chúng

về nhà và nghĩ đến bổn-phận của ngày

mai. Bổn-phận đè trên đầu chúng ! Đời

sống của nô-lệ cuối cùng, nó ngã gục trên

đường phố và chết trong yên cương của

một con ngựa. Đấy là Bổn-phận như

người ta quan-niệm ...

" Không phải thế ! Chỉ có Bổn-phận

chân-chính là không bị lệ-thuộc và làm

việc như loại tự-do. Hãy dâng việc làm

của chúng ta lên Thượng-Đế ! Tất cả bổn-

phận của chúng là của Ngài. Hạnh-phúc

thay cho chúng ta là chúng ta đã bị chỉ-

huy dưới thế-gian này ! Chúng ta có thời-

hạn dịch-vụ của chúng ta để làm. Chúng

ta làm được tốt hay xấu, ai là người biết

cho ? Nếu chúng ta làm tốt, chúng ta

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

41

không được hưởng kết quả. Nếu chúng ta

làm xấu chúng ta cũng không phải lo ấu.

Hãy thuận-hòa ! Hãy tự-do ! Và hãy làm

việc ! ...

" Cái loại tự-do như thế chắc hẳn là

khó mà đạt được... Dễ dàng biết bao để

giải-thích như là bổn-phận, sự nô-lệ, sự

lệ-thuộc bệnh-hoạn vào xác thịt ! Mọi

người đi vào đời tranh-đấu cho tiền của

hay là cho dục-vọng. Hãy hỏi chúng tại

sao chúng làm thế, chúng bảo : " Ấy là

Bổn-phận ! ... " Chính là lòng tham vô lý

vì vàng và vì của mà chúng cố lấy hoa

che đậy... Khi nào một hệ-lụy đã thành

định-chế ( ví như hôn-nhân ) chúng ta gọi

là Bổn-phận. Sự thực đấy là một thời

bệnh. Nhưng chúng ta chỉ gọi là bệnh khi

nào nó là bệnh kịch ; khi nào nó kinh-niên

cố tật thì chúng ta gọi là thiên-tính và

chúng ta làm lễ đặt tên : Bổn-phận ! ...

Chúng ta khua chuông, đánh trống, thổi

kèn, dâng hoa, kéo đèn, chúng ta đọc kinh

xưng tán ; và rồi thì cả thế-giới đánh

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

42

nhau, và loài người chửi nhau hăng say vì

yêu quý cái Bổn-phận ấy ! ... Đối với loài

người thấp kém không có thể có được lý-

tưởng nào khác, thì Bổn-phận có chút ích-

dụng ; nhưng những ai nhằm vào Đạo

Hành-động ( Karmayoga ) phải vứt bỏ cái

ý-niệm Bổn-phận ấy đi. Chẳng làm gì có

bổn-phận cho các anh và cho tôi cả. Tất

cả cái gì các anh phải đem cho thế-giới

thì hãy cho đi, không tiếc rẻ, nhưng

không phải vì Bổn-phận. Không cả nghĩ

đến đấy nữa ! Không nên để bị bắt buộc !

Tại sao các anh bị bắt buộc. Tất cả cái gì

anh làm vì bắt buộc là để tạo nên hệ-lụy.

Tại sao anh có thể có bổn-phận gì ? Hãy

phó-thác cho Thượng-Đế ! Trong cái lò-

cừ vĩ-đại này, lửa bổn-phận nung nấu

toàn-thể thế-giới, hãy nhắp chén rượu

thần cam-lộ và hãy vui sướng. Chúng ta

chỉ lo thi-hành thiên-mệnh và không bận

tâm đến thưởng hay phạt. Nếu anh muốn

có thưởng thì phải chịu phạt. Chỉ có một

lối thoát khỏi hình phạt là từ bỏ ân

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

43

thưởng. Một cách độc-nhất tránh tai-họa

ấy là từ bỏ hạnh-phúc, bởi vì cả hai hỗ-

tương quan-hệ với nhau. Một cách độc-

nhất thoát khỏi chết là không ham sống.

Sự sống và sự chết là cái nhìn theo

quan-điểm khác nhau. Ý tưởng hạnh-phúc

không đau khổ, sống không chết, là để ru

ngủ trẻ con học sinh. Nhưng nhà tư-tưởng

nhận-thức điều nọ không điều kia là luận-

điệu tuần-hoàn, và y từ bỏ cả hai ..."

_ ( Karmayoga, ch. VII )

Người ta thấy sự say mê Tự-do vô-hạn ấy

dẫn đến điểm cực-đoan nhường nào của siêu-

thoát nhân-loại. Và rõ-ràng là một lý-tưởng

như thế không những người bình-dân không

theo được, mà vì giải-thích lầm cực-đoan của

nó, nó dễ đưa đến thái-độ vô-tình thờ-ơ đối với

tha-nhân cũng như đối với chính mình và đi

đến diệt tắt hành-động xã-hội. Nếu mất sự

kích-thích của cái chết thì sự sống cũng mất

nốt ; vậy còn cái gì để khích-động cho thuyết-

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

44

lý Phụng-sự, là cốt-tủy của giáo-lý, của nhân-

cách Vivekananda ?

Nhưng luôn luôn phải ghi nhớ mỗi bài

diễn-thuyết hay luận-văn của Vivekananda là

nói và viết cho hạng người nào ? Vì tôn-giáo

của ông cốt-yếu thực-tế và thực-hiện, nó luôn

luôn nhằm vào hành-động thì sự biểu-thị của

nó tùy theo công-chúng mà nó muốn ảnh-

hưởng. Một tư-tưởng sâu rộng và phong-phú

như thế thì không có thể một lúc thâu tóm tất

cả được. Phải chọn trong những quan-điểm. Ở

đây Vivekananda nói với người Mỹ. Không có

chi nguy-hiểm để ông thuyết thái-quá về sự

quên mình và hành-động ; nhà Đạo-sĩ chú ý

vào cực-đoan trái nghịch, vào đức tính của xứ

hải-ngoại .

Khi ông nói với dân Ấn, ông lại là người

đứng đầu để tố-cáo trái lại những điên cuồng

bất-nhân mà cực-đoan tôn-giáo về siêu-thoát có

thể đưa đến. Lần ở Mỹ-quốc trở về năm 1897,

khi có một giáo-sư già ở Bengale, tín-đồ của

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

45

Ramakrishna trách ông rằng : " Tất cả điều ông

nói về từ-thiện, về phục-vụ về tế-độ thế-gian,

tất cả điều ấy rút cục là trong phạm-vi Ảo-hóa

( Maya ). Triết-học Vedanta chẳng đã dạy ta

rằng mục-đích của ta là cắt đứt hết cả hệ-lụy

trói buộc đấy ư ? Vậy thì tại sao còn tạo thêm

hệ-lụy khác ? "

Vivekananda mỉa mai trả lơi ông này

rằng :

_ " Nói như thế thì ý-niệm giải-thoát

( Mukti ) chẳng phải cũng trong phạm-vi

Ảo-hóa ( Maya ) đấy ư ? Triết-học Bất-

nhị-pháp chẳng dạy ta rằng Tự-Ngã

( Atman ) luôn luôn tự-do đấy ư ? Vậy thì

tại sao còn nỗ-lực tìm giải-thoát ? "

Và một mình, với đệ-tử, ông chua chát

nói rằng những ý-tưởng như thế về Veda Bất-

nhị-pháp đã làm tai hại xứ sở vô kể.

Ông quá hiểu rằng không một hình-thức

siêu-thoát nào mà chủ-nghĩa Vị-Ngã không có

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

46

cách ẩn-náu ; và đấy là một mặt-nạ đặc-biệt

ghê tởm về sự cầu tìm giải-thoát giả-dối cho

một mình mình, không nghĩ đến người khác.

Ông luôn luôn nhắc nhở đạo-sĩ Hành-khất

( Sannyasin ) rằng họ có hai điều nguyện, và

nếu điều thứ nhất là " thực-hiện chân-lý " , thì

điều thứ hai là " tế-độ thế-giới ". Sứ-mệnh

riêng của ông và sứ-mệnh của đệ-tử ông là mở

tháo những giáo-lý chính của Vedanta Bất-nhị-

pháp khỏi nơi ẩn-cư vị-kỷ của một thiểu-số

đặc-quyền ưu-đãi, để phổ-biến cho tất cả hạng

người và thích-ứng với phương-tiện của chúng.

" Trí-thức Bất-nhị-pháp ( Vedanta Advaïta ) đã

quá lâu giấu kín trong các hang động và rừng

sâu, tôi có sứ-mệnh khai-phóng nó khỏi tình-

trạng tàng-ẩn và đem nó vào giữa đời sống gia-

đình và xã-hội... Chúng ta khua trống Bất-nhị-

pháp ( Advaïta ) trong tất cả gia-đình, giữa các

chợ, trên đồi núi và chốn đồng-bằng ."

Cho tới những ngày chót mà thân-thể bị

bệnh-tật dầy-vò, tâm-hồn ba-phần-tư siêu-thoát

khỏi tất cả những lo lắng của người đời và đã

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

47

chinh-phục được quyền siêu-thoát bằng sự-

nghiệp thành-tựu, bằng cả một đòi hy-sinh _

vào lúc mà ông bảo rằng : " tinh-thần ông

không có thể trở về đời vì ông đi quá xa vào

cõi chết rồi." _ người ta hỏi về công việc hàng

ngày, ông còn để trừ ra một ngoại-lệ duy-nhất

cho việc làm của mình, cho sự-nghiệp của

mình .

Mỗi thời-đại của nhân-loại có việc làm

riêng của nó mà nó bị bắt buộc. Thời-đại chúng

ta là phải nâng-đỡ đại-chúng bị bóc lột, lừa dối,

trụy-lạc một cách vô-liêm-sỉ bởi chính những

hạng người đáng lẽ phải hướng-dẫn chúng và

trợ giúp chúng. Cả đến người anh-hùng chiến-

thắng và thánh-nhân, một khi đến ngưỡng-cửa

giải-thoát tối-cao cũng phải trở lại để tế-độ hay

giúp đỡ anh em ruột thịt mình đang nằm xuống

hay bò lê. Người vĩ-nhân nhất sẽ là người từ-

chối cả đến thực-hiện đại Nghiệp (Karmayoga)

riêng của mình để giúp người khác thực-hiện

đạo của họ. _ " Giúp cho mọi người đứng lên,

độc-lập một mình, và tự làm lấy đạo Nghiệp

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

48

( Karmayoga ) của chúng." _ ( Vivekananda

nói với đạo-hữu , 1897 ) .

Vậy không có chi đáng lo sợ sự-phụ đạo

Nghiệp ( Karmayoga ) từng bao giờ hy-sinh

đàn con chiên của mình cho lý-tưởng riêng, có

lẽ tuyệt-diệu nhưng bất-nhân đối với đa số

quần-chúng vì nó vượt quá bản-tính chúng.

Không một giáo-lý nào đã tỏ ra thông-cảm

những nhu-cầu tâm-linh của mỗi người, từ

người hèn hạ đến người cao quí, hơn là đạo

Nghiệp ( Karmayoga ). Trong tất cả cố-chấp,

trong tất cả cuồng-tín, giáo-lý ấy đều nhìn thấy

nguyên-lý của nô-lệ và tiêu-diệt tinh-thần .

_ " Người ta, trước hết phải biết làm

việc không lệ-thuộc như thế nào, và bấy

giờ người ta mới khỏi thành cuồng-tín...

Nếu không có chủ-nghĩa cuồng-tín trên

đời thì thế-giới sẽ tiến-bộ hơn. Chủ-nghĩa

cuồng-tín là yếu-tố chậm tiến... Khi nào

các anh gạt bỏ được nó đi, chỉ lúc ấy các

anh mới làm việc được tốt... Các anh

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

49

nghe thấy những kẻ cuồng-tín tuyên-bố :

" Tôi không ghét người có tội, tôi chỉ ghét

tội lỗi thôi !... " Phải không ? Này tôi sẵn

sàng đi đến tận góc bể chân trời để được

thấy mặt người nào có thể thực phân-biệt

được tội-lỗi và người có tội !... "

_ ( Karmayoga, ch. V ) .

Thái-độ duy-nhất nó bắt buộc cho sự giải-

thoát là mỗi người tự biết lý-tưởng riêng của

mình và tự nỗ-lực thành-tựu ; hay là nếu nó

không có thể tự mình khám-phá ra cái lý-tưởng

ấy, thì đấy là phận-sự của sư-phụ giúp đỡ nó,

nhưng không bao giờ thay-thế cho nó được.

Luôn luôn và bất cứ ở đâu, nguyên-lý đạo

Nghiệp ( Karmayoga ) chân-thật được nhắc đi

nhắc lại là phải " làm việc tự-do ", " làm việc

vì tự-do, làm như người chủ, chứ không phải

như một đứa nô-lệ . "

_ " Cốt-yếu của giáo-lý là anh phải

làm việc như một ông chủ chứ không phải

như một kẻ nô-lệ. Làm việc bởi tự-do !

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

50

Khi nào anh làm việc như nô-lệ, vì những

mục-tiêu thế-tục, thì đấy không phải là

thực làm việc. Làm việc vị-kỷ là một việc

làm của nô-lệ... Hãy làm việc không hệ-

lụy ! "

_ ( Karmayoga, ch. III )

Bởi thế cho nên không có vấn-đề làm việc

theo lời thày dạy. Lời của thày chỉ có thể có

hiệu-lực nếu ông thày tự quên mình vào người

ông khuyên bảo, phối hợp với bản-tính nó, giúp

nó biện-biệt bản-tính ấy và hoàn-thành luật-

pháp riêng của nó bằng những phưong-tiện cá-

nhân của nó .

Đấy là bổn-phận mà nhà tổ-chức Hành-vi

động-tác nhân-loại khôn-ngoan như Viveka-

nanda đã tự vạch ra cho mình. Nó bao-gồm và

cai-quản toàn bộ đẳng cấp đạo Nghiệp

( Karmayoga ) như là một đại công-trường xây-

dựng, trong đó những hình-thức và trình-độ

khác nhau của công-lao hợp-tác được xếp đặt

có trật-tự trong đại sự-nghiệp chung .

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

51

Song, danh-từ " công trường ", " trình

độ", " trật-tự " không có ngụ-ý trên hay dưới

trong hàng-ngũ khác nhau của công-nhân. Đấy

là thành-kiến khoe-khoang mà nhà quí-phái

cao-đẳng không thừa-nhận. Ông không thiết-

lập cấp bậc giữa công-nhân, nhưng là sự khác

biệt giữa nhiệm-vụ gán cho chúng .

_ " Điều trọng-yếu là phải biết rằng

có những thứ bậc của đạo Nghiệp

( Karmayoga ). Bổn-phận của một trạng-

thái sống trong toàn-bộ trường hợp không

phải là không có thể là bổn-phận của một

trạng-thái sống khác... Mỗi người phải

biết lý-tưởng riêng của mình và nỗ-lực

hoàn-thành : đấy là con đường tiến-bộ

chắc chắn hơn là mượn những lý-tưởng

của một người khác mà mình không bao

giờ có thể thực-hiện được ."

_ ( Karmayoga, ch. III )

Nhiệm-vụ bề ngoài có vẻ cao quý nhất và

hào-nhoáng hơn cả, chẳng phải là danh-vị cao

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

52

cả chân-thật hơn hết. Và nếu người ta có thể

nhận-xét trong sự phán-đoán của Vivekananda

về những nhiệm-vụ ấy, thấy chút thiên-tư, thì

sự thiên-tư sẽ nghiêng về cho những người hèn

mọn, những kẻ chất-phác :

_ " Để xét về tính-cách một người,

chớ nên lấy những hành-vi lớn của y. Bất

cứ đứa ngu xuẩn nào cũng có thể trở nên

anh-hùng lúc này hay lúc khác. Nhưng

hãy quan-sát một người trong sự hoàn-

thành những hành-vi tầm thường nhất của

y. Chính là những hành-vi ấy mới cho

chúng ta biết về tính-cách xác-thật.

Những cơ-hội lớn nâng lên cả những kẻ

thấp hèn nhất. Những người thật là vĩ-

nhân thì vĩ-đại trong đời sống bình-

thường nhất ."

_ ( Karmayoga, ch. I )

Nói đến sự sắp thứ hạng trong những

người làm việc, như vậy chúng ta sẽ không lấy

làm ngạc nhiên thấy Vivekananda xếp lên hàng

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

53

đầu lại không phải những người có danh tiếng,

đội hào-quang vinh-dự và được tôn thờ _

không, cả đến đấng Cơ-Đốc và đức Phật. Chính

là những bậc vô-danh, những vị âm-thầm,

những " chiến-sĩ không tên tuổi " .

Trang đại-luận nghiêm-túc. Ai được đọc

sẽ không quên :

_ " ... Những bậc vĩ-nhân nhất đã đi

qua không ai biết. Những vị Phật và Cơ-

Đốc mà đời được biết đều là bậc thứ, so

với những vĩ-nhân hơn kia mà đời chẳng

biết mảy-may. Hàng trăm những vĩ-nhân

vô-danh đã từng sống ở mỗi nước ; các

Ngài làm việc âm-thầm ; các Ngài sống

âm-thầm, và âm-thầm các Ngài chết. Với

thời-gian, tư-tưởng của các Ngài thấy

được biểu-thị ở những Phật và Cơ-Đốc ;

và các vị này mới được chúng ta biết.

Những nhân-vật vĩ-đại nhất không tìm

danh tiếng chi hết. Họ để lại tư-tưởng của

họ cho đời ; họ không đòi hỏi chút gì cho

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

54

mình cả ; họ không dựng nên học-phái

hay là hệ-thống mang tên họ. Bản tính

của họ không ưa điều ấy. Họ là những

thuần túy Sattvikas, không từng làm ồn-

ào, nhưng tự hòa vào tình thường...

Gautama Bouddha nói Ngài là đức Phật

thứ hai mươi lăm. Hai mươi bốn vị trước

Ngài thì lịch-sử không biết, mặc dù vị thứ

hai mươi lăm chúng ta được biết đã phải

xây-dựng trên nền móng của các vị trước

đã đặt. Các đại vĩ-nhân đều yên lặng. Ấy

là vì họ biết năng-lực thật của tư-tưởng.

Họ biết rằng dù họ có nhập vào trong một

hang động, đóng kín cửa lại, và suy-tư

năm tư-tưởng thật chân, năm tư-tưởng ấy

cũng thông suốt núi non, vượt qua đại-

dương du hành khắp cả thế-giới. chúng

nhập vào tận đáy lòng, vào trí óc, chúng

làm nẩy sinh các trang nam, nữ họ biểu-

thị cụ-thể ra hành-động nhân-sinh...

Những đấng Phật và những đấng Cơ-Đốc

sẽ đi khắp nơi này sang nơi khác truyền-

bá những chân-lý ấy... Những hạng

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

55

Sattvikas còn gần với Thượng-Đế quá để

đi ra hành-động và để phấn-đấu, để

truyền-bá và để làm việc thiện cho nhân-

loại, như người ta nói trên mặt đất này... "

_ ( Karmayoga, ch. III )

Và Vivekananda không tự cho một chỗ

đứng trong hạng thứ nhất ấy. Ông lùi xuống

hàng hai hay là hàng thứ ba : ngôi thứ của việc

làm hoàn-toàn không chút động-cơ vị lợi .

" Kẻ làm việc hơn cả là kẻ làm việc

không chút động-cơ, không vì tiền tài,

không vì danh tiếng, không vì chi hết. Và

khi nào có người có thể làm được điều ấy,

y sẽ là Phật Bouddha. Và tự ở thân Ngài

xuất ra một năng-lực làm việc, nó sẽ biến

đổi thế-giới đi. Người ấy đại-diện cho lý-

tưởng cao nhất của đạo Nghiệp

( Karmayoga ) " .

_ ( Karmayoga_ Kết-luận của ch. VIII )

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

56

Bởi vậy nên những Chiến-sĩ hành-động

ấy ( Sattvikas ) đã vượt quá khuôn khổ của đạo

Nghiệp ( Karmayoga ) ; họ đã sang bến bên kia

rồi. Vivekananda còn ở lại bến bờ của chúng ta.

Lý-tưởng của ông về cái toàn-năng hoạt-

động nó là phóng-sạ của tư-tưởng tâm-linh, dù

có xuất thế-gian, hẳn rằng không làm ngạc

nhiên tâm-hồn tôn-giáo Tây-phương ; tất cả

giới mặc-tưởng lớn của chúng ta đã từng biết

qua .

Và tư-tưởng tục-thế cao nhất ngày nay

cũng có thể tự nhận thấy ở đấy ; vì rằng ở trong

hình-thức dân-chủ cái sự tôn-trọng nhiệt-tình

mà những hàng thiện-chí của chúng ta tỏ ra đối

với hàng ngàn kẻ thầm lặng mà đời sống cần-

lao hèn hạ và tâm niệm là cái gì khác, nếu

không phải là kho-tàng dự-trữ năng-lực anh-

hùng và thiên-tài của dân-tộc ? Người viết

những giòng sách này, tuy không có công gì

khác, có thể chứng minh việc làm của mình

suốt sáu mươi năm không ngừng nghỉ cũng là

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

57

bằng chứng sống động của những thế-hệ nhân-

công âm-thầm mà y đã là tác-phẩm và y là

người đại-diện cho tiếng nói của chúng. Suốt

trong nhiệm-vụ dài của y, và y gục vào nơi

bản-thân cố nỗ-lực bắt nghe tiếng nói nội-tâm,

thì tiếng nói của những người vô-danh nổi lên

vang dậy như biển hải-triều bốc thành mây để

mưa xuống sông ngòi _ dân-tộc câm lặng mà ý-

thức không biểu-lộ chính là thực chất của tư-

tưởng tôi và điều-khiển ý-chí tôi. Hễ tiếng

động ngoại-giới tắt đi thì tôi liền nghe thấy

mạch máu dân-tộc chạy trong đêm tối .

_ " Những người có ý-chí mãnh-liệt

luôn luôn đã là những công-nhân vĩ-đại,

đã từng làm việc trải qua hàng thế-kỷ."

Những đấng Phật và những đấng Cơ-Đốc

đã có thể có được là " nhờ sự tích-lũy

năng-lực do việc làm từ các thế-kỷ ."

_ Karmayoga )

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

59

- II -

ĐẠO SÙNG-BÁI

( Bhaktiyoga )

Con đường thứ hai dẫn đến Chân-lý _ đến

Tự-do _ là con đường của tâm-cảm :

Bhaktiyoga = Sùng-Bái. Và đến đây tôi nghe

thấy các nhà trí-thức của chúng ta kêu lên theo

luận-điệu quen tai : " Chỉ có chân-lý với lý-trí

còn tâm-cảm chỉ là, và chỉ có thể là nô-lệ-hóa

và lộn-xộn." _ Nhưng tôi van họ hãy ở lại tại

con đường của riêng họ, tôi sẽ gặp lại họ ở đấy

lát nữa. Nó là con đường độc-nhất thích-hợp

với họ ; họ rất có lý, cố giữ lấy ; nhưng họ đòi

tất cả các tinh-thần đều khu-khu ở đấy thì họ

rất lầm. Không những như thế là không hiểu

tính phong-phú phồn-tạp của tinh-thần nhân-

loại mà còn tính-chất căn-bản sinh động của

chân-lý nữa. Họ không lầm khi họ tố-cáo

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

60

những nguy-hiểm của sự nô-lệ và sai lạc mà

con đường tâm-cảm đem lại ; nhưng họ quá

lầm mà nghĩ rằng trên con đường lý-trí không

có những nguy-hiểm tương-tự. Đối với nhà đại

" Biện-biệt " ( Viveka ) trên tất cả các con

đường tinh-thần vươn lên qua một hàng bậc

thang sai lầm phần bộ và xác thật phần bộ, cởi

bỏ hết bộ áo nô-lệ này đến bộ áo khác cho tới

ánh-sáng toàn-diện và thuần-túy của Tự-do và

Chân-lý, mà Bất-nhị-pháp Vedanta gọi là Sat-

Chit-Ananda (sinh-tồn, Tri-thức, Cực-lạc) : nó

bao-hàm trong lãnh-vực của nó những cõi

phân-biệt của tâm-cảm và của lý-trí .

Nhưng các trí-thức Tây-phương cứ yên

tâm, không ai nghi-hoặc những cạm-bẫy trên

những lộ-trình tâm-cảm hơn là một Viveka-

nanda : vì ông hiểu-biết chúng hơn cả. Tuy đạo

Sùng-Bái Bhaktiyoga dưới các danh-hiệu khác

nhau đã được thấy các nhà hành-hương tâm-

linh Tây-phương trứ-danh đi qua. Và theo sau

có hàng ngàn tín-đồ khiêm-tốn, tinh-thần trật-

tự và chính-quyền La-Mã cổ-điển truyền lại

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

61

cho các Nhà Thờ chúng ta cũng như cho các

Quốc-gia chúng ta, đã biết duy-trì mạnh mẽ

những cuộc viễn-chinh của tình-yêu trong

chính đạo không cho phép phiêu-lưu nguy-

hiểm ngoài biên-giới. Nhân tiện, chính điều ấy

giải-thích sự sai lầm của Bá-tước Keyserling

trong phái-đoàn thiên-chấp của ông về đạo

Sùng-Bái Bhakti so-sánh giữa Đông, Tây.

Thiên-tài hoạt-bát và lanh-lợi của nhà " Triết-

gia du-lịch ", thiên-tài tình-cảm khiến ông

không tán-thưởng cái mà ông gọi là " những lý-

tưởng đàn bà cũ rích ", bởi vì bẩm sinh ông vốn

thiếu, nên đã phàn-nàn quá đáng sự nghèo tình-

cảm của cái Tây-phương kia mà ông tự tin là

người đại-biểu hoàn-hảo. Thực ra thì ông chỉ

biết rất hời-hợt đạo Sùng-Bái ( Bhakti ) của

Âu-Tây. Nếu có vẻ như ông phán-xét qua

những con hổ lớn tâm-linh-học thế-kỷ XIV bên

Hoà-Lan và bên Đức, các vị hung-bạo Meister

Eckhart và Ruysbroeek, phải chăng ông có ngờ

đến các kho báu tế-nhị về tình-cảm tinh-tế và

cảm-súc tôn-giáo của nước Pháp và các nước

La-Tinh. Đánh giá tâm-lý-học Tây-phương là

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

62

" nghèo nàn " là " nhỏ nhen ", thiếu ý-vị và tế-

nhị, ấy là không ngờ chút nào cái điểm thành-

tựu mà một hội các giáo-phụ tôn-giáo đã đạt

tới. Các vị này có thể ngang hàng hay cao hơn

về phân-tích cảm-súc huyền-bí so với các giáo-

sư tâm-lý-học thời điển-hình của chúng ta và cả

thời lãng-mạn hiện nay nữa .

Còn về nhiệt-độ của tín-ngưỡng tình-yêu,

tôi không từng nghĩ rằng ở một nhà đại tín-

ngưỡng Âu-Tây nó kém về phẩm so với một

đại tín-ngưỡng Á-châu. Lòng khao-khát cực độ

mà nhà tín-đồ Á-châu tỏ ra đối với " Thực-

hiện " thì tôi không cho là dấu-hiệu thuần-túy

của tâm-hồn tôn-giáo. Hình như Ấn-Độ không

từng phát-minh " Noli me tangère = Chớ chạm

vào ta ! "... Họ phải nhìn thấy, sờ thấy và nếm

thấy, họ mới tin. Và nếu nó không có hy-vọng

một ngày kia đạt tới đấy trong đời này thì nó sẽ

rất gần như nghi-ngờ vậy. Chính Vivekananda

đã nói về ông, những lời nói thành-thật phũ-

phàng, gần như quái-đản :

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

63

" Chỉ có người nào thực đã tri-giác

thấy Thượng-Đế mới là người có tín-

ngưỡng. Chúng ta đều là hạng vô-thần,

hãy thú-nhận như thế. Một sự đồng-tình

trí-thức đơn-giản không làm cho chúng ta

trở thành tín-ngưỡng được. Tất cả tri-thức

phải căn-cứ vào tri-giác về một số thực-

kiện... Tôn-giáo là vấn-đề thực-kiện ... "

_ ( Jñānayoga, " Réalisation " )

Sự đói khát về Thượng-Đế ấy thực là

mãnh-liệt ; nhưng ở bậc Thánh-hiền xứ ta, có

một sự e-lệ của tình-yêu cao quí hơn, khi đứng

trước một kỳ-tích mà họ quay mặt đi, nói rằng :

" Hãy để tôi êm đềm tín-ngưỡng

không từng nhìn thấy ! "

Chúng ta thích tin cậy vào những lý-

tưởng của chúng ta, và chúng ta không đòi

chúng phải trả trước chúng ta. Tôi biết có

những hạng cao-quí ưa muốn cho đi tất cả,

không đòi lại, không cầu mong thấy phản-hồi .

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

64

Nhưng ở đây không phải vấn-đề chúng ta

xếp thứ bậc ! Có nhiều cách yêu. Nếu mỗi

người cho đi cái gì mình có, thì quản chi đến

cái vật nó cho đi, khác với cái mà người láng-

giềng cho đi. Họ bình-đẳng .

Tuy nhiên chúng ta phải công-nhận rằng,

các Nhà Thờ Tây-phương thi-hành phép kiểm-

soát chặt-chẽ nghiêm-ngặt khoa tâm-linh, khiến

cho sự biểu-thị cảm-súc thiếu tự-do và nhất là

kém hiển-hiện như là ở Ấn-Độ, tâm-linh tràn

ngập. Một đại Ấn-Độ-gia có ý-thức như

Vivekananda, lãnh-đạo, có trách-nhiệm về ý-

thức dân-tộc ông, như vậy vốn biết ông không

cần phải khích-thích khuynh-hướng tâm-cảm ở

đồng-bào mình, trái lại còn phải coi-sóc để

chúng khỏi bồng-bột. Những khuynh-hướng ấy

rất dễ trụy-lạc thành tình-cảm bệnh-hoạn. Tôi

đã có dịp bầy tỏ trong nhiều trường-hợp

Vivekananda đã phán-ứng lại trào-lưu ấy rất

mạnh mẽ. Người ta còn nhớ cái cơn phẫn-nộ

giữa ông với đạo-hữu, mà ông mắng " sự ngu

xuẩn tình-cảm " của họ và nổi giận chống đạo

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

65

Sùng-Bái ( Bhakti ) để rồi liền ngay sau đấy

chính mình công-nhận là cái mồi của Sùng-Bái.

Chính vì thế mà ông giữ mình, đề-phòng cái

đạo Sùng-Bái ấy, ông luôn luôn cảnh-giác, ngõ

hầu bảo-vệ đoàn-thể ông đối với sự lạm-dụng

tâm-cảm. Và bổn-phận lãnh-đạo trên đường

Sùng-Bái ( Bhakti ) cốt-yếu là soi sáng những

khúc nghẹo và cạm-bẫy của tình-cảm .

" Tôn-giáo Tình-yêu " (Religion of Love)

bao-hàm một phạm-vi rộng lớn vô cùng. Cuộc

thám-hiểm đầy đủ lãnh-vực ấy là cả một

" Hành-trình đến Thánh-địa Jérusalem ". Đấy

là lộ-trình của tâm-hồn qua các giai-đoạn của

tình-yêu đi đến Tình-yêu Tối-cao. Hành-trình

dài và nguy-hiểm. Ít có ai đi tới đích .

" ... Một năng-lực nội-tại thúc-đẩy

chúng ta tiến về tình-yêu. Chúng ta không

biết tìm đối-tượng đích thật ở đâu ; nhưng

mỗi một tình-yêu thúc đẩy chúng ta tiến

bước lên cuộc tìm kiếm. Mỗi lần chúng ta

phát-hiện sự lầm lạc của chúng ta, chúng

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

66

ta nắm lấy một đối-tượng ; đối tượng tuột

khỏi tay, chúng ta bám lấy đối-tượng

khác, và cứ như thế, như thế cho chí

chừng nào thấy ánh-sáng : chúng ta đến

Thượng-Đế, tình-yêu duy-nhất, viên-mãn

và lâu bền ...

" Bất cứ ở đâu có tình-yêu nào, ở

đấy Chúa đều có mặt. Ngài ở tại cái hôn

giữa tình-nhân và tình-nhân, giữa mẹ con,

trong quà tặng của bằng-hữu, trong sự hy-

sinh của người ta cho nhân-loại ."

_ ( Jñānayoga, " Lý-tưởng một Tôn-giáo

Đại-đồng " )

" Lý-tưởng là thấy Thượng-Đế tại

tất cả mọi vật. Nhưng nếu anh không có

thể thấy được như thế, hãy thấy ở một

vật, trong vật anh sở thích, và rồi lại thấy

ở vật khác ! Anh sẽ tiến lên từng bước

một. Tâm-hồn có trước mặt mình cả đời

sống vô-hạn. Cứ tuần-tự, không vội-vàng,

anh sẽ đi tới đích ! "

_ ( " Thượng-Đế tại mọi vật " ) .

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

67

Tất cả những con đường khác chỉ là

những độ đường... Nhưng con đường đi tới

Thượng-Đế qua tình-yêu Sùng-Bái là một con

đường dài ...

Nhiều kẻ dừng lại giữa đường, và

Vivekananda quay lại nói với người Ấn :

" ... Hàng ngàn tín-đồ tự lấy tôn-

giáo Tình-yêu làm chuyên-nghiệp. Thiên-

hạ đều nói về tôn-giáo Tình-yêu, nhưng

rất ít ai đạt tới đích. Một số người trong

một thế-kỷ vươn tới cái Tình-yêu

Thượng-Đế ấy và cả nước nhờ họ được

thánh-thiện-hóa. Cũng như khi mặt-trời

lên, tất cả đêm tối đều bị thu hút ..."

Rồi ông vội thêm rằng : _ " Nhưng các

anh, trước hết còn phải trải qua những tình-yêu

nhỏ-mọn kia đã ... "

Chớ vội hất-tấp ! Nhất là phải thành thực.

