lư thắng ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư · pdf file15/...
TRANSCRIPT
1
Lư Thắng Ngạn văn tập 048 –
Chứng ngộ của thượng sư.
Mục lục
1/ Tiết lộ thiên cơ ( thay tựa )
2/ Đổi thay của không gian
3/ Quán đảnh của bác sĩ.
4/ Xã bỏ những cái đáng xả bỏ.
5/ Giải thoát của tử vong.
6/ Khuếch trương của tịnh tọa là tâm linh
7/ Âm chú là sinh mạng của hà lưu
8/ Trân quý của đời người là triết học.
9/ Biểu tướng bạc bái.
10 /Tu bát quan trai giới pháp
11/ Đổi thay nghiệp lực
12/ Sư tử trùng ăn sư tử thịt
13/ Nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất
14/ Quán tưởng bái Phật pháp.
15/ Bất đắc bất sát sanh.
16/ Ngày 18 tháng 5 năm 34 ( dân quốc ) giờ ngọ
17 / Mạn Đạt đạt ma
18 / Tiếp thu pháp lực của thí luyện
19 / Hảo hợp của thần tính.
20 / Tinh thần của đàn tràng
21/ Sổ tức quán tâm yếu
22/ Sự cố của người tăng Ấn Độ
23/ Nhập vào tâm lý tam ma địa
24/ Như ý bảo châu
25/ < Mật Lạc Nhật Ba > là thiên ma bám thể?
26 / Tổ sư thật tu 12 năm
27 / Thiên nhân ấn chứng < mật lạc nhật ba >
28 / Phản bổn hoàn nguyên < mật lạc nhật ba >
29 / Tôn kính chân xuất gia thánh chúng
30 / Đạt mã bồ đề ấn chứng < mật lạc nhật ba >
2
32/ Minh biện của thị phi trắng đen
33/ Bác bỏ luận điệu của < Đông Quân > .
34/ Thiển dịch căn bản mật giáo 14 đại giới
35/ Tương ứng của Liên Hoa Sanh Đại Sĩ
36 / Quang huy của họ Lư
37 / Tiểu sanh bình của thượng sư Thổ Đăng Đạt Kiết
38 / Tương ứng của < linh tiên phi hồng pháp >
39 / Tương ứng của < thượng sư tương ứng pháp >
40 / < siêu độ pháp hội > xuất hiện kỳ cảnh
41/ Sự thật của quy y tương ứng và dự ngôn thật tướng
42/ Xuất gia tăng nhân cầu quy y
43/ Khai thị của thượng sư tổ Đăng Đạt Kiết
44/ Đọc < thiên hạ ký văn ký >
45 / Đọc< thiên hạ kỳ văn >của hồi hưởng.
3
001 Tiết lộ thiên cơ (thay tựa)
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 Chứng ngộ của thượng sư )
Trụ trì của chùa Phật Chuyên ở huyện Đài Nam trấn Tân Hóa đã từng
nói với đệ tử tôi tên là < Liên Bái > cảnh giới của Lư Thượng Sư rất
cao, nhưng Lư thượng sư tiết lộ quá nhiều thiên cơ, tất yếu phải 4 đời
sau mới có thể thành Phật. Nếu Lư thượng sư lại tiếp tục tiết lộ thiên
cơ, không những 4 đời sau, mà sợ rằng phải thêm nhiều đời mới có thể
thành Phật được.
Liên Bái đệ tử tôi rất kính trọng trụ trì chùa Phật Chuyên, ông đến Mỹ
ở Tây Nhã Đồ, là để nói với tôi về chuyện kiến nghị của chủ trì chùa
Phật Chuyên.
Sau khi tôi nghe xong, trong lòng rất cảm kích, tôi thừa nhận hôm nay
sách phát hành của tôi là có tiết lộ thiên cơ, là đem cơ mật trên trời
hoàn toàn không bảo lưu lại mà viết trên sách giấy, cho tất cả loài
người trên thế gian, hiểu được sự tồn tại huyền cơ của thượng giới, tiết
lộ hết đại bí mật của vũ trụ.
Dùng mật tôn mà nói, mật pháp gọi là < trang nghiêm bí mật >.
Truyền mật pháp là một chuyện rất quan trọng, có cái có thể nói, cũng
có cái không thể nói, mật giáo Tam Già đại giới đối với một số mật
pháp, như < bất cộng pháp> chỉ đơn độc truyền một người, không
được tuyên nói với những người tu luyện chưa thành thục, nếu như nói
với những người chưa thành thục này là phạm mật giáo căn bản đại
giới.
Nhưng mà, sau khi tôi ở Mỹ tu luyện một năm, đắc chứng dung nhập <
tiểu vũ trụ > và < đại vũ trụ >, hoàn toàn tỉnh thức được linh năng dưới
cột sống của tiềm thức, sau khi đề thăng được đỉnh luân, đắc chứng
sanh mạng bổn năng có thể tự nhiên tương dung với bổn tâm thượng
trên vũ trụ, hối quy tỳ lô tánh hải, đạt thành được hỷ duyệt tam ma địa
hợp nhất, nhận thức được chân chính bản thể vũ trụ, Phật của < Chân
không hiện hữu > đạo gia của < đạo >, tất cả các mật pháp nhất thông
là trăm thông.
Cho nên, tôi vĩnh viễn bảo hữu được < hỷ duyệt > chi lưu, vì từ bi
chúng sanh nên không do dự đem tất cả cảm ứng đắc chứng của đạo lý,
4
hoàn toàn không giấu giữ mà công bố, sự thật đó là tiết lộ thiên cơ,
nhưng mà nếu tôi không tiết lộ thiên cơ, thiên hạ chúng sanh làm sao
được khải mông, làm sao được lợi ích, làm sao đắc lộ? Tôi là vì từ bi
chúng sanh, mới chịu đem thiên đại của vô tận thiên cơ nói ra cho thế
giới chúng sanh biết, tất cả đắc đạo của cao tăng đều vì < Hồng Quán
Thanh Miện Kim Cang Thượng Sư Liên Sanh tôn giả> lo lắng mà thôi,
tất cả pháp sư, thượng sư đều lo lắng cho tôi, tôi rất cảm tạ, nhưng tôi
là vì < nhất đại nhân duyên > mà ra đời, nếu tôi không tiết lộ thiên cơ,
thì không ai dám tiết lộ thiên cơ. Hôm nay những người đọc được sách
của tôi, mà không đắc được khải mông, là chân chính minh ngoan bất
hóa, không thuốc cứu được.
< Lư thượng sư tiết lộ thiên cơ, không được thành Phật, phải qua nhiều
đời, mới có thể thành Phật >
< Lư thượng sư tiết lộ thiên cơ, phải vào địa ngục, chịu khổ chịu nạn >
Tôi phát tâm vì từ bi chúng sanh, thà tôi phát đại nguyện đời đời kiếp
kiếp ở tại thế gian, đến khi chúng sanh đều thành Phật, tôi mới thành
Phật, thà tôi thân ở địa ngục, chịu khổ chịu nạn, tan xương nát thịt,
giống < Đại Nguyện Địa Tạng Vương >, địa ngục còn, thề không
thành Phật; Hôm nay tôi tiết lộ thiên cơ, tôi phạm giới cũng là vì
chúng sanh phạm giới, tôi không phải vì bản thân, mà là vì thiên hạ
chúng sanh mà phạm trọng giới < tiết lộ thiên cơ >, tôi chịu khổ chịu
nạn đều không sao, nếu xả thân mình mà độ được nhiều người, một
đời sanh mạng của tôi rất có ý nghĩa, chúng sanh đều nhập giới thiên
nhân chỉ có ta ở lại trong địa ngục, đó là cam tâm tình nguyện.
Trong quyển < thượng sư chứng ngộ > này, tôi tự nhiên lại tiết lộ thiên
cơ, đồng thời tôi nói những phương pháp khai ngộ, những phương
pháp này là tôi từng trải, là tri kiến của tôi, không phải chép gom tri
thức người ta, tôi đem chứng ngộ bản thân cực khổ tu luyện cho mọi
người, đó là tôi chí công vô tư, xin đọc giả hiểu được khổ tâm của tôi,
khi tôi viết những sách này, đều không tự chủ nước mắt chảy ròng
5
ròng trên khuôn mặt, đó là vì chúng sanh rơi nước mắt từ bi, xin mọi
người đọc sách tôi đừng tin tưởng vào tôi, mà là tin tưởng sau lưng của
< chí thượng ý thức > là < Phật > cũng là < Đạo >.
Đường tu luyện, phải từ mỹ đức của khiêm tốn, ôn hòa, thuần chân,
chân thành, hằng tâm …. mà bắt đầu, đó là đạo đức làm người cơ bản
nhất, giữ ngũ giới thập thiện, đều là con đường tu luyện, bái giả sùng
kính của Cơ Đốc Thiên Chúa, tức là y theo pháp tắc cơ bản nhất của
thiên đạo mà nhập, trước mắt tín đồ thiên chúa cơ đốc giáo của các
nước trên thế giới đều đi theo trên con đường này. Trong Phật pháp tu
luyện, gọi < cần kính của nhập thiên đường >, trong Du Già phái, danh
xưng là Ba Khắc Đế Du Già, tức là kích phát tinh thần lực đang ẩn tại
còn đỉnh luân, phương pháp Du Già thất trọng luân, đạt đến thiên nhân
hợp nhất của tam ma địa, Thật tu của phương pháp này có thể kết < xá
lợi tử > không có phương pháp này không đạt được cảm ứng thần
thông, cũng không nhập được Tỳ Lô tánh hải, không thể hội được cá
nhân và thiên nhân chí thượng kết hợp của cảnh giới hợp nhất, đó là ấn
chứng của <tọa thiền thông minh thiên tâm đại pháp >
Tu luyện pháp trước mắt, lại có la xà du già, xưng là vương giả du già
và linh tánh du già, là một tổng hợp tu luyện tánh, trong phương diện
này, tôi đã chứng ngộ rất nhiều rất nhiều.
Hiện tại, tôi đã phá luân hồi rồi, phá nhân quả rồi, có thể tự chủ sanh
tử, minh tâm kiến tánh rồi, thân tôi đạp đất quang minh, cũng có được
sinh mạng chân mỹ và vĩnh hằng, tất cả chấp ngã đã buông bỏ hết,
từng trải qua hỷ lạc lớn nhất của đời người, tôi là một vị thượng sư
chân chính linh tánh.
Vậy thì để mọi người cùng hưởng < chứng ngộ > của tôi, hãy xem <
thiên cơ > tháng 12/1983 tại USA ở Linh Cát Tây Nha Đồ.
Địa chỉ Lư Thắng Ngạn kim cang thượng sư
Sheng – Yen Lu
6
17102 NE 40 THCT
REDONDWA 98052
USA
002 Đổi thay của không gian
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư )
Khi mới đến được nước Mỹ ở Tây Nha Đồ, cuộc sống của tôi là trong
tĩnh lặng, suốt cả ngày một cái điện thoại cũng không, không một đệ tử
nào đến thăm, tôi an tịnh mà ẩn trú ở đó, tu luyện tịnh tọa. Nên như
vậy, Liên Hoa Sanh Đại Sĩ, hiển hiện trong thiền định của tôi, tinh
thần lực của tôi đã cường hóa rồi, trong lúc tu luyện, Chuẩn Đề Bồ Tát
tán thán tôi < tâm tánh thanh tịnh >.
Có vị phu nhân Hồng Diền Mậu, thấy chúng tôi như vậy, lên tiếng
than rằng:
< Lư thượng sư đến nước Mỹ, thật đáng tiếc >
< Tại sao đáng tiếc ?>
< Ở trong nước, Lư thượng sư có rất nhiều đệ tử tháp tùng, được vô
cùng tận cúng dường, ra đường có xe hơi đời mới đến đón, mỗi ngày
ăn cơm tại quán nổi tiếng, sinh hoạt vô ưu, muốn tiền có tiền, muốn
danh có danh, bây giờ toàn bộ buông bỏ, không phải đáng tiếc sao ?>
Hồng phu nhân nói như vậy.
Tôi thì im lặng không nói, trong lòng tôi nghĩ: < Người thế tục, làm
sao biết được tâm của hành giả ?>
Còn nhớ Phật Bồ Tát khai thị cho tôi: Liên Sanh, ông phải một mình
bước đi tương lai của đời người, ông không những đắc được tri thức
trên thế giới, ở phương tây nước Mỹ, ông đi đến đâu, trong những
ngày này, ông phải tu luyện để làm một đặc thù của linh tánh tịnh tọa,
ông nhất định phải rời khỏi tất cả tùy tùng, ông phải không tham cúng
7
dường, không tham thức ăn ngon, không tham danh lợi, toàn bộ tất cả
trong nước đều phải xả bỏ.
Tôi làm theo ý chí của Bồ Tát, xả bỏ chúng đệ tử tùy tùng, cô độc như
cách ly thế gian, ẩn trú tại ngôi nhà cũ ở góc phía tây bắc Tây Nhã Đồ,
ngày qua ngày, tôi mỗi ngày tu luyện tịnh tọa, gấp 3 lần tôi tu luyện
khi còn ở trong nước, sau cùng tôi chứng ngộ được.
Giống như Hồng phu nhân và rất nhiều đệ tử, hoàn toàn không hiểu
được tại sao Lư thượng sư phải rời bỏ địa vị tôn quý, danh vọng rất lớn,
cúng dường vô cùng tận, tự mình đến một nơi không ai biết được, từ
nơi sáng chói mà trở về bình đạm để tu luyện bản thân, khai thị của Bồ
Tát là như vậy, những cám dỗ của thế tục có thể nuốt cả tâm của người
tu hành, tất cả của cải thế tục có thể dung hóa được linh tánh, một
thánh giả từng trải qua cám dỗ của địa vị, danh vọng, đồng tiền, mỹ
sắc mà có thể xả bỏ, mới là chân chính không bị ảnh hưởng tâm bất
động của thánh giả.
Đổi thay của không gian, tôi biến thành không ai cúng dường, ở nơi
này cũng không ai biết tôi, không có xe hơi để đi, không có cúng
dường tặng y vật, ngày 3 bữa, đời sống của tôi giống như những người
nghèo, tôi không tùy tiện xài đồng tiền, nhưng mà trong giai đoạn này
thân tâm tôi tĩnh tọa, trong suốt cuộc đời này đây là giai đoạn tu luyện
cao phong nhất, cách tuyệt thế tục, sinh hoạt linh tịnh, cách biệt quốc
nội quốc ngoại, tất nhiên khiến tinh thần tôi hiểu rõ được giá trị của
linh tánh, trực tiếp mở rộng được thể nghiệm của linh giác.
Những gì tôi đắc được, đâu phải người thế tục có thể tưởng tượng
được, hiện tại tôi có cảm giác toàn thế giới đều ở dưới chân tôi, tôi là
người giàu nhất toàn thế giới, ở trên thiên giới, tôi đắc dược hỷ duyệt
vô cùng tận, tinh thần của tôi có là siêu việt thế gian, tôi là phú ông
linh tánh.
8
Thấy rõ được cám dỗ của người thế tục, mới có tư cách làm phú ông
linh tánh, mới có thể dạy được người khác đạt đến thành tựu.
Có người hỏi tôi: < Lư thượng sư, tại sao xả bỏ chúng tùy tùng ?>
< Vì muốn liễu ngộ, vì muốn tu luyện >
< Tu luyện lại là vì cái gì ?>
< Chỉ có người không chịu nhận cám dỗ thế tục, mới không sợ hãi để
đi đến con đường này, tu luyện này là nhất đẳng đại sự của thiên hạ,
đem dục vọng chuyển hóa thành linh tánh, đó là bản tâm của vũ trụ
chân chính vĩnh hằng, chúng ta vì minh tâm kiến tánh, sanh tử tự chủ,
như vậy mới có thể chân chính về đến trung tâm của vũ trụ mà thành
đại tự tại.>
Tôi biết, có rất nhiều người biết được phương diện tri thức này, có rất
nhiều người hiểu rõ tu hành là một việc tốt, nhưng tu hành không phải
lý luận, hoàn toàn là phải thật tu, cơ bản mà nói chỉ có phương diện tri
thức này là không đủ, bạn phải tìm được một vị thượng sư chân chính
mà học tập, nỗ lực để từ ràng buộc mà đắc được giải thoát, tôi cho
rằng mục đích của thật tu mật pháp, tức là từ ràng buộc của thế tục,
chứng được thiên cơ ở trên thiên giới.
Tu hành của linh tánh, là có rất nhiều người thành tựu, tu hành mật
pháp, là từ thế tục đến con đường linh tánh, cũng tức là đem những cái
hữu hạn biến thành vô hạn, đem tiểu vũ trụ của bản thân, dung nhập
thiên tâm cảnh giới của đại vũ trụ, đó tuyệt đối không phải là bái thần
mê tín, mà là một thứ trong khoa học của khoa học, trong triết học của
triết học.
Hiện tại, tôi càng tiết kiệm mục tiêu, càng ngày càng hỷ duyệt, tôi là
người giàu có nhất trong thiên địa, có ai biết được tôi là người giàu có
chân chính nhất, tôi vĩnh viễn bảo trì giác tánh, chấp ngã càng ít, lực
lượng tinh thần càng thêm kiên cường, tôi đã từ đường sanh tử luân
hồi bay đến vĩnh hằng bất hủ.
9
Thay đổi của không gian, khiến tôi giải thoát được, tôi càng đồng tình,
có những mê hoặc vào ái tình của pháp chấp ngã, có những người
muốn kiếm thêm rất nhiều tiền, có những người theo đuổi nhu cầu dục
vọng, địa vị, những dục vọng chấp ngã trân châu và kim cương, những
vật dụng chấp này, là chướng ngại lớn nhất của việc tu hành linh tánh.
Thượng sư tôi, là muốn mọi người trong tu hành mật pháp, đem dục
vật chuyển hóa thành linh tánh, từ trong ngu muội mà tỉnh giác chuyển
biến thành thần tánh tối cao nhất.
003 Quán đảnh của bác sĩ
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư )
Ngày 22 tháng 8 năm 1983 ở bang Ái Hòa Hoa của nước Mỹ có một
thạc sĩ tên là Thái Thiện Cẩn và phu nhân là Bàng Thế Nghi lái xe 4
ngày đến Hoa Sinh Tuân ở Tây Nha Đồ của nước Mỹ để thọ quán
đảnh quy y, thạc sĩ Thái Thiện Cẩn từng dạy đại học ở Singapore, sau
đó đến Canada, cuối cùng làm giám đốc cố vấn kỹ thuật tại công ty Ái
Hà (JOHNDEERE PRODUCT ENGNEERING CENTER), ông Thái
là thạc sĩ khống chế máy móc tự động, cũng tức là chuyên gia thiết cơ
máy móc.
Thạc sĩ Thái Thiện Cẩn và phu nhân quy y quán đảnh, khiến thạc sĩ ở
Linh Tiên cát quán đảnh quy y tăng lên hơn trăm người, đó là hiện
tượng bất thường, và cũng là hiện tượng bình thường. Tôi không nói
bình thường, vì dùng cặp mắt của thế tục mà nhìn, chúng thạc sĩ là nhà
khoa học, sao lai phải quy y tín ngưỡng tôn giáo vô hình, nhưng tôi lại
nói bình thường, tại vì nhà khoa học sau khi nghiên cứu đến chỗ thâm
cao, càng phát hiện vĩ đại của tâm linh.
Nhà khoa học chân chính đều hiểu rõ ràng, thế giới điện tử dưới kính
hiển vi, là một thế giới kỳ diệu, nhân loại của chúng ta phải hiểu rõ
được những tinh vi của thế giới vật chất, vẫn là có giới hạn, khoa học
phát minh vật chất, càng phát hiện sư chân thật của vật chất, nhưng sau
10
lưng của chân thật, lại ẩn tạng bất khả trách (chí thượng ý thức) tổ
chức tinh thần của thế giới tâm linh.
Các thạc sĩ nói: Thế giới vật chất là một thứ nghệ thuật phẩm, là
đường hoàng phú lệ. Nhưng thế giới tâm linh là tinh thần của nghệ
thuật phẩm, vật chất là hàng mẫu tạm thời của thế gian, nhưng tinh
thần có thể siêu việt thời không, hằng thường vô hạn mà tồn tại. Cho
nên những động vật hạ cấp chỉ là hưởng thụ những vật dục của vật
chất thế gian. Còn chân chính tu dưỡng linh tánh, là khẳng định tinh
thần tối thượng bên trong, như vậy mới là vĩnh cửu của hỷ duyệt, đắc
được chí huệ chân chính.
< Làm thạc sĩ có phiền não không ?>
< Có > thạc sĩ Thái nói: < người Tây phương vẫn có một tâm lý kỳ thị
đối với người Đông phương, chức vị của tôi rất cao, công ty biết tôi là
chuyên gia nhân tài. Nhưng mà người Tây Phương chấp ngã ưu tú của
họ, trong phương diện thăng cấp vẫn cho họ là ưu tiên đệ nhất, có
những thạc sĩ người Tây rõ ràng là kém hơn một bậc, nhưng họ vẫn
chiếm được một chỗ rất quan trọng, đó là phiền não.>
Tôi nói với ông ta: < Chỗ nào có người là có thị phi, người Tây
phương thường đem những ưu việt làm vũ khí tự vệ, thật ra không
phải chỉ người Tây Phương mới như vậy, nhân loại toàn thế giới đều
không phải như vậy sao, trong phương diện tu dưỡng linh tánh của anh,
là nhận biết thật tướng của bản tánh nhân loại ở thế gian, khiến cho
nhân tánh của thế tục được đến bước điểm của tâm bất động, như vậy
thì không có phiền não.> < Anh cho rằng có thập toàn thập mỹ
không ? > tôi hỏi
< không có > thạc sĩ trả lời.
< ở người có trí tuệ mà nhìn, trên thế gian này không có người toàn mỹ,
mà không có tốt tuyệt đối, mà tuyệt đối cũng không có không tốt,
chúng ta là người tu dưỡng linh tánh, nhận biết được điểm này, sẽ biết
11
được quá trình của đời người là một thứ trưởng thành, chỉ cần biết làm
thế nào đi thích ứng và ứng dụng là được, học được nhân sinh triết học
cao độ, có thể tịnh quán triết học đều tự đắc, tâm có thể tịnh lại, cũng
là trên nhân cách thành thục, như vậy sẽ không có những phiền não
này.>
Thạc sĩ Thái Thiện Cẩn nghe rồi rất vui mừng, còn phu nhân Bàng Thế
Nghi nguyên là giảng sư của trường đại học Phụ Nhân, đã từng đi bái
kiến ông chủ nhiệm Diệp Mạn ở sở nghiên cứu của Ấn Độ, bà thâm tín
Phật pháp, chủ nhiệm Diệp Mạn nói với bà: < học Phật giống như
uống nước, nóng lạnh tự biết, tự nhiên tất cả biết rõ> Bàng Thế Nghi
cho rằng, bây giờ thật là đúng lúc.
Tôi dùng quán đảnh bình cho vợ chồng thạc sĩ Thái, giảng giải rất tỷ
mỹ: pháp tu trì của < Chân Phật tông Quán Thế Âm Bồ Tát > đặc biệt
tôi giảng cách cúng dường, làm sao kiết thân ấn, làm sao quán tưởng,
làm sao niệm chú ngữ, làm sao nhập tam ma địa, cái gì là tam nghiệp
chuyển tam mật, tường trình tỷ mỷ mà giải thích nói.
Thạc sĩ Thái quy y quán đảnh, tôi có lĩnh ngộ được vài điểm:
Thiền định cũng là một thứ khoa học, chú ngữ là một thứ âm thanh của
âm luật học, thủ ấn là tượng trưng hành động học của một thứ thân thể
du già và nhập tam ma địa, tức là tâm linh của giác tánh, là khoa học
của nhân tánh, ngoại trừ linh tánh của tu luyện, lại cộng thêm khoa học
thực tế của người xử thế.
Mỗi một người, ngoại trừ những người bị vật dục nuốt chửng, đều bảo
hữu linh minh của cái tâm, không cần biết ngu muội hoặc là người quá
thông minh, đều có lực lượng linh tánh của họ, chỉ cần học tập những
thứ mật pháp, sẽ có thể giải thoát được ràng buộc, mật pháp của tôi
chính là có lực lượng phương diện này, tu luyện mật pháp này, không
giống như trong thế tục cầu thần mạc bái, cho nên căn bản không phải
12
là mê tín, đem tu luyện xem thành mê tín, đó là những người không
biết công phu mật tông.
Mật pháp là một đề thăng của tâm linh, trực tiếp thức tỉnh < linh minh
lực lượng > của đời người, con người bởi do chấp lấy những vật chất
hữu hình của thế gian, < linh minh lực lượng > sẽ không xuất hiện.
Nếu như không chấp lấy những vật dục, thì có thể mượn tu luyện để
mà thức tỉnh những lực lượng thần tánh này, đó là trong khoa học của
khoa học.
Tôi viết ra một bài thơ hiện đại:
Vũ trụ tức là vĩnh cửu của chân ngôn.
Hỷ duyệt chi lưu là một thứ vĩnh cửu của đinh ninh.
Hiến lên bông hoa vô nhân quả.
Cuối cùng hiểu được chân giác chân tướng
Chứng ngộ! A ! chứng ngộ
Chúng ta hiển hiện linh quang hỏa hoa của Phật.
13
004 Xả bỏ những cái phải xả bỏ
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư )
Một pháp sư ở Golden Gate của nước Mỹ, dẫn theo vài đệ tử Hằng
Quán và Hằng Thanh đến Tây Nhã Đồ, tôi cũng dẫn theo đệ tử tôi
Trần Tước Viên, Tào Nhân Kiệt và đệ tử người Mỹ Khải Luân, mọi
người gặp mặt lần đầu, Pháp sư cho tôi một tấm danh thiếp, trên đó in
< Chủ tịch tổng giáo hội Trung Mỹ, Kim Sơn Thiền tự, Như Lai tự,
Kim Luân tự tổng trụ trì, hiệu trưởng đại học Pháp Giới Phật giáo,
viện trưởng viện quốc tế dịch kinh.>
Độ Luân pháp sư tại Vạn Phật thành hoằng truyền Phật pháp, tôi ở Đài
Loan đã nghe đến đại danh của pháp sư, nhưng đến ngày 15 tháng 7
năm 1983 lúc 10 giờ đêm tôi mới chính thức gặp được lão pháp sư này,
Độ Luân pháp sư vừa thấy tôi đã cười lộ ra 2 hàm răng nói: < tôi đã
biết ông từ lâu, Lư Thắng Ngạn, thạc sĩ Tạng Quảng Ân và Từ Dật
Quân ngày ngày cũng giới thiệu cho tôi, họ rất cung kính anh, nói anh
giỏi thế này, thế kia… Hôm nay gặp mặt nhau đó là duyên phận,
chúng ta không gặp nhau tại Đài Loan, cũng không gặp tại Golden
Gate, mà là gặp tại Tây Nhã Đồ, thật là kỳ diệu.
Tôi nhắc đến Phùng Phùng, Độ Luân pháp sư nói: < tôi đã từng mời
ông ấy đến Vạn Phật thành, hồi ổng còn sống, chúng tôi đồng thọ giới.
Tôi nhắc đến Phổ Phương thượng sư, Độ Luân pháp sư nói: < người
này tôi không quen biết > tiếp lại nói: < có người nói với tôi, khi Phổ
Phương pháp sư đang viết truyền lược của Tịch Quang pháp sư, nhắc
đến Độ Luân pháp sư ở Golden Gate là sư cháu của Tịch Quang đại
pháp sư, thật ra tôi và Tịch Quang pháp sư là đồng thời thọ giới, làm
sao lại biến thành cháu, còn Phổ Phương pháp sư lại là đồ đệ của Tịch
Quang, vậy tôi biến thành hậu bối của Phổ Phương thượng sư, người
này biết được danh tiếng của Vạn Phật thành ở Mỹ, danh tiếng của Độ
Luân, ông ấy là mượn danh này, biến thành sư chú của tôi.>
Tôi nghe xong, chưng hửng không lên tiếng.
14
Độ Luân pháp sư lại nói: < Lược truyền của Phổ Phương pháp sư, tôi
không thừa nhận cũng không phủ nhận, ông ấy lớn hơn tôi, tôi là cháu
ông ấy cũng không đủ tư cách.>
Giữa Tịch Quang đại pháp sư, Độ Luân đại pháp sư, Phổ Phương
thượng sư, tôi từng quy y Phổ Phương thượng sư học pháp Chuẩn Đề,
tính ra đại pháp sư Tịch Quang là sư ông của tôi, đại pháp sư Độ Luân
là đại sư mà tôi kính ngưỡng, nhưng mà giữa vai vế của họ có vấn đề,
tôi không hiểu ai phải ai quấy, ai thật ai phi, tôi cũng không rõ ràng,
nói chung về vấn đề vai vế, phải truy từ động Thiên Phật huyện Thấp
tỉnh Sơn Tây bắt đầu từ Mậu Chi đại sư ra đời mới có thể phán quyết
được, cho nên tôi nghe được sự việc này, chỉ có ngồi yên bất động,
không nói một lời.
Do vấn đề vai vế, khiến tôi nghĩ đến vấn đề < tự đại chấp ngã >, tôi
cảm thấy vai vế lớn nhỏ cùng với <linh tánh > hoàn toàn là hai sự việc,
một người xuất gia, nếu tự cho vai vế lớn, có tâm tự đại, vô tình sẽ
đem bản thân mình cô lập lại, nếu thường hay cho rằng vai vế mình
lớn, không tìm được lương sư học tập chính pháp, câu chuyện của vãn
bối cũng không nghe được, vô tình do tự tại, sẽ đem đến chướng ngại
tu luyện < linh tánh >.
Tôi biết có những người xuất gia, tôi không phải nói pháp sư Tịch
Quang, thượng sư Phổ Phương, Độ Luân pháp sư, trên thật tế có
những người tu hành có ngạo mạn, danh tiếng càng lớn càng có sân
niệm, tâm đố kỵ rất nặng, hay khinh khi người, tôi phân tích nguyên
nhân này, biết được những người này, tuy rằng xuất gia, xả bỏ hưởng
thụ thế tục, xả bỏ đời sống hôn nhân, thậm chí xả bỏ tiền tài, nhưng
còn một thứ vẫn không xả bỏ là < tham luyến danh tiếng > giống
những đại pháp sư tự cậy thân phận, ai cũng không đi thăm hỏi, người
học pháp không nên như vậy, chúng ta phải biết, khiêm tốn có lợi, kiêu
ngạo vô ích.
15
Sau khi cá nhân tôi chứng đắc, đem tất cả hưởng lạc của thế tục xả bỏ
hết, tiền tài, danh tiếng tôi đều xả bỏ, tôi tuy rằng là chủ Chân Phật
tông, hồi xưa thầy giáo của tôi đều là vai vế tổ sư, nhưng tôi không tự
cậy thân phận, tôi vẫn chính thức quy y với nhiều pháp sư thượng sư,
vẫn lễ kính tất cả pháp sư thượng sư, có pháp sư không hiểu tôi: < Sao,
Lư Thắng Ngạn sao lại có thể bái sư ?>
Chân Phật tông đệ tử hỏi tôi: < Thượng sư, có thật vậy không ?>
Tôi thật sự nói với đệ tử và độc giả, đúng là có thật, suốt đời tôi, nếu
không sống được hơn 90 tuổi, sớm chứng được lục đại thần thông,
minh tâm kiến tánh, tự chủ sanh tử, nhập tam ma địa, cùng Tỳ Lô tánh
hải tạo thành một, đắc được cảnh giới niết bàn, tôi có thể sẽ quy y 20
vị pháp sư, tại vì chỉ cần có pháp sư thật có pháp, là tôi phải học, tôi
nguyện quy y, bằng lòng lễ bái, nguyện cúng dường, tôi sẽ xem như vị
Phật tôn kính và đảnh lễ, tôi hoàn toàn đem < vai vế danh tiếng > xả
bỏ hết.
Vai vế như vậy không phải loạn sao ? Tôi nói: < vai vế và tôi không
can dự gì ?>
Con người tôi nếu đã phát nguyện rồi, chúng sanh thành Phật, tôi mới
thành Phật, những chúng sanh đều là Phật, tôi gặp chúng sanh, chúng
sanh đều là thầy tôi, cái này có gì không đúng. Tôi là tôn chủ của Chân
Phật tông, lại bái người ta làm sư, đó là tôi xả bỏ danh tiếng, chứng
minh tốt nhất xả bỏ.
Tôi chứng ngộ cái gì ? Tôi đã chứng ngộ < danh tiếng là huyễn, vai vế
cũng là huyễn > tôi sống đến già, học đến già, nếu không tới cảnh giới
này, vĩnh viễn không cách nào hiểu rõ.
16
005 Giải thoát của tử vong
(Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư )
Tại Tây Nhã Đồ có một người đàn bà rất đẹp đến tìm tôi, tôi chú ý ở
mặt tuy rằng ngũ quan rất thanh tú, nhưng ở giữa lông mày có một
luồng khí rất nồng, khí này màu đen, đó là khí tượng trưng chết yểu tử
vong, đồng thời 2 mắt sưng đỏ, trong lòng có oán hận giận dữ bất bình,
tâm lý của người phụ nữ này không bình hằng.
Quả nhiên như tôi phán đoán: gia đình bà bất hòa, sự nghiệp không ổn,
nghiêm trọng nhất là mùa hè năm nay, phải đối mặt với chảy máu và
tử vong, hình như tôi thấy xe bà ta nằm ngã bên đường, một cây sắt rất
bén đâm vào bụng bà ta, tôi ý thức trước mắt người đàn bà này đã đối
mặt với tử thần, nhưng bà ta vẫn không biết, bà ta quan tâm là sự
nghiệp của bà, mà tôi thì quan tâm bà ta đang đối mặt với sinh tử.
< Bà tin Phật không ?> tôi hy vọng Phật có thể giải thoát tử vong của
bà.
< tôi cái gì cũng không biết >
< mỗi buổi tối thứ 7 chịu đến nghe tôi thuyết pháp không ? Mỗi ngày
chịu tu trì pháp một lần không ?>. Mỗi tuần thứ sáu, học trò của tôi
đều đến nghe pháp.< xem thử coi > bà ta nói.
Nói thật tôi không muốn bà ta biết tin tử vong, nhưng mà tôi lập tâm ý,
tôi phải cứu bà ta, tôi hy vọng bởi do sự giải thoát của tử vong mà
được tín tâm, tôi ngăn chặn tử vong của bà ta, khiến bà ta tin Phật,
nhưng mà tôi vẫn biết, muốn khiến người đàn bà này toàn tâm tin Phật
tu pháp, đương nhiên là chuyện rất khó khăn, biết là khó khăn nhưng
cũng phải thử.
Tôi dùng 3 phương pháp, giúp bà ta giải thoát.
Thứ 1, dùng bùa hộ thân của Chân Phật tông cho bà ta đeo.
17
Thứ 2, tại nơi < phản cung > lập < thái sơn thạch cẩm đương >. Do bởi
được gọi là < phản cung > là danh từ địa lý, sẽ sanh hình tượng địa lý
hung sát.
Thứ 3, truyền cho pháp tu trì Chuẩn Đề Bồ Tát của Chân Phật tông,
phải sớm chiều tu trì.
Tôi vì gia đình bà ta được viên mãn mà quan tâm, vì sự nghiệp gia
đình bà ta mà quan tâm, và vì sắp vào sinh tử mà lo sợ không ngừng.
Tôi hỏi Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh:
< bà ta không chết được mà >
< đúng, bà ta đã không chết được, nhưng anh lại tổn phí khí lực >
< con không hiểu ý thầy, tổn phí khí lực là sao?>
< đến kết quả sau cùng, tự nhiên anh sẽ hiểu >
< con thất bại sao ?>
< không được thừa nhận thất bại >
Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh nói: < điều kiện căn bản là cứu người, là
giác ngộ của hoài tâm, người chứng ngộ phải nhận nhục tất cả mạ
nhục, không những một lần, mà là vô số lần, mà là không phải một
ngày mà chấm dứt.>
Mùa hè 1983, khi bà ấy đang lái xe, vừa đổ đầy bình xăng, lúc từ trạm
xăng ra, một chiếc xe chạy với tốc độ rất nhanh đến ngay trước mặt,
trong chớp mắt đầu của 2 chiếc xe đụng vào nhau, không phải đầu và
đuôi xe đụng nhau, mà là giữa 2 đầu xe đụng vào nhau, chiếc xe quay
khúc rất nghiêm trọng, mặt kiếng bể nát, toàn thể cửa xe, đầu xe tất cả
đều bị vỡ nát, chỉ có người là duy nhất không bị thương, nhưng mà bà
ta cũng đã nếm thử mùi vị gặp tử thần, chịu một lần đụng độ kinh
hoàng, may mắn nhất là trầy da cũng không.
18
Thành công rồi, trong tâm tôi rất vui mừng, rốt cuộc đã tránh được <
sanh tử sắp đến>. Tôi chuẩn bị chúc mừng bà ta thoát chết sống lại.
Xảy ra đụng xe của tuần đầu tiên thứ 7, bà ta không đến nghe pháp.
Xảy ra đụng xe của tuần thứ hai của ngày thứ 7, bà tà đến.
Tôi nghĩ, tu trì hộ thân bùa lệnh, Thái Sơn Thạch Cẩm Đăng, Chuẩn
Đề Phật Mẫu, có thể khiến bà ta tin tưởng có < Phật >, có thể giúp bà
ta tăng trưởng niềm tin không thể dao động, đem chú trọng vị lai của
tâm tánh mà tu trì ở mặt linh tánh. Tại vì sinh mạng của con người rất
yếu đuối, một khi chết, tất cả đều không, mọi thứ hữu hình toàn bộ đều
là không.
< tôi không muốn tu > bà ta nói
< tại sao ?> tôi ngạc nhiên
< tu rồi, kết quả là xảy ra đụng xe, tu pháp như vậy có ý nghĩa gì, bà ta
nói.
< nhưng mà đây là bất hạnh của đại hạnh, người bình thường cuối
cùng cũng tránh được đại nạn >
Bà ta không nói gì hết.
Sau cùng tôi chứng ngộ được dự ngôn của Cửu Hầu Tam Sơn tiên sinh,
muốn chân chính đi hiểu rõ mật tôn pháp không phải dễ dàng, có những
người đối với mật pháp không dễ dàng hiểu rõ, đối với tu luyện chân
chính tinh thần bên trong họ không hiểu được, hiểu lầm ý nghĩa của tu
pháp và cho rằng mục đích của ý nghĩa tu pháp là chiếu cố bản thân và
đạt được vật dục mãn nguyện, và mục đích này là hẹp hòi của bản thân
cá nhân và lợi ích thế tục, như buôn bán phát đạt, thân thể an khang,
tình cảm thuận lợi, có rất nhiều hưởng thụ …
Có một chuyện ngoài ý, bà ta cho rằng Phật không có phù hộ bà ta, tín
tâm hoàn toàn thối lui. Thật ra tu trì Phật Mẫu Chuẩn Đề của bà ta, còn
chưa đến một tháng, đó chính là một cái rất ngoài ý và kết cục lại ngoài
ý.
19
Nhưng mà trước sau tôi có một tín niệm, bản tánh của mỗi người đều là
lương thiện, cũng là < sùng thượng > vô hạn, nhân loại sẽ có một ngày
lĩnh lược < đạo đường của linh tánh > mới chính là con đường chân
chính phải tu, ngoài ra tất cả đều là giả, phải tu luyện < vô hạn >, nhất
định phải học tập mật pháp.
Tôi không thừa nhận thất bại, tại vì truy cầu cảnh giới của con người rất
nhiều. Linh Quang của Phật sẽ lại độ chiếu bà ấy, bà ấy sẽ tam thối bất
biến.
006 Khuyếch trương của tịnh tọa là tâm linh.
Ngày 27 tháng 7 năm 1983 lúc 7 giờ tối, tôi phải đi tham gia yến hội,
buổi tiệc này là của ban sự vụ Bắc Mỹ Hiệp Điều hội, là thứ trưởng ở
Tây Nhã Đồ Trần Mạnh Câu đặc biệt mời đến, thì ra là đại hội đại biểu
quốc dân của quốc nội, tổ chức thành đoàn khảo sát Bắc Mỹ, đến Tây
Nhã Đồ, Trần thứ trưởng mời tôi đến là muốn có bạn, và gặp những vị
đại biểu, mọi người họp mặt nhau.
Trong khi gặp mặt nhau Trần thứ trưởng lại bắt tôi ngồi hàng đầu, đối
diện với các đại biểu, thì ra trưởng đoàn của đoàn đại biểu là Lâm Khâm
Nùng, phó trưởng đoàn đại biểu là Trần Nhĩ An và Trần Thiết Phương,
bí thư trưởng là đại biểu Huỳnh Thư Vĩ, ngoài ra còn có đại biểu Tô
Ngọc Vĩ và đại biểu Hứa Chỉnh Cảnh … Khi Trần thứ trưởng nhắc đến
tôi, không ngờ tất cả đại biểu đều biết được tôi ẩn trú ở nước ngoài,
cũng đọc qua sách của tôi, đương nhiên họ muốn thỉnh giáo tôi nhiều
vấn đề, Lâm Khâm Nùng còn hỏi, trước kia có phải tôi ở huyện Đài
Trung, chúng tôi nhiệt liệt bắt tay, vì Lâm Khâm Nùng ở huyện Đài
Trung làng Ô Nhựt, là đại biểu quốc hội của huyện Đài Trung.
Hứa Chỉnh Cảnh là chính trị thế gia, người Bành Hồ, hiện ở Cao Hùng,
ông ta và bác của tôi Lư Tiếu là hương thân, trong lúc đàm thoại mọi
người vạn lý tương phùng đều rất vui mừng, ông ta đã lớn tuổi, làm đại
biểu đã lâu.
20
Đại biểu trẻ tuổi nhất là Huỳnh Thư Vĩ nói rằng đọc đến sách của tôi
đến nỗi đêm không ngủ, y như xem kịch vậy, anh ta hỏi tôi: < tại sao
phải tọa tịnh ?> Tôi đáp trả rất đơn giản rằng < tịnh tọa là một thứ
phương pháp điều hòa thân tâm bình đẳng >. Thật ra tịnh tọa là phương
pháp tu luyện linh tánh khoa học cổ hủ nhất, cách xem và giải thích đối
với tịnh tọa của nhiều người là không giống nhau, có người nói: < tịnh
tọa, người học tịnh tọa đều kỳ lạ, sẽ ảnh hưởng đến tâm lý bất bình
thường.> Có người lại nói: < cẩn thận, tọa tịnh sẽ tẩu hỏa nhập ma,
những ma tướng rất kinh sợ sẽ từ từ hiện ra hết thảy.>, có người nói: <
sau khi tịnh tọa tập trung tinh thần, có thể khai phá lực lượng tiềm tại,
càng có thể nhật lý vạn cơ >
Chúng ta tu dưỡng linh tánh, là vì < đạo > mà tịnh tọa, chứ không phải
vì sức khỏe, cảm ứng, hóa cảnh, nhựt lý vạn cơ...... Chúng ta mượn tọa
tịnh này, đem lực lượng của tâm linh tập trung lại một < minh điểm >,
tận lực để khiến xác thịt bản thân nhẹ nhàng, ninh tịnh và hòa bình, có
đầy đủ linh lưu của thánh triết vĩ đại, quay về đại ý thức của toàn bộ vũ
trụ. Chứng ngộ của tôi là, đem bản thân tâm linh minh điểm của bản
thân cá nhân, mở rộng đến đại ý thức của vũ trụ mà đi, đó tức là chân
chính của tam ma địa.
Hôm nay có rất nhiều rất nhiều nhà khoa học do nghiên cứu tịnh tọa mà
bị hấp dẫn, họ cho rằng đầu óc của con người là thần bí nhất, mà trong
tịnh tọa, trong đầu óc của con người thản nhiên phóng xạ một thứ sóng
< A Pháp > (alpha) A Pháp sóng này thế vào sóng < Bối Đáp > (Beta)
người bình thường, do A Pháp sóng phóng xạ, khiến người tịnh tọa có
thể bình tịnh mà mở rộng ra.
Khi mở rộng < cá thể tâm linh >, khi cùng đại đạo của vũ trụ hợp nhất
lại, lúc này cảm thọ tức là trí tuệ của hành giả, chánh tri chánh kiến, và
lực lượng tiềm năng của vũ trụ, đều hoàn toàn hiển lộ ra cho nên có
được linh tánh tịnh tọa đầy đủ, là không chịu sự ràng buộc của tạp khí
phiền não, hoàn toàn thoát ly pham vi nhân tánh nhỏ hẹp và tư tâm của
con người, để chân chính của tâm linh được mở rộng ra.
21
Tôi từng nói tôi đang trong thiền định tam muội, tâm linh là thông và
trong suốt, có khi thân tôi không thấy, hoàn toàn dung nhập vào trong ý
thức chí thượng của vũ trụ, hoàn toàn hợp nhất, biến thành vô hình vô
tướng, có khi tôi tịnh tọa trong trạng thái không, toàn thân tôi phóng ra
kim quang võng màu vàng, kim quang võng của toàn thân như một
ngọn núi che đỉnh đầu tôi, tôi sống trong quang minh võng, có yêu ma
đến gần, đều không thể nhập, có thần tiên đi qua, nghe hát nhạc tán thán.
Bài ca của thần tiên là như vậy: < Ha lý, ha lý, có một thánh giả đang ở
chính giữa của thiên tâm, thánh giả khiến thế giới này càng ngày càng
trang nghiêm, thánh giả khiến thế giới này càng quang minh, chúng ta
hiến lên một đóa hoa chân thành, chúng ta hiến lên một đóa hoa trí huệ,
ha lý khắc lý tư nạp, ha lý khắc lý tư nạp.>
Tịnh tọa là mở rộng tâm linh, trong từng thứ này, siêu việt tất cả, siêu
việt tất cả con người, tất cả đất, tất cả vật, tất cả thời gian không gian,
lúc này tịnh tọa của thánh giả có được là vô hạn ý thức và vô hạn trí huệ,
điều hòa tầng thứ của tâm linh, biết được chân lý chân chính của vũ trụ.
Nhớ có một quyển sách < Thiền Thoại >, có một người học trò luyện
tập tọa tịnh. Thầy giáo hỏi tọa tịnh có lợi ích gì ?
Học trò đáp: < tịnh tọa khiến tôi nghĩ đến người đó thiếu tôi bao nhiêu
tiền, số tiền bao nhiêu đều nghĩ ra được.>
Câu chuyện này, xin đọc giả đừng cười, tại vì khi bạn tọa tịnh, có thể
tránh thoát được những ý nghĩ ràng buộc tư tâm không, có thể tránh
thoát sự liên lụy danh lợi của người thế gian không, mà chân chính đạt
được tam ma địa trong tịnh tọa, chỉ có những thánh giả vĩ đại mới có thể
hiểu rõ những đạo lý này, tâm linh phổ thông ( bình thường ) không thể
hiểu được, cho nên có những người tịnh tọa là bị ràng buộc bị hạn chế.
< Tịnh tọa > xem ra rất đơn giản, nhưng rất khó thâm nhập, con đường
này rất có nhiều người đi, nhưng đắc được < tam ma địa > lại là bao ?
22
Đại biểu quốc đại trẻ tuổi nhất là Huỳnh Thư Vĩ, hỏi vấn đề của tịnh tọa,
lúc đó tôi trả lời không tỉ mỉ, sau khi về nhà, cảm thấy tất yếu phải
tường trình tỉ mỉ mà viết ra, con người mọi người đều có tiềm năng, chỉ
cần học được chính xác tịnh tọa, sẽ có thể khai phá tiềm năng, có thể
hiểu rõ sinh mạng đầu nguyên của bản thân, mà còn đem linh lưu toàn
bộ chân chính quy về nguyên đầu, tầm linh như vậy mới có thể thoát ly
ràng buộc của tam giới.
Cho tôi được xưng tán < ha lý khắc tư nạp, ha lý khắc tư nạp.>
007 Âm chú là sinh mạng của hà lưu
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – Chứng ngộ của thượng sư )
Trong cơ duyên có một ngẫu nhiên, tôi cùng Trương Uy gặp mặt, tôi và
chị ta cùng tuổi, chồng chị ta là giáo sư đại học ở Đài Loan hệ lịch sử
học Triệu Nhã Thư tiên sinh. Trương Uy nói với tôi đang theo học tiếng
Tây Tạng tại đại học Hoa Sinh Tuân, mà chị ta là học trò của Âu Dương
Vô Úy đạt ma, theo Âu Dương Vô Úy đạt ma đã học được 3 năm.
Trương Uy nói: < thượng sư Âu Dương Vô Úy từng đến Tây Nhã Đồ 3
tháng, ngài là đạt ma chân chính, ngài đến chùa Đại Chiêu ở Tây Tạng 2
lần, ở 20 năm, học được tất cả phương pháp tu hành của Đạt Ma.>.
< tôi biết ngài Âu Dương Vô Úy là một vị đạt ma chân chính > tôi nói,
tôi cùng Trương Uy có rất nhiều sở thích giống nhau, Trương Uy nói
đời này có một nguyện vọng, tức là được đi Tây Tạng, thật ra nguyện
vọng của chị ấy cũng là nguyện vọng của tôi.
< Âu Dương Vô Úy đạt ma, không thích một người, và không cho nhắc
tên người đó trước mặt mình.> Trương Uy nói
< Là ai ?>
< là Lâm Vân, Âu Dương Vô Úy đạt ma nói Lâm Vân học thuật gạt
người >
23
< chỉ có người học qua mật pháp mới không bị lừa gạt, người hoàn toàn
không biết mới bị gạt > tôi cảm thán nói.
< thượng sư chân chính, không thông tình với phụ nữ, đồng thời cũng
không mượn tuyên truyền mà để nổi danh, người này thật đúng là kỳ lạ,
vô liêu > Trương Uy nói.
< đúng rồi, chúng ta không nói những nhân vật vô liêu, chị biết tiếng
Tạng, tôi niệm mấy câu chú, chị nghe phát âm có chuẩn không > Tôi
niệm <chú cúng dường> và các chân ngôn khác.
< rất tốt, rất chính xác, âm Phạn rất khó niệm chính xác, chỉ cần gần
giống là hay rồi, Âu Dương Vô Úy đạt ma cũng biết nhiều hắc chú,
nhưng hắc chú là hại người, người đạt ma không dùng đến.>
< đúng rồi, âm chú là tượng trưng sinh mạng của hà lưu > tôi nói
Cá nhân tôi hiểu rõ của người, vì trong lịch sử cổ hủ nhất của vũ trụ,
ngôn ngữ tinh vi nhất là chú ngữ, chú ngữ có thể nói là có âm thanh mà
của vô âm thanh < vô tiếng chi tiếng > là chú ngữ tối cao của chú ngữ
vô thượng, đó là một thứ sóng lưu, từ trong tâm của thánh giả mà chảy
lộ ra sóng âm vĩ đại, đó là sinh mạng của chi lưu, là âm nhạc ( tối tinh vi
nhất ), có thể khiến tư duy của con người tập hợp đến trong một thế giới
âm nhạc biển ánh sáng.
