kh hỆ thỐng kiẾn th c h c ki n th c h c kÌ i, ph c Ế quang...
TRANSCRIPT
-
KHỐI 12
HỆ THỐNG KIẾN THỨC HỌC KIẾN THỨC HỌC KÌ I,
PHẦN VĂN HỌC TÂY TIẾN - QUANG DŨNG
Phân tích một số đoạn thơ
TÁC
GIẢ
- Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh và soạn nhạc.
- Quang Dũng là một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài
hoa, đặc biệt khi ông viết về người lính và xứ Đoài (Sơn Tây) của mình.
- Thơ Quang dũng không nhiều nhưng để lại ấn tượng khó phai, nhất là đề tài người
lính.
TÁC
PHẨM
1. Hoàn cảnh sáng tác: Tây Tiến là một đơn vị bộ đội thành lập đầu năm 1947, có
nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt - Lào và đánh tiêu hao lực
lượng quân đội Pháp ở thượng Lào cũng như ở miền tây Bắc Bộ Việt Nam.
- Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh
Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa (Lào).
- Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh
viên (như Quang Dũng), chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ, vô cùng thiếu thốn
về vật chất, bệnh sốt rét hoàng hành dữ dội. Tuy vậy, họ sống rất lạc quan và chiến đấu
rất dũng cảm.
- Đoàn quân Tây Tiến sau một thời gian hoạt động ở Lào, trở về Hòa Bình thành lập
trung đoàn 52.
- Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu,
tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến”. Khi in lại, tác giả đổi
thành bài thơ “Tây Tiến”. Bài thơ in trong tập “Mây đầu ô”.
2. Bố cục Đoạn 1:14 câu đầu
Đoạn 2: 8 câu tiếp theo
Đoạn 3: 8 câu tiếp
Đoạn 4: 4 câu cuối
1 Đoạn 1:
14 câu: Kỉ
1.1. 2 câu đầu: Cảm xúc về đoàn binh Tây Tiến
+ Điệp từ “nhớ”, từ láy “chơi vơi”, câu cảm thán.. -> Tạo nỗi nhớ mênh mông, sâu
thẳm, hoài niệm với kỉ niệm đầy ắp về đồng đội, dòng sông Mã, thiên nhiên núi rừng
-
niệm về
đoàn binh
Tây Tiến,
chặng
đƣờng
hành quân
gian khổ
nơi miền
Tây Bắc
Tây Bắc-> Khơi gợi cảm xúc cho toàn bài thơ
1.2. 6 câu tiếp: Thiên nhiên miền Tây Bắc:
+ Khung cảnh hiểm trở, hùng vĩ: Địa danh lạ lẫm, gợi lên những miền đất xa xôi, hẻo
lánh, hiểm trở: “Sài Khao sương lấp, Mường Lát hoa về, Pha Luông mưa ra khơi,
Mường Hịch, Mai Châu”.
- Địa hình hiểm trở, hoang sơ: từ láy gợi hình “heo hút, khúc khuỷu, thăm thẳm”, điệp
từ “ngàn”, “dốc”, đảo ngữ “heo hút” diễn tả địa hình quanh co, hiểm trở, gấp khúc,
đường đi dốc lên, dốc xuống, ngoằn ngoèo, núi cao, vực thẳm, gợi khó khăn, gợi ấn
tượng về núi rừng Tây Bắc hùng vĩ.
+ Vẻ đẹp thơ mộng, mĩ lệ: Sương mù như khói bao phủ khắp không gian, hương thơm
của những đóa hoa rừng trong đêm, câu thơ “ Nhà ….Luông” sử dụng toàn thanh bằng,
gợi không gian thoáng đãng.
1.3. 4 câu tiếp: Kỉ niệm về cuộc hành quân gian khó của ngƣời lính Tây Tiến
+ Dùng nghệ thuật nói giảm, nói tránh: “dãi dầu không bước nữa, bỏ quên đời”, động
từ “ gục”-> Giảm bớt đau thương, gợi ra đi nhẹ nhàng, than thản của người lính
+ Điệp từ “chiều chiều, đêm đêm” gợi lên thời gian triền miên, bất tận của cuộc hành
quân, vẻ hoang sơ, dữ dội, bí ẩn của núi rừng Tây Bắc mỗi khi chiều tàn, đêm xuống.
Bằng bút pháp hiện thực cái vẻ đẹp huyền bí hoang sơ của cảnh vật đã được tác giả khai
thác và tô đậm. Tuy nhiên dù ở hoàn cảnh nào người lính vẫn chiến thắng và vượt qua.
1.4. 2 Câu cuối: Tình quân dân ấm áp
+ Câu cảm thán “Nhớ ôi…!” cùng với sự gợi nhắc tên dịa danh: Mai Châu. Nơi ấy còn
là nơi diễn ra phút giây đầm ấm của tình quân dân trong cảnh quây quần bên những nồi
xôi bóc khói, quyện mùi thơm nếp mới, xua tan nhọc nhằn gian lao sau bao ngày hành
quân gian khổ.
2. Đoạn 2:
8 câu tiếp
theo: Kỉ
niệm đêm
liên hoan
lửa trại và
buổi chiều
tiễn biệt
trên sông
2.1. 4 câu đầu: Động từ “bừng” diễn tả không khí tưng bừng náo nhiệt của doanh
trại bộ độii. Hai chữ “Kìa em” diễn tả cái nhìn ngỡ ngàng, ngạc nhiên đến say mê của
những chàng lính trẻ trước vẻ đẹp của các cô thiếu nữ-> Bao mệt nhọc, gian khó đã lùi
xa thay vào đó là tâm hồn hào hoa, lãng mạn của những chàng trai Hà Nội, họ không chỉ
là những người lính dũng cảm mà còn là những chàng trai lãng mạn, đa tình.
2.2. 4 câu sau: Cảnh chiều sƣơng phủ lên dòng nƣớc mênh mang:
Hình ảnh thơ giàu chất trữ tình lãng mạn: “Người đi chiều sương, hồn lau, nước lũ, hoa
đong đưa ...”. Tây Bắc như một bức tranh thủy mặc, giữa không gian rộng lớn, hoa lau
nở trắng xóa lay động trong gió như lưu luyến chia ly. Khung cảnh rộng lớn ấy có núi,
nước, có vẻ đẹp thiên nhiên hài hòa trong vẻ đẹp con người.
