kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)
DESCRIPTION
Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 23 của Bộ Chính trị về "Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới". Đăng trên vanhien.vnTRANSCRIPT
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
KỶ YẾU HỘI NGHỊ
SƠ KẾT 05 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 23 –NQ/TW
NGÀY 16/6/2008 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ VIỆC “TIẾP TỤC
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT
TRONG THỜI KỲ MỚI”
Hà Nội 4/2013
2
MỤC LỤC
Nội dung Trang
1. Báo cáo sơ kết của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Báo cáo sơ kết 05 năm triển khai thực hiện nghị quyết số 23-NQ/TW
ngày 16 tháng 6 năm 2008 của Bộ chính trị - Ông Hồ Việt Hà, Vụ
trưởng Vụ Kế hoạch, Tài chính – Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
01
2. Ban Tuyên giáo Trung ương : Đánh giá kết quả sau 05 năm thực
hiện Nghị quyết 23-NQ/TW- Ông Vũ Công Hội, Phó Vụ trưởng Vụ
Văn hóa, Văn nghệ- Ban Tuyên giáo Trung ương
30
3. UBTQ Liên hiệp các Hội Văn học, Nghệ thuật Việt Nam: Báo cáo
hội thảo 5 năm thực hiện Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị về văn học
nghệ thuật - Nhà văn Đỗ Kim Cuông, Phó Chủ tịch Thường trực Liên
hiệp các Hội VHNT Việt Nam
35
4. Cục Điện ảnh: Điện ảnh Việt Nam sau 5 năm triển khai Nghị quyết
23-NQ/TW của Bộ Chính trị - Bà Ngô Phương Lan, Cục Trưởng Cục
Điện ảnh, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
40
5. Cục Nghệ thuật biểu diễn: Nghệ thuật biểu diễn việt Nam sau 05
năm triển khai thực hiện nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị:
những thành tựu, khó khăn, tồn tại và các giải pháp kiến nghị - Nhạc
sỹ Đào Đăng Hoàn, Phó cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn, Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch
47
6. Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm: Ngành mỹ thuật, nhiếp ảnh
và triển lãm sau 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 23- NQ/TW
ngày 16 tháng 6 năm 2008 của Bộ Chính trị: những thành tựu, khó
khăn, tồn tại và các giải pháp kiến nghị- Bà Đoàn Thị thu Hương,
Phó Cục trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm, Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch
56
7. Cục Di sản Văn hóa: Công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn
hóa sau 05 năm triển khai Nghị quyết số 23/NQ-TW ngày 16 tháng 6
năm 2008 của Bộ Chính trị
67
8. Vụ Thư viện: Vai trò của thư viện trong việc bảo lưu và phát triển
văn học, nghệ thuật trong đời sống cộng đồng: những thành tựu, tồn
tại và các đề xuất kiến nghị- Bà Vũ Dương Thúy Ngà, Phó Vụ trưởng
Vụ Thư viện- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
72
9. Vụ Đào tạo: Công tác đào tạo văn hóa nghệ thuật sau 5 năm thực
hiện nghị quyết số 23 NQ/TW của Bộ Chính trị - PGS.TS Đào Mạnh
Hùng, Vụ trưởng Vụ Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
78
10. Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam: Cơ sở lý luận và thực tiễn
cùng các đề xuất, kiến nghị đối với thực trạng của văn học nghệ thuật
89
3
Việt Nam sau 05 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 23- NQ/TW
ngày 16 tháng 6 năm 2008 của Bộ Chinh trị - Ông Bùi Hoài Sơn,
Phó Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam– Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch
11. Bộ Tài chính (Vụ Chính sách thuế): Chính sách ưu đãi thuế đối với văn học, nghệ thuật sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 23/NQ-TW ngày
16 tháng 6 năm 2008 của Bộ Chính trị- thực trạng và giải pháp- Ông
Tống Công Phi, Trưởng phòng Vụ Chính sách thuế, Bộ Tài chính
95
12. Bộ Tài chính (Vụ Hành chính sự nghiệp): Quản lý tài chính trong
lĩnh vực văn học, nghệ thuật sau 05 năm triển khai thực hiện Nghị
quyết số 23-NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm 2008 của Bộ Chính trị
102
13. Sở VHTTDL Tuyên Quang: Kết quả 05 năm thực hiện Nghị Quyết
số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển văn học, nghệ thuật
trong thời kỳ mới trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang: những khó khăn tồn
tại và các giải pháp kiến nghị tiếp tục triển khai thực hiện
107
14. Sở VHTTDL Bắc Ninh: Tham luận Hội nghị sơ kết 5 năm triển khai
thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị “về việc tiếp tục
xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”
113
15. Sở VHTTDL Lạng Sơn: Báo cáo tham luận Hội nghị Sơ kết 05 năm
(2008-2012) triển khai thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW ngày 16
tháng 6 năm 2008 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục xây dựng và phát
triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới
119
16. Sở VHTTDL Đà Nẵng: 05 năm thực hiện Nghị quyết Số 23-NQ/TW
của Bộ Chính trị trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
125
17. Sở VHTTDL Thừa Thiên Huế: Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế
tiếp tục phát triển xứng tầm là trung tâm văn hóa du lịch đặc sắc của
Việt Nam
130
1
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
BÁO CÁO
SƠ KẾT 05 NĂM TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT
SỐ 23 NQ/TW NGÀY 16 THÁNG 6 NĂM 2008 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ
Hồ Việt Hà
Vụ trưởng Vụ Kế hoạch, Tài chính
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện
Nhân tại Công văn số 918/VPCP-KGVX ngày 29 tháng 01 năm 2013 của Văn
phòng Chính phủ về việc đánh giá tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số
23-NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm 2008 của Bộ Chính trị “Về việc tiếp tục xây
dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới” (dưới đây gọi tắt là
Nghị quyết 23), Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch báo cáo sơ kết 05 năm thực
hiện Nghị quyết 23 giai đoạn 2008-2013 như sau:
Phần thứ nhất
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ 05 NĂM TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ
23-NQ/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ
I. ĐẶC ĐIỂM, TÌNH HÌNH:
Văn học nghệ thuật, một bộ phận quan trọng của văn hóa, luôn được Đảng
và Nhà nước quan tâm. Hiến pháp năm 1992 (Điều 32) nêu rõ “Nhà nước đầu tư
phát triển văn hoá, văn học và nghệ thuật; tạo điều kiện để nhân dân được
thưởng thức những tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị; bảo trợ để phát triển
các tài năng sáng tạo văn hóa nghệ thuật”. Từ Đề cương văn hóa Việt Nam năm
1943, Đảng đã công khai quan điểm rõ ràng về văn hóa, theo đó văn hóa, chính
trị, kinh tế là ba yếu tố không thể tách rời. Năm 1998, Nghị quyết Trung ương 5
(khóa VIII) đề ra phương hướng, nhiệm vụ với quan điểm chỉ đạo “Vǎn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế- xã hội”.
Năm 2008, Nghị quyết 23 được ban hành đã thể hiện sự quan tâm của Đảng
đối với lĩnh vực văn học, nghệ thuật. Nghị quyết đánh giá những thành tựu đã đạt
được và những yếu kém, khuyết điểm còn tồn tại qua 10 năm triển khai thực hiện
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), trên cơ sở đó đề ra mục tiêu, chủ trương
giải pháp để tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ
mới. Để tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch đã được Bộ Chính trị giao nhiệm vụ “chủ trì phối hợp với Ủy ban toàn quốc
2
Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt, các cơ quan hữu quan xây dựng các
cơ chế, chính sách, các quy định và thực hiện các nhiệm vụ được xác định trong
Nghị quyết về quản lý Nhà nước đối với văn học, nghệ thuật”. Việc triển khai
thực hiện Nghị quyết 23 trong giai đoạn 2008-2013 có những điều kiện thuận lợi
và khó khăn như sau:
1. Thuận lợi:
- Chính trị ổn định, kinh tế, xã hội có bước phát triển đáng kể, đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt;
- Đảng và Nhà nước luôn coi trọng phát triển văn học, nghệ thuật, coi văn
học, nghệ thuật là lĩnh vực đặc biệt tinh tế của văn hóa, đã có hành lang pháp lý
khuyến khích văn học, nghệ thuật phát triển mặc dù chưa đồng bộ;
- Đội ngũ văn nghệ sĩ Việt Nam gồm nhiều thế hệ nối tiếp nhau có truyền
thống yêu nước, tâm huyết với nghề;
- Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, các phương tiện truyền
thông là điều kiện thuận lợi để phổ biến, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ
thuật;
- Văn học, nghệ thuật Việt Nam có sự giao lưu với các nước thông qua quá
trình hội nhập quốc tế.
2. Khó khăn:
- Cơ sở pháp lý khuyến khích phát triển văn học, nghệ thuật còn chưa đồng
bộ. Các chế độ ưu đãi cho văn nghệ sĩ còn thấp, chưa tương xứng với sức lao
động sáng tạo văn học, nghệ thuật của văn nghệ sĩ;
- Công tác quản lý Nhà nước ở nhiều lĩnh vực văn học, nghệ thuật còn nhiều
bất cập. Nhận thức về vai trò của văn học, nghệ thuật ở nhiều cấp lãnh đạo, quản
lý còn chưa đầy đủ. Hiệu quả đầu tư cho văn học, nghệ thuật chưa cao;
- Ngân sách Nhà nước đầu tư cho văn học, nghệ thuật còn hạn chế;
- Nền kinh tế nước ta trong những năm gần đây chịu ảnh hưởng chung của
suy thoái kinh tế toàn cầu. Bối cảnh khó khăn đó đã tác động đến tư tưởng, đời
sống tinh thần của nhân dân nói chung, đời sống văn học, nghệ thuật nói riêng;
Từ những đặc điểm tình hình trên, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng;
sự quản lý, điều hành của chính quyền các cấp; sự nỗ lực, cố gắng của các cơ
quan, tổ chức từ Trung ương đến địa phương, công tác triển khai thực hiện Nghị
quyết 23 đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch triển khai thực hiện và đã đạt
được một số kết quả nhất định.
II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN:
1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện Nghị quyết:
3
- Ban Cán sự Đảng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cấp ủy cấp trên và các
tổ chức Đảng trong cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ đã chủ động tích cực triển khai
thực hiện kế hoạch tuyên truyền phổ biến Nghị quyết 23 trong hệ thống chính trị,
cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và người lao động.
- Bộ đã xây dựng Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 23, phân
công nhiệm vụ cụ thể đến các đơn vị thuộc Bộ thực hiện xây dựng/sửa đổi, bổ
sung các văn bản quy phạm pháp luật triển khai Nghị quyết 23 (Thông báo số
207/TB-VP ngày 12/7/2010 của Văn phòng Bộ thông báo kết luận của Bộ trưởng
Hoàng Tuấn Anh về thực hiện Nghị quyết 23). Các cơ quan, đơn vị được giao
nhiệm vụ đã chủ động, tập trung xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp
luật theo sự phân công nhiệm vụ của Ban Tuyên giáo Trung ương và theo yêu cầu
công tác quản lý Nhà nước về văn học, nghệ thuật.
2. Kết quả thực hiện những nhiệm vụ của Nghị quyết:
2.1. Công tác xây dựng cơ chế chính sách đối với văn học, nghệ thuật:
- Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã chủ động phối hợp với các cơ quan
liên quan như Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam,
Bộ Thông tin và Truyền thông… xây dựng các đề án trình Chính phủ và Thủ
tướng Chính phủ. Bộ đã triển khai xây dựng 05 đề án được phân công tại Công
văn số 73-KH/BTGTW ngày 9 tháng 4 năm 2009 của Ban Tuyên giáo Trung
ương về “Kế hoạch triển khai thực hiện các đề án Nghị quyết số 23-NQ/TW của
Bộ Chính trị về văn học, nghệ thuật”. Đến nay, các đề án này đã hoàn thành và
được thể chế hóa bằng các văn bản của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ (chi
tiết tại Phụ lục 1 đính kèm).
Bên cạnh các đề án cụ thể được Ban Bí thư và Ban Tuyên giáo Trung ương
giao xây dựng để triển khai thực hiện Nghị quyết 23, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch đã chủ động phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng các văn bản, đề
án trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về văn
học, nghệ thuật. Trong giai đoạn từ năm 2009 đến 2012, có 27 văn bản pháp quy
do Bộ chủ trì xây dựng trình các cấp có thẩm quyền ban hành bao gồm: 03 Luật,
08 Nghị định Chính phủ, 05 Quyết định và 01 Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ
và 11 Thông tư và văn bản hướng dẫn. Các luật đã được Quốc hội thông qua
gồm: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ (năm 2009), Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản Văn hóa (năm 2009), Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Điện ảnh (năm 2009) (chi tiết tại Phụ lục 2 đính
kèm).
Tiếp đó, trong năm 2012, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch được phân công
chủ trì xây dựng 05 đề án triển khai Nghị quyết số 40/NQ-CP của Chính phủ về
“Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội
hóa một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công”. Nghị quyết 40/NQ-CP góp phần
đẩy nhanh việc thể chế hóa Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị thông qua mục tiêu
đổi mới các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động dịch
vụ công như: hoạt động tổ chức biểu diễn nghệ thuật của các nhà hát, việc đặt
hàng các tác phẩm điện ảnh, hoàn thiện quy hoạch mạng lưới rạp chiếu phim, các
4
thiết chế văn hóa, khu văn hóa vui chơi giải trí phục vụ cộng đồng giai đoạn
2011-2020.…Hiện nay, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đang khẩn trương phối
hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng các đề án được phân công để đảm bảo
tiến độ hoàn thành trình Chính phủ trong năm 2013 (chi tiết 05 đề án tại Phụ lục
3 đính kèm).
2.2. Thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về văn học, nghệ thuật
2.2.1. Công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc trong lĩnh vực
văn học, nghệ thuật:
- Công tác quản lý nhà nước trong việc bảo tồn phát huy di sản văn hóa dân
tộc được triển khai quyết liệt, đạt hiệu quả tốt. Các văn bản pháp quy do Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì xây dựng trình các cấp có thẩm quyền ban hành
như Luật sửa đổi, bổ sung Luật Di sản văn hóa, Nghị định số 98/2010/NĐ-CP
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ
sung Luật Di sản văn hóa, Thông tư số 04/2010/TT-BVHTTDL của Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch quy định việc kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể và lập hồ sơ
khoa học di sản văn hóa phi vật thể để đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật
thể quốc gia….
- Công tác bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể trong lĩnh vực văn học, nghệ
thuật đã đạt được những thành tựu đáng kể. Nhiều di sản văn hóa phi vật thể của
Việt Nam đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với các địa phương
lập hồ sơ đề nghị và được Unesco công nhận đưa vào danh sách là Di sản văn hóa
phi vật thể của nhân loại và danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ
khẩn cấp như Quan họ Bắc Ninh (năm 2009), hát Ca trù (năm 2009), hát Xoan ở
Phú Thọ (2011).
- Nhiều hoạt động giới thiệu di sản văn học, nghệ thuật của Việt Nam với
thế giới được tổ chức hiệu quả như: Triển lãm “Nghệ thuật cổ Việt Nam- từ châu
thổ ra biển lớn”, triển lãm Nghề thủ công truyền thống và Văn hóa Việt Nam tại
Hàn Quốc….
2.2.2. Bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan:
- Công tác bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan được đẩy mạnh với việc
ban hành một loạt các văn bản pháp quy trong lĩnh vực như: Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, Nghị định số 47/2009/NĐ-CP quy định
xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan, Nghị định số
85/2011/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số 100/2006/NĐ-CP quy định chi tiết
hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ Luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền
tác giả, quyền liên quan….
Bên cạnh đó, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tăng cường công tác tuyên
truyền giáo dục pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan. Từ năm 2008, Bộ đã
tổ chức quán triệt tới các đơn vị, địa phương trên cả nước Chỉ thị số 36/2008/CT-
TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý và thực thi bảo hộ quyền
tác giả, quyền liên quan. Nhiều hội thảo đã được tổ chức như Hội thảo tập tuấn
Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan, Hội thảo “Quyền của người
5
biểu diễn” tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh (2010), Hội thảo “Phát triển
công nghiệp sáng tạo” (phối hợp với Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới WIPO tổ
chức năm 2010), Hội thảo “Bảo hộ quyền tác giả trong phát triển ngành công
nghiệp phần mềm và âm nhạc” (phối hợp với Ủy ban quyền tác giả Hàn Quốc tổ
chức năm 2010), Hội thảo “Quản lý tập thể về quyền tác giả, quyền liên quan)
(phối hợp với WIPO và chính phủ Nhật bản tổ chức năm 2010)…
Bình quân mỗi năm, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp khoảng 4000
Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan, xử lý và giải quyết 20-
40 đơn thư khiếu nại tố cáo về quyền tác giả, quyền liên quan.
2.2.3. Nghệ thuật biểu diễn:
- Chủ trì xây dựng một số văn bản pháp quy trong lĩnh vực trình các cấp có
thẩm quyền ban hành như: Nghị định số 79/2012/NĐ-CP của Chính phủ về biểu
diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh
doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu...
- Thực hiện có hiệu quả công tác kiểm duyệt, thẩm định nội dung và kiểm
tra các chương trình nghệ thuật ca, múa, nhạc, sân khấu, thời trang..., cấp phép
cho các đoàn nghệ thuật, ca sĩ đi biểu diễn ở nước ngoài và từ nước ngoài về Việt
Nam biểu diễn. Riêng trong năm 2011, Bộ đã cấp 6.930.000 tem nhãn, 289 giấy
phép công diễn, 10 giấy phép phát hành băng đĩa, duyệt 415 chương trình, băng
đĩa, lưu chiểu, cấp phép 533 nghệ sĩ là người nước ngoài và 35 đoàn nghệ thuật,
12 ban nhạc nước ngoài vào Việt Nam biểu diễn, 47 đoàn nghệ thuật Việt Nam và
194 nghệ sĩ Việt Nam ra nước ngoài giao lưu và biểu diễn nghệ thuật. Thẩm định,
cho phép nhập khẩu 75 chương trình băng đĩa ca nhạc của các nước, cho phép
phổ biến tại Việt Nam 300 ca khúc do người Việt Nam sáng tác trước năm 1975...
Việc bảo tồn các loại hình văn hóa nghệ thuật truyền thống được chú trọng
thông qua việc tổ chức các chương trình liên hoan biểu diễn nghệ thuật như “Liên
hoan Hợp xướng quốc tế lần thứ I” tại Hội An- Quảng Nam, “Liên hoan sân khấu
dân ca kịch Bài chòi toàn quốc”, “Liên hoan múa rối dân gian toàn quốc” “Liên
hoan sân khấu chèo về đề tài hiện đại”. Các cuộc liên hoan thu hút từ 200-500
nghệ sĩ, diễn viên tham gia, nhiều chương trình, tiết mục tham gia liên hoan đạt
chất lượng cao, được dàn dựng công phu, phong phú về đề tài, đa dạng về thể
loại.
- Các chương trình nghệ thuật phục vụ nhiệm vụ chính trị, biểu diễn phục vụ
đồng bào, động viên chiến sĩ vùng biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa được tổ
chức thực hiện trên cả nước như: chương trình phục vụ Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng, chương trình nghệ thuật biểu diễn phục vụ động viên
bộ đội Trường Sa và DK1, chương trình phục vụ tuyên truyền bầu cử Quốc hội
khóa XIII, bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016.
- Công tác giao lưu quốc tế được đẩy mạnh, gắn kết chặt chẽ giữa biểu diễn
nghệ thuật với chương trình xúc tiến du lịch và quảng bá nghệ thuật Việt Nam ra
thế giới. Một số chương trình tiêu biểu đã được tổ chức như: chương trình nghệ
thuật đón các nguyên thủ sang thăm Việt Nam, chào mừng Hội nghị cấp cao
ASEAN, chương trình nghệ thuật các ngày Văn hóa Việt Nam tại các nước trên
6
thế giới và biểu diễn giao lưu văn hóa tại các nước như Pháp, Đức, Cuba, Mexico,
Trung quốc, Tây Ban Nha, Nhật bản..., “Liên hoan Ca múa nhạc ba nước Việt
Nam- Lào- Campuchia”, chương trình hòa nhạc Henessy cổ điển, chương trình
nghệ thuật Italia,...
- Đối với hoạt động biểu diễn nghệ thuật ở các địa phương: các đơn vị nghệ
thuật địa phương đã khắc phục khó khăn, xây dựng nhiều chương trình mới góp
phần tuyên truyền, tôn vinh nghệ thuật truyền thống, định hướng đường lối văn
nghệ của Đảng.
2.2.4. Lĩnh vực Điện ảnh:
- Một số văn bản pháp quy đã được ban hành như Luật sửa đổi bổ sung một
số điều của Luật Điện ảnh, Nghị định số 54/2010/NĐ-CP quy định chi tiết thi
hành Luật Điện ảnh và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện ảnh,
Thông tư số 08/2010/TT-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy
định tổ chức và hoạt động của Hội đồng thẩm định phim của Đài truyền hình, đài
phát thanh- truyền hình…
- Chỉ đạo thực hiện có hiệu quả hoạt động điện ảnh gắn với các ngày lễ, kỷ
niệm của đất nước như: các tuần phim tuyên truyền phục vụ nhiệm vụ chính trị
trên phạm vi cả nước, các buổi giao lưu giữa nghệ sĩ với khán giả trong đó Những
ngày phim Việt Nam chào mừng Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long- Hà Nội
tổ chức trên 63 tỉnh- thành thu hút hàng chục ngàn lượt khán giả tới thưởng thức
và giao lưu.
- Tổ chức chiếu phim và giới thiệu điện ảnh Việt Nam ở nước ngoài đã
mang lại hiệu quả thiết thực. Nhiều tác phẩm, tác giả, nghệ sĩ điện ảnh Việt Nam
được tôn vinh tại các nước có nền điện ảnh phát triển. Các Liên hoan phim quốc
tế được tổ chức tại Việt Nam đã tạo cơ hội cho các nghệ sĩ trong nước trao đổi,
giao lưu với các nghệ sĩ quốc tế.
- Công tác đầu tư đặt hàng sản xuất các tác phẩm điện ảnh được thực hiện
hàng năm đã tạo ra một nguồn phim điện ảnh có chất lượng, có tính thẩm mỹ và
định hướng chính trị. Các bộ phim do Nhà nước đặt hàng chiếm tỉ trọng lớn trong
các tác phẩm điện ảnh đạt giải cao tại các Liên hoan phim trong nước. Nhiều bộ
phim do Nhà nước đầu tư đã đạt được các giải thưởng quốc tế như: phim “Chơi
vơi” (đạo diễn Bùi Thạc Chuyên”) đoạt giải khán giả tại Liên hoan phim quốc tế
Venice- Italia, phim “Đừng đốt” (đạo diễn Đặng Nhật Minh) đoạt giải tại Liên
hoan phim Fukuoka- Nhật Bản, phim “Trăng nơi đáy giếng” đoạt 3 giải thưởng
tại Liên hoan phim- Văn hóa Á châu tại Lion- Pháp.... Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch đang phối hợp với Bộ Tài chính để ban hành Thông tư về đấu thầu, đặt
hàng sản xuất phim nhằm nâng cao chất lượng sản xuất phim và tạo “sân chơi”
công bằng với mọi thành phần kinh tế.
- Hệ thống cụm rạp chiếu phim, cơ sở chiếu bóng có nhiều cố gắng đầu tư
theo xu hướng phát triển công nghệ, kỹ thuật. Trung tâm Chiếu phim quốc gia
khai trương phòng chiếu 4D cảm giác mạnh, Lào cai, Hà Giang đã xây dựng
phòng chiếu phim 3D, lồng ghép tuyên truyền bằng tiếng dân tộc…
7
- Hoạt động kiểm tra, kiểm duyệt hoạt động điện ảnh trên toàn quốc được
thực hiện nhằm đảm bảo đúng định hướng và quy định của pháp luật.
2.2.5. Lĩnh vực Mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm:
- Hoàn thiện dự thảo Nghị định quản lý hoạt động mỹ thuật trình Chính phủ
phê duyệt, xây dựng Quy hoạch phát triển ngành mỹ thuật đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030, Thông tư hướng dẫn hoạt động nhiếp ảnh…
- Thực hiện tốt công tác cấp phép cho các triển lãm mỹ thuật, nhiếp ảnh, xây
dựng tượng đài. Tổ chức thành công các cuộc triển lãm trong phạm vi cả nước và
quốc tế như Triễn lãm Mỹ thuật toàn quốc với gần 5000 tác phẩm của các họa sỹ,
nhà điêu khắc trong cả nước tham dự, Triển lãm mỹ thuật thiếu nhi toàn quốc tại
Hà Nội và Hải phòng, Triển lãm Festival Mỹ thuật trẻ, Triển lãm ảnh nghệ thuật
quốc tế FIAP tại Việt Nam với 42 quốc gia và khu vực lãnh thổ tham gia, Triển
lãm tranh sơn mài tại Bắc Kinh và Tân Cương- Trung quốc….
2.2.6. Công tác phát triển văn học, nghệ thuật:
- Tập trung xây dựng và ban hành các văn bản quản lý Nhà nước nhằm
thống nhất, đồng bộ về tổ chức, hoạt động và tiêu chí mô hình Trung tâm Văn
hóa-Thể thao các cấp như: Thông tư quy định Quy chế về tổ chức và hoạt động
của tổ chức sự nghiệp hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch quận,
huyện, thị xã, thành phối trực thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
Thông tư quy định tiêu chí của Trung tâm Văn hóa- Thể thao quận, huyện, thị xã,
thành phố trực thuộc tỉnh.
- Các ngày lễ lớn, sự kiện chính trị trọng đại của đất nước được tổ chức tốt,
tạo không khí vui tươi, phấn khởi, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo
của Đảng. Hoạt động văn hóa, văn nghệ phát triển rộng khắp ở cơ sở, chất lượng
các cuộc thi, hội diễn, liên hoan được nâng lên ngày càng thu hút đông đảo lực
lượng công chúng tham gia, đáp ứng tốt nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần của
mọi tầng lớp dân cư.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của các đội tuyên truyền lưu động ở các địa
phương, vai trò của Trung tâm Văn hóa cấp tỉnh đối với cơ sở.
- Công tác xây dựng phát triển văn hóa (trong đó có văn học nghệ thuật)
vùng đồng bào dân tộc thiểu số được chú trọng. Nhiều hoạt động văn hóa, nghệ
thuật được tổ chức đã tạo điều kiện để đồng bào các dân tộc giao lưu học hỏi lẫn
nhau với không khí phấn khởi, tin tưởng vào các chủ trương chính sách của Đảng
và Nhà nước, góp phần gìn giữ, phát huy bản sắc dân tộc trong văn học, nghệ
thuật như: Tổ chức Ngày hội Văn hóa, Thể thao và Du lịch các dân tộc vùng
Đồng Bắc lần thứ VII tại Phú Thọ.... Tiếp tục nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ
văn học, nghệ thuật ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số thông qua tổ chức các lớp
tập huấn cho cán bộ văn hóa các xã đặc biệt khó khăn tại các tỉnh Hà Giang,
Thanh Hóa, Gia Lai; thực hiện mục tiêu hỗ trợ phát triển văn học nghệ thuật vùng
sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số qua việc thực hiện tốt dự án sản xuất
và cung cấp sản phẩm văn hóa thông tin phù hợp cho các xã đặc biệt khó khăn, xã
biên giới, xã thuộc 62 huyện nghèo, xã vùng dân tộc trọng điểm.
8
2.2.7. Hợp tác giao lưu quốc tế về văn học, nghệ thuật:
- Tăng cường năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên lĩnh vực đối ngoại và
hợp tác quốc tế về văn học, nghệ thuật. Trong năm 2010-2011, đã có 33 văn bản,
chương trình hợp tác quốc tế được ký kết.
- Công tác hợp tác giao lưu quốc tế về văn học, nghệ thuật đã được đẩy
mạnh theo hướng hiệu quả và thực chất, tận dụng cơ hội và đối phó với những
thách thức mới nhằm thúc đẩy hoạt động đối ngoại phát triển, góp phần vào thành
công chung của hoạt động đối ngoại của Nhà nước. Qua các hoạt động ngoại giao
văn hóa, văn học, nghệ thuật, từng bước góp phần nâng cao uy tín, vị thế và hình
ảnh đất nước, con người, văn hóa nghệ thuật Việt Nam trên thế giới. Nhiều hoạt
động văn học, nghệ thuật quan trọng được tổ chức như: Tháng Việt Nam tại Pháp,
Những ngày văn hóa Việt Nam tại Liên bang Nga, Ukraina, Na Uy và Đan
Mạch…
- Nhiều dự án hợp tác tranh thủ sự hỗ trợ từ các nước được triển khai hiệu
quả trong đào tạo nhân lực, xúc tiến quảng bá. Công tác quảng bá, giới thiệu văn
học nghệ thuật Việt Nam được tiếp tục đẩy mạnh thông qua các lễ hội, các hoạt
động xúc tiến văn hóa, thể thao và du lịch có quy mô lớn tại nước ngoài, thông
qua cơ quan đại diện văn hóa, du lịch tại nước ngoài và trên các phương tiện
nghe, nhìn và truyền thông quốc tế.
2.2.8. Công tác đào tạo, bồi dưỡng tài năng văn học, nghệ thuật:
- Bộ đã hoàn thành trình Thủ tướng Chính phủ và được phê duyệt các đề án
“Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo các trường văn hóa, nghệ thuật”, “Đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, giảng viên trình độ cao trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật
giai đoạn 2010-2020”, “Đào tạo, bồi dưỡng và phát triển tài năng trẻ lĩnh vực văn
hóa nghệ thuật”.
- Công tác quản lý nhà nước về đào tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật
được chú trọng, đạt hiệu quả, tạo sự chuyển biến mới về phát triển nhân lực theo
định hướng của Đảng và Nhà nước. Học sinh, sinh viên các trường văn hóa, nghệ
thuật sau khi tốt nghiệp ra trường phần lớn phát huy được khả năng tại lĩnh vực
công tác. Sinh viên năng khiếu tự khẳng định mình trong học tập, giao tiếp, bộc lộ
tư chất và phát huy khả năng.
- Trong giai đoạn 2008-2012, một số trường văn hóa nghệ thuật được thành
lập như Trường Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật và Du lịch Đà Nẵng, Trường Cao
đăng Văn hóa nghệ thuật và Du lịch Gia Lai, Trường Đại học Văn hóa- Du lịch
Thanh Hóa, trường Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật Hà Tĩnh. Một số cơ sở đào tạo
được cấp có thẩm quyền cho phép mở ngành mới và tuyển sinh như Đại học Văn
hóa Hà Nội tổ chức kỳ thi tuyển sinh bổ sung ngành Sáng tác Văn học, Trường
Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Nghệ An mở thêm 06 chuyên ngành đào tạo.
- Hoàn thành việc xây dựng 20 chương trình khung giáo dục đại học, trong
đó có 9 đại học, 11 cao đẳng, đến nay các chương trình khung này đã được Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành để các trường Văn hóa Nghệ thuật trong cả nước
triển khai thực hiện.
9
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG:
1. Những thành tựu đạt được:
- Hoàn thành các đề án do Ban Tuyên giáo Trung ương phân công triển
khai thực hiện Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị, xây dựng danh mục các đề án cụ
thể và phân công tới các cơ quan, đơn vị xây dựng/sửa đổi, bổ sung các văn bản
pháp quy triển khai Nghị quyết 23.
- Công tác xây dựng pháp luật đạt thành tích tốt với 03 dự án luật đã hoàn
thành và trình Quốc hội thông qua. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ và của Bộ được ban hành, tiếp tục hoàn thiện hệ thống
pháp luật trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật.
- Một số đề xuất, chính sách đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt có ý nghĩa kịp thời động viên văn nghệ sĩ hoạt động trong lĩnh vực văn học
nghệ thuật như: bổ sung 30 tỷ đồng để hỗ trợ cho các hoạt động sáng tạo của Uỷ
ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam và các Hội Văn
học nghệ thuật chuyên ngành ở trung ương, địa phương trong năm 2010; điều
chỉnh tăng kinh phí giải thưởng văn học, nghệ thuật hàng năm, trước hết là năm
2010 cho Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam và
các Hội Văn học nghệ thuật chuyên ngành ở trung ương.
- Qua 05 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 23, lĩnh vực văn học, nghệ
thuật về cơ bản có những chuyển biến tích cực. Các hoạt động văn học, nghệ
thuật có tính chuyên nghiệp hơn, có bước phát triển mới, số lượng tác phẩm có
giá trị đạt giải thưởng khu vực, quốc gia tăng lên đáng kể. Công tác lý luận phê
bình có chuyển biến tích cực, hoạt động phổ biến, sáng tác tác phẩm đa dạng,
phong phú. Các hoạt động phong trào có bước phát triển sâu rộng, thu hút ngày
càng đông các nghệ sĩ, tầng lớp nhân dân tham gia sáng tác, phục vụ có hiệu quả
các sự kiện chính trị, góp phần định hướng tư tưởng, thẩm mỹ của nhân dân.
- Các hoạt động văn học, nghệ thuật có sự đổi mới trong tổ chức và dàn
dựng, chất lượng nghệ thuật được nâng lên, gắn kết chặt chẽ, phục vụ hiệu quả
chính sách phát triển kinh tế- xã hội của các địa phương. Một số chương trình,
hoạt động văn hóa, nghệ thuật lớn tạo được ấn tượng tốt trong nhân dân. Mức
hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật của đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa
được cải thiện.
- Công tác xã hội hóa các hoạt động văn hóa, nghệ thuật được đẩy mạnh.
Ngày càng có nhiều tổ chức xã hội và cá nhân tham gia vào công tác bảo vệ và
phát huy giá trị văn học, nghệ thuật.
- Công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa phi vật thể trong lĩnh vực văn
học, nghệ thuật được triển khai tích cực.
- Công tác phối hợp giữa cơ quan quản lý Nhà nước đối với các Hội văn
học, nghệ thuật đã có sự gắn kết, phối hợp chặt chẽ hơn.
10
- Ý thức pháp luật và thực thi pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan
đã có những chuyển biến nhất định. Công tác thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm
trong lĩnh vực bản quyền tác giả được tập trung triển khai thực hiện.
- Hoạt động giao lưu hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật
được đẩy mạnh. Nhiều văn bản hiệp định, điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế về
phát triển văn hóa, nghệ thuật được ký kết và triển khai thực hiện.
2. Những khó khăn, tồn tại:
- Công tác thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng ở một số lĩnh
vực còn chậm, một số văn bản hướng dẫn Luật chậm ban hành hoặc đã ban hành
nhưng chưa cụ thể, chưa theo kịp những biến động của thực tiễn nên hiệu quả
thực hiện còn thấp. Nhiều chính sách, quy định đã ban hành nhưng chưa đi vào
đời sống. Việc ban hành các văn bản pháp quy ở nhiều khâu còn thiếu đồng bộ.
- Một số cơ chế chính sách phát triển văn học, nghệ thuật bộc lộ những bất
cập không còn phù hợp với thực tiễn nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung, thay thế
như chính sách đối với đội ngũ cán bộ làm công tác văn học nghệ thuật ở cơ sở,
chế độ đối với diễn viên, nghệ sĩ hết tuổi nghề nhưng chưa đến tuổi nghỉ hưu....
Các chính sách về lương, phụ cấp đối với văn nghệ sĩ nhìn chung còn thấp, chưa
bù đắp được công sức sáng tạo. Đời sống văn nghệ sĩ nhìn chung còn khó khăn
nên nhiều nghệ sĩ chưa toàn tâm toàn ý cho các hoạt động nghệ thuật do phải tự
“bươn chải”, mưu sinh ….
- Đội ngũ cán bộ quản lý văn học, nghệ thuật ở cơ sở vẫn trong tình trạng
vừa thiếu và biến động nhiều, chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ. Hiệu lực, hiệu quả
của công tác quản lý Nhà nước ở một số lĩnh vực chưa cao.
- Mức đầu tư ngân sách cho lĩnh vực văn học, nghệ thuật còn thấp, chưa đáp
ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật cho thiết chế
văn hóa, nghệ thuật ở cơ sở còn thiếu. Chế độ đãi ngộ, đầu tư còn hạn chế, thiếu
tính động viên khuyến khích.
- Hoạt động văn học, nghệ thuật mặc dù có sự chuyển biến nhưng chưa
đồng bộ giữa các khâu sáng tác, phổ biến, tiêu thụ, lưu giữ tác phẩm. Số lượng tác
phẩm khá lớn nhưng chưa có nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ
thuật. tác giả thực sự tiêu biểu ở từng lĩnh vực còn ít. Nhiều tác phẩm văn học,
nghệ thuật được Nhà nước đặt hàng, tài trợ chậm tiến độ, chưa đạt được giá trị
mong muốn.
- Công tác xã hội hóa các hoạt động văn hóa, nghệ thuật còn hạn chế, việc
huy động các nguồn lực phục vụ hoạt động văn hóa, nghệ thuật của nhiều địa
phương, đặc biệt là các tỉnh miền núi, biên giới còn nhiều khó khăn. Chưa có
nhiều sản phẩm văn hóa, nghệ thuật đến được các vùng sâu, vùng xa, miền núi,
hải đảo và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Sự chênh lệch về mức hưởng thụ văn
hóa, nghệ thuật giữa vùng đô thị với vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc
còn nhiều cách biệt.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ văn nghệ sĩ còn nhiều bất cập, hiệu
quả chưa cao. Trong một số lĩnh vực đào tạo văn học, nghệ thuật, mô hình đào
tạo còn lạc hậu, giáo trình chưa đầy đủ và đồng bộ, lực lượng giảng viên thiếu,
11
không chuyên nghiệp do thỉnh giảng nhiều…Chưa có những biện pháp hữu hiệu
phát hiện và bồi dưỡng nhân tài. Các ngành nghề đào tạo có mở rộng, bổ sung
nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Một số ngành đào tạo nghệ thuật
như: múa, xiếc, sân khấu truyền thống… gặp khó khăn trong công tác tuyển sinh
do thiếu đầu vào.
- Số tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị của Việt Nam được giới thiệu ra
nước ngoài còn hạn chế. Mặc dù có sự chuẩn bị về nội dung, nghệ thuật và đã đạt
được những thành quả nhất định trong công tác quảng bá, giới thiệu hình ảnh Việt
Nam trên trường quốc tế nhưng so với yêu cầu thực tiễn, các hoạt động văn hóa,
nghệ thuật của Việt Nam ở nước ngoài chưa được triển khai có hệ thống và
thường phân tán, thiếu tính liên kết để tạo hiệu quả tổng thể. Chưa có kế hoạch
phối hợp đồng bộ giữa các Bộ, ngành địa phương và các tổ chức đối ngoại nhân
dân.
3. Nguyên nhân của những khó khăn tồn tại:
3.1. Nguyên nhân chủ quan:
- Năng lực xây dựng và ban hành các văn bản pháp quy của một số cơ quan,
đơn vị chức năng còn hạn chế do hạn chế về chỉ tiêu biên chế cán bộ cũng như
năng lực cán bộ.
- Việc thực thi các văn bản pháp quy còn nhiều bất cập chủ yếu do nhận thức
và ý thức chấp hành pháp luật của một số cơ quan, đơn vị, cá nhân chưa đầy đủ.
- Công tác quản lý hoạt động văn học, nghệ thuật ở nhiều cơ quan, đơn vị
chưa hiệu quả. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, giữa các cơ quan quản lý
nhà nước với các Hội Văn học, nghệ thuật chưa thực sự chặt chẽ và thường
xuyên.
- Ý nghĩa, vị trí, vai trò của các hoạt động văn học, nghệ thuật trong xây
dựng và phát triển kinh tế- xã hội có lúc, có nơi vẫn chưa được các cấp ủy Đảng,
chính quyền và nhân dân nhận thức đúng đắn nên chưa quan tâm chỉ đạo, lãnh
đạo đầu tư thỏa đáng.
- Công tác đào tạo còn chưa hiệu quả do phương pháp giảng dạy và học tập
còn chậm đổi mới, không đồng bộ và thiếu cập nhật.
- Công tác quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật của Việt Nam ra nước
ngoài còn hạn chế do việc xây dựng kế hoạch, chương trình tổng thể để quảng bá
các tác phẩm văn học, nghệ thuật còn thiếu chủ động, thiếu định hướng lâu dài.
Nguồn nhân lực thiếu hụt, năng lực hạn chế nên chất lượng tiết mục và tác phẩm
trong các chương trình văn hóa, nghệ thuật chưa đạt hiệu quả như mong muốn.
3.2. Nguyên nhân khách quan:
- Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp, luôn biến động, chưa
chịu tác động mạnh của xu hướng kinh tế thị trường và tiến bộ khoa học công
nghệ nên nhiều văn bản pháp quy mới ban hành trong thời gian ngắn đã không
còn phù hợp (ví dụ Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
12
quyền tác giả và các quyền liên quan), đòi hỏi công tác xây dựng các văn bản
pháp quy phải liên tục cập nhật, điều chỉnh.
- Ngân sách Nhà nước và đầu tư xã hội cho các hoạt động văn học, nghệ
thuật còn thấp. Đặc biệt, trong giai đoạn 2009 đến nay, nền kinh tế Việt Nam chịu
ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới nên ngân sách chi tiêu công cho lĩnh vực
văn học, nghệ thuật được ngân sách hỗ trợ còn thấp so với nhu cầu.
- Công tác đào tạo trong các ngành nghệ thuật thiếu đầu vào khi tuyển sinh
do các ngành học này vất vả, đòi hỏi năng khiếu thực sự, nhưng công tác đầu ra
không đảm bảo, tuổi nghề hoạt động nghệ thuật không dài, thu nhập từ văn học,
nghệ thuật còn thấp, chưa đảm bảo đời sống. Chất lượng đào tạo, đặc biệt là các
ngành mỹ thuật, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, múa, xiếc còn bất cập do ngân sách
chi cho đào tạo nghệ thuật hạn hẹp, khả năng tự chủ của nhà trường bị hạn chế
trong khi các ngành nghệ thuật đòi hỏi chi phí đào tạo lớn.
Phần thứ hai
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP TIẾP TỤC THỰC HIỆN NGHỊ
QUYẾT SỐ 23-NQ/TW TRONG THỜI GIAN TỚI NĂM 2015
I . Phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp:
1. Phương hướng, nhiệm vụ:
- Đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện nghiêm
túc, hiệu quả Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII
và các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa, văn học,
nghệ thuật.
- Tiếp tục kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo của các cơ quan
quản lý Nhà nước về văn học, nghệ thuật.
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tạo hành lang
pháp lý cho văn học, nghệ thuật phát triển. Tăng cường phổ biến pháp luật, hướng
dẫn, khuyến khích quần chúng tham gia sáng tạo, bảo tồn, truyền dạy và phát huy
các giá trị văn học, nghệ thuật truyền thống của dân tộc.
- Đầu tư cho công tác sáng tác, sưu tầm, gìn giữ, quảng bá trong và ngoài
nước những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị.
- Tăng cường xây dựng, nâng cấp đồng bộ hệ thống cơ sở vật chất cho các
thiết chế văn hóa, đặc biệt là cấp cơ sở.
- Tạo điều kiện cho hoạt động văn hóa, nghệ thuật phát huy tiềm năng và
trách nhiệm công dân của người nghệ sĩ nhằm tạo ra những tác phẩm có giá trị
cao về tư tưởng và nghệ thuật ngang tầm quốc gia, dân tộc và thời đại.
- Tập trung phát triển đào tạo, bồi dưỡng tài năng văn học nghệ thuật.
- Mở rộng hoạt động giao lưu hợp tác quốc tế, quảng bá giới thiệu văn hóa,
nghệ thuật Việt Nam thông qua hoạt động xúc tiến văn hóa, du lịch; thu hút các
nguồn lực từ bên ngoài hỗ trợ cho sự nghiệp phát triển văn học, nghê thuật.
13
2. Giải pháp:
- Tiếp tục đẩy mạnh công tác lãnh đạo, thực hiện tốt chỉ đạo của Đảng và
Nhà nước đối với văn học, nghệ thuật; tiếp tục phổ biến sâu rộng tinh thần Nghị
quyết 23 đến đông đảo quần chúng nhân dân. Tăng cường bồi dưỡng nâng cao
nhận thức về vai trò, vị trí, đặc trưng của văn học, nghệ thuật trong đời sống xã
hội cho cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống
chính trị, cán bộ trực tiếp chỉ đạo, quản lý lĩnh vực văn học, nghệ thuật.
- Đẩy mạnh việc tổ chức thực hiện 05 đề án triển khai Nghị quyết 23 do Bộ
chủ trì xây dựng đã được Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ban hành.
Sau khi các đề án này được phê duyệt, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phân
công nhiệm vụ cụ thể cho các cơ quan, đơn vị triển khai thực hiện (chi tiết tiến độ
triển khai thực hiện các đề án tại Phụ lục 4 đính kèm).
Trong năm 2013, hoàn thiện trình cấp có thẩm quyền phê duyệt ban hành
30 văn bản, đề án theo chức năng quản lý Nhà nước về văn học, nghệ thuật và 05
đề án triển khai Nghị quyết 40/NQ-CP (chi tiết tại Phụ lục 3 đính kèm)
- Tiếp tục nghiên cứu xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích văn nghệ
sĩ sáng tạo các tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao. Xây dựng cơ chế
chính sách, chế tài ổn định, đáp ứng yêu cầu xã hội hóa các hoạt động văn hóa,
nghệ thuật nhằm động viên, huy động có hiệu quả sức người, sức của của các
tầng lớp nhân dân, các tổ chức kinh tế- xã hội tham gia xây dựng và phát triển
văn học, nghệ thuật. Làm tốt công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển
văn học, nghệ thuật từ địa phương đến trung ương.
- Kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách, tăng
cường đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí cho các hoạt động văn học nghệ thuật. Có
chính sách bồi dưỡng, thu hút nhân tài, chăm lo đãi ngộ đội ngũ văn nghệ sĩ, tạo
điều kiện cho văn nghệ sĩ phát huy tài năng, gắn bó và cống hiến lâu dài. Thực
hiện cơ chế đặt hàng sáng tác, phổ biến các tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá
trị cao.
- Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước và với các Hội
Văn học nghệ thuật trong công tác quản lý, sáng tác và phổ biến các tác phẩm văn
học nghệ thuật. Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch cán bộ ở các cơ quan
quản lý Nhà nước, các Hội Văn học, nghệ thuật để đáp ứng nhu cầu, hiệu quả
công tác quản lý trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật. Tiếp tục kiện toàn tổ chức,
nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hội Văn học nghệ thuật trung ương và địa
phương.
- Tăng mức đầu tư từ ngân sách trung ương và địa phương cho văn học,
nghệ thuật phù hợp với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế đất nước, tiếp tục bảo
đảm kinh phí cho các chương trình mục tiêu phát triển văn hóa, tài trợ đặt hàng
các tác phẩm văn học, nghệ thuật.
- Tập trung hoàn thiện, đổi mới phương thức đào tạo, bồi dưỡng tài năng
văn học, nghệ thuật. Xây dựng hệ thống giáo trình, giáo án toàn diện, nâng cao
trình độ và hoàn thiện đội ngũ giảng viên tại các trường đào tạo văn học, nghệ
thuật.
14
- Quan tâm nghiên cứu khoa học về hoạt động văn học nghệ thuật; kịp thời
phát hiện, phát triển các loại hình văn học nghệ thuật dân gian nhằm bảo tồn giá
trị văn hóa truyền thống của dân tộc
- Thực hiện có hiệu quả các hoạt động triển lãm, giao lưu văn hóa nhằm
giới thiệu những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cho bạn bè trong nước và
quốc tế.
- Tổ chức có hiệu quả các hoạt động văn học nghệ thuật. Đẩy mạnh các hoạt
động sáng tác, phổ biến tác phẩm, lý luận phê bình, phấn đấu sáng tác những tác
phẩm có giá trị cao về quê hương đất nước và con người, truyền thống lịch sử
cách mạng của dân tộc, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tăng
cường sự liên kết giữa Hội Văn học nghệ thuật với các Trung tâm văn hóa, Nhà
văn hóa và các thiết chế văn hóa khác trong việc phổ biến tác phẩm, đưa văn học
nghệ thuật phát triển toàn diện cả bề rộng lẫn bề sâu, góp phần định hướng tư
tưởng, giáo dục thẩm mỹ, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.
- Tiếp tục cải tiến, nâng cao chất lượng các chuyên mục, chuyên đề về văn
học nghệ thuật trên các Đài Phát thanh truyền hình và báo chí; củng cố và mở
rộng mạng lưới phát hành tạp chí sáng tác nghiên cứu phê bình văn học nghệ
thuật.
II. Đề xuất, kiến nghị:
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ quan tâm chỉ đạo, giải quyết một số vấn đề sau:
1. Về chính sách:
- Chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan phối hợp sớm tháo gỡ khó khăn vướng
mắc về chính sách đối với văn nghệ sĩ như: chính sách đối với nghệ sĩ, diễn viên,
vận động viên, huấn luyện viên đã hết tuổi nghề nhưng chưa đến tuổi nghỉ
hưu….Cần quan tâm đến chế độ tiền lương, chế độ nghỉ hưu phù hợp đối với đội
ngũ văn nghệ sĩ (đặc biệt là loại hình nghệ thuật truyền thống).
- Cho phép Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì phối hợp với các Bộ
ngành chức năng xây dựng đề án cải cách toàn diện chế độ chính sách đối với văn
nghệ sĩ trình Thủ tướng phê duyệt theo cơ chế đặc thù (Chế độ nghỉ hưu sớm đối
với nghệ sĩ trong độ tuổi làm việc nhưng không còn khả năng biểu diễn nghệ
thuật; Chế độ lương; Chế độ bồi dưỡng luyện tập, biểu diễn; Phụ cấp ưu đãi nghề;
Chế độ khuyến khích các nghệ sĩ, học sinh, sinh viên theo học các loại hình nghệ
thuật truyền thống).
- Kiến nghị chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan (Nội vụ, Tài chính, Công an,
Giáo dục đào tạo...) quan tâm, phối hợp trong việc xây dựng các chính sách bảo
vệ và phát triển văn học nghệ thuật, nhất là nghệ thuật truyền thống.
- Chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch sửa đổi, bổ sung Nghị định số 61/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng 6 năm 2002
của Chính phủ về chế độ nhuận bút và điều chỉnh quy định về mức chi bồi dưỡng
15
tập luyện, biểu diễn nghệ thuật tại Quyết định số 180/2006/QĐ- TTg ngày 09
tháng 8 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ cho phù hợp với thực tế.
- Bố trí hợp lý thời gian và tiến độ xây dựng các đề án, các văn bản pháp quy
trong các Nghị quyết, Chỉ thị của Chính phủ khi phân công nhiệm vụ cho các Bộ,
ngành và các cơ quan liên quan để đảm bảo tính khả thi.
2. Về nguồn nhân lực:
- Kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan:
+ Cho phép Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ động trong công tác đào
tạo, tuyển chọn, tuyển dụng nhân tài cho lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn kể cả đào
tạo ở nước ngoài.
+ Cho cơ chế đặc thù để Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch làm thí điểm xét
nâng ngạch cho các nghệ sĩ thuộc 12 Nhà hát trực thuộc Bộ, các cơ sở để xây
dựng chính sách chung cho các nghệ sĩ trong lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật của cả
nước.
+ Tạo điều kiện nhiều hơn cho đội ngũ văn nghệ sĩ đi giao lưu, thực tế, tham
gia các trại sáng tác trong nước và quốc tế.
- Kiến nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiên cứu, cho phép các trường năng
khiếu nghệ thuật được tổ chức tuyển sinh không cùng đợt với các trường đại học,
cao đẳng khác trong toàn quốc để bảo đảm nguồn tuyển sinh cho các trường.
- Kiến nghị Bộ Giáo dục đào tạo và các cơ quan liên quan quan tâm đến
công tác định hướng, giáo dục nâng cao ý thức công dân, nhất là học sinh, sinh
viên về tinh thần trách nhiệm với Tổ Quốc trong việc bảo vệ và phát triển văn học
nghệ thuật; phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xây dựng các chính
sách động viên, khuyến khích cho nghệ sĩ, diễn viên và học sinh, sinh viên
chuyên ngành văn họá nghệ thuật, đặc biệt là các bộ môn nghệ thuật truyền
thống.
3. Về thiết chế, cơ sở vật chất, kinh phí:
Kiến nghị Ban Bí Thư, Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ:
- Quan tâm tăng mạnh mức đầu tư phát triển hàng năm cho sự nghiệp văn
hóa nghệ thuật để thực hiện các Nghị định của Chính phủ, các đề án được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt để các văn bản này đi vào cuộc sống.
- Bố trí kinh phí để ứng dụng hiệu quả khoa học, công nghệ, phương tiện
hiện đại, trang thiết bị, máy móc theo công nghệ mới trong lĩnh vực văn họá nghệ
thuật.
- Bố trí kinh phí đầu tư phát triển để xây dựng thiết chế văn hóa hiện đại,
đồng bộ có trọng điểm hệ thống thiết chế văn hóa nghệ thuật như hệ thống Nhà
hát, Rạp chiếu phim để phổ biến tác phẩm văn học nghệ thuật phục vụ nhân dân,
16
đồng thời tạo thị trường khuyến khích các đơn vị nghệ thuật, các hãng phim sản
xuất các tác phẩm nghệ thuật;
- Bố trí kinh phí đầu tư xây dựng các chương trình nghệ thuật, các bộ phim,
các công trình mỹ thuật chất lượng cao;
- Bố trí tăng ngân sách cho các đơn vị quản lý và biểu diễn nghệ thuật ở
Trung ương và địa phương.
- Tăng mức đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về nghệ thuật biểu diễn,
Cho phép khôi phục lại Chương trình mục tiêu quốc gia về Điện ảnh giai đoạn
2015-2020;
- Miễn giảm tiền thuê đất, hạ mức thuế suất hoạt động sản xuất phim, biểu
diễn nghệ thuật và dịch vụ liên quan;
- Hỗ trợ, tạo điều kiện cho công tác quảng bá điện ảnh, phát hành phim trong
nước và nước ngoài.
- Để từng bước thực hiện Đề án "Quy hoạch và Kế hoạch nâng cấp, xây mới
các công trình văn hóa (nhà hát, rạp chiếu phim, nhà triển lãm văn học nghệ
thuật) giai đoạn 2012-2020” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết
định số 88/QĐ-TTg ngày 09/01/2013, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ bố trí trong
năm 2013 khoản kinh phí 500 tỷ đồng để triển khai các công việc cấp bách như
sau:
+ Triển khai công tác chuẩn bị đầu tư: Lập dự án đầu tư nâng cấp, xây mới
một số công trình văn hóa ưu tiên của giai đoạn 1 theo kế hoạch phân kỳ của Đề
án.
+ Đầu tư nâng cấp cho các công trình văn hóa từ quý III năm 2013 khi đã có
điều kiện đầy đủ thủ tục theo quy định hiện hành (dự án được phê duyệt, thiết kế
và tổng dự án..).