Chú ngữ là cộng đồng của xướng âm luật, khi phát âm ra có thể cùng
nghe được, khiến mỗi niệm lực của tế bào hướng đến bộ phận thiên tâm,
sản sinh ra minh tưởng tập trung, nhập vào hỷ duyệt vũ trụ của tam ma
địa, trạng thái quên ngã là tu như vậy, chú ngữ tức là cộng minh tâm
đồng tâm, ninh tịnh là hỷ duyệt.
Tôi nói, người biết trì chú, tức là người biết quy y, trên thế giới là người
hạnh phúc nhất, mỗi người trong tâm mình mà tự đàn lên âm nhạc, mà
niệm chú cũng là một kỳ xảo, chỉ cần mỗi người hóa thân thành một
24
biến âm chú, đại địa sẽ khởi cùng, tâm của người niệm chú sẽ tiếp cận
tâm của thần, sẽ có cảm ứng sẽ hop lại một, người tu niệm âm chú sẽ
nhập trong tâm của thần.
Tôi từng chứng ngộ một số huyền chi và ý cảnh huyền:
Thứ 1, có một hồi, tôi niệm tâm chú căn bản của mình: < Om A Hung,
Cô Lô Bối, A Ha Sa Sa Ma Ha, Liên Sanh Xít Ti Hung >, âm thanh của
chân ngôn chú này rất tinh tế, niệm niệm đến khi tinh thần hoàn toàn tập
trung, mắt tôi nửa nhắm nửa mở, giữa sát na, đột nhiên tôi thấy, tôi chỉ
niệm một cái âm ngữ, thì có một đóa bông sen đẹp đẽ từ trong miệng tôi
bay ra, chú này tất cả 17 chữ, từ trong miệng bay ra 17 vị Liên Hoa
đồng tử và 17 đóa bông sen, sau cùng bản thân mình cũng biến thành
Liên Hoa đồng tử rực rỡ trắng sáng, cộng lại là 18 vị Liên Hoa đồng tử,
niệm 1 biến chú, sẽ hiển hiện một thế giới của 1 biến Liên Hoa đồng tử,
chính là thế giới Ma Ha Song Liên Trì, cảnh tưởng này xuất hiện lên
một biến lại một biến, cho nên tôi chứng ngộ được, phàm là niệm < Om,
A Hung, Cô Lô Bối, A Ha Sa Sa Ma Ha, Liên Sanh Xít Tia Hung >, chú
căn bản của người Liên Hoa đồng tử, tương lai đều có thể đến Ma Ha
Song Liên Trì.
Thứ 2 có một hồi tôi niệm Tứ Vô Lượng Tâm: < sâm kinh, thắng kiệt,
đắc oa, tán, đắc uy, gián tán, điểm ba di, dục kiệt. đông ba di, tán, đông
A di, cấp, giác tán, tra oa di, dục kiết, đông a, diệt bạch, đắc oa, tan ba,
tán, miễn trát, oa di, trứ kiệt, niếp nhận, hở tán, tán, tán, trát di ngoại,
tán nún, chen ba, la niếp ba di, dục kiệt.>, đang niệm đến nhập thần, đột
nhiên tôi phát giác thân tôi ở trong Sắc La cung, tôi trì chú, xung quanh
cũng có rất nhiều đạt ma đang trì chú, đồng nhau niệm < phát tứ vô
lượng tâm >, ngạc nhiên của tôi là khi cá nhân trì chú, đã không phải là
một người trì chú, mà là ngàn vạn người cùng trì chú này, tôi vì âm chú
của Tứ Vô Lượng Tâm, đem tôi đến < Sắc La cung > cùng những vị đạt
ma trì chú.
25
Thứ 3, có một hồi tôi tu tập đại thủ ấn của Bạch Giáo (Kagyu), niệm <
đa kiệt, khương khiếm, đế lạc, na lặc, tán ….>, ý nghĩa là thỉnh Bạch
giáo Kim Cang tổng trì tổ sư Đế Lạc Ba (Tilopa) Na Nặc Ba (Naropa),
như pháp của đại thủ ấn mà gia trì, tôi tu trì một lát, khi xuống tọa, đột
nhiên tôi nghe thấy âm thanh trì chú của bản thân, vẫn còn quay chuyển
trong tâm, một biến lại một biến không ngừng, lúc đó tôi không có niệm
chú, nhưng trong tâm lại có âm thanh nổi lên nhập vào trong lỗ tai, tôi
biết đó là hiện tượng tôi và chí thượng của âm chú hoàn toàn hợp nhất,
< tự ngã> trong tâm tôi đã không ngừng trì chú, tôi nghe được nội tại
diệu âm tinh vi nhất, không niệm chú mà âm chú phát ra, rất có thể dẫn
đạo mà đạt đến cảnh giới tối cao nhất.
Âm chú là sinh mạng của hà lưu. Tu trì pháp môn niệm Phật và trì chú,
ý nghĩa hoàn toàn như nhau, tôi hy vọng Trương Uy mỗi tuần thứ 7 có
thể tham gia hội đồng tu niệm Phật trì chú, trên đường đạo cần kính, âm
chú là công cụ ngộ đạo, âm chú là âm của thiên lai, quy y minh tịnh của
vũ trụ chi âm.
008 Trân quý nhất của đời người là triết học
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư )
< Reng …reng …reng..> điện thoại trong nhà đổ liên hồi.
Tôi cầm điện thoại lên nói: < tôi là Lư Thắng Ngạn >
< là Lư Thắng Ngạn không? Xin cứu con tôi, chúng tôi hiện đang ở
Hong Kong, con tôi còn trẻ mới 30 tuổi, hiện đang ở bệnh viện, bác sĩ
nói phổi có nước, lại có xơ gan, cầu xin Lư đại sư cứu giúp con tôi, tôi
chỉ có một đứa con, nó có 2 đứa con còn nhỏ, nó không được chết, nó
không được chết > đối phương là một người đàn bà Quảng Đông, nói
rất khẩn cấp, tôi có chút mơ hồ không biết họ là ai.
< Là như vậy, chúng tôi đọc được sách của ông, nhận thấy hiện tại chỉ
có Lư đại sư mới cứu được chúng tôi.>
26
Trong điện thoại, tôi yêu cầu đối phương cho tôi tên tuổi và địa chỉ, tôi
yên lặng chốc lát để tập trung tinh thần, nhưng trong tay vẫn cầm lấy
điện thoại, tôi thấy một tượng Quan Âm bằng sứ, mà trên thân Quan
Âm bằng sứ lại có vết chấm màu vàng, khi tượng Quan Âm màu trắng
bằng sứ xuất hiện, con mắt có chứa nước mắt, dùng tay của Ngài, vẫy
vẫy mấy cái.
Tháng 7 năm nay con bà nhất định phải ra đi, bà biết không đó là định
số, nó không cứu được rồi, tôi không cứu được nó, tháng 7 năm nay,
không cứu được rồi > tôi nhẫn tâm đáp lại cho bà ta biết.
< đừng mà, Lư đại thượng sư, ông nhất định phải cứu lấy nó, tôi cầu xin
ông, nhất định phải cứu lấy nó >
< gia đình bà có lạy Phật không ?>
< đương nhiên lạy Phật, chúng tôi lạy Quan Âm >
< là Quan Âm màu trắng bằng sứ, trên thân có vết chấm màu vàng.>
< đúng, đúng, đó là tượng Quan Âm >
< bà cầu xin Quan Thế Âm Bồ Tát >
< Quan Âm tôi cũng cầu, ông cũng phải cầu xin, chúng tôi rất giàu có
Lư đại sư, ông bây giờ ở tại Tây Nhã Đồ xây Phật tự, nếu ông cứu được
con tôi, tôi cúng tiền cho ông xây Phật tự, tôi nói thiệt, cầu xin ông, tôi
cầu xin ông.>
Nhận được cuộc điện thoại từ Hongkong, trong tâm rất nhiều cảm xúc,
tôi biết con bà ta không sống nổi, tại vì tôi đã thấy tượng Quan Âm màu
trắng bằng sứ vẫy tay, tôi lại tính toán, là tháng 7 phải chết, cho nên tôi
biết không còn cứu được, quả nhiên đến đầu tháng 7, người đàn bà ấy
lại điện thoại cho tôi, nói rằng con bà đã hôn mê bất tỉnh, muốn tôi lại
27
cầu xin. Sau đó bà ta không còn gọi điện thoại đến nữa, tôi biết, đã trễ
rồi, không còn cách nào nữa, dù cho là thần tiên cũng không cứu được.
Tôi biết người thanh niên này đã chết, có công ty mậu dịch rất lớn và rất
nhiều nhân viên, cũng có vài cửa hàng kinh doanh châu báu trang sức,
thật sự là nhà giàu có, nhưng mà, người có tiền có khi sinh mạng cũng
phải chết yểu, đó là mật áo của sinh mạng, chỉ có thể linh tánh thượng
sư mới biết được.
Nói thật, tôi rất đồng tình trên thế giới rất nhiều người chết yểu, họ chưa
đi hết con đường nhân sinh, nửa đường đã trở về. Không cần biết người
sắp chết hoặc là người thân của họ khi đối mặt với tử thần đều sinh ra sợ
hãi, cho dù là những người giàu có, khi thật sự đối mặt với cái chết, thì
biểu hiện rõ rất là tội nghiệp và cần trợ giúp.
Tôi chứng ngộ được, trên thế gian chỉ có 2 loại người không sợ chết:
Loại người thứ 1, họ mỗi ngày đã cùng ý thức chí thượng của vũ trụ tồn
tại, trên nguyên tắc mà nói, họ là chủ nhân của vũ trụ, họ vĩnh viễn
không thể chết, chỉ là khi thân thể họ không còn sử dụng được nữa, bèn
bỏ nó đi, để thay thế một bộ y phục hoàn toàn mới và bắt đầu lại, những
người này, sống chết được xem như cùng một việc.
Loai người thứ 2, có một loại tu luyện đặc thù riêng, có thể theo ý
nguyện của bản thân, ra đời hoặc tử vong, có thể tự tại khống chế sanh
tử, họ là những thánh nhân thành tựu, biết được tử vong chỉ là một sự
tiếp tục của quá trình tu luyện, linh hồn từ trong nhục thể đi ra và tiếp
tục vào trong một nhục thể khác. Phương pháp rời khỏi nhục thể của
những thánh triết này, đều là từ phạm huyệt luân ( Brahma Rundhra )
mà ra ngoài, phạm nguyệt luân tức là đỉnh luân của du già thất trùng.
Tôi biết người tu hành có rất nhiều rất nhiều phương pháp < tọa thoát
lập vong >
28
Có một số người tu hành tự biết việc tu hành của kiếp này đã đạt đến
cực hạn, bèn trèo lên rất cao rất cao, để đi đến núi cao hang động không
có dấu chân người, sau đó tự mình đóng động lại, tĩnh tọa tử vong.
Có một số người tu hành, biết được một nơi nào đó địa linh tốt, biết
được chỗ nào là thánh địa, trước khi tử vong, bèn đến thánh địa an bài
tất cả, bởi vì thánh địa nhất định có thánh linh thủ hộ, họ có thể ở dưới
sự thủ hộ của thánh linh, bỏ nhục thể của họ, cùng tất cả các thánh linh
tụ hội chung một chỗ.
Có một số người tu hành, cho rằng chết dưới nước là ít chịu sự can thiệp
nhất, cho nên khi biết bản thân mình sắp chết, bèn từng bước từng bước
mà đi vào trong chỗ nước sâu, ngồi trong nước tĩnh tọa, sau đó tử vong.
Có một số người tu hành, trước khi họ sắp chết, bèn kêu về rất nhiều đệ
tử, nói nhiều loại pháp cho họ nghe, khai thị tất cả đạo lý, chỉ ra con
đường chân tu, sau đó trong thời gian của họ chỉ định, dùng tư thế tĩnh
tọa tịnh rất hoàn mỹ mà thị tịch, tử vong này là tử vong thản nhiên nhất
trong tất cả các tử vong, không có một chút cảm giác đau khổ.
Có một số người tu hành, có thể lợi dụng chuyết hỏa thượng thăng của
mình, tức là dùng hỏa công nội tại, trong nháy mắt để đốt cháy rừng
thần kinh của mình. Phương pháp này trong sách Áo Nghĩa có ghi là
phương pháp mà Nhã Ma truyền thọ cho thánh triết < Lạp Cơ Các
Tháp >, phương pháp này xưa kia ở trong các cuốn linh sách của tôi,
cũng đã từng nói qua. < Tọa thoát lập vong >, cũng là các phương thức
mà các thánh giả thị tịch, chỉ cần nhục thể đang tồn tại này không thích
hợp để tiếp tục tu luyện, sự lựa chọn của thánh giả là đổi một nhục thể
khác hoặc là về trời.
Tôi ở Tây Nhã Đồ trong tu hành bí mật, cũng chứng ngộ được 3 phương
pháp, thứ nhất là < ly xá pháp >, thứ 2 là < đoạt xá pháp >, thứ 3 là <
bất tử hồng quang pháp >, tôi đặc biệt trình bày rõ 3 phương pháp này
như sau:
29
< Ly xá pháp >, thật ra ly xá pháp, tức là huấn luyện về cách tử vong, ly
tức là đi, xá tức là nhà cửa, nhà cửa này là đại diện cho nhục thể của
chúng ta, phương pháp của cuốn trung văn viết về < tọa thoát tử vong >,
tức là một phương pháp của < ly xá pháp >. Trước tiên chúng ta phải
nhận thức rõ ràng, tử vong của đời người thực ra là một thứ tạp tính của
nhục thể, an nhiên ra đi là một tử vong tốt nhất, sợ hãi nhất là tử vong
trong vô tri, tất cả có thể ruồng bỏ tất cả sợ hãi, không sợ không khủng bố
tức là đang huấn luyện < ly xá pháp >
< Đoạt xá pháp > - mật tông hành giả, đại đạo lý của hoạt Phật chuyển
thế tức là < đoạt thế pháp >. Mật pháp này, trực tiếp truyền thừa là không
truyền nếu pháp này có bí mật, cho nên biết được phương pháp này, trừ
hoạt Phật ra thì thực tế có rất ít người biết. Lúc này khi hoạt Phật tự biết
bản thân mình sắp thị tịch, nhìn xa thấy em bé mới sanh, chỉ rõ rằng ngày
nào tháng nào năm nào ở đâu, đứa trẻ sơ sinh đó tức là mình ở tương lai.
Sau đó bản thân < ly xá > tử vong, và bắt đầu bay đến nhà của đứa trẻ sơ
sinh đó, đi vào nhục thể của đứa nhỏ này, tức là sự chuyển thế của hoạt
Phật đã thành công, phương pháp này tức là < đoạt xá pháp >. Theo
chứng ngộ của tác giả, tưởng niệm của linh hồn chỉ có một, sau đó từ am
bổn ma thức của thức thứ 9 mà vào, cần phải tìm ra một điểm ở trung
gian.
< đoạt xá pháp > chuyển thế của hoạt Phật, tạo thành tứ đại truyền thừa ở
mật tông Tây Tạng của Hồng giáo (Nyingma) Bạch giáo (Kagyu) Hoàng
giáo (Gelug) và Hoa giáo (Sakya), hoạt Phật theo như vậy một đời một
đời được nhận. Hoàn mỹ và thành tựu < đoạt xá pháp >, là cực chí truyền
thừa của mật pháp, đó là sự thể có giá trị nhất của mật pháp.
< bất tử hồng quang pháp > - có mật tông hành giả gọi là < bất tử hồng
quang pháp > là một trong những pháp cao thâm nhất của mật pháp, tôi
cũng cho là như vậy, bởi vì từ cảnh giới của phàm phu đi đến < bất tử
hồng quang pháp >, có thể cho là một lịch trình rất xa, < bất tử hồng
quang pháp > là một mật pháp tuyệt đối không có hai. Là trụ ở hằng sanh
của Tỳ Lô tánh hải tam ma địa, có một tu luyện cao thâm, tất cả là khống
30
chế hô hấp, khống chế tâm linh, khống chế thần kinh tự chế, giữ giới luật
là bước đầu tiên, làm 3 tu luyện lớn là thân, tâm, linh. Vĩnh viễn ở trong
cảnh giới vĩnh hằng, có thể an tọa ở trong đàn thành của mình.
Thành tựu cao nhất của < bất tử hồng quang pháp > là bản thân ở trong
Tỳ Lô tánh hải, vĩnh viễn thành Phật, nhưng tùy ý phân thân vô số mà
cứu độ chúng sanh, tất cả vô vi mà hữu vi. Tu đến cảnh giới này, lẽ ra là
không có sanh tử, sanh tử không là chuyện gì hết cả, tất cả tùy ý, cũng là
tất cả vô ý, chúng sanh vô pháp trắc độ.
Tôi hôm nay đem một số điều cơ mật nhất của mật pháp hoàn toàn nói ra,
phải cho tất cả người tu hành nhận biết, trân quý nhất của đời người là
triết học, người tu hành vĩnh viễn không chết. Chỉ có phàm phu là mới sợ
chết, và phàm phu thế tục vĩnh viễn không hiểu được đạo lý này, sự khác
biệt của phàm phu và thánh triết là ở đây.
009 Biểu tướng mạc bái
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư )
Sau khi tôi đến Tây Nhã Đồ, tốn một khoảng thời gian để khảo sát tín
ngưỡng của những người Hoa ở đây, phát giác tín ngưỡng tôn giáo ở Tây
Nhã Đồ là < điểm không >. Ở Tây Nhã Đồ, không có tự viện của người
Hoa. Có một nhà tự viện của người Nhật Bản Thân Loan thượng sư ( tịnh
độ tông ), một tự viện của người Việt Nam. Sau này có một hòa thượng
xuất gia từ quốc nội đến Tây Nhã Đồ, người này rất thô tục, trừ mua nhà
và thờ mấy tượng Phật ra, tiếp đến là lấy tiền cúng phí, làm hình thức
sùng bái, làm như là mở tiệm vậy.
Cho nên thì ra người Hoa ở Tây Nhã Đồ, thực ra là không có tín ngưỡng
Phật giáo. Có rất nhiều người Hoa nói với tôi, tổ tiên của họ nguyên là
đạo Phật, sau khi đến nước Mỹ, ở Mỹ chỉ có nhà thờ, nhà thờ của đạo
Thiên Chúa và Cơ Đốc giáo. Thế là những người này toàn bộ đổi thay tín
ngưỡng, đều đến nhà thờ làm lễ bái. Tây Nhã Đồ có một nhà quốc ngữ lễ
bái đường, là < Tây Nhã Đồ chứng đạo hội >, mỗi tuần chủ nhật, xe cộ
31
nườm nượp, mọi người chen nhau. Có một số người đến nhà thờ nói với
tôi, đến nhà thờ là một trong những xã giao của xã hội, nhà thờ có mở
tiệc, giao du, xã giao và các hoạt động khác, đến đó có thể kết giao bạn
bè.
Tây Nhã Đồ thực sự có hành giả Phật giáo tu hành chân chính không ?
( hiểu được mật pháp mà tu hành chân chính ), theo tôi được biết, hình
như là không có, bây giờ tôi đến rồi tôi phát giác ở đây là một mảng sa
mạc, thậm chí một giếng nước cũng không có.
Thiên Chúa giáo và Cơ Đốc giáo có rất nhiều, tôi đương nhiên cũng hiểu
được là để dùng < chủ nhật sùng bái >, mỗi ngày chủ nhật thì đến nhà thờ,
tức là kỳ cầu, nghe mục sư và cha sứ giảng đạo, phúng hiến một chút tiền
bạc, đọc các thánh kinh, hát thánh ca, cảm tạ và tán mỹ Chúa. Sau đó
xong rồi thì lái xe trở về nhà, chủ nhật tuần sau lại đến nữa. Tôi từng hỏi
một số tín đồ, sau khi về nhà các bạn có tu tập linh tánh không, câu trả lời
của họ là, ngoài lúc ăn cơm kỳ cầu ra, còn lại là không. Đây hình như là
mạc thức tín ngưỡng của Thiên Chúa giáo và Cơ Đốc giáo.
Tín đồ Phật giáo ở Tây Nhã Đồ, bởi vì đã xa rời các Phật tự đã lâu, lại
thêm các nhà thờ là trung tâm xã giao ở nơi đây, vì các hoạt động xã giao,
vì học tập ngôn ngữ, vì mở rộng vòng vây sinh hoạt ở đây, bèn rời bỏ tín
ngưỡng nguyên hữu của mình, gần như toàn bộ chuyển biến thành tín đồ
Thiên Chúa giáo và Cơ Đốc giáo, bị Tây phương đồng hóa mất rồi.
Tôi biết được mạc thức truyền giáo tín ngưỡng của Thiên Chúa giáo và
Cơ Đốc giáo, thật ra cách làm là nghi thức < hư tín >, tán mỹ < hư
thành >, hy vọng lấy sinh hoạt thánh kiết đồng kỳ cầu tín ngưỡng, sau đó
mông chủ vinh chiêu, đến thiên quốc của Thượng Đế, đó là phúc âm của
thiên quốc, người tin thì lên thiên đường. Nhưng mà, tôi phát giác, đây
chỉ là < biểu tướng mạc bái >, không có < tu hành tâm pháp> chân chính,
hàng ngàn hàng vạn nhà thờ ở đây, chỉ là làm một hình thức sùng bái.
32
Thật ra, không chỉ có Thiên Chúa giáo và Cơ Đốc giáo như vậy, đạo Phật;
Đạo giáo, Đạo Hồi của hôm nay đều như vậy, không những như vậy, tín
đồ Phật giáo và Đạo giáo trong quốc nội, có ai biết được phương pháp tu
hành tự ngã liễu ngộ, đến chùa của Phật giáo hoặc đến miếu của đạo giáo
thì chỉ có thể đốt nhang cúi đầu lạy. Ấn Độ bây giờ ( Bà La Môn giáo ),
Tây Tạng ( Mật giáo thánh địa ), Trung Quốc ( Tứ Đại Danh Sơn ), Nhật
Bản < Đông Nam Á….. những nơi Phật giáo thịnh hành, cách làm của
một số người cùng Thiên Chúa giáo và Cơ Đốc giáo là y hệt như nhau,
trong nghi thức mạc bái là về đến lạy lạy, hỏi họ có phải là Phật giáo đồ
không, họ xưng là phải. Hỏi họ tu hành như thế nào, họ cũng không biết,
trong nhà cũng phụng tượng Phật và thần, sáng tối đốt nhang cầu phù hộ
thay đổi trái cây và nước trà thôi.
Có một số tín đồ cao hơn chút, họ sẽ đến nghe giảng Phật học, để lĩnh
ngộ một số đạo lý kinh Phật, công phu sáng chiều biết niệm niệm Phật
hiệu, trì một hồi chú, niệm một thời kinh, như vậy đã là không đơn giản.
Tuy nhiên, phương pháp tu hành này, cũng như là công phu bề mặt, đối
với < tu hành tâm pháp > còn chưa được, cái gì là ý cảnh cao nhất, họ
cũng vẫn chưa hiểu được. Bề mặt là tri thức Phật học, đương nhiên là tất
yếu, nhưng mà người học Phật chân chính, không nên sơ suất tu luyện
pháp, hoàn toàn liễu ngộ, không phải chỉ là niệm kinh và nghe giảng thôi.
Rất đơn giản mà nói, hôm nay, tôi muốn mọi người phải thật tu trực giác,
đi phát giác lực lượng của bản thân nội tâm mình, < lực lượng nội tâm >
là căn bản của chứng ngộ. < Nội tại lực lượng > này là phải thực tu mới
có thể sản sinh, cái này không giống với một số < chủ nhật sùng bái >,
cũng không giống với < trì chú niệm Phật >. Tôi tin tưởng lực lượng nội
tại này, mới là phát huy của chứng ngộ, người tu hành chúng ta, không
những phải nghiên cứu những bí ảo này, cũng phải đi thể hội tiềm năng,
mỗi một ngày, chúng ta phải tốn một chút thời gian, để huấn luyện <
pháp lực > này.
Tôi cho rằng, đây là một < con đường trực tiếp thể nghiệm >.
33
Liên Hoa Sanh Đại Sĩ trong lúc tôi tĩnh tọa hiển hiện đặc biệt hỏi tôi: < học
thức uyên bác là việc đắc ý cao nhất của con người phải không ?>
Tôi nói < đúng vậy >
< nhưng, những học thức này cũng không phải của mình, mà học của
người khác. Người học thức uyên bác này, vẫn là không điểm.>
Tôi kinh ngạc hỏi < cái gì mới được tính là của mình >
< trực tiếp thể nghiệm, chân thật ngộ đạo, thật tu chứng đắc.>
Tôi nghĩ đến một câu nói của Phật Đà: < đốt sáng ngọn đèn của bản thân,
không có ai sẽ giải thoát cho anh, không nên ỷ lại. Hoàn toàn tự đi để
nhận biết bản thân, đạt đến Niết Bàn, anh tức là Phật >.
Mỗi tối của ngày thứ 7, tôi giảng pháp ở Tây Nhã Đồ, người đến quy y
quán đảnh rất đông, tôi yêu cầu họ không chỉ là hình thức biểu tướng mạc
bái mà phải chân chính thực tu, tĩnh tọa, đem tiềm năng vốn có của sinh
mạng mà kêu tỉnh lại.
Tôi dạy họ rất nhiều phương pháp tu linh tánh, phương pháp tập luyện
cao nhất, tôi đem < Thắng Vương Du Già Pháp > và < Quân Trà Lợi Du
Già Pháp > và Mật tông tu trì pháp, hoàn toàn công khai truyền thọ ra.
Thậm chí tu pháp tinh vi nhất < Thiên Ban Liên Hoa pháp > tôi cũng
đang viết trong tương lai, sẽ công khai tất cả.
34
010 Tu Bát Quan Trai Giới
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư )
Có người hỏi tôi, thượng sư thọ qua giới gì ? Tôi nói, ở hiển giáo, tôi thọ
qua Bồ Tát giới, cũng thọ qua giới luật mật giáo. Giới luật học là một thứ
rất thâm sâu, một giới luật học có thể thành một tông phái, đó tức là luật
tông, có thể thấy giới luật học rất quảng đại. Tôi thọ giới luật hiển giáo và
giới luật mật giáo, cũng có tam đại sư truyền giới, Ba vị đại sư này tức là
A Xá Lợi, giáo thọ A Xá Lợi, Kiết Ma A Xá Lợi. Trong thời gian tôi một
mình tu luyện ở Tây Nhã Đồ, xem trọng nhất là tu Bát Quan Trai giới
pháp.
Ở những ngày lục trai, tức là mùng 8, 14, 15, 23, 29, 30 của mỗi tháng
trong sáu ngày này, có thể tu trì Bát Quan Trai giới pháp. Văn phát
nguyện tu Bát Quan giới pháp:
Tôi hôm nay quy mệnh Liên Sanh tôn.
Trước mặt thượng sư thanh tịnh nhất.
Tôi phát quảng đại Bồ Đề tâm.
Tự lợi lợi tha giai thành tựu.
Sám trừ tất cả bất tịnh tội.
Tùy hỷ tu pháp nhập trong định.
Quá ngọ bất thực thủ quan giới.
Hậu giới bát đại trưởng dưỡng pháp.
Giữ bát giới này là bát giới gì ? Chính là: một: không sát sanh, hai: không
trộm cắp, ba: bất phi phạm hạnh, bốn: không vọng ngữ, năm: không uống
rượu, sáu: không ăn phi thời, bảy: không thoa dầu thơm trên mình và
không xem ca múa nhạc, tám: không nằm ngồi ở gường cao lớn.
Tôi đặc biệt nói rõ như sau: bất phi phạm hạnh, tức là ngoại trừ việc tu
hành ra, còn lại tất cả những chuyện các đều không làm. Không vọng ngữ
thậm chí là ở cấm ngữ, một câu cũng không nói. Không ăn phi thời, là
qua 12 giờ trưa không ăn cơm, thậm chí đậu nành, sữa, bánh, mì tất cả
35
đều không ăn trong lúc tu. Nhưng mà, những loại thuốc viên hoặc thuốc
cao đơn, đường đỏ, đường trắng, đường bằng gạo, đường phèn, mạch nha,
mật ong, nước trái cây có thể dùng được, không ở trong giới cấm.
Giữ tám giới này, là công phu tu hành sơ bộ, điều sau cùng của Bát Quan
Trai giới, là không nằm ngồi ở gường cao lớn, có thể dùng tĩnh tọa để
thay thế ngủ. Điều thứ 7, không thoa dầu thơm lên mình và không xem ca
múa nhạc, là không mặc những trang phục cao quý thậm chí không dùng
những đồ vật mắc tiền, không có hành vi ca múa hưởng lạc, tất cả là lấy
đơn giản làm chủ.
Tu Bát Quan Trai giới này, không phải chỉ giữ < tám giới > mà phải
trong tám giới này, tu hành phạm hạnh, tu thiền định, tu luyện tất cả Phật
pháp. Cũng tức là, trì giới hạnh như vậy, trang nghiêm nội tâm của bản
thân, khiến cho tâm sanh hỷ duyệt, quảng tu tất cả pháp tương ứng, cầu
thành Phật quả, cứu cánh viên mãn.
Chỉ đơn giản tu Bát Quan Trai, có công đức không ? Tôi nói có, trừ tội
ngũ nghịch, còn những tội khác, tất cả đều có thể tiêu trừ. Lại tu giới định
tuệ tam học, có thể chứng tứ quả A La Hán. Người tu trì Bát Quan Trai
giới, niệm Phật phát nguyện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, có
thể đạt được quả vị trung phẩm trung sanh trở lên cho đến quả vị thượng
phẩm thượng sanh. Bát Quan Trai giới này, là người tu pháp giới luật học
bước đầu tiên, có thể sám tội, tiêu tai, tăng phước, tăng huệ. Hồi hướng
của Bát Quan Trai giới là:
Phụng trì Liên Sanh Bát Quan giới.
Tu trì vô nhị tối thượng tâm.
Thành Phật phổ độ ở thế gian.
Hàm lệnh chúng sanh giai thành ích.
Mình tôi chứng ngộ được, giới luật tức là < tự chế >. Con người có 3 thứ
dục vọng lớn, dục vọng thứ nhất là < ăn >, dục vọng thứ 2 là < ngủ >, dục
vọng thứ 3 là < sắc >. Ba thứ dục vọng lớn này đều sanh ra đã có đầy đủ,
36
ba cái này lúc nào cũng liên kết với nhau và không tách rời nhau. Một
người ăn quá nhiều, thì rất muốn ngủ, ngủ đủ rồi, tinh thần sung mãn, thì
sẽ nghĩ đến sắc, sắc xong rồi, lại ăn, ăn xong rồi lại muốn ngủ, ngủ xong
lại là sắc. Ba thứ dục vọng này luôn luôn tuần hoàn không bao giờ ngưng.
Cho nên người xuất gia hoặc người tại gia tu đạo, là phải từ < tự chế >
của ăn mà bắt đầu, điều thứ 6 của Bát Quan Trai, quá ngọ không ăn, tức
là tự chế ẩm thực, không những như vậy, một số thực phẩm kích phát dục
vọng cũng ở trong giới cấm, như cá, hải sản, các loại thịt, các thức uống
làm mê muội, thuốc hút, tỏi, củ hành, nấm hương… Có một số người tu
luyện chỉ dùng nước canh rau củ, một số chỉ dùng các hạt đậu đã nảy
mầm. Một số người tu luyện có thể dùng trái cây, sữa bò, một ít đồ ngọt,
các loại đậu, rau củ và các thực vật thanh đạm …
Trước tiên cấm đại dục vọng < ăn >, sau đó là cấm đại dục vọng < ngủ >.
Ở đây xin độc giả đừng hiểu lầm, không phải là kêu bạn không ngủ, có
thể tu luyện lấy ngồi thay thế ngủ là tốt nhất, nếu không có thể, thì thời
gian ngủ đừng quá dài, ngủ lâu quá thì sẽ hiện ra tướng khờ, thì sẽ thành
heo. Người tu đạo không được làm biếng, cho nên < ăn > và < ngủ> là
phải vừa và thích hợp là một trong những hạng mục quan trọng nhất
trong Bát Quan Trai giới, tự chế < ăn > < ngủ>, tâm sắc sẽ không dễ dàng
sản sinh ra. Giới luật chính là tự chế.
Tôi chứng ngộ được sự khởi của < sắc tâm >, có một số là do < thấy sắc >
mà khởi lên. Một số người tu luyện vào trong < thâm sơn cổ động > tu
luyện là có đạo lý, đó chính là < bất kiến sắc >. Nhân loại nhìn thấy sắc, ý
niệm vào trong rừng thần kinh, thần kinh sẽ phân biệt và kích thích sắc tố
sắc, thế là thức tâm khởi lên, điều thứ 7 của Bát Quan trai cũng tức là
cấm tuyệt thấy sắc. Tu Bát Quan Trai giới pháp, phải tự chế < ăn >, tự
chế < ngủ>, tự chế < sắc > đó là yếu nghĩa thứ nhất.
37
011 Đổi thay của nghiệp lực
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư )
Tôi đang ở Linh Tiên Cát bang Tây Nhã Đồ tịnh tọa, khi xuất định, có
một người khách đang rất gấp ngồi ở phòng khách chờ tôi.
< Liên Sanh thượng sư, xin cứu con trai tôi >
< nó bị làm sao ?>
< nó bị bệnh rất nặng > người cha đem khuôn mặt < cầu xin > nói
Tôi nói: < Tiên sinh, tôi sẽ dùng ý thức thần thông lực cao nhất của tôi có
thể cứu con trai ông, nhưng mà ông phải trả bồi thường ngang với giá trị
của nó.>
< cái này đương nhiên, cái này đương nhiên >
< tôi dùng lực lượng hồng quán thánh mão kim cang thượng sư ban phúc
cho con trai ông vậy để nó thoát khỏi sự bao vây của ma bệnh > Tôi ở
trong mật đàn niệm chú, dùng xong < ban phúc >. Người đàn ông ngàn
vạn lần cảm tạ ra về.
Nói cũng kỳ lạ, sau khi tôi < ban phúc >, đứa con trai của người đàn ông
đó, bị nóng suốt trường kỳ quả nhiên hết hẳn, một thứ tinh thần an nhẹ
chưa từng có đã hiện lên trên mặt nó, áp lực của bệnh quả nhiên giảm nhẹ,
bệnh một ngày một ngày một giảm, đến hoàn toàn có thể xuất viện được.
Tất cả bác sĩ trong bệnh viện, đều cho là kỳ tích, bởi vì bệnh nhân này là
các bác sĩ đã họp lại tuyên bố là bệnh không thể cứu chữa. Nhưng hiện
nay qua < ban phúc > cho bệnh nhân, lại dùng các thiết bị y khoa kiểm
tra, kỳ diệu là các bệnh đã tiêu mất.
Nhưng mà, có một chuyện không may tiếp theo xảy ra.
38
Người bị bệnh là con trai lớn, mà con trai thứ 2 của ông ấy đang học ở
Bang Y Lợi Nhược, nghỉ hè cùng bạn bè đi bơi, hồ nước có nước xoáy, bị
chết chìm, xác nổi ở hồ.
Người đàn ông đó lại đến tìm tôi.
< Liên Sanh thượng sư, một đứa con trai sống, tại sao đứa con trai kia lại
chết ?>
< trong nghiệp lực của ông, nguyên là phải chết một đứa con trai, mọi
người đều không thể cứu, trừ khi bỏ ra một giá trị ngang với nó để mà đổi
lấy, mới có thể thay thế được >
< A! Tôi đau khổ quá, như vậy có phải giống nhau không ?>
< đúng vậy, nghiệp lực như nhau, cũng bởi do chúc phúc của thượng sư
có thể thay đổi. Nhưng kiếp nạn của nghiệp lực là không thể dễ dàng thay
đổi, trừ khi người có tu luyện, dùng pháp lực chân chính giải trừ nghiệp
lực, nếu không nghiệp lực là vĩnh viễn bất diệt >
Người đàn ông đó nghe tôi nói, hai hàng nước mắt chảy xối xả lên khuôn
mặt. Giống như thay đổi đạo lý của nghiệp lực ( thay thế ), người không
có được < Ma Ha Trì > thần thông, thực ra là không hiểu được, người thế
tục không có cách hiểu rõ mặt này.
Tôi phải nói cho một số người tu luyện mật pháp và một số người tịnh tọa,
không nên cho rằng đã được <lực lượng siêu tự nhiên > thì cho là mình
giỏi, ngược lại, đây là một giai đoạn rất nguy hiểm. Người tu hành nếu
hoàn toàn bị mê vào < lực lượng siêu tự nhiên > và khoa trương xưng là
< thần thông lực >, và bất kể là gặp người nào thì cũng lạm dụng, nếu
người này tiếp tục làm như vậy, lạm dụng thần thông, quên mất mục đích
tu hành chân chính, người này sẽ bị tà niệm che lấp mất, cho đến bị đọa
hoặc là bị hủy diệt đều rất có thể.
Chúng tôi chứng ngộ được là, phàm là người tu luyện của Chân Phật tông,
nếu có đầy đủ hằng tâm tu trì, nhất định có thể đạt được lực lượng < siêu
tự nhiên >, nhưng nếu đem những thứ lực lượng siêu tự nhiên này dùng ở
39
< truy cầu thế tục > , khi thời gian lâu sự truy cầu năng lực < chí thượng
ý thức > đã tiêu mất, < lực lượng siêu tự nhiên > sẽ có < biến tánh > và <
đọa tánh >, đến kết quả sau cùng là < truy cầu thế tục >, dẫn đến thân tâm
đọa vào trong địa ngục.
Trên thế gian có rất nhiều người không hiểu được đạo lý này, họ theo
đuổi < lực lượng siêu tự nhiên >, cũng rất thức linh tánh, họ cũng đến quy
y thọ quán đảnh, nhưng mà họ vẫn không hiểu nghiệp lực là bất diệt. Tôi,
một linh tánh thượng sư nói cho mọi người biết < nghiệp lực là bất diệt >,
muốn giải trừ nghiệp chướng của bản thân, phương pháp tôi nhất là dựa
vào bản thân mà tu luyện, người không có tu luyện, muốn giải trừ <
nghiệp lực >, đó là chuyện khó khăn trên khó khăn, không những khó
khăn, thực ra là không thể có.
Ngoài ra còn có một số người, ngộ nhận rằng linh tánh thượng sư tôi có
được bản lĩnh thần thông thấu trời và thấu đất, có thể thay đổi vận mệnh,
có năng lực vô hạn, là hội tụ của tất cả học thức, thần thông, kinh nghiệm,
chỉ cần tìm được tôi, chết cũng có thể biến thành sống. Nhưng mà tôi thật
thật tại tại nói cho chư vị biết, tôi về mặt phương diện giải trừ nạn tai,
cũng phải xem trước nhân quả của đối phương, đó là đạo lý thâm sâu
nhất trong tất cả đạo lý thâm sâu, tôi không lạm dụng thần thông, cũng
không ngu muội đến gặp người là cứu.
Đại sự nghiệp chân chính của tôi, là đem thân tâm đen tối, ràng buộc, vô
tri, mê tín, tôi đem tất cả nghiệp lực màu đen giải trừ sạch sẽ, thay vào
quang minh, giải thoát, trí tuệ, chánh tín, hỷ duyệt và các đại tri thức. Tôi
sẽ dẫn đường thế nhân chân chính hướng vào con đường linh tánh.
Tinh thông tất cả mật chú pháp, không phải là thay thế cho người giải trừ
tai ương! Mà là đem tâm linh của con người, từ trong đen tối dẫn đến con
đường quang minh giải thoát. Tôi biết được người thực tế tu luyện, không
phải là người chỉ có lý luận khống và tự khoa trương thần thông, tôi
thường trong thiền định cao nhất, biết được tất cả quá khứ, hiện tại và
tương lai.
40
Hỡi con người tội nghiệp !
Nếu như bạn chân chính nhận biết Liên Sanh thượng sư.
Yêu cầu của bạn là < cho tôi tri thức vô thượng >.
Mà không phải là tiền vàng, danh vị.
Tôi có được không phải là < lợi ích thế tục >, mà là < chẩn cứu chi đạo >
012 Sư tử trùng ăn thịt sư tử
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư )
Ở Tây Nhã Đồ, quả nhiên có một người xuất gia tên gọi là < Ca Di >, ông
ấy ở hướng tây nam của bang Tây Nhã Đồ, trong một căn nhà trệt, trong
đó cung phụng Phật Thích Ca Mâu Ni, Quan Thế Âm Bồ Tát. Vị xuất gia
người Mỹ tên < Ca Di > này khoảng 30 tuổi, dáng người cao cao, da dẻ
rất trắng, tướng mạo thanh tú, là nam Tỳ Kheo. Mỗi ngày ông ấy mặc
tam y màu lông chuột, ngoài khoác áo cà sa màu cà phê, đầu cạo sáng
lạng, nhưng không có đốt vòng giới. Nghe nói < Ca Di > bái một vị sư
Trung Quốc làm thầy, cũng ở Tây Nhã Đồ truyền Phật pháp, nhưng,
những người đi nghe pháp vốn rất ít, sau đó qua một thời gian, quả nhiên
không có thính chúng. < Bồ Đề trung tâm > của <Ca Di >, là một người
xuất gia người Mỹ, một căn nhà, mấy tượng Phật, tôi thấy một số người
cùng phương tây đều xem < Ca Di > là quái vật hành tinh.
Có một ngày, tôi dẫn theo mấy đệ tử đi xem ông ấy, ông ấy biết tôi có
không ít đệ tử người Mỹ. Lần đầu < Ca Di > nhìn thấy tôi, hỏi tôi: < ông
là pháp sư phải không ?>
Tôi chỉ cười, không trả lời.
Ông ấy lại hỏi tôi: < ông quả thật có rất nhiều đệ tử người Mỹ?> ông ấy
kinh ngạc nói.
Tôi vẫn chỉ mỉm cười, tôi lạy Phật Thích Ca, lạy chư vị Bồ Tát, tham
quan căn nhà và phương pháp thờ thần của ông ta. Tôi phát hiện đằng sau
41
căn nhà của ông ấy là thung lũng, không những không có chỗ dựa vào mà
ở sau lưng là một cửa sổ rỗng, tất cả sắp xếp toàn bộ đều sai hết, cửa ra
vào của căn nhà lại rất nhiều xung sát. Đối với một người Mỹ xuất gia
như vậy, tôi phải giúp đỡ ông ấy mới đúng, nhưng mà tôi suy nghĩ lại,
hòa thượng người Mỹ làm sao biết được huyền diệu của địa lý Trung
Quốc ( địa linh ), tại sao tôi lại phải nhiều chuyện như vậy ! Tôi chỉ là rất
tiếc cho ông ấy, một hòa thượng người Mỹ, một căn nhà trệt, độ không
được chúng sanh.
Lại có một ngày, tôi kêu mấy người đệ tử người Mỹ của tôi đi thăm ông
ấy.
< Ca Di > cảnh nhiên nói với mấy đệ tử người Mỹ của tôi < Lư Thắng
Ngạn không phải là người xuất gia, ông ta không phải là pháp sư, mấy
ông làm sao lại theo ông ta học Phật pháp ! Mấy ông phải theo là tôi,
không phải ông ấy, tôi mới có đầy đủ tư cách pháp sư ! >
Các đệ tử người Mỹ về nhà thuật lại những lời nói này cho tôi nghe, tôi
vẫn chỉ cười, tôi cười là vị xuất gia người Mỹ rất là mắc cười, và không
hiểu chân thật nghĩa của Phật pháp, một đời của tôi cho rằng, chỉ cần có <
pháp >, tức là < pháp sư >. Chỉ cần có chân chính < minh tâm kiến tánh,
tự chủ sanh tử > là hoạt Phật thật. Bề ngoài là một cái đầu, trên đầu có
đốt mấy vòng giới, cũng là không có tác dụng, ở trên thế gian này, hòa
thượng tỳ kheo giả rất nhiều đó chính là < sư tử trùng ăn thịt sư tử >
Sư tử trùng trên mình sư tử, ăn là thịt của sư tử, uống là máu trên mình sư
tử. Đây thể hiện rõ một sự thật, rất nhiều hòa thượng giả, pháp sư giả, heo
treo một chiêu bài Phật, mặc pháp y Phật giáo ăn cơm ở chùa, giả danh
Phật, doanh lợi là sự thật.
Tôi chỉ ở đây đương nhiên không phải là người Mỹ xuất gia < Ca Di >
này. Tôi chỉ là tội nghiệp ông ta, chỉ là dụng công phu bên ngoài, đã là
pháp sư của nhà Phật, không phải là lo cho cái đầu trọc, đắp cà sa tức là
pháp sư. Pháp sư như vậy ai ai cũng có thể làm, ở trong nước, rất nhiều
42
ăn xin giả làm pháp sư, đi cầm bát hóa duyên. Mà những người xuất gia,
không phải thọ giới rồi là có thể tự xưng là pháp sư, những người xuất
gia thọ giới rồi, phải chân chính hiểu được mục đích < tịnh hạnh >, tu
hành chư pháp, mới được như vậy.
Có pháp độ chúng sanh có thể có đầy đủ tư cách độ chúng sanh, cũng tức
là một pháp sư chân chính.
Hôm nay, tôi cho rằng pháp sư chân chính tu hành có rất nhiều, nhưng
giả cũng không ít. Cư sĩ tu chân chính tu hành tại gia cũng có rất nhiều,
lấy mật tông mà nói, mật tông thượng sư cũng có xuất gia, cũng có tại gia,
những pháp tu của những người này đều rất cao, cư sĩ tu hành tại gia, thật
ra là khó khăn hơn người xuất gia, nếu cư sĩ tại gia tu hành, vượt xa hơn
người xuất gia tu hành, người này tự nhiên có đầy đủ tư cách của người
xuất gia. Người xuất gia luôn luôn tự ngã cống cao, cho rằng xuất gia
luôn cao hơn tại gia một bậc, thật ra đây cao phải là vấn đề tư cách cao
thấp, mà là vấn đề tu hành tiện lợi hay không tiện lợi. Một thượng sư của
mật tông, lẽ ra là vào Tỳ Lô tánh hải, thọ pháp sư quán đảnh của bổn sư
A Xá Lợi quán đảnh, là thọ nhận khả, lấy gia nghiệp của Như Lai làm sư
nghiệp chung thân, như vậy mà tu trì, thủ giới hạnh, ngày ăn một bữa.
Những người như vậy làm sao không phải làm pháp sư ? Ngược lại, một
người xuất gia thọ Cụ Túc giới, nếu như không tu trì, không trì giới,
không độ chúng sanh, cũng tính là pháp sư không ?
< sư tử trùng ăn thịt sư tử >, đó là hiện tượng của giới tự nhiên, trong
Phật môn cũng có rất nhiều sư tử trùng, làm sư tử trùng này, những pháp
sư làm sư tử trùng đều phải vào địa ngục. Lấy chiêu bài của nhà Phật, đi
khắp nơi để gạt người, bản thân không biết Phật pháp, đem chiêu bài này
biến thành công cụ cầu lấy, đó nhất định là sư tử trùng.
Tôi đương nhiên cũng biết, chiêu bài < Linh Tiên Chân Phật tông > này,
sau này cũng sẽ tụ tập một số sư tử trùng, chiêu bài họ làm rất lớn, là đem
tên họ tông chủ < Lư Thắng Ngạn > khiêng ra ngoài, sau đó mọi người
đều nói là đệ tử của tôi, trong quang minh là Lư Thắng Ngạn Linh Tiên
43
Chân Phật tông, trong đen tối là lật đổ đài của Lư Thắng Ngạn, dù sao
cũng là ăn thịt Linh Tiên Chân Phật tông Lư Thắng Ngạn, uống là máu
của Linh Tiên Chân Phật tông Lư Thắng Ngạn. Sư tử trùng ăn thịt sư tử,
không tu hành đàng hoàng, chỉ mượn cơ hội kiếm tiền, những người này,
ông trời có mắt, sau này đều gặp báo ứng, phải xuống địa ngục.
Cho nên, tôi muốn tất cả các đệ tử, phải thật lòng tu, tu luyện là thật, tất
cả đều là giả, qua đời sống linh tánh, vật dục thì giảm thiểu tối đa, pháp
vụ thì làm cho tốt, tất cả đều thanh bạch. Cái gì gọi là < pháp sư >? Pháp
sư tức là tinh thông tam tạng Phật pháp, lấy pháp làm sư, tôi là một người
có pháp tự, kế thừa pháp hệ, hiểu được yếu nghĩa của Phật pháp. Tôi
chứng ngộ tâm của tôi mới thật là người xuất gia.
Tôi sớm đã nhận biết rõ tất cả đạo lý của diệu pháp, đắc được lực lượng
Phật pháp.
013 Nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – Chứng ngộ của thượng sư )
Tôi ở Tây Nhã Đồ tu luyện các mật pháp, cùng một số người tu luyện
mật pháp là không như nhau, tôi tu là bất cộng pháp, cũng tức là cùng
mọi người giai bất đồng mật pháp, pháp như vậy gọi là < bất cộng pháp >,
là bí mật trang nghiêm không thể nói của căn bản thượng sư truyền thọ
cho tôi. Bởi tôi là đặc biệt truyền thừa của dòng truyền thừa này, cho nên
pháp của tôi tu cùng mọi người không giống nhau.
Ngoài ra, mỗi ngày tôi đều tu tập các loại pháp, trong tịnh tọa đem trung
tâm nguyệt luân phóng ra 3 tia bạch quang, không trung có Phật và Bồ
Tát giáng lâm, mỗi hồi tu pháp, tu thấy được vị Phật và Bồ Tát Kim Cang
nào thì sẽ niệm tâm chú của vị Phật Bồ Tát Kim Cang đó. Có lúc đến là
Hắc Lô Ha Kim Cang, có lúc đến là Mã Đầu Quán Âm, có khi đến là Đại
Uy Đức Kim Cang, có khi đến là Hoàng Thần Tài, có khi đến là ngũ
phương Phật, có khi đến là Liên Sanh Đại Sĩ, có khi là 21 Cứu Độ Mẫu
44
Tara, có khi là Chuẩn Đề Phật Mẫu, có khi là Kim Cang Thủ Bồ Tát,
thậm chí tổ sư của các giáo phái cũng từng đến, ngoài ra tôi ở Tây Nhã
Đồ truyền thọ bổn tôn bát đại mật pháp, cũng thường giáng lâm đàn
thành.
Khi tôi triệu thỉnh Phật và Bồ Tát đến đàn thành ( đàn thành của tôi là
Mạn Trà La, hình Phật Bồ Tát Kim Cang thần chi hải hội ), khi vị Phật
Bồ Tát Kim Cang thần nào giáng lâm, tôi lập tức trì tụng tâm chú của vị
Phật Bồ Tát Kim Cang Thần đó, pháp tu này không giống với pháp tu của
một số người ở một điểm, tôi từng tu qua pháp Kim Cang giới Mạn Trà
La có hơn một ngàn tôn thủ ấn tâm chú của Phật Bồ Tát, đó là một pháp
rất đặc thù, cái này bởi vì do duyên cớ tôi là < Hồng Quán Thánh Miện
kim cang thượng sư Liên Sanh tôn giả >, căn cứ chỉ thị của thượng sư tôi,
pháp tu của tôi không giống với mọi người, bởi vì là do duyên cớ < Đại
Trì Minh Kim Cang thượng sư >, là duyên cớ sau này phải thay mật tông
đại đại phát dương mật tông.