3. Đoạn 3:
8 câu tiếp
Chân
dung
ngƣời lính
Tây Tiến
3.1. 2 câu đầu: Ngoại hình lạ lẫm kì dị: Hình ảnh thơ lạ ý thơ độc đáo, cả “đoàn
binh không mọc tóc, quân xanh màu lá”, khắc họa chân thực sống động chân dung
người lính Tây Tiến. Sống nơi chốn rừng thiêng, nước độc, thiếu thốn lương thực thuốc
men, hành quân vất vả, hầu hết lính Tây Tiến đều mắc bệnh sốt rét, điều đó làm cho
diên mạo những người lính trở nên bất thường: rụng tóc, da xanh như lá cây rừng.
3.2. 2 câu tiếp: Tính cách: Hình ảnh " mắt trừng " đôi mắt mở to, diễn tả ánh mắt
giận dữ, căm thù giặc, cảnh giác cao độ, niềm uất hận với kẻ thù của người lính TT. Từ
-
VIỆT BẮC - TỐ HỮU
“trừng” bộc lộ sức mạnh căm thù bừng cháy và kết tinh sức mạnh chiến đấu mãnh liệt.
Hình ảnh mang vẻ đẹp oai phong, lẫm liệt khí phách tuyệt vời của người lính TT.
Tâm hồn: “Gửi mộng qua biên giới”: giấc mộng chiến trường, mộng lập công tiêu diệt
kẻ thù mang lại hòa bình tự do cuộc sống tười đẹp cho đất nước. “Đêm mơ HN dáng
kiều thơm”, ban ngày ánh mắt đó theo dõi biên cương Tổ Quốc thì ban đêm người lính
lại sống với những riêng tư thầm kín, họ là những người rất yêu đời, tâm hồn hào hoa
lãng mạn.
3.3. 4 câu tiếp: Lí tƣởng: Cách dùng từ Hán Việt “biên cương, viễn xứ, áo bào,
độc hành” => tạo âm hưởng bi hùng trang trọng. Từ láy “rải rác” gợi lên không khí
trầm lắng, cảm xúc tiếc thương, ngậm ngùi trong lòng người đọc, đồng thởi gợi lên hiện
thực khốc liệt của cuộc chiến trường. Người lính TT hi sinh nằm rải rác dọc đường hành
quân, nơi đất lạ quê người. Cụm từ “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, tác giả dùng
cụm từ phủ định “chẳng tiếc” và hoán dụ “đời xanh” nhằm khẳng định lí tưởng, khí
phách của tuổi trẻ thời bấy giờ, họ không chỉ tự nguyện lên đường mà con sẵn sàng
dâng hiến cả cuộc đời mình cho Tổ Quốc. Cái chết oai hùng đó được thiên nhiên cất lên
tiếng nhạc tiễn đưa: “ Sông Mã…… độc hành” hai chữ “gầm lên” còn thể hiện sự quặn
thắt dồn nén bật thành tiếng gầm than của thiên nhiên.
4.Nghệ
thuật
- Kết hợp từ thuần Việt và từ Hán Việt.
- Kết hợp cảm hứng lãng mạn và bi tráng.
- Sử dụng các thủ pháp nghệ thuật, lời thơ gân guốc.
TÁC GIẢ
- Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền thi ca cách mạng Việt Nam . Các
chặng đường thơ của TH gắn bó và phản ánh chân thực những chặng đường Cách mạng
đầy gian khổ, hi sinh nhưng cũng đầy thắng lợi vẻ vang của dân tộc.
- Thơ Tố Hữu mang tính chất trữ tình chính trị sâu sắc, mang đậm chất sử thi, luôn
đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính chất toàn dân.
- Nghệ thuật biểu hiện trong thơ Tố Hữu mang tính dân tộc rất đậm đà.
TÁC
PHẨM
1. Ý nghĩa nhan đề “ Việt Bắc”
- Việt Bắc là quê hương cách mạng, là căn cứ địa vững chắc, nơi che chở cho Đảng
cho chính phủ trong những ngày kháng chiến gian khổ.
- Nhan đề bài thơi gợi nhớ về Việt Bắc, có ý nghĩa nhắc nhở phải thủy chung với
Việt Bắc tức là thủy chung với cách mạng.
2. Hoàn cảnh sáng tác:
- Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi. Tháng 7/1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về
Đông Dương được kí kết. Hòa bình lập lại, miền Bắc nước ta được giải phóng và bắt
-
Phân tích một số đoạn thơ
1. Khung
cảnh chia
tay đầy
lưu luyến
và nỗi nhớ
đằm thắm
thiết tha
giữa
người ra
đi và
người ở
lại, giữa
cán bộ
cách
mạng và
nhân dân
Việt Bắc
(20 CÂU
ĐẦU)
1.1 .4 câu thơ đầu: Thể hiện tâm trạng nhớ nhung của người ở lại nhắn nhủ người
ra đi:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
- Thể thơ lục bát với lối kết cấu đối đáp và cách vận dụng đại từ “ mình”-“ta”quen
thuộc trong ca dao dân ca chỉ những tình cảm thân mật, gần gũi, gắn kết nhƣ tình
yêu đôi lứa, tình vợ chồng. “ Mình” là người ra đi, ngƣời cán bộ cách mạng về xuôi,
“ta” là người ở lại cũng chính là nhân dân Việt Bắc.
- Tố Hữu mượn câu hỏi tu từ kết hợp điệp từ “nhớ” để làm nỗi bật sự bịn rịn, băn
khoăn, thăm dò tình cảm của nhân dân Việt Bắc: Người cán bộ cách mạng về xuôi có
còn nhớ nghĩa tình sâu đậm “mười lăm năm”- một khoảng thời gian dài gian khổ kháng
chiến trường kì- gắn bó với Việt Bắc hay không?
- Đặc biệt vế đối kết hợp hình ảnh ẩn dụ: “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ
nguồn” không chỉ gợi nhớ đến thiên nhiên Việt Bắc mà còn nhắc nhở đến đạo lý
“uống nƣớc nhớ nguồn” truyền thống tốt đẹp ngàn đời của dân tộc.