Đừng nên vì lòng kiêu-hãnh hão, pha với giả-

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

68

dối mà tin rằng mình yêu Thượng-Đế trong khi

mình còn bám vào thế-tục. Và mặt khác _ (điều

này còn cần-thiết hơn ) _ là chớ nên miệt-thị

những đồng-hành thiện-chí tiến bước khó-

khăn ! Bổn-phận đầu tiên của anh là thông-cảm

và yêu thương những người nào không nghĩ

như mình .

" ... Không những chúng ta không

nên bảo người khác là họ sai lầm, như

bọn cuồng-tín thường làm, mà chúng ta

nên bảo họ rằng họ có lý, nếu họ theo

đuổi con đường riêng của họ, cái phương-

pháp cá-nhân ấy mà mỗi người chúng ta

tự nhiên thích-ứng... Các anh không phải

phản-đối những người không cảm thấy

như các anh... Hàng triệu tia sáng quy cả

vào một lò chung, trong một mặt trời. Xa

cách nhau đến mấy đi nữa, chúng cũng

gặp nhau cả tại trung-tâm... Mỗi người

chỉ phải luôn luôn ngược lên tất cả vào

trung-tâm ... "

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

69

Theo đấy Vivekananda chủ-trương mạnh

mẽ chống-đối tất cả giáo-dục vũ-đoán, giáo-

điều. Không một ai hơn ông, cương-quyết đòi-

hỏi tự-do giáo-dục. Tâm-hồn ông cũng như

chân tay ông, đã thoát ra khỏi những lớp tã ấp-

ủ trẻ thơ ! Bóp nghẹt tâm-hồn đứa trẻ là tội ác

lớn nhất trong các tội ác ; vậy mà hàng ngàn

người trong chúng ta đã phạm tội ấy .

" ... Người ta không dạy được người

khác. Mỗi người phải tự dạy lấy mình.

Người ta chỉ có thể giúp đỡ người khác...

Chính tôi phải tự dạy lấy tôi về tôn-giáo.

Lấy quyền gì mà cha tôi hay là thày tôi

nhồi vào sọ tôi tất cả những điều vô lý.

Anh bảo rằng chúng là những điều tốt ?

Có lẽ. Nhưng ai bảo anh rằng đấy là đạo

của tôi ? Hãy tưởng-tượng cái hại ghê

gớm tràn ngập trong thiên-hạ bởi cách

giáo-dục sai lầm, chúng giết linh-hồn

thâm sâu hàng triệu đứa trẻ thơ vô tội !

Biết bao nhiêu mầm có thể nẩy thành

những chân-lý tâm-linh kỳ-diêu đã bị

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

70

nghẹt thở vì cái quan-niệm ghê-tởm của

một " tôn-giáo gia-tộc ", " tôn-giáo quốc-

gia ", " tôn-giáo xã-hội ..." Hãy nghĩ

xem cái mớ mê-tín đang chứa đầy đầu óc

chúng ta lúc này về " tôn-giáo của nước

ta !... " Cả núi thành-kiến và tai-hại !... "

Vậy chỉ còn cách khoanh tay hay sao ?

Sao Vivekananda còn lo giáo-hóa hăng hái như

thế ? Vai-trò của nhà giáo thành cái gì ? Là

vai-trò của một người giải-cứu. Nó giúp cho

mỗi người đi với phưong-tiện riêng biệt trên

con đường đạo-lý của chính nó, cho nó có tinh-

thần tôn-kính hiểu-biết các con đường đạo-lý

của người lân-cận :

" ... Biết bao nhiêu là lý-tưởng. Tôi

không có quyền vạch ra cho anh, ép cho

anh con đường này hay con đường kia.

Bổn-phận của tôi là trình-bày trước mặt

anh tất cả những lý-tưởng ấy và giúp đỡ

anh phán xét xem con đường nào thích-

hợp hơn cho tạng anh và vừa tầm hơn đối

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

71

với anh. Nếu con đường này vừa tầm với

anh thì hãy nhận lấy, giữ lấy và kiên-nhẫn

theo đuổi nó ! Đấy là lý-tưởng của đời

anh ."

Bởi thế cho nên Vivekananda là thù-địch

của tất cả các tôn-giáo giáo-hội có định-chế,

của tất cả tôn-giáo Nhà-Thờ .

" Các Nhà-thờ có thể tha-hồ giảng

đạo như ý họ sở-thích các giáo-lý, các

học-thuyết, các triết-lý." Điều ấy không

quan-trọng ! Nhưng đến vấn-đề tôn-giáo

" chân thật ", " tôn-giáo cao đẳng " tôn-

giáo hiền lành là cầu-nguyện " sùng-bái ",

sự tiếp-xúc thực của tâm-hồn với

Thượng-Đế thì Nhà-thờ không có quyền

chi hết. Đấy là việc của linh-hồn và

Thượng-Đế. " Công-tác thực của tôn-giáo

chỉ quan-hệ với tôi thôi. Tôi có lý-tưởng

của tôi, tôi phải giữ kín mật và linh-

thiêng. Jésus nói : Khi nào con cầu-

nguyện, hãy vào trong buồng và đóng cửa

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

72

lại, và cầu-nguyện Chúa Cha ở tại nơi

con..." Tôn-giáo thâm-thúy không thể làm

ở chỗ công-khai... Tôi không có thể sửa-

soạn tình-cảm tôn-giáo của tôi, tùy theo ý

muốn trong vòng năm phút. Một sự giả-

bộ như thế là một việc phạm-thượng

thậm-tệ ; thế là chế-nhạo tôn-giáo ! ...

Làm sao mà người ta có thể dung túng trò

dạy súc-vật tôn-giáo ấy, giống như tập

lính trong trại binh vậy ! Lên vai ! ... Quỳ

xuống !... Cầm quyển kinh !... Tất cả đều

qui-định chính-xác. Hai phút cảm-tình,

hai phút lý-trí, hai phút cầu-nguyện, tất cả

đều xếp đặt trước... Thật là khả-ố !...

Những biểu-diễn ấy đã sua đuổi tôn-giáo

và nếu người ta tiếp-tục vài thế-kỷ nữa thì

hết cả tôn-giáo ... "

Tông-giáo thực và chỉ thực là đời sống

nội-tâm .

Nhưng đời sống nội-tâm là một rừng rậm,

đầy động-vật phức-tạp : làm thế nào mà lựa

chọn trong các chúa sơn-lâm ấy ?...

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

73

" Ở trong ta có bản-năng là năng-

khiếu chung giữa chúng ta và cầm-thú.

Có cái chỉ đạo cao hơn mà chúng ta gọi là

lý-tính, và nó chế-phục những thực-kiện,

phổ-quát-hóa theo chúng. Có khiếu linh-

cảm, nó không đi qua giai-đoạn lý-luận,

biết sự-vật theo cách chớp-nhoáng. Bằng

vào gì để phân-biệt nó với bản-năng ?

Đấy là một vấn-đề nguy-hiểm. Bất cứ kẻ

ngu-xuẩn nào cũng sẽ đến nói với anh nó

có linh-cảm : " Tôi có một linh-cảm thần-

hứng. Bệ của tôi đâu ? Mau, dựng lên cho

tôi, các anh lại họp chung-quanh tôi đây,

và hãy phụng-sự tôi đi ! ... " Có cách gì

để phân-biệt linh-cảm với bịp-bợm ? "

Độc-giả Tây-phương hảy chú ý lời giải

đáp đây ! Nó là một lòi giải đáp của một nhà

duy-lý Tây-phương :

_ " Điều-kiện đầu tiên là linh-cảm

không trái nghịch với lý-trí. Cũng ví như

người già không trái nghịch với người trẻ,

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

74

nhưng mà là sự phát-triển của y, thì cái

mà chúng ta gọi là linh-cảm chính là sự

phát-triển của lý-trí. Con đường trực-giác

đi qua lý-trí. Nếu linh-cảm chống-đối lý-

trí thì hãy vứt tuột nó đi ! "

_ " Điều-kiện thú hai chẳng kém

khôn-ngoan và lành mạnh :

_ " Thứ đến là cái linh-cảm ấy phải

nhằm mục-đích hạnh-phúc cho mỗi người

và cho tất cả, chứ không phải danh-tiếng

hay là điều lợi cá-nhân. Lợi ích của nó

phải luôn luôn có tính-cách đại-đồng, và

sự vô-tư của người có linh-cảm phải là

tuyệt-đối ."

Chỉ sau khi đã được trắc-nghiệm theo hai

nguyên-tắc ấy rồi anh mới được công-nhận là

người có linh-cảm. Nhưng " anh nên nhớ rằng,

sự thực trong thế-giới hiện-tại, hàng triệu người

không có được lấy một người có linh-cảm

thần-giao !... Hiện này chúng ta chỉ chơi đùa

với tôn-giáo ."

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

75

Người ta không có thể trách Viveka-

nanda mở cửa quá dễ dàng cho mê-tín ! Ông ta

biết tín-ngưỡng của dân-tộc ông và những lạm-

dụng về sùng-bái của nó. Ông cũng biết rằng

sùng-bái của tình-cảm hay thường là mặt nạ

che giấu tính-cách nhu-nhược, và ông rất

nghiêm-nghị chống-đối nó .

" Nếu các anh cầu tìm Thượng-Đế

của Tình-Yêu, hãy không bao giờ quên

rằng nó là năng-lực tối-cao. Không có

thế-lực nào cao hơn là thế-lực của sự

tinh-khiết thuần-túy... Cái tình-yêu

Thượng-Đế ấy, những kẻ hèn yếu không

đạt được. Vậy thì không được yếu hèn, về

thân-thể cũng như về tinh-thần ! Hãy

dũng mãnh ! "

Sức-lực, lý-trí cương-cường luôn luôn lo-

âu đến hạnh-phúc đại-đồng và một lòng hoàn-

toàn vô-tư, đấy là điều-kiện để đạt tới đích. Và

lại còn một điều-kiện nữa, ấy là quyết-chí tiến

tới. Vì phần nhiều người ta tự cho là tín-

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

76

ngưỡng thì không đi tới cùng ; họ quá ư lười-

biếng, sợ-sệt và thiếu thành-tín. Họ tự mãn ở

lại giữa đường và không chịu nhìn quá thẳng

vào cái gì chờ đợi chúng cuối đường. Bởi thế

họ dùng-dằng trong miền êm-đềm của sùng-bái

hình-thức. " Nhà-Thờ và Đền Chùa, Kinh sách

và Nghi-lễ... Cái vườn trẻ ( Kindergarten ) ấy

có ích dụng cho những bước đầu của con trẻ

tâm-linh ; nhưng người ta phải vượt lên, nếu

thành-thực người ta muốn đạt chân-lý . "

Và đừng bảo rằng sự dùng-dằng ấy là một

điều khôn-ngoan lành mạnh, và những kẻ tiến

bước ra ngoài cái " vườn trẻ " bảo-vệ, sẽ liều

để mất tín-ngưỡng mình, Thượng-Đế của mình

! Sự thực họ không có gì mất cả, vì họ là bọn

tín-ngưỡng giả-dối ; và những kẻ thật vô-thần

còn hơon họ. Những kẻ thật vô-thần, vô tín-

ngưỡng còn gần với Thượng-Đế hơn là những

kẻ tín-đồ giả-dối. Hãy nghe một nhà đại tín-

ngưỡng trong hàng tín-đồ tán-dương chủ-nghĩa

vô-thần lớn :

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

77

" ... Đại đa số những người thực-tế

là những người vô-thần. tôi vui sướng

thấy rằng ở thời-đại chúng ta ngày nay, ở

Tây-phương, đã sinh xuất một giai-cấp

vô-thần khác, giai-cấp duy-vật. Họ là

những người vô-thần thành-thực. Họ cao

hơn nhiều so với bọn vô-thần tôn-giáo là

bọn giả-dối, nói về tôn-giáo tranh-đấu cho

tôn-giáo, và đồng thời luôn luôn nói về

tôn-giáo mà không bao giờ thử cố thực-

hiện hay là tìm hiểu tôn-giáo. Đức Cơ-

Đốc đã nói : " Hãy cầu xin thì anh sẽ

được ! Hãy cầu tìm thì anh sẽ thấy ! Hãy

gõ cửa thì người ta mở cửa cho anh ! ... "

Đấy là sự thật trăm phần trăm. Nhưng có

ai thực muốn Thượng-Đế ?... Chúng ta

ham muốn tất cả trừ Thượng-Đế ... "

Những tín-đồ sùng đạo Tây-phương cũng

như Đông-phương có thể lợi-dụng bài học

nặng-nề ấy. Người lột mặt-nạ mạo-hiểm sự

lừa-dối tín-ngưỡng tôn-giáo, vạch rõ cho chính

họ thấy mình là vô-thần che đậy .

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

78

" ... Ai cũng nói : Hãy yêu Thượng-

Đế ! ... Người ta chẳng biết thế nào là yêu

cả... Đâu là tình-yêu ? Ở đâu không có

mặc-cả, mua bán, không chút sợ-hãi,

không chút lợi quyền ; ở đâu chỉ có tình-

yêu cho tình-yêu, của tình-yêu ! "

Khi nào anh đi tới độ đường cuối cùng ấy

rồi, anh sẽ không cần biết anh sẽ đi đến đâu

nữa, và phải chăng có một Thượng-Đế sáng-tạo

vũ-trụ, một Thượng-Đế toàn-năng và từ-bi, một

Thượng-Đế thưởng công nhân-loại ? Anh

không cần cả đến một Thượng-Đế ác-nghiệt

hay là một Thượng-Đế từ-thiện... " Tình-nhân

đã vượt làn mức thưởng phạt, sợ-hãi hay nghi-

ngờ, bằng-chứng khoa-học hay là chi-chi

khác... " Nó yêu, nó đã tới tuyệt-đỉnh của tình-

yêu, " mà toàn-thể vũ-trụ chỉ là một biểu-

hiện... " .

Vì rằng, đến điểm này Tình-Yêu đã mất

hết giới-hạn nhân-loại để mang ý-nghĩa Vũ-trụ

của nó :

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

79

" Chính Tình-Yêu làm xoay vần thế-

giới, và những hạt đan-tử nối liền với

những đan-tử, những tinh-tú lớn vận-hành

cái nọ vào cái kia. chính Tình-Yêu là

định-luật hấp-dẫn nam, nữ, giữa các dân-

tộc, giữa cầm-thú, trong toàn-thể vũ-trụ,

thu-hút về trung-tâm... Những nguyên-tử

nhỏ nhất cho chí Thực-thể tối-cao, vô-sở

bất tại, Đấng tràn-ngập tất cả, là tình-

Yêu... Nó là năng-lực duy-nhất, Động-cơ

của vũ-trụ. Với Tình-Yêu ấy, Đức Cơ-

Đốc đã hiến tính-mệnh cho nhân-loại, và

Đức Phật làm mồi cho một con vật nhỏ-

mọn, người mẹ hy-sinh cho con mình,

người chồng cho vợ mình... với Tình-Yêu

ấy người ta hy-sinh cho tổ-quốc mình...

Và cũng với Tình-Yêu ấy _ ( thật lạ-lùng

nói đến ) kẻ ăn-trộm đi ăn-trộm, kẻ giết

người đi giết người...Vì động-lực thúc-

đẩy vẫn là một. Kẻ ăn-trộm yêu vàng,

Tình-Yêu vẫn luôn luôn tại đấy, nhưng

hướng-dẫn sai lầm... Như thế trong tất cả

tội ác cũng như trong tất cả đạo-đức hoạt-

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

80

bát, cái Tình-Yêu vĩnh-cửu ấy vẫn ở bên

trong, đàng sau... Nó vận-chuyển vũ-trụ.

Không có Nó, vũ-trụ sẽ sụp đổ tan vụn

trong phút chốc... Và Tình-Yêu ấy là

Thượng-Đế ... "

Ở đây một lần nữa cũng như điểm kết-

thúc đạo Nghiệp ( Karmayoga) chúng ta đạt tới

một cực-điểm giải-thoát hay là Thần-hóa _

Sùng-bái tối-cao mà những liên-hệ có vẻ đoạn-

tuyệt với sinh-tồn phổ-thông, đến nỗi sinh-tồn

dễ bị hủy-hoại hay là mất quân-bình. Tín-đồ

Sùng-bái đã cởi bỏ hết hình-tướng, tượng-trưng

và không còn gì ràng-buộc, không còn môn-

phái, không còn Nhà-Thờ ; không môn-phái

hay Nhà-Thờ nào đủ cỡ cho nó nữa, nó đã đạt

tới cõi Tình-Yêu vô-hạn và nó trở nên làm Một

với Tình-Yêu. Hết hẳn ham muốn, hết nhẵn vị-

kỷ, hết cả Tự-Ngã, đấy là Ánh-sáng tỏa chiếu

viên-mãn. Người ta đã đi hết đường, nó đã trải

qua hệ-thống đầy đủ các giai-đoạn : nó đã là

con, là bạn, tình-nhân, chồng, cha, mẹ. Bây giờ

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

81

nó là Một với Người Yêu _ " Tôi là mình và

mình là tôi... " Và tất cả chỉ là Một...

Và sau đấy không còn chi nữa ? ...

Nó tự ý lại xuống khỏi các đỉnh Sáng chói

và trở về loài người dưới trần-thế để dơ tay cứu

vớt .

" Sau khi đã đạt tới siêu-thức, tín-đồ

Sùng-Bái ( Bhakta ) trở xuống với Tình-

Yêu và sùng-Bái _ vào tình-yêu tinh-

khiết, không bợn ham muốn, không có gì

để được ... "

_ ( Ký chú các cuộc đàm đạo, vol. VI ,

Toàn-tập _ Vivekananda )

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

83

- III -

ĐẠO THIỀN

( Rajayoga )

Hay Là " Đạo-Dẫn Thiền-Định "

Chúng ta bây giờ đi đến con đường riêng

của Vivekananda _ tuy rằng ông thực-hành tất

cả và ông luôn luôn chủ-trương hòa-điệu bốn

loại Đạo-dẫn ( Yogas ) _ con đường riêng này

có thể gọi là tên ông vì nó là con đường của sự

" Biện-biệt " ( Viveka ), và nó là con đường

theo ông xét-đoán có thể và phải hợp-nhất Tây-

phương với Đông-phương : _ Đạo Chân-Tri

( Jñānayoga ) _ con đường " thực-hiện " bằng

" Tri-thức " ( nghĩa là tinh-thần thám-hiểm và

chinh-phục Thực-thể cuối cùng hay là

Brahman ) .

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

84

Nhưng cuộc thám-hiểm anh-dũng ấy mà

cuộc chinh-phục Nam-cực, Bắc-cực đối với nó

chỉ như một trò chơi, và trong ấy, các tập-đoàn

khoa-học và tôn-giáo thi đua nhau, thì cần phải

có một sự sửa-soạn nghiêm-túc và tỉ-mỉ. Người

ta không lao đầu phiêu-lưu vào đấy như người

ta có thể đi vào hai con đường trên đây, con

đường Hành-Động và Sùng-Ái ( Karma và

Bhakti ). Ở đây người ta phải trang-bị đủ dụng-

cụ tập-luyện. Và đấy là công việc của Thiền-

định, Đạo-dẫn ( Rajayoga ). Tuy rằng nó có

môi-trường riêng của nó để nó tự-mãn, tự-túc,

nó có vai-trò gần như Trường Dự-bị cho bậc

Thiền tối-cao của Giác-ngộ. Bởi vậy nên tôi

dành cho nó một địa-vị ở đây. Vả lại cũng là

vị-trí mà Vivekananda gán cho nó .

Đạo-dẫn Thiền-định tối-cao ( Rajayoga )

là Vua ( Rajah ) của các Đạo-dẫn. Và thông-

thường chỉ cái tên Đạo-dẫn ( Yoga) cũng đủ

nói lên địa-vị đế-vương, không cần đến phẩm-

tính khác. nó là khoa Đạo-dẫn lý-tưởng. Nếu

Yoga có nghĩa là hợp-nhất với đối-tượng ( và

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

85

chủ-thể ) tối cao của Chân-tri Giác-ngộ, thì

Đạo-dẫn Thiền-định ( Rajayoga ) là phương-

pháp thực-nghiệm tâm-sinh-lý để đạt đạo trực-

tiếp .

" Khoa-học Rajayoga, Đạo-dẫn

Thiền-định chủ-ý đem cho nhân-loại một

phương-pháp thực-tiễn, khoa-học để đạt

chân-lý ( hiểu theo nghĩa Ấn-Độ là thực-

hiện chân-lý cá-nhân và sinh-động ) "

_ ( Rajayoga, ch. I )

Vivekananda gọi nó là " Yoga " ( tâm-lý )

vì môi-trường hoạt-động của nó là kiểm-soát

và chủ-động tuyệt-đối về tinh-thần _ điều-kiện

tiên-quyết của tất cả tri-thức. Và nó dẫn đến

đấy bằng sự tập-trung .

" Khoa-học ngăn-ngừa thần-lực

Chitta để không cho nó phóng tán thành

vọng-động tinh-thần ( Vrittis )."

_ ( Q. VII Toàn-tập của Vivekananda )

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

86

Ở trạng-thái bình-thường chúng ta phao-

phí năng-lực của chúng ta. Không những cơn

lốc bên ngoài tung chúng ta từng mảnh-múng

ra khắp các phía. Mà cả khi chúng ta đã cố sức

đóng các cửa ngõ vào mình được rồi, chúng ta

lại thấy ở nơi ta đám đông vô số, khác nào dân-

chúng của Jules César trên công-trường La-

Mã ; hàng ngàn khách lạ, " những kẻ không

ưa " xâm chiếm và quấy rối chúng ta. Không

một hoạt-động nội-tâm nào có thể có một hiệu-

lực đứng-đắn và liên-tục, trước khi chúng ta

thu xếp trật-tự trong nhà, và thứ đến, là sau khi

chúng ta đã thu xếp, gọi về cái bầy năng-lực

phóng tán. " Những năng-lực của tinh-thần là

những tia ánh-sáng tỏa chiếu ra. Để chúng có

thể thành ngọn đuốc thì phải tập-trung chúng

lại thành thúc-tuyến. Không còn cách nào khác

của Tri-thức ."

Trong tất cả các xứ, trải qua các thời-đại,

bác-học, nghệ-sĩ, nhà hành-động mãnh-liệt và

chuyên-chú nhiệt-thành, đã từng biết điều ấy và

từng thực-hành, do bản-năng theo các phương-

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

87

pháp cá-nhân riêng, có suy nghĩ hay là vô ý-

thức mà những thí-nghiệm riêng của họ đã gợi

ý. Tôi đã chứng-minh bằng tỉ-dụ của một

Beethoven, một thiên-tài Tây-phương, có thể

bất ngờ thực-hiện đến mức điểm nào một chân

Đạo-dẫn Thiền-định ( Rajayoga ) với sắc-thái

độc-đáo rõ rệt. Nhưng cái tỉ-dụ ấy chính nó là

một bằng-chứng không chối-cãi của những

nguy hiểm mà sự thực-hành cá-nhân, mặc cho

sức nội-tâm vươn lên mù-quáng, không đủ

hiểu-biết và không kiểm-soát, đã đưa đến.

Vivekananda viết :

_ " Tất cả những người có linh-cảm

bột hứng mù-quáng, khởi hành từ bản-

tính cảm-súc của họ, đều nhắc lại cái

trạng-thái ấy với nhiều chính-xác, những

sai lầm, những cuồng tín... họ có những

ảo-giác và dễ bị điên cuồng ... "

_ ( Rajayoga, ch. VII )

Tính-chất độc-đáo của khoa Đạo-dẫn

Thiền-định ( Rajayoga ) Ấn-Độ, ở chỗ nó là

một khoa-học được cấu-tạo và thì-nghiệm tỉ-mỉ

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

88

hàng thế-kỷ về sự chinh-phục tập-trung và làm

chủ tinh-thần. Trong danh-từ tinh-thần ấy, nhà

đạo-dẫn ( Yogin ) Ấn cũng ngụ ý cả dụng-cụ

lẫn đối-tượng của trí-thức. Và liên can đến đối

tượng thì y đi xa lắm, xa quá mức tôi có thể

theo được. Không phải tôi phủ-nhận theo

nguyên-tắc đối-lập với những quyền-năng vô-

hạn mà y gán cho khoa-học của mình, không

những về linh-hồn mà còn cả về thiên-nhiên

( vả lại trong tín-ngưỡng Ấn-Độ linh-hồn và

thiên-nhiên không phân-biệt). Thái-độ khoa-

học chân-chính là dè dặt đối với những khả-

năng tương lai của tinh-thần, mà nội-dung cũng

như hình-thức chứa đựng, nghĩa là những giới-

hạn _ chưa được xác-định theo khoa-học.

Nhưng chính đấy mà tôi trách nhà đạo-dẫn

( Yogin ) Ấn, coi như đã chứng thực điều chưa

từng có thể thực-nghiệm. Vì rằng nếu những

quyền-năng huyền-diệu ấy có thật thì người ta

không hiểu tại sao, như chính một nhà bác-học

thiên-tài và tín-ngưỡng Sir Jagadis Ch. Bose đã

nói với tôi, các vị Thấu-thị cổ-điển ( Rishis ) đã

không sử-dụng để biến-đổi thế-giới ? Và càng

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

89

đáng trách nặng hơn nữa là họ đã để rơi vào

đầu nõa tham-vọng và thô-tục những hứa hẹn

điên cuồng kia, giống như những hứa hẹn của

thiên-thần huyền-thoại trong truyện Ngàn Một

Đêm (Mille et Une Nuits). Chính Vivekananda

cũng không luôn luôn giữ được cái lối truyền-

giáo ấy, nó nêm câu có mồi nguy-hiểm cho

những tâm-hồn vật-dục tham-lam nhất .

Nhưng ông luôn luôn thận-trọng, ngăn

rào đối-tượng thèm muốn bằng năm lần hàng

rào lửa, như trên mỏm núi đá Brünhild. Tránh

xa sư trưng-bày những quyền-năng siêu-nhiên

thần-thông như là phần thưởng của nỗ-lực Đạo-

dẫn ( Yoga ). Vivekananda cũng như tất cả các

nhà đại Đạo-dẫn, coi chúng như là một sự cám-

dỗ của Jésus đã gặp trên đỉnh núi, ở đấy ma-

vương dâng Ngài ngôi bá-chủ hoàn-cầu. ( Và

tôi tin chắc rằng trong thấn-thoại Cơ-Đốc, lúc

ấy tương-đương với độ đường gần chót lịch-

trình Đạo-dẫn của riêng Ngài ). Sự cám-dỗ ấy,

nếu người ta sa-ngã thì tất cả công-phu tu-

luyện mất không ... __ " Đến giai-đoạn ấy,

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

90

nhiều quyền-năng sẽ đến. Nhà tu-luyện không

được nhượng-bộ, mà phải ném tuốt đi. Chỉ đến

lúc ấy, y mới tiêu diệt hoàn-toàn ba-động trong

bể tinh-thần... " Y đạt tới hợp-nhất thần-linh .

_ ( Rajayoga, ch. VII ) .

Phải là một đại anh-hùng mới lĩnh được

phần thưởng. Người ta sẽ không đạt được cả

đến độ đường thứ nhất _ yama hay chủ-động _

trước khi thực-hiện năm (5) điều-kiện tất yếu,

mà chỉ một điều-kiện cũng đủ để thành bậc

thánh .

1/ Ahimsa = Bất hại, lời đại nguyện của

phái Gandhi, mà các nhà Đạo-dẫn xưa coi như

đức tính và hạnh-phúc tối cao của nhân-loại :

" Không hại " đối với tất cả tạo-vật thiên-nhiên;

" không làm ác " ở cử-chỉ, ở lời nói, ở ý-tưởng

( thân, khẩu, ý ) đối với bất cứ chúng-sinh nào .

2/ Chân-thật tuyệt-đối, chân-thật ở hành-

động, ở ngôn-ngữ, ở tư-tưởng, vì rằng tất cả

đều lập cơ-sở trên chân-lý, qua chân-lý, tất cả

có thể đạt được .

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

91

3/ Tinh-khiết hoàn-toàn (Brahmacharya).

4/ Tuyệt-đối vô tham .

5/ Tinh-khiết tâm-hồn và tuyệt-đối vô-tư,

không nhận hay mong đợi một của cho ở một

người nào, tất cả của cho được nhận là làm mất

độc-lập, và như thế là diệt tắt linh-hồn .

_ ( Rajayoga, ch. VIII )

Vậy là minh bạch cho kẻ đê-tiện cầu tìm

trong khoa Đạo-dẫn ( Yoga ) lấy phương-tiện

giả-trá để " thành công ", những kẻ muốn

" tháu cáy " lừa gạt định-mệnh, những kẻ đầu

cơ năng-lực huyền-bí và những khách hàng

Mỹ-viện đều thấy tại vòng thành đầu tiên yết

thị : " Cấm không được vượt qua ! ... " Nhưng

phần lớn không để ý đọc yết-thị ; và họ cố

quyến-rũ Sư-phụ ít nhiều chân-chính, là người

canh cửa, để cho họ vượt qua .

Bởi vậy nên dần dần Vivekananda nhận

thấy rõ hơn sự nguy-hiểm của một số lời nói

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

92

của mình đối với những tính tình què quặt và

hoàn-toàn vô-lương-tâm, ông bèn tránh không

đề-cập đến khoa Đạo-dẫn Thiền-định này nữa.

Và càng ngày ông càng thu giáo-lý ấy về

phương-pháp khoa-học nhất, để chinh-phục

công-cụ hoàn-hảo nhất của Giác-ngộ, của Chân

tri-thức, ấy là : Tập-trung .

" Trên con đường Đạo-dẫn Thiền-

định ( Rajayoga ) có nhiều trở ngại lắm.

Có lẽ tinh-thần sẽ chạy theo những

quyền-năng thần-thông ; và như thế anh

sẽ bỏ mất mục-đích đạt tới chân-tính của

mình. Con đường Sùng-bái ( Bhakti )

Thượng-Đế, tuy dễ thực-hành nhưng tiến

hành rất chậm. Chỉ có con đường Tri-thức

( Jñāna ) của trí-tuệ là mau lẹ và chắc

chắn, hợp lý và đại-đồng ."

_ ( Tập VII trong Toàn-tập )

" Hãy trừ bỏ sự bứt-rứt trí-thức...

Chọn lấy một ý-niệm, làm thành cả đời

sống của mình, nghĩ vào đấy, tơ-tưởng

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

93

vào đấy, làm sao cho nó trở nên thực-chất

của tất cả thân-thể ! "

_ ( Rajayoga, ch. VI )

Tập-trung tuyệt-đối năng-lực tinh-thần,

đấy là điều đáng chú ý cho tất cả chúng ta. Bất

cứ kết-quả tinh-thần đạt được bằng dụng-cụ ấy

như thế nào, nhà khảo-cứu chân-lý ở Tây-

phương cũng như ở Đông-phương đều sử-dụng

cùng một dụng cụ ; và họ đều có lợi được nó

chính-xác hơn, hoàn-hảo hơn. Về điểm này thì

không có gì huyền-bí cả. Trí thông-minh, lành

mạnh của Vivekananda đối với tất cả cái gì che

đậy, tất cả cái gì không thẳng-thắn trong những

khảo-cứu về tinh-thần, ông có ác cảm giống hệt

với các nhà bác-học Tây-phương trung thực

nhất của chúng ta :

_ " Không có chút gì huyền-bí trong

lời tôi giảng-giải... Tất cả cái gì bí-mật và

huyền-diệu trong cái hệ-thống Đạo-dẫn

( Yoga ) phải được trừ bỏ đi. Các anh

phải vứt hết, không thương tiếc tất cả

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

94

những điều làm cho các anh nhu-nhược.

Song, những chuyện huyền-bí ấy làm cho

đầu óc nhân-loại yếu hèn. Chúng hầu như

sắp phá hủy khoa đạo-dẫn, vốn là một

khoa vĩ-đại trong các khoa học... Hãy tự

mình thí-nghiệm vào bản thân ! Không có

gì huyền-bí hay là nguy-hiểm cả... Rất hại

là tin mà mù-quáng ...

_ ( Rajayoga, ch. I )

Không ai cấm nghiêm-nghị hơn sự trao

quyền tự-kiểm, dù một phần, dù tạm thời vào

tay người ngoài. Và vì thế mà Vivekananda tỏ

ra hung bạo chống đối tất cả hình thức ám-thị,

dù ngay thật và đầy thiện-chí :

" Sự ám-thị thôi-miên chỉ có thể

hành-động vào một tinh-thần yếu-đuối và

đưa nó vào trạng-thái bệnh hoạn... Vấn-đề

cốt yếu không phải là làm cho bệnh-nhân

mất tinh-thần bằng hành-động từ bên

ngoài vào, mà là huấn-luyện tinh-thần tự-

chủ lấy mình, không làm cho nó mất đi

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

95

chút năng-lực nào của nó. Tất cả nỗ-lực

kiểm-soát không tự ý muốn của mình thì

rất tai hại. Nó cột thêm một vòng xích

vào cái xích nô-lệ. Không nên để cho kẻ

khác hành-động vào mình, cả đến trong

trường-hợp chúng tạm-thời có vẻ làm lợi

cho mình !... Hãy sử-dụng chính tinh-thần

của mình ! Hãy tự chủ lấy chính mình ở

thân-thể cũng như ở tư-tưởng. Nếu anh

không bệnh-hoạn, thật lành mạnh, thì

không một ý-chí nào khác có thể hành-

động vào anh được. Hãy tránh xa những

kẻ nào, dù thế-lực mấy, dù thiện-chí mấy,

chúng đòi anh tin một cách mù-quáng !...

