luẬn Án tiẾn sĨ lỊch sỬhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1245/noidungla.pdfiii lỜi...
TRANSCRIPT
F
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN TRUNG TRIỀU
ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ Ở KHÁNH HÒA
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
(1954 - 1975)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
HUẾ, NĂM 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN TRUNG TRIỀU
ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ Ở KHÁNH HÒA
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
(1954 - 1975)
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 62 22 03 13
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học
PGS. TS. LÊ CUNG
TS. CHU ĐÌNH LỘC
HUẾ, NĂM 2018
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, tư liệu và kết quả
nghiên cứu trong luận án là trung thực, chưa từng được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Tác giả luận án
Nguyễn Trung Triều
iii
LỜI CẢM ƠN
Chân thành cảm ơn Lãnh đạo Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương Nha
Trang đã quan tâm, tạo điều kiện về mọi mặt để tôi được tham gia và hoàn thành
khóa đào tạo Tiến sĩ (2014-2017).
Trân trọng cảm ơn quý thầy cô giáo Khoa Lịch sử, Phòng Đào tạo Sau Đại học
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế và Ban Đào tạo Sau Đại học - Đại học
Huế đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận án.
Trân trọng cảm ơn Văn phòng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Khánh Hòa, Chi cục
Văn thư Lưu trữ tỉnh Khánh Hòa, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Trung tâm Lưu
trữ Quốc gia IV và các nhân chứng đã hỗ trợ về mặt tư liệu để tôi hoàn thành
luận án.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ sự kính trọng, lòng biết ơn sâu sắc đối với PGS. TS. Lê
Cung và TS. Chu Đình Lộc - những người thầy đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt
quá trình học tập và nghiên cứu.
Cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp luôn động viên, giúp đỡ để tôi hoàn
thành khóa học.
Huế, tháng 5 năm 2018
Tác giả
Nguyễn Trung Triều
iv
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa ............................................................................................................... i
Lời cam đoan .............................................................................................................. ii
Lời cảm ơn ................................................................................................................ iii
Mục lục ....................................................................................................................... iv
Danh mục cụm từ viết tắt .......................................................................................... vii
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................... 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................. 3
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ............................................................... 4
5. Đóng góp của luận án .................................................................................................. 5
6. Bố cục của luận án ....................................................................................................... 5
Chương 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ............................................................. 6
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .............................................................. 6
1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về đấu tranh chính trị ở miền Nam
trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975) ........................................................................ 6
1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về đấu tranh chính trị ở Khánh Hòa
trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975) ...................................................................... 15
1.2. Những vấn đề luận án kế thừa ............................................................................... 21
1.3. Những vấn đề luận án cần tập trung nghiên cứu .................................................. 22
Chương 2. ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ Ở KHÁNH HÒA TỪ NĂM 1954
ĐẾN NĂM 1965 ...................................................................................................... 24
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, truyền thống yêu nước
và cách mạng của nhân dân Khánh Hòa trước năm 1954 .............................................. 24
2.1.1. Điều kiện tự nhiên ......................................................................................... 24
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội .............................................................................. 25
2.1.3. Truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Khánh Hòa trước 1954 29
2.2. Chính sách của Mỹ, chính quyền Sài Gòn ở Khánh Hòa
và chủ trương đấu tranh chính trị của Đảng từ năm 1954 đến năm 1965 ...................... 32
v
2.2.1. Chính sách của Mỹ, chính quyền Sài Gòn ở Khánh Hòa từ năm 1954
đến năm 1965 .................................................................................................................... 32
2.2.2. Chủ trương của Đảng về đấu tranh chính trị từ năm 1954 đến năm 1965 . 42
2.3. Nội dung đấu tranh chính trị ở Khánh Hòa từ năm 1954 đến năm 1965 ........... 48
2.3.1. Đòi thi hành Hiệp định Genève .................................................................... 48
2.3.2. Chống chính sách “tố Cộng” ......................................................................... 53
2.3.3. Phối hợp với lực lượng vũ trang tiến hành đồng khởi ở vùng rừng núi ..... 56
2.3.4. Chống phá ấp chiến lược ............................................................................... 59
2.3.5. Đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo .................................................... 62
2.3.6. Chống độc tài, quân phiệt, đòi tự do và dân chủ ......................................... 70
2.3.7. Phối hợp với lực lượng vũ trang tiến hành đồng khởi ở vùng nông thôn
đồng bằng .......................................................................................................................... 78
Chương 3. ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ Ở KHÁNH HÒA TỪ NĂM 1965
ĐẾN NĂM 1975 ..................................................................................................... 82
3.1. Chính sách của Mỹ, chính quyền Sài Gòn ở Khánh Hòa
và chủ trương đấu tranh chính trị của Đảng từ năm 1965 đến năm 1975 ...................... 82
3.1.1. Chính sách của Mỹ, chính quyền Sài Gòn ở Khánh Hòa từ năm 1965
đến năm 1975 .................................................................................................................... 82
3.1.2. Chủ trương của Đảng về đấu tranh chính trị từ năm 1965 đến năm 1975 . 94
3.2. Nội dung đấu tranh chính trị ở Khánh Hòa từ năm 1965 đến năm 1975 ........... 99
3.2.1. Đòi thành lập chính phủ dân sự .................................................................... 99
3.2.2. Phối hợp với lực lượng vũ trang tham gia Tổng tiến công và nổi dậy
Tết Mậu Thân 1968 ........................................................................................................ 108
3.2.3. Đòi dân chủ, dân sinh .................................................................................. 112
3.2.4. Đòi thi hành Hiệp định Paris ....................................................................... 117
3.2.5. Phối hợp với lực lượng vũ trang tham gia Tổng tiến công và nổi dậy
Xuân 1975 ....................................................................................................................... 121
Chương 4. TÍNH CHẤT, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ .................... 125
4.1. Tính chất ............................................................................................................... 125
4.1.1. Tính chất dân tộc .......................................................................................... 125
4.1.2. Tính chất dân chủ, dân sinh ......................................................................... 128
vi
4.2. Đặc điểm ............................................................................................................... 130
4.2.1. Thu hút hầu hết các thành phần xã hội tham gia ....................................... 130
4.2.2. Hình thức, biện pháp đấu tranh phong phú, linh hoạt và quyết liệt .......... 133
4.2.3. Tích cực hưởng ứng và phối hợp với các địa phương khác
trong đấu tranh ................................................................................................................ 137
4.3. Ý nghĩa lịch sử ...................................................................................................... 138
4.3.1. Góp phần nâng cao giác ngộ chính trị đối với các tầng lớp nhân dân ...... 138
4.3.2. Làm rối loạn hậu phương và suy giảm thế lực của chính quyền Sài Gòn,
tạo điều kiện cho phong trào cách mạng phát triển ....................................................... 143
4.3.3. Góp phần làm phong phú thêm những bài học kinh nghiệm
đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc ............................................................................. 146
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 155
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
NỘI DUNG LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ .............................................................. 159
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 160
vii
NHỮNG CỤM TỪ VIẾT TẮT
ACL Ấp chiến lược
CQSG Chính quyền Sài Gòn
CSQG Cảnh sát Quốc gia
ĐTCT Đấu tranh chính trị
ĐTQS Đấu tranh quân sự
LLCT Lực lượng chính trị
LLVT Lực lượng vũ trang
LTQG Lưu trữ Quốc gia
THPG Tỉnh hội Phật giáo
TNSVHS Thanh niên, sinh viên, học sinh
TNTP Trung Nguyên Trung Phần
VNCH Việt Nam Cộng hòa
VTLT Văn thư lưu trữ
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), cùng với tấn công
về quân sự, Đảng Cộng sản Việt Nam1 chủ trương tấn công Mỹ và chính quyền Sài
Gòn (CQSG) cả về chính trị, coi đấu tranh chính trị (ĐTCT) là một hình thức đấu
tranh cơ bản, có vai trò quyết định trong tất cả các giai đoạn phát triển của cách
mạng miền Nam, là “ưu thế tuyệt đối và vũ khí lớn của ta, có tác dụng như đấu
tranh vũ trang (ĐTVT)” [33, tr. 824]. Thực hiện chủ trương đó, từ năm 1954 đến
năm 1975, ĐTCT đã diễn ra liên tục và rộng khắp ở miền Nam, trở thành nét độc
đáo của nghệ thuật chiến tranh cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay, vấn
đề ĐTCT vẫn chưa được quan tâm đầu tư nghiên cứu đúng mức, chưa tương xứng
với vị trí của nó trong thế “hai chân, ba mũi” đã được thực tiễn khẳng định. Do đó,
việc nghiên cứu, tìm hiểu về ĐTCT giúp chúng ta có cái nhìn đầy đủ hơn về cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) với tính chất là một cuộc chiến tranh
nhân dân, toàn dân, toàn diện.
Khánh Hòa là tỉnh có lợi thế về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên. Thời kỳ 1954-
1975, Mỹ và CQSG đã xây dựng tại đây nhiều căn cứ quân sự quy mô, hiện đại, nổi bật
là khu liên hợp hải - lục - không quân Cam Ranh. Bên cạnh đó, Khánh Hòa còn là địa
bàn được Mỹ và CQSG lựa chọn để đặt các cơ quan chỉ huy, trung tâm huấn luyện
quân đội, trường đào tạo sĩ quan2. Để vận hành cũng như bảo vệ hệ thống cơ sở phục
vụ chiến tranh này, Mỹ và CQSG đã sử dụng một lực lượng quân đội, cảnh sát hùng
hậu; đồng thời, công tác an ninh, bộ máy kìm kẹp được đặc biệt coi trọng.
Trong điều kiện như vậy, nhưng từ năm 1954 đến năm 1975, nhân dân Khánh
Hòa vẫn liên tục ĐTCT bằng nhiều hình thức, thu hút hầu hết các thành phần xã
hội tham gia và đạt được những kết quả đáng được lịch sử ghi nhận, nổi bật là
phong trào đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Genève; chống chính sách “tố
1. Từ năm 1951 đến năm 1976, tên gọi là Đảng Lao động Việt Nam. 2. Các cơ quan chỉ huy: Bộ Tư lệnh Vùng II Chiến thuật, Bộ Tư lệnh Vùng II Duyên hải, Bộ Tư
lệnh Sư đoàn 2 Không quân, Bộ Chỉ huy Tiếp vận 5...; các Trung tâm huấn luyện: Trung tâm Huấn
luyện Biệt động quân Dục Mỹ - Ninh Hòa, Trung tâm Huấn luyện Hải quân Cam Ranh, Trung tâm
Huấn luyện Không quân Nha Trang...; các trường đào tạo sĩ quan: Trường Hạ sĩ quan Quân lực
VNCH (Quân trường Đồng Đế), Trường Sĩ quan Hải quân Nha Trang;...
2
Cộng”; chống phá ấp chiến lược (ACL); đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn
giáo; chống độc tài, quân phiệt, đòi tự do và dân chủ; đòi thành lập chính phủ
dân sự; đòi thi hành Hiệp định Paris; phối hợp với LLVT tham gia Tổng tiến
công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 và Xuân 1975;... ĐTCT của nhân dân
Khánh Hòa đã góp phần làm thất bại các chiến lược chiến tranh thực dân mới
của Mỹ tiến hành ở địa phương cũng như ở miền Nam.
Qua tìm hiểu cho thấy, ĐTCT trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
(1954-1975) ở các địa bàn như Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Tây
Nguyên, Sài Gòn,... đã được triển khai nghiên cứu ở những mức độ khác nhau; trong
khi đó, đối với Khánh Hòa, cho đến nay chủ đề ĐTCT chỉ được đề cập vắn tắt và rải
rác trong các công trình lịch sử Đảng bộ, lịch sử các tổ chức chính trị - xã hội của địa
phương. Vì vậy, nghiên cứu ĐTCT ở Khánh Hòa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước (1954-1975) vừa có ý nghĩa khoa học vừa có ý nghĩa thực tiễn:
Về ý nghĩa khoa học, luận án làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến ĐTCT và diễn
biến, tính chất, đặc điểm, ý nghĩa lịch sử của ĐTCT ở Khánh Hòa trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ (1954-1975). Qua đó, giúp nhận thức rõ hơn về truyền thống yêu
nước, cách mạng của nhân dân Khánh Hòa; bản chất thực dân mới của các chính
sách, biện pháp do Mỹ và CQSG triển khai tại Khánh Hòa; sự nhạy bén trong chủ
trương lãnh đạo ĐTCT của Đảng; sự đa dạng, linh hoạt, quyết liệt về hình thức của
ĐTCT ở Khánh Hòa; sự hưởng ứng, phối hợp của Khánh Hòa với địa phương khác
trong ĐTCT; kết quả của ĐTCT ở Khánh Hòa thời kỳ 1954-1975;... Không những
thế, luận án còn cung cấp những cứ liệu để nhận thức đầy đủ hơn về phương châm
“hai chân, ba mũi” trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Khánh Hòa nói
riêng và miền Nam nói chung.
Về ý nghĩa thực tiễn, luận án cung cấp thêm nguồn tư liệu về cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Khánh Hòa phục vụ công tác nghiên cứu,
giảng dạy lịch sử địa phương, góp phần nâng cao niềm tự hào về truyền thống của
quê hương và giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Khánh Hòa. Hơn nữa,
những bài học kinh nghiệm được rút ra trong luận án góp phần phát huy sức mạnh
của quần chúng nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn
Khánh Hòa hiện nay.
3
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề “Đấu tranh chính trị ở
Khánh Hòa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1975)” làm đề tài luận án Tiến
sĩ chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là ĐTCT ở Khánh Hòa trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975); trong đó, tập trung nghiên cứu nguyên
nhân, diễn biến, mục tiêu, lực lượng, hình thức, biện pháp, kết quả các phong trào
tiêu biểu cũng như tính chất, đặc điểm và ý nghĩa lịch sử của ĐTCT trên địa bàn
Khánh Hòa từ năm 1954 đến năm 1975.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, ĐTCT được đề cập trong luận án được hiểu theo nghĩa để phân
biệt với ĐTVT, tức là đấu tranh của quần chúng nhân dân không sử dụng vũ khí
quân dụng nhằm đòi các mục tiêu về dân tộc, dân chủ, dân sinh.
Về không gian, luận án nghiên cứu ĐTCT trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa, gồm
các đơn vị hành chính cấp huyện: Vạn Ninh, Ninh Hòa, Nha Trang, Diên Khánh,
Cam Lâm, Cam Ranh, Khánh Vĩnh và Khánh Sơn; trong đó, tập trung nghiên cứu
địa bàn Nha Trang - nơi được coi là trung tâm của ĐTCT ở Khánh Hòa trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).
Về thời gian, luận án giới hạn thời gian nghiên cứu từ năm 1954 đến năm
1975, cụ thể là từ khi Hiệp định Genève được ký kết (21-7-1954) đến ngày Khánh
Hòa được giải phóng (2-4-1975). Tuy nhiên, để làm rõ hơn nhân tố ảnh hưởng đến
ĐTCT, khung thời gian của luận án được lùi về trước năm 1954 khi trình bày nội
dung truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Khánh Hòa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Tái hiện có hệ thống quá trình ĐTCT, góp phần nhận thức đầy đủ hơn về cuộc
kháng chiến chống Mỹ (1954-1975) của quân và dân Khánh Hòa. Qua đó, bổ sung tư
liệu cho công tác nghiên cứu, giảng dạy lịch sử địa phương; cung cấp luận cứ khoa học
nâng cao hiệu quả công tác giáo dục truyền thống cách mạng, vận động quần chúng và
phát huy sức mạnh nhân dân trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa trong giai đoạn hiện nay.
4
Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Khánh Hòa, nhất là chính
sách của Mỹ và CQSG đối với Khánh Hòa từ năm 1954 đến năm 1975 có ảnh
hưởng đến ĐTCT.
Trình bày đường lối, chủ trương của Trung ương Đảng, Liên Khu ủy V và
Tỉnh ủy Khánh Hòa chỉ đạo ĐTCT trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1975).
Trình bày diễn biến ĐTCT ở Khánh Hòa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
(1954-1975) qua các phong trào tiêu biểu dựa theo mục tiêu và đối tượng đấu tranh.
Làm rõ tính chất, đặc điểm và ý nghĩa lịch sử của ĐTCT ở Khánh Hòa trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1975).
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu đã công bố như văn kiện, công trình tổng kết của Đảng, Nhà
nước, tác phẩm của các vị lãnh đạo viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1975)
có đề cập đến ĐTCT; công trình, bài viết của các nhà nghiên cứu về ĐTCT trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1975); lịch sử Đảng bộ, lịch sử Hội Nông dân,
lịch sử Hội Liên hiệp Phụ nữ, lịch sử Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh
Khánh Hòa và các huyện, thị, thành phố trực thuộc; một số công trình nước ngoài viết
về “chiến tranh Việt Nam” liên quan tới đề tài.
Nguồn tư liệu tại kho lưu trữ thuộc Văn phòng và Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
Khánh Hòa; Trung tâm Lưu trữ Lịch sử thuộc Chi cục Văn thư Lưu trữ - Sở Nội vụ
tỉnh Khánh Hòa; Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II (Thành phố Hồ Chí Minh); Trung
tâm Lưu trữ Quốc gia IV (Đà Lạt).
Ngoài ra, một nguồn tư liệu hết sức quan trọng trong nghiên cứu lịch sử địa
phương được tác giả chú ý khai thác là di tích lịch sử, bảo tàng, đặc biệt là trao đổi,
phỏng vấn các nhân chứng lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh, để thực hiện luận án, tác giả
chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic. Ngoài ra,
tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như sưu tầm và xử
5
lý tư liệu (thành văn, điền dã, phỏng vấn nhân chứng), phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh,...
5. Đóng góp của luận án
Một là, trên cơ sở trình bày, phân tích điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội;
chính sách của Mỹ, CQSG đối với Khánh Hòa; đường lối chỉ đạo ĐTCT của Trung
ương Đảng, Liên Khu ủy V và Tỉnh ủy Khánh Hòa, luận án làm rõ sự ảnh hưởng
của những nhân tố trên đối với ĐTCT ở Khánh Hòa trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước (1954-1975).
Hai là, luận án tái hiện khách quan và có hệ thống diễn biến ĐTCT ở Khánh
Hòa từ năm 1954 đến năm 1975, trong đó thể hiện rõ mục tiêu, lực lượng, thành
phần, hình thức, kết quả,... của từng phong trào.
Ba là, luận án phân tích, chứng minh làm nổi bật tính chất, đặc điểm của ĐTCT ở
Khánh Hòa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975); đồng thời, làm
rõ ý nghĩa, rút ra những bài học kinh nghiệm phục vụ quá trình phát triển kinh tế - xã
hội, bảo vệ an ninh Tổ quốc trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa trong giai đoạn hiện nay.
Bốn là, trên cơ sở xử lý khối lượng lớn tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau,
trong đó có nhiều tài liệu lần đầu tiên được công bố, luận án góp phần giúp nhận
thức đầy đủ hơn về ĐTCT ở Khánh Hòa nói riêng và miền Nam nói chung; cung
cấp nguồn tư liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy lịch sử địa
phương cũng như giáo dục truyền thống cách mạng của quê hương Khánh Hòa.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu (5 trang), kết luận (4 trang), tài liệu tham khảo (27 trang)
và phụ lục (41 trang), nội dung luận án (150 trang) gồm 4 chương:
Chương 1. Tổng quan nghiên cứu (19 trang)
Chương 2. Đấu tranh chính trị ở Khánh Hòa từ năm 1954 đến năm 1965 (58 trang)
Chương 3. Đấu tranh chính trị ở Khánh Hòa từ năm 1965 đến năm 1975 (43 trang)
Chương 4. Tính chất, đặc điểm và ý nghĩa lịch sử (30 trang)
6
Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
ĐTCT trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) ở miền Nam
nói chung, Khánh Hòa nói riêng tuy chưa được nghiên cứu đầy đủ, toàn diện như
ĐTQS nhưng cũng đã được đề cập ở nhiều công trình. Tựu trung, các công trình
liên quan đến đề tài luận án có thể phân thành hai nhóm chính:
1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về đấu tranh chính trị ở miền Nam
trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975)
Lê Duẩn (1976), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ
nghĩa xã hội, tiến lên giành thắng lợi mới, Nhà xuất bản (NXB) Sự thật, Hà Nội.
Công trình phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về chiến tranh nhân dân và
tổng kết kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, trong đó có kinh nghiệm chỉ đạo ĐTCT. Về phương
pháp cách mạng, Tổng Bí thư Lê Duẩn khẳng định: “Khái quát chung lại, có thể
nói bạo lực cách mạng phải dựa vào hai lực lượng: Lực lượng quân sự, lực
lượng chính trị, và bao gồm hai hình thức đấu tranh: ĐTQS, ĐTCT và sự kết
hợp giữa hai hình thức ấy” [28, tr. 51].
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Lịch sử Đảng (1993),
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (2 tập), NXB CTQG, Hà Nội. Cùng với trình
bày đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ
(1954-1975), công trình phân tích âm mưu, biện pháp của Mỹ và CQSG đối với
miền Nam; điểm một số phong trào ĐTCT tiêu biểu như phong trào đòi thi hành
Hiệp định Genève (1954-1956); Đồng khởi (1959-1960); phá ACL (1961-1963);
đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo (1963); chống “Hiến chương Vũng Tàu”
(1964); chống chính quyền quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ
(1966);... Trong phần bài học kinh nghiệm, công trình đánh giá cao vai trò của
ĐTCT đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước: “Phong trào
ĐTCT của đông đảo quần chúng có sức tiến công và tạo ra thế uy hiếp địch rất to
lớn; các đoàn thể quần chúng cách mạng thực sự là những đội quân ĐTCT chống
7
địch ở khắp nông thôn và thành thị”; coi “thường xuyên chú trọng việc xây dựng
LLCT” là bài học lớn trong công tác chỉ đạo cách mạng của Đảng ở miền Nam thời
kỳ 1954-1975 [58, tr. 145].
Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1995), Tổng kết
cuộc kháng chiến chống Mỹ - Thắng lợi và bài học, NXB CTQG, Hà Nội. Công
trình đề cập những vấn đề lý luận về ĐTCT trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước (1954-1975) như cơ sở, vai trò, hình thức, nghệ thuật tiến hành và mối quan
hệ với ĐTQS,... Trong đó, về vai trò của ĐTCT, công trình khẳng định: “ĐTCT của
quần chúng cũng là một hình thức đấu tranh cơ bản có tác dụng quyết định trong
tất cả các giai đoạn phát triển của cách mạng miền Nam và đối với thắng lợi của
cuộc chống Mỹ, cứu nước” [4, tr. 153]; về sự kết hợp giữa ĐTCT với ĐTQS, công
trình tổng kết: “Kết hợp hai mặt ĐTQS và ĐTCT là vấn đề cơ bản có tính quy luật
trong phương pháp cách mạng miền Nam, đồng thời là đặc điểm nổi bật tạo nên
sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân Việt Nam chống chiến tranh xâm lược
thực dân mới của đế quốc Mỹ” [4, tr. 154].
Bộ Tư lệnh Quân Khu V - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1999), Một số
kinh nghiệm chỉ đạo chiến tranh nhân dân địa phương ở Khu V trong kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), NXB Quân đội Nhân dân (QĐND), Hà Nội.
Công trình đề cập điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đến ĐTCT cùng
một số phong trào ĐTCT nổi bật như phong trào đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng
tôn giáo năm 1963, phong trào chống độc tài, quân phiệt Nguyễn Khánh - Trần Văn
Hương những năm 1964-1965, phong trào chống chính quyền quân phiệt Nguyễn
Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ năm 1966 ở địa bàn Đà Nẵng, Tam Kỳ, Đà Lạt;...
cùng với đó, chủ trương chỉ đạo ĐTCT của Liên Khu ủy V và kinh nghiệm ĐTCT
của nhân dân Khu V cũng được tổng kết khá rõ.
Viện Lịch sử Đảng (2002), Khu VI kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975),
NXB CTQG, Hà Nội. Công trình phân tích vị trí chiến lược của Khu VI và trình bày
quá trình đấu tranh chống Mỹ của quân dân các tỉnh trên địa bàn như Khánh Hòa3,
Ninh Thuận, Bình Thuận, Đắk Lắk, Lâm Đồng. Với vai trò là một trong “ba mũi giáp
công”, ĐTCT được công trình đề cập qua các phong trào tiêu biểu như đòi thi hành
3. Khánh Hòa được đề cập trong giai đoạn 1954-1963, từ cuối năm 1963 trở về sau, Khánh Hòa
thuộc Liên Khu V.
8
Hiệp định Genève 1954, đồng khởi ở vùng miền núi 1959-1960, phá ACL 1963, chống
độc tài Mỹ - Khánh, đòi dân chủ thực sự 1964, chống Mỹ, Thiệu - Kỳ 1966... Ở phần
kết luận, công trình khẳng định, trong quá trình kháng chiến, các cấp ủy Đảng của Khu
VI rất coi trọng mũi ĐTCT, nhất là khâu “xây dựng nòng cốt, phát động quần chúng,
đối với vùng yếu, vùng trắng, dùng phương thức đội vũ trang công tác để mở phong
trào, kết hợp với vận dụng các khả năng công khai hợp pháp” [304, tr. 302].
Võ Nguyên Giáp (2006), Tổng tập luận văn, NXB QĐND, Hà Nội. Công
trình tập hợp các bài viết của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về quân sự, chính trị,
chiến tranh nhân dân,... Qua đó, nhiều vấn đề lý luận về ĐTCT, mối quan hệ
giữa ĐTCT với ĐTQS đã được phân tích làm rõ. Cũng trong công trình này, Đại
tướng Võ Nguyễn Giáp đưa ra định nghĩa về ĐTCT: “ĐTCT ở đây nói theo
nghĩa hẹp để phân biệt với ĐTVT, nghĩa là các hình thức đấu tranh của đông
đảo quần chúng nhân dân không cầm vũ khí như bãi công, bãi chợ, bãi khóa, mít
tinh, biểu tình, thị uy,... Dựa vào sức mạnh của chính nghĩa và lực lượng đoàn
kết, có tổ chức của đông đảo quần chúng, các cuộc đấu tranh này thông thường
được tiến hành trong điều kiện hợp pháp, nửa hợp pháp hoặc biến thế bất hợp
pháp thành thế hợp pháp cách mạng, nhằm đạt mục đích nhất định về chính trị,
kinh tế, văn hóa hoặc có khi cả về quân sự” [48, tr. 1060].
Trần Văn Giàu (2006), Tổng tập, NXB QĐND, Hà Nội. Bộ sách gồm hai
phần: Phần thứ nhất - “Chống xâm lăng” phản ánh cuộc kháng chiến chống
Pháp đầy bi hùng của dân tộc; phần thứ hai - “Miền Nam giữ vững thành đồng” là
bức tranh toàn cảnh về cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta (1954-1975).
Trong phần thứ hai, tác giả đề cập đến các phong trào ĐTCT tiêu biểu của nhân dân
miền Nam như phong trào chống độc tài, chống khủng bố, đòi hiệp thương tổng
tuyển cử thống nhất nước nhà những năm 1954-1956; phong trào Đồng khởi những
năm 1959-1960; phong trào đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo năm 1963;
phong trào chống Mỹ, chống Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ những năm
1965-1968;... Bên cạnh đó, tác giả phân tích đặc điểm đời sống kinh tế, xã hội ở
đô thị miền Nam từ khi Mỹ thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (1965);
coi chính sách thực dân mới của Mỹ là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến bùng phát
các phong trào ĐTCT, bởi “sự có mặt quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam là một sự
9
xâm phạm thô bạo chủ quyền độc lập của nhân dân ta, nó kích động mạnh mẽ
tinh thần dân tộc của mọi tầng lớp nhân dân, kể cả binh sĩ và nhân viên ngụy
quyền” [49, tr. 1733].
Lê Cung (2008), Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963, in
lần thứ tư, NXB Thuận Hóa, Huế. Có thể nói, “đây là tác phẩm đầu tiên nghiên
cứu có hệ thống và hoàn chỉnh về phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm
1963” [21, tr. 3], trong đó thể hiện nguyên nhân, diễn biến và ý nghĩa của phong
trào đối với Phật giáo miền Nam cũng như đối với cách mạng miền Nam. Không
những thế, những sử liệu và kiến giải của tác giả là cơ sở quan trọng giúp việc
tìm hiểu, nghiên cứu về phong trào Phật giáo năm 1963 trên từng địa bàn cụ thể
ở miền Nam thuận lợi hơn.
Trần Bá Đệ (Chủ biên) - Lê Cung (2010), Lịch sử Việt Nam tập VII, từ 1954
đến 1975, in lần thứ hai, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội. Đây là một trong số ít
giáo trình đã dành dung lượng khá lớn để trình bày về những vấn đề liên quan đến
ĐTCT trong thời kỳ 1954-1975 như chính sách của Mỹ và CQSG ở miền Nam; diễn
biến các phong trào ĐTCT nổi bật ở Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt, Sài Gòn...; vai trò, ý
nghĩa của ĐTCT đối với cách mạng miền Nam. Đặc biệt, trong công trình này, phong
trào chống Mỹ, Ngô Đình Diệm cưỡng ép đồng bào di cư những năm 1954-1955,
phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963, phong trào đấu tranh ở vùng đối phương
tạm chiếm những năm 1965-1966 được nghiên cứu khá đầy đủ, đồng thời được bố cục
lại cho phù hợp với logic và đúng với vị trí của nó trong lịch sử.
Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) (9 tập), NXB CTQG, Hà Nội. Công trình
phản ánh một cách toàn diện và sinh động về nguyên nhân, diễn biến cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) qua từng giai đoạn và các bước ngoặt quan
trọng. Về ĐTCT, công trình đề cập đến các phong trào tiêu biểu của nhân dân miền
Nam, từ phong trào đòi thi hành Hiệp định Genève, bảo vệ hòa bình (1954-1956),
chống “tố Cộng” (1955-1959),... đến những phong trào bùng phát vào giai đoạn
cuối của cuộc kháng chiến như đòi thi hành Hiệp định Paris 1973, hoạt động của
Lực lượng thứ ba,... Ngoài ra, ở tập 9 - “Tính chất, đặc điểm, tầm vóc và bài học
lịch sử”, công trình khẳng định vai trò to lớn của ĐTCT: “ĐTCT đã được nâng lên
10
thành một nghệ thuật trong việc chống chính sách xâm lược thực dân mới của đế
quốc Mỹ. Khi khởi nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng, chiến
tranh và khởi nghĩa gắn quyện vào nhau thì ĐTCT mà hình thức cao là sự nổi dậy
của quần chúng luôn luôn kết hợp chặt chẽ và nhịp nhàng với ĐTQS, tạo thế và trợ
giúp đắc lực cho ĐTQS” [15, tr. 242].
Lê Cung (2013), 50 năm nhìn lại phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam
(1963-2013), NXB Đại học Huế. Cùng với các bài viết về sức mạnh truyền thống
của Phật giáo, công trình tập hợp những bài nghiên cứu chuyên sâu về chủ đề
“phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963” nhìn từ truyền thống đến
hiện đại. Hơn thế nữa, qua một số bài viết như “Mặt trận Dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam với phong trào Phật giáo năm 1963”, “Sự hậu thuẫn của miền Bắc
đối với phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963”, “Vai trò của quần chúng nhân
dân trong phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963”,... công trình còn cung cấp cái
nhìn toàn diện về phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963 với tư cách là một cuộc
vận động mang tính dân tộc.
Lê Cung (2014), Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam (1964-1968),
NXB Thuận Hóa. Đây được xem như là một sự tiếp nối công trình “Phong trào
Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963”. Trong công trình này, tác giả trình bày
phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam những năm 1964-1968 qua ba giai đoạn:
Giai đoạn từ sau cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm (1-11-1963) đến
trước ngày chế độ quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ được thành lập
(19-6-1965); giai đoạn từ khi chế độ quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao
Kỳ được thành lập (19-6-1965) đến sự kiện “Bàn Phật xuống đường” kết thúc
(21-6-1966); giai đoạn từ sự kiện “Bàn Phật xuống đường” kết thúc (21-6-1966)
đến sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân (1968). Ngoài ra, công trình
cũng làm rõ tính chất, đặc điểm và ý nghĩa của phong trào Phật giáo miền Nam
Việt Nam giai đoạn 1964-1968.
Lê Cung (Chủ biên), (2015), Về phong trào đô thị miền Nam trong kháng
chiến chống Mỹ (1954-1975), NXB Tổng hợp TP HCM. Khai thác nguồn tư liệu có
giá trị từ hai phía, tiếp cận ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau, công trình phản
ánh khá chi tiết về nguyên nhân, mục tiêu, lực lượng, diễn biến, tính chất, đặc
11
điểm,... phong trào đô thị miền Nam, nhất là ở Huế, Đà Nẵng và Sài Gòn - Gia
Định trong suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ. Trong số đó, bài “Phong trào đô thị
miền Nam trong cuộc đấu tranh thống nhất đất nước (1954-1975)” của tác giả Lê
Cung đã làm rõ vai trò phong trào đô thị miền Nam trong từng giai đoạn của cuộc
kháng chiến chống Mỹ được thể hiện qua các phong trào tiêu biểu như phong trào
hòa bình những năm 1954-1956, phong trào Phật giáo năm 1963, phong trào đô thị
năm 1966, phong trào sinh viên, học sinh năm 1970, phong trào đòi thi hành Hiệp
định Paris 1973,... Trên cơ sở đó, tác giả có những nhận xét xác đáng về phong trào
đô thị miền Nam: “Mục tiêu xuyên suốt là độc lập dân tộc, thống nhất đất nước; đã
tập hợp hầu hết các giai tầng xã hội ở các đô thị” - tác giả khẳng định đây là một
“sự hội tụ dân tộc”; “là cuộc đụng đầu trực tiếp của nhân dân đô thị miền Nam với
Mỹ và CQSG bằng trí thông minh và lòng dũng cảm, trong tay không có vũ khí;
chiến thắng trên chiến trường không thể tách rời với ĐTCT” [24, tr. 74-75].
Trần Hoài, Lê Cung, Lê Văn Thuyên, Nguyễn Duy Hiền, Nguyễn Xuân Hoa
(2015), Lịch sử phong trào đô thị Huế 1954-1975, NXB Trẻ, TP HCM. Sử dụng
nguồn tư liệu từ nhiều phía, đặc biệt là tư liệu lưu trữ của cả chính quyền cách
mạng và CQSG, có thể nói, đây là cuốn sách mới nhất trình bày tương đối đầy đủ,
trọn vẹn phong trào ĐTCT theo dòng lịch sử từ năm 1954 đến năm 1975 của Huế -
một đô thị lớn với nhiều phong trào ĐTCT mạnh mẽ và có ảnh hưởng đối với
phong trào đô thị miền Nam, trong đó có Nha Trang - Khánh Hòa.
Viện Sử học (2017), Lịch sử Việt Nam, (tái bản lần thứ nhất) NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội. Bộ sách gồm 15 tập, trình bày lịch sử Việt Nam từ khởi thủy đến
năm 2000, trong đó, phần lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được trình bày
khá toàn diện ở Tập 12 (từ năm 1954 đến năm 1965) và Tập 13 (từ năm 1965 đến
năm 1975). Về ĐTCT thời kỳ 1954-1975, tập thể tác giả đã khái quát chủ trương
chỉ đạo của Đảng qua các giai đoạn trên cơ sơ phân tích âm mưu, chính sách của
CQSG đối với miền Nam; đồng thời, điểm một số phong trào ĐTCT tiêu biểu của
nhân dân miền Nam như đòi thi hành Hiệp định Genève (1954-1956), chống “tố
Cộng” (1957-1958), Đồng khởi ở miền Trung và Nam Bộ (1959-1960), chống phá
ACL (1962-1964), chống Hiến chương Vũng Tàu (1964), chống Mỹ và chế độ
quân phiệt Sài Gòn (1966), chống bình định ở nông thôn, đòi dân chủ, hòa bình ở
12
đô thị (1970), chống Nguyễn Văn Thiệu độc tài, tham nhũng (1974),...
Ngoài các công trình trên, nghiên cứu về ĐTCT ở miền Nam trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) còn được thể hiện trong một số luận
án Tiến sĩ:
Trần Thị Lan (2014), Đấu tranh chính trị ở Tây Nguyên trong kháng chiến
chống Mỹ từ năm 1961 đến năm 1968, Luận án Tiến sĩ, Trường ĐHSP - Đại học
Huế. Luận án tập trung phân tích những yếu tố tác động đến ĐTCT; tái hiện quá
trình ĐTCT ở đô thị, nông thôn các tỉnh Tây Nguyên từ 1961 đến 1968, trên cơ sở
đó, làm rõ vai trò, đặc điểm và rút ra một số bài học kinh nghiệm phục vụ công cuộc
phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay.