-Bốn câu thơ có đến bốn chữ “mình”, bốn chữ “nhớ” và một chữ “ta” hòa quyện, quấn
quýt nhau càng làm cho đạo lý ân tình thủy chung thêm sâu đậm.
1.2. 4 câu thơ tiếp theo: Miêu tả khung cảnh chia tay đầy lƣu luyến giữa ngƣời đi,
kẻ ở.
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
tay vào xây dựng xã hội cuộc sống mới. Một trang sử mới của đất nước được mở ra.
- Tháng 10/1954 những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi.
Trung ương Đảng và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Nhân sự kiện có
tính lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc”.
3. Vị trí đoạn trích: Đoạn trích SGK là phần đầu bài thơ “Việt Bắc” trong nỗi nhớ
của người ra đi.
4. Bố cục: Đoạn 1: 20 câu đầu - Cuộc chia tay của VB và CM, tái hiện cuộc k/c
chống Pháp
Đoạn 2: 22 câu tiếp theo - Nhớ về thiên nhiên, bản làng..VB
Đoạn 3: 10 câu tiếp - Bức tranh thiên nhiên và con người VB (Búc tranh
tứ bình)
Đoạn 4: 22 câu tiếp - Việt Bắc ra trận
Đoạn cuối: Vị trí, vai trò của Việt Bắc
-
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
- “Ai” là đại từ phiếm chỉ gợi hình ảnh người Việt Bắc. Người đi lắng nghe và thấu
hiểu tiếng lòng “tha thiết” của người ở lại nên nỗi niềm cũng đầy “bâng khuâng”,
bước chân trở nên “bồn chồn” ngập ngừng, bối rối, không muốn rời xa.
- Hình ảnh hoán dụ “Áo chàm” gợi nét mộc mạc, đôn hậu, thủy chung của nhân dân
Việt Bắc, giờ đây trở nên quen thuộc, khó phai trong lòng người ra đi khiến giây phút
chia li thêm nghẹn ngào, xúc động.
- “ Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. Đó là sự im lặng không nói nên lời, trong cử
chỉ chất chứa đầy cảm xúc trong cả nỗi lòng người đi và kẻ ở.
1.3. Mười hai câu tiếp theo: Nhân dân Việt Bắc gợi lại những kỉ niệm với ngƣời ra
đi về những năm tháng kháng chiến:
- Đó là nỗi nhớ về không gian thiên nhiên khắc nghiệt rất đặc trƣng ở VB
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù.
- Đó còn là nỗi nhớ về những ngày kháng chiến gian khổ, thiếu thốn:
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Vế đối “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?” và hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ “
Rừng núi nhớ ai” , “Trám bùi để rụng, măng mai để già” không chỉ là cách nói của
thơ ca diễn tả sự thiếu thốn vật chấ mà còn là thực tế của cuộc kháng chiến. Những bữa
ăn đơn sơ, đạm bạc thiếu thốn ấy đã trở thành những kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình,
không thể nào quên.
- Kỉ niệm đƣợc nhắc tới còn là hình ảnh những con ngƣời Việt Bắc giàu nghĩa
tình:
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Đó là những con người nghèo khổ sống giữa đại ngàn “hắt hiu lau xám” nhưng giàu
tình nghĩa với cách mạng. Một tấm “lòng son” đỏ thắm ân tình tương phản với nền
“xám” hoang lạnh của núi rừng càng làm nổi bật nét đẹp của con người Việt Bắc.
- Đặc biệt, kỉ niệm về những ngày đầu thành lập chiến khu vẫn in đậm trong lòng
nhân dân Việt Bắc:
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào bình dị như bao làng quê khác, nhưng giờ đây đã
trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến. Bởi, cây đa Tân Trào là nơi Bác Hồ đã chủ trì
cuộc họp Quốc dân đại hội. Mái đình Hồng Thái là nơi bí mật của cơ quan đầu não
kháng chiến. Nay dù chia xa, những đại danh lịch sử ấy mãi là tâm điểm của nỗi nhớ.
Như vậy, với thể thơ lục bát êm đềm, lối đối đáp mình –ta đằm thắm, linh hoạt, sáng
tạo, hình ảnh thơ chân thành, xúc động, điệp từ nhớ da diết, 20 dòng thơ đầu bài thơ
phác họa khung cảnh chia tay ân tình, lưu luyến, gói trọn những kỉ niệm thấm thía sâu
-
sắc , gói trọn tình cảm thủy chung son sắt giữa những người cán bộ cách mạng về xuôi
với nhân dân Việt Bắc. Điều đó đã góp phần quan trọng tạo nên sức hấp dẫn của bản
tình ca cách mạng Việt Bắc.
2. Phân
tích bức
tranh tứ
bình 4
mùa
đông,
xuân, hạ,
thu:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
-“ Ta” là người cán bộ CM về xuôi, “mình” chính là nhân dân Việt Bắc. Với cách vận
dụng đại từ nhân xưng “mình- ta” theo lối đối đáp nam nữ, lối hát giao duyên quen
thuộc của ca dao dân ca kết hợp với điệp từ “nhớ”, câu hỏi tu từ, người cán bộ CM về
xuôi tự hỏi để thăm dò tình cảm của nhân dân Việt Bắc đồng thời tự trả lời để khẳng
định tình cảm của chính mình.
- Nhớ chiến khu Việt Bắc, người cán bộ CM nhớ “Những hoa cùng người” nhớ thiên
nhiên tươi đẹp đầy hương sắc, âm thanh, nhớ con người Việt Bắc nghĩa tình. Cảnh và
người hòa quyện trong nỗi nhớ tạo nên một đoạn thơ đặc sắc, hoàn hảo.
- Hư từ “ những, cùng” chồng chất thêm nỗi nhớ da diết trong lòng người cán bộ CM
về xuôi mang theo cả bốn mùa Việt Bắc với cảnh sắc và con người tiêu biểu.
Tám dòng thơ tiếp theo, nếu câu lục nhớ cảnh thì câu bát lại nhớ người..