4. Về thực thi pháp luật
- Kiến nghị Bộ Thông tin và Truyền thông và các cơ quan liên quan đẩy
mạnh tuyên truyền Nghị quyết 23 trong hệ thống chính trị, lực lượng văn nghệ sĩ
và nhân dân;
- Kiến nghị Bộ Công an và cơ quan chức năng liên quan xử lý triệt để,
nghiêm minh tình trạng vi phạm bản quyền tác giả (băng đĩa lậu, tranh chép...),
bảo vệ quyền lợi hợp pháp đang bị xâm hại trong lĩnh vực nghệ thuật, triển khai
thực hiện tốt các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả. Có như vậy,
các nghệ sĩ và đơn vị nghệ thuật mới yên tâm sáng tạo và cống hiến trong một thị
trường cạnh tranh bình đẳng;
- Kiến nghị Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ
đạo các cơ quan báo chí đẩy mạnh tuyên truyền, định hướng trong việc bảo tồn,
giới thiệu quảng bá và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc đối với văn học, nghệ
thuật, đặc biệt là các loại hình nghệ thuật truyền thống./.
17
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
PHỤ LỤC 1
Kết quả xây dựng 05 đề án của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch triển khai
Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị theo sự phân công của Ban Tuyên giáo
Trung ương
(kèm theo Báo cáo số /BC-BVHTTDL ngày tháng năm 2013 của Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch)
Tên đề án Kết quả thực hiện
1. Đề án
“Xây dựng và rà soát các chế độ chính sách đối với hoạt
động văn học nghệ thuật và văn nghệ sỹ; chế độ tài trợ,
đặt hàng đối với các tác phẩm văn học nghệ thuật; chính
sách khuyến khích sáng tác trong các hoạt động văn học
nghệ thuật”
Đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt
tại Quyết định số
316/QĐ-TTg ngày 01
tháng 3 năm 2011
2. Đề án
“Xây dựng chính sách thẩm định, quảng bá, thuế ưu
đãi... đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật trong
nước; văn hoá phẩm của Việt Nam đưa ra nước ngoài và
giới thiệu tinh hoa văn học, nghệ thuật của thế giới vào
Việt Nam; chính sách sưu tầm, chỉnh lý, bảo tồn, phát
huy, quảng bá di sản văn học, nghệ thuật dân tộc và phát
triển văn học, nghệ thuật quần chúng”
Đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt
tại Quyết định số
645/QĐ-TTg ngày 29
tháng 4 năm 2011
3. Đề án
“Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo của các trường
văn hoá, nghệ thuật giai đoạn 2011-2020”
Đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt
tại Quyết định số
1243/QĐ-TTg ngày
25 tháng 7 năm 2011
4. Đề án
“Trên cơ sở quy hoạch và rà soát, đánh giá lại các công
trình hiện có, xây dựng kế hoạch nâng cấp, xây mới các
công trình văn hoá (nhà hát, rạp chiếu phim, nhà triển
lãm) từ năm 2010-2020”
Đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt
tại Quyết định số
88/QĐ-TTg ngày 09
tháng 01 năm 2013
5. Đề án
“Xây dựng Thông tư hướng dẫn thực hiện Luật Sở hữu
trí tuệ đối với hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật”
Thay thế bằng Đề án “Xây dựng Nghị định hướng dẫn
thi hành Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở
hữu trí tuệ”
Đã được Chính phủ
phê duyệt, ban hành
Nghị định số
85/2011/NĐ-CP ngày
20 tháng 9 năm 2011
18
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
PHỤ LỤC 2
Các văn bản pháp quy đã ban hành về quản lý Nhà nước về văn
học, nghệ thuật (giai đoạn 2009-2012) (kèm theo Báo cáo số /BC-BVHTTDL ngày tháng năm 2013 của Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch)
Quốc hội:
1. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ (năm 2009)
2. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản Văn hóa (năm 2009)
3. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện ảnh (năm 2009)
Chính phủ:
1. Nghị định số 47/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 5 năm 2009 của Chính phủ về
xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan;
2. Nghị định số 54/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 5 năm 2010 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Điện ảnh số 62/QH11 và Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện ảnh số 31/2009/QH12;
3. Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng 7 năm 2010 của Chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa;
4. Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật di sản văn hóa và Luật sửa đổi bổ
sung một số điều của Luật di sản văn hóa;
5. Nghị định số 119/2010/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2010 của Chính phủ
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22
tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định về quản lý nhà nước và bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ;
6. Nghị định số 85/2011/NĐ-CP ngày 20 tháng 9 năm 2011 của Chính phủ sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 9
năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan;
7. Nghị định số 109/2011/NĐ-CP ngày 02 tháng 12 năm 2011 sửa đổi bổ sung
một số điều của Nghị định số 47/2008/NĐ-CP ngày 13 tháng 5 năm 2009 của
Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan;
8. Nghị định số 79/2012/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2012 của Chính phủ quy
định về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người
mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu.
19
Thủ tướng Chính phủ:
1. Quyết định số 958/QĐ-TTg ngày 24 tháng 6 năm 2010 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt đề án “Xây dựng đội ngũ trí thức ngành văn hóa, thể thao và du
lịch giai đoạn 2011-2020”;
2. Quyết định số 369/QĐ-TTg ngày 14 tháng 3 năm 2011 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt đề án “Tiếp tục hỗ trợ hoạt động sáng tạo tác phẩm, công trình
văn học nghệ thuật của các Hội Văn học nghệ thuật chuyên ngành Trung
ương và các Hội Văn học nghệ thuật địa phương, tiếp tục hỗ trợ hoạt động
sáng tạo tác phẩm báo chí chất lượng cao ở Trung ương và địa phương giai
đoạn 2011-2015”;
3. Quyết định số 808/QĐ-TTg ngày 30 tháng 5 năm 2011 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Đề án Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giảng viên trình độ cao trong
lĩnh vực văn hóa nghệ thuật giai đoạn 2011-2020;
4. Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 01 tháng 6 năm 2011 của Thủ tướng Chính
phủ về việc phê duyệt Đề án “Khuyến khích sáng tác và công bố các tác phẩm
văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, phản ánh cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, cứu nước giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước giai đoạn 1930-1975”;
5. Quyết định số 649/QĐ-TTg, ngày 01 tháng 6 năm 2012 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Đề án “Tăng cường năng lực quản lý, thực thi có hiệu quả pháp
luật bảo hộ quyền tác giả quyền liên quan đối với các tổ chức đại diện tập thể
quyền tác giả quyền liên quan tại Việt Nam đến năm 2015”;
6. Chỉ thị số 36/2008/CT-TTg ngày 31 tháng 12 năm 2008 của Thủ tướng Chính
phủ về tăng cường quản lý và thực thi bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch:
1. Thông tư số 02/2011/TTLT/BVHTTDL-BTC ngày 07 tháng 3 năm 2011 của
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Bộ Tài chính hướng dẫn quản lý, sử dụng
kinh phí hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cho hoạt động sáng tạo tác phẩm, công
trình văn học nghệ thuật ở Trung ương và các Hội Văn học nghệ thuật địa
phương giai đoạn 2011 – 2015;
2. Thông tư số 15/2012/TT-BVHTTDL ngày 13 tháng 12 năm 2012 của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch hướng dẫn hoạt động giám định về quyền tác giả,
quyền liên quan;
3. Thông tư số 09/2010/TT-BVHTTDL ngày 24 tháng 08 năm 2010 của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch quy định chi tiết thi hành một số điều tại Nghị định
số 75/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng 7 năm 2010 của Chính phủ quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa;
4. Thông tư số 04/2010/TT-BVHTTDL ngày 30 tháng 6 năm 2010 của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch quy định việc kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể và
20
lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể để đưa vào Danh mục di sản văn
hóa phi vật thể quốc gia;
5. Thông tư số 18/2010/TT-BVHTTDL ngày 31 tháng 12 năm 2010 của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch quy định về tổ chức và hoạt động của bảo tàng;
6. Thông tư số 08/2010/TT-BVHTTDL ngày 18/8/2010 của Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch quy định tổ chức và hoạt động của Hội đồng thẩm định phim
của Đài Truyền hình, Đài Phát thanh- Truyền hình;
7. Thông tư số 17/2012/TT-BVHTTDL ngày 27 tháng 12 năm 2012 của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch quy định triển lãm, thi, liên hoan và sử dụng tác
phẩm nhiếp ảnh;
8. Quyết định số 3248/QĐ-BVHTTDL ngày 10/10/2011 của Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch phê duyệt đề án “Quy hoạch mạng lưới các cơ sở đào tạo văn
hóa nghệ thuật giai đoạn 2011-2020”.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với các Bộ, ngành liên quan:
1. Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BVHTTDL-
BKHCN-BTP ngày 03 tháng 9 năm 2008 hướng dẫn áp dụng một số quy định
của pháp luật trong việc giải quyết các vụ tranh chấp về sở hữu trí tuệ tại Tòa
án nhân dân;
2. Thông tư liên tịch số 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL ngày 19 tháng 6
năm 2012 của Bộ Thông tin truyền thông và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
quy định trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian trong
việc bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan trên môi trường mạng Internet và
mạng viễn thông;
3. Hướng dẫn số 73/BGDĐT-BVHTTDL ngày 16 tháng 1 năm 2013 của Bộ
Giáo dục và Đào tạo và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc sử dụng di
sản văn hóa trong dạy học ở các trường phổ thông và trung tâm giáo dục
thường xuyên.
21
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
PHỤ LỤC 3
Các dự án, đề án do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì xây dựng dự
kiến trình các cấp có thẩm quyền ban hành
trong năm 2013 (kèm theo Báo cáo số /BC-BVHTTDL ngày tháng năm 2013 của Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch)
STT Tên văn bản Tiến độ hoàn
thành
I Các dự án, đề án do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
chủ trì xây dựng theo chức năng quản lý Nhà nước:
1. Luật Thư viện Quý IV/2013
2. Nghị định của Chính phủ về quản lý hoạt động mỹ thuật Quý II/2013
3. Nghị định của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành
chính quyền tác giả, quyền liên quan
Quý II/2013
4. Nghị định của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hoạt động văn hóa, thể thao và du
lịch
Quý II/2013
5. Nghị định của Chính phủ quy định tiêu chuẩn, quy trình,
thủ tục, hồ sơ đề nghị xét tặng danh hiệu “Nghệ sĩ Nhân
dân”, “Nghệ sĩ Ưu tú”
Quý II/2013
6. Nghị định của Chính phủ quy định tiêu chuẩn, quy trình,
thủ tục, hồ sơ đề nghị xét tặng “Giải thưởng Hồ Chí
Minh” và “Giải thưởng Nhà nước” về văn học nghệ thuật
Quý II/2013
7. Nghị định của Chính phủ quy định tiêu chuẩn, quy trình,
thủ tục, hồ sơ đề nghị xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân
Nhân dân”, “Nghệ nhân Ưu tú”
Quý II/2013
8. Nghị định của Chính phủ quy định cơ chế hoạt động và cơ
chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ
chức bộ máy, số người làm việc và tài chính đối với đơn
vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và
du lịch
Quý III/2013
9. Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
61/2002/NĐ-CP của Chính phủ về chế độ nhuận bút cho
tác phẩm văn học, nghệ thuật
Quý IV/2013
22
10. Chiến lược phát triển văn hóa đối ngoại đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030
Quý III/2013
11. Chiến lược phát triển điện ảnh đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2030
Quý III/2013
12. Quy hoạch phát triển điện ảnh đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2030
Quý III/2013
13. Quy hoạch phát triển ngành mỹ thuật đến năm 2020 và
tầm nhìn đến năm 2030
Quý IV/2013
14. Quy hoạch phát triển hệ thống thiết chế văn hóa- thể dục
thể thao cơ sở và cơ sở văn hóa vui chơi, giải trí cho trẻ
em giai đoạn 2012-2020
Quý I/2013
15. Quy hoạch mạng lưới các cơ sở đào tạo văn hóa, thể thao
và du lịch giai đoạn 2011-2020
Quý II/2013
16. Quy hoạch tổng thể phát triển văn hóa, thể thao và du lịch
vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2030
Quý IV/2013
17. Quy hoạch tổng thể phát triển văn hóa, thể thao và du lịch
vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030
Quý IV/2013
18. Quy hoạch ngành nghệ thuật biểu diễn đến năm 2020,
định hướng đến năm 2030
Quý IV/2013
19. Thông tư liên tịch hướng dẫn việc đấu thầu, đặt hàng sản
xuất phim có sử dụng ngân sách Nhà nước
Quý II/2013
20. Thông tư liên tịch hướng dẫn đấu thầu, đặt hàng, giao
nhiệm vụ cung cấp hoạt động biểu diễn nghệ thuật sử
dụng ngân sách nhà nước
Quý II/2013
21. Thông tư hướng dẫn quản lý việc chiếu phim 4D, 5D Quý II/2013
22. Thông tư trả công người làm mẫu vẽ đối với lĩnh vực Mỹ
thuật
2013
23. Thông tư liên tịch (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và
Bộ Tài chính) hướng dẫn chế độ quản lý đặc thù đối với
Đội chiếu bóng lưu động cấp tỉnh, thành phố
2013
24. Đề án Xây dựng Trung tâm Văn hóa Việt Nam ở nước
ngoài giai đoạn 2013-2020
Quý I/2013
25. Đề án về Chính sách quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ
thuật
Quý III/2013
26. Đề án về Chính sách thuế ưu đãi các tác phẩm văn học,
nghệ thuật
Quý III/2013
23
27. Đề án tăng cường mức đầu tư cho kịch bản văn học, nghệ
thuật
Quý III/2013
28. Đề án điều chỉnh mức hỗ trợ tiền ăn của văn nghệ sĩ dự
Trại sáng tác tác phẩm, công trình văn học, nghệ thuật
2013
II. Các đề án triển khai thực hiện Nghị quyết số 40/NQ-
CP của Chính phủ:
1. Đề án “Đổi mới cơ chế tính giá dịch vụ trong lĩnh vực văn
hóa, thể thao”
Quý II/2013
2. Đề án “Xây dựng quy hoạch mạng lưới sân vận động, rạp
chiếu phim, các thiết chế văn hóa, khu văn hóa vui chơi
giải trí phục vụ cộng đồng giai đoạn 2011-2020
Quý II/2013
3. Đề án “Xây dựng cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ cung
cấp đối với các sản phẩm, dịch vụ văn hóa do Nhà nước
yêu cầu”
Quý III/2013
4. Đề án “Xây dựng cơ chế hoạt động và cơ chế tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy,
số người làm việc và tài chính đối với đơn vị sự nghiêp
công lập trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch”
Quý III/2013
5. Đề án “Ban hành hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật và
tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng trong lĩnh vực văn hóa, thể
thao
Quý III/2013
24
BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
PHỤ LỤC 4
Tiến độ xây dựng các đề án nhánh của 05 đề án triển khai thực hiện Nghị
quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị “về việc tiếp tục xây dựng và phát
triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới” của các đơn vị trực thuộc Bộ
(kèm theo Báo cáo số /BC-BVHTTDL ngày tháng năm 2013 của Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch)
STT Tên công việc Đơn vị chủ
trì
Tiến độ
thực hiện
1
Đề án 1: Xây dựng và rà soát các chế
độ chính sách đối với hoạt động văn
học nghệ thuật và văn nghệ sỹ; chế độ
tài trợ, đặt hàng đối với các tác phẩm
văn học nghệ thuật; Chính sách
khuyến khích sáng tác trong các hoạt
động văn học nghệ thuật”
Vụ Kế hoạch,
Tài chính
Quyết định số
316/QĐ-TTg
ngày 01/3/2011
2*
Nghị định của Chính phủ về đổi mới cơ
chế hoạt động và cơ chế tài chính (trong
đó có tiền lương) đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập thuộc ngành văn hóa,
thể thao và du lịch
Vụ Tổ chức
cán bộ
Tờ trình số
229/TTr-
BVHTTDL
ngày 30/11/2009
3 Nghị định của Chính phủ về hoạt động
nghệ thuật biểu diễn
Cục Nghệ
thuật biểu
diễn
Nghị định số
79/2012/NĐ-CP
ngày 15/10/2012
4 Nghị định của Chính phủ về quản lý mỹ
thuật
Cục Mỹ thuật,
Nhiếp ảnh và
Triển lãm
Tờ trình số
29/TTr-
BVHTTDL
ngày 27/2/2012
5
Nghị định hướng dẫn thi hành Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở
hữu trí tuệ
Cục Bản
quyền tác giả
Nghị định số
85/NĐ-CP ngày
20/9/2011
6
Đề án Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giảng
viên trình độ cao trong lĩnh vực văn hóa
nghệ thuật giai đoạn 2011-2020
Vụ Đào tạo
Quyết định số
808/QĐ-TTg
ngày 30/5/2011
7 Đề án Quy hoạch phát triển ngành mỹ
thuật đến năm 2020 tầm nhìn 2030
Cục Mỹ thuật,
Nhiếp ảnh và
Triển lãm
Đang dự thảo
25
8
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về
quy hoạch tượng đài danh nhân anh
hùng dân tộc
Cục Mỹ thuật,
Nhiếp ảnh và
Triển lãm
Ngày 8/4/2011,
Bộ VHTTDL đã
báo cáo Bộ
Chính trị
9
Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện
giao kế hoạch, đặt hàng đấu thầu sản
xuất phim, mua bản quyền phim bằng
ngân sách Nhà nước
Cục Điện ảnh
Đang xin ý kiến
của các cơ quan
có liên quan để
hoàn thiện
10
Thông tư liên tịch hướng dẫn đấu thầu,
đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp hoạt
động biểu diễn nghệ thuật sử dụng ngân
sách nhà nước
Cục Nghệ
thuật biểu
diễn
Đang dự thảo
11*
Đề án trình Thủ tướng Chính phủ ban
hành Quyết định về đào tạo, bồi dưỡng
và phát triển các tài năng trẻ trong lĩnh
vực VHNT
Vụ Đào tạo
Tờ trình số
249/TTr-
BVHTTDL
ngày 6/12/2010
12*
Đề án trình Thủ tướng Chính phủ quyết
định về “Đưa việc giáo dục nghệ thuật
truyền thống vào chương trình giáo dục
tiểu học và trung học cơ sở”
Vụ Đào tạo
Tờ trình số
272/TTr-
BVHTTDL
ngày 21/12/2010
13 Nghị định về xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động văn hóa Vụ Pháp chế
Nghị định số
75/2010/NĐ-CP
ngày 12/7/2010
14 Nghị định hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi
bổ sung một số điều của Luật Điện ảnh Cục Điện ảnh
Nghị định
54/NĐ-CP ngày
21/5/2010
15
Nghị định hướng dẫn thi hành Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Di
sản Văn hóa
Cuc Di sản
văn hóa
Nghị định số
98/2010/NĐ-CP
ngày 21/9/2010
16
Nghị định sửa đổi bổ sung Nghị định số
121/2005/NĐ-CP về việc quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Thi đua- Khen thưởng và Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Thi đua- Khen thưởng (đối với tiền
thưởng cho danh hiệu Nghệ sĩ Nhân
dân, Nghệ sĩ Ưu tú)
Bộ Nội vụ
chủ trì
Vụ Thi đua
khen thưởng
làm đầu mối
phối hợp
Nghị định số
42/2010/NĐ-CP
ngày 15/4/2010
17
Đề án xây dựng cơ chế, giải pháp về nhà
ở (cho thuê hoặc bán) cho các Nghệ sĩ
Nhân dân, Nghệ sĩ Ưu tú hiện đang gặp
nhiều khó khăn về nhà ở
Vụ Kế hoach,
Tài chính
Tờ trình số
135/TTr-
BVHTTDL
ngày 29/6/2010
26
18
Thông tư liên tịch Hướng dẫn thực hiện
đặt hàng xuất bản phẩm sử dụng ngân
sách nhà nước
Bộ Thông tin
và Truyền
thông chủ trì
Vụ KHTC
làm đầu mối
phối hợp
Thông tư liên
tịch số
04/2011/TTLT-
BTTTT-BTC
ngày 10/01/2011
19
Đề án trình Thủ tướng Chính phủ quyết
định về việc đầu tư cho các loại hình
nghệ thuật truyền thống trong chương
trình mục tiêu quốc gia về văn hóa
Vụ Kế hoach,
Tài chính
Lồng ghép trong
CTMTQG về
văn hóa
20 Nghị định của Chính phủ về các Hội
Văn học, Nghệ thuật.
Bộ Nội vụ;
Vụ Tổ chức
cán bộ làm
đầu mối phối
hợp
Nghị định số
45/2010/NĐ-CP
ngày 21/4/2010
quy định về tổ
chức, hoạt động
và quản lý hội
21 Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số
61/2002/NĐ-CP về chế độ nhuận bút
Cục Bản
quyền tác giả
Đang dự thảo,
dự kiến trình
Lãnh đạo Bộ
quý IV/2013
22
Đề án trình Thủ tướng Chính phủ quyết
định về việc đầu tư kinh phí cho các
báo, tạp chí, nhà xuất bản của các Hội
VHNT
Liên hiệp các
Hội VHNT
Việt Nam
Vụ KHTC
làm đầu mối
phối hợp
Đang dự thảo,
dự kiến trình
Thủ tướng
Chính phủ trong
tháng 6/2013
23
Đề án “Tiếp tục hỗ trợ hoạt động sáng
tạo tác phẩm, công trình văn học, nghệ
thuật của các Hội Văn học, nghệ thuật
chuyên ngành Trung ương và các Hội
Văn học, nghệ thuật địa phương. Tiếp
tục hỗ trợ hoạt động sáng tạo tác phẩm
báo chí chất lượng cao ở Trung ương và
địa phương giai đoạn 2011-2015”
Liên Hiệp các
Hội VHNT
Việt Nam
Vụ KHTC
làm đầu mối
phối hợp
Quyết định số
369/QĐ-TTg
ngày 14/3/2011
của TTCP phê
duyệt Đề án
24
Đề án trình Thủ tướng Chính phủ quyết
định về việc trao giải thưởng hàng năm
cho các tác giả trên lĩnh vực VHNT
Liên hiệp các
Hội VHNT
Việt Nam
Vụ KHTC
làm đầu mối
phối hợp
Đang dự thảo,
dự kiến trình
Thủ tướng
Chính phủ trong
tháng 6/2013
27
25 Đề án 2: Đổi mới và nâng cao chất
lượng đào tạo của các trường văn hoá,
nghệ thuật giai đoạn 2011-2020
Vụ Đào tạo
Quyết định số
1243/QĐ-TTg
ngày 25/7/2011
26
Đề án 3: Xây dựng chính sách thẩm
định, quảng bá, thuế ưu đãi... đối với
các tác phẩm văn học, nghệ thuật
trong nước; văn hoá phẩm của Việt
Nam đưa ra nước ngoài và giới thiệu
tinh hoa văn học, nghệ thuật của thế
giới vào Việt Nam; chính sách sưu tầm,
chỉnh lý, bảo tồn, phát huy, quảng bá di
sản văn học, nghệ thuật dân tộc và phát
triển văn học, nghệ thuật quần chúng
Vụ Kế hoạch,
Tài chính
Quyết định số
645/QĐ-TTg
ngày 29/4/2011
27* Chính sách về cơ chế thẩm định các tác
phẩm văn học, nghệ thuật
Vụ Kế hoạch,
Tài chính
Bộ VHTTDL đã
báo cáo tại Công
văn số
866/BVHTTDL-
KHTC ngày
24/3/2011
28 Chính sách về quảng bá các tác phẩm
văn học, nghệ thuật:
Viện Văn hóa
Nghệ thuật
VN
Đang hoàn thiện
29 Chính sách về thuế ưu đãi các tác phẩm
văn học, nghệ thuật
Viện Văn hóa
Nghệ thuật
VN
Đang hoàn thiện
30
Thông tư liên tịch quy định về chế độ,
danh mục và định mức chi phí cho các
hoạt động văn hóa đối ngoại, đặc biệt là
việc tổ chức Tuần Việt Nam ở nước
ngoài, các hoạt động quảng bá văn học,
nghệ thuật, đất nước, con người Việt
Nam ở nước ngoài:
Cục Hợp tác
quốc tế
Thông tư số
102/2012/TT-
BTC ngày
21/6/2012
31 Đề án Bảo tồn và phát huy nghệ thuật
biểu diễn truyền thống đến năm 2020
Viện Văn hóa
Nghệ thuật
VN
Tờ trình số
197/TTr-
BVHTTDL
ngày 24/10/2011
32
Đề án phát triển văn hóa đọc trong cộng
đồng giai đoạn 2011-2020
Vụ Thư viện Đang dự thảo,
dự kiến trình
Lãnh đạo Bộ
quý IV/2013
33 Thông tư quy định chế độ thưởng đặc Vụ Thi đua Đề nghị không
28
thù cho các tác phẩm văn học nghệ thuật
đỉnh cao
khen thưởng ban hành, tránh
chồng chéo với
các văn bản
khác
34
Quy hoạch về thời gian, địa bàn, loại
hình nghệ thuật Việt Nam đi biểu diễn
nước ngoài giai đoạn 2011-2020
Cục Hợp tác
Quốc tế
Tờ trình số
19/TTr-
BVHTTDL
ngày 9/2/2011
35
Chương trình quốc gia về các loại sách
trọng yếu phục vụ công cuộc đổi mới và
phát triển đất nước trong giai đoạn mới
và được Chính phủ, Quốc hội bố trí
ngân sách hàng năm.
Vụ Thư viện
Thực hiện trong
Chương trình
Mục tiêu quốc
gia về văn hóa
hàng năm
36
Đề án 4: Trên cơ sở quy hoạch và rà
soát, đánh giá lại các công trình hiện
có, xây dựng kế hoạch nâng cấp, xây
mới các công trình văn hoá (nhà hát,
rạp chiếu phim, nhà triển lãm) từ năm
2010-2020
Vụ Kế hoạch,
Tài chính
Quyết định số
88/QĐ-TTg
ngày 09/01/2013
37
Đề án 5: Xây dựng Thông tư hướng
dẫn thực hiện Luật Sở hữu trí tuệ đối
với hoạt động văn hoá, văn học, nghệ
thuật
Cục Bản
quyền tác giả
Nghị định số
85/2011/NĐ-CP
ngày 20/9/2011
* Ghi chú:
1. Văn bản số 2: Nghị định của Chính phủ về đổi mới cơ chế hoạt động
và cơ chế tài chính (trong đó có tiền lương) đối với các đơn vị sự nghiệp
công lập thuộc ngành văn hóa, thể thao và du lịch: Văn phòng Chính phủ đã
có Công văn số 1344/VPCP-KGVX ngày 03 tháng 3 năm 2010 nêu rõ ý
kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng: “Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch chủ trì cùng Bộ Tài chính, căn cứ Đề án “Đổi mới cơ chế hoạt
động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại
hình dịch vụ sự nghiệp công” sau khi được Chính phủ phê duyệt, để nghiên
cứu hoàn chỉnh Đề án “Đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính đối
với các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc ngành văn hóa, thể thao và du lịch”,
bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, trình phê duyệt theo quy định”.
2. Văn bản số 11: Đề án trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết
định về đào tạo, bồi dưỡng và phát triển các tài năng trẻ trong lĩnh vực
VHNT: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tổ chức Hội thi tài năng trẻ học
sinh, sinh viên các trường văn hóa, thể thao và du lịch lần thứ nhất năm
2012 tại Đà Nẵng. Thông qua hội thi này đã tuyển chọn các tài năng trẻ để
đưa đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài trong thời gian tới. Hiện nay, Bộ
29
Văn hóa, Thể thao và Du lịch đang thành lập Ban chỉ đạo, Tổ biên tập xây
dựng các dự án, quy chế tuyển chọn cán bộ, giảng viên, giáo viên, học sinh,
sinh viên văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao và du lịch đi đào tạo, bồi
dưỡng ở nước ngoài năm 2013; thành lập hội đồng tuyển chọn cán bộ, giảng
viên, giáo viên, học sinh, sinh viên đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài.
3. Văn bản số 12: Đề án trình Thủ tướng Chính phủ quyết định về “Đưa
việc giáo dục nghệ thuật truyền thống vào chương trình giáo dục tiểu học và
trung học cơ sở”: Trên cơ sở Đề án này, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ
Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xây
dựng và ban hành Hướng dẫn số 73/HD-BGDĐT-BVHTTDL ngày 16 tháng
01 năm 2013 về việc sử dụng di sản văn hóa trong dạy học ở trường phổ
thông, trung tâm giáo dục thường xuyên.
4. Văn bản số 27: Chính sách về cơ chế thẩm định các tác phẩm văn
học, nghệ thuật: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã báo cáo tại Công văn
số 866/BVHTTDL-KHTC ngày 24/3/2011 về việc Đề án trình Thủ tướng
Chính phủ quyết định về việc thẩm định các tác phẩm VHNT trong các
lĩnh vực: Điện ảnh, Nghệ thuật biểu diễn, Mỹ thuật nhiếp ảnh, Xuất bản
và văn học. Trong Công văn nêu rõ: “Tiếp thu ý kiến góp ý của các Cơ quan
liên quan, đặc biệt là ý kiến của Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch thống nhất với quan điểm không nhất thiết phải trình Thủ tướng Chính
phủ quyết định phê duyệt đề án”, vì:
- Việc thẩm định các tác phẩm văn học, nghệ thuật trong các lĩnh vực
điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật nhiếp ảnh, xuất bản và văn học
thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
- Các nội dung mang tính giải pháp của Dự thảo đề án bao gồm việc
ban hành các văn bản thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch.
Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch sẽ tiếp tục nghiên cứu xây dựng, ban
hành các văn bản thuộc thẩm quyền của Bộ, hoàn thiện hệ thống cơ chế
chính sách về thẩm định các tác phẩm văn học, nghệ thuật trong các lĩnh
vực Điện ảnh, Nghệ thuật biểu diễn, Mỹ thuật nhiếp ảnh, Xuất bản và
Văn học
30
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SAU 5 NĂM THỰC HIỆN
NGHỊ QUYẾT 23 - NQ/TW
Vũ Công Hội
Phó Vụ trưởng Vụ Văn hóa, Văn nghệ
Ban Tuyên giáo Trung ương
1. Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, văn nghệ dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam có 03 dấu mốc quan trọng: Đó là Đề cương văn hóa
Việt Nam năm 1943; Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa VIII) “về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” ngày 16/7/1998 và Nghị quyết 23 - NQ/ TW ngày
16/6/2008 của Bộ Chính trị “về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ
thuật trong thời kỳ mới”.
Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị đã tập trung đánh giá tình hình văn học,
nghệ thuật trong thời gian qua và đề ra mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, chủ trương
và giải pháp tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ
mới. Về mục tiêu, nghị quyết nhấn mạnh: tập trung mọi nguồn lực xây dựng nền
văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nhân
cách con người Việt Nam…; xây dựng, phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ Việt Nam
một cách toàn diện cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu loại hình, có các thế hệ
nối tiếp nhau vững chắc, có tình yêu Tổ quốc nồng nàn, gắn bó sâu sắc với nhân
dân, với sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo, có năng lực sáng tạo phong phú, đa
dạng, đoàn kết, gắn bó cùng phát triển trong cộng đồng các dân tộc anh em trên
đất nước ta. Quan điểm chỉ đạo các hoạt động văn học nghệ thuật trong Nghị
quyết đã nhấn mạnh:
Văn học nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa;
là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người…
Tài năng văn học, nghệ thuật là vốn quý của dân tộc. Chăm lo phát hiện,
bồi dưỡng, quý trọng và phát huy các tài năng văn học, nghệ thuật là trách nhiệm
của toàn xã hội, trước hết là của Đảng, Nhà nước và của cả các tổ chức trong hệ
thống chính trị các cấp.
Các chủ trương và giải pháp thực hiện mà Nghị quyết đề ra bao gồm nhiều
lĩnh vực: sáng tác, lý luận, phê bình, sản xuất các tác phẩm văn học nghệ thuật
(VHNT); đào tạo bồi dưỡng đội ngũ hoạt động VHNT và công tác lãnh đạo, điều
hành quản lý, đầu tư, tài trợ các hoạt động VHNT…
2. Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị ra đời được những người hoạt động trên
lĩnh vực VHNT nói riêng, cả xã hội nói chung rất quan tâm. Vì trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, bên
cạch những thành tựu đã đạt được, hoạt động văn học nghệ thuật còn bộc lộ nhiều
yếu kém, khuyết điểm: ít tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật; hoạt
động lý luận văn học, nghệ thuật còn lạc hậu về nhiều mặt chưa xứng đáng với
vai trò, vị trí của nó; một số tác phẩm văn học, nghệ thuật tầm thường, chất lượng
31
kém được phát hành, truyền bá gây tác hại, ảnh hưởng xấu tới công chúng, nhất là
thế hệ trẻ; công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ văn nghệ sỹ còn nhiều bất cập, yếu
kém, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của các cấp ủy đảng, cơ quan nhà nước
bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế, nội dung và phương pháp lãnh đạo chậm đổi
mới…mà nguyên nhân chính là: Sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, quản lý Nhà
nước về quan điểm, chủ trương, chính sách, về đầu tư kinh phí cho lĩnh vực văn
học, nghệ thuật chưa đúng tầm và đúng mức. Chủ trương tăng trưởng kinh tế phải
đi đôi với phát triển văn hóa, văn nghệ - nền tảng tinh thần của xã hội - chưa được
quán triệt và thực hiện nghiêm túc. Một số cấp ủy, chính quyền chưa coi trọng và
thiếu hiểu biết đầy đủ về vai trò, tính đặc thù của văn học, nghệ thuật, chậm thể
chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng. Đầu tư cho văn hóa, văn nghệ chưa
tương xứng với yêu cầu mới, chưa hợp lý và kém hiệu quả. Những vấn đề mà
Nghị quyết nêu ra được các cấp, các ngành quan tâm, có ảnh hưởng trong đời
sống xã hội. Ban Bí thư đã thành lập Ban Chỉ đạo triển khai một số Đề án thực
hiện Nghị quyết 23; Chính phủ, các bộ, ban, ngành, đoàn thể đã chủ động triển
khai với ý thức và tinh thần trách nhiệm cao. Ban Chỉ đạo đã phân công các cơ
quan, đơn vị thực hiện các đề án cụ thể như sau:
Đề án trình Chính phủ (có 07 đề án)
a/ Đề án 1: Xây dựng Nghị định về các Hội văn học, nghệ thuật trong thời
kỳ mới
- Cơ quan chủ trì: Ban cán sự Bộ Nội vụ
- Cơ quan phối hợp: Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương,
Ban cán sự đảng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Đảng đoàn Uỷ ban toàn quốc
Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam, Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt
Nam và các Hội văn học, nghệ thuật Trung ương.
b/ Đề án 2: Xây dựng và rà soát các chế độ chính sách đối với hoạt động văn
học, nghệ thuật và văn nghệ sĩ. Chế độ tài trợ, đặt hàng đối với các tác phẩm văn
học, nghệ thuật. Chính sách khuyến khích sáng tạo trong các hoạt động văn học,
nghệ thuật và thành lập Quỹ sáng tác.
- Cơ quan chủ trì: Ban cán sự Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
- Cơ quan phối hợp: Ban cán sự đảng Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ
Thông tin và Truyền thông, Ban Tuyên giáo Trung ương, Đảng đoàn Uỷ ban toàn
quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam và
các Hội văn học, nghệ thuật Trung ương.
c/ Đề án 3: Xây dựng chính sách thẩm định, quảng bá, thuế ưu đãi… đối với
các tác phẩm văn học, nghệ thuật trong nước; văn hóa phẩm của Việt Nam đưa
ra nước ngoài và giới thiệu tinh hoa văn học, nghệ thuật của thế giới vào Việt
Nam; chính sách bảo tồn, quảng bá, phát huy di sản văn học, nghệ thuật dân tộc,
nghiên cứu, sưu tầm, chỉnh lý vốn văn học, nghệ thuật truyền thống, xây dựng và
phát huy văn học, nghệ thuật quần chúng; chính sách xuất bản, quảng bá các tác
phẩm văn học, nghệ thuật đến với công chúng qua các ấn phẩm văn hóa, các
phương tiện thông tin đại chúng.
32
- Cơ quan chủ trì: Ban cán sự Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
- Cơ quan phối hợp: Ban cán sự đảng Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ
Thông tin và Truyền thông, Ban Tuyên giáo Trung ương, Đảng đoàn Uỷ ban toàn
quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam và
các Hội văn học, nghệ thuật Trung ương.
d/ Đề án 4: Trên cơ sở quy hoạch và rà soát, đánh giá lại các công trình hiện
có, xây dựng kế hoạch nâng cấp, xây mới các công tình văn hóa (nhà hát, rạp
chiếu phim, nhà triển lãm) từ năm 2010-2020.
- Cơ quan chủ trì: Ban cán sự Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
- Cơ quan phối hợp: Ban cán sự đảng Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ
Thông tin và Truyền thông, Ban Tuyên giáo Trung ương, Đảng đoàn Uỷ ban toàn
quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam và
các Hội văn học, nghệ thuật Trung ương.
e/ Đề án 5: Xây dựng Thông tư hướng dẫn thực hiện Luật Sở hữu trí tuệ đối
với hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật.
- Cơ quan chủ trì: Ban cán sự Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
- Cơ quan phối hợp: các cơ quan hữu quan.
g/ Đề án 6: Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo của các trường văn
hóa, nghệ thuật.
- Cơ quan chủ trì: Ban cán sự Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
- Cơ quan phối hợp: Ban cán sự đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ban Tuyên
giáo Trung ương.
h/ Đề án 7: Xây dựng chương trình giáo dục thẩm mỹ cho thanh thiếu niên,
đặc biệt là học sinh, sinh viên trong các trường học.
Cơ quan chủ trì: Bộ Giáo dục & Đào tạo
Cơ quan phối hợp: Bộ Văn hoá - Thể thao & Du lịch,Bộ Thông tin &
Truyền thông, Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Ban Tuyên
giáo Trung ương, các Hội VHNT Việt Nam.
Đề án trình Ban Bí thư (có 02 đề án).
i/ Đề án 8: Xây dựng chương trình, nội dung đào tạo về văn học, nghệ thuật
trong hệ thống các trường chính trị-hành chính.
- Cơ quan chủ trì: Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Cơ quan phối hợp: Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban cán sự đảng Bộ Giáo
dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
k/ Đề án 9: Tiêu chuẩn, cơ chế lựa chọn, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý lĩnh
vực văn hóa, văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới.
- Cơ quan chủ trì: Ban Tổ chức Trung ương.
33
- Cơ quan phối hợp: Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban cán sự đảng Bộ Nội
vụ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Đảng đoàn Liên hiệp các Hội văn học, nghệ
thuật Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam và các Hội văn học, nghệ thuật Trung
ương.
Đến tháng 11/2010 đã có 3 đề án hoàn thành và ra được những chính sách cụ
thể. Đó là đề án do Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì:
Xây dựng chương trình, nội dung đào tạo về văn học, nghệ thuật trong hệ thống
các trường chính trị- hành chính; Đề án do Ban Tổ chức Trung ương chủ trì được
Ban Bí thư ban hành Quy định số 284-QĐ/TW, ngày 05/02/2010 về tiêu chuẩn, cơ
chế lựa chọn, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ
thật. Đề án do Bộ Nội vụ chủ trì trình Chính phủ ra Nghị định số 45/2010/NĐ-
CP. Ngày 21/4/2010 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội, trong đó có
Chương VI: Một số quy định áp dụng đối với các hội có tính chất đặc thù( các hội
văn học nghệ thuật thuộc nhóm này). Đề án của Học viện Chính trị-Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh chính thức được triển khai từ năm 2010, đã tổ chức 24 lớp
bồi dưỡng cho học viên các tỉnh, thành (trung bình mỗi lớp có 100 học viên);
được đưa vào chương trình đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ của Viện Văn hóa và phát
triển.
Các đề án do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã hoàn thiện trình Chính phủ
ban hành 09 Quyết định, 05 Nghị định; Bộ đã ban hành 01 Quyết định, 05 Thông
tư, phối hợp với Bộ Tài chính ban hành 01 Thông tư và hoàn thành gần 20 văn
bản dự kiến trình Thủ tướng ban hành trong thời gian tới liên quan đến các lĩnh
vực hoạt động mà Bộ quản lý về mặt Nhà nước. Trong số đó, tại Quyết định
369/QĐ-TTg ngày 14 tháng 3 năm 2011 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án
Tiếp tục hỗ trợ hoạt động sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật của
các Hội Văn học nghệ thuật chuyên ngành Trung ương và các hội văn học nghệ
thuật địa phương, tiếp tục hỗ trợ hoạt động sáng tạo tác phẩm báo chí chất lượng
cao ở trung ương và địa phương giai đoạn 2011-2015; Quyết định 844/QĐ-TTg
ngày 01 tháng 6 năm 2011 của Thủ tướng về việc phê duyệt Đề án “Khuyến khích
sáng tác và công bố các tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng
và nghệ thuật, phản ánh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
cứu nước giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước giai đoạn 1930- 1975”…Có
thể nói, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã chủ động, tích cực trong việc xây
dựng, hoàn thiện những văn bản nhằm thực hiện Nghị quyết 23- NQ/TW.
Chính phủ đã kịp thời bổ xung 30 tỷ đồng cho hoạt động văn học, nghệ thuật
và nâng mức giải thưởng các tác phẩm văn học, nghệ thuật trong năm 2010.
Thông qua Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học, nghệ thuật Việt Nam,
Chính phủ đã hỗ trợ sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật và báo
chí giai đoạn 2011-2015 với kinh phí 430 tỷ đồng. Trong điều kiện kinh tế còn
nhiều khó khăn, việc Chính phủ hỗ trợ cho văn học, nghệ thuật và báo chí là một
điều đáng quý, giúp cho đội ngũ văn nghệ sĩ, các hội văn học nghệ thuật, nhất là
những tỉnh còn nhiều khó khăn có điều kiện sáng tác, quảng bá tác phẩm. Ngoài
ra, một số dự án, một số cuộc vận động sáng tác khác do các hội chuyên ngành đề
xuất cũng được Chính phủ phê duyệt và cấp kinh phí.
34
Một số địa phương đã chỉ đạo Hội văn học nghệ thuật, Sở Văn hóa, Thể thao
và Du lịch cùng với các ban ngành xây dựng đề án phát triển văn học nghệ thuật
đến năm 2015-2020 (Hải Dương, Bến Tre…). Bổ sung về kinh phí cho hội
VHNT tổ chức các trại sáng tác, hỗ trợ in ấn, quảng bá tác phẩm. Đồng thời,
nhiều hình thức tôn vinh, khích lệ, động viên văn nghệ sĩ đã được các tỉnh tổ chức
như: Hàng năm xét, tặng giải cho những tác phẩm xuất sắc (Phú Thọ, Bắc Ninh,
TP Hồ Chí Minh…); tại các cuộc Liên hoan ảnh nghệ thuật, triển lãm mỹ thuật ỏ
các khu vực hàng năm, cùng với giải thưởng của Hội Trung ương, nhiều tỉnh đã
tặng thêm cho những tác giả là người địa phương. Nhiều doanh nghiệp của các
tỉnh đứng ra tài trợ cho hoạt động sáng tác, quảng bá văn học, nghệ thuật. Có thể
nói, Nghị quyết 23 đã và đang đi vào cuộc sống với ý thức, tâm huyết của các
tầng lớp nhân dân trong xã hội.
3. Tuy vậy, sau 5 năm thực hiện, Nghị quyết 23-NQ/TW vẫn còn nhiều vấn
đề cần được tiếp tục triển khai. Một là, Chính phủ và các ngành hữu quan quan
tâm phối hợp giải quyết những vướng mắc về thể chế trong việc phát triển văn
học, nghệ thuật như: chính sách về chế độ làm việc, chế độ tiền lương đối với
nghệ thuật truyền thống( chèo, tuồng, cải lương, ca trù…). Thứ hai là vấn đề
nguồn nhân lực cho ngành (đào tạo, tuyển chọn, tuyển dụng, chính sách đãi ngộ
với những nghệ sĩ tài năng…). Thứ ba là, tăng cường cơ sở vật chất cho các thiết
chế văn hóa cơ sở, cho phép khôi phục lại Chương trình mục tiêu quốc gia về
Điện ảnh (giai đoạn 2015-2020), chú trọng đầu tư trang thiết bị cũng như khoa
học, công nghệ trong lĩnh vực điện ảnh. Thứ tư là, các ngành chức năng quan tâm
phối hợp với Bộ thực thi nghiêm minh pháp luật, khắc phục tình trạng vi phạm
bản quyền, thực thi Luật sở hữu trí tuệ..tạo môi trường sáng tạo lành mạnh. Đồng
thời đẩy mạnh tuyên truyền, định hướng trong việc giữ gìn, giới thiệu quảng bá
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là các loại hình nghệ thuật truyền
thống.
4. Thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục tuyên truyền sâu rộng về Nghị quyết
23- NQ/TW trong mọi tầng lớp nhân dân, nhất là trong cán bộ lãnh đạo cấp ủy,
chính quyền từ Trung ương đến địa phương và đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức.
Trong điều kiện đất nước còn gặp nhiều khó khăn nhưng Đảng, Chính phủ luôn
quan tâm đến văn nghệ sĩ bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, hiệu quả.
Ngành văn hóa nên tập trung nguồn lực giải quyết những vấn đề bức xúc
nhất hiện nay như: nghệ thuật truyền thống, hoạt động điện ảnh và đào tạo nhân
lực.
Tăng cường phối hợp hoạt động với các bộ, ngành chức năng, với các địa
phương trong cả nước để triển khai có hiệu quả những vấn đề liên quan đến quản
lý Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Nên có sự gắn bó chặt chẽ hơn
giữa các đơn vị thuộc Bộ với các Hội chuyên ngành Trung ương cũng như với Ủy
ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học, nghệ thuật Việt Nam.
35
BÁO CÁO HỘI NGHỊ
5 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT 23 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ VĂN
HỌC NGHỆ THUẬT
Nhà văn Đỗ Kim Cuông
Phó Chủ tịch Thường trực
Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam
1. Về tổ chức hoạt động của các Hội Văn học nghệ thuật hiện nay
Theo số lượng thống kê chưa đầy đủ, biến động theo từng năm, hiện nay,
số lượng văn nghệ sỹ cả nước do các Hội Văn học nghệ thuật tỉnh, thành phố
quản lí là gần 40.000 người. Trong đó:
- Hội viên Hội Văn học nghệ thuật chuyên ngành Trung ương: 18.000 người.
- Hội viên Hội Văn học nghệ thuật tỉnh, thành phố: xấp xỉ 22.000 người.
Cơ chế chỉ đạo, quản lí chung là: Cấp uỷ đảng trực tiếp chỉ đạo các Hội Văn
học nghệ thuật. Nhà nước cấp kinh phí hoạt động thường xuyên. Bộ Nội vụ, Sở
Nội vụ quản lí biên chế.
Nhìn chung, tổ chức các Hội Văn học nghệ thuật từ Trung ương đến địa
phương đều được các cấp uỷ Đảng quan tâm chỉ đạo, Nhà nước hỗ trợ kinh phí để
hoạt động phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước và nhiệm vụ chính
trị của địa phương.
2. Đánh giá tổng quan về tình hình Văn học nghệ thuật hiện nay
Trong sáng tạo nghệ thuật, về căn bản, các tác phẩm văn nghệ đi đúng
hướng phản ánh hiện thực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN hôm nay, các tác
giả tiếp tục tái hiện hiện thực cách mạng và kháng chiến hào hùng của dân tộc
(1945 – 1975), lịch sử kiên cường bất khuất và những truyền thống tốt đẹp của
nhân dân ta. Văn nghệ cổ vũ cái đúng, cái tốt, cái đẹp, cái mới tiến bộ, tạo dựng
những tấm gương điển hình của con người thời đại: người lao động sáng tạo
(công nhân, nông dân, trí thức), những người làm giàu chân chính cho đất nước
(thương nhân, nhà doanh nghiệp, nhà kinh doanh), bảo vệ Tổ quốc và giữ gìn an
ninh xã hội (chiến sĩ lực lượng vũ trang, công an nhân dân).
Văn nghệ phê phán khá mạnh mẽ cái tiêu cực (tình trạng mất dân chủ, tham
nhũng, lộng quyền và lạm quyền, thoái hóa biến chất về lý tưởng, đạo đức, lối
sống vị kỉ, không tinh nghĩa, chạy theo đồng tiền và lợi ích vật chất thiển cận...).
Văn nghệ sĩ được đảm bảo tự do sáng tạo, được chú trọng bảo vệ bản quyền
về sáng tác, biểu diễn. Từ năm 2000 nhà nước đảm bảo hỗ trợ cho việc sáng tạo
và quảng bá tác phẩm, duy trì hoạt động của tổ chức Hội VHNT với tư cách là tổ
chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp. Nhà nước đã thực hiện thể chế hóa tổ chức
của Hội trong văn bản Pháp lệnh về Hội nghề nghiệp đặc thù trong đó có Hội
VHNT. Song, đội ngũ văn nghệ sỹ đã có sự phân hoá: một bộ phận lớn văn
36
nghệ sỹ (những người cao tuổi gắn bó với cách mạng và kháng chiến) là lực
lượng nòng cốt trong các Hội Văn học nghệ thuật vẫn giữ quan điểm sáng tác của
Đảng. Còn một bộ phận văn nghệ sỹ trẻ, có tài, có tác phẩm hiện nay hành nghề
tự do, không muốn vào Hội. Tác phẩm của họ tự xuất bản, tổ chức biểu diễn, làm
phim theo đơn đặt hàng của các Háng tư nhân. Nội dung tác phẩm chủ yếu đề cập
tới hiện thực đời sống xã hội đương đại với cách nhìn, cách nghĩ của giới trẻ. Tác
phẩm ít có chiều sâu về tư tưởng, giá trị nhân văn nhưng lại được các cơ quan
truyền thông quảng bá rộng rãi có tác động không nhỏ đến thị hiếu thẩm mĩ cảu
công chúng (nhất là tầng lớp bình dân và giới trẻ).
Về nghiên cứu, lý luận, phê bình, đã đẩy lùi khuynh hướng phủ nhận thành
tựu của văn nghệ cách mạng, kháng chiến, kiên trì bảo vệ và phát triển đường lối
văn học nghệ thuật mácxit-leninit và tư tuởng văn nghệ Hồ Chí Minh.
Bước đầu quan tâm thu hút lực lượng văn nghệ sĩ Việt Nam yêu nước tiến
bộ đang định cư ở nước ngoài về nước tham gia sáng tác, biểu diễn, phát huy
những giá trị truyền thống văn nghệ của cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Thực hiện hợp tác giao lưu văn hóa với nước ngoài qua dịch thuật, xuất bản,
lưu diễn, tổ chức trại sáng tác quốc tế ở Việt Nam và dự các liên hoan văn nghệ,
các cuộc thi biểu diễn ở nước ngoài.
Tuy nhiên mặt trận văn nghệ còn bộc lộ những khuyết nhuợc điểm:
- Cá biệt có VNS chưa đề cao trách nhiệm xã hội, công dân, suy giảm lòng
tin vào sự nghiệp cách mạng, phát ngôn, viết hồi ký, sách báo bộc lộ sự dao động
hoài nghi về lý tưởng và niềm tin về sự phát triển của đất nước trong vận hội mới.
- Vẫn tồn tại dai dẳng khuynh hướng thuơng mại hóa, giải trí tầm thường hóa ở
một số lĩnh vực, chi phối một bộ phận công chúng (âm nhạc, điện ảnh, sân khấu).
- Thiếu vắng những tác phẩm giá trị tâm huyết, để đời, của những cá tính
sáng tạo độc đáo, nghệ sĩ lớn bậc thầy. Còn có biểu hiện dễ dãi bằng lòng với tình
trạng nghiệp dư, “ăn xổi ở thì”, chiều theo thị hiếu cũ kĩ, hoặc tầm thường, thậm
chí lập dị, ngộ nhận dưới danh nghĩa các trào lưu thời thượng như: hậu hiện đại,
giải cấu trúc, đại tự sự...
3. Về tư tưởng của đội ngũ văn nghệ sỹ
Trước tình hình diễn biến phức tạp của xã hội hiện nay: thách thức khó
khăn về kinh tế, đời sống của đại bộ phận anh chị em văn nghệ sỹ còn vất vả, cơ
cực (kể cả người đang hưởng lương và người đã về hưu) đồng lương không đủ
sống, những tác động xấu của xã hội trong nước (tệ tham nhũng, cửa quyền, tệ
nạn xã hội…) và những thông tin kích động của kẻ xấu trên các trang mạng…,
vấn đề biển Đông… Nhưng nhìn chung, dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng,
chính quyền từ trung ương đến địa phương, đại bộ phận anh chị em văn nghệ sĩ
vẫn tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới và những quyết sách của Đại hội Đảng
lần thứ XI vạch ra. Biểu hiện là: kiên trì, tâm huyết với công việc sáng tạo của
người nghệ sỹ, gắn bó với các giá trị truyền thống yêu nước và cách mạng, khẳng
định các giá trị đạo đức, nhân văn của dân tộc. Các cuộc thi sáng tác, các công
trình nghiên cứu, sưu tầm văn hóa, Văn học nghệ thuật do các Hội tổ chức vẫn
37
được anh chị em văn nghệ sỹ tham gia hưởng ứng với sự say mê, tâm huyết. Có
thể khẳng định: Chính tình hình tư tưởng của đội ngũ văn nghệ sỹ hiện nay góp
phần quan trọng cho sự ổn định chính trị của xã hội, của đất nước.
Có được sự ổn định này là nhờ lòng yêu nước, gắn bó với sự nghiệp cách
mạng của Đảng, của dân tộc ở mỗi người văn nghệ sỹ. Nghị quyết 23 của Bộ
Chính trị về xây dựng và phát triển Văn học nghệ thuật trong tình hình mới làm
sáng rõ, minh bạch quan điểm của Đảng ta cùng với những cơ chế chính sách về
Văn học nghệ thuật và đời sống văn nghệ sỹ từng bước được cải thiện, tháo gỡ,
tạo được niềm tin của người nghệ sỹ với Đảng, gắn bó với vận mệnh của đất
nước.
- Việc Chính phủ tiếp tục “Hỗ trợ cho các công trình Văn học nghệ thuật và
báo chí giai đoạn 2011 - 2015” thực sự là nguồn khích lệ đối với văn nghệ sỹ và
báo chí cả nước. Tuy kinh phí hỗ trợ còn ít (80 tỷ đồng/năm), mỗi hội Văn học
nghệ thuật tỉnh, thành phố được hỗ trợ trên dưới 500 triệu đồng nhưng đã tháo gỡ
rất nhiều khó khăn cho các hoạt động văn nghệ của cả nước hiện nay, nhất là đối
với các địa phương còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế (các tỉnh, thành phố mức
thu nhập thấp, các tỉnh miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số).