Tốt lành hơn, thà chịu xấu còn hơn là trở

nên tốt bề ngoài bằng một sự chịu lệ-

thuộc ngoại lai... Coi chừng tất cả cái gì

đe dọa sự tự-do của mình ! "

_ ( Rajayoga, ch. VI )

Trong mê say không đừng được về tự-do

tinh-thần, ông đi đến, như Tolstoï, gạt ra ngoài

cả thế-lực nguy-hiểm của súc-cảm nghệ-thuật,

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

96

và nhất là của âm-nhạc, khỏi công việc chính-

xác của trí-tuệ, tuy ông bẩm-sinh vào nòi nghệ-

sĩ và nhạc-sĩ. Tất cả điều gì dễ làm giảm mất

độc-lập của tinh-thần quan-sát và thí-nghiệm,

cả đến khi nó có vẻ mang lại điều tốt lành hay

là một sự nâng-đỡ tạm thời, đều là một " mầm

trụy-lạc tương-lai, tội ác, điên rồ và diệt vong".

Tôi không tin rằng tinh-thần khoa-học

nghiêm-khắc nhất có thể bầy tỏ một cách mãnh

liệt hơn thế ; và lý-trí Tây-phương phải biểu-

đồng-tình về những nguyên-lý trên với Viveka-

nanda .

Người ta càng lấy làm lạ sao cái lý-trí

khoa-học ấy lại ít chú ý đến những khảo-cứu

thực-nghiệm của các khoa Đạo-dẫn Thiền-định

Ấn-Độ, và làm sao ở Tây-phương chúng ta

không thử dùng những phương-pháp kiểm-soát

và chinh-phục của chúng cống-hiến, công khai

để thêm vào cái công-cụ duy-nhất, vô cùng

mong manh và luôn luôn bị sai lạc mà chúng ta

có được để biết về thực-tại .

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

97

Cho rằng _ điều này không ai có ý phủ-

nhận _ khoa sinh-lý, tâm-lý Đạo-dẫn sử dụng

những giải-thích và nhất là những tên gọi

không được nghiêm-chỉnh và lỗi-thời, thì điều

ấy dễ đính-chính lại để thích-ứng với khao-học

hiện-tại _ ( Và chính đấy là điều mà Viveka-

nanda đã cố gắng ) _ những thực-nghiệm hàng

thế-kỷ liên-tiếp. Không có những phòng thí-

nghiệm của chúng ta, các nhà quan-sát Ấn đã

có những thế-kỷ ấy của sự kiên-nhẫn và trực-

giác thần-tình. Làm thế nào mà nghi-ngờ được

điều ấy, khi người ta đọc thấy trong những bản

kinh thánh cổ xưa nhất, những câu nói sáng

suốt về tính-chất các vật-thể sinh sống, như

những câu này : " Vật thể là danh-từ chỉ-định

cho một chuỗi biến-đổi... Cũng như trong một

giòng sông, những khối nước thay đổi từng

phút không ngừng, và các khối khác đến thay

thế bằng một hình-thức tương-tự, chính như thế

là cái vật-thể này vậy ."

Cái ý-niệm căn-bản, ở đây là vũ-trụ cốt-

yếu, do một thực-thể duy-nhất tạo nên, mà tất

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

98

cả các hình-thái luôn luôn biến-đổi. " Tổng thể

tất cả những năng-lực vẫn luôn luôn là một

thể . " _ ( Rajayoga, ch. III )

Không bao giờ tín-ngưỡng tôn-giáo của

họ làm hại cho những đòi hỏi khoa học của họ ;

và sự đòi hỏi thứ nhất chẳng phải đối với họ là

một điều-kiện bắt buộc khoa học họ giảng-dạy

phải chịu ; họ còn luôn luôn thận-trọng cả đến

dành cho lý-trí thế-tục, bất khả tri luận hay là

vô-thần, những khả năng đạt chân-lý bằng

những đường lối riêng của chúng. Do đấy mà

khoa Đạo-dẫn Thiền-định ( Rajayoga ) thừa

nhận có hai nhóm khác nhau, nhóm Đại-thừa

Đạo-dẫn ( Mahayoga ) quan-niệm đồng-nhất-

tính giữa Tự-Ngã với Thượng-Đế, và nhóm

Vô-Tính Đạo-dẫn ( Abhâvayoga _ abhava =

không có ) nó nghiên-cứu tự-thể, " coi như

không có, sạch hết phẩm tính ", như đối-tượng

của quan-sát khoa học thuần-túy và chặt chẽ.

Các nhà tín-ngưỡng tôn-giáo Tây-phương có

thể lấy làm lạ về một sự bao dung như thế.

Nhưng nó vốn bản nhiên của tín-ngưỡng

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

99

Vedanta, quan-niệm tinh-thần nhân-loại là

Thượng-Đế không tự biết, có thể và phải đi dến

tự-giác. _ Một tín điều như thế thì không xa với

nguyện-vọng thầm kín hay công-khai của

Khoa-học. Vậy ở đây, chúng ta không phải ở

trên một mảnh đất xa lạ .

Hãy nói thêm rằng, khoa sinh-lý tâm-lý

học tôn-giáo Ấn-Độ thì hoàn-toàn duy-vật cho

tới một trình-độ nào của hữu-thể đặt tại mức rất

cao vì nó vượt cả " tinh-thần ". Lai nguyên của

tri-giác nó theo dõi _ bắt đầu từ những ấn-

tượng tiếp nhận của vật-thể bên ngoài cho tới

trung khu thần-kinh vào não-bộ chứa tích

chúng, và từ đấy cho đến tinh-thần _ tất cả đều

là vật-chất : tinh-thần chỉ là một chất tế-nhị

hơn, chứ không phải khác về bản chất với thân-

thể. Chỉ đến trình-độ ở trên thì linh-hồn phi

chất hay là Purusha = Thần-ngã mới can dự, nó

tiếp nhận những tri-giác ở tinh-thần là công cụ

của nó, để cho lại mệnh-lệnh cho các trung khu

phát động. Do đấy mà khoa-học cận-đại thực-

tiễn có thể đi chung đường với tín-ngưỡng Ấn-

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

100

Độ trong khoảng ba phần tư lịch-trình. Chỉ đến

độ đường áp chót nó mới có thể nói : _ " Dừng

lại ! " _ Điều tôi yêu cầu nó là hãy đi chung ba

phần tư đường. Vì có thể rằng, (và riêng tôi tin)

những nhà thám-hiểm Ấn-Độ đã thấy ở dọc

đường nhiều sự-vật mà mắt chúng ta đã không

để ý đến. Hãy lợi-dụng những phát-hiện của

họ, đồng thời không từ bỏ, lẽ dĩ nhiên thi-hành

tự-do phê phán của chúng ta đối với chúng .

***

*

Trong giới-hạn của tập sách này tôi

không thể dừng xét tỉ mỉ các phương-pháp

Đạo-dẫn Thiền-định ( Rajayoga ). Nhưng tôi

xin giới-thiệu với các giáo-sư Tây-phương về

tâm-lý-học tối-tân, về phân-tâm-học và về sư-

phạm khoa học căn cứ vào sinh-lý của tinh-

thần. Chính tự tôi đã lợi dụng cho tôi những

phân-tích đáng chú ý ấy ; và nếu quá muộn để

cho tôi có thể ứng dụng những bài học ấy vào

đời sống, tôi cũng khâm-phục chúng đã soi

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

101

sáng những kinh-nghiệm đã qua của tôi, giải-

thích những lầm lạc và những bản năng hướng

dẫn mù quáng của tôi .

Tôi ghi nhận nhiều nhất ở ba giai-đoạn

đầu về tâm-lý tập-trung tinh-thần :

_ Prâtyâhàra : tập-trung về hướng quan-

năng khỏi sự-vật ngoại-giới và hoàn-toàn quay

vào những ấn-tượng tinh-thần .

_ Dhâranâ : bắt tinh-thần bấu chặt vào

một điểm chỉ-định ở ngoài hay ở trong .

_ Dhyana, hay là Thiền-định chính-thức,

trong ấy tinh-thần đã được những thực-tập trên

đây đào luyện, đã có được năng-lực " chảy

thành một giòng liên-tục về điểm nó đã chọn ".

Vivekananda nói rằng chỉ bắt đầu chinh-

phục được giai-đoạn thứ nhất thì tính-cách mới

tạo nên. Nhưng " không phải dễ gì làm chủ

đưọc tinh-thần, con vượn điên cuồng ấy, luôn

luôn theo bản-tính hoạt-động, nó say-sưa dục-

vọng, đố-kỵ, khích-thích và kiêu-hãnh, dầy-

vò." _ Sư-phụ đã dạy bảo gì ? Thi-hành ý-chí

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

102

chăng ? Không, ông đã đi trước những phát-

minh chậm-chạp của các nhà y-sĩ tâm-lý của

chúng ta, nhận rằng áp dụng vụng về ý-chí đối

với khuynh-hướng tinh-thần thường gây nên

một phản-ứng mãnh-liệt hơn cho khuynh-

hướng ấy. Sư-phụ dạy chinh-phục " con vượn "

bằng cách để cho nó kiệt sức dưới con mắt nội-

tâm, nó xét đoán một cách bình-tĩnh. Và các

nhà Đạo-dẫn cổ thời không chờ đến Bác-sĩ

Freud để biết được rằng khoa trị-liệu tinh-thần

tốt nhất là để cho nó nhìn thẳng vào tận mắt

những con quỷ náu dưới đáy :

_ " Hãy để trong một thời-gian cho

tinh-thần trôi qua. Nó sôi sùng sục, nổi

bọt. Hãy để cho con vượn nhảy nhót. Hãy

chờ đợi và quan sát !... Nhiều tư-tưởng

ghê tởm các anh mang trong lòng sẽ biểu-

lộ ra cho anh... Những hiểu-biết là khả-

năng... Hãy kiên tâm. Mỗi ngày sự lêu

lồng của tinh-thần sẽ bớt đi dần... Nhưng

tôi không giấu-giếm rằng công phu thì lâu

và vất-vả ... "

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

103

Đến giai-đoạn sau, cũng thế, nhà đạo-sĩ

biết lợi-dụng trò tưởng-tượng để phụng-sự kỷ-

luật tinh-thần, nó muốn cố định vào một điểm .

Và luôn luôn Sư-phụ để ý đến những điều

kiện sinh-lý : _ Tránh mệt nhọc... " Những

thực-tập ấy không thích-hợp để theo đuổi công

việc vất-vả của một hành-trình ." Hãy thận-

trọng về phép-tắc dưỡng-sinh. " Bước đầu

nghiêm-khắc : uống sữa và ăn ngũ-cốc " ;

kiêng tất cả cái gì kích-thích. tuyệt-đối chay

tĩnh. Không tĩnh dục thì khoa Đạo-dẫn sẽ có

những hiểm-họa tệ hại. Thực thế, theo sự quan-

sát của Ấn-Độ, mỗi cá-nhân chúng ta có một

năng-lượng tổng-cộng nhất-định ; nhưng cái

năng-lượng ấy có thể di-chuyển từ trung-tâm

nọ sang trung-tâm kia. Năng-lực dục-tính âm,

dương do trí óc sử-dụng biến hóa thành năng-

lực tinh-thần. Nhưng nếu, như phương-ngôn

nói : " người ta đốt nến cả hai đầu ", thì đấy là

bại-hoại sinh-lý và tâm-lý. Một Đạo-dẫn theo

đuổi trong những điều-kiện ấy đưa đến lầm lạc

tệ hại .

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

104

Nên thêm rằng, các nhà Thiền-định Âu-

Tây rất thường lãng bỏ : vệ-sinh và hoàn-toàn

tinh-khiết. Sự tinh-khiết mà khoa Đạo-dẫn

( Yoga ) đặt làm phép-tắc thì bao-hàm cả hai

giới-điều : tinh-khiết tinh-thần và thân-thể.

" Không ai được là Đạo-sĩ ( Yogin ) nếu không

giữ cả hai giới-điều." _ ( Rajayoga, ch. VIII )

Những hiện-tượng nội-tâm được quan-sát

và mô-tả thật là tinh-vi đáng phục. bước đầu

tập-trung tinh-thần, cảm-giác rất nhỏ có thể

thành ba-động rộng lớn lạ lùng : " Một cái kim

rơi làm thành một tiếng sấm... " Có khi người

ta nghe thấy tiếng chuông rung từ đàng xa, hòa

thành một điệu liên-tục. Những điểm sáng như

đom đóm xuất hiện.... v.v. "

Vậy, rất trọng-yếu là trông coi trực-tiếp

cơ-thể, ngõ hầu gìn-giữ ở tại điểm tuyệt-đối

bình-tĩnh là mục-tiêu nhằm đến. Trong tất cả

điều này, sự chuyên tâm bền vững như người ta

thấy là tránh sự thái-quá bệnh-hoạn, tất cả sự

mất thăng-bằng thiên-lệch mà Tây-phương

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

105

vụng-về, luôn luôn vội-vàng gán thuộc tính

mô-phỏng cho nghệ-sĩ linh-cảm, theo kiểu

Beethoven hay là cho tâm-linh thần-hóa .

" Kẻ nào nhịn đói, kẻ nào ăn nhiều

quá, kẻ nào không ngủ, kẻ nào ngủ nhiều

quá, kẻ nào làm việc nhiều quá, kẻ nào

không làm việc, đều không có thể thành

Đạo-sĩ ( Yogin ) .

_ ( Rajayoga, ch. I )

" Chớ nên tập Thiền-định, khi thân-

thể đau yếu hay là quá ươn lười, hay là

khi tinh-thần rất khốn-nạn và đau buồn ."

_ ( Rajayoga, ch. VIII )

Sư-phụ Đạo-dẫn, trái lại, cho rằng sức

mạnh thân-thể cũng như tinh-thần, đều có lợi

cho khoa Đạo-dẫn ( Yoga ). Những hiệu-quả

thấy quá mau ở sự bình-tĩnh của thân-thể, ở nét

mặt thoải-mái, ở cả giọng nói nữa. Chắc hẳn

đây chính là những mục-tiêu mà các đệ-tử thế-

tục của các Đạo-sĩ chân hay giả theo đuổi. Họ

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

106

cứ việc theo đuổi. Trong một tổng bộ kinh-

nghiệm phong-phú như thế, bao gồm nhiêu

khu-vực khác nhau về thân-thể cũng như tinh-

thần, mỗi người ai nấy đều có thể hái lượm cho

lưng vốn của mình. Ở đây chúng tôi chỉ để ý

đến các nhà tâm-lý-học và bác-học thôi !

_ ( Không chút vượt ra ngoài bình-diện có

thể quan-sát và trắc-nghiệm, điều hiện này đã

được chứng-minh là một kiểm-soát chủ-động

đời sống nội-tâm, có thể mang lại một phần

hay là toàn-thể đời sống vô-thức hay là tiềm-

thức của chúng ta. " Mỗi một động-tác vô-thức

có thể gọi lên bình-diện ý-thức." _ ( Rajayoga,

ch. VII ). Người ta biết, nhà Đạo-sĩ ( Yogin )

đã lợi-dụng để ngừng định hay phát động các

động-tác sinh-lý mà chúng có vẻ ở ngoài sự

kiểm-soát của ý-chí chúng ta : ví như những

tiếng đập của trái tim. Những quan-sát khoa-

học nghiêm-chỉnh chính-xác đã xác-định thực-

tại của những thực-kiện ấy mà chính chúng tôi

đã chứng-kiến. Nhà Đạo-sĩ ( Yogin ) tin chắc

rằng " tất cả thực-thể nhỏ bé đến mấy cũng

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

107

mang ở bản thân một kho năng-lực vô-hạn. Và

cái tin-tưởng ấy vô cùng cường kiện, tự nó

không có chi đáng phủ-nhận trên nguyên-tắc ;

sự tiến-bộ không ngừng của các khoa-học sẽ

cho điều ấy là có lý. _ Nhưng điều đặc-biệt của

khao Đạo-dẫn Yoga ( và điều này còn là nghi-

vấn ) ấy là nghĩ rằng y có thể bằng các phương-

pháp tập-trung chủ-định tăng-gia của nó, thúc

đẩy nhịp tiến-bộ cá-nhân và rút ngắn thời-gian

các chu-kỳ cần-thiết cho tiến-bộ đầy đủ của

nhân-loại. Đấy là cơ sở của những nghiên-cứu

mới của Aurobindo Ghose, khi ông dựa vào lời

nói của Vivekananda trong tác-phẩm của mình

" Synthèse des Yogas " ( Tổng-Hợp các Khoa

Đạo-dẫn ). Lời nói ấy là : _" Khoa Đạo-dẫn có

thể là phương-tiện để cho người ta đúc lại lịch-

trình toàn-vẹn về cuộc tiến-hóa của nó vào một

vài năm hay là một số tháng của đời sống thân-

thể độc-nhất ". Về phần tôi, tôi rất ngờ. Nhưng

sự nghi-ngờ của tôi là nghi-ngờ khoa-học. Nó

không phủ-nhận. Nó chờ đợi bằng-chứng của

thực-kiện cụ-thể ). _

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

109

- IV -

ĐẠO-DẪN TRÍ-TUỆ

HAY LÀ CHÂN-TRI

( Jñānayoga )

Đà tiến-triển của tinh-thần đi lên chân-lý

giải-thoát, như người ta đã thấy, có thể diễn ra

dưới nhiều hình-thức khác nhau : hình-thức

Tình-yêu Nhập-thể ; hay là Hành-động Vô-cầu;

hay là Trí-tuệ theo đuổi, chinh-phục những

định-luật của cơ-quan nội-tâm. Tất cả những

hình-thức ấy đều cần mượn điểm tựa ở tâm-

sinh-lý mà khoa Thiền-định Đạo-dẫn dạy cho

thủ-đoạn : vì rằng không có gì vững chắc và

lâu bền lại không phải trải qua một công-trình

dự-bị tập-trung cả .

Nhưng trong các hình-thức ấy, có một

hình-thức mà công-trình dự-bị này đặc-biệt cốt-

yếu và phải đi đến thành-thực, một hình-thức

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

110

vừa có đường chính riêng của mình lại có

thành-phần lệ-thuộc với khoa Đạo-dẫn, đấy là

hình-thức cuối cùng phải cứu-xét : khoa Đạo-

dẫn Chân-tri, đạo duy-lý và triết-lý. Vì rằng

Đạo-dẫn Thiền-định vốn đã là khoa học kiểm-

soát trạng-thái nội-tâm, thì nhà triết-học phải

đòi hỏi ở khoa học ấy lấy cách sử-dụng dụng-

cụ tư-tưởng của mình. Ngay cả đến người

" Biện-biệt " nổi tiếng là Vivekananda cũng

thừa-nhận con đường ấy là đặc-biệt của mình,

con đường biện-luận, nghĩa là phân-tích và

thực-nghiệm triết-học _ con đường Tri _ " tinh-

thần có thể mắc vào cái lưới vô-hạn của biện-

thuyết suông ", và chỉ có thực-hành tập-trung

Thiền-định Đạo-dẫn mới có thể cho nó vượt

qua mắt lưới .

Vậy trong trình-bày này, chúng tôi dành

sau cùng cho phương-pháp Trí-tuệ là điều hợp-

lý. Nó vốn là phương-pháp sở-trường hơn cả

của Vivekananda. Ông đã dành nhiều khảo-

luận và thuyết-trình cho nó hơn, mà tuy nhiên

ông chưa có thì giờ để hệ-thống thành học-

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

111

thuyết như là ông đã làm cho Đạo-dẫn Thiền-

định ( Rajayoga ) và Đạo-dẫn Nghiệp-hành, do

ông đọc cho người viết .

Nét thức nhất làm chúng ta chú ý là trong

phương-pháp Đạo-dẫn Trí-tuệ này cũng như

các Đạo-dẫn khác, lấy Thực-thể tuyệt-đối làm

mục-đích, vì rằng khởi-điểm và phương-tiện

của nó rất gần với tinh-thần khoa-học hơn là

tinh-thần tôn-giáo Tây-phương. Nó khẩn-thiết

viện đến khoa-học và lý-trí. " Thực-nghiệm là

nguồn độc-nhất của trí-thức ". _ ( Lý-trí và

Tôn-giáo, ch. VI )

" Không một khoa Đạo-dẫn nào từ

chối lý-trí, không một khoa nào bảo các

anh từ bỏ lý-trí giao vào tay một giáo-sĩ

nào. Mỗi khoa Đạo-dẫn bảo các anh phải

bám chặt lấy lý-trí của mình, không chút

buông thả . "

_( Lý-tưởng của một Tôn-giáo Đại-đồng )

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

112

Và ở trình-độ cao hơn hết, Đạo-dẫn Trí-

tuệ, nó khuếch đại lý-trí ; nó hiến thân cho lý-

trí. Đối với nó tất cả là khoa-học. Và tôn-giáo

là một trong các khoa học. Vậy nó phải phục-

tòng những định-luật như nhau của tinh-thần

cũng như các khoa học khác. " Cùng những

phương-pháp khảo-sát như nhau mà chúng ta

áp-dụng trong các khoa học và tri-thức về

ngoại-giới, phải chăng phải đem ứng-dụng vào

khoa học tôn-giáo ? Tôi đáp : _ phải ! Và tôi

nói thêm : _ càng sớm ngày nào càng hay. Nếu

một tôn-giáo bị sự khảo-cứu ấy phá hủy, như

vậy thì nó là một điều mê-tín vô-dụng và

không xứng đáng ; nó biến đi càng sớm càng

hay. Tôi, tuyệt-đối tin rằng sự phá hủy nó đi là

hơn hết. Tất cả cái gì là cặn-bã sẽ phải lọc đi,

nhưng những thành-phần cốt-yếu sẽ phục-hồi

toàn thắng ." _ ( Lý-tưởng một Tôn-giáo Đại-

đồng, ch. II )

Nhân danh nghĩa gì một tôn-giáo dám

đứng ra ngoài để kiểm-soát lý-trí ?

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

113

" Chúng ta có quyền gì để từ chối

việc sử-dụng lý-trí, cái ân-điển tối-cao

của Thượng-Đế ?... Chẳng phải là một tội

phạm-thượng vĩ-đại để tín ngưỡng trái

với lý-trí ?... Tôi dám chắc rằng Thượng-

Đế sẽ tha thứ cho kẻ nào sử-dụng đến lý-

trí mà không tín-ngưỡng _ hơn là cho kẻ

nào tín-ngưỡng mù-quáng, không sử-

dụng đến những năng-khiếu của Thượng-

Đế đã ban cho. Kẻ này làm trụy-lạc đến

nhân-tính và rơi xuống hàng cầm-thú.

Chúng ta phải suy-nghĩ... Có thể rằng các

nhà Tiên-tri đã vượt quá giới-hạn của

giác-quan và đã có một nhỡn-quan siêu-

nhiên. Chúng ta sẽ tin như thế, chừng nào

chúng ta có thể tự mình làm được điều ấy.

Không trước đó ! ...

" ... Người ta bảo rằng lý-trí không

đủ mạnh, nó thường không đủ sức đạt

chân-lý, rằng nhiều phen nó sai lầm ; vậy

thì kết luận là chúng ta phải tin vào uy-

quyền của một Nhà-Thờ ! Đấy là một tín-

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

114

đồ Da-Tô La-Mã đã nói với tôi ; nhưng

tôi không nhận suy-luận của y là có lý.

Tôi sẽ nói rằng, nếu lý-trí nhu-nhược, thì

một đoàn-thể giáo-sĩ sẽ còn yếu đuối hơn,

và tôi không thừa nhận phán xét của họ.

Nhưng tôi sẽ căn cứ vào lý-trí của tôi, bởi

vì với tất cả nhược-điểm của nó, còn có

chút may để nhờ vào nó mà tới được

chân-lý... Chúng ta phải tuân theo lý-trí.

Bởi vì, thà rằng nhân-loại trở nên vô-thần

theo đường của lý-trí còn hơn là tín-

ngưỡng mù-quáng vào hai trăm triệu

thần-linh, theo uy-quyền của bất cứ ai.

Điều chúng ta mong muốn là tiến-bộ.

Không một lý-thuyết nào đã từng bao giờ

làm cho loài người tiến lên cao hơn.

Năng-lực độc-nhất đáng kể là sự thực-

hiện cá-nhân và nó ở tại nơi chúng ta, nó

do ở tư-duy. Nhân-loại hãy tư-duy !

Vinh-quang của con người ở tại tư-

tưởng... Tôi tin vào lý-trí và tôi tuân theo

lý-trí của tôi, sau khi từng thấy những tệ

hại của uy-quyền, vì tôi đã sinh-trưởng ở

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

115

một xứ mà uy-quyền đã tới điểm cực-

đoan ! ... "

_ ( Vedanta Thực-tiễn, ch. II )

Cơ-bản vẫn thế, nghĩa là lý-trí _ về khoa-

học và về tôn-giáo ( như Vivekananda hiểu

nghĩa tôn-giáo ) không có sự khác nhau về

thực-chất giữa chúng, mà chỉ có khác nhau về

ứng-dụng ; và Vivekananda có khuynh-hướng

thu nhận chúng vào một ý-nghĩa. Có khi ông

nói : _" tất cả tri-thức nhân-loại chỉ là một bộ-

phận của tôn-giáo ". _ ( và tôn-giáo như thế có

thể là tông-thể của các tri-thức ). Có khi ông

ca-tụng với tinh-thần độc-lập kiêu-hãnh,

_ " những biểu-thị ấy của tôn-giáo mà đầu thì

có thể nói là nhập vào sâu trong những bí-quyết

của tầng trời, tuy rằng chân vẫn cắm chặt trong

mặt đất _ tôi hiểu là những khoa-học gọi là

duy-vật " _ ( trong tác-phẩm dẫn trên ).

" Khoa-học và tôn-giáo đều là hai

cuộc toan tính song hành để giúp chúng ta

thoát khỏi nô-lệ. Duy có tôn-giáo cổ xưa

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

116

hơn, và chúng ta có bão-phụ hay mê-tín

( hãy để ý chữ này ở miệng một nhà tín-

ngưỡng nhiệt-thành như Vivekananda ),

cho rằng nó thần-thánh hơn ..."

Chúng khác nhau ở chỗ nào ? Ở khu-vực

ứng-dụng của chúng .

" Tôn-giáo giải-quyết các chân-lý

của thế-giới siêu-hình, cũng chẳng khác

gì hóa-học và các khoa học thiên-nhiên

giải-quyết các chân-lý của thế-giới vật-lý

vậy ".

" Người là người, chừng nào nó

phấn-đấu để vươn lên trên thiên-nhiên ;

và cái thiên-nhiên ấy thì vừa nội-tại vừa

ngoại biểu. Không những nó bao hàm

những định-luật điều-đồng những phần-tử

vật-chất ở nơi chúng ta và ở bên ngoài,

mà còn cả cái thiên-nhiên tế nhị hơn tại

bên trong nó, thực-tế là cái động-lực cai-

quản bên ngoài. Một điều rất tốt, rất vĩ-

đại là chinh-phục ngoại-giới thiên-nhiên.

Còn vĩ-đại hơn nữa là chinh-phục thiên-

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

117

nhiên nội-tại. Rất vĩ-đại, rất tốt để hiểu-

biết các định-luật cai-quản những dục-

vọng, những tình-tự, ý-chí, của nhân-loại.

Và điều này thuộc phạm-vi tôn-giáo ."

_ ( Jñānayoga, I _ " Sự Thiết-yếu của

Tôn-giáo " )

Và trường-sở khác nhau, phương-pháp

khảo sát cũng phải thay đổi. Phương-pháp của

Vivekananda đề-xướng cho khoa-học tôn-giáo,

và riêng biệt của Đạo-dẫn Trí-tuệ ( Jñānayoga )

đối-lập với phương pháp mà ông cho là khiếm

khuyết của cái khoa-học mới được thông-dụng

ở Tây-phương, là lịch-sử đối chiếu các tôn-

giáo. Không phải không biết lợi ích của những

khảo-cứu lịch-sử ấy với các thuyết thần-tình

của nó về nguyên-lai các tôn-giáo cô-truyền,

Vivekananda xét các phương-pháp ấy quá " bề

ngoài hình-thức " để có thể thấu hiểu một loại

thực-kiện căn-bản là " nội tâm ". Dĩ nhiên

" xem mặt mà bắt hình dung ", vẻ mặt và thân-

hình đối với con mắt thành thực, có thể bộc lộ

cơ-thể và trạng-thái sức khoẻ. Nhưng người ta

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

118

không bao giờ biết được rõ tính-chất của cá-thể

sinh sống, nếu người ta không thực-hành môn

giải-phẫu và sinh-lý. Muốn biết rõ cái thực-

kiện tôn-giáo, người ta phải có thực-tập quan-

sát tự bên trong, tức là nội-quan ; phương-pháp

ở đây cốt-yếu phải là phương-pháp tâm-lý, cả

đến phân-tâm-học nữa. Nó là một môn hóa-học

của tinh-thần. Hãy tìm kiếm lấy yếu-tố nguyên-

thủy, tế-bào hay là nguyên-tử !

" ... Nếu tôi biết được một yếu-tố

của cục đất sét, tôi sẽ biết toàn-thể bản-

tính nó, sự sinh, trưởng, hủy, diệt của nó.

giữa phần-tử và toàn-thể, chỉ có khác

nhau trong thời-gian. vòng tuần-hoàn tự

thành tựu mau chóng có hơn kém sớm

muộn. "

Vậy thì trước tiên phải phân-tích nội tâm

để đạt tới nguyên-tử tinh-thần. Khi nào người

ta đã chinh-phục và gạn lọc những yếu-tố

nguyên-thủy rồi, người ta sẽ tổ-hợp chúng lại

và tìm suy-diễn ra các nguyên-lý. " Bấy giờ trí-

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

119

tuệ sẽ xây cất ngôi nhà ; nhưng nó không thể

xây dựng mà không có gạch vữa, và một mình

nó không có thể làm ra gạch." Khoa Đạo-dẫn

Trí-tuệ là phương-pháp chắc chắn nhất để

thâm-nhập vào các thực-kiện nguyên-thủy " .

_ ( Nhập-môn Jñānayoga, q. VI )

Và ở đây, khoa Đạo-dẫn Trí-tuệ

( Jñānayoga ) cấu-kết với các phương-pháp

thực-hành Đạo-dẫn Thiền-định ( Rajayoga ) .

Trước hết, bắt đầu là khoa sinh-lý-học tỉ-

mỉ về tinh-thần : các cơ-năng cảm-giác và vận-

động, các trung-khu thần-kinh trí-não. Rồi

phân-tích chất-liệu tinh-thần ở triết-học Tăng-

Khư ( Sankhya ) nó phân-biệt với Linh-hồn,

vốn nó là thành-phần thuộc vật-chất. Gỡ tung

cả bộ máy tri-giác và quá-trình tri-thức của tri-

giác. Cái vũ-trụ ngoại-giới là một ẩn-số không

biết x . Cái vũ-trụ chúng ta biết là cái ẩn số

x ± ấy có thêm hay bớt tinh-thẩn của ta ( hiểu

như là năng khiếu tri-giác ), nó khuôn vào cái

khuôn các điều-kiện riêng của nó. Tinh-thần

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

120

cũng chỉ tự biết qua môi-giới của tinh-thần. Nó

lại là một ẩn-số không biết là y ± có thêm hay

bớt đi những điều-kiện của tinh-thần. Sự phân-

tích của Kant đã làm ở Tây-phương thì rất

quen-thuộc với Vivekananda, mà hàng thế-kỷ

trước đây triết-học Vedanta đã làm và theo

Vivekananda thì nó đã vượt phân-tích của

Kant .

Công việc tinh-thần diễn-tiến qua hai cấp

khác nhau và bổ-túc cho nhau : Pravritti = Tiến

ra ; Nivritti = Hồi chuyển _ vận-động tuần-

hoàn phản-phục. Và phương pháp siêu-hình

cùng tôn-giáo lành mạnh bắt đầu từ cấp thứ

hai : Phủ-định hay là Giới-hạn. Cũng như

Descartes ở Tây-phương, nhà Đạo-dẫn Trí-tuệ

( Jñānin ) trước hết dọn sạch địa-bàn và tìm

điểm vững bền trước khi xây dựng. Nhu-yếu

đầu tiên là thử-thách những nền móng và trừ bỏ

tất cả các nguyên-nhân huyễn-hoặc hay mê

lầm. Đạo-dẫn Trí-tuệ ( Jñānayoga ) như vậy,

trước hết là một khoa phê-phán khắt-khe những

điều-kiện của tri-thức : Thời-gian ; Không-

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

121

gian ; Lý Nhân-quả v.v... Nó nhận-định chính-

xác những biên-giới của tinh-thần trước khi

vượt qua .

***

*

Nhưng ai cho phép nó vượt qua biên-giới

ấy ? Ai bảo-đảm ở bên ngoài giới-hạn các điều-

kiện của tinh-thần có một x hay y thực-tại,

duy-nhất thực thực-tại ? Dĩ nhiên đến đây tinh-

thần tôn-giáo sắp rời con đường cùng đi với

tinh-thần khoa-học cho đến đoạn này. Nhưng ở

cả tại đây, đến chỗ nghẹo chúng còn rất gần

nhau. bởi vì cả hai đàng cùng theo đuổi, tôn-

giáo và khoa-học, giả-thiết gì ? Cầu tìm lý

Duy-nhất, bất cứ tính-chất của nó thế nào, _ và

như vậy là tín-ngưỡng tiềm-tàng _ mà tinh-thần

tạm thời đặt ra như là một giả-thuyết phong-

phú hay là trực-tiếp tri-giác và công-nhận hẳn

như là một trực-giác nồng-nhiệt và thâm-trầm

đến nỗi nó sáng chiếu tất cả khảo-sát sắp tới .

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

122

" ... Các anh không thấy khoa-học

khuynh về đâu đấy ư ? Dân-tộc Ấn đã

tiến-hành bằng cứu-xét tinh-thần, luận-lý

và siêu-hình. Các dân-tộc Âu-Tây khởi-

hành từ sự quan-sát ngoại-giới thiên-

nhiên. Nhưng đến giờ này chúng đều đi

đến những kết-quả tương-tự. Trong cuộc

khảo-cứu tinh-thần chúng tôi đi đến sự

phát-hiện Duy-nhất-tính, cái Một đại-

đồng, Toàn-thể Bản-tính và Thực-tại...