Nguyễn Thị Thanh Huyền (2016), Phong trào công nhân ở các đô thị miền
Nam Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ từ năm 1954 đến năm 1965, Luận án
Tiến sĩ, Trường ĐHSP - Đại học Huế. Luận án nghiên cứu phong trào công nhân
các đô thị lớn ở miền Nam như Sài Gòn, Biên Hòa, Đà Nẵng, Huế. Trên cơ sở tái
hiện diễn biến phong trào, luận án làm rõ tính chất, đặc điểm và ý nghĩa lịch sử của
phong trào công nhân miền Nam những năm 1954-1965.
Về bài nghiên cứu được công bố trên các tạp chí và kỷ yếu hội thảo khoa học,
có thể kể đến Quỳnh Cư (1980), “Tìm hiểu về ‘đội quân chính trị’ của quần chúng
trong cách mạng miền Nam (1954-1975)”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 3. Sau khi
sơ lược quá trình phát triển qua 21 năm đấu tranh chống Mỹ (1954-1975), tác giả chỉ
rõ đặc điểm và vai trò của “đội quân chính trị”. Về đặc điểm, “là một đội quân dũng
cảm và mưu trí; một tổ chức chặt chẽ như những đội quân vũ trang; vừa chống địch
tại chỗ vừa tràn vào thành thị tấn công trực diện với địch”. Về vai trò, “là lực lượng
nòng cốt trong phong trào ĐTCT; đóng vai trò quan trọng trong phong trào nổi dậy
của quần chúng; hỗ trợ và tạo điều kiện cho LLVT đánh địch” [26].
Nguyễn Thị Định (1985), “Đấu tranh chính trị - Một hình thức đấu tranh cơ
bản, một mũi tiến công sắc bén của cách mạng và chiến tranh cách mạng miền
Nam”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Nghiên cứu một số văn kiện của Đảng về
chống Mỹ, cứu nước” của Viện Mác - Lênin. Tham luận khẳng định “ĐTCT của
nhân dân miền Nam, đặc biệt là của ‘đội quân tóc dài’ là vấn đề thuộc về phương
pháp cách mạng đã được nâng lên thành nghệ thuật; ĐTCT không chỉ là cơ sở
13
của ĐTVT, hỗ trợ cho ĐTVT, mà còn là hình thức đấu tranh cơ bản, sắc bén tấn
công trực diện kẻ thù” [45].
Vũ Thị Thúy Hiền (2000), “Phụ nữ miền Nam tham gia đấu tranh chính trị
chống chiến lược ‘Chiến tranh đặc biệt’ của đế quốc Mỹ (1961-1965)”, Tạp chí
Lịch sử Đảng, số 7. Cùng với phân tích âm mưu, biện pháp của Mỹ và CQSG đối
với miền Nam trong “Chiến tranh đặc biệt”, coi đây là nguyên nhân cơ bản dẫn
đến bùng nổ các phong trào ĐTCT, bài viết làm rõ vai trò chính trị của phụ nữ
miền Nam trong phong trào đấu tranh chống phá ACL; phong trào đòi dân sinh,
dân chủ, cải thiện đời sống; phong trào tố cáo tội ác của Mỹ và CQSG những năm
1961-1965 [52].
Trần Bạch Đằng (2005), “Chung một bóng cờ”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 12.
Bài viết khẳng định, kết hợp bốn hình thức đấu tranh: Chính trị, vũ trang, binh vận,
ngoại giao tạo nên sức mạnh tổng hợp là vấn đề thuộc về phương châm chiến lược
và phương pháp cách mạng; có lúc hình thức này giữ vai trò chủ yếu, hình thức
khác hỗ trợ, song về cơ bản, phong trào cách mạng miền Nam là phong trào chính
trị theo nghĩa rộng, là cuộc đấu tranh của đông đảo quần chúng. Đặc biệt, bài viết
chỉ ra những hệ quả ngoài ý muốn của Mỹ và CQSG khi chủ trương lùa dân vào
các khu tập trung, thị trấn, ven trục lộ, quanh đồn bốt để dễ kiểm soát, bóc lột và
bắt lính. Hệ quả đó là: “Tập trung đông người nảy sinh những vấn đề xã hội, kinh
tế, tạo ra mâu thuẫn từng giờ, từng phút giữa bộ máy cầm quyền với nhân dân từ
cái ăn, cái mặc, cái ở, học hành, sản xuất…; tạo điều kiện cho một số người trước
đây chỉ hiểu Mỹ và CQSG từ xa, còn mơ hồ, nay hằng ngày tận mắt nhận rõ các tồi
tệ; tạo cơ hội cho dân tiếp xúc với nhau dễ dàng hơn, thông tin nhanh hơn, liên kết
đấu tranh thuận tiện hơn” [43]. Theo tác giả, “điều này có nghĩa là Mỹ và CQSG
đã ‘mời’ cách mạng đến sát mình. Đây chính là điều kiện quan trọng để ĐTCT
bùng nổ” [43].
Trịnh Thị Hồng Hạnh (2010), “Đấu tranh chính trị trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6. Trên cơ sở nghiên cứu các
phong trào ĐTCT tiêu biểu ở miền Nam, bài viết kết luận: “ĐTCT đã thu hút,
lôi cuốn đông đảo người dân Việt Nam, nhân dân Mỹ yêu chuộng hòa bình và
nhân loại tiến bộ trên thế giới. Vì lẽ đó, ĐTCT không những giác ngộ quần
14
chúng trong nước trở thành lực lượng cách mạng, mà còn giúp nhân dân Mỹ và
thế giới hiểu hơn về cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân ta, qua đó mở
rộng mặt trận đoàn kết, đẩy mạnh đấu tranh góp phần đưa cuộc kháng chiến
đến thắng lợi cuối cùng” [50].
Nhìn chung, các công trình nêu trên dù được trình bày dưới dạng tổng kết,
lịch sử, luận án, tham luận hội thảo hay bài báo khoa học,... ở những mức độ, khía
cạnh khác nhau đã làm rõ nhiều vấn đề liên quan đến lý luận và thực tiễn của
ĐTCT ở miền Nam, nhất là ở đô thị trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
(1954-1975).
Không chỉ trong nước, ở ngoài nước cũng xuất bản các công trình phản ánh về
“chiến tranh Việt Nam” - theo cách gọi của họ, có đề cập đến ĐTCT, tiêu biểu như:
Gabrien Kolko (1991), Giải phẫu một cuộc chiến tranh, NXB QĐND, Hà Nội;
Robert S. McNamara (1995), Nhìn lại quá khứ - tấn thảm kịch và những bài học về
Việt Nam, NXB CTQG, Hà Nội; Douglas Ramit (2004), Làn gió mát từ thành phố
Hồ Chí Minh, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội,... Ở các công trình này, ĐTCT chủ
yếu được đề cập như một nhân tố quan trọng để giải thích cho sự thất bại của Mỹ
trong cuộc “chiến tranh Việt Nam”. Chẳng hạn, Gabrien Kolko khẳng định: “Họ
tiến hành một cuộc chiến bằng chính trị”, và “sự thật là không phải quân đội mà
chính nhân dân đã thắng trong cuộc chiến tranh, nhưng làm sao có thể tách đôi?
Nhân dân là quân đội, tất cả đều là chiến sĩ” [46, tr. 179]; Robert S. McNamara
thừa nhận: “Chúng ta đã không nhận ra được những hạn chế của các thiết bị quân
sự kỹ thuật cao và hiện đại, lực lượng quân sự và học thuyết quân sự trong khi đối
đầu với những phong trào nhân dân được thúc đẩy cao và không bình thường”
[137, tr. 322]; Douglas Ramit cũng cho rằng: “Việt Nam chiến thắng vì họ mạnh về
chính trị” [27, tr. 71];...
Mặc dù được viết với vị thế, động cơ, quan điểm khác nhau, đôi khi đối lập
với quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam, song các công trình này
có những nhìn nhận khách quan về ĐTCT của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ (1954-1975). Vì vậy, cùng với khối tư liệu phong phú, những nhận định,
đánh giá liên quan đến ĐTCT được thể hiện trong đó giúp tác giả có cơ sở củng cố
thêm các luận điểm của mình.
15
1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về đấu tranh chính trị ở Khánh Hòa
trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975)
Tuệ Giác (1964), Việt Nam Phật giáo đấu tranh sử, NXB Hoa Nghiêm, Sài
Gòn. Ngoài việc phản ánh phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963 nói chung, công
trình còn trình bày phong trào này theo địa bàn từng tỉnh. Đối với Khánh Hòa, tác giả
tường thuật khá cụ thể diễn biến cuộc vận động của Phật giáo năm 1963 từ lúc mở
đầu (7-5-1963) đến khi kết thúc (1-11-1963). Tuệ Giác khẳng định phong trào đấu
tranh của Phật giáo ở Khánh Hòa năm 1963 diễn ra quyết liệt ngay từ đầu nhờ các
yếu tố: “THPG Khánh Hòa có một ban lãnh đạo cương quyết, không thối lui trước
mọi trở ngại và khó khăn; Phật học viện Trung phần Nha Trang ở gần chùa THPG
Khánh Hòa đã cung cấp nhiều ý kiến hay và nhân lực để thúc đẩy đấu tranh; toàn thể
Phật giáo đồ Khánh Hòa đoàn kết chặt chẽ, không sợ sệt, chán nản; được sự hưởng
ứng của toàn dân dù ở tôn giáo nào, thành phần nào” [47, tr. 299].
Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Khánh Hòa (1992), Truyền thống cách mạng của
phụ nữ Khánh Hòa 1930-1975, Cơ sở in chi nhánh NXB CTQG, Nha Trang. Công
trình phản ánh quá trình xây dựng tổ chức, lực lượng và tham gia đấu tranh giải
phóng dân tộc của phụ nữ Khánh Hòa từ năm 1930 đến năm 1975. Về lực lượng
phụ nữ Khánh Hòa trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), công trình khẳng
định: “Phụ nữ Khánh Hòa ở nông thôn cũng như thành thị, không phân biệt tầng
lớp xã hội đã hòa nhau trong cuộc đấu tranh chung. Trong cuộc sống đời thường
thì hiền hòa, đôn hậu nhưng trước sự áp bức, bất công thì quyết liệt chống trả
chẳng sợ gian nguy, tù đày, sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn” [60, tr. 210]. Ở công
trình này, sự tham gia ĐTCT của lực lượng phụ nữ trong phong trào giải phóng
nông thôn đồng bằng cuối năm 1964, đầu năm 1965, trong cuộc Tổng tiến công
và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, nhất là trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Xuân 1975 đã được trình bày khá chi tiết.
Ban Thường vụ Huyện ủy Cam Ranh (1994), Lịch sử Đảng bộ huyện Cam
Ranh 1930-1975, Cơ sở in chi nhánh NXB CTQG, Nha Trang. Bên cạnh phản ánh
sự lãnh đạo toàn diện của Huyện ủy Cam Ranh; tái hiện quá trình đấu tranh giành
chính quyền, tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của quân dân ở địa
phương (1930-1975), công trình phân tích vị trí đặc biệt của Cam Ranh trong
16
chiến lược quân sự của Mỹ ở miền Nam: “Một căn cứ quân sự liên hợp hải - lục -
không quân và khu hậu cần lớn cho cả chiến trường Nam Trung Bộ và Tây
Nguyên” [5, tr. 140]. Ngoài ra, công trình cũng đề cập đến tình hình công nhân và
một số cuộc ĐTCT tiêu biểu của công nhân Cam Ranh thời kỳ 1954-1975.
Ban Thường vụ Huyện ủy Ninh Hòa (1995), Lịch sử Đảng bộ huyện Ninh
Hòa thời kỳ 1954-1975, Cơ sở in chi nhánh NXB CTQG, Nha Trang. Cùng với
phản ánh quá trình lãnh đạo của Huyện ủy Ninh Hòa trên tất cả các mặt; diễn
biến ĐTQS ở Ninh Hòa thời kỳ 1954-1975;... công trình đề cập một số cuộc
ĐTCT nổi bật trên địa bàn huyện Ninh Hòa, nhất là các xã có truyền thống cách
mạng như Ninh Thọ, Ninh An, Ninh Phước, Ninh Diêm,... trong phong trào
chống phá ACL (1961-1963), giải phóng nông thôn đồng bằng (1964-1965),
Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Về vai trò của quần chúng nhân
dân Ninh Hòa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), công
trình khẳng định: “Dù ác liệt, hy sinh nhưng nhân dân vẫn một lòng trung thành
đi theo cách mạng, bất hợp tác với địch, chống địch dồn dân, tiến hành đồng
khởi, xuống đường biểu tình, đấu tranh trước mũi súng địch, đóng góp sức
người, sức của to lớn cho kháng chiến” [6, tr. 502].
Hoành Linh Đỗ Mậu (1991), Tâm sự tướng lưu vong (Việt Nam máu lửa quê
hương tôi), NXB Công an Nhân dân, Hà Nội. Như lời giới thiệu sách viết: Công
trình đã “vạch ra được những sự thật sinh động về các sự kiện, các lực lượng chính
trị, các tôn giáo đảng phái, những bộ mặt chính khách, tướng tá tiêu biểu trong
chính trường miền Nam suốt cả một thời gian dài; lý giải nguyên nhân thất bại (của
Ngô Đình Diệm và Mỹ - TG) tuy chưa đầy đủ nhưng có thể nói là đã gần được sự
thật” [90, tr. 6]. Cũng trong công trình này, tác giả đề cập đến tình hình Khánh Hòa
và mô tả khá chi tiết những biện pháp chính trị do chính Đỗ Mậu trực tiếp chỉ đạo
triển khai tại đây những năm 1954-19564, nhằm “xây dựng cho quần chúng một ý
thức chính trị vững mạnh mà nội dung là chống Cộng và ủng hộ chế độ Cộng hòa,
để biến Khánh Hòa trở thành thành trì cách mạng”, qua đó thể hiện sự “trung
thành triệt để với lãnh tụ Ngô Đình Diệm” [90, tr. 107]. Bên cạnh đó, trong chương
V - “Góp phần xây dựng nền móng chế độ mới”, một số chính sách của CQSG
4. Thời gian này ông là Chủ tịch Phong trào cách mạng quốc gia Phân khu Duyên hải gồm 4 tỉnh:
Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận, đóng trụ sở tại Nha Trang.
17
triển khai tại địa bàn Khánh Hòa như kỳ thị Phật giáo, ưu ái Thiên Chúa giáo, độc
tài và gia đình trị,... cũng được tác giả đề cập [90, tr. 107-110].
Ban Thường vụ Thành ủy Nha Trang (1996), Lịch sử Đảng bộ Nha Trang
1925-1975, Cơ sở in chi nhánh NXB CTQG, Nha Trang. Công trình phản ánh quá
trình vận động thành lập tổ chức Đảng ở Nha Trang và sự lãnh đạo của Đảng bộ
Nha Trang đối với phong trào cách mạng tại địa phương từ năm 1925 đến năm
1975. Liên quan đến ĐTCT thời kỳ 1954-1975, công trình khái quát chính sách,
biện pháp do Mỹ và CQSG triển khai nhằm ngăn chặn, chống phá phong trào cách
mạng của quần chúng, đồng thời xây dựng Nha Trang thành hậu cứ an toàn của đối
phương. Song song với đó, công trình chú ý khai thác đặc điểm “Nha Trang là nơi
quy tụ biết bao người con từ mọi miền Tổ quốc về đây gây cơ sở trong quần chúng,
xây dựng tổ chức Đảng” [7, tr. 231] để trình bày quá trình xây dựng LLCT phục vụ
phong trào đô thị Nha Trang thời kỳ 1954-1975. Ngoài ra, công trình cũng đề cập
đến một số phong trào ĐTCT sôi nổi ở Nha Trang như đấu tranh chống Ngô Đình
Diệm đàn áp Phật giáo năm 1963, chống chính phủ Trần Văn Hương năm 1965,
chống chính quyền quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ năm 1966. Đặc
biệt, công trình thể hiện khá chi tiết các hoạt động của Sao Việt - một tổ chức cách
mạng hoạt động công khai, hợp pháp tại Nha Trang những năm 1971-1975.
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa (2001), Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng
sản Việt Nam tỉnh Khánh Hòa (1930-1975), Cơ sở in chi nhánh NXB CTQG, Nha
Trang. Công trình tái hiện quá trình lãnh đạo toàn diện cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân của Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa từ năm 1930 đến năm 1975. Trong công trình
này, nhiều khía cạnh liên quan đến ĐTCT ở Khánh Hòa thời kỳ 1954-1975 như chính
sách của Mỹ và CQSG, quá trình xây dựng LLCT, sự phối hợp giữa ĐTCT với
ĐTQS,... được đề cập khá chi tiết. Ngoài ra, các phong trào ĐTCT do Đảng trực tiếp
lãnh đạo như đòi thi hành Hiệp định Genève (1954-1956), chống “tố Cộng”
(1955-1958), giải phóng miền núi (1959-1960), chống phá ACL (1961-1963), giải
phóng nông thôn đồng bằng (1964-1965), tham gia Tổng tiến công và nổi dậy Tết
Mậu Thân 1968 và Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 cũng được công trình
thể hiện một cách khái quát.
Hội Nông dân tỉnh Khánh Hòa (2002), Lịch sử phong trào nông dân và Hội
18
Nông dân tỉnh Khánh Hòa 1930-2000, Cơ sở in chi nhánh NXB CTQG, Nha
Trang. Công trình phản ánh quá trình tham gia của nông dân Khánh Hòa - bộ phận
chiếm 80% dân cư toàn tỉnh, trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, giải phóng
dân tộc và xây dựng đất nước từ năm 1930 đến năm 2000. Trong đó, liên quan đến
ĐTCT thời kỳ 1954-1975, công trình tái hiện sơ lược quá trình tham gia của nông
dân Khánh Hòa trong phong trào giải phóng miền núi (1959-1960), chống phá
ACL (1961-1963), giải phóng nông thôn đồng bằng (1964-1965), Tổng tiến công
và nổi dậy năm 1968, năm 1975. Về vai trò của lực lượng nông dân đối với cách
mạng ở Khánh Hòa thời kỳ 1954-1975, công trình khẳng định: “Nông dân là chỗ
dựa quan trọng của cách mạng, nhiều gia đình tiếp tế lương thực cho kháng
chiến, nuôi quân, nuôi cán bộ trong nhà bất chấp sự lùng sục, khủng bố của địch
và trực tiếp đấu tranh với địch khi được Đảng phát động, tổ chức [3, tr. 194].
Hoài Phong (Quyển 1-2008, Quyển 2-2014), Hồi ức một thời, NXB Hội Nhà
văn, Hà Nội. Dù được viết theo thể hồi ký nhưng qua đối chiếu với tư liệu lưu trữ từ
nhiều nguồn cho thấy các sự kiện được tác giả phản ánh trung thực, khách quan. Có
thể nói, cho đến nay, đây là cuốn hồi ký duy nhất viết về phong trào đô thị Nha
Trang những năm 1965-1968. Trong sách, tác giả đề cập khá cụ thể quá trình xây
dựng LLCT và diễn biến một số cuộc ĐTCT tiêu biểu ở thị xã Nha Trang những
năm 1965-1968. Đặc biệt, với tư cách là người trong cuộc, tác giả có những kiến
giải về việc tại sao trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968,
ĐTCT ở Nha Trang không thực sự mạnh mẽ và thiếu sự phối hợp với mũi ĐTQS.
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Khánh Hòa (2015), 80 năm ngành Tuyên giáo
Khánh Hòa (1930-2010), Cơ sở in chi nhánh NXB CTQG, Nha Trang. Công trình
đề cập đến công tác tuyên truyền, giáo dục đảng viên và vận động quần chúng
của ngành Tuyên giáo ở Khánh Hòa từ năm 1930 đến năm 2010. Riêng thời kỳ
1954-1975, ngoài trình bày công tác tuyên giáo nói chung, công trình đề cập đến
công tác tuyên giáo phục vụ ĐTCT, binh vận chống Mỹ và CQSG. Công trình
khẳng định, công tác tuyên giáo ở Khánh Hòa thời kỳ 1954-1975 đã “góp phần
giúp quần chúng nhận thức đầy đủ hơn bản chất xâm lược của Mỹ, bộ mặt tay
sai của CQSG, củng cố quyết tâm đánh Mỹ của quân dân tỉnh nhà và cổ vũ quần
chúng đấu tranh chống Mỹ và CQSG” [13, tr. 405].
19
Ban Thường vụ Huyện ủy Khánh Vĩnh (2015), Lịch sử Đảng bộ huyện
Khánh Vĩnh (1945-1975), Cơ sở in chi nhánh NXB CTQG, Nha Trang. Công trình
phản ánh quá trình Huyện ủy Khánh Vĩnh lãnh đạo quần chúng nhân dân kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ từ năm 1945 đến năm 1975. Trong đó, ở
thời kỳ 1954-1975, công trình đề cập chính sách dồn dân, lập khu tập trung của
CQSG tại vùng miền núi và các cuộc nổi dậy của đồng bào phối hợp với ĐTVT phá
khu tập trung, giải phóng miền núi Khánh Hòa những năm 1959-1960. Ngoài ra,
công trình cũng tái hiện quá trình đồng bào các dân tộc thiểu số tham gia xây dựng
vùng miền núi Khánh Hòa thành “căn cứ địa vững chắc cho cách mạng trong tỉnh
và hậu phương trực tiếp của phong trào đồng bằng; nơi huy động sức người, sức
của phục vụ cho tiền tuyến đánh thắng quân xâm lược” [2, tr. 3].
Lê Cung (Chủ biên) (2016), 60 năm Phật học viện Hải Đức Nha Trang
(1956-2016), NXB Tổng hợp TP HCM. Công trình phản ánh quá trình thành lập,
mục đích, tôn chỉ, cơ cấu tổ chức và hoạt động của Phật học viện Hải Đức Nha Trang
(1956-2016). Công trình cho thấy “hầu hết các đấng thạch trụ của Phật giáo Việt
Nam thời cận hiện đại đều hội tụ về Phật học viện Hải Đức Nha Trang từ trước
phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963” [24, tr. 12]. Đặc biệt, nói về
đóng góp của Phật học viện Hải Đức Nha Trang đối với sự nghiệp độc lập dân tộc,
thống nhất đất nước, công trình đã trình bày khá cụ thể sự tham gia của lãnh đạo và
Học tăng Phật học viện trong phong trào ĐTCT vì mục tiêu tự do tín ngưỡng, bình
đẳng tôn giáo năm 1963; vì dân chủ và hòa bình từ năm 1964 đến năm 1975.
Ban Thường vụ Tỉnh đoàn Khánh Hòa (2017), Lịch sử Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh và phong trào thanh thiếu nhi tỉnh Khánh Hòa 1925-
1975, NXB Thanh Niên, Hà Nội. Công trình khái quát quá trình ra đời, xây dựng
và phát triển của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh từ năm 1925
đến năm 1975. Ở thời kỳ 1954-1975, công trình đề cập sơ lược sự tham gia
ĐTCT của lực lượng đoàn viên, thanh niên trong phong trào đô thị Nha Trang
chống chế độ Ngô Đình Diệm năm 1963, chống chính phủ Trần Văn Hương năm
1965, chống Mỹ và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ năm 1966.
Ngoài các công trình nêu trên, ĐTCT ở Khánh Hòa thời kỳ 1954-1975 cũng
được nghiên cứu, đề cập qua một số bài báo, kỷ yếu hội thảo khoa học sau đây:
20
Chu Đình Lộc (2009), “Bàn thêm về một số cuộc đồng khởi ở cực Nam Trung
Bộ 1959-1960”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 8. Bài viết phản ánh diễn biến
phong trào đồng khởi giải phóng miền núi ở các tỉnh cực Nam Trung Bộ5, trong đó
có đề cập đến ĐTCT của nhân dân 2 huyện Khánh Vĩnh và Khánh Sơn (Khánh
Hòa) trong những năm 1959-1960. Tác giả nhận định: “Phong trào đồng khởi ở cực
Nam Trung Bộ thể hiện tinh thần chủ động, sáng tạo của các cấp ủy địa phương,
góp phần làm sáng tỏ phương châm ĐTVT hỗ trợ ĐTCT; đồng thời, phản ánh nhu
cầu của nhân dân về con đường đấu tranh giải phóng dân tộc” [76].
Chu Đình Lộc (2014), “Đấu tranh chính trị đòi thi hành Hiệp định Genève ở các
tỉnh cực Nam Trung Bộ 1954-1955”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 7. Bài viết trình bày diễn
biến, kết quả một số cuộc ĐTCT tiêu biểu ở Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận đòi
thi hành Hiệp định Genève những năm 1954-1955. Đánh giá về ĐTCT đòi thi hành Hiệp
định Genève ở các tỉnh cực Nam Trung Bộ 1954-1955, tác giả khẳng định: “Qua gần
hai năm, đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Genève ở các tỉnh cực Nam Trung Bộ, phong
trào đã thu hút đông đảo nhân dân tham gia, nâng cao khí thế yêu nước trong nhân dân,
làm cho ngụy quyền cơ sở nhiều nơi hoang mang, dao động” [77].
Sở Giáo dục Đào tạo Khánh Hòa (2015), “Lịch sử giáo dục cách mạng ở
Khánh Hòa giai đoạn 1945-1975”, Kỷ yếu hội thảo khoa học. Kỷ yếu có một số
chuyên đề như “Đảng bộ Khánh Hòa trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975)”,
“Quá trình thực hiện những nguyên lý giáo dục cách mạng ở Khánh Hòa trong thời
kỳ chiến tranh (1954-1975)”, “Vai trò, tác dụng của giáo dục cách mạng ở Khánh
Hòa trong 30 năm chiến tranh”, “Phong trào học sinh - sinh viên vùng tạm chiếm ở
Khánh Hòa giai đoạn 1954-1975”,... Qua các chuyên đề này, vai trò của giáo dục
cách mạng Khánh Hòa trong việc giáo dục học sinh, sinh viên đấu tranh chống Mỹ
đã được trình bày. Trong số đó, chuyên đề “Phong trào học sinh - sinh viên vùng
tạm chiếm ở Khánh Hòa giai đoạn 1954-1975” đã cung cấp cái nhìn tổng quan về
phong trào học sinh, sinh viên ở Khánh Hòa chống Mỹ, nhất là chống văn hóa thực
dân của Mỹ, rằng “phong trào diễn ra sôi nổi, liên tục với nhiều loại hình phong
phú, từ thấp đến cao, từ các hoạt động văn hóa đến ĐTCT, đã hạn chế phần nào tác
hại của giáo dục thực dân mới” [138, tr. 166].
5. Gồm các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận.
21
Lê Cung, Nguyễn Trung Triều (2016), “Phật học viện Hải Đức Nha Trang với
cuộc vận động của Phật giáo miền Nam năm 1963”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo,
số 07&08 (157). Bằng nguồn tư liệu phong phú và những kiến giải có tính thuyết
phục, bài viết đã làm rõ vị trí cũng như đóng góp của Phật học viện Hải Đức Nha
Trang đối với phong trào đấu tranh đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo ở
Khánh Hòa năm 1963. Bài viết kết luận: “Trong cuộc vận động đòi tự do tín
ngưỡng, bình đẳng tôn giáo năm 1963, chư tôn đức, Học tăng Phật học viện Hải
Đức Nha Trang đã có những đóng góp xứng đáng trong sự nghiệp phụng sự dân tộc
và Đạo pháp” [25].
Nhìn chung, trong nhóm công trình nghiên cứu về ĐTCT ở Khánh Hòa thời
kỳ 1954-1975, chiếm số lượng nhiều nhất là các công trình lịch sử Đảng và lịch sử
các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương. Tuy nhiên, do giới hạn nghiên cứu,
những công trình này chủ yếu trình bày các phong trào ĐTCT do Đảng trực tiếp
lãnh đạo, điểm một số sự kiện ĐTCT nổi bật hoặc chỉ đề cập đến ĐTCT của từng
lực lượng riêng rẽ (nông dân, phụ nữ, đoàn viên, thanh niên). Ngoài ra, hạn chế
chung của các công trình này là ít sử dụng nguồn tư liệu của đối phương để tham
khảo và đối chứng. Trong khi các công trình còn lại, xuất phát từ mục tiêu và phạm
vi nghiên cứu, chỉ trình bày từng mảng vấn đề cụ thể, không đi sâu nghiên cứu toàn
diện ĐTCT ở Khánh Hòa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).
1.2. Những vấn đề luận án kế thừa
Nhìn một cách tổng thể, các công trình nghiên cứu liên quan đã giải quyết
được những nội dung cơ bản sau và những nội dung này được tác giả kế thừa trong
luận án, cụ thể:
Một là, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến ĐTCT như quan
điểm, tổ chức, lực lượng, hình thức, vai trò, nghệ thuật, mối quan hệ với ĐTQS,...
Điều này giúp tác giả có cơ sở để nhìn nhận đầy đủ hơn về ĐTCT ở Khánh Hòa
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).
Hai là, đi sâu nghiên cứu diễn biến, tính chất, đặc điểm, vai trò, bài học kinh
nghiệm của ĐTCT tại các đô thị lớn ở miền Nam như Huế, Sài Gòn, Đà Nẵng, Đà
Lạt,... Nhờ vậy, tác giả luận án có tư liệu tham khảo để từ đó đặt ĐTCT ở Khánh
Hòa trong cái nhìn toàn cục của ĐTCT ở miền Nam.
22
Ba là, trình bày một số vấn đề liên quan đến điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã
hội, truyền thống yêu nước và cách mạng, cùng với đó, khái quát chính sách của
Mỹ và CQSG ở Khánh Hòa. Đây là cơ sở quan trọng góp phần giúp tác giả luận
giải các đặc điểm và ý nghĩa của ĐTCT ở Khánh Hòa trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ (1954-1975).
Bốn là, điểm một số phong trào ĐTCT nổi bật của nhân dân Khánh Hòa
chống Mỹ và CQSG từ năm 1954 đến năm 1975 như đòi thi hành Hiệp định Genève
những năm 1954-1956, đồng khởi ở vùng rừng núi những năm 1959-1960, đòi tự do
tín ngưỡng và bình đẳng tôn giáo năm 1963, đồng khởi ở vùng nông thôn đồng
bằng những năm 1964-1965, đòi Quốc hội lập hiến năm 1966, tham gia Tổng tiến
công và nổi dậy năm 1968 và năm 1975; đồng thời, bước đầu có những đánh giá về
các phong trào đó. Nguồn tư liệu về diễn biến đấu tranh cũng như những nhận định,
đánh giá này được tác giả kế thừa để bổ sung thêm chất liệu lịch sử và củng cố cho
những nhận định riêng trong luận án.
1.3. Những vấn đề luận án cần tập trung nghiên cứu
Trên cơ sở kế thừa thành quả của các công trình nghiên cứu có liên quan, để
giải quyết một cách toàn diện vấn đề ĐTCT ở Khánh Hòa trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ (1954-1975), luận án tập trung làm rõ những nội dung cơ bản sau:
Một là, làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến ĐTCT ở Khánh Hòa trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) như điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã
hội; truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Khánh Hòa trước năm
1954; đặc biệt là bản chất thực dân mới của các chính sách, biện pháp về chính trị -
quân sự, kinh tế - xã hội, văn hóa - giáo dục do Mỹ và CQSG triển khai tại Khánh
Hòa, trên cơ sở đó, làm rõ nguyên nhân chủ yếu bùng phát các phong trào ĐTCT ở
Khánh Hòa thời kỳ 1954-1975.
Hai là, làm rõ đường lối, chủ trương chỉ đạo ĐTCT của Trung ương Đảng,
Liên Khu ủy V, nhất là của Tỉnh ủy Khánh Hòa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
(1954-1975). Việc phân tích, làm rõ đường lối, chủ trương của Đảng phải bám sát
âm mưu, hành động của đối phương, đồng thời đối chiếu với kết quả của ĐTCT, để
từ đó thấy được sự nhạy bén trong chỉ đạo phong trào ĐTCT của Đảng.
Ba là, tái hiện diễn biến ĐTCT ở Khánh Hòa từ năm 1954 đến năm 1975.
23
Việc tái hiện diễn biến các phong trào ĐTCT được dựa trên nhiều nguồn tư liệu
khác nhau, nhất là tư liệu lưu trữ của cả chính quyền cách mạng và CQSG, đảm bảo
tính khách quan, toàn diện.
Bốn là, làm rõ tính chất, đặc điểm và ý nghĩa lịch sử của ĐTCT ở Khánh Hòa
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975). Các tính chất, đặc điểm,
ý nghĩa lịch sử trong đó bao hàm cả bài học kinh nghiệm được chứng minh bằng
chất liệu lịch sử từ phong trào ĐTCT của quần chúng nhân dân địa phương.
24
Chương 2
ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ Ở KHÁNH HÒA
TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1965
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, truyền thống yêu nước và
cách mạng của nhân dân Khánh Hòa trước năm 1954
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Khánh Hòa là tỉnh thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ, diện tích 5.197km2
kể cả hải đảo, phần đất liền kéo dài từ 11°42’50" đến 12°52’15" vĩ độ Bắc và từ
108°40’33" đến 109°27’55" kinh độ Đông, cách Hà Nội 1.280km về phía Bắc,
cách thành phố Hồ Chí Minh 443km về phía Nam, phía Ðông giáp Biển Ðông, phía
Tây giáp Ðắk Lắk, phía Bắc giáp Phú Yên, phía Nam giáp Ninh Thuận.
Địa hình Khánh Hòa khá đa dạng, có cả rừng núi, đồng bằng và biển đảo.
Vùng rừng núi chiếm đến 70% diện tích. Vùng đồng bằng nhỏ, khoảng 400km2, bị
chia cắt bởi các dãy núi; hai đồng bằng lớn nhất là đồng bằng Nha Trang - Diên
Khánh (diện tích 135km2) và đồng bằng Ninh Hòa (diện tích 100km2). Biển Khánh
Hòa rộng gấp nhiều lần đất liền với gần 200 đảo lớn nhỏ gần bờ và quần đảo
Trường Sa6 cách bờ khoảng 243 hải lý; bờ biển dài 385km với nhiều vịnh, trong đó
vịnh Cam Ranh được bao bọc, che chắn bởi hệ thống núi, đảo, rất gần đường hàng
hải quốc tế, thông với Biển Đông qua eo biển rộng 1,6km, giữ vị trí quan trọng về
địa chiến lược và được coi là vịnh tốt nhất Đông Nam Á.
Sông ngòi ở Khánh Hòa mật độ khá dày, toàn tỉnh có khoảng 40 con sông độ
dài trung bình từ 10km trở lên. Sông Cái Nha Trang là con sông dài nhất tỉnh
(79km), đoạn cuối chia thành 2 nhánh bao quanh cồn Ngọc Thảo chia cắt Nha
Trang thành hai khu vực trước khi đổ ra biển.
Khí hậu ở Khánh Hòa rất ôn hòa với 2 mùa mưa nắng rõ rệt và gần như không
có bão. Mùa mưa ngắn, từ giữa tháng 9 đến giữa tháng 12, nhiệt độ trung bình hằng
năm khoảng 26oC. So với một số vùng miền trong nước, “Khánh Hòa mưa nắng rất
điều độ. Mùa nắng không có nắng sém da như ở Quy Nhơn, Phan Rang; mùa mưa
6. Quần đảo Trường Sa giai đoạn 1956-1973 thuộc tỉnh Phước Tuy (nay là tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu); những năm 1973-1975 thuộc tỉnh Bình Tuy (nay là tỉnh Bình Thuận).
25
không lạnh cắt ruột như ở Huế, ở Cao Nguyên. Trong mưa có khí ấm, trong nắng
có khí mát” [139, tr. 135].
Giao thông của Khánh Hòa thuận tiện: Đường sắt Bắc - Nam, Quốc lộ 1
xuyên suốt chiều dài tỉnh, Quốc lộ 217 nối liền với Tây Nguyên, các cảng biển (Cầu
Đá, Cam Ranh, Ba Ngòi), sân bay (Nha Trang, Cam Ranh) cho phép lưu thông cả
về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường không với các địa phương khác.
Tài nguyên thiên nhiên ở Khánh Hòa đa dạng, phong phú, nhất là tài nguyên
biển với nhiều loại hải sản quý hiếm không chỉ đáp ứng nhu cầu tại chỗ mà còn có
thể xuất đi các địa phương khác. Yến sào là mặt hàng được mệnh danh là “vàng
trắng” của Khánh Hòa, dưới thời VNCH, mỗi năm thu hoạch trung bình 600kg
[307, tr. 61]. Cát trắng ở Khánh Hòa ít tạp chất, có hàm lượng silicate cao, là nguồn
nguyên liệu quý để sản xuất thủy tinh cao cấp, từ năm 1935 đã được người Pháp
khai thác xuất khẩu sang Nhật Bản. Đặc biệt, Khánh Hòa còn được gọi là “Xứ Trầm
hương” - một loại hương liệu, dược liệu có giá trị kinh tế cao.