Tôi tham vọng các đệ tử của tôi, không cần phải mỗi pháp đều học, cơ
bản của Chân Phật tông là < giữ giới >, giữ năm giới thập thiện, trước
tiên tu tập tứ gia hạnh – tứ quy y, đại cúng dường, đại lễ bái, kim cang
tâm. Sẽ khởi linh đem chuyết hỏa thăng lên, thông tam tiêu, tam huyệt tứ
luân bảy vạn hai ngàn huyệt đều thông rồi. Mỗi ngày tu một biến tôi
truyền thọ < bổn tôn pháp >. Có duyên thì tu thêm < Liên Hoa đồng tử
tương ứng pháp > tức là < thượng sư tương ứng pháp >, tu trì như vậy
ngày ngày bất đoạn, thì đã là không đơn giản rồi, nếu muốn độ chúng
sanh, phải đợi đến bổn tôn pháp và thượng sư tương ứng pháp tu ứng rồi,
và lại từ căn bản thượng sư truyền thọ các mật pháp khác, thọ xong trên
3 quán đảnh A Xá Lợi quán đảnh, như vậy mới đủ tư cách là thượng sư
truyền pháp. Ở trong thời kỳ này, những pháp tu không những là trên
ngàn thứ, chỉ đơn giản một Quán Âm pháp, thì có Thập Nhất Diện Quán
Âm, Mã Đầu Quán Âm, Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Âm, Như Ý Luân
Quán Âm, Quán Âm bốn tay, Quán Âm 24 tay, Chuẩn Đề Quán Âm, Sư
Tử Quán Âm, Thánh Quán Âm ….. Những pháp này nếu học hết, phải
tốn rất nhiều thời gian, cho đến Ngũ Đại Kim Cang pháp, cũng cần pháp
45
pháp tinh thông, nhất nhất hiểu rõ, làm thượng sư rồi, không thể không
hiểu.
Tôi cho rằng, đệ tử Chân Phật tông, không nên tham nhiều pháp, mọi
người chỉ cần có một < bổn tôn pháp > là được rồi, < bổn tôn pháp > này
nếu tu trì, là bản thân bạn tu luyện < độc bộ pháp >. Thí dụ như tôi trước
mắt ở Tây Nhã Đồ truyền thọ tám đại pháp < Dược Sư Phật pháp >, < A
Di Đà Phật pháp >, < Quán Âm pháp >, < Địa Tạng pháp >, < Chuẩn Đề
pháp >, < Thần Tài pháp >, < Liên Hoa Sanh Đại Sĩ pháp >, < Liên Hoa
đồng tử tương ứng pháp >. Cộng thêm các mật pháp khác, hành giả chỉ
cần chọn một pháp có duyên mà tu luyện, đều được viên mãn và thành
tựu. Tôi cho rằng sau khi một pháp tương ứng rồi, tiếp tục học các pháp
khác cũng tương ứng như nhau, một pháp thông thì trăm pháp ngàn pháp
cũng thông, đây cũng là đạo lý < nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất >.
Ngoài ra khi tôi tu pháp đặc biệt là ngày ăn một bữa, < ngày ăn một bữa>
của tôi là giảm thiểu thực dục của tôi, không có sự mãn túc của sự ăn này,
thì sẽ không sản sinh tâm sắc dục. Có thể đạt đến bước < thân tâm ý > rất
là bình hằng, không có một chút tạp niệm tồn tại của việc mãn nguyện do
thực dục sanh ra, bảo trì thân tâm bình hằng, đều đem tất cả tinh thần để
trên thiền định tịnh tọa, tất cả vì thành tựu vô thượng đại pháp, đem sanh
tử bỏ ở bên ngoài, không cần tất cả, vì hoằng pháp độ sanh mà độ thiên
hạ chúng sanh. Nhưng mà pháp tu cấm thực không phải người nào cũng
có thể tu được, nhất định phải được sự chỉ dạy đặc biệt, không nên tự mò
mẫm mà tự tu luyện, cũng không nên đi tu, cái này rất là quan trọng,
pháp tu cấm thực sẽ bị đói đến sanh bệnh.
Có rất nhiều đệ tử Chân Phật tông, cho rằng thượng sư thí cúng quỷ thần
pháp, họ cũng học thí cúng quỷ thần pháp, cái này là không đúng, bởi vì
thí thực quỷ thần, bản thân nhất định phải có biến thực năng lực, nếu
không có biến thực năng lực, thì sẽ không đáp ứng đủ yều cầu của quỷ
thần, vậy thì sẽ bị tác dụng ngược lại, tất cả phải cẩn thận, tất cả phải cẩn
thận.
46
Có đệ tử gửi thư đến, muốn học các loại pháp của thượng sư. Tôi khuyên
anh ta phải từng bước từng bước mà học.
Bởi vì < nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất >. Người tu luyện, tối kỵ
nhất là không chuyên nhất, không chuyên nhất tức là hôm nay pháp này,
ngày mai pháp khác, ngày kia lại là một pháp khác nữa, tu trì như vậy, là
không có thành tựu. Những pháp đã học nhất định phải tương ứng rõ ràng,
tuân thủ giới luật, trước tiên tu tốt cơ bản của bổn tôn pháp là đủ rồi, tu
tiếp những pháp khác, một ngày một thời cũng không thể bỏ, đó là yếu
khuyết của tu pháp, tiến thêm một bước là bí mật của vô thượng mật
pháp, thì có thể thành tựu viên mãn rồi.
Sau này, chỉ cần tôi xác nhận, tôi nhất định sẽ truyền thọ cho anh ta vô
thượng ngũ bộ của tâm truyền đại pháp, đó là thành tựu bí mật của Liên
Hoa Sanh Đại Sĩ.
014 Quán tưởng bái Phật pháp
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048- Chứng ngộ của thượng sư )
Một người bạn tốt của tôi, đi tham gia đại hội thọ giới của chùa Diệu
Pháp, mỗi ngày 3 giờ sáng, thì thức dậy đến Vạn Phật điện đi lạy Phật,
trong thời lúc sương mù dày đặc, bầu trời đầy sao, thì vào đại điện, sau
khi dâng hương, phải cung kính mà lễ bái, mỗi lần anh ta lạy Phật, đều
ngũ thể đầu địa, trán và đầu chạm đất, rất là cung kính, Mà một lạy này,
không lạy đến mùi hương của mồ hôi chảy đầy, tinh lực tận cũng không
nghỉ, cũng không biết là mấy trăm lạy. Cử chỉ lạy Phật của anh ta, bị một
người xuất gia để ý.
Người xuất gia này nói: < sư huynh, ông lạy Phật rất là thành tâm >
Người bạn này của tôi nói: < tôi còn chưa bắt đầu lạy Phật >
Người xuất gia này, khi nghe người bạn của tôi trả lời, nhất thời không
hiểu được, rõ ràng là thấy anh ta lạy mấy ngày, một lần trăm lạy, tại sao
47
lại nói là chưa bắt đầu lạy Phật ? Người xuất gia sờ sờ đầu, nghi hoặc
không hiểu được.
Người bạn này của tôi, không có nói gì, chỉ là cười cười, và tiếp tục lạy
Phật.
Thật ra, tôi biết anh ta, anh ta đang dùng chính là < quán tưởng bái Phật
pháp >. Ngày đầu tiên lạy Phật của anh ta, là thay tất cả các thượng sư
của anh ta lạy Phật, ngày lạy Phật thứ hai của anh ta, là thay cha mẹ của
anh ta lạy Phật, ngày lạy Phật thứ 3 của anh ta, là thay các bạn tốt tri kỷ
của anh lạy Phật, ngày lạy Phật thứ 4 của anh ta, là thay đồng môn anh
em lạy Phật, ngày thứ 5 lạy Phật của anh ta, là thay tất cả bạn bè oán thù
của anh ta lạy Phật, ngày cuối cùng, mới là chân chính bản thân anh ta
lạy Phật.
Anh ấy là bạn mật tông của tôi, khi ở vào ngày đầu tiên lạy Phật, dâng
hương xong, bèn quán tưởng thượng sư của anh ta, thượng sư đến trước
mặt anh ta, thượng sư dung nhập vào trong thân của anh ta, thượng sư và
anh ta hợp thành một thể. Sau đó là miệng anh ta niệm chú căn bản
thượng sư, chính thức chấp tay lại bắt đầu lạy Phật, những lạy này là thay
thượng sư mà lạy, anh ta hoàn toàn không có tâm ý lạy Phật cầu phúc cho
bản thân, ông ta toàn tâm toàn ý thay thượng sư cầu phúc, đó là ngày đầu
tiên lạy Phật.
Ngày thứ 2, anh ta quán tưởng hình dung cha mẹ, dùng lực lượng của
tưởng niệm, khiến bản thân và cha mẹ hợp nhất, tuy rằng là anh ta đang
lạy Phật, thật ra là thay cha mẹ lạy Phật. Từ ngày thứ nhất đến ngày thứ 5,
anh ta đều thay người khác lạy Phật, cái anh ta đang dùng chính là < quán
tưởng bái Phật pháp >, pháp lạy Phật như vậy, người lạy, người được lạy
thay, đều có công đức.
Có một lần, có một xuất gia người Thái Lan đến tìm tôi, ông ta là Phổ
Long Kim Cang thượng sư.
48
Phổ Long Kim Cang thượng sư vừa thấy tôi, lập tức nói: < công đức
quang rất lớn >
< là sao ?> tôi chấp tay thỉnh thị
< ông dùng quán tưởng bái Phật pháp, được mấy năm rồi ?>
< thượng sư thấy được ? >
< cái này đương nhiên, quán tưởng bái Phật pháp tuy rằng đơn giản,
nhưng công đức rất lớn, có thể khiến cho người lạy được phước.>
Phổ Long Kim Cang thượng sư ở Thái Lan, uy danh rất thịnh, cùng Phổ
Tịnh Kim Cang thượng sư danh tiếng ngang nhau. Chúng tôi gặp mặt đầu
tiên, ông ấy đã nhìn ra công đức quang của tôi, vị Kim Cang thượng sư
này thật là bất phàm.
Vào ngày 7 tháng 8 năm 1983 lúc một giờ chiều, có một người tên là Do
Kiệt Vũ lúc trước làm ở Bộ Ngoại Giao đến gặp tôi, ông Do Kiệt Vũ từng
làm lãnh sự nước Ý, sau đó làm ở nước Mỹ. Đi cùng với ông ta là một
lãnh sự ở Tây Nhã Đồ Tiêu Nghị Thanh tiên sinh, hai vị lãnh sự này rất là
khách sáo muốn tôi chỉ cho họ yếu lĩnh tọa thiền. Trong đó Do Kiệt Vũ
tiên sinh, lúc trước đã từng đọc qua sách của tôi, ngồi thiền lâu năm, lúc
này Do Kiệt Vũ yêu cầu tôi nhận ông ấy làm đệ tử nhập môn. Thế là sắp
xếp tất cả, tôi chính thức truyền tứ quy y, và nghi thức quán đảnh.
Ngày đó, tôi truyền thọ < Liên Hoa Sanh Đại Sĩ pháp > cho ông ta, <
Liên Hoa Sanh Đại Sĩ pháp > này, tức là mật pháp chân chính của < Ba
Đức Mã Tát Ba Ngõa >.
Mật pháp < Ba Đức Mã Tát Ba Ngõa >, trọng ở phát tâm, tôi dạy Do Kiệt
Vũ là:
1/ Khởi giác - chế tâm về nhất
2/ Ngoại giác – không nhiễm lục trần. Quang linh tánh bao vây toàn thân,
tâm vật dục hoàn toàn kiết tịnh.
3/ Nội giác – chân như không tánh, quá khứ, hiện tại, vị lai tam tâm giai
bất khả đắc.
49
4 / Trực giác – trung đạo
Sau đó, tôi dạy ông ấy, phải tiêu nghiệp chướng kiếp trước, phát công
đức quang, nhất định phải học biết < quán tưởng bái Phật >, dụng ý của
quán tưởng là tập định, và đem quán tưởng dung nhập vào trong thân mà
lạy Phật, như vậy người được thay thế sẽ biến thành có công đức.
Đó chính là < kính lễ bổn giác tâm pháp thân, thường trụ Diệu Pháp Liên
Hoa đài >
< Quán tưởng bái Phật pháp >, ở mật tông chân chính là đem bản thân
biến thành Kim Cang Tát Đỏa, ở bên phải là người thân của cha, bên trái
là người thân của mẹ, ở trước mặt là oan gia đối đầu, ở sau lưng là lục
thân quyến thuộc và ân nhân. Ở ngoài là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh,
người, tu la, trời…. lục đạo chúng sanh. Kim Cang Tát Đỏa là Kim Cang
Thủ Bồ Tát, dẫn đạo chúng sanh, cùng quy y thượng sư, Phật, Pháp, Tăng,
nhất đồng lễ Phật, nhất đồng tu trì, nhất đồng cứu độ họ lên trời, chính là
kỳ đồng ra khổ hải, cùng chứng Phật đạo.
Om A Hung, Lễ thập phương tam thế nhất thiết Phật
Om A Hung, Lễ thập phương tam thế nhất thiết Pháp.
Om A Hung, Lễ thập phương tam thế nhất thiết Tăng.
< Quán tưởng bái Phật pháp > này của tôi, là < năng lễ sở lễ nguyên là
một thể >
50
015 Bất đắc bất sát sanh
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư )
Giáo sư đại học là ông Đại ở Hoa Sinh Tuân đến tìm tôi.
< Lư thượng sư, đối với việc phê bình một người nào đó của ông, có
được tính là sát sanh không ?>
< ông hỏi rất đúng, nói là sát sanh, trừ định nghĩa là sát hại sanh mạng ra,
còn có thể làm tổn thương tâm trí hoặc tâm linh của người khác, đều gọi
là sát sanh.> Tôi trả lời nói: < tôn chỉ của Chân Phật tông là khuyên
người không sát sanh, bởi vì bổn thể biểu tướng của vũ trụ là như nhau,
họ và ta là không có phân biệt, đối với chúng sanh chúng ta phải vĩnh
viễn từ ái, cho nên người tu luyện nhân thể phải có đồng thể đại bi, tự
nhiên phải từ ái chúng sanh, giữ giới luật không sát sanh.>
< vậy, vậy Lư thượng sư có phải là mâu thuẫn không ?>
< tôi sẽ giải thích từ từ cho ông, thì ông sẽ hiểu > Tôi nói:< ở trên thế
gian này, hoàn cảnh sẽ sản sanh ra 3 thứ duyên, thứ nhất là thiện duyên,
đến để giúp đỡ chúng ta, lấy một thí dụ, con ngựa đến để giúp đỡ cho loài
người chúng ta, ở vào thời khi chưa có xe cộ, ngựa là phương tiện đi lại
của con người, cũng có thể làm công việc khổ lực, con ngựa đương nhiên
là bạn của loài người. Thứ 2 là ác duyên, đến để tổn hại con người chúng
ta, tôi thí dụ như con sâu, nó thật là vô ích, con người chúng ta cực khổ
trồng lương thực, nó từ trong không trung mà bay đến, trong chốc lát đã
ăn cạn hết lương thực, rất nhanh người nông dân đã gặp sự đau khổ của
mất mát tài vật. Thứ 3 là duyên bất thiện bất ác, đại biểu trung tín, tôi lấy
một thí dụ để nói rõ, giống như bồ câu là đại biểu cho bất thiện bất ác, nó
đối với loài người sự có ích không nhiều, nhưng cũng không tổn hại loài
người.> tôi nói.
< người tu luyện của Chân Phật tông, đối với thiện duyên thứ nhất, chủ
trương không sát, đối với loại thứ 3 là trung tín thiện duyên, cũng chủ
51
trương không sát. Nhưng đối với ác duyên thứ 2? Nói thật, đệ tử Chân
Phật tông là giữ giới luật bất sát, bởi vì bổn tướng của vũ trụ là đồng thể
đại bi, chúng ta dùng lực lượng đi ngăn chặn sự xâm hại của côn trùng, là
không vi phạm giới luật sát sanh.>Tôi lại nói: < phê bình người nào đó,
bởi vì là do tư tưởng của người đó, hành vi, ngôn ngữ đã tổn hại đến chân
lý tu đạo hằng thường của con người, tạo thành tánh phổ biến sự tổn hại
đối với mật pháp, bản thân tôi muốn khuyến pháp về con đường chính,
chặn đứng nó tiếp tục có ý niệm tạo nghiệp, đó là vì lợi ích cuối cùng
nhất của loài người trên toàn thế giới mà phê bình.>
< cuối cùng tôi cũng hiểu ý ông rồi.> Đại giáo sư nói < nhưng mà, ở
trong một tình huống nào đó, chúng ta có thể xuất kích không ?>
< tôi cho rằng có 6 yếu tố. Thứ nhất, khi đối với có hành vi trộm cắp,
trộm cắp là hành vi < lấy pháp >. Thứ 2, đối phương có ý đồ bất lương,
hoàn toàn là có phương thức và có ý gạt người xuất hiện. Thứ 3, đã nguy
hại đến rất nhiều giới luật thiện lương, phá hoại giới luật của Phật. Thứ 4,
dùng phương thức mê hoặc đồ chúng, giống như là hại rất nhiều người tu
hành chánh thường. Thứ 5, kỳ tác pháp đã ô nhục đến phái nữ. Thứ 6,
chân chính tu pháp bị bóp méo, phá hại hình tượng chánh giáo.> Tôi nói:
< chỉ cần một trong 6 yếu tố trên, bao hàm một hoặc hai yếu tố, hoặc là
toàn bộ, thì chúng ta có thể xuất kích. Tôi cho rằng người tu luyện Chân
Phật tông là không nên có hai chữ < hoài hận >. Đối với người ác, chúng
ta chủ trương quy khuyến, khuyến đạo người ác học thiện, chỉ đường cho
họ hướng đến con đường chính, chúng ta là đối việc, không đối người,
đối với việc phê bình của một người nào đó, cũng là đứng trên một thứ
lập trường mà nói, là vì muốn họ trở thành tốt, thành một người tự mình
giác tỉnh.>
Tôi nói với Đại giáo sư: < ở trên thế gian này, người chân chính chứng
ngộ, đối với toàn thể nhân loại và chúng sanh, đều có cảm giác hoàn toàn
một thể ( Samantabhave ), cái này là nguyên vốn là vạn vật hợp nhất, lấy
một thí dụ mà nói! Một người nào đó ở trong vị trí này của tâm tôi là
người chứng đắc, giống như một đầu ngón tay nhỏ, đầu ngón tay nhỏ này
52
thường hay đau, thế là tôi tội nghiệp đầu ngón tay nhỏ này, dùng thuốc
giảm đau mà đi điều trị nó. Cái đầu ngón tay nguyên là của tôi, ký sanh ở
thân tôi, nó có đau khổ, tôi không điều trị nó được không? Tôi là một
người linh tu đắc chứng, người linh tu đắc chứng thật ra là không có thù
hận và địch ngã, tôi là tội nghiệp đầu ngón tay nhỏ này, dùng thuốc giảm
đau mà đi điều trị nó! Hôm nay tôi đến nước Mỹ để hoằng dương Phật
pháp, tôi chủ yếu đồng cảm với người Mỹ, người da trắng, da đen, da
vàng đều là bổn tướng của vũ trụ, người thượng lưu và người hạ lưu của
xã hội đều là bổn tướng của xã hội, người giàu có và người nghèo đều là
bổn tướng của xã hội, người chánh và người tà đều là bổn tướng của xã
hội. Đối với những người vô tri, tôi dùng tâm từ bi đi thể lượng.>
Đại giáo sư nói: < Hôm nay nghe những lời Lư thượng sư nói, coi như là
khai ngộ rồi, thì ra giới luật không sát sanh tồn tại rất nhiều đại đạo lý
như vậy, đó là giải thuyết của một đại trí giả. Con người quả thật rất vô
tri, sự đau khổ của con người là từ nơi không bình đẳng và vô tri mà đến,
nếu như mọi người có thể thể hội chân lý đồng thể đại bi, thế giới này sẽ
là thế giới tịnh thổ. Thí dụ của ông của rất thích hợp, đầu ngón tay bị đau,
ông dùng thuốc giảm đau điều trị nó, nếu thật sự trị không hết, ảnh hưởng
đến toàn thân hoặc là khi ảnh hưởng đến sanh mạng, đương nhiên chỉ có
phẫu thuật cắt bỏ.>
Giới thứ nhất của Chân Phật tông là giới sát sanh.
Nhưng, vì chính nghĩa của toàn thế giới, nói với tà pháp thuyết tà, chúng
ta cũng phải phê bình. Đối việc, không đối người. Hoàn toàn là theo tuần
tự của tâm < đồng thể đại bi > mà đi làm việc, dù thế nào đi nữa, chỉ có
từ bi, mà không có thù hận, đó là chứng ngộ của tôi hôm nay.
53
016 Ngày 18 tháng 5 năm thứ 34 ( dân quốc ) giờ ngọ
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư )
Các đọc giả trong nước, gởi cho tôi một cuốn < Bát Tự Của Thế Giới >,
đồng thời đính kèm một lá thư, lá thư này nói như vậy:
< Lư thượng sư, có một người tên là Liêu Vô viết một cuốn Bát Tự Của
Thế Giới, trong bài viết là kích hiến thượng sư, xin thượng sư hãy phản
kích, phản kích lại để cho hắn biết. Chúng tôi rất thích sách của ông, văn
chỉnh tu người của ông, thật là không thể nói, giống như những người vô
tri này, là phải phản kích hắn ta.>
Nhưng mà, tôi xem qua văn chương, phát hiện nội dung rất trống rỗng,
những cái viết về tôi, chỉ là đối địch với sách của tôi, chỉ theo ý của mình
mà chửi mắng. Một cuốn < Bát Tự Của Thế Giới > như vậy, tôi tưởng là
cơ hội đã đến, cơ hội của tôi là cho tôi một cơ hội < linh cảm tốt >, không
nghĩ đến, khiến người duệ khí, đây là một cuốn sách cấp thấp ở cấp 3. Có
điểm là có mùi vị < chửi rõ đánh lén >.
Muốn phê bình nó, thật ra là không có giá trị.
Không phê bình nó, thì giống như bị muỗi đốt một cái.
Tôi nghĩ, đốt một cái thì đốt một cái, không có quan hệ gì, đây là < con
muỗi đốt sừng trâu >, tôi thật ra là vô động ở ai. Cách viết văn của một
người, tương đương với thời tôi tập viết văn nghệ. Cái tên Liễu Vô được
người này lấy rất là hay, bởi vì ngược lại của <liễu vô > là < vô liễu >, vô
tri của ông Vô Liễu này là tự nhiên < ếch ở dưới đáy giếng >. Ở hồi này,
rất xin lỗi, < Bát Tự Thế Giới > của ông Vô Liễu này, còn chưa đủ tư
cách phê bình tôi. Tôi tham vọng, ông Liễu Vô là viết cho thật tốt, cần
phải cố gắng hơn nữa, đợi đến một ngày, khi thật sự có một chút kiến
thức, tôi sẽ bồi dưỡng ông, xin đừng giận, nếu ông cố gắng một chút, tôi
sẽ chấm ông, sẽ rất thân cận với ông!
54
Rất xin lỗi, xe rác của hôm qua đến, cái cuốn sách của ông là thuộc về <
rác >, đã bị tôi bỏ vào thùng rác rồi. Rất xin lỗi, đối với sáng tác của ông,
thật ra là không có được hứng thú.
Gần đây, ở Niu Trạch Tây Châu, có một ông tên là Trương Phổ Hoa, anh
ta là đệ tử của tôi, pháp hiệu là < Liên Bác >, anh ta đã xem tử vi cho tôi,
trong đó ghi là:
Càn tạo Dân Quốc năm thứ 34 ngày 18 tháng 5 giờ ngọ ( âm lịch ).
Ất Dậu tân tân tỵ đinh sửu
Nhâm ngọ đinh kỷ canh thìn bính tý
Đinh mạo ất kỷ mạo mệnh cung mậu dần
Bính ngọ đinh kỷ mậu dần bình ngữ: Diêm thượng chi cách, kim thủy từ
mộc hỏa chi thế, cường chúng cường quả, thế tại ở kỳ quả, nhâm, dậu,
quả đơn, mà ngược lại là khứ chi vi mỹ dạ.
Đinh hỏa sanh ở tiểu thử trước 10 ngày, chính là thích đế tư quyền hỏa
tán cao trương, tư thời như trời không mưa hoặc là nước sông hồ tương tế,
vạn vật sao không khô héo đốn mất sanh cơ. Cục trong tứ cường, hỏa –
mộc – kim – thủy, mộc hỏa rất cường thịnh, kim thủy yếu nhược, mất đi
ý nghĩa khảm ly tương tế, lại dậu kim bị ngọ trung đinh hỏa sở phá, bị
mão trung ấy mộc sở xung, chất kim đã không tồn tại tự nhiên, thiên can
nhâm thủy bị ất mộc sở duệ, bị đinh hỏa họp và mệnh cung mậu thổ sở
chế mất tác dụng, chất kim thủy đã thành hư cấu, chỉ có từ thế của mộc
hỏa mà biên trùng một phương. Nếu đã là từ một phương thì không thích
kim thủy phá hoại thế vượng của hỏa, càng thích mộc sanh hỏa, lấy thiên
can ất mộc làm dụng thần, mệnh cung mạo thổ làm hỷ thần. Thí dụ trong
vượng hạ nóng nực, dùng lửa để trị luyện các loại đồng sắt chỉ cần dùng
than để tăng thế vượng, không cần đến thủy để phá hoại độ nóng của lò.
Hồng lò ở trong vượng hạ chỉ được địa kiêm cục, mộc hỏa lại càng được
thế, thế cùng lực đi cùng nhau, giống như lửa đốt cháy cả một nửa vùng
trời, chính là một cây độc tú lãnh đạo quần luân tất nhiên vượt thế. Người
mộc hỏa vượng thịnh, kỳ cách cục xưng là < diêm thượng >. Quang minh
55
là kỳ bổn tánh, thành thật là bản chất, nhiệt tình là bản tánh phát huy, cẩn
trực là tát pháp tất nhiên, biết rõ là sẽ thua thiệt, nhưng đến chết cũng
không hối hận,đại nhân vật anh hùng cái thế .
Trước 27 tuổi, đại vận không đều, bàn nói không được. 27 tuổi đại vận là
kỷ thổ kỷ thổ côn nhâm sanh mộc ứng thuộc giai vận, nhưng mà năm đó
là năm cường thủy, hai năm này ưu hỷ một nửa, năm 29 tuổi năm giáp
dần cường mộc trợ hỏa duệ thủy, từ đó thần đồng biến hóa bay lên trời.
Diệu thay! Diệu thay! Từ dịch đến dịch tuế, từ đây được mộc hỏa thổ tam
thần tương trợ, chí đại thượng phu có thể phát huy, tạo phúc thiên hạ
chúng sanh, phu phục hà cầu, có thời gian 30 năm, phát huy nhân tài, trực
truy tiền hiền, tự nhiên là thánh hùng chi mệnh.
( Đệ tử Trương Phổ Hoa, là ban môn nung phủ, ở trước mặt thượng sư là
không nên nói tạo mệnh thượng sư, chỉ là đệ tử cung kính thượng sư, đấy
chí là lấy những gì đã học trình hiện thượng sư )
Đấy là ông Trương Phổ Hoa, khi lần đầu thọ quy y quán đảnh, cho tôi
tám chữ tạo mệnh. Tôi là rất tin tưởng tạo mệnh, con người tôi đúng là
cẩn trực, đến chết cũng không phản hối người, trong một đời của tôi,
không có hai chữ < phản hối >. Tôi đem tất cả những gì tôi biết, không
cần biết là địch hay bạn đều công khai ra, cá tính này là của tôi, tôi không
có cơ tâm, không có bí mật.
Có rất nhiều người rất nhiều người khuyến cáo tôi, không nên công khai
tám chữ của mình, ở trên thế gian này tiểu nhân rất nhiều, tà bùa gia, ác,
ác pháp sư, tán ma pháp, hắc pháp, trù chú pháp, đinh đầu thất tiễn ….
Đều có thể làm thượng sư chết. Nhưng mà, tôi không sợ, tôi là một người
tu pháp, đã là Hồng Quán Thánh Mão Kim Cang thượng sư, có thiên long
hộ trì, Cao Vương Quán Âm Chân Kinh có nói: < năng diệt sanh tử khổ,
tiêu trừ chư độc hại >, tôi ngày ngày tu pháp, mà được đắc chứng, tất cả
trù chú, hắc pháp, chỉ là trong quang minh của tôi thêm chút củi mới mà
thôi, lại càng thêm quang minh của tôi.
56
Lần này, tôi lại cộng khai tám chữ của tôi, hoan nghênh tà đạo tất cả mọi
người đến, làm chế Lư Thắng Ngạn này, nếu có thể làm chết được, tôi
giao lại hậu thế của tôi, phải thưởng cho họ.
017 Mạn Đạt đạt ma
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư )
Ngày 12 tháng 8 năm 1983 giờ ngọ, tôi ở Linh Tiên Cát rất an tịnh nhắm
mắt tọa tịnh.
Đột nhiên trước mắt tôi hình như sống lại, có rất nhiều khói trắng ở trước
mắt tôi lượn qua lượn lại, những đám khói trắng này giống như mây có
thể biến dạng, lúc mỏng lúc dầy. Một lát sau, ở trước mặt tôi xuất hiện
một ngọn núi cao, A! Đây là ngọn núi cao nhất toàn thế giới Hy Mã Lạp
sơn, là Hy Mã Lạp sơn không sai, là núi Hy Mã Lạp sơn! Tôi đang trong
tĩnh tọa, quả nhiên thấy được ngọn thánh núi cao nhất toàn thế giới, tôi
vui mừng quá.
Tiếp đến, tôi cuối cùng cũng vượt qua sự trở ngại của đám mây, thân
mình giống như hướng xuống, giống như rớt vào trong thung lũng không
đáy, lại thêm một lát, tôi đứng trước một cổ động của một ngọn núi, ở
trước cửa động có một người tu hành ăn mặc giống như Đạt Ma đứng ở
đó, toàn thân mặc áo cà sa màu đỏ, trên mặt có nhiều nếp nhăn, trên đầu
đội cái nón đạt ma hình 3 góc. Lúc này tôi nhìn thấy được, trên đầu chùm
một đạo quang màu vàng, trên mình phát ra đạo quang màu đỏ, tôi thấy
vị đạt ma này rất vui mừng, rất nhanh tôi quỳ xuống đảnh lễ ông ấy.
Lão Đạt Ma cười ha hả nói: < cuối cùng ông cũng đã đến, Liên Sanh >
Tôi kinh ngạc nói: < thượng sư nhận ra tôi >
< tại sao lại không biết, không có tôi phóng ra sóng tâm điện, anh làm sao
đến đây được >
57
< tôn xưng của thượng sư ?>
< người tu hành ở Hy Mã Lạp sơn gọi tôi là Mạn Đạt Ba Ba Đạt Ma >
< tôi và thượng sư có quan hệ không ?>
< làm sao không có quan hệ, đời người chỉ một lần gặp gỡ, không phải là
bạn tu hành ngàn năm, trong đó có âu diệu, thế tục phàm phu làm sao
hiểu được, giữa chúng ta tự nhiên có một đoạn duyên phận, trong ngàn
năm này, ở người đắc chứng mà nói, chỉ là trong một chốc lát mà thôi, ở
mặt này, ông đã đột phá nhanh rồi, ha ha! Ha ha !>
Mạn Đạt đạt ma kéo lấy tay của tôi, vào trong cổ động, thì ra cổ động này,
bề ngoài thì không trông ra gì, nhưng ở bên trong thì rất rộng lớn, màu
của đá và chất của đá bên trong là màu đỏ chìm, trong động có những đá
trụ được treo ngang, khi con người muốn đi qua phải tránh lấy nó, trong
động có một ghế đá được bày rất bóng, tôi nghĩ đó là nơi mà < Mạn Đạt
đạt ma> tịnh tọa, tôi nhìn bề mặt của miếng đá, có chỗ lồi lõm, vừa đúng
kích cỡ ngồi tọa theo chỉ giáo của Liên Hoa Sanh Sĩ. Chúng tôi đi qua
động trước, đến động phía sau, không nghĩ đến có một luồng gió lạnh
thổi qua, tôi ngước đầu nhìn lên, thì ra phía trên là một cái lỗ lớn, có thể
nhìn thấy được bầu trời xanh, ở động phía trước thì hơi tối, động phía sau
thì sáng hơn, ở động phía sau càng có thể kích lên thiên sủng, động này
chỉ ở trên đỉnh đầu của mình hơn 10 trượng, càng diệu hơn nữa, ở phía
sau động có một cây châu đằng hoa tựa như cây vậy, trên đó có rất nhiều
trái.
< Cái này là trái gì ?>
Mạn Đạt đạt ma cười ha ha: < không biết là trái gì, bởi do được trời cho,
tự đắc rất diệu, tôi gọi là trái thiên diệu, ông ăn thử một trái xem xem.>
tôi ăn một trái, chỉ có một ít vị ngọt, nước cũng không nhiều, như trái đào,
nhưng mà không chua, mùi vị không được tốt lắm.
58
Chỉ có một điều làm tôi kinh ngạc là, trong động có một hồ nước, nước ở
hồ thật là trong xanh, mà lại tròn tròn, giống như mặt gương vậy đó.
< trong cổ động của ngọn núi cao này cảnh nhiên có hồ nước ?>
< không sai, nhưng mà nguồn nước là hằng hà của cổ động này, có hồ
nước này, không phải là chuyện lạ.> Mạn Đạt đạt ma nói: < chỗ diệu
không phải là ở đây, ông dùng con mắt thứ 3 nhìn xem hồ này.>
Cái hồ nước này giống như cố định ở trên đất vậy, nhất động cũng không
động, trong suốt không hoa sắc, giống như mặt gương màu xanh lam vậy,
khi tôi chú ý vào mặt gương màu xanh lam, chuyện kỳ lạ xảy ra, mặt
gương này cảnh nhiên lung linh phát sáng, và trong gương bắt đầu hiện ra
rất nhiều cảnh vật, trong đó có người, có động tác, có phong cảnh. Tôi
thấy được tương lai của thế giới rất là quan trọng rất là quan trọng, tôi
mở to miệng ra, nói không ra lời, tình tiết rất kích động.
Qua một lát, tôi nói: < cái này phát sinh không ?>
< dự bốc của mặt gương xanh lam này, không có không ứng nghiệm.>
< tôi làm cái gì, Mạn Đạt thượng sư >
< ở trong thế giới có rất nhiều phiền não này, ông phải tận lực mà làm.
Kế hoạch độ thế của ông chỉ là một đoạn bắt đầu rất nhỏ, không được
ngừng lại, bây giờ, tôi kêu ông lại, dùng tâm điện cảm ứng mời ông tới
Hy Mã Lạp sơn, tức là muốn ông phải biết, tương lai của thế giới này là
như vậy, tất cả ông đã hiểu rõ rồi, phải tự mình mà đi làm cho tốt ! >
Tôi cuối cùng cũng nhìn thấy được < bức tranh chân thật >, mà bức tranh
chân thật này chính là dự bốc về tương lai, ở trong sách này, tôi không
tiện công khai ra những gì tôi nhìn thấy, bởi vì < đạo đức quy phạm > của
người tu đạo trên thế gian này, chúng ta hiểu được đạo lý sanh sanh tử tử,
59
nhưng, không thể để người thế nhân hoảng sợ, ở trong hồ nước màu xanh
lam này, ẩn chứa thiên cơ không thể tiết lộ.
Tôi cáo biệt Mạn Đạt đạt ma, đảnh lễ Ngài, cảm tạ Ngài đã chỉ thị tôi con
đường của tương lai trong mấy năm, cũng thấy được một số việc phát
sinh của mình, muốn xảy ra sẽ xảy ra, tôi phải ở vào thế thái an nhiên.
Tôi trở về Linh Tiên Cát của tôi. Nhìn xem đồng hồ của mình, ngày 12
tháng 8 buổi chiều 1 giờ 30 phút, tôi chỉ ngồi một tiếng rưỡi đồng hồ,
trong một tiếng rưỡi đồng hồ này, tôi đến Hy Mã Lạp sơn, nhìn thấy Mạn
Đạt đạt ma, nhìn thấy dự báo của hồ nước màu xanh lam. Nói thật, dự
báo của hồ nước màu xanh lam là đúng, khi nói có ý bắt đầu ẩn cư, khi
Mạn Đạt đạt ma xuất hiện, dự báo của hồ nước chỉ thị cho tôi, tôi phát đi
đại nguyện thật ra còn chưa đến hồi kết.
018 Thí luyện của tiếp thụ pháp lực
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư )
Có rất nhiều pháp sư khi đọc xong những cuốn sách linh của tôi, bèn chia
thành 2 phái, một phái là hòa bình và hỷ duyệt, đối với chứng ngộ của tôi
là ngưỡng mộ và hộ trì. Còn lại một phái là đố kỵ và ghét hận pháp môn
thành tựu và chứng ngộ của tôi, khiến họ biến thành rất nhỏ, bởi vì, hành
động của họ đã có phản tác dụng phản tướng, tiềm ở hình thái là muốn lật
đổ vị thượng sư đã đắc chứng < Hồng Quán Thánh Mão Kim Cang
thương sư Liên Sanh tôn giả >
Rất nhiều người, dùng ghét hận, tự ti, đố kỵ, ưu việt cảm, thích khoe
khoang…. Dùng các tâm lý này mà hủy báng tôi, dùng lời nói và bút mực
rất nhiều, họ không hiểu hành vi của họ đã lộ ra tẩy hoảng sợ, và họ sẽ
đón nhận nhân quả nghiệp báo do họ tạo ra ( Samskara )
60
Ngày 15 tháng 8 năm 1983 lúc buổi tối, linh hồn của tôi trong lúc tôi
đang ngủ đã bay ra ngoài, đó chính là < linh thể du hành >, bay qua Thái
Bình Dương, đến quốc nội tỉnh Gia Nghi.
Ở gần tỉnh Gia Nghi có một miếu thần Hoàng, có một đàn pháp, tôi nhìn
thấy rất là rõ, qua cửa sổ bằng gỗ, người đó đứng trên một cây cờ đen,
một cây cờ màu vàng, hai cây này là thay thế cờ lệnh. Tôi không cần gõ
cửa, rất tự nhiên vào trong nhà. Tôi nhìn thấy đàn pháp của người này, có
một hình nhân bằng cỏ, hình nhân này không phải là ai khác, trên đó viết
tên của tôi, ngày giờ sanh của tôi, ở xung quanh hình nhân, người đó
cung phụng < thất thiên tiễn > < kiếm cá mập > < kéo càn khôn > < đồng
đinh > <máu đen > < linh ấm > < âm tương > < đinh linh đinh > < nước
phép > <dây cột linh>…. Trên pháp đàn thờ < Bát Gia tướng > và các gia
tướng của ông ta.
Những gia tướng thần đạo này, thấy tôi vào trong pháp đàn, đều nheo mắt
nhìn tôi, thậm chí thè lưỡi, tôi cúi đầu chào lễ họ, họ cũng cúi đầu trả lễ
lại tôi. Ở lập trường thần đạo, họ là không có tội, những thần đạo này chỉ
là theo pháp lệnh mà hành sự, chỉ là theo pháp lệnh của pháp sư mà hành
động là một loại linh cấp thấp, có khi, họ bị sự ràng buộc của ác pháp sư,
để khống chế can nhiễu công việc của loài người.
Pháp sư này đứng ở trước pháp đàn, mặc áo bát quái, ở phía trước và phía
sau đều có một bát quái, áo là màu đỏ, bát quái là màu trắng, ông ấy dùng
lệnh bài đập vào bàn một cái, trong miệng thì niệm chú, chú này là thỉnh
Bát Gia tướng đến Tây Nhã Đồ ở Mỹ, đem hồn phách của Lư Thắng
Ngạn dẫn về, dùng < đinh linh đinh > đem hồn phách đóng ở hình nhân
bằng cỏ, sau đó dùng < dây cột linh > cột vào hình nộm, khiến tôi qua núi
đao kiếm hải, xuống chảo dầu vào địa ngục, dùng < thất thiên tiễn > thí <
thái âm luyện hình chi pháp >, để làm chết Lư Thắng Ngạn.
Tôi đứng ở trước pháp đàn, nhìn xem pháp sư, niệm chú dùng pháp, ông
ấy liên tục dùng lệnh bài đập vào bàn, mà Bát Gia Tướng sớm đã biết tôi
đứng ở trước đàn, Bát Gia tướng muốn lên phía trước bắt tôi, họ không
61
thể hạ thủ, bởi vì < tinh quang thể > của tôi hiển thị linh thể cực tôn, bắt
không được. Nếu không bắt, thì lệnh bài của chủ nhân liên tục đập vào
bàn, thật là không biết phải làm sao. Sau đó qua việc thổi sừng trâu và
niệm chú hối thúc của pháp sư, Bát Gia tướng giống như bay và bay ra
ngoài, đến bên ngoài, không lâu sau, rất nhanh bèn quay trở lại, tôi tỉ mỉ
nhìn xem, đột nhiên đại ngộ, thì ra Bát Gia tướng đem về một hồn ma thế
mạng, là một hồn của một con mèo, đem hồn con mèo để trên hình nộm,
lúc này tờ giấy trắng trên hình nộm không có gió mà tự đong đưa, pháp
sư nhìn thấy rất vui, liền đem < đinh linh đinh > đóng trên đầu hình nộm,
dùng < máu đen > xả vào hình nộm, khiến hồn phách không rời hình nộm
được.
Pháp sư rất vui mừng chạy vào trong hậu viện, dẫn ra mấy người, chỉ vào
hình nộm nói: < hồn phách của Lư Thắng Ngạn đã bị đóng vào hình nộm
này, bây giờ đã thành công, chúng ta có thể làm cho hắn chết đi sống lại.
Pháp của tôi, thử thật là linh, tên Lư Thắng Ngạn này thì ra là người vô
dụng, pháp sư cái gì! Bây giờ kêu hắn biến thành cứt chó.>
Pháp sư này và những người ra xem này, một người tôi cũng không biết,
nhưng mà họ đối với tôi rất là ghét hận.
Một người nói: < đem chiên cho hắn chết đi >
Người khác nói: < cho hắn chết như vậy, thật dễ dàng quá, chặt tay chân
hắn trước, cho hắn sống dở chết dở mới sướng.>
Một người nói: < không được, không được, đời người đau khổ nhất là bị
đui mù và điếc, chúng ta dùng thất thiên tiễn bắn tai và mắt của hắn, cho
hắn bị đui, cho hắn bị điếc, từ đó không thể viết văn được nữa, đừng làm
chết hắn.>
Một người khác càng ác hơn liên tục la lên: < thiến hắn ta đi, thiến hắn đi,
cho hắn biến thành thái giám, vĩnh viễn thành người vô thế.>
62
Vị pháp sư và những người đó, quả nhiên là tàn nhẫn, pháp sư lập tức,
dùng pháp cung, lấy ra 4 cây < thất thiên tiễn >, niệm niệm chú, thí pháp
ở trên cung tên, lại xả nước pháp, nhắm vào mắt và tai của hình nộm mà
bắn, mỗi chỗ bắn một mũi tên, bốn đầu mũi tên này, đều có máu chó đen,
cho nên vừa thấy hình nộm, giống như mắt và tai của Lư Thắng Ngạn
toàn bộ đều chảy máu, rất là giống thật.
Pháp sư lấy thất tinh kiếm, cũng giống như vậy niệm niệm chú, phun
nước phép vừa niệm chú chửi, vừa làm công việc thiến. Kế đến, lại chuẩn
bị chảo dầu, lửa phía dưới. Chảo dầu quả nhiên cháy rất lớn, dầu sôi rất
nhanh, khói bay ra phùn phụt, pháp sư thí một hồi pháp trước, sau đó đem
hình nộm bỏ vào trong chảo dầu, một tiếng thảm kêu vang lên, nghe tiếng
không phải là người, giống như tiếng kêu của mèo, những người xung
quanh reo lên mừng rỡ, họ cho rằng < Lư Thắng Ngạn lần này bị trúng <
thái âm luyện hình chi thuật > chết chắc rồi, bị chảo dầu chiên chết, hình
bị hủy hoại, hình nộm trong chảo dầu biến sắc, thành một đống cháy đen
thui, tội nghiệp linh hồn của con mèo, kiếp trước không biết làm ác
nghiệp gì, cảnh nhiên do sự sơ sót của âm dương mà hình thần bị diệt,
khiến chuyển thế cũng không thể, nguyên thần muốn ra khỏi chảo dầu, lại
bị < đinh linh > đóng chặt, không thoát ra được, nguyên thần cũng bị diệt
luôn.
Tôi ở hiện trường, liền nghĩ đến Lý Tiểu Long, Lý Tiểu Long là một
thanh niên tráng kiện, trong giấc ngủ của anh ta là hoàn toàn bình thường,
đột nhiên khó thở kêu lên một tiếng là đi ngay. Các bác sĩ không biết
nguyên nhân gì, những hiện tượng chết này, chuyên gia y học không
khám ra được. Nhà y học ở Nhật Bản, đem sát thủ người thanh niên
cường tráng này gọi là < Ba khố lợi >, ý chỉ là < ho ho một cái > đột
nhiên tử vong đã đến. Tử vong này, không có hiện tượng của tim mạch,
túy phát tử vong, khiến bác sĩ không hiểu rõ nguyên nhân.
Nghĩ đến Lý Tiểu Long ( thi thể Lý Tiểu Long được chôn ở Tây Nhã Đồ
của nước Mỹ ), tôi cũng nghĩ đến bản thân, nếu hôm nay tôi tu pháp
không đắc chứng, thì ngày 15 tháng 8 năm 1983 lúc buổi tối này, ở Linh
63
Tiên Cát Tây Nhã Đồ của nước Mỹ, thì phát hiện trên giường của Lư
Thắng Ngạn, kết quả là không có thức dậy, là bởi vì do < tâm lực thoái
kiết tử vong >, thất khủng chảy máu, toàn thân màu đen, có thể là bị ngộ
độc! Lư Thắng Ngạn đột nhiên tử vong, cũng khiến một số người < thuộc
mộc > ! bởi vì ông ấy là tôn chủ của Chân Phật tông, cũng là một nhân
vật thành danh ở Tây Nhã Đồ, học trò của ông rất nhiều.
Đối với đàn pháp sư đàn thành ở miếu thành Hoàng tại Gia Nghi, vở kịch
sống mà họ làm cho tôi chết, tôi thấy toàn bộ rất rõ ràng, tôi rất cảm kích
mấy vị Bát Gia tướng của thần đạo này, chí ít họ cũng không có làm vậy,
< tinh quang giác > mà tôi hiện ra là một kim thân đẳng giác Bồ Tát. Bây
giờ, tôi chỉ có một lãnh ngộ càng thâm sâu hơn, một người muốn tu luyện
từ linh tánh, bởi vì một người muốn hoàn toàn hiểu rõ ý thượng chí thức,
là có thể thoát khỏi sự ràng buộc của < tử vong >, không có một loại pháp
nào có thể ràng buộc người đó, bất cứ một pháp sư nào cũng không thể
làm cho anh chết được, chỉ cần anh chân chính đắc chứng.
Hỡi những người tu luyện! Có một ngày anh sẽ phát giác, pháp lực của
linh tánh thượng sư rất là vĩ đại, một số ác pháp sư tưởng rằng có thể bắt
hồn phách của thượng sư, thật ra hồn phách của các thượng sư, sớm đã
cùng ý thức chí thượng của vũ trụ hợp nhất, trải đều khắp nơi và không
có phân biệt, ác pháp sư muốn làm chết linh tánh thượng sư, xin nghĩ
xem, có thể được không ?
Tôi ở bài văn trước, đã công khai hết ngày giờ sanh của mình, tôi chịu
thọ < thử luyện pháp lực > là không thể đếm được, vào ngày 18 tháng 5
năm dân quốc thứ 34 giờ ngọ, chính là ngày giờ sinh của tôi không thêm
không bớt, hoan nghênh mọi người cho tôi sự chướng ngại và khó khăn.
Trong những cuốn linh sách của tôi ở thời sớm nhất, cũng đã từng công
khai ngày giờ sanh của tôi. Tôi là một đấu sĩ dũng cảm của Chân Phật
tông, và nỗ lực tu trì mật pháp của mình, không sợ chết. Tôi sẽ đánh bại
từng chướng ngại một, tôi sẽ dùng pháp lực tu luyện của mình, đem
chướng ngại phá trừ thổi tan. Tâm của tôi đã liên tiếp cùng tâm chí
thượng, đã chân chính hiểu rõ tự tánh. Những người tu luyện, các bạn
64
biết được tâm cao nhất, thuần nhất, và vi diệu nhất không ? Đó chính là
vô hạn và vô tận, cảnh giới vĩnh hằng của tâm Phật.
019 Hảo hợp của thần tính
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư ).
Một người phụ nữ tên là Trần Nhã Tư ở ( Toron to Ontario ) Canada, dẫn
theo người nhà đến Tây Nhã Đồ tìm tôi để thần toán. Có một người hàng
xóm của bà Trần Nhã Tư là ông < An Đắc Tâm > tiên sinh, nghe nói thần
toán của tôi cực chuẩn, bèn hiếu kỳ theo họ đến. Họ cùng tôi liên lạc qua
điện thoại trước, lẽ ra là tôi từ chối họ, bởi vì tôi cảm thấy, thần toán cũng
là một trong những phương pháp độ chúng sanh, nhưng, cho dù không
thượng thừa, nhất là tôi đang ở đây tinh tấn thiền định, rất sợ nhiều người
đến đây, nhưng mà họ đọc sách của tôi đã nhiều năm, rất thành ý mà đến,
tôi không nỡ từ chối tâm ý tốt của họ.
Thần tính của ngày hôm đó, tính rất là chuẩn, bà Trần Nhã Tư rất là vui
mừng. Chỉ có một nghi hoặc duy nhất là < An Đắc Tâm > tiên sinh.
Tôi dùng linh cơ thần tính, cảnh nhiên phát hiện tài vận của < An Đắc
Tâm > tiên sinh sẽ gặp nạn cướp.
Tôi nói: < An Đắc Tâm tiên sinh, ông sẽ mất một số tài lớn >
Ông ta sững người, cảm thấy rất là không thể hiểu được, lại hỏi: < xin hỏi
là khi nào ?>
< bây giờ > Tôi đáp
< bây giờ > ông lại càng nghi hoặc, lắc đầu, tự lẩm bẩm nói: < bây giờ ?
Không thể được, thật ra là không thể được, tất cả việc kinh doanh của tôi
đều thuận lợi, làm sao mà gặp kiếp nạn tài ?> ông ta rờ đầu nói.