Khoa-học vật-chất cũng đi đến cùng cái

Duy-nhất-tính ấy .

" Khoa-học chẳng là cái chi khác

hơn là cuộc hành-trình phát-hiện Duy-

nhất-tính. Một khi nó đạt tới cái Duy-nhất

Tuyệt-đối, nó sẽ dừng lại và không tiến-

bộ nữa vì nó đã đạt tới đích. Hóa-học

dừng lại khi nó đã khám-phá ra cái yếu-tố

duy-nhất cấu-tạo nên tất cả vật-thể khác.

Vật-lý-học sẽ dừng lại khi nào nó khám-

phá ra cái năng-lực duy-nhất nguyên-

thủy... Khoa học Tôn-giáo sẽ dừng lại khi

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

123

nào nó khám-phá ra cái Bản-thể duy-nhất

của sự sống. Tôn-giáo không thể đi xa

hơn nữa _ Và đấy là mục-đích của tất cả

khoa-học ."

_ ( Toàn-tập, vol. I )

Lý Duy-nhất vậy, là giả-định bắt buộc nó

cơ-bản cho tất cả xây dựng, cái Duy-nhất ấy

giả-thiết, bắt-buộc có giá-trị của một Tuyệt-đối.

Và công việc của Đạo-dẫn Trí-tuệ (Jñānayoga)

sau khi đã thám-hiểm và hoạch-định biên-giới

của hữu-hạn, là móc nối nó vào cơ-sở vô-hạn

kia, cái nóc khung cửa tò-vò Vô-cực, mà gỡ

dần cái mạng nhện mong-manh và dầy đặc của

các vòng cung bắt chéo trong kiến-trúc Gô-

tích .

Nhưng chính trong việc đan dệt của tinh-

thần ấy, mà nhà bác-học tôn-giáo Ấn-Độ nhất

quyết rời bỏ các phương-pháp độc-nhất của nhà

duy-lý Âu-Tây công-nhận. Bởi vì ở đây, để

vượt qua khoảng rỗng ngăn cách biên-giới

giác-quan với Tuyệt-đối, nhà tôn-giáo Ấn-Độ

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

124

gọi đến trong cơ-thể nó một loại thưc-nghiệm

mới mà khoa-học Tây-phương chưa từng công-

nhận. Và chính đấy, gọi đúng danh đối với nó

là Thực-nghiệm tôn-giáo tâm-linh .

Tôi vừa nó đến những viên " gạch " mà

" trí-tuệ sẽ dùng xây nhà của nó ". Những viên

gạch mà Đạo-sĩ Ấn ( Yogin ) sắp dùng đến thì

đang để vô dụng tại trong xưởng của chúng ta .

Khoa-học Tây-phương thi-triển bằng thí-

nghiệm và suy-luận. Ở cả hai trường-hợp, nó

không thử tìm ra khỏi cái vòng tương-đối-tính,

hoặc của thiên-nhiên ngoại-giới, hoặc của

chính tinh-thần nó. Cái giả-định Duy-nhất-tính,

then chốt của hiện-tượng, còn treo lơ-lửng

trong không-trung ; nó là một giả-tưởng hơn là

một Bản-thể, tuy cần-thiết để móc lấy cái chuỗi

giây của những lý-luận và thực-kiện. Nhưng

cai đanh đóng vững mà chả ai biết hay tìm hỏi

xem nó được đóng vào cái gì ?

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

125

Nhà hiền-triết Vedanta kính phục sự mạo-

hiểm thần-linh mà nó không tự nhận của khoa-

học Tây-phương và việc làm vô-tư của nó ;

nhưng ông không tin phương-pháp của nó có

thể một ngày nào bắt được cái Duy-nhất-tính

kia, mà sự thực nó không có thể bỏ qua. Cũng

như các tôn-giáo Tây-phương, theo ông không

thoát khỏi quan-niệm nhân-cách về Thần-linh,

thì các khoa-học không có vẻ vượt được lên

trên một Thực-tại ngoài kích-thước tinh-thần

nhân-loại. Phải tìm thấy một vũ-trụ bao-hàm tất

cả các vũ-trụ. Giải đáp cho vấn-đề sẽ là phát-

hiện cái " nescio quid " ( cái gì không biết ) là

của chung cho tất cả các vũ-trụ, thế-giới thấp

cũng như thế-giới cao. Các nhà tư-tưởng Ấn-

Độ đã nhận xét thấy rằng họ càng đi xa trung-

tâm thì sự phân-hóa khác biệt càng rõ-rệt, và

càng đi gần vào trung-tâm, họ càng thấy tiếp-

cận với Duy-nhất-tính .

" Ngoại-giới đối với họ thì rất xa

với trung-tâm : và không phải ở đấy

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

126

người ta sẽ tìm ra mảnh đất chung để tất

cả hiện-tượng sinh-tồn có thể gặp gỡ

được ."

Có những hiện-tượng khác với những

hiện-tượng ngoại-giới : những hiện-tượng tinh-

thần, đạo-đức, trí-thức ; có nhiều bình-diện

sinh-tồn ; nếu người ta chỉ thám-hiểm có một

bình-diện thì người ta không thể giải-thích

được toàn-diện. Vậy điều-kiện tất-yếu là phải

đạt tới trung-tâm để từ đấy đi ra các ngả của tất

cả bình-diện sinh-tồn. Cái trung-tâm ấy thì ở tại

trong chúng ta. Các triết-gia Vedanta cổ-điển,

trong công-cuộc thám-hiểm của họ, đã đạt tới

việc khám-phá ra cái nhân-tố thâm sâu nhất của

tâm-hồn, là trung-tâm của tất cả vũ-trụ .

_ ( Jñā-nayoga " Thực-hiện ", 29-10-1896 ).

Chính đấy là nơi người ta phải đi đến.

Phải khoan mỏ, phải đào, phải nhìn thấy và sờ

thấy. Và chính đấy là vai-trò riêng-biệt của tôn-

giáo, theo nghĩa Ấn-Độ, vì rằng như chúng ta

đã thấy nó trước hết, nếu chẳng phải độc-

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

127

chuyên là " vấn-đề thực-hiện cụ-thể ". Về điểm

này, Vivekananda đã đi xa đến nỗi ông dám

viết : _" Thà không tin còn hơn là đã không

cảm-súc," ( nghĩa là tri-giác và thí-nghiệm ) .

Người ta thấy nhu cầu khoa-học lạ lùng ở ông

luôn luôn pha trộn với tôn-giáo .

Nhưng cái khoa-học riêng biệt ấy đòi sử-

dụng thực-nghiệm riêng biệt, một hạng siêu-

đẳng, Vivekananda viết :

" Tôn-giáo căn-bản tiến-hành một

cuộc phấn-đấu để vượt lên trên giới-hạn

của giác-quan. Phải tìm ở đấy " cái mầm

chân-chính của nó ... "

_ ( Jñānayoga, " Sự cần-thiết của Tôn-

giáo "_ diễn-thuyết tại Londres ).

Vivekananda tưởng rằng khích-động đầu

tiên cho cuộc tìm-tòi ấy đã đến với nhân-loại

qua những giấc mộng ; chúng truyền cho nó ý-

niệm đầu tiên lờ-mờ về bất-tử. " Khi người ta

nhận thấy rằng giấc mộng không phải cuộc

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

128

sống mới, bấy giờ bắt đầu cuộc tìm tòi... Nó

tiếp-tục phát-hiện những trạng-thái cao hơn là

trạng-thái thức hay mộng... ". Trong tất cả các

tôn-giáo có tổ-chức, các nhà sáng-lập đều có

tuyên-bố rằng họ đã thâm-nhập vào các lãnh-

vực của tinh-thần, trong ấy họ mục-kích một

loại thực-kiện mới, có quan-hệ đến cái gọi là

cõi tâm-linh. " _ ( Jñānayoga, “ Sự Cần-thiết

của Tôn-giáo.” Ông nói thêm rằng ngoại trừ

độc-nhất có lẽ là Phật-giáo. Nhưng cả đến

Phật-giáo đã thấy một định-luật ( Pháp ) luân-

lý vĩnh-cửu ; và cái định-luật ấy không phải đã

được lý-trí suy-diễn ra theo nghĩa phổ-thông

của lý-trí. Đức Phật đã phát-hiện định-luật

(Pháp) trong một trạng-thái siêu-giác-quan . " )

Tất cả các tôn-giáo tuyên-bố rằng tinh-

thần nhân-loại có nhiều lúc siêu-việt, không

những giới-hạn của giác-quan, mà còn cả

những năng-khiếu thông-thường của lý-luận,

và bấy giờ nó đến trước những sự-kiện mà

giác-quan và lý-luận không có thể đem lại .

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

129

( Kể từ Vivekananda về sau, còn có nhà

Đạo-sĩ trứ-danh Aurobindo Ghose tiến lên một

bước nữa, đã khôi-phục trực-giác vào quá-trình

bình-thường của tinh-thần khoa-học :

" Sự sai lầm của lý-trí, thực-tế là

quá phục-tòng thực-kiện ảo-ảnh mà nó có

thể thí-nghiệm ngay như là thực-tại, và

một sự thiếu can-đảm để đem những

thực-kiện tiềm-thế thâm sâu đến kết-luận

hợp-lý. Cái gì có trước mắt chỉ là sự thực-

hiện của một tiềm-thế trước cũng như

tiềm-thế hiện-tại chỉ là dấu-hiệu của một

thực-hiện về sau... "

_ (Đời Sống Thần-linh = La Vie Divine )

" Trực-giác tồn-tại như là bị che-phủ

đàng sau động-tác tinh-thần. Trực-giác

đem lại cho người ta tin-tức sáng-lạn của

Vô-tri, mà chúng chỉ là bước đầu của cái

biết cao đẳng. Lý-trí hợp-lý chỉ đến sau

để xem nó có thể lợi dụng được cái mùa

gặt hái phong-phú đó không. Trực-giác

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

130

cho chúng ta ý-niệm về cái gì ở đàng sau

và bên ngoài tất cả cái gì chúng ta biết

hay là có vẻ như thế ; cái gì ấy luôn luôn

hiện ra cho chúng ta như mâu-thuẫn trái-

nghịch với lý-trí thấp kém của chúng ta

cũng như với kinh-nghiệm bình-thường ;

và nó thúc-đẩy chúng ta mô-tả cái tri-giác

bàng bạc vào những ý-tưởng thực-tiễn về

Thượng-Đế, về Vĩnh-cửu v.v... Nhờ

chúng mà ta nỗ-lực mô-tả cho tinh-thần ."

( Như thế thì trực-giác đóng vai-trò dọn

đường và hướng-đạo của tinh-thần mà lý-trí là

đội quân đi sau. Hai bên không phân-cách nữa,

như ở Vivekananda, bằng một thứ sàn gác giữa

hai tầng lầu. Cùng một giòng liên-tục, và tất cả

các giòng đều thuộc về một con sông Tri-thức

chảy đều. Những giới-hạn của khoa-học đã

biến đi. " Còn đâu là Vạn lý trường thành... "

Cả đến những ý-niệm về Thượng-Đế, về Vĩnh-

cửu, Bất-tử v.v... và tất cả cho tới nay tạo thành

tôn-giáo chính-thức thì trong luận-trình của

Aurobindo chỉ còn là những phương-tiện biểu-

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

131

thị cho tinh-thần của cái viễn-tượng về Thực-

tại, nó ngày nay đi trước lý-trí luận-lý, nhưng

ngày mai lý-trí luận-lý sẽ đạt tới. Đấy là hiện

nay những tiến-bộ mà tinh-thần Ấn đã đạt đến

như thế nào, và ý-thức của nó về "sống động",

về " sống toàn-diện " nhập-thế-hóa trực-giác

tôn-giáo vào trong tinh-thần nghiêm-khắc của

khoa-học . )

Lẽ tự nhiên là những thực-kiện mà

Vivekananda nói trên đây, chúng ta không bắt

buộc phải tin trước khi trông thấy và thực

chứng. Các bạn Ấn sẽ không lấy làm ngạc-

nhiên rằng chúng ta chống đối chúng với sự

nghi ngờ lành mạnh. Làm như thế chẳng qua

chúng ta cũng chỉ tuân theo chính cái phép-tắc

nghi-ngờ khoa-học của họ thôi : _ " Nếu anh

chưa sờ thấy, chớ có tin ! " Và Vivekananda

khẳng-định một cách khoa-học rằng nếu từng

có một thực-nghiệm độc-nhất trong ngành tri-

thức nào thì nó đã có thể có trước , thì nó phải

có sau này. Nhà linh-hứng thần-cảm không có

quyền đòi ưu-đãi đặc-biệt, nó sẽ không sẩy ra

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

132

một lần nữa. Vậy thì nếu một số chân-lý và tối-

cao là kết-quả của những thực-nghiệm tâm-linh

của một số nhân-vật " thần tuyển " thì vấn-đề

là làm lại những thực-nghiệm tôn-giáo ấy. Và

khoa Thiền-định Đạo-dẫn có mục-đích là dẫn

tinh-thần đến cái cõi đất thực-nghiệm ấy .

" Tinh-thần chú-định vào một điểm

cụ-thể ( Dharana ). nó tự giới-hạn vào

một điểm ấy thôi, lấy làm cơ-bản. Các làn

sóng tinh-thần thuộc loại đặc-biệt, bấy

giờ bắt đầu nổi lên. Chúng không bị tan

chìm vào các loại sóng tư-tưởng khác.

Nhưng dần dần, chúng trở nên bao-trùm,

còn các làn sóng khác lùi lại và cuối cùng

biến mất. Kế đến, những sóng phức-tạp

ấy nhường chỗ cho một cái nhất-tính. chỉ

còn lại có một làn sóng trong tinh-thần

( Dhyana ). Khi nào không cần có cơ-bản

nữa, khi nào toàn-thể tinh-thần đã trở nên

một làn sóng duy-nhất, thì bấy giờ là

Thiền-định tối-cao Tam-ma-địa (Sama-

dhi). Lột hết vị-trí không-gian và trung-

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

133

tâm, ý-thức tư-tưởng hiện-diện một mình

( nghĩa là cái phần nội tại của tri-giác mà

đối-tượng " sở-tri " lại hiệu-quả ) . Nếu

tinh-thần có thể chú-định vào trung-tâm

suốt mười hai giây đồng hồ thì có được

Dharana. Mười hai Dharana như thế là

một Dhyana và mười hai Dhyana dẫn đến

Samadhi... Và đấy là thuần-túy lạc-cảm

của tinh-thần ... "

_ ( Rajayoga, ch. VIII )

Tự-do, ai nấy tùy ý thử làm công-trình tự

giáo-dục lấy ấy. Về phần tôi, tôi tự mãn-

nguyện chỉ-dẫn ra đây kết-quả cuối cùng của

những xét-nghiệm ấy, và đấy là nhận-định mà

ở trong tất cả các tôn-giáo có tổ-chức ở hình-

thức cao đẳng, những thực-kiện tâm-linh trừu-

tượng, phát-hiện và tri-giác, kết-tinh thành một

Duy-nhất-tính " hoặc ở hình-thức của một

Hiện-diện trừu-tượng, một Thực-thể toàn-năng,

một Nhân-cách tuyệt-đối, gọi là Thượng-Đế

hay là Đạo-pháp ( luật-pháp đạo-đức ), hoặc ở

hình-thức một Bản-thể trừu-tượng tại cơ-bản

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

134

của tất cả sinh-tồn ." _ ( Jñānayoga, Sự Cần-

thiết của Tôn-giáo ) .

Và ở hình-thức sau cùng này là hình-thức

của Bất-nhị-pháp ( Vedanta - Advaïta ) chúng

ta lại thấy ở mục-đích quá gần với khoa-học

thuần-túy mà tôi khó lòng phân-biệt chúng với

nhau. Cái điểm khác nhau chính là ở trong cử-

chỉ của người chạy thi đã tới đích. _ Khoa-học

thừa-nhận và nhận-xét cái Duy-nhất-tính như là

hạn-định giả-thiết của vận-động tư-tưởng của

mình mà nó hướng-dẫn và sắp đặt. Đạo-dẫn

( Yoga ) đòi nắm chặt lấy cái Nhất-tính ấy, tự

in sâu vào nó như là cây leo cuốn. Nhưng

những kết-quả của tinh-thần đại-khái như nhau.

Khoa-học cận-đại và triết-học Bất-nhị-pháp

(Advaïta) đều kết-luận rằng " giải-thích của

sự-vật ở tại nơi bản-tính riêng của chúng, và

không sinh-tồn nào hay là nguyên-nhân bên

ngoài nào là thiết-yếu cả, để giải-thích sự việc

sẩy ra trong vũ-trụ... " Và cùng cái nguyên-lý :

" Giải-thích của tất cả vật gì là tự bên trong ",

quy-kết tất nhiên là " định-luật cận-đại về

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

135

Tiến-hóa. bởi vì tất cả ý-nghĩa của Tiến-hóa-

luận là bản-tính của một vật tái diễn trong sự

trưởng-thành của nó, rằng hiệu-quả chẳng gì

khác hơn là nguyên-nhân ở trong hình-thức

khác, rằng trong cái nguyên-nhân ấy có tiềm-

tàng ngầm-ngầm tất cả tiềm-năng của các hiệu-

quả khác nhau, tóm lại là toàn-thể của cuộc

sáng-tạo là Tiến-hóa, không phải sáng-tạo ."

_ ( Vivekananda, Toàn-tập. I )

Vivekananda thường nhấn mạnh vào

điểm bà con thân-thuộc của thuyết Tiến-hóa

cận-đại với các thuyết của siêu-hình-học và vũ-

trụ-luận Vedanta cổ xưa. Nhưng giữa giả-

thuyết Tiến-hóa và giả-thuyết Ấn-Độ có sự

khác biệt căn bản này là thuyết Tiến-hóa cận-

đại chỉ là một ngành trong toàn-bộ kiến-trúc, và

Tiến-hóa ngụ ý cái giải-thích đối xứng như là

bức tường ốp trong triết-học Vedanta, một Hồi-

toàn tương-tự với nó, có định-kỳ. Tất cả tư-

tưởng Ấn-Độ tự bản-chất đều lập cơ-sở trên

thuyết Chu-kỳ. Sự tiến-triển trình-bày ở hình-

thức các lớp sóng kế tiếp. Mỗi làn sóng vươn

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

136

lên và hạ xuống và mỗi làn sóng lại có làn sóng

nối tiếp hết lên lại xuống :

" ... Dù căn cứ vào những khảo-cứu

cận-đại, người ta cũng thấy rằng nhân-

loại không có thể là sản-phẩm của một

tiến-hóa đơn-thuần. Tất cả tiến-hóa giả-

định trước một hồi-toàn. Khoa-học cận-

đại sẽ bảo các anh rằng các anh chỉ có thể

từ trong một bộ máy rút lấy tổng-số năng-

lượng các anh đã đem vào đấy. Một vật gì

không thể từ chỗ không sản-xuất ra. Nếu

loài người từ một cơ-thể thấp tiến-hóa

lên, thì bấy giờ một người hoàn-toàn _

người Phật, người Cơ-Đốc _ như vậy đã

hồi-toàn vào trong cơ-thể thấp kém... Như

vậy chúng ta có thể điều-giải Thánh kinh

với khoa-học cận-đại. Cái năng-lực nó tự

biểu-hiện dần dần qua nhiều trình-độ cho

tới khi nó tự thực-hiện ra con người hoàn-

toàn thì không có thể từ cái không mà

xuất ra. Nó có tồn-tại ở một chỗ nào rồi ;

và nếu chất nguyên hình là chất đầu tiên

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

137

chúng ta có thể ngược trở về, thì chất

nguyên hình ấy đã phải chứa đựng cái

năng-lực ấy rồi... " Những cuộc tranh-

biện suông giữa " kẻ chủ-trương cho cái

phức-thể những chất-liệu gọi là thân-thể,

vật-thể, là nguyên-nhân cho biểu-hiện gọi

là tâm-hồn ", và " kẻ cho tâm-hồn là

nguyên-nhân của vật-thể." Những tranh-

biện ấy chẳng giải-thích được chi cả. " Vì

rằng ở đâu ra cái năng-lực làm nguồn gốc

cho những hóa-hợp kia, gọi là tâm-hồn

hay vật-thể ? có lẽ nên nói cái năng-lực

nó chi-phối vật-chất để làm thành vật-thể

cũng là cái năng-lực nó biểu-hiện thông

qua vật-thể, như vậy có lẽ hợp lý hơn...

Người ta có thể chứng minh không có

vật-chất, đấy chỉ là một trường-sở năng-

lực nào thôi. Năng-lực gì nó biều-hiện

qua vật-thể ?... Ngày xưa trong các Thánh

kinh cổ-truyền, cái thế-lực ấy với những

biểu-hiện của nó, đã được gán cho là một

chất sáng, hiện-hình vào vật-thể kia, và

tồn-tại sau khi vật-thể đã hủy-hoại... Về

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

138

sau, đến một ý-tưởng cao hơn cho rằng

cái vật-thể ấy chẳng phải là đại-biểu của

năng-lực... rằng có cái gì khác thiết yếu

cho nó... Cái vật gì khác ấy được gọi là

Linh-hồn, hay là Atman ở tiếng Phạn

( Sanscrit )... Cái Một vô sở bất tại, vô

hạn ... "

_( Jñānayoga. II, " Chân tính của Người "

_ Diễn-thuyết tại Londres ) .

Nhưng làm thế nào mà cái Vô-hạn kia đã

có thể trở nên Hữu-hạn ? Vấn-đề siêu-hình vĩ-

đại !... ( mà cả toán-học cũng không tránh được

_ Henri Poincaré : " Dernière Pensées "

" Những Tư-tưởng Cuối cùng " ). Vấn-đề trong

ấy thiên-tài các thế-kỷ đã bao công-phu không

ngừng để dựng lên những kiến-trúc từng đổ

xuống... Vì rằng không phải chỉ là đặt ra Vô-

hạn, chứng-minh Vô-hạn, sờ thấy Vô-hạn. Còn

phải nối vào đấy cái gì mà chính định-nghĩa đã

bị quy-kết không bao giờ tới được. Ở đây các

nhà siêu-hình-học Cơ-Đốc của chúng ta đã đem

thiên-tài kiến-trúc vào công-trình xây cất :

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

139

thông minh ; trật-tự ; hòa-điệu, tương đương

với thiên-tài của chúng bạn đồng-nghiệp họ,

những kiến-trúc-sư các giáo-đường của chúng

ta ; và những kiến-trúc tuyệt đẹp của họ đối với

tôi cũng tuyệt đẹp ví như những phát-minh

siêu-hình-học Ấn-Độ, khác nào như Thánh-

đường Chartres hay Amiens, đối với chúng ta ở

Âu-châu có vẻ đẹp hơn cả những ngọn núi đá

trạm trổ, đục khoét thành tò-vò, tổ kiến của

Madura... ( Nhưng không nên xếp thứ hạng

những kết-quả của thiên-nhiên, chúng đều vĩ-

đại và đáp-ứng cho định-luật tự-nhiên, biểu-thị

của hai khí hậu tinh-thần ... )

Giải đáp của Ấn-Độ cho vấn-đề Vô-cực

với Hữu-cực là giải đáp tượng Nhân-sư

( Sphinx ) Ấn : _ " Maya " " Ảo-hóa ". Đấy là

vì đi qua bình-phong Maya = Ảo-hóa : những

định-luật tinh-thần mà " Vô-hạn " trở nên

" Hữu-hạn ". Maya = Ảo-hóa, bình-phong của

nó, những định-luật của nó, và tinh-thần đều là

sản-phẩm của một loại "sa-đọa của Tuyệt-đối",

nó tan loãng vào " hiện-tượng ". Ý chí ngự ở

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

140

bậc trên. Không phải Vivekananda cho Ý-chí

vào bậc danh-dự như Schopenhauer đã phong

cho nó. Ông đặt Ý-chí ở ngưỡng cửa Tuyệt-

đối, nó canh cửa. Nó vừa là biểu-hện đầu của

Tuyệt-đối, lại vừa là giới-hạn đầu. Nó là một

thể phức-hợp của cái Ngã chân thật ở trên lý

nhân-quả và của tinh-thần ở bên dưới. Song,

không một hợp-thể nào là trường-tồn. Ý-chí

sinh-tồn hàm ngụ sự tất yếu của diệt-vong.

Những danh-từ : " Đời sống bất tử " là một sự

mâu-thuẫn ngay trong từ-ngữ. Thực-thể chân

thật, vĩnh-cửu thì ở tại bên trên sống chết .

Nhưng làm sao Thực-thể tuyệt-đối lại đến

trà trộn với Ý-chí, Tinh-thần, tương-đối ? _

Vivekananda trả lời với triết-lý Vedanta rằng :

" Nó không từng bao giờ thay đổi. Anh là cái

Thực-thể tuyệt-đối ấy, anh chưa từng có bao

giờ thay đổi. Tất cả sự thay đổi là Ảo-hóa =

Maya, cái Bình-phong ngăn giữa Chân-Ngã và

anh." _ Và chính đồi-tượng của sự sống, sống

cá-nhân, sống của các thế-hệ, của tất cả cuộc

tiến-hóa nhân-loại, của sự leo thang liên-tiếp,

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

141

của toàn-thể Tạo-vật thiên-nhiên, kể từ bậc

thấp nhất mà sinh-tồn mới thức dậy dần dần trừ

bỏ tấm Bình-phong. Ngay tại tia sáng đầu của

tinh-thần, có một lỗ thủng như hé mở do đấy

con mắt Tuyệt-đối lọt qua. Dần dần tinh-thần

trưởng-thành, thì cái lỗ nhỏ mở rộng. Và người

ta không có thể bảo rằng điều người ta nhìn

qua, thấy được, ngày mai thật hơn ngày hôm

nay (đều là thật cả ) ; nhưng mỗi ngày người ta

bao quát một bình-diện rộng lớn hơn, cho đến

khi Bình-phong tan biến đi hết cả. Và không

còn gì khác nữa là Tuyệt-đối .

_ ( Nhập-môn Jñānayoga. Toàn-tập, q. V )

Lặng đi ! những kêu gào của xác thịt khó

khăn,

Nguôi đi ! tiếng ồn ào của lòng kiêu-

hãnh.

Đứt tung ra những xiềng xích buộc thân,

Cởi mở ra những ràng buộc trói mình .

Ôi ! hệ lụy, ôi ! ảo-hóa sạch sanh,

Chính nơi đây văng vẳng âm thanh,

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

142

Âm-thanh thuần nhất, duy-tinh !

Ấy là chân-lý gọi mình xa xa !

_ ( Toàn-tập IV, " Asong I sing to Thee ")

Đối với lời kêu gọi ấy, tinh-thần nhẩy

bổ...

" Người đời hoảng sợ khi nghe

người ta nói thế. Cái Một vô-biên ấy tràn

ngụp chúng .

" Chúng luôn luôn hỏi anh :

_ “ Nhưng rồi cá-tính của tôi ra sao ?

Liệu tôi có còn giữ được nó không ?... ”.

“ Cá tính của chúng ! Nó là cái chi vậy ?

Tôi muốn được thấy !... ”. Tất cả là một

trào-lưu, tất cả biến dịch... " Không là chi

có cá-tính cả." _ nếu chẳng phải ở tại độ

đường cùng tột. " Chúng ta chưa phải là

những cá-nhân. chúng ta nỗ-lực đi tới cá-

tính : và cái ấy là Tuyệt-đối, là bản-tính

chân-thật của chúng ta. Khi nào sống

trong tất cả, chỉ có kẻ ấy sống. Chúng ta

càng tập-trung đời sống của chúng ta vào

những giới-hạn tư-hữu bao nhiêu, thì

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

143

chúng ta càng đi đến chỗ chết. Chỉ có

những lúc thật sống là những lúc chúng ta

sống trong những người khác, trong vũ-

trụ. Tự thu hẹp vào đời sống nhỏ-mọn

này, là chết, không dài dòng. Và bởi vậy

cho nên chúng ta có ý nghĩ sợ chết. Sự lo

sợ ấy chỉ có thể thắng phục được chừng

nào người ta thực-hiện được là bao lâu

còn có một sự sống trong vũ-trụ này thì

nó vẫn còn sống... Con người ảo-ảnh chỉ

là một cuộc phấn-đấu để biểu-hiện cái cá-

tính ở tại bên trên, siêu-việt... "

"Và cuộc phấn-đấu ấy thành-tựu

bằng cuộc tiến-hóa của Tạo-hóa Thiên-

nhiên, nó từng bước một dẫn đến sự biểu-

hiện của Tuyệt-đối . "

_ ( Jñānayoga, II "Chân tính của Người"

= The Real Nature of Man )

Chúng ta hãy bổ-chính thêm một điều

trọng-yếu cho học-thuyết Tiến-hóa. Viveka-

nanda lấy ở trong triết-lý của Patanjali về " Sự

Thầm-nhuần của Thiên-nhiên " ( The Infilling

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

144

of Nature ). Đối với Patanjali, " sinh-tồn cạnh-

tranh " tranh-đấu vì sinh-tồn và thiên-trạch chỉ

áp-dụng hoàn-toàn đầy đủ cho hạ cấp của tạo-

vật thiên-nhiên mà thôi, trong ấy chúng quyết-

định cuộc tiến-hóa vật-chủng. Nhưng ở giai

tầng trên là cấp trật nhân-loại, thì cuộc tranh-

đấu và cạnh-tranh lại là một sự chậm tiến hơn

là bổ-ích cho tiến-bộ. Bởi vì theo học-thuyết

thuần-túy Vedanta, thì mục-đích của tiến-bộ,

sự thành-tựu hoàn-toàn, là bản-tính chân thật

tiềm-tàng trong mọi người, chỉ vì các trướng-

ngại cản-trở nó biểu-hiện. Nếu người ta gạt bỏ

được chúng đi, tức thì bản-tính tối cao của

nhân-loại tự biểu-hiện ra lấp tức. Và người ta

có thể đạt đến cuộc chiến-thắng ấy của loài

người bằng giáo-dục, bằng tu sửa bản-thân,

bằng thiền-định và tập-trung, nhất là bằng từ bỏ

và hy-sinh. Các nhà đại hiền-triết, các con của

Thượng-Đế là những bậc chiến-thắng ấy. Như

thế là học-thuyết Ấn-Độ tôn-trọng định-luật

chung về Tiến-hóa khoa-học, cống-hiến cho

tinh-thần nhân-loại khả-năng tránh khỏi bước

tiến chậm-chạp hàng ngàn năm mà vỗ cánh bay

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

145

bổng, vượt thẳng tới đỉnh chót cầu thang tiến-

hóa .

Và bây giờ thì chúng còn cần chi phải bàn

cãi cái khả-chân triết-học của tất cả hệ-thống

và cái giả-định lạ kỳ của Ảo-hóa ( Maya ) là

cơ-bản của nó. giải-thích hẳn là hấp-dẫn thực,

và nó giải-đáp cho một bản-năng ảo-giác của

cảm-súc đại-đồng, _ nhưng đến lượt nó lại phải

được giải-thích, và chưa ai giải-thích nổi,

không có thể giải-thích được, người ta đành

kết-cục trở về cái luận cứ này : " Tôi cảm thấy

thế. Anh có cảm thấy không ? "

( Ở đây là trọng-tâm của vấn-đề : _ trong

" thực-nghiệm " về Vô-hạn với Ảo-hóa. Còn lại

là vỏ ngoài. Khoa-học về tôn-giáo sẽ lầm

đường nếu nó tự giới-hạn vào việc nghiên-cứu

đối-chiếu những tư-tưởng và nghi-lễ. Tại sao từ

một nhóm người nọ sang nhóm người kia sinh

ra những ảnh-hưởng tư-tưởng hay là hệ-thống

tôn-giáo ? Bởi vì những ảnh-hưởng này thấy

thỏa-mãn cho một số thực-nghiệm cá-nhân.

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

146

Người ta tự mãn xem xét, chẳng hạn, những

quan-hệ tri-thức giữa các học-thuyết của Plotin,

Philon và của các nhà Cơ-Đốc đầu tiên. Và

người ta quên nhấn mạnh vào cái thực-kiện

này, là Plotin, Philon và các giáo-đồ Cơ-Đốc

đầu tiên đã thực-hiện những " khải ngộ "

tương-tự. Nhưng điều chính yếu là những

" thực-nghiệm " tôn-giáo ấy đã có sẩy ra

thường-xuyên được trong cùng những hình-

thức giống nhau ở những nhân-vật, chủng-tộc

và thời-đại khác nhau. giá-trị của những thực-

nghiệm ấy, làm sao mà xem xét ? Có lẽ phải có

một khoa-học tinh-thần mới, với dụng-cụ phân-

tích uyển-chuyển hơn, tinh-vi hơn và hoàn-hảo

hơn là những phương-pháp hiện thời còn quá

khiếm-khuyết và thô-sơ của phân-tâm-học với

các ngành phụ-thuộc. Chắc hẳn là không phải

phương-pháp suy-biện của những khái-niệm.

Những hệ-thống xây dựng của Plotin hay là

Denys có một giá-trị kiến-trúc trí-thức có thể

nghị-luận ; nhưng kết cục thì cái kiến-trúc ấy

luôn luôn dẫn đến tri-giác và Vô-hạn-tính, và

những nỗ-lực do lý-trí thực-hiện ngõ hầu dựng

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

147

lên cho nó một điện thờ. Phê phán của lý-trí

không đạt tới, ngoài Nhà-Thờ bên trên. Nó để

lại nguyên vẹn những nền móng và hầm giáo-

đường . )

_ Phải, tôi cũng cảm thấy, nhiều lần tôi

tri-giác với sự xác-thực trực-tiếp chớp-nhoáng

cái hư-không của thế-giới ảo-ảnh, cái mạng-

nhện nắng chiếu, trong ấy thần bão Ariel trong

kịch của Shakespears, Liluli, Lila, Maya, cười-

cợt... tôi đã thấy tấm Bình-phong ! Và đã từ lâu

tôi nhìn qua, _ kể từ thời thơ-ấu, náu ẩn, tim

đập, tôi mở rộng cái lỗ ánh-sáng với ngón tay

tôi... Nhưng đấy không phải là tôi đưa ra một

bằng-chứng. Đấy là một ảo-giác. Muốn truyền

nó cho người khác, tôi lại phải cho họ mượn

con mắt của tôi. Mỗi người có con mắt mà

Maya = Ảo-hóa, Tạo-hóa, Thiên-nhiên ( bất cứ

gọi tên là thế nào ) đã ban cho nó. Và nếu nó là

của Ảo-hóa ( Maya ) thì ai bảo được rằng mắt

tôi, mắt anh, mắt các anh, đều không hết thảy

có những tia sáng của Đức Bà Ảo-hóa ? Tôi đã

trở nên quá lãnh-đạm đối với chính tôi để tự

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

148

gán cho mình một ưu-thế gì. Tôi yêu mắt của

anh với những cái gì nó nhìn thấy cũng như tôi

yêu mắt tôi. Nó hãy tự-do như của tôi !

