i · web viewdo lượng co2 trong khí quyển tăng, hiện tượng axít hóa đại dương,...

33
Cấu trúc bài tiểu luận: I. Mở đầu: I.1. lí do chọn đề tài. I.2. mục đích nhiệm vụ của đề tài. I.3. giới hạn của đề tài. II. Khái quát chung vè biển Đông. III. Kết quả nghiên cứu: III.1. Khái niệm san hô. III.2. Phân loại và quá trình dinh dưỡng. III.3. Lịch sử xuất hiện của san hô. III.4. Cấu tạo. III.5. Sinh sản. III.6. Thực trạng san hô biển Đông. III.7. Ảnh hưởng của môi trường đến san hô và tầm quan trọng của san hô. III.8. San hô nhân tạo. IV. Kết luận 1

Upload: trinhnguyet

Post on 25-May-2018

213 views

Category:

Documents


1 download

TRANSCRIPT

Cấu trúc bài tiểu luận:

I. Mở đầu:

I.1. lí do chọn đề tài.

I.2. mục đích nhiệm vụ của đề tài.

I.3. giới hạn của đề tài.

II. Khái quát chung vè biển Đông.

III. Kết quả nghiên cứu:

III.1. Khái niệm san hô.

III.2. Phân loại và quá trình dinh dưỡng.

III.3. Lịch sử xuất hiện của san hô.

III.4. Cấu tạo.

III.5. Sinh sản.

III.6. Thực trạng san hô biển Đông.

III.7. Ảnh hưởng của môi trường đến san hô và tầm quan trọng của

san hô.

III.8. San hô nhân tạo.

IV. Kết luận

1

I. MƠ ĐÂU

1. Ly do chon đê tai.

Các bãi san hô là lớp bảo vệ vùng biển, cung cấp protein, các chất

có thể chế tạo dược phẩm, thuốc men, quan trọng hơn là đóng góp cho

ngành du lịch. Khoảng 1/3 tất cả các chủng loại sống ở đại dương có liên hệ

tới san hô.

Những mối đe doạ chính là đánh bắt huỷ diệt (dùng chất độc,

thuốc nổ, xung điện), đánh bắt quá mức, ô nhiễm từ đất liền ... Các rạn san

hô bị suy thoái và huỷ diệt kéo theo sự suy giảm đa dạng sinh học cũng như

nguồn lợi hải sản do nhiều loài cá không còn bãi đẻ. Cũng theo WRI, ước

tính Việt Nam có khoảng 1.122km2 rạn san hô và khoảng 300 loài san hô.

Tuy nhiên, chỉ 1% rạn san hô có thể được phân loại là ở trong tình trạng

tốt. Các vấn đề tổng quan bao gồm phân bố rạn san hô, hình thái và cấu trúc,

phân vùng đa dạng sinh học, hiện trạng khai thác, sử dụng và những mối đe

dọa đối với hệ sinh thái rạn san hô, hiện trạng bảo tồn thiên nhiên rạn san hô.

Với những lợi ích mà san hô mang lại cho con người, hiện trạng các

rạn san hô hiện nay đang đứng rất nhiều vấn đề: khai thác sao cho hợp ly,

phát triển nó theo đúng tiềm năng săn có, bảo vệ và giữ gìn các rạn san hô.

Với những ly do trên việc chọn đề tài “san hô trên Biển Đông” có y nghia

thiết thực, góp phần nho vào chiến lược bảo vệ và phát triển hợp ly san hô

trên biển Đông.

2. Muc đich va nhiêm vu cua đê tai.

2.1. Muc đich

- Đưa ra được những nét khái quát, những kiến thức sơ lược cơ bản về

san hô trên biển Đông.

- Nêu ra được thực trạng san hô trên biển Đông hiện nay.

2

- Kiến nghị một số giải pháp bảo vệ và phát triển bền vững các rạn san

hô trên biển Đông.

2.2. Nhiêm vu

- Xác định phương pháp luận nghiên cứu và tổng quan khu vực nghiên

cứu về san hô mà cụ thể ở đây là Biển Đông

- Thu thập, xử ly, phân tích tài liệu, so sánh có lựa chọn để làm ro hiện

trạng khai thác và sử dụng san hô biển Đông hiện nay.

- Đề xuất kiến nghị một số giải pháp bảo vệ và phát triển các rạn san hô

hiện nay.

3. Giơi han cua đê tai.

- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: san hô trên Biển Đông

- Giới hạn nghiên cứu của đề tài:

+ Giới hạn nội dung: bước đầu đưa ra những hiểu biết về san hô, phân

tích thực trạng của các rạn san hô hiện nay. Từ đó đưa ra những nhận định

khái quát bước đầu về xu thế phát triển san hô trên vùng Biển Đông.

+ Giới hạn không gian: toàn bộ khu vực biển Đông

II.NHƯNG NET KHAI QUAT VỀ BIỂN ĐÔNG.

Biển Đông là một biển lớn, lớn thứ nhất trong các biển thuộc khu vực

Đông Nam A và đứng thứ 2 trên thế giới, sau Biển San Hô ở phía đông nước

Australia.