Song tình hình tư tưởng của một số (rất ít) văn nghệ sỹ vẫn còn những biểu
hiện sau:
- Một số văn nghệ sỹ chưa thật sự tin tưởng vào các Nghị quyết của Đảng,
và Chính sách của Nhà nước (như việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về
củng cố xây dựng Đảng). Bộ phận này chịu tác động bởi những hiện tượng xấu
đang diễn ra trong xã hội như: tham nhũng, tiêu cực trong kinh tế, đất đai, sự lộng
hành của một số cán bộ có chức, có quyền không thực hiện đúng 19 điều quy
định đối với Đảng viên, tác động của các luồng thông tin xấu (qua báo chí, dư
luận xã hội…)
- Một số văn nghệ sỹ còn chịu tác động trực tiếp của những kẻ xấu gây chia
rẽ, kích động, phủ nhận thành quả của cách mạng và kháng chiến, lợi dụng tình
hình phức tạp đang diễn ra ở Biển đông, phê phán sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước. Số văn nghệ sỹ này không nhiều, nhưng lợi dụng không khí đổi mới, dân
chủ công khai, sự lỏng lẻo trong quản lí báo chí, từng lúc, từng nơi tìm cách bộc
lộ, tạo dư luận chú ý.
Đây cũng là vấn đề rất cần được các cơ quan quản lý Văn học nghệ thuật
quan tâm. Kiên trì và kiên quyết đấu tranh không cho kẻ xấu lợi dụng thực hiện
âm mưu “diễn biến hoà bình” trong đội ngũ văn nghệ sỹ.
- Năm 2012, ở một số Hội VHNT các tỉnh thành phố đã tiến hành đại hội,
củng cố tổ chức bầu ra Ban chấp hành mới. Dấu hiệu đáng mừng là ở một số các
địa phương trước đây có tình trạng mất đoàn kết, kéo dài nhiệm kỳ của Đại hội đã
được khắc phục. Tuy nhiên qua thực tiễn công tác quản lý ở các Hội, đội ngũ lãnh
đạo ở một số Hội cũng còn nhiều bất cập, thiếu cán bộ lãnh đạo văn nghệ chuyên
trách, có uy tín cao về nghề nghiệp và trong hội viên. Cho đến nay ở một vài hội
biên chế hoạt động còn ít (3 - 5 người). Kinh phí hoạt động thấp, cơ sở vật chất để
phục vụ cho các hoạt động VHNT còn thiếu.
38
4. Về công tác chỉ đạo, quản lý, thực hiện cơ chế chính sách đối với văn nghệ
Tài năng nói chung là quí hiếm, nhưng tài năng trong VHNT lại càng quí
và hiếm. Tài năng trong VHNT được thể hiện ở nhiều yếu tố, nhưng trước hết và
chủ yếu là ở đạo đức nghề nghiệp, thái độ công dân của văn nghệ sĩ và ở tác
phẩm, công trình của họ. Trong VHNT, nếu không có tài năng thì không thể tạo
ra được tác phẩm, công trình hay đáp ứng nhu cầu chân thiện mỹ của công chúng
và xã hội.
- Nhận diện cho đúng tài năng trong VHNT là trách nhiệm của Đảng, Nhà
nước và toàn xã hội, nhưng chủ yếu và trước hết là ở các cơ quan quản lý VHNT,
ở các Hội VHNT chuyên ngành Trung ương, ở các Hội VHNT tỉnh, thành phố.
Chủ trương của Đảng và Nhà nước phát triển VHNT trong cơ chế thị trường,
định hướng XHCN, vì vậy hoạt động VHNT cần có sự lãnh đạo của Đảng và sự
quản lý của Nhà nước.
- Chống lại xu hướng nghiệp dư hóa trong VHNT theo tinh thần Nghị quyết 23
của Bộ Chính trị (khóa X) đang được các cơ quan quản lý VHNT và lãnh đạo các
Hội quan tâm chỉ đạo bằng việc xây dựng các qui chế hoạt động biểu diễn nghệ
thuật, xét tặng giải thưởng, các cuộc thi sáng tác, triển lãm khu vực…
- Chăm sóc, bồi dưỡng văn nghệ sĩ cả nước đã được Đảng và Nhà nước ta
quan tâm từ rất sớm, thể hiện trong Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII (năm
1998) về “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” và
trong Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị khóa X, năm 2008 về “Tiếp tục xây dựng,
phát triển văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới”, trong Quyết định của Chính phủ
về kinh phí hỗ trợ sáng tạo, sưu tầm VHNT giai đoạn 1999 – 2015.
Ngay sau khi có các Nghị quyết của Đảng ra đời, cấp ủy và tổ chức Đảng
các cấp đã triển khai, quán triệt sâu rộng đến tận chi bộ, nhất là đối với đội ngũ
văn nghệ sĩ cả nước.
Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng đã xây dựng chương trình hành động cụ thể, với
nhiều đề án liên quan đến VHNT để tổ chức thực hiện, quan tâm bồi dưỡng đội
ngũ văn nghệ sĩ, đầu tư kinh phí, nắm bắt tâm tư, diễn biến tư tưởng của văn nghệ
sĩ để có biện pháp lãnh đạo kịp thời, do đó tạo được không khí đoàn kết, đồng
thuận, nhất trí cao trong xã hội.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác chỉ đạo, quản lý, xây dựng
cơ chế chính sách còn bộc lộ nhiều hạn chế, khuyết điểm.
- Một số cấp ủy, chính quyền địa phương còn xem nhẹ vai trò của văn hóa
trong mối quan hệ với kinh tế, chưa nhận thức đúng vai trò của VHNT góp phần
củng cố trận địa tư tưởng của Đảng. Trong chỉ đạo điều hành còn thiếu sự quan tâm
đúng mức đến việc kiện toàn mô hình tổ chức các Hội VHNT ở địa phương, cơ sở
vật chất, điều kiện làm việc của các Hội còn nghèo nàn, kinh phí phục vụ cho hoạt
động sáng tạo nghệ thuật… còn hạn chế. Một số cấp ủy, chính quyền địa phương
bố trí nhân sự chủ tịch Hội VHNT địa phương là người không am hiều về văn học
nghệ thuật, trái với Quyết dịnh 284 của Ban Bí thư qui định về người lãnh đạo
quản lý hội VHNT địa phương phải là người có chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp.
Dẫn đến nội bộ thiếu đoàn kết, làm ảnh hưởng đến tư tưởng của hội viên.
39
- Quản lý nhà nước về hoạt động VHNT còn buông lỏng nhất là hoạt động
biểu diễn. Một số đề án về VHNT chưa được thể chế hóa cụ thể. Báo, tạp chí, các
nhà xuất bản của các Hội còn gặp nhiều khó khăn trong phát hành, xuất bản mà
chưa được tháo gỡ, giải quyết phù hợp trong tình hình mới. Việc xét tặng giải
thưởng hàng năm của các Hội VHNT địa phương còn chưa thống nhất, có hội
trao hàng năm, có hội trao giải thưởng 3 hoặc 5 năm một lần do còn gặp khó khăn
về ngân sách…
- Quy định hệ số lương của nghệ sĩ biểu diễn (xiếc, múa, sân khấu) còn chưa
tương xứng với đặc thù nghề nghiệp nên anh chị em còn nhiều băn khoăn, khó
khăn trong cuộc sống, ảnh hưởng đến niềm say mê sáng tạo, cống hiến trong hoạt
động nghề nghiệp…
5. Giải pháp và kiến nghị
- Để công tác văn hoá, Văn học nghệ thuật thực sự đáp ứng với nhiệm vụ
tuyên truyền chính trị của Đảng và Nhà nước, cần nâng cao nhận thức cho các
cấp uỷ Đảng và chính quyền về vai trò, vị trí của văn hóa, văn nghệ; xác định rõ
mô hình tổ chức Hội Văn học nghệ thuật là một mắt xích quan trọng trong công
tác tư tưởng, văn hóa của Đảng và Nhà nước.
- Trên cơ sở đó, từ Trung ương đến địa phương củng cố tổ chức các Hội
Văn học nghệ thuật. Bố trí cán bộ làm công tác Văn học nghệ thuật nắm vững
quan điểm, đường lối, các chính sách về văn hóa, văn nghệ của Đảng và Nhà
nước; tập hợp được đội ngũ văn nghệ sỹ, động viên sáng tác để có được những
sản phẩm văn hoá, văn nghệ tốt phục vụ nhân dân.
- Tăng cường biên chế, cơ sở vật chất cho một số Hội Văn học nghệ thuật ở
Trung ương và địa phương đủ mạnh để thực hiện công tác Văn học nghệ thuật.
Phải xem công tác văn hoá, văn nghệ là của toàn Đảng, toàn dân, của các cấp uỷ
Đảng và chính quyền.
- Phối hợp với các bộ, ngành liên quan: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các
ban của Đảng xây dựng cơ chế chính sách về mặt tổ chức cho Văn học nghệ thuật.
- Cần có thái độ ứng xử đúng đối với cán bộ làm công tác Văn học nghệ
thuật là công chức Nhà nước vì bản thân đội ngũ này đã đi theo Đảng làm cách
mạng từ trước cách mạng tháng Tám.
Trước hết là giải quyết chế độ phụ cấp cho các cán bộ đang công tác ở các
Hội Văn học nghệ thuật (25%) như các cơ quan hành chính khác.
- Đề nghị Bộ Nội vụ có sự chỉ đạo trong ngành giải quyết biên chế đủ cho
các Hội Văn học nghệ thuật chuyên ngành Trung ương và các Hội Văn học nghệ
thuật địa phương. Cụ thể là:
+ Ở các Hội Văn học nghệ thuật chuyên ngành Trung ương và Hội Liên
hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội, Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Tp. Hồ
Chí Minh, biên chế tối thiểu là 25 - 30 người.
+ Ở các Hội Văn học nghệ thuật tỉnh, thành phố: 12-15 biên chế./.
40
ĐIỆN ẢNH VIỆT NAM SAU 5 NĂM TRIỂN KHAI
NGHỊ QUYẾT 23-NQ/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ
TS. Ngô Phương Lan
Cục trưởng Cục Điện ảnh
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
I. TÌNH HÌNH ĐIỆN ẢNH
1.1. Bối cảnh chung
Bối cảnh quốc tế
Trong 5 năm qua, bối cảnh điện ảnh trên thế giới có những thay đổi chính
tác động đến tình hình điện ảnh trong nước như sau:
- Xu hướng toàn cầu hóa trên thế giới ngày càng mở rộng khiến việc hợp
tác điện ảnh càng phát triển.
- Công nghệ số phát triển kéo theo sự chuyển hướng cơ bản trong sản xuất
và phát hành phim ở tất cả các nước trên thế giới: từ phim nhựa 35 ly sang kỹ
thuật số chất lượng cao.
- Trong thời đại truyền thông con người có nhiều sự lựa chọn, nên điện ảnh
có nhiều “đối thủ” cạnh tranh.
- Điện ảnh Châu Á lên ngôi.
Bối cảnh trong nước
Chủ trương hội nhập quốc tế chủ động, tich cực, toàn diện của Đảng (Đại
hội Đảng XI) tạo điều kiện điện ảnh Việt Nam hội nhập và phát triển.
Việc mở cửa liên kết với nước ngoài trong sản xuất và phát hành phim.
Chủ trương xã hội hóa điện ảnh trong tất cả các khâu đem đến sự khởi sắc cho
điện ảnh nhưng cũng kéo theo sự lấn át của dòng phim thương mại, sự độc quyền
của các công ty nước ngoài trong phổ biến phim. Xu thế thị trường hóa, chạy theo
lợi nhuận của các hãng phim tư nhân (trong sản xuất, phát hành).
Cam kết quốc tế khi Việt Nam gia nhập WTO: Việt Nam không quy định
hạn ngạch phim nhập.
Các cơ sở điện ảnh của nhà nước có đội ngũ làm điện ảnh lâu năm nhưng
cơ chế tổ chức trì trệ, hoạt động kém hiệu quả; phương tiện kỹ thuật cũ kỹ và
thiếu đồng bộ…
2.1. Thành tựu về điện ảnh:
- Thực hiện chủ trương của nhà nước là đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động điện
ảnh, diện mạo điện ảnh Việt Nam trong 5 năm qua trở nên rất phong phú, thị
trường điện ảnh phục hồi và phát triển. Vai trò của các hãng phim tư nhân ngày
càng rõ rệt, phim tư nhân dần chiếm tỉ lệ áp đảo trong tổng số phim Việt Nam
phát hành ở rạp, thu hút lượng khán giả lớn (có phim đông người xem hơn và đạt
41
doanh thu cao hơn phim “bom tấn” cúa Mỹ chiếu cùng thời điểm- Ví dụ phim Mỹ
nhân kế lập kỷ lục phòng vé với doanh thu 60 tỉ trong khoảng 1 tháng chiếu rạp);
một số phim tư nhân gần đây được đánh giá khá cao về nghề nghiệp (Thiên mệnh
anh hùng, Cánh đồng bất tận…).
- Phim do nhà nước đặt hàng và tài trợ sản xuất đảm bảo phục vụ nhiệm vụ
chính trị với chất lượng nghề nghiệp cao (Đừng đốt, Mùi cỏ cháy…); nhiều bộ
phim đạt giải tại các Liên hoan phim trong nước và quốc tế (Trăng nơi đáy
giếng, Chơi vơi…).
- Thế hệ các nhà làm phim trẻ xuất hiện dần tạo nên dấu ấn của lớp đạo diễn
thời hội nhập bên cạnh thế hệ đạo diễn thời kỳ đổi mới. Các đạo diễn trẻ có
những thử nghiệm đáng ghi nhận với các dòng phim khác nhau: phim nghệ thuật,
phim giải trí, phim độc lập… Tuy nhiên, chưa có sự vững chắc về phong cách
cũng như về xu hướng sáng tác của các đạo diễn trẻ.
- Bên cạnh các đạo diễn trẻ trong nước, sự xuất hiện đồng thời và liên tục
của các đạo diễn Việt kiều đã làm cho điện ảnh VN có những mầu sắc mới. Trong
vài năm trở lại đây, phim của các đạo diễn Việt kiều chiếm tỉ lệ cao ở rạp chiếu
phim, nhiều phim thương mại doanh thu cao bên cạnh một số phim được đánh giá
khá cao về nghề nghiệp. Ưu điểm của họ là tay nghề, kỹ thuật, thủ pháp hấp dẫn
khán giả nhưng nhược điểm là phim chưa đủ sâu sắc về ý tưởng do họ còn thiếu
vốn sống Việt Nam.
- Hệ thống văn bản pháp quy về điện ảnh dần hoàn thiện: Luật Điện ảnh số
62/2006/QH11 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện ảnh số
31/2009/QH12; Nghị định số 54/2010/NĐ-CP ngày 21/5/2010 của Chính Phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Điện ảnh số số 62/2006/QH11 và Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện ảnh số 31/2009/QH12. Các văn bản
này tạo hành lang pháp lý cho hoạt động điện ảnh, thể hiện một số chính sách về
sản xuất, phát hành phổ biến phim…
1.3. Yếu kém, bất cập và nguyên nhân:
- Các cơ sở điện ảnh nhà nước trì trệ, hoạt động kém hiệu quả, đội ngũ có
nguy cơ tan rã vì các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, các hãng phim nhà nước vẫn đầy rẫy khó khăn, lúng túng trong
điều hành và trì trệ trong hoạt động. Mặc dù không còn chế độ làm phim bao cấp
từ lâu, nhưng đại đa số phim của các hãng làm ra, từ nguồn này hay nguồn khác,
đều là phim đặt hàng hoặc tài trợ của nhà nước. Tuy nhiên, hầu như không có bộ
phim nào được hoàn thành đúng hạn, nhiều phim chậm đến 2 năm hoặc lâu hơn
nên cần có những quy định rõ ràng hợp lý hơn để thay đổi từ phương thức và mức
độ đầu tư, cách quản lý điều hành, cách phân cấp trách nhiệm, đồng thời xác định
rõ trách nhiệm và ý thức của những người trực tiếp tham gia sáng tác và sản xuất
phim, những người nghệ sĩ.
Thứ hai, nhiều nghệ sĩ từ các hãng phim của nhà nước tỏ ra bi quan và chán
nản vì điện ảnh chưa được Nhà nước quan tâm thỏa đáng. Năm 2012 không có
kinh phí nhà nước đầu tư cho phim truyện; đời sống của văn nghệ sĩ nói chung
42
khó khăn (bậc lương tối thiểu của nghệ sĩ có nơi chỉ đạt 650.000đ!). Nghệ phải tự
“bươn chải”, tìm việc làm ở các dài truyền hình (làm phim truyển hình nhiều tập)
hoặc các công ty tư nhân (phim giải trí, quảng cáo…) nên nhiều người tay nghề đi
xuống, quay lại làm phim điện ảnh không đạt chất lượng cao.
Thứ ba, mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động của các cơ sở điện ảnh chưa
theo một hệ thống nhất quán: công ty cổ phần hay công ty TNHH MTV… rất khó
cho điều hành chung.
Thứ tư, việc quảng bá cho những phim được Nhà nước đặt hàng hoặc tài
trợ sản xuất vẫn quá mờ nhạt, yếu kém. Trong khi đó, tất cả các phim do tư nhân
đầu tư sản xuất đều có chiến dịch quảng cáo chu đáo và rầm rộ, bao trùm từ trước
khi phim bắt đầu được thực hiện cho đến khi phim phát hành ra rạp. Sự chênh
lệch về tuyên truyền, quảng bá, tiếp thị giữa phim tư nhân và phim nhà nước như
vẫn tồn tại lâu nay khiến không ít người tưởng rằng điện ảnh Việt Nam chuyển
hẳn sang “điện ảnh giải trí, thương mại, phục vụ tuổi teen”. Còn sự tuyên truyền
quá đáng cho những phim giải trí, “sành điệu” theo chuẩn ngoại quốc cũng phần
nào làm lệch chuẩn giá trị và gu thẩm mĩ của tầng lớp khán giả- thượng đế đông
đảo nhất là giới trẻ. Bởi vậy, cần một sự điều chỉnh của các cơ quan chức năng
cho việc đầu tư kinh phí và công sức thỏa đáng để quảng bá, tuyên truyền cho các
phim có giá trị, phim do nhà nước đặt hàng- tài trợ, đồng thời cần sự đúng mực và
công bằng của công luận để không có những bài “lăng sê” quá đáng cho các phim
thương mại rẻ tiền.
- Nhiều hãng phim tư nhân chạy theo thị hiếu một bộ phận khán giả, sản
xuất các phim “câu khách” dễ dãi, “hài nhảm”, hành động giải trí đơn thuần…
với mục đích thu lãi lớn.
Nhiều phim chỉ nhằm tận thu trong dịp Tết, lễ rồi “bỏ đi”. Qua khảo sát về
độ tuổi xem phim thì hầu hết khán giả đến rạp tại những thành phố lớn ở độ tuổi
từ 15 đến 35 (khoảng gần 70%) dẫn đến tình trạng khán giả trẻ chỉ thích xem các
phim giải trí - thậm chí phim “tầm phào”, hài tình huống, “chọc cười” lại thu hút
đông khán giả hơn các phim có giá trị, thậm chí các phim chính thống của Việt
Nam bị khán giả quay lưng.
- Việc tuân thủ cam kết quốc tế khi Việt Nam gia nhập WTO dẫn đến
không có hạn ngạch nhập phim dẫn đến nguy cơ xâm lấn của phim nhập ngày
càng cao. Qua khảo sát, thấy nhiều khán giả chỉ thích xem phim ngoại, nhất là
phim Mỹ. Tỷ lệ phim Mỹ chiếu rạp áp đảo phim Việt (70% phim chiếu rạp). Điều
này dẫn đến những thách thức rất khó vượt qua trong việc sản xuất và phổ biến
phim “nội”, nghĩa là khó bảo vệ nền Điện ảnh dân tộc. Mặt khác, các công ty
nước ngoài, liên doanh chỉ hoạt động ở các thành phố lớn (Hà Nội, Tp HCM, tiếp
đến là Hải Phòng, Đà Nẵng) nên khán giả ở các địa phương, đặc biệt là vùng
nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới hải đảo… không có điều kiện
được thưởng thức các tác phẩm điện ảnh.
- Điện ảnh ở địa phương tồn tại khó khăn, hệ thống rạp ở các tỉnh lạc hậu
và xuống cấp.
43
Trang thiết bị và cơ sở vật chất của hầu hết các rạp địa phương đều cũ, lạc
hậu với thiết bị chiếu phim nhựa là chủ yếu, tiến tới khó có thể hoạt động khi cả
thế giới chuyển sang rạp kỹ thuật số. Hiện tại hầu hết rạp do nhà nước quản lý
doanh thu không đủ bù chi phí.. Nguồn phim hạn chế và bị động, phụ thuộc vào
các công ty tư nhân và nước ngoài. Nhiều trung tâm điện ảnh đã bị “xóa sổ” để
sáp nhập vào trung tâm văn hóa.
- Hạn chế trong đào tạo, phát triển nguồn lực và phát hiện- bồi dưỡng
nhân tài
Tuy có 2 trường Đại học Sân khấu Điện ảnh nhưng hiệu quả đào tạo không
cao do đầu vào yếu, mô hình đào tạo cũ, giáo trình không đầy đủ và đồng bộ, lực
lượng giảng viên thiếu, không chuyên nghiệp do thỉnh giảng nhiều… Nguồn lực
cung cấp cho điện ảnh chất lượng không cao, chưa thấy những biện pháp hữu ích
phát hiện và bồi dưỡng nhân tài.
Hơn nữa, các nhà làm phim trẻ dường như có sự phân tán trong sáng tác,
lúng túng trong lựa chọn hướng đi và chưa thực sự hết lòng và tâm huyết với
nghề vì còn mải chạy theo “tiền tươi thóc thật” khi làm phim truyền hình dài tập
hoặc phim thương mại giải trí.
- Việc thực thi Luật Điện ảnh và các văn bản dưới Luật:
Luật Điện ảnh và Nghị định 54 xác định: “Đầu tư xây dựng, cải tạo, trang
thiết bị hiện đại, máy chiếu phim âm thanh lập thể cho rạp chiếu phim. Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với các Bộ, ngành lập đề án phát triển quy mô
sản xuất phim và phổ biến phim để phim Việt Nam đạt ít nhất 30% trong tổng số
phim chiếu tại rạp và đạt ít nhất 40% trong tổng số phim phát sóng trên hệ thống
truyền hình”.
Bên cạnh đó, khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động điện ảnh:
“Doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp xây dựng rạp chiếu phim để kinh doanh phổ
biến phim hoặc xây dựng công trình hoạt động điện ảnh khác được Nhà nước
giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai. Cơ sở điện ảnh được
miễn lệ phí trước bạ khi đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà theo quy
định của pháp luật. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có
trách nhiệm điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất của địa phương, ưu tiên dành quỹ
đất cho cơ sở điện ảnh; có chính sách, chế độ ưu đãi khuyến khích tổ chức, cá
nhân. Cơ quan có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch khu đô thị, khu dân cư phải
dành quỹ đất để xây dựng rạp chiếu phim ở vị trí trung tâm và tỷ lệ xây dựng rạp
phù hợp với quy mô phát triển dân số. Cơ sở điện ảnh xây dựng rạp chiếu phim
được hưởng chính sách ưu đãi…”
Tuy nhiên, Luật Điện ảnh và các văn bản dưới luật chưa đi vào cuộc sống.
Luật, Nghị định đã có từ mấy năm, tuy nhiên, một số văn bản quan trọng chưa
được ban hành (Thông tư đấu thầu sản xuất phim có sử dụng ngân sách nhác
nước; Đề án Quỹ hỗ trợ phát triển điện ảnh) nên định hướng của nhà nước chưa
phát huy được tác dụng, từ năm 2012 đến nay: vẫn còn ách tắc trong sản xuất
44
phim nhà nước. Mặt khác, việc đưa Luật và các văn bản dưới Luật vào cuộc sống
còn có những hạn chế, nhất là việc triển khai Luật tới các địa phương.
II. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐIỆN ẢNH:
2.1. Về quản lý nhà nước: xác định vai trò và định hướng của Nhà nước
trong phát triển sự nghiệp điện ảnh trên nguyên tắc khuyến khích xã hội hóa
những gì tư nhân không làm được thì cơ quan nhà nước sẽ chỉ đạo và triển
khai làm với sự đầu tư thỏa đáng
- Nhà nước chỉ đạo, đầu tư sản xuất các tác phẩm chính thống, giàu tính
nhân văn và điều tiết việc chiếu phim phục vụ nhiệm vụ chính trị, phim về đề tài
thiếu nhi, truyền thống lịch sử, dân tộc thiểu số, phim có giá trị tư tưởng và nghệ
thuật cao (thông qua việc xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện Thông tư
biên Bộ Văn hóa, Thế thao và Du lịch – Tài chính hướng dẫn việc đấu thấu và đặt
hàng sản xuất phim có sử dụng ngân sách nhà nước). Quỹ hỗ trợ phát triển điện
ảnh Việt Nam khi được thành lập sẽ thưởng cho các tác phẩm có giá trị nội dung
và nghệ thuật, tài trợ để khuyến khích các bộ phim nghệ thuật, phim tác giả, phim
của đạo diễn trẻ tài năng… Đồng thời có cơ chế để thông qua Quỹ, thiết lập cơ
chế cơ chế để doanh thu điện ảnh quay lại tái đầu tư cho điện ảnh.
- Ở địa phương: Củng cố trung tâm điện ảnh ở tất cả các tỉnh, thành theo
một mô hình, cơ chế thông nhất: đơn vị sự nghiệp có thu. Phát huy chiếu bóng
lưu động (chế độ, chính sách, biên chế, phương tiện…)
2.2. Củng cố đội ngũ, nguồn nhân lực điện ảnh
- Đào tạo chính quy tại các trường đại học điện ảnh theo hướng chuyên
nghiệp và hiện đại. Mở khoa điện ảnh hoặc ngành điện ảnh tại một số trường đại
học tổng hợp theo hướng vừa nâng cao văn hóa điện ảnh, vừa tiếp cận với điện
ảnh chuyên nghiệp.
- Đào tạo lại- nâng cao tay nghề, nghiệp vụ ở các khu vực sáng tác, quản lý
sản xuất, kỹ thuật, tiếp thị… Đây là giải pháp quan trọng, nhất là mở các lớp đào
tạo ngắn hạn với chuyên gia nước ngoài và Việt Nam.
- Phát hiện và bồi dưỡng tài năng điện ảnh để: bồi dưỡng trong nước; cử đi
đào tạo ở nước ngoài… Trại sáng tác tài năng tại LHPQT Hà Nội lần thứ II là
một mô hình rất thành công để phát hiện và bồi dưỡng tài năng, vì vậy, nên mở
định kỳ Trại sáng tác này đồng thời với việc mở các khóa ngắn hạn hàng năm cho
các tài năng trẻ theo dạng nâng cao trình độ và nâng cao chất lượng học viên với
các giáo sư, chuyên gia nổi tiếng từ các nền điện ảnh phát triển.
2.3. Nâng cao năng lực quản lý ngành
- Quản lý nhà nước về điện ảnh ở cả trung ương và địa phương trong sản
xuất, phổ biến và kinh doanh điện ảnh.
- Thực thi đúng, đủ và hiệu quả Luật Điện ảnh, các văn bản dưới luật và các
quy định khác của pháp luật về điện ảnh trong các hoạt động điện ảnh, đưa pháp
luật đi vào cuộc sống.
45
- Kiểm tra, thanh tra, xử phạt, khen thưởng
2.4. Xây dựng cơ sở kỹ thuật đồng bộ và đổi mới công nghệ điện ảnh
- Tìm bước đi chuẩn xác, đúng hướng để tận dụng, kết hợp và thay thế hợp
lý từ cơ sở vật chất kỹ thuật cũ sang công nghệ mới, thay thế thiết bị sản xuất và
chiếu phim nhựa sang thiết bị số chất lượng cao và phù hợp với thế giới.
- Đầu tư hệ thống thiết bị công nghệ số trong sản xuất phim và hệ thống rạp
chiếu phim (trung ương và địa phương), trong bảo quản và lưu trữ phim và các
lĩnh vực hoạt động khác của điện ảnh.
- Đầu tư cho hệ thống trường quay nội, trường quay ngoại đạt tiêu chuẩn từ
nhiều nguồn vốn.
2.5. Phát triển điện ảnh trên cơ sở mối quan hệ liên hoàn giữa sáng tác-
sản xuất- phổ biến phim
- Phát triển điện ảnh theo hướng chuyên nghiệp và đồng bộ để phục vụ tốt
nhiệm vụ chính trị, bồi dưỡng nhân cách và thẩm mỹ đồng thời đáp ứng nhu cầu
giải trí lành mạnh của khán giả.
- Thiết lập chuẩn giá trị cho tác phẩm điện ảnh thông qua các kỳ trao giải
thưởng, Liên hoan phim quốc gia, Liên hoan phim quốc tế Hà Nội.
- Triển khai tốt mối quan hệ hợp tác, gắn bó, hỗ trợ nhau cùng phát triển
giữa điện ảnh và truyền hình: nâng cao quản lý nhà nước đối với phim trên truyền
hình, tăng cường tuyên truyền điện ảnh trên truyền hình, hợp tác trong sản xuất
phim; hợp tác trong phổ biến phim thông qua việc xây dựng khung giờ chiếu
phim điện ảnh trên truyền hình… (thông qua biên bản ghi nhớ giữa Bộ Văn hóa,
Thế thao và Du lịch và Đài Truyền hình Việt Nam về điện ảnh- truyền hình).
- Xây dựng mối quan hệ hợp tác, gắn bó, hỗ trợ nhau cùng phát triển giữa
điện ảnh và báo chí- truyền thông.
2.6. Tạo lập vị trí của điện ảnh Việt Nam trong khu vực và trên thế giới
- Đưa phim Việt Nam ra thế giới ở 3 cấp độ:
+ Tham dự các Tuần phim Việt Nam, Ngày văn hóa Việt Nam, các sự kiện
văn hóa nghệ thuật theo thỏa thuận, hiệp định, quan hệ ngoại giao… (phim đáp
ứng yêu cầu đối ngoại)
+ Tham dự các Liên hoan Phim quốc tế (phim có giá trị nghệ thuật và có tìm
tòi mới mẻ).
+ Thiết lập thị trường điện ảnh Việt Nam ở nước ngoài (phim có giá trị
thương mại, giá trị nhân văn).
- Giới thiệu phim xuất sắc, có giá trị của nước ngoài tại Việt Nam.
- Xây dựng thương hiệu LHPQT Hà Nội thành một trong những LHPQT có
uy tín trong khu vực, thông qua đó đẩy mạnh hội nhập điện ảnh đồng thời quảng
bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới và tìm cơ hội hợp tác, phát triển điện ảnh.
46
- Hợp tác, liên doanh làm phim với nước ngoài nhằm tăng nguồn thu đồng
thời tận dụng cơ hội học tập kinh nghiệm nghề nghiệp và kỹ thuật quốc tế để phát
triển điện ảnh Việt Nam.
I. KẾT LUẬN
Trên đây là những đánh giá sơ bộ về tình hình điện ảnh Việt Nam trong 5
năm triển khai thự hiện Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị và những kiến
nghị để phát triển điện ảnh trong thời gian tới. Tuy nhiên, theo chúng tôi có 2 giải
pháp quan trọng hàng đầu có thể tiến hành ngay được:
Một là, về phía ngành, việc tập hợp lực lượng, sự đồng tâm hiệp lực giữa các
cơ quan, tổ chức cá nhân làm điện ảnh, giữa các nhà quản lý và nghệ sĩ, giữa Cục
và Hội Điện ảnh, giữa điện ảnh nhà nước và tư nhân, giữa trung ương và địa
phương… Điều này trong hai năm qua Cục Điện ảnh đã dần làm được. Kết quả
tích cực của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 17 ở Phú Yên (11/2011), Hội nghị
toàn quốc về Thực trạng và giải pháp đấy mạnh hoạt động phát hành và phổ biến
phim (7/2012), Liên hoan phim quốc tế Hà Nội lần thứ II (11/2012) và Đợt kỷ
niệm 60 năm Bác Hồ ký Sắc lệnh thành lập Ngành Điện ảnh Cách mạng Việt
Nam đã chứng tỏ điều này.
Hai là, sự quan tâm thích đáng của Nhà nước đối với điện ảnh như một loại
hình nghệ thuật và công nghiệp văn hóa quan trọng. Điều này thể hiện trong
chính sách và nguồn kinh phí đầu tư, cơ chế khuyến khích sáng tác…, tất cả đang
nằm trong những văn bản, đề án cụ thể đang chờ được thông qua để sớm đưa vào
thực hiện (Thông tư đấu thầu sản xuất phim, Quỹ hỗ trợ phát triển điện ảnh…).
47
NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN VIỆT NAM SAU 05 NĂM TRIỂN KHAI
THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 23-NQ/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ:
NHỮNG THÀNH TỰU, KHÓ KHĂN, TỒN TẠI VÀ CÁC GIẢI PHÁP
KIẾN NGHỊ
Nhạc sỹ Đào Đăng Hoàn
Phó cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn
Bộ Văn hóa, Thẻ thao và Du lịch
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG
Trong lịch sử lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá của Đảng
Cộng sản Việt Nam cho đến nay đã để lại 3 mốc quan trọng, đó là những bước
ngoặt trong chiến lược lãnh đạo văn hoá, văn nghệ của Đảng ta.
Thứ nhất, Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943;
Thứ hai, Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) năm 1998;
Thứ ba, nhằm phát huy vai trò, sứ mệnh cao quý của văn học, nghệ thuật và
của đội ngũ văn nghệ sĩ, ngày 16 tháng 6 năm 2008 Bộ chính trị đã ban hành
Nghị quyết số 23-NQ/TW về việc tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ
thuật trong thời kỳ mới. Có thể nói, Nghị quyết số 23-NQ/TW ra đời có ý nghĩa hết
sức quan trọng trong việc phát triển văn học nghệ thuật dân tộc cho mọi chiến lược
phát triển và hoạt động văn học, nghệ thuật Việt Nam nói chung, ngành Nghệ thuật
biểu diễn nói riêng trong thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Đảng dưới sự chỉ đạọ của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch, ngành Nghệ thuật biểu diễn đã tích cực chủ động phối
kết hợp với Hội văn học Nghệ thuật trung ương và địa phương, các Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch các tỉnh thành phố trong cả nước triển khai quyết liệt và đồng
bộ để thể chế hóa Nghị quyết một cách hiệu quả, thực sự đưa NQ vào đời sống
văn học nghệ thuật trong cả nước. Đặc biệt, là ngành Nghệ thuật biểu diễn đã có
những bước chuyển mình cụ thể như sau:
Ngày 01 tháng 3 năm 2011 Thủ tướng chính phủ đã có Quyết định số
316/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Xây dựng và rà soát các chế độ chính sách đối với
các hoạt động văn học, nghệ thuật và văn nghệ sỹ; chế độ tài trợ, đặt hàng đối với
các tác phẩm văn học, nghệ thuật; chính sách khuyến khích sáng tác trong các
hoạt động văn học, nghệ thuật” và đã được ban hành.
Theo đó các mục tiêu đã được xác định rõ ràng:
a) Tạo mọi điều kiện thuận lợi để đội ngũ văn nghệ sĩ sáng tạo ra nhiều tác
phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật; phát hiện và khẳng định những giá
trị mới làm phong phú và đa dạng đời sống văn hóa, văn nghệ; góp phần xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
48
b) Từng bước hoàn thiện khung pháp lý đối với việc tài trợ, đặt hàng và
khuyến khích sáng tác trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật.
c) Xây dựng chính sách đãi ngộ phù hợp, bình đẳng đối với văn nghệ sĩ
trong các cơ sở công lập và ngoài công lập, bảo đảm cho văn nghệ sĩ tạo ra các
tác phẩm văn học nghệ thuật có chất lượng; thực hiện chủ trương đẩy mạnh xã
hội hóa của Đảng và Nhà nước.
d) Có chính sách đào tạo, bồi dưỡng và đãi ngộ đặc biệt với nhân tài của
đất nước trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật.
đ) Tôn trọng, phát huy dân chủ, tự do tư tưởng trong hoạt động sáng tạo văn
học nghệ thuật, nghiên cứu, sưu tầm để tạo ra các sản phẩm văn học, công trình nghệ
thuật, gắn liền với phát huy trách nhiệm công dân của trí thức, văn nghệ sỹ.
e) Củng cố, đẩy mạnh hoạt động của các Hội văn học, nghệ thuật ở Trung
ương và địa phương nhằm nâng cao khả năng tập hợp, phát huy tiềm năng sáng
tạo và phát triển đội ngũ văn nghệ sỹ trong cả nước.
II. NHỮNG THÀNH TỰU ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC
Trong gần 5 năm qua, các chính sách của Đảng, Nhà nước đã tác động tích
cực đến Sự nghiệp phát triển Văn học nhệ thuật nói chung, lĩnh vực Nghệ thuật
biểu diễn nói riêng. Căn cứ vào những chính sách đã ban hành, các cơ quan quản
lý nhà nước ở Trung ương, địa phương đã triển khai và có những biện pháp đầu
tư cơ bản cho 128 đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp ở Trung ương, địa phương và
lực lượng vũ trang.
Hầu hết các đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp đều đã có trụ sở làm việc
riêng, có nơi luyện tập cho các nghệ sỹ để cùng nhau sáng tạo ra những tác phẩm
văn học nghệ thuật, đáp ứng sự đòi hỏi của xã hội, nâng cao đời sống và nhu cầu
hưởng thụ của nhân dân. Chính sách của Nhà nước đã hỗ trợ toàn diện cho các
đơn vị nghệ thuật công lập mua sắm trang thiết bị âm thanh, ánh sáng, phương
tiện đi lại và nhiều thiết bị vật tư khác phục vụ cho công tác dàn dựng tác phẩm,
quảng bá tác phẩm tới công chúng.
Một số nhà hát ở trung ương và địa phương đã được đầu tư tài chính để xây
dựng rạp biểu diễn cố định, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị ổn định về cơ
sở vật chất, thường xuyên biểu diễn tại những nhà hát (rạp) sẵn có để phục vụ
nhân dân, góp phần tích cực vào công tác bảo tồn, lưu giữ, phát huy các giá trị
của nghệ thật truyền thống, từng bước tiếp thu những tinh hoa nền nghệ thuật tiên
tiến của nhân loại nhằm xây dựng nền nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
Các chính sách đầu tư của Đảng và nhà nước trong lĩnh vực Nghệ thuật biểu
diễn đã tạo sự cởi mở, mang tính chủ động cho các đơn vị nghệ thuật. Các đơn vị
nghệ thuật công lập đều được xếp là đơn vị sự nghiệp có thu, quản lý theo cơ chế
gán thu, bù chi, được nhà nước tài trợ chênh lệch. Sự tài trợ của nhà nước trong điều
kiện hỗ trợ nghệ thuật biểu diễn phát triển theo định hướng, giữ vững chất lượng,
phát huy tính chủ động, sáng tạo của tập thể và cá nhân nghệ sỹ.
49
Hệ thống các đơn vị nghệ thuật trong cả nước đã được quy hoạch theo
hướng tinh giản đầu mối, đầu tư phát triển chiều sâu cho các loại hình nghệ thuạt
truyền thống; khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài công lập tham gia dưới
mọi hình thức để bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc.
Nhà nước đã đầu tư xây dựng, nâng cấp hệ thống đào tạo nghệ thuật trong
cả nước hiện nay khá khang trang, có đủ phương tiện, thiết bị kỹ thuật, máy móc
phục vụ công tác giảng dạy, học tập cho sinh viên theo học nghệ thuật; có chế độ
ưu đãi cho sinh viên theo học các chuyên ngành nghệ thuật truyền thống Tuồng,
Chèo, Cải lương và những loại hình nghệ thuật mang tính đặc thù như Xiếc,
Múa…Sự đầu tư đồng bộ cho hệ thống các trường đào tạo nghệ thuật là nền tảng
cơ bản cho các đơn vị nghệ thuật trong toàn quốc.
Cụ thể, hàng loạt các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước đã được ban
hành nhằm nâng cao vai trò quản lý và phát triển sự nghiệp đối với ngành Nghệ
thuật biểu diễn.
Ngày 14 tháng 03 năm 2011 Thủ tướng chính phủ ban hành Quyết định số
369/QĐ-TTg Phê duyệt“Đề án tiếp tục hỗ trợ hoạt động sáng tạo tác phẩm, công
trình văn học nghệ thuật, báo chí ở Trung ương và các Hội Văn học nghệ thuật
địa phương; hỗ trợ tác phẩm báo chí chất lượng cao ở các Hội Nhà báo địa phương giai đoạn 2011 - 2015”.
Ngày 01 tháng 6 năm 2011, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định
số 844/QĐ-TTg về việc “Đặt hàng sáng tác các tác phẩm văn học nghệ thuật có
giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, phản ánh cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ cứu nước giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước giai đoạn
1930-1975”. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch giao Cục Nghệ thuật biểu diễn chủ
trì, triển khai thực hiện Quyết định trên về việc đặt hàng sáng tác các tác phẩm
ngành Nghệ thuật biểu diễn.
Ngày 27 tháng 7 năm 2011, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định
số 1270/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu
số Việt Nam đến năm 2020”. Theo đó, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch giao Cục
Nghệ thuật biểu diễn phối hợp với Vụ Văn hóa dân tộc triển khai dự án thành
phần với nhiệm vụ trọng tâm là “giữ gìn và phát huy các loại hình nghệ thuật
biểu diễn truyền thống các dân tộc thiểu số; sưu tầm, phục hồi và phát triển một số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ thất truyền”.
Ngày 09 tháng 01 năm 2013, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết
định số 88/QĐ-TTg Phê duyệt Đề án “Quy hoạch và kế hoạch nâng cấp, xây mới
các công trình văn hóa (nhà hát, rạp chiếu phim, nhà triển lãm văn học nghệ
thuật) giai đoạn 2012 - 2020” nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống các công
trình văn hóa, đáp ứng nhu cầu về đời sống tinh thần ngày càng cao của nhân
dân, hướng tới mục tiêu xây dựng và phát triển toàn diện con người Việt Nam.
Ngày 18 tháng 12 năm 2011, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định
số 2406/QĐ-TTg Ban hành Danh mục các Chương trình mục tiêu quốc gia giai
đoạn 2012 - 2015, Trong đó, Dự án 5: Đầu tư phát triển các loại hình nghệ thuật
50
truyền thống thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia Văn hóa được Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch giao Cục Nghệ thuật biểu diễn triển khai thực hiện.
Ngày 05 tháng 9 năm 2012, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định
số 1211/QĐ-TTg Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa giai đoạn
2012-2015 với Mục tiêu phát triển nghệ thuật truyền thống: Xây dựng mới 07
Trung tâm nghệ thuật biểu diễn nghệ thuật truyền thống tại một số vùng tiêu biểu;
trang bị cho các Trung tâm nghệ thuật biểu diễn truyền thống 10 xe ôtô ca chuyên
dụng chở diễn viên, 10 xe ôtô tải chuyên dụng chở trang thiết bị, 10 máy phát
điện công suất từ 20 KVAđến 30 KWA và một số thiết bị âm thanh, ánh sáng,
nhạc cụ, đạo cụ, trang phục chuyên dụng; đầu tư xây dựng 30 chương trình nghệ
thuật biểu diễn truyền thống cho các đơn vị công lập, 10 chương trình cho các
đơn vị ngoài công lập; xây dựng 60 chương trình phát trên sóng Truyền hình
chuyên mục: “Trò chuyện về Nghệ thuật biểu diễn truyền thống Việt Nam” nhằm
giới thiệu và quảng bá tới đông đảo khán giả trong nước và quốc tế; tổ chức 40
đợt tập huấn về nghệ thuật biểu diễn truyền thống cho các đơn vị công lập và
ngoài công lập; tiếp tục đầu tư cho dự án “Sân khấu học đường” giai đoạn 2012 -
2015, thực hiện mỗi năm 06 chương trình ở các địa phương khác nhau.
Ngày 17 tháng 01 năm 2013, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã
ký Quyết định số 285/QĐ-BVHTTDL phê duyệt “Đề án tổ chức các Cuộc thi, Liên
hoan nghệ thuật Sân khấu và Ca múa nhạc chuyên nghiệp giai đoạn 2012 đến năm
2020, tầm nhìn 2030” nhằm tạo sự ổn định và phát triển bền vững trong quá trình
lao động sáng tạo nghệ thuật cho tất cả các đơn vị nghệ thuật trong và ngoài công lập
trên phạm vi toàn quốc. Đây là cơ sở để các đơn vị nghệ thuật chủ động chuẩn bị
nhân lực, tài chính, tác phẩm, phương thức hoạt động, phương pháp sáng tạo cho
phù hợp với tình hình thực tế của từng đơn vị. Các Cuộc thi, liên hoan nghệ thuật
chuyên nghiệp là một hoạt động mang ý nghĩa lớn, giúp cho các nhà quản lý nghệ
thuật, các đơn vị, các nghệ sỹ đánh giá, tổng kết kết quả hoạt động của từng loại hình
trong một thời gian dài; từ đó tìm ra phương hướng hoạt động, định hướng sáng tạo
để có nhiều tác phẩm đạt chất lượng cao phục vụ nhân dân. Các hoạt động này còn
tôn vinh các tập thể, các cá nhân đã có nhiều cống hiến trong quá trình lao động sáng
tạo nghệ thuật; là dịp để các nghệ sỹ giao lưu, trao đổi, học tập kinh nghiệm lẫn nhau
nhằm nâng cao chất lượng tác phẩm.
Ngày 05 tháng 10 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số
79/2012/NĐ-CP quy định về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người
đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu
gồm 5 chương 31 điều và có hiệu lực từ ngày 01/01/2013. Nghị định ra đời được
xem là biện pháp mạnh tay để chấn chỉnh các hoạt động biểu diễn, giải quyết nạn hát
nhép, ăn mặc phản cảm, vi phạm cấp phép biểu diễn đã diễn ra quá nhiều và gây bức
xúc trong dư luận thời gian qua. Đây là văn bản quy phạm pháp luật mang tính pháp
lý cao nhất về lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở thời điểm hiện tại để định hướng, điều
chỉnh các hoạt động nghệ thuật biểu diễn.
Bên cạnh đó Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng đầu tư kinh phí tổ chức
nhiều Liên hoan quốc tế tại Việt Nam nhằm giao lưu trao đổi Văn hóa, tiếp thu
những thành tựu của bạn bè quốc tế về nghệ thuật biểu diễn, giới thiệu các giá trị
51
độc đáo của nghệ thuật Việt Nam tới cộng đồng quốc tế và nâng cao nhu cầu
hưởng thụ nghệ thuật của khán giải trong nước.
Các chính sách của Đảng và nhà nước bước đầu đã thu hút nhiều nguồn lực
xã hội tham gia các hoạt động sáng tạo và quảng bá tác phẩm trong lĩnh vực nghệ
thuật biểu diễn, thúc đẩy tiến trình xã hội hóa, hoạt động nghệ thuật.
Ngày 18 tháng 02 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
số 321/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về du lịch
giai đoạn 2013-2020. Trong đó, việc phát huy các loại hình nghệ thuật truyền
thống vừa thúc đẩy hoạt động biểu diễn, giới thiệu các giá trị văn hóa đặc sắc
vùng miền đến với du khách, vừa quảng bá du lịch, hỗ trợ xây dựng thương hiệu
cho các hoại hình du lịch tiêu biểu gắn với các địa phương, doanh nghiệp.
Hiện nay, nhằm tăng cường công tác quản lý và phát triển sự nghiệp, Cục
Nghệ thuật biểu diễn đã và đang triển khai xây dựng các Quy chế như:
- Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng nghệ thuật ngành Nghệ thuật
biểu diễn;
- Chương trình phối hợp hoạt động giữa Cục Nghệ thuật biểu diễn với Hội
văn học nghệ thuật chuyên ngành Trung ương (Hội Nghệ sỹ Sân khấu Việt Nam,
Hội Nhạc sỹ Việt Nam, Hội Nghệ sỹ Múa Việt Nam);
- Quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo các cuộc thi, liên hoan nghệ thuật
chuyên nghiệp;
- Quy chế hoạt động của Ban Tổ chức các cuộc thi, liên hoan nghệ thuật
chuyên nghiệp.
III. NHỮNG KHÓ KHĂN, TỒN TẠI
Nghệ thuật biểu diễn bao gồm nghệ thuật biểu diễn sân khấu và biểu diễn
ca múa nhạc là loại hình đặc biệt của hoạt động văn hoá, là lao động sáng tạo của
nghệ sỹ phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân. Trong những năm qua, tình
hình ngân sách Nhà nước có nhiều khó khăn, cùng với việc chuyển cơ chế bao
cấp sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, chính sách tài trợ của ngân sách
Nhà nước cho các đơn vị nghệ thuật chưa được hướng dẫn thống nhất, mỗi nơi
tiến hành một cách, nhiều đơn vị nghệ thuật chưa quan tâm đúng mức tới chất
lượng nghệ thuật, chạy theo thị hiếu tầm thường để doanh thu, các loại hình nghệ
thuật truyền thống bị sa sút nghiêm trọng.
* Về đầu tư cơ sở hạ tầng và các thiết chế
Quyết định số 45/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Quy hoạch
phát triển nghệ thuật biểu diễn Việt Nam đến 2010 đã đưa ra kế hoạch “cải tạo,
nâng cấp các rạp hát hiện có, đồng thời xây dựng mới một số nhà hát, trung tâm
văn hoá... Năm 2010 phấn đấu 100% các đơn vị nghệ thuật có sàn tập đủ điều
kiện luyện tập và dàn dựng tác phẩm” và đưa ra một danh mục các nhà hát sẽ
được xây dựng đến năm 2010. Tuy nhiên, hiện nay, chỉ có một số nhà hát được
nâng cấp, cải tạo như Rạp hát Hồng Hà giao cho Nhà hát Tuồng Việt Nam, Rạp
52
Kim Mã giao cho Nhà hát Chèo Việt Nam; Rạp Công nhân giao cho Nhà hát
Kịch Hà Nội, 01 nhà hát được xây dựng mới là Trung tâm nghệ thuật Âu Cơ -
Nhà hát Ca, Múa, Nhạc Việt Nam, 01 nhà hát chuẩn bị khởi công xây dựng mới
là Nhà hát Ca, múa, nhạc dân gian Việt Bắc tại thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái
Nguyên.
Hiện cả nước có 128 đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp, hơn 200 đoàn nghệ
thuật xã hội hoá, hơn 41.000 đội văn nghệ cấp xã, phường, hàng trăm đội thông
tin tuyên truyền, chưa kể hơn 150 câu lạc bộ nghệ thuật tư nhân. Nhưng hiện nay
mới chỉ có gần 130 điểm biểu diễn nghệ thuật có mái che bao gồm nhà hát, rạp
hát, trung tâm văn hoá, cung văn hoá tập trung tại các thành phố lớn và chủ yếu
có từ thời Pháp. Nhiều tỉnh chưa có nhà hát, hoạt động Nghệ thuật biểu diễn được
thực hiện tại các nhà văn hóa. Tại không ít tỉnh, thành phố, thiết chế văn hoá ở
các vị trí đắc địa, trong đó có nhà hát, còn bị bán hoặc bị chuyển đổi mục đích sử
dụng. Một số rạp hát, trung tâm văn hoá mới xây ở xa trung tâm dân cư, không
tiện đường giao thông nên hiệu quả hoạt động Nghệ thuật biểu diễn không cao,
trong khi những địa điểm đẹp thường được dành để xây dựng nhà hàng, khách
sạn. Tại Hà Nội, trong số 12 đơn vị Nghệ thuật biểu diễn trung ương chỉ có 3 nhà
hát ở mặt tiền phố lớn, đi lại thuận tiện; còn lại, nếu đơn vị có rạp thì hầu như đều
nằm trong ngõ hẹp. Hầu hết các khu đô thị mới không có một công trình văn hóa
nào. Các nhà văn hóa, trung tâm văn hóa có thể dùng Biểu diễn nghệ thuật phần
lớn được xây dựng với chức năng hội trường, vì vậy sân khấu, âm thanh, ánh
sáng,… không được thiết kế phù hợp với hoạt động Nghệ thuật biểu diễn.
Về trang thiết bị, những năm gần đây, một số địa phương đã quan tâm đầu tư
cho các đoàn nghệ thuật của mình, nhưng nhìn chung việc đầu tư cho lĩnh vực này
còn rất hạn chế; các đơn vị Nghệ thuật biểu diễn công lập phải thường xuyên đối mặt
với tình trạng thiết bị âm thanh, ánh sáng, phương tiện kỹ thuật phục vụ cho luyện
tập và biểu diễn thiếu thốn, cũ kỹ, lạc hậu. Một số nhà hát, cơ sở biểu diễn tuy được
sửa chữa, nâng cấp trang thiết bị nhưng chất lượng không đáp ứng yêu cầu, hiệu
quả sử dụng không cao do không có chỗ lắp đặt, thiết bị máy móc chắp vá, không
đồng bộ, kỹ thuật viên sử dụng thiết bị âm thanh ánh sáng không được đào tạo
đúng chuyên ngành, ảnh hưởng đến chất lượng nghệ thuật và không đáp ứng
được nhu cầu thưởng thức nghệ thuật ngày càng cao của nhân dân.
* Chính sách tiền lương, chế độ phụ cấp nghề và bồi dưỡng luyện tập
biểu diễn
Với đặc thù của lĩnh vực nghệ thuật, mọi sáng tạo đều mang dấu ấn riêng
của cá nhân. Các chế độ, chính sách đối với nghệ sĩ lại đang mang tính cào bằng,
không chú ý đến đặc thù của người lao động nghệ thuật. Vì vậy, không động viên
được sức sáng tạo của người nghệ sĩ.
+ Chính sách tiền lương
Hiện nay, theo Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính
phủ Về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ
trang, trong đó thang lương của người hoạt động Nghệ thuật biểu diễn gồm ba
hạng (hạng I, hạng II, hạng III) với 26 bậc, nhưng tiêu chí cụ thể để xếp ngạch
53
lương theo hạng cho diễn viên thì chưa được ban hành cụ thể. Theo quy định của
Bộ Nội vụ, việc nâng ngạch từ hạng III lên hạng II phải qua kỳ thi nâng ngạch
như viên chức ngành nghề khác. Nhưng nhiều năm qua, việc tổ chức thi nâng
ngạch cho ngành Nghệ thuật biểu diễn không được thực hiện. Nhiều nghệ sỹ
được Nhà nước đánh giá, công nhận và phong tặng các danh hiệu cao quý hiện
đang hoạt động hiệu quả trong các đơn vị nghệ thuật trung ương và địa phương đã
vượt khung lương diễn viên hạng III từ 15 năm tới 19 năm nay vẫn không có cơ
hội được xét hoặc thi nâng chuyển ngạch bậc...