Vậy thì, hỡi các bạn Âu của tôi ơi, tôi

không tìm chứng-minh với các bạn chân-lý của

một hệ-thống, nó bất cứ thế nào, vì là nhân-bản

thì cũng như các hệ-thống khác, là một giả-

thuyết. Nhưng điều tôi cần bầy tỏ với các bạn

là sự vĩ-đại của giả-thuyết, và mặc dù giá-trị

của nó thế nào để giải-thích siêu-hình về vũ-

trụ, trên bình-diện thực-tế của thực-kiện nó

không chút gì trái nghịch với những dữ-kiện

tối-tân được công-nhận của khoa-học Tây-

phương hiện-đại .

*****

*

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

149

PHẦN THỨ BA

*

KHOA-HỌC TÔN-GIÁO

ĐẠI-ĐỒNG

Sự thực tôn-giáo như Vivekananda hiểu,

có những cánh rộng lớn để có thể ấp ủ trong tổ

nó tất cả những trứng của Tinh-thần Tự-do.

Không có gì trong tất cả những hình-thức

trung-thực và lành mạnh của Tri-thức mà nó từ

bỏ cả. Nó là đồng-hương với bất cứ người nào

có tư-tưởng. Kẻ thù duy-nhất của nó là sự cố-

chấp .

" ... Tất cả những ý-tưởng hẹp-hòi,

hạn-hẹp chống-đối tôn-giáo ( theo nghĩa

quá-khứ ) phải biến đi ... Những lý-tưởng

tôn-giáo tương-lai phải bao-hàm tất cả cái

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

150

gì có trong thế-giới, tất cả cái gì tốt lành

và lớn lao, và hơn nữa chúng phải có một

môi-trường vô-hạn của phát-triển tương-

lai. Tất cả cái gì tốt ở quá-khứ phải được

bảo-tồn và các cửa phải để mở rộng cho

những cống-hiến tương-lai vào kho báu

đã có. Các tôn-giáo _ ( và các khoa-học

đều gồm trong danh-từ ấy ) _ phải " bao

hàm " , và không được khinh-miệt lẫn

nhau, bởi vì những lý-tưởng đặc-biệt của

chúng về Thượng-Đế khác nhau. Tôi đã

gặp trong đời tôi nhiều người đầy lương-

tri và tâm-linh không tin chút nào vào

Thượng-Đế ( nghĩa là theo quan-niệm của

chúng ta về danh-từ ấy ). Có lẽ họ hiểu

Thượng-Đế hơn là chúng ta có thể hiểu...

Ý-niệm một Thượng-Đế nhân-cách-hóa,

ý-niệm Phi-nhân-cách, Vô-hạn, Đạo-

pháp, Nhân-vị, lý-tưởng, tất cả những

điều ấy phải gia-nhập vào quan-niệm tôn-

giáo... "

_ ( " The Real Nature of Man " Chân-tính

của Nhân-loại ).

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

151

" Tôn-giáo " đối với Vivekananda đồng

nghĩa với " Chủ-nghĩa đại-đồng " của tinh-

thần, và chỉ khi nào những quan-niệm " tôn

giáo " đã đạt tới cái Chủ-nghĩa đại-đồng ấy, thì

bấy giờ tôn-giáo mới thực-hiện được đầy đủ ý-

nghĩa của nó. Bởi vì, trái với điều mà tất cả

những ai không biết nó thường tin, tôn-giáo là

thuộc về tương-lai nhiều hơn là của quá-khứ.

Nó mới chỉ bắt đầu :

" ... Người ta có khi nói rằng các

tôn-giáo đang chết, rằng những tư-tưởng

tâm-linh biến đi trên thế-giới. Đối với tôi,

chúng hiện ra mới chỉ là bắt đầu nẩy nở...

Chừng nào tôn-giáo còn trong tay bọn

thượng-lưu, một đoàn-thể giáo-sĩ, thì nó

còn bị giam trong các điện-đường, các

Nhà-Thờ, các kinh sách, các giáo-điều,

các khoá-lễ, các hình-thức, các nghi-lễ.

Nhưng khi nào nó được mở rộng, thanh

lọc, khi nào chúng ta tới được quan-niệm

sác-thật, tâm-linh, đại-đồng, chỉ đến bấy

giờ tôn-giáo mới trở nên sinh động, nó

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

152

thâm nhập vào chính bản-tính chúng ta,

nó linh-động ở mỗi cử-động của chúng ta,

nó nhập vào tất cả lỗ chân lông xã-hội ta.

Khả-năng về điều thiện mạnh hơn vô

cùng, mà chưa từng bao giờ nó được như

thế ...

_ ( " Chân-tính của Người " đã dẫn trên )

Nhiệm-vụ bắt buộc ở thời-đại này là hòa-

giải hai anh em ruột thịt đang kiện-cáo, tranh-

dành một thửa đất mà sự khai-thác hoàn-hảo

đòi chúng hợp-tác nỗ-lực, ấy là tôn-giáo và

khoa-học. Điều thiết-yếu và cấp-bách là lập lại

" một tinh-thần thông-cảm giữa các mẫu biểu-

thị gọi là tôn-giáo xuất-phát từ sự khảo-cứu các

thực-nghiệm tâm-lý _ ( ngày nay chẳng may

chúng còn đòi quyền độc-chuyên về danh-hiệu

tôn-giáo ) _ và các biểu-thị khác về "tôn-giáo"

chúng soi xét những bí-quyết của Thiên-nhiên

vật-chất và tự gọi là những khoa-học ."

_ ( theo tác-phẩm đã trích-dẫn trên " The Real

Nature of Man " )

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

153

Đừng mong cướp đoạt vì một trong hai

anh em ruột thịt ! Anh sẽ không tiêu trừ được

khoa-học hay tôn-giáo .

" Chủ-nghĩa Duy-vật chi-phối Âu-

Tây ngày nay. Anh có thể cầu-nguyện

càng nhiều càng hay cho hạnh-phúc của

những người duy-vật và hoài-nghi cận-

đại ! Chúng sẽ không nhượng-bộ. Chúng

đòi có lý-trí ... "

_( trong "The Absolute and Manifes-

tation" " Tuyệt-đối và Biểu-hiện ", Toàn-

bộ q. II )

Bây giờ thì giải-pháp nào ? _ Tìm cho hai

bên một " hòa-giải " _ Sự hòa-giải ấy vốn đã

thấy, và từ lâu trong lịch-sử nhân-loại. Nhưng

loài người chóng quên, mãi mãi bỏ mất đi để

lại chinh-phục với giá thật đắt, những phát-

minh quý báu của nó .

" Sự cứu thoát của Âu-Tây trông

vào một tôn-giáo hợp lý ."

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

154

Song, cái tôn-giáo ấy vẫn có, và chính là

Bất-nhị-pháp ( Advaïta ) của Ấn-Độ, Phi-nhị-

nguyên-luận, cái Duy-nhất, cái ý-niệm về

Tuyệt-đối, Thượng-Đế Phi-nhân-cách-hóa, Vô-

Ngã : " cái tôn-giáo độc-nhất có thể hấp-dẫn

các đại trí-thức ."

Bất-nhị-pháp đã hai lần cứu Ấn-Độ khỏi

Chủ-nghĩa duy-vật. Lần Đức Phật Thích-Ca

đến, xuất-hiện vào thời-đại của Chủ-nghĩa duy-

vật ghê-tởm nhất và tràn-lan nhất. Lần Đức

Thánh Çankara, bấy giờ Chủ-nghĩa duy-vật lại

xâm-chiếm Ấn-Độ, hủ-hóa các giai-cấp thượng

lưu và reo rắc mê-tín vào các giai-cấp hạ-lưu,

Ngài đã làm sống lại đạo Vedanta, phát-triển

thành một triết-học duy-lý... Ngày nay, mặt trời

tri-thức chói-lọi ấy, tiếp nối với tâm-tình của

Đức Phật, cái tâm mầu-nhiện, vô-hạn, từ-bi

bác-ái. Sự phối-hợp ấy sẽ cho chúng ta một nền

triết-lý cao nhất. Khoa-học và tôn-giáo sẽ gặp

nhau và bắt tay nhau. Thi-ca và triết-học trở

nên bằng-hữu. Đấy sẽ là tôn-giáo tương-lai ; và

nếu chúng ta thành-lập nên được, chúng ta chắc

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

155

chắn là nó đáp-ứng cho tất cả các dân-tộc và

cho tất cả thời-đại. Chỉ có nó khoa-học cận-đại

mới có thể thừa-nhận và khoa-học cận-đại cũng

gần đạt tới đấy. Khi nhà bác-học nhận thấy ở

tại tất cả các hiện-tượng, những biểu-hiện của

cùng một năng-lực, phải chăng y chẳng nhắc

lại chúng ta Thượng-Đế mà Ảo-nghĩa-thư

( Upanisads ) đề cập :

" Như lửa duy-nhất, thâm-nhập vũ-

trụ, biểu-thị vào hình-tướng khác nhau,

cũng thế mà cái Linh-hồn duy-nhất biểu-

thị vào tất cả tâm-hồn. Và tuy-nhiên, nó

lại còn vô cùng hơn nữa ."

_ (" Tuyệt-đối và Biểu-thị " The Absolute

and Manifestation. q. II Toàn-tập )

Bất-nhị-pháp ( Advaïta ) tiếp nối thêm

vào khoa-học, không từ bỏ gì của khoa-học hay

là đòi khoa-học biến cải chút gì trong giáo-lý

của mình đi. Hãy nhắc lại một lần chót những

nguyên-lý chung của chúng :

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

156

" Nguyên-lý thứ nhất của lý-luận

khoa-học là cái đặc-thù tự giải-thích bằng

cái phổ-quát để thành-tựu vào đại-đồng .

" Nguyên-lý thứ hai là sự giải-thích

của mỗi vật thì ở tại trong bản-thân nó,

chứ không phải nhờ vào bên ngoài ...

" Bất-nhị-pháp ( Advaïta ) thỏa-mãn

cho cả hai nguyên-lý ấy. ( theo " Reason

and Religion " Lý-trí và Tôn-giáo_ q. VI,

Toàn-tập ) Và Bất-nhị-pháp ( Advaïta )

theo đuổi sự ứng-dụng trong trường-sở nó

đã chọn. " Nó đi đến cùng cực phổ-quát

hóa " và đòi đạt tới Duy-nhất-tính, không

những chỉ ở lý-luận và hậu-quả của nó

suy-diễn hợp-lý hay là thí-nghiệm, mà

còn ở Duy-nhất Tự-tại, tại chính trong

tâm của nó nữa. Phần anh là kiểm-soát

những quan-sát của ông ta ! Người ta

không trốn tránh sự kiểm-tra, người ta

yêu cầu. Vì Bất-nhị-pháp ( Advaïta )

không thuộc vào hàng các tôn-giáo kia

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

157

ẩn náu đàng sau sự huyền-bí của những

thiên-khải của chúng. Các cửa lớn, cửa

nhò của tôn-giáo Bất-nhị-pháp này thì

rộng mở cho tất cả. Đến đây và nhìn đi !

Có thể rằng người ta lầm như anh, như

chúng ta cả. Nhưng lầm hay không, họ

làm việc với chúng ta trên cùng những

nền móng chung cho cùng một ngôi nhà,

như nhau ."

***

*

Tựu trung, chướng ngại vật của sự thông-

cảm lẫn nhau, cái vật chính cản-trở sự gặp gỡ

người ta với nhau, mà thực ra nó đã có sứ-

mệnh để kết-hợp, ấy là danh-từ " Thượng-Đế "

nó bao phủ tất cả những hầm hố của tư-tưởng :

nó là cái khăn bịt mắt của tất cả những áp-bức

cũng như con mắt sáng của Tự-do. Viveka-

nanda đã ý-thức rõ rệt điều ấy :

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

158

_ " Người ta hỏi tôi luôn luôn rằng :

“ Tại sao ông còn dùng đến cái danh-từ

cũ rích " Thượng-Đế " ấy ? ” _ Tôi đáp :

bởi vì nó tiện hơn cho mục-đích của

chúng ta. Bởi vì tất cả những hy-vọng và

khao-khát của nhân-loại đã được tập-

trung vào đấy. Ngày nay nó đã trở nên

không có thể thay đổi danh-từ ấy được.

Trước hết nó đã được các tâm-hồn vĩ-đại

rèn đúc và thực-hiện năng-lực cùng là

thấu hiểu ý-nghĩa của nó. Thế rồi càng

ngày nó càng được lưu-hành trong xã-hội,

những kẻ ngu-si đã cướp lấy nó và đã lột

mất tinh-thần của nó đi... Danh-từ

" Thượng-Đế " đã được ứng-dụng kể từ

thời vô-thủy cổ xưa cho sự biểu-thị cái ý-

niệm về Trí-tuệ Vũ-trụ và cho tất cả cái gì

vĩ-đại và Thánh-linh kết-hợp với nó...

Nếu chúng ta vứt bỏ nó đi, mỗi người đưa

ra một danh-từ khác... " thì sẽ là hỗn-độn

ngôn-ngữ, ngọn tháp Babel mới ... " Hãy

dùng chữ cũ trong tinh-thần chân-thật,

thanh lọc nó sạch hết mê-tín và thực-hiện

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

159

nó với đầy đủ nội-dung của nó... Người ta

hiểu rằng nó đã kết-hợp với vô số ý-tưởng

huy-hàng và hùng-vĩ, rằng hàng triệu

nhân-loại đã đồng-hóa nó với tất cả cái gì

cao-cả nhất và tốt nhất, với tất cả cái gì

hợp lý, với tất cả cái gì xứng đáng được

yêu, với tất cả cái gì anh-hùng và tuyệt-

diệu trong nhân-tính ... "

" Vivekananda sác-định cho chúng

ta rằng danh-từ Thượng-Đế “ là toàn-thể

tổng-cộng cái trí-tuệ biểu-hiện trong vũ-

trụ ” tập-trung vào trung-tâm của nó. Nó

là “ thông-minh đại-đồng ”. Và “ tất cả

những hình-thức khác nhau của năng-lực

vũ-trụ như Vật-chất, Tư-tưởng, Năng-lực

v.v. đều là những biểu-hiện của cái Trí-

tuệ Vũ-trụ .” "

_ ( Jñānayoga : " Le Cosmos, I

Macrocosme " _ New-York, 19-1-1896 )

Cái " trí-tuệ vũ-trụ " ấy, ( cái " ý-thức

vũ-trụ ", cái "Thiên Địa chi tâm " )

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

160

âm-thầm ngụ trong những lý-luận khoa-học. Sự

khác nhau chính là ở tại đấy nó là một bộ máy,

và một Vivekananda đã thối sinh-khí vào nó.

Pho-tượng của Pygmalion ( nhà điêu-khắc

thần-thoại ) tự cử-động. Nhưng nếu nhà bác-

học có thể vặn lý ở nhà tôn-giáo về một qui-

nạp không được khoa-học chứng-nghiệm, thì

qui-nạp tự nó không phải phi khoa-học. Bởi vì

không phải có lý hơn để cho ở đây pho-tượng

được Pygmalion mô-hình hơn là Pygmalion

được mô-hình bởi pho-tượng. Và bất cứ

trường-hợp nào, cả hai bên pho-tượng và

Pygmalion đều do cùng một lò mà ra : điều rất

lạ là sự sống chỉ có ở một bên này, còn ở bên

kia là máy móc vô-tri-giác. Trí-tuệ nhân-loại

hàm-ngụ ( hơn là nó có thể chứng-minh hay

phủ-định ) trí-tuệ đại-đồng. Và lý-luận của một

nhà bác-học tôn-giáo như Vivekananda đối với

tôi, không có vẻ khác nhiều về phẩm chất

khoa-học với cái " Luận-lý của Vô-hạn "

( Logique de l "Infinité ) mà khoa-học một

phần công-nhận, và Henri Poincaré tranh-biện

chống với phái Cantor .

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

161

Nhưng dù khoa-học có thừa-nhận hay

không một tôn-giáo tự-do khai-phóng theo

nghĩa mà Vivekananda đã cho nó, ông cũng cứ

vượt lên với lòng bão-phụ bình-tĩnh của người

tự xét mình mạnh hơn : chính là Tôn-giáo nó

thừa-nhận Khoa-học. Và Tôn-giáo này khá

rộng lớn để có thể dành chỗ ngồi chung bàn

của nó cho tất cả các hình-thức trung-thực của

cầu tìm chân-lý. Nó có cái mộng đế-quốc,

nhưng ở đấy tất cả đều được tôn-trọng, với

điều-kiện là chúng tương kính lẫn nhau. Một

trong những viễn-tượng đẹp nhất mà Viveka-

nanda dành những khái-luận cao nhất trong

Jñānayoga của ông là sự kêu gọi một " Tôn-

giáo Đại-đồng " .

Sau khi độc-giả đã biết tất cả về ông, bây

giờ không lo sợ về một Hợp-lý-hóa tư-tưởng

theo phương-pháp Taylor hợp-lý-hóa công việc

lao-động nhà máy, muốn bắt người ta phải

nhận một mầu sắc cầu vòng của thế-giới, dù là

mầu trắng thuần-nhất nó bao-hàm tất cả các

mầu, để có ý muốn thay-thế cho tất cả. Một

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

162

Vivekananda có quá thừa tất cả âm-điệu của

tinh-thần cho phiếm đàn của Brahman. Đơn

điệu nhất là sự chết đối với ông ta. Ông hân-

hoan về sự khác nhau vô cùng của tôn-giáo và

tư-tưởng. Ông cầu mong chúng còn nẩy nở và

tăng tiến hơn nữa ! _ " Tôi không muốn sống

trên mảnh đất giống như nghĩa-địa. Tôi muốn

là một người trong một thế-giới của người ...

Sự sai khác phân-hóa là dấu hiệu của sinh

sống... Sự khác nhau là chỉ-điểm đầu của tư-

tưởng... Tôi cầu-nguyện để cho chúng có thể tự

tăng nhiều lên đến mức có bao nhiêu hình-thức

tư-tưởng là có bấy nhiêu nhân-vật... Những

cuồng lộn và nước xoay chỉ hiện ra trong một

giòng suối sinh động... chính những va chạm

tư-tưởng nó làm thức tỉnh tư-tưởng... Mong

rằng mỗi người về tôn-giáo có được đường lối

tư-tưởng riêng của mình ! ... Và thực-tế nó như

thế đấy. Mỗi người chúng ta tư-duy theo lối

của mình. Những giòng tự nhiên đã luôn luôn

bị bế tắc... " Chúng ta hãy vét sạch tâm-hồn !

Hãy phá " be bờ " như người nhà-nông, láng-

giềng tôi ở xứ Valais nói, mỗi khi họ tháo nước

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

163

cho chảy vào thửa ruộng của họ. Nhưng chẳng

phải như ở xứ Valais khô-khan phải dành dụm

nước và trao nhau tay truyền tay lần lượt với

cái gầu tát nước... Nước Linh-hồn không bao

giờ thiếu. Nó trào tuôn ở cả mọi phiá. Trong tất

cả các tôn-giáo thế-giới có chứa-đựng một khả-

năng sống vĩ-đại _ tuy những kẻ tự dối mình có

phủ-nhận nhân-danh một tôn-giáo khác, tục-thế

tự xưng là Lý-trí _ Không một trong các tôn-

giáo chính ấy, kể từ hai mươi thế-kỷ nay đã

chết cả _ trừ phi có lẽ, theo Vivekananda chỉ có

đạo Zoroastrianisme ( Bái-hỏa-giáo ) ( chưa

chắc, ông biết chi được. chắc hẳn ông lầm về

điểm này )... Và Phật-giáo, Ấn-Độ-giáo, Cơ-

Đốc-giáo không ngừng tăng tiến về phẩm và

lượng. ( Và các tôn-giáo khoa-học, tự-do và

nhân-quyền cũng tăng tiến ). Cái gì giảm đi ở

nhân-loại ấy là cái chết của tinh-thần, đen tối

tuyệt-đối, cái vô-tư-duy, vắng mặt ánh-sáng : le

lói tia sáng nhỏ là đức tin nó không tự-giác.

Mỗi một đại hệ-thống tín-ngưỡng " tôn-giáo "

hay " thế tục " " đại-diện một mẩu chân-lý

đại-đồng và hết sức nỗ-lực thực-hiện cái mẩu

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

164

ấy thành một kiểu-mẫu." Vậy chúng phải bổ-

túc lẫn nhau chứ không phải bài-trừ lẫn nhau.

Nhưng những tư-ý tiểu-khí cá-nhân căn cứ vào

ngu-si được lòng tự-ái và quyền-lợi giai-cấp

ưu-đãi của giáo-quyền hay trí-thức nuôi-dưỡng,

khiến cho phần-tử tự nhận là toàn-thể trải qua

các thời-đại và các địa-phương. " Một người đi

trong thế-giới, tay xách cái lồng như gánh xiếc

Thượng-Đế ", và ý đòi nhốt tất cả vào trong ấy!

Những thằng già, con nít !... Mặc cho chúng

nói cười lẫn nhau ! Mặc dầu những điên rồ của

chúng, mỗi nhóm đều có trái tim đập mạnh và

rung-động, sứ-mệnh của mình, giai-điệu riêng

trong cái đại hòa-điệu chung ; mỗi nhóm đã

quan-niệm lý-tưởng của mình, rực rỡ và khuyết

điểm : Cơ-Đốc-giáo với cái mộng tinh-thần

thuần khiết ; Ấn-Độ-giáo với mộng tâm-linh ;

Hồi-giáo với mộng bình-đẳng xã-hội...v.v. Và

mỗi nhóm gồm có những gia-đình tính-tình

khác nhau : duy-lý, tâm-linh, thanh-giáo, hoài-

nghi, sùng-bái giác-quan hay là trí-tuệ... Tất cả

đấy là những lực-lượng khác nhau và thứ tự

trong phép điều-hòa kinh-tế thần-linh của Bản-

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

165

thể luôn luôn tiến-hành không phút nào dừng.

Vivekananda phát-biểu lời thâm-thúy mà

chúng ta tất cả phải suy-tư :

_ " Người ta không bao giờ tiến từ

sai lầm đến chân-lý, mà từ chân-lý đến

chân-lý, từ một chân-lý thấp sang một

chân-lý cao hơn ."

Nếu chúng ta thực hiểu ông, thì khẩu-hiệu

của chúng ta sẽ là : " Thừa nhận " và không

phải là : bài trừ _ " và không phải chỉ là : bao-

dung, một sự thóa-mạ và phạm-thượng..." Vì

rằng mỗi người nắm được cái chi về chân-lý

mà nó có khả-năng cũng như các anh, cũng như

tôi. Anh không có gì phải " bao-dung " người

ta cả, cũng như người ta không được phép hay

là tôi được phép bao-dung ai. Chúng ta bình-

quyền và tất cả chúng ta đều tham-gia vào

chân-lý, chúng ta là đồng-hành trong sự-

nghiệp. Hãy thân ái như anh em !

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

166

_ " Tôi thừa nhận tất cả tôn-giáo

trong quá-khứ, và tôi thờ-phụng Thượng-

Đế cùng với tất cả. Tôi mở tâm-hồn cho

tất cả tôn-giáo tương-lai. Sách Thiên-khải

chưa hoàn-tất. Đấy là quyển sách kỳ lạ.

Thánh kinh Cơ-Đốc, Vedas, Hồi-giáo, tất

cả các Thánh kinh khác mới chỉ là một

vài trang, còn vô số trang nữa chưa dở.

Tôi mong nó được mở quyển sách ấy ra

hết cả các trang !... Chúng ta đang sống

trong hiện-tại, chúng ta hưởng-thụ ánh-

sáng của hiện-tại, chúng ta hấp-thụ quá-

khứ và chúng ta mở rộng tất cả cửa sổ của

chúng ta cho cái sắp tới tương-lai. Kính

chào tất cả các nhà Tiên-tri quá-khứ, tất

cả những Đại-gia hiện-tại, và tất cả các vị

Tiên-tri tương-lai ! "

_ ( " Con Đường Thực-hiện của một tôn-

giáo Đại-Đồng " " La Voie de Réalisation

d' une Religion Universelle " )

Những ý-tưởng ấy đã là những ý-

tưởng của Ramakrishna, và cũng của Keshab

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

167

Chunder Sen có vai-trò tiên-phong. Ngay từ

năm 1866 trong một bài diễn-giảng về " Các

Vĩ-Nhân " ( Les Grands Hommes ) ông này đã

nói : " Hãy tôn-trọng những Vĩ-nhân của Cơ-

Đốc-giáo ! Và những người Cơ-Đốc, hãy tôn-

trọng những Vĩ-nhân Đông-phương ! " Năm

1869, trong bài diễn-giảng về " Nhà Thờ

Tương-lai " ( L'Eglise Future ) phác-họa đích-

xác về Tôn-giáo Đại-đồng của Vivekananda :

" Tôn-giáo tương-lai sẽ chung cho

tất cả các dân-tộc. Nhưng mỗi dân-tộc sẽ

phát-triển theo bản-xứ và mang một cá-

tính đặc-thù riêng biệt ! Mỗi dân-tộc sẽ có

tiếng nói và dụng-cụ riêng của nó. Nhưng

tất cả sẽ hất hợp-xướng một Điệu Thánh-

Ca Đại-Đồng ."

Đấy là đề-tài của những diễn-thuyết của

Keshab ở nước Anh năm 1870 :

" Bao-hàm vào một cộng-đồng tất

cả các dân-tộc và chủng-tộc. Thiết-lập

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

168

như thế một Tôn-giáo Đại-đồng. San sẻ

nhóm này với nhóm khác tất cả điều tốt

lành, người ta có thể xây dựng Nhà Thờ

tương-lai của thế-giới với thời-gian ."

Sau hết, trong bức thư gửi anh em đồng-

bào Ấn ( 1880 ), những lời này có thể là của

Vivekananda, và hẳn rằng tâm-hồn Rama-

krishna đã thấu nhập :

"_ " Mong cuộc tiến-triển vô cùng

tận là khẩu-hiệu của các anh ! Tín-

ngưỡng của các anh hãy thâu thập tất cả

chứ không phải bài trừ. Tình yêu của các

anh hãy từ-thiện đại-đồng ! ... Không nên

lập lên giáo-phái mới. Nhưng thâu-nhận

tất cả giáo-phái. Hãy hòa-hợp tất cả các

tín-ngưỡng ... "

***

*

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

169

Những tư-tưởng chủ-nghĩa đại-đồng và

bác-ái tâm-linh ngày nay phảng-phất cả trong

không-trung. Nhưng các chính-quyền và những

kẻ khôn-ngoan tìm cách lợi-dụng cho mình.

Vivekananda đã chẳng cần phải sống ở thời-dại

đáng ghi nhớ của " Chiến-tranh Nhân-quyền

và Tự-do " để nhìn thấu qua sự khai-thác chủ-

nghĩa lý-tưởng, cái trò giả-dối vĩ-đại chồng

chất ngày nay ở Genève, Paris, Londres,

Berlin, Washington và ở các bọn phụ-tùng

chúng, _ đồng-minh hay thù-địch. _ Ông nói :

" Chủ-nghĩa ái-quốc đang ở giai-đoạn phát-

biểu tín-ngưỡng, hầu như tôn-giáo." Nhưng

quá thường xuyên nó chỉ là một mặt nạ của

chủ-nghĩa vị-kỷ. " Tình yêu, Hòa-bình, Bác-ái

v.v... đều trở nên những tiếng suông đối với

chúng ta... Mỗi người kêu gào " Bác ái đại-

đồng. Chúng ta tất cả bình-đẳng !..." Và rồi liền

ngay sau đó : " Hãy hợp thành một phái..."

Nhu-cầu độc-quyền xuất-hiện vội-vàng với

dục-vọng cuồng-nhiệt vụng che giấu, nó âm-

thầm gọi đến sự độc-ác của nhân-loại. " Đấy là

một bệnh-hoạn ! " Vậy chúng ta không nên tự

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

170

dối mình với danh-từ ! " Thế-gian đã quá đầy

những đại danh-từ ! " Những người có ý-thức

chính-xác về Bác-ái, Nhân-đạo không nói

nhiều, không làm những bài diễn-thuyết ở Hội

Vạn-quốc, không tổ-chức thành những Liên-

minh : Họ làm. Những khác biệt về nghi-lễ,

thần-thoại và giáo-lý, không tạo nên tất cả tôn-

giáo lớn ( tăng hay tục ), không làm cho họ

bối-rối. Họ cảm thấy cái sợi giây xuyên qua

chúng như là tất cả những viên ngọc xâu thành

chuỗi ngọc. Ví như tất cả mọi người, họ đi múc

nước tại suối. Và mỗi người có một cái bình

chứa, mà nước uốn theo hình tướng của bình.

Nhưng họ không cãi lộn về hình tướng của

nước. Nước vẫn chỉ là một .

Bằng phương-tiện thực-tế gì để đem lại

yên-lặng và hòa-bình vào đám người lắm điều

đang tranh-biện cải-cọ ở bến nước ? Nó hãy

uống nước của nó đi và để cho những người

khác uống với. Nước thừa đủ cho mọi người.

Và điều ngu xuẩn là đòi tất cả mọi người cùng

uống nước Thượng-Đế trong một cái thùng...

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

171

Vivekananda can-thiẹt giữa đám ồn ào, và ông

gắng làm cho đám cuồng nhiệt ấy nghe theo ít

nhất là hai châm-ngôn hành-vi, hai nguyên-tắc

tạm thời :

Nguyên-tắc thứ nhất : _ " Không hủy

hoại ! " Hãy xây dựng, nếu anh có khả-năng,

hay là giúp người ta xây dựng ! Nhưng nếu anh

không có khả-năng thì đừng xen vào đâu cả !

Thà không làm gì hết còn hơn là làm hại. Đừng

bao giờ nói một điều phản-đối một tín-tưởng

thành-thực. Nếu anh có một tín-tưởng ấy, hãy

phụng-sự lấy, nhưng chớ làm hại những kẻ

phụng-sự tín-tưởng khác. Nếu anh không có

tín-tưởng, thì hãy đứng nhìn ! Hãy mãn nguyện

làm người khán-giả .

Nguyên-tắc thứ hai : _ Hãy thừa-nhận

người khác nó như thế, ở vị-trí của nó và giúp

nó vươn lên trên con đường của nó ! Anh

không có gì mà sợ rằng con đường ấy làm cho

nó xa cách với anh. Thượng-Đế là trung-tâm tất

cả tay hoa bánh xe, và mỗi người chúng ta quy

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

172

vào trung-tâm ấy, theo một tay hoa. Cũng như

Tolstoï nói : " Chúng ta sẽ gặp nhau khi nào

chúng ta đi tới nơi." Tại trung-tâm thì những

sự khác nhau biến đi, nhưng chỉ ở trung-tâm

thôi ; và sự phân-hóa là thiết-yếu của bản-tính,

không có nó thì không còn sống nữa ! Vậy hãy

nâng đỡ sự phân-hóa, nhưng chúng ta không đi

nhồi vào sọ là chúng ta có thể tạo được nó, hay

là hướng-dẫn nó. Tất cả điều chúng ta có thể

làm được là tạm thời dựng lên chung-quanh cái

cây còn non nớt, một hàng rào bao che. Hãy

gạt các trở-ngại, mở sới cho nó có đủ không-

khí và đất trống để cho nó nẩy nở, chỉ có thế

thôi, không hơn. Sự trưởng-thành của nó phải

tự bên trong ra. Hãy từ bỏ cái ý-niệm chúng ta

có thể đem tâm-linh cho người khác ! Mỗi

người không có sư-phụ nào khác hơn là tâm-

hồn mình ! Ai nấy tự tạo nên mình. Và không

còn bổn-phận nào khác là giúp cho nó tự tạo

nên nó .

Người ta thán-phục sự tôn-trọng tất cả cá-

tính và sự tự-do của nó đó. Không một tôn-giáo

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

173

nào có được sự tôn-trọng đến mức độ ấy. Và

chính đấy là tôn-giáo của Vivekananda. Bởi vì

Thượng-Đế của ông là gì, nếu chẳng phải tất cả

chúng-sinh, và mỗi chúng-sinh ấy trong phát-

triển tự-do của nó ? Một trong những lời kinh

Upanisads tối cổ nói :

_ " Tất cả hiện-hữu trong vũ-trụ này

đều phải được Chúa bao-bọc ."

Vivekananda giải-thích lời ấy như sau :

_ " Chúng ta phải che phủ tất cả

bằng hình ảnh của Chúa. Không phải với

một chủ-nghĩa lạc-quan giả-dối, nó bịt

mắt chúng ta về điều ác, nhưng mà nhìn

thấy Thượng-Đế ở khắp cả : trong tội-lỗi

và trong kẻ phạm tội, trong hạnh-phúc và

trong đau khổ, trong sự sống và trong sự

chết... Nếu anh có một người vợ, như thế

không phải có nghĩa là anh phải bỏ vợ đi,

mà là anh phải nhìn thấy Thượng-Đế ở tại

người vợ anh, Ngài ngự tại nàng, tại anh,

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

174

và tại đứa con... Ngài hiện-diện tại khắp

nơi ."