Nhìn tổng quát, Khánh Hòa với những lợi thế về điều kiện tự nhiên “xứng đáng
được liệt vào hàng những tỉnh quan trọng bậc nhất tại Trung Nguyên Trung Phần”8
[308, tr. 36], là địa bàn chiến lược đối với cả cách mạng và CQSG. Điều kiện tự
nhiên của Khánh Hòa có tác động hai mặt đến ĐTCT: Một mặt, vị trí địa lý thuận tiện
cho việc nắm bắt thông tin, tiếp nhận ảnh hưởng, phối hợp với các địa phương khác
để đấu tranh; địa hình thuận lợi trong việc thiết lập các căn cứ chỉ đạo phong trào,
ngay cả vùng đô thị; nông thôn đồng bằng sát nách đô thị thuận lợi trong việc hỗ trợ
đấu tranh, phát huy ảnh hưởng của ĐTCT. Nhưng ở mặt khác, vùng đô thị nhỏ gần
như được bao bọc bởi núi và biển; vùng nông thôn đồng bằng hẹp nằm sát quốc lộ,
lại bị chia cắt nên đối phương dễ kiểm soát, ngăn chặn và cô lập các cuộc đấu tranh.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Thời kỳ 1954-1975, dân số Khánh Hòa khá đông, số lượng cụ thể qua các
thời điểm như sau: Năm 1955 - 203.948 người, năm 1960 - 270.000 người, năm
1968 - 367.975 người, năm 1973 - 623.900 người, năm 1975 - 630.948 người.
Dân số tuy đông nhưng phân bố không đều giữa miền núi và đồng bằng, giữa
7. Nay là Quốc lộ 26. 8. Dưới thời Việt Nam Cộng hòa, Trung Nguyên Trung Phần gồm các tỉnh duyên hải miền Trung,
từ Quảng Trị đến Bình Thuận.
26
nông thôn và đô thị. Vùng miền núi rộng lớn nhưng dân cư thưa thớt, ngược lại,
vùng đồng bằng hẹp lại khá đông đúc [306, tr. 12], [308, tr. 14].
Ở Khánh Hòa, người Kinh chiếm đa số, sống chủ yếu tại đồng bằng, các dân
tộc thiểu số như Raglai, Êđê, T’ring, K’ho, Nùng, Chăm,... sống tập trung ở vùng
núi và giáp ranh. Thời điểm năm 1969, đồng bào thiểu số chiếm khoảng 5,5% dân
số toàn tỉnh [308, tr. 15].
Dân cư Khánh Hòa khá đa dạng, phức tạp về thành phần. Ngoài những người
định cư lâu năm còn có một bộ phận từ miền Bắc di cư vào sau Hiệp định Genève
(1954); một bộ phận vì nhiều lý do khác nhau đến từ các tỉnh Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Bình Định, Phú Yên...; cùng với đó, một lực lượng đông đảo quân đội Sài Gòn,
quân đội Mỹ và Đồng minh đồn trú đã làm cho Khánh Hòa, nhất là thị xã Nha Trang,
Cam Ranh “dân chúng rất phức tạp về thành phần (quân nhân, dân sự, ngoại kiều,
công chức, tư chức) và luôn cả về nguồn gốc (Nam, Trung, Bắc)” [242, tr. 3]. Sự
phức tạp về thành phần dân cư dẫn đến phức tạp về thái độ chính trị. Do đó, vấn đề
đánh giá khả năng cách mạng, tuyên truyền lôi kéo các thành phần xã hội tham gia
ĐTCT chống Mỹ và CQSG gặp không ít khó khăn. Tuy nhiên, sự đa dạng về thành
phần dân cư cũng có mặt thuận lợi. Chẳng hạn, một số cơ sở cách mạng được hình
thành ngay trong “dân Bắc 1954” - bộ phận vốn được CQSG coi là có “tinh thần
Quốc gia”, trung thành với chế độ9; hay dưới vỏ bọc “hội đồng hương”, “hội tương
tế”, một số cơ sở cách mạng cũng được hình thành trong đồng bào gốc Quảng Ngãi,
Bình Định, Phú Yên,... Điều này được một số nhân chứng khẳng định: “Ở Nha
Trang, có khu vực toàn dân Hòa Hiệp (Phú Yên), có xóm toàn người làng Vinh
Quang (Bình Định), có xóm toàn người Đức Phổ (Quảng Ngãi). Nói chung, dân ở
đây rất tốt, phần đông có con em tham gia cách mạng” [117, tr. 41].
Khánh Hòa thời kỳ 1945-1954 là tỉnh bị thực dân Pháp tạm chiếm, thời kỳ
1954-1975 là hậu cứ của Mỹ và CQSG, nhân dân sống lâu trong vùng bị đối
phương kiểm soát; mặt khác, chính sách thực dân mới làm cho “đặc điểm của đồng
bào tỉnh ta (chỉ Khánh Hòa - TG) là đại bộ phận đều có con em đi lính hoặc làm
việc cho địch. Phần đông họ là dân lao động, tâm tư tình cảm nhiều gia đình binh sĩ
9. Như Lê Quang Phú - Chủ tịch Lực lượng nhân dân tranh thủ cách mạng Khánh Hòa (1966),
Nguyễn Ngọc Lương - cơ sở cách mạng, trong nhà của ông ở Nha Trang có hầm bí mật để nuôi
giấu cán bộ, cả hai đều là dân miền Bắc di cư [315].
27
day dứt, cực nhục, vừa lo sợ con em gây tội ác, vừa sợ chồng con chết, sợ gian
khổ” [224, tr. 4]. Đây là đặc điểm ít nhiều có ảnh hưởng tiêu cực đến phong trào
cách mạng, trong đó có ĐTCT, bởi vì “ở một xã hội như vậy, đấu tranh giữa cái
sướng và cái khổ, cái tốt và cái xấu, giữa địch và ta làm cho sự đoàn kết ở nông
thôn bị sứt mẻ nghiêm trọng. Sự ngờ vực, thiếu tin nhau tác động đến tư tưởng, khả
năng cách mạng của quần chúng rất nhiều” [223, tr. 5].
Nhân dân Khánh Hòa đa số chuyên về nghề nông (khoảng 80%). Những
người ở ven biển hay cạnh đầm, vịnh sống bằng nghề đánh cá. Một số người định
cư tại thị xã, thị trấn như Nha Trang, Cam Ranh, Diên Khánh, Ninh Hòa, Vạn Giã
sống bằng dịch vụ, buôn bán. Người dân tộc thiểu số ở vùng núi sống bằng nghề
làm rẫy, làm rừng hoặc săn bắn.
Dưới thời VNCH, nhất là những năm 1954-1964, nông nghiệp ở Khánh Hòa
được quan tâm đầu tư, cải cách điền địa được đẩy mạnh; mặt khác, việc sử dụng
phân bón, giống mới, ứng dụng máy móc,... làm tăng năng suất lao động, cải thiện
đời sống dân cư nông thôn. Đối với dân cư thành thị, phần vì ít thiệt hại do chiến
tranh, phần khác các dự án viện trợ của Mỹ làm cho mức sống được nâng lên, nhiều
người sắm được radio, truyền hình, tủ lạnh và cả xe hơi. Tất cả những điều này làm
cho “một bộ phận quần chúng lầm mưu địch, ảo tưởng, thiếu tin tưởng ở cách
mạng” [7, tr. 247]. Do đó, ở Khánh Hòa, việc tuyên truyền để nhân dân thấy được
bản chất xâm lược, bộ mặt thật của Mỹ và CQSG, sự phồn vinh giả tạo của xã hội,
qua đó thúc đẩy ĐTCT là việc làm không hề dễ.
Phật giáo có số lượng tín đồ đông nhất (chiếm gần 80% dân cư) và ảnh hưởng
lớn trong đời sống tín ngưỡng của nhân dân Khánh Hòa, đến thời điểm năm 1969 có
khoảng 300.000 tín đồ [308, tr. 15]. Năm 1956, Phật học viện Trung Phần Nha
Trang10 được thành lập11 và đã đào tạo hàng trăm vị giảng sư, hiệu trưởng trung
học, trú trì,... đi hoằng pháp khắp các tỉnh miền Nam, trong đó “nhiều người biết xả
thân thể để giáo hóa chúng sanh, biết dùng tấm hình hài làm công cụ để đạt đến
quả Phật” [139, tr. 389]. Thời kỳ 1954-1975, Phật học viện Trung Phần Nha Trang
10. Sau năm 1975, danh xưng là Phật học viện Hải Đức Nha Trang. 11. Ban lãnh đạo gồm Viện trưởng: Hoà thượng Thích Giác Nhiên; Phó Viện trưởng: Thượng toạ
Thích Trí Quang; Giám viện: Thượng toạ Thích Trí Thủ; Giáo thọ trưởng: Thượng toạ Thích Thiện
Siêu; Tổng Thư ký: Thượng toạ Thích Huyền Quang. Đây là những “đấng thạch trụ của Phật giáo
Việt Nam thời cận hiện đại” [24, tr. 12].
28
là một trong những nơi khởi phát, lãnh đạo và che chở cho phong trào ĐTCT của
quần chúng. Thêm vào đó, Phật học viện Trung Phần Nha Trang sát cạnh chùa
Long Sơn - trụ sở THPG Khánh Hòa, nên “đã cung cấp cho nhiều ý kiến hay nhân
lực để thúc đẩy sự tranh đấu” [47, tr. 299]. Nói chung, trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ (1954-1975), Phật giáo ở Khánh Hòa là lực lượng quan trọng đảm nhận
vai trò “ngọn cờ tập hợp quần chúng” tham gia ĐTCT.
Ở Khánh Hòa, các trường trung học công lập có số lượng học sinh khá đông
và tập trung tại thị xã Nha Trang, trung tâm quận lỵ nên việc nắm thông tin, tạo mối
liên kết trong đội ngũ học sinh có phần thuận lợi; đồng thời, có liên hệ với học sinh,
sinh viên ở Sài Gòn, Đà Lạt, Huế [138, tr. 158]. Bên cạnh đó, hệ thống trường Bồ
Đề của Phật giáo12, trường của Thiên Chúa giáo13 cũng thu hút đông đảo học sinh
theo học. Trong những năm 1954-1970, tuy chưa có trường đại học nhưng ở Khánh
Hòa vẫn có một bộ phận sinh viên là con em địa phương học tại Học viện Quốc gia
Hành chánh, Viện Đại học Sài Gòn, Viện Đại học Huế và một số sinh viên của các
cơ sở giáo dục này tới Khánh Hòa thực tập hoặc để tổ chức đấu tranh14. Đến năm
1971, Viện Đại học Cộng đồng Duyên hải được thành lập tại Nha Trang, quy tụ khá
nhiều sinh viên từ các tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận. Học sinh, sinh viên
là lực lượng quan trọng “châm ngòi” trong các cuộc ĐTCT ở Khánh Hòa thời kỳ
1954-1975.
Công nghiệp ở Khánh Hòa thời kỳ 1954-1975 kém phát triển, đa phần là cơ sở
sản xuất truyền thống, quy mô nhỏ như lò gạch, lò đường, nhà máy nước đá, đóng
ghe thuyền,... trong khi đồn điền không nhiều (chỉ có 3 đồn điền trồng cây cao su,
diện tích 650ha), số lượng công nhân trực tiếp sản xuất tại các nhà máy, xí nghiệp,
đồn điền vừa ít ỏi lại vừa phân tán nên điều kiện tham gia ĐTCT hạn chế. Riêng
công nhân tại các cảng Cầu Đá, Chụt, Ba Ngòi, Cam Ranh và một số hãng thầu của
Mỹ như RMK, USARMY, PACIFIC ở Bình Tân (Vĩnh Xương), Mỹ Ca (Cam
Ranh) tương đối tập trung, nhờ vậy khả năng tham gia ĐTCT cao hơn.
12. Tại miền Nam, Khánh Hòa đứng thứ hai về số lượng trường Bồ Đề - 6 trường, sau Bình Định - 7
trường [121]. 13. Như các trường trung học Kim Yến, Bá Ninh, Đăng Khoa,... 14. Trường hợp Nguyễn Đắc Xuân là một dẫn chứng. Năm 1964, khi đang là sinh viên Đại học Sư
phạm Huế, Nguyễn Đắc Xuân đã được bác sĩ Lê Khắc Quyến - Chủ tịch Hội đồng Nhân dân cứu
quốc, cử vào Nha Trang để thành lập Hội đồng Nhân dân cứu quốc tại đây [317].
29
Về tổ chức hành chính, dưới CQSG, tổ chức hành chính của Khánh Hòa có
một số thay đổi chủ yếu sau: Tháng 1-1958, thị xã Nha Trang được chia thành 2 xã
là Nha Trang Đông và Nha Trang Tây thuộc quận Vĩnh Xương; tháng 5-1959, hai
tổng Krang Ying và Krang Hinh của tỉnh Đắk Lắk lập thành quận Khánh Dương
được sáp nhập vào Khánh Hòa; tháng 4-1960, 12 thôn vùng miền núi quận Cam
Lâm được tách khỏi tỉnh Khánh Hòa nhập vào quận Du Long của tỉnh Ninh Thuận;
tháng 10-1965, tách một phần đất phía Nam của Cam Lâm thành lập thị xã Cam
Ranh hưởng quy chế thị xã trực thuộc trung ương; tháng 12-1968, phần đất trước
đây nhập vào quận Du Long của Ninh Thuận được cắt trở lại thuộc thị xã Cam
Ranh; cuối năm 1970, CQSG tái lập thị xã Nha Trang. Đến trước ngày giải phóng
(1975), tỉnh Khánh Hòa có 6 quận: Vạn Ninh, Ninh Hòa, Vĩnh Xương, Diên Khánh,
Cam Lâm, Khánh Dương và thị xã Nha Trang, với 59 xã, 251 ấp.
Đối với chính quyền cách mạng, để phù hợp với yêu cầu chỉ đạo kháng chiến,
trong thời kỳ 1954-1975, ở Khánh Hoà các đơn vị hành chính có những điều chỉnh
như: Tháng 3-1960, hai huyện Khánh Sơn và Khánh Vĩnh sáp nhập với Bác Ái
(Ninh Thuận) thành Khu Ái - Vĩnh - Sơn; tháng 8-1961, Khu Ái - Vĩnh - Sơn giải
thể, các huyện Khánh Sơn, Khánh Vĩnh trở lại trực thuộc tỉnh Khánh Hòa. Cũng
trong năm 1961, huyện Khánh Vĩnh tách thành 2 huyện: Vĩnh Khánh và Vĩnh Sơn;
tháng 10-1961, huyện Ninh Hòa được tách thành 2 huyện: Nam Ninh Hòa và Bắc
Ninh Hòa; tháng 8-1968, hợp nhất thị xã Nha Trang với huyện Vĩnh Xương thành
huyện Vĩnh Trang. Như vậy, đến năm 1968, Khánh Hòa gồm các đơn vị cấp huyện:
Vạn Ninh, Bắc Ninh Hòa, Nam Ninh Hòa, Vĩnh Trang, Diên Khánh, Cam Ranh,
Vĩnh Khánh, Vĩnh Sơn và Khánh Sơn. Tổ chức địa lý hành chính như thế được duy
trì đến ngày giải phóng (1975).
Tóm lại, Khánh Hòa là tỉnh có điều kiện kinh tế - xã hội khá đặc thù. Những
điều kiện đó ảnh hưởng theo những chiều hướng khác nhau và ở những mức độ
khác nhau đối với ĐTCT trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1975).
2.1.3. Truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Khánh Hòa trước 1954
Sau khi “Vụ biến kinh thành Huế” (đêm mồng 4, rạng mồng 5-7-1885) thất
bại, vua Hàm Nghi xuất bôn và ban Dụ Cần Vương kêu gọi nhân dân đứng lên
đánh Pháp. Tại Khánh Hòa, hưởng ứng Dụ Cần Vương, các sĩ phu yêu nước như
30
Trịnh Phong, Trần Đường, Nguyễn Khanh, Nguyễn Lương, Lê Nghị, Nguyễn
Dị,... thành lập Bình Tây cứu quốc đoàn tiến hành kháng chiến, gây cho Pháp
nhiều thiệt hại. Đến giữa năm 1886, thực dân Pháp tăng viện, vừa tổ chức càn quét
căn cứ vừa khủng bố gia đình, quê hương các thủ lĩnh phong trào; Trần Đường,
Nguyễn Khanh, Trịnh Phong lần lượt hy sinh, các thủ lĩnh khác và nhiều nghĩa
quân bị an trí tại nhà tù Cam Ranh. Phong trào Bình Tây cứu quốc đoàn ở Khánh
Hòa bị dập tắt song tấm gương anh dũng, bất khuất của các lãnh tụ mãi mãi được
nhân dân kính trọng và tự hào [1, tr. 31].
Khánh Hòa là nơi dừng chân và hoạt động của các chí sĩ yêu nước khởi xướng
phong trào Duy Tân như Trần Quý Cáp, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng. Năm
1908, nhận thấy Trần Quý Cáp lúc này đang làm Giáo thụ ở huyện Tân Định15, có vai
trò quan trọng trong phong trào chống thuế ở Trung Kỳ, thực dân Pháp đã xử chém ông
vào ngày 15-6-1908. Sự hy sinh của Trần Quý Cáp đã gieo vào lòng người dân Khánh
Hòa hình ảnh một con người chí khí anh hùng, tinh thần yêu nước bất khuất.
Tiếp nhận luồng tư tưởng mới từ lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, trong những năm
1925-1926, Ngô Đức Diễn (quê Nghệ An) và Hà Huy Tập (quê Hà Tĩnh) vào dạy
học tại Khánh Hòa đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, giác ngộ học sinh,
giáo chức về công cuộc chống Pháp. Những hoạt động của Ngô Đức Diễn và Hà
Huy Tập đã đặt cơ sở cho sự ra đời của tổ chức Tân Việt cách mạng đảng tại đây,
sau này trở thành một bộ phận của Đông Dương Cộng sản liên đoàn (1-1930). Ngày
3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập. Đến ngày 24-2-1930, Đông Dương
Cộng sản liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là mốc đánh dấu sự ra
đời của Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa.
Ngay sau khi thành lập, hưởng ứng phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, tháng
7-1930, Tỉnh ủy lâm thời Khánh Hòa tổ chức biểu tình ở huyện Tân Định. Cuộc
biểu tình bắt đầu từ 5 giờ ngày 16-7 với sự tham gia của khoảng 1.000 công
nhân, ngư dân, nông dân,... Từ xã Ninh Đa đoàn biểu tình thẳng tiến đến huyện
lỵ Tân Định, hô khẩu hiệu: “Đả đảo đế quốc Pháp và Nam triều phong kiến”,
“Chống khủng bố trắng”, “Ủng hộ phong trào công - nông Nghệ Tĩnh”, “Chống
sưu cao thuế nặng”. Đến 14 giờ cùng ngày, quân Pháp mở cuộc khủng bố, bắt nhiều
15. Nay là thị xã Ninh Hòa.
31
đảng viên cộng sản và quần chúng đưa về nhà lao Nha Trang giam giữ, tra tấn. Cuộc
biểu tình ngày 16-7-1930 có thể coi là cuộc đấu tranh tiêu biểu do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo ở cực Nam Trung Bộ trong phong trào 1930-1931 [1, tr. 64].
Từ năm 1932 đến năm 1945, Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa từng bước khôi
phục phong trào cách mạng, tích cực đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ và chuẩn bị
LLCT, LLVT cho tổng khởi nghĩa. Ngày 13-8-1945, thực hiện chủ trương của
Trung ương Đảng, Tỉnh ủy Khánh Hòa đã phát động nhân dân giành chính quyền.
Ngày 19-8-1945, cùng thời điểm giành chính quyền ở Hà Nội, tại sân vận động thị
xã Nha Trang, trước cuộc mít tinh của đông đảo quần chúng, Ủy ban Nhân dân cách
mạng lâm thời tỉnh Khánh Hòa ra mắt đồng bào, công bố 10 chính sách lớn của Mặt
trận Việt Minh16 và kêu gọi nhân dân đoàn kết, đấu tranh giữ vững chính quyền
cách mạng. Đến ngày 22-8-1945, tất cả huyện, thị của tỉnh Khánh Hòa khởi nghĩa
thắng lợi.
Đúng một tháng sau khi tái chiếm Nam Bộ (23-9-1945), ngày 23-10-1945,
quân Pháp triển khai tái chiếm Khánh Hòa. Cuộc xâm lược lần thứ hai của thực dân
Pháp lập tức bị quân dân Khánh Hòa chống trả quyết liệt. Ngay trong đêm 23-10-
1945, quân dân Khánh Hòa nổ súng tấn công và bao vây quân Pháp, mở đầu Mặt
trận Nha Trang - Khánh Hòa kéo dài 101 ngày đêm (từ ngày 23-10-1945 đến ngày
2-2-1946), đồng thời cũng mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp trở lại xâm lược ở
khu vực cực Nam Trung Bộ. Ngày 27-1-1946, khi thị sát chiến trường Khánh Hòa,
Võ Nguyên Giáp đánh giá: “Với biết bao khó khăn của ngày đầu kháng chiến, quân
và dân Nha Trang - Khánh Hòa đã trụ bám vững chãi một thời gian dài trên tuyến
lửa, tiêu diệt và tiêu hao giữ chân quân Pháp, thật sự làm thất bại một bước âm
mưu đánh nhanh thắng nhanh của địch” [11, tr. 22].
Trong những năm 1946-1952, Khánh Hòa đẩy mạnh chiến tranh du kích,
thực hiện nhiệm vụ phá hoại tiềm lực, nhất là cơ sở hạ tầng và kìm chân, tiêu hao,
tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch. Đến giai đoạn cuối chiến cuộc Đông Xuân
1953-1954, quân và dân Khánh Hòa đã giải phóng hầu hết vùng nông thôn phía
Nam các huyện Vạn Ninh, Ninh Hòa; đồng thời, một số cuộc đấu tranh của quần
chúng nổ ra ở Nha Trang, Diên Khánh chống thực dân Pháp bắt lính, ủng hộ Hội
16. Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) ra đời ngày 19-5-1941.
32
nghị Genève, phản đối Mỹ can thiệp vào Đông Dương. Những thắng lợi của quân
dân Khánh Hòa góp phần quan trọng bảo vệ vùng tự do Nam - Ngãi - Bình -
Phú17, cùng với cả nước làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, buộc thực dân Pháp
ký Hiệp định Genève (21-7-1954), chấm dứt chiến tranh, công nhận độc lập, chủ
quyền của Việt Nam [1, tr. 95].
Tóm lại, trước năm 1954, Khánh Hòa là địa phương sớm có những hoạt động
đấu tranh chống sự xâm lược của thực dân Pháp. Về phương diện chính trị, nhân
dân Khánh Hòa đã có những cuộc biểu dương lực lượng khá nổi bật, góp phần quan
trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến. Đây là truyền thống yêu nước, cách mạng
quý báu để Đảng bộ, nhân dân Khánh Hòa tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ
(1954-1975) đầy cam go và thử thách, trong đó ĐTCT là mũi tiến công đối phương
hết sức nhạy bén, hiệu quả.
2.2. Chính sách của Mỹ, chính quyền Sài Gòn ở Khánh Hòa và chủ trương đấu
tranh chính trị của Đảng từ năm 1954 đến năm 1965
2.2.1. Chính sách của Mỹ, chính quyền Sài Gòn ở Khánh Hòa từ năm 1954 đến
năm 1965
2.2.1.1.Về chính trị - quân sự
Về chính trị, sau Hiệp định Genève (21-7-1954), bộ máy chính quyền Ngô
Đình Diệm ở Khánh Hòa được tổ chức lại từ tỉnh đến làng, xã. Ở cấp tỉnh, có sự
tham gia của nhiều người từng phục vụ cho Pháp: Nguyễn Trân - một người Công
giáo, nguyên Tri huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, được bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng
kiêm Bí thư Đảng bộ Cần lao Nhân vị tỉnh Khánh Hòa; Đỗ Mậu18 được cử làm Phó
Tư lệnh kiêm Chủ tịch Phong trào cách mạng quốc gia Phân khu Duyên hải đóng tại
Nha Trang. Các tổ chức như Đảng Cần lao Nhân vị, Thanh niên Cộng hòa, nhất là
Phong trào cách mạng quốc gia lôi kéo nhiều trí thức tham gia như bác sĩ Võ
Đình Kình, bác sĩ Đỗ Cao Minh, giáo sư19 Hà Huy Liêm, giáo sư Võ Văn Trưng.
Ở làng xã, đến ngày 3-8-1955, toàn bộ 285 làng thuộc tỉnh Khánh Hòa đều đã có
Hội đồng Hương chính. Thành tích này được Bộ Nội vụ Quốc gia Việt Nam
khen ngợi là “đã thâu đạt kết quả tốt đẹp trong việc tái lập nền hành chánh tại
17. Tức là các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên. 18. Là một trong những người sau này tổ chức đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm (1-11-1963). 19. Ở miền Nam, trước năm 1975, giáo viên cấp 2, 3 được gọi là giáo sư.
33
thôn quê - nền móng của chính quyền Quốc gia” [135].
Một trong những chủ trương của CQSG tại Khánh Hòa sau ngày 21-7-1954 là
tìm cách cản trở hoạt động của Ủy hội Quốc tế kiểm soát đình chiến20, qua đó gián
tiếp phá hoại Hiệp định Genève. Một vài vụ việc được ghi nhận: Ngày 1-4-1955,
CQSG cho người phá hủy hòm thư khiếu nại, bảng chỉ đường và đánh bị thương
ông Nguyễn Thoi làm việc cho Ủy hội Quốc tế kiểm soát đình chiến; ngày 6-4-1955,
Phong trào Phong trào cách mạng quốc gia Khánh Hòa huy động gần 3.000 dân
chúng bao vây và tấn công trụ sở Ủy hội Quốc tế kiểm soát đình chiến, làm bị thương
nặng 2 cán bộ của phái đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam là Lê Trọng Thuân, Phan
Ngọc đang trú tại đây, với lý do Ủy hội “bao che Việt Cộng”; ngày 22-2-1956,
CQSG không cho phái đoàn của Ủy hội Quốc tế kiểm soát đình chiến vào một số
vùng ở Nha Trang thuộc phạm vi kiểm soát của Ủy hội. Những hành động chống
phá Ủy hội Quốc tế kiểm soát đình chiến diễn ra có tính hệ thống, đến nỗi Bộ
trưởng Đặc nhiệm Công vụ CQSG phải ký công văn gửi các tỉnh, trong đó có
Khánh Hòa, nhắc nhở: “Trong lúc này, ta nên tránh mọi việc có thể khiến cơ quan
ấy (chỉ Ủy hội Quốc tế kiểm soát đình chiến - TG) chán nản, và ngừng hoạt động
hoặc lại quay về giữ thái độ bất lợi cho đường lối của Chánh phủ. Vì lẽ ấy, yêu cầu
quý Bộ và quý Tòa ra chỉ thị cần thiết để ngăn ngừa những sự công kích, đả phá,
biểu tình đối với Ủy hội Quốc tế” [122].
Ngày 12-5-1955, CQSG mở chiến dịch “tố Cộng” trên toàn miền Nam và coi
đây là “quốc sách”. Tại Khánh Hòa, ngay từ giữa năm 1955, Ban Chỉ đạo “tố
Cộng” được thành lập từ tỉnh đến xã, trong cơ quan, trường học và cả nhà lao. Thực
hiện chiến dịch “tố Cộng”, CQSG bắt dân chúng, nhất là những người có con em
theo cách mạng, có thân nhân tập kết ra Bắc học tập vì cho rằng “đầu óc, tư tưởng
còn nặng xu hướng cộng sản và đáng quan ngại về phương diện chính trị” [156].
Cùng với đó, CQSG đẩy mạnh việc bắt bớ những người kháng chiến. Theo báo cáo
của Tỉnh trưởng Khánh Hòa ngày 12-9-1956, tổng số người bị bắt là 1.475 người,
hầu hết bị giam giữ tại Cải hối thất Nha Trang21. Tại đây, CQSG áp dụng nhiều
biện pháp nhằm đấu tố, ly gián những người cộng sản như đưa 17 đảng viên
cộng sản tố cáo làm điển hình (29-1-1956), thành lập Ban Văn nghệ “tố Cộng”,
20. Trụ sở tại khách sạn Beau Rivage, nay là khách sạn Hải Yến - số 40 Trần Phú, Nha Trang. 21. Địa điểm nay là Trường Tiểu học Xương Huân 2, đường Nguyễn Công Trứ.
34
đưa đảng viên cộng sản trình diễn văn nghệ “tố Cộng” (5, 6-9-1956) [291, tr. 3].
Đặc biệt, ngày 20-2-1956, tại Công trường Trình Minh Thế22, CQSG tổ chức mít
tinh ép cán bộ kháng chiến tuyên thệ ly khai cộng sản [155].
Để xét xử những người bị coi “hoạt động cho Việt Cộng”, ngày 13-5-1955,
chính quyền Ngô Đình Diệm thiết lập Tòa án Quân sự tại Nha Trang. Chính Tòa
án này đã ra phán quyết đày ải nhiều cán bộ kháng chiến ở Khánh Hòa đến các
nhà tù, trong đó có những nơi được gọi là “địa ngục trần gian”. Chỉ riêng
chuyến tàu chở tù nhân lưu đày Côn Đảo rời cảng Nha Trang ngày 30-4-1957 đã
có tới 80 cán bộ kháng chiến của Khánh Hòa [1, tr. 342].
Vào những dịp lễ lớn của cách mạng như thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
(6-1)23, sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5), nhất là ngày ký Hiệp định Genève
(20-7)24, chính quyền Ngô Đình Diệm triển khai nhiều biện pháp nhằm ngăn chặn
nhân dân mít tinh, biểu tình. Theo Báo cáo số 2582/CDTC, ngày 16-10-1956 của Ty
Thông tin Khánh Hòa, các biện pháp đó là: “Tổ chức lớp học đặc biệt cho các cán bộ
Việt Cộng hồi cư cũng như các phần tử đáng quan ngại trong 5 ngày liên tiếp (từ 18
đến 23-7-1956), tất cả ở lại trường ngày cũng như đêm; cấm trại và ngừng cấp
phép đối với binh lính; tổ chức văn nghệ tại địa phương; bí mật theo dõi các gia
đình có con em đi tập kết; tập trung cán bộ kháng chiến tại những địa điểm nhất
định để kiềm chế, kiểm soát” [291, tr. 3].
Để nắm lực lượng công nhân và lao động, CQSG chủ trương kiểm soát các
nghiệp đoàn. Công văn số 296, ngày 26-6-1954 của Tỉnh trưởng Khánh Hòa gửi Thủ
hiến Trung Việt, khẳng định: “Vì tình hình Khánh Hòa hiện nay không ổn định nên
tỉnh tôi cần phải kiểm soát mọi hoạt động của dân chúng, nhất là các nghiệp đoàn
đương vào thời kỳ phát triển [151]. Muốn hội họp, nghiệp đoàn phải báo cáo với nhà
chức trách, nội dung, tiến trình cuộc họp bị theo dõi, các phát biểu bênh vực quyền lợi
cho lao công bị coi là chống đối và “thân Cộng”. Chẳng hạn, tại Đại hội Liên hiệp
nghiệp đoàn tỉnh Khánh Hòa ngày 8-1-1956, bài diễn thuyết của Bùi Lương - Tổng
Thư ký Liên đoàn Lao công Việt Nam, bị Đỗ Mậu cho rằng: “Không hướng về mục
đích chung của Chánh phủ Quốc gia, che đậy những hành vi Cộng sản, có thể tình
22. Nay là Công viên 23-10. 23. Trước Đại hội lần thứ III (9-1960), ngày kỷ niệm thành lập Đảng là 6-1. 24. Trước đây, ngày kỷ niệm Hiệp định Genève là 20-7.
35
nghi rằng đại diện là một cán bộ Việt Minh đưa vào để chủ trương đoàn thể chống lại
chính quyền, lời lẽ có tính cách phản động, thân Cộng và xuyên tạc chính quyền”
[119]. Mặc dù, qua điều tra xác minh sau đó, Nha Giám đốc Trung Việt tại Công văn
số 1341-VP/M, ngày 28-3-1956 đã kết luận: “Những gì ông Bùi Lương phát biểu chỉ là
đề cao vai trò, giá trị của người lao công; gây tin tưởng ở tổ chức nghiệp đoàn; huấn
thị cho nghiệp đoàn viên đừng quá sợ sệt chính quyền trong những vụ tranh chấp hay
những vụ chính quyền bắt bớ” [109, tr. 2]. Công văn này cũng khẳng định: “Những
người cho tin cũng như đa số nghiệp đoàn viên vì trình độ thấp kém, vì óc chủ quan đã
ngộ nhận ông Bùi Lương đã kích chính quyền” [109, tr. 2].
Đối với miền núi, giới cầm quyền Khánh Hòa cho rằng, “nếu Thượng du sống lẻ
tẻ, nhà này cách nhà kia chừng nửa hay một ngày đường, chẳng những không kiểm
soát được đừng nói gì đến giáo dục và cán bộ Việt Cộng sẽ ung dung sống dễ dàng để
nắm dân làm bàn đạp phá rối trung châu” [162], vì vậy, dồn dân lập khu tập trung là
biện pháp ưu tiên số một được triển khai. Mỗi khu tập trung có rào xung quanh, dân vệ
được trang bị súng để canh gác, thường xuyên tổ chức phát chẩn hàng viện trợ của Mỹ.
Một số khu tập trung “kiểu mẫu” được xây dựng kiên cố, quy tụ đông đảo đồng bào
như Bốt Cây Dầu, Bàu Hùng (Cam Lâm), Thạch Trại (Diên Khánh),...
Tháng 8-1961, chính quyền Ngô Đình Diệm bắt đầu triển khai chương trình
xây dựng ACL trên toàn miền Nam với tên gọi “Chiến dịch xây dựng nông thôn”.
Đến ngày 17-4-1962, Quốc hội CQSG thông qua nghị quyết nâng chương trình lập
ACL lên hàng “quốc sách”. Tại Khánh Hòa, để triển khai “quốc sách” ACL, Tỉnh
trưởng Nguyễn Văn Lý đã ban hành một loạt văn bản như ngày 22-11-1961, ban
hành kế hoạch “Thi hành việc lập ACL”; ngày 7-2-1962, ra quyết định thành lập 17
“Đoàn xây dựng ACL”; ngày 23-2-1962, ra quyết định thành lập “Ủy ban xây dựng
ACL Khánh Hòa”. Theo các văn bản này, toàn tỉnh Khánh Hòa sẽ xây dựng 281
ACL (trên tổng số 326 ấp). Trong đó, ưu tiên thiết lập ở những nơi có phong trào
kháng chiến mạnh trong thời kỳ chống Pháp hoặc vị trí tiếp giáp với căn cứ của
cách mạng; mỗi vùng xây dựng một số ấp “kiểu mẫu” sau đó lan rộng theo kiểu
“vết dầu loang”. Nhằm “gây đoàn kết giữa người công chức và đồng bào thôn
quê” [177, tr. 2], CQSG chủ trương mỗi ACL có một cán bộ từ cấp Ty, Sở trưởng
đỡ đầu. Riêng ACL “kiểu mẫu” Phú Thọ (Ninh Diêm, Ninh Hòa) có vị trí quan
36
trọng, thực hiện nhiệm vụ cô lập chiến khu Hòn Hèo và căn cứ Đá Bàn của cách
mạng, được Đại sứ Mỹ Nolting nhận đỡ đầu.
Ngày 1-11-1963, một số tướng lĩnh quân đội Sài Gòn tiến hành đảo chính lật đổ
Ngô Đình Diệm. Tuy nhiên, điều nghịch lý là sau đảo chính các chính phủ Sài Gòn
tiếp đó lại sử dụng nhiều người từng là tay chân đắc lực của chế độ độc tài họ Ngô.
Tại Khánh Hòa việc này diễn ra phổ biến: Ở cấp tỉnh, Hoàng Đình Giang được giữ
nguyên chức vụ Phó Tỉnh trưởng Hành chính; Nguyễn Xuân Trường (nguyên Quận
trưởng Hoài Nhơn, Bình Định) giữ chức Phó Tỉnh trưởng Nội an; Man Đức Thiệu
(nguyên chỉ huy Thanh niên Cộng hòa thị đoàn Nha Trang) trở thành lãnh đạo Thanh
niên cách mạng; Nguyễn Đình Thoan tiếp tục chức vụ Trưởng ty Tiểu học Khánh
Hòa,... Ở cấp xã, nhất là những địa bàn có phong trào cách mạng mạnh như Ninh
Quang, Ninh Đông (Ninh Hòa), Diên Điền (Diên Khánh),... nhiều Hội đồng xã được
giữ nguyên nhân sự [276], [278], [299]. Việc này làm cho “dân chúng có dư luận
nghi ngờ thiện chí của chính quyền cách mạng (chỉ CQSG sau đảo chính lật đổ Ngô
Đình Diệm - TG), nhất là trong giới Phật tử, sinh viên và học sinh” [279].