Biển Đông có diện tích lớn lại năm ở vị trí địa ly đăc biệt nên nó đã

trở thành nguồn tài nguyên rất quan trọng đối với các nước trong khu vực

được hưởng những lợi ích từ biển.Đó là một điều kiện vô cùng quan trọng

và thuận lợi để phát triển một nền kinh tế biển phong phú và đa dạng, từ việc

đánh bắt đến nuôi trồng và chế biến hải sản, khai thác dược liệu và khoáng

sản đồng thời cũng phù hợp cho việc phát triển du lịch và nghỉ mát nội địa

cũng như quốc tế.

3

Tuy là một biển nhiệt đới mang tính chất nóng và măn nhưng biển

Đông vân có một nguồn sinh vật rất phong phú và đa dạng chăng khác

những phần lưu vực trên cạn. Nguồn sinh vật biển Đông có một đa dạng sinh

học điển hình trên thế giới với rất nhiều các loại sinh vật phù du, rong, động

vật đáy, cá, bò sát, có vú, chim, cây nước măn, co biển, san hô. Đăc biệt san

hô đã xác định được khoảng 350 loài trong đó có rất nhiều giống loài: giống

acropara: 47 loài; giống monipora có 31 loài; song nhiều giống chỉ có 1 loài:

cynaria leptoria, diaseris, stylophora. Đây là một loài sinh vật biển có giá trị

rất cao trong khu vực Biển Đông.

III. KÊT QUA NGHIÊN CƯU

1. Khai niêm san hô

San hô là các động vật biển thuộc ngành ruột khoang, lớp san

hô (Anthozoa),dài từ 2 milimet cho đến vài centimet, tồn tại dưới dạng các

thể polip nho giống hải quy, thường sống thành các quần thể gồm nhiều cá

thể giống hệt nhau. Các cá thể này tiết ra cacbonnat canxi để tạo bộ xương

cứng, xây nên các rạn san hô tại các vùng biển nhiệt đới.

San hô sống trong biển nông, ở độ sâu khoảng 30m, có thể sinh sống ở

những vùng biển lạnh nhưng sinh trưởng nhanh ở những vùng nước biển ấm

có dòng nước chảy nhanh, nhiệt độ cao và trong sạch.

các rạn san hô được tạo dựng từ các bộ xương san hô và được gắn với

nhau bởi các lớp Các loài san hô phụ thuộc vào tảo vàng đơn bào và tạo rạn

(san hô đá) thường được tìm thấy tại các rạn san hô - các cấu trúc lớn băng

cacbonat canxi tại các vùng biển nhiệt đới nôngcacbonat canxi do tảo

coralline (họCorallinaceae) tiết ra. Rạn san hô là các hệ sinh thái biển cực

4

ky đa dạng, là nơi sinh sống của hơn 4.000 loài cá, vô số loài thích

ti (Cnidaria), thân mềm, giáp xác và nhiều động vật khác

2. Phân loai va cach kiếm ăn.

2.a) phân loại:

San hô năm trong lớp Anthozoa và được chia thành hai phân lớp,

tùy theo số xúc tu (tua cảm) hoăc những đường đối xứng, và một loạt các bộ

tương ứng với kiểu xương ngoài, loại tế bào châm và phân tích di truyền ti

thể. Gồm có san hô 8 xúc tu và san hô hơn 8 xúc tu.

- Phân lớp san hô với 8 xúc tu được gọi là san hô tám

ngăn(Octocorallia) hay san hô mềm (Alcyonaria) và bao gồm các bộ san

mềm (Alcyonacea), san hô sừng (Gorgonacea) và san hô lông

chim (Pennatulacea).

- Những loài có nhiều số xúc tu lớn hơn 8 và là bội của 6 được gọi

là san hô sáu ngăn (Hexacorallia) hay san hô tổ ong (Zoantharia). Nhóm

này bao gồm các loài san hô đá (san hô tạo rạn) (Scleractinia), san hô tổ

ong (Zoanthidea) và hải quy.

2.b) Cách kiếm ăn:

Tuy san hô có thể dùng các tế bào châm (nematocyst) tiết chất độc tại

các xúc tu để bắt phù du, loại động vật này thu nhận phần lớn dưỡng chất từ

loại tảo đơn bào cộng sinh có tên tảo vàng đơn bào (zooxanthella). Do đó,

hầu hết san hô phụ thuộc vào ánh sáng măt trời và phát triển ở các vùng

nước trong và nông, thường ở độ sâu không tới 60 m (200 ft).

Xung quanh miệng có các xúc tu (người xưa gọi là hoa) chứa các tế bào

châm (thích ty bào) nhăm bắt giữ các sinh vật nho bé trong môi trường khi

5

chúng đến gần và tiếp xúc các xúc tu. Những sinh vật nổi đó là những rong

biển rất nho sống một cách cộng sinh với san hô: san hô cung cấp cho rong

những muối khoáng lọc từ nước biển, rong nẩy nở nhờ quang hợp và trở

thành thực phẩm cho san hô.

3. Lich sư

Măc dù san hô xuất hiện lần đầu tiên vào kỷ Cambri cỡ 542 triệu

năm trước (Ma), nhưng các hóa thạch là cực hiếm cho tới tận kỷ Ordovic,

khoảng 100 triệu năm muộn hơn, khi các bộ san hô bốn tia(Rugosa) và san

hô vách đáy (Tabulata) trở nên phổ biến.