+ Chế độ phụ cấp nghề và bồi dưỡng luyện tập biểu diễn
Quyết định số 180/2006/QĐ-TTg ngày 09/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ
về chế độ phụ cấp ưu đãi nghề và bồi dưỡng đối với lao động biểu diễn nghệ thuật
ngành Văn hóa-Thông tin và Thông tư liên tịch số 94/2006/TTLT/ BVHTT-BNV-
BTC ngày 01/12/2006 hướng dẫn thực hiện Quyết định số 180/2006/QĐ-TTg ngày
09/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ thì chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề và bồi
dưỡng đối với lao động biểu diễn nghệ thuật (diễn viên) trong các đơn vị nghệ thuật
của nhà nước thuộc ngành văn hoá, mức phụ cấp nghề nghiệp tùy theo loại hình
nghệ thuật đối với nghệ sĩ là 15% hoặc 20% lương cơ bản; bồi dưỡng luyện tập từ
10.000đ - 20.000đ/buổi và bồi dưỡng biểu diễn từ 20.000 đ - 50.000đ/buổi. Với mức
hưởng phụ cấp và bồi dưỡng luyện tập trên, các nghệ sỹ muốn gắn bó lâu dài với
nghề phải tìm thêm những công việc khác, nhiều khi không liên quan đến nghệ
thuật để có thể bảo đảm cuộc sống và duy trì nghề nghiệp.
* Chế độ nhuận bút
Chế độ nhuận bút hiện hành được quy định tại Nghị định số 61/2002/NĐ-
CP ngày 11 tháng 6 năm 2002 của Chính phủ và Thông tư liên tịch số
21/2003/TTLT-BVHTT-BTC ngày 01 tháng 7 năm 2003 của liên tịch Bộ Văn
hóa - Thông tin (trước đây) và Bộ Tài chính hướng dẫn việc chi trả chế độ nhuận
bút, trích lập và sử dụng quỹ nhuận bút đối với một số loại hình tác phẩm.
Nghị định số 61/2002/NĐ-CP ngày 11/6/2002 của Chính phủ về chế độ
Nhuận bút quy định khung nhuận bút chi trả cho các tác giả trong nhiều lĩnh vực.
Tuy nhiên, một số thành phố lớn, các đoàn nghệ thuật có nguồn thu cao cho rằng
khung nhuận bút trong Nghị định là quá thấp. Nhưng một số tỉnh, các đơn vị
Nghệ thuật biểu diễn của địa phương cho rằng, mức quy định trong Nghị định 61
là cao, ngân sách địa phương không có khả năng chi trả. Cho nên, nhiều đơn vị
Nghệ thuật biểu diễn không áp dụng khung nhuận bút này, mà thực hiện chi trả
nhuận bút theo sự thỏa thuận với tác giả thông qua hợp đồng dân sự.
* Chế độ bảo hiểm xã hội
Do đặc thù hoạt động Nghệ thuật biểu diễn, đối với một số môn nghệ thuật
như xiếc, múa,... nghệ sĩ phải đối mặt với nguy cơ rủi ro cao, dễ xảy ra chấn
thương, tai nạn. Tuy nhiên, mức mua bảo hiểm cho diễn viên thường thấp, khi
xảy ra tai nạn, việc chi trả từ bảo hiểm không cao, không đảm bảo được quyền lợi
của nghệ sĩ.
54
Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội thì chỉ thực hiện cho một số lao động
biểu diễn nghệ thuật (các nghệ sỹ) đủ điều kiện theo quy định mới được hưởng lương
hưu. Thực tế, hiện nay có nhiều nghệ sỹ vẫn còn sức khỏe, nhưng không còn khả năng
biểu diễn nghệ thuật, không thể đào tạo lại được, không bố trí được công việc khác,
vẫn còn trong biên chế và hưởng lương lại không thuộc đối tượng hưởng lương hưu
theo quy định vì có tuổi đời: nam từ đủ 50 tuổi đến dưới 55 tuổi, nữ từ đủ trẻ hóa được
đội ngũ, không khuyến khích nghệ sĩ trẻ hăng say sáng tạo.
* Chính sách thẩm định các tác phẩm nghệ thuật
Mức thu phí thẩm định quá thấp, không tương xứng với công sức bỏ ra cho
việc thẩm định, không phù hợp với các mức thu phí trong tương quan các ngành
kinh tế khác, không khuyến khích kịp thời các nhà chuyên môn hoạt động trong
lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn.
- Văn bản ban hành đã được gần 8 năm trong khi tình trạng trượt giá diễn
ra từng ngày, riêng cải cách chế độ tiền lương cho người lao động (mặc dù thất
bại do bão giá) nhưng về con số đơn thuần cũng đã tăng gấp nhiều lần… Các văn
bản trên ban hành đã lâu, khung giá quá cứng nhắc, tình hình trượt giá cho đến
nay đã gấp 3.0 lần so với mức lương cơ bản. Mức thu phí thẩm định quá thấp,
không tương xứng với công sức bỏ ra cho việc thẩm định, không phù hợp với các
mức thu phí trong tương quan các ngành kinh tế khác, không khuyến khích kịp
thời cho các nhà chuyên môn hoạt động trong lĩnh vực Văn hóa nói chung, Nghệ
thuật biểu diễn nói riêng.
* Chính sách đấu thầu đặt hàng tác phẩm
Các văn bản pháp quy về đấu thầu, đặt hàng hiện nay đã có, nhưng cho đến
thời điểm hiện tại chưa có văn bản nào quy định cụ thể về đấu thầu, đặt hàng
trong hoạt động biểu diễn nghệ thuật sử dụng ngân sách Nhà nước. Vì vậy, các
hoạt động biểu diễn nghệ thuật không thể tiến hành đấu thầu như yêu cầu của
Quyết định số 39/2008/QĐ-TTg ngày 14 tháng 3 năm 2008 của Thủ tướng Chính
phủ ban hành Quy chế đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự
nghiệp công sử dụng ngân sách Nhà nước
IV. GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ CHO NGÀNH NGHỆ THUẬT BIỂU
DIỄN TỪ NĂM 2013-2020, TẦM NHÌN 2030
1. Từ năm 2013 - 2015, đề nghị Nhà nước tăng mức đầu tư cho văn hóa nghệ
thuật tương đương với mức đầu tư cho Khoa học - Công nghệ là 2% tổng chi ngân
sách của nhà nước (Ngày 19/06/2012, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số
99/2012/TT-BTC hướng dẫn xây dựng dự toán ngân sách Nhà nước năm 2013.
Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 4/8/2012. Theo đó, lĩnh vực văn hóa
thông tin đạt tối thiểu 1,8%; lĩnh vực khoa học và công nghệ đạt tối thiểu 2% tổng chi ngân sách Nhà nước... ).
2. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các Văn bản quy phạm pháp luật có tính
pháp lý cao để điều chỉnh mọi hoạt động trong lĩnh vực Nghệ thuật biểu diễn;
55
Phấn đấu đến năm 2014 ban hành Pháp lệnh về Nghệ thuật biểu diễn, năm 2020
ban hành Luật Nghệ thuật biểu diễn.
3. Sửa Điều 6 Bộ Luật Lao động và Điều 51 Luật Bảo hiểm xã hội cho
phù hợp với đặc thù của ngành Nghệ thuật biểu diễn để đảm bảo quyền lợi của
người lao động.
4. Tiếp tục xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển ngành Nghệ thuật
biểu diễn; sắp xếp lại các đoàn nghệ thuật công lập trên cả nước; có chính sách cụ
thể hỗ trợ đầu tư tài chính cho các đoàn nghệ thuật truyền thống ở trung ương và
địa phương.
5. Chỉ đạo nghiên cứu để cụ thể hoá chính sách xã hội hóa và đẩy mạnh xã
hội hóa hoạt động Nghệ thuật biểu diễn; ban hành chính sách thuế và đất đai (giao
đất, cho thuê đất) phù hợp để khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu
tư cơ sở vật chất và tham gia hoạt động Nghệ thuật biểu diễn.
6. Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, nâng cấp trang thiết bị cho
ngành Nghệ thuật biểu diễn; nghiêm cấm bán, chuyển đổi mục đích sử dụng đối
với các thiết chế văn hóa hiện đang quản lý và sử dụng.
7. Chỉ đạo các bộ, ngành sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách, chế độ
phù hợp với đặc thù của ngành Nghệ thuật biểu diễn. Trong đó:
- Xem xét, sửa đổi, bổ sung chế độ tiền lương, phụ cấp, thù lao, nhuận bút;
hướng dẫn tổ chức thi, xét nâng ngạch cho diễn viên phù hợp với đặc thù lao
động ngành Nghệ thuật biểu diễn.
- Xem xét, sửa đổi các Văn bản quy phạm pháp luật và văn bản chỉ đạo liên
quan đến bản quyền cho phù hợp với Luật Sở hữu trí tuệ, nhằm khuyến khích sáng
tạo và đảm bảo quyền lợi của chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan.
- Có cơ chế tuyển sinh phù hợp với đặc thù của các trường Văn hóa nghệ
thuật; tăng kinh phí đào tạo hợp lý; có chính sách miễn học phí cho học sinh các
bộ môn nghệ thuật truyền thống; có chính sách đưa đi đào tạo nước ngoài một số
ngành nghệ thuật mà Việt Nam chưa đào tạo được.
- Thí điểm việc giao tuyển sinh, đào tạo cho một số đơn vị nghệ thuật trung
ương để có được những diễn viên phù hợp với loại hình nghệ thuật mà đơn vị
đang thiếu nhân lực; bố trí kinh phí trong ngân sách hàng năm cho các đơn vị
nghệ thuật chuyên nghiệp về việc đào tạo, tuyển sinh.
8. Tiếp tục hoàn thiện quy định về trách nhiệm, quyền hạn, quan hệ công
tác cũng như cơ chế phối hợp trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý nhà nước
về văn hóa ở trung ương và địa phương trong quản lý Nghệ thuật biểu diễn;
kiện toàn tổ chức, tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý kịp thời, nghiêm minh
các sai phạm trong lĩnh vực Nghệ thuật biểu diễn.
Trên đây là bài tham luận: Nghệ thuật biểu diễn Việt Nam sau 5 năm triển
khai thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ chính trị, những thành tựu, khó
khăn, tồn tại và những giải pháp kiến nghị của Cục Nghệ thuật biểu diễn.
Xin trân trọng cảm ơn!
56
NGÀNH MỸ THUÂT, NHIẾP ẢNH VÀ TRIỂN LÃM
SAU 5 NĂM TRIỂN KHAI THỰC HIỆN
NGHỊ QUYẾT SỐ 23- NQ/TW NGÀY 16 THÁNG 6 NĂM 2008
CỦA BỘ CHÍNH TRỊ; NHỮNG THÀNH TỰU, KHÓ KHĂN, TỒN TẠI
VÀ CÁC GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ
Đoàn Thị Thu Hương
Phó Cục trưởng
Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Sau 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 23-NQ-TW ngày 16 tháng 6
năm 2008 của Bộ Chính trị, ngành Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm đã đạt
những những thành tựu đáng khích lệ. Với đặc trưng ngôn ngữ được quốc tế hóa,
Mỹ thuật và Nhiếp ảnh đã hội nhập rất sớm với thế giới, đáp ứng được những đòi
hỏi mới của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập
quốc tế; tiếp tục triển khai Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị “ Về tiếp tục xây dựng
và phát triển Văn học - Nghệ thuật trong thời kỳ mới”.
I. THÀNH TỰU
Được sự chỉ đạo sâu sát của Lãnh đạo Bộ, trong 5 năm qua, Cục Mỹ thuật,
Nhiếp ảnh và Triển lãm đã khẩn trương triển khai tích cực việc xây dựng các văn
bản quản lý nhà nước, dần dần từng bước hoàn thiện và hình thành hệ thống các
văn bản tạo hành lang pháp lý cho hoạt động Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm.
Hoàn thành tốt các hoạt động sự nghiệp ở quy mô quốc gia, quốc tế. Phục vụ Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Phục vụ Đại lễ 1000 năm Thăng Long- Hà Nội.
Tổ chức thành công các triển lãm Mỹ thuật, Nhiếp ảnh quy mô toàn quốc. Các
triển lãm Mỹ thuật, Nhiếp ảnh đưa ra nước ngoài như Triển lãm ảnh tại Paris,
New York hay ở Tokyo đều để lại ấn tượng mạnh trong bạn bè quốc tế.
1.1. Về Công tác quản lý nhà nước
Công tác quản lý nhà nước là nhiệm vụ và chức năng quan trọng trong các
lĩnh vực quản lý của Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm cũng như của các Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh, thành phố. Chưa bao giờ công tác quản lý nhà
nước, công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật trong ngành Mỹ thuật,
Nhiếp ảnh và Triển lãm lại trở nên cần thiết và cấp bách như hiện nay, khi mà lực
lượng, đối tượng hoạt động trong lĩnh vực này phát triển mạnh. Các hình thức
hoạt động ngày càng phong phú, đa dạng, sự quan tâm và tác động đến đời sống
xã hội ngày một nhiều, đặt ra những vấn đề cần có giải pháp hiệu quả trong công
tác quản lý.
1.1.1. Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
57
Trong 5 năm (2008-2013) công tác quản lý nhà nước ngành Mỹ thuật,
Nhiếp ảnh và Triển lãm đã tập trung vào việc xây dựng, hoàn thiện các văn bản
quy phạm pháp luật về quản lý ngành. Đây là giai đoạn Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh
và Triển lãm tập trung vào việc xây dựng các văn bản quản lý Nhà nước, các văn
bản quy phạm pháp luật thiết yếu cho hoạt động của ngành Mỹ thuật, Nhiếp ảnh
và Triển lãm; xây dựng văn bản mới và văn bản thay thế cho phù hợp với thực tế
phát triển.
- Xây dựng Nghị định Mỹ thuật:
Việc xây dựng Nghị định về hoạt động mỹ thuật là một cố gắng lớn để đáp
ứng đòi hỏi của công tác quản lý nhà nước. Đây là Nghị định được xây dựng khi
chưa có luật hay pháp lệnh mỹ thuật. Quá trình xây dựng Nghị định đã được tiến
hành tích cực. Đến nay Nghị định đã hoàn thành và trình Thủ tướng Chính phủ
ban hành trong thời gian tới. Đây sẽ là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực
pháp lý cao nhất của ngành Mỹ thuật từ trước đến nay, bao hàm các nội dung
quản lý từ sáng tác, triển lãm, thẩm định, mua bán, sao chép tác phẩm mỹ thuật,
xây dựng tượng đài, tranh hoành tráng, bảo quản, tu sửa, hạ giải công trình, tổ
chức trại sáng tác điêu khắc.v.v… Nhiều nội dung mới và cụ thể đã được đưa vào
Nghị định như các nội dung về chính sách của nhà nước đối với hoạt động mỹ
thuật; kinh phí cho các công trình công cộng, thẩm định, đấu giá, bảo quản… các
công trình mỹ thuật.v.v…
Cùng với việc xây dựng Nghị định về hoạt động mỹ thuật là dự thảo Thông
tư hướng dẫn Nghị định đã được tiến hành nhằm cụ thể hóa và hướng dẫn thực
hiện các vấn đề trong Nghị định.
- Quy hoạch phát triển ngành:
Việc Quy hoạch phát triển ngành Mỹ thuật đến năm 2020 tầm nhìn 2030
cũng đang được tiến hành. Đây là Quy hoạch có tầm chiến lược để định hướng
phát triển ngành mỹ thuật từ nay đến 2020 và tiếp theo đến 2030. Nhiều vấn đề
cấp thiết và lâu dài cho sự phát triển của ngành Mỹ thuật sẽ được đưa vào Quy
hoạch để trình Chính phủ trong năm 2013.
- Quy hoạch tượng đài Quốc tổ Hùng Vương và danh nhân anh hùng dân
tộc cấp quốc gia đã được xây dựng xong và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt
trong thời gian tới.
- Đề án Quốc hoa và Lễ phục: Từ năm 2011, Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và
Triển lãm cũng đã tiến hành xây dựng Đề án Quốc hoa và Lễ phục nhà nước. Đây
là những đề án có tác động xã hội rộng rãi, được sự quan tâm của các tầng lớp
nhân dân. Đề án Quốc hoa hiện nay đã hoàn thành để trình cấp có thẩm quyền
phê duyệt. Sau khi Đề án Quốc hoa được ban hành, Cục sẽ tiến hành xây dựng
Quy chế sử dụng Quốc hoa Việt Nam và các nội dung khác để tôn vinh và quảng
bá Quốc hoa Việt Nam. Đề án Lễ phục hiện đang trong quá trình thực hiện.
- Trong lĩnh vực Nhiếp ảnh, một lĩnh vực có số đông lực lượng tham gia,
có tính đại chúng cao, phổ biến nhanh và sâu rộng, phát triển mạnh trong đời
sống xã hội; Quy chế hoạt động Nhiếp ảnh trước đây cũng đã bộc lộ nhiều vấn đề
58
bất cập đặc biệt là trong việc sử dụng ảnh, quy chế này đã được thay thế bằng
Thông tư Nhiếp ảnh vừa được Bộ VHTTDL ban hành tháng 12 năm 2012.
- Công tác quản lý nhà nước lĩnh vực Triển lãm trước đây thuộc trách
nhiệm quản lý của Cục Văn hóa thông tin cơ sở. Sau khi sát nhập Bộ, được
chuyển giao về Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm. Trong lĩnh vực này, công
tác quản lý hiện vẫn còn có sự chồng chéo giữa các Bộ, ngành có các hoạt động
triển lãm. Hiện nay, hoạt động triển lãm diễn ra ở nhiều lĩnh vực, với nhiều nội
dung thuộc sự quản lý của các Bộ, ngành khác nhau. Ngoài các triển lãm mỹ
thuật, nhiếp ảnh diễn ra nhiều, liên tục thuộc sự quản lý đã rõ ràng của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch và Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thì các triển lãm về
nông nghiệp, công nghiệp, y tế, hàng hóa tiêu dùng.v..v.. cũng diễn ra thường
xuyên nhưng sự quản lý nhà nước chưa thống nhất. Vai trò và trách nhiệm của Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh, thành
phố hiện nay vẫn chủ yếu trong phạm vi chịu trách nhiệm và quản lý các triển
lãm có nội dung về Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các triển lãm văn hóa nghệ
thuật khác và triển lãm mỹ thuật, nhiếp ảnh.
1.1.2. Công tác cấp giấy phép các hoạt động Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm
Tính trung bình hàng năm trên cả nước có khoảng 300 cuộc triển lãm mỹ
thuật, nhiếp ảnh ở các quy mô tổ chức từ triển lãm toàn quốc, triển lãm khu vực,
tỉnh, thành phố đến các triển lãm nhóm và cá nhân tác giả.
Công tác cấp giấy phép các hoạt động Mỹ thuật, Nhiếp ảnh là hoạt động
quản lý thường xuyên của Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm và các Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch.
Trong 5 năm qua, công tác này đã được thực hiện khá tốt và đã tạo được nề
nếp nhất định. Việc tiếp nhận hồ sơ xin phép, thụ lý hồ sơ và cấp giấy phép đã
được tiến hành đúng quy trình quy định; đảm bảo sự nghiêm túc trong nội dung
tư tưởng của các triển lãm theo đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng, pháp luật
của Nhà nước.
Các triển lãm về nghệ thuật đương đại như sắp đặt, trình diễn, video art,
graffiti…, ảnh nude cũng là những vấn đề cần có cách nhìn nhận, đánh giá và giải
pháp phù hợp của cơ quan quản lý trong việc cấp giấy phép, vấn đề này đòi hỏi
cần có cán bộ quản lý có chuyên môn, nghiệp vụ, có nhận thức chính trị đúng đắn
và có quan niệm phù hợp với sự phát triển của văn học nghệ thuật hiện nay trong
xu thế hội nhập quốc tế.
Việc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có chủ trương thành lập phòng văn
học nghệ thuật ở các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các địa phương là chủ
trương đúng đắn cần sớm được triển khai, phù hợp với đòi hỏi thực tế của công
tác quản lý và sự phát triển của văn học nghệ thuật trong đời sống, thiết thực triển
khai thực hiện Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị về xây dựng văn học nghệ thuật
trong tình hình mới.
Thực tế cho thấy những năm qua công tác văn học nghệ thuật ở một số địa
phương còn chưa được quan tâm đúng mức, chưa thỏa đáng với hoạt động nghề
59
nghiệp với sự đóng góp và tác động của văn học nghệ thuật đối với đời sống xã hội.
Việc khá nhiều Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch không có hoặc chưa có phòng
quản lý văn học nghệ thuật, không có cán bộ quản lý lĩnh vực tham mưu cho lãnh
đạo Sở mảng công tác này đã dẫn đến sự lúng túng trong quản lý, một số Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch không chỉ khó khăn khi làm công tác quản lý cấp giấy
phép các hoạt động mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm vì thiếu cán bộ, thiếu bộ máy
tổ chức mà còn có một số tỉnh, thành phố ủy thác các nhiệm vụ hoạt động sự
nghiệp Mỹ thuật, Nhiếp ảnh cho các Hội văn học nghệ thuật địa phương là một
thực tế có thật. Các hoạt động văn học nghệ thuật ở địa phương có các lĩnh vực
như điện ảnh (sản xuất và phát hành phim, chiếu phim), nghệ thuật biểu diễn (ca
múa, sân khấu) được các Sở quan tâm hơn, còn mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm,
văn học, thủ công mỹ nghệ.v.v… là những lĩnh vực chưa được quan tâm đúng
mức thậm chí bị coi là công việc của Hội văn nghệ.
Công tác cấp giấy phép xây dựng các công trình tượng đài, tranh hoành
tráng thời gian qua thực hiện theo Quy chế 05 về cơ bản là tốt, giảm thiểu được
các công trình không đảm bảo về chất lượng nghệ thuật. Tuy nhiên, trong lĩnh
vực này, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các địa phương cần khẩn trương phối
hợp với Sở Xây dựng tham mưu, đề xuất với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
xây dựng quy hoạch tượng đài của địa phương, có quy hoạch quỹ đất cho các
công trình tượng đài trong quy hoạch tổng thể các tỉnh, thành phố, tránh tình
trạng khi có công trình mới giải tỏa, tìm đất xây dựng công trình.
Việc thành lập các Hội đồng nghệ thuật công trình tượng đài, tranh hoành
tráng cũng cần chấn chỉnh cho đúng thành phần, tỉ lệ các nhà chuyên môn. Về
vấn đề Hội đồng nghệ thuật xây dựng tượng đài, Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và
Triển lãm đã tham mưu và Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ký
quyết định thành lập Hội đồng nghệ thuật tượng đài quốc gia (Quyết định số 2203
ngày 18 tháng 7 năm 2011) để các địa phương căn cứ và mời tham gia vào Hội
đồng của địa phương mình. Cần hạn chế xây dựng các tượng đài có quy mô quá
to lớn, đặc biệt cần chú trọng đến chất lượng nghệ thuật của tượng đài. Công tác
quy hoạch tượng đài cần được tiến hành song song với quy hoạch đô thị của các
địa phương.
1.1.3. Công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và
Triển lãm
Công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm
những năm qua đã có nhiều cố gắng nhưng vẫn chưa đáp ứng được với thực tế
bởi lực lượng mỏng, thiếu thanh tra chuyên ngành của từng lĩnh vực. Một số vụ
việc chưa được xử lý kịp thời, còn chậm so với thực tế diễn biến của sự việc.
Hiện nay các sai phạm trong lĩnh vực Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm
vẫn tập trung vào một số vấn đề như: triển lãm không xin cấp giấy phép, xâm
phạm bản quyền tác giả, buôn bán tác phẩm giả mạo, sao chép không đúng quy
định, có một vài vụ việc tác phẩm sai phạm về nội dung chính trị đã được ngăn
chặn kịp thời. Thực tế cho thấy phải tăng cường công tác kiểm tra cấp giấy phép,
60
hậu kiểm, kiểm tra, giám sát các hoạt động mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, có
cán bộ chuyên môn để tham mưu trực tiếp giải quyết vụ việc.
Tác phẩm nghệ thuật có sức lan tỏa lớn trong cộng đồng, đặc biệt là trong
giới trẻ, trí thức, việc tăng cường công tác kiểm tra, xử phạt cần được triển khai
thường xuyên, liên tục để có sự răn đe phòng ngừa từ trước, phòng ngừa hơn xử lý
hậu quả.
1.2. Hoạt động sự nghiệp
Các hoạt động sự nghiệp hiện nay chủ yếu vẫn tập trung vào các hoạt động
như sáng tác, công bố, phổ biến tác phẩm, xây dựng các công trình mỹ thuật, tổ
chức các trại sáng tác.v.v… Các hoạt động này ở các quy mô như toàn quốc, khu
vực, tỉnh, thành phố, đơn vị, cá nhân, thường xuyên diễn ra trong cả nước.
Một số cuộc triển lãm có quy mô lớn, tầm ảnh hưởng rộng như:
- Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc (5 năm 1 lần)
- Triển lãm Mỹ thuật ứng dụng toàn quốc (5 năm 1 lần)
- Triển lãm điêu khắc (10 năm 1 lần)
- Triển lãm Mỹ thuật hàng năm của Hội Mỹ thuật Việt Nam diễn ra ở 8 khu
vực trong cả nước
- Triển lãm Nhiếp ảnh hàng năm của Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam diễn
ra ở 8 khu vực trong cả nước
- Triển lãm Ảnh nghệ thuật toàn quốc (2 năm 1 lần)
- Triển lãm ảnh quốc tế Việt Nam của Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam (2
năm 1 lần).
Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc (5 năm 1 lần) và Triển lãm ảnh nghệ thuật
toàn quốc (2 năm 1 lần) là hai triển lãm có quy mô lớn nhất hiện nay của ngành
Mỹ thuật và Nhiếp ảnh. Triển lãm nhằm tổng kết và đánh giá chặng đường sáng
tác của các nghệ sĩ, có thể nhìn nhận, đánh giá sự phát triển cũng như những hạn
chế của hoạt động Mỹ thuật, Nhiếp ảnh thông qua các triển lãm này.
Ngoài các triển lãm định kỳ trên còn có nhiều triển lãm Mỹ thuật, Nhiếp
ảnh chuyên đề khác do Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm, Hội Mỹ thuật
Việt Nam, Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam, các Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch, Hội Văn học nghệ thuật, các tổ chức, cá nhân tổ chức trong khắp cả nước thu
hút được đông đảo nghệ sĩ tham gia, tạo ra nhiều tác phẩm tốt phục vụ đời sống
văn hóa, tinh thần của nhân dân.
Triển lãm Mỹ thuật và Ảnh chuyên đề “Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” đã thu hút được nghệ sỹ của cả nước tham dự.
Festival mỹ thuật trẻ đã quy tụ các nghệ sỹ trẻ đang thể nghiệm các dòng
mỹ thuật mới như: video art, sắp đặt, trình diễn…tạo được sự hung phấn cho các
nghệ sỹ trẻ khi có sự tương tác với công chúng.
61
Triển lãm ảnh ý tưởng vừa qua đã tạo cho giới nhiếp ảnh một cách nhìn
mới, kích thích sự sáng tạo và phần nào giúp nghệ sỹ thay đổi cách nhìn, cách tư
duy sáng tạo của một trong những nhánh nhiếp ảnh đương đại.
Đề án 844 về đặt hàng sáng tác đề tài chiến tranh cách mạng thời kỳ 1930-
1945 đang được triển khai.
Các triển lãm mỹ thuật, nhiếp ảnh của Việt Nam đưa ra trưng bày ở nước
ngoài thời gian qua đã làm tốt việc giới thiệu văn hóa nghệ thuật của Việt Nam
với bạn bè quốc tế. Các triển lãm như Triển lãm tranh sơn mài Việt Nam tại
Trung Quốc, Triển lãm ảnh nghệ thuật tại Pháp và Mỹ do Bộ VHTTDL tổ chức
cùng với các triển lãm do các cơ quan tổ chức, các địa phương, cá nhân, nhóm tác
giả Việt Nam trưng bày ở nhiều nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, các nước
ASEAN, Đức, Hà Lan, Thụy Điển.v.v.. đã góp phần rất tích cực vào việc giới
thiệu văn hóa, đất nước, con người Việt Nam góp phần quảng bá cho du lịch.
Các triển lãm quốc tế vào Việt Nam thời gian qua cũng đã làm tốt việc giới
thiệu văn hóa và đất nước, con người các nước bè bạn quốc tế với nhân dân Việt
Nam, góp phần vào sự hiểu biết lẫn nhau và quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt
Nam và các nước trên thế giới: Triển lãm của 15 nhà Nhiếp ảnh nổi tiếng thế giới;
Triển lãm các họa sỹ nổi tiếng của Ấn Độ; Triển lãm của các họa sỹ trẻ Châu Á…
Trong cả nước hiện nay có khoảng 1.500 họa sĩ, nhà điêu khắc là hội viên
Hội Mỹ thuật Việt Nam; trên 800 hội viên Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam và
hàng ngàn hội viên của các Hội văn học nghệ thuật địa phương. Đây là một lực
lượng nghệ sĩ đông đảo có chuyên môn nghiệp vụ tốt, sức sáng tạo dồi dào đang
tích cực đóng góp cho sự nghiệp phát triển của ngành Mỹ thuật, Nhiếp ảnh.
Đến thời điểm này, trên cả nước đã có 370 công trình tượng đài, tranh
hoành tráng được xây dựng, một số địa phương đã có vườn tượng, tổ chức các
trại sáng tác điêu khắc như Hà Nội, Hải Phòng, Tp. Hồ Chí Minh, Phú Thọ, Ninh
Thuận, Khánh Hòa, Đà Nẵng, Huế, Đắc Lắc, Lâm Đồng, Hội An (Quảng Nam),
Bà Rịa- Vũng Tàu, An Giang đóng góp tích cực trong việc tôn vinh truyền thống
lịch sử, cách mạng tạo ra các tác phẩm điêu khắc đưa nghệ thuật đến gần với đại
chúng, góp phần làm đẹp môi trường, cảnh quan nghệ thuật phục vụ nhân dân.
Về công tác đào tạo Mỹ thuật, Nhiếp ảnh trong thời gian qua đã có những
chuyển biến về chất lượng, giáo trình, quy mô và ngành học, gắn với thực tế xã
hội hơn, phù hợp với sự phát triển chung của thế giới. Tuy nhiên, nhiều vấn đề về
chất lượng đào tạo, quy mô, ngành học, số lượng tuyển sinh cũng là những vấn đề
cần nghiên cứu, đổi mới cho phù hợp với sự phát triển.
Công tác bảo quản, lưu giữ các tác phẩm Mỹ thuật, Nhiếp ảnh cũng cần
được quan tâm hơn nữa, gần đây giới Mỹ thuật rất vui mừng khi Bảo tàng Mỹ
thuật Tp. Hồ Chí Minh được cấp thêm diện tích trưng bày mới và có những thay
đổi trong cách thức trưng bày; Tp. Đà Nẵng cũng đã có đề án xây dựng Bảo tàng
Mỹ thuật Tp. Đà Nẵng; Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam đã chính thức bắt tay
vào việc xây dựng Trung tâm bảo quản, lưu giữ ảnh nghệ thuật; một số cá nhân,
đơn vị đã và đang triển khai xây dựng Bảo tàng Mỹ thuật tư nhân, Nhà tưởng
niệm họa sĩ v.v…
62
Công tác giám định tác phẩm và đấu giá tác phẩm mỹ thuật hiện nay còn
manh nha cả về tổ chức bộ máy và hoạt động, mặc dù nhu cầu của xã hội là có và
cần thiết trong quá trình phát triển.
Các hoạt động triển lãm văn hóa, nghệ thuật, thể thao, du lịch (ngoài triển
lãm Mỹ thuật, Nhiếp ảnh) trong thời gian qua cơ bản là hoạt động tốt. Tuy nhiên
các địa phương nhìn chung còn ít quan tâm đến hoạt động triển lãm, có địa
phương có nhà trưng bày triển lãm, nhiều địa phương chưa có; nội dung hoạt
động nghiệp vụ chuyên môn trong lĩnh vực này chưa phong phú, chưa đáp ứng
được đòi hỏi của xã hội.
Các hoạt động sáng tác mẫu, kiểu dáng và triển lãm thủ công mỹ nghệ, mỹ
thuật ứng dụng là một trong những nội dung thuộc sự quản lý của Cục Mỹ thuật,
Nhiếp ảnh và Triển lãm và Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các địa phương
nhưng sự quan tâm ở lĩnh vực này chưa nhiều. Cái khó hiện nay là mô hình quản
lý còn phân tán. Mỹ thuật ứng dụng, mỹ thuật thủ công gắn nhiều với doanh
nghiệp và làng nghề thuộc sự quản lý nhà nước của Bộ Công thương và Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn. Ngành văn hóa nên tập trung vào nội dung văn
hóa của mảng công tác này, đó là các hoạt động để khuyến khích sáng tạo ra
những kiểu dáng, mẫu mã mới vừa có yếu tố văn hóa, yếu tố thẩm mỹ và có công
năng hữu ích, thúc đẩy sự phát triển góp phần gìn giữ các giá trị của di sản truyền
thống của dân tộc và phát triển lĩnh vực Mỹ thuật ứng dụng phù hợp với đời sống hiện
đại.
II. KHÓ KHĂN, TỒN TẠI
Mở cửa và hội nhập kinh tế theo hướng toàn cầu hoá là xu thế khách quan
vừa là quá trình hợp tác để phát triển, vừa là quá trình đấu tranh của các nước
phát triển để bảo vệ lợi ích quốc gia. Sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước ta
là nền tảng vững chắc tạo môi trường thuận lợi cho phát triển hoạt động của
ngành mỹ thuật theo tinh thần Nghị quyết 23 về tiếp tục xây dựng và phát triển
văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới. Ngành mỹ thuật phát triển và được mở
rộng, tạo điều kiện cho giao lưu, hội nhập, đồng thời cũng đang diễn ra cuộc đấu
tranh tư tưởng gay gắt để bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc.
2.1. Tâm điểm là con người:
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin tiếp
tục phát triển với những bước tiến nhảy vọt sẽ đưa thế giới từ kỷ nguyên công
nghiệp sang kỷ nguyên thông tin và kinh tế tri thức. Nhân tố con người dần trở
thành trung tâm của sự phát triển và tiến bộ xã hội. Nhiều quốc gia đang hướng
tới nâng cao các chỉ số nguồn nhân lực và mức hưởng thụ văn hoá. Đầu tư cho
văn hoá - xã hội từ chỗ được coi là đầu tư cho phúc lợi xã hội chuyển thành đầu tư
cho con người, song song với sự phát triển là việc đầu tư cho cơ sở vật chất kỹ thuật,
đáp ứng với xu thế chung của thế giới. Trình độ dân trí ngày càng phát triển, nhu
cầu khán giả thưởng thức nghệ thuật thị giác ngày càng đòi hỏi cao.
63
Sự phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường vừa thúc đẩy các nguồn lực
cho hoạt động mỹ thuật, nhưng đồng thời cũng xuất hiện những biểu hiện tiêu cực
vì mục đích lợi nhuận mà coi nhẹ những giá trị văn hoá truyền thống.
Trong thời đại thông tin bùng nổ, con người có nhiều sự lựa chọn nên mỹ
thuật gặp nhiều “đối thủ” cạnh tranh, người dân có thể đến rạp chiếu phim hay
nhà hát nhiều hơn nhà triển lãm;
Mỹ thuật và Nhiếp ảnh có đặc thù là sáng tạo của cá nhân nghệ sĩ nhưng
sản phẩm của họ là tác phẩm nghệ thuật, có tính tư tưởng phục vụ rộng rãi nhân
dân và tác động đến xã hội rất lớn. Không nên nhìn nhận vì là sự sáng tạo của
từng cá nhân mà xem nhẹ, ít quan tâm hơn các lĩnh vực nghệ thuật khác.
2.2. Các ngành các cấp chưa chú trọng tới mỹ thuật:
Nhận thức của các ngành, các cấp đặc biệt là ở địa phương chưa đúng với
đặc thù và tính chất của ngành mỹ thuật, nhiếp ảnh, chưa thấy hết tính tất yếu và
lợi ích lâu dài của mỹ thuật đối với xã hội. Tư duy, thói quen bao cấp, coi hoạt
động mỹ thuật như tuyên truyền, cổ động, chưa thấy được vai trò của mỹ thuật,
nhiếp ảnh trong việc tạo ra đời sống tinh thần, đời sống văn hóa, thẩm mỹ cho xã
hội vẫn còn tồn tại khá phổ biến trong các cấp các ngành. Mặt khác, văn hoá là
lĩnh vực nhạy cảm, mang tính định hướng tư tưởng nên trong chỉ đạo còn lúng
túng, chưa lường hết được những mặt trái nảy sinh trong quá trình thực hiện chủ
trương, chính sách và những mặt trái của cơ chế thị trường.
Công tác chỉ đạo, quản lý của cơ quan quản lý nhà nước chưa theo kịp với
sự phát triển, chậm đổi mới, lúng túng và có mặt còn bất cập. Còn thiếu nhiều cơ
chế, chế độ chính sách đặc thù để tạo hành lang pháp lý, khuyến khích những mặt
tích cực, ngăn chặn tiêu cực trong công tác quản lý các hoạt động mỹ thuật, nhiếp
ảnh hiện nay.
Cơ sở vật chất, các Nhà triển lãm còn thiếu không đáp ứng được so với xu
thế phát triển; phương tiện còn cũ kỹ, lạc hậu, cơ chế tổ chức hoạt động còn trì
trệ, hoạt động kém hiệu quả
Việc sử dụng, tiêu thụ tác phẩm Mỹ thuật, Nhiếp ảnh hiện nay còn gặp
nhiều khó khăn do nhận thức và ý thức tự tôn, tôn vinh văn hóa của đất nước
chưa cao, nhiều cơ quan, đơn vị, nhiều khu du lịch còn sử dụng tranh, ảnh của
nước ngoài để trang trí trụ sở, phòng làm việc, hội trường…
2.3. Chưa có thị trường mỹ thuật, nhiếp ảnh trong nước:
Thị trường mỹ thuật, nhiếp ảnh trong nước chưa phát triển, nạn sao chép
tranh sai quy định chưa kiểm soát được; thiếu các chế tài để xử lý. Hiện nay các
Gallery hoạt động dưới sự điều tiết của luật thương mại. Các giấy phép con do Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp đã bị bãi bỏ từ năm 2000, các chủ Gallery đều
không có bằng cấp về mỹ thuật hoặc có người tư vấn có bằng về mỹ thuật, nên
gây ra tình trạng lộn xộn trong kinh doanh mặt hàng đặc biệt này.
2.4. Cơ chế chính sách chưa phù hợp:
64
Nguồn ngân sách phân bổ cho ngành Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Triển lãm chưa
xứng tầm
Nhiều chế độ chính sách mang tính đặc thù cho ngành mỹ thuật không phù
hợp (như nghị định 61/2002/NĐ-CP ban hành ngày 11 tháng 6 năm 2002 của
Chính phủ về chế độ nhuận bút đã lạc hậu so với hiện nay; chủ trương xã hội hoá
các hoạt động mỹ thuật chưa triển khai một cách sâu rộng, có hiệu quả.
Kế hoạch tổng thể cho ngành mỹ thuật chưa có; Hoạt động mỹ thuật thiếu
đồng bộ, thiếu chuyên nghiệp;
Công tác quản lý chất lượng nghệ thuật các triển lãm ra nước ngoài còn
buông lỏng;
Kinh phí cho việc tuyên truyền, quảng cáo còn hạn chế;
Cơ sở vật chất cho mỹ thuật còn thiếu, chưa có Nhà triển lãm riêng cho
chuyên ngành mỹ thuật; Mỹ thuật ở địa phương gặp nhiều khó khăn, chưa được
quan tâm;
Chưa xây dựng được Luật mỹ thuật.
III. KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP:
3.1. Về cơ chế chính sách:
Cần có cơ chế, chủ trương phân bổ nguồn ngân sách kịp thời để phát triển
ngành mỹ thuật, nhiếp ảnh.
3.2. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước:
- Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp
luật, xây dựng cho ngành Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm hành lang pháp lý để
phát triển đúng định hướng, đúng đường lối văn hoá, văn nghệ của Đảng và pháp
luật của nhà nước, quy định quyền và trách nhiệm của các cá nhân, các tổ chức
tham gia vào hoạt động Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm.
Thông tư hướng dẫn hoạt động nhiếp ảnh.v.v... và tổ chức phổ biến tập
huấn các văn bản này đến các đơn vị.
- Công tác cấp giấy phép và kiểm tra các hoạt động mỹ thuật, nhiếp ảnh và
triển lãm cần được tăng cường; tổ chức các lớp tập huấn quy trình, thủ tục thẩm
định và cấp phép. Bên cạnh đó, cần chú trọng công tác đào tạo, nâng cao năng lực
cho cán bộ trong việc tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp quy; chủ động đề
xuất và giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tế quản lý hoạt động mỹ thuật,
nhiếp ảnh và triển lãm.
- Cục Mỹ thuật Nhiếp ảnh và Triển lãm rất hoan nghênh chủ trương của Bộ
và mong đợi các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch sớm cho thành lập phòng quản
lý văn học nghệ thuật tại các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Đây là chủ trương
đúng, phù hợp với thực tế. Đây sẽ là bước ngoặt quan trọng để các hoạt động văn
học nghệ thuật, trong đó có Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm có sự quản lý tích
65
cực của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch để có điều kiện phát triển tốt trong
những năm tới.
3.3. Về hoạt động sự nghiệp:
- Khuyến khích sự tìm tòi, sáng tạo của các văn nghệ sĩ, chấp nhận những
hình thức nghệ thuật mới song song cùng tồn tại, với mục tiêu là tạo ra môi
trường thẩm mỹ lành mạnh, phong phú, phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân
tộc.
- Tổ chức nhiều hoạt động thực tế sáng tác giúp cho tác giả có điều kiện
sáng tác các tác phẩm, công trình có quy mô, mang tầm tư tưởng và thời đại, phản
ánh được công cuộc xây dựng và bảo vệ của đất nước.
- Tăng cường giao lưu, trao đổi và học hỏi kinh nghiệm và giới thiệu nghệ
thuật và hình ảnh đất nước con người Việt Nam của các tác giả và tác phẩm trong
khu vực và trên thế giới. Tham gia triển lãm tại các ngày văn hóa Việt Nam, các
sự kiện văn hóa, các chương trình quảng bá, xúc tiến du lịch của Việt Nam ở
nước ngoài.
- Tạo lập vị trí của mỹ thuật Việt Nam trong khu vực và thế giới. Đưa triển
lãm mỹ thuật của Việt Nam ra nước ngoài; Tham gia triển lãm tại các ngày văn
hóa Việt Nam, các sự kiện văn hóa, các chương trình quảng bá, xúc tiến du lịch
của Việt Nam ở nước ngoài. Tham gia các triển lãm quốc tế trong khu vực và thế
giới để từ đó thiết lập thị trường mỹ thuật Việt Nam ở nước ngoài
- Xây dựng cơ chế chính sách, biện pháp để hình thành thị trường Mỹ
thuật, Nhiếp ảnh trong nước: Để xây dựng ngành Mỹ thuật, Nhiếp ảnh phát triển
bền vững, cần tạo ra thị trường trong nước, tiêu thụ, sử dụng tác phẩm của các nghệ
sĩ Việt Nam. Đây là vấn đề lớn cần có sự thay đổi nhận thức trong từng cá nhân, đơn
vị và phải xây dựng hệ thống chính sách đồng bộ cho sự hình thành và phát triển thị
trường trong nước. Trước mắt, các bảo tàng, thư viện, các trụ sở cơ quan nhà nước,
các khu du lịch, khách sạn… cần mua tác phẩm mỹ thuật, nhiếp ảnh của các nghệ sĩ
Việt Nam để trưng bày, trang trí.
- Vấn đề mua tác phẩm mỹ thuật để lưu giữ trong các bảo tàng, sử dụng
trong các công sở, khách sạn, khu du lịch và các địa điểm công cộng khác cần trở
thành một chủ trương từ trung ương đến địa phương. Cần có cơ chế đặc thù cho
việc mua tác phẩm mỹ thuật cho các bảo tàng để lưu giữ được nhiều tác phẩm tốt,
có giá trị nghệ thuật cao cho thế hệ mai sau, hạn chế việc thất thoát tác phẩm ra
các bảo tàng và sưu tập tư nhân của thế giới.
- Tăng cường công tác kiểm tra hoạt động của các Gallery, các đơn vị sao
chép tác phẩm mỹ thuật, nhiếp ảnh; xử phạt nghiêm minh các hoạt động xâm
phạm bản quyền tác giả và quyền liên quan.
- Cần tăng cường và làm tốt hơn nữa công tác xã hội hóa các hoạt động mỹ
thuật để ngoài nhà nước còn có nhiều các cơ quan, đơn vị, tổ chức và cá nhân đầu
tư, giúp đỡ, phối hợp tổ chức các hoạt động mỹ thuật, nhiếp ảnh.
66
- Cần tăng cường công tác phổ cập về kiến thức mỹ thuật tạo cho cộng
đồng thông qua các trung tâm văn hóa, nhà văn hóa, trong các trường phổ thông
về sự hiểu biết và cảm thụ mỹ thuật một cách bài bản bằng hệ thống bài giảng
được đầu tư đúng mức. Chú ý quản lý các giáo trình hội họa điêu khắc tại các
trung tâm giáo dục ngoài giờ. Rất cần giáo trình cho các lớp bồi dưỡng tìm hiểu
kiến thức về hội họa tại các trường tiểu học, trung học cơ sở, trung tâm ngoài giờ
thay về chỉ có lớp dạy vẽ.
- Cần chú ý nghiên cứu thực trạng không gian mỹ thuật hiện nay trên phạm
vi từng địa phương và cả nước: bao gồm hệ thống cây xanh, tiểu cảnh. Mỹ thuật
mặt tiền đường phố trong dịp Tết, lễ hội, chiếu sáng mỹ thuật ban đêm kể cả ánh
sáng mỹ thuật của quảng cáo về đêm. Đặc biệt là không gian tượng đài phù điêu,
lịch sử và nghệ thuật cho các đô thị. Nghệ thuật nơi công cộng hiện đang ở tình
trạng lạm phát dư thừa cái xấu, cái lãng phí hoặc là một sa mạc hoàn toàn thiếu
vắng mỹ thuật.
IV. KẾT LUẬN
Trong 5 năm thực hiện Nghị quyết 23 của Đảng, cùng với sự cố gắng phấn
đấu của ngành mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, sự chỉ đạo kịp thời của Bộ Văn
hoá, Thể thao và Du lịch, sự phối hợp của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch địa
phương, Hội Mỹ thuật Việt Nam, Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam và các Hội
văn học nghệ thuật, ngành mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm đã có những thành
tựu đáng khích lệ, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc.
Với những thành tích đạt được, hy vọng trong các năm tiếp theo ngành mỹ
thuật, nhiếp ảnh và triển lãm tiếp tục cố gắng hơn nữa trong công tác quản lý, chỉ
đạo điều hành các hoạt động để có nhiều tác phẩm mỹ thuật, nhiếp ảnh, nhiều
công trình nghệ thuật có giá trị cao, nhiều tác giả tài năng để đóng góp vào việc
nâng cao nhu cầu hưởng thụ nghệ thuật của nhân dân ngày càng cao tạo nên đời
sống văn hóa, tinh thần của nhân dân ngày một phong phú, theo đúng tinh thần
Nghị quyết 23 của Đảng.
67
CÔNG TÁC BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA
SAU 05 NĂM TRIỂN KHAI NGHỊ QUYẾT SỐ 23/NQ-TW
NGÀY 16 - 6 - 2008 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ
Cục Di sản văn hóa
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
1. NGHỊ QUYẾT 23 VÀ VẤN ĐỀ BẢO VỆ, PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN
VĂN HÓA
Trong quá trình triển khai Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương (Khóa VIII) của Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, sự ra đời Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm
2008 của Bộ Chính trị “về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật
trong thời kỳ mới” (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 23) có ý nghĩa đặc biệt đối với
sự phát triển của một lĩnh vực/thành tố quan trọng của nền văn hóa Việt Nam-
lĩnh vực văn học, nghệ thuật, trong bối cảnh đất nước bước sang thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Nghị quyết 23 đề cập nhiều vấn đề liên quan đến quan điểm của Đảng về
phát triển văn học, nghệ thuật. Tiếp cận từ lĩnh vực hoạt động bảo vệ và phát huy
giá trị di sản văn hóa, có thể nhận thấy một số nội dung của Nghị quyết trực tiếp
liên quan đến quan điểm chỉ đạo của Đảng ta nhằm đẩy mạnh các hoạt động của
lĩnh vực này nhằm góp phần vào sự phát triển văn học, nghệ thuật ở nước ta, cụ
thể:
- Về những thành tựu…, Nghị quyết khẳng định: “…Công tác sưu tầm, bảo
tồn, phát huy di sản văn học, nghệ thuật của các dân tộc đạt được những kết quả
thiết thực… Phong trào văn nghệ quần chúng phát triển; nhiều câu lạc bộ văn
học, nghệ thuật ra đời, góp phần cổ vũ, động viên quần chúng sáng tạo, khai thác,
truyền bá các giá trị nghệ thuật cổ truyền và thưởng thức văn học, nghệ thuật,
nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân ở cơ sở…”.
- Về những yếu kém, khuyết điểm, Nghị quyết chỉ rõ: “…Thiếu định hướng
và tiêu chí cụ thể cho việc chọn lọc, kế thừa và phát huy các giá trị văn hoá truyền
thống cũng như chọn lọc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại trong thời gian qua
còn nhiều bất cập, có lúc không rõ tiêu chí, thiếu định hướng. Chưa xây dựng
được những công trình trung tâm lớn cho hoạt động văn hoá, nghệ thuật, tương
xứng với vị thế của đất nước thời kỳ mới…”.
- Từ đánh giá thực trạng đó, Nghị quyết đã nêu quan điểm chỉ đạo của
Đảng là: “…Trên cơ sở giữ gìn, phát triển, phát huy những giá trị của văn học,
nghệ thuật dân tộc, tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế, tiếp thu có chọn lọc các giá
trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước ngoài, đồng thời kiên quyết ngăn chặn,
làm thất bại âm mưu, thủ đoạn áp đặt, xâm lăng văn hóa của các thế lực thù
địch…”.
- Theo đó, là chủ trương và các giải pháp thực hiện:
68
+ “… Xây dựng và thực hiện có hiệu quả kế hoạch xã hội hoá các hoạt
động văn học, nghệ thuật, làm rõ các lĩnh vực cần xã hội hoá, lĩnh vực Nhà nước
và nhân dân cùng làm, lĩnh vực Nhà nước phải đầu tư bảo tồn, xây dựng và phát
triển… Xây dựng đề án và cơ chế bảo tồn, truyền bá các loại hình văn học, nghệ
thuật cổ truyền; có chính sách đặc biệt hỗ trợ sự phát triển của ngôn ngữ, chữ viết
và văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số…”.
+ “…Xây dựng và thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, ưu đãi văn
nghệ sĩ có quá trình cống hiến, có nhiều tác phẩm tốt, ảnh hưởng tích cực trong
xã hội…”.
+ “…Tăng cường các biện pháp xây dựng, phát triển văn nghệ quần chúng,
hướng dẫn, khuyến khích quần chúng tham gia sáng tạo, bảo tồn, truyền dạy và
phát huy các giá trị văn hoá, văn nghệ truyền thống của dân tộc…”.
Sau 05 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, công tác bảo vệ
và phát huy giá trị di sản văn hóa đã đạt được nhiều thành tựu, tích cực góp phần
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển kinh
tế - xã hội.
2. MỘT SỐ KẾT QUẢ TÍCH CỰC
2.1. Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
Trong những năm qua, đặc biệt từ năm 2009 đến nay, hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật về di sản văn hóa đã được tập trung xây dựng, ban hành, tạo ra
hành lang pháp lý ngày càng thuận lợi hơn cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá
trị di sản văn hóa nói chung, di sản văn học, nghệ thuật nói riêng. Từ năm 2009
đến nay, có 1 Luật sửa đổi, 2 Nghị định và 8 Thông tư về lĩnh vực này được cơ quan
có thẩm quyền ban hành, trong đó có Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
di sản văn hóa, Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật di sản văn hóa, Thông tư số 04/2010/TT-BVHTTDL ngày 30/6/2010
quy định việc kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể và lập hồ sơ khoa học di sản văn
hoá phi vật thể để đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia… Đối
tượng, phạm vi, nội dung điều chỉnh của các văn bản này có nhiều điểm mới, nhất
là những điều chỉnh nhằm thực hiện việc kiểm kê kho tàng di sản văn hóa vật thể
và phi vật thể, tôn vinh những người có tài và có công bảo vệ di sản văn hóa phi
vật thể, bảo vệ và phát triển tiếng nói, chữ viết của các dân tộc,… đã thực sự tạo
ra cơ hội và điều kiện để những quan điểm, định hướng và giải pháp của Đảng về
vấn đề bảo tồn di sản văn hóa dân tộc nhằm phát triển văn học, nghệ thuật theo
tinh thần Nghị quyết 23 được triển khai có hiệu quả trong thực tiễn đời sống.
2.2. Tôn vinh những di sản văn hóa về văn học, nghệ thuật
- Về di sản văn hóa phi vật thể:
+ Từ năm 2008 đến nay, nhiều di sản văn hóa phi vật thể thuộc loại hình
nghệ thuật trình diễn dân gian của Việt Nam đã được quan tâm nghiên cứu, lập hồ
sơ đề nghị và đã được UNESCO vinh danh, như: Dân ca Quan họ Bắc Ninh - Di
69
sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại (2009); Hát Ca trù - Di sản văn hóa
phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp (2009); Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền
Sóc (Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại - 2010); Hát Xoan Phú Thọ
- Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp (2011); Tín ngưỡng thờ
cúng Hùng Vương ở Phú Thọ - Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại
(2012).
+ Việc kiểm kê và lập hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể đã được tiến hành ở
nhiều địa phương trên cả nước; nhiều di sản văn hóa phi vật thể thuộc loại hình
ngữ văn dân gian và nghệ thuật trình diễn dân gian đã được lập hồ sơ khoa học.
Trên cơ sở đó, tháng 12/2012, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã
quyết định đưa 33 di sản văn hóa phi vật thể và Danh mục di sản văn hóa phi vật
thể quốc gia (đợt 1).