Thế là, tôi lại tỉ mỉ xem một lần nữa, đầu ngón tay tự động nhảy, vẫn là
hai chữ không thiếu sót < hiện tại > Tôi nói < ngón tay chính là hiện tại >
An Đắc Tâm ngoại trừ lắc đầu ra, không có lời nói, ông xuống lầu, nói
với bà Trần Nhã Tư, không thể được, thần tính của Lư thượng sư bị sai
65
rồi, sợ rằng tính nhầm vào người khác rồi. Nhưng bà Trần Nhã Tư im
lặng không trả lời, Trần Nhã Tư nói với tôi: Hiện nay An Đắc Tâm đang
mở một tiệm kinh doanh đồ cổ, việc kinh doanh cũng rất tốt, đồng thời
con người của ông ta cũng rất cẩn thận, tiền bạc ít cho người khác vay
mượn, không sợ bị người khác giật tiền, lấy sự nghiệp hiện tại của ông ta
mà nói, kinh doanh phát đạt và không bị người khác giật tiền, Lư thượng
sư nói bây giờ gặp kiếp nạn tiền tài, ông ta đương nhiên là không tin.
Cả đám người họ như một làn gió nói chuyện râm ran liên tục, lại như
một làn gió chuẩn bị lên máy bay về nước. Bản thân tôi cũng cảm thấy kỳ
lạ, Bồ Tát chỉ điểm, nói bây giờ là bây giờ, nhưng bây giờ người ta đang
rất tốt, rất là thuận lợi, khó trách An Đắc Tâm lắc đầu. Sau sự việc tôi lại
hỏi Bồ Tát:
< hà tất nói với người ta là bây giờ ? Nói sau này gặp kiếp nạn tài vận,
không được sao ?>
<………. > Bồ Tát thật ra không trả lời.
Qua một ngày, đến buổi trưa hôm sau, vừa cùng Canada nói điện thoại, là
bà Trần Nhã Tư điện về.
< Lư thượng sư, Lư thượng sư, An Đắc Tâm, An Đắc Tâm, ……>
< chuyện gì vậy ? > tôi cũng gấp lên < xin nói cho rõ ràng chút.>
< ngày đến nhà ông, chính là ngày hôm đó, tiệm của An Đắc Tâm không
có mở cửa kinh doanh, là nghỉ ngày chủ nhật, có bọn trộm đột nhập vào,
từ giếng trời ở phía sau leo vào, trộm hết tất cả đồ cổ và đồ vật quý giá,
tên trộm là người trong ngành, cắt đứt tất cả máy báo trộm mới vào, đến
bây giờ sự tổn thất là không thể tính được, đó là một tổn thất rất lớn.
Người của công ty bảo hiểm cũng đến, nhưng tổn thất là không nhỏ, nhất
là mấy hôm nay không có kinh doanh, không biết bao giờ mới mở tiệm
bán lại, đây cũng là tổn thất rất lớn, theo cảnh sát nói, không phải là một
hai người làm, e rằng đó là một tập đoàn trộm cướp.>
66
< A, tôi biết rồi >
< tôi nói với An Đắc Tâm, Lư thượng sư xem rất chuẩn. Không nghĩ đến
An Đắc Tâm giận ra mặt, tức đến la lên, miệng phá giới, tôi tức chết thôi,
tôi tức chết thôi.> lời nói của bà Trần Nhã từ từ điện thoại truyền qua,
giống như là rất vì tôi mà bất bình.
< đừng có giận, xin thay tôi hỏi thăm An Đắc Tâm tiên sinh, bởi vì ông
ấy gặp trộm, tâm không được tốt, gặp chuyện gì thì tự nhiên cũng không
vui được, bà cũng không nên nhắc đến việc tôi thần tính cho ông ấy, nhất
là trong lúc này, bà phải đợi ông ta xử lý xong tất cả công việc, khi tâm
tính ổn định trở lại, mới nói với ông ta, có thể trong việc này tôi có thể
giúp ông ta chút ít, xin hãy chuyển cáo với ông ta.>
Sau khi nghe điện thoại xong, tôi ngồi thừ ra ở ghế, chuyện này quá hảo
hợp, làm sao hảo hợp đến như vậy, tức là đúng ngày ông ta ở nơi đây để
tôi xem thần tính, cũng đúng thời khắc mà tôi thần tính cho ông ấy, tức là
< hiện tại >, hiện tại chính là đang gặp nạn tiền tài của nạn trộm cướp,
trong chốc lát, đem việc không có thể, hoàn toàn biến thành có thể, đây
chính là vô hảo bất thành sách, trong thiên hạ lại có chuyện hảo hợp như
vậy.
Nói thật trong mật pháp sự thật là có rất nhiều năng lực không thể biết,
giống như năng lực biết trước, năng lực phù thuật, năng lực thôi miên,
năng lực thần du, năng lực trị bệnh, năng lực sát hại …. Người tu luyện
đều có thể đạt được công năng đặc thù này. Thần tính cho người khác là
một năng lực của tính hướng ngoại, là một trong những tạp mật pháp của
thế tục, không phải là tu luyện tinh vi, mà chỉ là năng lực phụ thuộc của
người tu luyện mà thôi.
Ở Tây Nhã Đồ của nước Mỹ, đối với ứng nghiệm của thế tục thần tính,
tôi cho rằng đó là một xung kích rất thô đần, không phải là tiếp tục dẫn
người nhập thắng. Đồng thời tôi tham vọng tương lai của bản thân tôi,
không cần phải dùng thần tính mà độ chúng sanh, mà là dùng tánh trí tuệ
67
< thuyết pháp >, cho loài người một chỉ dẫn tốt hơn, dẫn đạo con người
đi trên con đường nghiêm thủ giới luật và linh tu, đạt đến mục tiêu cuối
cùng, như vậy mới có giá trị vô và luân bỉ.
020 Tinh thần của đàn tràng
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư )
Ở tịnh xá Linh Tiên Cát của Tây Nhã Đồ ở mỹ, tôi bố trí 3 đàn thành. Nói
là 3 đàn thành, tức là nơi cúng dường pháp tướng Phật và Bồ Tát. Đàn
thành thứ nhất ở lầu 3 của Linh Tiên Cát, đây là đàn thành của ngũ
phương Phật. Đàn thành thứ 2 là ở phòng khách, là đàn thành của Liên
Hoa Sanh Đại Sĩ, A Di Đà Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ
Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát, Chuẩn Đề Bồ Tát, và xung quanh của đàn
thành thứ 2, tôi cũng bố trí một đàn thành vũ trụ, đàn thành thứ 3 là ở
dưới tịnh xá, không nhất định là nhìn ra được.
Đàn thành vũ trụ thứ 3 này, là Ngài Liên Hoa Sanh Đại Sĩ chỉ thị tôi bố
trí. Dùng một thau bằng vàng, trong thau đựng nửa thau gạo, trên gạo
cắm 3 cây nhang bằng vòng, nhang vòng là không đốt cháy. Thau bằng
vàng là đại biểu cho toàn bộ vũ trụ, gạo trong thau là thay thế cho chúng
sanh, trên gạo có cắm 3 vòng nhang, là đại biểu tam giới: vô sắc giới, sắc
giới, dục giới. Phàm là tu nhất thiết pháp, bất kể là pháp xuất thế và nhập
thế, ở vũ trụ đàn thành mà thí, nhất định có tương ứng.
Ngài Liên Hoa Sanh Đại Sĩ nói với tôi, bảy đại nguyện lực tượng trưng
của vũ trụ đàn thành:
Nguyện lực thứ nhất – tâm của người tu hành lấy đồng thể đại bi làm tinh
thần, hướng toàn bộ vũ trụ tam giới của thánh triết và thiên hạ chúng sanh,
kính lễ chí thượng lớn nhất.
68
Nguyện lực thứ 2 – người tu trì ở phía trước đàn thành tu pháp, trình hiện
thân, khẩu, ý, cho toàn vũ trụ, lợi ích cho thiên hạ chúng sanh, cống hiến
của tu trì này là đệ nhất.
Nguyện lực thứ 3 – người tu trì ở trước đàn thành tu pháp, là một pháp
môn tập thể sám hối của pháp môn vi diệu nhất, người tu trì có thể rửa
được 3 đời tội chướng, chúng sanh cũng được cứu độ,
Nguyện lực thứ 4 – người tu trì ở trước đàn thành tu pháp, chính là phát
huy nguyện lực quảng độ chúng sanh, cái này tượng trưng cho chí hướng
vĩ đại cũng người tu trì, giống như công đức hạ sanh của Phật Di Lạc.
Nguyện lực thứ 5 – người tu trì ở trước đàn thành tu pháp, chính là
chuyển động pháp luân của vũ trụ, cùng thiên hạ chúng sanh đều có
duyên
Nguyện lực thứ 6 - người tu trì ở trước đàn thành tu pháp, chính là
thượng sư Cô Lô không thuyên không giảm, ngoài thiền minh chánh
pháp ra, càng có thể đời đời kiếp kiếp trụ nhân gian, mà lợi ích chúng
sanh.
Nguyện lực thứ 7 – người tu trì ở trước đàn thành tu pháp, có thể đem
công đức tu pháp, hồi hướng tam giới chúng sanh.
Tôi từng thấy Ngài Liên Hoa Sanh Đại Sĩ lấy Hồng Quán của mình
xuống, để trên đàn thành vũ trụ của mình để cúng phụng, cái này tượng
trưng cho Ngài Liên Hoa Sanh Đại Sĩ đem toàn bộ tinh thần quán trụ ở
trên thân, khẩu, ý của chúng sanh, dùng chân lý chứng ngộ thành Phật,
hướng thập phương thế giới chúng sanh phóng xạ Phật lực từ bi. Tâm của
Liên Hoa Sanh Đại Sĩ, cùng tâm của thiên hạ chúng sanh, là khấu thông
đạt đến chí nhất. Bản thân tôi trong quá trình tu hành, đem tâm ý của bản
thân mình hóa tịnh, trong một chốc lát, hoàn thành diệu trí tuệ và thanh
tịnh tâm, đó là tứ tự hoàn toàn của Ngài Liên Hoa Sanh Đại sĩ
69
Có rất nhiều đệ tử Chân Phật tông, viết thư hỏi tôi làm cách nào và làm
sao bố trí mật đàn, bởi do người hỏi quá nhiều, tôi đặc biệt giải đáp như
sau:
Lựa chọn địa điểm bố trí đàn thành, nhất định là ở trong nhà này, nơi tụ
tập khí nhiều nhất, cũng tức là nơi ẩn gió và tụ khí, ánh sáng thích hợp,
không sáng quá cũng không tối quá. Có thể độc nhất một phòng là tốt
nhất. Đàn thành nhất định phải bố trí ở nơi vách tường có chỗ dựa vào,
không được ở vách tường không vững rung linh, cũng không thể ở vách
tường trên trống rỗng và dưới cũng trống rỗng, và ngoài ra vách tường
cũng không nên có cửa sổ, bởi vì có cửa sổ, khí sẽ chạy ra ngoài.
Bố trí đàn thành, trước tiên phải xả tịnh, dùng nước chú Đại Bi hoặc cam
lồ Quân Trà Lợi Du Già Minh Vương, biên xả đàn thành, khiến âm khí ô
uế của phòng tiêu trừ, sau đó an vị Phật ở bàn cúng, lựa ngày giờ tốt, an
vị tượng Phật, hoặc là Mạn Trà La của mật tông, Mạn Trà La tức là hình
hải hội của Phật. Một số bát cúng của mật tông, là dùng chén lớn nhỏ
giống nhau, cùng một màu tám chén xếp ở trước tượng Phật, bên phải của
đàn thành có thể để kinh điển, bên trái có thể để tháp, những chén lớn
nhỏ giống nhau này, từ trái sang phải là để đựng ốc biển nhỏ, điểm tâm
trái cây, đồ hương, đèn dầu, nhang trầm hương 3 cây không đốt, hoa màu
trắng 5 đóa, nước trơn, nước hoặc là nước đun sôi. Cũng có người đem
bát cúng xếp thành 2 hàng, hàng thứ nhất xếp 8 cái chén, hàng thứ 2 cũng
xếp 8 cái chén, ở một số pháp là, hàng thứ nhất là cúng phụng chư Phật
và Bồ Tát, hàng thứ 2 là dùng ở tu pháp quán tưởng biến hóa bổn tôn.
Có một điểm phải chú ý, giống như ở phía dưới con ốc nhỏ để một ít gạo,
nhang trầm không đốt cũng để một ít gạo, làm như vậy mới cắm nhang
vào được, ngoài ra ở phía dưới 5 đóa hoa màu trắng cũng để một ít gạo
mới cắm hoa vào được. Ngoài bát cúng ra, mới đặt vào lư hương và hai
cái đèn bàn, khi đốt nhang tu pháp, nhang đốt trên lư hương.
Bát cúng có 3 ý nghĩa là sự, lý, trí
70
Sự - kiết ấn
Lý – bát cúng công đức thủy
Trí – bát phong bất động
Ngoài ra, tôi từng nói qua, cúng nước là đại biểu công đức thủy, cúng hoa
biểu thị bố thí, cúng nhang biểu thị trì giới, cúng đèn biểu thị nhẫn nhục,
cúng hương biểu thị tinh tấn, cúng điểm tâm biểu thị thiền định, cúng
nhạc biểu thị trí tuệ.
Vào trong đàn thành, nhất định phải tắm rửa tịnh thân, ít nhất phải rửa
sạch tay chân và mặt của mình, khi tu phải chuyên chú vào trên đàn thành
trang nghiêm, trang nghiêm của đàn thành có thể dẫn dắt người phát tâm
tu pháp, phát tâm hoan hỷ. Chúng ta y theo đại pháp lực trì chú, theo lực
thanh tịnh của thiền định, theo tam bảo lực của quy y thượng sư, và tinh
tấn tu trì thêm giới định huệ tam học, và tu thêm bổn tôn pháp, làm như
vậy, thì không có người không thành tựu.
021 Sổ tức quán tâm yếu
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư )
Ngày 17 tháng 5 năm 1983 lúc 3 giờ chiều, ông Vương Thạch Lân đến từ
Đài Loan đang ở chỗ của tôi, đột nhiên chuông cửa reo, bên ngoài có một
người khách đang rất gấp gáp, thì ra là một vị tăng ở Ấn Độ đi du lịch
Mỹ đến thăm, vị tăng tu hành này tên là < D.V.M.RAO > đã 72 tuổi rồi,
tuy rằng ông 72 tuổi, tay cầm cây gậy, đeo mắt kiếng, mình mặc áo tăng
bào màu trắng, hình dáng tựa như < cam địa >, nhưng mà tinh thần và thể
lực của ông ta vẫn rất tốt.
Vị tăng tu hành người Ấn Độ này, nói với tôi, sư phụ của ông là <
Buddhist Meditation Society > họ là tu luyện < TANTRA> và <
YOGA >.
71
Vị tăng già người Ấn nói: < nghe tên tuổi ông đã lâu, hôm nay đến
thăm >, vị tăng tu hành này đến nước Mỹ mới được 5 năm, hiện nay ông
ta đang ở một chùa của Ấn Độ ở Gia Di Các Đáp, tiếng anh của ông rất
nhanh, nhưng có rất nhiều âm của bản xứ, vì vậy tôi gấp rút gọi điện
thoại nhờ giúp đỡ, nhờ đệ tử của tôi là Từ thạc sĩ đến phiên dịch, nhưng
mà Từ thạc sĩ nghe nửa ngày, nhưng vẫn không hiểu được, thế là trong
lúc nói chuyện, chỉ có thể dùng tay và đoán.
Người tăng Ấn Độ nói đến sự quan trọng của < khống chế hô hấp >. Bởi
do sự nhắc nhở của vị tăng này, khiến tôi nghĩ đến tầm quan trọng của bài
viết này của tôi. Thì ra sự chính xác của hô hấp là phương pháp khống
chế năng lượng tánh mạng, mà khống chế năng lượng tánh mạng, lại có
thể khống chế tâm linh, đây là có liên quan lẫn nhau. Người tăng Ấn Độ
này nói, trải qua < khống chế hô hấp >, mới có thể đem tâm linh của con
người nâng lên tới <tam ma địa> của chí thiện, hoàn mỹ, hỷ duyệt
( Samadhi ).
Vị tăng Ấn Độ này nói < Lư thượng sư có thần thông rất lớn, tâm của ông
ta chỉ cần nghĩ đến một người nào đó đang bị bệnh, lực lượng tâm linh
của ông sẽ chảy hướng đến người đó, và bệnh của người đó sẽ khỏi. Đó
là lực lượng tiềm ẩn của người tu luyện lâu.> Tăng nhân lại nói: < tu
luyện linh tánh là một thứ khống chế hô hấp rất tỉ mỉ, là thong thả, chìm
sâu, quy luật >
Tôi nói: < qui luật của hô hấp thong thả, chìm sâu, thì sẽ sản sinh tâm
linh hòa nhã và tinh tế, nhưng hô hấp phẫn nộ, sinh bệnh, kích động, là
hô hấp thô đần, sẽ cản trở vận luật của hô hấp và tim mạch, tâm linh như
vậy là không qui tắc, là không có cách ninh tịnh, là không có cách đạt
được tinh tế, mà chỉ là tâm linh của phàm phu tục tử.>.
Thế là, tôi tham vọng đệ tử Chân Phật tông, phải học biết < sổ tức quán >,
biết được cách khống chế hô hấp.
72
Cách khống chế hô hấp, là căn cơ của thiền định, sau khi được huấn
luyện rất lâu, thì sẽ biến thành tự nhiên, đem một số thói quen hô hấp
không tốt sửa đổi, chân chính dùng < hô hấp thiền định >, như vậy chỉ hít
vào năng lượng sinh mạng của vũ trụ bao la này, như vậy là hít vào một
sinh mạng mới, thở ra những khí phế thải trong người, làm như vậy sẽ
tiếp nhận tất cả năng lượng tâm linh và cũng sẽ từ từ được gia tăng.
Tâm yếu của sổ tức quán gồm có 3:
Hô hấp chìm sâu – hô hấp chia làm 3 loại, một loại là hô hấp lên phổi,
một số người đều là hô hấp lên phổi. Còn có một loại là dùng bụng mà hô
hấp, đây là hô hấp hơi sâu, đây là hô hấp của nhà âm nhạc. Ngoài ra còn
có một loại là hô hấp bằng trung phổi. Hô hấp thiền định của chúng ta, là
phải hoàn toàn dùng hô hấp. Chúng ta phải đứng thẳng lưng, mở rộng
ngực của chúng ta ra, dùng lực dựa vào xương hướng ra ngoài, một số là
hướng xuống mà ép. Cũng tức là hít vào toàn bộ khí mới, thở ra toàn bộ
phế khí, như vậy mới là hoàn toàn hô hấp, cũng giống như những động
tác hô hấp. Những người thường làm hô hấp, tinh thần rất sảng khoái,
không bị hôn trầm tán loạn, những người tịnh tọa muốn ngủ, chính là
pháp khống chế hô hấp không đúng.
Thong thả - hoàn toàn là động tác hô hấp, tuy rằng là hô hấp đơn giản
như vậy, nhưng không phải là kịch liệt, là tim không đập mạnh, khí
không thở dốc, mà là từ từ thong thả, hơi thở không gấp, thở ra cũng
không gấp, giống như chúng ta hít vào một hơi thở, thì sẽ từ từ niệm <
Nam. Mô. A. Di. Đà. Phật (Na Mo A Mi Ta Bha)> thở ra cũng chia làm <
Nam. Mô. A. Di. Đà. Phật > đó chính là yếu điểm khống chế hô hấp của
sổ tức quán. Phải nhớ rõ, niệm Phật là niệm ở trong tâm, không phải là
mở miệng niệm, vì khi mở miệng khí sẽ chạy ra ngoài, toàn bộ hô hấp
khống chế pháp, đều là mũi phụ trách. Khi vừa mới huấn luyện, nhất định
sẽ có cảm giác không tự nhiên, nhưng mà qua một thời gian lâu, sẽ thành
thói quen, phương pháp hô hấp này, không những bảo trì được thân thể
khỏe mạnh, mà còn được sức sống dẻo dai, nói tóm lại, cái này là thố nạp
công phu.
73
Qui luật – chúng ta học tập phương pháp thổ nạp, lại cộng thêm sáu tiết
tấu của danh hiệu Phật, tức là sổ tức quán của Phật môn, có thể hoàn toàn
hô hấp, dùng niệm Phật mà phân biệt tiết tấu, thì sẽ biến thành qui luật
của hô hấp, tốc độ của hô hấp điều chỉnh thong thả chìm sâu và qui luật,
đó chính là hô hấp của người thiền định, huấn luyện này là phải từ từ,
không cần gấp, những người được huấn luyện qua, thì sức sống của phổi
lớn mạnh, leo núi không thở dốc, tiếng nói sang sảng, thân thể khỏe mạnh.
Nhớ một điểm quan trọng nhất, phương pháp huấn luyện khống chế hô
hấp, quan trọng nhất là thả lỏng tinh thần, mà không phải là làm gấp gáp,
những người học được, lấy hô hấp có thể khống chế tình tiết khẩn trương
của bản thân, có thể gia tăng tín tâm của mình. Có qui luật và hô hấp một
cách thong thả chìm sâu.
Tức là sổ tức quán của Phật môn.
Tôi nói với mọi người một bí mật, Ấn Độ có rất nhiều tăng nhân Yoga,
trong thiền định chìm sâu, vào trong cảnh giới quên ngã (quên mình), hô
hấp này chính là dài và chậm, một số hành giả vào trong < tam ma địa >,
là tâm linh hoàn toàn bình tịnh, giống như là ngưng hô hấp vậy. Như vậy,
tự tánh sẽ hiện ra rõ ràng, minh tâm kiến tánh đã ở trong đó rồi !
Sổ tứ quán là một diệu pháp môn. Tâm pháp này nếu tôi không nói thì
không có ai nói rõ ràng và minh bạch như vậy! Người học tập < tọa thiền
thông minh pháp >, thì xin học tập hô hấp khống chế pháp.
022 Câu chuyện của người Tăng Ấn Độ
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – Chứng ngộ của thượng sư )
Người tăng Ấn Độ tên là < D.V.M.RAO > ở hàn xá kể cho chúng tôi
nghe một câu chuyện xảy ra như vậy:
Có một bác sĩ tên là Nagar, ông ta là một bác sĩ sản phụ khoa, ở một nơi
tên là ETAH để hành nghề, Nagar không chỉ là một bác sĩ sản phụ khoa,
74
ông ta cũng đã từng theo một vị Đạt Ma có tiếng ở Ấn Độ tu hành, ông
Nagar khi chưa hành nghề y đã từng ở núi Hy Mã Lạp sơn bế quan tu đạo.
Ấn Độ tăng nhân nói: < bác sĩ Nagar đã từng tu hành pháp kiền kính và
pháp vương giả >
Có một đêm, trời mưa như trút nước, cây cầu bắc qua trấn bên cạnh bị
nước cuốn trôi, nước lũ chảy rất mạnh, trời thì mưa không ngừng, khắp
nơi đầy nước. Tin tức truyền đến, ở trấn bên cạnh có một sản phụ đang
chờ bác sĩ Nagar đến đỡ đẻ, người phụ nữ ở thôn bên cạnh, đang lúc vào
thời điểm sắp sanh. Nhưng mà cầu thì bị cuốn trôi, mưa và gió thì rất
mạnh, trên đường toàn là nước lũ, người và xe đều không thể đi lại, bác sĩ
Nagar không thể có cách để đi ra ngoài. Nếu muốn miễn cưỡng ra ngoài,
cũng là rất khó nhọc.
Thế là, bác sĩ Nagar liền chạy lên tịnh thất ở trên lầu, ở trước mặt tượng
Bồ Tát, đốt nhang trầm, cầu các vị thần chí thượng trên vũ trụ, khiến
dùng Ba Khắc Đế pháp yoga, rất kiền thành thay vị sản phụ kỳ cầu, Sau
đó bác sĩ Nagar nhắm mắt tịnh tọa, tâm ông không hoang mang gấp gáp,
ông tin tưởng các vị thần chí thượng trên vũ trụ sẽ giúp đỡ ông, nghe
được kỳ cầu của ông, trong khoảng thời gian trên, bác sĩ Nagar đem bản
thân có hạn của mình dung nhập vào ý thức chí thượng vô hạn.
Ở trấn bên cạnh, người sản phụ chờ sanh và người nhà của chị ta, đều rất
gấp gáp, bởi vì trời mưa như đổ nước, cầu thì bị cuốn trôi, bác sĩ không
thể đến, ở đây thì không thể tìm ra bác sĩ sản khoa. Và trong lúc thời khắc
khẩn trương nhất, có người gõ cửa, bên ngoài là bác sĩ Nagar, bác sĩ
Nagar đem theo dụng cụ y khoa, mở miệng cười, ông được dẫn vào trong
phòng, rất thuận lợi đỡ cho đứa bé ra đời, và sau đó lúc mọi người không
để ý, lén rời khỏi.
Theo người nhà của bác sĩ Nagar nói, bác sĩ Nagar lên lầu, thật ra là
không có xuống lầu, thật ra là ông thể ra ngoài để xem bệnh, cũng không
thể qua con sông mà đi đỡ đẻ.
75
Nhưng, theo người sản phụ và người nhà của chị ta, người bác sĩ đến
giúp đỡ sanh, thì rõ ràng là bác sĩ Nagar, họ tuyệt đối không nhìn lầm.
Câu chuyện này, khiến cho tên của bác sĩ Nagar, rất là nổi tiếng.
Người tăng Ấn Độ nói: < bác sĩ Nagar là một bác sĩ, cũng là một Đạt Ma
tu luyện, khi ông ta giúp đỡ trị bệnh cho người, có khi chỉ dùng kỳ cầu là
đủ rồi, ông chỉ cần lên lầu, trước mặt các vị thần kiền thành kỳ cầu, tất cả
các bệnh đều có hiện tượng khỏi hẳn. Trị bệnh tâm linh chi lưu, một số
người tu luyện đều có thể, đó là một hiện tượng tự nhiên của con người,
không có gì kỳ lạ >
Vị tăng Ấn Độ và tôi cùng cho rằng, câu chuyện của bác sĩ Nagar, có hai
cách giải đáp:
Thứ nhất, bác sĩ Nagar đã chứng đắc bí áo của sự trưởng thành linh tánh,
ông ấy đã tu luyện đến linh thể có thể tự do tự tại hiển thị ra ngoài, tự
tánh của ông có thể ngưng tụ quang minh, do đó, khi bác sĩ Nagar lên lầu,
dùng pháp linh thể ly xá pháp, và kế đến là dùng ngưng tụ pháp thay vị
sản phụ đỡ đẻ đứa bé. Một số người tu luyện nếu chỉ biết ly xá pháp, là
không thể làm việc, chỉ có người biết ngưng tụ pháp mới có thể làm việc.
Đó chính là bác sĩ Nagar, nguyên thần xuất ra rồi, thay người sản phụ ở
trấn kế bên sanh em bé, đó là đáp án thứ nhất.
Thứ 2, người tu luyện hiểu rõ, bản thể của vũ trụ này là không thực chất,
cũng tức là Phật môn nói chân không diệu hữu, có thể chứng đắc 4 chữ <
chân không diệu hữu > này, tự nhiên sẽ thể hội được chân nghĩa của vô
thực chất, khi hoàn toàn hiểu rõ được thật chất của tự tánh vũ trụ cùng
tôi hợp nhất, là tự tánh hàm tạng ở trong đại địa sơn xuyên của vũ trụ,
nếu như thông qua quảng đạo vô tư và bác ái, tự tánh cùng chí thượng
của vũ trụ là không có sự khác biệt, đó là một cảnh giới siêu việt vật chất.
Thế giới của tâm linh này, bất cứ một tưởng niệm nào đều có thể thành
tựu, cũng tức là nói, thế giới của chí thượng ý thức, phái một thiên sứ, vị
76
thiên sứ này biến hóa giống hệt như bác sĩ Nagar, trong vô hình giúp đỡ
bác sĩ Nagar, đó là đáp án thứ 2.
Còn hôm nay, ngành y khoa đã phát triển rồi, nhưng mà, con người có
thọ hơn không ? Người bệnh có càng ngày càng ít không ? Ngược lại con
người chết yểu ngày càng nhiều, những căn bệnh không tên càng ngày
càng nhiều, bệnh viện càng ngày càng nhiều, người bệnh không ít đi, mà
càng tăng thêm. Những bác sĩ hôm nay, chỉ dùng phương pháp khoa học
mà trị bệnh, dùng kim, dùng thuốc, dùng điện, bệnh viện càng nhiều càng
lớn, người bệnh càng ngày càng đông. Tôi nói nếu như bác sĩ cũng học
học khai phát lực tâm linh, vậy thì càng tốt, tịnh tọa cùng linh tánh sẽ sản
sinh ra lực lượng cũng có thể trị bệnh, y học hôm nay chỉ trọng thị
phương pháp trị bệnh khoa học ở bên ngoài, bỏ sót với năng lực trị bệnh
ở tâm linh. Bản thân tôi tin rằng, ứng dụng ý chí niệm lực và lực lượng
tâm linh của bác sĩ, có khi là vượt xa hơn dùng thuốc.
Vị tăng Ấn Độ nói với tôi: < năng lực thay người chữa bệnh của Lư
thượng sư, chính là lực lượng tâm lực đối lưu, không cần phải sử dụng
nghĩa khí gì cả, chỉ cần hai bên đốt lên lửa lòng cùng kiền đối với Bồ Tát
thì có thể được rồi, đó chính là cảnh giới cao nhất ! Đầy đủ và siêu việt,
rất là phong thạnh.>
Vị tăng Ấn Độ trước khi ra về, ông ôm chầm lấy tôi, ban phước cho tôi,
và hát một bài ca tùng tán.
Bài ca này là như vậy: < ở trong vũ trụ này, bổn là một thể, người người
tuy hai, nhưng không bất đồng. Tán dương bản thân, ca tùng chí thượng,
chân không diệu hữu, hai người điều hợp.>
Ông ấy cầm cây gậy, đi rồi.
77
023 Tâm lý nhập vào tam ma địa
( Lư Thắn Ngan văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư )
Tôi thường nói với các học trò của tôi < các bạn đã chuẩn bị tốt rồi
chưa ?>
< chuẩn bị cái gì ? thượng sư >
< các bạn thường hỏi tôi, làm sao nhập vào tam ma địa ? Hôm nay không
phải là vấn đề làm sao nhập vào, mà là vấn đề có chuẩn bị tốt chưa, các
bạn chuẩn bị tốt chưa ?>
< chuẩn bị làm sao ?> Các học trò hỏi ngược lại
Tôi nói với họ như vậy:
Người tu luyện muốn nhập vào tam ma địa, nhất định phải < bất kiến
sắc >, người có sắc tâm là không nhập vào được < tam ma địa >, phải biết
rằng tâm của người phàm phu thế tục là bị nhiễm sắc trần, hảo hán anh
hùng của thiên hạ, và tất cả người tu hành xuất gia tại gia, không biết có
bao nhiêu vẫn còn trong < kiến sắc >, tự tìm phiền não cảnh khổ. Muốn
nhập vào < tam ma địa >, phải đoạn trước < sắc tâm >, người là từ sắc
dục mà sanh, từ sắc dục mà chết, không đoạn < sắc tâm >, không có cách
đoạn tất cả phiền não, nếu không có c1ach đoạn tất cả phiền não, thì
không có cách vào < tam ma địa >
Có rất nhiều người tu đạo vào trong thâm sơn tu hành, tự xưng < sơn
nhân >, ý nghĩa quan trọng nhất là tránh tất cả sắc tướng, bởi vì là trong
trần thế tu hành là rất khó khăn, bởi vì trong trần thế đầy rẫy mọi sắc
tướng, tham sắc là đại dục của tâm phàm phu, rất dễ dàng xúc phát ở tâm
và làm ô nhiễm chủng tử thành Phật.
Tôi tu luyện ở Linh Tiên Cát tại Tây Nhã Đồ của nước Mỹ, càng là cấm
ngữ, không những là không nghe được các tạp âm nhàn ngữ, lại là một
người tu hành an tịnh, cho nên biến thành không có khẩu nghiệp, không
có đối tượng tán dóc, cũng không < kiến sắc >, không thấy sắc, không nói
chuyện, thì sẽ phải nhanh nhanh tu hành cho tốt thôi ! Tai không nghe âm
78
thanh mĩ mị, mắt không thấy sắc, lại là một người câm, trong 3 cái này
hoàn toàn đóng lại, đó chính là đoạn tuyệt < mắt, tai, miệng >
Ở trong một năm này, tôi rất ít ra ngoài, chỉ có một lần, một mình lái xe
ra ngoài, đến thành phố Tây Nhã Đồ, lộ trình đi và về là mất 40 phút, tôi
ở Mỹ đã thi lấy bằng lái xe. Phàm tất cả công việc, tôi là rất ít lo liệu,
giống như ăn uống, tôi có cái gì thì ăn cái đó, có cái gì thì uống cái đó, ăn
cũng không tham cầu, tất cả việc tôi đều không quản, tôi chỉ còn có 3
việc, thứ nhất là tu luyện, thứ 2 là sáng tác viết bài, thứ 3 là trả lời thư.
Đó chính là 3 sự kiện lớn trong đời sống của tôi, là rất đơn giản mà hành.
Người tu luyện tốt nhất là đừng nên cùng những người nhàn rỗi tán dóc,
bởi vì những người này rất dễ dàng gây thị phi. Tốt nhất là bản thân mình
giả bộ như ngu dốt, giống như con chim chết vậy, nói thật, tôi là giống
như một con chim chết vậy. Đến Tây Nhã Đồ ở nước Mỹ, tất cả giông
gió đều ngưng lại hết, sau khi đem ngoại duyên bỏ hết, thì sẽ dễ dàng
nhập vào < tam ma địa >, quan trọng nhất là, hành vi quá khứ của bản
thân bạn, cũng hoàn toàn quên mất rồi. Quên mất rất quan trọng, nếu
không thể quên mất quá khứ, vậy tâm vẫn không thể thanh tịnh được, nếu
không đạt được thanh tịnh, thì rất khó khăn mà vào < tam ma địa >.
Muốn xả bỏ quá khứ, sự thật là rất khó khăn, người là có tình cảm, tình
cảm của con người sẽ hoài niệm về quá khứ và sẽ kỳ vọng về tương lai.
Nhưng những người tu hành, làm một ngày hòa thượng thì gõ một ngày
chuông, không thể nghĩ về những chuyện quá khứ, những chuyện quá
khứ như một cuốn phim, toàn bộ đều bị mặt trời chiếu rọi đến thành một
màu đen, khi rửa hình ra thì không thấy gì hết, hoàn toàn biến thành như
một đứa trẻ vừa mới ra đời, thuần chân và vô tri.
Đối với tương lai, cũng không kỳ vọng kế hoạch này kế hoạch kia, người
tu luyện không nên kế hoạch thế này thế kia, bởi vì thành tựu của tương
lai tức là nỗ lực của hôm nay, cho nên hôm nay bạn xác xác thật thật mà
tu luyện, cũng tức là con đường bước vào < tam ma địa > gần thêm một
bước.
79
Hiện nay cuối cùng tôi đã chứng ngộ được một điểm, có rất nhiều đại
pháp sư đều hiểu được diệu lý của chư Phật, cũng có thể diễn giải thuyết
pháp, cũng có nhiều học vấn, cũng có thể đem tất cả kinh điển giáo nghĩa,
ngược lại mà chép, toản nghiên tường tận, thậm chí là điều phân lũ tích.
Nhưng mà họ thuyết pháp nghiên cứu đến khô miệng, mà chỉ trả lời giác
tánh của bổn hữu mà chưa thật tu luyện, cái này chỉ có tri thức không mà
thôi. Có trí thức này, là lấy ở kinh điển, là đã có rồi, nhưng bản thân bạn
có cùng chân lý khế hợp không ?
Chúng ta thường thường nói, người có chí việc sẽ thành, chúng ta chuyên
tâm làm một việc, bất cứ một việc gì đều có thể thành công. Phật lý và
thật tu nhất định là quan trọng như nhau, người tu luyện trải qua những
ngày tháng gian khổ là vì cái gì ? Không lẽ chỉ vì danh vọng, vì lợi ích ?
Những người tu hành bế hắc quan, không lẽ chỉ vì muốn được ăn tốt hơn,
ở cho tốt hơn, thậm chí là danh vọng khắp thiên hạ ? Rất nhiều rất nhiều
học trò, muốn tôi ban cho họ < tam ma địa >
Tôi hỏi: < các bạn đã chuẩn bị tốt chưa ?>
< chuẩn bị cái gì ? Thượng sư >
< là những cái này > tôi trả lời
Tôi viết một bài kệ
Đừng nên chỉ hỏi tam ma địa
Chân tu thật chứng vô nghi nghĩa
Ngoại duyên rời bỏ mới chính xác
Nội tâm biến hóa thật chân đế.
80
024 Bảo châu như ý
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư )
Trong cuốn sách < tọa thiền thông minh pháp >, tôi từng nói bởi vì tôi
cúng dường la sát quỷ tử mẫu, và A Tu La vương tặng cho tôi một Ỷ
Thiên bảo kiếm, mỗi lần tịnh tọa, Ỷ Thiên bảo kiếm này thăng lên hư
không, quay vòng trong hư không để giúp đỡ hộ pháp của tôi.
Nói trắng ra, tôi cúng dường la sát quỷ tử mẫu, mười năm đều như vậy,
chưa có một ngày gián đoạn, cái này giống như tôi tu hành vậy, tôi là một
người có đầy đủ hằng tâm, cũng có đầy đủ tín tâm, tôi tuy rằng không có
đời sống của người xuất gia, nhưng mà công việc tu hành và cúng dường
của tôi, mười năm cũng như một ngày, tôi tuyệt đối không nói dối, có thì
có, không có thì không có, con người tôi rất thản nhiên, cũng không có
tâm cơ bí mật, nói cái gì tức là cái gì.
Nhưng mà, tôi cúng dường < đại bàng kim xí điểu, quảng dã quỷ thần
chúng, la sát quỷ tử mẫu >… cái này là theo quy luật của Phật mà làm,
cúng dường < đại bàng kim xí điểu, quảng dã quỷ thần chúng, la sát quỷ
tử mẫu > là có công đức không, có lợi ích không, tôi không bao giờ nghĩ
đến, cũng không có cầu, sự thật là không biết được A Tu La vương cho
tôi Ỷ Thiên bảo kiếm, cái này là cúng dường hơn 10 năm, không cầu mà
tự đắc !
Nhớ lại hơn 10 năm trước, có pháp sư dạy tôi: < Liên Sanh, tại sao ông
không cúng dường đại bàng kim xí điểu, quảng dã quỷ thần chúng, la sát
quỷ tử mẫu ?>
< cái gì là đại bàng kim xí điểu ?>
Pháp sư nói: < năm đó, Hàm Sơn đại sư có một bài kệ, là Vĩnh Tùng Kim
Xí Điểu ! Sau khi kim xí điểu chết đi, cốt nhục tận tiêu tan, chỉ có tâm bất
hóa, viên minh quang sáng lạng. Long Vương lấy minh châu, có thể phá
81
ngàn năm tối tăm; Chuyển luân đắc như ý, năng cứu nhất thiết nạn. Như
hà tại nhân trung, nhật dụng mà bất kiến.>
Pháp sư nói với tôi: < đại bàng kim xí điểu, là chim đại bàng ở trên núi
Tu Di, sự tích khi nó trải đôi cánh ra là lớn tới 360 do tuần, khi nó vỗ
cánh, có thể quạt khô nước biển, nước biển sẽ bị quạt đi nơi khác. Khi
chim chết đi, thì chỉ là tâm bất hoại. Kim xí điểu là ăn thịt rồng để sống, ở
thời cổ, là khắc tinh của tức cả khủng long, đại bàng kim xí điểu vừa đáp
xuống, thì mổ chết khủng long, cắp bay đi, ăn rất nhiều rất nhiều rồng.
Theo ghi nhận của kinh Phật, Long Vương đi cầu Phật, cáo bạch với Phật,
nếu như kim xí điểu tiếp tục ăn rồng, không bao lâu loài rồng sẽ tuyệt
chủng. Sau đó Phật tìm kim xí điểu mà thuyết pháp, kim xí điểu nói, nếu
không ăn rồng, thì ăn cái gì ? Phật nói với kim xí điểu, sau này tôi sẽ nói
với các đệ tử tôi, mỗi cái khi cúng chay dùng cơm, bèn cùng dường hóa
pháp cam lồ cho ngươi, ông ăn những cúng dường này vậy ! >
< kim xí điểu sau này thành hộ pháp của Phật > Pháp sư nói: < nhân
duyên cúng dường kim xí điểu là như vậy đó, ngoài ra quảng dã quỷ thần
chúng, tức là một số quỷ thần tội nghiệp ở nơi hoang dã, và quỷ tử mẫu là
chuyên ăn thịt con nít hoặc là trẻ em mới sanh, cũng như vậy nghe Phật
thuyết pháp, sau này cải thiện, cũng phát Bồ Đề tâm, cho nên đệ tử của
Phật, phải thí pháp vị cúng dường cho họ >
Lúc đầu, tôi vừa nghe những lời nói của pháp sư, ngay trưa hôm đó tôi
niệm chú cúng dường, không nghĩ đến cúng dường này của tôi, là mười
năm giống như một ngày, giới luật của tôi giữ rất nghiêm ngặt, cho nên
được Long Thiên hộ trì, vô tình được A Tu La vương tặng bảo kiếm. Và
ngày cuối cùng thí thực khi tôi rời khỏi Đài Loan để đến nước Mỹ ( ngày
thí thực cuối cùng ở Đài Loan ), tức cả quảng dã quỷ thần chúng, thiên
thiên vạn vạn, đều chen đầy để tiễn biệt tôi, khiến tôi cảm động rơi nước
mắt, họ ngược lại đem nước pháp xả trên mình của tôi. Chuyện này viết ở
< sách thông linh bí pháp >.
82
Tôi bởi vì ở Linh Tiên cát Tây Nhã Đồ của nước Mỹ được kết quả tinh
tấn, phản bổn hoàn nguyên, nhập vào Tỳ Lô tánh hải, cùng Phật quang
của chư Phật nhập vào một mảng, tất cả tự tâm hiểu rõ, tự tánh phát ra
sáng lạng quang minh, cùng thập phương Phật cùng tán thán, sau đó vì
đại nguyện độ thế này, lại nhập thế mà cứu độ chúng sanh.
Ở bờ biển phía tây của Tây Nhã Đồ nước Mỹ, tôi từng đi tản bộ, đó là
một công viên, tên là < card kỳ công viên >, cách nơi tôi ở khoảng mười
phút đi xe. Công viên có một mảng cỏ xanh lớn như quảng trường. Khi
tôi đang tản bộ, dùng con mắt thứ 3 đặc thù cảm ứng, nhìn thấy giống
như một thiên thần, nhưng mà đầu rồng mình người, rất là cao lớn, đến
trước mặt tôi, toàn thân của ông ấy phóng ra quang minh nhiều sắc rất
sáng lạng, hai tay của ông ấy dùng vải vàng bọc một quả minh châu rất
quang minh.
< Liên Sanh, tôi cho thượng sư như ý >
< như ý ?> Tôi trả lời < không có ai nợ tôi ! >
< không phải như ý, là như ý bảo châu, đó tim của kim xí điểu, bởi vì do
thượng sư cúng dường đại bàng kim xí điểu, do đó được tim của đại bàng
kim xí điểu. Tim của đại bàng kim xí điểu là như ý bảo châu, lửa đốt
nước ngập vào không thể hoại, có thể phóng ra quang minh sáng lạng, có
thể cứu độ tất cả nạn, thần thông diệu dụng bất khả tư nghì. Ông chỉ cần
kỳ cầu nó, không có gì là không như ý.>
< A! tôi không thể lấy > hai tay tôi đẩy ra ngoài.
< tất cả chỉ có nhân duyên, đẩy cũng như vậy, không lấy cũng như vậy,
tất cả xem duyên phận > tay của thiên thần buông lỏng, quả châu sáng
lạng này xông thiên mà lên, vào trong thân thể tôi, tiêu mất không thấy,
thiên thần đáp sóng mà đi. Bây giờ, vì cúng dường < đại bàng kim xí điểu,
quảng dã quỷ thần chúng, la sát quỷ tử mẫu >, và vô tâm < tu cúng
dường > này của tôi, đắc được hồi báo hữu tâm. Tôi đắc chứng cái gì ?
83
Tôi nói, tu đạo phải hằng tâm bất biến, tuy rằng bạn không thấy được nó
sinh trưởng, nhưng mà đích thật đang sinh trưởng, đừng nên bao giờ suy
nghĩ, hôm nay tu hành, ngày mai thì khai ngộ, khai ngộ cũng là tự nhiên
mà có. Bạn không cần đi cầu, phải lão thật mà tu, mới có thể tự tự nhiên
nhiên mà đến.
025 < Mật Lạt Nhật Ba > là thiên ma bám thể ?
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư )
Một trong những phản bình của < Bình Mật Lạc Nhật Ba Ca tập >
Trước mắt ở Hồng Kông, nước Mỹ, tôi nghĩ ở trong nước cũng như vậy,
đang lưu hành một cuốn sách, tên của cuốn sách này là < phá tà hiển
chánh vì chúng thuyết >, phụ tiêu đề là < Bình Mật Lạt Nhật Ba Ca tập >.
Cuốn sách này lưu hành ở nước Mỹ, ở phần trước là tiếng Hoa, phần sau
là tiếng Anh, không có ghi rõ là nơi nào in ra, không có bản quyền, không
có địa chỉ, không có xuất bản xã, không có đoàn thể tôn giáo, không có
họ tên thật của tác giả.
Tác giả cuốn sách này có hai người, toàn là dùng bút danh, một người tự
xưng < Vô Úy Giả >, một người tự xưng < Đông Quân >. Cuốn sách này
tôi đọc 2 trang, chủ yếu là bình luận những cái không phải của < Mật Lạc
Nhật Ba (Milarepa)>, đem hình tượng thành Phật của < Mật Lạc Nhật Ba >
biến thành thiên ma bám thể. Đương nhiên, hình tượng của < Mật Lạc
Nhật Ba > không thể vì công kích của hai người vô danh này mà bị hủy
hoại, đắc chứng tức là đắc chứng, người thế tục đem ông ấy biến thành
ma, đem ông ấy đóng ở thập tự giá, nhưng vẫn là thánh giả đắc chứng,
tôn giả < Mật Lạc Nhật Ba >, tự nhiên cũng là người vô não, sẽ không
cùng người thế tục tranh biện. Nhưng mà, tôi từ cuốn sách này xem ra ý
đồ xuất bản của cuốn sách này là âm mưu, bởi vì, không được ngưỡng
người mà ra, lấy hạo nhiên chánh khí, đẩy phá tà thuyết ma luận.
Khi tôi đọc sách này, đặc biệt thận trọng suy nghĩ, lấy ra 2 việc sự thật
của âm mưu này:
84
Thứ nhất, cuốn sách này là một tăng đoàn này đó xuất bản, mượn công
kích < Mật Lạc Nhật Ba >, mà đả kích tất cả cư sĩ tại gia. Cái này nói lên
sự công kích của tăng gia và tại gia, rất là rõ ràng, hoàn toàn tôn sùng
tăng gia, mạo thị đại công năng của cư sĩ tại gia ( kỳ thật tác giả sớm đã
điều tra tăng đoàn này, người chủ trì này thường hay tự khoe đức, cống
cao ngã mạn )
Thứ 2, cuốn sách này là hiển giáo công kích mật giáo. Người đứng ở phía
sau chủ trì khẩu khí phê bình mật giáo không được thân thiện cho lắm,
thật ra là không tin < tức thân thành Phật >, tuy rằng là pháp sư của hiển
giáo, nhưng mà tự ngã thác đại quán rồi, đem thành Phật của mật tông
khuyết thị thành vô vật, khêu chọc vết hằn của hiển giáo và mật giáo, cố
ý mượn < Mật Lạc Nhật Ba > mà chửi nhằm để nói toàn bộ mật tông, tôi
thấy chủ ý của sách là như vậy, chửi tang chửi mai, chửi tây chửi đông,
chỉ những người đầu trọc mà chửi hòa thượng, thì ra bên ngoài là chửi <
Mật Lạc Nhật Ba tôn giả >, nhưng bên trong xương tủy là chửi < tất cả
mật tông >
Bản thân tôi khi viết bài này, sớm đã bí mật điều tra rất lâu. Điểm thứ
nhất, tôi tìm ra xuất bản xã của Cái Tăng đoàn, cùng cuốn sách < phá tà
hiển chánh vì chúng thuyết > mà so sánh, quả nhiên là cùng một xưởng in
ra, hình vẽ là cũng như nhau, xuất hiện trên sách < phá tà hiển chánh vì
chúng thuyết >, tôi lại tra kiểu chữ viết, kiểu chữ viết là cùng một xưởng
in ra, cách sắp xếp cách cục chính là cách cục sắp xếp của Cai Tăng đoàn
xuất bản xã. Điểm thứ 2, tôi lại tìm đến đệ tử của Cai pháp sư ở Mỹ, đi
xem tạng thư của họ, tôi hiển nhiên phát giác, kho của họ đang có cuốn
sách < phá tà hiển chánh vì chúng thuyết>, và đang có rất nhiều để chờ
phân ra ngoài, ý đồ này càng minh hiển. Điểm thứ 3, tôi tìm một cơ hội,
đi gặp mặt vị pháp sư này, ông ta nhận ra tôi, nhưng tôi vừa nhìn ra nhìn
ra < khí > của pháp sư này, kỷ thân bất chính.
Cuốn sách < phá tà hiển chánh vì chúng thuyết > là đệ tử đại thiên ma
viết, ở đoạn đầu họ viết: < bài văn này, là bổn trứ vô duyên đại bi, tinh
thần của đồng thể đại bi, trượng nghĩa chấp ngôn, nếu vô ý bấn truất ha
85
xích, càng vô tâm công kích vu báng. Mà là khi tịnh quán, thế phong nhật
loạn, yêu ma quỉ quái, đại hành kỳ đạo; kiêu uổng tà thuyết, gạt người
hậu học, giả làm tri thức, thật là ba tuần, dẫn đến nhân tâm sương quyết,
tán tận lương tâm. Tác giả ở trong tình hình cực đoan, mới không lường
mạo hiểm, nói thẳng bất vi. Hôm này thừa ngưỡng đại uy thần lực của
thập phương chư đức, chánh khí hào nhiên của thập phương thiện tín,
công di quên tư, vô úy phát lộ. Mong cùng nhân có chọn pháp nhãn, khai
ngộ tư nghi, đừng đọa ma võng, không tuần yêu nghiệp, quy y chánh giác.