San hô vách đáy xuất hiện trong các lớp đá vôi và đá phiến sét chứa

canxi thuộc các kỷ Ordovic và Silur, và thông thường tạo thành các lớp đệm

thấp hoăc các khối tạo nhánh kề bên san hô bốn tia. Số lượng của chúng bắt

đầu suy giảm trong giai đoạn giữa kỷ Silur và cuối cùng chúng tuyệt chủng

vào cuối kỷ Permi, khoảng 250 Ma. Các bộ xương của san hô vách đáy được

tạo thành từ một dạng khoáng hóa của cacbonat canxi gọi là canxit.

San hô bốn tia trở thành nhóm thống linh vào giữa kỷ Silur, và bị tuyệt

chủng vào đầu kỷ Trias. San hô bốn tia tồn tại dưới dạng đơn độc và quần

thể, và giống như san hô vách đáy, bộ xương của chúng cũng được tạo thành

từ từ canxit.

San hô đá (Scleractinia) lấp đầy các hốc sinh thái bị bo trống do sự

tuyệt chủng của san hô bốn tia và san hô vách đáy. Các hóa thạch của chúng

có thể được tìm thấy với số lượng nho trong các lớp đá từ kỷ Trias, và trở

thành tương đối phổ biến trong các lớp đá từ kỷ Jura và các kỷ muộn hơn.

Các bộ xương của san hô đá được tạo thành từ một dạng của cacbonat canxi

gọi là aragonit. Măc dù về măt địa chất chúng là trẻ hơn so với san hô vách

6

đáy và san hô bốn tia, nhưng bộ xương từ aragonit của chúng lại khó bảo tồn

hơn và vì thế hồ sơ hóa thạch của chúng là ít hoàn hảo hơn.

Ở một giai đoạn nhất định trong quá khứ địa chất, san hô đã từng rất

phổ biến, cũng như san hô hiện đại trong các vùng nước trong và ấm khu

vực nhiệt đới tại một số nơi nhất định của thế giới ngày nay. Giống như san

hô hiện đại, các tổ tiên của chúng cũng tạo rạn đá ngầm, một số trong chúng

hiện nay là các cấu trúc lớn trong các loại đá trầm tích.

Các ám tiều (rạn đá ngầm) cổ đại này không được tạo thành chỉ hoàn

toàn băng san hô. Tảo, hải miên và các dấu tích còn lại của nhiều loài động

vật da gai, động vật tay cuộn, động vật hai mảnh vo, động vật chân

bụng và bọ ba thùy đã từng sinh sống trên các ám tiều này được bảo tồn

trong chúng. Điều này làm cho một số san hô là các hóa thạch chỉ mục hữu

ích, giúp cho các nhà địa chất có thể xác định niên đại của các lớp đá mà

trong đó chúng được tìm thấy.

4. Câu tao.

Tuy một đầu san hô trông như một cơ thể sống, nhưng nó thực ra là

đầu của nhiều cá thể giống nhau hoàn toàn về di truyền, đó là các polip. Các

polip là các sinh vật đa bào với nguồn thức ăn là nhiều loại sinh vật nho hơn,

từ sinh vật phù du tới các loài cá nho.

Polip thường có đường kính một vài milimet, cấu tạo bởi một

lớp biểu mô bên ngoài và một lớp mô bên trong giống như sứa được gọi

là ngoại chất. Polip có hình dạng đối xứng trục với các xúc tu mọc quanh

một cái miệng ở giữa - cửa duy nhất tới xoang vị (hay dạ dày), cả thức ăn và

bã thải đều đi qua cái miệng này.

Dạ dài đóng kín tại đáy polip, nơi biểu mô tạo một bộ xương ngoài

được gọi là đia nền. Bộ xương này được hình thành bởi một vành hình

7

khuyên chứa canxi ngày càng dầy thêm (xem ở dưới). Các cấu trúc này phát

triển theo chiều thăng đứng và thành một dạng ống từ đáy polip, cho phép

nó co vào trong bộ xương ngoài khi cần trú ẩn.

Polip mọc băng cách phát triển khoang hình cốc (calices) theo

chiều dọc, đôi khi chia thành vách ngăn để tạo một đia nền mới cao hơn.

Qua nhiều thế hệ, kiểu phát triển này tạo nên các cấu trúc san hô lớn chứa

canxi, và lâu dài tạo thành các rạn san hô.

Sự hình thành bộ xương ngoài chứa canxi là kết quả của việc polip

kết lắng aragonit khoáng từ các ioncanxi thu được từ trong nước biển. Tuy

khác nhau tùy theo loài và điều kiện môi trường, tốc độ kết lắng có thể đạt

mức 10 g/m² polip/ngày (0,3 aoxơ/ yard vuông/day). Điều này phụ thuộc

mức độ ánh sáng, sản lượng ban đêm thấp hơn 90% so với giữa trưa.