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
-Trên cái nền “xanh” thẳm, mênh mang của rừng già mùa đông, nổi bật lên hình ảnh
“đỏ tươi” của những bông hoa chuối diễm lệ.
- Nhớ thiên nhiên mùa đông Việt Bắc, nhà thơ lại nhớ đến hình ảnh những người Việt
Bắc đi làm nương rẫy “dao gài thắt lưng” . Trên đèo cao ngập nắng và lộng gió, ánh
nắng phản chiếu trên chiếc dao thép gài ở thắt lưng người đi rừng tạo nên ánh hào
quang lung linh càng tô đẹp thêm hình ảnh con người đang chiếm lĩnh độ cao.
Hình ảnh hoán dụ “dao gài thắt lưng”- một vật bất li thân của người dân miền núi- để
vẽ nên nét đẹp đặc trưng của con người Việt Bắc kiêu hãnh, hùng dũng vượt qua cái
lạnh lẽo mùa đông, chinh phục đèo cao.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
-Mùa xuân sang thiên nhiên Việt Bắc được khoác lên tấm áo của màu sáng tươi của
hoa “mơ nở” tạo nên vẻ đẹp thanh khiết, tinh khôi, thơ mộng của núi rừng.
- Cách đảo ngữ “ trắng rừng” bộc lộ cảm xúc ngỡ ngàng của người cán bộ CM trước
vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Việt Bắcvừa gợi được cả sự bừng của sức sống mùa
xuân.
- Nhớ ngày xuân Việt Bắc là nhớ những người thợ thủ công “đan nón chuốt từng sợi
giang”. Động từ “đan, chuốt” gợi bàn tay khéo léo, tỉ mỉ, cần cù của người dân Việt
Bắc đã chuốt bóng từng sợi giang mỏng mảnh để đan từng chiếc nón, chiếc mũ phục
vụ kháng chiến.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Mùa hạ đến, những tiếng ve ngân vang trong rừng phách nở hoa vàng thắm tạo nên
một chuỗi nhạc rừng, rộn rã chiến khu.. Động từ “đổ” không chỉ gợi sự chuyển màu
-
nhanh chóng kì lạ của rừng cây phách, mà còn gợi được sự bừng sáng, tươi tắn của
quang cảnh
- Nhớ mùa hè Việt Bắc là nhớ những cô thiếu nữ Tày, Nùng đi hái măng, giữa rừng
núi, rừng trúc. Cô gái trẻ trung đi một mình giữa rừng mà không lẻ loi, vì cô đang lao
động trong tiếng nhạc rừng rộn rã, góp phần nuôi quân phục vụ kháng chiến.
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Mùa thu về trên chiến khu, ngườ cán bộ CM về xuôi quên sao được khung cảnh những
đêm trăng thơ mộng. Ánh trăng thu trong trẻo, huyền ảo “rọi” xuống rừng núi tạo nên
một bức tranh thiên nhiên diễm lệ. Trăng thanh mát dịu gợi một khung cảnh hòa bình,
nên thơ.
-. Cảnh trăng thu Việt Bắc càng cuốn hút lòng người bởi tiếng hát vọng đến trong đêm
trăng. Đại từ phiếm chỉ “ai” kết hợp tính từ “nhớ” để chỉ đồng bào Việt Bắc giàu tình
nghĩa, thủy chung, đã hi sinh, quên mình cho kháng chiến. “Tiếng hát ân tình” của họ
còn tác động đến tinh thần , vơi bớt bao nhọc nhằn gian khổ của những cán bộ, chiến sĩ
xa quê đi kháng chiến
3. Phân
tích cảnh
Việt Bắc
kháng
chiến
Theo mạch cảm xúc hòa niệm, bài thơ dẫn dắt đi vào khung cảnh Việt Bắc kháng
chiến với những cảnh rộng lớn, những hoạt động tấp nập, sôi nổi của cuộc kháng
chiến.
Cảnh Việt Bắc kháng chiến được miêu tả bằng bút pháp khái quát, nhân hóa kì vĩ.
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Động từ “lùng” kết hợp với điệp từ “ giặc”, câu thơ nhấn mạnh tội ác của thực dân
Pháp. Hình ảnh nhân hóa “Rừng cây núi đa ta cùng đánh Tây”cho thấy thiên nhiên đã
trở thành những người đồng đội, chiến sĩ anh dũng cùng nhân dân ta đánh giặc. Cả núi
rừng cùng con người tạo thành sức mạnh đoàn kết to lớn, bền vững ngăn chặn và vây
hãm quân thù:
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng
Hàng loạt hình ảnh nhân hóa kết hợp nghệ thuật đối, nhà thơ đã biến thiên nhiên
thành con người Việt Bắc anh dũng, nhấn mạnh vai trò của thiên nhiên trong cuộc
kháng chiến. Thiên nhiên Việt Bắc khắc nghiệt, địa hình Việt Bắc hiểm trở góp phần
che mắt quân thù, cản trở tầm nhìn và con đường tiếng công của giặc Pháp đồng thời
che chở cho cán bộ cách mạng. Thiên nhiên cũng giống như con người, hiểu được ý
nghĩa của cuộc kháng chiến chống Pháp nên đã “ một lòng” đoàn kết với quân và dân
ta quyết tâm đánh giặc. Đoạn thơ gợi nhớ đến chiến dịch việt Bắc thu đông 1947, quân
dân ta đã đập tan âm mưu đánh vào chiến khu nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não cách
mạng, đánh thắng giặc Pháp với những chiến công vang dội:
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
-
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao- Lạng, nhớ sang Nhị Hà
Câu hỏi tu từ, điệp từ „nhớ”cùng đại từ phiếm chỉ “ai” và hàng loạt hình ảnh liệt
kê về địa danh “Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Cao- Lạng, Nhị Hà..”
góp phần khẳng định tình cảm thủy chung sâu nặng đồng thời gợi nhớ đến những trận
đánh oai hùng, những chiến công oanh liệt của nhân dân ta. Đoạn thơ như một trang kí
sự về chiến trường để lại trong lòng người đọc niềm tự hào về lịch sử dân tộc. Những
tên núi, tên sông, tên phố, tên đèo đã đi vào lịch sử, thơ ca, lòng người.