Trung ngôn nghịch tai, đương nhiên phải thẩm tư, tế lãm tư văn, hồi
quang phản chiếu, phản cầu chư kỷ, Thứ kỷ mới bất thẹn là Chân Phật đệ
tử !>
Đọc xong đoạn văn này, tôi ngược lại thay tác giả bi ai, tác giả có hào
nhiên chánh khí, không dám dùng tên thật để viết, chửi ba tuần < Mật
Lạc Nhật Ba tôn giả >, cái này có tính là công kích vu báng không ? Tác
giả này có phải là có hắc tâm và nói lời mù không ? Phải biết rằng < Mật
Lạc Nhật Ba > là một trong đại thành tựu giả của đời thứ 5 ở Ấn Độ,
Người có 5 đại thành tựu tức là có rất nhiều cổ nhữ sắc thanh, đình nhật
đương ba song kết, tẩy na ba nhược của ni bách di, Đạt Mã Bồ Đề của Ấn
Độ, Mật Lạc Nhật Ba của Nhã Long. Pháp của bạch giáo mật tông là ở
thời nhà Tống là trực giác Phật pháp của đại thành tựu giả ở Ấn Độ là
Tiêu Lạc Ba (Tilopa) ( công nguyên 988- 1069 ), truyền đến tôn giả Na
Lạc Ba (Naropa), tôn giả Mã Di Ba (Marpa), lại truyền tôn giả Mật Lạc
Nhật Ba (Milarepa), Lại truyền Cam Bo Ba (Gampopa) tôn giả, lại truyền
Các Mã Ba (Karmapa) pháp vương. Truyền thừa này là truyền thừa của
mật tông bạch giáo, cũng tức là phái Mã Ca Châu phái, truyền thừa của
đại thủ ấn tâm pháp.
Hôm nay, tác giả chửi < Mật Lạc Nhật Ba > là đại thiên ma, vậy thì
truyền thừa của mật tông này, có phải toàn bộ là ma tử ma cháu không ?
Đồng thời đem tất cả người tu hành của Ấn Độ, hoàn toàn quét sạch sẽ.
tôi thấy người tên Vô Úy này, thật ra là < người hữu úy >, khi tôi quyết
định phải nhẹ khấy nước cho trong, có người nói với tôi, trên thế gian này,
chỉ có Lư Thắng Ngạn mới khấy được, bởi vì Lư Thắng Ngạn là vô ngại
86
tâm, bây giờ có người đang làm loạn pháp của mật tông, thì phải thỉnh Lư
Thắng Ngạn ra, đem nước đục này làm cho rõ ràng, mới được trình minh.
Bản thân tôi sau khi đắc chứng, vận dụng tinh quang thể đến chí thượng
của thiên giới, từng tham bái < Mật Lạc Nhật Ba tôn giả >, tôn giả là tổ
sư của mật pháp, cũng là tổ sư của tôi, Ngài đích thực là một vị đắc
chứng và một vị thượng sư chuyển pháp luân, đích thực là người có tu
luyện vô thượng tâm pháp. Mật Lạc Nhật Ba tôn giả từng khai thị cho tôi
nói: < bối giác hợp trần, tâm ngoại cầu pháp, mới là đại thành tựu của
thiên ma. Tức là người ngoại đạo. Phàm là nội tâm cầu pháp, tự nhiên
khai ngộ, sự khác biệt của Phật và ma là ở trong đây, phải nhanh kêu
chúng sanh quy y chánh giác.>
Khi tôi đang ở trong nước nhà, cũng đã đọc < Mật Lạc Nhật Ba > toàn
tập, tổng cộng 3 cuốn, bao gồm < Mật Lạc Nhật Ba truyền > và < Mật
Lạc Nhật Ba Thập Vạn Ca Tập >. Cuốn sách này là thạc sĩ Trương Trình
Cơ tặng cho tôi, mà thạc sĩ Trương Trình Cơ là tác giả dịch < Mật Lạc
Nhật Ba toàn tập >, ông ấy từng ở Giang Tây Lư Sơn bế quan trăm ngày,
đến cao nguyên Tây Khang, Tây Tạng, ở chùa Lạc Ma nhiều năm, cũng
đến Ấn Độ cầu pháp, nghiên cứu Phật pháp của ông vừa đúng thời gian
một con giáp, đối với nghiệp lực luận, vô ngã luận, thiền luận yoga, được
đại thành tựu rất lớn.
Bây giờ, người tên < Vô Úy giả > chửi < Mật Lạc Nhật Ba tôn giả >,
cũng chửi luôn dịch giả, ông ấy chửi thạc sĩ Trương Trình Cơ là chuyên
dịch sách tà, tuyên truyền tà giáo.
< thạc sĩ tức là Phật phải không ?> chỉ ngay mũi của Trương Trình Cơ
mà nói: < người điên của Tây Tạng >. Lại trực tiếp chê cuốn sách của
Phật giáo xuất bản xã, chê tập đoàn cư sĩ, không phải là tập đoàn tăng già.
Chúng ta đương nhiên hiểu thạc sĩ chỉ là tôn xưng của một học vị, thạc sĩ
tự nhiên không là Phật, nhưng thạc sĩ nếu tu luyện, cũng có thể thành
Phật. Cho đến chỉ người ta là người điên của Tây Tạng, đó là nhân thân
công kích. Thật ra Trương Trình Cơ từng đến nhà tôi, tôi thấy tánh của
Trương Trình Cơ rất ôn hòa bát nhã, là một quân tử, không có một chút
87
nào điên cả, Người thật tu này, cũng tuyệt đối không bao giờ nói mình là
một vị thạc sĩ, mà thạc sĩ tức là Phật, lúc đó ông còn thỉnh giáo tôi ! Cho
nên từ đây có thể thấy, gấp gáp công kích, và phát ngôn bừa bãi, ngược
lại người tên < Vô Úy giả > này, ai điên rồi, trong lòng mọi người đều
biết rõ.
Chỉ trách nhà xuất bản không đúng, nói người ta là tập đoàn cư sĩ, càng
đúng là chuyện lạ, Phật giáo là tư sản của tăng đoàn ? Thật ra Phật giáo là
của toàn nhân loại, không chỉ là loài người, chí đến tứ thánh, dưới đến lục
đạo chúng sanh, tất cả đều có phần, Phật pháp là Phật pháp của mọi
người, cư sĩ không thể xuất bản những cuốn sách liên quan đến Phật
pháp ? Chỉ có người xuất gia mới có thể xuất bản Phật pháp ? Cái này là
< Vô Úy giả > hoàn toàn không có tri thức, cũng dám nói tầm bậy, thật là
làm cho mọi người nực cười. Ai giả mượn danh nghĩa của Phật pháp, tôi
thấy rất nhiều chúng tăng, ăn cơm của Phật, giả danh Phật pháp, phá hoại
chánh pháp, nhưng là tăng nhân, đây chính là sư tử trùng ăn thịt sư tử, có
người xuất bản sách Phật, không qua sự đồng ý của họ, cũng muốn quản
đó.
Người dịch và người xuất bản, đều là người cùng < Mật Lạc Nhật Ba tôn
giả > không có can thiệp nhiều, một người chỉ là dịch sách, một người
phụ trách xuất bản, hai bên lại bị thành cùng tội, đó không phải là oan
uổng sao. Tôi nói: trong thời kỳ mạt pháp, đạo đức suy đồi, chúng tăng
giả mượn danh Phật, ăn uống của Phật, đại ngồi pháp tọa trên cao, không
hiểu được pháp yếu tu hành, Phật giáo gần bị mất diệt, nhìn thấy cư sĩ
tuyên dương Phật pháp, tâm đố kỵ nổi lên, không có chánh nhãn pháp
tạng, mở miệng là chửi người.
Nói thật, tôi là một người muốn xuất gia, nhưng khi nhìn thấy những
người xuất gia như vậy, tâm rất buồn, thật là bi ! bi !
88
026 Tổ sư thật tu 12 năm
(Lư Thắng Ngạn văn tập 147 – chứng ngộ của thượng sư )
Phản bình 2 < Bình Mật Lạc Nhật Ba ca tập>
Tôi cảm thấy rằng, bất cứ một pháp môn nào cũng trọng ở thật tu, bất cứ
một tông phái nào, cũng có thành Phật. Mà người tên < Vô Úy giả > nào
là dùng thiền tông công kích mật tông, tôi trích một đoạn như sau:
< Lục Tổ Huệ Năng đại sư là pháp tự của Phật Thích Ca Mâu Ni, bỉnh
thừa Phật Đà < lấy tâm ấn tâm, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền >
của chánh pháp pháp nhãn. Thế Tôn ở Linh Sơn cầm đóa hoa mỉm cười,
và lấy pháp môn vi diệu này truyền cho đệ tử Ca Diếp là tổ thứ nhất, và
đời đời kế tục, cho đến Tây Trúc đời thứ 28 là tổ Bồ Đề Đạt Ma. Bồ Đề
Đạt Ma quan sát < thần đán > có đại thừa căn cơ, bèn đem pháp hướng về
phía đông. Ở thời Nam Bắc triều của Lương Triều ( công nguyên 520 )
đến Trung Quốc, dựng chính pháp tràng, và thành tổ sư thứ nhất của
Trung Quốc. Theo sau, tâm ấn pháp môn và y bát, triển truyền tương
truyền đến đời Đường Lục Tổ Huệ Năng ( năm 638 – 713 ), và thiền tông
ở dưới bản đồ của nhà Đường, từ giai đoạn Sóc Chứng Phong tạo cực,
phóng ra kỳ quang dị sắc. Lục Tổ Huệ Năng là bỉnh thừa Phật tâm ấn
pháp môn < tổ sư >. Mật Lạc Nhật Ba là người gì ? Ai ấn chứng cho ông
ấy, ông ấy lại làm sao mà thành thánh nhân chí cao vô thượng trong Phật
giáo ?>
Ở đoạn văn này, tác giả lấy pháp tự của thiền tông, để công kích pháp tự
của mật tông, biểu thị pháp tự của thiền tông mới là bảng hiệu thật, còn
mật tông là giả. Thật ra mật tông là pháp môn đại thừa tối đại cuối cùng
nhất của Phật Thích Ca Mâu Ni, A Nan tôn giả bỉnh thừa Phật Đà, đến
chỗ Long Thọ Bồ Tát, Long Mẫn Bồ Tát mới không tông lập phái, trong
đó Liên Hoa Sanh Đại Sĩ đem pháp đến Tây Tạng, mới lập ra Hồng giáo,
mới lập ra căn cơ Tây Tạng mật tông. Ở thời nhà Đường khai nguyên, từ
Ấn Độ đến Trung thổ nhà Đường truyền mật thừa pháp có: Kim Cang Trí,
Thiện Vô Úy, Bất Không. Không Hải đại sư cũng đem mật thừa truyền
89
khắp Nhật Bản, ông ấy là học pháp của Tuệ Quả đại sư ở Trung Quốc.
Đại Tạng Kinh của Phật giáo ở phần mật giáo có 1600 quyển. Người đại
thành tựu ở Ấn Độ là Tiêu Lạc Ba, đem mật thừa thiền định đại thủ ấn vô
thượng tâm pháp truyền Na Lạc Ba tôn giả, lại truyền Mã Di Ba tôn giả,
Mã Di Ba truyền Mật Lạc Nhật Ba tôn giả.
Tôi không dám phủ nhận pháp tự của thiền tông, nhưng, ông Vô Úy Giả
này, ông cũng phải mở to mắt mà nhìn xem pháp tự truyền thừa của mật
tông, không nên chỉ có tôn sùng thiền tông, không nên đem 1600 quyển
mật giáo bộ trong đại tạng kinh của Phật giáo, nhất nhất như không thấy.
Thiền tông có pháp của thiền tông, mật tông có pháp của mật tông, pháp
pháp tuy bất đồng, nhưng cũng là Phật pháp, tám vạn bốn ngàn pháp môn,
độ tám vạn bốn ngàn chúng sanh, chúng sanh chỉ cần học biết một pháp,
thì có thể thành Phật đắc chánh giác, đó là do duyên cơ căn cơ của chúng
sanh bất đồng, không thể kêu tất cả Phật giáo đồ, toàn bộ tu thiền tông !
Thập tam tông của Phật giáo, là chỉ thiền tông, luật tông, Pháp Hoa tông,
Hoa Nghiêm tông, Địa luân tông, Nhiếp Luân tông, Niết Bàn tông, Tịnh
Độ tông, Duy Thức tông, Bát Nhã tông, Mật tông, Cụ Xá tông, Thành
Thật tông. Trong đó cụ xá tông và thành thật tông là tiểu thừa Phật giáo,
còn lại 11 tông là đại thừa Phật giáo. Đương nhiên mật tông cũng thuộc
về đại thừa, bởi do mật tông đặc biệt thù thắng, cho nên danh xưng phái
biệt rất nhiều, như là Chân Ngôn tông, Mật giáo, Mật thừa, Đông mật,
Trung Mật, Đài Mật, Đà La Ni môn, Thời Luân thừa, Kim Cang thừa,
Thần thông thừa, Yoga thừa, và Sanh thừa … đều là biệt xưng của mật
tông.
< Mật Lạc Nhật Ba tôn giả > là truyền nhân của thiền định đại thủ ấn,
cũng là một vị tổ sư của mật tông, hôm nay < Vô Úy Giả > công kích
Mật Lạc Nhật Ba, thì cũng giống như là công kích mật tông không ? Cái
này mới thật kêu người ta mở to mắt và miệng !
Tôi biết < Mật Lạc Nhật Ba tôn giả >, khi tu tập mật tông thiền định vô
thượng tâm pháp đại thủ ấn, từng lập lời thề, phải một mình đi đến nơi
90
thâm sơn cổ động không có dấu tích của người mà tu hành, không chứng
ngộ đại đạo đến cùng thì sẽ không xuống núi. Ông kiên thủ lời thề, một
mình ở trong < Bạch Nhai Mã Sỉ Quật >, liên tục tu luyện 12 năm, ăn <
Tầm mè > mọc dại, không có tha vật, 12 năm tu luyện khổ hạnh, mới là
không bình phàm, có thể ca và khóc cho đại tu hành đại tu luyện, đạt
được viên mãn thù thắng đại thành tựu.
Chúng ta biết được tu luyện pháp của mật tông, là vì hoàn toàn tu luyện
thanh tịnh, có một số người tu hành là bế hắc quan, vào trong sơn động
hoặc là phòng không có ánh sáng, mắt không thấy sáng thì không nhiễm
sắc, không gian cũng không lớn, tai nghe bất cứ âm thanh nào, thành ra
người mù và điếc, cái này là vì mắt không thấy sắc, tai không nghe âm
thanh. Một số người trong cảnh giới như vậy, không có không phát
khùng. Nhưng mà hành giả mật tông thì có thể hoàn toàn trong hoàn cảnh
cấm bế như vậy, mỗi ngày cố định ăn một ít lương thực, chân chính nhất
tâm tịnh tọa, thu lại toàn bộ dục niệm, vận dụng tu luyện tâm linh lực
lượng, khiến linh phách của mình hoạt động, ra ngoài khiếu, có thể đến
thượng giới trên trời, du hành thập phương Phật quốc và các nơi thế giới.
Mọi người thử nghĩ xem, bế hắc quan là tính năm, trong thời gian từ từ
trôi này, một mình ngồi trong cổ động không ánh sáng, một chút âm
thanh cũng không có, một đường ánh sáng cũng không, không nhìn thấy
thế giới bên ngoài, lúc này nếu không tu hành cho tốt, thì có việc gì để
làm, người không có hằng tâm, vừa vào trong hoàn cảnh này thì không
kinh cũng hoàn sợ, làm sao không phát khùng. Người bế hắc quan, khi
muốn xuất quan phải chú ý con mắt, trong bóng tối con ngươi đã thu nhỏ,
không nên trong chốc lát thì mở cửa động, khi mở, sáng quá, mắt sẽ mù,
cho nên chỉ mở một chút, mỗi ngày mở một chút, để sau khi con mắt
thích ứng, mới mở cửa động.
Bản thân tôi rất tín ngưỡng < Mật Lạc Nhật Ba tôn giả > tu khổ hạnh 12
năm trên núi, 12 năm không phải là thời gian ngắn, Mật Lạc Nhật Ba là
( năm 105 – 1135 ), mười hai năm đã chiếm của ông ấy 1/7 phần trăm
trong đời người của ông, đó là bộ phận khổ hạnh, cũng là thời gian tu
luyện chân chính. Thử nghĩ xem, một người trong thâm sơn cổ động
91
không có dấu tích của người, Bạch Nhai Mã Sỉ Quật, liên tiếp 12 năm
khổ hạnh, tinh thần này, thật là khiến người khâm phục. Người tu hành
phải có nghị lực và tinh thần nỗ lực hằng tâm không ngừng, so với việc tu
tập của ngày hôm nay, ăn 3 ngày rau xanh ( tu xong 3 ngày), đối với
những người muốn leo lên trời mà nói, chỉ là xấu hổ vạn phần. Hôm nay
có rất nhiều đệ tử Chân Phật tông, mới quy y không lâu, thì hỏi tôi, tại
sao không có cảm ứng, tôi nghe xong rồi thì im lặng không nói. Tôi nghĩ,
tôi tinh tấn 12 năm, chỉ mới có một ít thành tích, nhưng có một số người
chỉ quy y mới mấy ngày, thì có cảm ứng, mọi người hãy nhìn xem < Mật
Lạc Nhật Ba tôn giả >, phải kính trọng ông ta, phải học tập cho tốt tinh
thần tu pháp của ông, phải thật tu mới được đắc chứng !
Cho đến < Vô Úy Giả > công kích < Mật Lạc Nhật Ba >, cũng không
phải ở nơi lớn mà hạ xuống tay, mà là từ nơi nhỏ, Người này không nghĩ
đến tinh thần tu khổ luyện của người ta đã là 12 năm, chỉ là chấp lấy <
chi tiết trong văn > mà bình kích.
Thí dụ như Vô Úy Giả lấy < Như thị ngã văn > 4 chữ trong đại văn
chương mà nói:
< chúng ta đều biết khi Phật nhập Niết Bàn, A Nan tôn giả từng lấy 4 việc
mà hỏi Phật, một trong 4 việc đó là < sau khi Phật diệt độ, sau này khi kết
tập kinh tạng, tất cả kinh điển, lấy gì mở đầu ?> Phật đáp: tất cả kinh điển,
phải theo < như thị ngã văn > và < lục chủng thành tựu.>. < như thị > tức
tín thành tựu, ý là pháp sở thuyết của bộ kinh này, thật tại là như vậy. <
ngã văn >, thật tại là A Nan nghe Phật sở thuyết, như thị pháp là khám
khả tín, đây là tin thành tựu. Phàm kinh điển Phật sở thuyết, đều có 6
thành tựu: dịch tín thành tựu, dịch văn thành tựu, dịch chủ thành tựu, dịch
xứ thành tựu, dịch chúng thành tựu.>
< nhưng mà cuốn Mật Lạc Nhật Ba tự truyền có phải là A Nan tôn giả
đích thân nghe Phật sở thuyết không ? Không phải. Nếu là không phải
vậy thì làm sao có tư cách lấy < Như thị ngã văn > làm mở đầu cho cuốn
sách này ?>
92
Tôi cho rằng < Vô Úy Giả > giải thích < như thị ngã văn > 4 chữ này
không có sai, nhưng mà lại sai ở đâu ? Sai ở chỗ quá chấp, < như thị ngã
văn > này tuy rằng là ngôn ngữ chuyên dùng của mở đầu kinh Phật,
nhưng mà Phật không có quy định sau này trừ kinh ra, bất cứ người nào
cũng không thể dùng, < như thị ngã văn > cũng không có xin phép
chuyên lợi. Thí dụ, nếu như có một ngày, tôi đích thân đến Phật quốc
nghe Phật và Bồ Tát thuyết pháp, tôi muốn ghi lại pháp này, tôi cũng có
thể ghi lại 4 chữ < như thị ngã văn >, bởi vì đây là tôi đích thân nghe và
hiểu rõ ràng pháp do Phật khai thị, tôi dùng < như thị ngã văn > là không
có sai.
Vậy thì < Mật Lạc Nhật Ba tôn giả > truyền kỳ, vừa mở đầu < như thị
ngã văn, nhất thời chí tôn Mật Lạc Nhật Ba Hỷ Tiếu Kim Cang, ở nơi
Nhã Long trong bụng của Nhai Quật, tuyên thuyết đại thừa mật pháp.
Trong pháp hội có đại đệ tử của ngài là Nhược Quỳnh Ba, Tịch Quang
Nhược Ba, Nhạn Tổng Nhược Ba, Phật Nhật Ba ….. là các Bồ Tát trên
đăng địa, hòa lại soái bằng, Tân Đa Mã và các đệ tử nữ, và cùng rất nhiều
nam nữ thí chủ tín sĩ.> cách viết này, chính là một mở đầu của kinh Phật,
hoàn toàn dùng Phật Đà truyền thị kinh Phật: người, thời, địa, vật lấy tư
chứng minh kỳ chân thật không hư. Vô Úy Giả nói là dùng phương thức
viết này là ổ đạo kinh Phật, nhưng mà tôi nói, cái này chỉ là để chứng
minh cách thuyết pháp < như thị ngã văn > của < Mật Lạc Nhật Ba > tôn
giả là chân thật bất hư. Cách viết như vậy là < tôn sư trọng sư >, mà
không phải là < khinh sư diệt tổ >
Tôi nghĩ Phật Thích Ca đối với đắc chứng của < Mật Lạc Nhật Ba > và
thành tựu tuyên dương mật pháp, phải là vui mới đúng, có người tuyên
giảng đại thừa diệu pháp của Phật Đà, là tiếp tục Phật huệ mạng, pháp vị
vô cùng vô tận, đến ảo diệu thao thao bất tuyệt, cái này có gì không đúng ?
< Vô Úy Giả > chấp < Phật >, mà không biên sự liên tục của < Phật
pháp >, mới là đại chấp < khinh sư diệt tổ >.
93
027 Thiên nhân ấn chứng < Mật Lạc Nhật Ba >
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư )
Phản bình thứ 3 của < Mật Lạc Nhật Ba ca tập >
< Vô Úy Giả > trong bài văn này có viết: < là ai ấn chứng cho sự đắc
chứng của Mật Lạc Nhật Ba ? > tôi nói, toàn bộ Ấn Độ và Tây Tạng, đều
công nhận tôn giả là một trong đương đại thành tựu đời thứ 5. Ngoài ra
như Trường Thọ Cát Tường Thiên Nữ, cũng ấn chứng cho Mật Lạc Nhật
Ba chứng đắc, Trường Thọ Cát Tường Thiên Nữ là một nữ thần, thần
cũng quy y cầu pháp, cái này còn phải chứng minh cái gì ?
Trường Thọ Cát Tường Nữ thần tán mỹ < Mật Lạc Nhật Ba > như sau:
Nhữ cư tùng long tập thiền thời, ngã đẳng tiềm lai tác khuy tý. Kiến nhữ
thân trứ nhật nguyệt sam, sam thượng nghiêm sức vòng hoa tươi, thân đồ
hồng đơn cập đại hội, thủ chấp tán cái cập bảo tràng, bước xuống cưỡi
thú trung vương, nga nhi tiêu thất thái không trung. Nhữ chi thân hình tức
bất hiện, ngã đẳng vô do tác chướng nhiễu. Khứ tuế hạ quí sơ nguyệt thời,
tái độ thử thi kinh hãi nhữ, nhiễu nhữ tu thiền tập tam muội. Chỉ kiến nhữ
trụ hải trung ương, toàn thân y trứ cự hỏa nhiên, chúng xà trương vũ tác
phát quán; Bối dĩ lợi kiếm chi nhận khẩu, phu tọa phong mao thốc tiêm
đoan. lại kiến hỷ vũ bảo châu thượng, một miệng nuốt trọn cự cao sơn.
Ngã đẳng kiến chi tâm kinh dị, tâm sanh hy hữu khởi hoài nghi. Nhữ ư
tâm tánh chi minh thể, đã đắc toàn bộ tự tại cố, nhất tựa Đế Thích chi
Thiên Đế, tùy ý ẩn hiện khởi hóa thân. Nhữ tâm đã vô kiêu mạn cố, nhữ
nai hùng sư du già sĩ.
Nữ thần Trường Thọ Cát Tường này, đã là thân phận thiên thần, nhìn
thấy tu tập thiền định của < Mật Lạc Nhật Ba >, muốn can nhiễu ông, thử
thử bản lĩnh của ông, nhưng vừa thấy đại thần thông của < Mật Lạc Nhật
Ba >, trở thành tán mỹ và quy y. Theo tôi được biết, đệ tử của Phật Thích
Ca Mâu Ni, Tu Bồ Đề trong thiền định cũng có hiện tượng như vậy, cổng
trời mở ra, thiên nữ từ không trung mà xuất hiện, hát bài ca tán mỹ, đem
những bông hoa đẹp, từ trên không trung mà tán xuống, tôi cho rằng, vào
94
trong đại định kim cang tam muội, đều có thiên thần cảm động tán mỹ và
cúng dường. Như là Phật Thích Ca trong thiền định, đều có Đại Phạm
Thiên Vương giáng hạ, chư thiên đều có tâm cung kính, cho nên tán
dương < Mật Lạc Nhật Ba > của Trường Thọ Cát Tường Thiên Nữ, cái
này là đương nhiên.
Ngay lúc đó, không những thiên thần cung kính < Mật Lạc Nhật Ba >, <
Mật Lạc Nhật Ba > cũng có rất nhiều đệ tử, càng có rất nhiều tín đồ nghe
danh mà truy tùng, các đệ tử tùng dương tán mỹ thượng sư, đó cũng là
hiện tượng bình thường. Nhưng mà < Vô Úy Giả > đối với đối nhiều đệ
tử tán mỹ thượng sư là bất mãn và đố kỵ, thí dụ như ông ấy viết như vậy
< Một số ngụy quân tử, giả đạo học thích nhất là bán vui và lộng huyền
hư, huyền nhân nhĩ mục, thông thường là ở vai vế này là thiên ma quỷ
mỵ sở nhiếp trì, cũng có đại uy lực, khó trách môn đồ của < Mật Lạc
Nhật Ba > ngưỡng mộ vá ái ngưỡng ông, như keo như sơn, thậm chí hy
sinh tánh mạng thân tâm cũng là không sai.>
< Vô Úy Giả > viết như vậy, thật là phóng tiễn ( mũi tên ) vô lý, cũng
thật là nói tầm bậy, cái gì là ngụy quân tử ? Cái gì là giả học đạo ? Cái gì
là bán lộng huyền hư, huyền nhân nhĩ mục. Sở dĩ ngụy quân tử, giả học
đạo, thật ra là lấy tu hành làm hoảng tử, sẽ không một mình lên núi 12
năm tu khổ hạnh, ngụy quân tử, giả học đạo, cần chi phải 12 năm thật tu
khổ sở như vậy ? Tôi cho rằng núp ở sau lưng, người phóng tên bắn
người, mới là ngụy quân tử, giả học đạo, đệ tử cung kính thượng sư, cái
này là bình thường, đệ tử vì thượng sư hy sinh là một kính ngưỡng cực
chí, không lẽ < Vô Úy Giả > muốn tất cả đệ tử học Phật pháp, hủy báng
thượng sư, phê bình thượng sư, sĩ nhục thượng sư. Đệ tử của Phật Thích
Ca Mâu Ni, cũng là tùng dương tán thán như vậy:
Thiên thượng thiên hạ vô như Phật, Thập phương thế giới diệc vô bỉ
Thế Gian sở hữu ngã tận kiến, nhất thiết vô hữu như Phật giả.
95
Câu trên là tán mỹ Phật Thích Ca Mâu Ni, phàm là thiên thượng thiên hạ,
thập phương thế giới, thế gian nhất thiết, đều không thể so cùng Phật Đà,
tốt rồi, đây chính là đệ tử Phật ca tùng tán dương Phật Đà.
Mà đệ tử của < Mật Lạc Nhật Ba > tán dương < Mật Lạc Nhật Ba tôn
giả >:
< Thượng sư a! Thầy nhất định là hóa thân của đại kim cang trì, vì độ
chúng sanh mới hóa hiện ở nhân thế, thị hiện như vậy là một sự tích hy
hữu; Nếu không ít nhất cũng là vô lượng kiếp tu hành Phật đạo, đã chứng
bất thối địa của một đại Bồ Tát !
Thầy đã vì pháp, không tiếc thân mạng mà đi tu hành, sở tác sở vi, mọi
thứ mọi nơi đều biểu hiện thầy là một vị Bồ Tát phi phàm, giống như sự
khổ hạnh và nhẫn nhục của tôn giả, ở những đệ tử phàm phu này mà nói,
không nói là làm không tới, nghĩ cũng không dám nghĩ đến !
Tức là muốn học, thân thể cũng không chịu được. Cho nên thượng sư,
Thầy nhất định là một vị Bồ Tát hóa thân.>
Chúng ta nhìn xem trả lời của tôn giả như thế nào, tôn giả nói: < Bản thân
tôi cũng không biết là ai hóa thân. Thí dụ như tôi nguyên chỉ là một phàm
phu bình thường, mà nửa đời trước còn tạo ác nghiệp lớn; vì tin tưởng
nghiệp báo nhân quả, quyết tâm bỏ hết tất cả kiếp này, nhất tâm tu hành,
bây giờ cách giai đoạn thành Phật cũng có thể nói là không xa lắm. Cho
nên tức thân thành Phật là quyết vô nghi nghĩa > câu trả lời của Mật Lạc
Nhật Ba, là tự khoe không ? Tôi thấy chưa phải vậy, giống như tôn giả tự
xưng, không biết là ai hóa thân, cái này đã là rất khiêm nhường rồi. Tự
xưng nữa đời trước phạm đại ác nghiệp, mà là một phàm phu rất bình
thường, cái này là sám hối tội nghiệp của quá khứ, bây giờ đi vào con
đường tu hành, sau khi đắc chứng, từ hư tâm mà nói, cách giai đoạn
thành Phật là không xa, tức thân thành Phật quyết vô nghi nghĩa. Cái này
là tự tin của người tu hành, nguyên là bất khả hậu phi. Nhưng mà < Bình
Mật Lạc Nhật Ba Ca Tập > lại công kích Mật Lạc Nhật Ba như vậy: <
phàm là bán người tu hành, đó là giả mạo ! >
96
Theo con mắt của tôi nhìn thế giới này, trên thế giới này đích thực là có
rất nhiều người bán người < tu hành >, họ không trọng thị thực tại tu
hành, cũng không có tâm pháp tu hành, đại pháp sư mỗi ngày ra ngày hóa
duyên, đem tự viện xây như một ngọn núi, mọi nơi đều là Vạn Phật tự,
Vạn Phật điện, Vạn Phật sơn, xây chùa và kiến tạo chùa, thật ra là có thể
từ tay chúng sanh mà làm, pháp sư chỉ là đốc đạo mà thôi, không nên
thiên về hình thức bên ngoài. Chân nghĩa của pháp sư, tức là < trọng
pháp >,< tu pháp chứng pháp >, đó là yếu nghĩa thứ nhất. Nếu quá thiên
trọng về xây chùa làm chùa, đó tức là tâm ngoại cầu pháp, cái này là <
bán tu hành >.< Mật Lạc Nhật Ba > là không xây chùa miếu, có người
hiến chùa miếu cho ngài trụ trì, ngài cũng không lấy, ông ấy thường nói:
< lấy thân làm chùa cũng đủ rồi ! Thân phải là cung điện Phật ! Tự tâm
thượng sư cũng đủ rồi ! Quyết tín tức là tối thắng sĩ ! >
Sự thật là, Phật pháp bất ly tâm, tất cả ngoại tướng, đều là tâm ngoại cầu
pháp, < Mật Lạc Nhật Ba > bốn chữ này chính là yếu nghĩa của Phật Đà,
là đại tâm yếu tự tại giải thoát của Phật Đà.
Tôi thường suy nghĩ, tổ sư Mật Lạc Nhật Ba, tại sao lại chịu bình kích
vậy ! Thì ra cuốn sách < Mật Lạc Nhật Ba > bản tiếng Anh và bản tiếng
Hoa, đều bán rất chạy, rất khiến người chú ý. Hiện nay danh tiếng của
Mật Lạc Nhật Ba trên thiên giới, cũng khiến người nhân gian nghĩ tới. Tự
nhiên là vậy đó, cây to thì hay gặp gió. Những người không có việc gì để
làm, không việc tìm việc là tìm xương trong trứng gà, mau chạy đến
nghĩa phẫn điền ưng, tùy ý vu khống, mở miệng là làm người bị thương.
Họ chửi nhà xuất bản xã: < một cư sĩ nào đó, một xã tạp chí nào đó,
khẳng định là thân phận cư sĩ, vì cô danh điếu dự, cảnh dám xuất Phật
thân huyết, phá hoại tăng đoàn. Nhất là người đề xướng ca tập này, thông
qua những lời cuồng ngôn nói láo, hủy báng giới luật, đè người dương
mình, mãng mãng thang thang, bat vô nhân quả, tội này đại ác cực ! Vạn
chết mạc chuộc ! >
97
Họ chửi tác giả dịch: < thời hạ một số người, nhất là giới < học Phật >,
thiếu chân tri trác kiến giả, tưởng rằng tự xưng là < học giả >, < thạc sĩ >,
thì cho là hay ! Không lẽ thạc sĩ, tức là Phật Da ? Phải biết trong nạn,
trong đó một nạn, là thế trí biện thông. Thời kỳ mạc pháp,giả làm Phật
giả, rất nhiều ma tử và ma tôn chuyển thế.>
Phương pháp chuyển người như vậy, thật ra là không đúng, đó là bát phụ
chửi ngoài đường, tùy miệng tạo rất nhiều khẩu nghiệp hủy báng,< chỉ là
thân phận cư sĩ tại gia >, câu này làm sao nói ra cửa miệng được, không
lẽ cư sĩ tại gia không thể thành Phật không? Đó là phạm chấp của người,
từ đó có thể thấy sớ cuồng vô kị < vô úy giả >, không biết xấu hổ. Giống
như < không lẽ thạc sĩ, tức là Phật Da ? > những lời nói như vậy cũng
dám viết ra, có phải là ấu trĩ vô tri rất mắc cười, đố kỵ đỏ mắt người ta
đến bước này, tâm bình khí hòa của người này ! Có thể nói, là người đại
vọng ngữ, người này chỉ có hồ xã, thị mình lăng nhục người, sĩ nhục cư sĩ
tại gia, vọng tưởng bản thân mình rất vĩ đại, trong mắt không có chúng
sanh, chỉ là cho là mình hay.
Bản thân tôi có chút khoát nhiên đại ngộ. Thành tựu của một người, lúc
nào cũng chịu sự bình kích đố kỵ và đỏ mắt của nhiều người, đại thành
tựu của < Mật Lạc Nhật Ba >, bởi < Mật Lạc Nhật Ba > càng oanh động,
mà người bình kích chỉ đơn giản dùng < ma thông > hai chữ phụ ở trên <
Mật Lạc Nhật Ba tôn giả >, cũng là nói < sắc, thọ, tưởng, hành, thức >
thành tựu của ngũ ấm ma. Nói thật, bình kích phụ hội như vậy, tôi cũng
có thể. Hôm nay, giữa Phật và ma, chỉ có một chút khác biệt, nhìn ra
được, chỉ có một số ít người, tôi là một trong số ít người đó.
Tôi thấy, < Vô Úy Giả >, < Đông Quân >…. Mới là đại ngã mạn ma.
98
028 Phản bổn hoàn nguyên < Mật Lạc Nhật Ba >
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngô của thượng sư )
Phản bình thứ tư của < Bình Mật Lạc Nhật Ba Ca Tập >
Ở trang thứ 21 của < Phá Tà Hiển Chánh Vì Chúng Thuyết >, tác giả chỉ
trách < Mật Lạc Nhật Ba > là quả hình ngoại đạo, viết một bài kệ như thế
này: < quả hình ngoại đạo tham điên cuồng, uống rượu ăn thịt tu ngũ tạng,
khai giới phá giới không kiêng sợ, cường ngôn lão mật đại ma vương >
Lại chê trách: < Mật Lạc Nhật Ba > thích nhất là tiêu kỳ lập dị, biểu hiện
ông ta là di thế cách tục, khí vũ bất phàm, mà ở trên < truyền tiểu túc >
của các huynh đệ mà bình địa của lăng gia cao cao. Ông ấy đeo mặt nạ
giả của tự minh thanh cao ẩn sĩ, giản uống nham tê, tự cho là không tham
cẩm y ngọc thực, mặc y phục chỉ là áo vá rách, ăn chỉ là dùng những cỏ
tầm mè màu xanh. Trên La Tát tuyết sơn,ông ẩn trốn ở nham huyệt, tự
mạng < nhân trung sư tử >, độc quán quần luân của du già sĩ.
Tôi nói tác giả dùng thiền tông mà công kích mật tông, không phải là
không có phóng tên, tác giả thôi sùng pháp thống thiền tông của lục tổ
Huệ Năng ( 638 – 713 ), lại tán dương Vi Ngưỡng, Lâm Tế, Tào Động,
Vân Môn, Pháp Nhãn ngũ đại tông phái, cho rằng Đường Tống là một
cây độc tú của thiền tông Trung Quốc, lại khiêng ra mấy vị thiền tông tổ
sư, như Mã Tổ Đạo Nhất, Thạch Đầu Hy Thiên, Bách Trượng Hoài Hải,
Nam Tuyền Phổ Nguyện < Hoàng Bích Hy Vận, Triệu Châu Tùng Nhẫm,
Đức Sơn Tuyên Giám …. Cử ra ngũ đại tông, liệt vị đại sư để làm gì ?
Chính là để ép đổ tổ sư mật tông, ép đổ mật tông, < cường ngôn lão mật
đại ma vương >, không những chỉ < Mật Lạc Nhật Ba > là đại ma vương,
đồng thời cũng phê bình tất cả mật tông.
Theo tôi được biết, mật tông hành giả có hai hiện tượng:
Thứ nhất là trước khi chưa đắc chứng, là giữ giới luật. Thí dụ như Mật
Lạc Nhật Ba mặc áo rách, giản uống nham tê, ăn là tầm mè, là một ẩn sĩ,
cái này tuyệt đối không phải là tự cho < thanh cao >, xem bạn tu pháp gì,
99
bèn giữ giới luật đó, giới luật của mật tông thậm chí nghiêm ngặt hơn
giới luật hiển giáo. Phàm tất cả hiển giáo đại thừa giới luật đều phải thọ
trì, thậm chí giới luật của Đông mật, giới luật của Trung mật và tất cả
giới luật của Tạng mật: hồng, bạch, hoàng, hoa; đều phải thọ trì. Hồng
giáo Tạng mật đích thật là có một thời gian biến chất, nhưng hoàng giáo
Tông Khách Ba đổi mặc áo y vàng, quan trọng nhất là trọng thị giới luật.
Thứ 2 là sau khi chứng đắc. Ngoài nhìn là phá giới, thật sự là < vô tâm >.
Điểm này những người chưa tới cảnh giới này là không có cách thể hội.
Trong kinh Kim Cang có một đoạn kinh văn, nói rõ là sau khi đến bỉ
ngạn, tất cả các pháp đều biến thành vô pháp, chúng ta mượn dùng pháp
thuyền chở chúng ta đến bỉ ngạn, đến bỉ ngạn rồi (chứng đắc), pháp
thuyền này có thể bỏ, cái này là kinh Kim Cang, < Như phiệt du giả >,
một thí dụ của Thích Ca Mâu Ni Phật.
Giống như việc ăn thịt uống rượu của < Tế Công hoạt Phật >, Tế Công
nói: < tôi là tu tâm không tu khẩu, chúng sanh là tu khẩu không tu tâm.>
Câu nói này là rất đúng, sau khi đã thành hoạt Phật, giới cũng đả phá rồi,
ăn và không ăn đều không động tâm, rượu thịt thông qua ruột, Phật tổ ở
trong tâm, thân thể là giả, thịt cũng là giả, rượu cũng là giả, nếu ấn chứng
đều là vật mộng ảo, ăn và không ăn đều là công đức như nhau.
Chứng đắc của mật giáo hành giả, ở bên ngoài nhìn, giống như là không
giữ giới luật, thật ra nội tâm tự mình hiểu rõ, bởi vì rượu cũng là chay,
thịt cũng là chay, bởi vì người đắc chứng, làm gì có tâm phân biệt, tất cả
tịnh cấu sớm đã bình đẳng không phân biệt, có thể nói siêu thoát vô ngại
rồi, cũng có thể nói siêu thoát vô ngại là không trở ngại tu hành, người
đắc chứng nếu bị một ly rượu, một miếng thịt mà bị phá công, vậy thì đắc
chứng cái gì ?
Bởi vì < Mật Lạc Nhật Ba > là người chứng đắc, giới cũng đã phá luôn
rồi, tất cả mọi việc đều không có cố kỵ, cái này tuyệt không phải là như
phi mậu luận, mà là lời chân thật của cảnh giới này.
100
Thật ra không những chỉ có cảnh giới của mật giáo như vậy, cảnh giới
của thiền tông cũng như vậy.
Giống như lời tham đầu của thiền tông:
Môn nhân hỏi: < Phật là gì ? >
Thiền sư trả lời: < khô phân quyết >
Những đời đối đáp như vậy, ở giữ giới luật, những tăng nhân trọng hình
tượng mà nói, chỉ là mở to mắt mà thôi, có phải là sỉ nhục Phật ? Ở trên
đầu Phật kéo phân tán nước tiểu. Lời tham đầu điên cuồng của thiền tông,
tự nhận là pháp < nhất siêu thẳng nhập >, có thể đả phá < thùng sơn đen >
minh tâm kiến tánh, trong chốc lát có thể hiểu rõ được. Hiện tượng này
cùng hiện tượng bất cấu hình thức < vô kỹ > của mật tông pháp sư thật ra
là không có hai thứ.
Chúng ta người tu hành, hôm nay tu là < phản bổn hoàn nguyên >, sau
khi Mật Lạc Nhật Ba chứng đắc, cũng là như vậy, không có tự tư tự lợi,
không có tâm kế tính toán, hoàn toàn là thản nhiên, giống như tâm của
xích tử vậy, mà tâm của xích tử chính là mùi vị của < phản bổn hoàn
nguyên >, giống như bị chửi < quả hình ngoại đạo >, thật ra ông < quả
hình > là đang giáo huấn y quán cầm thú, cái này đều có dụng ý, mà ẩn
cư thâm sơn là tu pháp giữ giới, Phật pháp của ông không phải là eo hẹp,
sau khi đắc chứng, bèn bắt đầu độ chúng sanh. < tức sự ly sự, ở trần xuất
trần >, vì vậy mới có thể phá được một trong ngũ đại thành tựu giả đương
thời.
Giống như Trường Thọ Cát Tường Thiên Nữ tán mỹ:
< Trị thử giáo pháp xoái trọc thời, khó hành năng hành kỳ nam tử, cư thử
tu thiền chân hy kỳ !
Vô niệm cam lồ dĩ vi thực, tự sanh diệu lạc tác ẩm liệu, tâm ly cấu trần
cùng tu xỉ >.
101
Cái này có thể chứng minh < Mật Lạc Nhật Ba > là tu hành tinh tấn, tinh
tấn tu hành của mỗi người, là phải có lực lượng hằng tâm và kiên nghị,
phải nhẫn nại lao khổ, phải giữ giới tu pháp, như vậy đến sau cùng, mới
có thể thành tựu, muốn thành một người đệ nhất và luân bỉ, thì phải học
tập tinh thần của < Mật Lạc Nhật Ba >
< Mật Lạc Nhật Ba > như vậy sai ở chỗ nào ?
Đứng ở trên lập trường của tác giả bình Mật Lạc Nhật Ba ca tập < phá tà
hiển chánh vì chúng thuyết >, tác giả đã đem việc sở tác sở làm của Mật
Lạc Nhật Ba xem là tà, toàn bộ sách chửi < Mật Lạc Nhật Ba > là < điên
khùng >, lại là < tiểu thừa ngoại đạo >, lại là < tự minh cao thanh >, lại là
< thiên ma thần thông>, lại là < phá giới luật >, lại là < đồ hư >, lại là <
ngụy quân tử >, lại là < tự cao tự đại >, lại là < tiểu khí Ba La >, nói tóm
lại là chửi Ngài không đáng đồng tiền, tập thiên hạ tức cả đại ác ở thân, là
< tội tẩu ác thủ >
Nhưng mà tác giả cũng cảm thán: < Mật Lạc Nhật Ba trong vòng của
Phật giáo, hỗn loạn lâu như vậy, nhưng không ai chỉ ra mưu kế của ông,
đúng là phí giải ! >, phải biết Mật Lạc Nhật Ba đại sư viên tịch ở năm
công nguyên 1135, cách hiện tại là 848 năm, ở Phật giáo Mật Lạc Nhật
Ba là uy uy hách hách, có danh khí lớn. Những cái khác không nói, đơn
giản chỉ ở trong nước nhà tỉnh Đài Nam Mạc Chánh Hy cư sĩ, ông ấy
biên < kinh kỳ tập >, thì đôn sùng rất nhiều câu chuyện của < Mật Lạc
Nhật Ba đại sư > , nhất là đối với sự truyền thừa mật tông bạch giáo Đại
Bảo Pháp Vương của Mật Lạc Nhật Ba, lại càng tôn sùng, chỉ Đại Bảo
Pháp Vương là một trong số ít người chứng đắc của mật tông ở trên thế
gian này ( lúc đó pháp vương chưa viên tịch ). Mà tác giả là đệ tử truyền
thừa bí mật quán đảnh của Đại Bảo Pháp Vương. Tổ sư của tôi < Mật Lạc
Nhật Ba > hưởng được 848 năm sau đến ngày hôm nay, quả nhiên ở
trong tăng chúng, xuất hiện ra một người < Vô Úy Giả >, một người <
Đông Quân >, đem lão tổ sư của mật tông, không phân biệt trắng đen mà
đem đi phê bình, cho rằng < Mật Lạc Nhật Ba > là người đại âm mưu,
thời gian âm mưu là 848 năm, mới bị hai người ẩn danh này phát hiện ra,
102
hai người này, có thể là vô mao tiểu tử ( trên đỉnh vô mao ), lẽ ra là đủ tư
cách xưng là đại sư, bởi vì trong mắt của hai người này, hơn mắt của
thiên thần, hơn con mắt của toàn bộ dân Ấn Độ, càng hơn con mắt của
toàn bộ Tây Tạng, càng hơn cách nhìn của toàn giới Phật giáo, nhưng tiếc
là hai người này ẩn trốn không dám lấy bộ mặt thật ra đối mặt với mọi
người, nếu không sẽ thỉnh giới Phật giáo phát cho < tối ưu phát hiện
thưởng kim >
Một tác giả nhìn người qua mắt kính có màu sắc, tất cả mọi người đều
biến thành có màu, trên mắt kính có một con ruồi chết, lại nói rằng trên
thân thể của mỗi con người đều có một con ruồi chết, phê bình như vậy là
bất công chính. < Mật Lạc Nhật Ba tôn giả > là một người có đại thần
thông, họ đem ngài phê bình là < thiên ma bám thể >. Tôi muốn xin hỏi,
lục đại thần thông của Phật, đại thần thông của Mật Lạc Nhật Ba, làm
cách nào phân biệt ra là Phật là ma.
Khó trách dự ngôn của Phật, ở thời mạt pháp, bộ kinh thứ nhất bị hủy diệt
là < Kinh Lăng Nghiêm >. Tại sao vậy ? Bởi vì tục tăng phàm tăng xem
như là < huyết tích tử >, gặp những gì không thuận mắt, tức sẽ bịt lại.
029 Tôn kính chân xuất gia thánh chúng
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư )
Phản bình thứ 5 của < Mật Lạc Nhật Ba Ca Tập >
Chỉ có những người biết một ít Phật pháp, đều hiểu rõ Phật, pháp, tăng là
tam bảo. < Phật > là đạo sư vĩnh hằng, < Pháp > tức là tất cả pháp do
Phật sở thuyết, < Tăng> là tất cả hiền thánh tăng. Nhưng mà giới Phật
giáo sau cùng đều xem như tất cả người xuất gia là < tăng bảo >, đối với
người xuất gia thì đều được xem như là < tăng bảo > một trong tam bảo.
Địa vị được đề thăng như vậy, giới Phật giáo cũng chia làm 2 phái, một
phái cho rằng đây là giới luật của Phật giáo, người xuất gia tượng trưng
Phật Đà, cho nên là một bảo.
103
Ngoài ra một phái nữa, không cho là như vậy, bởi vì người xuất gia bây
giờ, không giống như những vị xuất gia thời Phật Đà, những người xuất
gia thời Phật Đà là vì tu hành mà xuất gia, đầy đủ tư cách thánh hiền.
Nhưng những người xuất gia hôm nay, là bởi vì do thất tình mà xuất gia,
làm ăn thất bại mà xuất gia, và cũng là vì không có con cái nuôi dưỡng
lúc tuổi già mà xuất gia, cũng bởi do bệnh và nghèo mà xuất gia, cũng có
vì trả nguyện mà xuất gia, cũng bởi vì sanh bệnh mà xuất gia, càng diệu
hơn nữa là vì cô độc mà xuất gia, càng kỳ hơn nữa, bởi do sự rạn nứt của
gia đình, mới xuất gia.
Tóm lại những người xuất gia thời Phật Đà, là đầy đủ tư cách thánh hiền,
những người xuất gia hôm nay, lương tú không đều, long xà hỗn tạp, tất
cả đều thành < tăng bảo >, mà đối kỳ lễ bái, đúng không ?
Mà, thượng sư của tôi, Thổ Đăng Đạt Kiết khai thị cho tôi, sở dĩ < Nam
Mô Tăng Già Da >, hai chữ phạn < tăng già > này, không phải là chỉ tăng
< người xuất gia >, mà là chỉ < thánh hiền chúng >, chỉ một số đắc khai
ngộ chúng thánh hiền, không phải là trong giới tăng chúng nhỏ hẹp
( chúng xuất gia ), đó là tăng sĩ Phật giáo theo chữ nghĩa giải thích, hiểu
lầm nguyên ý đương thời của Phật. Cho nên cư sĩ cũng là một trong thánh
hiền chúng, như Duy Ma cư sĩ, tự nhiên là một trong thánh hiền chúng
khai ngộ.
Người tăng xuất gia, bởi do trong tiềm ý thức, tự cho rằng nhất bảo của
giới luật do Phật Đà truyền lại, có rất nhiều người cho rằng người xuất
gia là việc rất kênh kiệu. Người xuất gia làm Phật sự, chỉ có người xuất
gia mới có thể làm, cư sĩ tại gia là không thể làm, thế là bèn xuất hiện hai
tập đoàn, thành một giai cấp bất bình đẳng, người xuất gia cho rằng Phật
pháp là phải do người xuất gia truyền, cư sĩ tại gia không được truyền
Phật pháp, không có tư cách pháp sư, cho nên như vậy, nuôi thành một
tập tính tự cao tự đại cống cao của người xuất gia.