Về quân sự, sau khi cơ bản nắm được vùng đồng bằng và đô thị, từ năm 1960,
nhất là trong hai năm 1960 và 1963, CQSG đẩy mạnh hoạt động quân sự nhằm vào
căn cứ cách mạng ở vùng miền núi. Cụ thể, năm 1960, quân đội Sài Gòn 3 lần càn
quét căn cứ Tô Hạp (Khánh Sơn); riêng trong năm 1963, quân đội Sài Gòn thực hiện
5 cuộc hành quân đánh phá căn cứ cách mạng ở Diên Khánh, Ninh Hòa, Khánh Vĩnh,
Khánh Sơn, trong đó, lớn nhất là cuộc hành quân mang tên “Thiềm đầu thủy” (Con
nhái đầu nguồn). Cuộc hành quân này do Bộ Tư lệnh Vùng 2 chiến thuật tổ chức,
được tiến hành từ ngày 1-6 đến ngày 25-8-1963, với lực lượng tham gia gồm 2.600
quân, 23 máy bay trực thăng, 2 máy bay trinh sát, 5 máy bay khu trục và 1 đại đội
pháo 105 ly. Ngày 3-6-1963, Tôn Thất Đính - Tư lệnh Vùng 2 chiến thuật, đích thân
đến Xóm Cỏ (Khánh Sơn) thị sát trận địa. Về hoạt động quân sự, báo cáo Nguyệt để
B (từ 21-8 đến 20-9-1963) của Tỉnh trưởng Khánh Hòa viết: “Lực lượng an ninh
trong tỉnh luôn luôn mở các cuộc hành quân ở vùng kém an ninh (chỉ vùng có căn cứ
cách mạng - TG) để tiêu diệt địch, phá hủy các cơ sở giao liên và phá hoại các rẫy
hoa màu của đối phương, gây cho địch những tổn thương về kinh tế” [2, tr. 106].
2.2.1.2. Về kinh tế - xã hội
37
Về kinh tế, ngày 8-1-1955, CQSG ban hành Dụ số 2, sau đó bổ sung bằng Dụ
số 7 (9-2-1955) tiến hành cải cách điền địa ở miền Nam. Tại Khánh Hòa, cải cách
điền địa được tích cực thực hiện với các biện pháp như mở khóa huấn luyện cán bộ
cải cách điền địa cho địa phương; phái cán bộ về các xã đo đạc đất nông nghiệp,
hướng dẫn điền chủ, tá điền lập khế ước theo từng loại A, B, C; triển khai cho nông
dân vay vốn để sản xuất. Ở Khánh Hòa, diện tích đồng bằng nhỏ hẹp, không có điền
chủ sở hữu trên 100ha đất nên việc thực hiện cải cách điền địa không đến nỗi phức
tạp và ảnh hưởng đến lợi ích của nhiều người. Một số vụ tranh chấp liên quan đến
đất đai đều được Ủy ban Nông vụ xã dàn xếp ổn thỏa.
Để phát triển nông nghiệp, CQSG triển khai xây dựng nhiều công trình đê,
mương, đập ngăn mặn và dẫn nước; tổ chức huấn luyện cho cán bộ và nông dân về
trồng trọt, chăn nuôi, lập địa điểm trồng thử nghiệm các loại cây nông nghiệp,
khuyến khích thành lập các trại chăn nuôi tư nhân. Cùng với nông nghiệp, ngư
nghiệp cũng được quan tâm đầu tư, để hỗ trợ nông dân, ngư dân trong sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm, các hợp tác xã được thành lập. Đối với thương mại, CQSG đầu
tư nâng cấp hệ thống giao thông đường bộ, khai thác hải cảng Cầu Đá (Nha Trang),
Hòn Khói (Ninh Hòa), Ba Ngòi (Cam Ranh). Khách quan phải thừa nhận, những
chính sách trên đây đã làm cho “đời sống ở nông thôn có phần dễ chịu hơn trước,
mặc dù tinh thần vẫn bị o ép” [1, tr. 345].
Song song với các biện pháp để phát triển kinh tế vùng kiểm soát, CQSG triển
khai bao vây kinh tế đối với cách mạng. Những mặt hàng thiết yếu, đặc biệt là gạo
và muối bị kiểm soát chặt chẽ về nguồn gốc, số lượng, đối tượng tiêu thụ. Không
những thế, CQSG tại Khánh Hòa còn chủ trương phối hợp với các tỉnh lận cận để bao
vây kinh tế cách mạng. Về chủ trương này, Công văn số 911-VP/TD, ngày 24-3-1960
của Tỉnh trưởng Khánh Hòa gửi Tỉnh trưởng Ninh Thuận, Tuyên Đức, Đắk Lắk nói rõ:
“Vì bị bao vây tại tỉnh tôi, Việt Cộng sẽ có thể tìm đường tiếp tế với các vùng lân cận
của quý tỉnh. Vì vậy, để cho chủ trương bao vây về kinh tế của tỉnh tôi được hiệu quả,
kính đề nghị áp dụng biện pháp tương tự tại quý tỉnh” [171].
Ở Khánh Hòa, dưới thời Ngô Đình Diệm, hoạt động kinh tế thu nhiều lợi
nhuận nhất là thầu khoán đều do những tay chân chuyên làm kinh tài cho gia đình
họ Ngô như Trương Đình Cát, Võ Sĩ, Từ Tôn Dũng,... nắm độc quyền. Ngay cả,
38
Tỉnh trưởng Quảng Trị là Nguyễn Văn Đông cũng với tay vào quản lý Công ty
Tạo tác và vét kênh Khánh Hòa chuyên thầu khoán trong lĩnh vực này. Một lĩnh
vực khác đem lại nguồn lợi lớn được Ngô Đình Cẩn cùng tay chân đầu tư ở Khánh
Hòa là văn phòng và khách sạn. Theo báo cáo của Ủy ban Điều tra tội ác và tài sản
Khánh Hòa25, tài sản của Ngô Đình Cẩn tại Nha Trang gồm: 1 biệt thự 3 tầng 73
phòng tại góc đường Trần Hưng Đạo - Bá Đa Lộc26 cho Phái bộ Cố vấn quân sự
Mỹ thuê giá 480.000 đồng/tháng; Đại khách sạn 3 lầu tại góc đường Duy Tân27 -
Lê Thánh Tôn; khu đất 9.245m2 tại số 158B đường Độc Lập28. Cũng theo báo cáo
này, Trần Lệ Xuân đứng tên mảnh đất diện tích 9.328 m2 trên đảo Hòn Tằm; trong
khi đó, những tay chân thân tín như Đại tá Nguyễn Thế Như, Đại tá Lê Quang
Tung, Trung tá Lê Văn Bường, Trung tá Nguyễn Kim Khánh, Trung tá Lê Như
Hùng,... đều có tài sản, nhất là biệt thự cho thuê tại Nha Trang [300, tr. 2-5]
Không chỉ thầu khoán và kinh doanh khách sạn, tại Khánh Hòa, Ngô Đình
Cẩn còn cho thành lập Công ty CATRACO chuyên khai thác cát trắng cung cấp
cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Công ty này được Ngô Đình Cẩn giao
cho Hoàng Bá Vinh và Trần Lưu Di quản lý [300, tr. 3].
Từ năm 1957, Ngô Đình Cẩn và tay chân tạo ra “Vụ án gián điệp miền
Trung” khiến cho hầu hết các tỉnh miền Trung đều có người bị Ngô Đình Cẩn và
tay chân ghép vào tội làm gián điệp cho Pháp, nạn nhân chủ yếu là tín đồ Phật
giáo có thế lực về kinh tế. Tại Khánh Hòa, ông Trần Nghiêm bị bắt ngày 6-7-1958
là một trong những nạn nhân như vậy [21, tr. 125].
Cũng cần nói thêm rằng, ở Khánh Hòa dưới thời Ngô Đình Diệm, còn có
trường hợp bị ghép vào tội “tiếp tế cho Việt Cộng”, và với “tội danh” này,
“đương sự” cũng bị tay chân của Ngô Đình Cẩn tịch thu tài sản. Điển hình là
ngày 26-4-1963, Trương Đình Cát - Phó Tỉnh trưởng Tài chính kiêm Bí thư Đảng
bộ Cần lao Khánh Hòa, ký công văn số 5713/KX tịch thu 55 bao gạo trắng của ông
Lý Huệ Hoành ngụ ở địa chỉ 98 Quốc lộ 129, với lý do “có giấy phép chở gạo đỏ
nhưng lại chở gạo trắng, sau đó, cho thuộc cấp đến nhà ông Hoành dọa nạt, khép
25. Được thành lập theo Quyết định số 76/NA/ĐT, ngày 5-1-1964 của Tỉnh trưởng Khánh Hòa. 26. Nay là góc đường Trần Hưng Đạo - Lý Tự Trọng. 27. Nay là đường Trần Phú. 28. Nay là đường Thống Nhất. 29. Nay là đường 2-4.
39
vào tội tiếp tế cho Việt cộng và đòi bỏ tù” [298].
Về xã hội, sau Hiệp định Genève (21-7-1954), Mỹ và CQSG bằng nhiều biện
pháp đã cưỡng ép, dụ dỗ đồng bào miền Bắc, chủ yếu là tín đồ Thiên Chúa giáo di
cư vào Nam. Khánh Hòa là một trong những tỉnh ở khu vực miền Trung tiếp nhận
dân di cư từ miền Bắc nhiều nhất. Theo Tờ trình nguyệt để tháng 11 và 12-1954, số
người di cư đến Khánh Hòa là 6.660 người (chiếm khoảng 10,5%) trong tổng số
63.137 người di cư đến Trung Việt, cao hơn nhiều so với Phú Yên - 285 người và
Ninh Thuận - 2.440 người [57, tr. 34]. Đến cuối năm 1956, số dân miền Bắc định cư
ở Khánh Hòa lên 8.648 người, sống tập trung trong 6 trại [306, tr. 35], cụ thể:
TT Tên trại Địa điểm Dân số
Gia đình Nhân khẩu
1 Ba Làng Vĩnh Hải - Vĩnh Xương 172 848
2 Văn Đăng Vĩnh Lương - Vĩnh Xương 61 380
3 Văn Tứ Suối Vĩnh - Cam Lâm 417 2.051
4 Xuân Ninh Cam Phúc - Cam Lâm 134 1.292
5 Văn Thủy Cam Lương - Cam Lâm 555 2.577
6 Phước Hải Nha Trang Tây 300 1.500
Cộng 1.639 8.648
Điều dễ nhận thấy là các trại định cư đều được thiết lập ở những vị trí quan
trọng về địa chính trị như Trại Ba Làng, Văn Đăng án ngự cửa ngõ phía Bắc, trại
Phước Hải chốt cửa ngõ phía Nam thị xã tỉnh lỵ Nha Trang; trại Văn Tứ, Xuân
Ninh bao quanh căn cứ quân sự Cam Ranh.
Riêng trại Văn Thủy (Đồng Lác), được thành lập ngoài mục đích lợi dụng
đồng bào di cư để khai phá vùng đất hoàng vu này, CQSG còn muốn sử dụng người
Nùng vốn bị coi là “hung hăng” để ngăn chặn lực lượng kháng chiến từ vùng núi
phát triển xuống đồng bằng. Tuy nhiên, tình hình liên quan đến trại định cư Văn
Thủy sau đó có những điều nằm ngoài tính toán của CQSG. Cụ thể, ông Lưu Chí
Hiền - người đứng đầu trại Văn Thủy, đã lãnh đạo đồng bào Nùng “biến nơi đây
thành một vùng trù phú, bằng cách kết hợp với một số nhà buôn có vốn để khai thác
lâm sản, trồng cà phê, mở một vài ngành tiểu công nghệ,...” [159, tr.5]. Hành động
của ông Lưu Chí Hiền bị CQSG cho rằng “có tham vọng bá chủ vùng Đồng Lác”
40
[159, tr. 5], nên cuối năm 1957, CQSG đã đưa 1.000 giáo dân gốc Quảng Bình vào
ở chung với đồng bào Nùng tại trại Văn Thủy. Chính Tỉnh trưởng Khánh Hòa nói rõ
âm mưu kiểm soát người Nùng của CQSG: “Việc đem đồng bào Kinh vào cốt để
kiểm soát dân Nùng thường hung hăng, lại vì trại định cư ở ngay giữa rừng, nếu để
trại Nùng đứng một mình riêng biệt thì sự kiểm soát sẽ kém chặt chẽ” [159, tr. 3].
Như vậy, tại Khánh Hòa, việc CQSG chủ trương dùng người Nùng để ngăn chặn
cách mạng và dùng người Kinh theo Thiên Chúa giáo để kiểm soát người Nùng là
điều không thể chối cãi.
Cũng cần nói thêm, 5 trại định cư dành cho đồng bào Thiên Chúa giáo đều
đóng ở vùng đồng bằng và đô thị, trong khi trại định cư Văn Thủy dành cho người
Nùng theo đạo Phật đóng ở “vùng nước độc, cây cối mọc um tùm, khí hậu nặng nề,
đầy lam sơn chướng khí” [159, tr. 3]. Tình trạng những ngày đầu của trại định cư
Văn Thủy rất bi đát: “Việc tiếp tế lương thực, thuốc men cùng việc thi hành dự án
gặp rất nhiều khó khăn vì Phủ Tổng ủy không cấp gạo được điều hòa, đồng bào
thiếu gạo ăn, gặp nước độc sinh ra ốm đau, chết chóc” [159, tr. 4]. Đến cuối năm
1957, khi chính quyền Ngô Đình Diệm đưa giáo dân vào Đồng Lác thì vùng đất này
đã được người Nùng hoàn thành việc khai khẩn [159, tr. 7]. Đây là biểu hiện cụ thể
cho thấy có sự phân biệt đối xử của chính quyền Ngô Đình Diệm đối với đồng bào
Thiên Chúa giáo và đồng bào Phật giáo.
2.2.1.3. Về văn hóa - giáo dục
Về văn hóa, giống như nhiều địa phương khác ở miền Nam, tại Khánh Hòa,
CQSG thi hành chính sách phân biệt tôn giáo khá rõ nét. Với Thiên Chúa giáo,
CQSG chủ trương: “Đầu tư xây dựng các cơ sở, nhà thờ, nhà giảng đạo, trường
học, đào tạo linh mục, hỗ trợ các phương tiện và biện pháp để thu hút nhân dân
theo đạo” [145, tr. 5]. Vì vậy, nhà thờ, cơ sở Thiên Chúa giáo mọc lên ở nhiều nơi,
ngay cả trong trụ sở cơ quan, doanh trại quân đội. Tại Quân trường Đồng Đế,
CQSG cho “xây dựng một giáo đường to lớn và khang trang để phục vụ tinh thần
cho vài trăm binh sĩ theo Công giáo” [90, tr. 155]. Tại các trại định cư dân miền
Bắc như Ba Làng, Tân Bình, Văn Đăng,... mỗi trại có một Ủy ban định cư gồm 3
người, trong đó 2 đại biểu dân cử và 1 linh mục Thiên Chúa giáo chỉ định giữ vai
trò “lãnh đạo tinh thần”. Nói là “lãnh đạo tinh thần” nhưng thực tế, những linh
41
mục này đứng đầu các trại định cư, có quyền cao nhất đối với mọi hoạt động của
trại. Các ngày lễ liên quan đến Thiên Chúa giáo luôn được tổ chức trọng thể.
Ở vùng miền núi, Mỹ và CQSG đưa linh mục Thiên Chúa giáo, mục sư Tin
Lành vào các buôn làng tuyên truyền, hỗ trợ tiền bạc khuyến khích, lôi kéo đồng
bào theo đạo. Công văn số 4313/CSCA/TBI.M1, ngày 11-5-1960 của Nha Cảnh sát
và Công an TNTP xác nhận: “Nhờ sự xây dựng, giúp đỡ thiết thực của chính quyền,
Giáo hội Công giáo và mục sư Tin Lành Hoa Kỳ, đời sống thổ dân tại các làng tập
trung ở vùng Thạch Trại, Sông Cái khá ấm no, phường tiện dân sinh tương đối khả
quan” [101].
Trong khi đó, đối với Phật giáo, CQSG thể hiện rõ sự kỳ thị. Có nhiều dẫn
chứng để chứng minh cho điều này. Chẳng hạn, cũng tại Quân trường Đồng Đế,
“có trên 3.000 quân nhân theo đạo Phật lại không được chăm lo phần thiêng liêng
của họ” [90, tr. 155]; tại trại định cư đồng bào Nùng theo đạo Phật ở Văn Thủy
(Cam Lâm), CQSG không quy định cơ chế “lãnh đạo tinh thần”;... Không những
thế, các hoạt động văn hóa công cộng của Phật giáo bị hạn chế, ngay cả hoạt động
truyền thống như tổ chức trại hè cũng bị gây khó dễ trong việc cấp phép, thậm chí
cấm tổ chức, trại hè Gia đình Phật tử năm 1960 là một ví dụ. Dự kiến diễn ra từ
ngày 6 đến ngày 10-6 với sự tham gia của 1.000 Phật tử, tuy nhiên, Tỉnh trưởng
Khánh Hòa “sau khi hỏi ý kiến của ông Đại biểu Chính phủ TNTP ở Huế, đã bác
đơn xin phép tổ chức trại hè của Phật giáo” [172]. Trên thực tế, ở Khánh Hòa
“chính sách kỳ thị Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm mỗi ngày một rõ rệt
đã làm cản trở công cuộc hoằng dương Chánh pháp không ít” [139, tr. 315].
Về giáo dục, so với các tỉnh khác ở miền Trung, giáo dục Khánh Hòa những
năm 1954-1965 khá phát triển. Ở bậc tiểu học, năm 1960, cả tỉnh có 94 trường với
gần 20.000 học sinh; ở bậc trung học, ngoài trường Võ Tánh30 đã được thành lập từ
trước (1952), tại các quận, thị xã đều có trường trung học như trung học Ninh Hòa31
(1956), Nữ trung học Nha Trang32 (1960), trung học Diên Khánh33 (1962), trung
học Vạn Ninh34 và trung học Cam Ranh35 (1963). Bên cạnh đó, các trường tư thục
30. Nay là Trường THPT Lý Tự Trọng, Nha Trang. 31. Nay là Trường THCS Đinh Tiên Hoàng, Ninh Hòa. 32. Nay là Trường THCS Thái Nguyên, Nha Trang. 33. Nay là Trường THCS Phan Chu Trinh, Diên Khánh. 34. Nay là Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng, Vạn Ninh.
42
của Phật giáo, Thiên Chúa giáo cũng thu hút nhiều học sinh [308, tr. 21].
Trong các cơ sở giáo dục, CQSG kiểm soát chặt chẽ bằng nhiều biện pháp
khác nhau nhằm ngăn chặn học sinh tham gia biểu tình. Cụ thể, “theo dõi thành
phần học sinh lớn tuổi, tìm cách ghép họ vào hàng ngũ; theo dõi sát sao học sinh có
thân nhân đi tập kết; Hiệu trưởng kiểm soát, theo dõi các giáo sư có thái độ lừng
chừng; áp dụng kỷ luật cứng rắn với học sinh vắng mặt không có lý do; liên lạc
chặt chẽ với phụ huynh, buộc họ lãnh trách nhiệm về hành vi của con em” [181].
Tóm lại, có thể nói, những chính sách như đã trình bày, đặc biệt là chính sách
phá hoại Hiệp định Genève, “tố Cộng”, gom dân lập khu tập trung, lập ACL, kỳ thị
Phật giáo,... làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân với Mỹ và CQSG ngày càng thêm
sâu sắc. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các cuộc nổi dậy của nhân dân miền
Nam nói chung, nhân dân Khánh Hòa nói riêng.
2.2.2. Chủ trương của Đảng về đấu tranh chính trị từ năm 1954 đến năm 1965
2.2.2.1. Chủ trương của Trung ương Đảng
Sau Hiệp định Genève (21-7-1954), Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương tiến
hành ĐTCT ở miền Nam. Cụ thể, ngày 6-9-1954, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ:
“Lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện Hiệp định đình chiến, củng cố hòa bình,
thực hiện tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc
lập. Đồng thời, lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống hành động khủng bố, đàn áp,
phá cơ sở, bắt bớ cán bộ của ta và quần chúng cách mạng” [30, tr. 308].
Tháng 11-1955, tại cuộc thảo luận về kế hoạch đấu tranh đòi thi hành Hiệp
định Genève, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Về phương châm đấu tranh, cần huy
động toàn thể nhân dân,... Đấu tranh phải có sự kết hợp giữa quần chúng và các
đoàn thể, phải liên tục và có mục tiêu cụ thể” [31, tr. 506].
Những năm 1957-1958, CQSG tăng cường đàn áp, khủng bố, cách mạng miền
Nam đứng trước thử thách vô cùng khốc liệt, Nghị quyết Trung ương 15 (1-1959)
chủ trương: “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa
giành chính quyền về tay nhân dân..., lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào LLCT
của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với LLVT để đánh đổ quyền thống trị của đế
quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân” [32, tr. 211].
35. Nay là Trường THPT Trần Hưng Đạo, Cam Ranh.
43
Phong trào Đồng khởi nổ ra và thắng lợi (1959-1960) đã chứng minh tính đúng đắn
của Nghị quyết 15 cũng như khẳng định vai trò to lớn của ĐTCT.
Sau Đồng khởi, tại hội nghị tháng 1-1961, Bộ Chính trị chủ trương đẩy mạnh
ĐTCT, đồng thời đẩy mạnh ĐTVT lên song song với ĐTCT, tấn công đối phương
bằng cả chính trị và quân sự. Tuy nhiên, việc vận dụng phương châm ĐTCT song
song ĐTVT phải linh hoạt, phù hợp với từng vùng: “Ở vùng rừng núi lấy ĐTQS
làm chủ yếu...; ở vùng nông thôn đồng bằng, ĐTCT và ĐTQS có thể ngang nhau...;
ở vùng đô thị, lấy ĐTCT làm chủ yếu, gồm cả hai hình thức hợp pháp và không hợp
pháp” [44, tr. 130].
Cuối năm 1962, trong bối cảnh Mỹ thực hiện “Chiến tranh đặc biệt”, triển
khai “quốc sách” ACL ở miền Nam, Bộ Chính trị khẳng định tầm quan trọng và
yêu cầu của ĐTCT: “ĐTCT là một ưu thế tuyệt đối và vũ khí lớn của ta, nó cũng có
tác dụng như ĐTVT. ĐTCT là làm cho tất cả nhân dân và một phần binh lính
VNCH đứng lên chống lại chính quyền địch, trước mắt làm cho toàn dân tham gia
và phục vụ du kích chiến tranh, phá ACL” [33, tr. 824].
Giữa năm 1963, phong trào Phật giáo miền Nam bùng phát mạnh mẽ và bị
CQSG thẳng tay đàn áp. Ngày 22-8-1963, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam ra tuyên bố kịch liệt phản đối CQSG và kêu gọi: “Tín đồ Phật giáo cũng như
nhân dân các đô thị kiên quyết giữ vững tinh thần, giữ vững đội ngũ, giữ vững đấu
tranh... Tinh thần bất khuất trước sau vẫn là võ khí bất khả chiến thắng của chúng ta.
Với ý chí và tinh thần ấy, chúng ta sẽ làm Mỹ - Diệm thất bại nhục nhã” [44, tr. 149].
Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ (1-11-1963), trên cơ sở nhận định tình
hình miền Nam, Trung ương Đảng chỉ rõ nhiệm vụ trước mắt của cách mạng là:
“Phát triển mạnh mẽ hơn nữa ý thức giác ngộ chính trị của nhân dân, phá phần lớn
các ACL, làm chủ vùng rừng núi và phần lớn xã thôn vùng đồng bằng, tạo điều kiện
cho phong trào quần chúng đô thị nổi dậy, đẩy chế độ Mỹ và tay sai đến chỗ khủng
hoảng sâu sắc và mau suy sụp hơn” [34, tr. 839].
Điều cần lưu ý là mặc dù chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, nhưng “quốc
sách” ACL tiếp tục được CQSG kế thừa và triển khai với tên gọi là Ấp Tân Sinh.
Do đó, đối với cách mạng, phá ACL vẫn là nhiệm vụ chủ yếu. Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng tháng 12-1963 chỉ đạo: “Phá vỡ về cơ bản hệ thống ACL ở
44
vùng nông thôn đông dân sát đô thị. Muốn vậy, phải xây dựng cơ sở và phát động
cho được quần chúng bên trong với khí thế nổi dậy liên tục để tự giải phóng, kết
hợp sự hỗ trợ của LLVT và LLCT từ bên ngoài. Sau khi phá vỡ ACL, phải nhanh
chóng xây dựng làng, xã chiến đấu, phát triển tự vệ, du kích, đẩy mạnh ĐTCT,
ĐTVT để giữ vững thế làm chủ” [34, tr. 729].
2.2.2.2. Chủ trương của Liên Khu ủy V
Chấp hành chủ trương của Trung ương Đảng, Liên Khu ủy V từng bước đề ra
chủ trương ĐTCT trên địa bàn, cụ thể:
Không lâu sau Hiệp định Genève (21-7-1954), tháng 10-1954, Liên Khu ủy V
chỉ đạo: Tiến hành ĐTCT để củng cố hoà bình, đòi tự do, dân chủ, cải thiện dân
sinh, tiến tới thực hiện thống nhất và hoàn thành độc lập trong cả nước; “vấn đề cấp
bách là đấu tranh chống bắt bớ, tra tấn cán bộ, phá hoại cơ sở, cướp giật quyền lợi
quần chúng, bắt lính; lãnh đạo đấu tranh phải xuất phát từ quyền lợi kinh tế thiết
thực của dân, từ đó để lồng nội dung chính trị; đối với đồng bào di cư, cần liên lạc,
giúp đỡ, tuyên truyền, vận động họ đòi cải thiện sinh hoạt, đòi được trở về miền
Bắc, biên thư tố cáo hành động của Mỹ và CQSG bắt ép di cư” [75, tr. 7].
Từ giữa năm 1955, với chính sách “tố Cộng” của CQSG, quần chúng bị kìm
kẹp gắt gao, cơ sở cách mạng bị vỡ nặng, Liên Khu ủy V chủ trương: “Đấu tranh
đòi dân sinh, dân chủ là chủ yếu, xây dựng chi bộ tinh gọn, bí mật, đảm bảo tồn tại
lâu dài” [75, tr. 9].
Đầu năm 1957, nhằm khắc phục tình trạng “số đảng viên mới phát triển
không bù kịp số bị bắt, phần đông cán bộ thoát ly không bám được trong quần
chúng, việc xây dựng cơ sở, lãnh đạo quần chúng ở đồng bằng ngày càng khó
khăn” [75, tr. 9], Liên Khu ủy V chuyển một bộ phận cán bộ thoát ly ra sống hợp
pháp ở thành thị rồi luồn trở lại vùng đồng bằng để xây dựng cơ sở phục vụ ĐTCT.
Tuy nhiên, chủ trương này không mang lại kết quả, vì hầu hết cán bộ lộ mặt không
thể ra công khai, số khác ra hợp pháp thì hoặc bị bắt hoặc buộc phải trở lại bí mật,
hoặc chỉ loay hoay tạo thế hợp pháp, không hoạt động được [75, tr. 9].
Giữa năm 1958, Liên Khu ủy V chủ trương xây dựng miền Tây các tỉnh duyên
hải và Tây Nguyên thành căn cứ cách mạng vững chắc làm chỗ dựa cho đồng bằng.
Chủ trương này tiếp tục được nhấn mạnh tại hội nghị Liên Khu ủy V mở rộng ngày
45
4-5-1960: “Kiên quyết lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống địch cướp bóc, dồn
dân, chiếm đất, càn quét, khủng bố và bảo vệ tính mạng, tài sản bằng đẩy mạnh
phong trào ĐTCT rộng rãi, kết hợp ĐTVT khi cần thiết” [65, tr. 96].
Từ năm 1961, Mỹ và CQSG thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”,
trong đó ACL được coi là “xương sống”. Đầu năm 1962, Liên Khu ủy V nhận định:
Con đường phát triển có lợi nhất của cách mạng hiện nay vẫn là ĐTCT và ĐTVT
song song kết hợp; trước mắt, phát động quần chúng vùng nông thôn đồng bằng nổi
dậy phá kìm kẹp, tập trung mọi lực lượng và khả năng vào chống phá ACL. Chủ
trương chống phá “quốc sách” ACL tiếp tục được Liên Khu ủy V nhấn mạnh sau
khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ (1-11-1963): “Tận dụng thời cơ thuận lợi và tình
hình khủng hoảng, suy yếu của địch, đẩy mạnh tấn công địch bằng quân sự, chính
trị, binh vận trên khắp chiến trường, chủ yếu là nhằm phá sạch ACL, đập nát bộ
máy kìm kẹp của địch, giành quyền làm chủ nông thôn” [75, tr. 25].
Trên cơ sở kế thừa chủ trương về chống phá ACL được đề ra trước đó, đầu
năm 1964, Liên Khu ủy V đúc kết thành 9 khâu trong chỉ đạo phát động quần chúng
phá ACL: Giáo dục, phát động tư tưởng làm cho quần chúng có đủ ý chí và quyết
tâm vùng lên phá ấp; xây dựng các tổ chức bí mật nằm trong các ngành, các giới; tổ
chức mối liên hệ giữa bên trong và bên ngoài, nắm chắc tình hình trong ấp; làm tê
liệt “tai, mắt”, vận động, tranh thủ dân vệ, tề và các loại lính khác của đối phương
ở trong ấp; thường xuyên đấu tranh làm cho tình hình trong ấp không ổn định; phối
hợp giữa lực lượng bên trong và lực lượng bên ngoài, giữa LLCT và LLVT khi phá
ấp; không hành động cô độc mà tổ chức phá từng mảng, phá hàng loạt; tạo thế hợp
pháp cho quần chúng sau khi phá ấp; cất giấu, bảo vệ tài sản, tính mạng của dân sau
khi phá ấp [75, tr. 152].
Nhằm tiến kịp phong trào ở các đô thị miền Nam, nhất là Huế và Sài Gòn,
tháng 1-1965, Liên Khu ủy V đề ra yêu cầu: “Phát triển phong trào thành thị, đẩy
mạnh ĐTCT, xây dựng thực lực cách mạng đều ở nông thôn, thành phố, thị trấn, thị
xã, đồn điền, mở rộng mặt trận, hết sức khoét sâu mâu thuẫn của địch, làm cho địch
khủng hoảng càng trầm trọng” [75, tr. 157].
2.2.2.3. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa
46
Trên cơ sở tình hình thực tế, Tỉnh ủy Khánh Hòa đã cụ thể hóa chủ trương của
Trung ương Đảng và Liên Khu ủy V trong quá trình lãnh đạo nhân dân địa phương
tham gia ĐTCT.
Sau Hiệp định Genève (21-7-1954), Tỉnh uỷ Khánh Hòa chỉ đạo: “Đẩy mạnh
tuyên truyền, lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống địch vi phạm Hiệp định, đòi
hiệp thương tổng tuyển cử, đòi hoà bình, thống nhất đất nước kết hợp đòi dân sinh,
dân chủ; phương châm là kết hợp đấu tranh hợp pháp, nửa hợp pháp và không hợp
pháp, lấy hợp pháp và nửa hợp pháp làm chính, đấu tranh có lý, có lợi và đúng
mức” [1, tr. 320].
Giữa năm 1955, tại Khánh Hòa, chính quyền Ngô Đình Diệm bắt đầu triển
khai chiến dịch “tố Cộng”. Để kịp thời đối phó, tháng 6-1955, Tỉnh ủy Khánh Hòa
họp hội nghị mở rộng, khẳng định: “Tiếp tục thực hiện ĐTCT, lợi dụng mọi khả
năng công khai hợp pháp, đẩy mạnh đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Genève,
chống địch khủng bố thông qua chính sách ‘tố Cộng’” [1, tr. 326].
Ngày 4-3-1956, chính quyền Ngô Đình Diệm tổ chức bầu cử Quốc hội, vi
phạm nghiêm trọng Hiệp định Genève. Nhằm chống lại hành động này, Tỉnh ủy
Khánh Hòa đề ra nhiệm vụ: “Tập trung vạch mặt chiêu trò bầu cử Quốc hội riêng
rẽ của Mỹ - Diệm, đấu tranh đòi hiệp thương giữa hai miền, tiến tới thực hiện tổng
tuyển cử thống nhất nước nhà, kết hợp đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, chống
khủng bố trả thù người kháng chiến cũ” [217, tr. 11].
Tháng 8-1956, trước tình hình đối phương triển khai chiến dịch “tố Cộng”
với mức độ khốc liệt hơn, để hạn chế tổn thất, Tỉnh ủy Khánh Hòa chỉ đạo: “Tùy
điều kiện, khéo hướng dẫn quần chúng đấu tranh kinh tế một cách có lợi thiết thực,
như vậy quần chúng mới thiết tha đấu tranh mà đối phương không có lý do khủng
bố” [218, tr. 17].
Cuối năm 1957, Tỉnh ủy Khánh Hòa chuyển một số cán bộ và đảng viên ra
sống hợp pháp để xây dựng cơ sở cách mạng phục vụ ĐTCT ở vùng đô thị và đồng
bằng; đồng thời, ở vùng miền núi, rút cán bộ cách mạng người Kinh vào hoạt động
bí mật, vì sợ bị đối phương phát hiện lấy cớ khủng bố đồng bào [1, tr. 346 - 352].
Tháng 9-1958, phương thức ĐTCT tiếp tục được Tỉnh ủy Khánh Hòa đi sâu
thảo luận và có những chỉ đạo quan trọng: Về hướng tập hợp quần chúng ở nông
47
thôn, nhằm vào các mối liên hệ như bà con, làng xóm và những tổ chức làm ăn như
phát rẫy, đi núi, hội nghĩa, hội huê, làm biển...; về hình thức đấu tranh, nhân lúc
quyền lợi của quần chúng bị CQSG cướp giật, sức căm phẫn của quần chúng đang
lên để than nghèo, gợi khổ gây bất mãn với các chính sách của Quốc gia một cách
công khai hợp pháp; về mục tiêu, “đấu tranh kinh tế chống cướp giật, bóc lột song
song đấu tranh đòi tự do, dân chủ, chống khủng bố, ‘tố Cộng’, tập trung, bắt bớ kết
hợp đòi hiệp thương, tổng tuyển cử theo khả năng phong trào” [220, tr. 34].
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 15 (1-1959) cho phép kết hợp ĐTVT với
ĐTCT, tháng 8-1959, Tỉnh ủy Khánh Hòa xác định nhiệm vụ của cách mạng là:
“Đẩy mạnh phong trào cách mạng ở miền núi, lấy ĐTVT hỗ trợ ĐTCT của quần
chúng, phá các khu tập trung dân” [1, tr. 359].
Trước việc “quốc sách” ACL được đối phương triển khai rầm rộ, tháng 2-1962,
Đại hội Đảng bộ Khánh Hòa lần thứ III đề ra chủ trương: “Tập trung sức xây dựng cơ
sở ở nông thôn đồng bằng, tiếp tục phá kế hoạch gom dân lập ACL của CQSG”
[1, tr. 405]. Cụ thể hóa chủ trương của Đại hội, tháng 3-1962, Mặt trận Dân tộc
giải phóng tỉnh Khánh Hòa ra lời hiệu triệu chống phá ACL: “Kiên quyết không
đi tập trung, bỏ nhà cửa, làng mạc, ruộng vườn; đồng bào đã bị tập trung tiến
hành đấu tranh đòi trở về làng cũ làm ăn; kiên quyết không rào nhà, rào làng, đào
hào, vót chông, lập ACL để từ nhốt mình vào những trại giam cho Mỹ - Diệm tha hồ
bắt xâu, bắt lính, vơ vét, bóc lột tàn tệ” [302].
Từ ngày 7-5-1963, phong trào Phật giáo tại miền Nam nói chung, Khánh
Hòa nói riêng bùng phát mạnh mẽ. Đầu tháng 11-1963, trong lúc Tỉnh ủy Khánh
Hòa đang họp hội nghị mở rộng thì được tin tại Sài Gòn xảy ra đảo chính lật đổ
chế độ Ngô Đình Diệm. Hội nghị quyết định: “Tranh thủ thời cơ thuận lợi để
triển khai lực lượng, đưa cán bộ về mở rộng mạng lưới, xây dựng cơ sở ở đô thị
và nông thôn đồng bằng” [1, tr. 534].