- Về di sản văn hoá vật thể:
+ Ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1419/QĐ-TTg
xếp hạng Di tích lịch sử Khu lưu niệm Nguyễn Du, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh
là di tích quốc gia đặc biệt. Ngày 01/10/2012 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết
định số 1426/QĐ-TTg công nhận 30 hiện vật và nhóm hiện vật là bảo vật quốc gia,
trong đó có những tác phẩm điêu khắc nghệ thuật là cổ vật nổi tiếng (Trống đồng
Ngọc Lũ, Trống đồng Hoàng Hạ, Thạp đồng Đào Thịnh…), đặc biệt là có tác phẩm
“Ngục trung nhật ký” (Nhật ký trong tù) bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
+ Từ năm 2008 đến nay, thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia về văn
hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã hỗ trợ kinh phí cho tu bổ, tôn tạo nhiều
di tích nhằm tôn vinh các tác gia văn học, nghệ thuật lớn của nền văn học Việt
Nam: Khu di tích Nguyễn Du (tỉnh Hà Tĩnh) với tổng kinh phí là 4 tỷ đồng (năm
2011, 2012), dự kiến năm 2013 đầu tư 3 tỷ đồng; Mộ và khu tưởng niệm Nguyễn
Đình Chiểu (tỉnh Bến Tre) là 1 tỷ đồng năm 2012; đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm
(thành phố Hải Phòng) là 3 tỷ đồng năm 2012, dự kiến năm 2013 đầu tư 2 tỷ
đồng; đền thờ Lê Văn Hưu (tỉnh Thanh Hóa) là 200 triệu đồng năm 2009; khu lưu
niệm Phan Bội Châu (tỉnh Thừa Thiên Huế) là 400 triệu đồng năm 2009, năm
2010 là 400 triệu đồng; khu lưu niệm Phan Chu Trinh (tỉnh Quảng Nam) đầu tư
300 triệu đồng năm 2008, năm 2010 là 200 triệu đồng năm 2011 là 400 triệu
đồng, năm 2012 là 800 triệu đồng; mộ Phan Chu Trinh (Thành phố Hồ Chí Minh)
là 300 triệu đồng năm 2011, năm 2012 là 1 tỷ đồng… Các di tích sau khi được tu
bổ, tôn tạo đã trở thành những sản phẩm văn hoá - du lịch đặc thù, góp phần hình
thành những điểm, tuyến du lịch hấp dẫn, đồng thời là nơi giáo dục truyền thống
yêu nước, bản sắc văn hóa dân tộc cho các thế hệ trẻ.
2.3. Về hoạt động bảo tàng
Hệ thống bảo tàng Việt Nam (bao gồm 136 bảo tàng, trong đó có 16 bảo
tàng ngoài công lập) ngày càng hoàn thiện và hoạt động có hiệu quả. Nhiều bảo
tàng đã chú trọng vào hoạt động sưu tầm, lưu giữ, trưng bày và giới thiệu những
tác phẩm văn học nghệ thuật và sưu tập hiện vật có giá trị liên quan đến cuộc đời,
sự nghiệp của các tác gia văn học, nghệ thuật trong lịch sử và hiện tại. Đặc biệt,
một số bảo tàng chuyên ngành, bảo tàng chuyên đề về văn học, nghệ thuật đã
70
được thành lập, hoạt động ngày một hiệu quả, đã không chỉ bổ sung vào hệ thống
bảo tàng Việt Nam những khuôn diện mới, mà còn trực tiếp tham gia giữ gìn,
quảng bá di sản văn học, nghệ thuật Việt Nam, thúc đẩy sự phát triển văn học,
nghệ thuật Việt Nam (Bảo tàng Văn học Việt Nam thuộc Hội Nhà vănViệt Nam
và các bảo tàng ngoài công như: Bảo tàng Mỹ thuật họa sĩ Tốt và gia đình, Bảo
tàng Mỹ thuật họa sĩ Phan Thị Ngọc Mỹ, Bảo tàng không gian văn hóa Mường,
Bảo tàng Văn hóa Việt,...).
2.4. Về xã hội hóa hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị văn học, nghệ thuật:
Công tác xã hội hóa được đẩy mạnh, ngày càng thu hút nhiều tổ chức, cá
nhân tham gia bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Nhiều trung tâm/câu lạc bộ
Cồng chiêng, Ca trù, Quan họ, Hát Xoan, Đờn ca tài tử đã được phục hồi; hàng
trăm câu lạc bộ mới ra đời, hoạt động dưới hình thức các trung tâm nghiên cứu và
cơ sở diễn xướng dân gian theo đội, nhóm hoặc gia đình. Một số câu lạc bộ đã hoạt
động có uy tín, được các tổ chức nước ngoài mời tham gia liên hoan di sản văn hóa
phi vật thể quốc tế … Đây chính là những cơ hội tốt cho các chủ thể văn hóa được
giao lưu, học hỏi và tự giới thiệu với thế giới về di sản văn hóa của mình.
3. MỘT SỐ HẠN CHẾ
Có thể nói, trong từng lĩnh vực cụ thể của hoạt động bảo vệ và phát huy giá
trị di sản văn học, nghệ thuật, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, vẫn
còn tồn tại những hạn chế, yếu kém:
3.1. Việc xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về di sản
văn hóa tuy đã rất khẩn trương, tích cực, nhưng vẫn chưa đáp ứng kịp thời đòi hỏi
của thực tiễn, nhất là những văn bản điều chỉnh chính sách tôn vinh và ưu đãi
những người có công, có tài trong hoạt động sáng tạo, gìn giữ, trao truyền di sản
văn học, nghệ thuật (thuộc lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể). Đến nay, những
quy định cụ thể của Chính phủ về xét tặng các danh hiệu Nghệ nhân nhân dân,
Nghệ nhân ưu tú vẫn chưa được ban hành; theo đó, các văn bản do các Bộ, ngành
có liên quan đến việc xây dựng chính sách đãi ngộ cho các đối tượng này cũng
chưa có cơ sở để triển khai. Điều đó khiến các chủ trương, giải pháp về “…Xây
dựng và thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, ưu đãi văn nghệ sĩ có quá trình
cống hiến, có nhiều tác phẩm tốt, ảnh hưởng tích cực trong xã hội…” và “Xây
dựng đề án và cơ chế bảo tồn, truyền bá các loại hình văn học, nghệ thuật cổ
truyền; có chính sách đặc biệt hỗ trợ sự phát triển của ngôn ngữ, chữ viết và văn
học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số…” - như tinh thần của Nghị quyết 23, chậm
được hiện thực hóa trong thực tiễn đời sống.
3.2. Công tác sưu tầm, gìn giữ và trưng bày giới thiệu các di sản văn học,
nghệ thuật, do còn gặp nhiều khó khăn, nên hiệu quả đạt được còn thấp. Bảo tàng
Văn học Việt Nam, sau hơn 10 năm xây dựng và trưng bày, đến nay vẫn chưa
thực sự hoàn thiện, hiện vật trưng bày còn nghèo; một số bảo tàng ngoài công lập
về văn học, nghệ thuật còn ít nhận được sự quan tâm hướng dẫn nghiệp vụ, hỗ trợ
việc tổ chức hoạt động của các địa phương và cơ quan chuyên môn chuyên
ngành… Vì thế, các bảo tàng và sưu tập về văn học, nghệ thuật chưa phát huy
71
được hiệu quả của mình trong việc phục vụ các hoạt động sáng tạo mới (cung cấp
thông tin, tư liệu, kinh nghiệm, gợi xúc cảm…), vừa quảng bá giá trị di sản văn
học, nghệ thuật của đất nước với công chúng ở trong và ngoài nước.
3.3. Nguồn vốn đầu tư cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn
học, nghệ thuật còn thấp, chưa ổn định và kịp thời. Điều đó không chỉ khiến cho
chất lượng và hiệu quả của lĩnh vực hoạt động này ở các tổ chức công lập còn
chưa cao (Bảo tàng Văn học Việt Nam là một ví dụ), mà còn chưa tạo cơ hội/
“những cú hích” cho việc đẩy mạnh xã hội hóa lĩnh vực công tác này. Cũng do
đó, việc triển khai chủ trương và giải pháp về “… Xây dựng và thực hiện có hiệu
quả kế hoạch xã hội hoá các hoạt động văn học, nghệ thuật, làm rõ các lĩnh vực
cần xã hội hoá, lĩnh vực Nhà nước và nhân dân cùng làm, lĩnh vực Nhà nước phải
đầu tư bảo tồn, xây dựng và phát triển…”, và “…Tăng cường các biện pháp xây
dựng, phát triển văn nghệ quần chúng, hướng dẫn, khuyến khích quần chúng
tham gia sáng tạo, bảo tồn, truyền dạy và phát huy các giá trị văn hoá, văn nghệ
truyền thống của dân tộc…”, theo tinh thần Nghị quyết 23, còn chưa đạt được kết
quả mong đợi.
4. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ
Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 23-NQ/TW, đưa Nghị quyết
23 vào thực tiễn đời sống, từ những trình bày trên đây, chúng tôi đề có một số đề
xuất, khuyến nghị sau đây:
1. Cần tăng cường hơn nữa công tác xây dựng, phổ biến pháp luật nhằm
hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác
quản lý nhà nước về di sản văn hóa.
2. Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa, trong đó
tập trung đầu tư cho công tác sưu tầm, gìn giữ những tác phẩm văn học nghệ
thuật có giá trị, tu bổ và tôn tạo di tích lưu niệm các tác gia văn học, nghệ thuật
trong lịch sử và các tác giả đã được nhà nước vinh danh qua các giải thưởng Hồ
Chí Minh, giải thưởng Nhà nước trong những năm qua.
3. Củng cố, hoàn thiện hệ thống thiết chế ngành di sản văn hóa, đồng thời tập
trung đầu tư xây dựng nguồn lực con người đảm bảo sự phát triển đồng bộ. Quan
tâm tới việc xây dựng cơ chế chính sách phù hợp, khuyến khích quần chúng tham
gia vào hoạt động sáng tạo, bảo vệ và phát huy di sản văn học, nghệ thuật.
Trong thời gian tới, nhà nước cần tập trung đầu tư, đồng thời Hội Nhà văn
Việt Nam cần tập trung hoàn thành việc xây dựng, trưng bày, tổ chức hoạt động
có hiệu quả Bảo tàng Văn học Việt Nam, đưa Bảo tàng trở thành mái nhà chung
của các nhà văn, của mọi người yêu mến văn chương, thành điểm đến hấp dẫn đối
với thế hệ trẻ nói riêng, công chúng ở trong và ngoài nước nói chung.
4. Xây dựng đề án bảo tồn, lưu giữ và phát huy giá trị các loại hình văn
học, nghệ thuật, đồng thời, đẩy mạnh hoạt động hợp tác, giao lưu văn hóa, đưa di
sản văn học, nghệ thuật tiêu biểu của Việt Nam ra nước ngoài nhằm quảng bá
hình ảnh, đất nước và con người Việt Nam, góp phần nâng cao vị thế Việt Nam
trên trường quốc tế./.
72
VAI TRÒ CỦA THƯ VIỆN TRONG VIỆC BẢO LƯU VÀ PHÁT TRIỂN
VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT TRONG ĐỜI SỐNG CỘNG ĐỒNG: NHỮNG
THÀNH TỰU VÀ TỒN TẠI VÀ CÁC ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ
Vũ Dương Thúy Ngà
Phó Vụ trưởng Vụ Thư viện
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam là một dân tộc có truyền thống yêu văn học nghệ thuật. Đã trong
một thời gian dài, quan niệm về người tài là người có đủ khả năng cầm, kỳ, thi,
họa. Quan niệm này đã có sự thay đổi, nhưng văn học nghệ thuật vẫn có một vai
trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam.Với tầm nhìn cho
sự phát triển bền vững và lâu dài những giá trị vô giá về văn học nghệ thuật mà
các thế hệ người Việt Nam từ thuở Hùng Vương dựng nước đến thời đại Hồ Chí
Minh ngày nay đã sáng tạo nên, ngày 16 tháng 6 năm 2008 Nghị quyết 23-
NQ/TW Bộ Chính Trị đã ra đời. Tinh thần của nghị quyết là tiếp tục xây dựng và
phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới. Nghị quyết đã nêu rõ: “Văn học,
nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hoá; là nhu cầu thiết
yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người; là một trong những động
lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát
triển toàn diện của con người Việt Nam…”
Từ nhận thức văn hoá và nghệ thuật là một trong những động lực
to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển
toàn diện của con người Việt Nam, Nghị quyết đã đưa ra định hướng cho ngành
văn hoá là: “Trên cơ sở giữ gìn, phát triển, phát huy những giá trị của văn học,
nghệ thuật dân tộc, tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế, tiếp thu có chọn lọc các giá
trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước ngoài” để làm giàu cho nền văn hoá hiện
đại và chia sẻ với thế giới những độc đáo của văn hoá nghệ thuật Việt Nam. Để
tránh những tác động tiêu cực trong đổi mới và mở cửa, Nghị quyết đã nhấn
mạnh: “đồng thời kiên quyết ngăn chặn, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn áp đặt,
xâm lăng văn hóa của các thế lực thù địch”. Một trong số những mục tiêu của xây
dựng và phát triển văn học, nghệ thuật được xác định là: “xây dựng nhân cách
con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng về chân, thiện,
mỹ của các tầng lớp nhân dân; phục vụ có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, vì mục tiêu ''dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [1].
Là một thiết chế văn hóa thực hiện việc thu thập, bảo quản và truyền bá các
di sản thư tịch của dân tộc và của nhân loại, thư viện đã có vai trò và đóng góp
một phần không nhỏ vào việc lưu giữ và phát triển văn học nghệ thuật trong đời
sống cộng đồng ở Việt Nam trong những năm vừa qua.
I. THƯ VIỆN VỚI VIỆC BẢO LƯU VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HỌC, NGHỆ
THUẬT TRONG ĐỜI SỐNG CỘNG ĐỒNG
73
Việc thu thập, bảo lưu các cổ bản và bổ sung thêm các tác phẩm văn học
hiện đại ở trong và ngoài nước, cũng như các tài liệu nghệ thuật và tuyên truyền
giới thiệu chúng đến với cộng đồng đã được ngành thư viện đặc biệt quan tâm.
Chúng tôi nhận thức sâu sắc cùng với việc lưu giữ tài liệu trong thư viện cần phải
tiến hành song song với việc tuyên truyền, quảng bá để cộng đồng quan tâm và sử
dụng hiệu quả các tài liệu nói chung và tài liệu văn học, nghệ thuật nói riêng. Có
như vậy thư viện mới thực sự trở thành cơ quan giáo dục ngoài nhà trường, giúp
con người không ngừng hoàn thiện về nhân cách và bồi dưỡng, nâng cao khả
nâng cao khả năng viết văn và sáng tạo nghệ thuật.
1.1 . Việc thu thập và bảo quản các tài liệu văn học nghệ thuật tại các thư viện
Tài liệu văn học, nghệ thật là những di sản văn hóa thành văn ghi dấu sự
phát triển về tư duy, tình cảm, ước vọng của con người hướng tới sự công bằng
bác ái và cái đẹp trong các thời đại. Trên nền truyền thống một dân tộc quật
cường về sức sống trong đấu tranh dựng nước và giữ nước, những tác phẩm văn
học dân gian, ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích, cũng các tác phẩm văn học như Bài
thơ Thần của Lý Thường Kiệt, “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, “Cáo Bình Ngô”
của Nguyễn Trãi, “Nhật ký trong tù” của Hồ Chủ tịch,... cùng với những điệu lý,
câu hát dân ca, những ca khúc, các tác phẩm nghệ thuật hội họa, điêu khắc, nhiếp
ảnh đã ảnh hưởng đến việc hình thành tâm hồn, nhân cách con người Việt hiện
đại ngày nay.
Trong thực tiễn hoạt động, thư viện đã có vai trò to lớn trong việc thu thập
và bảo lưu các tài liệu văn học, nghệ thuật. Sự thu thập này không chỉ đơn thuần
là hướng tới những tài liệu văn học nghệ thuật đã xuất bản, mà còn hướng tới thu
thập các tài liệu văn học nghệ thuật cổ trong quá khứ. Lưu giữ các tác phẩm đó
theo dòng thời gian là nhiệm vụ của thư viện và đó là đóng góp thiết thực của
ngành thư viện trong việc thực hiện Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị.
Trong các thư viện công cộng, tỷ lệ các sách văn học nghệ thuật được lưu
giữ chiếm tới từ 30 đến 40%.
Trong các thư viện chuyên ngành văn học nghệ thuật, việc bảo lưu các tác
phẩm văn học nghệ thuật còn được thực hiện một cách đầy đủ hơn.
Thư viện Viện Văn học là một trong những thư viện chuyên ngành lớn nhất
sưu tập các tài liệu nghiên cứu văn học. Kho sách của Viện có hơn 130.000 bản
trong đó có 68.000 bản bao gồm sách nghiên cứu và sách sáng tác (66.800 bản) ,
bổ sung thêm khoảng 600 bản/năm; 110 loại báo và tạp chí trong và ngoài nước.
Thư viện Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam có khoảng 4000 quyển sách,
500 báo cáo và album.
Thư viện Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam là thư viện chuyên ngành
âm nhạc. Vốn tài liệu của thư viện có hơn 40.000 đầu sách, được chia thành 3 kho
là kho mở, kho lưu trữ và kho dàn nhạc. Kho sách dàn nhạc lưu giữ hệ thống các
tổng phổ và phân phổ của dàn nhạc, các sáng tác của hầu hết các tác giả, các thời
kỳ âm nhạc... Kho đĩa nhạc khoảng 4.000 đĩa CD, VCD, DVD và laser được phân
loại theo tác giả, thể loại, thời kỳ, hình thức biểu diễn, nhạc cụ, nghệ sĩ biểu
74
diễn... đáp ứng các nhu cầu của giảng viên, sinh viên học sinh trong việc tiếp cận
kho tàng âm nhạc của nhân loại và của Việt Nam. Để tạo điều kiện cho các sinh
viên và học viên có thể nghe nhạc, thư viện đã tổ chức các phòng nghe cá nhân và
tập thể.
Viện Phim Việt Nam đã xây dựng kho phim lưu trữ. Hiện kho lưu trữ của
viện (hai cơ sở ở Hà Nội và ở TP Hồ Chí Minh) lưu trữ gần 80.000 cuốn phim
nhựa, 20.000 tên phim, hàng chục ngàn băng video, được đánh giá là một trong
những kho lưu trữ phim tốt nhất khu vực Đông Nam Á. Trong kho lưu trữ của
viện, tài liệu quý, có giá trị là bộ sưu tập phim điện ảnh cách mạng VN những
năm đầu tiên và Phim tư liệu về Đông Dương đầu thế kỷ do Viện Lưu trữ phim
Pháp tặng.
Trong các thư viện trường học, tài liệu văn học nghệ thuật đã được bổ sung
gắn liền với nội dung các môn học được giảng dạy trong trường, góp phần giúp
cho các em học sinh có thêm các tài liệu tham khảo và khơi dậy trong các em
lòng nhân ái, vị tha và hiểu biết thêm về cuộc sống muôn màu.
Không chỉ dừng lại sưu tập, bảo quản, các thư viện đã giúp cho người đọc
có thể khai thác, sử dụng với nhiều mục đích khác nhau: học tập, nghiên cứu, giải
trí, … Việc bảo lưu các tác phẩm này đã phục vụ đắc lực cho nhu cầu thưởng
thức văn học, nghệ thuật, nuôi lớn những tâm hồn và nâng cao đời sống tinh thần
của người dân. Nhiều thư viện tỉnh đã hỗ trợ đắc lực cho các Đài Phát thanh -
Truyền hình để giới thiệu sách trong chương trình đọc truyện đêm khuya, chuyên
mục tạp chí Văn hóa mỗi kỳ một tác phẩm, giới thiệu sách trên tạp chí văn hóa
của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, tiêu biểu là thư viện tỉnh Vĩnh Long, Nghệ
An, …
Việc bảo lưu các tác phẩm không chỉ đơn thuần là việc lưu giữ trong kho
thư viện mà còn được thực hiện bằng nhiều hình thức chuyển dạng dưới dạng thu
nhỏ (vi phim, vi phiếu) hoặc số hóa. Thư viện Quốc gia Việt Nam, các thư viện
tỉnh và trung tâm học liệu đã số hóa được một số tác phẩm văn học có giá trị để
bảo quản văn bản gốc đồng thời tạo điều kiện cho nhiều người có thể sử dụng.
1.2 . Việc tuyên truyền, giới thiệu các tài liệu văn học nghệ thuật tại các thư viện
Để các tác phẩm văn học, nghệ thuật đến với người đọc, các thư viện thuộc
các loại hình khác nhau đã tiến hành nhiều hình thức tuyên truyền giới thiệu sách,
như: tổ chức các cuộc nói chuyện tác giả - tác phẩm, nói chuyện chuyên đề; tổ
chức các cuộc trưng bày, triển lãm; tổ chức các phương tiện tra cứu giúp cho
người đọc có thể tìm được các tác phẩm văn học một cách dễ dàng nhanh chóng
thong qua mục lục hộp phiếu và mục lục trực truyến.
Để nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho người dân sống ở vùng sâu,
vùng xa, các thư viện đã tiến hành phục vụ lưu động, luân chuyển sách với nhiều
hình thức khác nhau, bằng xe ô tô thư viện, bằng xe máy… Trong số đó, có
không ít các tác phẩm văn học, nghệ thuật..
Một số thư viện công cộng còn sử dụng hình thức sân khấu hóa việc giới thiệu,
đưa sách đưa thư viện đến với cộng đồng, thu hút được đông đảo người tham gia.
75
Bên cạnh đó, việc thi kể chuyện sách được các thư viện tổ chức với các chủ đề khác
nhau diễn ra hàng năm đã giúp cho người đọc, đặc biệt là các em thiếu nhi quan tâm
đến các tác phẩm văn học nhiều hơn. Các cuộc thi viết về các tác phẩm văn học,
những cuốn sách làm ảnh hưởng đến cuộc đời em, các cuộc thi vẽ tranh theo sách đã
góp phần nuôi lớn mầm chân, thiện, mỹ trong tâm hồn trẻ, giúp các em nhận cảm
được vẻ đẹp muôn màu của cuộc sống, từ đó khơi dậy khát vọng học hỏi, nghị lực
sống, tình yêu thương mãnh liệt của trẻ đối với con người và cuộc sống.
Trong các thư viện trường phổ thông: Tại thư viện trường phổ thông, cán
bộ thư viện đã chủ động phối hợp với giáo viên tìm ra các biện pháp hữu hiệu để
thu hút các em đọc sách. Tại trường THCS & THPT Nguyễn Tất Thành, các cán
bộ thư viện đã cùng các giáo viên chủ nhiệm tổ chức được rất nhiều hoạt động bổ
ích lôi cuốn các em học sinh đến với thư viện. Một trong những hoạt động nổi bật
nhất là cuộc thi: “Bình truyện ngắn chọn lọc về ngày nhà giáo Việt Nam” nhận
được sự hưởng ứng tham gia của rất nhiều các bạn học sinh của trường. Bên cạnh
đó, Thư viện còn kết hợp với giáo viên dạy văn tổ chức cho các em cuộc thi kể
truyện cười, qua đó khuyến khích các em có thêm hứng thú học về một thể loại
trong chương trình học ngữ văn [2].
1.3 Đánh giá về những thành tựu và tồn tại của thư viện trong việc
phát huy vai trò bảo lưu và phát triển văn học nghệ thuật sau năm năm thực
hiện Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị
- Một số thành tựu
+ Với việc thu thập bảo quản các tác phẩm văn học nghệ thuật, thư viện đã
góp phần bảo lưu văn học nghệ thuật để có thể lưu truyền từ đời này sang đời
khác, đáp ứng nhu cầu đọc với nhiều mục đích khác nhau của người sử dụng.
+ Thông qua việc phục vụ nhu cầu đọc các tác phẩm văn học nghệ thuật,
thư viện đã góp phần xây dựng nhân cách con người Việt Nam,
+ Với việc tổ chức các cuộc thi kể sách, vẽ tranh theo sách, viết bài cảm nhận
về những sách, thư viện đã góp phần phát triển khả năng sáng tạo văn học nghệ
thuật cho người đọc. Riêng năm 2012, tại Thư viện KHTH TP. Hồ Chí Minh có
32.640 học sinh từ lớp 1 đến lớp 9 tham gia viết bài cảm nhận và 600.921 em tham
gia trong đó có 3.547 em khiếm thị tham gia cuộc thi nét vẽ xanh. Từ việc thu thập,
bảo quản và phục vụ nhu cầu tài liệu văn học nghệ thuật, thư viện đã hình thành
nên nguồn cảm hứng sáng tạo cho người đọc đặc biệt là các em thiếu niên.
- Một số điểm còn hạn chế
+ Do ngân sách dành cho thư viện còn chưa đảm bảo, nên các thư viện ở cơ
sở, thư viện trường học còn chưa bổ sung được các sách, các tài liệu văn học
nghệ thuật đáp ứng nhu cầu của người dân. Nhiều thư viện huyện, thư viện xã,
thư viện trường học không có kinh phí để bổ sung sách. Nhà giáo Nhật Duy, tổ
trưởng tổ Ngữ văn của một trường phổ thông trong bài viết “Học sinh đọc gì ở
thư viện trường Trung học cơ sở?” đã nhận xét: “Điều dễ nhận thấy ở các thư
viện trường học hiện nay có một điểm chung là sách báo quá ít, nhiều đầu sách
không phục vụ được nhu cầu của thầy và trò bởi nó cũng chẳng có gì liên quan
76
đến chuyên môn dạy và học. Và, một điều dễ nhận thấy nữa là thư viện nào cũng
vắng, không thấy bạn đọc, đặc biệt là các em học sinh” [3].
Qua phỏng vấn các cán bộ thư viện ở các tỉnh và các em học sinh, đặc biệt
là các em học sinh miền núi và vùng biên giới, nhu cầu đọc sách văn học, đặc biệt
là các truyện cổ tích, truyện tranh nhưng thư viện trường không có, chờ vào các
đợt luân chuyển thì vài tháng mới có một lần. Khi trao đổi với các lãnh đạo chính
quyền địa phương, chúng tôi được biết nhu cầu sách nói chung và sách văn học
nghệ thuật nói riêng bằng tiếng dân tộc của người Khơ me, người Chăm rất lớn
nhưng các thư viện chưa có các sách tiếng dân tộc.
Xu hướng đọc đã có sự thay đổi, từ những sách báo tài liệu truyền thống,
người dân đã có nhu cầu đọc dưới dạng điện tử, đọc qua mạng nhưng hiện nay do
kinh phí bổ sung hạn chế, và cũng do nguồn tài liệu điện tử về văn học nghệ thuật
trong các thư viện còn ít nên nhu cầu đọc, thưởng thức tác phẩm văn học nghệ
thuật dưới dạng kỹ thuật số còn chưa được đáp ứng.
II. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ
Để thư viện có thể phát huy những kết quả đạt được về thực hiện nghị
quyết 23 của Bộ Chính Trị, tiếp tục đưa hoạt động vào chiều sâu góp phần tích
cực vào việc bảo lưu và phát triển văn học nghệ thuật, có một số vấn đề đặt ra cần
có sự quan tâm của Chính phủ, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch và các cơ quan
chức năng. Từ thực tiễn với những hạn chế và các vấn đề đang đặt ra, Vụ Thư
viện xin đề xuất một số kiến nghị sau:
2.1. Đối với Nhà nước:
- Nhà nước cần có những đầu tư thích đáng cho các dự án thu thập và lưu
giữ các cổ bản văn học nghệ thuật còn đang lưu hành trong nhân dân, đặc biệt là
ở các địa phương vùng dân tộc. Coi đây là vốn quý hiếm bị lãng quên như các
trường ca, các sự tích anh hùng, các tác phẩm văn học, đặc biệt là các loại hình
nghệ thuật dân gian của 54 dân tộc anh em.
- Nhu cầu đọc sách của người dân tộc và người khiếm thị cũng là một vấn
đề được quan tâm. Nhà nước cần có chính sách trợ giá trong việc xuất bản sách
bằng tiếng dân tộc và sách chữ nổi, sách nói cho người khiếm thị đồng thời cấp
ngân sách cho các thư viện công cộng để có thể bổ sung các loại tài liệu này.
- Trong chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa, cần bổ sung
thêm các nội dung trang bị xe thư viện lưu động cho các thư viện tỉnh, trang bị sách
cho để tiếp tục xây dựng kho sách lưu động cho các thư viện tỉnh, hỗ trợ kinh phí
xây dựng các thư viện huyện vùng sâu vùng xa, vùng thực sự khó khăn…
2.2. Đối với Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch:
- Bộ sớm trình Thủ tướng Chính phủ “Đề án phát triển văn hóa đọc trong
cộng đồng” để tạo ra chính sách, thu hút sự quan tâm, đầu tư của các bộ ngành
với việc đọc sách nói chung và đọc sách văn học nghệ thuật nói chung được tăng
77
cường, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa, khả năng tiếp cận với sách báo nói
chung và các tác phẩm văn học nghệ thuật nói riêng.
- Bộ cần có sự đề xuất với Chính phủ để mở rộng các nội dung liên quan
đến thư viện trong Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa để các
thư viện có thể tăng thêm sự đầu tư nhằm nâng cao khả năng bổ sung, luân
chuyển và tuyên truyền các tác tác phẩm văn học nghệ thuật đến với cộng đồng.
- Bộ cũng cần sớm cho thực hiện các sự án số hóa tài liệu để các thư viện và
người dân có thêm nguồn tài liệu số, đặc biệt là với các tác phẩm văn học, nghệ thuật
có giá trị và đặc sắc. Đây cũng là một hoạt động góp phần không nhỏ vào việc lưu
giữ và phát triển văn học nghệ thuật trong thời đại công nghệ thông tin phát triển.
2.3. Đối với ngành thư viện
- Các thư viện công cộng cần tăng cường phát triển vốn tài liệu nhằm đáp ứng
phần lớn nhu cầu học tập, nghiên cứu và giải trí của nhân dân; Đổi mới phương thức
phục vụ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của bạn đọc; Tích cực thực hiện việc luân
chuyển sách báo xuống cơ sở, thường xuyên tuyên truyền giới thiệu sách, tổ chức tốt
phong trào thi đọc sách báo, xây dựng ý thức, thói quen đọc sách báo cho người dân
trên địa bàn; Củng cố và đẩy mạnh hoạt động của thư viện cơ sở.
- Nâng cao nhận thức cho cán bộ thư viện về vai trò bảo lưu và phát triển
văn học nghệ thuật ở cộng đồng là một hoạt động lâu dài của toàn ngành.
- Các thư viện cần tăng cường tổ chức các hoạt động giới thiệu quảng bá
các tài liệu văn học và nghệ thuật tới rộng rãi công chúng, bạn đọc, nhất là học
sinh sinh viên để nuôi dưỡng tâm hồn Việt trong sáng của các em thiếu nhi; Tổ
chức các đợt thi tìm hiểu văn học nghệ thuật dân tộc ở các tỉnh, các huyện. Thông
qua đó tuyên truyền giới thiệu cho bạn đọc những tác phẩm văn học hay, những
loại hình nghệ thuật độc đáo. Hoạt động này thiết thực đóng góp cho việc bảo lưu
và phát triển vốn quý của dân tộc hiệu quả trong cộng đồng.
- Đối với thư viện trường phổ thông, cần được cấp thêm kinh phí để mua
những tác phẩm văn học phục vụ cho việc học và giải trí của các em.
- Tăng cường bổ sung thêm các tài liệu văn học nghệ thuật điện tử, các tài
liệu cho phép tiếp cận qua Internet để phạm vi sử dụng các tài liệu này được rộng
hơn, vượt ra ngoài giới hạn của các bức tường của tòa nhà thư viện
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị Quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát
triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới ngày 16/6/2008
2. Giới thiệu về thư viện trường THCS & THPT Nguyễn Tất Thành. Truy
cập tại: http://www.ntthnue.edu.vn/category/thu-vien.html
3. Học sinh đọc gì ở thư viện trường Trung học cơ sở ? Giáo dục và Thời
đại online ngày 6/1/2013, truy cập tại:
http://www.gdtd.vn/channel/2762/201301/hoc-sinh-doc-gi-o-thu-vien-truong-
THCS-1966095
78
CÔNG TÁC ĐÀO TẠO VĂN HÓA NGHỆ THUẬT SAU 5 NĂM THỰC
HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 23-NQ/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ
PGS.TS Đào Mạnh Hùng
Vụ trưởng Vụ Đào tạo
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Văn hoá nghệ thuật có vị trí đặc biệt quan trọng trên mặt trận tư tưởng, là
động lực cổ vũ toàn dân tộc đi theo con đường mà Đảng Cộng sản Việt Nam và
Bác Hồ đã chọn. Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam, dưới
sự lãnh đạo của Đảng, đến nay đã được thể hiện qua 3 dấu mốc quan trọng, đó
là: Đề cương Văn hoá Việt Nam năm 1943; Nghị quyết Trung ương 5 khoá (VIII)
của BCHTW Đảng năm 1998 và Nghị quyết 23-NQ/TW BCT BCHTW ngày
16/6/2008 “Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật Việt Nam
trong thời kỳ mới”.
Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị đánh dấu một bước ngoặt lớn đối
với sự nghiệp phát triển văn học, nghệ thuật. Nghị quyết tập trung vào các hoạt
động quan trọng, gồm: sáng tác, lý luận, phê bình; sản xuất, trình diễn, giao lưu,
hợp tác, sử dụng, truyền bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật; đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ hoạt động văn học, nghệ thuật; công tác lãnh đạo, điều hành, quản lý, đầu
tư, tài trợ đối với hoạt động văn học, nghệ thuật. Như Nghị quyết đã đánh giá,
trong thời gian qua văn học, nghệ thuật Việt Nam có bước phát triển mới, có
những biến đổi sâu sắc, những đặc điểm mới, đạt được nhiều thành tựu, nhưng
cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém đan xen nhau….So với yêu cầu phát triển đất
nước và những định hướng được xác định trong Nghị quyết Trung ương 5 (khoá
VIII), hoạt động văn học, nghệ thuật thời gian qua đã bộc lộ một số yếu kém,
khuyết điểm.
Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị xác định: Giải quyết tốt các yêu
cầu theo một định hướng đúng là một trong những nhân tố đảm bảo cho văn học,
nghệ thuật phát triển ngày càng phong phú, đa dạng, góp phần tích cực xây dựng
nền văn hóa tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Đánh giá đúng những thành tựu đạt được, chỉ ra những yếu kém, khuyết
điểm, đặc biệt là những nguyên nhân của những thành tựu và yếu kém đó để sửa
chữa, khắc phục là cơ sở để phát triển nền văn học, nghệ thuật tương xứng với
tầm vóc của sự nghiệp đổi mới.
Với mục tiêu không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả trong công tác
đào tạo văn hoá nghệ thuật, trong những năm qua được sự quan tâm của Đảng,
Nhà nước, sự nghiệp đào tạo văn hoá nghệ thuật có những chuyển biến tích cực:
Mạng lưới các trường tiếp tục được củng cố và phát triển; quy mô đào tạo không
ngừng được mở rộng, các loại hình đào tạo được đa dạng hoá, đáp ứng nhu cầu
phát triển kinh tế-xã hội. Công tác xã hội hoá tiếp tục được đẩy mạnh; việc liên
kết đào tạo giữa các trường trung ương và địa phương ngày càng chặt chẽ và mở
rộng; công tác đào tạo cán bộ cho khu vực dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa
79
được ưu tiên, chú trọng. Các hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế trong đào tạo
tiếp tục được duy trì và phát triển, góp phần nâng cao chất lượng, đổi mới phương
thức đào tạo. Nhiều Nhà giáo được trao tặng những phần thưởng cao quý của
Đảng và Nhà nước; nhiều học sinh, sinh viên đạt được những thành tích cao trong
học tập, nghiên cứu khoa học và đoạt giải tại các kỳ thi tài năng nghệ thuật trong
nước và quốc tế … Có được những thành tích này là do các cơ sở đào tạo văn hoá
nghệ thuật đã phát huy được tinh thần nỗ lực, sáng tạo, chủ động, tự chủ, tự chịu
trách nhiệm và tập trung xây dựng, kiện toàn đội ngũ giáo viên, giảng viên, tăng
cường và sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất phục vụ công tác đào tạo. Bộ Văn
hoá, Thể thao và Du lịch đã xây dựng 3 đề án và đã được Chính Phủ phê duyệt đó
là các đề án: «Xây dựng đội ngũ trí thức ngành văn hoá, thể thao và du lịch đến
năm 2020», «Đào tạo giảng viên trình độ cao trong lĩnh vực văn hoá nghệ thuật
giai đoạn 2011-2020» và đề án «Đổi mơí và nâng cao chất lượng đào tạo của các
trường văn hoá nghệ thuật giai đoạn 2011-2020» sau khi được Thủ tướng phê
duyệt, Bộ VHTTDL đã thành lập Ban chỉ đạo cả 3 đề án trên, phê duyệt kế hoạch
và đã giao nhiệm vụ cho các đơn vị triển khai các đề án. Ngày 3/4/2013 Ban chỉ
đạo các đề án đã họp nghe báo cáo kết quả việc triển khai các đề án năm 2012 và
kế hoạch 2013. Đặc biệt với đề án theo nghị quyết 23-NQ/TW «Đổi mơí và nâng
cao chất lượng đào tạo của các trường văn hoá nghệ thuật giai đoạn 2011-2020»
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã triển khai những công việc cụ thể sau :
+ Đổi mới công tác tuyển sinh, tốt nghiệp trong lĩnh vực văn hoá nghệ
thuật: Đề án Đổi mới công tác tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy khối các
trường Văn hóa- Nghệ thuật đã được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo phê
duyệt (gọi tắt là Đề án 102) triển khai áp dụng thí điểm trong năm 2013 cho 10 cơ
sở đào tạo Văn hoá nghệ thuật. Hiệu quả của Đề án sẽ nâng cao chất lượng tuyển
sinh đầu vào, đáp ứng mục tiêu đào tạo của từng ngành và phù hợp điều kiện thực
tiễn, cũng như tính chất đặc thù đối với các ngành đào tạo tại các cơ sở đào tạo
đại học, cao đẳng khối Văn hóa - Nghệ thuật. Giao quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm cho các cơ sở đào tạo khối Văn hóa - Nghệ thuật trong công tác tuyển sinh.
Mở rộng nguồn tuyển sinh, nhằm nâng cao chất lượng tuyển chọn đầu vào, phù
hợp với đặc điểm và mục tiêu đào tạo nhân lực văn hóa nghệ thuật. Tạo điều kiện
thuận lợi tối đa cho thí sinh thi vào các ngành năng khiếu nghệ thuật của các cơ
sở đào tạo khối Văn hóa - Nghệ thuật, nhưng vẫn bảo đảm cho thí sinh có cơ hội
tham gia thi và xét tuyển vào các khối ngành khác.
+ Đổi mới về đào tạo, bồi dưỡng, phát triển tài năng: Tổ chức Hội thi tài
năng trẻ học sinh, sinh viên các lĩnh vực văn hoá nghệ thuật nhằm lựa chọn, tôn
vinh tài năng, khích lệ học sinh, sinh viên tăng cường học hỏi, rèn luyện kỹ năng,
tích lũy kiến thức và đạo đức nghề nghiệp đảm bảo mục tiêu học tập để ngày mai
lập nghiệp. Qua đó, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch nhìn nhận và đánh giá chất
lượng đào tạo nhân lực tại các cơ sở đào tạo văn hoá nghệ thuật trên toàn quốc, để
từ đó có các biện pháp hỗ trợ, bồi dưỡng tài năng, nâng cao chất lượng đào tạo
nhân lực đáp ứng nhu cầu xã hội. Đồng thời, các hội thi là dịp để các cơ sở đào
tạo văn hoá nghệ thuật có điều kiện giao lưu, trao đổi, học tập kinh nghiệm trong
công tác quản lý dạy và học.
80
+ Đổi mới cơ cấu đào tạo và phát triển, hoàn thiện mạng lưới các cơ sở đào
tạo văn hoá nghệ thuật; tiến hành kiểm tra, đánh giá tổng thể thực trạng mạng
lưới các cơ sở đào tạo VHNT.
+ Đổi mới nội dung chương trình, giáo trình và phương thức đào tạo
VHNT trình độ cao đẳng, đại học và sau đại học.
+ Xây dựng chương trình môn học trình độ đại học, cao đẳng các nhóm
ngành Mỹ thuật, Văn hoá, Múa, Sân khấu-Điện ảnh, âm nhạc.
+ Đổi mới công tác tuyển sinh, tốt nghiệp trong lĩnh vực văn hoá nghệ
thuật.
+ Nâng cao năng lực và hiệu quả công tác quản lý, đào tạo của các trường
văn hoá nghệ thuật thông qua 3 hội nghị, hội thảo.
+ Xây dựng và triển khai dự án đào tạo Đại học và Sau đại học cho cán bộ,
giảng viên và sinh viên ở nước ngoài.
+ Xây dựng thông tư về chế độ giờ giảng, chế độ người mẫu, và chế độ hỗ
trợ tốt nghiệp cho học sinh sinh viên bảo vệ tốt nghiệp bằng tác phẩm.
Công tác đào tạo văn hóa nghệ thuật sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 23-
NQ/TW có thể khái quát như sau:
I. NHỮNG KẾT QUẢ DẠT DƯỢC
1. Mạng lưới các cơ sở đào tạo về văn hoá nghệ thuật trên toàn quốc
Tính tới năm 2012, trong cả nước có 56 cơ sở đào tạo chuyên nghiệp thuộc
lĩnh vực Văn hoá nghệ thuật, bao gồm:
1.1. Các cơ sở đào tạo văn hoá nghệ thuật trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch (gọi tắt là trường Trung ương): có 16 cơ sở đào tạo Văn hóa nghệ
thuật, trong đó có 9 trường đại học, 4 trường cao đẳng, 2 trường trung cấp chuyên
nghiệp, 1 viện nghiên cứu có đào tạo tiến sĩ. Đây là các cơ sở đào tạo thuộc các
nhóm ngành: Âm nhạc, Văn hoá, Sân khấu - Điện ảnh, Mỹ thuật, Múa, Xiếc…
với các trình độ đào tạo: tiến sĩ, thạc sĩ, đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên
nghiệp. Trong số các trường trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có 7 cơ
sở đào tạo thạc sĩ (Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam, Nhạc viện Thành phố
Hồ Chí Minh, Đại học Văn hóa Hà Nội, Đại học Văn hóa TP. Hồ Chí Minh, Đại
học Mỹ thuật Việt Nam, Đại học Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh và Đại học Sân
khấu-Điện ảnh Hà Nội) 4 cơ sở đào tạo được Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ
đào tạo tiến sĩ thuộc lĩnh vực Âm nhạc, Mỹ thuật, Sân khấu, Điện ảnh, Văn hóa
học và Quản lý văn hoá (Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, Học viện Âm nhạc
quốc gia Việt Nam, Đại học Văn hóa Hà Nội và Đại học Sân khấu-Điện ảnh Hà
Nội).
1.2. Các trường văn hoá nghệ thuật thuộc tỉnh, thành phố: Có 36 trường do
các tỉnh, thành phố trực tiếp quản lý, trong đó có 01 trường đại học, 8 trường cao
đẳng, 27 trường trung cấp chuyên nghiệp. Đây là các cơ sở đào tạo đa ngành, đa
lĩnh vực, nhằm cung cấp nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp phát triển văn hoá và
81
nghệ thuật của địa phương, đồng thời làm nhiệm vụ tạo nguồn cho các trường văn
hóa nghệ thuật ở Trung ương.
1.3. Các trường đại học văn hóa nghệ thuật trực thuộc các Bộ, Ngành
khác, gồm 04 trường, trong đó 03 trường trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo và
01 trường trực thuộc Bộ Quốc phòng.
Căn cứ vào nhu cầu đào tạo cán bộ văn hóa nghệ thuật, từ nay đến năm
2015, dự kiến đề nghị Chính phủ thành lập 4 trường đại học trên cơ sở các
trường: Cao đẳng Mỹ thuật Trang trí Đồng Nai, Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật
Việt Bắc, Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật Tây Bắc, Cao đẳng Múa Việt Nam. Như
vậy, tính đến năm 2015 sẽ có 13 trường đại học về văn hóa và nghệ thuật trực
thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Một số trường cao đẳng ở các địa
phương sẽ được nâng cấp thành các trường đại học theo quy hoạch chung.
Hệ thống các trường văn hoá nghệ thuật những năm qua đã được củng cố
và phát triển về mọi mặt, cơ sở vật chất đã được đầu tư nâng cấp và xây dựng
mới, các trường địa phương phân bố tập trung ở các tỉnh, thành phố có nhu cầu
phát triển lớn về văn hoá nghệ thuật, các trường ở trung ương phân bố ở 2 khu
vực chính là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, ngoài ra còn 2 cơ sở đào tạo
phục vụ cho khu vực miền núi dân tộc là Tây Bắc và Việt Bắc (đặt tại Hòa Bình
và Thái Nguyên).
2. Chương trình, giáo trình và các ngành đào tạo
Việc xây dựng chương trình khung đào tạo khối ngành văn hoá nghệ thuật
thống nhất trong cả nước có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quản lý và đổi mới
và nâng cao chất lượng đào tạo. Thực hiện ý kiến của Bộ Giáo dục và Đào tạo,
trong những năm qua, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã triển khai xây dựng
các chương trình khung giáo dục, trình độ đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên
nghiệp. Chương trình khung xây dựng có kết cấu mềm dẻo, vừa đảm bảo sự
thống nhất về mặt bằng trình độ chung của cả nước, phát huy tính chủ động của
từng trường, phù hợp với đặc điểm của từng vùng, miền… nhằm đảm bảo tính
tiên tiến, hiện đại của nội dung chương trình và trình độ đào tạo. Cụ thể:
- Chương trình khung giáo dục đại học, trình độ đại học: Năm 2008, 2009
Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch xây dựng 20 chương trình khung và bàn giao
cho Bộ Giáo dục - Đào tạo. Đến nay các chương trình khung này đã được Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành áp dụng thống nhất trong cả nước, gồm các ngành:
Piano, Biểu diễn nhạc cụ phương tây, Huấn luyện múa, Biểu diễn Kịch - Điện
ảnh, Quay phim, Thư viện-Thông tin, Bảo tồn - Bảo tàng (nay là Bảo tàng học),
Phát hành xuất bản phẩm, Hội hoạ, Đồ hoạ ứng dụng (nay là Thiết kế đồ hoạ),
Thanh nhạc, Biểu diễn nhạc cụ truyền thống, Sáng tác âm nhạc, Lý luận và lịch
sử mỹ thuật, Điêu khắc, Biên đạo múa, Đạo diễn điện ảnh, Công nghệ Điện ảnh -
Truyền hình, Nhiếp ảnh, Xuất bản.
- Chương trình đào tạo, trình độ thạc sĩ và tiến sĩ: Bộ Văn hoá, Thể thao và
Du lịch có 8 cơ sở đào tạo sau đại học đào tạo các lĩnh vực Văn hoá, Âm nhạc,
Mỹ thuật, Sân khấu, Điện ảnh. Trong đó có 4 cơ sở đào tạo nghiên cứu sinh là
Nhạc viện Hà Nội và Viện Văn hoá nghệ thuật Việt Nam, Trường Đại học Văn
82
hoá Hà Nội và Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội với 10 mã ngành đào
tạo ở trình độ thạc sĩ và 11 mã ngành ở trình độ tiến sĩ. Các cơ sở đào tạo đã xây
dựng chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ theo khung chương trình của Bộ Giáo
dục và Đào tạo quy định. Chương trình đào tạo thường xuyên được cập nhập, bổ
sung, điều chỉnh nội dung chương trình nhằm đảm bảo tính hợp lý, cân đối và phù
hợp với yêu cầu đào của từng chuyên ngành.
- Biên soạn giáo trình: Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đầu tư kinh phí và
giao cho các cơ sở đào tạo trực thuộc Bộ biên soạn giáo trình dùng chung trong
các trường văn hoá nghệ thuật nhằm giúp các cơ sở đào tạo văn hoá nghệ thuật
địa phương chưa có khả năng biên soạn giáo trình giảng dạy có thể áp dụng
những giáo trình đã được nghiệm thu.
- Danh mục ngành đào tạo khối văn hoá nghệ thuật: căn cứ vào tình hình
phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam và xu thế hội nhập quốc tế, Bộ Văn hoá,
Thể thao và Du lịch đã đề xuất với Bộ Giáo dục và Đào tạo danh mục các ngành
đào tạo lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật trình độ đại học và cao đẳng, gồm 46 ngành
thuộc các nhóm ngành: Mỹ thuật, Nghệ thuật trình diễn, Nghệ thuật nghe nhìn,
Mỹ thuật ứng dụng, Thông tin - Thư viện, Lưu trữ - Bảo tàng, Xuất bản - Phát
hành, Ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam… Về cơ bản Bộ Giáo dục và Đào tạo nhất
trí với đề xuất của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, và sẽ đưa khoảng 46 ngành
do Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đề xuất vào danh mục ngành đào tạo của
Việt Nam.
3. Đội ngũ giảng viên, giáo viên
Đội ngũ giáo viên, giảng viên văn hóa nghệ thuật trong những năm gần đây
tăng về số lượng, nâng cao về trình độ đào tạo. Hầu hết các nhà giáo có trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, có ý thức chính trị và phẩm chất đạo đức, tích cực học
tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, có tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm
vụ được giao. Với nỗ lực và lòng yêu nghề, đội ngũ giảng viên, giáo viên văn hoá
nghệ thuật trong cả nước đã góp phần tạo ra nguồn nhân lực hoạt động văn hoá
nghệ thuật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và góp phần xây dựng nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Hiện nay, đội ngũ giảng viên, giáo viên các trường văn hóa nghệ thuật có
trình độ sau đại học còn hạn chế so với tổng số giảng viên, giáo viên, chiếm tỉ lệ
rất thấp, nhiều giảng viên, chuyên gia có trình độ cao, được đào tạo cơ bản ở
trong nước và nước ngoài, tích luỹ được nhiều kiến thức, kinh nghiệm về chuyên
môn và nghiệp vụ đã lớn tuổi và nghỉ hưu. Việc gửi đi đào tạo ở nước ngoài một
số ngành mà trong nước chưa đủ sức đào tạo hoặc đào tạo nhưng với chất lượng
chưa cao trong những năm qua là rất ít. Tình hình đó khiến cho đội ngũ giảng
viên, giáo viên nói chung thiếu về số lượng, yếu về chất lượng. Số giảng viên,
giáo viên kế cận chưa đủ thời gian tích luỹ kiến thức chuyên môn và nghiệp vụ
cũng như kinh nghiệm giảng dạy nên chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu về chất
lượng đào tạo. Để khắc phục tình trạng nêu trên, các trường văn hóa nghệ thuật ở
trung ương và địa phương, ngoài việc sử dụng số biên chế hiện có và giảng viên,
83
giáo viên kiêm nhiệm, thỉnh giảng, đã mời nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, các
nhà giáo đã nghỉ hưu có trình độ cao tham gia giảng dạy.
4. Hợp tác quốc tế về đào tạo
Sau sự kiện Liên Xô không còn nguồn hỗ trợ đào tạo của các nước trong
khối xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, việc gửi cán bộ, học sinh đi đào tạo ở nước
ngoài bằng ngân sách nhà nước bị hạn chế do chi phí đào tạo nghệ thuật ở nước
ngoài quá cao. Việc gửi đi đào tạo nghệ thuật ở nước ngoài chỉ được nối lại sau
khi có Quyết định của Chính phủ phê duyệt Đề án đào tạo cán bộ khoa học, kỹ
thuật tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước (Đề án 322) từ tháng 4
năm 2000. Tuy nhiên, với Đề án 322 và các đề án khác, số lượng cán bộ và giảng
viên, sinh viên được cử đi đào tạo ở trình độ đại học và sau đại học về văn hóa
nghệ thuật là rất ít từ nhiều lý do trong đó cơ bản là ngoại ngữ và học phí của các
trường Nghệ thuật ở các nước đều rất cao. Vì vậy, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch trong nội dung triển khai 2 đề án: «Đào tạo giảng viên trình độ cao trong lĩnh
vực văn hoá nghệ thuật giai đoạn 2011-2020» và đề án «Đổi mơí và nâng cao
chất lượng đào tạo của các trường văn hoá nghệ thuật giai đoạn 2011-2020 » đã
ra quyết định thành lập số 1145/QĐ-BVHTTDL về việc thành lập ban chỉ đạo,
Hội đồng xét chọn cán bộ, giảng viên, giáo viên, học sinh , sinh viên Văn hoá
nghệ thuật, Thể dục thể thao và Du lịch đi đào tạo và bồi dưỡng ở nước ngoài, đã
triển khai xây dựng quy chế và thông báo truyển sinh đi học nước ngoài bằng
ngân sách của đề án dự kiến tháng 10/2013 sẽ cử đoàn giảng viên và sinh viên
đầu tiên đi học ở nước ngoài theo nội dung của đề án. Trước đó đã chỉ đạo và tạo
điều kiện để các cơ sở đào tạo trực thuộc Bộ chủ động thiết lập các mối quan hệ
quốc tế trong đào tạo văn hóa nghệ thuật với các cơ sở đào tạo của Nga, Pháp,
Đức, Trung Quốc, Nhật Bản, Anh, Na Uy, Thuỵ Điển, Hàn Quốc... Thông qua
các mối quan hệ song phương với các cơ sở đào tạo ở nước ngoài và sự giúp đỡ
của các tổ chức quốc tế, nhiều trường đã gửi cán bộ, học sinh, sinh viên đi đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ ở nước ngoài và mời được các chuyên gia đến
giảng dạy tại các cơ sở đào tạo văn hoá nghệ thuật bằng nguồn kinh phí của Nhà
nước và các nguồn tài trợ khác.
5. Đầu tư cơ sở vật chất
Nhằm đáp ứng nhu cầu mở rộng qui mô, đa dạng hóa các loại hình đào tạo
và nâng cao chất lượng đào tạo, trong những năm qua, các cơ sở đào tạo văn hoá
nghệ thuật trung ương và thuộc tỉnh, thành phố đã được tăng cường đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập ngày càng có
quy mô lớn và hiện đại, như: sửa sang, xây dựng ký túc xá cho học sinh, sinh
viên, xây dựng thêm nhiều phòng học, cung cấp nhiều trang thiết bị hiện đại đáp
ứng nhu cầu giảng dạy và học tập. Các trường: Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà
Nội, Học viện Âm nhạc Quốc gia, Cao đẳng Múa Việt Nam, Đại học Văn hoá Hà
Nội, Đại học Văn hoá TP. Hồ Chí Minh, Cao đẳng VHNT Việt Bắc, Cao đẳng
VHNT Tây Bắc... đều được đầu tư sửa chữa và xây mới cơ sở vật chất. Các
trường: Nhạc viện TP. Hồ Chí Minh, Đại học Sân khấu, Điện ảnh TP.Hồ Chí
Minh, Trung cấp Múa TP. Hồ Chí Minh đều đang triển khai kế hoạch xây dựng
84
cơ sở 2 tại các quận 2 và quận 9 TP. Hồ Chí Minh. Các trường: Đại học Sân khấu
Điện ảnh Hà Nội, Đại học Mỹ Thuật Việt Nam, Đại học Văn hoá Hà Nội và Học
viện Âm nhạc Quốc gia đang triển khai thủ tục xin đất tại Hà Nam để xây dựng
cơ sở 2. Học viện Âm nhạc Huế đang triển khai xây dựng cơ sở mới tại TP. Huế.