Tại gia cư sĩ làm Phật sự, truyền Phật pháp, người xuất gia bèn dùng mũi
mà cười nhạt, cho rằng người tại gia cư sĩ xâm phạm quyền ích của người
104
xuất gia, mà đại tứ bình kích. Ở mặt này, tại gia cư sĩ là dung nhịn cư
nhiều. Theo tôi được biết, xung đột giữa người xuất gia và cư sĩ tại gia, là
chuyện đã lâu, rất lâu, như đấu tranh giữa Long Hoa phái và Không ( sa )
môn phái, trước mắt càng nhiều, như nước và lửa, than và đá không hợp,
mà người xuất gia sau cùng cũng cần tế ra pháp bảo của họ: < Chúng tôi
là người xuất gia, là chân Phật tử của Phật Đà, là tăng bảo của một trong
tam bảo, tại gia cư sĩ không có tư cách bình luận tăng bảo>, ý nghĩa là
nói, tăng bảo vĩnh viễn là đúng.
Xuất gia pháp sư có pháp sư tốt không, tôi nói là có, phàm là pháp sư
chân tu hành, chúng ta đều phải kính đảnh lễ. Nhưng mà một số ác pháp
sư trong giới Phật giáo quỷ lộng, mặc pháp y của Phật nhưng mà đang
làm là cấu đảng < phiến mại Như Lai >, đối với những người đang mặc
pháp y của Phật, giả tu hành vi danh là giả Phật tử.
Bản thân tôi nghiên cứu rất nhiều giới, biết được có cư sĩ ngũ giới, bát
quan trai giới, sa di thập giới, tỳ kheo có 250 giới, tỳ kheo ni có 348 giới,
Bồ Tát có thập trọng giới và 28 khinh giới, ưu bà tắc giới, ưu bà di giới.
Kinh Phạm Võng lại nói: < Kim Cang bảo giới, là bổn nguyên của tất cả
Phật, bổn nguyên của tất cả Bồ Tát, chủng tử Phật tánh. Nhất thiết chúng
sanh, đều có Phật tánh. Tất cả ý thức sắc tâm, là tình là tâm, đều nhập
Phật tánh giới trung. Là pháp giới, là tam thế nhất thiết chúng sanh đỉnh
đai phụng trì. Ngã kim đương thử đại chúng, trọng thuyết vô tận tạng giới
phẩm. Là nhất thiết chúng sanh giới, bổn nguyên tự tánh thanh tịnh.> Từ
đoạn thuyết từ này, Phật Đà thị thuyết giới, không chỉ là đối với chúng
xuất gia, mà là đối với tất cả chúng sanh sở phân bố giới luật, bởi vì tất cả
chúng sanh, đều có Phật tính.
Chúng ta tôn kính tỳ kheo, tỳ kheo ni là bởi vì tôn kính giới pháp của họ
thọ trì nhiều hơn chúng sanh, chúng ta tôn kính giới pháp, cho nên tôn
kính thủ giới pháp, tỳ kheo, tỳ kheo ni chân tu hành. Như những tỳ kheo,
tỳ kheo ni không giữ giới pháp, thậm chí ở mọi nơi mượn pháp y của
Phật Đà, tự ngã cống cao, giả Phật tử phiến mại Như Lai, tranh danh lợi,
cầu hư vinh. Xuất gia chúng như vậy, tôi không đem họ xem thành chúng
105
xuất gia, họ mặc pháp y của Phật, thật là là ăn xin cấp thấp, ngoại trừ mãn
nguyện tự cao của bản thân, lại bán mạng tán doanh cầu tài, giả danh tu
đạo, thật ra là làm buôn bán, những tăng nhân tà hạnh này, tuy rằng ngoại
hình là tăng, nhưng là chủng tử địa ngục, tôi đối với những người này,
đương nhiên là không khách sáo, người khác tưởng rằng họ là < tăng
bảo >, nhưng tôi xem họ là < bảo bối >.
Tăng và cư sĩ, đều là chân Phật tử của Phật, tuyên truyền Phật pháp, cùng
làm Phật sự, là cùng trách nhiệm, tăng nhân lẽ ra phải khích lệ cư sĩ tuyên
dương Phật pháp mới đúng, không được tự trì cống cao, cho rằng cư sĩ
xâm phạm quyền ích của tăng nhân. Chân Phật tông của tôi, trước mắt
những đệ tử quy y tôi, có rất nhiều người là chúng xuất gia, độc giả
không nên kinh ngạc, người xuất gia quy y người tại gia học pháp, cái
này không phải là lùi bước, mà là mật pháp của tôi quá chân quý, cho nên
dẫn được người xuất gia đến quy y tôi.
Xuất gia là một thứ ngoại biểu, chân xuất gia là < tâm xuất gia >
Hữu pháp vi tôn, tất cả đều giả.
Cho đến cuốn sách < Bình Mật Lạc Nhật Ba Ca Tập >, có thể nói là một
cuốn sách công kích cư sĩ.
Cuốn sách này trước tiên tán dương tăng đoàn, cho rằng Phật Thích Ca vì
kiên cố Phật pháp, nên tổ chức tăng đoàn, kiến lập tự viện, để hoằng pháp
lợi sanh. Tự viện là đạo tràng hoằng pháp an tăng, để người tu hành có
thể an thần tu, để thập phương tăng qua lại, có thể quải đơn nghỉ khế chi
sở, chuyên tâm biện đạo. Có thiết thi của tự viện, thì có thể vệ hộ tam bảo
trụ lâu ở thế.
Lại bình kích < Mật Lạc Nhật Ba tôn giả >, chuyên môn chạy đến thâm
sơn cùng cốc mà tu hành, < xuân quán bách hoa khai, thu nhìn lạ vàng
rụng >, sở dĩ < quán tam giới như nhà lửa, xem sanh tử như oan gia >, tự
tác tự liễu hán, lại chửi rằng: mái hiên của Phật Mật Lạc Nhật cũng chưa
bước vào, không thể cùng người nhị thừa tương đề tịnh luận, < Mật Lạc
Nhật Ba > chỉ là một thiên nhiên ngoại đạo khổ hành vô ích mà thôi. Nói
106
ông là một Du Già sĩ ở trên núi, là thân phận tại gia, có tư cách gì mà đi a
hủy luật học, bình chửi tăng già.
Tôi thừa nhận < Mật Lạc Nhật Ba > là bình kích một số pháp sư xuất gia
như là:
< các bạn người thế tục yêu thích những vị pháp sư, tôi thì không yêu
thích. Tôn nghĩa của họ tôi rằng không giống tôi, nhưng mà thân mặc áo
vàng là vì thế gian bát pháp giới sở chuyển, thật sự cũng không có thật
nghĩa, nếu thật sự không vì bát phong sở động, trong thời gian kém biệt
thành Phật, bán nhược thiên uyên.
< tiểu miếu sắc vằn ở hậu thành, tên tuy là miếu thật ở thị trấn, quần hỷ
dịch lạc cập tán loạn. Trụ sơn tu sĩ dịch hy tai ! Trì luật tiểu tăng đầu
cương trực, danh tuy là tăng thực diễn kịch, chúng sanh đại đế thiếu kiên
nghị, người chân trì giới cũng hi tai ! >
Tôi cho rằng < Mật Lạc Nhật Ba > đương thời thực ra là không nhìn quen
một số tác phong của < xuất gia tăng nhân >, giống như một số nghi thức
của quyền giáo pháp, ở ngoại biểu chỉ là diễn kịch. < Mật Lạc Nhật Ba >
là một tu hành giả đắc thiền định vô thượng tâm pháp đại thủ ấn, tự nhiên
đối với phương pháp tu hành vô thực xem không quen, đồng thời đối với
biến tướng của tự miếu, cũng không mãn ý. Sự thật tự miếu trong nước
hôm nay, cũng có rất nhiều biến tướng. Trụ trì không trọng thị phương
pháp tu hành, tự miếu sanh quyền đấu tranh lẫn nhau, làm pháp sự giống
như đóng phim, biến thành đại tự tham quan …. Những hiện tượng này
không chỉ là người thực tu đau đầu, một số phàm phu cũng nhìn thấy
được.
< Mật Lạc Nhật Ba tôn giả > bình kích người xuất gia, là chỉ một số
người xuất gia tu trì pháp thật ra là không đúng.
Bình kích tự miếu, bởi vì tự miếu tạng ố nạp cấu, vấn đề tùng sanh.
107
Cách nói của < Mật Lạc Nhật Ba >, không phải là xóa sát hết tự miếu và
người xuất gia, mà là biểu thị cách nhìn của ông ở một mặt nào đó.
030 Đạt Mã Bồ Đề ấn chứng
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – Chứng ngộ của thượng sư )
Phản bình thứ 6 <Mật Lạc Nhật Ba Ca Tập >
Trong trang thứ 33 của < Mật Lạc Nhật Ba > ca tập, là ghi lại < nhị đại
thành tựu giả chi hội ngộ > của Ấn Độ, Tây Tạng là rất tinh sắc, tôi đặc
biệt ghi lại như sau:
Khi tôn giả Mật Lạc Nhật Ba dẫn theo Nhược Quỳnh Ba và các đệ tử ở
Nhã Long đến Phổ Động Tuyên giảng tâm yếu mật nghĩa, khi chuyển đại
pháp luân, Ấn Tạng có 5 vị cùng đắc đại thành tựu Du Già sĩ, đó tức là:
Có rất nhiều cổ nhữ sắc thanh, Đương Ba Tang Kết đình nhật, Sĩ Na Ba
Nhược của Ni Bách Di, Đạt Mã Bồ Đề của Ấn Độ, và Mật Lạc Nhật Ba
của Nhã Long.
Ở một thời gian nào đó, Sĩ Na Ba Nhược đặc biệt nghênh thỉnh Đạt Mã
Bồ Đề đến Ba Bo Bảo thuyết pháp, rất nhiều Ni Bách Di nhân dân Tây
Tạng đến triều lễ Đạt Ma Bồ Đề. Đồ chúng của tôn giả cũng muốn đi
triều yết.
Lúc mới bắt đầu < Mật Lạc Nhật Ba > chưa trả lời đi triều lễ Đạt Mã Bồ
Đề. Nhưng đến sau này, Mật Lạc Nhật Ba đã đồng ý. Đồng ý đi bái
phỏng Đạt Mạ Bồ Đề.
Tôn giả nói với các đệ tử: < các con đi trước, thầy sẽ theo sau >, thế là
các đệ tử đi trước, trên đường đi trong lòng lo nghĩ < tôn giả có thật sẽ
đến không ?> khi họ đến gần Ba Bo Bảo, tôn giả dùng thần thông lực
đem thân thể biến thành một bảo tháp thủy tinh, giống như sao băng
108
không một chút trở ngại từ không trung mà lướt qua. Đáp xuống trong
các đệ tử.
Đạt Mã Bồ Đề thấy vậy trong lòng kinh than, tán thán hy hữu. Nghi vấn
của các đệ tử đều được tận trừ, đều rất vui vẻ mà tiến bước. Thế là tôn giả
cùng chúng đệ tử và rất nhiều người triều bái, đến gần trước mặt Đạt Mã
Bồ Đề. Đạt Mã Bồ Đề của Ấn Độ thấy tôn giả đến gần, lập tức xuống
pháp tọa, hướng về Tây Tạng Mật Lạc Nhật Ba mà cung kính đảnh lễ. Vì
vậy đại chúng đều cảm thấy ( công đức của ) Mật Lạc Nhật Ba là hơn Bồ
Đề Đạt Ma một bậc. Đối với hai vị tôn giả đồng thời sanh khởi lên tín
tâm và cảm thọ không khác biệt so với Phật Đà. Thế là hai vị thành giả
cùng ngồi trên tọa giao đàm hơn nửa ngày. Đạt Ma Bồ Đề nói: < tôn giả !
ông có thể ở trong quảng thần di tâm thường thường có tâm vui vẻ độc cư
một mình, thật là một việc rất hy hữu.>
Trong đoạn văn này, < phá tà hiển chánh vì chúng thuyết > của tác giả,
lại phê bình 3 điểm:
Thứ nhất, nếu hai vị là người đại thành tựu, trên lễ nghĩa là Mật Lạc Nhật
Ba cũng phải đảnh lễ Đạt Ma Bồ Đề. Tại sao ông vẫn muội tâm dày nhan,
đứng thẳng để cho một vị đồng tu đảnh lễ ?
Thứ 2, thánh nhân chứng quả chân chính cũng là có đại thần thông, thí dụ
như thân trên xuất thủy, thân dưới xuất hỏa, hoặc là thân trên xuất hỏa,
thân dưới xuất thủy; trịch núi tu di ở dưới ngón chân, hoặc biến hóa
chủng chủng sắc tướng mà giáo hóa chúng sanh. Thánh nhân có thể dời
núi đổ biển, hái sao đổi trăng, từ một biến nhiều, từ nhiều biến một …..
Mà thần thông của Mật Lạc Nhật Ba chỉ là một trong những cái đó,
nhưng một giọt nước trong biển, tại sao Đạt Ma Bồ Đề thấy được trong
tâm lại kinh thán, tán thán là hy hữu vậy ?
Thứ 3 Mật Lạc Nhật Ba cho rằng Đạt Mã Bồ Đề đảnh lễ ông, thì cho là
mình giỏi, thì ra là ông giả mượn danh nghĩa của người xuất gia mà đề
cao thân giá của bản thân, cầu danh văn lợi dưỡng, thật là đệ tiện quá,
109
không có một phong độ của người xuất gia, còn cho là < nhân trung sư
tử >.
Theo cách nhìn của tôi, lại phản bác 3 điểm:
Thứ nhất, Đạt Mã Bồ Đề đến Cam Bo Bảo thuyết pháp, ngài đương nhiên
biết ở Nhã Long có một người đại thành tựu Mật Lạc Nhật Ba, đó là địa
đầu của Mật Lạc Nhật Ba, trong lễ pháp mà nói, Đạt Mã Bồ Đề là phải
bái phỏng < Mật Lạc Nhật Ba > trước, bởi vì người đại thành tựu Mật
Lạc Nhật Ba đang ở rất gần, đó là lễ phép phải có. Hôm nay, Mật Lạc
Nhật Ba không có tính toán điểm này, mà ngược lại đích thân xuống núi
bái phỏng < Đạt Mã Bồ Đề >, cùng là người đại thành tựu, từ điểm này
mà nhìn < Mật Lạc Nhật Ba > lại lễ hiền hạ sĩ trước, cũng tức là nói, sau
cùng ông cũng không có thân phận tự thị, đi bái phỏng < Đạt Mã Bồ Đề >
trước.
< Đạt Ma Bồ Đề > thấy < Mật Lạc Nhật Ba>, bèn hướng về < Mật Lạc
Nhật Ba > đảnh lễ, đó là khả quý của Đạt Ma Bồ Đề, bởi vì lẽ ra ngài
phải đi bái phỏng người ta trước, nhưng mà người ta lại tới trước, hướng
Mật Lạc Nhật Ba đảnh lễ, cũng giống như là ý nghĩa < bồi thất lễ > vậy,
Mật Lạc Nhật Ba nhận được sự bồi lễ của ngài, như vậy có thể nói, là
quân bình lẫn nhau. Đó là lễ phép, lễ thượng vãng lai, tác giả chỉ có chỉ
trách Mật Lạc Nhật Ba không đúng, nhưng mà có thâm nhập sâu để nghĩ
điểm này không ?
Thứ 2 < Đạt Ma Bồ Đề > đối với thần thông của < Mật Lạc Nhật Ba >,
biến thành một bảo tháp thủy tinh, giống như sao băng không trở ngại từ
trong không trung mà lướt qua, tự nhiên trong tâm kinh thán, thán vi hy
hữu. Thần thông như vậy, ngoại trừ thánh nhân chứng quả ra, là không có
người có. Bản thân Phật Đà trong rất nhiều pháp hội, cũng là hiển hiện
đại thần thông, có rất nhiều Bồ Tát Thanh Văn đắc chứng quả đều thấy.
Đều là < tâm sanh kinh thán, tán vi hy hữu >, tâm sanh kinh thán, tán vi
hy hữu này, có thể là ở quyển kinh nào đều có thể thấy được, không lẽ tác
giả muốn < Đạt Mã Bồ Đề > sau khi thấy, giả dạng như không thấy, phẩy
110
phẩy miệng, hừ một tiếng < có cái gì tự cho là hay, tôi cũng có >, ở tình
cảnh bình thường này, chúng ta đương nhiên cũng có thể, cũng phải vỗ
tay, tán mỹ một phiên, điểm này tác giả cũng không hiểu, làm sao là đệ tử
Phật môn, xem là là chưa thấy thế diện, pháp sư < truyền tiểu túc > ?
Thứ 3, < Đạt Ma Bồ Đề > hướng < Mật Lạc Nhật Ba > đảnh lễ, cũng có
thể nói < ấn chứng > Mật Lạc Nhật Ba, giữa đại thành tựu giả và đại
thành tựu giả là ấn chứng như vậy. Tác giả chửi < Mật Lạc Nhật Ba > là
mượn những người xuất gia khác đề cao thân giá bản thân mình, tôi cho
rằng không phải. Nói tôn giả là tham danh văn lợi dưỡng, lại càng không
phải. Thâm sơn ẩn cư, mình mặc vải thô, uống nước ở khe suối, ăn tầm
mẻ, người tu hành như vậy, tham danh văn lợi dưỡng gì ? Điềm đạm ninh
tịnh, đã đoạn trừ tất cả phiền não, phàm sở thị hiện đều là giáo ngôn, làm
sao là đê tiện cực điểm ?
031 Thần thông lực của < Mật Lạc Nhật Ba >
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngô của thượng sư )
Phản bình thứ 7 < Bình Mật Lạc Nhật Ba Ca tập >.
< Mật Lạc Nhật Ba > dùng thần thông lực hàng phục tăng nhân, ngu giáo
hắc giáo phù sư ( BON ), và các Du Già sĩ tu hành, bị tác giả công kích là
tánh vũ ngoan trương, háo dũng đấu hận, là A Tu La. Lại nói là huyền
hoặc thiện tín, cô danh điếu dự, không có hàm dưỡng, dị đoạn thần thông,
không có nói một chút từ bi.
Nhưng mà tôi cho rằng, < Mật Lạc Nhật Ba > sở hàng phục tăng nhân, là
tăng nhân có < tà kiến >, hàng phục ngu giáo phù sư, bởi vì là < ngu quỷ
tà thần >, nhưng Du Già sĩ tu hành đó, có một số thật ra là ngoại đạo,
đồng thời, tôi phát giác, Mật Lạc Nhật Ba chưa từng đi tìm người huyễn
hoặc thần thông, mà là, những tăng nhân không biết lực lượng, đến tìm
ông khiêu chiến, kết quả là có thể biết được, tất cả đều bị Mật Lạc Nhật
Ba hàng phục, cho dù Mật Lạc Nhật Ba là tôn giả đắc tự tại, những tăng
111
đạo tà kiến, làm sao là đối thủ của Mật Lạc Nhật Ba, không những đầu
hàng trở thành đệ tử, hoặc là bỏ chạy mất.
Giống như ở Nhã Long có một ngôi chùa, có hai vị pháp sư trụ trì, là La
Đôn pháp sư và Đạt La pháp sư, họ phái 3 vị hòa thượng tinh thông <
nhân minh học > và < các loại kinh điển >, đi tìm Mật Lạc Nhật Ba biện
luận. Xin đọc giả chú ý 3 vị hòa thượng tinh thông kinh điển này, kết quả
khi đến nơi Mật Lạc Nhật Ba, rất nhanh chóng bị triết phục, Ba vị hòa
thượng tinh thông kinh điển này, cảnh nhiên biến thành đồ tử đồ tôn của
Mật Lạc Nhật Ba, thay Mật Lạc Nhật Ba cầm cờ.
Sau cùng Đạt La pháp sư đích thân tìm Mật Lạc Nhật Ba biện luận,
nhưng cuối cùng cũng biện không thắng Mật Đạt Nhật Ba, cuối cùng
không được yếu lĩnh, đỏ mặt tía tai.
Một trong những đoạn triết phục Đạt La pháp sư, rất là tinh sắc, đặc biệt
ghi lại như sau:
Tôn giả nói: < pháp sư hà tất phải kiên trì như vậy ! Ông và tôi tất cả mọi
người, có mắt cùng thấy, có tai cùng nghe. Hàng xóm ở gần, ai ai cũng
đều biết rõ nhau. Ông nhất định kiên trì muốn tôi đề xuất một tôn nghĩa,
vậy không quản là tôi có biết, hay là không biết, tôi chỉ có tuân mệnh mà
thử một lần. Bây giờ tôi đề xuất trước : < Hư không là có ngại pháp ?
Hay là không có ngại pháp ?>
Đạt La pháp sư nói: < chưa từng có ai hỏi tôi vấn đề này, nhưng mà lúc
nãy tôi đã từng nói qua, ông đề ra bất cứ vấn đề gì, tôi cũng trả lời. Cho
nên trả lời của tôi là: < Hư không đương nhiên là vô ngại pháp >, trừ cái
này ra còn có khả năng khác không ?>
Tôn giả nói: < nhưng tôi cho rằng hư không là có ngại pháp >
Đạt La pháp sư nói: < lời ông nói lấy gì làm chứng cứ ? làm gì có lý do
như vậy ?>
112
Thế là tôn giả xúc nhập vào hư không kiên cố tam ma địa, nói với Đạt La
pháp sư: < tốt rồi ! bây giờ xin ông hãy xem hư không đích thực là vô
ngại pháp hay còn là có ngại pháp, bây giờ xin ông đứng lên đi lại một lát,
đem tứ chi giãn nở hoạt động một chút ! >
Đạt La pháp sư bèn thử đứng lên và duỗi thẳng tứ chi, nhưng mà thân thể
hình như không có di động, giống như tảng đá bị cứng mà ngồi thừ ra đó
( giống như 4 bề đều bị một vật cứng bao trùm ông khắp ông ta vậy ),
miệng cũng không mở ra được, cứ cứng đờ ra ở đó !
Lúc này tôn giả thân đằng không trung, ở trong không trung đi lại, bước
qua, nằm xuống, ngồi và thị hiện các tư thế hoạt động, giống như đi trên
mặt đất thật. Sau đó tôn giả từ tam muội khởi, nói rằng: < lúc nãy ông nói
quyết định hư không là vô ngại, nhưng mà trên thật tế chứng minh hư
không là có ngại pháp, ông giải thích làm sao ?>
Chúng ta có thể tưởng tượng, một người bình thường lấy lý luận để dọa
người, Đạt La pháp sư không trọng thị thực tu chỉ có im lặng không có
lời để nói, mặt biểu lộ xấu hổ. Thần thông lực của < Mật Lạc Nhật Ba>
vừa xuất hiện, những thế tục pháp sư, không có ai là pháp sư, Đạt La
pháp sư chỉ có thể xưng phận là thần.
Từ tôn giả hiển hiện đại thần thông: ở trong búi tóc của mình, xuất hiện
bảo tọa của chúng bảo thế thành, trên tọa có một bông sen, trên bông có
nhất nhật luân tọa, trên nhật luân lại có một nguyệt luân tọa, trên tọa đệm
là lịch đại truyền thừa thượng sư Mã Di Bạch đại sư cùng Kim Cang Trì vô
nhị vô biệt diễu vòng quanh. Ở tai bên trái và bên phải của tôn giả xuất
hiện nguyệt luân và nhật luân, từ trong lỗ mũi nhổ ra tơ ngũ sắc quang
sáng lạng, giữa chân mày phóng ra hào quang; trên lưỡi hiện ra bát diệp
liên hoa trên đệm nhật nguyệt hiện ra văn mẫu phạn âm và âm chữ mẫu
sáng lạng, rõ ràng minh triết, giống như dùng viết lông viết ra vậy, giữa
ngực của tôn giã cũng phóng ra bảo quang vạn trượng.
113
Tôn giả hiển hiện pháp tướng thần thông, cùng pháp tướng của Quán Âm
Bồ Tát trong < Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Kinh >, là như nhau.
Thân tử kim sắc, đỉnh có nhục kế, hàn hữu viên quan, kỳ trong viên quan
có 500 hóa Phật, giai Thích Ca Mâu Ni nhất nhất hóa Phật có 500 hóa Bồ
Tát, vô lượng chư thiên, để làm thị giả, cử thân quang trung, ngũ đạo
chúng sanh, nhất thiết sắc tướng, giai ư trung hiện, trên đỉnh là Tỳ Lăng
Gia Ma Ni Bảo làm thiên quán. Hào tướng giữa chân mày, bị thất bảo sắc,
chảy ra 8 vạn bốn ngàn quang minh, nhất nhất quang minh, có vô lượng vô
số bách thiên Phật. Trong tay có năm ức tạp Liên Hoa sắc, ở mười ngón
tay, mỗi một ngón tay, có tám vạn bốn ngàn họa, như là văn ấn, kỳ quang
nhu mềm, phổ chiếu nhất thiết, giống như là bảo thủ, tiếp dẫn chúng sanh.
Còn ở chân, dưới chân có thiên phúc luân tướng, tự nhiên hóa thành năm
trăm ức quang minh hào, khi ở dưới chân, có Kim Cang Ma Ni Hoa, bố tán
nhất thiết, không có gì là không di mãn.
Chúng ta lại nhìn xem tôn giả < câu chuyện điều phục tà kiến tăng chúng >:
Có một tự miếu, hòa thượng trong đó đối với Mật Lạc Nhật Ba rất là hoài
hận, chửi tôn giả là < ngoại đạo >. Khi tôn giả đến trước miếu này, các hòa
thượng thấy tôn giả liền chạy lên phía trước, bao vây ông. Cứ như vậy hư
nhục rất lâu, mới đem tôn giả vào trong đại điện, cột vào cây cột. Không
lâu, tôn giả đột nhiên lại xuất hiện phía ngoài chùa ! Tăng chúng lại chạy
ra ngoài đánh ông, sau khi thỏa mãn mới thả ông đi. Nhưng mà tôn giả lại
đột nhiên xuất hiện ở bên trong đại điện. Quần tăng lại đánh, như mà tôn
giả ( không nói một lời ) an trụ như núi, quần tăng tận lực đẩy ông, nhưng
mà vẫn không nhúc nhích được ông. Mọi người ra sức đẩy ông ra ( nhưng
mà thân thể của ông như mọc rễ ở trên đất vậy ) không có một chút di
chuyển. Thế là họ đi tìm rất nhiều người để giúp đỡ, cột dây vào thân thể
của ông để kéo, một số người ở phía trước dồn sức kéo, một số người ở
phía sau dồn hết sức mà đẩy, nhưng mà thân thể của tôn giả như tảng đá to
không nhúc nhích. Mọi người mất tận hết sức lực, nhưng vẫn không di
chuyển được một chút nào. Đến đây mọi người mới kinh hãi, có người mới
nói: < bây giờ mời ông đi đi >, một số người khác lại nói: < đem ông cột ở
trong nhà, ông lại xuất hiện ở bên ngoài; đem ông bỏ ở bên ngoài, ông lại
114
hiện ở bên trong nhà, đẩy ông kéo ông thế nào cũng không di động được
ông, đây là duyên cớ gì ?>
Tôn giả nói: < bởi vì tôi là người < đoạn kiến >, cho nên giết tôi rồi vẫn là
không, đánh chửi tôi cũng là không, đem tôi cột ở trong nhà cũng là không,
bỏ tôi ở ngoài đường cũng là không. Bởi do tôi đối với sanh tử niết bàn hai
thứ chấp này đã đoạn xả, cho nên tôi mới là như vậy >
Tôi đoán là < Vô Úy giả > và < Đông Quân > nhất định nhìn thấy < Mật
Lạc Nhật Ba toàn ca tập >, những pháp sư hòa thượng này, bị Mật Lạc
Nhật Ba tu sửa đến mất mặt. Thế là mau chóng chỉ trách Mật Lạc Nhật Ba
toàn là ma lực thần thông, toàn là diễn kịch, toàn là ma thuật. Mà còn nói
Mật Lạc Nhật Ba không có thần thông, quá cống cao tự mãn, diệu võ
dương oai, tự ngã tuyên truyền.
Nhưng mà chúng ta xem xong câu chuyện trên, < điều phục tà kiến chúng
tăng >, những tăng chúng này vừa thấy Mật Lạc Nhật Ba, bèn đến đánh
ông, lại cột ông vào cây cột, dùng dây kéo ông, đây là < từ bi tâm > ? Mật
Lạc Nhật Ba không có ra tay, mà ngược lại dùng khuyên giới ôn hòa, vậy
ai từ bi ? Độc giả chỉ cần tỉ mỉ đọc câu chuyện trên, thì sẽ hiểu rõ. Thị hiện
thần thông của Mật Lạc Nhật Ba, toàn bộ phê bình là tinh mị sở bám, tư sứ
tác sùng, là ma lực sở trì, tất cả đều là phù thuật, đây là tiểu pháp tiểu phù
thuật, chuyên môn lợi dụng ma pháp mê hoặc vô tri.
Nhưng mà, xin đọc giả hãy nghĩ tỉ mỉ, những pháp sư này,afđại biện hòa
thượng, xuất gia tăng chúng, tự cho là tu hành giả Phật môn chánh pháp,
nhưng không địch nổi một tiểu tiểu quỷ thông, cái này không phải la cười
sát người không? Chúng ta không nhìn thấy người nào có thể phá thần
thông của Mật Lạc Nhật Ba, chỉ chửi người ta là ma là không đúng, cũng
xin các người tế ra < ma pháp bảo > xem xem có dùng được không ?
< tranh là thắng phụ tâm, cùng đạo tương vi bối;
Bèn sanh tứ tướng tâm, do hà đắc tam muội ?>
Chửi xong nữa ngày, kết quả chửi pháp sư, hòa thượng, tăng chúng. thật
tại là vô ngại, mà ngược lại là < Mật Lạc Nhật Ba tôn giả >.
115
032 Minh biện của thị phi trắng đen
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư )
Phản bình thứ 8 < Bình Mật Lạc Nhật Ba ca tập >
Trong bài văn, tôi phải bác bỏ 7 luận điệu của < Vô Úy giả >:
Thứ nhất: < sở dĩ < người thiện tri thức >, tham danh văn lợi dưỡng nhiều,
xảo ngôn mi tục, giả tạo thanh bạch, thực chất là tham đắc không chán.>
Bác bỏ của tôi là:< đây là một vu tử, quơ đũa cả đống. Cách làm này là
không được, thị phi trắng đen tự có công luận, trong thiện tri thức có thiện
tri thức thật, có thiện tri thức giả, toàn bộ tham danh văn lợi dưỡng, toàn
bộ xảo ngôn mi tục, giả tạo thanh bạch ? có phải là toàn bộ tham đắc
không chán không ? Chỉ dựa vào một câu nói của < Vô Úy giả >, thì có thể
bác đổ tất cả thiện tri không ? Vậy < Vô Úy giả > tự nhiên là một thành
viên ác tri thức, đại diện ác tri thức công kích thiện tri thức ?>
Thứ 2: < người ngụy tri thức, toàn xoang hí luận, đàm huyền thuyết diệu;
Nhưng mà ở đây là có âm mưu không thấy ánh sáng ? cấu đảng bịt tai trôm
chuông ?>
Bác bỏ của tôi là: < bản thân tôi tham vọng, < Vô Úy giả > thường đi <
chân ngụy tri thức giả chưng tín xã > chuyên môn phụ trách những âm
mưu không thể thấy sáng của giới Phật giáo, hoặc là cấu đảng bịt tay trộm
chuông. Chuyên môn làm một công việc < dương ác >, nhưng mà không
thể không làm công việc dưới chuẩn < bịt tay trộm chuông >. Như một vị
tăng nào đó phạm sắc giới, ni cô có bầu, cái này là không công khai ra,
phải nhớ một điểm quan trọng,đối tượng của anh chỉ là các cư sĩ < thiện tri
thức > ! >
Thứ 3: < tà sư tố hỷ quần sư kết đảng, đấu tranh kiên cố, thử bối chuyên
quyền lạm đảng lập phái, quạt gió thổi lửa, làm cho ly gián, phá hoại Phật
pháp.>
116
Bác bỏ của tôi là: < sư phụ hôm nay của Vô Úy giả là ai, tôi sớm đã biết
rất rõ ràng, quần tư kết đảng chính là anh ta, đấu tranh kiên cố cũng là anh
ta, lạm đảng lập phái cũng chính là anh ta, quạt gió thổi lửa cũng chính là
anh ta, ly gián phá hoại Phật pháp cũng chính là anh ta, không phải anh ta,
lại là ai ? Tôn sùng thiền tông, phá hoại mật tông, không phải là lạm đảng
lập phái, phá hoại Phật pháp là cái gì? Lợi dụng tăng đoàn, đả kích cư sĩ,
đây không phải là quạt gió thổi lửa, ly gián là cái gì ? Cho nơi tà sư chửi
nữa ngày, cuối cùng là chửi bản thân.>
Thứ 4 < ngụy trang đại thiện tri thức, xem tăng già như đinh trong mắt,
như gai trong thịt, tuy rằng miệng là ủng hộ tam bảo, thật ra là mạt thị xuất
gia, khinh mạn luật môn.>
Bác bỏ của tôi là: < nói sự thật, địa vị của tăng già hôm nay xuống rất thấp,
cái này là kết quả không cầu tiến. Trong tăng già xuất hiện rất nhiều bại
gia tử, để cho một số cư sĩ và Phật giáo đồ, nhìn thấy rất buồn. Nếu như
nói đại thiện tri thức xem tăng già là đinh trong mắt, gai trong thịt, vậy có
phải là nói nghiêm trọng quá một chút không. Nếu như là tăng già có thật
tu, ai mà không kính, ai mà không tôn. Nguyên nhân là mức chuẩn của
tăng già phổ biến đã xuống thấp, mà mức chuẩn của cư sĩ phổ biến đã nâng
cao, Phật học đại sư đều là cư sĩ nhiều, so sánh như vậy, tăng già khiến
một số người khinh khi, cho nên người xuất gia muốn người tại gia tôn
kính, nhất định phải tự tôn tự trọng, sau này người ta tự nhiên tôn trọng
tăng nhân, đây là đạo lý nhất định. Vô Úy Giả nói, đại thiện tri thức xem
tăng già là đinh trong mắt, gai trong thịt, cái này là không có thể, chỉ là các
thiện tri thức thường thường than thở, những tăng chúng không cầu tiến.
Nói tóm lại, muốn người kính trọng, bản thân phải cầu tôn trọng bản thân
trước, đề cao mức chuẩn của bản thân, cũng là đề cao địa vị của bản thân.>
Thứ 5: < người ngụy đại thiện tri thức, tuyệt không tinh trì giới cấm, ngoại
biểu giả hiện oai nghi, tư hạ tiềm hành tham dục, tán thán dâm ô, đê tiện ổi
điệp, lấy mà truyền pháp. Còn tự tác làm biện hộ luật sư, thường nói: < tôi
nay khai ngộ, không cần giữ giới, trì giới là tác phong của tiểu thừa, cấu ni
tiểu tiết. Đại thừa Bồ Tát, chỉ dụng trì giới ? > Ngã nhân luôn tự cảnh thức:
117
chân đại thiện tri thức, nhất định tinh nghiêm giới luật, tơ hào bất phạm,
thậm chí một lời một tiếng cười, cũng phản không rời. Chư Phật Bồ Tát,
thượng nghiêm tịnh tỳ ni, huống ngã đẳng chưa chứng quả chi phàm phu
tục tử ? >
Bác bỏ của tôi là: < một số người học Phật, hoặc nhiều hoặc ít là đang giữ
giới luật, học Phật giới luật rất nhiều, giới luật của tăng già rất nhiều, giới
luật cư sĩ rất ít, nhưng giới luật cư sĩ ít, bởi do hoàn cảnh đời sống, giới của
cư sĩ so với giới của tăng già, càng rất khó giữ, ở mặt này, mật tông có mật
tông giới, hiển giáo có hiển giáo giới luật. Cho đến sau khi khai ngộ, lý
ưng là đem giới cũng phá bỏ, ở mặt này, càng có một ý nghĩa thâm sâu.
Nhưng mà Vô Úy giả phê bình là không giữ giới, đó chỉ là luận ngôn của
một phía mà thôi, thật ra Mật Lạc Nhật Ba tu hành 12 năm, cũng là giữ
giới.>
Thứ 6, < đại thiện tri thức giả, độc thọ tư nhân cúng dường, như chuyển
tướng thân hiệp, xứ xứ bán duyên, sau hồi làm kỷ dụng. Tuyệt bất như
pháp thứ đệ, tôn kính tam bảo, phổ đồng cúng dường.>
Bác bỏ của tôi là: < Điều này là thay tăng nhân của mình cầu lợi ích, đơn
giản nói – tăng nhân của họ mới là một trong tam bảo, là phải lý ứng cúng
dường của phàm phu thế tục, phàm là kiếm tiền theo Phật pháp, hoàn toàn
là phải quy về tam bảo. Một số cư sĩ không được thọ của người cúng
dường, cũng không được truyền pháp, phàm tất cả tiền của Phật giáo, đều
là quy sở hữu của tăng, xem ra là tăng sẽ mập rồi, cư sĩ thì ốm.>
Thứ 7 < phải biết thiện tri thức, kỳ giáo lý không leo qua phạm trù của
chánh giáo, người ác tri thức, tắc tự mệnh khai ngộ, nói năng bậy bạ,
chuyên truyền thọ tà tri ác kiến.>
Bác bỏ của tôi là: < Cái này là châm đối mật tông mà nói, mật tông là pháp
Phật sở thuyết, giáo lý là trong phạm trù chánh giáo, người khai ngộ đến
truyền pháp, đều mang trọng yếu. Hôm nay bình kích mật tông là truyền
thọ tà tri ác kiến, thật là phả tắc nan tư, đúng là đoạn Phật mạng huyệt, du
118
than ! đó chính là pháp vận nan nguy, tôn phái và tôn phái công kích lẫn
nhau, người tên Vô Úy giả này, và sư phụ của ông thật là yêu nghiệp ! yêu
nghiệp.>
033 Bác bỏ luận điệu của < Đông Quân >.
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư )
Phản bình thứ 9 < Bình Mật Lạc Nhật Ba Ca tập >
< phá tà hiển chánh vì chúng thuyết > - bình Mật Lạc Nhật Ba ca tập, phụ
lục sau cùng có một bài văn, là do < Đông Quân > viết, < Đông Quân >
này đương nhiên là bút danh, giống như < Vô Úy giả > vậy, bịt mặt lại,
không dám lộ ra mặt thật, cùng là dấu mặt của một tiểu nhân vật. Hai
người này thật là không có cốt khí, không giống tôi, tôi là đi không đổi tên,
ngồi không đổi họ, lớn tiếng báo cáo lên tên họ của tôi, tôi là không chiết
không khấu tên Lư Thắng Ngạn.
< Đông Quân > viết < Bình Mật Lạc Nhật Ba tôn giả truyền > tôi tỉ mỉ đọc
một lần, phát giác là chiên cơm nguội, không có cái gì là hay, cách phê
bình của < Đông Quân > còn thấp hơn < Vô Úy giả >, không những ông
chửi Mật Lạc Nhật Ba, mà còn chửi luôn thượng sư truyền pháp của Mật
Lạc Nhật Ba là Mã Di Ba thượng sư. < Đông Quân > đã chửi đời thứ 3 tổ
sư gia của Bạch giáo, theo tổ sư của Bạch giáo là Tiêu Lạc Ba, Na Lạc Ba,
vị tổ sư thứ 3 là Mã Di Ba, vị tổ sư thứ 4 là Mật Lạc Nhật Ba, kế đến là
Cam Bo Ba, kế đến là Cát Mã Ba pháp vương đời thứ nhất Đỗ Tùng Hư
Ba tôn giả, lại truyền đời thứ nhất Tích Đỗ Ba tôn giả. Tác giả đã từng thọ
quán đảnh của đời thứ 12 Tích Đỗ Ba tôn giả, lãnh thọ người tu trì < thiền
định đại thủ ấn vô thượng tâm pháp >.
< Đông Quân > viết, Mật Lạc Nhật Ba đi học của Dung Đồng Giáp Lạt Ma
và Cổ Dung Ba Lạt Ma, tu luyện hắc giáo và hắc pháp chú thuật, dùng
pháp thuật kêu hộ tam muội da thần đem 35 người đồng hương giết chết,
lại đến nơi Dung Đồng Giáp Lạt Ma, cầu đắc < hàn bạc thuật >, đem mạch
119
tử của quê nhà đánh đến không còn một hạt. < Đông Quân > tiên sinh cho
rằng Mật Lạc Nhật Ba đầy tâm lý thù hận và phẫn độc.
Ở mặt này, chúng ta phải hiểu rõ trước bối cảnh của < Mật Lạc Nhật Ba >,
bởi vì gia đình của Mật Lạc Nhật Ba, ở quê nhà là do duyên cớ bị người ăn
hiếp, gia sản của ông toàn bộ đều bị lừa gạt hết, tâm linh nhỏ của ông lúc
đó, chỉ có đầy tâm lý báo phục. Nhưng mà khi < Mật Lạc Nhật Ba > lương
tri phát hiện, ông đã sám hối, đời người đều là sai, sai rồi có thể sửa, thiện
mạc đại yên. Đồng thời < Mật Lạc Nhật Ba > dùng đại thủ ấn siêu độ linh
hồn của những người bị giết, khiến sau khi họ được nơi an cư. Đây đều là
vị lai < Mật Lạc Nhật Ba tôn giả > ở sám hối quá khứ ác nghiệp, thiết pháp
mà bồi đắp công việc.
Liên hoa của Phật giáo, là tượng trưng ở bùn sanh ra mà không ô nhiễm,
người làm qua đại ác nghiệp, đều có thể đắc Phật lý, cũng có thể thành
Phật, cho nên có < phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật >, hắc giáo hắc
pháp, chỉ có < Tru pháp lợi hại >, Mật Lạc Nhật Ba cũng hối hận tạo ra ác
nghiệp, cho nên vị lai đắc chứng của Mật Lạc Nhật Ba, càng tượng trưng <
sanh ở bùn mà không nhiễm >, cũng chính là biểu soái < phóng hạ đồ đao,
lập địa thành Phật >, từ đại ác biến đại thiện, chúng ta chỉ có thể tán dương,
không thể nhất vị dương ác, luôn điểm này mà < Đông Quân > tiên sinh
cũng không hiểu.
Sau này Mã Di Ba tôn giả, khi muốn truyền mật pháp cho < Mật Lạc Nhật
Ba >, cho rất nhiều đề khó cho Mật Lạc Nhật Ba. Thí dụ như muốn Mật
Lạc Nhật Ba đi mua rượu thịt cúng dường, muốn Mật Lạc Nhật Ba dùng
pháp thuật hàn bạc, muốn địa phương < Tạp Oa> khởi nội loạn. Thật ra
chúng ta nhìn xem là biết, đây là Mã Di Ba đại sư đang khảo nghiệm tâm
địa của Mật Lạc Nhật Ba.
Cho nên khi Mật Lạc Nhật Ba cứ làm theo, Mã Di Ba cười lớn: < Ha ha !
con làm tội lớn như vậy, còn muốn thầy đem mật pháp này không tiếc thân
mạng cầu đắc không, có dễ dàng cho con không ?>
120
Cho nên, Mã Di Ba đại sư tôi luyện tâm tánh của Mật Lạc Nhật Ba, dùng
tất cả phương pháp hành hạ Mật Lạc Nhật Ba, cái này cũng là vì tiêu trừ
nghiệp chướng của Mật Lạc Nhật Ba và chuyển biến tâm địa của ông.
Thí dụ: Mã Di Ba đại sư muốn Mật Lạc Nhật Ba xây nhà, vừa xây được
một nữa lại phá bỏ. Lại xây một căn ở trên đầu núi hướng bắc, phải là hình
tam giác, xây một nữa, lại phủ nhận kiến tạo hình tam giác, lại phá bỏ. Lại
muốn Mật Lạc Nhật Ba xây một khách điếm lớn, đến nổi trên lưng của
Mật Lạc Nhật Ba nổi mủ ghẻ, đau không chịu được. Chúng ta đọc đoạn
văn này, thì đã biết rõ Mã Di Ba đại sư mượn cớ này để hành hạ tâm tánh
của Mật Lạc Nhật Ba, xem ông có nhịn được không, nếu không nhịn được,
thì không thể truyền pháp, nhưng, sau khi Mật Lạc Nhật Ba chịu tất cả
hành hạ, vẫn đứng vẫn được, như vậy Mã Di Ba đại sư mới truyền pháp
cho ông.
Nhưng mà, trong quá trình tôi luyện, < Đông Quân > lại đem Mật Lạc
Nhật Ba nói thành < không tuân thủ nặc ngôn >, < xuất di phản di >, đã
phạm tội không vọng ngữ của Phật giáo. Mã Di Ba đại sư là dùng thiện ý
để hành hạ Mật lạc Nhật Ba, nhưng lại bị < Đông Quân > viết thành tội
vọng ngữ < không tuân thủ nặc ngôn >, như vậy có đúng không ? Chúng ta
người đọc sách, bất cứ người nào đều biết rằng Mã Di Ba là hoàn toàn nghĩ
giúp cho < Mật Lạc Nhât Ba >, sự hành hạ này khiến Mật Lạc Nhật Ba
càng có định lực, có hành hạ lớn mới có đại thành tựu, mà < Đông Quân >
đem sự hành hạ này là việc làm sai của Mã Di Ba, đúng là < tâm của tiểu
nhân >, vô tri và ngu xuẩn, điểm này học sinh tiểu học cũng hiểu rõ không
lẽ lại nhìn không ra ?
< Đông Quân > lại viết: < Các pháp tu của Mật Lạc Nhật Ba, là một thứ tà
thuật, không thể xưng là pháp tu luyện < tức thân thành Phật >, chỉ là cộng
thêm khổ hạnh du già và trì niệm địa khu Ấn tạng và chú ngữ nguyên hữu
của một số thần đạo, có thể được pháp lực có hạn.> lại nói: < thời kỳ mạt
pháp có một số người tu đạo bởi do tín niệm không định, tâm sanh vọng
tưởng, dẫn đến thiên ma bám thể, miệng nói Phật pháp, nhưng lại không
lúc nào cũng biểu hiện thần thông, tự xưng đắc đạo, không tuân giới luật,
121
vào trong tà cảnh, quên mất chân nghĩa Phật dạy < pháp tướng bổn không,
bản tánh tịch nhiên >, thật là việc rất đáng sợ, cho nên tức thân thành Phật
của < Mật Lạc Nhật Ba >, chỉ là thiên ma bám thể mà thôi.>
Những câu nói này, xuất ra từ miệng của < Đông Quân >, tôi cho rằng là
rất đáng sợ, thật là tầm bậy, tổ sư Mật tông Bạch giáo bị ông phun máu
toàn bộ đều biến thành thiên ma. Vậy từ cổ chí kim, thành Phật là 2 vị <
Vô Úy giả > và < Đông Quân > ! Thật là vĩ đại !
Nói trắng ra, tôi xem tác giả < Phá tà hiển chánh vì chúng thuyết >, ngoại
trừ tôn sùng thiền tông ra, đối với mật tông là không hiểu gì hết, hoàn toàn
xem phát dương của mật tông sản sinh tâm lý đố kỵ, cố ý sĩ nhục mật tông
tổ sư, từ trong trứng gà mà tìm xương xẩu, mượn quạt thổi gió, tạo tranh
đấu giữa tôn phái, cuốn sách này là ruột tâm ác, thật là đoạn Phật huệ
mạng, giống như một số ma quân tà thuyết vậy. Chân thật mật giáo, chính
là chung cực đại thừa thành Phật, mới là đại pháp viên mãn.
Tôi viết kệ tán < Mật Lạc Nhật Ba tôn giả >:
Thứ nhất:
Mã Di Ba Mật quán đảnh Mật Lạc Nhật Ba.
Đắc pháp giả thiền định thủ ấn khí mạch giai.
Viên mãn thân tâm thành tựu vô thượng đại pháp
Dẫn đắc thiên nhân tiên nữ đều đến hí hoa.
Tôn giả lam quang tâm gian phóng đại quang minh.
Dung nhập ngã tâm thanh tịnh tâm khẩu ý chướng.
Ngã đắc tuệ trí đại thành như Phật Đà dạng
Diệu pháp thân viên thông vô ngại quang sáng lạng.
Kỳ 2:
Tứ quán đảnh đắc tu đại thủ ấn
Pháp giới thể tánh liễu sanh và chết.
Mật Lạc Nhật Ba nghiễm nhiên là Phật.
122
Kim Cang Như Lai vô nhị phân giả.
Đại mật căn kinh hà đẳng hùng vĩ.
Thanh tịnh đại lực vô khả đắc vi.
Bách môn đều khai là diệu pháp khí
Năng cứu chúng sanh nghi tinh tấn tùy.
Kỳ 3: Kết ngữ kệ
Thử bình nhất thiết sở hữu đức.
Hồi hướng chúng sanh phùng chánh sư
Bất báng mật pháp tổ sư giới.
Bất phá nhất thiết kim cang sư.
Bất hoại viên mãn Phật giới thổ
Người người đều đắc vô thượng đạo
123
034 Thiển dịch căn bản mật giáo 14 đại giới
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngô của thượng sư )
Giới luật mật giáo, lẽ ra là phải nghiêm hơn hiển giáo, mật giáo mới bắt
đầu, thì có 14 điều căn bản đại giới. Cho nên phàm là Kim Cang đệ tử,
nhất định phải hiểu rõ tất cả giới luật của bí mật Kim Cang, mà phải liễu
liễu ở tâm, tất cả giới luật phải tận lực tuân thủ, vĩnh viễn không phá giới,
nhất là 14 đại giới căn bản này, một điều cũng không được phạm.
Điều thứ nhất – Đối với thượng sư thân khẩu ý không cung kính
Giải thích: Vì thượng sư thay Phật truyền pháp, là nhất thể tam bảo, mật
giáo lấy Sư làm đệ nhất quy y, bình thường là xem Sư như Phật. Cho nên
đệ tử trước khi quy y, phải hiểu rõ thượng sư, để tránh sau khi quy y lại hối
hận, hình thành đối với thượng sư thân khẩu ý không cung kính, nếu đã
quy y thì phải kính thầy trọng thầy, như thế mới có công đức, mới có Phật
pháp thành tựu. Nếu hủy báng, thì sẽ phạm điều thứ nhất của < 14 điều đại
giới căn bản của mật giáo >, đọa địa ngục kim cang.
Nếu như sau khi quy y, đích thật biết được đó là một thượng sư giả, không
có tu hành Phật pháp chân chính, có thể xa rời vị thượng sư đó, lại tìm
thượng sư chân chính khác quy y, nhưng đối với thượng sư hiện tại tốt
nhất là không phê bình hủy báng thượng sư cũ, như vậy mới không mất
giới đệ tử kim cang thừa.
Điều thứ 2 – Đối với hiển mật luật nghi không tuân thủ.
Giải thích: Giới luật hiển giáo, mật giáo rất nhiều, đó là qui luật để phòng
chỉ Phật giáo đồ đi vào con đường tà, như ngũ giới, thập thiện thậm chí
250 giới điều đều có, lực lượng của trì giới hộ đắc là giới lực, đệ tử mật
giáo kim cang thừa, hiển mật luật nghi đều phải giữ được mới có thể được.