Các xúc tu của polip bây mồi băng cách sử dụng các tế bào châm

được gọi là nematocyst. Đây là các tế bào chuyên bắt và làm tê liệt các con

mồi như sinh vật phù du, khi có tiếp xúc, nó phản ứng rất nhanh băng cách

tiêm đủ mạnh để gây tổn thương cho con người. Các loài sứa và hải

quy cũng có nematocyst. Chất độc mà nematocyst tiêm vào con mồi có tác

dụng làm tê liệt hoăc giết chết con mồi, sau đó các xúc tu kéo con mồi vào

trong dạ dày của polip băng một dải biểu mô co dãn được được gọi là hầu

Các polip kết nối với nhau qua một hệ thống phức tạp gồm các

kênh hô hấp tiêu hóa cho phép chúng chia sẻ đáng kể các chất dinh dưỡng và

các sinh vật cộng sinh..

5. Sinh san

5.a) Hưu tinh

8

San hô chủ yếu sinh sản hữu tính, với 25% san hô phụ thuộc

tảo (san hô đá) tạo thành các quần thể đơn tính trong khi phần còn lại

là lưỡng tính. Khoảng 75% san hô phụ thuộc tảo "phát tán con giống" băng

cách phóng các giao tử (trứng và tinh trùng) vào trong nước để phát tán các

quần thể san hô ra xa. Các giao tử kết hợp với nhau khi thụ tinh để hình

thành một ấu trùng rất nho gọi là planula, thường có mầu hồng và hình ôvan;

một quần thể san hô cỡ trung bình mỗi năm có thể tạo vài nghìn ấu trùng này

để vượt qua xác suất rất nho của việc ấu trùng tạo được một quần thể mới.

Ấu trùng planula bơi về phía ánh sáng, thể hiện quang xu hướng

tính dương, lên đến vùng nước bề măt nơi chúng trôi dạt và phát triển một

thời gian trước khi bơi trở lại xuống phía đáy biển để tìm một bề măt mà nó

có thể bám vào đó và xây dựng một quần thể mới. Nhiều giai đoạn của quá

trình này có tỷ lệ thất bại lớn, và măc dù mỗi quần thể san hô phát tán hàng

triệu giao tử, chỉ có rất ít quần thể mới được hình thành. Thời gian từ khi

phóng giao tử cho đến khi ấu trùng định cư thường là 2 hoăc 3 ngày, nhưng

có thể kéo dài đến 2 tháng. Ấu trùng san hô phát triển thành một polip san

hô và cuối cùng trở thành một đầu san hô băng cách sinh sản vô tính tạo các

polip mới.

Hầu hết các loài san hô, mà không phải san hô đá, đều không phát

tán giao tử. Các loài này phóng tinh trùng nhưng giữ trứng, cho phép phát

triển các ấu trùng planula lớn hơn để sau này khi thả ra sẽ đủ săn sàng để

lắng xuống. Ấu trùng phát triển thành polip san hô và cuối cùng trở thành

đầu san hô băng mọc chồi vô tính và phát triển để tạo ra các polip mới.

San hô phải phụ thuộc vào các dấu hiệu môi trường, tùy theo từng

loại, để xác định thời gian chính xác để giải phóng các giao tử vào trong

9

nước. Có hai phương pháp mà san hô dùng để sinh sản hữu tính, chúng khác

nhau ở chỗ giao tử cái có được giải phóng hay không:

+ San hô gieo rắc, phần lớn trong chúng sinh sản hàng loạt, phụ thuộc

năng nề vào các dấu hiệu môi trường, do ngược lại với san hô ấp trứng,

chúng giải phóng cả tinh trùng lân trứng vào trong nước. San hô sử dụng các

dấu hiệu dài hạn như độ dài thời gian ban ngày, nhiệt độ nước, và/hoăc tốc

độ thay đổi nhiệt độ; và dấu hiệu ngắn hạn thông thường nhất là chu ky

trăng, với lúc măt trời lăn điều khiển thời gian giải phóng. Khoảng 75% các

loài san hô là san hô gieo rắc, phần lớn trong chúng là phụ thuộc tảo vàng

đơn bào hay san hô tạo rạn. Các giao tử với sức nổi dương trôi nổi về phía

bề măt nơi sự thụ tinh diễn ra để tạo thành các ấu trùng planula. Các ấu

trùng planula bơi về phía ánh sáng bề măt để đi vào các dòng chảy, nơi

chúng ở lại khoảng 2 ngày, nhưng có thể tới 3 tuần, và trong một trường hợp

đã biết là 2 tháng, sau đó chúng chìm xuống và biến hóa thành các polip và

tạo thành các quần thể mới.

+ San hô ấp trứng thông thường nhất là không phụ thuộc tảo vàng đơn

bào (không tạo rạn), hoăc một số san hô phụ thuộc tảo vàng đơn bào trong

các khu vực có tác động của sóng hay luồng chảy mạnh. San hô ấp trứng chỉ

giải phóng tinh trùng, với sức nổi âm, và có thể lưu trữ trứng đã thụ tinh

trong vài tuần, giảm bớt nhu cầu đối với các sự kiện sinh sản đồng bộ hàng

loạt, nhưng nó vân có thể xảy ra. Sau khi thụ tinh thì san hô giải phóng các

ấu trùng planula đã săn sàng chìm lắng xuống.

5.b) Vô tinh

Tại các đầu san hô, các polip giống hệt nhau về di truyền sinh sản

vô tính để phát triển quần thể. Điều này được thực hiện băng nảy mầm hay

mọc chồi (khi một polip mới mọc ra từ một polip trưởng thành), hoăc phân

10

chia (thành 2 polip lớn băng polip ban đầu), cả hai được minh họa trong hình

về Orbicella annularis.