Nhớ về Việt Bắc, tố Hữu không chỉ nhớ về cuộc sống cách mạng, về con
ngƣời,về thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng, trong kí ức nhà thơ, việt Bắc còn hào
hùng trong đêm ra trận đánh giặc.
Mở đầu khung cảnh Việt Bắc đánh giặc là những nét vẽ khái quát của nhà thơ về
con đường ra trận mạnh mẽ: Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung.
Cách nói “Những đường Việt Bắc của ta” thể hiện ý thức tự hào về quyền làm
chủ quê hương đất nước, thể hiện niềm tự hào về một vùng đất Việt Bắc bất khả xâm
phạm.Không khí kháng chiến, không khí lịch sử được tái hiện sinh động bằng nghệ
thuật so sánh thậm xưng “Đêm đêm rầm rập như là đất rung” điệp những từ láy có
âm rung và vang “Đêm đêm, rầm rập”. Khí thế chiến đấu hừng hực sôi trào, nhịp độ
khẩn trương gấp gáp của một lực lượng đông đảo tạo thành sức mạnh tổng hợp như kết
tinh của sức mạnh bốn nghìn năm lịch sử.
Hình ảnh đoàn quân ra trận từ khắp các nẻo đường Việt Bắc hiện lên thật hùng
hậu, vừa hào hùng vừa lãng mạn:
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Đoàn quân ra trận đẹp và dài đến vô tận. Từ láy “ điệp điệp, trùng trùng” diễn
tả chính xác không khí hồ hởi của dòng người vô tận thi nhau ra tiền tuyến, tất cả vì
kháng chiến. Hình ảnh ẩn dụ “ánh sao đầu súng” gợi ánh sao vừa gần gũi thân quen
với chiếc mũ nan của người chiến sĩ vừa là ánh sao đêm phản chiếu vào nòng súng thép
trên vai người chiến sĩ . Ánh sao của bầu trời đêm Việt Bắc hay cũng là ánh sao lí
tưởng chiến đấu vì độc lập, tự do, ánh sao ngời sáng niềm tin, lạc quan vào ngày mai
chiến thắng, đã soi các nẻo đường ra trận của anh bộ đội..
Cùng với bộ đội là hình ảnh những đoàn dân công phục vụ kháng chiến được tái
hiện với màu sắc sử thi hùng tráng. Họ là một lực lượng quan trọng của cuộc chiến
tranh nhân dân:
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay.
Trong đêm tối ,từng đoàn dân công hùng dũng hiên ngang thắp lên những ngọn
đuốc sáng soi đường cho đoàn quân ra trận. Hình ảnh “ muôn tàn lửa bay” gợi lên vẻ
đẹp thật lãng mạn. Con đường ra trận như một đêm đèn hoa đăng rực rỡ. Muôn tàn lửa
bay ra từ những bó đuốc rơi xuống đất làm cho con đường ra trận thêm lung linh, đẹp
đẽ. Thành ngữ “chân cứng đá mềm” đã được Tố Hữu sáng tạo thành hình ảnh thậm
xưng “bước chân nát đá” giàu ý nghĩa khẳng định ý chí phi thường, sức mạnh to lớn
-
của nhân dân kháng chiến , đạp bằng mọi chông gai để đi tới chiến thắng.
Hòa nhịp cùng dòng người vô tận là hình ảnh của những đoàn xe cơ giới ra trận
sáng ngời niểm lạc quan tin tưởng:
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Hai câu thơ đối lập giữa bóng tối và ánh sáng. Hình ảnh ẩn dụ “Nghìn đêm
thăm thẳm sương dày” không chỉ gợi cảnh âm u, huyền bí của núi rừng Việt Bắc với
sương dày bao phủ gây khó khăn trên con đường hành quân của nhân dân Việt Bắc mà
còn gợi đêm trường nô lệ, đói khổ lầm than của đất nước. Hình ảnh ẩn dụ, so sánh
“Đèn pha bật sáng như ngày mai lên” sáng ngời niềm tin. Ngọn đèn pha của đoàn xe
kéo pháo ra trận đã “ bật sáng” phá tan những lớp sương dày, xua tan bóng đêm u tối ,
đẩy lùi những khó khăn, thiếu thốn, soi sáng những con đường kháng chiến . Hình ảnh
“ ngày mai lên” gợi niềm hi vọng ở ngày mai chiến thắng huy hoàng của dân tộc.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”
Những chiến thắng vang dội, dồn dập đổ về từ khắp các chiến trường trong cả
nước. Hàng loạt đại danh được liệt kê. “Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên” là tên những
chiến dịch lớn trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp. “Đồng Tháp”
là khu căn cứ ở Nam Bộ. “An Khê” là một địa danh ở Tây Nguyên nơi ghi dấu nhiều
trận thắng của ta. “Đèo de, núi Hồng” những địa danh ở Việc Bắc, nơi cơ quan Trung
ương Đảng và Chính phủ làm việc. Từ “ vui” được điệp lại bốn lần, các cụm từ “vui
về”, “vui từ”, “vui lên” không chỉ phản ánh không khí phấn chấn, rộn ràng, niềm vui,
niềm tự hào về những chiến công vang dội mà còn biểu đạt ý nghĩa: Việt Bắc chính là
cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến. Vì vậy, niềm vui chiến tháng của quân ta khắp
nơi tụ về rồi lại tỏa đi trăm ngã.
Bằng những hình ảnh đẹp, ngôn ngữ chọn lọc,âm hưởng anh hùng ca,mang đậm
chất sử thi hào hùng vừa giàu tính lảng mạn tượng trưng, đoạn thơ đã khắc họa thành
công hình ảnh Việt Bắc anh hùng trong cuộc kháng chiến, bộc lộ niềm tự hào của nhà
thơ về sức mạnh của dân tộc.
4.Nghệ
thuật
- Bài thơ kết cấu theo lối đối đáp nam nữ, lối hát giao duyên quen thuộc của ca dao dân
ca. Nhà thơ đã sử dụng linh hoạt, sáng tạo hai đại từ “Mình”, “ta” quen thuộc gợi
không khí ca dao, âm điệu ngọt ngào trong thể thơ lục bát, ngôn ngữ mộc mạc, dân dã
đậm đà tính dân tộc kết hợp với những biện pháp tu từ như nhân hóa, so sánh, ẩn dụ,
tượng trưng…tạo phong vị dân gian và chất cổ điển..