Tiếp đó, tháng 2-1964, lợi dụng tình hình rối ren của đối phương sau đảo
chính 1-11-1963, Tỉnh ủy Khánh Hòa chủ trương phát huy khí thế tiến công đưa
cách mạng tiến lên một bước, trọng tâm là vùng nông thôn đồng bằng hai huyện
Ninh Hòa và Diên Khánh: “Tư tưởng chỉ đạo, quán triệt ĐTCT và ĐTVT song
song, dùng LLCT của quần chúng là chính, LLVT hỗ trợ; phương châm, kết hợp
48
chính trị với quân sự, liên tục tấn công địch ở cả ba vùng chiến lược, trong đó
vùng nông thôn đồng bằng và đô thị ưu tiên sử dụng ĐTCT; mục tiêu, giải phóng
một số địa bàn nông thôn, biến hậu phương của địch thành hậu phương của ta,
góp phần đánh bại chiến lược ‘Chiến tranh đặc biệt’ của Mỹ” [12, tr. 7].
Tháng 2-1965, Đại hội Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa lần thứ IV chủ trương: “Duy
trì ĐTCT để củng cố, mở rộng vùng giải phóng; phát triển nhanh cơ sở các vùng
yếu, tạo ra nhiều vùng tranh chấp để mở phong trào liên hoàn, giải phóng từng
mảng vùng nông thôn sát đô thị và các đường giao thông chiến lược” [1, tr. 565].
Nhìn chung, trong giai đoạn 1954-1965, Trung ương Đảng, Liên Khu ủy V và
Tỉnh ủy Khánh Hòa đã bám sát các chính sách, biện pháp của CQSG để đề ra chủ
trương phù hợp, kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo quần chúng ĐTCT.
2.3. Nội dung đấu tranh chính trị ở Khánh Hòa từ năm 1954 đến năm 1965
2.3.1. Đòi thi hành Hiệp định Genève
Sau Hiệp định Genève (21-7-1954), cũng như nhiều địa phương khác ở miền
Nam, tại Khánh Hòa dấy lên phong trào ĐTCT đòi CQSG thi hành Hiệp định, tổ
chức hiệp thương tổng tuyển cử kết hợp với đòi dân sinh, dân chủ. Phong trào được
thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau:
Ngày 1-8-1954, nhân dân các xã Diên Lâm, Diên Phước và Diên Lạc (quận
Diên Khánh) treo cờ, dán biểu ngữ, rải truyền đơn và tổ chức mít tinh chào mừng
Hiệp định Genève. Sáng 2-8-1954, CQSG cho lính đến đàn áp làm bị thương một số
người, một số khác bị bắt. Trước tình hình đó, hàng ngàn quần chúng, có cả gia
đình binh sĩ Sài Gòn kéo đến trung tâm quận Diên Khánh biểu tình, hô khẩu hiệu:
“Không được bắt người, phải thi hành Hiệp định”. Trước khí thế của nhân dân,
CQSG buộc phải thả người bị bắt [1, tr. 324].
Cũng tại quận Diên Khánh, ngày 7-8-1954, CQSG bắt giam, đánh đập anh
Nguyễn Khắc Hoàng - cán bộ kháng chiến. Lập tức, tại chợ Thanh Minh diễn ra
biểu tình phản đối vụ việc với hàng ngàn người tham gia. Đối phương xả súng vào
đoàn biểu tình làm chết 3 người và nhiều người bị thương. Cuộc đàn áp dã man đã
làm cho nhân dân Khánh Hòa hết sức căm phẫn [1, tr. 325].
Ngày 16-8-1954, 170 binh sĩ thuộc 2 Trung đội Nghĩa Dũng quân đội Sài Gòn
ồ ạt kéo đến vây dinh Tỉnh trưởng Khánh Hòa. Lý do vì CQSG không trả lương, phụ
49
cấp, quân trang và không cho binh sĩ nghỉ phép như đã hứa trước khi rút từ Quy
Nhơn về Nha Trang theo Hiệp định Genève. Tỉnh trưởng Khánh Hòa buộc phải khẩn
cấp nhờ Đại tá Nguyễn Ngọc Lễ - Tư lệnh Phân khu Duyên hải, đưa quân tới giải
cứu. Sau khi vụ việc xảy ra, CQSG đã bắt 5 binh sĩ và truy nã 5 người bỏ trốn. Theo
CQSG, “vụ việc không phải nhằm mục đích yêu sách đòi lương mà là một việc có tổ
chức, do một số người cầm đầu xúi giục để đả phá chính quyền” [238, tr. 3]. Mặc dù
vậy, sau gần một tháng điều tra, CQSG vẫn không tìm ra sự thật. Công văn số 518-
VP/M ngày 10-9-1954 của Tỉnh trưởng Khánh Hòa tiết lộ: “Xét riêng từng lời cung
thì chúng nó đều khai lủng củng, giấu giếm, che đậy, cố ý làm cho sai lạc việc điều
tra bằng lời nói hồ nghi. Ví như việc hỏi người chủ mưu, chủ động thì tên nào cũng
khai mình bị bắt buộc đi theo, đi sau không biết việc” [152, tr. 2].
“Tết Hòa Bình” năm 1955 được nhân dân Khánh Hòa tổ chức bằng nhiều
hình thức như sáng tác thơ văn, biểu diễn văn nghệ, hô bài chòi, viết câu đối. Nhiều
bài thơ, bài vè cổ động được phổ biến rộng rãi, tiêu biểu là bài Giữ gìn tiết tháo
người chiến sĩ của Nguyễn Lưu36 với nội dung chứa đựng khí phách, giữ vững ý chí
trước sự khủng bố của kẻ thù: “Sống cho trọn đạo làm người; Sống vang danh
tiếng, chẳng ai cười ai chê; Sống cho đẹp đẽ trăm bề; Tình dân, tình nước, tình quê
đậm đà; Sống cho đẹp mặt mẹ cha; Bạn bè kính nể, phong gia nếp nền; Sống sao
cho rạng tuổi tên; Chết vinh hơn sống nhục, em nên giữ mình” [13, tr. 123].
Tháng 2-1955, tại quận Diên Khánh, CQSG giết hại anh Trần Thầm - cán bộ
kháng chiến, đồng bào thôn Đại Điền Nam kéo đến xã rồi đến quận khiếu nại.
CQSG không những không giải quyết mà còn bắt giam một số người, đồng bào liền
viết đơn khiếu kiện đến Ủy hội Quốc tế kiểm soát đình chiến. Kết quả, Ủy hội đã cử
người lên tận nơi điều tra, bắt phải bồi thường nhân mạng, những tên chủ mưu giết
anh Trần Thầm bị tù, những người đấu tranh bị giam giữ được trả tự do [9, tr. 126].
Sau Hiệp định Genève, thực hiện sự chỉ đạo của Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn,
“Phong trào Hòa bình Sài Gòn - Chợ Lớn” được thành lập (1-8-1954). Từ Sài
Gòn, phong trào lan rộng ra Huế và các đô thị khác [44, tr. 80]. Tại Nha Trang,
“Phong trào Bảo vệ Hòa bình” được thành lập tháng 2-1955 do Bác sĩ Nguyễn
Quý Phầu làm Chủ tịch. Để che mắt CQSG, “Phong trào Bảo vệ Hòa bình Nha
36. Nguyễn Lưu là Trưởng ty Thông tin Học vụ Khánh Hòa, sau ngày 21-7-1954 được phân công ở
lại hoạt động hợp pháp tại Ninh Hòa, ông bị CQSG thủ tiêu ngày 11-9-1955.
50
Trang” dùng Học đường Thương nghiệp Nha Trang đóng trụ sở trên đường
Hoàng Tử Cảnh37 do Trương Huyền Quang đứng tên Giám đốc, làm cơ sở hoạt
động. Theo CQSG, trong quá trình hoạt động, “Phong trào Bảo vệ Hòa bình Nha
Trang lấy tài liệu có tính cách thiên Cộng làm bài tập đánh máy để phổ biến một
cách gián tiếp cho học viên; tuyên truyền cho học viên di cư về các thắng lợi của
Việt Cộng; xúi giục học viên làm đơn xin Ủy hội Quốc tế trở về Bắc Việt, làm lung
lạc tinh thần đồng bào di cư” [104].
“Phong trào Bảo vệ Hòa bình Nha Trang” xuất bản báo Gió Mới làm cơ quan
ngôn luận. Tờ báo do Hồng Nhật làm chủ bút, Lê Thanh Liêm, Giang Nam, Mai Xuân
Cống,... tham gia viết bài. Đây là tờ báo công khai hợp pháp có mục tiêu tập hợp quần
chúng, hướng dẫn dư luận và đấu tranh chống CQSG. Để đạt mục tiêu đó, những người
phụ trách tờ báo đặt ra yêu cầu: “Ta nói được những điều cần nói mà không gây nghi
ngờ cho địch, không lộ bàn tay bí mật của cộng sản phía sau” [91, tr. 79]. Trong các số
báo, Gió Mới công khai nói đến hiệp thương, thống nhất đất nước, chống chiến tranh,
khát vọng hòa bình: “Ai nói giùm em: Bao giờ hết cảnh chiến trường; Cho đò Bến
Điệp tình thương lại đầy?”; hay, “Hai quê xa cách quá chừng; Cùng chung nước Việt
em đừng có quên; Bao giờ thống nhất bình yên; Để hai quê ấy sống liền với nhau” [13,
tr. 97]. Theo các nhân chứng, “báo Gió Mới là thể nghiệm, là bước đầu của văn học
yêu nước trong lòng địch, với tất cả sự đa dạng và phức tạp của nó trong tình hình ta
- địch xen kẽ lúc bầy giờ” [91, tr. 95].
Lo sợ sự ảnh hưởng của “Phong trào Bảo vệ Hòa bình Nha Trang” cũng
như báo Gió Mới, tháng 12-1956, CQSG tiến hành bắt Hồng Nhật, Mai Xuân
Cống, Nguyễn Đức Trí, Trần Xuân Du, Nguyễn Quý Phầu, Trương Huyền
Quang, trong đó, Mai Xuân Cống là Phó Bí thư Tỉnh ủy Khánh Hòa kiêm Bí
thư Thị ủy Nha Trang, đồng thời đình bản báo Gió Mới [104]. Trong hơn một
năm rưỡi, báo Gió Mới ra được 12 số.
Nhân kỷ niệm một năm ký Hiệp định Genève, ngày 20-7-1955, truyền đơn được
tung ra nhiều nơi ở Nha Trang, Vĩnh Xương, Diên Khánh,... nội dung đòi nhà cầm
quyền miền Nam tổ chức hiệp thương tổng tuyển cử. Tiếp đó, rạng sáng 28-8-1955,
các cơ sở cách mạng trong Nghiệp đoàn thợ may Khánh Hòa (gồm Nguyễn Chức -
37. Nay là đường Hoàng Văn Thụ.
51
Chủ tịch Nghiệp đoàn; Nguyễn Hồng Phước - Thư ký Nghiệp đoàn; Nguyễn May và
Đặng Văn Thạo - Thợ may) và trong học sinh Trường Trung học Võ Tánh (gồm
Nguyễn Hữu Thuận, Bùi Đức Hạnh và Bùi Thanh Trang) tổ chức rải truyền đơn, viết
khẩu hiệu, treo biểu ngữ bằng tiếng Việt, tiếng Anh tại Nha Trang, Vĩnh Xương,
Diên Khánh, khu vực Suối Dầu, Cầu Đá, trụ sở Ủy hội Quốc tế kiểm soát đình
chiến, “đại ý đòi thi hành Hiệp định Genève, đòi quan hệ bình thường giữa hai
miền, đòi Mỹ đừng can thiệp vào nội chính Việt Nam” [97].
Cuối năm 1955, đợt ĐTCT với tên gọi “vạch mặt Mỹ nô” được nhân dân
Khánh Hòa hưởng ứng mạnh mẽ. Báo cáo của Chỉ huy trưởng Tiểu khu Nha Trang
gửi Tòa Đại biểu Chính phủ TNTP cho biết: “Chiến dịch phát động tuyên truyền
‘vạch mặt Mỹ nô’ của Việt Cộng vẫn được tiếp tục dưới nhiều hình thức. Sau đêm
2-11-1955 bạo động rải truyền đơn, viết khẩu hiệu khắp nơi trong quận Ninh Hòa,
tiếp theo đó, đêm 24-11-1955, chúng hoạt động tuyên truyền bằng cách phóng loa
kêu gọi đồng bào đình công, bãi thị ở Ninh Phú, Xuân Hòa, Xuân Mỹ” [17].
Ngày 26-1-1956, CQSG cho lính dỡ nhà của 7 gia đình di cư miền Bắc tại Xóm
Mới38 (Nha Trang). Đồng bào đã phản kháng kịch liệt, tiến hành chụp hình lính bảo an,
cảnh sát dỡ nhà làm bằng chứng và tổ chức gần 20 người kéo đến Ủy hội Quốc tế kiểm
soát đình chiến khiếu kiện. Về sự kiện này, Ty Công an Khánh Hòa thừa nhận: “Tòa
Tỉnh trưởng triệu tập một cuộc họp (25-1-1956) quyết định dỡ những ngôi nhà ở khu
vực Xóm Mới, ông Tỉnh trưởng ra lệnh, Ty Cảnh sát và Bảo an thi hành, một số dân tị
nạn kêu nài ngày Tết gần tới xin hoãn không được đã rủ nhau đến Ủy hội Quốc tế thưa
kiện” [154, tr. 3]. Khi những người dân thưa kiện từ Ủy hội Quốc tế kiểm soát đình
chiến ra về, Ty Công an Khánh Hòa đã bắt 11 người, 8 người được thả sau đó, 3 người
vẫn bị giam giữ. Trước tình hình đó, hàng loạt truyền đơn phản đối được quần chúng
tung ra với nội dung: “Thêm một tội ác nữa đối với đồng bào di cư,... Vụ dỡ nhà, bắt
người di cư ở Xóm Mới là sự thật về cái gọi là tự do và những hứa hẹn [154, tr. 3].
Truyền đơn cũng kêu gọi đồng bào đoàn kết đòi nhà cầm quyền: “Thả ngay những
38. Những năm 1954-1955, đồng bào miền Bắc di cư đến Khánh Hòa trước khi được đưa vào các
trại định cư đã tập trung tại thị xã Nha Trang sống trong các nhà thờ, trại tiếp cư. Thậm chí, có một
số gia đình phải tự làm lều, nhà tạm để ở. Điều này hoàn toàn ngược với “khi ở Hải Phòng, nhà
chức trách đã hứa hẹn quá nhiều, nào là trợ cấp 3 tháng, tìm kế sinh nhai, cấp nhà,... khi đồng bào
đặt chân đến miền Nam” [154]. Vượt qua khó khăn, những gia đình này dần dần ổn định và hình
thành nên “Xóm Mới”, do vậy, khi CQSG yêu cầu vào trại định cư, họ cương quyết không đi.
52
người đã bị bắt; giải quyết nhà cửa, gạo cơm cho đồng bào nghèo đói; cho tự do về
Bắc thăm nhà; tổ chức Tổng tuyển cử cho cả nước và phản đối bầu cử Quốc hội ở
miền Nam” [154, tr. 7]. Chưa dừng lại ở đó, đồng bào còn gửi cả đơn khiếu kiện lên
CQSG ở trung ương. Phúc trình của Thượng sĩ Nguyễn Đình Đàm - phụ trách toán lính
bảo an dỡ nhà, nêu rõ: “Trong lúc 3 người bị giam giữ, gia nhân ở ngoài lai rai gởi
đơn kêu nài khắp nơi, đến cả Phủ Tổng thống và Phủ Tổng ủy di cư vu cáo Tỉnh bạc
đãi đồng bào di cư” [154, tr. 7]. Có thể nói, vụ đấu tranh chống dỡ nhà của đồng bào di
cư miền Bắc ở Nha Trang giúp quần chúng hiểu hơn bộ mặt thật của CQSG, và “làm
mất ảnh hưởng chính trị của Chính phủ Quốc gia” [154, tr. 8].
Ngày 4-3-1956, chính quyền Ngô Đình Diệm tổ chức bầu cử Quốc hội, vi
phạm trắng trợn Hiệp định Genève. Hành động này đã bị nhân dân Khánh Hòa lên
án. Trước đó, đêm 24-2-1956, một nhóm 12 người, dưới sự chỉ đạo của Đinh Văn
Triêm - cán bộ Thị ủy Nha Trang, tiến hành rải hàng ngàn truyền đơn ở Nha Trang,
Diên Khánh, Vĩnh Xương,... với nội dung: “Phản đối trò hề Quốc hội riêng rẽ của
Mỹ - Diệm; phản đối chế độ độc tài phát xít ở miền Nam; phản đối khủng bố trả thù
núp dưới hình thức tố Cộng; đả đảo đế quốc Mỹ can thiệp vào nội chính Việt Nam;
thi hành đúng đắn Hiệp định Genève” [303].
Một trong những hoạt động quan trọng được Tỉnh ủy Khánh Hòa triển khai để
thực hiện đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Genève là đưa cán bộ cách mạng vào bộ
máy CQSG ở cơ sở. Khi thâm nhập thành công, mỗi cơ sở cách mạng tùy theo vị
trí công tác có nhiệm vụ riêng, nhưng quan trọng nhất là làm nội ứng phục vụ
ĐTCT. Tài liệu của CQSG tiết lộ: “Các cơ sở này chủ trương tuyên truyền về hiệp
thương, tổng tuyển cử; xúi giục đồng bào khiếu nại, thậm chí làm đơn giúp kiện
tụng trước Ủy hội Quốc tế kiểm soát đình chiến, gây khó khăn và làm mất ảnh
hưởng của chính quyền; can thiệp, che chở cho Việt Cộng bị bắt; hướng dẫn
thanh niên đấu tranh hợp pháp khi có một đoàn viên bị bắt tình nghi hoạt động
chống chính quyền” [164, tr. 3].
Thật vậy, lợi dụng những lần cải tổ nhân sự, lấy lý do “bỏ phiếu bằng giơ tay,
dân chúng rất sợ tư thù vì bỏ ông này không bỏ ông kia” [108, tr. 2], cơ sở cách
mạng đã lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi bỏ phiếu kín. Bằng cách này nhiều cán
bộ cách mạng đã xâm nhập được vào bộ máy hành chính cũng như tổ chức nghiệp
53
đoàn của CQSG. Cụ thể, ở Cam Lâm, từ đầu năm 1955 cho đến khi bị khám phá (9-
1957), có gần 50 cán bộ cách mạng tham gia vào bộ máy CQSG. Tỉnh trưởng
Khánh Hòa thừa nhận: “Tình hình Cam Lâm quá trầm trọng về phương diện an
ninh. Việt Cộng đã len lõi và gây cơ sở trong hầu hết cơ quan, đoàn thể tại địa
hạt này, ngay cả trong đầu não là Văn phòng Mật tại Nha Đại diện hành chính
mà cũng do Việt Cộng nắm thì thật là một việc vô cùng nguy hại” [164, tr. 3];
Tại Nghiệp đoàn Hỏa xa, các vị trí Trưởng ga, Xa trưởng, Phòng trưởng
và nhiều nhân viên chuyên môn đều là cơ sở cách mạng. Theo CQSG, đây là
một tổ chức quan trọng của Việt Cộng,“vì vừa là cơ sở bảo vệ cán bộ, vừa là cơ
sở dẫn đường cho cán bộ đổi vùng, vừa dùng để lôi kéo thành phần khác trong
Liên hiệp nghiệp đoàn toàn tỉnh” [263];
Tại Hội đồng xã Diên Điền (Diên Khánh), cán bộ cách mạng đã xâm nhập
thành công để nắm giữ chức Trưởng đoàn Dân vệ, Hội viên Hộ tịch, Ủy viên phụ
tá. Sau khi sự việc bị lộ, nhiều đơn “kêu oan” được gửi đến các cấp chính quyền,
trong khi dư luận cho rằng đó chỉ là “kế phản gián” của CQSG. Trước thái độ
ngờ vực, phản đối của đồng bào, sự hoang mang trong bộ máy cơ sở, CQSG đã
phần nào hạn chế các biện pháp xử lý đối với những người bị bắt [263].
Có thể nói, trong những năm 1954-1956, đối mặt với rất nhiều khó khăn,
ĐTCT ở Khánh Hòa vẫn duy trì khá liên tục và đạt được những kết quả quan trọng.
Báo Giải Phóng - Cơ quan ngôn luận của Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Khánh
Hòa, khẳng định: “Mặc dù còn bỡ ngỡ, đồng bào Khánh Hòa vẫn kiên quyết giương
cao ngọn cờ chính nghĩa, hòa bình, đòi Mỹ - Diệm phải thi hành những điều đã ký
kết. Phong trào đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Genève, đòi hiệp thương tổng
tuyển cử thống nhất đất nước, chống khủng bố trả thù những người kháng chiến cũ
đã diễn ra sôi nổi, liên tục làm cho kẻ địch hết sức bị động và lúng túng” [86, tr. 2].
2.3.2. Chống chính sách “tố Cộng”
Giữa năm 1955, tại Khánh Hòa, CQSG tổ chức các đoàn “hành chính lưu
động” về thôn, xã thực hiện chiến dịch “tố Cộng”. Lúc đầu, chiến dịch được triển
khai thí điểm ở một số xã, thôn mà CQSG cho rằng có cơ sở cách mạng, sau đó mở
rộng ra các xã, thôn khác.
Để phù hợp với nhiệm vụ ĐTCT trong tình hình mới, tại vùng nông thôn
54
Khánh Hòa, các “Tổ đổi công” được hình thành. Các tổ này tận dụng khả năng
công khai, hợp pháp để lên án, vạch mặt tay sai, đòi được đi lại làm ăn, chống
khủng bố, bắt bớ. Tài liệu của CQSG cho biết: “Hiện nay, cộng sản phá rối bày trò
tranh đấu một cách hợp pháp, ôn hòa tại các thôn. Chúng lập ra ‘Tổ đổi công’,
nghĩa là 5 - 7 người họp lại làm việc cho một người như sửa nhà, làm vườn, cứ thế
luân chuyển làm chung cho nhau. Chúng sẽ xin phép Hội đồng Hương chính địa
phương, nếu có ai bị bắt sẽ đồng làm đơn xin bảo đảm. Chính những ‘Tổ đổi công’
đó sẽ biến thành ‘tổ ba ba’ bí mật hoạt động cho cộng sản” [97].
Từ cuối năm 1955, tại Nha Trang, lực lượng cách mạng đã xây dựng được một
số cơ sở trong các nghiệp đoàn. Chính Nha Cảnh sát và Công an TNTP xác nhận:
“Hiện nay, tại Nha Trang, cơ sở Mặt trận Tổ quốc của Việt Cộng đã bắt đầu phát
triển mà các Tổ trưởng phần đông là công nhân [98]. Nhờ có cơ sở bên trong nên các
vụ “tố Cộng” nhằm vào công nhân đã được nghiệp đoàn đấu tranh bảo vệ, điển hình
là vụ Hồ Duy Khoan. Ngày 2-2-1956, CQSG bắt Hồ Duy Khoan - Trưởng ban Tuyên
huấn Liên hiệp nghiệp đoàn tỉnh Khánh Hòa, lập tức các nghiệp đoàn đã triển khai
nhiều biện pháp đấu tranh đòi trả tự do cho Hồ Duy Khoan như “đánh điện vào Sài
Gòn mời Tổng Liên đoàn lao công ra giải quyết; Ban Quản trị Liên hiệp nghiệp đoàn
Khánh Hòa đến Ty Công an chất vấn về sự bắt bớ vô lý ấy; Ban Quản trị các nghiệp
đoàn đồng loạt làm đơn xin từ chức; gây dư luận trong nhân dân phát giác thật nhiều
sự đàn áp vô lý của công an, vạch rõ một chính thể tư sản đàn áp lao công” [107].
Trong chiến dịch “tố Cộng”, CQSG bắt giam nhiều cán bộ cách mạng tại Cải
hối thất Nha Trang. Tại đây, các buổi “chỉnh huấn”, “tố Cộng” tiếp tục được tổ
chức. Trong bối cảnh đó, chi bộ cộng sản nhà lao được bí mật thành lập để tiếp tục
lãnh đạo đấu tranh. Công văn số 8168/CSCA/TBI/M, ngày 10-7-1956 của Nha
Giám đốc Trung Việt thừa nhận: “Trong khi bị bắt giam tại lao thất Khánh Hòa,
bọn cán bộ đầu não của Việt Cộng tiếp tục hoạt động và thành lập 1 chi bộ cộng
sản tại lao thất gọi là Chi bộ ghép, mục tiêu ngấm ngầm gây cơ sở Việt Cộng tuyên
truyền chống lại lý thuyết Quốc gia trong các cuộc chỉnh huấn can cứu do tỉnh
Khánh Hòa tổ chức và nới rộng hoạt động từ trong lao ra ngoài” [110].
Năm 1957, các cuộc ĐTCT của nhân dân Khánh Hòa chống chiến dịch “tố
Cộng” tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức. Cụ thể, chiều 25-2-1957, một số khẩu
55
hiệu “tố Cộng” ở trụ sở thôn Vạn Khê (Ninh Hòa) bị xé nát; ngày 1-3-1957, tại trụ
sở xã Ninh Đa (Ninh Hòa), sau buổi học tập “tố Cộng”, 6 tờ truyền đơn được rải tại
chỗ, nội dung yêu cầu ông Đại diện Hành chính xã hành động không được trái với
nguyện vọng của nhân dân; ngày Quốc tế Phụ nữ 8-3-1957, các rạp bán vải ở chợ
Thành (Diên Khánh) đã bãi thị, lấy cớ tranh chấp với một thương gia về việc chia
vải tại Tỉnh đường; ông Võ Chút - Trưởng thôn Phú Gia (Ninh Hòa) cùng dân
chúng kêu kiện và tranh đấu cho một số người bị bắt [262, tr. 2-3].
Tiếp đó, đêm 20-4-1957, tại Phú Lộc (Diên Khánh), 2 lá cờ đỏ sao vàng được
vẽ lên tường; đêm 30-4-1957, tại Chi Thông tin Cam Lâm, bản tin tức hằng ngày bị
bôi xóa và sửa chữa; tại Nha Trang, các Nghiệp đoàn đã chuẩn bị công phu để tổ
chức biểu tình nhân ngày Quốc tế Lao động (1-5-1957) [263, tr. 2].
Đặc biệt, CQSG thừa nhận: “Việc tập trung các hạng tình nghi A, B, C trong
dịp Lễ Lao động (1-5) mặc dầu đã khôn khéo đặt dưới hình thức học tập nhưng
không khỏi gặp phải những phản ứng” [263, tr. 2]. Chẳng hạn, ở Ba Ngòi, Nguyễn
Thoi khi bị triệu tập học tập “tố Cộng” và buộc ở lại trụ sở xã qua đêm, đã lấy bình
hoa tự đập vào đầu để phản kháng; ở Ninh Hòa, Nguyễn Tấu khi nhận giấy yêu cầu
đi học tập đã hăm dọa công an và tỏ dấu bất phục; ở Vạn Ninh, trong một buổi học
tập, các cựu đảng viên cộng sản đã tố cáo, đả đảo một cán bộ của CQSG.
Những sự việc trên đây, Ty Công an Khánh Hòa cho rằng, các đương sự đã có
sự giáo dục trước và sẽ trở thành kinh nghiệm được phổ biến để đấu tranh chống lại
chính quyền Quốc gia [263, tr. 3].
Ngày 15-8-1957, nghi ngờ công nhân hoạt động cho cách mạng vì “có xu
hướng đấu tranh” [162], chủ đồn điền cao su Suối Dầu đòi sa thải một số người.
Nghiệp đoàn Cao su lập tức đề nghị Liên hiệp nghiệp đoàn Khánh Hòa can thiệp.
Yêu sách chống sa thải, đòi tăng lương cho công nhân đã được chấp nhận. Thắng
lợi này gây được tiếng vang trong công nhân nói riêng và trong quần chúng nhân
dân nói chung. CQSG thừa nhận: “Việt Cộng ở Suối Dầu gây được nhiều ảnh
hưởng trong quần chúng qua vụ việc tranh thủ này” [162].
Có thể nói, trong bối cảnh CQSG triển khai chiến dịch “tố Cộng” khốc liệt,
tại Khánh Hòa, ĐTCT vẫn diễn ra liên tục, khi âm thầm, khi công khai. Báo Giải
Phóng của Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Khánh Hòa đánh giá: “Từ 1955-1958,
56
sau khi củng cố lại hàng ngũ, Mỹ - Diệm mở cuộc tấn công vào đồng bào ta bằng
chiến dịch ‘tố Cộng’ đẫm máu, bằng các cuộc khủng bố, bắt bớ tràn lan, bằng
chính sách tập trung, theo dõi, kiểm soát chặt chẽ nhưng phong trào đấu tranh của
quần chúng không hề bị đè bẹp mà vẫn diễn ra đều khắp và liên tục” [86, tr. 3].
Chính phía đối phương cũng thừa nhận: “Ở trong lớp vỏ yên tĩnh bề ngoài, Việt
Cộng bên trong vẫn ngấm ngầm đẩy mạnh mọi công tác chìm, hầu phá hoại ta đúng
theo chủ trương của chúng trong giai đoạn mới” [263].
2.3.3. Phối hợp với lực lượng vũ trang tiến hành đồng khởi ở vùng rừng núi
Bằng nhiều biện pháp, mua chuộc, dụ dỗ rồi cưỡng ép và khủng bố, đến năm
1957, CQSG tại Khánh Hòa đã xây dựng được các khu tập trung đồng bào dân tộc
thiểu số ở vùng miền núi và giáp ranh. Tuy nhiên, đồng bào thiểu số vốn quen sống
tự do với núi rừng, lại được cách mạng giáo dục và tổ chức nên khi bị tập trung đã
tích cực tham gia đấu tranh để trở về buôn làng.
Lợi dụng sự thiếu hiểu biết và bản chất thật thà của đồng bào thiểu số, tại khu
tập trung, CQSG thường tổ chức các buổi lễ “ăn thề”39 nhằm trói buộc đồng bào
thực hiện chính sách tập trung. Để đối phó với biện pháp này, ngay từ năm 1957,
nhất là những năm 1959-1960, cán bộ cách mạng đã tuyên truyền, vận động đồng
bào không tham gia các cuộc “ăn thề” do CQSG thực hiện. Chính Tỉnh trưởng
Khánh Hòa thừa nhận: “Việt Cộng vận động đồng bào Thượng không tham gia ‘ăn
thề’ do Quốc gia tổ chức; nếu Quốc gia buộc ‘ăn thề’ mà không tránh được thì cứ
dự, sau khi về nhà làm lễ vật tương tự để ‘giải thề’. Việt Cộng cũng tổ chức những
buổi ‘ăn thề’ để đồng bào tuyên thệ không theo Quốc gia mà trung thành với Việt
Cộng. Tại Diên Khánh, chúng đã thành công trong việc tổ chức lễ ‘ăn thề’” [170].
Để phản đối chính sách tập trung, đồng bào tìm cách né tránh các hoạt động
chính trị do CQSG tổ chức. Ngày 29-8-1959, cuộc bầu cử Quốc hội khóa II bị đồng
bào miền núi Khánh Hòa tẩy chay bằng cách: “Lên núi phát rẫy đến chiều tối 30-8-
1959 mới trở về để tránh đi bỏ phiếu, nếu có ai hỏi thì nói không nhớ ngày. Ngoài
ra, còn có người đã bỏ hình Hồ Chí Minh vào hòm phiếu thay vì lá phiếu” [166].
Cuối năm 1959, tại địa bàn hai huyện Khánh Vĩnh và Khánh Sơn, các đơn vị
vũ trang của huyện được hình thành. Cùng thời gian, Đại đội 548 của tỉnh Khánh
39. Là một kiểu tuyên thệ, thề trung thành với ai hay vấn đề nào đó, nếu thất hứa sẽ bị Trời phạt.
57
Hòa, đơn vị 120 của Liên tỉnh 340 cũng được thành lập và đứng chân tại vùng này.
Đây là sự chuẩn bị quan trọng để thực hiện đồng khởi phá các khu tập trung.
Từ khi có LLVT làm chỗ dựa, nhất là sau thắng lợi của phong trào Đồng khởi
Bến Tre (17-1-1960), đồng bào ở miền núi bỏ khu tập trung trở về quê cũ ngày càng
nhiều. Báo cáo “Về việc đồng bào Thượng bỏ làng ra đi” của Tỉnh trưởng Khánh
Hòa thừa nhận: “Hoạt động của Việt Cộng đã từ hình thức chìm qua hình thức
nổi như rải truyền đơn, treo cờ, xúi giục đồng bào Thượng đốt phá làng tập
trung, dùng cung tên chống lại các đội tuần tiểu của ta” [100]. Báo cáo này đề
cập một số vụ đồng bào bỏ khu tập trung: Tháng 10-1959, dân Thượng ở vùng
Tạp Lá, Gia Vu, Dốc Rùa (Cam Lâm) đốt nhà, trốn vào rừng sâu võ trang tên thuốc
độc, gài chông phản kích lại CQSG; ngày 18-1-1960, 9 gia đình Thượng ở Cà Lục
Tiểu (Cam Lâm) đem đồ đạc và gia súc trốn vào rừng; ngày 12-3-1960, 231 người
vùng Giang Biên, 37 người vùng Thạch Trại, 8 gia đình làng Buông Dung (Diên
Khánh) bỏ đi [100, tr. 2-3]. Đến ngày 23-3-1960, Tỉnh trưởng Khánh Hòa báo cáo
Bộ Nội vụ CQSG: “Việt Cộng đã nắm được tất cả Thượng dân vùng Tây Khánh
Hòa, thổ dân hoạt động theo lệnh của Việt Cộng, đang xây dựng Tô Hạp thành
pháo đài chiến đấu chống lại chính quyền Cộng hòa” [170].
Cũng từ đầu năm 1960, để chuẩn bị đồng khởi phá các khu tập trung trên diện
rộng, Tỉnh ủy Khánh Hòa chủ trương đẩy mạnh công tác tuyên truyền qua việc phát
hành báo Tự Trị bằng chữ Quốc ngữ và chữ Raglai, mỗi tháng một kỳ, mỗi kỳ
khoảng 400 - 500 tờ. Cùng với đó, hoạt động đột nhập khu tập trung để tuyên
truyền cũng được tăng cường: 19 giờ ngày 10-3-1960, đột nhập Ba Cụm (Cam
Lâm); 20 giờ ngày 10-4-1960, đột nhập Giang Biên (Diên Khánh); ngày 14 và 16-4-
1960, đột nhập Gia Lố và Da Ka (Diên Khánh).
Giữa tháng 10-1960, Huyện ủy Khánh Sơn chủ trương phát động quần chúng
phá các khu tập trung giáp ranh giữa vùng núi và đồng bằng, trọng điểm là khu Bót
Cây Dầu (Cam Thượng) gồm các thôn Tà Nỉa, Tà Dục, Tà Ông, Cầu Lục Đại. Đêm
19 rạng 20-10-1960, LLVT Khánh Sơn đột kích bắt toàn bộ bọn tề điệp cốt cán, huy
động quần chúng nổi dậy mít tinh, xét xử những tên gây nhiều tội ác, đưa 1.211 dân
trở về làng cũ [1, tr. 376]. Thắng lợi trong việc phá khu tập trung ở Khánh Sơn đem
40. Thành lập tháng 4-1955, phụ trách chỉ đạo các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm
Viên và Đồng Nai Thượng (Lâm Viên, Đồng Nai Thượng nay là tỉnh Lâm Đồng).
58
lại cho Tỉnh ủy Khánh Hòa nhiều kinh nghiệm, đồng thời thôi thúc mạnh mẽ đồng
bào thiểu số ở miền núi Khánh Hòa đứng lên phá các khu tập trung còn lại, điển
hình là khu Thạch Trại (Diên Khánh).
Khu Thạch Trại gồm các thôn Gia Lố, Gia Lê, Gia Lách, Bố Láng, Liên
Buông, Buông Dung, Đá Gang là khu tập trung “kiểu mẫu” lớn nhất tỉnh Khánh
Hòa với trên 4.000 đồng bào thiểu số Raglai, K'ho, T'ring, Êđê. Khu tập trung này
gây trở ngại rất lớn trong việc huy động sức người phục vụ kháng chiến và xây
dựng căn cứ làm chỗ dựa cho cách mạng. Tỉnh ủy Khánh Hòa coi nhiệm vụ phá khu
Thạch Trại là ưu tiên cao nhất trong công tác miền núi nhằm giáng một đòn mạnh
mẽ, làm phá sản chính sách dồn dân tập trung của CQSG, tạo điều kiện cho phong
trào cách mạng phát triển.