II. Những tồn tại
- Chất lượng đào tạo đạt hiệu quả chưa cao, chưa chú trọng nhiều đến thực
hành; đào tạo nhân lực chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng lớn của xã hội;
nhân lực được đào tạo còn hạn chế về trình độ chuyên môn nghiệp vụ và lý luận
chính trị.
- Cơ cấu ngành nghề đào tạo và quy mô đào tạo tuy đã được đầu tư phát
triển nhưng nhìn chung vẫn chưa thực sự đáp ứng được với đòi hỏi của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các ngành nghề đào tạo có mở rộng, bổ
sung nhưng vẫn chưa đáp ứng được với nhu cầu của xã hội. Các ngành đào tạo
nghệ thuật như: Múa, Xiếc, Sân khấu truyền thống… gặp khó khăn trong công tác
tuyển sinh (thiếu nguồn tuyển). Cùng với những khó khăn trong công tác tuyển
sinh nghệ thuật, chi phí cho đào tạo lớn, trong khi ngân sách chi cho đào tạo nghệ
thuật hạn hẹp, khả năng tự chủ của nhà trường bị hạn chế nên chất lượng đào tạo,
nhất là đối với các ngành Mỹ thuật, Âm nhạc, Sân khấu, Điện ảnh, Múa, Xiếc bị
ảnh hưởng nhiều.
- Quy hoạch mạng lưới các trường còn bất hợp lý, không mang tính chiến
lược; bố trí các cơ sở đào tạo chưa phù hợp, chưa cập nhật được với tình hình
thực tế phát triển của Việt Nam dẫn đến hiệu quả đầu tư bị giảm; việc xây dựng
cơ sở hạ tầng còn mang tính chất tình thế, chưa có chiến lược lâu dài nên các
công trình xây dựng còn manh mún lạc hậu.
- Chương trình đào tạo cứng nhắc, thiếu sự linh hoạt và mềm dẻo, thiếu sự
liên thông, nặng phần lý thuyết chưa chú trọng đến phần thực hành; phương pháp
giảng dạy và học tập còn lạc hậu, chậm đổi mới, không đồng bộ và thiếu tính cập
nhật. Một số cơ sở đào tạo giáo trình còn lạc hậu, thiếu giáo trình chuẩn để giảng
dạy.
- Đội ngũ cán bộ, giảng viên hụt hẫng, thiếu về số lượng, hạn chế về chất
lượng, những cán bộ, giảng viên có trình độ cao và chuyên gia đầu ngành thiếu
nghiêm trọng; đội ngũ giảng viên ít tham gia nghiên cứu khoa học, chưa thực sự
toàn tâm toàn ý cho sự nghiệp đào tạo văn hoá nghệ thuật. Việc phát hiện, đào
tạo, bồi dưỡng tài năng văn hoá nghệ thuật chưa được chú trọng.
- Quản lý nhà nước về đào tạo văn hoá nghệ thuật vẫn nặng tính hành
chính, quan liêu; cơ chế chính sách chưa tạo ra tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm
của các trường về nhân sự, về hoạch toán thu chi, về sản phẩm đào tạo, chưa tạo
sự cạnh tranh cần thiết để phát triển đào tạo văn hoá nghệ thuật trong xu thế hội
nhập. Quản lý ở các cơ sở đào tạo chưa đổi mới, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và
thói quen.
85
- Văn bản pháp luật về giáo dục - đào tạo thiếu tính linh hoạt và mềm dẻo
chưa thực sự tạo điều kiện thúc đẩy sự nghiệp đào tạo văn hoá nghệ thuật phát
triển, đặc biệt là các loại hình nghệ thuật độc đáo của dân tộc.
- Đầu tư cho đào tạo văn hoá nghệ thuật thấp và chưa được chú trọng.
- Các trường văn hoá nghệ thuật địa phương: việc đầu tư cơ sở vật chất và
trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập còn nhiều hạn chế; chưa có cơ chế,
chính sách tạo điều kiện liên kết đào tạo với nước ngoài.
III. Đề xuất, kiến nghị
1. Đổi mới cơ chế, chính sách và nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý nhà
nước trong lĩnh vực đào tạo Văn hoá nghệ thuật
- Chính sách tăng cường đầu tư các nguồn lực phục vụ công tác đào tạo văn
hoá nghệ thuật trong cả nước, gồm: nhân lực, tài chính, cơ sở vật chất.
- Chính sách đối với đội ngũ giảng viên, giáo viên văn hoá nghệ thuật: sử
dụng nghệ sĩ nổi tiếng, nhân dân, nghệ sĩ ưu tú vào việc giảng dạy (các môn thực
hành); thu hút Việt kiều và những người được đào tạo ở nước ngoài về tham gia
giảng dạy tại các cơ sở đào tạo.
- Chế độ học bổng đối với học sinh, sinh viên học các ngành nghệ thuật,
như: Tuồng, Chèo, Cải lương; biểu diễn nhạc cụ truyền thống; nhạc cụ phương
tây; kịch hát dân tộc; múa; xiếc...; đặc biệt chú trọng đến học sinh, sinh viên
miền núi, dân tộc và vùng sâu, vùng xa.
- Nghiên cứu, xây dựng mô hình tổ chức, quản trị trường đại học, cơ cấu tổ
chức Hội đồng trường và cách thức quản lý trường.
2. Phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng tài năng văn hóa nghệ thuật
- Thành lập quỹ đào tạo, bồi dưỡng tài năng trẻ.
- Cơ chế, chính sách đối với việc phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng tài năng văn
hóa nghệ thuật, đặc biệt chú trọng đến việc bảo tồn và phát huy các loại hình nghệ
thuật độc đáo của dân tộc, trong đó thực hiện các nhiệm vụ cụ thể:
+ Tổ chức các cuộc thi tài năng văn hóa nghệ thuật; các cơ sở đào tạo văn
hóa nghệ thuật trong cả nước có trách nhiệm phát hiện những em có năng khiếu
thực sự đề xuất với các Bộ, Ban ngành để có chế độ đào tạo, bồi dưỡng.
+ Được phép tuyển thẳng đối với những học sinh có tài năng thực sự (ưu
tiên những ngành nghệ thuật truyền thống); đào tạo dự bị đại học.
+ Có chế độ và cơ chế tài chính đầu tư cho việc đào tạo và bồi dưỡng tài
năng văn hóa nghệ thuật, cụ thể: chương trình, giáo trình đào tạo riêng; có đủ
trang thiết bị hiện đại phục vụ công tác giảng dạy và học tập; nhà giáo và chuyên
gia giỏi ở trong nước và quốc tế giảng dạy; cử đi đào tạo, tham quam, thực tập và
tham gia các cuộc thi ở trong nước và nước ngoài...
86
3. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên, giáo viên và
cán bộ quản lý; đổi mới nội dung chương trình đào tạo, giáo trình giảng dạy và
phương pháp giảng dạy
- Giảng viên, giáo viên, cán bộ quản lý là lực lượng nòng cốt, có vai trò
quan trọng quyết định đối với thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và nâng cao chất
lượng đào tạo văn hoá nghệ thuật. Vì vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng nhằm xây
dựng và phát triển đội ngũ giảng viên, giáo viên có trình độ, kỹ năng và phẩm
chất tốt là một yêu cầu cấp bách trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Vì vậy, hàng năm cần có kinh phí cho:
+ Cử cán bộ, giảng viên đi đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ, thực tập sinh ở nước
ngoài đối với các trường văn hóa nghệ thuật ở trung ương và địa phương.
+ Cử các đoàn cán bộ quản lý, giảng viên, giáo viên ở các trường văn hóa
nghệ thuật trung ương và địa phương đi nghiên cứu, khảo sát thực tế ở nước
ngoài.
+ Tăng cường mở các lớp tập huấn bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, lý luận chính trị và ngoại ngữ; 02 năm một lần tổ chức các hội thi
giáo viên dạy giỏi khối ngành văn hoá nghệ thuật.
- Đổi mới và nâng cao chất lượng chương trình, giáo trình đào tạo và
phương pháp giảng dạy.
+ Rà soát lại cấu trúc và quan hệ giữa các chương trình khung và nội dung
đào tạo của các trình độ đào tạo trung cấp, cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ, đảm
bảo sự liên thông giữa các trình độ đào tạo; xây dựng chương trình đào tạo tiếp
cận với chương trình đào tạo tiên tiến của các nước trên thế giới và trong khu vực.
Từng bước triển khai áp dụng đào tạo theo học chế tín chỉ.
+ Xây dựng chương trình giảng dạy liên thông giữa các trình độ đào tạo từ
trung cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học; chương trình giảng dạy có thể liên
thông với nước ngoài; xây dựng giáo trình điện tử; xây dựng thư viện điện tử.
+ Các môn học thực hành phải được trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, trang
thiết bị phục vụ cho đào tạo, gồm: Trường quay, sân khấu, sàn tập, xưởng, phòng
hoà nhạc, phòng luyện thanh và các trang thiết bị khác phụ vụ giảng dạy và học
tập theo tiêu chuẩn tiên tiến; đổi mới phương thức dạy học, áp dụng cách thức
đánh giá hiện đại.
+ Đào tạo thí điểm một số chuyên ngành bằng tiếng Anh.
+ Đào tạo gắn với nghiên cứu khoa học và khai thác có hiệu quả các đề tài
nghiên cứu khoa học; tăng cường việc giao cho một số cơ sở đào tạo xây dựng đề
tài nghiên cứu khoa học nhằm ứng dụng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo
văn hoá nghệ thuật.
+ Mua tài liệu của nước ngoài và chuyển giao công nghệ đào tạo của nước
ngoài vào Việt Nam; ứng dụng công nghệ hiện đại trong giảng dạy và học tập.
87
+ Điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện hệ thống giáo trình chuẩn nhằm giúp các
cơ sở đào tạo, đặc biệt là các cơ sở đào tạo văn hóa nghệ thuật địa phương chưa
có khả năng biên soạn giáo trình giảng dạy.
3.4. Công tác tuyển sinh và tốt nghiệp
- Học sinh, sinh viên học các chuyên ngành nghệ thuật phải có năng khiếu,
vì vậy, để có cơ hội cho số đông thí sinh được dự thi và các cơ sở đào tạo có điều
kiện tuyển chọn được những thí sinh có năng khiếu thực sự, các cơ sở đào tạo văn
hoá nghệ thuật cần được tổ chức kỳ thi tuyển sinh riêng đối với trình độ đại học
và cao đẳng.
- Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ chi phí tuyển sinh cho các cơ sở đào
tạo văn hóa nghệ thuật, đặc biệt là đối với các trường phải đi đến vùng sâu, vùng
xa, vùng miền núi dân tộc thiểu số để tuyển sinh.
- Nhà nước cần hỗ trợ chi phí chuyên ngành cho kỳ thi tốt nghiệp đối với
lĩnh vực nghệ thuật, như : Âm nhạc, Mỹ thuật, Sân khấu, Điện ảnh, Múa, Xiếc, vì
những chuyên ngành này học sinh, sinh viên bảo vệ tốt nghiệp thông qua tác
phẩm nghệ thuật, chi phí cho các tác phẩm đó là rất lớn.
3.5. Hợp tác quốc tế trong đào tạo
- Mời chuyên gia nước ngoài vào giảng dạy nhằm tạo điệu kiện trao đổi,
học hỏi và chuyển giao công nghệ giảng dạy;
- Liên kết đào tạo với các trường văn hoá nghệ thuật tiên tiến ở nước ngoài
và mời chuyên gia nước ngoài vào giảng dạy tại Việt Nam; chú trọng việc liên kết
với nước ngoài đào tạo một số ngành mà xã hội đang cần nhưng trong nước chưa
có khả năng đào tạo. Đồng thời, trong khi liên kết cán bộ, giảng viên có thể học
hỏi được kinh nghiệm trong công tác quản lý đào tạo và tiếp thu được chương
trình, giáo trình, phương pháp giảng dạy để sau này các cơ sở đào tạo có thể chủ
động trong việc giảng dạy, cụ thể như ngành Công nghệ Âm nhạc, ngành Sản
xuất phim...
- Phối hợp với các cơ sở đào tạo nghệ thuật có uy tín ở nước ngoài trao đổi
đào tạo, bồi dưỡng giảng viên, giáo viên văn hoá nghệ thuật.
- Nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao các công nghệ đào tạo tiên tiến của
nước ngoài vào Việt Nam.
3.6. Quy hoạch mạng lưới trường và cơ cấu ngành nghề đào tạo
- Trên cơ sở nội dung Quy hoạch mạng lưới các trường VHNT, TDTT và
DL đã được Bộ Trưởng Bộ VHTTDL phê duyệt, rà soát, điều chỉnh, bổ sung
hoàn thiện hệ thống mạng lưới trường văn hoá nghệ thuật đến năm 2020 theo
ngành và trình độ đào tạo. Đảm bảo mỗi vùng kinh tế trọng điểm ít nhất có 01
trường đại học hoặc cao đẳng văn hoá nghệ thuật, xây dựng đề án đào tạo con em
đồng bào dân tộc thiểu số học tập theo chế độ nôị trú đang được xây dựng tại hai
trường: VHNT Việt Bắc và VHNT Tây Bắc. Hỗ trợ các địa phương triển khai
88
thực hiện tốt Hướng dẫn số 73/HD-BGDĐT- BVHTTDL ngày 16/01/2013 về
việc sử dụng di sản văn hoá trong dạy học ở trường phổ thông, trung tâm GDTX.
Tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo cho các trường văn hóa nghệ thuật,
cung cấp nhiều nguồn nhân lực nghệ thuật đạt chất lượng cao cho đất nước qua
việc triển khai 03 đề án với những nội dung đã được thông qua tại cuộc họp Ban
chỉ đạo ngày 3/4/2012.
Xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng nền kinh tế tri thức bao gồm cả cả quá trình
phát triển kinh tế-kỹ thuật và phát triển văn hoá-xã hội theo hướng xây dựng nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đạm đà bản sắc dân tộc đang có những biến chuyển
mạnh mẽ. Quá trình ấy đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao đảm bảo
cho sự phát triển bền vững của đất nước. Vì vậy, vai trò của sự nghiệp giáo dục
và đào tạo nói chung, sự nghiệp đào tạo văn hoá, nghệ thuật nói riêng càng trở
nên quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến việc quyết định chất lượng nguồn nhân
lực cho đất nước. Sự nghiệp đào tạo văn hóa nghệ thuật rất cần có sự quan tâm và
chung tay của nhiều cấp ngành để đảm bảo hoàn chỉnh về chất và lượng theo xu
thế phát triển và hội nhập chung của giáo dục và đào tạo trên thế giới đạt 3 mục
tiêu lớn của Đảng ta đã thể hiện trong nghị quyết 23, một trong 3 mục tiêu đó là :
Xây dựng và phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ đáp ứng yêu cầu tiếp tục phát triển
mạnh mẽ nền văn học, nghệ thuật Việt Nam trong thời kỳ mới. Nâng cao chất
lượng các trường đào tạo văn học, nghệ thuật; hoàn thiện chương trình, nội dung,
giáo trình trong các trường cao đẳng, đại học giảng dạy các ngành đào tạo văn
học, nghệ thuật (sáng tác, nghiên cứu, lý luận, phê bình, biểu diễn, chỉ huy, đạo
diễn…); rà soát, sửa đổi, bổ sung các chế độ, chính sách đối với công tác đào tạo,
bồi dưỡng văn nghệ sĩ, đáp ứng yêu cầu đào tạo đặc thù trong lĩnh vực này. Có kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài các năng khiếu, tài năng văn học, nghệ
thuật./.
89
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CÙNG CÁC ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
ĐỐI VỚI THỰC TRẠNG CỦA VĂN HỌC NGHỆ THUẬT VIỆT NAM
SAU 05 NĂM TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 23 – NQ/TW
NGÀY 16 THÁNG 6 NĂM 2008 CỦA BỘ CHINH TRỊ
Bùi Hoài Sơn
Phó Viện trưởng
Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam
MỞ ĐẦU
Năm 1998, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
(khoá VIII) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu lên mục tiêu, nhiệm vụ xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là những định
hướng quan trọng cho sự phát triển của văn hóa nói chung, văn học - nghệ thuật
nói riêng trong giai đoạn đất nước đang tiến hành công cuộc đổi mới và hội nhập
quốc tế.
10 năm kể từ khi thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương (khoá VIII), nhằm phát huy vai trò của văn học, nghệ thuật và
của đội ngũ văn nghệ sĩ, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW về tiếp
tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới. Trong lĩnh vực
văn học, nghệ thuật, Nghị quyết 23 vừa là sự tổng kết những mặt đã làm được,
chưa làm được trong quá trình triển khai Nghị quyết Trung ương 5, vừa là sự đáp
ứng những đòi hỏi khách quan của thực tế đời sống văn học nghệ thuật trước
những thay đổi mạnh mẽ của đời sống xã hội.
5 năm đã trôi qua kể từ khi ban hành Nghị quyết 23, đây cũng là khoảng
thời gian đủ dài cần thiết để chúng ta có thể đánh giá lại những gì thực sự đã làm
được, chưa làm được trong việc triển khai Nghị quyết này trong cuộc sống, từ đó
có những định hướng, giải pháp nhằm tăng cường, nâng cao hơn nữa việc triển
khai Nghị quyết 23 trong đời sống văn học – nghệ thuật ở Việt Nam.
I. MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN TRONG VIỆC ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG
VĂN HỌC – NGHỆ THUẬT VIỆT NAM SAU 05 NĂM TRIỂN KHAI NGHỊ
QUYẾT SỐ 23-NQ/TW
Thực tế trong 05 năm gần đây cho thấy, sự biến động trong đời sống kinh tế,
xã hội và văn hóa diễn ra thực sự mạnh mẽ. Trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, phấn
đấu sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, văn học, nghệ thuật nước ta
đứng trước những thời cơ, vận hội lớn, đồng thời cũng đứng trước những thách
thức mới gay gắt.
Văn học nghệ thuật ở một thời kỳ nhất định là tiếng nói của xã hội ở giai
đoạn đó. Trước hết chúng ta phải thừa nhận với nhau rằng, văn học nghệ thuật là
sự phản ánh xã hội một cách sinh động nhất. Không những thế, văn học nghệ
90
thuật còn thể hiện đời sống tinh thần nói riêng, mặt bằng tinh thần của toàn xã hội
nói chung. Theo quan điểm của K. Marx, văn học nghệ thuật là yếu tố của cấu
trúc thượng tầng xã hội, phản ánh cơ sở hạ tầng cấu thành nên nó. Chính vì vậy,
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, một trong những yếu tố không thể
thiếu là xây dựng một nền văn học nghệ thuật phản ánh được hết quá trình xây
dựng này, cũng như góp phần hình thành nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Chức năng của văn học nghệ thuật là nhận thức, giáo dục và thẩm mỹ cũng
như giải trí và mang tính dự báo. Như vậy, nghệ thuật phản ánh thế giới theo cách
riêng của nó, phục vụ nhu cầu của khán giả cũng như chính người nghệ sĩ. Các
văn nghệ sĩ không phải là một thực thể tồn tại ngoài lề xã hội; văn nghệ sĩ viết,
sáng tác là để thông tin với xã hội tức là yêu cầu sự có mặt của xã hội; văn nghệ
sĩ biểu đạt nhân sinh quan của một nhóm người tồn tại dưới dạng tiềm năng, và
các văn nghệ sĩ với trực giác, cảm xúc, tài năng của mình, cá thể hóa nhân sinh
quan ấy bằng ngôn từ riêng của mình. Tác phẩm văn học nghệ thuật không chỉ là
tấm gương phản ánh những hiện tượng văn hóa, xã hội, kinh tế và lịch sử mà còn
sự góp phần vào việc tạo nên và hình thành nhận thức của xã hội.
Tuy vậy, trong bối cảnh xã hội hiện nay, thực tế đời sống có vô vàn hiện
tượng tiêu cực. Văn học nghệ thuật ra đời trong bối cảnh nền kinh tế thị trường
chắc chắn chịu những yếu tố chi phối của môi trường xã hội ấy. Chúng ta đã
chứng kiến rất nhiều các tác phẩm văn học - nghệ thuật chạy theo thị hiếu khán
giả. Tiền bạc cũng có sức quyến rũ và thế giới nghệ thuật phần lớn bị quyến rũ
bởi đồng tiền, vì thế, nhu cầu xã hội tạo ra những xu hướng sáng tác cho nghệ
thuật nói chung, văn học nói riêng. Theo thống kê trên mạng Internet, người Việt
Nam tra cứu thông tin về “sex” nhiều nhất trên thế giới. Trên truyền hình, báo
viết, có rất nhiều bài viết liên quan đến những câu chuyện giới tính (hở hang,
phòng the...). Với văn học nghệ thuật, những các tác phẩm văn học đề cập đến
giới tính như các tác phẩm Tình chuột, Bóng đè, Những sợi tóc màu tang lễ, Cô
gái điếm và 5 người đàn ông của Đỗ Hoàng Diệu, hai tập thơ Khát và Linh của Vi
Thuỳ Linh, Sợi xích của Lê Kiều Như... với cũng nằm trong xu thế chung của xã
hội này.
Như vậy, để đánh giá những việc đã làm được và chưa làm được của Nghị
quyết 23-NQ/TW, chúng ta cần phải đặt tinh thần của Nghị quyết trong đúng bối
cảnh của nó, cũng như xem xét nó từ góc độ chức năng và vai trò của văn học
nghệ thuật. Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải xem xét, đặc biệt là những yếu kém,
khuyết điểm được nêu trong Nghị quyết, để nhận thấy rằng, sau 05 năm triển khai
Nghị quyết, văn học nghệ thuật Việt Nam đã khắc phục được những yếu kém,
khuyết điểm gì! Cũng như việc xem xét các mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, chủ
trương và giải pháp tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thòi
kỳ mới được đề ra trong Nghị quyết 23 có còn phù hợp với bối cảnh hiện nay hay
không?
Từ cách tiếp cận như vậy, chúng ta mới có thể làm sáng tỏ các phương diện
lý luận cũng như thực tiễn mà Nghị quyết 23-NQ/TW đặt ra.
91
II. MỘT SỐ CƠ SỞ THỰC TIỄN TRONG VIỆC ĐÁNH GIÁ THỰC
TRẠNG VĂN HỌC – NGHỆ THUẬT VIỆT NAM SAU 05 NĂM TRIỂN KHAI
NGHỊ QUYẾT SỐ 23-NQ/TW
Nghị quyết 23-NQ/TW đề ra 03 mục tiêu cơ bản sau:
- Tập trung mọi nguồn lực xây dựng nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nhân cách con người Việt Nam đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao và đa dạng về chân, thiện, mỹ của các tầng lớp nhân dân;
phục vụ có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì mục
tiêu ''dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng, phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ Việt Nam một cách toàn diện cả
về số lượng, chất lượng và cơ cấu loại hình, có các thế hệ nối tiếp nhau vững
chắc, có tình yêu Tổ quốc nồng nàn, gắn bó sâu sắc với nhân dân, với sự nghiệp
đổi mới do Đảng lãnh đạo, có năng lực sáng tạo phong phú, đa dạng, đoàn kết,
gắn bó cùng phát triển trong cộng đồng các dân tộc anh em trên đất nước ta.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, bảo đảm yêu
cầu phát triển của lĩnh vực văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới.
Để thực hiện các mục tiêu trên, Nghị quyết đề ra 03 quan điểm chỉ đạo gồm:
- Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hoá;
là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người; là một
trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của
xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam.
- Văn học, nghệ thuật Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước và hội nhập quốc tế phải phát triển toàn diện và mạnh mẽ, thấm
nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ. Phấn đấu sáng tác nhiều tác phẩm văn
học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, có tác dụng to lớn xây dựng
con người; vừa có tác dụng định hướng, vừa đáp ứng nhu cầu văn hoá - tinh thần
ngày càng cao của nhân dân. Phát triển sâu rộng văn nghệ quần chúng, đồng thời
với tập trung xây dựng, phát triển văn học, nghệ thuật chuyên nghiệp. Trên cơ sở
giữ gìn, phát triển, phát huy những giá trị của văn học, nghệ thuật dân tộc, tiếp tục
mở rộng hợp tác quốc tế, tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tiến
bộ của nước ngoài, đồng thời kiên quyết ngăn chặn, làm thất bại âm mưu, thủ
đoạn áp đặt, xâm lăng văn hóa của các thế lực thù địch.
- Tài năng văn học, nghệ thuật là vốn quý của dân tộc. Chăm lo phát hiện,
bồi dưỡng, quý trọng và phát huy các tài năng văn học, nghệ thuật là trách nhiệm
của toàn xã hội, trước hết là của Đảng, Nhà nước và của các tổ chức trong hệ
thống chính trị các cấp. Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do sáng tạo, tạo điều kiện
thuận lợi phát huy tính độc lập, khơi dậy mọi nguồn lực sáng tạo của văn nghệ sĩ.
Văn nghệ sĩ, người chiến sĩ xây dựng và phát triển nền văn nghệ tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, cần phát huy lòng yêu nước nồng nàn, gắn bó máu thịt với nhân
dân, nêu cao trách nhiệm công dân, sáng tạo nên nhiều tác phẩm có giá trị phụng
sự đất nước và dân tộc.
92
Như vậy, cũng giống như Nghị quyết Trung ương năm, Nghị quyết 23 là
một cứ huých lớn để Đảng, các cơ quan văn hóa và các văn nghệ sĩ tiếp tục
nghiên cứu, đổi mới phát triển lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, nâng cao
tính khoa học, tính thuyết phục, góp phần hướng dẫn điều chỉnh sáng tác, phê
bình có hiệu quả cũng như đổi mới và nâng cao các hoạt động công bố, giới thiệu
truyền bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật tốt phục vụ đông đảo nhân dân; và tổ
chức nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc thành quả lý luận văn học, nghệ thuật đương
đại để vận dụng sáng tạo, làm phong phú lý luận văn học, nghệ thuật đất nước.
Trên thực tế, để triển khai thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, các cấp lãnh
đạo và đội ngũ văn nghệ sĩ cả nước đã có nhiều chương trình, đề án thực hiện.
Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các Hội Văn học
nghệ thuật, cũng như các tỉnh, thành phố đều có chương trình hành động để triển
khai Nghị quyết quan trọng này. Chẳng hạn, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
triển khai xây dựng 4 đề án gồm: Đề án 1: Xây dựng và rà soát các chế độ chính
sách đối với hoạt động văn học nghệ thuật và văn nghệ sỹ; chế độ tài trợ, đặt hàng
đối với các tác phẩm văn học nghệ thuật; Chính sách khuyến khích sáng tác trong
các hoạt động văn học nghệ thuật. Đề án 2: Đổi mới và nâng cao chất lượng đào
tạo của các trường văn hoá, nghệ thuật giai đoạn 2011-2020. Đề án 3: Xây dựng
chính sách thẩm định, quảng bá, thuế ưu đãi… đối với các tác phẩm văn học,
nghệ thuật trong nước; văn hoá phẩm của Việt Nam đưa ra nước ngoài và giới
thiệu tinh hoa văn học, nghệ thuật của thế giới vào Việt Nam; chính sách sưu tầm,
chỉnh lý, bảo tồn, phát huy, quảng bá di sản văn học, nghệ thuật dân tộc và phát
triển văn học, nghệ thuật quần chúng. Đề án 4: Trên cơ sở quy hoạch và rà soát,
đánh giá lại các công trình hiện có, xây dựng kế hoạch nâng cấp, xây mới các
công trình văn hoá từ năm 2010-2020.
Từ những bối cảnh trên, cơ sở thực tiễn trong việc đánh giá thực trạng văn
học, nghệ thuật Việt Nam sau 05 năm triển khai Nghị quyết số 23-NQ/TW gồm:
Thứ nhất, đó là những chương trình, đề án, dự án, văn bản quy phạm pháp
luật, hướng dẫn… được triển khai từ khi có Nghị quyết 23. Trong đó, đặc biệt là
các chương trình, đề án nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của
các cấp uỷ đảng, cơ quan nhà nước; nội dung và phương thức lãnh đạo; Việc thể
chế hoá các nghị quyết, quan điểm; Sửa đổi, bổ sung các chính sách đối với văn
nghệ và văn nghệ sĩ; Xây dựng những công trình trung tâm lớn cho hoạt động văn
hoá, nghệ thuật, tương xứng với vị thế của đất nước thời kỳ mới; đổi mới nội
dung và phương thức hoạt động các Hội văn học, nghệ thuật.
Thứ hai là những đánh giá về sự chuyển biến trong nhận thức của cán bộ
lãnh đạo, văn nghệ sĩ và nhân dân đối với vai trò của văn học nghệ thuật trong
tình hình mới. Đặc biệt là những đánh giá về sự đổi mới trong nội dung và
phương thức lãnh đạo đối với lĩnh vực văn học nghệ thuật; ý thức về những tác
động phức tạp, tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường, khi định hướng và xử lý
những vấn đề mới phát sinh trong lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Thứ ba là kết quả của các sáng tạo trong lĩnh vực văn học nghệ thuật theo
mục tiêu Nghị quyết 23 đặt ra. Trong đó, đặc biệt là những đánh giá liên quan đến
sáng tác, biểu diễn, truyền bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật thể hiện được tính
93
chất tiên tiến và bản sắc dân tộc. Số lượng tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và
nghệ thuật. Các tác phẩm thể hiện lý tưởng xã hội, ý nghĩa xã hội, giá trị thẩm mỹ
rõ nét. Sự cảm nhận của các văn nghệ sĩ về những vấn đề mới của cuộc sống,
chiều sâu và tính phức tạp của quá trình chuyển biến mang tính lịch sử trong thời
kỳ mới của đất nước. Tính chuyên nghiệp trong các hoạt động văn học, nghệ
thuật. Tăng cường hoạt động lý luận văn học, nghệ thuật nhằm giải đáp được
nhiều vấn đề của đời sống, gắn bó với thực tiễn sáng tác. Nghiên cứu và phát huy
tương xứng với vai trò và giá trị của lý luận văn nghệ và mỹ học mác-xít.
Thứ tư là sự phát triển về chất lượng và số lượng của đội ngũ văn nghệ sĩ,
các tài năng văn học, nghệ thuật. Trong đó cần đánh giá về công tác đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ văn nghệ sĩ: chương trình, nội dung; chất lượng đào tạo toàn diện
về chính trị, tư tưởng, chuyên môn, đạo đức, thể chất; chú trọng đúng mức tính
đặc thù, chuyên biệt và yêu cầu đào tạo tài năng; việc gửi giảng viên và sinh viên
các ngành nghệ thuật đào tạo ở nước ngoài; đội ngũ giáo viên đầu đàn, có trình độ
chuyên môn cao; điều kiện và phương tiện phục vụ dạy và học; đội ngũ lý luận,
phê bình.
Thứ năm là số lượng và chất lượng quan hệ hợp tác quốc tế trên lĩnh vực
văn hóa, nghệ thuật, đặc biệt là các chương trình có tính dân tộc cao, có chất
lượng tốt để quảng bá ra nước ngoài; chọn lọc giới thiệu tinh hoa văn hóa nhân
loại, các trào lưu tư tưởng, nghệ thuật tiến bộ được công chúng quan tâm đến
người dân trong nước.
III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ
Trên cơ sở tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp phát triển văn học,
nghệ thuật đã được nêu trong Nghị quyết 23-NQ/TW, chúng tôi xin có một số đề
xuất và khuyến nghị sau:
- Để các đề án, chương trình, dự án, văn bản qui phạm pháp luật đi vào cuộc
sống, cần triển khai các lớp tập huấn nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức của toàn
xã hội nói chung, tầng lớp văn nghệ sĩ nói riêng đối với các lĩnh vực văn học,
nghệ thuật về các chủ đề cụ thể như: đề tài, nội dung, loại hình, phương pháp
sáng tác, sự tìm tòi, thể nghiệm, nâng cao chất lượng toàn diện nền văn học, nghệ
thuật nước nhà. Mục đích của các chương trình hành động này nhằm khuyến
khích văn nghệ sĩ bám sát thực tiễn của đất nước, gắn bó với cuộc sống của nhân
dân, bảo vệ, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu
tinh hoa văn hoá của nhân loại; lên án, phê phán không khoan nhượng những tiêu
cực, xấu xa đang cản trở sự phát triển của đất nước và con người Việt Nam.
- Để tạo sự chuyển biến trong nhận thức của cán bộ lãnh đạo, văn nghệ sĩ và
nhân dân đối với vai trò của văn học nghệ thuật trong tình hình mới, các cấp uỷ
đảng và chính quyền các cấp phải đưa nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hoá,
văn học, nghệ thuật vào quy hoạch, kế hoạch phát triển, của từng địa phương,
từng ngành. Xây dựng cơ chế lãnh đạo, quản lý khoa học, bảo đảm được định
hướng chính trị; khắc phục những hiện tượng mất dân chủ hoặc can thiệp thô bạo
đối với hoạt động văn học nghệ thuật, cũng như xu hướng thả nổi, không phê
94
phán những tác giả, tác phẩm đi ngược lại các giá trị chân, thiện, mỹ, những giá
trị tốt đẹp của dân tộc và cách mạng. Cấp uỷ đảng các cấp có kế hoạch định kỳ
làm việc với lực lượng sáng tạo và hoạt động văn học, nghệ thuật.
- Để phát triển về chất lượng và số lượng của đội ngũ văn nghệ sĩ, các tài
năng văn học, nghệ thuật, chúng ta cần nâng cao chất lượng các trường đào tạo
văn học, nghệ thuật; hoàn thiện chương trình, nội dung, giáo trình trong các
trường cao đẳng, đại học, giảng dạy các ngành đào tạo văn học, nghệ thuật (sáng
tác, nghiên cứu, lý luận, phê bình, biểu diễn, chỉ huy, đạo diễn...). Trong đó cần rà
soát, sửa đổi, bổ sung các chế độ, chính sách đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng
văn nghệ sĩ, đáp ứng yêu cầu đào tạo đặc thù trong lĩnh vực này. Có kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài các năng khiếu, tài năng văn học, nghệ thuật. Xây
dựng tiêu chuẩn và cơ chế lựa chọn, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý, tham mưu
lĩnh vực văn học, nghệ thuật có đủ năng lực, trình độ và phẩm chất đảm đương
công việc. Xây dựng và thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, ưu đãi văn
nghệ sĩ có quá trình cống hiến, có nhiều tác phẩm tốt, ảnh hưởng tích cực trong
xã hội.
- Sáng tác văn học nghệ thuật là sự nghiệp của toàn dân. Khuyến khích mọi
người dân tham gia quá trình sáng tác văn học nghệ thuật là một trong những chủ
trương lớn. Vì vậy, cần tăng cường các biện pháp xây dựng, phát triển văn nghệ
quần chúng, hướng dẫn, khuyến khích quần chúng tham gia sáng tạo, bảo tồn,
truyền dạy và phát huy các giá trị văn hoá, văn nghệ truyền thống của dân tộc.
95
CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI THUẾ ĐỐI VỚI VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT
SAU 5 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT 23/NQ-TW NGÀY 16/06/2008
CỦA BỘ CHÍNH TRỊ-THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Tống Công Phi
Trưởng phòng Vụ Chính sách thuế
Bộ Tài chính
Thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) ngày
16/06/2008 “về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ
mới” và Nghị quyết 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ “về đẩy
mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao và môi
trường”; ngày 09/03/2009 Ban Tuyên giáo Trung ương đã ban hành văn bản số
73/KH/BTGTW về Kế hoạch triển khai thực hiện các Đề án để đưa Nghị quyết
23-NQ/TW vào cuộc sống (Điểm 3) quy định: “Xây dựng chính sách thẩm định,
quảng bá, ưu đãi thuế… đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật trong nước;
văn hóa phẩm của Việt Nam đưa ra nước ngoài và giới thiệu tinh hoa văn
học,nghệ thuật của thế giới vào Việt Nam; …”.
Để triển khai các chủ trương và kế hoạch nêu trên, từ năm 2008 đến nay Bộ
Tài chính đã chủ trì, phối với các cơ quan hữu quan trình cấp có thẩm quyền ban
hành nhiều chính sách ưu đãi thuế đối với lĩnh vực văn học, nghệ thuật. Trong
khuôn khổ hội thảo này; bài viết tập trung giới thiệu 2 phần chính ngoài phần mở
đầu và kết luận: (i) Thực trạng chính sách ưu đãi thuế đối với văn học, nghệ thuật
ở nước ta; (ii) giải pháp hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế trong thời gian tới.
1. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI THUẾ ĐỐI VỚI VĂN HỌC,
NGHỆ THUẬT
a) Ưu đãi về thuế giá trị gia tăng (GTGT)
Thông tư về thuế GTGT số 129/2008/TT-BTC ngày 26/12/2008 được ban
hành ngay sau khi có Nghị quyết số 23-NQ/TW và Nghị quyết số 05/2005/NQ-
CP; gần đây đã được thay thế bởi Thông tư số 06/2012/TT-BTC hướng dẫn về
Thuế GTGT hiện hành. Theo Thông tư 06/2012/TT-BTC hiện hành thì thuế
GTGT có 2 thuế suất: 5% và 10%; ngoài thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hoá,
dịch vụ xuất khẩu, trừ 26 nhóm hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế.
Những quy định về ưu đãi thuế GTGT đối với các hoạt động VHNT như sau:
(i) Ưu đãi bằng việc quy định không thuộc diện chịu thuế (không thu thuế):
Các dịch vụ và các sản phẩm VHNT không thuộc diện chịu thuế GTGT tại Điều
4, Thông tư số 06/2012/TT-BTC ngày 11/01/2012 của Bộ Tài chính, gồm:
+ Khoản 12: Duy tu, sửa chữa, xây dựng bằng nguồn vốn đóng góp của
nhân dân, vốn viện trợ nhân đạo đối với các công trình văn hóa, nghệ thuật, công
trình phục vụ công cộng, cơ sở hạ tầng và nhà ở cho đối tượng chính sách xã hội
(người có công theo quy định của pháp luật về người có công; đối tượng bảo
trợ xã hội hưởng trợ cấp từ ngân sách nhà nước; người thuộc hộ nghèo, cận
96
nghèo và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật).
Trường hợp có sử dụng nguồn vốn khác ngoài vốn đóng góp của nhân
dân (bao gồm cả vốn đóng góp, tài trợ của tổ chức, cá nhân), vốn viện trợ nhân
đạo mà nguồn vốn khác không vượt quá 50% tổng số nguồn vốn sử dụng cho
công trình thì đối tượng không chịu thuế là toàn bộ giá trị công trình.
+ Khoản 13: Dạy học, dạy nghề theo quy định của pháp luật bao gồm
cả dạy ngoại ngữ, tin học; dạy múa, hát, hội họa, nhạc, kịch, xiếc, thể dục, thể
thao; nuôi dạy trẻ và dạy các nghề khác nhằm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình
độ văn hoá, kiến thức chuyên môn nghề nghiệp.
+ Khoản 15: Xuất bản, nhập khẩu, phát hành báo, tạp chí, bản tin chuyên
ngành, sách chính trị, sách giáo khoa, giáo trình, sách văn bản pháp luật, sách
khoa học-kỹ thuật, sách in bằng chữ dân tộc thiểu số và tranh, ảnh, áp phích tuyên
truyền cổ động, kể cả dưới dạng băng hoặc đĩa ghi tiếng, ghi hình, dữ liệu điện tử;
in tiền….Trong đó. gồm tranh, ảnh, áp phích tuyên truyền cổ động là tranh, ảnh,
áp phích, các loại tờ rơi, tờ gấp phục vụ cho mục đích tuyên truyền, cổ động,
khẩu hiệu, ảnh lãnh tụ, Đảng kỳ, Quốc kỳ, Đoàn kỳ, Đội kỳ.
(ii) Ưu đãi được nộp thuế suất thấp 5%: Hầu hết văn hoá phẩm và các hoạt
động văn hoá, nghệ thuật cũng được xếp vào nhóm hàng hoá, dịch vụ thiết yếu
(như: Lương thực, thực phẩm, phân bón, thức ăn gia sức, nước sạch, thuốc chữa
bệnh,...) được áp dụng thuế suất thuế GTGT 5% (Khoản 13, Điều 10 Thông tư
06/2012/TT-BTC ngày 11/01/2012) gồm: Hoạt động văn hoá, triển lãm, thể
dục, thể thao; biểu diễn nghệ thuật; sản xuất phim; nhập khẩu, phát hành và
chiếu phim . Cụ thể các hoạt động VHNT nộp thuế 5% gồm:
a) Hoạt động văn hoá, triển lãm và thể dục, thể thao, trừ các khoản
doanh thu như: bán hàng hoá, cho thuê sân bãi, gian hàng tại hội chợ, triển
lãm.
b) Hoạt động biểu diễn nghệ thuật như: tuồng, chèo, cải lương, ca, múa,
nhạc, kịch, xiếc; hoạt động biểu diễn nghệ thuật khác và dịch vụ tổ chức biểu
diễn nghệ thuật của các nhà hát hoặc đoàn tuồng, chèo, cải lương, ca, múa,
nhạc, kịch, xiếc có giấy phép hoạt động do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
cấp.
c) Sản xuất phim; nhập khẩu, phát hành và chiếu phim, trừ các sản
phẩm không chịu thuế nêu tại khoản 15 Điều 4 Thông tư 06/2012/TT-BTC.
(iii) Ưu đãi áp dụng thuế suất 0% và còn được khấu trừ thuế GTGT đầu
vào: Văn hoá phẩm, dịch vụ văn hoá nghệ thuật xuất khẩu, kể cả dịch vụ và văn
hoá phẩm không thuộc diện chịu thuế xuất khẩu (xuất khẩu ra nước ngoài hoặc
vào khu phi quan thuế) được áp dụng thuế suất 0%, còn được khấu trừ và hoàn
thuế GTGT đầu vào.
(iv) Ngoài ra, để khuyến khích các cơ sở VHNT và các doanh nghiệp thuộc
lĩnh vực khác đầu tư vào lĩnh vực xã hội hoá, Điều 18 Thông tư 06/2012/TT-BTC
quy định:
- Cơ sở kinh doanh mới thành lập từ dự án đầu tư đã đăng ký kinh doanh,
97
đăng ký nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, …đang trong giai đoạn
đầu tư, chưa đi vào hoạt động, nếu thời gian đầu tư từ 01 năm trở lên thì
được hoàn thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ sử dụng cho đầu tư theo từng năm.
Trường hợp, nếu số thuế GTGT luỹ kế của hàng hoá, dịch vụ mua vào sử dụng
cho đầu tư từ 200 triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế GTGT.
- Cơ sở kinh doanh đang hoạt động thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo
phương pháp khấu trừ có dự án đầu tư mới, đang trong giai đoạn đầu tư thì cơ
sở kinh doanh phải kê khai bù trừ số thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ mua vào
sử dụng cho dự án đầu tư mới cùng với việc kê khai thuế GTGT của hoạt động
sản xuất kinh doanh đang thực hiện.
Sau khi bù trừ nếu có số thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào sử
dụng cho đầu tư mà chưa được khấu trừ hết từ 200 triệu đồng trở lên thì được
hoàn thuế GTGT cho dự án đầu tư. Trường hợp số thuế GTGT đầu vào của
hoạt động sản xuất kinh doanh và dự án đầu tư dưới 200 triệu đồng và 3 tháng
chưa được khấu trừ hết thì cơ sở kinh doanh được hoàn thuế theo hướng dẫn tại
khoản 1 Điều này.
- Cơ sở kinh doanh trong tháng có hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu nếu
thuế GTGT đầu vào của hàng hóa xuất khẩu phát sinh trong tháng chưa được
khấu trừ từ 200 triệu đồng trở lên thì được xét hoàn thuế theo tháng.
- Đối với dự án sử dụng vốn ODA không hoàn lại: chủ chương trình, dự
án hoặc nhà thầu chính, tổ chức do phía nhà tài trợ nước ngoài chỉ định việc
quản lý chương trình, dự án được hoàn lại số thuế GTGT đã trả đối với hàng hoá,
dịch vụ mua ở Việt Nam để sử dụng cho chương trình, dự án.
b) Ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp
Tương tự Thuế GTGT, từ 2008 đến nay Bộ Tài chính đã ban hành nhiều
thông tư như: Thông tư 130/2008/TT-BTC ngày 26/12/2008, Thông tư
123/2012/TT-BTC ngày 27/7/2012 thay thế Thông tư 130/2008/TT-BTC, Thông
tư 199/2012/TT-BTC hướng dẫn chuyển đổi ưu đãi thuế TNDN,….Theo chính
sách thuế TNDN hiện hành thì thuế suất phổ thông thuế TNDN là 25% (ngoài 02
thuế suất ưu đãi: 10% và 20% áp dụng đối với một số ít ngành kinh tế mũi nhọn,
lĩnh vực xã hội hoá, phát triển khoa học công nghệ, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội
quan trọng và các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn... tạo môi
trường kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế). Trong đó, các quy định về ưu đãi thuế đối với lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật
như:
(i) Khoản 7, Điều 8 Thông tư 123/2012/TT-BTC ngày 27/7/2012 hiện hành
quy định về thu nhập được miễn thuế TNDN: Khoản tài trợ nhận được để sử dụng
cho hoạt động giáo dục, nghiên cứu khoa học, văn hoá, nghệ thuật, từ thiện, nhân đạo
và hoạt động xã hội khác tại Việt Nam….Tổ chức nhận tài trợ quy định tại Khoản
này phải được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật, thực hiện đúng
quy định của pháp luật về kế toán thống kê.
98
(ii) Theo Điều 19 Thông tư 123/2012/TT-BTC ngày 27/7/2012 quy định ưu
đãi về thuế suất thuế TNDN như sau:
Các doanh nghiệp, kể cả cơ sở VHNT thực hiện chủ trương xã hội hoá theo
tinh thần Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ về chính
sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy
nghề, y tế, văn hoá, thể thao và môi trường mà đáp ứng các điều kiện (thuộc danh
mục, tiêu chí quy mô, tiêu chuẩn) quy định tại Quyết định 1466/QĐ-TTg ngày
10/10/2008 của Thủ tướng Chính phủ và các điều kiện tại NĐ 124/NĐ-CP ngày
11/12/2008 của Chính phủ về thuế TNDN sẽ được hưởng các ưu đãi về thuế
TNDN như sau:
- Được áp dụng thuế suất ưu đãi 10% trong suốt thời gian hoạt động đối
với phần thu nhập của doanh nghiệp có được từ hoạt động trong lĩnh vực giáo dục
- đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao và môi trường (sau đây gọi chung là
lĩnh vực xã hội hoá); đối với phần thu nhập của doanh nghiệp có được từ hoạt
động xuất bản theo quy định của Luật Xuất bản. Hoạt động xuất bản bao gồm các
lĩnh vực xuất bản, in và phát hành xuất bản phẩm theo quy định tại Luật Xuất
bản.
- Nếu cơ sở VHNT thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị
định số 124/2008/NĐ-CP thì được áp dụng thuế suất ưu đãi 10% trong thời hạn
mười lăm năm (15 năm); hoặc thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều
kiện kinh tế - xã hội khó khăn quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định
số 124/2008/NĐ-CP thì được áp dụng thuế suất ưu đãi 20% trong thời gian mười
năm (10 năm).
Thời gian áp dụng thuế suất ưu đãi quy định tại Điều này được tính liên tục
từ năm đầu tiên doanh nghiệp có doanh thu từ hoạt động được hưởng ưu đãi thuế. Hết
thời gian áp dụng mức thuế suất ưu đãi, doanh nghiệp chuyển sang áp dụng mức
thuế suất phổ thông:25%.
(iii) Hơn nữa, Điều 20 Thông tư 123/2012/TT-BTC ngày 27/7/2012 quy
định ưu đãi về thời gian miễn, giảm thuế TNDN như sau:
1. Được miễn thuế 4 năm, giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo đối
với:
a) Doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị
định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ….
d) Doanh nghiệp thành lập mới trong lĩnh vực xã hội hoá thực hiện tại địa
bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn quy định tại
Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 của
Chính phủ”.
2. Miễn thuế 4 năm, giảm 50% số thuế phải nộp trong 5 năm tiếp theo đối
với doanh nghiệp thành lập mới trong lĩnh vực xã hội hoá thực hiện tại địa bàn
không thuộc danh mục địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc đặc
99
biệt khó khăn quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số
124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ.
3. Miễn thuế 2 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 4 năm tiếp theo
đối với doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh
tế - xã hội khó khăn quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số
124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ.
4. Thời gian miễn thuế, giảm thuế quy định tại Điều 20 này được tính liên
tục từ năm đầu tiên doanh nghiệp có thu nhập chịu thuế từ dự án đầu tư được
hưởng ưu đãi thuế…;
(iv) Ngoài ra, khoản 4, Điều 23 Thông tư 123/2012/TT-BTC quy định ưu đãi
thuế đối với DN hoạt động trong lĩnh vực khác có thu nhập từ hoạt động trong
lĩnh vực xã hội hoá hoặc DN có hoạt động trong lĩnh vực xã hội hoá trước ngày
01/01/2009 cũng đwocj hưởng ưu đãi thuế TNDN. Cụ thể:
Doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác nhưng có phát sinh thu
nhập từ lĩnh vực xã hội hoá, nếu đủ điều kiện quy định của Thủ tướng Chính phủ
quy định thì áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10% trong suốt thời
gian hoạt động đối với phần thu nhập có được từ hoạt động trong lĩnh vực giáo dục
- đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao và môi trường kể từ ngày 01/01/2009.
Doanh nghiệp có hoạt động trong lĩnh vực xã hội hoá trước ngày
01/01/2009 và đủ điều kiện do Thủ tướng Chính phủ quy định mà đang áp dụng
mức thuế suất cao hơn mức 10% đối với phần thu nhập từ hoạt động xã hội hoá
thì được chuyển sang áp dụng mức thuế suất 10% đối với phần thu nhập từ hoạt
động xã hội hoá kể từ ngày 01/01/2009.
Để được ưu đãi thuế TNDN, Điều 22 Thông tư 123/2012/TT-BTC quy
định về thủ tục thực hiện ưu đãi thuế TNDN nêu trên: Doanh nghiệp tự xác định
các điều kiện ưu đãi thuế, mức thuế suất ưu đãi, thời gian miễn thuế, giảm thuế,
số lỗ được trừ (-) vào thu nhập tính thuế để tự kê khai và tự quyết toán thuế với
cơ quan thuế.v.v…
Như vậy, thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị; Nghị quyết
05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ; Nhà nước đã dành nhiều ưu đãi
thuế đối với lĩnh vực VHNT,ếo với các lĩnh vực, ngành nghề khác thì mức ưu đãi
đối với lĩnh vực VHNT là cao nhất, điển hình như: Nhiều sản phẩm, dịch vụ văn
hoá nghệ thuật là không thuộc diện chịu thuế GTGT hoặc được áp dụng thuế suất
thấp nhất của thuế GTGT-5% như một số nhóm hàng hoá, dịch vụ thiết yếu khác.
Đối với cơ sở kinh doanh trong lĩnh vực văn hoá nghệ thuật mới thành lập thực
hiện tại các địa bàn khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn được áp dụng thuế suất thuế
TNDN thấp nhất (10%) và trong suốt thời gian hoạt động; thời gian miễn cộng
với thời gian giảm thuế TNDN dài nhất - 13 năm; v.v...
II. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI THUẾ TRONG
THỜI GIAN TỚI
Bên cạnh nhưng tác động tích cực của chính sách ưu đãi thuế đối với lĩnh
vực VHNT, các chính sách ưu đãi thuế nêu trên được áp dụng chủ yếu từ 2009
100
đến nay, thời gian chưa dài, nên nchưa phát huy được tác dụng là khuyến khích
và thúc đẩy hoạt động VHNT nước ta phát triển để dần trở thành lĩnh vực quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân, đáp ứng yêu cầu không thể thiếu đối với đời
sống các dân tộc Việt Nam. Do đó, chính sách ưu đãi thuế cần tiếp tục hoàn thiện.
Thực hiện quan điểm, mục tiêu và giải pháp của Chiến lược phát triển
ngành văn hoá đến 2020, cùng với Kế hoạch triển khai thực hiện các Đề án Nghị
quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị về VHNT, các giải pháp hướng hoàn thiện
chính sách ưu đãi thuế đối với lĩnh vực VHNT trong thời gian tới như sau:
1. Từ năm 2013 trở đi đề nghị tiếp tục hoàn thiện các chính sách ưu đãi
thuế theo hướng:
- Về thuế GTGT:
+ Trước năm 2009, dịch vụ biểu diễn nghệ thuật, sản phẩm phim, ảnh
không chịu thuế GTGT quy định tại Thông tư số 32/2007/TT-BTC ngày 9/4/2009
của Bộ Tài chính, nhưng từ 1/1/2009 thì dịch vụ và văn hoá phẩm này thuộc diện
chịu thuế và nộp thuế với thuế suất 5%. Đề nghị sửa đổi Luật thuế GTGT quy
định dịch vụ biểu diễn nghệ thuật và văn hoá phẩm trên không chịu thuế GTGT
như trước năm 2009?
+ Thuế GTGT hiện hành quy định 2 thuế suất là 5% và 10%, chưa kể thuế
suất 0%, trong quá trình thực thi phát sinh vấn đề là những cơ sở kinh doanh hàng
hoá, dịch vụ thuế suất 5% sử dụng nguyên liệu đầu vào thuế suất 10% thì thuế
đầu vào luôn lớn hơn thuế đầu ra và doanh nghiệp luôn được khấu trừ thuế và rất
có lợi; ngược lại cơ sở kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuế suất 10% sử dụng
nguyên liệu đầu vào 5%, thì thuế đầu vào luôn nhỏ hơn thuế đầu ra và doanh
nghiệp luôn bị thiệt thòi, tạo ra sân chơi không bình đẳng, làm giảm hiệu quả của
loại thuế này; đối với cơ sở kinh doanh thuộc lĩnh vực văn hoá nghệ thuật cũng
không là ngoại lệ. Hơn nữa, việc tồn tại 2 thuế suất thuế GTGT, chưa kể thuế suất
0%, làm cho phức tạp trong thực hiện. Vì vậy, kiến nghị:
Hoàn thiện Luật thuế GTGT theo hướng quy định chỉ 1 thuế suất (10%
hoặc 8%) thay vì hai thuế suất như hiện nay và áp dụng thống nhất cho mọi hàng
hoá, dịch vụ trong đó có văn hoá phẩm, dịch vụ VHNT.
- Về thuế thu nhập doanh nghiệp:
+ Trước bối cảnh hội nhập thế giới về kinh tế, văn hoá, nghệ thuật ngày
càng sâu rộng hơn, đòi hỏi Việt Nam cần đổi mới, hoàn thiện hệ thống cơ chế,
chính sách đối với lĩnh vực VHNT. Đề nghị hạ thuế suất thuế thu nhập doanh
nghiệp phổ thông từ 25% xuống khoảng 20%;
+ Lĩnh vực VHNT tiếp tục cần được đẩy mạnh xã hội hoá theo chủ trương
của Chính phủ; theo đó, đề nghị lĩnh vực này sẽ tiếp tục được hưởng các ưu đãi
về thuế TNDN như quy định hiện nay ở mức cao nhất cả về thuế suất và thời gian
miễn, giảm thuế TNDN...như đã nêu trên.