ĐẤT NƢỚC – NGUYỄN KHOA ĐIỀM
TÁC GIẢ
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu trưởng thành trong những năm
kháng chiến chống Mĩ Thơ ông giàu chất suy tư về đất nước, con người Việt Nam.
1. Hoàn cảnh sáng tác:
Trường ca “Mặt đường khát vọng” được NKĐ hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm
-
TÁC
PHẨM
197, in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền
Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa nhịp
với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược.
- Đoạn trích “Đất Nước” (phần đầu chương V của trường ca) là một đoạn thơ hay về đề
tài đất nước trong thơ Việt Nam hiện đại.
2. Bố cục: Đoạn 1: 9 câu thơ đầu: Cảm nhận mới mẻ của tác giả về Đất Nước
Đoạn 2: “Đất….đời..” câu tiếp theo: Đất Nước được cảm nhận từ không gian,
lịch sử, địa lí.
Đoạn 3: “Những….ta..”: Đất Nước gắn bó giữa cá nhân với cộng đồng
Đoạn 4: “Em ơi….sông xuôi”: Tư tưởng Đất Nước là của Nhân dân
1. Cảm
nhận mới
mẻ của
tác giả về
Đất Nƣớc
* 9 câu thơ đầu nhà thơ giải thích về sự hình thành và phát triển của Đất Nước, trả lời
câu hỏi: Đất Nước có từ bao giờ?
- Nhà thơ cảm nhận Đất Nước tồn tại như một điều tất yếu, hiển nhiên:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
Từ “Đất Nước” được viết hoa, lặp lại nhiều lần thể hiện tình cảm yêu quý, trân trọng và
tự hào.Từ “Đất Nước” kết hợp với những cụm từ “bắt đầu”, “lớn lên”, “có từ ngày đó”
đã cụ thể hóa cả một quá trình hình thành và phát triển lâu đời của Đất Nước. Đặc biệt,
dấu chấm lửng ở câu thơ: “Đất Nước có từ ngày đó…” còn mở ra sự trường tồn, bất biến
của Đất Nước. .
- Đất Nước rất gần gũi, gắn liền với những hình ảnh vô cùng thân thương ,gần gũi,
bình dị và thiêng liêng nhất:
“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”
Đất Nước có trong những câu chuyện mẹ thường hay kể. Cụm từ “ngày xửa ngày xưa…”
là thời gian nghệ thuật kết hợp với dấu chấm lửng làm sống dậy cả kho tàng văn hóa dân
gian của dân tộc.
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
.Hình ảnh “miếng trầu”không chỉ là biểu tượng của văn hóa giao tiếp mà còn gợi lại sự
tích “trầu cau” một biểu tượng của tình yêu chung thủy, tình vợ chồng, tình nghĩa anh em
sâu nặng.
Đất Nước tồn tại với truyền thống yêu nước , chống giặc ngoại xâm của dân tộc:
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Câu thơ vừa gợi tả lũy tre làng quen thuộc, vừa gợi nhớ truyền thuyết “Thánh Gióng” nhổ
tre làng đánh giặc Ân thuở xa xưa, thể hiện vẻ đẹp của lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh
chống giặc ngoại xâm quật cường của nhân dân ta.
-
Đất nước còn tồn tại trong những phong tục, tập quán của dân tộc,gắn liền với tập
tục búi tóc sau gáy xa xưa của người phụ nữ, một trong những nét đặc thù của văn hóa
Việt Nam không bao giờ bị ngoại lai. “Tóc mẹ thì bới sau đầu”
Đất Nước còn hiện diện trong tình cảm thủy chung của dân tộc:
“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Thành ngữ “gừng cay muối mặn” diễn tả những gian nan, thử thách trong cuộc sống.
Chính trong hoàn cảnh ấy, cha mẹ càng gắn bó bên nhau, chia sẻ những đắng cay ngọt
bùi, vun đắp tình yêu thương, bền vững. Nhà thơ cảm nhận dáng hình của Đất Nước bằng
chiều sâu trong tình yêu, bằng lối sống giàu ân tình, ân nghĩa của cha mẹ.
Đất Nước còn tồn tại quá trình lao động sáng tạo cần cù của con người Việt Nam:
“Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng.”
“Kèo”, “cột” là những vật dụng để làm nhà, gợi suy nghĩ đến mái ấm gia đình,.Hình ảnh
“ Hạt gạo” là thành quả của nền văn minh lúa nước. Thành ngữ “một nắng hai sương” kết
hợp với các động từ được liệt kê “xay”, “giã”, “giần”, “sàng” gợi lên hình ảnh người
nông dân chịu thương, chịu khó, suốt ngày vất vả, lam lũ “với bao công việc nhà nông
nhọc nhằn để làm ra sự sống, tạo nên cội nguồn văn hóa của Đất Nước:
2. Đất
Nƣớc
đƣợc cảm
nhận từ
không
gian, thời
gian.
*Những câu thơ tiếp theo, nhà thơ lại cảm nhận qua chiều rộng của không gian để trả
lời câu hỏi: “ Đất Nước là gì?”. Qua đó, nhà thơ đã giúp ta định nghĩa về Đất Nước:
“Đất”, “Nước” môi trường sống, là khoảng không gian học tập, sinh hoạt , không
gian tình yêu vô cùng gần gũi không thể thiếu trong mỗi con người. Đất Nước đã trở
thành nơi se kết, chứng giám cho tình yêu đôi lứa trước bao nhiêu thử thách của không
gian, thời gian. NKĐ đã thể hiện cái nhìn mới mẻ về Đất Nước bằng con mắt của tuổi trẻ
vừa cá thể vừa táo bạo
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Đất Nước là không gian núi non hùng vĩ, là biển khơi rộng lớn bao la:
“Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
.Những từ “núi bạc”, “biển khơi”, “chim phượng hoàng”, “cá ngư ông” mang âm hưởng
dân gian kết hợp với từ láy “mênh mông” gợi ra không gian rộng lớn, kì vĩ của một Đất
-
Nước giàu đẹp, hùng vĩ, thiêng liêng mà hiền hòa, tươi đẹp.