Một tư-tưởng như thế không làm cho đời

sống mất phong-phú chút nào. Nó còn tạo nên

phong-phú cả với sự thống khổ của đời sống ...

" Những dục-vọng và cả điều ác nữa

cũng có ý-nghĩa của chúng. Trong đau

khổ cũng như trong hạnh-phúc đều có

vinh-quang... Tôi sung-sướng về phần tôi

là đã hoàn-thành một vài điều gì tốt,

sung-sướng đã làm nhiều điều xấu, sung-

sướng đã phạm lầm lỗi, vì mỗi điều đã là

bài học kinh-nghiệm lớn... Không phải

vấn-đề là không có tư-sản. Hãy có tất cả

điều anh mong muốn ! Nhưng hãy biết sự

thật, và thực-hiện sự thật đi !... Hãy biết

rằng tất cả đều của Chúa, rằng Thượng-

Đế ở tại mỗi mảnh nhỏ của thực-thể anh...

Bấy giờ thì cảnh-tượng biến-đổi, và thế-

gian đáng lẽ hiện ra như một địa-ngục sẽ

thành ra thiên-đường ."

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

175

Đấy là ý-nghĩa lời nói vĩ-đại của Jésus :

" Thiên-đường ở tại trong lòng các

con ! ". Thiền-đuờng không xa vời. Thiên-

đường ở đây và kia. Tất cả đều là Thiên-đường.

Anh chỉ cần mở mắt ra ...

_ ( Jñānayoga; " Dieu en toutes choses ",

Londres 27-10-1896 )

" Thức tỉnh ! Tỉnh dậy !... Đừng mộng mị

nữa !

" Hãy can-đảm lên ! Và đối-diện với

Chân-lý ! Đồng-nhất với Chân-lý !

" Dứt hết ảo-tưởng triền-miên .

" Hoặc nếu ngươi không có thể, hãy mơ

những giấc mơ gần gũi :

" Là Tình-yêu Vĩnh-cửu và Tự-do Phục-

vụ .

" Ông còn bình-luận thêm rằng mỗi

tâm-hồn là thần-linh tiềm-tàng. Mục-đích

là biểu-hiện thần-linh ấy ngự tại nội-tâm

chúng ta, bằng cách kiểm-soát bản-tính

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

176

bên ngoài và bên trong. Hãy làm điều ấy,

hoặc bằng hành-vi, hoặc bằng sùng-bái,

hay là bằng kiểm-soát tâm lý, hay là bằng

triết-lý, _ bằng một trong các phương-tiện

ấy thôi, hay là bằng nhiều, hay là

bằng tất cả... Hãy tự-do ! Điều này là tất

cả tôn-giáo. Các học-thuyết và các giáo-

điều, những nghi-lễ và kinh-điển, các đền

thờ và những hình-tướng chỉ là những

chi-tiết thứ yếu ."

Và luôn luôn, vốn là đại nghệ-sĩ, ông ví

vũ-trụ với một bức họa, mà chỉ người nào

ngắm nó với con mắt không có ý-định tư-hữu

bán mua, mới thực-sự thưởng-thức được :

_ " Tôi không biết một quan niệm

nào về Thượng-Đế hùng-vĩ hơn là quan-

niệm này : _ “ Ngài là Thi-sĩ Đầu-tiên,

Thi-sĩ Tối-cao. Toàn-thể vũ-trụ là bài Thơ

của Ngài, đủ vần-điệu, viết trong hoan-lạc

vô-hạn.” _ (Đieu en toutes choses : God

in everything ).

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

177

Ông nói ở Londres năm 1895 :

_ " Nghệ-sĩ là một chứng-nhân

chứng-kiến cái đẹp. Nghệ-thuật là hình-

thức hạnh-phúc ít vị-kỷ hơn cả trong thế-

giới này ."

Hay là :

_ " Nếu người ta không thể thưởng-

thức hòa-điệu trong Thiên-nhiên, thì làm

thế nào thưởng-thức được Thượng-Đế,

vốn là tổng-thể của tất cả hòa-điệu ? "

Và sau hết :

_ " Sự thực nghệ-thuật là Brahman

( Phạm-Thiên ) ."

***

*

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

178

Nhưng có điều sợ rằng, một quan-niệm

như thế có vẻ quá nghệ-thuật và chỉ thông-cảm

với một số tinh-thần nghệ-sĩ như các giòng suối

Çiva thấm-nhuần nhân-dân xứ Bengale, từng

sản-xuất dồi-dào hơn là những ánh mặt-trời bị

ám khói nhà máy của chúng ta. Và còn có một

sự nguy-hiểm khác, đối nghịch với nguy-hiểm

trên, ấy là những dân-tộc thông-cảm với lý-

tưởng thích-thú mê-ly nghệ-thuật sẽ có thái-độ

khán-giả bất động như nhà Vua La-Mã Hoàng-

đế bị trò chơi trường-đua làm cho uể-oải và lệ-

thuộc ...

Ai đã theo tôi đến đây, hẳn đã đủ biết về

tính-tình của Vivekananda, cái lòng thương bi-

đát nó buộc ông vào tất cả những đau khổ trong

vũ-trụ, và lòng hăng-hái hành-động của ông để

nhẩy sổ vào cứu-tế chúng. Như thế đủ thấy ông

có bao giờ biểu-đồng-tình với ai hay là dung

cho họ cái quyền chìm đắm vào trong tâm-lý

thần-hóa mê-ly của nghệ-thuật hay là của trầm-

tư mạc-tưởng .

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

179

Và biết tự bản-thân kinh-nghiệm và qua

những người chung-quanh mình cái sức hấp-

dẫn nguy-hiểm của trò chơi Lila, trò chơi của

Thượng-Đế, " Hóa nhi đa hý lộng ", ông luôn

luôn lo cảnh-giác những người ông có sứ-mệnh

hướng đạo để kéo họ về hành-động, không để

họ mơ mộng, và ông thuyết giảng cho họ như

ông nói, một thứ triết-lý Vedanta thực-tiễn

" Vedanta pratique " .

Điều rất thật đối Vivekananda là " cái

biết về Brahman ( Tuyệt-đối ) là mục-đích

cùng tột, là bản-mệnh tối cao của con người.

Nhưng người ta không có thể trầm-tư vào

Tuyệt-đối ( Brahman ) " _ ( Toàn-tập, q. VIII ).

Đấy là những khoảnh-khắc đặc-biệt thôi.

" Một khi nó ngoi lên khỏi mặt nước Biển-cả

tịch-tĩnh và vô-danh ấy " nó phải bám vào một

cái phao :

" Nếu một người đâm đầu lặn vào

trong những vui thú điên cuồng của thế-

tục, y bị diệt vong chết chìm. Và nếu một

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

180

người nguyền-rủa thế-gian, bỏ đi vào

trong rừng núi, hành xác, tự diệt dần dần,

biến trái tim thành sa-mạc, trở nên cứng

dắn khô-khan, người ấy cũng thế, đã lạc

đường ."

_ (Dieu en toutes choses = Thượng-Đế tại

mọi vật )

Khẩu-hiệu trọng-đại mà chúng ta phải

đem vào cho thế-gian, từ những giác-ngộ ấy,

chúng làm cho ta chớp-nhoáng " biết " theo

nghĩa đầy đủ và theo Thánh kinh, cái Bản-thể

đại-dương _ khẩu-hiệu sớm chầy nó phải dẫn

đường chúng ta tới Đích _ chính cũng là khẩu-

hiệu của qui-luật đạo-đức cao nhất :

_ " Không phải tôi mà là anh ! "

Cái " ta " đã là sản-phẩm của Vô-hạn

tiềm-tàng trong quá-trình biẻu-hiện ra ngoài

của nó. chúng ta phải đi lại con đường theo

chiều phản-nghịch trở về trạng-thái vô-hạn

bản-lai của chúng ta. Và mỗi khi chúng ta nói :

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

181

_ " Không phải tôi, người anh em

ơi, mà chính là anh ! " _ chúng ta tiến lên

một bước .

_ " Thực-hiện " .

_ " ... Người ta sợ rằng sau khi đã

đạt tới Thực-hiện, sau khi đã thực-hiện

rằng chỉ có cái Một, những nguồn suối

tình-yêu chẳng khan kiệt, rằng tất cả cái

gì người ta yêu chẳng tan biến... Những

kẻ ấy không từng bao giờ nghĩ rằng

những ai ít để ý đến chính cá-nhân mình

đã là những nhà hành-động vĩ-đại của

thế-giới. Chỉ đến bấy giờ một người mới

thực yêu, khi nó phát-hiện đối-tượng tình-

yêu của nó không phải là một vật nhỏ-

mọn, thấp hèn và hủ-bại. Chỉ bấy giờ nó

mới yêu, khi nào nó phát-hiện đối-tượng

tình-yêu của nó chính thật là Thượng-Đế.

Người vợ sẽ càng yêu chồng hơn, người

mẹ càng yêu con hơn khi nào họ nhìn

thấy Thượng-Đế ở các con, ở người

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

182

chồng họ. Người ấy sẽ yêu kẻ thù chí tử

của y. _ Y sẽ rung-động thế-giới, người

mà tiểu-ngã của mình đã mất, và thay vào

đấy là Thượng-Đế... Nếu chỉ một phần

triệu nam, nữ hiện đang sống có thể trong

vài phút tự nói và nghĩ thật sự được :

" Ôi, chư vị chúng-sinh, các vị đều là

Thượng-Đế ! Tất cả chư vị là Thần-linh

sinh-động duy-nhất ! "

_ trong một nửa giờ sau thì toàn-thể thế-

giới sẽ biến đổi .

_ ( Homme Apparent et Homme Réel =

Người Chân-thật và Người Giả-mạo )

Nhưng có một đệ-tử vị-kỷ vấn nạn Vive-

kananda, bữa ấy ông giải-đáp như một bà tiên

mà ngày thường ít có .

Đệ-tử ấy nói : _ Nhưng nếu tôi phải luôn

luôn nghĩ đến tha-nhân thì lúc nào tôi chiêm-

ngưỡng Atman ? Nếu tôi luôn luôn bận tâm

vào sự-vật đặc-thù và tương-đối thì làm thế nào

có thể thực-hiện Tuyệt-đối ?

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

183

Đạo-sĩ Swami êm ái trả lởi y : _ Con ơi,

thày đã bảo rằng nhiệt thành nghĩ điều tốt cho

tha-nhân, tự mình hiến thân phụng-sự tha-nhân,

con tinh-khiết-hóa tâm-hồn bằng việc làm ấy,

và con sẽ đạt tới cái huyền-giác về Tự-tại

thấm-nhuần tất cả chúng-sinh. Vậy con còn gì

để mong đạt tới nữa ? Có phải con muốn rằng

sự thực-hiện Tự-tại là cốt ở sinh-tồn một cách

vô-tri vô-giác như bức tường này hay là như

miếng gỗ này ?

Người đệ-tử cố nài : _ Nhưng tuy vậy,

điều mà Thánh thư mô-tả như là động-tác của

Tự-tại tự thu về bản-tính chân-thật của nó thì

cốt ở tại sự đình-chỉ tất cả tác-dụng của tinh-

thần và tất cả công-tác .

_ " Ồ ! Vivekananda đáp, đấy là một

trạng-thái hiếm lắm, rất khó mà đạt tới, và nó

không được lâu. Vậy thời-gian còn lại thì làm

gì ? Bởi thế cho nên sau khi đã thực-hiện được

trạng-thái ấy rồi, bậc thánh thấy Tự-tại ở tại tất

cả chúng-sinh hiện-hữu, và sống trong cái ý-

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

184

thức ấy, ngài tự hiến thân để phụng-sự chúng-

sinh, thành-thử ngài trả hết Nghiệp ( Karma ),

có thế còn sót lại để cho thân-thể kéo dài. chính

cái trạng-thái ấy mà Kinh-văn Shastras mô-tả

như là Tự-do trong đời sống ."

_ ( Toàn-tập, q. VII _ Vivekananda )

Một truyện cổ Ba-Tư mô-tả trong thể-

thức thích-thú cái trạng-thái hoan-hỉ, trong ấy

người ta được giải-thoát bằng giác-ngộ, tự

hiến-thân cho tha-nhân một cách tự-nhiên, đến

nỗi y tự quên mình vào tất cả nơi chúng :

" Người tình-nhân đến gõ cửa nhà ý-

trung-nhân. Nàng hỏi : _ " Ai gõ cửa đấy ? "

Chàng đáp : _ " Anh đây." Cửa vẫn đóng kín.

Chàng trở lại lần thứ hai, và gọi : _ " Tôi đây,

tôi đây, tôi ở đây này ! " Cửa vẫn đóng. Lần

thứ ba, có tiếng hỏi từ trong ra : _ " Ai đấy ?"

Chàng đáp : _ " Người yêu ơi, tôi là mình

đây !... " Bấy giờ cửa liền mở ... "

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

185

Những câu truyện ngụ-ngôn lý-thú ấy mà

Vivekananda thưởng-thức hơn ai hết ý-vị của

nó, còn trình-bày một lý-tưởng yêu-thương quá

thụ-động để thích-ứng với năng-lực cường-kiện

của nhà lãnh-đạo dân-tộc. Chúng ta đã thấy ở

mọi trường-hợp đã khích-động và dằn-vặt sự

khoái-lạc tham-lam của tín-đồ Sùng-bái (Bhak-

tas). Đối với ông, yêu là yêu hoạt-bát, phụng-

sự, giúp đỡ. Và người được yêu không phải là

người được ưa-thích mà là tha-nhân, bất cứ ai,

như thế nào, dù là kẻ thù nó tát mình, dù là kẻ

ác và khốn khổ _ nhất là những kẻ này vì

chúng càng nhu cầu hơn cả .

" Các anh chẳng nhớ điều nói trong

Cựu-Ước ( Bible ) ? _ Nếu anh không có

thể yêu người anh em ruột thịt của anh

thường thấy thì làm thế nào anh có thể

yêu Thượng-Đế, mà anh không từng nhìn

thấy được ? " Tôi gọi các anh là có tín-

ngưỡng tôn-giáo khi nào các anh bắt đầu

nhìn thấy Thượng-Đế ở tại tất cả mọi

người... Bấy giờ các anh sẽ hiểu được ý-

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

186

nghĩa câu nói : " Dơ má trái cho người đã

tát anh ở má bên phải ? "

_ ( Vedanta Pratique, II = Triết-lý Vê-Đa

Thực-tiễn )

Vivekananda nói với một thanh-niên

Bengale đóng cửa tự giam hoài trong nhà để

tìm an-tĩnh cho tâm-hồn :

_ " Con ơi, nếu con muốn tin-tưởng

nơi ta, thì trước hết con hãy mở cửa

buồng con ra và nhìn chung-quanh mình

con... Hàng ngàn kẻ khốn-nạn ở chung-

quanh nhà con. Con hãy phục-vụ chúng

hết lòng. Kẻ này đau ốm, con hãy chữa

chạy cho nó, kẻ kia đói lả, con hãy nuôi

dưỡng nó đi, kẻ thứ ba ngu dốt, con hãy

dạy nó học. Nếu con muốn có an-tĩnh

tâm-hồn, hãy phục-vụ những kẻ khác !

Đấy là châm-ngôn của ta ! "

Khi mới ở Mỹ-quốc hồi-hương năm

1897.

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

187

" Khẩu-hiệu của tôi là : _ Không

phải là tôi mà là anh ... Mặc dù có địa-

ngục hay là thiên-đường, có một linh-hồn

hay không ! v.v. Đây là thế-gian ! Nó đầy

ngập thống khổ. Hãy vào thế-gian như

Đức Phật, và nỗ-lực giảm bớt sự thống

khổ ấy đi, hay là chết giữa đường cứu

khổ. Hãy quên mình đi. Đấy là bài học

đầu tiên phải học, dù anh hữu-thần hay

vô-thần, bất khả tri luận hay triết-học

Vedanta, Thiên-chúa-giáo hay Hồi-giáo!"

_ ( Vedanta Pratique )

Chúng ta đã chú-ý nhiều về phương-diện

ấy ở học-thuyết của ông để khỏi cần nhắc lại .

Nhưng có một phương-diện khác mà

chúng ta không nên bao giờ quên. Thông

thường trong tư-tưởng Âu-châu của chúng ta

" phục-vụ " ngụ một tinh-thần tự ý tự hạ, khiêm

nhường. Cái tinh-thần ấy hoàn-toàn ở ngoài

triết-lý Vedanta của Vivekananda. Phục-vụ,

yêu-thương ấy là bình-đẳng với cái gì mình

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

188

yêu-thương và phục-vụ. Không giảm đi,

Vivekananda còn luôn luôn nhằm vào sự viên-

mãn của thực-thể. Khi chúng ta nói : " Không

phải tôi mà là anh ! " thì đấy không phải là tự

vẫn, đấy là chinh-phục một chủ-quyền rộng lớn

hơn. Và nếu chúng ta thấy Thượng-Đế ở tha-

nhân, thì đấy là vì Thượng-Đế có ở tại nơi

chúng ta, chúng ta biết thế. Đấy là giáo-lý thứ

nhất của triết-lý Vedanta. Nó không dạy chúng

ta : " Hãy quỳ xuống ! " Nó bảo : " Ngẩng đầu

lên, vì anh mang ở nơi anh Thượng-Đế. Hãy

xứng đáng ! Hãy hãnh-diện ! "

Triết-học Vedanta là bánh-mì cho người

dũng-mãnh. Và nó nói với người yếu hèn :

" Không có người nào yếu hèn cả, các anh chỉ

yếu hèn vì các anh muốn thế. " Hãy trước hết

tự tin vào chính mình ! Bằng-chứng về

Thượng-Đế, đấy là các anh. Làm sao các anh

biết rằng một quyển sách dạy được chân-lý ?

Bởi vì chính các anh là chân-lý, và hãy nhận-

thức lấy... Linh-tính là bằng-chứng về Thượng-

Đế." _ ( Vedanta Pratique ). " Anh là cái Ấy !"

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

189

Mỗi một trong những vận-hành của mạch máu

anh đều ca lên điều ấy. Và vũ-trụ với ức triệu

mặt-trời, đồng thanh họa lại tiếng nói : " Anh là

cái Ấy ! "

Uy nghiêm, Vivekananda tuyên-bố :

_ " Kẻ nào không biết tự tin nơi

mình, kẻ ấy là vô-thần ."

Nhưng ông nói thêm :

_ " Cái lòng tự tin ấy là tin vào tất

cả. Vì rằng anh là tất cả. Lòng yêu mình

là yêu tất cả. Vì rằng tất cả và mình đều là

Một, đồng-nhất-thể."_ (Vedanta Pratique)

Và cái tư-tưởng ấy làm nền móng cho tất

cả luân-thường đạo-lý .

_ " Đồng-nhất-tính là đá thử vàng

của chân-lý. Tất cả cái gì cống-hiến vào

đồng-nhất-tính đều là chân-lý. Tinh-yêu

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

190

là chân-lý còn hận-thù thì không, vì hận

thú làm phân-tán đa-thù, nó là năng-lực

làm tan rã ... "

Ở đây tình-yêu lấn bước. Nhưng tình-yêu

ở đây là sóng lòng, giòng máu chảy, thiếu nó

thì tứ chi sẽ bị tê liệt. Tình-yêu ở đây, lại là

Năng-lực .

Vậy tại căn-bản của tất cả là Năng-lực.

Năng-lực Thần-linh. Nó ở tại tất cả chúng-sinh.

Nó ở tại tất cả sự-vật. Nó ở tại trung-tâm của

thể tròn, và trên tất cả các điểm của vành tròn.

Và từ điểm này sang điểm kia, mỗi một tay hoa

phân-tán. Ai quy-nguyên lặn vào trong lò thì

toé ra thành tia lửa. Ai tự tập-trung sẽ vọt tung

ra với năng-lực bách bội. Ai thực-hiện trong

mặc-niệm trầm-tư, sẽ thực-hiện trong hoạt-

động. Trung-tâm điểm và vành tròn liên-hệ

nhau. vì Thượng-Đế là tất cả. Ai sống tại

Thượng-Đế sẽ sống cho tất cả, như Shiva-

nanda, đại Viện-trưởng hiện-tại của Tu-viện

( Math ) ở Belur đã nói trong lời chúc-từ chủ-

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

191

tọa lần Quy-ước đầu của Tu-viện và Sứ-đồ

Ramakrishna ( ngày 1 tháng 4 năm 1926 ) :

_ Nếu khải-ngộ tối-cao không nhằm gì

hơn là xóa hết tất cả phân-biệt giữa linh-hồn

cá-nhân với linh-hồn vũ-trụ, nếu cái lý-tưởng

của nó là thiết-dựng đồng-nhất-tính toàn-diện

giữa cái Ngã riêng của nó với Đại-Ngã

Brahman vô sở bất tại, thì tự-nhiên có thành-

quả là cái thực-nghiệm tâm-linh tối-cao của tu-

sĩ chỉ có thể dẫn nó đến một trạng-thái dâng

mình cho hạnh-phúc tuyệt-diệu của toàn-thể.

Sau khi đã vượt giới-hạn của vũ-trụ này, vốn là

kết quả của vô-minh, nó làm một sự hy-sinh

Thần-linh cùng tột là " Dữ thiên địa tham "

( ) ( Cùng với vũ-trụ làm một ) .

Như vậy là bằng sự vãng-lai liên-tục giữa

Đại Tự-tại vô-hạn của Tri-thức viên-mãn và cái

tiểu-ngã bao-hàm trong Tuồng Ảo-hóa ( Jeu de

Maya ) chúng ta bảo-trì sự hòa-hợp của tất cả

sinh-lực. Chúng ta đã lập lại trong lòng mạc-

niệm tất cả những năng-lực thiết-yếu, của tình-

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

192

yêu và làm việc, của tín-ngưỡng và lạc-thú

hành-động, trong khuôn-khổ của cuộc đời

chúng ta. Nhưng mỗi một hành-động trong

những động-tác của chúng ta từ đây đã được

nâng-lên bình-diện hay âm-giai Vĩnh-Cửu.

Giữa lòng hành-động náo-nhiệt có sự yên-tĩnh

vĩnh-cửu. Như vậy Tinh-thần tham-gia vào

trong những cuộc tranh-đấu sinh-tồn và đồng

thời lượn ở trên cuộc tranh lộn. Lý-tưởng của

Gita ( Chỉ-Tôn Ca ) với Héraclite đã được

thực-hiện trong điệu nhạc quân-thiên .

Thù đồ nhi đồng quy .

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

193

PHẦN THỨ TƯ

*

THƯỢNG-GIỚI THẦN-LINH

HẠ-GIỚI NHÂN-LOẠI

Quân Bình Và Tổng Hợp : _

Hai chữ ấy đủ toát-yếu thiên-tài xây-dựng

của Vivekananda. Tất cả những con đường của

tinh-thần : bốn Đạo-dẫn ( Yogas ) phối-hợp,

hỷ-sả và phục-vụ, nghệ-thuật và khoa-học, tôn-

giáo và hành-động, kể từ con đường tâm-linh

nhất cho đến con đường thực-tiễn nhất. Mỗi

một trong những con đường ông giảng dạy đều

có giới-hạn của nó. Nhưng riêng ông thì đã trải

qua tất cả. Ông ôm-ấp tất cả. Trên xe tứ mã,

ông cầm cương cho bốn con đường chân-lý :

Tình-yêu ; Trí-tuệ ; Hành-động ; Khí-lực. Trên

cả bốn đường, ông tiến-hành cùng một thể về

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

194

lý Duy-nhất. Đấy là đại hòa-điệu của Năng-lực

nhân-loại .

Nhưng cái công-thức ấy, tinh-thần nhiệt-

thành " Biện biệt " ( Viveka ) đã không tìm

thấy, nếu nó đã không được thể-hiện trước mắt

trong con người quân-bình hài-hòa của Rama-

krishna. Nhà Sư-phụ hồn-nhiên ấy đã giải-

quyết theo bản-năng tất cả những xung-khắc

của đời sống thành một bản nhạc kiểu Mozart

phong-phú và dịu-dàng _ một " Đại Nhạc dữ

Thiên Địa thái hòa " ( ) . Và vì

thế mà tất cả hành-vi cùng sự-nghiệp của cao-

đệ đều mang dấu hiệu Ramakrishna .

" Ngày giờ đã chín mùi để giáng-

sinh con người trong cùng một thân-thể

có sự phối-hợp trí-tuệ sáng-lạn của

Çankara với tình-yêu vô-hạn của

Chaïtanya _ con người nhìn thấy trong tất

cả tôn-giáo cùng một tinh-thần hoạt-bát,

và trong tất cả chúng-sinh cùng một

Thượng-Đế _ con người mà tình-yêu bao-

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

195

bọc tất cả những kẻ nghèo hèn, khốn nạn

và bị đàn-áp ở Ấn-Độ và ngoài Ấn-Độ _

mà trí óc mãnh-liệt phối-hợp tất cả tư-

tưởng cạnh-tranh ở Ấn-Độ và ngoài đất

Ấn và nuôi dưỡng một hòa-điệu đại-

đồng... Thời giờ đã điểm chín mùi. Con

người ấy đã giáng-sinh, và tôi đã có

duyên may được ngồi dưới chân... Ngài

đã đến, cái tinh-thần sống động của Ưu-

Ba-Ni-Tat ( Upanisads ), sự thành-tựu của

các hiền-triết Ấn, vì thánh-hiền của thời-

đại hiện thời đòi hỏi... Hòa điệu ..."

_ ( Các Thánh-hiền Ấn-Độ _ Diễn-văn )

Cái hòa-điệu ấy nó đã nẩy nở ở một nhân-

vật ưu-tú, và một vài người đặc-tuyển đã

hưởng-thụ, Vivekananda đã muốn phổ-biến ra

toàn cõi Ấn-Độ và cả thế-giới. Đấy là sáng-tạo

mạnh-bạo của ông. Có lẽ ông không chỉ đem

lại một ý-tưởng mới. Có ý-tưởng nào mà tử-

cung Ấn chẳng thai-nghén, mà trải qua các

thời-đại bà chúa đàn kiến chẳng đã sinh-sản

không chút mỏi mệt !... Nhưng những con kiến

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

196

ấy không hợp thành một tổ kiến. Tất cả những

tư-tưởng ấy, riêng rẽ hiện ra có vẻ không thích-

hợp với nhau. Ở Ramakrishna chúng tỏ ra hòa-

hài. Và cái bí-quyết của trật-tự thần-linh của

chúng đã biểu-lộ cho Vivekananda :

" Tôi đã có được dịp sống với một

người nhiệt-thành nhị-nguyên cũng như

nhất-nguyên, vừa Sùng-bái ( Bhakta )

nồng-nàn vừa Trí-tuệ ( Jñānayoga ). Sống

với Người khiến tôi, lần đầu tiên hiểu Ưu-

Ba-Ni-Tat ( Upanisads ) và Thánh kinh,

xếp đặt trên một cơ-sở hoàn-hảo hơn. Và

tôi đã thấy chúng không mâu-thuẫn với

nhau. Tôi đã thấy trong tất cả những kinh-

điển ấy rằng những tư-tưởng lưỡng-

nguyên kết-thúc thành nhất-nguyên viên-

mãn vĩ-đại. Tôi đã giác-ngộ cái hòa-điệu,

là bối-cảnh của tất cả những tín-ngưỡng

Ấn-Độ và sự cần-thiết của hai giải-thích,

ví như ở thiên-tượng-học có địa-trung-

tâm và nhật-trung-tâm ."

_ ( Le Vedanta et la Vie indienne )

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

197

Ông chủ-trương khởi công xây dựng trên

con số vàng ấy cái Đô-thành _ Thiên-quốc _

Nước của Người .

Ông phải đồng thơi vừa xây thành lẫn

tâm-hồn của cư-dân .

Chính theo lời thú-nhận của các đại-biểu

Ấn về tư-tưởng ông, trong sự xây cất của ông,

ông cảm theo quy-tắc và nỗ-lực tổ-hợp của

Tây-phương cận-đại, cũng như tổ-chức Phật-

giáo của Ấn-Độ cổ-điển .

Ông quan-niệm kế-hoạch của một tổ-chức

mà Thánh-thất ( Math ) chính là ngôi Mẫu-điện

" sẽ đại diện " trong khoảng những thế-kỷ sắp

tới cho " thân-thể vật-lý của Ramakrishna " .

Ngôi Math ( Thánh-thất ) ấy đã thiết dựng

cho đối-tượng sinh-đôi, là đem lại cho người ta

những phương-tiện " đạt tới sự giải-thoát riêng

của chúng cũng như tự trang-bị cho sự tiến-bộ

của thế-giới và cải-thiện tất cả điều-kiện của

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

198

chúng _ tất cả theo kiểu-mẫu và theo đường lối

của Ramakrishna ". _ Một ngôi Thánh-thất thứ

hai phải thực-hiện cùng một đối-tượng ấy để

cho phụ-nữ. Và cả hai phải phân-tán đi khắp

thế-giới. vì rằng những cuộc du-lịch của Đạo-sĩ

Vivekananda với sự truyền-giáo quốc-tế của

ông đã chứng-thực cho ông cái sự nhất-trí của

khát-vọng và nhu-cầu ở nhân-loại hiện-thời.

Thời đã đến cho ông để tiếp-tục sứ-mệnh cổ

xưa của " Đại Ấn ", sứ-mệnh truyền-giáo địa-

cầu. Chỉ ở đấy, đối với Vivekananda mới là

" chính-trị đối ngoại " của dân-tộc ông. _

Nhưng khác với các "dân-tộc của Thượng-Đế"

ở quá-khứ đã hiểu cái bổn-phận ấy như một

quyền-thế của đế-quốc tinh-thần, bắt tất cả mặc

đồng-phục với cái mũ chật hẹp, nhà giáo-đồ

Vedanta ( Bất-nhị-pháp ) có tôn-chỉ tôn-trọng

bản-chất riêng của từng người và tín-ngưỡng

của nó. Nó chỉ muốn thức tỉnh Tâm-linh ở mỗi

người, " hướng-dẫn cá-nhân và dân-tộc trong

cuộc chinh-phục nội-giới của chúng bằng

những con đường riêng thích với chúng hơn

hết, bằng những phương-tiện có thể đáp ứng

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

199

hơn cho những thiếu-thốn mà chúng phải chịu-

đựng hơn cả." Ở đấy không có chút gì làm cho

chủ-nghĩa dân-tộc câu-chấp nhất phải phẫn-nộ.

Người ta không đòi hỏi ở một dân-tộc nào phải

tự hy-sinh mình đi :

" Chúng ta không bao giờ được nghĩ

lột bỏ cá-tính của một dân-tộc, dù rằng

chúng ta có thể chứng-minh cái cá-tính ấy

đầy sai lầm ."

_ ( Vivekananda _ 1899 - 1900 )

Người ta đòi nó là thực nó, viên-mãn nhất

và cao-cả nhất : _ Thượng-Đế của mình .

Nhưng đồng-tình với tư-tưởng của

Tolstoi, mà ông không biết, và là biểu-thị chính

cho lẽ-phải phổ-thông và tâm-tình, Viveka-

nanda nhận thấy bổn-phận đầu tiên đối với

đồng-bào gần nhất ấy là dân-tộc ông. Suốt tập

sách này người ta đã cảm thấy sự rung-động

của Ấn-Độ thể-hiện nơi ông. Tâm-hồn đại-

đồng của ông đâm rễ sâu trong đất nhân-loại,

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

200

và một đau đớn nhỏ của xác thịt câm ấy phản-

vọng vào toàn-thể thân cây .

Trong một dân-tộc gồm hàng trăm dân-

tộc khác nhau, và ở đấy mỗi dân-tộc phân chia

thành cấp lớn, cấp nhỏ, giáo-phái và tôn-giáo,

tỏ ra vẻ như một trong những bệnh-nhân mà

máu quá loãng, không có thể đông lại được,

ông là cái thống-nhất-tính sinh-động và ông

mong muốn thống-nhất. Thống-nhất các tư-

tưởng ; Thống-nhất về hành-động. Công việc

lớn nhất của ông không phải là việc chứng-

minh bằng các lý lẽ cái thống-nhất-tính Ấn-Độ

mà là in sâu nó vào tâm-hồn chúng ta với

những tia chớp. Ông có thiên-tài về những

danh-từ ánh-sáng, về những lời nói sấm sét từ

trong lò tâm-linh bắn ra và xuyên qua hàng

triệu người. Không một lời nào tạo sinh vào

Ấn-Độ một súc-động như là khẩu-hiệu trứ

danh : " Daridra - Nârâyana " = ( Thượng-Đế

Hành-khất ) "... Thượng-Đế độc-nhất có được,

Thượng-Đế duy-nhất tôi tin-tưởng... Thượng-

Đế tôi là những kẻ khốn cùng, Thượng-Đế tôi

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

201

là tất cả các kẻ nghèo của tất cả các chủng-

tộc !... " Người ta có thể bảo rằng định-mệnh

của Ấn-Độ ở đấy đã thay-đổi. Và tất cả nhân-

loại sẽ phản-vọng lâu dài tiếng gọi ấy .