+ Mặt khác, thuế TNDN hiện hành đã sửa đổi tăng tỷ lệ khống chế đối với
chi phí quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất
kinh doanh; tuy nhiên sửa đổi này vẫn chưa phù hợp với thực tiễn nền kinh tế
101
Việt Nam đang vận hành theo cơ chế thị trường, dẫn đến nhiều doanh nghiệp phải
nộp thuế TNDN với tỷ lệ cao hơn so với thuế suất phổ thông là 25%. Đề nghị
hoàn thiện theo hướng bỏ khống chế tỷ lệ chi khác được trừ khi tính thu nhập tính
thuế TNDN (cho phép cơ sở kinh doanh được trừ theo số thực tế chi ra khi xác
định thu nhập tính thuế cho phù hợp với cơ chế thị trường ở nước ta).
III. KẾT LUẬN
Chính sách ưu đãi thuế ít nhiều đã góp phần làm cho nền Văn hoá, nghệ
thuật Việt Nam trong những năm gần đây đã có bước phát triển mới, có những
biến đổi sâu sắc, những đặc điểm mới, đạt được nhiều thành tựu; Tuy nhiên, nền
VHNT nước ta cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém đan xen nhau; đồng thời trước
bối cảnh hội nhập thế giới về kinh tế, văn hoá, nghệ thuật ngày càng sâu rộng
hơn, đòi hỏi Việt Nam cần thiết phải đổi mới, hoàn thiện nhiều hệ thống cơ chế,
chính sách, bao gồm cả chính sách ưu đãi thuế đối với lĩnh vực VHNT theo yêu
cầu của Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) ngày 16/6/2008 “về
tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”.
Hy vọng khi chính sách ưu đãi thuế được hoàn thiện và trong tương lai
không xa, nền VHNT Việt nam sẽ đạt tới mục tiêu: tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, nhân cách con người Việt Nam ngày càng phát triển cao và đa dạng về chân,
thiện, mỹ của các tầng lớp nhân dân; phục vụ có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước./.
102
QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TRONG LĨNH VỰC VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT
SAU 05 NĂM TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 23-NQ/TW
NGÀY 16 THÁNG 6 NĂM 2008 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ
Vụ Tài chính Hành chính sự nghiệp
Bộ Tài chính
I. CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TRONG 05 NĂM TRIỂN KHAI
THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 23-NQ/TW
Thực hiện chỉ đạo của Ban Bí thư (tại Thông báo số 219-TB/TW ngày
10/12/2009) về một số Đề án triển khai thực hiện Nghị quyết số 23/NQ-TW ngày
16/6/2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật
trong thời gian tới, Ban cán sự Đảng Bộ Tài chính đã phối hợp với Ban cán sự
Đảng các cơ quan: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VH,TT&DL), Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, Bộ Thông tin và Truyền thông, Ban Tuyên giáo Trung ương, Đảng
đoàn Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật, Hội Nhà văn Việt
Nam và các Hội Văn học Nghệ thuật Trung ương trong việc nghiên cứu, xây
dựng các chính sách, đề án phát triển văn học, nghệ thuật; cụ thể như sau:
1.1. Chủ động và phối hợp trong xây dựng cơ chế và bố trí kinh phí thực
hiện tài trợ, đặt hàng đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật:
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ và cơ quan liên quan trình Chính phủ ban
hành Quyết định số 39/2008/QĐ-TTg ngày 14/3/2008 về Quy chế đấu thầu, đặt
hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN, trong đó
có lĩnh vực văn học, nghệ thuật; ban hành Thông tư số 105/2008/TT-BTC ngày
13/11/2008 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số điều của Quyết định số
39/2008/QĐ-TTg.
- Phối hợp với Bộ VH,TT&DL, Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT
trình Thủ tướng Chính phủ bổ sung 30 tỷ đồng kinh phí hỗ trợ đầu tư sáng tạo
năm 2010 và 4,21 tỷ đồng kinh phí Giải thưởng năm 2010 của các Hội Văn học
Nghệ thuật ở Trung ương. Theo đó, giai đoạn 2006 - 2010 kinh phí thực hiện hỗ
trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật báo chí ở trung ương và các
Hội VHNT ở địa phương là 240 tỷ đồng.
- Phối hợp với Bộ VH,TT&DL, Liên hiệp các Hội VHNT trình Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định số 369/QĐ - TTg ngày 14/3/2011 phê duyệt Đề
án tiếp tục hỗ trợ hoạt động sáng tạo tác phẩm, công trình VHNT, báo chí ở
Trung ương và các Hội VHNT địa phương; hỗ trợ tác phẩm báo chí chất lượng
cao ở địa phương giai đoạn 2011 - 2015 với tổng kinh phí đầu tư từ NSTW cả
giai đoạn là 425 tỷ đồng đồng; Ban hành Thông tư liên tịch số
02/2012/BVHTTDL-BTC ngày 07/3/2012 của Bộ Tài chính, Bộ VH,TT&DL
hướng dẫn thực hiện Quyết định số 369/QĐ-TTg.
- Bố trí kinh phí thực hiện Đề án khuyến khích sáng tác và công bố các tác
phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, phản ánh cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ cứu nước giải phóng dân
103
tộc, thống nhất đất nước giai đoạn 1930-1975 (theo Quyết định số 844/QĐ-TTg
ngày 01/6/2011 của Thủ tướng Chính phủ, kinh phí thực hiện Đề án đến 2015 là
65 tỷ đồng. NSNN đã cân đối 2012 - 2013 là 15,95 tỷ đồng).
- Phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể tham và Du lịch trình cấp thẩm quyền Dự
án công bố, phổ biến tài sản văn hoá văn nghệ dân gian các dân tộc Việt nam.
Giai đoạn 2008- 2012 đã lựa chọn, in phát hành 1.000 công trình với dự toán kinh
phí 91 tỷ đồng; tiếp tục phối hợp thẩm định kinh phí thực hiện in, phát hành 1.500
công trình trong giai đoạn 2013 - 2017 theo Quyết định số 1598/QĐ-TTg ngày
26/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ.
- Hàng năm NSNN bố trí qua Bộ VH,TT&DL để đặt hàng sản xuất các bộ
phim theo kế hoạch của Nhà nước, trợ giá xuất bản sách, báo, trợ cước vận
chuyển sách báo ra nước ngoài, văn hoá phẩm lên miền núi, hỗ trợ các đoàn nghệ
thuật đi biểu diễn ở nước ngoài: 2008 là 32.030 triệu đồng; năm 2009 là 30.600
triệu đồng; năm 2010 là 60.450 triệu đồng; năm 2011 là 71.550 triệu đồng; 2012
là 23.880 triệu đồng; 2013 là 26.940 triệu đồng (dự toán năm 2012, 2013 không
bao gồm kinh phí đặt hàng, tài trợ sản xuất phim truyện nhựa). Hiện nay, Bộ Tài
chính đang phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để khẩn trương ban
hành Thông tư hướng dẫn thông tư hướng dẫn chi tiết việc đặt hàng, lựa chọn dự
án sản xuất phim có sử dụng ngân sách nhà nước theo quy định tại Nghị định số
54/2010/NĐ-CP để có căn cứ giao bổ sung dự toán đặt hàng phim truyện nhựa.
1.2. Chủ động bố trí kinh phí thực hiện chế độ thưởng trong sáng tạo văn
học nghệ thuật, báo chí:
Kinh phí từ NSNN hỗ trợ các Hội Văn học nghệ thuật ở Trung ương để thực
hiện xét chọn, trao giải thưởng văn học nghệ thuật hàng năm nhằm ghi nhận, tôn
vinh các tác giả, tác phẩm chất lượng cao, có đóng góp cho sự phát triển văn hóa -
xã hội của đất nước. Tổng dự toán chi từ NSNN chi xét chọn và trao giải thưởng
của các Hội VHNT khoảng 5.000 triệu đồng/năm.
Sự phối hợp của Bộ Tài chính trong việc triển khai các chính sách đặt hàng,
tài trợ các tác phẩm văn học, nghệ thuật và thực hiện chế độ thưởng trong thời
gian quan đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi để các Hội VHNT đẩy mạnh hoạt
động sáng tạo, nghiên cứu, sưu tầm thêm nhiều đề tài mới trong các tác phẩm văn
học nghệ thuật, báo chí, khuyến khích đội ngũ các tác giả là những người dân tộc,
dân tộc thiểu số tham gia hoạt động sáng tác tác phẩm, góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội, tăng cường tình đoàn kết dân tộc, giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội.
3. Ưu tiên cân đối ngân sách cho lĩnh vực văn hóa (trong đó có hoạt động
văn học, nghệ thuật) đảm bảo ít nhất bằng 1,8% tổng chi ngân sách nhà nước và
tăng dần hàng năm (năm 2008 là 8.152.000 triệu đồng, năm 2009 là 10.248.000
triệu đồng; năm 2010 là 11.850.000 triệu đồng; năm 2011 là 13.720.000 triệu
đồng; năm 2012 là 16.210.000 triệu đồng).
4. Phối hợp tham gia ý kiến với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong quá
trình xây dựng các Đề án triển khai thực hiện Nghị quyết 23 (Đề án 1: Xây dựng
và rà soát các chế độ chính sách đối với hoạt động văn học nghệ thuật và văn
104
nghệ sỹ. Chế độ tài trợ, đặt hàng đối với các tác phẩm văn học nghệ thuật. Chính
sách khuyến khích sáng tác trong các hoạt động văn học nghệ thuật và thành lập
Quỹ sáng tác. Đề án 2: Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo của các trường
văn hoá, nghệ thuật. Đề án 3: Xây dựng các chính sách thẩm định, quảng bá, thuế
ưu đãi đối với các tác phẩm văn học nghệ thuật trong nước; chính sách thẩm định,
quảng bá, thuế ưu đãi đối với văn hoá phẩm của Việt Nam đưa ra nước ngoài và
giới thiệu tinh hoa văn học, nghệ thuật truyền thống, xây dựng và phát huy văn
học, nghệ thuật quần chúng; chính sách xuất bản, quảng bá các tác phẩm văn học,
nghệ thuật đến với công chúng qua các ấn phẩm văn hóa, các phương tiện thông
tin đại chúng. Đề án 4: Trên cơ sở quy hoạch và rà soát, đánh giá lại các công
trình hiện có, xây dựng kế hoạch nâng cấp, xây mới các công trình văn hoá (nhà
hát, rạp chiếu phim, nhà triển lãm) từ năm 2010-2020.
5. Phối hợp xây dựng các chế độ về Đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài
chính (trong đó có tiền lương và khung giá dịch vụ) đối với các đơn vị sự nghiệp
công lập ngành văn hoá, thể thao và du lịch; chế độ, chính sách đối với lao động
biểu diễn nghệ thuật nghỉ việc được hưởng chế độ hưu trước tuổi tại các đơn vị
nghệ thuật công lập; xây dựng dự thào Nghị định hoạt động Mỹ thuật; xây dựng
dự thảo quy hoạch tượng đài danh nhân anh hùng dân tộc; xây dựng quy hoạch
phát triển ngành Mỹ thuật đến năm 2020; xây dựng cơ chế tài chính và phối hợp
phân bổ và triển khai thực hiện Chương trình MTQG về văn hóa, trong đó có dự
án hỗ trợ các loại hình nghệ thuật truyền thống...
6. Phối hợp với Bộ Nội vụ xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định số
45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động
và quản lý Hội; phối hợp xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết
định số 68/2010/QĐ-TTg ngày 01/11/2010 quy định hội có tính chất đặc thù và
được ngân sách nhà nước hỗ trợ kinh phí hoạt động; chủ trì trình Thủ tướng
Quyết định số 71/2011/QĐ-TTg ngày 20/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ về
việc đảm bảo, hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước đối với các Hội có tính chất
đặc thù. Theo đó, 11 Hội văn học nghệ thuật ở Trung ương là các Hội đặc thù
được ngân sách nhà nước cấp kinh phí hoạt động. Tổng kinh phí NSNN cấp qua
11 Hội văn học nghệ thuật ở Trung ương giai đoạn 2008 - 2012 tăng dần hàng
năm (2008 là 53.866 triệu đồng; 2009 là 74.640 triệu đồng; 2010 là 93.711 triệu
đồng; 2011 là 98.044 triệu đồng; 2012 là 105.039 triệu đồng).
II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ:
2.1 Về chính sách tài trợ, đặt hàng, hỗ trợ sáng tạo văn học nghệ thuật
Trong điều kiện ngân sách còn khó khăn do suy thoái kinh tế, Bộ Tài chính
luôn cố gắng cân đối đảm bảo kinh phí hỗ trợ sáng tạo văn học nghệ thuật theo dự
toán và tiến độ để các Hội Văn học nghệ thuật triển khai thực hiện. Thời gian qua,
thông qua chính sách hỗ trợ sáng tạo văn học nghệ thuật, nhiều trại sáng tác đã
được mở, nhiều tác phẩm, công trình đã được hỗ trợ. Tuy nhiên cần nhìn nhận
một cách khách quan rằng việc hỗ trợ sáng tạo văn học nghệ thuật còn có thể đạt
được kết quả tốt hơn nữa, nếu Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ đạo sát sao
hơn, các Hội Văn học nghệ thuật Trung ương và địa phương triển khai tốt hơn các
105
hoạt động hỗ trợ, tập trung hỗ trợ chiều sâu để khuyến khích phát triển các tác
phẩm, công trình chất lượng cao.
2.2 Về rà soát, quy hoạch, sắp xếp các tổ chức, biên chế Hội văn học nghệ
thuật ở Trung ương
Theo quy định tại Quyết định số 71/2011/QĐ-TTg ngày 20/12/2011 của
Thủ tướng Chính phủ về việc đảm bảo, hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước đối
với các Hội có tính chất đặc thù, ngân sách nhà nước đảm bảo kinh phí chi hoạt
động thường xuyên của các Hội đặc thù căn cứ trên chỉ tiêu biên chế được cấp có
thẩm quyền giao. Tuy nhiên, hiện nay hầu hết các Hội ở Trung ương đã và đang
sử dụng số lượng biên chế vượt so với chỉ tiêu được giao từ những năm 1990. Đề
nghị các Hội Văn học Nghệ thuật ở Trung ương phối hợp với Bộ Nội vụ đánh giá,
rà soát, giao biên chế căn cứ trên quy mô hội viên và tính chất hoạt động đặc thù
của các Hội phù hợp với điều kiện hoạt động hiện nay.
2.3 Về đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách đối với các hoạt động văn học,
nghệ thuật để khuyến khích sáng tạo và phù hợp với đặc thù hoạt động
Đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính
nghiên cứu để tiến tới thay đổi cơ bản phương thức hỗ trợ từ NSNN trong cung
cấp các sản phẩm văn học, nghệ thuật, chuyển từ việc giao dự toán ngân sách như
hiện nay sang thực hiện phương thức đặt hàng, mua hàng, giao nhiệm vụ cung
cấp các sản phẩm văn học, nghệ thuật dựa trên cơ sở hệ thống định mức kinh tế -
kỹ thuật và tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng của từng loại hình sản phẩm (theo quan
điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị nêu tại Thông báo số 37- TB/TW ngày 26/5/2011
thông báo kết luận của Bộ Chính trị về Đề án “Đổi mới cơ chế hoạt động của các
đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình dịch vụ sự
nghiệp công”). Theo đó, Nhà nước tăng cường kinh phí để đặt hàng, mua hàng,
giao nhiệm vụ cung các các sản phẩm phục vụ nhiệm vụ chính trị (mua bản quyền
các tác phẩm văn học nghệ thuật chất lượng cao, có ảnh hưởng tích cực đến phát
triển kinh tế - xã hội để đặt hàng xuất bản, phổ biến; đặt hàng các phim truyện,
phim tài liệu, các buổi biểu diễn nghệ thuật phục vụ nhiệm vụ chính trị, đặt hàng
các tác phẩm điêu khắc, mỹ thuật...).
2.4. Đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật:
Đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan quản lý Nhà nước về
văn học, nghệ thuật nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh và khuyến
khích nguồn lực xã hội đầu tư cho văn học, nghệ thuật theo chuẩn mực văn hóa
chung, chân, thiện, mỹ. Bên cạnh sự tăng cường đầu từ của NSNN, khuyến khích
tăng cường nguồn lực xã hội hóa đầu tư cho văn học, nghệ thuật là giải pháp không
thể xem nhẹ để văn học nghệ thuật luôn là động lực to lớn trực tiếp góp phần xây
dựng nên tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của xã hội Việt Nam.
II. KẾT LUẬN
Trong hơn 05 năm triển khai Nghị quyết số 23-NQ-TW ngày 16/6/2008 của
Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ
106
mới, Bộ Tài chính đã chủ động, tích cực phối hợp với các cơ quan liên quan kịp
thời xây dựng các chính sách chế độ, cân đối kinh phí để đáp ứng ngày càng tốt
hơn yêu cầu phát triển văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới. Trong thời gian tới,
trên cơ sở đề xuất của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các cơ quan liên quan,
Bộ Tài chính sẽ tiếp tục tiếp tục đẩy mạnh phối hợp, tăng cường nghiên cứu đổi
mới để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng của văn
học, nghệ thuật trong thời kỳ mới – thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, phần đấu đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020./.
107
KẾT QUẢ 05 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 23-NQ/TW NGÀY
16/6/2008 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ PHÁT TRIỂN VĂN HỌC, NGHỆ
THUẬT TRONG THỜI KỲ MỚI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TUYÊN QUANG:
NHỮNG KHÓ KHĂN TỒN TẠI VÀ CÁC GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ TIẾP
TỤC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN
Sở VHTTDL tỉnh Tuyên Quang
Kính thưa quý vị đại biểu!
Kính thưa các đồng chí tham dự Hội nghị!
Tuyên Quang là tỉnh miền núi phía Bắc, có diện tích tự nhiên 5.809km2,
trong đó diện tích đồi, núi chiếm 73%, dân số của tỉnh trên 73 vạn người, gồm 22 dân
tộc anh em cùng chung sống, trong đó dân tộc Kinh chiếm 46,2%; dân tộc Tày chiếm
25,6%; dân tộc Dao chiếm 12,5%, còn lại là các dân tộc khác. Tỉnh Tuyên Quang có 6
huyện, 1 thành phố với 141 xã, phường, thị trấn và 2.095 thôn, bản, tổ dân phố.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội, sự nghiệp
văn học, nghệ thuật trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang luôn được các cấp ủy Đảng,
chính quyền quan tâm, đầu tư phát triển, nhằm tiếp tục bảo vệ và phát huy giá trị
truyền thống tốt đẹp, tình yêu quê hương đất nước, ca ngợi Đảng, Bác Hồ, ca ngợi
công cuộc xây dựng, đổi mới của đất nước, của tỉnh, đồng thời tích cực xây dựng
môi trường văn hóa lành mạnh góp phần làm cho quê hương Tuyên Quang - "Thủ
đô khu giải phóng, Thủ đô kháng chiến" ngày càng giàu đẹp, văn minh.
Kính thưa các vị đại biểu!
Kính thưa các đồng chí!
Tuyên Quang - vùng đất lịch sử, nơi đã chứng kiến nhiều sự kiện trọng đại
của dân tộc Việt Nam. Tại Tân Trào - "Thủ đô khu giải phóng", Bác Hồ và Trung
ương Đảng đã lãnh đạo tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành
công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở
Đông Nam Châu Á. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Tuyên
Quang trở thành trung tâm "Thủ đô kháng chiến" của cả nước, luôn làm tròn nhiệm
vụ thiêng liêng: Xây dựng và bảo vệ Thủ đô kháng chiến, bảo vệ an toàn tuyệt đối
Bác Hồ và các cơ quan đầu não kháng chiến. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, quân và dân Tuyên Quang vừa xây dựng bảo vệ quê hương, vừa tích cực
chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến, cùng cả nước làm nên đại thắng mùa
xuân năm 1975. Lịch sử cách mạng đã hun đúc nên những giá trị truyền thống của
Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang, đó là truyền thống yêu nước
nồng nàn, lòng căm thù giặc sâu sắc; tuyệt đối trung thành với Đảng, với Bác Hồ,
với cách mạng. Truyền thống lịch sử vẻ vang ấy đã và đang là động lực to lớn trong
công cuộc đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là điểm đến
hấp dẫn để các văn nghệ sỹ trong tỉnh và cả nước khơi nguồn cảm xúc, sáng tác
108
những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị, phản ánh sâu sắc truyền thống lịch sử
quê hương cách mạng - "Thủ đô khu giải phóng, Thủ đô kháng chiến".
Kính thưa các vị đại biểu!
Kính thưa các đồng chí!
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nghị quyết 23 của Bộ
Chính trị (Khóa X) về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong
thời kỳ mới; Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng; Nghị quyết Đại
hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XV, sự nghiệp văn học, nghệ thuật
của tỉnh Tuyên Quang đã có bước phát triển quan trọng. Tỉnh ủy, Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi để sự
nghiệp văn học, nghệ thuật tỉnh nhà phát triển. Ban hành Quy định xét tặng "Giải
thưởng Tân Trào" (Quyết định số 36/2010/QĐ-UBND ngày 10/12/2010 của Ủy
ban nhân dân tỉnh); Quy định chế độ khen thưởng đối với các tập thể, cá nhân hoạt
động trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, phát thanh - truyền hình của tỉnh đoạt giải
cấp khu vực, quốc gia và quốc tế (Quyết định số 05/2009/QĐ-UBND, ngày
17/6/2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh). Chú trọng đào tạo và phát triển đội ngũ văn
nghệ sỹ; quan tâm, tạo điều kiện về cơ sở vật chất, các các phương tiện làm việc,
bố trí biên chế, chế độ nhuận bút, đảm bảo nguồn kinh phí hỗ trợ sáng tác những
tác phẩm văn học, nghệ thuật có chất lượng cao, phản ánh bản sắc văn hóa truyền
thống của nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang nói riêng và cả nước nói chung,
góp phần từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Đầu tư xây
dựng và hoàn thành một số thiết chế văn hóa trọng điểm cấp tỉnh như: Công viên
Hồ cây xanh, Trung tâm Hội nghị tỉnh, Bảo tàng tỉnh, Thư viện tỉnh, khởi công xây
dựng "Tượng đài Bác Hồ với nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang"... Đoàn
nghệ thuật dân tộc tỉnh được kiện toàn, củng cố đảm bảo chất lượng đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ trong thời kỳ đổi mới.
Hàng năm, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên
Quang tổ chức gặp mặt đầu xuân đối với đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ, nhà báo
tiêu biểu trên địa bàn toàn tỉnh, nhằm động viên, khuyến khích đội ngũ văn nghệ
sỹ tích cực đóng góp cho sự phát triển văn học, nghệ thuật của tỉnh. Năm 2011,
tổ chức thành công Đại hội Văn học - Nghệ thuật toàn tỉnh lần thứ VI. Đến nay,
Hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh có 129 hội viên (trong đó có 58 hội viên được kết
nạp vào các Hội chuyên ngành Trung ương), sinh hoạt tại 8 chi hội: Văn học, Âm
nhạc, Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Sân khấu, Kiến trúc và 2 Chi hội của các Hội chuyên
ngành Trung ương là Chi hội Văn nghệ dân gian và Chi hội Văn học Nghệ thuật các
dân tộc thiểu số. Các văn nghệ sỹ của tỉnh đã tích cực học tập, rèn luyện, tiếp tục
sáng tạo những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao,
đáp ứng yêu cầu và lòng mong muốn của Đảng ủy, chính quyền và nhân dân các dân
tộc tỉnh Tuyên Quang.
Năm 2012, tổ chức xét, chọn và trao tặng "Giải thưởng Tân Trào" cho 12 tác
phẩm, cụm tác phẩm văn học, nghệ thuật của 12 tác giả, cố tác giả thuộc các chuyên
ngành Âm nhạc, Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Sân khấu và Văn học. Đó là những tác phẩm,
cụm tác phẩm có giá trị về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật; có ảnh hưởng
109
sâu sắc, sức lan tỏa rộng rãi trong đời sống xã hội, phục vụ nhiệm vụ chính trị của
tỉnh, cổ vũ tinh thần lao động, sáng tạo, xây dựng đời sống văn hóa của nhân dân các
dân tộc trong tỉnh. Ủy ban nhân dân tỉnh tặng Bằng khen và 50% giá trị giải thưởng
đối với các tác giả có tác phẩm đạt giải cao ở nước ngoài, Trung ương và khu vực cho
11 tác giả, trong đó có một Nhạc sỹ vinh dự được Chủ tịch nước phong tặng danh
hiệu Nghệ sỹ Ưu tú (Nhạc sỹ - NSUT Vương Văn Vình, Đoàn Nghệ thuật dân tộc
tỉnh, trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch). Tổ chức thành công Cuộc thi
sáng tác biểu trưng (logo) tỉnh Tuyên Quang với sự tham gia của 188 tác giả là
họa sỹ, nhà thiết kế trong và ngoài tỉnh. Đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng, góp
phần giới thiệu về truyền thống văn hóa, mảnh đất và con người Tuyên Quang,
gắn với các di tích lịch sử cách mạng; đồng thời phục vụ các nhiệm vụ chính trị,
phát triển kinh tế, văn hóa, đối nội, đối ngoại của tỉnh.
Bên cạnh các hoạt động về văn học, nghệ thuật, hoạt động biểu diễn nghệ thuật
chuyên nghiệp và văn nghệ quần chúng trên địa bàn tỉnh cũng được quan tâm phát
triển. Tỉnh Tuyên Quang hiện có 02 đơn vị hoạt động biểu diễn nghệ thuật chuyên
nghiệp là Đoàn Nghệ thuật dân tộc tỉnh (trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch)
và Đoàn Ca múa nhạc xiếc Thanh Xuân (Đoàn nghệ thuật xã hội hóa); 141 đội văn
nghệ quần chúng xã, phường, thị trấn; 2.494 đội văn nghệ quần chúng thôn, bản, tổ
dân phố, cơ quan, trường học, lực lượng vũ trang; trên 50 câu lạc bộ đàn và hát dân ca
duy trì hoạt động bình quân 10.300 buổi/năm, góp phần nâng cao mức hưởng thụ văn
hóa, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú trên địa bàn dân cư.
Công tác sưu tầm, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa truyền thống của các
dân tộc được triển khai thực hiện có hiệu quả. Khai thác và phát triển các loại hình
nghệ thuật dân tộc truyền thống, tiêu biểu như hát Then (dân tộc Tày), hát Páo dung
(dân tộc Dao); hát Sình ca (dân tộc Cao Lan); hát Soọng cô (dân tộc Sán Dìu)...
Biên soạn, xuất bản các cuốn sách: "Di tích lịch sử - lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí
Minh trên đất Tuyên Quang"; "Lễ hội văn hóa truyền thống các dân tộc ở Tuyên
Quang"; Tập thơ Tày "Nhớ Pác Tạ"; sản xuất bộ phim tài liệu "Tuyên Quang ký
sự" (04 tập) phản ánh đất nước, con người và truyền thống đấu tranh cách mạng
của nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang.
Hàng năm, mở các lớp tập huấn ở cơ sở; tổ chức và tham gia các kỳ Liên
hoan, hội diễn tại tỉnh, khu vực và Trung ương, trong đó có hát Then, đàn tính -
loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống đặc sắc của dân tộc Tày. Hiện nay, Ủy
ban nhân dân tỉnh giao Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với các tỉnh
vùng Việt Bắc triển khai các bước lập hồ sơ trình UNESCO công nhận hát Then
là di sản văn hóa phi vật thể thế giới cần bảo vệ khẩn cấp; hoàn thành lập 02 hồ
sơ di sản văn hóa phi vật thể dân tộc Tày (Lễ hội Lồng tông và Nghi lễ Then) đề
nghị công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Ngày 27/12/2012 Bộ
trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ra Quyết định số 5079/QĐ-
BVHTTDL, công bố Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể đối với 02 di sản này.
Ngày 17 và 21/02/2013 Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang đã long trọng tổ chức
Lễ công bố và đón nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia đối với Nghi lễ Then
và lễ hội Lồng tông (dân tộc Tày) tại 2 huyện Chiêm Hóa và Lâm Bình.
110
Việc phục hồi, bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các di tích lịch sử cách
mạng và kháng chiến theo Quyết định số 984/QĐ-TTg ngày 25/10/1999 của Thủ
tướng Chính phủ và Quyết định số 1483/QĐ-CT ngày 31/10/2005 của Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân tỉnh được triển khai có hiệu quả. Đến nay, hoàn thành phục hồi, tôn tạo
110 di tích lịch sử văn hoá theo dự án được duyệt; hoàn thành danh mục xếp hạng
118 di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia, 179 di tích cấp tỉnh. Tháng 8/2012, khu
di lịch lịch sử văn hóa và sinh thái Tân Trào vinh dự được đón nhận Bằng xếp
hạng Di tích quốc gia đặc biệt, qua đó góp phần tôn vinh và khẳng định tầm vóc
lịch sử của "Thủ đô khu giải phóng, Thủ đô kháng chiến", tăng thêm niềm tin,
niềm tự hào dân tộc, quyết tâm kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống
lịch sử của tỉnh và của đất nước.
Kính thưa các vị đại biểu!
Kính thưa các đồng chí!
Thực hiện Nghị quyết số 23 ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị, Chương trình
hành động số 20 ngày 28/10/2008 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Hội Văn học
Nghệ thuật tỉnh phối hợp với Hội nhà báo tỉnh, các cơ quan báo chí Trung ương và
của tỉnh mở trại sáng tác; cử hội viên tham gia các trại sáng tác, lớp tập huấn, đi thực
tế do tỉnh và Trung ương tổ chức.
Trong 2 năm, 2011 và 2012, Hội đã phối hợp với Liên hiệp các hội văn học,
nghệ thuật Việt Nam, các Hội chuyên ngành Trung ương tổ chức 8 lớp bồi dưỡng
nghiệp vụ, sáng tác về văn học, nghệ thuật, mỹ thuật, âm nhạc... cho các hội viên
Hội Văn học, nghệ thuật tỉnh và tổ chức thành công Hội thảo khoa học "Nâng cao
chất lượng Báo Tân Trào". Xuất bản bình quân 10 đầu sách/năm, trong đó có các tác
phẩm văn xuôi, truyện ngắn và thơ có nội dung tư tưởng, giá trị nghệ thuật, tiêu biểu
như: "Giấc mơ hạt thóc" và "Khi tôi lớn" (Đinh Công Thủy); "Đêm trở giấc" (Tạ Bá
Hương); "Biển mặn" (Cao Xuân Thái); "Dọc miền lau" (Lê Na); trường ca "Chuyện
anh thuyền chài Trần Văn Sông" (Vũ Xuân Tửu)... Một số tác phẩm văn học nghệ
thuật dành giải thưởng quốc gia và khu vực như: Tiểu thuyết "Ma làng", "Cánh
đồng Chum" (Trịnh Thanh Phong); "Tân Trào rạng ngày Độc lập" (Phù Ninh);
"Thăm thẳm đường về" (Hồng Giang); tập truyện "Chuyện ở bản Pi - át" (Vũ Xuân
Tửu); "Je - ry lên rừng học hái thuốc nam" (Đỗ Anh Mỹ)... Ngoài ra, các tác phẩm
về Âm nhạc, Hội họa, Nhiếp ảnh, Sân khấu... cũng dành giải thưởng cao trong khu
vực và toàn quốc như: tác phẩm "Cháu của bà" của Họa sỹ Mai Mạnh Hùng (Giải
A triển lãm mỹ thuật khu vực, Giải B triển lãm Mỹ thuật Việt Nam); tác phẩm "Bất
biến" của Họa sỹ Lê Cù Thuần (Giải C triển lãm Mỹ thuật Việt Nam); ca khúc
"Tiếng lượn cọi quê em" của Nhạc sỹ - NSƯT Vương Vình, ca khúc "Đường về
Tân Trào" của Nhạc sỹ Tân Điều... Bên cạnh đó, các tác phẩm hưởng ứng Cuộc
vận động "Sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật báo chí" về đề tài
"Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"; "Tuyên Quang hội nhập
và phát triển"; "Tuyên Quang chung sức xây dựng nông thôn mới"... với những
truyện ký, bút ký, phóng sự, gương điển hình sản xuất kinh doanh giỏi đã được
phản ảnh đầy đủ và kịp thời trong công cuộc đổi mới quê hương, đất nước.
Kính thưa các vị đại biểu!
111
Kính thưa các đồng chí!
Có được những kết quả như vậy là nhờ có sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sát
sao của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, sự phối hợp của các
cấp, các ngành tại địa phương và các Hội chuyên ngành của Trung ương. Tuy
nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết trên địa bàn tỉnh Tuyên
Quang còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế như: Việc phổ biến, quán triệt và triển
khai thực hiện Nghị quyết ở một số cơ sở còn chậm; công tác lý luận, phê bình
văn học, nghệ thuật, khuyến khích hội viên các chi hội văn học, nghệ thuật, các
tầng lớp nhân dân tham gia góp ý, phê bình nâng cao chất lượng các tác phẩm còn
hạn chế; việc phát hiện, bồi dưỡng đội ngũ văn nghệ sỹ trẻ, đặc biệt đối với văn
nghệ sỹ là người dân tộc thiểu số chưa kịp thời, chưa có cơ chế thu hút tài năng
về lĩnh vực văn học, nghệ thuật; việc triển khai Đề án thành lập cơ sở đào tạo văn
hóa, nghệ thuật và các công ty biểu diễn nghệ thuật còn chậm; có ít tác phẩm văn
học, nghệ thuật có giá trị, phản ánh sâu sắc truyền thống lịch sử quê hương cách
mạng - "Thủ đô khu giải phóng, Thủ đô kháng chiến"; công tác tuyên truyền,
quảng bá, phổ biến các tác phẩm văn học, nghệ thuật tới nhân dân, nhất là đồng
bào các dân tộc vùng sâu, vùng xa còn nhiều hạn chế...
Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày
16/6/2008 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong
thời kỳ mới trong thời gian tiếp theo, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tuyên
Quang đề xuất một số giải pháp thực hiện, như sau:
Một là, thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng để đội
ngũ sáng tác văn học, nghệ thuật nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển văn học, nghệ thuật và trách nhiệm công
dân đối với nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương; đấu tranh
chống những luận điệu xuyên tạc, âm mưu "Diễn biến hòa bình" của các thế lực thù
địch, nhất là trong lĩnh vực tư tưởng, văn hóa.
Hai là, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo môi trường thuận lợi cho đội ngũ
văn nghệ sỹ sáng tạo, thực hiện chính sách thu hút, chế độ đãi ngộ để văn nghệ sỹ
có những đóng góp tích cực cho sự nghiệp phát triển văn học, nghệ thuật chung
của đất nước. Thực hiện có hiệu quả công tác xã hội hoá các hoạt động văn học,
nghệ thuật. Tăng mức đầu tư cho văn học, nghệ thuật; xây dựng đề án và cơ chế
bảo tồn, truyền bá các loại hình văn học, nghệ thuật dân gian truyền thống các
dân tộc mỗi địa phương.
Ba là, thường xuyên củng cố, đổi mới hoạt động của Hội Văn học - Nghệ
thuật, các Hội chuyên ngành, nhằm nâng cao khả năng tập hợp, động viên đội ngũ
văn nghệ sỹ. Tiếp tục triển khai có hiệu quả việc "Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh"; hoạt động sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học, nghệ
thuật, báo chí về chủ đề "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh",
gắn với các phong trào thi đua yêu nước tại các địa phương, cơ quan, đơn vị.
Bốn là, phát huy vai trò và hiệu quả quản lý Nhà nước về văn học, nghệ
thuật; tăng cường công tác lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật nhằm khuyến
112
khích văn nghệ sỹ và các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia góp ý, phê bình để
nâng cao chất lượng các tác phẩm văn học, nghệ thuật.
Năm là, nâng cao năng lực, trình độ lãnh đạo, nhận thức của các cấp ủy Đảng,
cán bộ, đảng viên đối với văn học, nghệ thuật, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo quản lý
trong hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ trực tiếp chỉ đạo, quản lý lĩnh vực văn hóa
nói chung, văn học nghệ thuật nói riêng. Các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương
phải đưa nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, văn học, nghệ thuật vào kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của địa phương, cơ quan, đơn vị.
Để triển khai thực hiện có hiệu quả những giải pháp nêu trên, Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch Tuyên Quang xin kiến nghị, đề xuất, như sau:
- Đề nghị Trung ương sớm ban hành quy định về tổ chức bộ máy, biên chế
của Hội Văn học Nghệ thuật và các tờ báo, tạp chí của địa phương. Tăng cường
công tác quản lý, ngăn chặn các trang mạng xã hội có nội dung độc hại, gây ảnh
hưởng xấu trong xã hội.
- Kịp thời biểu dương, khen thưởng các tổ chức, cá nhân hoạt động trong
lĩnh vực văn học, nghệ thuật.
Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết, tỉnh Tuyên Quang rất
mong tiếp tục nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch; sự phối hợp từ phía các cơ quan trực thuộc Bộ, các Hội chuyên ngành của
Trung ương và các tỉnh bạn, góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển văn học, nghệ
thuật của cả nước nói chung và của tỉnh Tuyên Quang nói riêng trong thời kỳ mới.
Xin trân trọng cảm ơn !
113
THAM LUẬN HỘI NGHỊ
SƠ KẾT 5 NĂM TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 23
CỦA BỘ CHÍNH TRỊ “VỀ VIỆC TIẾP TỤC XÂY DỰNG VÀ PHÁT
TRIỂN VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT TRONG THỜI KỲ MỚI”
Nguyễn Văn Ảnh
Phó Giám đốc Sở VHTT&DL Bắc Ninh
Cấp ủy, lãnh đạo ngành VHTT&DL Bắc Ninh đã tích cực đề ra các chủ
trương, giải pháp chỉ đạo các đơn vị từ tỉnh tới cơ sở nhằm xây dựng và phát triển
văn học nghệ thuật, góp phần đáp ứng nhu cầu xã hội và phát triển nguồn nhân
lực phục vụ cho sự nghiệp văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới.
Các đơn vị hoạt động nghệ thuật, như Nhà hát dân ca Quan họ Bắc Ninh,
Trung tâm văn hoá tỉnh, huyện, Trung tâm phát hành phim và chiếu bóng, Trường
Trung cấp Văn hoá Nghệ thuật và Du lịch, đội văn nghệ các huyện và cơ sở, các
câu lạc bộ thơ ca ... đã có sự chuyển biến mới về hoạt động sau khi triển khai
Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Ngành VHTT&DL đã tham mưu cho HĐND, UBND tỉnh một số văn bản
chính sách nhăn phát triển văn học nghệ thuật như: Quyết định về quy định tiêu
chuẩn công nhận nghệ nhân Dân ca quan họ; quyết định về chế độ giải thưởng hội
thi hát Dân ca quan họ đầu xuân hàng năm; quy định hỗ trợ nghệ nhân và diên
viên nhạc công nhân viên nhà hát Dân ca quan họ (đối với nghệ nhân mức hỗ trợ
1 triệu/ tháng và tiền bảo hiểm, tiền tử tuất; đối với diên viên nghệ sỹ, nhạc
công... mức hỗ trợ tăng gấp ba lần so với quy định của nhà nước); quỹ hỗ trợ tài
năng trẻ; quỹ tài năng Phạm Văn Trà; quyết định về thu hút nhân tài về công tác
tại tỉnh và hỗ trợ đào tạo; hỗ trợ xây dựng nhà văn hóa thôn, xã, hỗ trợ các trang
thiết bị của các nhà văn hóa...
Trình và được HĐND thông qua Quy hoạch phát triển sự nghiệp văn hóa
tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; Nghị quyết số 20, 22
của Hội đồng nhân dân tỉnh, Quyết định số 100 và 101 của UBND tỉnh quy định
về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội và tổ chức kỷ
niệm ngày truyền thống, đón nhận các danh hiệu thi đua trên địa bàn tỉnh; Quy
chế xét duyệt danh hiệu nghệ nhân quan họ...Hằng năm, xuất bản 4 số bản tin
VHTTDL Bắc Ninh tuyên truyền, phản ánh các sự kiện của đất nước, địa phương,
các hoạt động của ngành phát hành đến các thôn, khu dân cư trên địa bàn tỉnh;
website của sở.
114
Trong những năm qua trung tâm Phát hành phim và chiếu bóng tỉnh đã tổ
chức được gần 5 nghìn buổi chiếu, phục vụ trên 2 triệu lượt người xem. Trên Sân
văn hoá Cầu Gỗ tỉnh với sức chứa 3.500 người đã tổ chức được hơn 230 buổi
biểu diễn với nhiều thể loại như: Ca nhạc, Xiếc, Kịch nói, Cải lương; phục vụ trên
430 nghìn lượt người xem. Về hoạt động tại Rạp chiếu bóng Bắc Ninh, đã tổ chức
chiếu được hơn 1.000 buổi; Trong đó có hơn 500 buổi tuyên truyền nhiệm vụ
chính trị không doanh thu; phục vụ hàng trăm nghìn lượt người xem.Công tác sản
xuất và phát hành băng đĩa hình, đĩa phim, đã phát hành được hàng nghìn băng
đĩa.
Hoạt động thư viện đã cơ bản đáp ứng nhu cầu đọc, tìm kiếm thông tin cho
mọi đối tượng đến nghiên cứu, học tập, giải trí. Bảo tàng tỉnh thường xuyên tổ
chức các hoạt động nghiệp vụ và đạt được nhiều kết quả đáng kể, từ công tác sưu
tầm hiện vật, phân loại đến tổ chức trưng bày, triển lãm; hàng năm, lượng hiện
vật bảo tàng sưu tầm được đều đạt con số cao (trung bình từ 600 đến 1000 hiện
vật/năm) cùng hàng ngàn trang tư liệu, chụp và sưu tầm hàng trăm ảnh tư liệu.
Hiện Bảo tàng tỉnh đã sưu tầm được tổng cộng 3.550 hiện vật bảo tàng, 49 tài liệu
và 304 bản in dập bia đá.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cho ngành văn hóa được duy trì
hằng năm với gần 100 học viên theo học tại trường Trung cấp Văn hoá, Nghệ
thuật và Du lịch và hàng trăm học viên tại các lớp bồi dưỡng hạt nhân văn nghệ ở
cơ sở; Trường còn thực hiện liên kết đào tạo với một số trường Đại học mở các
lớp đào tạo hệ chính quy, hệ vừa làm vừa học ở 02 cấp học: Đại học và Trung cấp
nhằm đáp ứng nhu cầu của người học, đồng thời giúp cho một số tỉnh bạn củng
cố, hoàn thiện, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ngành văn hóa, giáo dục.
Cùng với việc đào tạo, trường đã phối hợp với các ngành liên quan hoàn thiện
việc nghiên cứu, biên soạn giáo trình giảng dạy hát dân ca Quan họ Bắc Ninh, hát
Quan họ đối đáp, lý thuyết Quan họ bậc Trung cấp chuyên nghiệp hệ chính quy
03 năm của trường; tài liệu dạy hát dân ca Quan họ Bắc Ninh trong các trường
học trên địa bàn tỉnh. Những tài liệu này được Hội đồng thẩm định và đưa vào
giảng dạy bắt đầu từ năm học 2011- 2012.
Đối với các đơn vị biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp, UBND tỉnh Bắc
Ninh đã phê duyệt đề án nâng cấp Đoàn dân ca quan họ Bắc Ninh thành Nhà hát
dân ca quan họ Bắc Ninh. Hướng dẫn, hỗ trợ, tạo điều kiện để anh em nghệ sỹ
của đơn vị phấn đấu trở thành hội viên của Hội nghệ sỹ Sân khấu Việt Nam, Hội
văn học nghệ thuật, Chi hội nhạc sĩ Việt Nam tỉnh Bắc Ninh... nhằm phát triển,
bồi dưỡng đội ngũ văn nghệ sỹ, cộng tác viên trong lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Ngoài nhiệm vụ biểu diễn phục vụ các nhiệm vụ chính trị của tỉnh, tuyên truyền,
115
quảng bá, giới thiệu về dân ca Quan họ Bắc Ninh với khán giả trong và ngoài
nước, kết hợp biểu diễn doanh thu, Nhà hát còn có nhiệm vụ sưu tầm, bảo tồn các
hình thức hát Dân ca Quan họ Bắc Ninh truyền thống, nghiên cứu thể nghiệm các
loại hình ca hát Quan họ trên sân khấu và quảng bá về Dân ca Quan họ Bắc Ninh.
Hoạt động của Nhà hát Dân ca Quan họ Bắc Ninh trong những năm qua đã đạt
nhiều kết quả đáng khích lệ, trong 5 năm từ 2008 đến năm 2012 Nhà hát đã tổ
chức biểu diễn 526 buổi cho gần 150 nghìn lượt người, chất lượng các chương
trình biểu diễn được nâng lên một cách rõ rệt, tinh thần thái độ phục vụ nhân dân
của tập thể cán bộ, diễn viên Nhà hát đã được đông đảo quần chúng nhân dân
trong cả nước, bạn bè quốc tế cũng như kiều bào ở nước ngoài khen ngợi và đánh
giá cao.
Ngày 30/9/2009 dân ca Quan họ Bắc Ninh được UNESCO công nhận là di
sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, ngành VHTT&DL đã tham mưu
cho UBND tỉnh chỉ đạo và triển khai nhiều dự án, đề án, chương trình hành động
nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của di sản tiêu biểu như: tổ chức chuyền dậy dân
ca Quan họ cho hàng vạn nhân dân ở các gia đình, thôn, làng, các câu lạc bộ và
đặc biệt là các trường phổ thông trên toàn tỉnh; xây dựng trung tâm lưu trữ, bảo
tồn và khai thác di sản văn hóa DCQH Bắc Ninh; tổ chức kiểm kê di sản dân ca
Quan họ hàng năm; thành lập hiệp hội những người yêu dân ca Quan họ tỉnh Bắc
Ninh; tổ chức các đoàn nghệ thuật tham gia biểu diễn quảng bá về di sản DCQH
ở trong và ngoài nước; hàng năm tổ chức chương trình nghệ thuật đặc biệt Về
miền Quan họ (4 chương trình) và phối hợp với các tỉnh thành trên cả nước tổ
chức quảng bá, giới thiệu về di sản DCQH Bắc Ninh; đưa dân ca quan họ trở
thành sản phẩm đặc biệt của các hoạt động du lịch trên địa bàn toàn tỉnh. Hàng
năm tổ chức hội thi hát DCQH đầu xuân.
Hoạt động văn hóa văn nghệ quần chúng trên địa bàn tỉnh ngày càng phát
triển sâu rộng. Hiện toàn tỉnh có tới trên 700 Đội văn nghệ, CLB văn nghệ thu hút
khoảng trên 20.000 diễn viên, hội viên không chuyên tham gia sinh hoạt. Các câu
lạc bộ, Đội văn nghệ này đã và đang được các cấp, các ngành, các địa phương
tương đối quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi trong việc tổ chức các hoạt động, góp
phần tích cực trong công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Hoạt động của
các Câu lạc bộ, đội văn nghệ là nơi nuôi dưỡng các hạt nhân văn nghệ ở cơ sở và
là nguồn lực chính để tham gia các cuộc hội thi, liên hoan văn nghệ quần chúng
của tỉnh, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị của các loại di sản văn hóa phi vật
thể, đặc biệt là dân ca Quan họ Bắc Ninh; tạo môi trường sinh hoạt văn hóa vui
tươi, lành mạnh, góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần cho
người dân địa phương. Đây cũng là nội dung quan trọng trong chỉ tiêu xây dựng
116
đời sống văn hóa ở cơ sở và Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa” tại các thôn, làng, khu phố.
Đối với Phong trào toàn dân “ĐKXDDDSVV” và việc thực hiện nghị quyết
số 20, 22 của HĐND tỉnh đến nay đạt nhiều kết quả đáng khích lệ:
Về phong trào toàn dân ĐKXDĐSVH: có sự vào cuộc của cả hệ thống chính
trị, bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi theo hướng tích cực; đời sống vật chất và
tinh thần của người dân được nâng lên; các phong trào VHVN phát triển; nhiều
hội thi, hội diễn được tổ chức, số các CLB và người tham gia tăng hằng năm. tổng
số làng quan họ gốc là 44, làng quan họ phát triển là 329...
Về các di sản và lễ hội: tổng số hơn 500 lễ hội, hơn 1250 di tích, hoạt động
VHVN được tổ chức trong các lễ hội, c
Công nhận “Gia đình văn hóa”: Năm 2011, toàn tỉnh có 160.605 hộ đăng ký,
đạt 73,63% so với tổng số và số hộ được công nhận là 116.638 hộ, đạt 53% so với
tổng số. Năm 2012, có 241.115 hộ đăng ký, đạt 93,4% so với tổng số và được
công nhận 231.023 hộ, đạt 89,5% so với tổng số.
Công nhận làng, khu phố văn hóa: Năm 2011, có 229/698 làng, khu phố
được công nhận danh hiệu văn hóa các cấp, đạt 32,8% so với tổng số. Năm 2012,
có 453/726 làng, khu phố được công nhận danh hiệu văn hóa, đạt 62,4% so với
tổng số, tăng 29,6% so với năm 2011.
Từ năm 2008- 2012: Tập thể và cá nhân Hội VHNT đã xuất bản 64 đầu
sách, trong đó có 58 đầu sách văn học, 6 đầu sách nghệ thuật; Đã tổ chức và phối
hợp tổ chức 9 cuộc triển lãm tranh cổ động, triển lãm mỹ thuật và triển lãm ảnh
thời sự, nghệ thuật đều đặn hằng năm ở tỉnh với gần 350 tranh cổ động, hơn 300
tác phẩm hội họa, đồ họa, điêu khắc và mỹ thuật ứng dụng, hơn 400 ảnh thời sự -
nghệ thuật; tham gia đều đặn các cuộc triển lãm mỹ thuật, Liên hoan ảnh nghệ
thuật khu vực các tỉnh đồng bằng Sông Hồng với tổng số trên 150 tác phẩm mỹ
thuật, 83 tác phẩm ảnh nghệ thuật... Những năm vừa qua một số tác giả của Hội
đã có hàng chục kịch bản được Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt
Nam dàn dựng, phát sóng.
Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học,
nghệ thuật trong thời kỳ mới” đã được các cấp các ngành trong tỉnh Bắc Ninh
nghiêm túc quán triệt, triển khai và tổ chức thực hiện, qua 4 năm thực hiện đã thu
được một số kết quả quan trọng. Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện của
các cấp uỷ đảng, chính quyền đối với hoạt động văn học, nghệ thuật được nâng
lên. Các hoạt động văn học nghệ thuật trong tỉnh đã nắm bắt và thực hiện đúng
định hướng của Đảng. Các tác phẩm thuộc các thể loại đều tập trung khai thác từ
117
thực tế cuộc sống, sự phát triển kinh tế - xã hôi của địa phương làm cảm hứng và
chất liệu sáng tạo nghệ thuật, phản ánh sinh động, chân thực cuộc sống của nhân
dân Bắc Ninh trong thời kỳ hội nhập, đổi mới. Tính chuyên nghiệp trong các tác
phẩm ngày càng được khẳng định. Hoạt động văn học nghệ thuật của tỉnh nhìn
chung phát triển khá toàn diện, phong phú, đóng góp tích cực vào việc nâng cao
đời sống tinh thần của nhân dân, phát huy được vai trò là động lực góp phần xây
dựng và phát triển nền kinh tế xã hội của tỉnh.
Một số hạn chế
Mặc dù đã có những phát triển và thành tựu đạt được, song so với yêu cầu
phát triển của đời sống xã hội và xu thế hội nhập hiện nay, việc triển khai thực
hiện Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) và Chương trình hành
động của Tỉnh ủy Bắc Ninh về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ
thuật trong thời kỳ mới” của tỉnh vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, đó là:
- Một số cấp uỷ, chính quyền chưa thực sự quan tâm đến công tác văn học,
nghệ thuật. Công tác quản lý nhà nước về văn học, nghệ thuật có lúc, có nơi còn
hạn chế. Việc phối hợp giữa các đơn vị, sở, ngành, hội chưa được thường xuyên
và chủ động.
- Phong trào sáng tác của quần chúng chưa mạnh; hoạt động giữa các chuyên
ngành chưa đều; chưa có được những tác phẩm thật sự nổi trội, xứng tầm với
công cuộc đổi mới của tỉnh và của đất nước, còn không ít tác phẩm văn học, nghệ
thuật và hoạt động biểu diễn chưa thể hiện được tính chất tiên tiến và bản sắc văn
hoá của một vùng quê có truyền thống văn hiến lâu đời.
- Công tác lý luận phê bình còn hạn chế; chủ trương trẻ hóa hội viên của Hội
Văn học Nghệ thuật còn chậm; việc triển khai xây dựng “Đề án phát triển
VHNT” còn chậm; một số ít hội viên chưa hoạt động tích cực, còn có hội viên có
tác phẩm mang tư tưởng lệch lạc, trái với đường lối văn hoá, văn nghệ của Đảng.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ văn nghệ sĩ và những người làm
công tác quản lý văn học - nghệ thuật chưa thật sự được quan tâm thường xuyên
và có kế hoạch, quy hoạch lâu dài.
Một số giải pháp
Để tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ
Chính trị (khoá X) về văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới, Ngành VHTT&DL
tham mưu cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Ninh tiếp tục chỉ đạo thực hiện một
số nhiệm vụ trọng tâm sau:
118
1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, sự quản lý nhà nước, của
chính quyền địa phương trong việc đổi mới cơ chế chính sách đối với văn học -
nghệ thuật. Đặc biệt là việc bồi dưỡng nâng cao nhận thức vai trò vị trí, đặc trưng
của văn học - nghệ thuật cho cán bộ, đảng viên; nhất là cán bộ lãnh đạo quản lý
trong hệ thống chính trị, cán bộ trực tiếp chỉ đạo quản lý văn hóa văn nghệ.
2. Xây dựng và phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ của địa phương vững mạnh
theo hướng toàn diện cả về số lượng và chất lượng, đa dạng về loại hình sáng tạo.
Chú trọng việc kết hợp giữa tính dân tộc và hiện đại trong sáng tác, phù hợp với
năng lực nhận thức thẩm mỹ của công chúng. Tạo điều kiện cho Hội Văn học
nghệ thuật tỉnh trong việc phát hiện, bồi dưỡng lực lượng sáng tác trẻ, là nguồn
nhân lực kế thừa cho nhiều năm tiếp theo trong giai đoạn mới.