+ Mọc chồi: Mở rộng kích thước của quần thể san hô. Nó diễn ra khi

corallite mới mọc ra từ polip trưởng thành. Khi polip mới phát triển nó sinh

ra xoang vị (dạ dày), tua cảm và miệng. Khoảng cách giữa các polip mới và

trưởng thành tăng lên, và cùng với nó là coenosarc (cơ thể chung của quần

thể; xem hình minh họa tại phần cấu tạo). Việc mọc chồi có thể diễn ra theo

các cách sau:

+ Phân chia theo chiều dọc bắt đầu với mở rộng polip ra, sau đó phân

chia xoang vị. Miệng phân chia và các tua cảm mới hình thành. Khác biệt

với điều này là mỗi polip phải hoàn thiện phần bị mất của mình về cơ thể và

bộ xương ngoài.

+ Mọc chồi nội tua cảm hình thành từ các đia miệng của polip, nghia là

cả hai polip có cùng kích thước và năm trong cùng một vòng tua cảm.

+ Mọc chồi ngoại tua cảm tạo thành từ đáy của polip, và các polip mới

là nho hơn.

+Phân chia theo chiều ngang diễn ra khi các polip và bộ xương ngoài

phân chia theo chiều ngang thành hai phần. Điều này có nghia là một polip

có đia nền (đáy) còn polip kia có đia miệng (đỉnh). Hai polip mới cũng phải

tự hoàn thiện các phần bị mất.

+ Phân đôi diễn ra ở một số san hô, đăc biệt là trong họ Fungiidae,

trong đó quần thể có khả năng tự tách thành 2 hay nhiều quần thể trong các

giai đoạn đầu của sự phát triển của chúng.Cả quần thể san hô có thể sinh sản

vô tính qua sự phân mảnh hay thoát ra ngoài, khi một mảnh vỡ từ một đầu

san hô được sóng đem đi nơi khác có thể tiếp tục phát triển tại địa điểm mới.

11

+Polip thoát ra ngoài diễn ra khi một polip từ bo quần thể và tái thiết

lập trên một nền mới để tạo ra quần thể trưởng thành mới.

+Phân mảnh, trên thực tế có thể coi như là một kiểu của phân đôi, với

các cá thể bị vỡ ra khoi quần thể do bão hay trong các tình huống khác mà

việc vỡ ra này có thể xảy ra. Các cá thể tách biệt có thể bắt đầu cho các quần

thể mới.

6. Thực trang khai thac san hô biển đông

6.a) Nguy cơ từ hoạt động đánh cá

Mối đe dọa lớn nhất đối với rạn san hô là hoạt động đánh cá không bền

vững. Các hoạt động đánh bắt cá quá mức làm thay đổi kích cỡ, số lượng cá,

và thành phần loài trong quần xã rạn san hô. Điều này đã làm cho hệ sinh

thái san hô mất cân băng, tạo điều kiện cho các sinh vật khác như tảo biển

phát triển. Kết quả là tảo biển, đã từng được cá kiểm soát, trở nên lấn át trên

các dải đá ngầm tại nhiều khu vực. Măt khác, do sản lượng đánh bắt giảm,

ngư dân buộc phải thay đổi phương pháp để bắt đủ cá nhăm đáp ứng nhu cầu

của họ. Đánh bắt cá băng mìn, băng xyanua và các hoá chất độc hại khác, sử

dụng lưới muro-ani (buộc vào rạn san hô các túi năng để xua đuổi cá ra

ngoài các khe nứt) và sử dụng lưới vét, lưới rà cũng đã phá huỷ nhiều rạn

san hô. Theo ước tính của Sam Mamauag, nhà sinh học thuộc Liên minh

Động vật biển Quốc tế tại Philippines, để bắt được một con cá sống băng

xianua, chúng ta phải đánh đổi băng một mét vuông san hô.

6.b) Ấm hoá toàn cầu và hiên tượng "tẩy trắng"

Mối đe doạ lớn thứ hai và sẽ là nguyên nhân phá hủy các rạn san hô

mạnh nhất trong thời gian tới là hiện tượng “tẩy trắng san hô'' làm san hô

chết hàng loạt, do lượng nước thải đổ ra biển tăng làm tăng độ đục của nước

12

biển, giảm lượng ánh sáng tới được chỗ san hô, nhưng tác động mạnh nhất

vân là do nhiệt độ đại dương tăng đột ngột.

San hô có thể chịu được nhiệt độ từ 25-29 độ C, phụ thuộc vào địa

điểm. Các thí nghiệm cho thấy san hô bắt đầu tẩy trắng khi nước biển đạt tới

nhiệt độ 32 độ C. Tẩy trắng san hô là hiện tượng phá vỡ mối quan hệ cộng

sinh giữa san hô và tảo đơn bào. Tảo đơn bào sống trong các mô của san hô,

cung cấp cho chúng thức ăn để tăng trưởng và duy trì màu sắc khoẻ mạnh

bình thường. Tẩy trắng san hô làm mất dần màu sắc san hô khi tảo đơn bào

bị đẩy khoi mô san hô, để lộ bộ xương trắng.