Người ta nhận thấy dấu-hiệu , vết thương

bỏng cháy _ ( cái nhát dáo cảm thấy trong lòng

đứa Con Nhân-loại trên thánh-giá ) _ trong

những hành-động rất ý-nghĩa của Ấn-Độ trong

khoảng hai mươi năm gần đây. Khi đảng Tự-trị

( Swaraj ) ở Hội-nghị Quốc-dân Ấn-Độ (đoàn-

thể thuần-túy chính-trị ) chiếm Hội-đồng Đô-

sảnh Calcutta, nó lập chương-trình công-tác

cộng-đồng gọi là chương-trình Daridra

Nârâyana. Và lới nói vang-dội mà Gandhi nhắc

lại thì luôn luôn được ông sử-dụng. Tức thì,

liên-hệ đưọc nối giữa chiêm-ngưỡng tôn-giáo

và phục-vụ các giai-cấp hèn-hạ. Vivekananda

đồng-nhất-hóa cái nọ với cái kia. " Ông bao-

phủ sự phục-vụ một hào-quang thần-linh và

nâng nó lên hàng phẩm-cách tôn-giáo." Ý-

tưởng đã choán lấy tinh-thần Ấn-Độ ; và những

công-tác cứu-trợ nạn đói, lụt, hỏa-hoạn, dịch-

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

202

tệ, ba mươi năm về trước hầu như hoàn-toàn

không ai biết, những nhà an-dưỡng và những

hội cứu-tế xã-hội bắt đầu mọc lên khắp trong

nước. Một bài học lớn cho chủ-nghĩa vị-kỷ của

tín-ngưỡng nó gặm nát. Câu nói nặng-nề mà tôi

đã nhắc đến, câu nói của Ramakrishna nhu-mì :

" Tôn-giáo không dành cho những bụng đói

rỗng !... " Nếu người ta muốn thức tỉnh tâm-

linh ở lòng nhân-dân, thì trước hết phải làm sao

cho chúng có ăn đã. Và mang đến cho chúng

cái ăn chưa đủ, còn phải dạy cho chúng cách tự

tìm kiếm lấy, cách làm việc. Phải đem lại cho

chúng giáo-dục và những phương-tiện. Đấy là

cả một chương-trình cải cách xã-hội, _ dù rằng

như ý muốn của Vivekananda, đứng ra bên

ngoài tất cả đảng phái chính-trị. Và mặt khác,

đấy rút cục là biện-pháp cho sự xung-đột cổ lai

ở Ấn-Độ, giữa đời sống tâm-linh và đời sống

hành-động. Không những sự phục-vụ kẻ nghèo

có lợi cho người nghèo mà nó còn có lợi cho

người phục-vụ hơn nhiều nữa. Theo một cách-

ngôn xưa : " ai cho, người ấy nhận ". Nếu

phục-vụ được hoàn-thành trong tinh-thần

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

203

phụng thờ chân-thật, thì nó là phương-tiện

hiệu-nghiệm hơn cả cho tiến-bộ tâm-linh. Bởi

vì " con người là tượng-trưng cao nhất của

Thượng-Đế, sự phụng thờ nó là hình-thức

phụng thờ cao nhất trên mặt đất ."

_ " Bắt đầu hy-sinh đời mình để cứu

vớt cuộc đời của những người đang chết :

đấy là bản-chất của tôn-giáo ."

_ ( Lời nói của Vivekananda trong nạn

dịch năm 1899. Ông trả lời một nhà Phạn-ngữ-

học đến thăm, phàn-nàn không thể cùng ông

bàn-luận về tôn-giáo :

_ " Chừng nào còn một con chó ở nước

tôi không có cái ăn, thì nuôi cho nó ăn, ấy là tất

cả tôn-giáo của tôi ." )

Như vậy là Ấn-Độ đã dứt khỏi đám cát

lầy di-động của suy-tưởng cằn-cỗi, mà từng

bao nhiêu thế-kỷ nay nó bị sa-lầy, nhờ tay một

Đạo-sĩ Hành-khất ( Sannyasin ) trứ-danh nhất ;

và làn nước tâm-linh thần-bí ứ-đọng bên dưới

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

204

tìm lối thoát, bắt đầu tuôn sùng-sục vào hành-

động. Tây-phương phải tiên-liệu những năng-

lực mà hành-động ấy sẽ rút ra ở đấy .

Thế-giới đứng trước một Ấn-Độ phục-

sinh, mà thân-hình khổng-lồ nằm gục trên bán-

đảo vĩ-đại, vươn tay chân và lấy lại quyền sở-

hữu những thế-lực phân-tán của nó. Trong cuộc

thức tỉnh ấy, bất cứ việc phân công quy về cho

ba thế-hệ cảnh-giác như thế nào, kế-tiếp nhau

trong vòng một thế-kỷ _ ( và vinh phúc thay

bậc vĩ-đại nhất ! người tiên-phong thiên-tài :

Ram Mohan Roy ) _ tiếng gọi quyết-định đã là

tiếng kèn trận của các bài diễn-thuyết ở

Colombo và Madras. Và tiếng ma-thuật là :

Duy-nhất... Duy-nhất ở mỗi nam-nhân và ở

mỗi nữ-nhân của Ấn-Độ ( và cả thế-giới ) của

tất cả năng-lực tinh-thần mơ-mộng và hành-

động, lý-trí, tình-yêu và cộng-tác. Duy-nhất ở

hàng trăm dân-tộc Ấn-Độ với hàng trăm tiếng

nói khác nhau, với hàng trăm ngàn thần-linh,

của một bàn-thờ tôn-giáo chung, mà cuộc tái-

thiết quốc-gia phải xây-dựng chung-quanh :

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

205

" Ấn-Độ bất-tử nếu nó theo đuổi việc cầu

tìm Thượng-Đế. Nếu nó bỏ đi để làm chính-trị,

nó sẽ bị tiêu-diệt. " _ ( Lời nói phút cuối cùng).

Duy-nhất của hàng ngàn giáo-phái Ấn-Độ-

giáo ; Duy-nhất trong cái tư-tưởng tôn-giáo

Đại-dương, của tất cả những giòng sông quá-

khứ, hòa vào những giòng sông hiện-tại và của

những giòng sông Tây-phương vào những

giòng sông Đông-phương. Bởi vì _ và ở đấy,

tân cảnh-tỉnh của Ramakrishna và Vivekananda

đối-lập với những cảnh-tỉnh của Ram Mohan

roy và Giáo-hội Brahmosamaj _ Ấn-Độ mới

từ-chối phục-tòng văn-minh ngạo-mạn Tây-

phương, nó tranh-thủ cho những lý-tưởng riêng

của nó, nó tìm về hương-hỏa ngàn năm của nó,

và nó đòi không hy-sinh chút gì ở đấy đi, mà

còn đem nó làm lợi ích cho cả thế-giới nữa, để

rồi thâu-nhận trở về những chinh-phục của

tinh-thần Tây-phương. Sự ưu-thắng của một

văn-minh khuyết-điểm, phần-bộ thì đã hết thời.

Á-châu, Âu-châu cả hai khổng-lồ nhìn nhau,

mặt đối mặt, bình-đẳng ngang hàng lần đâu

tiên. Cùng nhau làm việc, nếu chúng khôn

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

206

ngoan ! Và kết-quả của việc làm cùng hưởng

cả .

Cái " Đại Ấn " ấy, cái Ấn-Độ mới ấy, mà

các nhà chính-khách và bác-học của chúng ta

với sự khôn ngoan của đà-điểu đã che giấu sự

phát-triển, và chúng ta hiện nay thấy hiệu-quả

thình-lình của nó _ cái Ấn-Độ ấy đã thấm-

nhuần tâm-hồn của Ramakrishna. Ngôi sao đôi:

Paramahamsa với người anh-dũng đem tư-

tưởng của Ngài vào thực-hành, ngày nay chi-

phối và hướng-dẫn vận-mệnh hiện-tại của Ấn-

Độ. Ánh-sáng nóng ấm của nó là men rượu

tác-động đất cát Ấn-Độ và đượm nhuần cho nó

nẩy nở. Các Tiên-sư Ấn-Độ ngày nay : nhà

Vua tư-tưởng, nhà Vua thi-sĩ và Thánh

Mahatma _ Aurobindo Ghose, Tagore và

Gandhi _ đã trưởng-thành, ra hoa kết trái dưới

bầu tinh-tú sinh đôi của Hạc và Phượng.

Aurobindo và Gandhi đã công-nhiên thừa-

nhận. " Tất cả đời sống tâm-linh của Aurobindo

Ghose _ như Swami Ashokananda đã viết cho

tôi _ đã chịu ảnh-hưởng đậm của đời sống và

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

207

giáo-lý của Ramakrishna và Vivekananda. Ông

không từng mỏi trình-bày sự trọng-yếu các tư-

tưởng của Vivekananda ."

Còn thế-giới ngoài Ấn-Độ, ngoại trừ

những hải-đảo nhỏ Anglo-Saxon, cho tới nay

người ta không biết đến cuộc vận-động lạ-lùng

ấy, tôi tin nó chín-mùi để khai-thác. Những ai

đã từng theo tôi đọc sách này, tôi chắc rằng họ

đã nhận thấy đến mức nào những quan-điểm

của Swami Ấn và Sư-phụ ông ta, thích-hợp với

nhiều tư-tưởng thầm kín của họ. Tôi có thể

chứng-thực điều ấy, không phải vì tự xét riêng

mình, mà là vì những thú-nhận trí-thức mà tôi

nhận được từ hai mươi năm nay của một số

tâm-hồn Âu, Mỹ mà không tìm kiếm, tự nhiên

tôi tự thấy tôi là người bạn tâm-sự của họ.

Không phải những tâm-hồn ấy với tôi vô-tình

đã chịu thấm-nhuần tinh-thần Ấn để sẵn-sàng

chịu tiêm-nhiễm _ như có một số tư-tưởng-gia

Ấn đã có khuynh-hướng lầm tưởng. Về vấn-đề

này, tôi đã có một cuộc tranh-biện nhã-nhặn

với Swami Ashokananda. Swami đặt sự tuyền-

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

208

bá tư-tưởng Vedanta qua thế-giới như một sự

công-nhiên, tin chắc rằng đấy, một phần là do

Vivekananda và sứ-mệnh của ông. tôi hoàn-

toàn tin chắc là trái hẳn. Thế-giới hầu như

hoàn-toàn không biết _ ( và đấy là điều thẹn mà

tôi cố sửa chữa ở đây ) _ công-trình, tư-tưởng

và thậm-chí cả đến tên tuổi Vivekananda. Và

nếu trong hồng-thủy tư-tưởng đổ vào đất cháy

của châu Âu, châu Mỹ và bón nó chất phì-

nhiêu của chúng, mà một làn nước ấy đầy mầm

sống, có thể gọi được là " Vedanta " ( Bất-nhị-

pháp ), thì đấy là theo kiểu ông Jourdain trong

hài-kịch Molière nói tiếng nói tự-nhiên xưng là

" văn suôi " vậy : vô-tình và bởi vì đấy là tư-

duy tự nhiên của con người .

Những ý-tưởng căn-bản gọi là Vedanta

( Bất-nhị-pháp ) là gì ? _ Theo chính giới-

thuyết của các nhà phát ngôn uy-tín nhất của

giáo-phái Vedanta. Ramakrishna chung qui vào

hai ý-tưởng chính yếu :

1/_ Thần-linh tính của con người .

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

209

2/_ Tâm-linh tính cốt-yếu của sự Sống. Và kết-

quả trực-tiếp xuất ra từ dấy là :

1) Tất cả xã-hội, tất cả Quốc-gia, tất cả

tôn-giáo, phải lập cơ-sở trên sự nhận-thực cái

Toàn-Năng thân-mật và tiếm-tàng của con

người .

2) Muốn nẩy nở phong-phú, tất cả lợi ích

nhân-loại phải được hướng-dẫn và kiểm-soát

theo cái ý-tưởng cứu-cánh tâm-linh của sự

Sống .

Không có gì của ý-tưởng ấy hay là của

những khát-vọng ấy là xa lạ với Tây-phương

chúng ta. Những bạn Á-châu của chúng ta xét-

đoán Âu-châu theo những cặn-bã _ các chính-

khách của chúng ta, các lái-buôn, công-chức

thiển-cận nhất, những bụng tham-lam, nhân-

viện thuộc-địa ( người và tư-tưởng ) có nhiều

lý-do để không tin được tâm-linh tính của

chúng ta. Tuy vậy mà nó có thực và thâm-thúy;

nó không bao giờ ngừng tắm gội nền móng các

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

210

đại dân-tộc Tây-phương và gốc rễ của chúng.

Nếu không có cái nhựa hùng-hậu của tâm-hồn

luôn luôn từ kho-tàng yên-lặng nó vươn lên, thì

từ lâu cây sồi sớm đã bị những trận cuồng-

phong nhổ bật rễ, rập đổ rồi. Người ta công-

nhận cho chúng ta có thiên-tài hành-động.

Nhưng cái hành-động thiên-niên ấy mà nhiệt-

độ không từng giảm xuống, chỉ có thể có được

nhờ vào nội hỏa bên trong _ không phải ngọn

đèn Vestales mà là một miệng núi-lửa của

Cyclopes, trong đó nhiên-liệu được luôn luôn

chất chứa mà tiếp mồi. Kẻ viết đây đã tố-cáo

khá nặng, và từ-chối những "Buổi chợ-phiên

công-trường " của Âu-châu, là những khói và

than của núi lửa để có quyền đòi hỏi những

nguồn cháy bỏng của tâm-linh bất-kiệt của

chúng ta. Tác-giả chưa từng bao giờ thôi nhắc-

nhở sự hiện-hữu của những nguồn tâm-linh ấy,

và sự tồn-tại lâu dài của cái " Âu-châu tốt đẹp

hơn " cho những người ở ngoài không biết đến

cũng như cho chính nó tự thu vào trong yên-

lặng .

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

211

" ... Yên-lặng mà hùng-biện ! ... " Những

sự yên-lặng của nó nói lên to tiếng hơn những

gào thét của kẻ bán rong. Bên trong sự vui-thú

cuồng-nhiệt và quyền-năng tự vò xé, cuồn-

cuộn sôi-động ở trên mặt của một ngày hay

một giờ, vẫn còn cái khó báu của lòng quên

mình, của lòng hy-sinh và của tín-ngưỡng vào

Tâm-linh không suy-suyển, nó tồn-tại bất-di

bất-dịch .

Còn như Tâm-linh tính của con người, thì

có thể nói rằng, một quan-niệm như thế không

phải là kết-quả của Cơ-Đốc-giáo hay là văn-

hóa La-Hy, nếu mỗi đàng đứng riêng-rẽ cô-lập

nhau. Nhưng nó là kết-quả của cái cây chắp

của chủ-nghĩa anh-hùng La-Hy tiếp vào cây

nho mà nước vàng ửng là máu của Con Chúa

Trời. Và dù cả hai Cơ-Đốc và La-Hy, chúng có

quên hay không cái ký-ức về gốc nho Cơ-Đốc

với cối ép rượu, chủ-nghĩa lý-tưởng anh-hùng

của các nền dân-chủ của chúng vào những giờ

quyết-liệt và ở những người con vĩ-đại của

chúng còn giữa mãi ý-vị và hương thơm. Một

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

212

tôn-giáo mà Thượng-Đế từ một ngàn chín trăm

năm quen-thuộc với các dân-tộc Âu-châu dưới

danh-hiệu " Con Nhân-loại " (Fils de l'Homme)

thì không thể ngạc-nhiên rằng người ta đã hiểu

theo nghĩa đen và nó chẳng thâu-nhận Thần-

linh-tính. Cái ý-thức mới về sức mạnh của nó,

sự say-sưa về tự-do trẻ-trung của nó, còn được

kích-thích bởi những chinh-phục lạ kỳ của

khoa-học, trong vòng nửa thế-kỷ đã biến-đổi cả

mặt đất. Không cần đến Ấn-Độ để cho người ta

tự-tin là một Thượng-Đế. Nó chỉ quá sẵn lòng

để làm lễ Cầu-nguyện ! Và trạng-thái đánh-giá

quá cao về quyền-năng của mình đã kéo dài

cho tới trước ngày thảm-họa 1914, nó đã làm

giao-động nền-móng của nó. Song, chính kể từ

lúc ấy tư-tưởng Ấn-Độ đã ảnh-hưởng nó rất

mạnh. Điều ấy giải-thích thế nào ?

Rất giản-dị. con người Tây-phương bằng

đường lối riêng của nó, theo dõi lý-trí, khoa-

học và ý-chí khổng-lồ của nó, đã gặp ở ngã-tư

cái tư-tưởng Vedanta ( Bất-nhị-pháp ) xuất-

phát từ những tổ-tiên chung A-Li-An, nhân-bán

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

213

thần-tiên vào tuổi thanh-niên anh-hùng, ví như

Nã-Phá-Luân chinh-phục ở Ý-Đại-Lỵ, từ đỉnh

cao-nguyên Hy-mã-lạp-sơn họ nhìn xuống tất

cả thế-giới ở dưới chân. Ở cùng điểm quyết-liệt

mà cuộc thử-thách vĩnh-cửu của người cường-

tráng chờ-đợi cả hai, thử-thách dưới danh-hiệu

khác nhau được nhận thấy trong huyền-thoại

các nước, và Phúc-âm Cơ-Đốc của chúng ta kể

lại như là cám-dỗ của Jésus trên núi, thì con

người Tây-phương đã chọn sai đường. Nó đã

nghe theo người cám-dỗ hiến nó bá-chủ thế-

giới bầy ra dưới chân. Về Thần-linh mà nó tự

nhận lấy đức-tính, chẳng qua nó chỉ nhìn thấy

và mưu lấy những quyền-năng vật-chất :

quyền-năng mà hiền-triết Ấn-Độ mô-tả như là

những đức-tính thứ-yếu và nguy-hiểm của sức

mạnh nội-tâm, chỉ sức mạnh nội-tâm mới cốt-

yếu có thể đưa tới Đích. Kết-quả là ngày nay

con người Âu-Tây _ Cái ông " Thày phù-thủy

tập-sự " ấy ! tự thấy tràn ngập với những

quyền-năng sơ-thủy mà nó đã tung ra một cách

mù-quáng. Bởi vì về phương-thức điều-khiển

chúng, nó chỉ nắm được có mặt chữ. Về tinh-

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

214

thần nội-dung nó không hề để ý. Tinh-thần tự

trả-thù. Văn-minh của chúng ta lâm nguy, kêu

gọi hoài những khẩu-hiệu lớn của nó : Nhân-

quyền ; Tự-do ; Hợp-tác ; Hòa-bình, của

Genève hay là của Washington _ những danh-

từ rỗng hay là chứa đầy hơi ngạt giết người.

Chẳng có một ai còn tin-tưởng. Người ta ngờ-

vực những đạn nổ. Đại ngôn, đại họa ! Sự bối-

rối vì thế càng tăng. Giờ đây chỉ có hạng đần-

độn và hạng thừa-mứa mới không nhận thấy

cái tình-trạng khủng-hoảng diệt-vong của cả

một thế-hệ Tây-phương. Chỉ những hạng đần-

độn và thừa-mứa ấy mới lợi-dụng tối đa tình-

thế, " sống chết mặc bay " và thầm bảo nhau :

" Sau ta là Hồng-thủy !... " Nhưng hàng triệu

kẻ bất-mãn, tất nhiên thấy dồn vào thế cùng,

hoặc là phải chọn sự nhường bỏ chút tự-do còn

lại, tâm-hồn thất-vọng quay về vườn trật-tự cũ

xưa, nó giam-hãm nhưng bảo-vệ và giữ cho ấm

trong hơi thân-mật của đàn bầy, hoặc là mở

đường thông trong đêm tối vào đến trung-tâm

thành-trì của Tâm-hồn bị bao-vây, ngõ hầu ở

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

215

đấy tiếp nối với kho-tàng nguyên-vẹn và thiết-

lập trong Thành-trì Tâm-linh .

Và chính ở đây, chúng ta thấy bàn tay giơ

ra của đồng-minh chúng ta, là các tư-tưởng-gia

Ấn-Độ : vì họ đã biết hàng thế-kỷ đóng giữ

trong Thành-trì và bảo-vệ nó, trong khi chúng

ta, anh em ruột thịt của các cuộc Đại Chinh-

chiến, chúng ta kiệt sức để Chinh-phục mặt đất

còn lại. Hãy nghỉ chân thở đã ! Hãy liếm ráo

những vết thương. Hãy trở về tổ phượng-hoàng

Hy-mã-lạp-sơn của chúng ta ! Nó chờ đợi ! Nó

là của ta. Phượng-hoàng con Châu-Âu, chúng

ta chẳng phải bỏ mất đi chút gì cái bản-tính

chân-thật của chúng ta. Tính chân-thật của

chúng ta nó ở tại trong tổ phượng ấy, mà từ đấy

xưa kia chúng ta cất cánh bay đi ; tính chân ấy

còn ở trong tay những người biết giữ chìa khóa

Thành-trì của chúng ta _ của cái Ngã Chủ-tể.

Không phải vấn-đề chúng ta tự giam vào đấy.

Vấn-đề là nhúng chân tay mỏi rời vào trong cái

hồ nội-tâm vĩ-đại. Xong rồi, sau khi cơn sốt rét

đã nguôi, bắp thịt chân tay đã lấy lại sức mới,

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

216

bấy giờ, hỡi bạn đường, chúng ta lại đi Chinh-

phục, nếu chúng ta thích. Một vận-hội mới bắt

đầu, nếu phải chăng là Định-Luật ! Nhưng giờ

đây, như Lực-sĩ thần-thoại Antée, chúng ta

phải đổ-bộ vào Đất liền trước khi tiếp-tục

tranh-đấu ! Hãy ôm lấy Mẹ, tư-tưởng hãy trở

về với Mẹ. Hãy bú Bà đi ! Sữa Bà còn đủ để

nuôi tất cả dân-tộc trên địa-cầu .

Trong những đổ nát của tinh-thần chồng-

chất trên mặt đất Âu-châu của chúng ta, " Bà

Mẹ Ấn của ta " sẽ dạy ta moi bới những nền-

móng bất-di bất-dịch ở Điện-Khải-Hoàn của

chúng ta... Đây này, những số-lượng và những

đồ-án của Thợ-Cả. Với vật-liệu riêng của ta, ta

hãy xây lại ngôi nhà của chúng ta !

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

217

PHẦN THỨ NĂM

*

COI CHỪNG CHÓ DỮ !

Tôi không giấu : bài học lớn từ Ấn-Độ tới

với chúng ta không phải không có sự nguy-

hiểm, phải hiểu nó thấu-đáo. Cái ý-niệm Atman

( Linh-hồn Chủ-tể ) là một thứ rượu mạnh, đến

nỗi những đầu não bạc-nhược đều dễ bị say

ngã. Và tôi không chắc là cả một vị như

Vivekananda nữa, vào những lúc nhược khí, đã

có thể tránh khỏi những khói rượu ấy làm cho

say sửa. Chẳng hạn trong những luận-điệu

ngông thời niên-thiếu mà Durgacharan-Nag đã

ghỉ-chép là Ramakrishna đã khoan-dung và

riễu-cợt ngồi nghe mỉm cười .

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

218

Người kính tín Nag trong thái-độ khiêm-

tốn, như Cơ-Đốc giáo của chúng ta, dạy :

_ " Tất cả điều xẩy ra theo ý muốn

của Mẫu Bà là Ý-chí Đại-đồng. Bà hành-

động, nhưng loài người tưởng là chính

mình làm ."

Người Naren hùng-hổ đáp lại :

_ " Tôi không thừa-nhận điều anh

nói, cái Ông hay Bà ấy. Tôi là Linh-hồn.

Ở nơi tôi là cả Vũ-trụ. Nơi tôi nó phát-

sinh, nó phất-phới, nó biến đi ."

Nag :

_ " Anh không có đủ khả-năng để

biến-đổi ngay cả chỉ một sợi tóc thôi, từ

sợi tóc đen ra sợi tóc bạc, còn nói chi đến

Vũ-trụ ! Không có ý muốn của Thượng-

Đế thì không có một ngọn cỏ nào sinh-

động ! "

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

219

Naren :

_ " Không có ý muốn của Ta, mặt-

trời và mặt-trăng không thể vận-hành

được. Theo ý muốn của Ta Vũ-trụ vận-

chuyển như một cái máy ."

Và Ramakrishna mỉm cười sự kiêu-ngạo

trẻ-trung, nói với Nag :

_ " Naren có thể nói thế. Hắn như là

một lưỡi kiếm trần... "

Và Nag kính tín, cúi đầu trước người

thanh-niên được Mẹ tuyển chọn ."

_ ( theo sách " The Saint Durgacharan Nag :

The Life Of An Ideal House, 1920 _ Madras

Ramakrishna Math )

Girish Ch. Ghose, người kịch-sĩ đã nói về

hai nhà tranh-luận trên, với giọng hài-hước

thông-thường của ông :

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

220

_ " Đại Ảo-hóa ( Mahamaya ) tự

thấy rất lúng-túng khi bắt vào lưới hai anh

chàng này. Khi nó thử bắt Naren, thì anh

chàng phình ra, phình mãi ra, lớn tướng

đến nỗi tất cả giây lưới đều ngắn quá...

Và đến khi nó thử tung lưới bắt Nag, thì

anh này thu nhỏ, nhỏ mải, nhỏ xíu đến nỗi

bị lọt ra khỏi mắt lưới. "

Chỉ thiếu có một chút như không để

cho cái ngạo khí ấy nó gợi lên ở ta sự vống đại

anh hùng rơm... Chỉ cần phải toàn-diện ! _ ấy

là cái người nói ở đây, Vivekananda, một anh-

hùng của trí-tuệ, và ông đã ước độ đúng mức ý-

nghĩa thật của những lời khẳng-định táo-bạo

của mình .

" Cái năng-lực đàng sau tôi thì

không phải là Vivekananda, nhưng là

Ngài, Chúa tối cao... "

_ (Thư của Vivekananda, ngày 9-7-1897 )

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

221

Ở đây không phải vấn-đề duy-ngã ngu dại

nó múa may, _ cũng chẳng phải một siêu-nhân

điên cuồng trước ngưỡng cửa nhà điên. Cái

Linh-hồn kia, cái Atman kia, cái Ngã kia,

không phải là những gì mà vỏ thân-thể tôi và

thế-giới nhất thời của nó chứa đựng. Đấy là cái

Ngã của anh, của các anh và của tất cả mọi

người, của vũ-trụ và của bên trong và bên

ngoài thế-giới. Người ta chỉ phối-hợp với nó

chừng nào người ta rời khỏi cái tự-ngã, cái ta

nhỏ bé. Khi nào người ta bảo anh : " Tất cả

đều ở tại Linh-hồn. Nó là Thực-tại duy-nhất ",

điều ấy không có nghĩa là anh, một người, anh

là tất cả, nhưng mà tùy ở anh có ngoi lên được

từ vũng nước nặc mùi tù hãm, đến nguồn tuyết

trắng tinh mà do đấy xuất-phát tất cả không.

Nguồn ấy ở tại nơi anh, anh là nguồn suối, nếu

anh biết từ bỏ vũng nước đọng. Đấy là bài-học

hỷ-sả tối cao chứ không phải kiêu-ngạo .

Một điều chẳng kém sác thật là bài học ấy

làm phấn-khởi, và trong cái đã vươn lên, nó in

vào tâm-hồn, cái tâm-hồn này rất thường hay

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

222

bỏ quên cái điểm khiêm-tốn lúc đầu để chỉ còn

thấy cái điểm tới đích và khoác vào mình bộ

cánh Thượng-Đế. Phải thận-trọng với không-

khí đỉnh núi. Khi mà tất cả thần-linh đều đã bị

hạ bệ và chỉ còn lại có Tự-tại thôi, thì cẩn-thận

kẻo chóng mặt !

" Tự-phụ rằng : “ Ta là Ngài...”

không phải là một thái-độ lành-mạnh. Kẻ

nào nuôi cái lý-tưởng ấy, trước khi thắng

phục được ý-thức về cái ngã vật-lý, nó sẽ

gặp điều bất lợi lớn đến cho nó, sự tiến-

bộ của nó chậm lại, và dần dần nó bị kéo

tuột xuống. Nó lừa người khác và tự dối

chính mình trong vô-minh tuyệt-đối mà

nó tự giam ở trạng-thái khốn-nạn của

nó..."

_ (Evangile de Ramakrishna II, ed. 1922 )

Và bởi vậy mà Vivekananda đã giữ-gìn

không muốn huấn-luyện đại-chúng, có tâm-hồn

không đủ cứng dắn, vào con đường vươn lên

trên bậc thang leo với không-khí vực-thẳm.

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

223

Ông khuyên chúng đi từng giai-đoạn ngắn,

nương-tựa vào cái gậy của các tôn-giáo riêng

của mình hay là của Tín-điều tạm thời của tinh-

thần thời-đại và xứ-sở. Nhưng thông-thường,

những kẻ thiếu kiên-nhẫn đốt giai-đoạn và

không sửa-soạn, đòi cướp lấy đỉnh núi. Không

nên ngạc-nhiên về sự sa-ngã của họ. Và nguy-

hiểm không phải chỉ có đối với họ. Thấy ở

dưới không phải là tốt ! Sự phấn-khởi do tình-

tự thình-lình về quyền-năng nội-tâm tạo ra có

thể gây nên những rối-loạn bạo-động xã-hội mà

hiệu-quả cùng phạm-vi rung-động khó có thể

lường trước được. Đấy là điều khiến cho những

nhà Cách-mệnh Ấn nhiều phen gọi đến Viveka-

nanda và hấp-thụ những lời nói khuyếch-đại về

toàn-năng của Atman, mặc dù Vivekananda với

giáo-hội do ông tổ-chức đã cương-quyết đứng

lên trên hành-động chính-trị.

Tất cả đại học-thuyết bắt buộc bị xuyên-

tạc. Mỗi người đều vơ về mình, tin rằng tìm

thấy ở đấy lợi ích riêng. Và chính Nhà-Thờ

dựng lên để bảo-vệ cũng mục nát và những

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

224

thay-đổi cũng quá thiên để bóp nghẹt nó trong

những bức tường tư-hữu. Nhưng hãy xét nó ở

trạng-thái thuần-túy : đấy là một kho dự-trữ

năng-lực tinh-thần tuyệt-diệu. Bởi vì tất cả đều

ở tại nơi ta, không có gì ở bên ngoài, chúng ta

đảm phụ tất cả trách-nhiệm về tư-tưởng và

hành-vi của chúng ta, chúng ta không có

Thượng-Đế, không có cả Định-mệnh để trút

trách-nhiệm một cách đê-hèn. Không có

Jahveh, không có Euménides, không " Yêu-

ma ! " Mỗi người chúng ta chỉ trông-cậy vào

chính mình. Mỗi người là người sáng-tạo ra

chính định-mệnh riêng của mình. Nó chỉ đè

nặng trên vai mình mà thôi. Mỗi người đủ

mạnh-khoẻ để vác nó... " Người ta chưa từng

mất chủ-quyền. Linh-hồn chưa từng bị ràng-

buộc. Bản-tính nó là tự-do. Nó vốn không có

nguyên-nhân. Không có gì hành-động được

vào nó từ bên ngoài... Hãy tin là mình tự-do

thì được tự-do ngay ! ..."_ ( " Tự-do Của Tâm-

hồn "_ 5-11-1896, Toàn tập)

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

225

" Gió thổi, các thuyền buồm căng

bắt lấy và tiến lên. Các thuyền khác ở lại.

Phải chăng lỗi ở gió ?... Đừng trách

người, không oán Trời, hay là oán-trách

bất cứ cái gì trên đời ! Chỉ một mình thôi.

Và hãy cố-gắng hơn !... Tất cả trợ-lực

mình cần đều ở tại bên trong mình. Và

tương-lai vô-hạn, trước mặt mình. Hãy

làm lấy tương-lai của mình ! "

_ (Jñânayoga : " Vũ-trụ. II Microcosme ")

Anh tự bảo không có nương-tựa, không

chút tài-nguyên, bị bỏ rơi, bị lột trần ! Hèn

nhát ! Anh có tại nơi mình Toàn-năng, Toàn-

lạc và Toàn tự-do _ Sinh-tồn Vô-hạn. Anh chỉ

phải thâu lấy ở đấy .

Không những anh thâu lấy ở đấy từng

suối năng-lực, chúng tưới khắp thế-giới, anh

còn thâu được những khát-vọng của thế-giới,

nó khao-khát những giòng suối ấy, và anh sẽ

làm cho nó sinh-sôi nẩy-nở. Bởi vì : " Đấng

Thiêng ở tại nơi anh, Ngài làm việc bằng tất cả

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

226

các bàn tay, đi bằng chân, của tất cả mọi người.

Ngài là quyền-năng và tôn-nhượng, và là

Thánh-thần, và là người có tội, và là Thượng-

Đế, và là sâu-bọ ; Ngài là tất cả, và trên Ngài là

những kẻ khốn-nạn và nghèo khó, tất cả các

hạng, tất cả chủng-tộc ; bởi vì chính những kẻ

nghèo chúng làm nên công-việc vĩ-đại của thế-

giới ." _ ( Thư ngày 9-7-1897 và 11-3-1898,

Calcutta )

Nếu chúng ta chỉ thực-hiện những phần

nhỏ cái quan-niệm bao-la ấy, " nếu chỉ một

phần triệu nam, nữ đang sống, chỉ trong một

vài phút thôi có thể tự nói : _“ Các anh tất cả là

Thượng-Đế, hỡi con người, hỡi tất cả chúng-

sinh ! Các ngươi tất cả là những tia sáng của

một mặt-trời sống-động ”, thì trong một nửa

giờ cả thế-giới sẽ biến-đổi. Thay vì những trái

tạc-đạn hận-thù kinh-khủng kia ném ở khắp

nơi, thay vì những luồng tư-tưởng ghen-ghét

tung ra ở tất cả các nước... tất cả sẽ là Ngài ."

_ ( Jñânayoga " Chân-nhân và Ảo-nhân " )

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

227

Có cần phải nhắc lại rằng đấy không phải

là một tư-tưởng mới chăng ? ( Và đấy chính là

cái làm ra sức mạnh của nó ! ) Vivekananda đã

không phải là người đầu tiên ( tin như thế thì sẽ

ngây thơ ) để quan-niệm cái Duy-nhất-tính của

Tinh-thần nhân-loại và để muốn thực-hiện nó.

Nhưng ông là người đầu tiên đã quan-niệm nó

với sự viên-mãn không lệ thuộc bên ngoài và

không biên-giới, và chính ông đã không có thể

làm được nếu không có gương-mẫu kỳ lạ của

Ramakrishna .