*Nhà thơ còn cảm nhận đất nước ở phương diện chiều dài thời gian, lịch sử:từ quá
khứ đến hiện tại và tương lai:
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông…
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”
Từ láy “ đằng đẵng” giàu giá trị biểu cảm, gợi nhiều liên tưởng, không chỉ diễn tả chiều
dài mà còn là chiều sâu của lịch sử dân tộc bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước.
Trong quá khứ, Đất Nước thiêng liêng, hào hùng gắn với huyền thoại Lạc Long Quân, Âu
cơ, gắn liền với truyển thuyết vua Hùng dựng nước
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Những hình tượng quen thuộc trong thần thoại, truyền thuyết “Chim”, “Rồng”, “Lạc
Long Quân”, “Âu Cơ”, bọc trăm trứng… cùng tụ về trong trường liên tưởng làm bật lên ý
thơ có tầm khái quát cao như một lời giải thích cội nguồn cao quý, thiêng liêng của dân
tộc gợi ra vẻ đẹp vừa chân thật, vừa lấp lánh huyền thoại, đánh thức tình cảm dân tộc
trong tâm linh của con người Việt Nam.
*Đất Nước còn là sự kết tinh thống nhất sâu sắc những giá trị tinh thần từ quá khứ
“những ai đã khuất” đến hiện tại “những ai bây giờ” và cả tương lai “yêu nhau và sinh
con đẻ cái”. Vì thế mỗi thế hệ, mỗi cá nhân đều gắn bó với Đất Nước. Đặc biệt trách
nhiệm của thế hệ hôm nay vô cùng nặng nề nhưng vinh quang. Chúng ta vừa phải “gánh
vác phần người đi trước để lại ”, vừa phải “dặn dò con cháu chuyện mai sau” ân cần, chu
đáo để các thế hệ mai sau tiếp tục đứa Đất Nước “đi xa”, đến những chân trời hòa bình,
hạnh phúc, ấm no, giàu mạnh.
Những giờ khắc thiêng liêng nhất, niềm tự hào gắn bó với Đất Nước lại trỗi dậy nồng nàn
“Hằng đâu ăn đâu làm đâu/Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.
“Ngày giỗ Tổ” là ngày 10/3 âm lịch hằng năm, người Việt có truyển thống giỗ Tổ để
tưởng nhớ các vị vua Hùng đã có công dựng nước. Hình ảnh “cúi đầu” chứa đựng biết
bao tình cảm thiêng liêng, yêu thương, thành kính của /thế hệ con cháu đối với những bậc
tiền nhân, những người có công dựng nước và giữ nước.
*Nhà thơ phát hiện ra một chân lí giản dị và sâu sắc: “Trong anh và em hôm nay/ Đều
-
có một phần Đất Nước”. Giọng thơ tâm tình với lối xưng hô anh em tha thiết, nhà thơ như
nhắn nhủ Đất Nước không chỉ tồn tại khách thể mà đã hóa thân trong mỗi người, trở thành
một phần tâm hồn, trí tuệ của mỗi người, của anh và em. “Khi hai đứa cầm tay”, tình yêu
đôi lứa riêng tư đã tự mang trong đó vẻ đẹp “hài hòa nồng thắm” của tâm hồn dân tộc.
“Khi chúng ta cầm tay mọi người”- cái riêng của tình yêu đôi lứa gắn bó với cái chung
của tình yêu Đất Nước, mỗi chúng ta đã nối vào vòng tay lớn của cộng đồng tạo nên khối
đại đoàn kết dân tộc làm cho Đất Nước “vẹn tròn, to lớn”, trường tồn phát triển. Trách
nhiệm với Đất Nước cũng chính là trách nhiệm đối với bản thân bởi “Đất Nước là máu
xương của mình”, là một phần trên cơ thể của mỗi con người. Vì thế mỗi chúng ta đều tự
nhiên “gắn bó” với Đất Nước bằng tình yêu tha thiết; “san sẻ” với cộng đồng bằng ý
thức trách nhiệm và khi cần có thể “hóa thân” bằng hành động hi sinh, hiến dâng, hòa
nhập, sống còn cùng Tổ quốc. Tiếng gọi tha thiết “em ơi em” như một lời thủ thỉ, tâm tình
kết hợp với điệp từ “phải biết” rắn rỏi vừa như một mệnh lệnh, vừa là tiếng nói thúc giục
của con tim và những động từ được liệt kê dồn dập “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” tạo
thành chất trữ tình chính luận sâu sắc của bài thơ nhằm nhắn nhủ thế hệ trẻ phải cố gắng
gìn giữ di sản của tiền nhân, phải đem tâm huyết, tài năng và cả đời sống của chính bản
thân mình để “Làm nên Đất Nước muôn đời…”, xây dựng đất nước vững bền.
2. Tƣ
tƣởng
Đất Nƣớc
của Nhân
dân
2.1 Nhìn ở bình diện không gian – địa lí: Đất Nƣớc là những cảnh quan kì thú của
non sông, là thiên nhiên đất nƣớc kết tinh vẻ đẹp tâm hồn, tình cảm của nhân dân.
Hàng loạt các địa danh, sông núi, danh lam thắng cảnh được liệt kê: vịnh Hạ Long, hòn
Vọng Phu, núi Bút, non Nghiên, làng Gióng, đất Tổ Hùng Vương… trải dài trên khắp đất
nước ta được cảm nhận như một sự đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những cảnh
ngộ, số phận nhân dân và thấm đẫm vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân.
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”.
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên”
Cuộc sống bình dị và sự đóng góp thầm lặng của nhân dân đã đặt tên cho sông núi
“Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”. Đến cả “con cóc, con gà quê hương cùng góp
cho Hạ Long thành thắng cảnh”, thành đất nước dung dị mà tươi đẹp.
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
-
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.”
Động từ “ góp” điệp lại nhiều lần và phương pháp liệt kê nhằm khẳng định vai trò vĩ đại
của nhân dân. Nhân dân chính là người tạo dựng đã đặt tên, ghi dấu ấn cuộc đời mình lên
mỗi ngọn núi, dòng sông, miền đất.