Để đảm bảo thắng lợi trong việc phá khu tập trung Thạch Trại, phương án tiến
hành đã được Liên tỉnh 3, Tỉnh ủy Khánh Hòa và Huyện ủy Khánh Vĩnh thảo luận
nhiều lần. Ngoài lực lượng tại chỗ của tỉnh và huyện, Liên tỉnh 3 tăng cường thêm
đơn vị vũ trang 120; nhiều quần chúng cốt cán, đoàn viên ở Tà Giang, Hưng Dưng,
Giang Biên được lựa chọn làm công tác liên lạc, dẫn đường và hướng dẫn quần
chúng nổi dậy.
Lúc 3 giờ sáng ngày 29-10-1960, 5 mũi vũ trang đồng loạt tập kích khu Thạch
Trại. Dưới sự hỗ trợ của LLVT, quần chúng nhân dân đã nổi dậy phá banh toàn bộ
khu tập trung: Đốt phá 2 trụ sở xã, 5 trụ sở thôn, phá 7 cây cầu, bắt 1 hội viên cảnh
sát, 6 dân vệ và 5 thanh niên du kích. Tại các cuộc mít tinh, nhân dân đọc cáo trạng
lên án gay gắt Quận trưởng Diên Khánh và một số người dân tộc thiểu số hoạt động
cho CQSG. Gần một tuần sau, hai trung đội chính quy, một trung đội bảo an được
CQSG tăng viện lên Thạch Trại, tuy nhiên “khi đến nơi thì địch (chỉ cách mạng -
TG) đã rút lui, đồng bào đa số đã chạy trốn” [174, tr. 2].
Ngày 19-11-1960, diễn ra hai cuộc phá khu tập trung tại Cam Lâm: Lúc 19 giờ
30, LLVT và một số đồng bào thiểu số khoảng 100 người, sau khi chốt chặn đường
tiếp viện từ Ba Ngòi đã phát truyền đơn, dùng loa kêu gọi quần chúng nổi dậy phá
khu tập trung Tà Dục (xã Cam Thượng), bắt 6 cán bộ CQSG và đốt phá 122 ngôi
nhà; gần 2 giờ sau, lúc 21 giờ 20, tại xã Cam Lương, LLVT đột nhập hỗ trợ quần
chúng nổi dậy đốt 80 ngôi nhà, bắt 1 Trưởng thôn, phá tan khu tập trung Suối Hai và
59
Tà Lương. CQSG thừa nhận: “Sau khi đột nhập Thạch Trại thuộc quận Diên Khánh,
Việt Cộng cố gây một tình trạng bất an ninh cho vùng thượng du Cam Lâm để tranh
thủ thổ dân, dọn đường về quấy nhiễu trung châu, đồng thời gây cơ sở tiếp tế trong
hàng ngũ thổ dân hầu cung ứng cho nhu cầu của chiến khu Tô Hạp” [175].
Tháng 12-1960, lực lượng cách mạng tấn công khu tập trung Bến Khế (Diên
Khánh), đưa gần 1.000 đồng bào trở về làng cũ. Cùng thời gian đó, tại Cam Lâm,
quần chúng nổi dậy phá khu tập trung Bàu Hùng gồm các thôn Hàm Rồng Trong,
Hàm Rồng Ngoài, Tà Lương, Suối Hai, Dốc Quýt, hơn 200 quần chúng được giải
phóng về với cách mạng [1, tr. 186].
Đến cuối năm 1960, vùng miền núi Khánh Hòa được giải phóng, đồng bào
các dân tộc thiểu số sau nhiều năm bị CQSG o ép được trở lại làm chủ núi rừng, xây
dựng căn cứ làm chỗ đứng cho lực lượng kháng chiến. Đánh giá về phong trào đồng
khởi phá khu tập trung, giải phóng miền núi, báo Giải Phóng của Mặt trận Dân tộc
giải phóng tỉnh Khánh Hòa số 14, ra ngày 11-11-1961 viết: “Từ 1959 đến 1960, ở
miền núi, phong trào dân tộc tự trị ra đời đã đẩy cách mạng tiến lên một bước cao
hơn. Nhân dân thực sự làm chủ núi rừng, chính quyền địch bị tan rã, hàng loạt khu
tập trung ở Khánh Vĩnh, Khánh Sơn liên tiếp bị phá, trên một vạn rưỡi đồng bào đã
trở về với ruộng rẫy của mình” [86, tr. 3].
2.3.4. Chống phá ấp chiến lược
Giống như nhiều địa bàn khác ở miền Nam, tại Khánh Hòa, đối với “quốc
sách” ACL, khi CQSG bắt đầu triển khai xây dựng cũng là lúc nhân dân bắt đầu
chống phá. Bởi vì, “việc gom dân, quy dân lập ấp được thi hành một cách máy móc,
bất chấp quyền lợi của dân chúng, gây nhiều trở ngại trong sinh kế hằng ngày. Bắt
dân đóng góp quá mức, ngoài khả năng của họ, gây cơ hội thối nát cho cán bộ, làm
dân oán ghét chính quyền. Việc thực hiện dân chủ chỉ là hình thức, giả tạo” [296].
Biện pháp phổ biến được áp dụng để chống phá ACL như dây dưa không chịu
triển khai; viện lý do khó khăn, ốm đau, mùa màng, nhà nọ chờ nhà kia, đủ cây thì
thiếu dây, có dây thì cây sắp mục hoặc tự giấu rựa rồi đổ lỗi cho cách mạng cấm
rừng, thu rựa không cho chặt cây; khi buộc phải rào thì cắm cây nông hoặc rào
nhưng không buộc dây,... Những biện pháp này gây cho quá trình lập ACL gặp trở
ngại. Chính Tỉnh đoàn Công dân vụ Khánh Hòa sau khi khảo sát ACL đã thừa nhận:
60
“Công cuộc xây dựng ACL gặp không ít khó khăn: Nhân dân thiếu sự đoàn kết; dân
chúng ỷ lại, luôn trông chờ và đòi hỏi sự giúp đỡ của chính quyền, ưa bàn ngang,
thiếu thiện chí xây dựng” [148, tr. 3].
Tại một số ACL, sau khi được gọi là “hoàn thành”, “hội đủ các tiêu chuẩn”,
nhân dân trong ấp, kể cả ấp “kiểu mẫu” vẫn liên hệ mật thiết với cách mạng. Chẳng
hạn, Ấp Lạc Hòa (xã Ninh An), Vạn Hữu, Phú Hòa (xã Ninh Quang), Trường Lộc,
Tân Hưng (xã Ninh Hưng), Hòa Thuận, Ngũ Mỹ, Tân Lạc (xã Ninh Xuân) nuôi
giấu cán bộ cách mạng bên trong; ấp Lạc Hòa (xã Ninh An), Đôn Tín (xã Ninh
Diêm) tiếp tế hơn 300 giạ lúa, nhiều vật phẩm và muối cho căn cứ; Liên toán trưởng
Phòng vệ dân sự ấp Lạc Hòa, Xuân Hòa (xã Ninh An), Thanh niên chiến đấu xã
Ninh Thọ đa số là cơ sở cách mạng [1], [6].
Để cổ vũ nhân dân chống phá “quốc sách” ACL, công tác tuyên truyền được
Tỉnh ủy Khánh Hòa quan tâm đẩy mạnh. Các tờ Bản Tin Đặc Biệt, Tin Tức, Giải
Phóng của Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Khánh Hòa, tờ Thông Tin của Ty
Thông tin tuyên truyền tỉnh Khánh Hòa thường xuyên đăng tải lời hiệu triệu, lời kêu
gọi, xã luận, đặc biệt là thơ - một hình thức tuyên truyền dễ đi vào lòng người. Một
số bài tiêu biểu như:
Ca dao
“...Đứng lên! Đập nát tan tành
Đốt rào, lấp hố, lấp hầm, đốt chông
Làng trên xóm dưới lưu thông
Đi lại làm đồng, sớm tối tự do” [87, tr. 5].
Cũng độ này
“...Nhân dân anh dũng miền Nam đây
Đã đứng lên rồi, chúng biết tay
Hợp sức phá tung “cùm chiến lược”
Đồng lòng đập nát “Xích - ta - lây”41 [87, tr. 9].
Về làng
41. Tức là Kế hoạch Staley - Taylor, kế hoạch tiến hành chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ
ở miền Nam. Theo dự kiến, kế hoạch sẽ thực hiện trong 4 năm (1961-1965), tuy nhiên, hoàn toàn
bị phá sản năm 1963 khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ.
61
“...Một dòng sông Bến Hải
Không ngăn đường Bắc - Nam
Dù bao ấp chiến lược
Không trói được dân làng” [88, tr. 7].
Cùng với tuyên truyền qua báo chí, truyền đơn cũng liên tục được rải nhiều
nơi trên địa bàn tỉnh. Truyền đơn đề ngày 15-7-1963 tại Nha Trang, Vĩnh Xương,
Diên Khánh sau khi tố cáo “nhà tan cửa nát vì ACL, mất chồng, mất con cũng vì
ACL” [302], đã kêu gọi đồng bào: “Không thể để cho Mỹ - Diệm tự do tròng vào
đầu cổ chúng ta mọi đau thương, chết chóc. Phải hành động để tự cứu lấy mình:
Không chặt cây, không rào làng, không quyên, không góp; đồng lòng chung sức
đấu tranh, nhất định đập tan âm mưu ACL tàn bạo của Mỹ - Diệm” [302].
ACL thực sự là những “pháo đài quân sự” [44, tr. 127], hơn thế nữa là
“những chiếc nơm sắt, lớn, chắc” [21, tr. 102], do vậy, Tỉnh ủy Khánh Hòa khẳng
định muốn phá ACL không thể đơn thuần sử dụng LLCT mà phải có sự phối hợp
tấn công quân sự với công tác nội ứng, nổi dậy của quần chúng. Thành công nhất
của chủ trương này là việc phá ACL, giải phóng xã Ninh Phước42. Ngày 23-3-1962,
một tiểu đội vũ trang huyện Ninh Hòa phối hợp với du kích hỗ trợ cho LLCT gần
2.000 nhân dân xã Ninh Phước nổi dậy phá ACL, tiêu diệt và bắt toàn bộ tề điệp,
lập chính quyền tự quản. Sau nhiều lần tái chiếm không thành, CQSG xoay sang
bao vây kinh tế, phong tỏa nguồn cung cấp gạo cho dân và bắn pháo uy hiếp tinh
thần nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của chính quyền tự quản, 300 đồng bào Ninh
Phước kéo lên quận lỵ đấu tranh đòi được mua bán gạo, yêu cầu không được bắn
pháo vào làng. Trước áp lực của nhân dân, Quận trưởng buộc phải nới lỏng các hoạt
động bao vây kinh tế. Đến tháng 6-1962, CQSG tiến hành “đốt sạch, phá sạch, đuổi
sạch” biến Ninh Phước thành vùng trắng, dân chúng bị đưa đến những nơi đối
phương tạm chiếm như xã Vĩnh Hải, xã Vĩnh Phước (quận Vĩnh Xương), xã Ninh
Diêm (quận Ninh Hòa). Có 17 gia đình với 72 nhân khẩu đã thoát vào rừng, bám trụ
tham gia kháng chiến cho đến ngày giải phóng (1975).
Cũng với phương thức ĐTQS hỗ trợ ĐTCT, trong hai năm 1962-1963, hàng
loạt ACL ở Khánh Hòa tiếp tục bị phá. Cụ thể, ngày 11-4-1962, phá các ACL ở xã
Ninh Hưng; đêm 22-9-1962, tiếp tục phá các ấp ở xã Ninh Hưng, Ninh Quang (quận
42. Là xã hẻo lánh của huyện Ninh Hòa, có 3 thôn trên đất liền: Đầm Vân, Ninh Tịnh, Ninh Yển và
thôn đảo Mỹ Giang, là vùng căn cứ kháng chiến chống Pháp, dân số khoảng 2.000 người.
62
Ninh Hòa); từ tháng 3 đến tháng 10-1963, phá toàn bộ ACL ở xã Vạn Phú (quận
Vạn Ninh); ngày 21-5-1963, phá ACL xã Vĩnh Thạch, Vĩnh Thái; ngày 25-5-1963,
phá ACL Võ Kiện (quận Vĩnh Xương);...
Rõ ràng, chủ trương chống phá ACL bằng sự nổi dậy của quần chúng có sự hỗ
trợ của LLVT ở Khánh Hòa đã đem lại hiệu quả. Chính phía CQSG cũng thừa nhận
lực lượng cách mạng đã sử dụng biện pháp chính trị kết hợp với quân sự để chống
phá ACL: “Về chính trị, tuyên truyền rằng, quốc sách ACL có hại cho đời sống nhân
dân, có nhiều tiêu cực trong công tác xây dựng ACL. Về quân sự, việc đánh phá ACL
là vấn đề chiến thuật quan trọng: Đối với những ACL nắm chắc được quy luật và tình
hình, chúng dùng lực lượng đặc công hoặc phối hợp nội công ngoại kích để đánh
phá, tiêu diệt chính quyền và dân vệ; đối với những ấp chưa có đủ điều kiện đánh phá
thì áp dụng hình thức quấy rối, đốt phá hàng rào” [301, tr. 2].
2.3.5. Đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo
Tiến thêm một bước trong chính sách kỳ thị Phật giáo, ngày 6-5-1963, chính
quyền Ngô Đình Diệm ban hành Công điện 9195 với nội dung cấm treo cờ Phật
giáo vào dịp Đại Lễ Phật đản 1963 (2507). Chiều hôm sau (7-5-1963), Tăng Ni,
Phật tử biểu tình, bao vây Tỉnh toà Thừa Thiên. Sáng ngày 8-5-1963, tại Lễ đài
chùa Từ Đàm, trước đông đảo Tăng Ni, Phật tử, giới lãnh đạo Phật giáo nêu yêu
sách đòi CQSG thực thi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo. Đêm 8-5-1963,
CQSG gây ra vụ đàn áp đẫm máu tại Đài phát thanh Huế làm 8 Phật tử thiệt mạng43.
Ngày 10-5-1963, Phật giáo Huế tổ chức mít tinh tại chùa Từ Đàm công bố Bản
Tuyên ngôn gồm 5 nguyện vọng tối thiểu với nội dung chủ yếu là yêu cầu CQSG
thực thi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo44. Những sự kiện trên đây cho thấy
cuộc vận động đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo của Phật giáo miền Nam năm
1963 đã thực sự bắt đầu ở Huế.
Tại Khánh Hòa, cuộc vận động đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo năm
43. 8 Phật tử thiệt mạng gồm Nguyễn Thị Ngọc Lan 12 tuổi, Huyền Tôn Nữ Tuyết Hoa 12 tuổi,
Dương Văn Đạt 13 tuổi, Đặng Văn Công 13 tuổi, Nguyễn Thị Phúc 15 tuổi, Lê Thị Kim Anh 17
tuổi, Trần Thị Phước Trị 17 tuổi, Nguyễn Thị Yến 20 tuổi. 44. 5 nguyện vọng là: 1. Yêu cầu Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thu hồi vĩnh viễn công điện triệt
giáo kỳ của Phật giáo; 2. Yêu cầu Phật giáo phải được hưởng một quy chế đặc biệt như các Hội
Truyền giáo Thiên Chúa đã được ghi trong Dụ số 10; 3. Yêu cầu Chính phủ chấm dứt tình trạng bắt
bớ, khủng bố tín đồ Phật giáo; 4. Yêu cầu cho Tăng, tín đồ Phật giáo được tự do truyền đạo và hành
đạo; 5. Yêu cầu Chính phủ phải đền bồi một cách xứng đáng cho những kẻ giết oan vô tội và kẻ
chủ mưu giết hại phải đền bồi đúng mức.
63
1963 cũng bắt đầu từ ngày 7-5. Ngay khi Công điện 9195 của CQSG chuyển đến
Tỉnh hội, Thượng tọa Thích Trí Thủ - Giám viện Phật học viện Trung Phần Nha
Trang, Đại đức Thích Đức Minh - Hội trưởng Phật giáo tỉnh Khánh Hòa, trực tiếp
gặp Tỉnh trưởng Lê Tập bày tỏ lập trường: “Hoặc là tổ chức lễ Phật đản với giáo kỳ
hoặc là không tổ chức gì hết” [47, tr. 300]. Trước thái độ cương quyết của giới lãnh
đạo Phật giáo, viên Tỉnh trưởng chấp thuận cho treo Giáo kỳ trở lại. Ngày hôm sau
(8-5-1963), Lễ Phật đản được tổ chức trang nghiêm tại các chùa trên địa bàn tỉnh.
Sau lễ Phật đản, tại Khánh Hòa “tuy bên ngoài có vẻ trầm lắng để chờ quyết
định chung của Tổng hội Phật giáo nhưng bên trong từ các vị Hòa thượng, Đại
đức, nhân viên Ban trị sự Tỉnh hội, Chi hội và Khuôn hội cho đến các Phật tử đều
ngấm ngầm vận động một cuộc đấu tranh mới” [264]. Cụ thể, THPG Khánh Hòa
cho phát hành “Lá tâm thư” của Thượng tọa Thích Tâm Châu - Phó Hội chủ Tổng
hội Phật giáo Việt Nam và ấn phẩm “Tường thuật cuộc sát hại Phật tử tại Huế”.
Các văn bản này “ngoài việc ghi lại sự kiện xảy ra tại Huế còn có tác dụng động
viên tinh thần đấu tranh của Phật tử” [264], làm cho họ “xúc động và công phẫn
đến một độ đáng lo ngại” [265].
Ngày 14-5-1963, Hoà thượng Thích Tịnh Khiết - Hội chủ Tổng hội Phật giáo
Việt Nam, chỉ thị các hội Phật giáo tổ chức lễ thọ tang cho các Thánh tử đạo. Chấp
hành chỉ thị, ngày 20-5-1963, Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Khánh Hòa họp tại chùa
Long Sơn bàn việc tổ chức lễ cầu siêu. Nắm được tin này, CQSG yêu cầu THPG
Khánh Hoà nên tổ chức đơn giản, hạn chế số lượng Tăng Ni, Phật tử tham dự và giới
hạn trong phạm vi thị xã, song đề nghị này không được chấp nhận. Ngày 21-5-1963,
tại chùa Long Sơn, lễ cầu siêu được tổ chức trọng thể, có dựng đài tưởng niệm. Mặc
dù CQSG tìm đủ cách ngăn cản như chặn xe lục soát giấy tờ, đóng cửa các ACL,
triệu tập học tập bầu cử Quốc hội..., nhưng tín đồ Phật tử từ các địa phương trong tỉnh
về tham dự rất đông, riêng Chi hội Cam Lâm đã thuê 7 xe khách chở Phật tử về Nha
Trang dự lễ [267]. Tiếp theo, ngày 28-5-1963, Phật học viện Trung phần Nha Trang
tổ chức lễ cầu siêu tuần thứ ba cho các Thánh tử đạo ở Huế. Lễ cầu siêu diễn ra giữa
một rừng cờ Phật giáo, ngoài học tăng của Phật học viện, còn có đông đảo Tăng Ni,
Phật tử Khánh Hoà tham dự. CQSG đã cúp điện khiến cuộc phát thanh thông bạch và
tài liệu của Tổng hội Phật giáo Việt Nam bị trở ngại.
Ngày 24-5-1963, để tỏ rõ quyết tâm tranh đấu cho tự do tín ngưỡng và bình
64
đẳng tôn giáo, Hoà thượng Thích Tịnh Khiết chỉ thị cho lãnh đạo các tập đoàn Phật
giáo Việt Nam tuyệt thực 48 giờ đồng hồ. Hòa cùng với cuộc đấu tranh của Phật
giáo miền Nam, lúc 8 giờ 30 ngày 1-6-1963, 19 Tăng Ni bắt đầu tuyệt thực ở 2 địa
điểm: Chư Tăng tuyệt thực tại Công trường Trình Minh Thế, chư Ni tuyệt thực tại
Công trường Cộng hòa45. THPG Khánh Hòa dự tính: “Sau mỗi 48 tiếng đồng hồ,
nếu đấu tranh chưa đạt kết quả sẽ được tăng thêm một số mới để bành trướng lực
lượng và hình thức tranh đấu” [270]. Cùng thời điểm trên, 120 Tăng Ni và khoảng
2.000 tín đồ tuần hành qua các đường phố rồi thẳng đến Tòa Hành chính Tỉnh.
Đoàn tuần hành mang theo Đại kỳ Phật giáo và biểu ngữ: “Yêu cầu Chính phủ giải
quyết gấp 5 nguyện vọng ghi trong bản Tuyên ngôn 10-5-1963” [270].
Lúc 20 giờ, ngày 1-6-1963, THPG Khánh Hòa tổ chức hội nghị nhằm chuẩn
bị cho cuộc biểu bình hôm sau. Ty CSQG Khánh Hoà cho lực lượng ngầm theo dõi
và trong báo cáo gửi cấp trên đã cho biết quyết định của THPG Khánh Hoà: “Nếu
cuộc biểu tình ngày mai chưa thỏa đáng sẽ có cuộc biểu tình khác bằng cách táo
bạo và bất ngờ chính quyền không thể đề phòng kịp và sẽ có cuộc tự sát bằng hình
thức hỏa thiêu 1 người để gây tiếng vang” [271].
Cũng trong ngày 1-6-1963, Tòa Đại biểu Chính phủ tại TNTP ban hành Công
điện số 157/CT cấm nhân dân biểu tình. Bất chấp lệnh của CQSG, tại Khánh Hòa,
sáng 2-6-1963, khoảng 3.000 Tăng Ni, Phật tử tổ chức tuần hành theo lộ trình: Mã
Vòng - Độc Lập - Công trường Cộng Hòa - Trần Quý Cáp - Nhà Thờ46 - Gia Long47
- chùa Tỉnh hội. Đoàn biểu tình mang Quốc kỳ VNCH, Giáo kỳ, khẩu hiệu cả tiếng
Việt, tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Hoa: “Yêu cầu chính phủ giải quyết gấp 5
nguyện vọng của Phật giáo Việt Nam”. Cùng ngày, đông đảo Phật tử từ Cam Lâm,
Diên Khánh, Vạn Ninh kéo về Nha Trang hưởng ứng cuộc đấu tranh.
Lo sợ trước sự phát triển của phong trào, chiều 2-6-1963, Tỉnh trưởng Khánh
Hòa đã mời Ban Trị sự THPG đến thảo luận, đề nghị chấm dứt tuần hành trên công
lộ, đưa các Tăng Ni tuyệt thực về chùa. Xuất phát từ tinh thần bất bạo động, đồng
thời để giữ gìn lực lượng cho cuộc đấu tranh có khả năng còn kéo dài, lãnh đạo Phật
giáo Khánh Hòa đã chấp nhận. Tuy nhiên, Tỉnh hội yêu cầu phía CQSG cho loan tin
45. Nay là khu vực dựng Tượng đài chiến thắng, số 5 đường 2-4. 46. Nay là đường Lê Thành Phương. 47. Nay là đường Thái Nguyên.
65
trên Đài Phát thanh, rằng: “Thể theo yêu cầu của quý Tỉnh trưởng nên chư Tăng Ni
đã tạm thời về chùa Phật giáo tiếp tục tuyệt thực để yêu cầu Chính phủ thỏa mãn 5
nguyện vọng của Phật giáo được ghi trong bản Tuyên ngôn ngày 10-5-1963” [149].
Sáng 3-6-1963, trên 3.000 đồng bào đã đến rước các Tăng Ni về Trường Trung học
Bồ Đề Nha Trang48. Tại đây, cuộc tuyệt thực tiếp diễn cho đến sáng 6-6-1963.
Ngày 4-6-1963, tại chùa Trung Nghĩa, THPG Khánh Hoà tổ chức lễ cầu siêu
tuần thứ tư cho các Thánh tử đạo. Dù đã chấp thuận trước nhưng khi lễ cầu siêu diễn
ra, CQSG vẫn huy động cảnh sát ngăn Tăng Ni, Phật tử đến dự lễ và cúp điện nhà
chùa. Một số Tăng Ni, Phật tử bị chặn lại trước cửa chùa, phải quỳ dưới lối lên để dự
“một buổi lễ cử hành trầm lặng, giữa sự đau lòng xót dạ của mọi người” [47, tr. 304].
Sau buổi lễ, đông đảo Phật tử tuần hành theo lộ trình: Quốc lộ I - Quang Trung - Lý
Thánh Tôn - Nguyễn Hoàng49 - Xóm Mới - Phước Hải50 - Gia Long - chùa Tỉnh hội.
Mặc dầu không có kế hoạch trước, nhưng cuộc tuần hành này “đông đảo hơn bao giờ
hết, nhất là thành phần thanh niên, sinh viên và học sinh” [146].
Để đối phó với phong trào đấu tranh ngày càng lên cao, một cuộc họp bất
thường được Tỉnh trưởng Khánh Hòa triệu tập lúc 9 giờ ngày 5-6-1963. Cuộc họp
quyết định thành lập Bộ Tham mưu An ninh đặc biệt gồm: Tỉnh trưởng - Chỉ huy
trưởng, Phó Tỉnh trưởng Hành chính và Phó Tỉnh trưởng Tài chính - Chỉ huy phó,
Đại úy Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 38 bảo an - phụ trách chung, Đại úy Quân vụ
trưởng - chịu trách nhiệm về trật tự ngoài phạm vi biểu tình trong toàn lãnh thổ
quân trấn, Đại úy Phạm Văn Trí thuộc Trường Hạ sĩ quan Đồng Đế - Sĩ quan liên
lạc giữa Trường với Bộ Tham mưu [240, tr. 3]. Hành động đầu tiên của Bộ Tham
mưu An ninh đặc biệt là phong toả chùa Tỉnh hội, buộc công chức làm giấy cam
kết, không đi chùa và không cho vợ con đi chùa,... [47, tr. 305]. Ngày 6-6-1963,
Toà Hành chính Khánh Hoà ra lệnh thiết quân luật tại Nha Trang và vùng phụ cận
từ 21 giờ hôm trước đến 5 giờ sáng hôm sau. Tuy vậy, do phong trào đấu tranh
mạnh mẽ của quần chúng, ngày 10-6-1963, lệnh thiết quân luật buộc phải bãi bỏ.
Ngày 11-6-1963, Hòa thượng Thích Quảng Đức51 tự thiêu tại Sài Gòn. Được
48. Nay là Trường THCS Phan Sào Nam, số 24 đường Phật Học. 49. Nay là đường Ngô Gia Tự. 50. Nay là đường Nguyễn Trãi. 51. Hòa thượng Thích Quảng Đức sinh năm 1897 tại xã Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh
Hòa, từng giữ chức Kiểm tăng THPG Khánh Hòa. Năm 1943, Hòa thượng rời Khánh Hòa vào hành
66
tin, Phật giáo đồ Khánh Hòa xúc động mạnh, giới lãnh đạo Phật giáo trong tỉnh chủ
trương phải hành động quyết liệt noi gương Hòa thượng và biện pháp tự thiêu đồng
loạt đã được tính đến. Theo biên bản cuộc họp lúc 9 giờ ngày 12-6-1963 của Tòa
Tỉnh trưởng Khánh Hòa, THPG dự định tổ chức tự thiêu tại 6 địa điểm: Công
trường Trình Minh Thế, Công trường Cộng Hòa, Tòa Tỉnh trưởng, Ngã Sáu Nhà
thờ, Bến xe Phước Hải và Bến xe Sinh Trung. Nhằm ngăn chặn cuộc tự thiêu tập
thể này, Tỉnh trưởng Khánh Hòa chỉ đạo: Kiểm soát xe nghi chở người tự thiêu; tịch
thu dụng cụ tự thiêu; bắt tất cả những người tiếp tay, chuyển qua Tòa án để truy tố;
tại mỗi địa điểm trên, bố trí lực lượng gồm 1 Quân cảnh, 3 CSQG, 4 Bảo an, 2 mền
cứu hỏa, phương tiện liên lạc bằng điện thoại hoặc bằng xe [241, tr. 2].
Do CQSG tăng cường kiểm soát, các vụ tự thiêu ở Khánh Hòa bị ngăn chặn,
một số Tăng Ni dự định vào Sài Gòn thực hiện ý nguyện. Biết tin này, Ty CSQG
Khánh Hòa đối phó bằng cách vận động ngầm với hàng không, xe hơi không bán vé.
Cũng với biện pháp trên, chiều 12-6-1963, Ty CSQG Khánh Hòa đã không cho Đại
đức Thích Quảng Hương52 mua vé máy bay đi Sài Gòn. Phản ứng lại, tối 12-6-1963,
THPG Khánh Hòa quyết định: “Bằng mọi giá, Đại đức Thích Quảng Hương phải lên
được máy bay chiều 13-6-1963; nếu tiếp tục bị ngăn cản, Đại đức sẽ hỏa thiêu ngay
tại sân bay Nha Trang” [179]. Trước sự cương quyết của Tỉnh hội, CQSG buộc phải
để Đại đức Thích Quảng Hương đi Sài Gòn bằng chuyến bay đã định.
Sau khi Thích Quảng Đức “tử vì Đạo”, bộ ảnh vụ tự thiêu của Ngài được
THPG Khánh Hòa phát cho Phật tử và được Nhà sách Hoa Sen (đường Độc Lập)
phát hành rộng rãi trong dân chúng. Ty CSQG Khánh Hòa thừa nhận: “Bộ ảnh ấy
được tiêu thụ rất mạnh và phổ biến đến đâu đều được nhiều người tò mò đua nhau
xem. Sự kiện này có thể gây nhiều xúc động và kéo thêm dư âm lâu dài”, và đề
nghị: “Tỉnh ban hành thông cáo cấm chỉ việc phát hành loại ảnh này trong toàn
tỉnh để tránh những ảnh hưởng không hay về phương diện chính trị” [292].
Cùng với bộ ảnh về vụ tự thiêu của Thích Quảng Đức, THPG Khánh Hòa còn
cho phổ biến bài thơ có tên “Bức thư gửi bạn phương xa” của Nữ sĩ Hoàng Thành
đạo tại Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ. Ngôi chùa cuối cùng ông trú trì là Quan Thế Âm ở quận Phú
Nhuận, Sài Gòn (nay là TP. Hồ Chí Minh). 52. Đại đức Thích Quảng Hương từng học tập và hoằng pháp tại Phật học viện Trung Phần Nha
Trang từ năm 1950 đến năm 1959. Năm 1963, khi đang Trú trì chùa Khải Đoan (Đắk Lắk), Đại đức
tình nguyện vào Sài Gòn tự thiêu ngày 5-10.
67
từ Sài Gòn gửi ra:
“…Dân tộc ta tám mươi phần Phật tử
Ánh Đạo vàng để gục tắt hay sao?
Giờ phút đây kíp phải liệu thế nào
Nếu câm lặng sẽ phải vào cõi chết
Người Phật tử không khi nào sợ sệt
Vậy, chúng ta phải mạnh dạn tiến lên” [180, tr. 3].
Bài thơ như tiếp thêm tinh thần và ý chí, thôi thúc đồng bào Phật tử tiếp tục
đấu tranh. Ngay lập tức, CQSG “cho các cơ quan an ninh thu và lập biên bản truy
tố khi bắt gặp quả tang kẻ nào đang lưu hành hoặc tàng trữ bức thư” [180, tr. 2].
Sau “ngọn lửa” Thích Quảng Đức (11-6-1963), không chỉ tại Khánh Hoà mà
khắp các đô thị miền Nam, phong trào Phật giáo lên cao, cùng với đó dư luận quốc
tế, đặc biệt là Mỹ, lên án gay gắt CQSG. Để tránh một cuộc nổi dậy của Phật giáo,
CQSG phải nhượng bộ bằng việc ký với giới lãnh đạo Phật giáo bản Thông Cáo
chung (16-6-1963), thỏa mãn 5 nguyện vọng của Phật giáo được đề ra trong bản
Tuyên ngôn ngày 10-5-1963. Thật ra, đây chỉ là kế hoạch hoãn binh của CQSG, bởi
trong mật điện số 13242/VP/TT, ngày 19-6-1963 gửi Đại biểu Chính phủ các miền,
Văn phòng Phủ Tổng thống khẳng định: “Để tạm thời làm dịu tình hình và khí thế
đấu tranh quá quyết liệt của bọn Tăng Ni, Phật giáo phản động, Tổng thống và ông
Cố vấn ra lệnh tạm thời nhún nhường họ. Các nơi hãy theo đúng chủ trương trên và
đợi lệnh. Một kế hoạch đối phó thích nghi sẽ gởi đến sau. Ngay từ bây giờ, hãy
chuẩn bị dư luận cho giai đoạn tấn công mới, hãy theo dõi, điều tra, thanh trừng
những phần tử Phật giáo bất mãn và trình thượng cấp, kể cả sĩ quan và công chức
cao cấp” [24, tr. 75].
Nhận rõ bản chất lật lộng của CQSG nên sau ngày ký Thông Cáo chung,
THPG Khánh Hòa vẫn khuyến cáo toàn thể Phật giáo đồ: “Chớ quá lạc quan mà
quên mất bổn phận và trách nhiệm trong lúc hiện tại. Hằng đêm, các chùa, Khuôn
hội, Chi hội phải tổ chức tụng niệm cầu nguyện cho Phật sự được an lành, nhân
dân an lạc, kẻ mệnh bạc siêu thăng” [150]. Từ ngày 22 đến ngày 24-6-1963, đại lễ
thọ tang Hòa thượng Thích Quảng Đức được cử hành trang nghiêm tại chùa Long
Sơn, Trường Bồ đề Nha Trang, sau buổi lễ, di chúc và di ảnh của Hòa thượng được
68
trưng bày tại Văn phòng Tỉnh hội. Tiếp đó, ngày 2-7-1963, lễ cầu siêu tuần thứ ba
cho Hòa thượng Thích Quảng Đức cũng được THPG Khánh Hòa tổ chức, trong
buổi lễ có đọc tiểu sử của Ngài, diễn từ của Tổng hội Phật giáo Việt Nam [273].
Những ngày tiếp theo, tại Khánh Hòa, CQSG bằng nhiều thủ đoạn đã gây ra
hàng loạt vụ vi phạm Thông Cáo chung, ít nhất có 4 vụ việc được THPG Khánh
Hòa nêu cụ thể: 1. Ngày 6-7-1963, có kẻ vào chùa Tỉnh hội phá khuôn kính, lấy
trộm ảnh Hòa thượng Thích Quảng Đức; 2. Lúc 2 giờ sáng 7-7-1963, xe hơi của
ông Trần Quang Ba - Phó Hội trưởng THPG Khánh Hòa, bị đốt tại nhà riêng; 3.
Đêm 14-7-1963, tại Phật học viện Trung Phần Nha Trang có người lẽn vào hành
hung các thầy; 4. Tại Ni trưởng Phước Hải, lúc 10 giờ ngày 15-7-1963, có 2 thanh
niên đến cướp một xâu chìa khóa [140, tr. 2].
Trước sự vi phạm Thông Cáo chung ngày càng gia tăng không chỉ ở Khánh
Hòa mà trên khắp miền Nam, ngày 14-7-1963, Hòa thượng Thích Tịnh Khiết gửi
Thông bạch kêu gọi toàn thể Tăng tín đồ tiếp tục đấu tranh,“nhất tề thực hiện phong
trào” [24, tr. 76]. Hưởng ứng lời kêu gọi, phong trào Phật giáo miền Nam phục hồi
trở lại với cường độ cao hơn trước. Tại Khánh Hòa, ngày 8-8-1963, ba Học tăng
Phật học viện Trung Phần Nha Trang là Hồ Đắc Chương, Nguyễn Phi Vân và
Nguyễn Đạo Uy đã bí mật vào Sài Gòn để xin tự thiêu cho 5 nguyện vọng của Phật
giáo. Một tuần sau, lúc 8 giờ 30 ngày 15-8-1963, Ni cô Diệu Quang tự thiêu tại
Ninh Hòa và bị CQSG cướp thi hài. Được tin, trưa cùng ngày, chừng 1.000 người
kéo đến Tòa Hành chính tỉnh Khánh Hòa yêu cầu trả thi hài Ni cô Diệu Quang.