6.c) Tác động của sự phát triển các thành phố và thị trấn ven

biển

Sự phát triển của các thành phố và thị trấn ven biển làm phát sinh một

loạt những đe doạ cho các dải san hô ở gần đó. Do không gian ở đó bị giới

hạn, các dự án sân bay và công trình khác thường được xây dựng trên các rải

san hô. Xây dựng, cải tạo đường bờ biển làm xáo trộn lớp trầm tích, che phủ

san hô. Tại nhiều vùng, các hệ sinh thái san hô đang bị khai thác làm vật liệu

xây dựng, như cát và đá vôi, sản xuất xi măng, phục vụ các công trình xây

dựng mới.

6.d) Khai thác và vận tải cũng hủy diêt san hô

San hô cũng là vật trang trí được con người ưa thích. Thường khi đi

nghỉ tại các vùng biển nhiệt đới có những rạn san hô đẹp, một số

người muốn mua một số đồ lưu niệm băng san hô mang về nhà. Để thoả

mãn nhu cầu của du khách, dân địa phương đã khai thác san hô với quy mô

thương mại và chọn san hô sao cho có thể kiếm được nhiều tiền nhất.

13

Các vụ tràn dầu, rò rỉ dầu vào nước biển, mo neo của tàu thuyền cũng

như việc các con tàu đi biển cỡ lớn bị mắc cạn cũng tàn phá một phần lớn

các dải đá ngầm san hô. Trong giai đoạn dài, tràn dầu có thể làm tổn thất các

quần xã rạn san hô nhiều hơn so với các dạng xáo trộn khác. Các nhà nghiên

cứu cũng đã phát hiện răng sơn được phủ lên đáy nhiều con tàu cũng đóng

góp vào quá trình hình thành độc tố thiếc Tributyl, cùng các hoá chất khác

có hại cho san hô.

Ngoài ra, những nơi không chịu tác động trực tiếp của con người, các

rạn san hô có thể bị đe doạ bởi sự suy giảm những rừng ngập măn, thảm co

biển và các nơi cư trú có liên quan khác gần đó, sóng thần và các sự cố tự

nhiên khác đã góp phần phá huỷ các rạn san hô, gây tác động toàn bộ hệ sinh

thái biển.

* Ở nước ta, Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường ,

dọc bờ biển dài gần 3.200 km của Việt Nam hiện nay có khoảng khoảng

1.222km2 rạn san hô với trên 400 loài san hô khác nhau, gồm 80 giống, 17

họ và Việt Nam được coi là một trong nước có nhóm các loài san hô vào loại

đa dạng nhất thế giới.

Vùng biển phía Bắc, san hô phân bố rộng ở phía đông đảo Cát Bà, Vịnh

Hạ Long, chân đảo Cô tô, Bạch Long Vi... Chỉ tính riêng ở Vịnh Hạ Long đã

có 101 loài thuộc 40 giống, 12 họ san hô. Vùng biển phía Nam, từ Đà Năng

trở vào, các nhà khoa học đã ghi nhận có 177 loài thuộc 72 giống san hô

cứng, trong đó 66 giống thuộc nhóm san hô tạo rạn. Ngoài khơi Nha Trang,

còn có loại san hô đo cực ky quy hiếm.

14

TSKH. Nguyễn Tác An, nguyên Viện trưởng Viện Hải Dương học Việt

Nam từng cảnh báo: "Chưa bao giờ nguồn san hô nước ta lại đứng trước

thách thức sống còn như hiện nay. Mỗi năm, mất hơn 50 tấn san hô chưa kể

mất san hô đen ở Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ninh, Hải Phòng. Theo đà

này, 20 năm nữa san hô không còn trong vùng biển Việt Nam".

Chưa bao giờ nguồn san hô nước ta lại đứng trước thách thức sống còn

như hiện nay. Những rạn san hô mất đi, đồng nghia với sự cạn kiệt các

nguồn lợi thủy sản. San hô bị tận diệt băng thủ công và băng mìn thì rạn nào

cũng tan tành. Biển miền Trung ngày nào cũng có ngư dân đi lấy san hô.

Từng ngày biển mất

Trước thực trạng khai thác trái phép rạn san hô dân tới nguy cơ hủy diệt

đa dạng sinh thái biển, UBND TP. Đà Năng vừa quyết định khoanh vùng

bảo vệ và ra lệnh cấm đánh bắt hải sản, khai thác san hô khu vực biển thuộc

bán đảo Sơn Trà, trong đó vùng bảo vệ nghiêm ngăt (vùng loi) 82ha thuộc

khu vực Hòn Sụp, Bãi Bụt, Hục Lỡ, Vũng Đá và Đông Bãi Bắc từ bờ ra 300

mét ở độ sâu trung bình 12 mét.

.