124
Điều thứ 3 – Đối với kim cang huynh đệ sanh oán kiện.
Giải thích: Đồng môn và đồng môn hoặc đồng môn đối với biệt môn, cùng
là kim cang thừa, không được khởi oán hận hoặc tâm tranh đấu. Cho nên
giới luật của đệ tử Chân Phật tông < lễ kính đồng môn, tôn kính thượng
sư >, đặc biệt quan trọng.
Điều thứ 4: - Vọng thất từ bi tâm kỵ có tình lạc.
Giải thích: Đệ tử kim cang thừa, phải có từ bi tâm, không thể đố kỵ
Điều thứ 5 – Úy nan bất thối mất bồ đề tâm.
Giải thích: Lấy tâm từ bi độ chúng sanh, bất cứ người nào đều phải độ hóa,
không sợ khó khăn, không được lùi bước, lấy chúng sanh đều có Phật tánh
mà cảm hóa họ, không được sợ khó khăn mà đánh mất bồ đề chánh niệm,
thay vào đó phải phát bồ đề tâm, đó tức là đại phát tâm độ tận chúng sanh.
Điều thứ 6 – Hủy báng Hiển Mật kinh điển phi Phật thuyết.
Giải thích: Trước mắt trong xã hội, có rất nhiều người hủy báng kinh điển,
nói cuốn này là kinh giả, cuốn kia là kinh giả, trước khi chưa hiểu hết, tốt
nhất là không nên vọng luận, bởi vọng luận tức là hủy báng, cũng là phạm
giới.
Điều thứ 7 – Quán tín bất cụ thọ mật pháp
Giải thích: Người truyền thọ mật pháp, chỉ có đầy đủ tư cách thượng sư
mới có thể truyền thọ mật pháp, tư cách của thượng sư là căn bản thượng
sư xác nhận, và nhập Tỳ Lô tánh hải, từ bổn tôn xác nhận. Nếu không có 2
vị này xác nhận, tự xưng thượng sư, truyền thọ mật pháp, gọi là < quán tín
bất cụ >, không có quán đảnh, tín cũng chưa lập, chưa thật là thượng sư,
không được truyền thọ mật pháp.
125
Điều thứ 8 – Tổn khổ tự uẩn bất như Phật.
Giải thích: Kim cang thượng sư cũng như Phật, đệ tử kim cang thừa tức là
Phật tử, cũng là pháp vương tử, tổn hại người khác, làm khổ bản thân, sung
mãn tâm ngũ uẩn, đều không hợp giới luật Phật pháp.
Điều thứ 9 – Biên phế không hữu bất học không tâm.
Giải thích: Không đồng hữu yếu phổ trọng, < không tâm > tức < vô tâm >,
phải môn này phải tu chứng, không được biên phế.
Điều thứ 10 – Cùng người báng Phật phá pháp làm hại chúng sanh
làm bạn
Giải thích: Điều này xem ra cùng điều thứ 5 có xung đột, thật ra là không.
Chúng ta có thể đi hóa độ người báng Phật phá pháp. Nhưng mà không thể
cùng người báng Phật phá pháp làm hại chúng sanh, đứng trên cùng một
đường thẳng, không được kết giao thành bạn thân, giỡn cười lẫn nhau.
Điều thứ 11 – Tự khoe thắng pháp vọng mất mật ý.
Giải thích: Bản thân thường hay cường điệu pháp lực của bản thân là đệ
nhất, lấy pháp lực trình cường, quên mất bản thân tu mật tông là để thành
Phật, cứu chúng sanh, bổn lai ý nghĩa là phát bồ đề tâm.
Điều thứ 12 – Không nói chân mật pháp chướng phá thiện căn.
Giải thích: Thượng sư chân chính, muốn truyền thọ mật pháp chân chính,
nếu không truyền thọ mật pháp chân chính, mà không độ tất cả hữu duyên
chúng sanh, là chướng phá thiện căn, là phạm giới.
126
Điều thứ 13 – Không hoàn thành pháp khí và tài liệu mật tông.
Giải thích: Tu nhất thiết pháp, dùng nhất thiết pháp khí, truyền nhất thiết
pháp, tài liệu phải đầy đủ, như vậy mới không phạm giới.
Điều thứ 14 – Hủy báng phụ nữ tuệ tự tánh.
Giải thích: Đối với phụ nữ không phá hoại tuệ tánh của họ, ý tức là bình
đẳng quán.
14 điều trên, là 14 điều đại giới học mật tông, người học mật phải thọ quán
đảnh viên mãn, cũng phải biết 14 điều đại giới căn bản này, nếu không có
thọ mật giáo quán đảnh viên mãn và 14 đại giới căn bản mà học mật tông,
cách học này, là không như pháp (không đúng pháp), là học tà pháp.
127
035 Tương ứng của Liên Hoa Sanh Đại Sĩ
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư )
Liên Hoa Sanh Đại Sĩ, Là Tây Ấn Độ Đạt La Quách Tiêu Hải, là Liên Hoa
đồng tử ngũ sắc Liên Hoa hóa sanh. Là Kim Cang ứng hóa thân khẩu ý
tam mật của Phật A Di Đà (Amitabha), Quán Thế Âm Bồ Tát
(Avalokiteshvara), Thích Ca Mâu Ni Phật (Shakyamuni). Sư là A Nan tôn
giả thọ pháp dự chúc của Phật Thích Ca Mâu Ni, khi A Nan tôn giả vì ngài
thuyết pháp, Trì Địa Phật Mẫu đến hiến cà sa, thập phương chư Phật hiện
thân gia trì.
Liên Hoa Sanh đại sĩ, tu đắc bát chủng ngoại pháp, bát chủng nội pháp, căn
bản thành tựu Vô Lượng Thọ Như Lai vô thượng tất địa, chứng ngũ Phật
trí, cùng A Đạt Di Ma Như Lai (Adharma), không có phân biệt. Ở Ấn Độ,
khi Ni Bách Di truyền giới, cũng lịch việc chư sư, tinh thông thiên văn địa
lý ngũ minh học, đắc tam ước ha, tu thiền định trong cổ tháp Ba ở Ni Bách
Di, Đại Sĩ được Tây Tạng Vương Xích Tùng Đức Chân thỉnh mời, từ Ấn
Độ vào Tây Tạng hoằng pháp, cũng là tổ sư đời thứ nhất của mật tông Tây
Tạng. Mật tông Tây Tạng đến nay vẫn hoằng dương, chính là Liên Hoa
Sanh đại sĩ thiệu kỳ sơ cơ, cũng là gia trì của đại sĩ.
Ngày 16 tháng 6 năm 1982, Phật Bồ Tát thị phạm cho tôi, mau đến Tây
Nhã Đồ của nước Mỹ cần tu mật pháp, thế là tôi nhanh chóng đi, ở Linh
Tiên Cát của Tây Nhã Đồ Mỹ quốc tu định, lúc âm lịch mùng 10 tháng 7,
< Ba Đức Mã Tát Ba Ngõa > chính là ngày kỷ niệm hóa sanh của Liên
Hoa Sanh đại sĩ, Liên Hoa Sanh cảnh nhiên giáng lâm mật đàn tu pháp của
tôi, phóng xạ kim quang vô lượng tầng tầng lớp lớp vòng tròn, Liên Hoa
Sanh đại sĩ ngồi trong chính giữa của các vòng tròn, trên đỉnh là cánh
khổng tước, đội hồng quan, tay phải cầm chày kim cang, tay trái giữ chén
sọ, trên có bình trường thọ, tay trái lại kẹp một cây chĩa ba, cũng tức là <
tạp tạng tạp >, thân khoác hồng bào cẩm y, đoan tọa trên nguyệt luân, toàn
thân của Liên Hoa Sanh đại sĩ phóng ra kim sắc quang hoa, đỉnh có nhật
nguyệt luân, tướng mạo viên mãn như Phật, trong thiền định tôi thấy Liên
Hoa Sanh đại sĩ, thân có màu hồng vàng trắng, thật là bất khả tư nghì!
128
Trong thiền định tôi lại thấy, thì ra trong trái phải của đầu người và bảo
bình (bình trường thọ), lại có cây như ý, quán trên đầu là liên hoa hồng
quán, trên thân có bào phục, cũng có pháp y, càng có áo khoác, lại tỉ mỉ
nhìn trên đỉnh nhật nguyệt luân của Liên Hoa Sanh đại sĩ, thì ra là một tôn
tôn truyền thừa thượng sư hóa thân. Lúc này, tôi ở trong định, đều xem đầy
đủ rất lâu, ở trong định đảnh lễ, một lần lại một lần.
Thì ra Liên Hoa Sanh đại sĩ muốn truyền thọ mật pháp cho tôi mà đến,
nhân duyên này là đã định sẵn từ nhiều đời trước, Liên Hoa Sanh đại sĩ vì
truyền mật pháp cho tôi, cảnh hiển hiện ở mật đàn của tôi, cái này là vì một
đại nhân duyên của < Chân Phật tông > mà giáng pháp đàn. Thế là tôi
trong tu định, tự cũng có bổn tục tổng truyền thừa của vô số thượng sư.
Liên Hoa Sanh đại sĩ dùng tướng từ nhan, trong tâm xuất hiện 4 chữ minh
chú, chính là < Cha. Hung, Lĩ, A >, phóng ra ngũ sắc quang minh chiếu tôi,
tôi từ vô thỉ đến nay, tất cả thân khẩu ý biến thành thanh tịnh. Liên Hoa
Sanh đại sĩ giáo thị tôi, trình tâm chi pháp, trụ tâm chi pháp, nhiếp tâm chi
pháp, và ban viên mãn mật hành đại quán đảnh, thọ Thích Ca Mâu Ni Phật,
phụ pháp truyền pháp, thành tựu < hồng quán thánh mão kim cang thượng
sư Liên Sanh mật hành tôn giả >.
Ngày 10 mỗi tháng, tôi mật tu < Liên Hoa Sanh đại sĩ pháp > như sau:
1/ Mộc dục tịnh thân, chỉnh y nhập mật đàn.
2/ Hiến cúng hoa, hương, đèn, trà, quả ngũ cúng hoặc bát cúng.
3/ Bái Phật. Nhất bái thập phương Phật, dùng Phật kham thủ ấn, nhị bái
chư Phật Bồ Tát, dùng Liên Hoa thủ ấn, tam bái Kim Cang thần, dùng xử 3
đầu thủ ấn, tứ kệ thủ, dùng bình đẳng thủ ấn .
4/ Niệm 4 chữ minh chú. Phụng thỉnh Liên Hoa Sanh đại sĩ. Lại tam bái,
niệm:
Nam mô pháp thân thường trụ cảnh giới, tam tế nhất như hiện thân,
Liên Hoa Sanh thượng sư.
129
Nam mô báo thân thanh tịnh cảnh giới, viên mãn thập phương hiện
thân, Liên Hoa Sanh thượng sư.
Nam mô ứng thân biến hiện cảnh giới, kỳ cầu tùy nguyện hiện thân,
Liên Hoa Sanh thượng sư.
5/ Niệm tứ quy y chú: < Nam mô Cô Lô Bối, Nam mô Bất Đả Da, Nam
mô Đạt Ma Da, Nam mô Tăng Già Da > ( 3 lần )
6/ Tôi dùng bị giáp hộ thân phòng ma chú: < Om, Bo Nhữ Lam Giả Lợi >
( 7 lần ), dùng kim cang chấp tay ấn 5 xứ.< trán, hầu, tâm, vai trái, vai
phải >.
7/ Quán tưởng Liên Hoa Sanh đại sĩ, thân màu hồng, tay phải cầm chày
kim cang, tay trái nâng chén sọ, trong đó đựng bình trường thọ, bên trái
kẹp chĩa ba nhọn, phụ tọa trên liên hoa nguyệt luân, trên đầu đội liên hoa
quán, dáng mạo từ oai gia bị. Lúc này tôi kết < hàng tam thế minh vương >
thủ ấn. Tôi thấy Liên Hoa Sanh đại sĩ bất nhiễm từ không mà xuống,
phóng ngũ sắc quang, gia bị cho tôi.
8/ Liên Hoa Sanh đại sĩ tiên trụ đối mặt không trung.
9/ Liên Hoa Sanh đại sĩ thu nhỏ sáng như một hạt gạo.
10/ Nhập ngã chi đỉnh huyệt, ngồi ở nơi Liên hoa tọa mà tôi chuẩn bị sẵn
đã lâu.
11/ Tôi tụng Liên Hoa Sanh đại sĩ tâm chú: < Om Gia Hung. Biệt Cha. Cô
Lô. Bối Ma. Xít Ti, Hung, Xê > (OM AH HUM BENZA GURU PÊD MA
SIDDHI HUM HRIH (SHƠ) ý nghĩa của chú này là: < hiển xuất chân như
tự tánh của bản thân, liên hoa từ từ khai nở, khi nhất thiết thành tựu, thì có
thể bi trí vận chuyển lẫn nhau.> Liên Hoa Sanh đại sĩ ngồi ở trong tâm của
tôi, tôi niệm tâm chú của Liên Hoa Sanh đại sĩ, tức lúc đó tức thân thành
tựu ứng thân biến hiện của Liên Hoa Sanh đại sĩ, tôi là Cô Lô (GURU), vì
Liên Hoa Sanh đại sĩ đến phương tiện mà độ chúng sanh, vì tất cả chúng
sanh mà thị hiện. Lúc này Liên Hoa Sanh đại sĩ trụ lâu dài ở tâm tôi, đốn
khai trí tuệ, biện tài vô ngại, đắc đại trí tuệ, thành tựu kim cang bất hoại
thân. Chú ngữ này là, tôi niệm 1080 lần.
12/ Lúc tôi niệm chú xong, tùy tức nhập định, Liên Hoa Sanh đại sĩ, tức
thời cùng tôi hợp nhất. Tôi thủ trụ lục căn trước, lục trần hoàn toàn tiêu
130
diệt, dùng tọa thiền thông minh pháp, thu chân khí thành một minh điểm,
đem minh điểm tụ ở bộ phận thiên tâm, là vì chân như nhất tâm, lúc này <
xuất thế gian > chi diệu pháp môn. Quán nhất thiết giai không, tất cả đều
giả, dài lâu như vậy toàn bộ hóa thành vô hình. Lúc này tôi dùng trực giác
đốn nhập, vũ trụ tối thượng ý thức từ từ tiếp cận, trong một sát na, bèn
dung hợp thành một, mà đăng đắc trung đạo thật tướng.
13 / Sau xuất định, niệm: < quy y liên sư tổng trì tôn, an trụ đỉnh thượng
bảo liên tọa, quang minh quán trụ ngã thân tâm, phàm sở kỳ cầu giai như
ý.>
14 / Phát Bồ Đề tâm nguyện.
15/ Đại lễ bái Phật, xuất đàn.
Theo thị hiện của Liên Hoa Sanh đại sĩ, thành Phật của Ngũ Phương Phật,
cũng tức là ý nghĩa hóa 5 phiền não mà thành tựu. Thí dụ như Đông
phương A Súc Như Lai, tức chuyển sân tâm tam độc thành đại viên kính trí
quang minh. Nam Phương Bảo Sanh Như Lai là chuyển mạn tâm thành
bình đẳng trí quang minh, Tây Phương A Di Đà Như Lai là chuyển tham
tâm thành diệu quan sát trí quang minh. Bắc phương Bất Không Thành
Tựu Như Lai chuyển đố kỵ tâm thành thành sở tác trí quang minh. Trung
ương Tỳ Lô Giá Na Như Lai là chuyển si tâm thành pháp giới thể tánh trí
quang minh, đây tức là ngũ trí quang minh pháp.
Liên Hoa Sanh đại sĩ chứng ngũ trí lưu, nguyên là < đại viên kính trí >, <
bình đẳng trí >, < diệu quan sát trí >,< thành sở tác trí >,< pháp giới thể
tánh trí >. Mà tôi từng thọ pháp vương quán đảnh, thì ra là giao gia quán
đảnh của ngũ trí lưu.
Từ Liên Hoa Sanh Đại Sĩ, Ngữ tôi, sở dĩ Phật, tức là giác giả. Sở dĩ chúng
sanh, tức là chưa giác giả, quan kiện trong đây là ngộ và chưa ngộ, tu và
chưa tu, chánh và chưa chánh. Liên Hoa Sanh đại sĩ muốn tôi ở trong sách
đặc biệt nhắc nhở về mặt của < trí tuệ độ hóa >, đồng thời cường điệu <
quan trọng của thật tu >. Tâm của mỗi người đều có Phật tánh, lẽ ra là đầy
đủ, tất cảnh vô dị, thật tu xong, nhất định có thể đắc thượng thừa thiền vị,
đó là quan niệm chí cực.
131
Liên Hoa Sanh đại truyền thọ cho tôi mật pháp của Hồng giáo.
Tôi hỏi đại sĩ: < Đại sĩ thân ở đâu ?>
< Thập phương chúng sanh đều là thân Ta >
< Tôi không hiểu ?>
< Tất cả nghiệp chướng khổ não của thập phương chúng sanh, Ta đều nhận
thay, vậy không phải thập phương chúng sanh đều là thân Ta sao.>
Bình đẳng, bình đẳng, không hình tướng giữa người và ta, là Liên Hoa
Sanh đại sĩ. Hôm nay tôi đảm đương gia nghiệp của Như Lai, Liên Hoa
Sanh đại sĩ cùng tôi tương ứng, Liên Hoa Sanh đại sĩ trụ ở trong tâm tôi,
tôi phát tâm nguyện đại bồ đề, tôi không độ chúng sanh, ai độ chúng sanh ?
132
036 Quang huy của họ Lư
( Lư Thắng Ngạn Văn Tập 048 – Chứng ngộ của thượng sư )
Có một vị Phật giáo đồ, < Truyền Sanh cư sĩ >, họ Lư tên Kim Sanh. Ông
ấy cho tư liệu của họ Lư, muốn tôi công bố ở trên sách, mà kiến lập quang
vinh của tông tộc:
Họ Lư là triều Chu, sau Khương Thái Công, phong ở Lư sơn mà được họ
( Sơn Đông Trưởng Thanh huyện ), cho nên họ Lư là người đời sau của
Khương Thái công, nhưng Khương cùng 13 họ, sau khi truy tố đến thời
hoàng đế Đông Nhạc ( đứng đầu của Tứ Nhạc là một trong tứ đại quan ),
nên Lữ, Khương, Lư, Cao, Hứa, Kỷ, Tạ, Khưu, Đinh, Thôi, Tề, Chương,
Thân, đều là cùng một huyết thống. Ở Mỹ (Golden Gate) đều có tổ chức
của những tông thân này, ở trong nước nghe nói chỉ có tổ chức của 4 họ
thôi. Trong lịch sử, từ đời Hán đến nay, họ Lư đã từ từ phồn vinh, làm
quan rất nhiều. Đời Đường nguyên có 5 tộc thị lớn, tức là Vương, Lý, Thôi,
Lư, Trịnh. Trong các tể tướng của đời Đường, họ Lư có hơn 8 vị, cuối đời
Đường, Huỳnh Sào làm loạn, những đại tộc này gặp họa rất nhiều, sau Chu
Ôn cướp ngôi Đường, càng đem họ Lư mậu diệt nhất không. Họ Lư vì
tránh nạn, y quán về phía nam, sau dời đến Mân, Chiết, và Quảng Vân
Nam, cho nên nguồn gốc của người họ Lư ở phía nam, là từ Mân Đài mà
đến.
Ở nước Mỹ và các nước ở Mỹ Châu, họ Lư không ít, cũng có tổ chức của
tông thân. Tức từ chữ Lư mà xem, họ Lư giống như một tôn Phật, ngồi trên
hoa sen vững vàng. Người thành đạo rất nhiều, thời Tần có Lư Sanh tu tiên,
thời Đường có Lư Ngao ở Chung sơn tu đạo thành tiên, tỉnh Hà Nam có
Lư thị huyện, Chung sơn là ở phía tây của huyện Lư thị, theo truyền thuyết
Lư thị huyện là một tảng đá rất to, là do Lư thị sở tu, cho nên có tên là Lư
thị huyện. Trong Phật môn ngài Lục Tổ Huệ Năng đại sư, thế tục họ Lư,
được liệt vào tổ sư một đời thịnh danh nhất của Phật giáo Trung Quốc.
Ở hiện tại mà nói, lại xuất hiện một Lư Thắng Ngạn thượng sư, tham thiền
tu đạo, hiển, mật tam giáo, đắc nhất viên giác, sớm tối đắc đạo thành tiên
133
thành Phật, khai Linh Tiên mật tông đại pháp môn. Phu nhân cũng là họ
Lư, đúng là hiện tượng ít gặp, con trai con gái là Lư Phật Thanh, Lư Phật
Kỳ, từ nhỏ tu Phật học thiền thông linh, còn có một vị tên là Lư Thanh
Phượng cùng tôi toàn tâm toàn ý tu Phật pháp, họ Lư này cùng Phật môn
có duyên, đúng là quang huy của họ Lư.
< Truyền Quang cư sĩ > là đệ tử của lão pháp sư Quảng Khâm, ở trong
quân đội làm viên quan cấp cao, học dưỡng rất cao, nhân đề cung quang
huy của họ Lư, rất cảm tạ ! Đặc biệt viết một bài kệ:
Lư tử nhất Phật tọa liên hoa.
Nhất thủ trì kiếm chỉ địa phương;
Thề nguyện thâm trọng độ chúng sanh
Đương nguyện thành tựu phóng quang mang.
Liên tiên viên mãn trí tuệ ẩn.
Tam sanh tôn thế cùng pháp đàn;
Tập thượng vô biên thiện đức duyên.
Tốc thành Phật hải pháp luân chuyển.
134
037 Tiểu bình sanh của Thổ Đăng Đạt Kiết thượng sư
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư ).
Thổ Đăng Đạt Kiết thượng sư, là một trong những thượng sư dẫn đạo cho
tôi tu mật tông, Ngài chỉ đạo tôi tu pháp Hoàng giáo (Gelug). Thượng sư
thế danh họ Lý, tên Đình Quang. Ở thời trẻ bị bệnh nặng, rất nhiều bác sĩ
xem qua đều nói không thể cứu chữa, không còn hy vọng nữa. Thế là Thổ
Đăng thượng sư trong tuyệt vọng, chỉ có nhất tâm toàn ý cầu Bồ Tát,
thượng sư ngày ngày lễ bái Đức Quán Âm. Không lâu sau, được một ẩn sĩ
họ Trương, là người Thượng Hải, đến giúp đỡ Ngài. Sau đó Hoàng giáo
của mật tông ở Tây Tạng Thổ Đăng Lạt Ma, dạy cho ngài tất cả đại pháp
của Hoàng giáo, thế là thượng sư cần tu mật pháp. Bệnh tình không cần
thuốc mà hết hẳn.
Lúc đó đời sống của Thổ Đăng thượng sư rất vất vả, thượng sư ở trong một
căn nhà gỗ rất nhỏ học tập tu định, khổ tu tu tập như vậy hơn mười mấy
năm, mười mấy năm như vậy hoàn toàn tu tập pháp < minh điểm > và
những cái khác. Bởi do tu < minh điểm > pháp mà đắc đại thành tựu. Thổ
Đăng Kiết thượng sư nói, nếu như đem quá trình tu < minh điểm > pháp
này mà hoàn toàn viết trên sách, rất nhiều người sẽ không hiểu và không
tin. Kiêm nếu viết ra tu pháp, sợ rằng rất nhiều người sẽ theo sách mà tu
tập loạn xạ, như vậy sẽ dẫn đến rất nhiều tác dụng phụ và nhiều bệnh khác.
Bởi vì pháp tu luyện < minh điểm > này, hoàn toàn cùng pháp tu phổ
thông là không giống nhau, là phải cần thượng sư đích thân chỉ dạy, mới
tu được đại thành tựu, trong đó quan tạp trùng trùng, đích thân thượng sư
chỉ điểm, là ân trọng như phụ mẫu.
Thổ Đăng Kiết thượng sư tự nói, ngài đã ẩn cư, không muốn công khai mà
truyền pháp, mà pháp luân của ngài đã chuyển, sau này chuyển pháp luân,
truyền pháp, sẽ từ 2 đệ tử thay thế truyền, một người là trước mắt ở Hong
Kong < Liên Cảnh cư sĩ >, một người là tác giả, thượng sư muốn tôi kiên
ổn mà đứng ra, khiến người có đường mà tuần. Khiến Hoàng giáo chân
chính của mật pháp có thể phát dương quang đại, nhất là < minh điểm >
pháp, sẽ có truyền nhân.
135
Thổ Đăng Đạt Kiết thượng sư không muốn nổi tiếng, bởi tuổi tác của ông
cũng đã lớn, thượng sư chỉ hy vọng mật pháp có thể phổ dương ở thế, đời
sống hiện tại của thượng sư rất thanh nhàn, không ưu sầu cái gì, mỗi ngày
vẫn đều đều tu trì tinh tấn, thượng sư chỉ muốn chúng ta mỗi ngày tu pháp
cho thật tốt, sau đó đem mật pháp mà truyền lại.
Bản thân tôi là chân chính hiến < Ha Đạt > cho Thổ Đăng thượng sư, tất cả
thành tựu của Kim Cang mật thừa, đều nhờ chân truyền của bí mật quán
đảnh, và chỉ đạo chính thức của các chánh pháp, muốn được chỉ đạo truyền
thừa của những chánh pháp này, phải có kim cang thượng sư đích thực.
Bởi chính vì thượng sư là căn bản của tất cả thành tựu, có được kim cang
thượng sư đích thực, mới có thể được tất cả thành tựu của mật pháp.
Cho nên, Tam Bố Đạt kinh nói: < tất cả những hỷ ái vật tự có, thanh tâm
tịnh tâm vô dụng tâm, kim cang đệ tử cúng dường sư.>
Truyền thừa của tôi là Hồng giáo, Hoàng giáo, Bạch giáo, Hoa giáo đều có,
đắc nhiều pháp mà dung hội quan thông, bởi chỉ do tôi là vì một nhân
duyên lớn mà xuất hiện ở thế gian.
( Hoa giáo truyền thừa của tôi là Tát Ba Chứng Không Lạt Ma )
136
038 Tương ứng của < Linh Tiên Phi Hồng pháp >
Quy y của Vô Thần Luận giả.
Trong bài văn này, có một lá thư được gửi đến, lá thư này rất có ý nghĩa.
Thượng sư:
Chào ngài, trước khi chưa được cho phép nhập môn, không dám xưng đệ
tử, thì ra tôi cũng là cùng một số thanh niên là như nhau, lấy vô thần luận
giả tự cư, mắt nhìn thấy người ta lạy thần lễ Phật, là dùng mũi mà cười
nhạt, con người đã lên tới cung trăng, sẽ tiến quân vào sao hỏa rồi, còn
ngừng lại ở thời kỳ thần quyền, thật là mê tín hại người, thật là tức cười !
Cho đến năm ngoái mẹ con mất đi, trên tư tưởng bắt đầu có thay đổi, cảm
thấy người là có một xác thể hoạt bát, cũng có một đầu óc tư duy chẩn mật,
nhưng mà vẫn giống như một nhục thể của xác chết vô hồn mà đi lại, từ
sống đến chết, tùy cho thời gian mà tể hại, cho nên trước mắt ở tình thế
này, nhân tâm không cổ, đại giả chiến sự không ngừng, tiểu giả thì đạo phỉ
ngày càng tăng, mắt mê ngũ sắc, chỉ cầu hưởng lạc, đạo đức trầm luân, trật
tự đảo lộn, người thiện lượng bị hãm vào trong nước lửa. Cái này có thể
không nói, hiện nay khoa học phát triển, y học cũng ngày càng phát triển,
nhưng mà lại có rất nhiều người đau bệnh hành hạ, bệnh viện mở càng
nhiều, mà tất cả đều rất đông, người chật cứng, khoa học y học phát triển,
nhưng bệnh hoạn ngày càng gia tăng, có phải là kỳ lạ không !
Lấy bản thân con mà nói, bệnh cố tật rất nhiều, trị hoài không hết, tốn
không ít tiền bạc, mà bệnh tình lại gia tăng, đau khổ lâu dài, thật là vô ngữ
hỏi trời xanh.
Mùa hè năm ngoái, nghe được chị Đàm Dị làm cùng công ty, trong nhà có
một cuốn < Thánh Nguyên Giác Chân Kinh >, nếu thành tâm niệm tụng, sẽ
có một mùi trầm hương, vì hiếu kỳ, con mượn để xem, khi tịnh tay kiền
thành mở ra trang thứ nhất, quả nhiên ngửi được một mùi trầm hương nhè
nhẹ, nhưng mà khi ngửi kỹ cuốn kinh, không có cảm giác nào hết, từ đó có
cảm giác tồn tại bất khả tư nghì, cũng tức là từ đó, sáng tối mỗi ngày niệm
137
một vài thời kinh Phật, không có ngày nào gián đoạn. Đồng thời, cũng
nghe trước tác của thượng sư rất linh dị, rất hiếu kỳ, trước tiên là mượn
đồng nghiệp để đọc, sau này là đặt mua qua bưu điện, đọc rất hứng thú,
đọc qua đọc lại mấy lần, vẫn không muốn buông tay, từ đầu đọc lại, vẫn
thấy hội ý mới, nói thật ra, sách linh đích thực ban cho tôi không ít trí tuệ
và tâm an.
Thần kỳ linh dị nhất là ở trong phù lục của < Linh Tiên Phi Hồng >, nhiều
năm nay thường hay bị cảm mạo, thân thể suy nhược, có rất nhiều bệnh,
sau khi được cuốn sách < Linh Tiên Phi Hồng pháp >, kiền tâm theo phù
lục mà vẽ 3 đạo uống vào, cảnh nhiên như thuốc tiên đơn diệu dược, mấy
tháng nay chưa thấy cảm mạo, kỳ linh dị thần kỳ, như vô thần tiên phóng
quang bố khí, chỉ có thể như vậy, cho nên, kiên định tâm hướng đạo của
con, hy vọng sau này có thể độ mình độ người, thần tác của thượng sư,
phụng vi bảo điển, đem làm bảo gia truyền, trấn gia chi bảo.
Xin phép quy y thượng sư tọa hạ, y duyên ban pháp, ti lợi chuyên nhất tu
hành. Con phải cung Phật vị Phật nào và vị thần nào là tốt nhất, chư Phật
và chúng Bồ Tát sắp xếp ra sao ! Trước mắt cung phụng giả, có Hồng
Quán Thánh Mão Kim Cang thượng sư pháp tướng, Quán Thế Âm Bồ Tát
trì bình ( bao đồng chân trái có một quái thú, giống như sư tử có sừng,
giống kỳ lân có lông, không biết tên gì ), đều là chưa khai quang. Con phát
nguyện trong những năm còn sống, kiền thành lễ Phật, cúng phụng thượng
sư Phật Pháp Tăng, công đức hồi hướng tất cả chúng sinh.
Gần đây hiệp hội Krishna những người có tâm, đến Đài Loan phát hành
sách ấn tống. Tuyên truyền nguyên bản Bác Già phạn ca sách Chí Tôn Ảo
Nghĩa Thư, tuyền nguyên sóc thiện khoái lạc, vi thí Nữu Đốc Đà kinh làm
chủ. Nhưng không biết giáo nghĩa đạo giáo này cùng tính chất ra sao ?
Thuộc tôn giáo nào ? Viết quá nhiều rồi, làm trở ngại thời gian của thượng
sư, xin thứ lỗi
Kính chúc
Đạo An Bồi thêm kính lạy
138
Lá thư này có 3 ý nghĩa:
Thứ nhất, khoa học y học có phát triển thêm, khoa học vĩnh viễn là phạm
vi ngoại tâm cầu pháp, cho dù lên đến sao kim, sao thổ, sao hỏa, sao thủy,
sao mộc, lên đến mặt trời đi nữa ( mặt trời cũng đã lên rồi ), đối với tri
thức của loài người là mở rộng, nhưng thật tế đối với loài người có lợi ích
gì ? Y học cũng phát triển, tất cả các loại thuốc trị bệnh đều có, nhưng mà
bệnh viện vẫn chật cứng người, bệnh của con người càng nhiều, người chết
càng nhanh càng nhiều, rất nhiều bệnh lạ xuất hiện, cái này là tại sao ? Cái
này cũng là < tâm ngoại cầu pháp >. Có rất nhiều bệnh là do tâm con
người không tốt mà sản sinh ra, mọi người đừng kỳ lạ, bởi vì nguyên do
của những bệnh này là do nghiệp chướng mà có.
Thứ 2, phù lục của < Linh Tiên Phi Hồng pháp >, đã có rất nhiều người ấn
chứng, nên nhớ, xin mọi người hãy kiền thành tu Phật pháp mới sử dụng,
không nên không cung kính. Có thể cảm động Phật Bồ Tát mà phóng
quang bố khí, nhất định phải có hiệu ứng, nhất là người niệm kinh trì chú
thí dụng, càng có linh nghiệm.
Thứ 3, hiệp hội Krishna, xưng chủ < Krishna > là một vị < siêu linh >,
nhân loại theo tự nhiên là chịu khống chế của định luật, mà chí thượng
thần cách của định luật tự nhiên là Krishna. Hiệp hội này xưng rất nhiều
thánh giả đều là hóa thân của Krishna, Phật Đà cũng vậy, có một chú ngữ
là: < Ha Lợi Cơ Sĩ Nã, Ha lợi Cơ Sĩ Nã, Cơ Sĩ Nã Cơ Sĩ Nã, Ha Lợi Ha
Lợi, Ha Lợi La Ma, La Ma La Ma, Ha Lợi Ha Lợi.>Đây là một chú ngữ
tán mỹ thượng chủ và chí tôn cao. Trong các đệ tử của tôi, có mấy người là
người của hiệp hội Krishna, một người là người Ấn Độ, 2 người là người
Mỹ, Krishna được xưng là Giê Su cũng là hóa thân của Ngài.
Tóm lại, ý thức chí thượng của vũ trụ, có khi là tương thông, tu định của
Chân Phật tông của chúng tôi, đến một từng thứ nào đó, tự nhiên khai ngộ
đến chân lý của phương diện này.
139
039 Tương ứng của < thượng sư tương ứng pháp >
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư )
Tu luyện <thượng sư tương ứng pháp > có tác dụng gì ? Bởi vì thượng sư
là người truyền Phật pháp, là đạo sư truyền pháp của Chân Phật tông, sau
này có thể thành Phật, đó chính là duyên cớ thượng sư truyền pháp cho bạn.
Tôi đối với thượng sư của tôi, là xem như Phật vậy, tôi phụng thỉnh thượng
sư như vậy: < đỉnh đầu quang minh đại nguyệt luân, thân phóng bách bảo
kim hào quang, ngã sư oai nghi kiêm uy đức, bất nhị liên sư Liên Hoa
Sanh, khẩu tụng chú âm Hung Hung Hung, tâm có bi trí song vận chuyển.
Kim ngã đảnh lễ liên túc hạ, kỳ cầu gia trì trừ ma chướng, càng nhập thủ
ấn đại thiền định, nguyện ngã tức tốc đạt chí thiện, thành tựu quang minh
biên pháp giới, độ tận nhất thiết khổ chúng sanh, cách An Liên sư Phật Tất
địa >
Đây là tôi tu khởi thỉnh văn của < thượng sư tương ứng pháp >
Hôm nay, cũng giống như vậy, Chân Phật tông mạch mạch tương truyền,
mọi người đều phải tu < thượng sư tương ứng pháp >, < thượng sư tương
ứng pháp > này chính là một trong những gia hành pháp. Một số mật pháp,
đều đem < tứ quy y >, < đại lễ bái >,< đại cúng dường >, < kim cang tâm >
lại thêm < thượng sư tương ứng pháp > là một trong những công phu cần
tu luyện. Thậm chí có rất nhiều mật tông hành giả vì tương ứng thượng sư
< tương ứng pháp >, đến thâm sơn cổ động bế quan, có thể thấy quan trọng
của < thượng sư tương ứng pháp >.
Tôi có một vị đệ tử, tu < thượng sư tương ứng pháp >, mà đắc đại cảm ứng,
gửi thư đến, nội dung như sau:
< con vào ngày mùng 1 tháng 9 năm nay, tu thượng sư tương ứng pháp,
lúc đầu thật ra không biết hiệu ứng của thượng sư tương ứng pháp, đem
pháp tướng của thượng sư tương ứng pháp cung phụng, bèn nhất tâm nhất
ý niệm: < Om Ah Hung. Cô Lô Bối. A Ha Tát Sa Ma Ha. Liên Sanh Xít Ti
Hung.>, cứ như vậy một biến một biến mà niệm, trong đầu quán tưởng
140
tướng mạo của thượng sư, trong sát na. Oa! Kỳ tích xuất hiện, cảnh nhiên
thấy thượng sư thân lâm đến chánh thượng phương của con, hoàn toàn y
như pháp tướng vậy. Mà trên trán còn phóng ra bạch quang phóng vào
thiên tâm xứ của con ( Om ), và hồng quang phóng vào bộ phận hầu của
con ( A ), và lam quang phóng vào bộ phận tâm của con ( Hung ). Đồng
thời con nghe bốn phía có rất nhiều rất nhiều thiên thần, đều đồng thời
niệm chú thượng sư, tức là: < Om A Hung. Cô Lô Bối. A Ha Tát Sa Ma
Ha. Liên Sanh Xít Ti Hung.>
< Con tiếp tục thiền định, quả nhiên thấy thượng sư đưa tay ra, đặt ở trên
đầu của con, có một linh lực từ trong lòng bàn tay thấu ra ngoài, đầu óc
con càng thanh minh, trong tâm càng rõ ràng, con vui mừng đến nỗi muốn
nhảy lên, thì ra là thượng sư thật đến phân linh gia trì con rồi, con có thể
tiêu trừ nghiệp chướng của mình. Thượng sư là thượng sư đắc chứng, linh
quang biên bố toàn thế giới, sung mãn trong hư không, có thể khiến bất cứ
đệ tử tu pháp nào đều đắc cảm ứng, thì ra quán tưởng thượng sư tương ứng
pháp là tốt như vậy.>
< Ngày thứ 2, con chạy đi nói với một tiền bối tu mật tông lâu năm <
Nhược Na tịnh xá >, vị mật tông tiền bối này nói với con, thượng sư tương
ứng pháp, nguyên là một pháp quan trọng thứ nhất, trong tất cả pháp tu là
ở hàng thứ nhất, không có thượng sư tương ứng pháp, những pháp khác,
làm sao tương ứng, có thượng sư tương ứng pháp rồi, những pháp khác
mới nhất nhất tương ứng, cái này là đặc biệt quan trọng. Sau khi con nghe
xong, đặc biệt vui mừng, lần này còn tuy rằng làm lại ( không ai chỉ dẫn ),
nhưng vẫn xem như nhập môn rồi, Con biết, đây có thể là một trong những
thiên cơ thượng sư ẩn tạng. Không biết con nói có đúng không ?>
Người đệ tử này là Chu Viễn, bây giờ tôi đặc biệt giải thích như sau:
Thượng sư tương ứng pháp của mật tông, thượng sư có 4 thân.
Thứ nhất, chân thân – đẳng hư không giới như mẹ, chúng sanh khởi thỉnh
chân thân thượng sư.
141
Thứ 2, pháp tánh thân – đẳng hư không giới như mẹ, chúng sanh khởi
thỉnh thân pháp tánh thượng sư.
Thứ 3, báo tánh thân – đẳng hư không giới như mẹ, chúng sanh khởi thỉnh
viên mãn báo thân thượng sư.
Thứ 4, ứng tánh thân – đẳng hư không như mẹ, chúng sanh khởi thỉnh đại
bi vô ngại thắng ứng hóa thân thượng sư.
Phải biết rằng một thượng sư linh tánh chân chính, có thể nói rằng là đã tu
rất nhiều rất nhiều kiếp rồi, tất cả đức hạnh đầy đủ, tất cả cũng đều tự tại,
có thành tựu thù thắng, có đại trí tuệ, có thể ở thế gian chứng đắc nhất thiết
pháp, mà không phải chết đi mới đắc pháp, có lực lượng đại thủ ấn thiền
định, đã đích thân vào trong tỳ lô tánh hải, đắc chứng mật pháp. Thành tựu
vô thượng, có Phật thọ ký, thừa đảm Phật sự, có đại pháp lực, cấu cảnh
nhất thiết, điều phục chúng tâm, trang nghiêm bảo tướng, nhập thế xuất thế,
đều là tự như, vô bỉ thánh hiền, hóa thân vô số, biên mãn hư không, đại ấn
không tánh, viên mãn hóa thân, bản thể Phật tánh, thiện hảo hiển hiện,
chúng sanh y hỗ, từ bi bất nhị, kim cang bất hoại, công đức như hải, thuyết
pháp độ chúng, phổ nhiếp quần mê, tứ chúng sanh trí, hiển chân thật nghĩa,
thuyết chân thật đế, ma bất khả địch.
Khi các đệ tử quán tưởng thượng sư, có thể quán tưởng một cái hồ lớn
trước, quang minh như gương, chính giữa hồ nước xuất hiện một ngọn núi
cao, trên đỉnh núi có một liên hoa tọa, kim cang thượng sư ngồi trên liên
hoa tọa đó, tướng mạo trang nghiêm viên mãn, thiên phóng bách bảo
quang minh, bên phải thượng sư có thập phương chư Phật quá khứ, bên
trái có tất cả Bồ Tát, Thánh Hiền, Tăng Già, và các lịch đại tổ sư tầng tầng
vây quanh, ở dưới pháp tọa, có Tứ Đại Thiên Vương và các Quỷ Thần Hộ
Pháp, quán tưởng như vậy, càng thù thắng và tương ứng, đó chính là cảnh
giới quán tưởng của truyền thừa.
Phải biết rằng quán niệm < thượng sư tương ứng pháp > là thượng sư cùng
tất cả pháp giới của chư Phật là cùng một thể, là tánh thể hợp nhất thân
khẩu ý của thập phương chư Phật, là căn nguyên 8 vạn 4000 pháp môn. Đệ
tử Chân Phật tông đầy đủ quy y truyền thừa, căn bản là thượng sư đầy đủ
142
đức. Quy y thập phương tam thế nhất thiết chư Phật bổn tôn thánh chúng.
Quy y thập phương tam thế nhất thiết chư Bồ Tát bổn tôn thánh chúng.
Quy y 8 vạn 4000 pháp môn và vô thượng pháp môn. Quy y lịch đại truyền
thừa nhất thiết thánh hiền đắc chứng hiền thành tăng già. Quy y nhất thiết
cụ hữu bi trí hộ pháp thánh chúng.
Tôi hôm nay, đặc biệt công khai giải thích bí mật < thượng sư tương ứng
pháp >, phàm là người kiền thành và có hằng tâm, có thể theo thứ tự mà tu
trì mà có đại thành tựu. Hy vọng mọi người hãy tu trì thể hội cho tốt.
040 Kỳ cảnh xuất hiện ở < pháp hội siêu độ >
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư )
Nhớ ở pháp hội thứ 2 ( TUKWILA ) tại Linh Tiên tịnh xá nước Mỹ.
Ngày 3 tháng 9 năm 1983, chúng tôi ở Hoa Sinh Tuân nước Mỹ trong một
< Tháp Khổ Liễu > cử hành một pháp hội siêu độ, pháp hội này xuất hiện
những kỳ tích và kỳ cảnh, khiến một số chúng sanh không tin thần và Phật,
đều động dung, tán thán vô cùng, có rất nhiều thạc sĩ đến đó, người tham
quan cũng rất nhiều, họ đều có một nghi vấn, cái này làm sao có thể ? Ở
một góc độ trong nước văn minh như vậy, làm sao có thần tích như vậy.
Pháp hội lần này, từ Oatawa của nước Canada đến có Lai Văn Ngạn, Chân
Tam Nguyên, Huỳnh Thiếu Lan … Từ Golden Gate lái xe đến có Triêu
Chiêu Minh, Tiêu Quốc Tiềm, Hứa Vĩ Linh … Từ Lạc Bân Cơ đến có
Giang Thiếu Bình … và từ Hoa Sinh Tuân DC đến có Thái Chấn
Lương … còn có CA. JENG đến từ Malaysia và Liêu Tây Phương đến từ
Hongkong …
Những đệ tử người Mỹ cũng đến tham gia như BEKLIA, KARIN, RITA,
TANM, REIKO … cũng có những người Mỹ đến, người Quảng Đông đến,
người Triều Châu đến, người Đài Sơn đến, người Hongkong đến, có người
Ấn Độ, hình thành một pháp hội của các dân tộc trên thế giới dung nhập lại.
143
Ngoài ra có hàng trăm người nghe được pháp hội này đến xem cũng rất
đông, khiến toàn bộ nơi tổ chức pháp hội, người người chen nhau, mọi nơi
đều là người.
Trước pháp hội một ngày, tôi tịnh tọa trong mật đàn của mình, chỉ thấy
trước mắt có một hào quang chớp chớp, hiện ra hàng trăm liên hoa, tất cả
đều phóng quang, trải đều toàn bộ hư không, trong hư không vô biên vô tế
này, cảnh nhiên phân bố sung mãn các liên hoa, trên dưới phi vũ, ngũ sắc
rực rỡ, rất là đẹp mắt. Lúc này trong không trung hiện ra 3 tôn A Di Đà
Như Lai, 3 tôn A Di Đà Như Lai này chính là < Thường Tịch Quang Tịnh
Thổ A Di Đà Như Lai >, < Thật Báo Trang Nghiêm Thổ A Di Đà Như
Lai >, < Phương Tiện Thánh Cư Sĩ A Di Đà Như Lai >. Thế là tôi ở trong
tịnh tọa, xuất linh đảnh lễ: < Nhất tâm đảnh lễ, Thường Tịnh Quang Tịnh
Thổ, A Di Đà Như Lai, Thanh Tịnh Diệu Pháp Thân, biến pháp giới chư
Phật. Nhất tâm đảnh lễ, Thật Báo Trang Nghiêm Thổ, A Di Đà Như Lai, vi
trần tướng hải thân, biến pháp giới chư Phật. Nhất tâm đảnh lễ, Phương
tiện thánh cư sĩ, A Di Đà Như Lai, giải thoát tướng trang nghiêm thân,
biến pháp giới chư Phật.>
Lúc này 3 tôn A Di Đà Phật, mỗi vị phóng ra quang minh, nhập vào đỉnh
huyệt, toàn thân của tôi sung mãn quang minh. Trong một sát na, liên hoa
ở tâm tôi khai mở ra, trên liên hoa cũng có một vị < Tây Phương An Lạc
Thổ A Di Đà Như Lai > đứng đó. Trong sát na, bản thân tôi biến hóa thành
Tây Phương An Lạc Thổ A Di Đà Như Lai. Đó là ngày thứ nhất của pháp
hội, trong tịnh tọa tôi đắc được tương ứng kỳ diệu.
Pháp hội chính thức bắt đầu, chúng tôi tụng kinh A Di Đà, niệm A Di Đà
Phật, chú Vãng Sanh, Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh, chú Đại Bi,
và các mật chú khác. Tôi dùng đại thủ ấn và trung ấm cứu độ mật pháp
chính thức siêu độ vong linh. Tôi dùng triệu thỉnh trước, khiến tất cả vong
linh ở khắp nơi trên thế gian, toàn bộ đều nương nhờ oai thần lực của Phật
và Bồ Tát, đến dưới phướng chiêu hồn, cúng cho họ pháp vị, sau này tuyên
giảng kinh điển, khiến họ đắc được linh hồn đề thăng, lại dùng đại thủ ấn,
144
khiến họ vào trong cảnh giới càng cao, tôi tính toán những vong linh đã
được triệu thỉnh, toàn bộ có 4317 vị.
Pháp hội ở dưới < đại thủ ấn >, hiện ra một mảng quang minh, khiến rất
nhiều đệ tử, tận mắt thấy người thân của họ, kỳ cảnh nhất nhất hiện ra,
không thể kể hết, khiến tất cả những người tham quan, văn kiến động dung,
tán thán vô cùng. Những sự thật này, khiến rất nhiều thạc sĩ nhà khoa học,
nội tâm rất cảm động, nức nở khen kỳ.
Bà Trương Viên, nhìn thấy người chồng đã mất, bước vào trong, nói với bà:
< tôi đến rồi.> tiếp đến là 2 người ( một người một hồn phách ) ôm nhau,
khóc chảy nước mắt.
Mẹ của bà Trần Tước Hằng, đột nhiên thấy em trai của mình, kéo lê khóa
sắt bước vào, người em trai nói với bà < em bởi uống thuốc độc mà chết,
phải bị nhốt 14 năm nữa mới siêu sanh, chị phải thỉnh thượng sư thay em
giải thoát mới được.> Người chị sau khi nghe em nói như vậy, tức khắc
khóc ngay hiện trường, đau khổ vô cùng.
Triệu Chiêu Minh ở trong định, thấy A Di Đà Phật từ trên không trung hạ
xuống, phóng đại quang minh, đem nhất nhất quang minh bố thí cho tất cả
chân linh.
Người Mỹ < Kiến Khắc >, nhìn thấy cha mình đến, người cha nói với ông:
< phải trân trọng thời gian của đời người, phải tu trì cho tốt, đừng giống
cha, lãng phí thời gian quý báu.>
Bà Lý Hạnh Chi Nhất thấy nhiều nhất, bà nhìn thấy ông nội Lâm Biên đến,
Lâm Biên là người Chương Hóa, cũng nhìn thấy mẹ lớn của bà cũng đến,
những người thân của bà đều đến cùng bà ta gặp mặt, bà Lý Hạnh Chi
khóc sưng đỏ cả mắt, đều ôm lấy người thân mà khóc, cũng nhất cùng
những người thân nói chuyện, những người thân này đều rất vui mừng biểu
thị với bà, pháp hội như vậy, tương phùng như vậy, khiến người rất vui
mừng, vui mừng đến chảy nước mắt.
145
Giáo đồ của Ấn Độ Tây Khắc giáo, ông tự xưng là khi tôi diễn hóa đại thủ
ấn, linh khí của ông sung mãn, đột nhiên xuất linh cảm, đúng là pháp hỷ
sung mãn.
Bà Tiết Ngô Lệ Cầm, nhìn thấy người em gái đã mất, bà Tiết Ngô Lệ Cầm,
khóc ướt cả người. Ngoài ra những người đã nhìn thấy, không biết là bao
nhiêu, không kể ra nữa.
Sở dĩ tôi < nhìn thấy >, không phải là ảo giác, mà là đích đích thật thật mặt
đối mặt nói chuyện, không những chỉ thượng sư nhìn thấy, mà mọi người
đều nhìn thấy. Mà chúng sanh tham gia pháp hội, khiến các bạn có thể
nhìn thấy người thân của mình, đều hiện ở trước mặt mọi người, những
cảnh động lòng người này, toàn bộ đều nhìn thấy người thân ở < âm dương
hội >, những thanh cảnh này thật là pháp hỷ sung mãn không tiền.
Đây không phải là chỉ có dùng miệng nói không.