Mờ sáng 16-8-1963, hàng ngàn Tăng Ni, Phật tử tụ tập từng nhóm từ 50 đến
100 người trên các đường phố, căng biểu ngữ, dùng xe hơi chạy khắp thị xã kêu gọi
dân chúng đấu tranh. Lúc này, Thiếu tướng Nguyễn Khánh - Tư lệnh Quân đoàn II
VNCH, có mặt tại Nha Trang đã ra lệnh dùng lựu đạn cay, vòi rồng giải tán các
đám đông. Tối hôm đó, lúc 22 giờ, Uỷ ban Liên phái bảo vệ Phật giáo chỉ thị THPG
Khánh Hòa tiếp tục đấu tranh đòi cho kỳ được thi thể Ni cô Diệu Quang. Chấp hành
chỉ thị, sáng 17-8-1963, khoảng 300 Tăng Ni, Phật tử ở lại chùa Tỉnh hội từ tối 16-
8-1963, ào ạt tiến ra Quốc lộ 1 hướng vào trung tâm thị xã Nha Trang. Đoàn biểu
tình trang bị gậy, gạch, đá, giương cao các khẩu hiệu bằng tiếng Việt và tiếng Anh:
“Hãy giết chúng tôi đi”, “Hãy trả thi hài Ni cô Diệu Quang cho chúng tôi”, “Chúng
69
tôi đòi thi hành đúng đắn Thông Cáo chung”, “Hãy chấm dứt mọi hình thức khủng
bố và áp bức Phật giáo đồ” [182]. Cuộc biểu tình cũng bị CQSG đán áp. Theo Công
văn số 2524/CT/1M (21-8-1963) của Tỉnh trưởng Khánh Hòa gửi Bộ Nội vụ, trong 2
ngày 16 và 17-8-1963, cảnh sát bắt giữ 107 người, trong đó 67 người đã trả tự do, 12
người đang lập tờ khai và 28 người giao Tòa án truy tố [183, tr. 2].
Sau 2 ngày đấu tranh nhưng mục tiêu vẫn chưa đạt được, THPG Khánh Hòa
“chuẩn bị cho hỏa thiêu thêm vài Tăng Ni để tranh đấu đòi xác Ni cô Diệu Quang”
[183]. Chủ trương này làm cho CQSG tại Khánh Hòa hết sức bối rối, bị động, nên
cùng với việc siết chặt an ninh, yêu cầu các quận thành lập “Ban cứu hỏa thiêu”,
chuẩn bị phương tiện như mền ướt, cát, xe nước..., Tỉnh trưởng Khánh Hòa gửi
công điện xin ý kiến chỉ đạo của Bộ Nội vụ, vì “không biết xử trí ra sao?” [183].
Lúc 17 giờ, ngày 18-8-1963, Ni cô Ngô Thị Phương Lan và Ni cô Vũ Thị Kim
Oanh mang đơn của ông Ngô Đình Hòe (thân phụ Ni cô Diệu Quang) vào Sài Gòn
đề nghị Tổng hội Phật giáo can thiệp đòi xác Diệu Quang. Tuy nhiên, 2 người
không thể lên máy bay, vì nhân viên phi trường Nha Trang viện đủ lý do để ngăn
cản, thậm chí “soát cả giấy chích ngừa dịch hạch” [112]; đồng thời, lá đơn cũng bị
tịch thu. Sáng 19-8-1963, hai Ni cô đã bí mật đi Sài Gòn bằng xe hơi mang theo
băng ghi âm lời thỉnh cầu của ông Ngô Đình Hòe.
Với quyết tâm đòi bằng được xác Ni cô Diệu Quang, THPG Khánh Hòa lên kế
hoạch tổ chức một cuộc biểu tình rầm rộ vào ngày 21-8-1963, trong cuộc biểu tình
này “sẽ có một nhóm học sinh và quân nhân cải trang để làm hậu thuẫn cho Tăng
Ni” [112]. Tuy nhiên, mọi việc đang được chuẩn bị thì ngày 20-8-1963, Ngô Đình
Diệm ký Sắc lệnh số 84-TTP, tuyên bố tình trạng giới nghiêm trên toàn miền Nam;
đồng thời, thực hiện “Kế hoạch nước lũ”: “Cương quyết thanh trừng các phần tử
phản bội và quá khích trong giới Tăng Ni, công chức, giáo sư, sinh viên cũng như
trong các đoàn thể nhân dân” nhằm giải quyết dứt điểm “vụ Phật giáo” [25, tr. 77].
Tại Khánh Hòa, lúc 4 giờ sáng 21-8-1963, CQSG tiến hành lục soát chùa Tỉnh hội,
bắt những người bị coi là cầm đầu với tội “chống Chính phủ”. Cần lưu ý rằng, để lấy
cớ lục soát chùa và kết tội lãnh đạo THPG, trước đó, CQSG đã cho người bí mật bỏ
lựu đạn vào chùa [278]. Tiếp theo, ngày 22-8-1963, Tỉnh trưởng Khánh Hòa ra
Thông cáo số 306/TKKH/3 thi hành lệnh giới nghiêm trên địa bàn tỉnh.
70
Sau “Kế hoạch nước lũ”, cuộc đấu tranh của Phật giáo Khánh Hòa đòi tự do
tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo dường như kết thúc: “Vấn đề tranh đấu của Phật
giáo hiện nay, dù muốn dù không cũng không thể tiếp tục được vì dụng cụ, máy
móc, tài chính, hồ sơ đều bị chính quyền tịch thu. Chúng tôi hiện nay như chim bị
nhặt lông, nhổ cánh. Chắc quý tỉnh không còn lo ngại về việc làm của chúng tôi
nữa” [61, tr. 2]. Song trên thực tế, phong trào vẫn tiếp tục diễn ra, khi âm thầm khi
công khai. Ngày 25-10-1963, trong lúc giáo viên, học sinh Trường Trung học Võ
Tánh và Trường Nữ Trung học Nha Trang đang chào cờ thì một vài tiếng nổ phát ra
ở góc đường gần đó. Lợi dụng tình thế hỗn loạn, một số truyền đơn ghi “Lá tâm thư
của sinh viên, học sinh toàn quốc gửi đồng bào các giới tại trường Võ Tánh” được
ném vào 2 hai trường. Cũng thời gian này, trong giới học sinh phổ biến bài “Ca dao
mới”, với những câu mở đầu đầy ý mỉa mai:
“Em bước lên nhà thờ
Nhìn lên cây Thánh giá
Lệ em rơi lã chã
Em cầu chúa Ki tô
Ban phước lành xuống họ Ngô
Mạnh tay đàn áp Phật giáo đồ Việt Nam” [275, tr. 2].
Những câu “ca dao” như báo trước tiền đồ đen tối của chế độ Ngô Đình
Diệm, và sự thật “phước lành” đã đến khi cuộc đảo chính ngày 1-11-1963 diễn ra.
Anh em Diệm - Nhu bị giết chết. Chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm sau 9 năm
thống trị miền Nam sụp đổ. Phong trào đấu tranh đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng
tôn giáo năm 1963 ở miền Nam nói chung, Khánh Hoà nói riêng kết thúc.
Có thể nói, trong phong trào đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo năm
1963, Phật giáo Khánh Hòa đã hưởng ứng sớm, đấu tranh quyết liệt, tạo được ảnh
hưởng sâu rộng trong xã hội và thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Phong trào
đấu tranh của Phật giáo Khánh Hòa đã vượt qua giới hạn địa phương, đóng góp
quan trọng vào cuộc vận động của Phật giáo miền Nam năm 1963.
2.3.6. Chống độc tài, quân phiệt, đòi tự do và dân chủ
Sau “cuộc chỉnh lý” ngày 30-1-1964, lật đổ “Hội đồng Quân nhân cách mạng”,
71
Nguyễn Khánh lên nắm quyền đã sớm bộc lộ rõ bản chất độc tài và quân phiệt.
Sự độc tài trước hết thể hiện ở chỗ Nguyễn Khánh dung túng và đưa trở lại nắm
quyền đối với dư đảng Cần lao vốn là tay chân của chế độ Ngô Đình Diệm. Hành
động này làm dấy lên phong trào truy quét Cần lao trên khắp miền Nam. Ở Nha
Trang - Khánh Hòa, nơi được coi là “chứa chấp những tên đã sát hại dân, đang bị
lùng bắt ở những vùng mà họ đã gây nên tội ác” [317], phong trào diễn ra rất sôi nổi.
Đấu tranh chống dư đảng Cần lao về cơ bản có 2 dạng. Dạng thứ nhất, đấu tranh
để loại bỏ những đảng viên Cần lao tiếp tục tham gia CQSG sau ngày 1-11-1963, nhất
là khi Nguyễn Khánh lên cầm quyền. Biện pháp phổ biến nhất cho dạng đấu tranh này
là làm đơn tố cáo nặc danh hoặc đứng tên tập thể theo kiểu “nhóm cán bộ thanh
niên...”, “toàn dân ấp...”, “nông dân xã...”, “một nhóm đồng bào xã...”, “Hiệu trưởng
và giáo viên Khánh Hòa”...; nội dung đơn tố cáo hành vi và tội trạng của đảng viên
Cần lao. Chẳng hạn, đơn của 15 công dân Nha Trang tố cáo Hoàng Đình Giang - Phó
Tỉnh trưởng, “đàn áp Phật giáo đồ và sinh viên, học sinh; tay sai đắc lực của chế độ
Ngô Đình Diệm”; tâm thư của một nhóm thanh niên Nha Trang tố cáo Man Đức Thiện
- Thủ lĩnh Thanh niên Cộng hòa thị xã Nha Trang, “không mang lại cho người thanh
niên một hướng đi lý tưởng, trái lại biến thanh niên thành công cụ của chính quyền họ
Ngô”; đơn của nhân dân ấp Phước Lộc, xã Ninh Quang, quận Ninh Hòa tố cáo Huỳnh
Tú - Trưởng ấp, Nguyễn Ta - Phụ tá an ninh, “cậy quyền thế hà hiếp nhân dân”; đơn
của nông dân xã Ninh Đông, quận Ninh Hòa tố cáo Hội đồng xã “võ trang Thanh niên
chiến đấu bao vây chùa Thiên Ân, lấy tiền viện trợ xây dựng ACL chi tiêu cho gia
đình”; đơn của một nhóm công dân quận Ninh Hòa tố cáo Nguyễn Hữu Hào - cán bộ
quận, “có hành vi tham nhũng”; đơn của đồng bào Diên Điền tố cáo Hội đồng xã “có
đa số nhân viên làm nhiều điều mờ ám, độc đoán, bất công”; đơn của các Hiệu trưởng
và giáo viên Khánh Hòa tố cáo Nguyễn Đình Thoan - Trưởng ty Tiểu học, “mạt sát
cuộc đấu tranh chống chế độ cũ của học sinh, sinh viên”;... Đến ngày 12-5-1964,
CQSG tại Khánh Hòa thống kê có 29 vụ tố cáo điển hình [299, tr. 2-7].
Dạng thứ hai, đấu tranh đòi CQSG phải điều tra, công bố tội trạng và xử lý
những đảng viên Cần lao gây nhiều tội ác đối với đồng bào Khánh Hòa. Đó là
Trương Đình Cát - nguyên Phó Tỉnh trưởng Tài chính kiêm Bí thư Đảng bộ Cần lao
Khánh Hòa; Hồ Tình - nguyên Trưởng Ty CSQG kiêm Phó Bí thư Đảng bộ Cần lao
72
Khánh Hòa; Võ Sĩ - nguyên Chủ tịch Hội đồng hàng tỉnh; Ngô Thanh Nhàn -
nguyên Phó Tỉnh trưởng Nội an; Từ Tôn Dũng và Nguyễn Bá Tín - tay chân thân
cận kinh tài cho Ngô Đình Cẩn. Phục vụ cho dạng đấu tranh thứ hai, ngoài đơn thư tố
cáo, còn có các cuộc mít tinh, biểu tình của đông đảo học sinh, sinh viên, công chức,
Phật tử, nhân dân lao động.
Cần nói thêm rằng, tại miền Nam, chế độ độc tài, quân phiệt thể hiện rõ nhất
khi Nguyễn Khánh cho ra đời “Hiến chương Vũng Tàu” (16-8-1964), thâu tóm
đồng thời 3 chức vụ: Chủ tịch VNCH, Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch Hội đồng
quân lực. Cũng vì thế, từ thời điểm này, phong trào chống độc tài, quân phiệt bùng
phát rầm rộ hơn. Phong trào bắt đầu từ Huế, sau đó nhanh chóng lan ra nhiều đô thị
khác. Điểm nổi bật của phong trào là sự thành lập “Hội đồng nhân dân cứu quốc” ở
Huế (28-8-1964) - một tổ chức “công khai đứng ra lãnh đạo cuộc đấu tranh chống
tập đoàn quân phiệt Nguyễn Khánh và tận diệt dư đảng Cần lao” [44, tr. 158].
Tại Nha Trang - Khánh Hòa, phong trào đấu tranh chống dư đảng Cần lao,
chống độc tài, quân phiệt Nguyễn Khánh diễn ra mạnh mẽ từ ngày 12-9-1964. Sáng
hôm đó, khoảng 700 thanh niên, học sinh tổ chức tuần hành từ Ty Thông tin với
nhiều biểu ngữ, khẩu hiệu: “Phải có một chánh phủ cách mạng thật sự”, “Chánh
phủ phải được sự tín nhiệm của toàn dân”, “Quốc dân đại hội phải có đầy đủ thành
phần cách mạng thật sự”, “Phải loại trừ ngay ra khỏi cơ cấu chánh quyền các
phần tử phản cách mạng dư đảng Cần lao và bọn bất hảo dù cũ hay mới”, “Bãi
khóa để đòi chính quyền thẳng tay trừng trị Cần lao” [190, tr. 3]. Khi đến Tòa
Hành chính Tỉnh, đoàn biểu tình nêu ba yêu sách: 1. Ngừng chức vụ Phó Tỉnh
trưởng Nội an và trục xuất ngay lập tức khỏi Khánh Hòa đối với Đại úy Nguyễn
Xuân Trường; 2. Trao ông Võ Sĩ cho “Lực lượng tranh đấu TNSVHS” Khánh
Hòa53 để giao lại cho Tòa án; 3. Được phát trên Đài Phát thanh Nha Trang tiếng nói
của “Lực lượng tranh đấu TNSVHS” Khánh Hòa mỗi ngày hai lần, mỗi lần nửa giờ.
Sau khi Tỉnh trưởng Khánh Hòa tiếp xúc và hứa sẽ đề đạt nguyện vọng lên cấp trên,
đoàn biểu tình tạm giải tán lúc 10 giờ [190, tr. 3].
Ngày 13-9-1964, cùng thời điểm đám tướng lĩnh Cần lao do Lâm Văn Phát
đứng đầu làm đảo chính tại Sài Gòn, ngay từ sáng khoảng 400 học sinh tuần hành
53. Tổ chức này được thành lập vào tháng 8-1963 do Đỗ Trung Hiếu - Giáo sư Trường Trung học
Bồ Đề Nha Trang, làm Chủ tịch,
73
trên các đường phố kêu gọi đình công, bãi thị phản đối dư đảng Cần lao. Tiếp đó,
đoàn học sinh tập trung tại trụ sở Đài Phát thanh Nha Trang yêu cầu cho phát thanh
trực tiếp nội dung các yêu sách mỗi ngày 2 lần, Quản đốc Đài không chịu giải quyết
liền bị học sinh bắt lên xe tham gia tuần hành đến 12 giờ mới trả về. Buổi trưa, hàng
ngàn học sinh tụ tập tại Trường Trung học Võ Tánh để nghe công bố danh sách Ban
Chấp hành “Hội đồng nhân dân cứu quốc” tỉnh Khánh Hòa gồm 13 thành viên do
bác sĩ Nguyễn Thạch làm Chủ tịch [190, tr. 4].
Lúc 16 giờ ngày 14-9-1964, độ 300 học sinh và một số đồng bào mít tinh
trước Ty Thông tin để ra mắt Ban Chấp hành “Hội đồng nhân dân cứu quốc” tỉnh
Khánh Hòa. Tại cuộc mít tinh, bác sĩ Nguyễn Thạch bày tỏ lập trường của Hội
đồng, yêu cầu phải có một chính quyền dân cử và khẳng định sẽ tiếp tục đấu tranh
cho đến khi đạt mục đích.
8 giờ sáng 15-9-1964, hơn 500 học sinh Trường Trung học Võ Tánh, Trường
Nữ trung học Nha Trang và Trường Trung học Tân Phước tổ chức tuần hành qua
các đường phố, cổ động cho cuộc mít tinh lớn dự kiến diễn ra vào buổi chiều. Cùng
thời điểm, tiểu thương ở chợ Đầm và trên các tuyến phố trong thị xã Nha Trang
đồng loạt đóng cửa.
Đúng như kế hoạch, lúc 17 giờ 30 ngày 15-9-1964, trên 2.000 thanh niên, học sinh
và dân chúng mít tinh trước Ty Thông tin để ủng hộ “Hội đồng nhân dân cứu quốc” tỉnh
Khánh Hòa công bố yêu sách bốn điểm: “1. Yêu cầu chánh quyền không gây cản trở cho
dân chúng và công chức, quân nhân tham gia ‘Hội đồng nhân dân cứu quốc’; 2. Yêu cầu
công bố tài sản và tội trạng của bốn cựu đảng viên Cần lao gồm Võ Sĩ, Trương Đình Cát,
Từ Tôn Dũng, Nguyễn Bá Tín; 3. Yêu cầu công bố tài sản tịch thu của Ngô Đình Cẩn,
Phong trào cách mạng quốc gia và Phụ nữ Liên đới Khánh Hòa; 4. Yêu cầu thanh lọc
hàng ngũ cán bộ chính quyền từ tỉnh đến xã, ấp” [190, tr. 4].
Trước áp lực mạnh mẽ của các cuộc đấu tranh, Tỉnh trưởng Khánh Hòa buộc
phải có mặt để giải trình. Về yêu sách thứ 2, Tỉnh trưởng Nguyễn Thọ Lập khẳng
định: “Tất cả các thành phần thối nát dưới chế độ Ngô triều, chính quyền tỉnh đã
lập hồ sơ và tùy theo tội trạng, bằng chứng để có những biện pháp thích nghi.
Người xét có tội, nếu là công chức ngoài việc truy tố ra Tòa án còn áp dụng kỷ luật
về mặt hành chánh, nếu là tư nhân thì đưa ra Tòa án xét xử” [190, tr. 4].
74
Sau mít tinh, biểu tình đòi trừng trị những tên đầu sỏ, “Hội đồng nhân dân cứu
quốc” Khánh Hòa ra thông báo yêu cầu những dư đảng Cần lao khác ra trình diện
trong thời hạn: Từ ngày 27-9 đến ngày 1-10-1964 đối với những người ở Nha
Trang; từ ngày 27-9 đến ngày 6-10-1964 đối với những người ở các quận còn lại.
Đồng thời, để đẩy mạnh truy quét Cần lao trong toàn tỉnh, “Hội đồng nhân dân cứu
quốc” Khánh Hòa quyết định thành lập “Hội đồng nhân dân cứu quốc” ở các quận.
Theo đó, vào các ngày 3, 6 và 8-10-1964, “Hội đồng nhân dân cứu quốc” Ninh Hòa,
Cam Lâm, Vạn Ninh lần lượt ra đời.
ĐTCT chống dư đảng Cần lao ở Khánh Hòa đạt được kết quả nhất định. Đối
với dạng đấu tranh thứ nhất, một số dư đảng Cần lao bị loại khỏi chính quyền như
Nguyễn Hạng và Phạm Ngự Sử - cán bộ hành chính quận Diên Khánh, bị bắt ngày
21-1-1964; Huỳnh Xước - Đại diện xã Diên Điền, bị cách chức ngày 25-3-1964;
Nguyễn Hữu Hào - cán bộ quận Ninh Hòa, “bị cảnh cáo và nếu tái phạm ngoài việc
truy tố ra tòa sẽ bị sa thải khỏi hàng ngũ công chức. Ngoài ra, không được tăng
lương quá 2.800đ trong thời hạn 3 năm; không được giữ một phần hành gì có dính
líu đến tiền bạc hoặc liên lạc với các nhà buôn” [186, tr. 2]. Những đối tượng khác,
tuy không bị loại bỏ nhưng đơn thư tố cáo của đồng bào đã góp phần gây chia rẽ nội
bộ và làm suy giảm phần nào hoạt động của nhân viên CQSG [277, tr. 2].
Với dạng đấu tranh thứ hai, CQSG buộc phải tiến hành điều tra và công khai
tội trạng 6 tên Cần lao cầm đầu. Cụ thể, Ủy ban Điều tra tội ác và tài sản tỉnh Khánh
Hòa kết luận: Trương Đình Cát phạm tội “kinh tài cho Ngô Đình Cẩn”; Hồ Tình
phạm tội “ra lệnh cho thuộc hạ bắt bớ, giam cầm, đánh đập học sinh, giáo sư, sinh
viên, Tăng Ni, Phật tử”; Võ Sĩ phạm tội “dựa vào thế lực của chế độ cũ hà hiếp
nhân chúng”; Ngô Thanh Nhàn phạm tội “tích cực đàn áp Phật giáo đồ bằng nhiều
hình thức có thể gây thiệt mạng cho một số người, gây căm phẫn trong dân chúng”;
Từ Tôn Dũng và Nguyễn Bá Tín phạm tội “kinh tài cho Ngô Đình Cẩn, gây sức ép
lãnh thầu xây cất ở Quy Nhơn, Nha Trang, Sài Gòn” [276, tr. 2-5]; [278, tr. 2-4].
Ngày 21-10-1964, trước những nhượng bộ của chính quyền Nguyễn Khánh,
tại Khánh Hòa, “Lực lượng tranh đấu TNSVHS” ra Thông cáo số 15 “ngừng hoạt
động để chờ sự thực thi lời cam kết của Chính phủ” [83]; cùng ngày, “Hội đồng
nhân dân cứu quốc” ra Thông cáo số 21 “tạm ngừng mọi hoạt động để chờ Chính
75
phủ Nguyễn Khánh tỏ rõ thiện chí của mình và để ‘Thượng hội đồng’ quốc gia54
thực hiện những nguyện vọng của toàn dân” [59].
Đến ngày 25-10-1964, không thể tiếp tục đương đầu với sự phản ứng quyết
liệt của quần chúng nhân dân miền Nam, trong đó có Khánh Hòa, Nguyễn Khánh
buộc phải rời bỏ chức vụ Thủ tướng.
Chưa đầy một tuần sau đó, ngày 31-10-1964, Trần Văn Hương được Quốc
trưởng Phan Khắc Sửu cử giữ chức Thủ tướng thay Nguyễn Khánh. Vừa nhậm
chức, Trần Văn Hương đã chủ trương: “Tách chính trị ra khỏi học đường, tách
chính trị ra ngoài tôn giáo, đưa tôn giáo ra ngoài chính trị” [44, tr. 159]. Chủ
trương của Trần Văn Hương thực chất là nhằm hạn chế tự do, dân chủ, tiến tới bóp
chết phong trào Phật giáo, phong trào sinh viên, học sinh, bắt thanh niên đi lính
phục vụ cho chiến tranh của Mỹ và CQSG. Do vậy, chính phủ dân sự Trần Văn
Hương chỉ là “bình mới rượu cũ”, và tất nhiên nó vấp phải sự phản ứng của nhân
dân miền Nam. Đấu tranh chống chính phủ Trần Văn Hương diễn ra ngay từ cuối
năm 1964, trong đó Nha Trang - Khánh Hòa là một mũi tiến công của phong trào.
Mở đầu, sáng 8-1-1965, gần 500 học sinh các trường Bồ đề Nha Trang, Trung
học Võ Tánh, Nữ Trung học Nha Trang tổ chức bãi khóa, xuống đường biểu tình
với khẩu hiệu: “Phản đối hành động đàn áp dã man của Chính phủ Trần Văn
Hương”, “Phản đối âm mưu chia rẽ dân tộc của Chính phủ Trần Văn Hương”,
“Yêu cầu Thủ tướng Trần Văn Hương rút khỏi chính quyền” [192]. Sau khi tuần
hành qua nhiều đường phố, đoàn biểu tình tập trung tại Công trường Cộng hòa, bao
vây Ty Thông tin. Cùng vào thời điểm này, một số người tiến hành phát truyền đơn
kêu gọi các tầng lớp nhân dân đình công, bãi thị trong ngày 9 và 10-1-1965.
Trước sự lớn mạnh của phong trào đấu tranh, ngay trong chiều 8-1-1965,
Nguyễn Hữu Có - Tư lệnh Quân đoàn II VNCH, đích thân đến Khánh Hòa thuyết
phục Đại đức Thích Đức Minh - Chánh đại diện Giáo hội Phật giáo tỉnh Khánh Hòa,
và các giáo sư trường trung học chấm dứt biểu tình, bãi khóa “vì có ảnh hưởng không
tốt đến đồng bào địa phương cũng như ảnh hưởng đến tiềm lực chiến đấu của quân
đội tại chiến trường” [310]. Đồng thời, lệnh thiết quân luật được CQSG áp dụng từ
20 giờ ngày 8-1-1965 trên toàn địa phận Khánh Hòa.
54. Thành lập ngày 30-9-1964 do Phan Khắc Sửu làm Chủ tịch.
76
Mặc dù vậy, từ sáng 9-1-1965, nhiều nhóm học sinh tụ tập tại các ngã tư, cửa
ngõ ra vào thị xã Nha Trang chặn xe cộ không cho đi lại. Quân đội, cảnh sát Sài
Gòn thi hành lệnh thiết quân luật đã bắt giữ 42 người. Hành động này khiến phong
trào đấu tranh của quần chúng càng lên cao. Lúc 11 giờ cùng ngày, tại Công trường
Cộng hòa, với khẩu hiệu “Phản đối hành động phản dân chủ của chính quyền”,
“Phải trả tự do cho những học sinh bị bắt”, Tăng Ni, Phật tử, phụ nữ, trẻ em độ
100 người bắt đầu tuyệt thực. Cuộc tuyệt thực càng lúc càng đông, đến 14 giờ có
hơn 700 người và số hưởng ứng khoảng 1.000 người [310].
Trước tình thế đó, Thiếu tướng Nguyễn Hữu Có và Trung tá Lê Quang
Liêm - Tỉnh trưởng Khánh Hòa, buộc phải gặp mặt đại diện Phật giáo, giáo sư,
học sinh tại Hội trường Tiểu khu để lắng nghe kiến nghị; đồng thời thả tất cả học
sinh, Phật tử bị bắt [310].
Tiến thêm một bước mới trong chính sách kì thị Phật giáo, ngày 23-1-1965,
Trần Văn Hương ra “Lời hiệu triệu quốc dân” kêu gọi mọi người lãnh trách nhiệm
với tình thế, tránh gây sách động, lên án “lũ lưu manh cạo đầu rồi mặc trang phục
Tăng Ni”, gọi cuộc đấu tranh của Phật giáo là “những trò khỉ” [23, tr. 277]. “Lời
hiệu triệu” đã xúc phạm mạnh và gây phẫn nộ đối với Tăng Ni, tín đồ Phật giáo.
Tại Nha Trang, ngay trong ngày hôm đó (23-1-1965), hơn 500 người tiến
hành tuyệt thực với khí thế quyết liệt: “Nguyện hy sinh đến cùng để buộc Chánh
phủ Trần Văn Hương từ chức”, “Xiết chặt hàng ngũ để đấu tranh bảo vệ đạo Phật
dù phải hy sinh” [114]. Đến 16 giờ 30 ngày 25-1-1965, Hồ Kim Tuấn - Học tăng
Phật học viện Trung Phần Nha Trang, cắt tay lấy máu viết huyết thư với nội dung:
“Tôi Hồ Kim Tuấn, tự Thích Phước Tú lấy máu yêu cầu Quốc trưởng chấm dứt
ngay chức vụ Thủ tướng của ông Trần Văn Hương” [280, tr. 7]. Viết xong, Hồ Kim
Tuấn bị xỉu, 16 Tăng Ni, tín đồ khác quá xúc động cũng ngất lịm. Sau đó, đoàn di
chuyển đến công viên trước Tòa Hành chính Tỉnh. Tại đây, Đại đức Thích Đức
Minh đọc điện văn yêu cầu “Quốc trưởng bắt buộc ông Trần Văn Hương phải từ
chức ngay”; khẳng định: “Toàn thể Phật giáo đồ Khánh Hòa cương quyết không
lùi bước trước một sự đàn áp nào và chống đối đến cùng nếu Chính phủ ông Trần
Văn Hương còn tại chức mặc dầu phải đổ máu” [196].
Cùng thời gian này, Ni cô Lê Thị Thứ (chùa Linh Sơn, Vĩnh Nguyên, Nha
Trang) dự định tự thiêu tại nghĩa trang Thanh Hải (Đồng Đế, Vĩnh Hải, Vĩnh
77
Xương) nhưng đã bị CQSG ngăn chặn. Theo lời sư bà chùa Linh Sơn, Ni cô Lê Thị
Thứ và 3 Ni cô khác đã có lời xin nguyện tự thiêu trong vụ đấu tranh nhằm lật đổ
Chính phủ Trần Văn Hương [133].
Tại công viên trước Tòa Hành chính tỉnh Khánh Hòa, lúc 11 giờ 35 ngày 26-
1-1965, nữ sinh Phật tử Nguyễn Thị Ngọc rạch tay lấy máu viết huyết thư yêu cầu
Trần Văn Hương từ chức. Đặc biệt, sau đó 3 giờ đồng hồ, Phật tử Đào Thị Yến Phi
tự thiêu, để lại ba bức thư. Thư gửi cho mẹ, có đoạn viết: “Con tin rằng việc làm
của con ngày hôm nay giúp ít nhiều cho Đạo pháp, Mẹ đừng vì con mà tiếc thương
bi lụy. Con không mất và sẽ còn mãi mãi với dân tộc…”; thư gửi quí Thượng tọa,
Đại đức và Phật giáo đồ, Yến Phi viết: “Con xin phát nguyện thiêu đốt nhục thân để
cúng dường Tam bảo, để cầu nguyện quốc thái dân an, cầu cho quí Thượng tọa,
Đại đức, Tăng Ni pháp thể khương an, cầu nguyện cho Phật giáo đồ dư sức, thừa
nghị lực để tranh đấu”; thư gửi Thủ tướng Trần Văn Hương nhắc nhở: “Ông nhớ
giùm như dân tộc Việt Nam đã nhớ: Đất nước Việt của người Việt, không phải của
người Mỹ hay của Đại sứ Taylor”, và mong “chính quyền sớm giác tỉnh và giải
quyết các nguyện vọng của Phật giáo” [280, tr. 5-9].
Cái chết của Đào Thị Yến Phi có ý nghĩa lớn lao trong việc thúc đẩy sự phát
triển của phong trào đấu tranh. Công điện số 029/VP/M, ngày 28-1-1965 của Tỉnh
trưởng Khánh Hòa gửi Phủ Thủ tướng cho biết: “Dân chúng đổ về điểm tuyệt thực
ngày càng đông, có 30 người vì quá xúc động bị ngất xỉu. Từ 17 giờ ngày 26 đến 6
giờ sáng 27-1-1965, số người tụ tập tại chùa Tỉnh hội tụng niệm và dự lễ nhập liệm
nữ Phật tử tự thiêu quá đông đảo, có trên 10.000 người. Tỉnh tôi theo sát tình hình
nhận thấy tâm trạng Phật giáo đồ rất kích động, ít ra cũng có đến 5 người phát
nguyện xin tự thiêu nếu tình hình không được giải quyết” [197, tr. 2].
Lúc 14 giờ ngày 29-1-1965, lễ an táng Đào Thị Yến Phi được cử hành tại
chùa Phật giáo tỉnh Khánh Hòa, với hơn 5.000 người tham gia, trong đó có đại diện
Gia đình Phật tử các tỉnh Phú Yên, Tuyên Đức, Ninh Thuận, Bình Thuận và đại
diện Sinh viên Phật tử Sài Gòn.
Cùng với phong trào đấu tranh tại các địa phương khác, phong trào ĐTCT ở
Khánh Hòa đầu năm 1965 mà đỉnh cao là cuộc tự thiêu của Đào Thị Yến Phi đã góp
phần đưa đến sự sụp đổ của chính phủ Trần Văn Hương (27-1-1965), một chính phủ
78
vốn có nhiều chủ trương hạn chế tự do và dân chủ.
2.3.7. Phối hợp với lực lượng vũ trang tiến hành đồng khởi ở vùng nông thôn
đồng bằng
Vùng nông thôn đồng bằng Khánh Hòa đông dân cư, nằm cạnh Quốc lộ 1, là
địa bàn quan trọng cung cấp sức người, sức của cho cách mạng. Sau ngày Ngô Đình
Diệm bị lật đổ (1-11-1963), ở đây “hầu hết các tổ chức kìm kẹp quần chúng bị
buông lỏng, ACL không canh gác, tình hình chính trị rất lủng củng, rối ren nghiêm
trọng, quần chúng mất tin tưởng, ngả về ta ngày càng đông đảo” [221, tr. 5]. Tuy
nhiên, cho đến cuối năm 1964, cũng như các địa phương khác ở Nam Trung Bộ,
vùng nông thôn đồng bằng Khánh Hòa vẫn bị CQSG kiểm soát, việc huy động nhân
lực, vật lực phục vụ cho kháng chiến gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, giải phóng nông
thôn đồng bằng trở thành vấn đề cấp bách.
Sau một thời gian tích cực chuẩn bị, nhân dân vùng nông thôn đồng bằng
Khánh Hòa đã tiến hành đồng khởi vào ngày 7-11-1964. Ở quận Ninh Hòa, cùng
với sự tấn công mạnh mẽ của LLVT, rạng sáng 7-11-1964, nhân dân nổi dậy đánh
trống, khua mõ thị uy, biểu dương lực lượng, tổ chức tố cáo tội ác, truy bắt tề ngụy,
ác ôn. Trước khí thế áp đảo của quần chúng, cán bộ và binh lính CQSG ở các xã
Ninh Diêm, Ninh An, Ninh Thọ buộc phải tháo chạy.
Sau khi làm chủ được một số xã, ĐTCT tiếp tục được triển khai nhằm bảo vệ,
giữ vững vùng giải phóng. Cụ thể, trưa ngày 7-11-1964, khi quân đội Sài Gòn bố trí
lực lượng chuẩn bị phản kích cướp lại địa bàn hai xã Ninh An và Ninh Thọ, quần
chúng nhân dân, phần lớn là phụ nữ kéo ra đối mặt ngăn chặn, tranh thủ tiến hành
công tác binh vận, quân đội Sài Gòn do dự rồi ngừng cuộc tấn công; tiếp đó, quần
chúng tiến vào trụ sở quận đấu tranh đòi được tự do đi lại, làm ăn, buôn bán. Cùng
thời điểm, tại xã Ninh Diêm, trên 2.000 người kéo đến quận lỵ yêu cầu CQSG
không được bao vây kinh tế, phải bán gạo cho dân [60, tr. 126].
Ở quận Diên Khánh, ĐTQS diễn ra ác liệt ở 2 xã Diên Sơn và Diên Điền làm
lực lượng đôi bên tổn thất nhiều. Khi đối phương hành hạ chiến sĩ cách mạng bị hy
sinh để khủng bố tinh thần nhân dân, lập tức quần chúng tiến hành ĐTCT đòi được
tổ chức chôn cất tử tế. Trước sức ép và lời lẽ có lý có tình, binh lính Sài Gòn đành
phải chấp nhận. Buổi lễ an táng diễn ra trang trọng với sự có mặt hơn 200 người.
79
Đây là một thắng lợi về chính trị, không chỉ đánh vào tâm lý, tình cảm của binh sĩ
Sài Gòn mà còn ổn định lại tinh thần, nâng cao ý chí cách mạng của cán bộ và nhân
dân. Đến tối 8-11-1964, dưới sự hỗ trợ của LLVT được tăng cường, quần chúng
nhân dân với trống, mõ nổi dậy giải phóng xã Diên Sơn, Diên Điền, tiếp đó giải
phóng xã Diên Lâm ngày 10-11-1964.
Sau nhiều lần tái chiếm thất bại, quân đội Sài Gòn bắn pháo vào làng, chống
phá cách mạng, không cho nhân dân yên ổn sản xuất. Cơ sở cách mạng kịp thời tổ
chức các cuộc ĐTCT vào trung tâm quận, yêu cầu không được bắn pháo vào làng.
Nhân dân xã Diên Sơn có ngày tổ chức ba cuộc đấu tranh làm náo loạn cả trụ sở
CQSG ở địa phương. Có thời điểm nhân dân các xã được giải phóng kết hợp với
tiểu thương chợ Thành, chợ Diên Lạc mang xác người, trâu bò bị trúng đạn đến
quận lỵ đòi bồi thường. Trước khí thế đấu tranh của nhân dân, CQSG phải nhượng
bộ. Báo cáo của Tỉnh ủy Khánh Hòa khẳng định: “Sau các đợt ĐTCT thắng lợi,
vùng giải phóng mở rộng, ca-nông ít bắn vào làng, xóm làng dần dần trở lại bình
thường tươi vui, cấy cày đông đúc” [222, tr. 4].
Trong quá trình đồng khởi cũng như khi đã làm chủ nông thôn đồng bằng,
công tác binh vận được Tỉnh ủy Khánh Hòa chỉ đạo đẩy mạnh triển khai thông qua
nhiều hình thức như truyền miệng, truyền đơn, mít tinh, đại hội gia đình binh sĩ,...