7. Anh hương môi trương tơi san hô va tầm quan trong cua san hô.

7.a) Môi trường ảnh hưởng đến san hô:

San hô rất nhạy cảm với các thay đổi trong môi trường tự nhiên; do đó,

chúng thường được các luật môi trường bảo vệ. Một rạn san hô có thể dễ

dàng bị ngập trong tảo nếu trong nước có quá nhiều dinh dưỡng. San hô

cũng sẽ chết nếu nhiệt độ nước thay đổi vượt quá 1-2 độ ra ngoài khoảng

bình thường, hoăc nếu độ măn trong nước giảm. Dấu hiệu ban đầu của ứng

15

suất môi trường là việc san hô thải tảo vàng đơn bào; không có tảo đơn bào

cộng sinh của mình, các mô san hô sẽ mất mầu và để lộ mầu trắng của bộ

xương cacbonat canxi, một hiện tượng được gọi là san hô bạc màu. M o

neo của các tàu thuyền hay do nghề cá cũng làm ảnh hưởng xấu đến san hô.

Hốc sinh thái hẹp mà san hô chiếm linh, và sự phụ thuộc vào sự trầm lắng

cacbonat canxi, có nghia răng chúng rất nhạy cảm đối với sự thay đổi

độ pH của nước. Do lượng CO2 trong khí quyển tăng, hiện tượng axít hóa

đại dương, khiCO2 tan trong nước làm giảm độ pH, đang xảy ra tại nước trên

bề măt các đại dương. Độ pH thấp làm san hô bị giảm khả năng tạo xương

cacbonat canxi, và trong trường hợp tột cùng, những bộ xương này còn bị

phân rã hoàn toàn. Các nhà khoa học e ngại răng, nếu không có sự cắt giảm

mạnh và sớm đối với CO2 từ hoạt động của con người, hiện tượng axít hóa

đại dương sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng hoăc tiêu diệt các loài cùng các hệ

sinh thái san hô.

Một sự kết hợp của các thay đổi về nhiệt độ, ô nhiễm, sự lạm dụng

bởi những người lăn biển và các nhà sản xuất đồ kim hoàn đã dân tới sự hủy

diệt của nhiều rạn san hô trên thế giới. Điều này đã làm tăng tầm quan trọng

của ngành sinh học san hô. Riêng các biến đổi về khí hậu có thể gây ra thay

đổi về nhiệt độ đủ để hủy diệt san hô.

7.b) Tầm quan trọng của san hô:

b.1 Đa dạng sinh học

Các rạn san hô là một trong những hệ sinh thái giàu đa dạng sinh học

nhất trên trái đất. Những tập đoàn san hô là nơi cộng sinh của nhiều sinh vật.

Chúng chỉ chiếm chưa đầy 1% diện tích đại dương, nhưng lại là mái nhà cho

25% các loài sinh vật biển.

b.2 Giá trị kinh tế

16

Phần lớn người nghèo trên thế giới cũng như ở ven biển Đông sinh sống

tại các vùng ven biển thuộc các khu vực đang phát triển, có nguồn Protein

phụ thuộc trực tiếp vào các loài sinh vật sống ở rạn san hô. Ở các nước đang

phát triển, các rạn san hô cung cấp khoảng 1/4 tổng lượng cá đánh bắt, ước

tính cung cấp thực phẩm cho 1 tỷ người ở châu A.

Các rạn san hô là sức hấp dân chính đối với các thợ lăn, những người

câu cá giải trí và những ky nghỉ hè (một số những bãi biển đẹp nhất được tạo

thành do sự xói mòn tự nhiên của các rạn san hô gần đó).

San hô cũng là nơi cung cấp nguồn dược liệu cho y học

bởi có nhiều hoá chất được những sinh vật này tạo ra với mục đích tự bảo

vệ. San hô đang thực sự được dùng trong cấy ghép mô xương, và các hoá

chất tìm thấy ở một vài loài hữu ích đối với xử ly virut. Các hoá chất của

những loài liên quan đến rạn san hô có thể đưa ra hướng điều trị mới cho các

bệnh bạch cầu, ung thư da, và các bệnh u bướu khác.

Hệ sinh thái rạn san hô còn là nơi cung cấp nhiều sản phẩm kinh tế

khác, từ san hô, vo sò làm thành đồ trang sức và đồ mỹ thuật du lịch đến cá

và san hô sống nuôi trong bể kính; cát và đá vôi dùng trong công nghiệp xây

dựng. Tuy nhiên, các hoạt động khai khoáng thường phá vỡ những nơi cư

trú này.

b.4) Bảo vê dải bờ biển

Các dải san hô làm thành vùng đệm cho dải bờ biển liền kề trước những

tác động của sóng biển và những cơn bão. Trong trường hợp các đảo san hô

vòng, san hô cung cấp nền móng cho chính bản thân đảo.

b.5) Bảo vê khi hậu

17

Nước biển hòa tan khí carbon dioxide (CO2) của khí quyển. San hô

tạo xương sống theo phản ứng hóa học giữa carbon dioxide and calcium

(Ca) để sinh ra carbonate calcium (CaCO3). Nhờ phản ứng đó, san hô tham

gia vào công cuộc giảm khí carbon dioxide, một khí có hiệu ứng nhà kính

các hoạt động kỹ nghệ con người thải ra.