< Nhân loại > cùng < Linh hồn > cùng nhau nói chuyện, chỉ có ở trong
quang minh đại thủ ấn < Trung Ấm cứu độ mật pháp > của Lư Thắng
Ngạn thượng sư, hoàn toàn hiển hiện ra ngoài. Những người tham gia lần
này, đồng cảm Phật quang phổ chiếu. Tôi hoan nghênh tất cả độc giả, đều
có thể tham gia pháp hội này, cùng tắm quang của Phật pháp, khiến bạn có
thể đích thân thấy và nghe, chân thật cảm thọ thần diệu của < linh phách
giới >.
146
041 Sự thật của quy y tương ứng và dự ngôn thật tướng
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư ).
Đây là một lá thư của đệ tử Liên Lại cư ngụ tại Hongkong gởi đến, nói rõ
chứng minh của < quy y tương ứng > và < dự ngôn thật hiện >, đặc biệt
ghi lại nội dung như sau:
Thắng Ngạn thượng sư pháp tọa:
Vào buổi sáng ngày 15 tháng 6 ( âm lịch ) năm 1983 ( dương lịch là ngày
chủ nhật 24 tháng 7 ) hướng về phía nước Mỹ lễ bái thượng sư, vào ngày
25 tháng 7 dương lịch, đem đơn xin quy y gửi đi. Vào ngày 7 tháng 8
dương lịch sau buổi trưa, như thường lệ ngồi trên giường tập đơn đỉnh tịnh
tọa, cho đến ngày 8 tháng 8, lúc 1 giờ 30 phút mới hạ tọa. Khi nhập định
( nội khí sung phái, nhập yểu minh ), trước tiên là thấy Quán Âm Bồ Tát,
hướng về trán đệ tử mà ấn, lại thấy pháp tướng của thầy mình ngũ phương
quán ngồi trên liên hoa, theo sau bạch y Quán Thế Âm, hướng về trán đệ
tử mà ấn, hai hiện tượng này đều là ở giữa chân mày ở nơi cao của pháp ấn
( chỗ này đạo gia gọi là huyền quan, tướng giả gọi là bộ vị ấn đường ). Hai
hiện tượng này đều rất rõ ràng, mà ý thức chủ quan của đệ tử rất cường liệt,
rõ rõ ràng ràng. Ngày 8 tháng 8, lúc 1 giờ 30 phút buổi sáng sau khi hạ tọa,
lập tức ghi sự việc này ở trên lịch, để không dễ dàng quên. Mà ngày 9
tháng 8 nhận được thư của Thầy, trong đó có pháp tướng của thầy một tấm,
chính là sự việc mà đệ tử được biết trước, việc này là bất khả tư nghì.
Trong Phật đường của đệ tử phụng thờ Quan Âm thiên thủ pháp tướng,
không phải là Bạch Y Quan Âm, mà là Bạch Y Quan Âm đến. Đệ tử tuy
rằng ở Hongkong được nhìn thấy pháp tướng của thượng sư qua sách Phục
Ma Bình Yêu và Tín Pháp Đường, nhưng mà thật ra là chưa biết được
ngày nhận được pháp tướng của thượng sư, mà trong đầu đệ tử ấn tượng
sâu nhất, là hình mà khi thượng sư lập pháp viện diễn giảng chụp. Thư của
thượng sư gởi đến ghi là ngày 5 tháng 8 dương lịch, phát vào ngày 6 tháng
8 ( theo dấu bưu điện ), tức là lá thư này phải vào ngày 7 tháng 8 mới rời
nước Mỹ, vào ngày 8 tháng 8 thì tới Hongkong, tối mùng 8 tháng 8 thì
147
phân phát ra, mùng 9 tháng 8 thì tới nhà con. Như vậy xem ra, hình chụp
của thượng sư chẳng phải là phân linh của thượng sư sao, cũng có thể
những đệ tử khác đều có cảm ứng như vậy, cho nên con suy nghĩ mấy
ngày, quyết tâm đem sự việc này nói với thượng sư, để làm một ấn chứng.
15 tháng 8 đệ tử đến Tín Pháp đường của Chân Phật tông ở Hongkong, đã
từng nói sự việc tương ứng này với thầy Cao An Dân và sư huynh Liên Vũ
nghe.
Ngoài ra còn có một việc được dự báo trước, đặc biết nói với thượng sư. Ở
cuốn sách < Tự Bạch Sách của Linh > trang thứ 69 của Thầy có nói: <
Trong tương lai của y học, thuốc trị bệnh ung thư sẽ liên tục xuất hiện,
nhưng, chỉ là trị ở một bộ phận nào đó, cũng là có hạn mức, thuốc tốt nhất
và mới nhất là được phát minh vào năm 1983, đến lúc này toàn diện ung
thư sẽ bị khống chế.> Đó là dự ngôn 8 năm trước của thượng sư.
Hôm qua ( ngày 20 tháng 8 năm 1983 ) ở bài báo của Đông Phương Nhật
Báo có đăng tin, thuốc khống chế ung thư đã được một nữ khoa học phát
hiện, cho nên con cắt ra bản tin này, trình lên thượng sư ấn chứng.
( Bản tin báo Hoa Sinh Tuân ) Một nhà khoa học ở Mỹ biểu thị, bà ta đã
phát triển một loại thuốc khó thể đối kháng mầm móng của bệnh ung thư
Duy Trân Ni Á Vi Na nói: Bà ta đã từng dùng chuột bạch thí nghiệm, hiệu
suất thành công 100 %, hiện nay bà ta chuẩn bị làm thực nghiệm ở người,
Vi Na đã từng trải qua 36 năm tận lực nghiên cứu phương pháp đối phó
ung thư, bà nói: Mầm mống của bệnh này có thể khống chế, mà không thể
phòng bệnh ung thư.
Bà ta phát triển phương pháp này, thành công phân tách tế bào ung thư,
đồng thời thành công thử quản và phát triển tế bào di mộng này, nghe nói
lần này là lần đầu tiên lợi dụng vi khuẩn nuôi này, bà ta từ những người bị
ung thư vú, thành công bồi chế mầm, lợi dụng từ những người mắc bệnh
mà chế ạo mầm móng, để trị liệu cho một số người bệnh, không những
ngăn được bệnh phát triển nặng, mà có thể khiến bệnh tình có thể thuyên
giảm.
148
Trước mắt phương pháp trị bệnh ung thư, bao gồm thủ thuật ngoại khoa,
liệu pháp hóa trị và xạ trị, theo bà Vi Na phát hiện, có thể phát triển một
loại thích hợp trị tất cả các mầm bệnh ung thư.
Trên là nội dung được cắt từ tờ báo, là từ trí nhớ của đệ tử, thầy đã từng dự
đoán, sẽ có một máy móc tha tâm thông được phát minh ra. Đệ tử từng
thấy báo tiếng Anh Nam Hoa của Hong kong, gọi Murisola đại học của
nước Mỹ phát minh ra máy móc đoán tâm và ý thức, không cần biết đối
phương phát ngôn là thật lòng hay có ý khác. Mục đích là để điều trị bởi
do tai nạn giao thông, và những người trúng gió không thể nói chuyện
được. Theo bài báo đăng, máy móc này đã bị CIA lập tức mua bản quyền
mất rồi.
Liên Lại trình thư, tam khấu đầu.
Đệ tử quy y, thọ quán đảnh xong, có đươc tương ứng thật ra là rất nhiều,
trong sách này chỉ đăng một lá thư của Liên Lại làm chứng minh. Có
người nhìn thấy thượng sư ngồi trên liên hoa, phía trên hiện ra ngũ phương
Phật, xung quang là Hồng giáo, Hoàng giáo, Bạch giáo, Hoa giáo …. Và
các lịch đại tổ sư vây quang, cảnh tượng quang minh này, xuất hiện
khoảng hơn 10 phút, đệ tử quy y cảm thán vô cùng. Cũng có người nhìn
thấy trên trán của thượng sư phóng ra bạch quang, quang minh xoay
chuyển từ trên xuống dưới, trực tiếp phóng vào trong phạm huyệt của đệ tử,
khiến đệ tử pháp hỷ sung mãn. Cũng có người thấy pháp tướng của thượng
sư đứng ở trên không trung, lại biến hóa thành Liên Hoa Sanh đại sĩ, lại
biến hóa thành Quán Thế Âm Bồ Tát, lại biến hóa thành Phật Thích Ca
Mâu Ni, một thân biến hóa thành nhiều thân, khiến đệ tử hoan hỷ đảnh lễ.
Còn đối với dự ngôn quá khứ của tôi, đó chính là linh cảm của 8 năm trước,
kết quả cũng nhất nhất thực hiện rồi. Còn đối với dự ngôn 12 năm sau, ở
nước Nhật sẽ có Tăng Căn Khang Hoằng sẽ ứng tuyển thủ tướng của nước
Nhật, dự ngôn 12 năm trước cũng đã thực hiện rồi. Những cái này chỉ là
chuyện nhỏ của thiên hạ, trong một lúc hứng mà có dự ngôn. Hôm nay, tôi
chỉ là tu Phật pháp của mình, tiếp dẫn chúng sinh thiên hạ truy tìm chân
149
chính của tâm linh của đại trí thức đại trí tuệ. Tôi là trụ cột giữa chí thượng
ý thức của vũ trụ và chúng sanh.
042 Xuất gia tăng nhân cầu quy y
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư )
Trong các đệ tử, có rất nhiều tăng chúng xuất gia, họ hiện là tỳ kheo tướng,
quảng độ chúng sanh hữu duyên. Xuất gia tăng nhân quy y tôi, đó là vấn
đề pháp duyên, họ cầu học pháp, tự nhiên cần quy y. Tôi không vì người
xuất gia tăng nhân đến quy y tôi, bản thân cảm thấy cống cao ngã mạn, mà
ngược lại, tôi càng phải vì tài thí giáo, phải phí tận khổ tâm.
Tôi đưa ra một ra một lá thư của tỳ kheo xuất gia như sau, đó chỉ là một
trong nhiều vị, quả vị sau này của ông là A Na Hàm quả, một vị kim thân
La Hán.
Thắng Ngạn thượng sư từ giám:
Ngưỡng mộ đã lâu, chưa từng tận mắt gặp, cung duy Phật cung khang thái,
pháp vụ xương long, phúc tuệ tịnh sóc, vi vô lượng tụng ! Năm trước được
đọc đại tác < Linh học chư sách >, sau khi đọc xong, nội dung châu cơ
mãn phúc, kham cúng hữu chí Phật học giả chi khuê nghiệt. Tố ngưỡng
thượng sư đức bị tài hoằng, từ bi vi hoài, văn như đại đạo, gia tuệ hậu học,
hoằng dương Phật pháp, cấu phi thừa nguyện tái lai, cát khắc sóc thử,
thành âm lộ minh đăng, khổ hải chu hàng, công đồng nhật nguyệt !
Đệ tử là mao phùng xuất gia khổ hạnh tăng, tuổi đời 50, đệ tử xuất gia khổ
tu, tự biết cái như phi khắc khổ tu trì, đoạn khó tiêu thọ bố thí của tín sĩ,
càng hoàng luân khế nhập nhất chân thế giới. Dù chưa đạt chân như Phật
trí vô sanh pháp nhẫn, nhất là hóa độ minh ngoan chúng sanh. Nhất là ẩn tu
mài ngọc tiên sách, để cầu lục căn thanh tịnh. Đôn chứng khai thị ngộ nhập,
mật khế niêm hoa chi đường, mà ngưỡng thượng thử công đức, để làm tư
lương hoằng pháp sau này.
150
Sau khi học Phật, xuống tóc đọc kinh Phật, thọ giới xuất gia, tuy biết thân
này là túc nghiệp nhiều kiếp báo không tận, nhưng nếu kiếp này nếu không
gặp minh sư thì khó có thể sám tận tội nghiệp trước, để mà thoát ra biển
khổ luân hồi. Trong Kinh nói: < tam đồ nhất báo 5000 kiếp, khi nào thì có
thể xuất đầu ra.> Tam phục tư ngôn, hoàng khủng sợ sệt mà tự nhiên rơi
lệ …. Đệ tử đầy thành tâm, hướng thượng sư quy y, quy y tất cả pháp của
thượng sư, nếu đầy đủ túc duyên căn cơ, phục xin nhiếp thọ, mà không tiếc
phá liệt thành toàn của pháp môn thù thắng nhất tâm thành Phật, lấy sám
hối các lỗi đời trước thang tận chướng nạn, tức thân trực siêu tỳ lô tánh hải.
Mới không phụ bạc thân người này, hân phùng pháp nhũ thượng sư, tức
nhập núi báu mà về tay không vậy.
Lúc trước đệ tử chưa xuất gia, đêm nằm mơ < Đại Nhật Như Lai >, ở trên
biển, ở giữa có một bờ thiết Phật án, trên Phật án có một bộ kinh Pháp Hoa,
xung quang là 3 vị Tỳ Kheo Tăng, đối mặt với Đại Nhật Như lai tụng <
Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh >, đệ tử là một trong 3 vị tăng đó, 2 vị
trong đó là ai không biết ? Đệ tử biết mộng cảnh hư vong bất thực, nhưng
mà đời người lại sống trong hư ảo, cũng là trong mộng của không hoa
thủy nguyệt lăn lộn đại tác kỳ Phật sự, kính dĩ chất chi cao hiền, như
thượng sư Phật trí, chưa thẩm dĩ vi nhiên phủ, vọng tùy thị bồi nghi !
Đệ tử có chí y chỉ thượng sư, cầu thượng sư gia trì, cũng cầu không tiếc
khải mông < thượng sư tương ứng pháp >, vô nhâm mong chờ
Đệ tử những ngày trước, từng tu trì < Chiếu không Bảo Nguyệt thượng sư >
truyền thọ < tối thượng nhất thừa Tát Đạt Ma Phân Đà Lợi Ca pháp > ý dỉ
mật thừa của < Pháp Hoa pháp môn >. Đệ tử sở tu trì pháp môn có chính
xác không ? Cùng pháp môn mà những đời trước từng tu có giống nhau
không ? Nếu không thích hợp, phục cầu thượng sư quan sát căn cơ của đệ
tử, phải tu pháp môn nào cho hợp, để tức thân thành tựu, để không uổng
phí thời gian, mà không được ấn chứng, nguyện thượng sư từ thị.
Kinh viết: < hành giả dục đắc định tuệ tăng trưởng, phúc tuệ viên mãn,
nhất định phải tu bi kính nhị điền. Thượng cúng thập phương tam bảo, hạ
151
tế lục độ chúng sanh, lấy làm định tuệ chi cơ, bồ đề chi bổn.> Lại nói bồ đề
tâm có 2 loại. Độ vô biên chúng sanh là nhân, vô thượng bồ đề là quả. Phu
vi đạo giả, thượng nhược bất cúng chư Phật Bồ Tát, hà xứ triển trí ? Dục
cầu bồ đề, hạ nhược bất tế chư tiên, ngạ quỷ, địa ngục, hà xứ hành bi ?
Tống quán thượng thuật thánh triết khổ khẩu bà tâm, lại tam tư tư tùy giáo,
vào trong con đường bồ đề đạo, giáng sanh ta bà chi bổn hoài, dụng tâm
lương khổ, lương hữu dĩ dã. Chức là chi cố, đệ tử phát nguyện hành trì từ
bi của Quán Âm, hoằng nguyện của Bồ Tát, phát tâm tế độ âm dương
lưỡng độ chi pháp, sở tu chi pháp phổ thí nhất thiết hữu tình, phàm nhập
đàn tu pháp tùy thời chiêu thỉnh dị loại đồng nhập, cùng tu Phật pháp, cùng
nhập bồ đề, đó chính là khóa tu từ đây về sau.
Thượng sư từ bi phát nhũng không tiếc nhất nhất tùy thị, vì cứu độ chúng
sanh, làm phiền xứ thanh tu, đảnh lễ xin thứ tội, bất thắng hương cầu chúc
Tiêu thử, phục khẩn, cung tụng
Đức trạch quần sanh đệ tử Thích Ngộ Tiến đảnh lễ 4/ 8/ 1983
Lá thư này là một tỳ kheo Thích Ngộ Tiến viết cầu quy y, sau khi tôi nhận
được thư, bèn quy y quán đảnh cho ông ( quán đảnh từ xa ). Tôi dạy ông <
thượng sư tương ứng pháp >, trong đó mật chú tôi dùng < mật truyền > chú
Liên Hoa đồng tử căn bản chú của tọa thiền thông minh pháp, là < cùng
đồng chú. >. Còn có một chú ngữ tu riêng biệt, là tôi dùng riêng biệt truyền
thọ, cho nên tôi ở dưới thượng sư tương ứng pháp viết hai chữ ( mật
truyền ), là ý nghĩa như vậy.
Mộng của Thích Ngộ Tiến, là hiển thị mật pháp, Thích Ngộ Tiến thấy Đại
Nhật Như Lai, Đại Nhật Như Lai là Tỳ Lô Giá Na Phật, Tỳ Lô Giá Na
Phật là giáo chủ mật giáo. 3 người cùng tu Pháp Hoa, tôi chiêm tinh được
biết, đó là thị hiện của tam luân thân, cũng tức là tự tánh thân luân, chánh
pháp luân thân, giáo luận luân vương thân, cho nên Thích Ngộ Tiến là thật
đệ tử mật tông.
152
Tỳ kheo, tỳ kheo ni, quy y tôi rất nhiều, tôi đều xem là vấn đề pháp duyên.
Bản thân tôi cùng quy y có một pháp thượng sư, đó là cùng kết pháp duyên,
không phải ai cao ai thấp.
043 Khai thị của Thổ Đăng Đạt Kiết thượng sư
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư )
Thổ Đăng Đạt Kiết thượng sư, là thượng sư của tôi, Thổ Đăng có ý nghĩa
là một phái biệt, trong Tạng văn có ý nghĩa là Thích Ca, mà < Đạt Kiết >
là hoằng dương Phật pháp. Truyền thừa của phái này, là Hoàng giáo lạt ma,
Thổ Đăng lạt ma truyền lại.
Thổ Đăng Đạt Kiết thượng sư, đã từng cho tôi < tâm điện cảm ứng >. Tôi
cũng đã từng được thượng sư đại quán đảnh < Thiên Thủ Thiên Nhãn
Quán Thế Âm Bồ Tát >. Ông muốn tôi đệ tử truyền thừa này, chú ý những
điểm sau:
Thứ nhất, trong sách tôi từng viết chú ngữ chữ < Án > là một cách viết của
một số hiển giáo. Cách viết của mật giáo là dùng < Om >, cũng là biểu thị
phát âm chính xác, hy vọng dùng chữ < Om >, không dùng chữ < Án >.
Thứ 2, trong chú ngữ < Biệt Cha >, có lúc viết là < Ban Cha >, có lúc viết
là < Mạn Cha > (Benza). Hy vọng khi tôi viết chú ngữ, đặc biệt lưu ý, cũng
thêm chú thích sau: < chữ chú đều có thượng sư riêng, mà truyền thừa
cũng không giống, có khi một chữ đều phát ra 3 âm không giống nhau, mà
các pháp của thượng sư đều không tận giống nhau, các đệ tử dễ dàng thích
hợp dùng âm của mình, có thể tận lực để chính xác là được.> Nếu như vậy,
mới không có người hiểu lầm và công kích, < Biệt Cha >, < Ban Cha >,
không phải < Mạn Cha >, làm cho hỗn loạn lên.
Thứ 3, tam bảo là Phật Pháp Tăng. Một số hiển giáo trụ tướng tam bảo,
Phật, Kinh, Tăng, Chú, đều là. Mật giáo trọng thị tự tánh tam bảo, tự tánh
tam bảo là khí, mạch, điểm đều là.
Thứ 4, hiển giáo là tam quy y, cuối cùng là quy y tăng. Hiện thế mà nói,
tăng là chỉ người xuất gia, tức là < phàm phu xuất gia >. Khi Phật tại thế,
153
Tăng kỳ thật là < hiền thánh chúng > cũng tức < hiền thánh tăng >, không
phải tăng phàm phu. Mật tông là tứ quy y, tứ quy y là quy y thượng sư, quy
y chư Phật, quy y chư Pháp, quy y thánh chúng. Nếu nghiêm cách mà nói,
trong tạng văn của chú tứ quy y câu sau cùng nhất là < Nam mô tăng già
gia > của tăng già gia, không phải là phàm tăng. Ý nghĩa của tăng già trong
Tạng văn là < thánh chúng >, phàm tăng không ở trong < thánh chúng >
Thứ 5, lại nói cái gì là thánh chúng ? Giống như Duy Ma cư sĩ là thánh
chúng. Phật Đà tại thế từng nói, thời mạt pháp, Phật pháp sẽ hiển hiện
quang huy trên thân cư sĩ. Ngược lại những người mặc áo của ta ăn cơm
của ta, sẽ hủy diệt pháp của ta, đó là Phật Đà nói. Cho nên người xuất gia,
không nên vì nhất báu ở bên ngoài, mà mạo thị người tại gia cư sĩ, cư sĩ tại
gia được đại thành tựu rất nhiều.
Thứ 6, Bồ Tát ở trên thượng giới đến thế gian độ người, rất ít vào trong
hàng ngũ tăng nhân. Bởi vì trong tăng không có < vô thượng pháp > để
học, mà ngược lại Bồ Tát đầu vào trên thân cư sĩ, tức là dùng thân cư sĩ từ
những cư sĩ khác mà học được < vô thượng pháp >. Bởi Phật Tổ rất sớm
đã thấy được < thời mạt pháp, Phật pháp trên thân cư sĩ >. Nên Bồ Tát từ
thượng phương đến chuyển thế, nhập thân cư sĩ càng dễ dàng nhập thế, và
càng dễ dàng độ người, càng có thể hoằng dương Phật pháp. Cho nên Phật
pháp không phải nhất định là tăng nhân mới được, trong cư sĩ có rất nhiều
Bồ Tát giáng thế mà đột thế. Hôm nay,nếu là hữu đạo chi sĩ, phàm phu
càng phải nhanh chóng thân cận học pháp, đó cũng là phương tiện pháp
thừa của Phật Đà.
Thứ 7, bài viết < tọa thiền thông minh pháp > rất tốt. Thời cơ phát dương
quang đại của mật giáo đã đến rồi, tất cả Tạng mật và bí mật tu pháp đều
phải nhất nhất xuất hiện, cho người thế gian hiểu rõ ràng Phật pháp. Cho
đến bộ phận thiên cơ, có liên quan đến bộ phận < thiên ma >, cũng phải
nhất nhất chỉ trần, đó là sở tại của < thiên cơ chân toàn >, rất không đơn
giản.
Thứ 8, trung tâm Bạch giáo cử hành đại hội quán đảnh, là một trong 4 đệ
tử của Đại Bảo Pháp Vương đệ tử thứ nhất chủ trì, ông ấy là Đại Tích Đỗ
Ba sư huynh. Ngày 27 tháng 8 năm 1983 cử hành Mật Lạc Nhật Ba tổ sư
154
quán đảnh. Ngày 28 tháng 8 cử hành Thích Ca Mâu Ni Phật quán đảnh.
Ngày 31 tháng 8 cử hành Tự Thần Tài quán đảnh. Đến khi đó, tham vọng
xuất thần tham gia.
Thổ Đăng Đạt Kiết thượng sư, khi quán đảnh < Thiên Thủ Thiên Nhãn
Quán Thế Âm Bồ Tát > cho tôi, nội tâm của tôi phát ra quang minh cường
liệt, trong tâm từng đóa liên hoa nhiều màu sắc hiện ra, mà Thiên Thủ
Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát hiển hiện ở trên cao không trung, từng
trận từng trận linh lực từ đỉnh huyệt mà nhập vào, cái cảm thọ cường liệt
đó, cảnh nhiên được gần nửa giờ đồng hồ, Công lực như vậy rất hiếm thấy.
Thiên Thủ Thiên Nhãn của Bồ Tát, đều lưu lộ ra < tâm lực >, giống như
một lực hút rất lớn, đem tôi lên đến không trung chí thượng của vũ trụ, mà
tôi thì đang ngồi trên hoa sen màu trắng trên không trung, trong tâm cảm
động không thể cộng thêm được.
Khai thị của Thổ Đăng Đạt Kiết thượng sư, đều là rất trân quý. Nói cũng
đúng, bản thân tôi về mặt viết bài, thường là theo tố chất của tôi, có chút
mùi vị lớn mà hóa, thường là không chú trọng đến những chi tiết nhỏ đó là
bệnh của tôi, cho nên người ta rất dễ dàng đố kỵ. Ở phương diện này, thật
là phải cải tiến, tôi tự khích lệ bản thân, khi viết bài phải cẩn thận một chút,
không nên sơ sót chi tiết.
Thổ Đăng Đạt Kiết thượng sư, trước mắt là < Tịnh Âm Phật Các chủ trì >,
tổng sự trưởng < Hội Trưởng Phổ Hiền Phật Học Cơ Kim hội >, <Người
phụ trách hội Tịnh Âm Phật Các Sanfacio USA >, địa điểm ở Hongkong là:
< CHINGYUMBUDDHI STRETREAT>
LOT No 1243. 1244. D.453 NEWVILLAGEFUYUNGSHANTSUEWAN.
HONGKONG.
Nơi liên lạc: toanwang bưu cục hộp thư số 48 Hongkong.
Địa chỉ nước Mỹ.
262 BEECHNUTDRIVE, HERCULES, CALIFORNIA, 9457 USA
Tôi viết kệ tán sư:
Tịnh hóa dục âm
155
Phật đăng tâm các
Thổ Đăng Đạt Kiết
Pháp mật như vũ.
044 Đọc <thiên hạ kỳ văn> ký
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngô của thượng sư )
( Bài văn này nguyên được đăng ở < tọa thiền thông minh pháp >, bởi
được hồi hưởng rất nhiều, nên sẽ được đăng tại đây )
Có một độc giả trong nước, rất có lòng tốt gửi cho tôi cuốn tạp chí < Liên
Trì >, là do < Phật Quang Chân Thánh Đạo Viện > phát hành, địa chỉ của
đạo viện là: < Biên Đông huyện Trúc Điền hương Tứ Châu thôn Liên
Thành Lộ số 2 >. Đó chính là tùng thư Liên Trì Linh Thiện vào ngày 15
tháng 3 năm 1972 phát hành ở kỳ thứ 3, Tôi hiếu kỳ lật mấy trang, lật đến
trang thứ 40, có một bài < hiện tại thần thông thật sự > tác giả là Hoằng
Kiện tiên sinh.
Đọc xong đoạn văn, có một cảm tưởng: đúng là < thiên hạ kỳ văn >. Bài
văn này ở trang 42, trang 43, trang 44, viết là sự tích vĩ đại của Lư Thắng
Ngạn, mà Lư Thắng Ngạn do tác giả này viết, bản thân tôi là nhân vật
chính, nhưng những sự tích thì đầu không khớp đuôi, tôi cảnh nhiên không
hiểu được vị tác giả thiên tài < Hoằng Kiện tiên sinh > ảo tưởng cái gì ?
Sau khi tôi đọc xong, cảm tưởng thứ 2 là, rất là lạ không hiểu gì hết, không
có chuẩn mực.
Có 2 người học trò của tôi ở Mỹ, một người là < Hy Nhược >, một người
là < Hàn Sanh >. Nghe tôi nói chuyện này, < Hy Nhược > cười đến nỗi
muốn phun cơm ra khỏi miệng, < Hàn Sanh > thì ôm bụng kêu đau. Nhưng
mà tôi cho rằng, người tên Hoằng Kiện này, xin hãy tìm bác sĩ tâm thần, để
khám đi, chắc là bị nóng đến hư não rồi.
156
Hoằng Kiện tiên sinh nói: < Có một vị là Từ Huynh từng cảnh cáo thiên
giới Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh là không được đem pháp thuật truyền cho
Lư Thắng Ngạn, Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh pháp lực cao cường, liên tiếp
không nghe lời khuyên của Từ Huynh, thế là triển khai đấu pháp giữa thần
và người, pháp lực của Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh thật sự là rất cao, đấu
xong một tháng, không thể chiến thắng Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh, thế là
Từ Huynh phụng thỉnh Đại La Kim Tiên trên cõi trời giáng xuống giúp đỡ,
cuối cùng đem kỳ linh của Tam Sơn Cửu Hầu cột lại. Nhưng mà pháp lực
của Tam Sơn Cửu Hầu thật sự là quá mạnh, âm hồn bất tán, ở trong hư
không âm linh lại tổ hợp mới lại. Tôi hy vọng sau khi được tổ hợp mới lại
sẽ biến thành một chi thánh chi nhân giác giả, sau khi trải qua lần diễn biến
này, tôi tin rằng Tam Sơn Cữu Hầu tiên sinh không dám tùy tiện xuống hạ
giới nữa>
Tôi đem việc này thỉnh thị Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh, ông cười nói: <
bất thông chi chí, đắc chứng chi cao linh, hà xứ bất hiện thân.> Tôi nói
người tên Từ Huynh và Hoằng Kiện tiên sinh này tốt nhất là làm biên kịch,
tên phim là < Thiên Tiên đấu pháp >, bảo đảm hơn < Tân Trọc Sơn Kiếm
Hiệp Truyền >, Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh đối với Hoằng Kiện tiên sinh
và người tên Từ Huynh này,, không có chỉ trách, ông chỉ cười nhạt nói: <
nhân trung chi quỷ, chính là bối này, đạo hạnh của người này, tư cách của
người cũng không có, chỉ có một biện pháp là tất cả đưa họ vào bệnh viện
tâm thần điện liệu. Còn có những người sau lưng họ là Từ Khẩn Trình và
Bao Phân tiên sinh cũng như vậy.>
Hoằng Kiện tiên sinh lại viết: < Lư Thắng Ngạn từng vận dụng thần thông
đi truy tìm địa chỉ của Từ Huynh, nhưng mà Từ Huynh sớm đã dùng linh
lực phong bế lại. Trong mắt của Lư chỉ thấy một ảo tượng đeo mắt kính,
còn những cái khác thì không thấy, Lư có rất nhiều học trò, còn kêu rất
nhiều học trò đó đi tìm địa chỉ của Từ để làm phiền.>
Ở đoạn văn này, tôi có thể nói như vậy, hoàn toàn là không dựa vào chứng
cứ mà nói bậy, tôi làm gì có công phu nhàn này ? Họ là có ý đùa cợt ? Tôi
sẽ đi tìm người này mà lấy phiền phức ? Mà người này quả nhiên phụng
157
thỉnh Đại La Kim Tiên đem Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh, thầy của tôi cắt
bỏ, người này có thể làm thịt Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh, nhưng mâu
thuẫn là lại sợ đệ tử của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, nhanh chóng phong
bế địa chỉ của mình, độc giả hãy thử nghĩ xem, thầy của tôi ông ấy cũng
dám làm thịt, nên Lư Thắng Ngạn tôi là cái gì, ông ấy dám làm thịt thầy
của tôi, vậy mà sợ tôi đến thành < rùa rụt cổ >, đó là một đoạn văn trước
và sau mâu thuẫn lẫn nhau, có thể thấy đầu không khớp đuôi, tùy ý hủy
báng, vô liêu thấu đỉnh, không đủ chuẩn mực.
Hoằng Kiện tiên sinh nói: < Tác giả từng đến Cao Hùng Ô Tùng đi bái
phỏng một vị cao nhân, ông ấy có thể đem hồn của Lư Thắng Ngạn treo
lên mà đối chất. Trước khi sách linh của Lư Thắng Ngạn xuất bản, ông ấy
viết 2 cuốn sách kêu < Thiên Đạo Bí Cấp >, phàm là đọc qua cuốn sách
này, đều có thể đắc được linh thông, nhưng mà Ngọc Đế không cho ông
xuất bản, kêu ông đem tất cả bài văn nháp đều đốt bỏ, bởi do chúng sanh
phước mỏng không thể đắc cuốn sách bí bảo này, nhưng mà không nghĩ
đến sách của Lư Thắng Ngạn lại có một số lượng lớn phát hành trên thị
trường.>
Tốt rồi, đoạn văn này càng diệu hơn nữa, hồn của Lư Thắng Ngạn bị treo
đi chất vấn, người cao nhân đó tự nhiên là cao nhân ( ít nhất cũng cao hơn
Lư Thắng Ngạn ), người cao nhân đó không có phạt tôi quỳ, không có
dùng dây đánh tôi, cũng không có muốn tôi chiêu cung, tôi có chảy nước
mắt khóc sám hối không, những cái này đều không thấy mà viết ra, đều
mất đi quang sắc của bài văn. Tôi khuyên tiên sinh lần sau viết bài, tất cả
liệt ra, thì sẽ có chân thật cảm hơn, cũng sinh động hơn, thì sẽ dành được
sự hoan nghênh nhiệt liệt của độc giả như là xem xiếc vậy, mà tốt nhất là
đem Lư Thắng Ngạn nhốt lại, dùng pháp làm chết Lư Thắng Ngạn, một lần
cho xong luôn, để cho Lư Thắng Ngạn khỏi viết văn chương đít chó. <
Thiên Đạo Bí Cập > của vị cao nhân đó không có xuất bản, nhưng mà sách
linh lại đại hành kỳ đạo, tức chết người cao nhân, lần này chắc đem hồn
của Lư Thắng Ngạn ở nước Mỹ, bắt về trong nước đánh cho chết mới được.
Hoằng Kiện tiên sinh lại nói: < Lư Thắng Ngạn bỉ phụ thịnh danh, có thể
sáng tác viết bài, nhưng mà ông ấy lại tham tiền tài, tham, thảm hại ông ấy,
158
mê mất bản thân mình, con người không có thập toàn thập mỹ, nhưng mà
những lỗi lầm của ông ấy nhiều hơn công. Lư Thắng Ngạn vào năm Dân
Quốc thứ 70 đã xin đi Mỹ rồi, linh lực của ông ấy đã có hạn không lớn như
trước nữa.>
Ông Hoằng Kiện tiên sinh này chắc là con trùng trong nhà vệ sinh của tôi,
nếu như ở đây có nhà vệ sinh, hoặc là trong bụng của tôi có giun, nhưng
rất tiếc 2 cái này đều không phải, tôi tham tiền tài, ông ấy cũng nhìn thấy,
tôi linh lực có hạn, ông ấy cũng biết, thật ra ông ấy cái gì cũng không biết,
bây giờ, xin Hoằng Kiện tiên sinh hãy ngoan ngoãn bất động, tôi nói cho
ông một ít bí mật của tôi.
Thời gian tôi tu đạo ở Mỹ là gấp 3 lần ở Đài Loan, trước mắt đã chứng đắc
ngoại bát thành pháp, đương nhiên tôi làm sao phải tinh tấn để tu trì tiếp,
còn thua ông, bởi vì ông là con giun trong bụng của tôi, không, không, là
con sâu lông nhỏ, hiểu được tôi như trong lòng bàn tay, khiến tôi ngứa
ngáy, cảm ơn sự gãi ngứa của ông.
Ở nước Mỹ, đến được 10 tháng, trước mắt thu nhận hơn ngàn đệ tử người
Mỹ, thạc sĩ, tiến sĩ rất nhiều, bác sĩ luật sư cũng có, sẽ xây một tòa tịnh xá
Linh Tiên < Lôi Môn > 3 mặt. Hoan nghênh ông tới tham gia, đương nhiên
những tiến sĩ thạc sĩ bác sĩ luật sư này, ông sẽ xem không là gì trong mắt
ông, tiến sĩ ở Mỹ là cái gì mà phải lên mặt, thạc sĩ ở Mỹ là cái gì mà phải
lên mặt, ông chỉ cần một đường dao kiếm là có thể đem đầu óc của họ như
là cắt bầu bí mà chặt xuống, những phàm phu tục tử này thấy ông, nhất
định sẽ quỳ xuống xin ông tha mạng, mà tôi cũng sẽ học pháp của ông, cầu
xin ông dạy cho tôi một chút công phu, khi tôi viết văn chương sẽ không
dám chửi ông nữa.
Tôi tham tiền tài không ? Tôi đến đây, vì muốn tiết kiệm tiền, tóc cũng tự
hớt, như là chó táp vậy, mặc áo là hàng đã qua tay, áo cũ của những người
đã từng mặc qua. Tôi không dám điện thoại đường dài về Đài Loan, 10
tháng rồi, không có một cuộc điện thoại về nhà, là tôi tiết kiệm tiền của
mình, là người không dám xài tiền bậy bạ, tôi tiết kiệm tiền để làm cái gì,
159
tiết kiệt tiền để làm đạo. Nếu như sống như vậy, cũng cho là tham tiền tài,
vậy tôi đích thực là tham tiền tài, tham tiền của bản thân mình. Ông hiểu
lầm tôi, không có gì cả, ông không tin, tôi cũng không có cách. Ông biết ở
hầm nhà tôi bị thấm nước dột, không có tiền mua xi măng về tráng lại
không ? Nếu như ông có thành ý, xin ông đem một ít xi măng từ Đài Loan
đến tặng cho tôi, tôi nhất định sẽ cảm kích đến khóc.
Ông có biết thầy của tôi có bao nhiêu không ? Thầy Lâm Thiên Đại tiên
sinh, Thanh Chân đạo trưởng, Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh, Ấn Thuận đạo
sư, Lạc Quả pháp sư, Đạo An pháp sư, Tuệ Tam pháp sư, Hiền Đôn pháp
sư, Giác Quang pháp sư, thầy Tiêu Xương Minh, Đại Bảo pháp vương,
Đại Tích Đỗ Bá tôn giả, Phổ Phương thượng sư, Lý Đình Quang thượng
sư …. Những người thầy, đạo trưởng, thượng sư này đã từng trực tiếp
gián tiếp chỉ đạo qua cho tôi. Nói trắng ra, Hoằng Kiện tiên sinh, nếu như
ông thật có pháp, tôi tình nguyện quy y ông, cũng tôn xưng ông là thầy của
tôi.
Nhưng mà, tôi vừa đọc xong văn chương của ông, thì biết là < chiêu diêu
tràng phiến > là tiểu tử không biết trời cao đất dày, thôi kệ ! Xem như là
cháu rùa của tôi ! Hoằng Kiện tiên sinh.
045 Hồi hưởng của đọc < Thiên Hạ Kỳ Văn >
( Lư Thắng Ngạn văn tập 048 – chứng ngộ của thượng sư )
Đọc < Thiên Hạ Kỳ Văn > ký, sau khi bài văn được đăng ra, không ngờ
đọc giả trong nước, cảnh nhiên phản ứng rất nhiệt liệt, rối rít viết thư đến
160
chỉ trần, thì ra tên thật của Hoằng Kiện tiên sinh là < Tăng X Hùng >. Mà
người tên là Từ Huynh cũng bị độc giả chỉ ra, người tên Từ Huynh đó là <
Từ X Thành >. Thật ra là tôi cố ý đem tiểu tà môn của người họ Từ đó,
viết thành < Từ Khẩn Trình >, nếu như độc giả tỉ mỉ một chút, thì có thể ý
hội ra, việc thiên hạ tôi làm sao không lo, chỉ là một mắt nhắm, một mắt
mở, tha cho họ thôi. Nhưng mà mắt của độc giả là tuyết sáng, họ cho rằng
< Từ X Thành > là đại thần côn, nhất định phải công bố ra cho mọi người
biết, khiến mọi người cảnh tỉnh. Dưới đây là thư của độc giả
1 / Liên Sanh Bồ Tát Ma Ha Tát tọa tiền:
Đọc xong < Thiên Hạ Kỳ Văn > ký, khiến nội tâm của con rất bành tích,
trong bài văn người xưng là Từ Huynh, thì ra là một đại thần côn tên là Từ
X Thành, con là một phụ nữ yếu đuối bị lừa gạt, bởi do nhận biết. Từ X
Thành tự xưng là con thứ 7 của Diêu Trì Kim Mẫu bởi kiếp nạn mà lâm
phàm giáng thế, trên thân có bảo kiếm của Kim Mẫu ban cho, có thể tiền
trảm hậu tấu. Ông ấy nói với con, ông đã bị ông ấy chém rồi, nhưng mà
ông vẫn sống, thật là kỳ lạ.
Người phụ nữ yếu đuối này nghe được thần thông quảng đại, bèn đến
đường Tự Do ở Đài Trung, tòa nhà gần nơi pháp viện, không ngờ bị lừa
gạt mất thân ( ông ấy nói lưỡi của ông ấy có chân khí, có thể trị bướu ở tử
cung ), lúc đó mê hồ mà bị lừa gạt, sau này rất hối hận, bệnh của người
phụ nữ yếu đuối này, toàn bộ tử cung đều bị cắt bỏ ( trước mắt Từ mậu này
không biết dời đi đâu )
Từ X Thành này hại bao nhiêu người tôi không biết, nhưng, tôi là một
trong những người bị hại, nếu Lư Thượng sư muốn tôi làm chứng, chồng
tôi đã mất, tôi có thể đứng ra làm chứng. Vì muốn bài trừ bại lụy của xã
hội, tôi nguyện hy sinh.
Một vị nữ độc giả kiền thành, kính
2/ Lư Linh sư Thắng Ngạn tiên sinh:
161
Tôi vào chiều hôm nay (ngày 15 tháng 7) ở Bắc thị đường Tín Nghĩa đoạn
số 2 trước cửa tiệm kinh doanh số nhà 128 tại Công ty TNHH Tiệm Sách
Quốc Gia, lật một trang sách linh < tọa thiền thông minh pháp > để đọc,
khi lật đến trang cuối, nhìn thấy Linh sư đề cập đến người bạn ở Đài Bắc
gửi cho Linh sư một cuốn Bình Đông huyện Trúc Điền thương Tứ Thủy
thôn < Phật Quang Chân Thánh Đạo viện > của < Liên Trì > phát hành kỳ
thứ 3. Tôi nghĩ, tôi lại trễ một bước, bởi tôi đã photo một bản, đang muốn
gửi cho linh sư, nhưng mà không ngờ lại có người nhanh hơn một bước,
tôi lại chậm mất rồi.
Tôi nghĩ rằng linh sư thật sự phải có một lần thanh minh, bởi < Liên Trì >
tạp chí viết bậy, sợ rằng sẽ dao động tín tâm của một số người mới nhập
môn, mà sách này phát hành hơn ngàn cuốn.
Từ X Thành, người này tôi cho rằng có một cái lưỡi 3 tấc không bao giờ
hư, sớm đã lừa gạt tùm lum, thích nhất là phá hoại thanh danh của linh sư,
lời nói tứ xứ tán bố, người bị lừa gạt không thể tính được, hậu quả không
chỉ ảnh hưởng đến thanh danh của linh sư, là lúc phải đem ông ấy ra ngoài
để xem rồi.
Trần Điền Anh khấu thượng.
3/ Lư Thượng sư:
Ông có biết người tên Từ Huynh là ai không ? Ông ấy là Từ X Thành.
Trên sách của ông viết thành < Từ Khẩn Thành >, hắn chính là đại thần
côn chuyên đi lừa gạt người, có rất nhiều người đã bị hắn gạt, gạt tài kiêm
gạt sắc. Chúng tôi trước mắt bắt được một người chuyên lừa gạt là Lý Đắc
An, hắn chỉ tốt nghiệp tiểu học, nhưng mà mạo xưng là tốt nghiệp Đại Hóa
Công hệ đại học, thạc sĩ Hawai ngôn ngữ học của nước Mỹ, giáo sư bang
Cali. Hắn lợi dụng quan hệ đồng chính mà chụp hình, ỷ lại đối với những
người có tánh nhược điểm thông qua thấu thị và vận dụng. Mà Từ X
Thành chỉ là mới tốt nghiệp tiểu học mà thôi, nghề ngiệp là tài xế xe khách.
Mà tự xưng là Diêu Trì Kim Mẫu làm chỗ dựa của hắn, hắn là con thứ 7
của Diêu Trì Kim Mẫu, cách lừa gạt này y hệt như cách lừa gạt của Lý
Đức An. Mặt mũi của Từ X Thành không đẹp, mặt hình tam giác, lỗ mũi
162
nhọn, tai chuột, mắt sắc, răng ở phía trước lộ ra, đầu hói. Hắn cho tôi một
ấn tượng đầu tiên không tốt, nhưng mà có 1 đặc trường, rất biết che lại, cha
của tôi lúc đầu rất tin tưởng hắn, sau này thì không. Tự xưng đã từng xuất
thần một mình đến thượng không cùng 10 vạn thiên ma ma quận đại chiến,
nói hắn là sư phụ của 88 vị Phật. Đứa con thứ 7 của Diêu Trì Kim Mẫu,
cảnh nhiên là sư phụ của 88 vị Phật ? Những lời quỷ dẫn như vậy, cảnh
nhiên có người tin.
Chúng tôi là một đám người đã bị hắn lừa gạt qua, xin thượng sư hãy thay
chúng tôi làm chủ!
Lý Thiếu Trung kính thượng.
4/ Lư Linh sư:
Vừa đọc đến bài < Thiên Hạ Kỳ Văn > bối cảnh này từ đầu đến cuối, tôi
đều hiểu rõ cả. Tác giả viết bài < Hiện Đại Thần Thông Thật Sự >, người
tên Hoằng Kiện tên thật là Tăng X Hùng, ở Chân Thánh Đạo Viện Liên Trì
tạp chí từng làm tổng biên tập, Hoằng Kiện này từng quy y Hoằng Hóa
Liên Viện ( một trong những Hoằng Hóa 5 viện, tổng cán sự Lý Quán
Nhất là nghĩa huynh của linh sư ) là khi Thế Tôn ở trên sa bồn sở khai thị
ban cho pháp danh, không phải là tên thật, người này thân hình ốm nhỏ và
đen.
Hắn ở trong bài văn < Hiện Đại Thần Thông Thật Sự > đề cập đến các
hạng tình tiết có liên quan đến linh sư, hoàn toàn là nghe theo lời chỉ dẫn
bậy bạ của Từ X Thành, không phải là bản thân tự trải qua, Hoằng Kiện
chỉ là một con sâu tội nghiệp bị lợi dụng và lừa gạt mà thôi. Trong bài văn
đem Từ X Thành đặt cao đến giữa trời, là bởi do quá nghe lời khoe khoang
tự nổ của Từ X Thành, lại không có năng lực phân biệt thật giả. Từ X
Thành đã lừa gạt người không biết bao nhiêu năm, rất nhiều người trong
đạo giới đã bị hắn hù đến rất sợ, cho đó đều là thật.
163
Hắn ta thích nhất là lợi dụng thân phận là đứa con thứ 7 của Diêu Trì Kim
Mẫu để nổ, có thể lúc nào cũng có thể bẩm báo lên trời, thân có bảo kiếm,
có thể tiền trảm hậu tấu, Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh cũng đã bị hắn chặt
đầu rồi, nhiều cơn bão ở Đài Loan cũng đã bị hắn chặn lại không thể vào
được, lên trời chém giết ma quân, thành quả huy hoàng …
Bỉ nhân hy vọng vì cầu chiêu thị đạo giới, mà kiến lập oai đức tín nghĩa
của linh sư, đối với những lời lừa gạt tứ xứ của Từ X Thành, linh sư phải
cầm bút viết bỉnh xuân thu, mà đem hắn ra ánh sáng công khai ( bài Tọa
Thiền Thông Minh pháp, Hoằng Kiện chỉ là ma thế mạng, người có tội
chính là Từ X Thành, không để cho hắn tiêu diêu ở ngoài, đó là thần côn,
là tội lớn cực ác ). Bỉ nhân cùng Từ X Thành là không có ân oán quan hệ,
hy vọng linh sư lượng tế
Hứa Tùng Ích kính bút.
( Lời kết )
Nhận được những lá thứ tố cáo thần côn < Từ X Thành >, không chỉ là 4 lá,
tôi chỉ là lấy 4 lá thư này làm đại biểu phát bố ra thôi, tôi đem địa chỉ và
tên họ đều bảo lưu lại. Bởi vì họ đều có thể là nhân chứng. Những tên họ
của độc giả xuất hiện ở trên sách, tôi đều sửa tên, xin lượng thứ cho tôi làm
như vậy, bởi vì tôi sợ các bạn bị tổn hại, đó là viết làm bất đắc dĩ.
Giống như Từ X Thành thần côn như vậy có rất nhiều, nhưng mà hắn nổ
như vậy, hại nhiều người như vậy, là rất ít gặp. Tam Sơn Cửu Hầu tiên
sinh là vô cực linh sư, địa vị rất là sùng cao, Diêu Trì Kim Mẫu gặp ông ta,
cũng xưng một câu sư tôn, mà con thứ 7 của Diêu Trì Kim Mẫu lại chém
nguyên thần của Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh, đó chính là một chuyện cười
lớn ở thiên hạ, nếu như Từ X Thành thật sự hiểu rõ Tam Sơn Cửu Hầu tiên
sinh là ai, tôi nghĩ tự nổ của hắn sẽ bị lột mặt, đó chính là duyên cớ Từ X
Thành không hiểu rõ Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh là ai. Tôi từng nói qua,
164
nếu Tam Sơn Cửu Hầu tiên bị chém, tọa vị của Ngọc Hoàng thượng đến
cũng băng nứt, Diêu Trì Kim Mẫu cũng phải bồi thường.
Cho đến tôi bị Từ X Thành trảm, bị dụng hình này. Tôi tự cảm thấy tôi
sống rất tốt, tu luyện càng tinh tấn, giống như là ngứa một cái cũng không
có, tôi cho rằng sợ nhất anh không phải là con thứ 7 của Diêu Trì Kim
Mẫu ! Tôi thỉnh thị Diêu Trì Kim Mẫu và con gái của Diêu Trì Kim Mẫu
là Vu Vân Huê phu nhân, Diêu Trì Kim Mẫu và Vân Huê phu nhân đều
nói: < nhân trung chi quỷ Từ X Thành, sau này khó tránh địa ngục ngạ quỷ
quả báo, có đứa con trai tự đến như vậy, chúng tôi không nhận, sợ rằng
hắn là con của quỷ mẫu ! >
Nói thật, trên tay anh có bảo kiếm ân ban của Kim Mẫu, tôi cho rằng anh
là < cầm sợi lông gà mà xem như lệnh tiễn >, không tin thử quơ một cái
xem, xem xem giết được bao nhiêu con kiến ? Tôi thì không tin tưởng anh
là con thứ 7 của Diêu Trì Kim Mẫu. Hoằng Kiện tiên sinh là cháu rùa của
tôi, mà anh làm cháu rùa của tôi cũng không đủ tư cách, muốn làm cháu
rùa của tôi, tôi cũng không nhận.
Đối với việc đem thần côn ra ánh sáng, tôi càng ngày càng có tâm đắc. Tôi
ở đây hoan nghênh thần côn khiêu chiến tôi, như vậy có qua có lại mới đủ
kích thích. Cũng khiến văn chương của tôi có đề tài mới, tôi có kế hoạch sẽ
từng cuốn từng cuốn sách xuất bản, sau này bảo đảm những thần côn này
sẽ lưu danh ở thanh sử, tôi sẽ tập một cuốn sách càng tinh sắc, tên sách tôi
suy nghĩ đã lâu gọi là < Thần Côn Truyền > ! Ha Ha.
( Ngoài ra có một vị thần côn Từ X Thành, là cháu của Từ X Thành, ở
cuốn sách sau < Linh Tiên Kim Cang Đại Pháp > sẽ đưa ra vậy >