Nhìn ở phương diện thời gian – lịch sử, tư tưởng Đất Nước của nhân dân chi phối
cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của
dân tộc :
“Em ơi em hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ”
Nhìn về lịch sử, nhà thơ tập trung nói tới những con người vô danh bình thường. Đó là
“họ”, là “lớp lớp”, “con gái con trai” đã cần cù lao động, anh dũng trong chiến đấu
suốt bốn nghìn năm để dựng nước và giữ nước.
“Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.”
Nhà thơ đặt “họ” vào giữa hai bình diện sống và chết, gợi trạng thái tồn tại và tiếp nối,
gợi sự trôi chảy của thời gian khi những thế hệ người Việt Nam nối tiếp nhau tạo nên
dòng chảy vĩnh cửu của sự sống. Trong suốt 4000 năm lịch sử, nhân dân “ giản dị và bình
tâm” cần cù làm lụng, nối tiếp nhau sáng tạo, giữ gìn, phát triển và truyền lại cho các thế
hệ sau những giá trị văn hóa, tinh thần và vật chất.
-
Đất Nước của nhân dân còn thể hiện ở tâm sâu tâm hồn, tầm cao của ý chí giống nòi,
bề dày của văn hóa – phong tục.
“ Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyền di dân
Họ đắp đập, be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm”
“ Hạt lúa” là biểu tượng cho nền văn minh lúa nước lâu đời, biểu tượng cho truyền thống
lao động cần cù của người nông dân Việt Nam. “ Lửa” là phương tiện giúp con người
duy trì sự sống, là biểu tượng cho cuộc sống sum vầy, gợi nhớ đến ngọn lửa của tình yêu
đôi lứa, gợi nhớ đến những cuộc chiến tranh đầy máu lửa… Nhân dân ta đã “ chuyền lửa
cho mỗi nhà” không chỉ là truyền lại sự sống trường tồn cho 4000 năm lịch sử mà còn là
truyền lại những tình cảm, phẩm chất cao đẹp. “ Giọng điệu” là tiếng nói, là tài sản tinh
thần vô giá của một dân tộc. Qua những lời ru ngọt ngào của bà, của mẹ, qua những câu
hát dân gian, những câu chuyện thần thoại, cổ tích… nhân dân ta đã truyền lại cho con
cháu những tình cảm thắm thiết, ân tình và những bài học đạo lí, những kinh nghiệm quý
giá
.Nhân dân ta trân trọng, giữ gìn cả những địa danh thân thuộc của quê hương. Họ
mang theo “ tên xã, tên làng” để nhắc nhở con cháu về cội nguồn về những truyền thống
văn hóa, đạo lí, những thuần phong mĩ tục của quê hương..
Nhân dân còn xây dựng những nền tảng vững chắc cho đời sau an cư lạc nghiệp: Họ
đắp đập, be bờ cho ngƣời sau trồng cây hái trái” .
Khi đất nước có chiến tranh, với truyền thống “ giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh” ,
nhân dân lại là những người xông pha nơi hòn tên mũi đạn, dũng cảm chiến đấu, sẵn sàng
xả thân, hi sinh vì sự bình yên của Tổ quốc: Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm /Có nội
thù thì vùng lên đánh bại”
Nhà thơ đã khẳng định một chân lí:
“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”.
Những chữ “Đất Nước” và “Nhân dân” được viết hoa dày đặc trong hai dòng thơ càng
tôn lên vẻ đẹp bình dị mà cao quí của nhân dân. “Đất Nước của Nhân dân” là đất nước
được hình thành từ những bản sắc văn hóa dân tộc, thấm đẫm vẻ đẹp tâm hồn của nhân
-
dân: yêu nước, cần cù lao động, hiếu học, chung thủy trong tình yêu, biết quý trọng lối
sống tình nghĩa, bền bỉ kiên cường trong chiến đấu, lạc quan yêu đời trong gian khó:
“Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
Biết quí công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đến ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
Trong cả kho tàng ca dao dân ca, nhà thơ chọn lọc ba câu để nói về ba phương diện quan
trọng nhất trong truyền thống nhân dân: giàu tình cảm yêu thương và say đắm trong tình
yêu đôi lứa “dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”, quý trọng lối sống tình nghĩa “biết
quí công cầm vàng những ngày lặn lội”, bền bỉ kiên cường trong chiến đấu bảo vệ đất
nước “biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ đi trả thù mà không sợ dài lâu”.
Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh “dòng sông” và “câu hát” đem lại cảm nhận về một
Đất Nước đẹp hiền hòa, vĩnh cửu như dòng sông vô tận chảy từ quá khứ đến hiện tại,
trường tồn bất tử cùng tương lai. Trên dòng sông đất nước âm vang những sắc màu và giai
điệu văn hóa Việt Nam, phẩm chất tâm hồn Việt Nam vô cùng tự hào và yêu quí. Đó là
Đất Nước của nhân dân.
Tổng kết
- Bằng sự kết hợp chất chính luận và trữ tình, vận dụng phong phú chất liệu văn hóa và
văn học dân gian, thể thơ tự do với sự biến đổi linh hoạt về nhịp điệu. Nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm đã góp thêm một thành công cho dòng thi ca nói về đất nước, làm sâu sắc
thêm nhận thức về đất nước và nhân dân trên nhiều bình diện bằng tiếng nói nghệ thuật
đậm đà chất dân gian qua đoạn trích Đất Nước. Đoạn trích là những suy nghĩ và tình cảm
tha thiết, sâu sắc của tác giả về đất nước qua nhiều bình diện: địa lí, lịch sử, văn hóa,
phong tục,… với tư tưởng bao trùm: Đất Nước của Nhân dân. Đó là vẻ đẹp riêng trong
đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm.
-
TRÊN ĐÂY LÀ HỆ THÔNG KIẾN THỨC 03 BÀI VĂN, HỌC SINH XEM LẠI
KIẾN THỨC LÝ THUYẾT PHẦN ĐỌC HIỂU TRONG ĐỀ CƢƠNG.
CHÚC CÁC EM XEM BÀI TỐT