3. Chỉ đạo các cơ quan quản lý nhà nước về xuất bản, báo chí, phát thanh
truyền hình, các cơ quan chức năng và các địa phương trong tỉnh phối hợp chặt
chẽ với Hội văn học - Nghệ thuật tỉnh trong việc công bố, giới thiệu quảng bá các
tác phẩm, công trình nghệ thuật có chất lượng tốt để định hướng thẩm mỹ cho
công chúng; xây dựng và phát triển văn nghệ quần chúng, khuyến khích quần
chúng tham gia sáng tạo, bảo tồn, khai thác và phát huy các giá trị văn hoá, văn
nghệ truyền thống.
4. Củng cố, đổi mới hoạt động của Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh, làm tốt vai
trò tập hợp, đoàn kết, phát huy tính chủ động sáng tạo của các chi hội và đội ngũ
văn nghệ sĩ.
5. Tăng cường bổ sung cơ sở vật chất, có chính sách cho công tác đào tạo
bồi dưỡng phát triển tài năng, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, chế độ khen
thưởng, khuyến khích kịp thời các văn nghệ sĩ có nhiều công lao cống hiến, có tác
phẩm chất lượng cao.
6. Xây dựng phong trào sáng tác quần chúng, tạo điều kiện để quần chúng
hưởng thụ VHNT ở các loại hình nghe, nhìn, đọc... Tiếp tục đầu tư xây dựng,
củng cố các thiết chế văn hóa phục vụ nhân dân như: rạp hát, rạp chiếu phim,
trung tâm triển lãm, CLB nghệ thuật cấp tỉnh, nhà văn hóa, phòng đọc sách, các
CLB cấp huyện, xã; trang bị thêm các dụng cụ, phương tiện hoạt động cho các
đơn vị nghệ thuật, máy móc thiết bị cho đội chiếu phim lưu động...
119
BÁO CÁO THAM LUẬN
HỘI NGHỊ SƠ KẾT 05 NĂM (2008 - 2012) TRIỂN KHAI THỰC HIỆN
NGHỊ QUYẾT 23-NQ/TW NGÀY 16/6/2008 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ
VIỆC TIẾP TỤC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HỌC, NGHỆ
THUẬT TRONG THỜI KỲ MỚI
Sở VHTTDL Lạng Sơn
Kính thưa quý vị đại biểu!
Thưa toàn thể Hội nghị!
Thay mặt cho Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lạng Sơn tham dự
Hội nghị Sơ kết 05 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị về
việc tiếp tục xây dựng và phát triển văn học - nghệ thuật trong thời kỳ mới hôm
nay, tôi xin phát biểu tham luận về “Tình hình phát triển văn học nghệ thuật tỉnh
Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay”.
Kính thưa các quý vị đại biểu!
Thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị về việc
tiếp tục xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới, trong những
năm qua, sự nghiệp văn học nghệ thuật tỉnh Lạng Sơn luôn nhận được sự quan
tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của các Bộ, Ngành Trung ương, Tỉnh ủy và UBND
tỉnh cũng như sự phối hợp của các cấp, các ngành từ tỉnh đến cơ sở do đó sự
nghiệp văn học nghệ thuật của tỉnh ngày càng phát triển sâu rộng và khá sôi nổi
trên địa bàn toàn tỉnh. Hàng năm nhân dịp Kỷ niệm các ngày lễ lớn của tỉnh, của
đất nước, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh đã
phát động và tổ chức được nhiều hoạt động sáng tác, công bố phổ biến các tác
phẩm về văn học nghệ thuật tới hội viên và công chúng. Qua đó góp phần nâng
cao dân trí, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, làm phong phú đời sống tinh thần
nhân dân, cùng với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trên địa bàn
toàn tỉnh hoàn thành nhiệm vụ chính trị của địa phương và của đất nước.
Hiện nay tỉnh Lạng Sơn có 01 Hội Văn học nghệ thuật tỉnh được thành lập
từ tháng 3 năm 1968, là tổ chức Hội công lập có chức năng tập hợp các văn nghệ
sỹ và những người có tâm huyết với sự nghiệp văn học nghệ thuật của tỉnh nhằm
phát huy mọi khả năng của hội viên, đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, lý luận
phê bình, sưu tầm, sáng tạo các tác phẩm văn học nghệ thuật.
Nhìn chung trong những năm qua, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch,
Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Lạng Sơn đã phát huy tốt vai trò, chức năng, nhiệm
vụ của mình nhằm xây dựng và phát triển nền VHNT của tỉnh. Đội ngũ văn nghệ
sỹ ngày càng được nâng cao trình độ. Phong trào sáng tác, biểu diễn, xuất bản,
công bố phổ biến tác phẩm văn học nghệ thuật được quan tâm, chú trọng.
I. KẾT QUẢ VIỆC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT
1. Công tác tham mưu chỉ đạo, triển khai thực hiện:
120
Nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động văn học nghệ thuật trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn ngày càng phát triển. Trong những năm qua, Ngành Văn hóa, Thể thao
và Du lịch, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh đã tích cực tham mưu cho Tỉnh ủy,
HĐND, UBND tỉnh ban hành một số cơ chế chính sách; cùng nhiều văn bản chỉ
đạo triển khai thực hiện. Cụ thể:
* Về cơ chế chính sách:
- Hiện nay UBND tỉnh Lạng Sơn đã ban hành Chính sách trợ giá, trợ cước
in và phát triển Tạp chí Văn nghệ Xứ Lạng.
- Chính sách hỗ trợ biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp phục vụ vùng sâu,
vùng xa, vùng biên giới tỉnh Lạng Sơn (trung bình từ 3-5 triệu đồng/buổi). Ngoài
ra các diễn viên chuyên nghiệp được hưởng chế độ bồi dưỡng 20.000đ/người/01
buổi luyện tập và 50.000đ/người/01 buổi biểu diễn theo Quyết định số 180/QĐ-
TTg năm 2006 của Thủ tướng chính phủ.
- UBND tỉnh ban hành Quyết định số 02/2013/QĐ-UBND ngày
05/01/2013 về việc quy định chế độ quản lý đặc thù đối với Đội tuyên truyền lưu
động và mức chi bồi dưỡng tập luyện, biểu diễn đối với Đội tuyên truyền lưu
động, Đội Nghệ thuật quần chúng cấp tỉnh, cấp huyện trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
- Căn cứ Đề án đẩy mạnh xã hội hóa các lĩnh vực giáo dục đào tạo, dạy
nghề, y tế, văn hóa, thể dục thể thao đã được UBND tỉnh Lạng Sơn phê duyệt.
Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã áp dụng thực hiện chủ trương đẩy mạnh
XHH các lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn (như thành lập các Hội, Câu lạc bộ, Đội
văn nghệ quần chúng); XHH tổ chức lĩnh vực truyền dạy các loại hình dân ca,
dân vũ..v.v..
* Về các văn bản chỉ đạo triển khai:
- Đã tham mưu xây dựng Giải thưởng Văn học nghệ thuật Hoàng Văn Thụ,
xét trao thưởng 5 năm/1 lần.
- Tham mưu ban hành Quyết định số 645/QĐ-UBND, ngày7/4/2008 quy
định về chế độ nhuận bút áp dụng cụ thể trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
- Tham mưu ban hành Quyết định số: 1442/QĐ - UBND, ngày 12/9/2011
của UBND tỉnh về phê duyệt Đề án phát triển Văn học Nghệ thuật tỉnh Lạng Sơn
giai đoạn 2011-2015;
Bên cạnh đó hàng năm Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã chỉ đạo Đoàn
nghệ thuật tỉnh, Trung tâm văn hóa thông tin tỉnh tạo điều kiện thuận lợi cho đội
ngũ văn nghệ sỹ của Ngành tham gia các hoạt động sáng tác, khai thác, dàn dựng,
biểu diễn công bố các chương trình, tác phẩm mới, với định hướng 70% các
chương trình, tiết mục mang bản sắc dân tộc; 30% chương trình, tiết mục mang
yếu tố hiện đại..v.v..
Riêng Hội Văn học nghệ thuật tỉnh, hàng năm đều xây dựng và ban hành các
Quy chế chi tiêu nội bộ, Quy chế dân chủ, Quy chế làm việc của Hội; nhất là duy
trì thực hiện tốt Quy chế sử dụng Quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học
nghệ thuật; Chế độ nhuận bút... Qua đó nhằm tạo môi trường làm việc công khai,
121
dân chủ, minh bạch cho cán bộ, hội viên; Khuyến khích, thúc đẩy sự nghiệp sáng
tác, sáng tạo, phổ biến tác phẩm văn học nghệ thuật trên địa bàn toàn tỉnh.
2. Kết quả hoạt động văn học nghệ thuật trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn:
2.1. Về đội ngũ cán bộ, văn nghệ sỹ của tỉnh:
Hiện nay đội ngũ cán bộ, văn nghệ sỹ trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn nhìn
chung đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước và tổ chức các hoạt động văn hóa,
văn học nghệ thuật. Riêng Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh, được nhà nước giao 17
biên chế, trong đó có 76,5% cán bộ có trình độ đại học trở lên. Văn phòng Hội có
04 bộ phận gồm: Phòng Hành chính - Quản trị, Ban sáng tác, Ban công tác hội
viên và Ban biên tập Tạp chí Văn nghệ Xứ Lạng. Trong suốt quá trình hoạt động
của Hội, đội ngũ cán bộ luôn gắn bó trách nhiệm, phục vụ tận tình cho sự nghiệp
văn học nghệ thuật của tỉnh nhà.
Hội quản lý 249 hội viên thuộc 05 Chuyên ngành: Văn học, Mỹ thuật,
Nhiếp ảnh, Sân khấu - Âm nhạc, Kiến trúc. Trong đó có gần 80 hội viên thuộc
các Hội chuyên ngành Trung ương. Nhìn chung về cơ bản, đội ngũ cán bộ, văn
nghệ sĩ của tỉnh Lạng Sơn có lòng yêu ngành, yêu nghề; luôn tâm huyết, say mê
sáng tạo tác phẩm mới; góp phần tạo nên nền văn học nghệ thuật Xứ Lạng đậm
đà bản sắc văn hóa dân tộc.
2.2. Kết quả hoạt động của các Chuyên ngành trong những năm qua
Về lĩnh vực Văn xuôi: Văn xuôi có sự nở rộ về tác phẩm, bên cạnh các cây
bút thành danh của tỉnh đã xuất hiện một lớp trẻ, đang từng bước khẳng định vị trí
trên diễn đàn văn nghệ của tỉnh và cả nước. Các tác giả có tên tuổi trên diễn đàn
văn nghệ Lạng Sơn như Nhà văn Nguyễn Trường Thanh, Mã Thế Vinh, Vi Thị
Kim Bình. Một số cây bút trẻ như Ngô Bá Hoà, Dương Ngọc Ánh, Vi Thị Thu
Đạm, Nguyễn Thị Quỳnh Nga, Nguyễn Thị Hoa, ... Một số tác giả đã được khẳng
định trong các Cuộc thi như: Tác giả Nguyễn Trường Thanh đạt Giải C giải
thưởng văn học nghệ thuật Hoàng Văn Thụ năm 2009 và đạt giải tác giả cao tuổi
của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam năm 2010; tác giả Vũ
Ngọc Chương đạt giải B trong đợt xét tặng giải thưởng VHNT Hoàng Văn Thụ
năm 2009; tác giả Vi Thị Thu Đạm đạt giải C trong đợt xét giải thưởng VHNT
Hoàng Văn Thu năm 2009, tác giả Mã Thế Vinh đạt giải C trong đợt xét giải
thưởng VHNT Hoàng Văn Thụ năm 2009...
Về lĩnh vực Thơ: Thơ được duy trì và khẳng định về cả tác giả và tác phẩm.
Thơ viết bằng tiếng dân tộc thiểu số được duy trì và đóng góp trong việc giữ gìn
vốn ngôn ngữ và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc trong tỉnh. Tác giả sáng
tác thơ bằng tiếng dân tộc như: Hoàng Choóng, Mã Thế Vinh, vi Hồng Nhân,
Hoàng Kim Dung, .... Một số tác giả đã được khẳng định trong các cuộc thi như:
Tác giả Hoàng Choóng đạt giải B trong đợt xét giải thưởng VHNT Hoàng Văn
Thụ năm 2009, tác giả Ngô Bá Hoà đạt giải tác giả trẻ của Hội Nhà văn Việt nam
năm 2009 và đạt giải B trong đợt xét tặng giải thưởng VHNT Hoàng Văn Thụ
năm 2009; tác giả Hàn Kỳ đạt giải C trong đợt xét tặng giải thưởng VHNT Hoàng
122
Văn Thụ năm 2009; tác giả Trần Thành đạt giải C trong đợt xét tặng giải thưởng
VHNT Hoàng Văn Thụ năm 2009...
Về lĩnh vực Lý luận phê bình: Hội thảo văn học nghệ thuật càng làm rõ nét
với công chúng hiểu hơn về sự phát triển văn học nghệ thuật Lạng Sơn. Các tác
giả có tên tuổi trong lý luận phê bình như: Hoàng Văn An, Nguyễn Duy Bắc,
Nguyễn Đức Tâm, ... đã góp phần tích cực, định hướng và nâng cao hơn chất
lượng sáng tác văn học nghệ thuật của địa phương. Một số tác giả đã được khẳng
định trong các Cuộc thi như: Tác giả Hoàng Văn An đạt Giải B trong đợt xét giải
thưởng VHNT Hoàng Văn Thụ năm 2009; tác giả Mã Thế Vinh đạt giải C trong
đợt xét giải thưởng VHNT Hoàng Văn Thụ năm 2009; tác giả Nguyễn Duy Bắc
đạt giải C trong đợt xét giải thưởng VHNT Hoàng Văn Thụ năm 2009, ...
Về lĩnh vực Mỹ thuật: Mỹ thuật Lạng Sơn có nhiều tác phẩm phản ánh về
quê hương, hàng năm Hội đã tổ chức được các Trại sáng tác, thực tế sáng tác;
tham gia Triển lãm Mỹ thuật Khu vực III Tây Bắc - Việt Bắc và Triển lãm tại tỉnh
nhà. Một số tác giả đã được khẳng định qua các Cuộc thi, Triển lãm Khu vực
như: Nguyễn Lan Huyền được giải B giải thưởng VHNT Hoàng Văn Thụ năm
2009; Đoàn Bích Thuỳ đạt giải B giải thưởng VHNT Hoàng Văn Thụ năm 2009
và đạt giải A cuộc thi sáng tác VHNT về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh năm 2010” và có tác phẩm trưng bày triển lãm 1000 năm
Thăng Long - Hà Nội năm 2010; tác giả Chu Thị Thiều đạt giải C giải thưởng
VHNT Hoàng Văn Thụ năm 2009; tác giả Cao Thanh Sơn được giải KK của Uỷ
ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam năm 2010, ...
Về lĩnh vực Nhiếp ảnh: Nhiếp ảnh là thế mạnh của văn học nghệ thuật
Lạng Sơn. Trong những năm qua Hội Văn học Nghệ thuật thường xuyên tổ chức
cho các hội viên Chuyên ngành Nhiếp ảnh đi thực tế sáng tác, mở Trại sáng tác,
Hội thảo Chuyên ngành nhằm nâng cao năng lực chuyên môn tạo ra những tác
phẩm nghệ thuật có giá trị về nội dung. Một số tác giả đã khẳng định mình trong
các Cuộc thi, Liên hoan như: Tác giả Đàm Sơn đạt giải A trong đợt xét tặng giải
thưởng VHNT Hoàng Văn Thụ năm 2009; tác giả Mã Thế Anh đạt giải B trong
đợt xét tặng giải thưởng VHNT Hoàng Văn Thụ năm 2009; tác giả Nguyễn Tiến
Thắng đạt giải B trong đợt xét tặng giải thưởng VHNT Hoàng Văn Thụ năm
2009; tác giả Nguyễn Xuân Tiến đạt giải C trong đợt xét tặng giải thưởng VHNT
Hoàng Văn Thụ năm 2009; tác giả Vũ Kiên Cường đạt giải C trong đợt xét tặng
giải thưởng VHNT Hoàng Văn Thụ năm 2009; tác giả Đinh Huy Tưởng đạt giải
Nhất cuộc thi sáng tác VHNT của tỉnh kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí
Hoàng Văn Thụ năm 2009; tác giả Lưu Minh Dân đạt giải Ba Cuộc thi ảnh nghệ
thuật du lịch Toàn quốc lần thứ V năm 2010, ...
Về lĩnh vực Âm nhạc - Sân khấu:
+ Về sáng tác: Các nhạc sĩ đóng góp cho phong trào nhiều tác phẩm mới,
ca ngợi quê hương đất nước, các tác phẩm được dàn dựng tham gia các Liên
hoan, Hội diễn ngành, tỉnh và Trung ương.
+ Về Biểu diễn: Hiện nay tỉnh Lạng Sơn có duy nhất 01 Đoàn nghệ thuật
chuyên nghiệp trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý. Hàng năm
123
Đoàn nghệ thuật tỉnh thực hiện được trên 100 buổi biểu diễn phục vụ nhân dân,
nhất là nhân dân vùng sâu, vùng x, biên giới.
3. Công tác phối hợp phát động, tổ chức các cuộc thi:
Trong những năm gần đây, hai cơ quan gồm Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch và Hội Văn học nghệ thuật tỉnh luôn có sự phối hợp chặt chẽ trong việc phát
động tổ chức các Cuộc thi, các đợt sáng tác và công bố phổ biến tác phẩm văn
học nghệ thuật. Tính từ năm 2009 đến nay, 2 ngành đã phối hợp thực hiện gần 15
cuộc phát động sáng tác, tổ chức các đợt triển lãm chuyên đề; các ngày thơ, hội
thơ như:
Năm 2009: Phối hợp tổ chức Cuộc thi sáng tác văn học nghệ thuật về “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; sáng tác văn học nghệ thuật
chào mừng kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội”. Phối hợp tổ chức Giải
thưởng Mỹ thuật thiếu nhi tỉnh Lạng Sơn các năm 2009, 2010, 2011, 2012. Phối
hợp phát động cuộc thi sáng tác văn học nghệ thuật về chủ đề kỷ niệm 100 năm
đồng chí Hoàng Văn Thụ (04/11/1909 -04/11/2009). Kết quả: Có 71 tác giả tham
gia với 138 tác phẩm thuộc các thể loại khác nhau, Ban tổ chức chấm và trao giải
cho 32 tác phẩm của 29 tác giả với các thể loại: Văn xuôi, Ca khúc, Mỹ thuật,
Nhiếp ảnh, thơ, kịch bản văn học.
Năm 2010: Phối hợp phát động Cuộc thi sáng tác văn học nghệ thuật về
chủ đề kỷ niệm 100 năm đồng chí Lương Văn Tri (17/8/1910-17/8/2010). Kết
quả: Có 110 tác giả tham gia đợt phát động, với 160 tác phẩm và 310 bài viết.
Ban tổ chức đã chấm và trao giải cho 29 tác phẩm. Tổ chức Lễ phát động cuộc thi
viết về gương “Người tốt, việc tốt” thu được 50 tác phẩm, trong đó có 17 tác
phẩm được Hội đồng nghệ thuật xét chọn trao giải thưởng.
Năm 2011: Phối hợp tổ chức phát động Cuộc vận động sáng tác ca khúc
viết về tỉnh Lạng Sơn nhân dịp chào mừng kỷ niệm 180 năm ngày thành lập tỉnh
(04/11/1831- 04/11/2011). Kết quả: Có 154 tác phẩm của 112 tác giả tham
gia.Ban tổ chức đã mời các nhạc sỹ có danh tiếng của Trung ương thực hiện
chấm, lựa chọn trao giải nhất, nhì, ba, khuyến khích cho 18 tác phẩm.
Năm 2012: Phối hợp xây dựng Kế hoạch phát động hưởng ứng Giải thưởng
sáng tác quảng bá các tác phẩm văn học nghệ thuật, báo chí về chủ đề “Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2011 -
2015; Phát động hưởng ứng sáng tác văn học nghệ thuật về “Nông nghiệp, nông
dân, nông thôn”...v.v..
Ngoài ra 2 ngành còn phối hợp tổ chức tốt các hoạt động Triển lãm về văn
học nghệ thuật nhân dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn của tỉnh, của đất nước như: Tổ
chức triển lãm Hội báo xuân; Triển lãm ảnh nghệ thuật chào mừng 120 năm ngày
sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh; Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Hoàng Văn
Thụ, 100 năm ngày sinh đồng chí Lương Văn Tri. Triển lãm “Thành tựu Mỹ
thuật, nhiếp ảnh Lạng Sơn 10 năm đầu thế kỷ XXI”. Đặc biệt năm 2012 đã phối
hợp đăng cai tổ chức thành công Triển lãm Mỹ thuật khu vực III Tây Bắc - Việt
Bắc lần thứ 17 tại Lạng Sơn..v.v.
124
II. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. M t được:
Nhìn chung, từ khi thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ chính trị về
tiếp tục xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới và các Nghị
quyết, chỉ thị khác của Trung ương và của tỉnh, hoạt động Văn học Nghệ thuật
trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn có nhiều chuyển biến rõ rệt; luôn được cấp ủy, chính
quyền, các ban ngành đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở quan tâm, tạo điều kiện chăm lo
phát hiện, bồi dưỡng và phát huy các tài năng văn học, nghệ thuật để các văn
nghệ sỹ tỉnh nhà từng bước phát triển và đáp ứng nhu cầu thời kỳ mới.
Hoạt động Văn học nghệ thuật Lạng Sơn từng bước phát triển mạnh mẽ, đa
dạng về đề tài, nội dung, loại hình, phương pháp sáng tác. Các văn nghệ sỹ chịu
khó đi sâu tìm tòi, sáng tạo sáng tác nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị
tư tưởng và nghệ thuật cao, thể hiện khát vọng và tư tưởng lớn, tâm hồn cao đẹp
của dân tộc trong tình hình mới, vừa có tác dụng định hướng, vừa đáp ứng nhu
cầu văn hoá - tinh thần ngày càng cao của nhân dân.
2. Hạn chế:
Việc triển khai một số chương trình, kế hoạch hoạt động của Hội Văn học
Nghệ thuật tỉnh đôi khi còn chậm, hiệu quả chưa cao.
Tạp chí Văn nghệ Xứ Lạng tuy đã được cải tiến về nội dung và hình thức
tăng từ 32 trang lên 64 trang song về cơ bản vẫn chưa có sự đổi mới mang tính
bứt phá. Nguyên nhân cơ bản là thiếu tác phẩm - những tác phẩm thật sự chất
lượng của chính các hội viên gửi tới.
Cơ sở vật chất của tỉnh dành cho phát triển sự nghiệp văn học nghệ thuật
còn thiếu hoặc chưa thực sự đảm bảo đủ về số lượng, chất lượng như: Phòng làm
việc của Hội Văn học nghệ thuật; chưa có trụ sở Trung tâm triển lãm văn học
nghệ thuật tỉnh.v.v.
Kinh phí hỗ trợ sáng tạo công trình Văn học Nghệ thuật chưa kịp thời, còn
thiếu để chi cho hoạt động chuyên môn.
III. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
1. Đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Liên hiệp các Hội Văn học
nghệ thuật Việt Nam tiếp tục quan tâm, giúp đỡ, hỗ trợ tỉnh Lạng Sơn trong sự
nghiệp phát triển văn học nghệ thuật của tỉnh.
2. Đề nghị trung ương tiếp tục tăng cường nâng cao mức kinh phí cho Quỹ
hỗ trợ sáng tạo văn học nghệ thuật; có các cơ chế chính sách ưu tiên hỗ trợ, động
viên, khuyến khích cho tài năng là người dân tộc thiểu số thuộc tỉnh miền núi,
trong đó có Lạng Sơn.
Trên đây là một số ý kiến phát biểu tham luận với Hội nghị của Sở văn hóa,
thể thao và du lịch Lạng Sơn.
Trân trọng cảm ơn sự lắng nghe của quý vị đại biểu. Chúc Hội nghị thành
công tốt đ p !
125
05 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 23-NQ/TW
CỦA BỘ CHÍNH TRỊ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Sở VHTTDL TP Đà Nẵng
Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục xây
dựng và phát triển văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới” có ý nghĩa vô cùng quan
trọng hướng tới mục tiêu xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, nhằm phát huy vai trò, sứ mệnh cao quý của văn học, nghệ thuật và
của đội ngũ văn nghệ sĩ.
Được sự chỉ đạo của Thành ủy và Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng, Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành phố Đà Nẵng đã chủ động tham mưu cho
UBND thành phố triển khai nội dung thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ
Chính trị và phối hợp với Liên hiệp các Hội VHNT thành phố Đà Nẵng tổ chức
nhiều hoạt động trên lĩnh vực văn học nghệ thuật và đã đạt được những kết quả
thiết thực.
Ngày 23/10/2008, Thành ủy Đà Nẵng ban hành Chương trình hành động số
29-CTr/TU về thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị
“về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ đổi mới”.
Ngày 03/4/2009, UBND thành phố Đà Nẵng ban hành Kế hoạch số
1991/UBND-VX triển khai chương trình hành động của Thành ủy Đà Nẵng về
thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị “về tiếp tục xây dựng và phát
triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”.
1. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Bám sát yêu cầu và nội dung chỉ đạo của Thành uỷ, UBND thành phố Đà
Nẵng, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã triển khai Kế hoạch thực hiện Chương
trình hành động số 29 Ctr/TU của Thành ủy Đà Nẵng tại văn bản số
392/SVHTTDL-NVVH ngày 27/2/2009 về việc phối hợp với Liên hiệp các Hội
VHNT thành phố Đà Nẵng tổ chức Lễ ký kết “Kế hoạch phối hợp công tác giữa Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch với Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật thành phố
Đà Nẵng các năm 2009-2010”; “Chương trình phối hợp công tác giữa Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch và Liên hiệp các Hội VHNT thành phố Đà Nẵng giai đoạn
2012-2015”, nhằm đưa Nghị quyết đi vào thực tế và triển khai có hiệu quả.
Sau 05 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 23 của Bộ Chính trị, thành
phố Đà Nẵng đã đạt được một số thành tích cụ thể như sau:
Đã tổ chức thành công nhiều chương trình văn hóa nghệ thuật cấp thành phố,
khu vực và toàn quốc; tham mưu để trình UBND thành phố về cơ chế, chính sách
đãi ngộ nghệ sĩ; phối hợp với Liên hiệp các Hội VHNT đề xuất lập nguồn vốn
ban đầu cho Quỹ Sáng tạo văn học, nghệ thuật; đề xuất UBND thành phố Đà
Nẵng xem xét chủ trương xây dựng Nhà sáng tác; phối hợp triển khai kế hoạch
chuẩn bị xây dựng Bảo tàng Mỹ thuật thành phố; hoàn thiện cơ chế chính sách
126
nhằm tăng cường vai trò của văn nghệ sĩ; thường xuyên trao đổi và thống nhất
trong việc đề xuất và kiến nghị với lãnh đạo thành phố đối với vấn đề phát triển
văn hóa, văn học, nghệ thuật của địa phương…
Tổ chức, duy trì nhiều hoạt động nhằm phát huy vai trò của văn học, nghệ
thuật và của đội ngũ văn nghệ sĩ thành phố như: Tham mưu tăng mức kinh phí
hoạt động hàng năm cho Liên hiệp các Hội VHNT và các Hội chuyên ngành; Tổ
chức xét giải thưởng VHNT 5 năm 1 lần cho các văn nghệ sĩ xuất sắc: Trong đợt
trao giải thưởng 5 năm giai đoạn 2004 -2009, thành phố đã trao 53 giải thưởng trị
giá 1 tỷ 300 triệu đồng; Phối hợp tổ chức nhiều hoạt động VHNT tiêu biểu: Tổ
chức 115 cuộc triển lãm, trưng bày mỹ thuật, nhiếp ảnh, văn học và báo chí trong
những dịp lễ lớn được tổ chức tại Đà Nẵng, thu hút hàng vạn lượt người xem qua
các Triển lãm chuyên đề khá quy mô như: “Bình chọn Quốc hoa Việt Nam”,
“101 khoảnh khắc về vị Tướng huyền thoại Võ Nguyên Giáp”, “Các Di sản văn
hoá thế giới tại Việt Nam năm 2011”...Tất cả các hoạt động đã tạo nên môi
trường thẩm mỹ tốt, phục vụ đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Tổ chức
các chuyến đi thực tế, tham gia các trại sáng tác, các liên hoan khu vực...
Đặc biệt trong năm 2012 hoạt động VHNT trên địa bàn thành phố có nhiều
khởi sắc, với nhiều hoạt động để lại dấu ấn đậm nét như:
- Sở VHTTDL tham mưu cho UBND thành phố ban hành Đề án “Phát triển
VHNT thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2013-2015” làm cơ sở nền tảng và đề ra các
mục tiêu dài hạn, cũng như mục tiêu cụ thể để từng bước triển khai thực hiện và
góp phần phát triển VHNT thành phố, với những mục tiêu cụ thể như:
+ Đến năm 2015 đảm bảo số bản sách trong thư viện công cộng là 0,6
bản/người.
+ Đảm bảo đến năm 2015, bình quân số lượt người dân thành phố được xem
biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp là 4 lượt/người/năm, riêng đối với nhân dân
các xã vùng sâu, vùng xa và miền núi của huyện Hoà Vang là 2 lượt/người/năm.
+ Phát hành 01 đĩa DVD giới thiệu những ca khúc hay về Đà Nẵng vào năm
2013.
+ Tổ chức Cuộc thi sáng tác ca khúc về thành phố Đà Nẵng 2012- 2013.
+ Giai đoạn 2013-2015 tổ chức 02 đợt giới thiệu, phổ biến tác phẩm VHNT.
+ Đến năm 2015, đảm bảo 100% đội ngũ làm công tác quản lý nhà nước về
văn học nghệ thuật nắm rõ Luật bản quyền tác giả về văn học nghệ thuật, 80%
người dân Đà Nẵng hiểu biết về Luật bản quyền tác giả về văn học nghệ thuật.
+ Từng bước xã hội hóa các show diễn phục vụ khách du lịch tại Nhà hát
tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh và Bảo tàng Điêu khắc Chăm.
- Hoạt động của Cơ quan thường trực Liên hiệp Hội và các Hội chuyên
ngành ngày càng đi vào nề nếp, chuyên nghiệp với nhiều hoạt động chất lượng và
thường xuyên hơn như: Tổ chức các đợt sáng tác và triển lãm mỹ thuật; các cuộc
triển lãm ảnh nghệ thuật gắn với nhiều sự kiện chính trị của đất nước, thành phố;
127
Tổ chức bản thảo và xuất bản nhiều đầu sách thuộc các lĩnh vực âm nhạc, sân
khấu, văn học, nghiên cứu văn hóa nghệ thuật.
+ Công tác đầu tư, khuyến khích sáng tạo VHNT cũng rất được quan tâm:
Liên hiệp Hội đã đầu tư nguồn hỗ trợ sáng tạo văn học nghệ thuật của Trung ương
cho 15 tác giả và 21 công trình tập thể với số tiền trên 700 triệu đồng để các tập
thể, cá nhân cũng các hội chuyên ngành thuộc Liên hiệp Hội có điều kiện thực
hiện tốt, phổ biến tác phẩm đến với đông đảo công chúng trong và ngoài thành
phố và nâng cao chất lượng sáng tác cho hội viên.
Chính vì vậy, năm 2012 đã để lại nhiều dấu ấn về sự phát triển đi lên của
VHNT thành phố Đà Nẵng:
- Đội ngũ văn nghệ sĩ của thành phố vinh dự được Chủ tịch nước phong tặng
danh hiệu cao quý: Trao 8 Giải thưởng Nhà nước, 2 Nghệ sĩ Nhân dân, 12 Nghệ
sĩ Ưu tú cho các văn nghệ sĩ thành phố.
- Nhiều văn nghệ sĩ thành phố đạt nhiều giải thưởng cao trong nước, quốc tế,
khu vực tại các kỳ liên hoan, các cuộc thi như: tác phẩm Minh Sư đạt Giải A của
Hội Nhà Văn Việt Nam; tập thơ Nắng trên đồi đoạt giải C của Liên hiệp các Hội
Văn học-Nghệ thuật Việt Nam; 2 Giải C Cuộc Ảnh xuất sắc quốc gia của Hội
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam, Huy chương đồng quốc tế; Giải C tại Triển lãm Mỹ
thuật khu vực, Huy chương đồng khu vực; Giải A trong đợt xét Giải thưởng Âm
nhạc khu vực miến Trung.
2. NHỮNG KHÓ KHĂN, TỒN TẠI
Bên cạnh những mặt đạt được, còn tồn tại một số hạn chế do cả những
nguyên nhân chủ quan và khách quan, như sau:
- Kinh phí đầu tư cho sáng tạo văn học nghệ thuật gặp khó khăn, từ đó có
ảnh hưởng đến các hoạt động chung, nhất là khâu đi thực tế sáng tác, phổ biến tác
phẩm, tổ chức các sự kiện, đời sống văn nghệ sĩ có nhiều khó khăn, chế độ chính
sách đối với cán bộ, công chức, viên chức cơ quan Văn học, nghệ thuật có chỗ
chưa hợp lý.
- Việc xã hội hóa các hoạt động văn học nghệ thuật trong thời gian qua có
những bước chuyển biến. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hội chuyên ngành chưa năng
động, vẫn trông chờ vào nguồn kinh phí từ nhà nước, chưa chú trọng đến công tác
xã hội hóa để nâng cao hoạt động văn học nghệ thuật phục vụ công chúng.
- Một số hoạt động văn học nghệ thuật tổ chức chưa ngang tầm, còn đơn
điệu, một phần cũng bởi nguồn kinh phí quá ít, từ đó dẫn đến hạn chế các hoạt
động.
- Một số nội dung phối hợp triển khai để trình Ủy ban nhân dân thành phố
Đà Nẵng nhưng chưa được phê duyệt, cần phải tiếp tục thực hiện và hoàn thiện
như: Quỹ sáng tạo VHNT, xây dựng Nhà sáng tác và một số cơ chế chính sách
nhằm nâng cao đời sống cho văn nghệ sĩ….
- Một số chương trình phối hợp tổ chức các hoạt động văn hóa, nghệ thuật
chưa đảm bảo chất lượng và đáp ứng được quy mô. Nguyên nhân chủ yếu do
128
nguồn kinh phí thiếu, chưa tập hợp được anh em văn nghệ sĩ có chuyên môn và
tâm huyết với nghề….
- Sự phối hợp giữa các sở, ban, ngành trong quá trình thực hiện chưa có sự
đồng thuận cao, chưa thấy rõ sự đóng góp của văn nghệ sĩ trong việc góp phần
quảng bá thành phố Đà Nẵng trong các diễn đàn trong nước và khu vực.
- Vẫn còn tồn tại quan niệm cho rằng đầu tư cho lĩnh vực văn học nghệ
thuật là đầu tư cho một ngành hoạt động hành chính như các ngành khác chứ
chưa phải đầu tư cho một sự nghiệp, một lĩnh vực hoạt động đa dạng, đa ngành,
mang tính đặc thù.
- Việc tạo điều kiện khuyến khích sáng tạo, do khó khăn về kinh phí nên
nhiều dự kiến về tổ chức các hoạt động phục vụ trực tiếp cho việc sáng tạo như đi
thực tế, giao lưu học hỏi kinh nghiệm, tổ chức trại sáng tác, tổ chức trưng bày,
công bố tác phẩm…còn hạn chế, khó tạo nên tác phẩm có tầm, mang tính khái
quát cao, trong khi hiện thực cuộc sống đã xuất hiện những vấn đề mới mẻ cần
được phản ánh, khái quát bằng hình tượng nghệ thuật…
3. GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ
- Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch TP Đà Nẵng sẽ tiếp tục phối hợp với
Liên hiệp các Hội VHNTTP tập trung triển khai có hiệu quả Nghị quyết 23-
NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị “về tiếp tục xây dựng và phát triển văn
học, nghệ thuật trong thời kỳ đổi mới” thông qua “Chương trình phối hợp công
tác giữa Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Liên hiệp các Hội VHNT thành phố
Đà Nẵng giai đoạn 2012-2015” và Đề án “Phát triển Văn học Nghệ thuật thành
phố Đà Nẵng giai đoạn 2013-2015”.
- Tiếp tục đề xuất những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể mang tính khả thi để
thực hiện các nhiệm vụ đã nêu và đưa Nghị quyết vào cuộc sống.
- Xây dựng cơ chế đầu tư phù hợp và thích đáng đối với các hoạt động văn
học nghệ thuật thành phố như đã đầu tư ở các lĩnh vực khác.
- Quan tâm, đầu tư cho các hoạt động văn học nghệ thuật, chế độ chính
sách với văn nghệ sĩ thành phố, trong đó cần có sự khen thưởng kịp thời để động
viên các văn nghệ sĩ sáng tạo. Về các cuộc giao lưu văn hóa trong và ngoài nước,
việc “chiêu hiền đãi sĩ”, thu hút nhân tài văn hoá nghệ thuật thành phố cũng cần
được quan tâm như đối với các lĩnh vực giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ và
các lĩnh vực kinh tế xã hội khác. Đây là những nội dung mang tính chiến lược cần
phải đầu tư.
- Quan tâm hơn nữa đến việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống thiết chế văn
hoá cấp quận, huyện và cơ sở để đáp ứng yêu cầu hoạt động. Đội ngũ cán bộ
chuyên môn về VHNT ở cấp cơ sở và cấp quận, huyện còn thiếu và yếu cần phải
quan tâm đào tạo thêm.
- Tăng kinh phí hoạt động cho Liên hiệp các Hội VHNT để Hội thực hiện
được các nhiệm vụ chính trị và đề nghị có cơ chế cho tạm ứng kinh phí để triển
khai kịp thời các hoạt động.
129
- Tiếp tục đổi mới, phát triển lĩnh vực nghiên cứu, lý luận, phê bình văn
học - nghệ thuật, mở rộng giao lưu với nước ngoài. Xây dựng đội ngũ văn nghệ sĩ
thành phố ngang tầm với yêu cầu mới.
- Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Liên hiệp các Hội
VHNT thành phố và các Hội chuyên ngành./.
130
VĂN HỌC NGHỆ THUẬT THỪA THIÊN HUẾ
TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN XỨNG TẦM LÀ TRUNG TÂM
VĂN HÓA DU LỊCH ĐẶC SẮC CỦA VIỆT NAM
Sở VHTTDL Thừa Thiên Huế
Cùng với những thành tựu của công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế, xã hội
và những thành tựu của văn học nghệ thuật cả nước trong những năm qua, văn
học nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã có những đóng góp tích cực, có nhiều chuyển
biến mới trên nhiều lĩnh vực đáng ghi nhận. Các thế hệ văn nghệ sỹ đã gắn bó,
đoàn kết, vững vàng về tư tưởng chính trị, khắc phục khó khăn để sáng tác nhiều
công trình, tác phẩm văn học nghệ thuật phản ánh một cách sâu sắc, chân thực
những giá trị lịch sử dân tộc, khát vọng của nhân dân trong đời sống xã hội.
Với ý thức trách nhiệm công dân, với bản lĩnh năng động sáng tạo, lực
lượng văn học nghệ thuật đã cùng với nhân dân có những cống hiến mới, góp
phần xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ Tổ quốc. Trong
những năm qua nhiều giải thưởng lớn trong và ngoài nước, nhiều đợt phong tặng
danh hiệu nghệ sĩ, huy chương đã được trao tặng cho nhiều tác phẩm, tác giả ở
Thừa Thiên Huế đã minh chứng sự phát triển lớn mạnh của văn học nghệ thuật
tỉnh nhà.
Trên lĩnh vực văn học đã tổ chức nhiều hoạt động văn học có ý nghĩa như:
giao lưu với các nhà văn, nhà thơ thuộc các Hội VHNT các tỉnh; tổ chức lễ kỷ
niệm ngày sinh các đại văn hào thế giới; gặp gỡ làm việc giao lưu với nhiều đoàn
nhà văn nước ngoài đến thăm Huế; phối hợp xuất bản nhiều bộ sách có giá trị,
công bố tác phẩm của hội viên. Đặc biệt trong các kỳ Festival Nghề truyền thống
Huế và Festival Huế, Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế đã phối hợp với Tạp chí Sông
Hương tổ chức nhiều hoạt động văn học nghệ thuật tạo được ấn tượng tốt trong
dư luận.
Hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp và nghệ thuật quần chúng ngày càng
phát triển. Trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế có 2 đơn vị đào tạo nghệ thuật là
Học viện Âm nhạc Huế và Trường Trung học Văn hóa nghệ thuật, 2 nhà hát công
lập là Nhà hát Nghệ thuật Ca kịch Huế và Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống Cung
đình Huế, 6 đơn vị doanh nghiệp tổ chức biểu diễn nghệ thuật theo phương thức
xã hội hóa đã không ngừng sáng tạo, dàn dựng, khôi phục nhiều tác phẩm và tổ
chức biểu diễn. Các diễn viên, nghệ sỹ đã tham gia tích cực vào chương trình
nghệ thuật phục vụ nhiệm vụ chính trị, trong những dịp lễ kỷ niệm những ngày lễ
lớn của tỉnh, các chương trình tuyên truyền về biển đảo Tổ quốc, các chương
trình Festival Huế, chương trình Giao lưu văn hóa, đặc biệt là các chương trình
trong Năm Du lịch Quốc gia Duyên hải Bắc Trung bộ - Huế 2012; các chương
trình của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng như giao lưu nhiều nước trên thế
giới như: CHLB Nga, CH Pháp, Nhật Bản ... Đội ngũ biên đạo múa trẻ được đào
tạo ngày càng phát triển đông đảo hơn. Các loại hình Nhã nhạc Cung đình Huế
(được UNESCO công nhận là Kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu đại diện của
131
nhân loại); múa hát Cung đình, lễ nhạc Cung đình, Tuồng Huế, Ca Huế, Ca kịch
Huế đã và đang được quan tâm khôi phục và phát triển. Nhiều tiết mục, chương
trình đặc sắc đã được giới thiệu với công chúng trong và ngoài nước qua các đợt
sinh hoạt văn hóa, các hoạt động phục vụ các ngày kỷ niệm, ngày lễ lớn của đất
nước. Vở ca kịch Huế “Hồ Chí Minh- Hồi ức màu đỏ” của Nhà hát Nghệ thuật Ca
kịch Huế đã bám sát đề tài học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
được đông đảo công chúng hào hứng đón nhận; đạt nhiều giải thưởng cấp quốc
gia và nhiều bằng khen, của Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch, Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế. Đội ngũ nghệ sỹ, diễn viên
chuyên nghiệp ở Thừa Thiên Huế ngày càng phát triển, trong đó lực lượng của 3
nhà hát công lập có trên 300 cán bộ, diễn viên. Đến nay toàn tỉnh có 25 nghệ sỹ
được phong tặng Nghệ sỹ ưu tú, 2 nghệ sỹ được phong tặng Nghệ sỹ nhân dân.
Tại các lễ kỷ niệm các ngày lễ lớn của dân tộc, các Festival Huế và Năm
Du lịch Quốc gia Duyên hải Bắc Trung bộ - Huế 2012 ... hoạt động âm nhạc cũng
đã tích cực đóng góp cho sự thành công chung của tỉnh và thành phố Huế. Nhiều
chương trình tổ chức biểu diễn và giới thiệu tác phẩm mới được thực hiện với sự
phối hợp với Trung tâm Truyền hình Việt Nam tại Huế, Đài Phát thanh Truyền
hình tỉnh, một số chương trình chất lượng cao được tường thuật trực tiếp trên
sóng VTV, TRT, HTV.
Các hoạt động văn nghệ dân gian đã đi vào cuộc sống và thực hiện Nghị
quyết TW5 (Khóa VIII) của Đảng về việc "Xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc". Tỉnh Thừa Thiên Huế đã hỗ trợ Hội
VNDG và nhà nghiên cứu Triều Nguyên ra mắt bộ “Tổng tập Văn nghệ dân gian
Thừa Thiên Huế”, gồm 6 tập. Nhiều bài viết về những kết quả sưu tầm, nghiên
cứu mới nhất, phần lớn do hội viên của Hội thực hiện đã được nhiều người chú ý.
Về kiến trúc: Bên cạnh các kiến trúc sư có kinh nghiệm công tác quản lý,
sáng tác đã có đông đảo kiến trúc sư trẻ năng động, nắm bắt nhanh kỹ thuật công
nghệ mới, có ý thức học tập nâng cao nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của cuộc sống và xã hội. Nhiều đồ án do các kiến trúc sư sáng tác đã để lại
nhiều ấn tượng tốt trong công chúng, nhiều tác phẩm đã được thể hiện ở một số
công trình kiến trúc tiêu biểu. Một số hội viên tham gia và đã đạt giải cao trong
các lần tham gia giải thưởng VHNT hằng năm.
Về hoạt động Nhiếp ảnh: Thừa Thiên Huế đã có những thành tích đáng kể
và đạt được nhiều giải cao trong nước và quốc tế. Nhiều lượt tác giả được đầu tư
cấp trung ương. Qua các kỳ Festival, Nhiếp ảnh TT. Huế đã có những nỗ lực
trong việc tổ chức các cuộc thi và triển lãm đã tạo được nhiều ấn tượng tốt đẹp
trong công chúng; qua đó nổi lên những gương mặt hội viên tiêu biểu tiếp tục
khẳng định vị trí của mình trên lĩnh vực nghệ thuật nhiếp ảnh. Thông qua việc
tham gia các cuộc liên hoan ảnh nghệ thuật 6 tỉnh Bắc Miền Trung, Liên hoan
Ảnh Nghệ thuật khu vực lần thứ 9 hoạt động nhiếp ảnh Thừa Thiên Huế đã khẳng
định được vị trí hàng đầu của mình trong khu vực.
Hoạt động Mỹ thuật Thừa Thiên Huế: Đã tổ chức nhiều hoạt động góp
phần xây dựng nền Văn học và Nghệ thuật của tỉnh và có nhiều kết quả được
đánh giá cao trong giới mỹ thuật của cả nước và dư luận công chúng yêu nghệ
132
thuật. Không khí sáng tác trong hội viên được duy trì liên tục, đạt nhiều kết quả,
nhiều tác giả giữ vững tay nghề và niềm hứng khởi sáng tác. Nhiều cuộc triển lãm
được duy trì hằng năm, nhiều trại sáng tác địa phương đã được tổ chức, đặc biệt
là các trại sáng tác Điêu khắc quốc tế, Điêu khắc dân gian trong các kỳ Festival
Huế đã thành công tốt đẹp, để lại nhiều tác phẩm có giá trị trưng bày hai bên bờ
sông Hương. góp phần tô điểm làm đẹp Cố đo Huế. Hoạt động tổ chức triển lãm
ngày càng mở rộng, thu hút nhiều cơ quan, đơn vị, tổ chức tham gia. Các cơ quan
như: Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế, Bảo tàng Lịch sử và Cách mạng
tỉnh, Trường Đại học Nghệ thuật Huế, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, Phòng Giáo
dục và Đào tạo thành phố Huế, các tổ chức như Trung tâm Văn hóa Pháp tại Huế,
Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán cũng đã phối hợp tổ chức nhiều cuộc
trưng bày, triển lãm.
Trung tâm Nghệ thuật Lê Bá Đảng, Nhà trưng bày tác phẩm Nghệ thuật
Điềm Phùng Thị là hai cơ sở nghệ thuật thường xuyên đổi mới trưng bày, đáp
ứng nhu cầu tham quan du lịch và phục vụ các đối tượng đến học tập, nghiên cứu.
Cơ sở Nghệ thuật không gian mới (New Space Art Foundation) là đơn vị tư nhân
đã tổ chức nhiều cuộc trưng bày, triển lãm cho các tác giả trẻ tạo bầu không khí
hoạt động mỹ thuật khá mới lạ, sôi nổi trên địa bàn, thể hiện rõ hoạt động xã hội
hóa trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật.
Tạp chí Sông Hương từng bước nâng cao chất lượng cả về hình thức lẫn nội
dung, hoàn thành tốt nhiệm vụ xuất bản tạp chí định kỳ đóng góp cho sự phát
triển văn học nghệ thuật của tỉnh; đồng thời mở rộng giao lưu, trao đổi phê bình
lý luận văn học nghệ thuật, trở thành một tạp chí chuyên ngành có giá trị và có uy
tín đối với giới văn học nghệ thuật trong và ngoài nước.
Liên tục trong nhiều năm, Hội LHVHNT đã phối hợp với Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch, Sở Giáo dục Đào tạo, Nhà Thiếu nhi Huế, Trung tâm Thanh
Thiếu nhi tỉnh, Tỉnh Đoàn, Thành Đoàn Huế, UB Dân số Gia đình và Trẻ em
tỉnh, Phòng Văn hóa Thông tin Thành phố Huế tổ chức thành công các trại sáng
tác thiếu nhi của thành phố Huế và các huyện, mở triển lãm chuyên đề định kỳ
hằng năm dành cho thiếu nhi có hoàn cảnh khó khăn và khuyết tật.
Hoạt động giao lưu trao đổi các loại hình VHNT với nước ngoài đã có
nhiều tiến bộ. Nhiều hội viên Hội Nhà văn, Hội Sân khấu, Hội Múa đã được đi
công tác, trao đổi văn hóa, biểu diễn nghệ thuật truyền thống ở các nước Trung
Quốc, Mỹ, Nhật, Pháp, Bỉ, Nga, Hàn Quốc ... Giới Nhiếp ảnh, Mỹ thuật đã gởi
nhiều tác phẩm mỹ thuật triển lãm quốc tế, nhiếp ảnh đi dự thi. Một số tác giả đã
được giải thưởng cao trong một số cuộc thi ảnh nghệ thuật quốc tế. 5 năm qua,
LH các Hội VHNT tỉnh đã đón nhiều đoàn văn nghệ sĩ của Pháp, Mỹ, Trung
Quốc, các Hội VHNT trong nước đến thăm và làm việc tại Huế. Nổi bật là các
trại điêu khắc quốc tế tại Huế đã thu hút nhiều nghệ sĩ điêu khắc từ 5 châu lục.
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tổ chức nhiều hoạt động trong các
Festival Huế, trong Năm Du lịch Quốc gia duyên hải Bắc Trung bộ - Huế 2012
như: Liên hoan Sân khấu kịch chuyên nghiệp toàn quốc, Liên hoan Nhạc cụ
truyền thống các dân tộc Việt Nam, Liên hoan Hợp xướng quốc tế, các Ngày hội
văn hóa các dân tộc, Lễ hội truyền thống Đền huyền Trân…; các triển lãm văn
133
hóa tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Phú Thọ, Nghệ An, Đà Nẵng; sưu tầm,
quy hoạch các tác phẩm nghệ thuật, các khu tượng đài làm tăng giá trị văn hóa
cho Thành phố Huế.
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật
tỉnh Thừa Thiên Huế đã xây dựng kế hoạch liên ngành tổ chức thực hiện và phối
hợp thực hiện một số hoạt động hằng năm, được ghi nhận và đánh giá cao, như:
- Phối hợp với BCH Hội Mỹ thuật Việt Nam tổ chức thành công “Hội thảo
Mỹ thuật khu vực Bắc miền Trung lần thứ I năm 2012”; trong khuôn khổ Chương
trình ký kết phối hợp hoạt động VHNT các vùng kinh đô Việt Nam xưa và nay
giai đoạn 2010 - 2015; chương trình Nhã nhạc Cung đình Huế tại đêm giao lưu và
hơn 200 đầu sách của các hội viên Thừa Thiên Huế trưng bày tại Trung tâm
Trưng bày- Triển lãm thành phố Việt Trì, nhân dịp giỗ tổ Hùng Vương năm 2012
tại Phú Thọ đã để lại ấn tượng mạnh mẽ đối với văn nghệ sĩ và những người hoạt
động VHNT các tỉnh bạn cũng như du khách thăm quan; phối hợp với Trung tâm
Hỗ trợ sáng tác- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức Trại sáng tác VHNT tại
Đà Lạt và đã tổ chức triển lãm các tác phẩm sáng tác tại trại tạo ấn tượng đối với
văn nghệ sĩ và công chúng.
- Phối hợp tốt việc phát động phong trào sáng tác hưởng ứng tích cực học
tập và làm theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh như thi tranh cổ
động, sáng tác văn thơ, kịch về đề tài này và tổ chức trưng bày, xuất bản những
tác phẩm hay, tốt; phối hợp tổ chức Triển lãm Mỹ thuật Mùa Xuân và Phòng
tranh Con Giáp; phối hợp tổ chức Ngày Thơ Việt Nam và Đêm Nguyên Tiêu
hàng năm; phối hợp tham gia Triển lãm Mỹ thuật 6 tỉnh khu vực Bắc Miền
Trung; Hội Âm nhạc phối hợp với Sở VHTTDL thực hiện thành công chương
trình nghệ thuật nhân ngày Âm nhạc Việt Nam, Liên hoan Âm nhạc Bắc miền
Trung, và các hoạt động phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương. Liên hiệp
các Hội Văn học Nghệ thuật đã phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ
chức thành công nhiều chương trình văn hóa, nghệ thuật nhân dịp Đại lễ 1000
năm Thăng Long-Hà Nội, Năm Du lịch quốc gia duyên hải Bắc Trung bộ- Huế
2012.
Để tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 23 NQ-TW của Bộ Chính
trị về hoạt động văn học nghệ thuật của địa phương trong tình hình mới, tỉnh
Thừa Thiên Huế đã đề ra chủ trương và ban hành các nghị quyết, chương trình
hành động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa Huế; đồng thời tiếp tục đẩy mạnh
sáng tác các tác phẩm văn học, nghệ thuật; nâng cao chất lượng biểu diễn nghệ
thuật có sức lôi cuốn đối với công chúng; quan tâm đối với hoạt động lý luận văn
học nghệ thuật, cố gắng theo kịp thực tiễn sáng tác; xây dựng cơ chế, chính sách
đối với các hoạt động văn học nghệ thuật, với các nghệ sỹ; xây dựng, củng cố
thiết chế văn hoá; tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động văn
học nghệ thuật. Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế trong những năm qua đã
đồng hành và đã không tách rời với sự đổi mới, phát triển của đất nước, của tỉnh.
Tốc độ tăng trưởng về kinh tế, xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã làm thay
đổi diện mạo vùng đất Thừa Thiên Huế là thực tiễn sinh động góp phần nâng cao
nhận thức quan điểm, tư tưởng của giới văn nghệ sĩ trong hoạt động sáng tạo.
134
Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế tiếp tục quán triệt tinh thần Nghị
quyết 23- NQ/TW của Bộ Chính trị và các nghị quyết của Tỉnh ủy Thừa Thiên
Huế, phát triển văn hóa văn nghệ theo đúng định hướng, đảm bảo các mục tiêu cơ
bản: Truyền thống - Dân tộc - Hiện đại; phục vụ công cuộc xây dựng đất nước và
góp phần xây dựng Thừa Thiên Huế xứng tầm là trung tâm văn hóa và du lịch đặc
sắc, thành phố Festival đặc trưng của Việt Nam; xây dựng Thừa Thiên Huế sớm
trở thành thành phố trực thuộc Trung ương./.