Ngày nay không hiếm thấy lác-đác trên

thế-giới những cố-gắng của Hội-nghị và Hội-xã

trong ấy có vài đại-biểu quí-phái của các tôn-

giáo lớn nói đến hợp-nhất chúng hay là làm

cho chúng thân-thiện với nhau. Cũng vậy,

những tư-tưởng-gia thế-tục đã cố tìm lại sợi

giây liên-hệ những dự-án lẻ-tẻ _ thất-bại hay

thành-công _ về lý-trí thành một tiến-hóa mù-

quáng, trăm lần bẻ gẫy, trăm lần tiếp-tục ; và

họ đã nhiều phen khẳng-định duy-nhất-tính

tiềm-tàng, hứa hẹn của Ngã - Nhân-loại .

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

228

Những bọn người này và người kia, vả

chăng ( không thể nói gì hơn ) họ làm việc lẻ-

loi, chưa đi đến chỗ bắc cầu giữa những tư-

tưởng tục-thế tín-ngưỡng nhất với những tư-

tưởng tôn-giáo tục-thế nhất. Cả đến những

hạng quảng-đại nhất cũng chưa từng lột bỏ

được hết thành-kiến của tư-tưởng để chắc là

mình thuộc về gia-đình tâm-linh cao đẳng _ dù

rộng-rãi và đại-lượng đến mấy _ và làm cho

chúng ngờ-vực đối với những tư-tưởng có

quyền đàn anh để được coi họ như những đàn

em. Tấm lòng quảng-đại của Michelet dù có

chối-cãi mấy đi nữa là " không phản-đối,

không phê-phán " khi ông viết bộ " Bible de

l'Humanité " ( Thánh-thư của Nhân-loại ), ông

cũng xếp thành hai hạng : " Những dân-tộc của

ánh-sáng và những dân-tộc của sẩm-tối, của

ban-đêm, của tranh sáng tranh tối ". Và tất-

nhiên, ông ưu-đãi dân-tộc mình, chủng-tộc

mình và vũng nước của mình, là Địa-Trung-

Hải. Nhà thiên-tài Ram-Mohun-Roy, vào năm

1807 khi ông bắt đầu sáng-lập " Chủ-nghĩa

Đại-đồng " cao cả của mình ở hoài-bão bao-

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

229

hàm cả Ấn-Độ-giáo, Hồi-giáo và Cơ-Đốc-giáo,

ông cương-quyết đặt bức tường ngăn : _

" Thượng-Đế một và độc-nhất không đồng-

đẳng "_ chủ-nghĩa độc-thần bài-trừ tất cả đa-

thần-giáo. Và sự đố-kỵ ấy được giáo-hội

Brahmosamaj duy-trì, tôi lại thấy sự che dấu tế-

nhị nhưng cố-định ở các bạn tự-do nhất của tôi

trong trung-tâm Tagore, và ở các chiến-sĩ anh-

dũng của sự hòa-giải tôn-giáo _ như trong Hội

" Liên-minh Quốc-tế Thân-hữu " ( Federation

of Intrnational Fellowship ) rất đáng quý kia,

thành-lập từ bốn hay năm năm ở Madras, nó

hội-họp những đại-biểu Anh - Ấn vô-tư nhất

của Cơ-Đốc-giáo, Tin-Lành, Ấn-Độ-giáo

thanh-lọc, của Kỳ-Na-giáo, của Thông-Thiên-

học : các tôn-giáo bình-dân của Ấn-Độ không

có chỗ ở đấy. Và _ ( ngoại-lệ đặc-trưng ) _

trong những báo-cáo của các hội-đồng mấy

năm liền, tên tuổi của Ramakrishna và

Vivekananda không được nói đến. Im-lìm về

hai người. Các Ngài vướng lắm....

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

230

Tôi hiểu điều ấy ! Họ cũng sẽ vướng

chẳng kém đối với bọn sùng tín Âu-Tây chúng

ta về Lý-tính. Lý-tính và Thượng-Đế là một,

cũng như Thượng-Đế của Thánh-kinh ( Bible )

và của Hồi-kinh Coran có thể thuận-hòa với

nhau hơn là hiểu nhau ở bên này bên kia, với

các Thần-linh vô số, và tiếp-nhận chúng vào

nhà mình. Bộ-tộc người Monos, cùng lắm, có

thể chịu nhận cho người Monos là người hay là

Thượng-Đế, nhưng nó không dung cho sự nẩy-

nở của cái Một. Điều ấy là một ô-nhục và

nguy-hiểm ! _ Và tôi đọc thấy trong sự chống-

đối đau buồn của các bạn Ấn thân nhất của tôi,

từng được nuôi dưỡng như ông Roy vinh-

quang của họ với tư-tưởng Vedanta ( Bất-nhị-

pháp ) tuyệt-đối và lý-trí tối cao của Tây-

phương. Họ tin kết cục đã thành-công sau bao

nhiêu khó-nhọc và phấn-đấu để tổng-hợp lý-trí

vào tư-tưởng của phái thượng-lưu Ấn vào cuối

thế-kỷ XIX... Và này đây, sự xuất-hiện của

Ramakrishna và đệ-tử đánh cồng của ông,

Vivekananda, nhắc-nhở quần-chúng và giới

thượng-lưu sự sùng-bái và yêu-chuộng tất cả

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

231

các hình-thức lý-tưởng có ngàn bộ mặt mà họ

đã hy-vọng đuổi được vào bóng tối !... Theo

họ hiểu, đấy là một sự thoái-hóa của tinh-thần

vào quá-khứ .

Và theo tôi hiểu thì đấy là một bước tiến

lên, một bước nhẩy vọt vĩ-đại của Tề-Thiên

Hanuman qua eo-biển chia cách các lục-địa.

Tôi không thấy có gì mới hơn, mạnh-mẽ hơn là

sự ôm-ấp kia bằng tâm và trí, bằng tình-yêu

lớn-lao của Paramahamsa ( Thánh Rama-

krishna ) và bằng cánh tay dắn chắc của

Vivekananda, ôm-ấp tất cả thần-linh ở trong

con người, tất cả bộ mặt của Chân-lý, tất cả

thân-thể của Mộng-tưởng nhân-loại. Cho tất cả

những ai tín-ngưỡng, cho tất cả những ai thấy,

cho tất cả những ai không tin và không thấy

nhưng thành-thật muốn cầu tìm sự thật, cho tất

cả _ tín-đồ của lý-tính, tín-đồ của tôn-giáo, tín-

đồ của đại Kinh-Điển, tín-đồ của hình-ảnh, tín-

đồ chất-phác, những người bất-khả tri-luận, và

những người có linh-cảm, những trí-thức và

những người vô-học _ cho tất cả những người

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

232

thiện-chí cái đại Sứ-mạng : Tình Huynh-đệ !

Và không phải huynh-đệ kiểu đàn anh mà

quyền huynh-trưởng tước quyền và giám-hộ

những đàn em. Bình-đẳng quyền pháp và tương

kính lẫn nhau ...

Trên kia tôi đã nói, làm sao mà cả đến

chữ " khoan-dung " ( tolérance ), đối với Tây-

phương chúng ta ( người nông-dân chặt-chẽ

kia ) cũng có vẻ là lòng quảng-đại tốt đẹp nhất,

thì đã làm thương-tốn cho cái ý-thức về công-

lý và tinh-thần tinh-nhuệ kiêu-hãnh của Vive-

kananda, ông coi như một sự thô-tục, một sự

nhân-nhượng che-chở của người trên đối với

những kẻ yếu-hèn hơn mà nó có quyền bắt bẻ

tùy ý nó. Ông muốn người ta " công-nhận "

chứ không phải " bao-dung ". Ngang hàng, vai

bằng vai ! Bất cứ cái bình để chứa nước như

thế nào, nước vẫn là nước, Thượng-Đế là một.

Giọt nước Thánh, biển Thánh, và lời tuyên-

ngôn bình-đẳng ấy giữa hạng người hèn mọn

nhất với hạng cao quý nhất của một tinh-thần

quý-phái, tin-tưởng đỉnh cao đã đạt, tín-ngưỡng

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

233

Bất-nhị ( Advaïta ) của mình là tuyệt-đỉnh của

bước tiến đại-đồng. Ông có quyền nói : bởi vì,

cũng như sư-phụ ông là Ramakrishna, ông đã

đi hết các độ đường. Chỉ có điều là Rama-

krishna, với tự-lực một mình, đã leo hết các

bậc từ dưới lên trên, còn Vivekananda đã học

hỏi nhờ Ramakrishna để xuống thang từ trên

xuống dười, ngõ hầu biết hết các độ đường và

nhận-thức trong tất cả những con mắt cái Một

đồng-nhất-thể ( L'Un Identique ) tại các con

người phản-ảnh cầu-vồng .

Các anh không phải lo sợ về sự vô-trật-tự

và hỗn-độn trong cái sai-biệt phức-tạp vô cùng

ấy. Nếu các anh đã nhớ kỹ bài học tất cả các

Đạo-dẫn ( Yogas ) của Vivekananda, các anh

sẽ nắm được tất cả cái trật-tự của kế-hoạch

chồng-chất, đường đi lên đẹp đẽ, đẳng-cấp _

không phải theo nghĩa quan-hệ của thày với

trò, chủ với tớ, mà là kiến-trúc các khối đá hay

là âm-nhạc tầng lớp : cái đại hòa-điệu do tay

mạnh-mẽ của Nhạc-sư điều-động trên mặt đàn.

Tất cả âm-điệu đều có phần trong hòa-điệu.

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

234

Vậy không nên bỏ đi một hàng lớp nào, và lấy

cớ bản-nhạc của mình thành-phần đẹp hơn cả

mà có khuynh-hướng lôi kéo đa hưởng về đồng

hưởng. Hãy chơi khúc nhạc của anh cho ăn

nhịp, cho hoàn-hảo, đồng thời trong khe lỗ tai

theo hòa-tấu ở đấy nhạc cụ của người khác

phối-hợp với nhạc cụ của anh. Nhưng kẻ nào

nhu-nhược thì thay vì đọc bản nhạc ghi trước

mặt lại vượt sang người bên cạnh, sẽ tự làm hại

mình, làm hại cho tác-phẩm và cho cả nhạc đội

nữa. Bạn nghĩ thế nào về người thổi sáo đòi bắt

chước tiếng violon dẫn đầu ? Và người này

bắt-chước : " Các người khác hãy im ! Này

người ta nhái bài học của ta, tất cả theo sau

ta !" ... Một khúc nhạc hòa-tấu không phải một

lớp học trẻ con, mà người ta nhắc đi nhắc lại

với một điệu đánh vần một bài học vỡ-lòng !

Và điều này lên án tất cả tinh-thần truyền-

thống, dù thuộc thánh-giáo hay là thế-học,

muốn uốn theo hình-ảnh mình ( hình-ảnh

Thượng-Đế mình hay là phi Thượng-Đế, cũng

là một loại Thượng-Đế trá hình ) những trí-óc

của người khác !... Đấy đủ làm đảo-lộn những

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

235

quan-niệm của chúng ta, từ lâu, thông-thường,

thâm-căn cố-đế ! Bởi vì chúng ta _ tất cả dân

Nhà-Thờ hay dân Đại-học Sorbonnes _ chúng

ta không thiếu các lý-do cứng dắn để làm giúp

những người không cầu xin chúng ta nhổ hết

cỏ dại ( cũng như cỏ tốt ) ở thửa ruộng của họ,

mà họ là những kẻ ngu dốt đáng thương sinh

sống dựa vào đấy. Chẳng phải là bổn-phận tối

thiêng-liêng mà đổ lỗi ở nhà mình và ở nhà

hàng xóm ( ở nhà hàng xóm nhiều hơn ) có cỏ

dại và gai-góc _ sự sai lầm ? Và sự sai lầm

chẳng phải là cái gì không phải là ( khác với )

chân-lý của chúng ta ?... Rất ít người biết vươn

lên trên cái lòng bác-ái ấy, vị-kỷ hồn nhiên. Tôi

hầu như chưa bao giờ gặp được hạng người ấy

trong hàng thầy và bạn của đội quân thế-học,

duy-lý và khoa-học _ và càng hiếm-hoi trong

hàng người càng sống càng mạnh và bề ngoài

có vẻ càng rộng-lượng : bởi vì hai tay họ gặt

hái đầy, họ vội lấp đầy ý tưởng của nhân-loại,

muốn hay không muốn... " Lấy đi, ăn đi, vui

lòng hay cưỡng-ép ! Cái gì tốt cho tôi phải là

tốt cho anh. Và nếu theo đơn kê của tôi, anh có

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

236

chết lăn ra đấy là lỗi tại anh, như chuyện

ngụ-ngôn về thày-thuốc trong hài-kịch của

Molière, không phải lỗi ở đơn thuốc của tôi !

Đại-học chuyên-khoa bao giờ cũng có lý ." _

Và thậm-tệ hơn, ở phiá bên kia, trong đội quân

của Nhà-Thờ, vì rằng vấn-đề ở đây là cứu vớt

linh-hồn cho đời sống vĩnh-cửu. Cái gì mà

người ta chẳng làm, biết bao Thánh-linh đã

bạo-động vì điều tốt lành cho y ? ...

Bởi vậy, tôi đã sung-sướng là rất gần đây

được nghe tiếng nói của Gandhi _ ( mà tính-

tình ông này tuy rất khác với Ramakrishna và

Vivekananda, hầu như trái nghịch với bản-

chất ) nhắc lại cho đạo-hữu của ông trong

Liên-minh Đạo-hữu Quốc-tế ( Internatinal

Fellowships ), vì lòng ngoan đạo sẵn có khynh-

hướng truyền-giáo, ông đã nhắc lại cho họ cái

nguyên-tắc đại-đồng lớn " Công nhân " tôn-

giáo vốn là của Vivekananda _ " Sau một thời-

kỳ học hỏi và kinh-nghiệm lâu dài, tôi đã đi

đến kết-luận rằng :

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

237

1/ _ Tất cả tôn-giáo _ ( và trong ấy gồm

có tôi, Romain Rolland, các tôn-giáo của lý-

tính cũng như các tôn-giáo khác ) _ đều là

chân-thật ;

2/_ Tất cả tôn-giáo đều mang ở bản-thân

một vài sai-lầm ;

3/_ Tất cả tôn-giáo đối với tôi hầu như

đều đáng quí-chuộng như chính Ấn-Độ-giáo

của tôi vậy. Sự tôn thờ của tôi đối với các tín-

ngưỡng khác cũng giống như đối với chính tín-

ngưỡng của tôi . Do đấy mà không có thể có

một tư-tưởng cải đạo nào. Mục-tiêu của Hội

Đạo-hữu phải là giúp đỡ cho một tín-đồ Ấn-

Độ-giáo để trở nên một tín-đồ tốt hơn, một tín-

đồ Hồi-giáo để trở nên một tin-đồ Hồi-giáo tốt

hơn, một Cơ-Đốc-giáo để trở nên một Cơ-Đốc-

giáo tốt hơn. Thái-độ bao-dung che-chở thì trái

hăn với tinh-thần của " Hội Liên-minh Đạo-

hữu Thế-giới ". Nếu trong đáy lòng tôi nghi-

ngờ là tôn-giáo của tôi thật hơn, và tôn-giáo

của những người khác kém thật, bấy giờ, nếu

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

238

tôi có chút khả-năng thân-hữu nào chăng nữa

với những người khác thì nó là một loại hoàn-

toàn khác hăn với những điều chúng ta cần

trong Liên-minh Đạo-hữu Quốc-tế. Thái-độ

của chúng ta đối với các tín-ngưỡng khác phải

tuyệt-đối rõ-rệt và thành-thật. Lời cầu-nguyện

cho người khác không bao giờ được là : " Lạy

Chúa, hãy ban cho nó ánh-sáng mà Chúa đã

ban cho con ! " Nhưng là : " Chúa hãy ban ánh-

sáng và chân-lý mà nó cần cho sự phát-triển

cao hơn của nó ! "

Và đến khi có người bài-bác với ông về

sự thấp kém của những mê-tín linh-hồn và đa-

thần, chúng có vẻ, đối với hạng quí-phái của

các tôn-giáo hữu-thần lớn, như là trình-độ thấp

kém nhất trên cầu-thang nhân-loại, Gandhi ôn-

tồn trả lời :

_ " Về điều quan-hệ với chúng, tôi

phải khiêm-tốn và coi-chừng kẻo có khi

sự kiêu-căng có thể diễn ra cả trong tiếng

nói khiêm-tốn nhất. Một người phải để

hết thời giờ của mình để trở nên một tín-

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

239

đồ Ân-Độ-giáo tốt, một tín-đồ Cơ-Đốc tốt

hay là một Hồi-giáo tốt. Tôi phải dành hết

cả thì giờ của tôi để trở thành một Ấn-Độ-

giáo tốt, và không còn thì giờ nữa để

tuyên-truyền tôn-giáo thờ linh-hồn : vì tôi

không có thể cảm thấy rằng tôn-giáo đó

thấp kém hơn tôn-giáo của tôi ."

Trả lời một đồng-nghiệp hỏi :

_ " Phải chăng tôi không có thể

mong muốn thực-nghiệm tôn-giáo của tôi

về Thượng-Đế ? "

Gandhi đáp :

_ " Một con kiến có thể mong chính

sự hiểu-biết và thực-nghiệm của mình mà

ban cho con voi chăng ? Và ngược lại ?...

Hãy cầu-nguyện Thượng-Đế ban cho bạn

anh ánh-sáng đầy đủ và hiểu-biết, chứ

không tất-nhiên cứ phải là cái mà Ngài đã

ban cho anh ."

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

240

Một người khác hỏi :

_ " Chúng ta không có thể chia-sẻ

kinh-nghiệm của ta sao ?

Gandhi :

_ " Thực-nghiệm tâm-linh của ta dĩ-

nhiên phải là để san-sẻ ( hay là truyền-

thống ) dù chúng ta có mong muốn hay

không _ nhưng bằng đời sống của ta

( bằng gương-mẫu ) chứ không phải bằng

lời nói, vì lời nói là một môi-giới rất

khuyết-điểm. Những thực-nghiệm tâm-

linh thâm-trầm hơn cả tư-tưởng... ( vì sự-

kiện chúng ta đã sống ), thực-nghiệm

tâm-linh của ta tràn-ngập ra ngoài. Nhưng

ở đâu có tri-thức về san-sẻ ( ý muốn

hành-động tâm-linh ) thì có ngay sự vị-

kỷ. Nếu các anh, tín-đồ Cơ-Đốc, các anh

muốn một người khác tiếp-thụ thực-

nghiệm Cơ-Đốc của anh, như vậy là anh

đã dựng lên một bức tường trí-thức. Chỉ

nên cầu-nguyện để cho các bạn anh trở

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

241

nên những người tốt, bất cứ hình-thức

tôn-giáo của họ thế nào."

Tựu trung, Gandhi không những chỉ lên

án tất cả tuyên-truyền tôn-giáo, công-khai hay

là che đậy, mà ông còn không ưa mọi sự cải

đạo dù là tự ý, chuyển từ một tín-ngưỡng nọ

sang một tín-ngưỡng kia. _" Nếu có một vài

người nghĩ rằng họ phải thay đổi nhãn-hiệu

tôn-giáo của họ, tôi không có thể cản-trở sự tự-

do của họ, nhưng tôi bất-bình thấy họ làm như

thế ."

Người ta không có thể nói gì hơn trái với

những thói quen tinh-thần, tôn-giáo hay thế-tục

Tây-phương. Và, không có gì Tây-phương và

thế-giới chúng ta ngày nay có thể rút lấy bài

học bổ-ích hơn. Vào giờ này của tiến-hóa

nhân-loại, mà tất cả những năng-lực tín-

ngưỡng, mù-quáng và có suy-tư, quyền-lợi và

tư-tưởng, bắt buộc tất cả các dân-tộc phải ôm

lấy nhau chặt-chẽ, để mà " hợp-tác hay diệt-

vong ", cốt yếu là cái ý-thức nhân-loại phải

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

242

thấm-nhuần như một cách-ngôn, cái nguyên-lý

căn-bản này : quyền sống bình-đẳng cho tất cả

tín-ngưỡng và bổn-phận như nhau để mỗi

người tôn-trọng cái gì mà láng-giềng tôn kính.

Tôi tưởng rằng khi nhắc lại rõ-ràng minh-bạch

điều ấy, Gandhi đã tỏ ra là người thừa-kế chân-

chính của Ramakrishna vậy .

Sứ-mệnh đặc-biết của các đệ-tử Rama-

krishna đối với tôi, có vẻ, chính là săn-sóc sao

cho cái tâm bao-la ấy cởi-mở, cho tất cả tâm-

hồn thành-thật của thế-giới, cho tất cả hình-

thức yêu-thương và tín-ngưỡng của chúng,

không bao giờ giống như các hình-thức " Tâm-

hồn Linh-thiêng " giam-hãm vào một bàn thờ,

trong một Nhà-Thờ mà người ta chỉ được phép

vào sau khi đã nói khẩu-hiệu của một tín-điều.

Ramakrishna phải là của tất cả mọi người.

Không phải tất cả mọi người là của Ngài. Ngài

không được lấy làm của tư-hữu. Ngài phải cho

đi. Vì rằng kẻ nào lấy đi sẽ rơi vào số-phận của

kẻ đã lấy, như những Alexandre !

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

243

Không một ai trong chúng ta không phải

tìm lấy ích-lợi ở đấy. Người viết những giòng

này, mặc dù y, suốt đời mình, đã âm-thầm

khao-khát sự thông-cảm ấy _ lúc này càng

cảm thấy bao phen, bất đắc dĩ, y đã thiếu sót về

điều ấy ; và y đã biết ơn về bài-học cao cả của

Gandhi, nó là bài-học của Vivekananda, và hơn

nữa của Ramakrishna, để giúp y vươn lên tới

gần đích vậy .

***

*

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

245

KẾT - LUẬN

Tuy thế, cũng có sự khác nhau giữa tư-

tưởng của Gandhi và tư-tưởng của Viveka-

nanda là ông này, một nhà đại trí-thức, _ ( còn

Gandhi không có chút gì là nhà trí-thức cả ) _

ông không có thể lãnh-đạm như Gandhi với các

hệ-thống tư-tưởng. Tuy cả hai đều công-nhận

hiệu-năng của tất cả tôn-giáo, Vivekananda lấy

sự công-nhận ấy làm đề-tài học-thuyết của

mình và làm đối-tượng cho việc truyền-giáo.

Và đấy là một trong những lý-do tồn-tại của

giáo-hội mà ông đã thành-lập. Với một lòng

chân-thành, ông muốn tránh tất cả ảnh-hưởng

tâm-linh vào bất cứ một ai. ( Tất cả những

người đã được biết ông, chứng-thực sự tôn-

trọng tuyệt-đối của ông đối với sự tư-do trí-

thức của những người đến gần ông _ trừ-phi là

họ thừa-nhận bằng một lễ mở đạo thiêng-liêng,

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

246

những mặc-ước minh-định đối với giáo-hội của

họ và đối với ông. Bản văn tuyệt-bút sau đây

đượm ý-vị lý-tưởng tự-do hòa-hài .

" Nisthâ ( Sùng-tín một lý-tưởng

độc-nhất ) là bước đầu của thực-hiện tôn-

giáo. Hãy hút lấy mật của tất cả các thứ

hoa, hãy bầu-bạn với tất cả mọi người,

hãy tôn-trọng tất cả mọi người : _ “ Đúng

thế, người anh em. Đúng thế, người anh

em ! ”... nhưng hãy giữ vững con đường

riêng của mình. _ Một trình-độ cao hơn là

tự đặt mình thực-sự vào địa-vị người

khác. Nếu tôi là tất cả thì tại sao tôi không

có thể thực-sự và hoạt-bát cảm-thông với

anh em tôi và nhìn bằng con mắt riêng

của họ. Chừng nào tôi còn yếu, tôi phải

giữ lấy một đường thôi ( Nisthâ ) ; nhưng

khi tôi đã khỏe, tôi có thể cảm-thông với

tha-nhân và phối hưởng hoàn-toàn những

tư-tưởng của y. Phương-pháp cũ là :

" Phát-triển một ý-tưởng thôi, và thay cho

tất cả." _ Phương-pháp mới là : " Điều-

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

247

hòa phát-triển " _ Còn phương-pháp thứ

ba là : " Phát-triển tinh-thần và chế-ngự

nó ", rồi thì ứng-dụng nó vào nơi nào

mình muốn : kết-quả sẽ mau chóng hơn.

Như thế là tự phát-triển một cách sác thật

hơn cả. Hãy học-tập tập-trung tinh-thần,

và sử-dụng nó theo bất cứ theo chiều-

hướng nào. Như thế anh không mất gì cả.

Kẻ nào có được toàn-thể, cũng phải có

được các phần-tử ."

Nhưng không phải chỉ trông vào một mặt-

trời nhạt dịu tia nắng. Tư-tưởng cháy bỏng của

ông hành-động, chỉ một thực-kiện nó hiện-hữu.

Và nếu triết-lý Bất-nhị-pháp ( Advaïta ) của

Vivekananda có đố-kỵ với chủ-nghĩa thôn-tính

của các nhà truyền-giáo, thì ông chỉ cần tự

biểu-hiện như một ngọn lửa lớn cháy bùng để

cho các tâm-hồn lang-thang tự tụ-họp lại

chung-quanh. Không phải ai muốn bỏ vai trò

chỉ-huy là có thể bỏ được ! Cả đến lúc ông tự

nói một mình, một người như Vivekananda

cũng nói cho cả nhân-loại. Ông không biết nói

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

248

thầm. Và ông cũng không muốn thế. Một tiếng

nói lớn là để vang cả bầu trời. Cả trái đất là cái

trống của ông. _ Bởi thế cho nên, khác với

Gandhi mà lý-tưởng tự-nhiên vừa tầm với bản-

tính mình, vừa tự-do, công-bằng, trung-bình và

cân-nhắc, trong khu-vực tín-ngưỡng cũng như

chính-trị, có khuynh-hướng về một Liên-hiệp

các thiện-chí, còn Vivekananda, dù muốn hay

không, cũng tỏ bộ mặt đế-vương muốn qui-

định dưới vương-trượng của cái Một những

lãnh-vực tinh-thần, chắc hẳn là độc-lập nhưng

nghiêm-chỉnh. Và công-trình ông đã dựng nên

tuân theo chủ-định ấy .

Theo kế-hoạch của ông thì ngôi điện

chính, ngôi nhà-mẹ, ở Belur phải là một

" ngôi Điện của sự hiểu-biết " nhân-loại. Và ở

ông, " hiểu-biết " không bao giờ rời với " hành-

động ". _ " Đối với tôi đọc tụng Vedanta

không quan-trọng. Chúng ta phải thực-hiện nó

vào đời sống thực-tế."_ ( Sách Vấn-đáp của

Vivekananda ). Cái Điện trí-thức ấy lại chia ra

làm ba ngăn :

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

249

1/_ Từ-thiện ( Annadana = bố-thí thực-

phẩm và nhu-yếu vật-lý ).

2/_ Hiểu-biết ( Vidyadana = hiểu-biết trí-

thức ).

3/_ Thiền-định ( Jñãnadana = hiểu-biết

tâm-linh ).

Sự hợp-nhất ba giáo-lý trên là thiết-yếu

để xây-dựng nên con người. Có sự tinh-khiết-

hóa dần dần, tiến-bộ, tất nhiên, bắt đầu từ đòi-

hỏi cấp-bách của thân-thể nhân-loại muốn được

nuôi-dưỡng và săn-sóc cho tới những chinh-

phục tối cao của tinh-thần thoát tục nó thâm-

nhậm vào cái Duy-nhất-tính .

Song, đương-nhiên là đối với một người

như Vivekananda, ánh-sáng không phải là để

giấu vào trong ống kín, tất cả những phương-

tiện để vươn lên phải được đem đến cho tất cả

mọi người. Không có gì để dành riêng cho một

ai cả !

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

250

_ " Có quan-trọng gì ở thế-giới mà

anh hay là tôi đạt được giải-thoát Mukti

( Cực-lạc ) ? Chúng ta phải dắt cả vũ-trụ

với ta đến giải-thoát, Mukti... Cực-lạc

không tầy ! Cái Ngã thực-hiện ở tại tất cả

muôn vật hô-hấp và ở tại tất cả mọi

nguyên-tử của vũ-trụ ".

Những điều-lệ đầu tiên ông đặt ra vào

tháng 5 năm 1897 cho sự thành-lập " Sứ-đồ

Ramakrishna " ( Ramakrishna Mission ) thiết-

định rõ-rệt rằng : " mục-đích của Hội là để

truyền-bá những chân-lý, đã được Ramakrishna

biểu-thị và chứng-nghiệm, vì hạnh-phúc của

nhân-loại, và để giúp sự thực-hành chúng trong

đời sống của tha-nhân, vì tiến-triển hiện-thực,

trí-thức và tâm-linh ".

Thế là tinh-thần truyền-bá trong học-

thuyết được tái-lập, mà cốt-yếu là : " thiết-lập

tình huynh-đệ giữa các tín-đồ của các tôn-giáo

khác nhau bằng sự nhận-thức rằng tất cả đều

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

251

cùng là những hình-thức phong-phú của một

Tôn-giáo Vĩnh-cửu ."

Thật khó lòng nhổ giễ khỏi tinh-thần

nhân-loại cái nhu-cầu khẳng-định cho chân-lý

và hạnh-phúc riêng của mình như chân-lý và

hạnh-phúc của người khác. Và có lẽ người ta sẽ

nói, _ " nhổ giễ là “ nhân đạo ” ? " Sự vô-tư

của Gandhi thì gần như là thoát xác. Cũng như

Ramakrishna đã thoát xác như thế bằng các con

đường ngược chiều, đại-đồng chấp-hữu của

người tình tất cả các tinh-thần... Nhưng

Vivekananda không như thế chút nào. Ông là

người có da thịt. Chỉ cần nhìn thấy ông ta. Sự

vô-tư tuyệt-đối tràn đầy trên tuyệt-đỉnh tư-

tưởng của ông. Nhưng toàn-thể thân-thể của

ông thì dấn thân vào cuộc đời, vào hành-động.

Và tất cả xây-dựng của ông mang dấu-hiệu

sinh đôi : _ Ở cơ-bản một đám đông sứ-đồ của

chân-lý và công-tác xã-hội, trà-trộn vào đời

sống của nhân-dân và vào trào-lưu của thời-đại.

Tại trên đỉnh là ngọn đèn cao soi đường, là

ngọn tên trên nóc của đại giáo-đường, Tu-viện

TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG

252

của tất cả các Tu-viện, Bất-nhị-pháp xây trên

Hy-Mã-Lạp-Sơn, nhằm sự gặp-gỡ hai nửa địa-

cầu, Tây-phương với Đông-phương, vì ngã ba

sông của tất cả chủng-tộc nhân-loại là ở tại cái

Duy-nhất Tuyệt-đối .

Nhà kiến-trúc-sư đã hoàn-thành công-

trình của mình. Đời ông có quá ngắn-ngủi, ông

cũng đã thấy được trước khi chết bộ máy khởi-

hành, như ông nói : ông đã thâu-nhập vào trong

khối đá dầy đặc Ấn-Độ " một cái cần bẩy mà

không năng-lực nào có thể nhổ đi nổi, vì hạnh-

phúc của cả nhân-loại." _ ( Thư ngày 9 - 7 -

1897 ) .

Với các anh em Ấn-Độ của chúng ta,

chúng ta đè lên trên đấy. Và nếu chúng ta

không tự hãnh-diện để bẩy nó lên sau nhiều

thế-kỷ tới _ ( một thế-kỷ có nghĩa gì ? ) _ cái

khối nặng chĩu nõa-lực nhân-loại, nguyên-nhân

đầu tiên và cuối cùng của tội-lỗi và sai-lầm _

tuy vậy, chúng ta cũng đã lay-chuyển được

nó... Và những đội quân mới sẽ không ngừng

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

253

đến tiếp tay, thay thế cho những đội đã già-nua.

Sự-nghiệp mà hai tổ-sư Ấn đã bắt đầu, các

công-nhân tinh-thần khác cũng cộng-tác vào

đấy một cách bền-bỉ ở các nẻo đường khác trên

mặt đất. Cũng ví như ở các đường hầm kia,

trong đó khi người ta đào, người ta nghe thấy

tiếng thuổng đào ở bên kia sườn núi. .

Các bạn đường Ấn-Châu của tôi ơi, hãy

cùng tôi lắng nghe qua bên kia bức tường,

những tiếng đào của đội quân từ Á-Châu lại...

Đến chỗ gặp nhau ! ... Họ làm việc cho chúng

ta. Chúng ta làm việc cho họ. Chúng ta là hai

đội quân, hai nửa Tâm-hồn. Con Người thì

chưa có. Nó sẽ hiện ra. Thượng-Đế yên-tĩnh đã

để cho chúng ta làm ra cuộc sáng-tạo tuyệt-

diệu ấy, là cuộc sáng-tạo Ngày Thứ Bẩy : _

giải-phóng những năng-lực Tinh-thần bị nô-lệ.

Hãy cảnh-tỉnh Thượng-Đế ở trong con người...

Hãy tái tạo lấy Thực-thể !

Romain Rolland

Ngày 9 Tháng 10 Năm 1928 .

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

255

MỤC LỤC

A. PHẦN THỨ NHẤT

_ Tuồng Ảo-Hóa Và

Hành-Trình Về Tự-Do.............................1

B. PHẦN THỨ HAI

_ Bốn Đường Đạo-Dẫn ( Yogas )..............27

I._ Đạo Hành-Động...............................35

II._ Đạo Sùng-Bái..................................59

III._ Đạo Thiền......................................83

IV._ Đạo-Dẫn Trí-Tuệ

Hay Chân-Tri..............................109

C. PHẦN THỨ BA

_ Khoa-Học Tôn-Giáo Đại-Đồng............149

D. PHẦN THỨ TƯ

_ Thượng-Giới Thần-Linh

Hạ-Giới Nhân-Loại..............................193

E. PHẦN THỨ NĂM

_ Coi Chừng Chó Dữ...............................217

KẾT-LUẬN..................................................245