b.6) Rạn san hô hỗ trợ, phu thuộc nhiều hê sinh thái khác nhau

Thông thường, các rạn san hô, rừng ngập măn, thảm co biển có mối

liên hệ vật ly và sinh học: các rạn san hô như những đê chắn sóng tạo điều

kiện cho các rừng ngập măn ven biển phát triển; chất canxi của rạn cung cấp

cát và trầm tích để rừng ngập măn và co biển sinh trưởng trên đó và  các

quần xã rừng ngập măn và co biển cung cấp năng lượng đưa vào hệ sinh thái

ven biển và nơi đẻ trứng, nuôi con và kiếm ăn cho nhiều loài sinh vật có

quan hệ với rạn san hô. 

b.7 Các ý nghĩa văn hóa khác

Nhiều dân tộc coi san hô là một vật thiêng liêng. Ở một số nơi,

người ta tin răng san hô giúp nhà nông thu găt được mùa và thủy thủ ra khơi

mang san hô sẽ không găp bão, san hô màu đo thâm giúp máu chảy điều hòa

trong mạch, san hô hồng ảnh hưởng đến quả tim, nơi cảm xúc tập trung.

8. San hô nhân tao

San hô nhân tạo là các san hô do con người tạo ra với mục đích bảo

tồn, nghiên cứu, tạo môi trường cho các động vật sống trong san hô và triển

lãm cho khách du lịch xem. Các kỹ thuật làm san hô nhân tạo như làm từ giá

thể, một chất làm từ pozzolana và xi măng và canxi hiđrôxit, hay cấy giống

đều được áp dụng rộng rãi hiện nay. Khi làm san hô nhân tạo cần trách các

tảo biển bám vào vì nó sẽ làm hại tới san hô và làm dơ nó. Các hồ san hô

18

nhân tạo hiện đang rất thu hút khách du lịch về thế Việt Nam cùng hợp tác

với Nga tạo ra hồ san hô nhân tạo ở Nha Trang. Tuy san hô chậm chạp hồi

phục như một ngày nào đó nó sẽ hồi phục hoàn toàn.

19

IV. KÊT LUẬN

Ở cấp độ khu vực, ô nhiễm và rác biển trong vùng Biển Đông và hoạt

động đánh bắt trái phép, bừa bãi và lén lút cả ở trong và ngoài vùng biển của

Việt Nam đều đe dọa tới các rạn san hô. Ở cấp độ toàn cầu, sự biến đổi khí

hậu đã làm gia tăng sự axit hóa đại dương, sự mất canxi của các vùng rạn,

tăng nhiệt độ không khí và đại dương, dâng cao mực nước biển và làm biển

đổi thời tiết và các quy luật bão. Các vùng rạn của Việt Nam đã có hiện

tượng tẩy trắng san hô nghiêm trọng. Sự phát triển tràn lan của các sinh vật

xâm lấn và gây bệnh cũng làm tăng các mối đe dọa. Những mối đe dọa đang

gia tăng này không thể chỉ giải quyết một cách cục bộ mà cần sự phối hợp,

có chiến lược và sự ủng hộ ở các cấp từ địa phương tới toàn cầu.

Việc phục hồi các rạn san hô ở Việt Nam có giá trị to lớn đối với sinh

kế của cộng đồng ven biển và toàn quốc, đăc biệt là tăng năng suất nghề cá,

giảm xói mòn vùng bờ và làm lợi cho ngành giải trí và du lịch. Điều này chỉ

xảy ra khi những lợi ích của việc thay đổi được định lượng cụ thể và ro ràng,

được công bố tới khắp các bên liên quan – từ địa phương tới quốc gia và

quốc tế.

Vì mức độ tổn hại nghiêm trọng của các rạn san hô ở Việt Nam, vì sự

phân bố rộng khắp của chúng dọc theo bờ biển và nhiều đảo, vì số lượng lớn

các cộng đồng ven biển phụ thuộc vào các vùng rạn và vì chi phí can thiệp

cao, cần có những chương trình phối hợp nhịp nhàng. Các chương trình đó

nên bao gồm, nhưng không nhất thiết chỉ là, các khu bảo tồn biển và quản ly

tổng hợp vùng bờ.

Thông tin về các hoạt động cần được phổ biến thông qua tích cực trao

đổi kinh nghiệm, học hoi từ sự phát triển của các quốc gia vùng nhiệt đới

khác và tham gia các nỗ lực trong khu vực và quốc tế để giải quyết các mối

đe dọa nảy sinh từ bên ngoài. Trên thế giới có một kho kinh nghiệm quy báu

20

của các nước (những phương thức hiệu quả nhất, những thành công và thất

bại), và rất nhiều trong số này có giá trị đối với Việt Nam.

Để phục hồi rạn san hô và phát triển những lợi ích của chúng, cần có sự

định giá toàn diện các rạn san hô và sử dụng cách tiếp cận hệ sinh thái. Các

chi phí kinh tế và xã hội của các phương thức hiện tại đang áp dụng và các

lợi ích cụ thể của việc phục hồi rạn san hô cần được minh chứng và liên kết

với các cơ chế tài chính. Những mối quan hệ và liên kết của các quần thể rạn

và các hệ thống rạn cần được chứng minh và giải thích ro ràng, công khai.

Tương tự như vậy đối với những tác động của các sự kiện và các hoạt động

ảnh hưởng đến năng suất rạn san hô.

Vì vậy mỗi chúng ta cần quan tâm đến vần đề biển Đông nói chung và

san hô nói riêng và hãy có những cách bảo vẹ riêng của mình nhé!

21