Nhờ vậy, 539 gia đình binh sĩ Sài Gòn được cách mạng giáo dục, nhiều gia đình
hứa kêu gọi con em trở về; có 285 lính đào ngũ và khoảng 300 lính quê ở vùng giải
phóng trốn về nhà hoặc đi nơi khác làm ăn [222, tr. 7]. Về vấn đề này, Tỉnh ủy
Khánh Hòa khẳng định: “Trong những năm 1964-1965, công tác binh vận đã phát
triển khá mạnh, góp phần vào việc giải phóng một phần bộ phận nông thôn ở đồng
bằng, chống càn quét, khủng bố, giữ vững vùng giải phóng, phát động được một
phong trào rã ngũ rộng rãi trong ngụy quân, làm tan rã hàng chục đơn vị ngụy
quân địa phương, giáo dục được hàng trăm gia đình binh lính” [222, tr. 7].
Đến đầu tháng 6-1965, sau hơn nửa năm đấu tranh bằng cả quân sự và chính
trị, quân dân Khánh Hòa đã giải phóng được 46 thôn với 37.500 dân, biến 32 thôn
với 32.400 dân trở thành vùng tranh chấp, hệ thống ATS bị phá từng mảng, số còn
lại cũng bị rệu nát không còn tác dụng. Ở vùng giải phóng, chính quyền cách mạng
được thành lập, thực hiện chính sách ổn định đời sống nhân dân, xây dựng làng
80
chiến đấu [222, tr. 9].
Về phong trào đồng khởi ở nông thôn đồng bằng Khánh Hòa cuối năm 1964,
đầu năm 1965, CQSG thừa nhận: “Trong năm 1964, thực tế cho thấy là gần một
năm xây dựng và bình định, các ATS đã hội đủ 6 tiêu chuẩn, nhưng sau một cuộc
tấn công của địch đã trở nên điêu tàn: Hàng rào cây và kẽm gai bị đạp ngã; trụ sở
Hội đồng xã bị thiêu đốt còn trơ trọi 4 bức tường; dân chúng rối loại; nghĩa quân
và Ủy ban hành chánh lẫn trốn. Việt Cộng đã làm ung thối và phá vỡ đa phần cơ sở
nông thôn, đẩy ta vào thế thủ, tạo cho ta thêm nhiều vấn đề nan giải” [198, tr. 3].
Đối với cách mạng, cuộc đồng khởi này không chỉ giải phóng một phần nông
thôn đồng bằng, mà quan trọng hơn là “đã giải quyết được những tư tưởng hoài
nghi nhân dân Khánh Hòa bị chiếm lâu, cầu an nên không vùng dậy được” [227, tr.
3]. Đây là cơ sở thực tiễn quan trọng để Tỉnh ủy Khánh Hòa tiếp tục đặt lòng tin
vào dân, từ đó phát động nhân dân ĐTCT mạnh mẽ hơn trong những năm tiếp theo.
Tiểu kết
Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Khánh Hòa khá đặc thù, ảnh hưởng
theo những chiều hướng khác nhau đối với ĐTCT của quần chúng nhân dân trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, trong đó ảnh hưởng theo hướng tích cực giữ xu hướng
chủ đạo.
Trong thời kỳ 1885-1945, Khánh Hòa là địa phương sớm có các hoạt động
chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp. Tiếp đó, từ năm 1945 đến năm 1954, bằng
ĐTQS kết hợp ĐTCT, nhân dân Khánh Hòa đã góp phần cùng cả nước làm nên
chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954), buộc thực dân Pháp phải ký hiệp định
Genève (21-7-1954), công nhận độc lập, chủ quyền của Việt Nam. Truyền thống
yêu nước và cách mạng trong chống Pháp trở thành động lực tinh thần cổ vũ nhân
dân Khánh Hòa bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Từ năm 1954 đến năm 1965, những chính sách lớn về chính trị - quân sự, kinh
tế - xã hội, văn hóa - giáo dục của CQSG áp dụng đối với miền Nam đều được triển
khai tại địa bàn Khánh Hòa. Hầu hết những chính sách này có tính phản cách mạng,
bất bình đẳng, đi ngược lại lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, vì vậy, đây là
nguyên nhân cơ bản dẫn đến bùng phát các cuộc ĐTCT.
81
Đường lối chỉ đạo về ĐTCT những năm 1954-1965 của Trung ương Đảng,
Liên Khu ủy V và Tỉnh ủy Khánh Hòa đã bám sát, theo kịp các chính sách, biện
pháp, thủ đoạn của CQSG. Nhìn chung, chủ trương chỉ đạo ĐTCT của cấp trên đã
được Tỉnh ủy Khánh Hòa thực hiện nhất quán và cụ thể hóa cho phù hợp với tình
hình địa phương. Đây là nhân tố quan trọng thúc đẩy phong trào ĐTCT phát triển.
ĐTCT ở Khánh Hòa những năm 1954-1965 diễn ra trên cả ba vùng chiến
lược với đầy đủ sắc thái: Có phong trào quy mô không lớn nhưng được duy trì
đều đặn như đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Genève (1954-1956), đấu tranh
chống chính sách “tố Cộng” (1955-1958); có phong trào rầm rộ, mạnh mẽ như
đấu tranh đòi tự do tín ngưỡng và bình đẳng tôn giáo (1963), đấu tranh chống
độc tài, quân phiệt, đòi tự do và dân chủ (1964-1965); có phong trào thể hiện sự
phối hợp chặt chẽ với ĐTVT như đồng khởi ở vùng rừng núi (1959-1960), đấu
tranh chống phá ACL (1961-1963), đồng khởi ở vùng nông thôn đồng bằng
(1964-1965). Qua diễn biến các phong trào, có thể khẳng định, trong kháng
chiến chống Mỹ, giai đoạn 1954-1965, Khánh Hòa là một trung tâm ĐTCT khá
nổi bật, ít nhất là ở khu vực cực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
82
Chương 3
ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ Ở KHÁNH HÒA
TỪ NĂM 1965 ĐẾN NĂM 1975
3.1. Chính sách của Mỹ, chính quyền Sài Gòn ở Khánh Hòa và chủ trương đấu
tranh chính trị của Đảng từ năm 1965 đến năm 1975
3.1.1. Chính sách của Mỹ, chính quyền Sài Gòn ở Khánh Hòa từ năm 1965 đến
năm 1975
3.1.1.1. Về chính trị - quân sự
Về chính trị, thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, từ cuối năm 1965,
tại Khánh Hòa, Mỹ và CQSG tập trung triển khai chính sách “bình định” thông qua
việc củng cố, xây dựng ATS ở các khu vực nông thôn đông dân cư, có vị trí chiến
lược về quân sự, kinh tế và giao thông. Đó là khu vực Hòn Khói (Ninh Hòa) gồm 2
xã Ninh Hải và Ninh Diêm; khu vực nằm dọc Quốc lộ 1 đoạn từ Ninh Hòa đến Cam
Lâm; khu vực đệm giữa trung tâm các quận Diên Khánh, Vạn Ninh với vùng kiểm
soát của cách mạng. Theo báo cáo “Chương trình lập ấp năm 1966” của Tỉnh
trưởng Khánh Hòa, đến ngày 31-12-1966, toàn tỉnh có 140 ATS hoàn thành đủ 6
tiêu chuẩn55, quy tụ 146.578 dân [211, tr. 3].
Song song với biện pháp trên, CQSG đẩy mạnh truy quét, bắt giam hàng loạt
người tình nghi là “Việt Cộng”, đến nỗi Trung tâm Cải huấn Nha Trang luôn chật
ních người [198]. Cũng từ đây, CQSG cho rằng biện pháp giam giữ vẫn còn trong
tinh thần nhân đạo nên chủ trương: “Hiện thời đã đến giai đoạn quyết liệt, nhất là
với Cộng sản không thể nói đến vấn đề nhân đạo thuần túy, mà cần phải có thái
độ cương quyết. Đề nghị thành lập một Ủy ban cứu xét lại tất cả can phạm, ân thích
55. Theo tài liệu về ATS kèm theo Công văn số 0660/BĐTƯ/TTK/TV/NC của Ủy ban Bình định
Trung ương ngày 5-4-1964, 6 tiêu chuẩn gồm:
1. Đã phân loại kiểm tra nhân dân trong ấp, khám phá và thanh toán hạ tầng cơ sở Việt Cộng tại ấp;
2. Đã tuyển chọn, huấn luyện và võ trang thanh niên chiến đấu;
3. Đã thiết bị hệ thống chướng ngại vật và công sự phòng thủ để đánh du kích;
4. Đã tổ chức hệ thống liên lạc và tiếp viện;
5. Đã vận động nhân dân và tổ chức thành đoàn ngũ có sinh hoạt thường xuyên để thi hành mọi
công tác an ninh và tân sinh hoạt trong ấp;
6. Đã bầu kín Ban trị sự theo đúng tinh thần dân chủ [296, tr. 4].
83
một số không quan trọng, còn một số trọng yếu thì lập Tòa án để hành quyết và một
số cho thả dù ra ngoài vùng nguy hiểm”56 [198, tr. 3].
Trên địa bàn Khánh Hòa, quân đội Mỹ, Hàn Quốc và quân đội Sài Gòn
thường xuyên tổ chức “hành quân hỗn hợp” lục soát các khu vực dân cư. Việc này
gây cho dân chúng nhiều phiền toái. Thêm vào đó, một số lính Mỹ, lính Hàn Quốc
tỏ ra ngạo mạn, khinh miệt dân Việt Nam càng làm cho dân chúng oán ghét. Có thể
kể một số vụ điển hình như:
Ngày 26-7-1968, trong vụ lục soát tại Cam Ranh, liên quân Việt - Mỹ đã gây
ra “vài sự việc đáng tiếc làm hoang mang dư luận quần chúng” [242, tr. 4]. Theo
báo Sống ở Sài Gòn số ra ngày 31-7-1968, “vài sự việc đáng tiếc” đó là “một số
lính Mỹ ở Cam Ranh công khai diễn trò cướp bóc, Quốc kỳ (VNCH - TG) bị chà
đạp, tiền bị tịch thu. Người Việt Nam trên đất Việt bị đánh đập, chủ quyền Việt Nam
bị xâm phạm” [1, tr. 438]. Về việc này, chính Hạ nghị viện VNCH cũng thừa nhận:
“Dân chúng mong mỏi tình trạng vô kỷ luật, thô bạo của một số quân nhân Hoa Kỳ
cần phải được chấm dứt,... Chính phủ nên liên lạc với giới chức Hoa Kỳ để có biện
pháp trừng trị những quân nhân vô kỷ luật không những tại Cam Ranh mà còn tại
nhiều nơi khác” [242, tr. 5];
Lúc 8 giờ 45 ngày 3-3-1969, lính Hàn Quốc ngồi trên xe GMC mang biển số
201.648 do tài xế Kang Ho Chưn lái khi đi qua ấp Cây Xoài (Cam Lâm) đã bắn bừa
bãi gây trọng thương cho quân nhân người Việt tên là Nguyễn Phú. Chính đại úy
Nguyễn Xuân Phụng - Chi khu trưởng Chi khu Cam Lâm, thừa nhận: “Đây là một
hành động vô ý thức, coi thường sinh mạng đồng bào. Trước đây cũng đã có vài lần
xảy ra tương tự và nay lại tiếp diễn. Như vậy, chứng tỏ là kỷ luật chưa được thi
hành đúng mức” [18];
Lúc 15 giờ 15, ngày 6-10-1969, 3 nhân viên thuộc cơ quan an ninh quân đội
Hàn Quốc mặc thường phục tự tiện xâm nhập, lục soát kho thuốc của Chi Y tế Ninh
Hòa, vì nghi ngờ có lính Hàn Quốc bán hàng lậu cho ông Trưởng chi Y tế. Theo Ty
CSQG Khánh Hòa, sự việc này đã “làm sứt mẻ tình đoàn kết Việt - Hàn” [287, tr. 2].
Sau “Sự kiện Tết Mậu Thân 1968”, CQSG tại Khánh Hòa tăng cường cao độ
56. Cho đến nay, chưa tìm thấy thêm tài liệu nào của CQSG nói về việc áp dụng biện pháp “thả dù
ra ngoài vòng nguy hiểm” ở Khánh Hòa. Trong thực tế, theo các nhân chứng, ở Khánh Hòa không
có trường hợp nào bị CQSG trục xuất bằng cách này.
84
các biện pháp an ninh. Ở đô thị, CQSG cho lập hàng rào an ninh bao quanh thị xã
Nha Trang cũng như các quận lỵ; thường xuyên mở các cuộc hành quân cảnh sát và
tuần tiểu lục soát 24/24 giờ; củng cố, phát triển mạng lưới tình báo để thu thập các
chủ trương và hoạt động của cách mạng; bổ túc lại công tác phân loại thành phần
nhân dân, lập danh sách đen, ghi chú địa chỉ những người tình nghi [283, tr. 3]. Ở
nông thôn đồng bằng, CQSG tiếp tục đẩy mạnh chính sách “bình định”, “tam giác
chiến” (tình báo chiến, du kích chiến, tâm lý chiến), với sự tham gia của nhiều bộ
phận, trong đó có sự hỗ trợ trực tiếp về mọi phương diện của một lực lượng lớn
quân nhân Mỹ và Đồng minh thông qua cái gọi là “Ủy ban phối hợp yểm trợ bình
định xây dựng tỉnh Khánh Hòa”; kiện toàn, củng cố bộ máy kìm kẹp ở xã, ấp, Ủy
ban hành chính xã tăng từ 6 lên 9 người, Ban trị sự ấp từ 3 lên 5 người [1, tr. 153].
Cũng từ sau Tết Mậu Thân 1968, ở Khánh Hòa việc giới nghiêm thường
xuyên được thực hiện từ 12 giờ đêm đến 5 giờ sáng, “trong giờ giới nghiêm, cấm
không được đi lại ngoài đường phố. Những ai vi phạm sẽ bị các bộ phận an ninh
bắt giữ, trong khi xét hỏi, nếu ai trốn tránh hoặc bỏ chạy, quân sĩ sẽ nổ súng” [214,
tr. 2]. Có thời điểm như năm 1972, giờ giới nghiêm được kéo dài hơn, ở thị xã Nha
Trang từ 10 giờ đêm đến 5 giờ sáng, các quận từ 8 giờ đêm đến 5 giờ sáng, với quy
định khắt khe: “Không được di chuyển ngoài công lộ và tụ tập những nơi công
cộng, ngoại trừ những trường hợp đặc biệt bất khả kháng như bệnh hoạn, sinh sản.
Trong trường hợp này, khi di chuyển bộ phải mang đèn và không được đi quá 3
người, nếu đi xe phải để đèn sáng và không được chạy nhanh. Tất cả các nhân viên
an ninh đều có quyền bắt giữ những người vi phạm giới nghiêm” [216, tr. 3].
Từ năm 1969, tiến hành chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, CQSG đẩy mạnh
các hoạt động chiêu hồi, ly gián, mị dân; thực hiện thủ đoạn “bôi lem”, chủ trương giao
việc cho quần chúng, làm cho ai cũng có vẻ dính dáng đến “Quốc gia”, nhằm gây nghi
ngờ lẫn nhau, chia rẽ đoàn kết [1, tr. 513]; đồng thời, triển khai “bắt lính hết sức trắng
trợn, bắt cả thiếu niên và người già với mọi thủ đoạn dã man, tàn bạo nhất, huy động
quân đội, cảnh sát vây ráp, có ngày chúng bắt từ 500 đến 700 thanh niên ở Nha Trang,
Đá Bạc, Vạn Ninh,… cưỡng bức vào Phòng vệ dân sự” [234, tr. 11].
Đối với công nhân, CQSG cho phép thành lập nghiệp đoàn để quản lý hoạt
động và nắm lực lượng công nhân. Tuy nhiên, việc thành lập nghiệp đoàn cũng bị
85
kiểm soát gắt gao, phải có đơn đệ trình Tòa Hành chính Tỉnh kèm 6 bản điều lệ và lý
lịch tư pháp của những người sáng lập. Đối với công nhân trong các xí nghiệp và đồn
điền, để ngăn chặn họ tham gia đấu tranh, CQSG tại Khánh Hòa chủ trương: “Khéo
léo xây dựng, nắm vững số đại biểu công nhân tốt (chỉ những công nhân phục vụ đắc
lực cho VNCH - TG) để làm nòng cốt lãnh đạo và giúp ta nắm hiểu tình hình; liên
lạc chặt chẽ với Ban Quản trị các xí nghiệp, đồn điền; tùy tiện tổ chức các buổi học
tập, nói chuyện để giáo dục về bổn phận công nhân, nhiệm vụ kinh tế của họ cũng là
tính cách nghề nghiệp phi chính trị của tổ chức nghiệp đoàn” [293, tr. 2].
Tại Khánh Hòa, giai đoạn 1965-1975, đặc biệt là từ khi Mỹ bắt đầu triển khai
rút quân về nước (1969), công tác tuyên truyền tâm lý chiến được CQSG chú trọng:
“Vấn đề thông tin tuyên truyền tại địa phương cần được tăng cường hơn nhằm mục
tiêu gây cho mọi tầng lớp dân chúng ý thức căm thù Việt Cộng mạnh mẽ hơn nữa”
[295, tr. 2]; về nội dung tuyên truyền, “đề cao ý chí của Hoa Kỳ và Thế giới tự do
quyết tâm chống sự bành trướng của Cộng sản tại Đông Nam Á bằng cách viện trợ
lớn lao và vô điều kiện cho VNCH,... Tất cả các lực lượng phiến Cộng do Bắc Việt
điều khiển phải rút về miền Bắc và chỉ lúc đó các đơn vị Hòa Kỳ và Đồng minh mới
bắt đầu triệt thoái” [295, tr. 3].
Sau Hiệp định Paris 1973, giới cầm quyền Khánh Hòa còn chủ trương thực
hiện “biểu ngữ bao vây” ‘biểu ngữ tấn công” tại các ngã đường dẫn đến trụ sở Ủy
ban Quốc tế kiểm soát và giám sát nhằm vu cáo miền Bắc “âm mưu thôn tính miền
Nam và toàn vùng Đông Nam Á bằng võ lực” [7, tr. 265].
Những luận điệu này không ngoài mục đích lừa dối nhân dân về sự hiện diện
của Mỹ ở miền Nam nói chung, Khánh Hòa nói riêng, che đậy hành động tiếp tay
cho ngoại bang của CQSG, qua đó hạn chế phong trào ĐTCT của quần chúng.
Về quân sự, chỉ khoảng 3 tháng sau khi tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục
bộ” mở đầu bằng việc đưa quân vào Đà Nẵng (8-3-1965), ngày 10-6-1965, Mỹ đã đưa
quân vào Khánh Hòa; tiếp đến, giữa tháng 7-1965, quân Hàn Quốc cũng có mặt ở
đây. Hơn một năm sau (9-1966), tại địa bàn Khánh Hòa đã có 26.000 lính Mỹ và Hàn
Quốc, chiếm gần 7% tổng số quân Mỹ và Hàn Quốc trên toàn miền Nam Việt Nam57
[1, tr. 435].
57. Trên toàn miền Nam, thời điểm ngày 14-10-1966, có 328.000 lính Mỹ và 45.000 lính Hàn Quốc
[141, tr. 189-190].
86
Tại Khánh Hòa, ngoài bộ phận cố vấn, chỉ huy đa số đồn trú tại Nha Trang và
Cam Ranh, lực lượng quân Mỹ gồm không quân, lính dù, thủy quân lục chiến, công
binh, pháo binh đóng nhiều nơi ở Cam Ranh, Cam Lâm, Nha Trang, Vạn Ninh;
trong khi quân Hàn Quốc thực hiện chiến thuật “chốt viền”, đóng chốt tại hàng loạt
địa điểm, trục giao thông quan trọng trải khắp địa bàn tỉnh, tạo thành một vành đai
bao quanh các căn cứ cách mạng, ngăn cách đồng bằng với miền núi. Theo nhận
định của Tỉnh ủy Khánh Hòa, “chiến thuật ‘chốt viền’ đã hạn chế rất nhiều khả
năng tiếp xúc giữa ta với quần chúng cách mạng bên trong làng, trở thành trở ngại
chủ yếu cho ta trong việc tấn công địch, khôi phục và phát triển phong trào ở đồng
bằng và đô thị” [227, tr. 5].
Về quân đội Sài Gòn, gồm lực lượng chủ lực của Sư đoàn 2 Không quân,
Vùng 2 Duyên hải (Nha Trang), Liên đoàn 5 biệt kích Trung Dũng (Vĩnh Xương),
Liên đoàn 6 biệt kích Trung Dũng (Cam Lâm); khóa sinh Quân trường Đồng Đế
(Vĩnh Xương), Trung tâm Huấn luyện Không quân (Nha Trang), Trung tâm Huấn
luyện Biệt động quân Dục Mỹ (Ninh Hòa);... và 11 đại đội địa phương quân, 98
trung đội nghĩa quân bố trí khắp các quận, xã trong tỉnh, nhất là ở Vạn Ninh, Ninh
Hòa, Diên Khánh [1, tr. 435-437].
Trên chiến trường Khánh Hòa, quân số quân đội Sài Gòn không ngừng tăng
lên theo thời gian, cuối 1965 có 10.070 quân, đến tháng 9-1966 vọt lên 17.657 quân
[1, tr. 435]. CQSG đẩy mạnh bắt lính bằng cách: “Tuyên truyền, phổ biến sâu rộng
các sắc luật và thông cáo của chánh phủ về nghĩa vụ quân dịch bằng mọi hình thức,
mọi phương tiện; mở các lớp học tập trong giới thanh niên và phụ huynh về nghĩa
vụ thi hành quân dịch; tổ chức những chuyến thăm của chính quyền, đoàn thể để
tuyên truyền, khuyến khích thanh niên đi lính; cử binh sĩ nói chuyện với thanh niên
về đời sống kiêu hùng trong quân đội; tổ chức quần chúng tiễn đưa thân mật, tặng
quà thanh niên lên đường quân dịch” [198, tr. 2].
Từ khi có sự hỗ trợ của lực lượng Mỹ và Đồng minh, tại Khánh Hòa, quân đội
Sài Gòn tăng cường đánh phá vùng nông thôn đồng bằng đã được giải phóng cuối
năm 1964, hòng tiêu diệt và đánh bật lực lượng cách mạng ra khỏi địa bàn, “xây
dựng Khánh Hòa thành căn cứ an toàn lý tưởng, làm cho các vị trí chiến lược của
chúng như Cam Ranh, Nha Trang được đảm bảo an toàn tuyệt đối” [227].
87
3.1.1.2. Về kinh tế - xã hội
Về kinh tế, từ khi thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (1965), “Kế
hoạch kiểm soát kinh tế” được CQSG tại Khánh Hòa triển khai nghiêm ngặt hơn.
Lương thực, thực phẩm, nhất là những mặt hàng thiết yếu như gạo, muối tiếp tục bị
kiểm soát chặt chẽ, cụ thể:
Đối với gạo, không được chở ra khỏi Nha Trang, trường hợp đặc biệt phải có
giấy phép của Tòa Hành chính tỉnh; trong phạm vi quận, được chở tự do 50kg, chở
hơn phải có giấy phép của quận; chở ra khỏi tỉnh với bất cứ số lượng nào cũng phải
có giấy giới thiệu của tỉnh nơi chở đến. Việc kiểm soát chuyên chở gạo tại Nha
Trang do Cảnh sát kinh tế phụ trách, chốt ở hai cửa ngõ ra vào thị xã: Trạm phía
Nam (Mã Vòng) và trạm phía Bắc (Cù Lao); tại các quận, trạm kiểm soát đặt ở cửa
ấp, trục giao thông, ngoài ra bảo an, dân vệ thường xuyên tuần tiểu, kiểm soát lưu
động dọc đường. Việc bán gạo cho dân được quy định hạn ngạch chặt chẽ: Tại Nha
Trang, gạo bán theo tờ khai gia đình, gia đình từ 5 người trở xuống được mua
50kg/tháng, trên 5 người được mua 100kg/tháng; tại Cam Lâm, mỗi gia đình được
mua tối đa 50kg; tại Ninh Hòa và Diên Khánh, mỗi gia đình cũng được mua tối đã
50kg nhưng bán theo từng đợt, mỗi đợt 20 bao; tại Vĩnh Xương, được bán tự do trừ
khi khan hiếm. Thương gia bán gạo phải có sổ sách ghi rõ tên họ, căn cước, địa chỉ
người mua, số lượng bán, ngày bán, ghi và ký tên sau tờ khai gia đình và phải niêm
yết số lượng tồn kho mỗi ngày [290], [306].
Đối với muối, nếu chuyên chở trong tỉnh phải có giấy cho phép của quận, ghi rõ
tên họ, địa chỉ chở đến, số lượng, phương tiện chuyên chở; nếu chở ra khỏi tỉnh phải
có giấy phép của Tòa Hành chính tỉnh và giấy giới thiệu của tỉnh nơi chở đến. Mỗi
giấy phép chỉ sử dụng một lần và không được bán muối dọc đường [290], [306].
Cùng với kiểm soát kinh tế, CQSG tại Khánh Hòa tiếp tục thực hiện “Kế hoạch
bao vây kinh tế địch (chỉ cách mạng - TG) tại địa phương” với những quy định hết sức
cụ thể. Tại vùng đồng bằng, hoa màu gặt hái đều phải tập trung vào trong ấp sau mỗi
ngày thu hoạch; theo dõi sít sao vụ mùa chính để thu trọn vẹn lúa; tại địa điểm thiết
yếu, trên các trục giao thông quan trọng đặt các trạm kiểm soát canh gác ngày đêm; các
ấp đều đóng cửa từ 8 giờ tối đến 6 giờ sáng; thanh niên chiến đấu và dân vệ kiểm soát
để chặn bắt những kẻ mưu toan mang đồ tiếp tế cho “Việt Cộng”; theo dõi đồng bào
88
Thượng khi về chợ, mỗi đồng bào Thượng không được mua quá 2kg gạo và 1kg muối.
Tại vùng cận sơn, các lái buôn phải có thẻ môn bài hành nghề, mua hàng của dân chỉ
được trả bằng tiền mặt, không được đổi hàng hóa; địa điểm mua bán được ấn định
trong phạm vi gần sự kiểm soát của CQSG; đồng bào Thượng chỉ được mua những vật
dụng cần thiết với một số lượng tối thiểu mỗi khi về bán hàng; các thợ rừng chỉ được
phép vào rừng từ 6 giờ sáng và ra về trước 6 giờ chiều, mang khẩu phần cơm không
quá một bữa ăn trưa, không được ở lại rừng vào ban đêm. Tại vùng duyên hải, chủ ghe
khi ra biển phải trình nhà chức trách địa phương để kiểm soát số nhân công và gạo đem
theo, gạo chỉ được phép mang theo một lượng đủ ăn trong lúc hành nghề; chủ đầm chỉ
được tiếp tế cho trại bạn gạo ăn trong thời gian nhiều nhất 10 ngày mỗi chuyến chở và
trước khi chở phải trình giấy phép nhà chức trách ký chứng ngày đi [290], [306].
Chính sách kiểm soát, bao vây kinh tế của CQSG đã gây ra nhiều khó khăn
đối với hoạt động mua bán, trao đổi cũng như đã hạn chế phần nào quyền tự do của
nhân dân.
Tại Khánh Hòa trong giai đoạn 1965-1975, “Cải cách điền địa” tiếp tục được
đẩy mạnh. Năm 1965, chế độ đấu giá công điền, công thổ được bãi bỏ, thay vào đó
là phát canh. Từ năm 1970, Luật “Người cày có ruộng”58 được triển khai đã truất
hữu 16.075 thửa ruộng với diện tích 5.726 ha, bồi thường tư điền 119 chi phiếu trị
giá 26.075.093 đồng, bồi thường công điền cho 44 xã, diện tích hơn 1.621ha với số
tiền 71.251.921 đồng [308, tr. 63-65]. Khách quan phải thừa nhận, trong chừng mực
nào đó, tại Khánh Hòa, luật “Người cày có ruộng” làm rõ hơn sở hữu đất đai, giảm
tranh chấp và giảm áp lực của một bộ phận điền chủ có thế lực đối với nông dân;
đồng thời, CQSG cũng kiểm soát được một phần đất đai vùng giáp ranh với miền
núi, gây khó khăn cho cách mạng [53, tr. 26].
Cũng từ năm 1970, để tăng cường ảnh hưởng chính trị đối với đồng bào
Thượng du và cách ly đồng bào với cách mạng, “Chương trình kiến điền đất tư
nhân cho đồng bào Thượng” và “Chương trình thiết lập khu vực sinh sống chính
cho đồng bào Thượng”59 được CQSG tại Khánh Hòa triển khai thực hiện. Theo đó,
đến ngày 30-11-1974 đã cấp 3.243 ha đất cho 1.530 đồng bào sản xuất và cấp
18.492 ha đất cho 1.468 gia đình định cư [308, tr. 64].
58. Ngày 26-3-1970, Nguyễn Văn Thiệu ký ban hành Luật số 003/70 - Luật “Người cày có ruộng”. 59. Hai chương trình này thực hiện việc cấp đất sản xuất và đất định cư cho đồng bào Thượng.
89
CQSG chủ trương phát triển mạng lưới Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp và
Ngân hàng Nông thôn. Năm 1970, tại Khánh Hòa, mạng lưới này có 9 chi nhánh cho
nông dân, ngư dân vay số tiền 246.745.138 đồng, đến năm 1973, số tiền vay tăng gấp
4 lần. Mục đích của ngân hàng là “cho vay vốn để cơ giới hóa phương tiện sản xuất
trong các ngành nông - lâm - ngư và tiểu công nghệ nông thôn, đồng thời, gián tiếp
góp phần thương mại hóa các sản phẩm thuộc các ngành trên” [53, tr. 26]. Hệ thống
chân rết của ngân hàng là các hợp tác xã, đại lý vật tư nông nghiệp, đại lý nông sản,...
Thông qua hệ thống này, CQSG gián tiếp nắm kinh tế nông thôn.
Về xã hội, việc thành lập hội đoàn bị kiểm soát chặt chẽ. CQSG quy định,
muốn thành lập hội phải có đầy đủ các loại giấy tờ như đơn xin thành lập, biên bản
thành lập, điều lệ, đặc biệt quan trọng là lý lịch tư pháp của các thành viên Ban
Quản trị. Sau thời gian hoạt động tạm thời nếu Ty CSQG Khánh Hòa chấp nhận
mới được chính thức hoạt động. Chẳng hạn, Hội quần vợt Hải học viện Nha Trang
của giáo sư Trần Ngọc Lợi - Giám đốc Hải học viện, chỉ được hợp thức hóa sau khi
đủ thủ tục và có kết luận của Ty CSQG Khánh Hòa: “Trong thời gian qua, Hội này
đã hoạt động thể thao một cách đứng đắn, tích cực và không có hoạt động nào đáng
quan ngại về phương diện chính trị” [144, tr. 2].
Việc tập hợp đông người như tổ chức đại hội, hội thảo, thuyết giáo, mừng tân
gia, thành hôn, tất niên,... bị hạn chế, muốn tổ chức phải có giấy phép của Tòa Hành
chính Tỉnh, trong đó ghi rõ thời gian, địa điểm, mục đích, số người tham dự...,
“phải tuân theo các thể lệ về an ninh trật tự và thể lệ hội họp hiện hành, phải chấm
dứt trước giờ giới nghiêm và chịu trách nhiệm về mọi việc xảy ra trong khi hội
họp”, cùng với đó là “ông Trưởng ty CSQG Khánh Hòa giúp đỡ về phương diện an
ninh trật tự” [286, tr. 5].
Kinh tế miền Nam nói chung, Khánh Hòa nói riêng vốn phụ thuộc vào nguồn
viện trợ, không dựa trên nội lực, đến năm 1965 chiến tranh leo thang cộng với
“quân đội Mỹ nhiều, có tiền viện trợ xài thả cửa, sự phồn thịnh không có căn bản”
[1, tr. 478] đã làm cho giá cả sinh hoạt ở đô thị tăng vọt. Báo cáo của Nha CSQG
Vùng II chiến thuật ngày 4-8-1967 viết: “Qua các thư từ trao đổi, Nha tôi nhận
thấy có nhiều người thuộc mọi thành phần xã hội than phiền về giá sinh hoạt đắt đỏ
tại Nha Trang, Quân nhân, công chức sống trong tình trạng thiếu thốn” [1, tr. 478].
90
Báo cáo hàng tháng (từ 25-11 đến 24-12-1968) của Ty CSQG Khánh Hòa cũng ghi
rõ: “Nhu yếu phẩm tháng này tăng giá khoảng 30%, gạo Mỹ tháng trước 1.700
đồng/hai bao 100kg, tháng này lên giá 2.250 đồng, dầu lửa tháng trước 200
đồng/thùng, tháng này lên giá 280 đồng/thùng. Đời sống quân nhân và công chức
lãnh đồng lương cố định mỗi ngày thêm kiệt quệ. Trong dịp lễ Noel, Tết Dương lịch,
Tết Nguyên đán chắc chắn giá cả thị trường leo thang vượt mức, nếu không có biện
pháp thích nghi sẽ gây ảnh hưởng nhiều đến lập trường cũng như tinh thần phục vụ
của các thành phần lãnh đồng lương cố định” [286, tr. 3]. Trong khi đó, với quần
chúng lao động, “đời sống của họ thật đáng thương, thiếu thốn mọi phương diện.
Hàng ngày chen đua với sinh kế, bỏ lại nheo nhóc những đứa trẻ bé bỏng không ai
săn sóc, phó mặc sự sống chết cho số mệnh cũng như ốm đau, dơ dáy” [198, tr. 4].
Khánh Hòa là địa bàn có nhiều đơn vị quân đội Mỹ và Đồng minh đồn trú,
việc xây dựng trụ sở, căn cứ cho các đơn vị này chiếm một phần diện tích đất khá
lớn. Ở một số nơi, quân đội Mỹ, Hàn Quốc đã chiếm dụng đất không có thỏa thuận,
phát mãi hay bồi thường làm cho dân chúng bất bình, khiếu nại kéo dài60. Theo Dân
biểu Hạ nghị viện Quốc hội VNCH Lê Tài Hoa, quân đội Đồng minh đã “làm thất
nhân tâm bằng cách chiếm mất của đồng bào thôn quê các phương tiện sinh sống,
làm cho họ có cảm tưởng rằng ánh sáng công lý không soi tới nông thôn” [54, tr. 2].
Từ khi quân đội Mỹ và Đồng minh đến đồn trú (1965), tại Khánh Hòa, các
dịch vụ giải trí như bar, dancing,... nở rộ, kèm theo đó là các tệ nạn xã hội: Mại
dâm, chích hút, cò mồi, buôn lậu,... Báo cáo “Vấn đề Khu phố Cam Ranh” ngày
1-8-1968 của Tòa Thị chính Cam Ranh cho thấy rõ về thực trạng xã hội ở các đô
thị Khánh Hòa: “Dân số Khu phố Cam Ranh 90% có dính liền nhiều hay ít về
những tệ nạn xã hội: Bán Bar, mại dâm, làm sở Mỹ, buôn bán hàng lậu và cung
60. Điển hình là các vụ:
- Vụ ông Lê Công Mao cùng một số sản chủ khác thuộc xã Vĩnh Phương, quận Vĩnh Xương ngày
15-9-1967 khiếu nại lên Viện Giám sát đòi bồi thường đất đai và hoa màu bị quân đội Hàn Quốc
chiếm dụng từ năm 1966;
- Vụ 9 đồng bào gồm: Phạm Thước, Lê Thị Được, Lê Thị Gương, Nguyễn Liên, Lê Khất, Ngô Văn
Cử, Nguyễn Thị Gọn, Nguyễn Trực và Nguyễn Thị Chước khiếu nại quân đội Mỹ và Hàn Quốc
chiếm đất ở Ninh Hòa và Vĩnh Xương trong các năm 1965, 1968, vụ việc được dân biểu Lê Tài
Hoa gửi hồ sơ lên Thủ tướng VNCH ngày 6-11-1969;
- Vụ 9 đồng bào gồm: Trịnh Đạt, Nguyễn Thị Cỏn, Trần Thị Mẹo, Bùi Thị Tư, Võ Học, Lê Thị Di,
Lê Thị Dung, Nguyễn Văn Đay và Trần Đình Khánh ngụ tại ấp Phước Hải xã Vĩnh Thái, quận
Vĩnh Xương khiếu nại Lực lượng Dân sự chiến đấu Hoa Kỳ chiếm đất từ năm 1963, đơn gửi lên
Thủ tướng VNCH ngày 10-12-1969 [54], [55].
91
cấp dịch vụ cho ngoại kiều như nhà tắm hơi, quán ăn, hớt tóc, khắc chữ, bán đồ
lưu niệm,... Mọi hoạt động chỉ nhằm vào một mục tiêu duy nhất là thủ lợi bằng bất
cứ phương cách nào, hình thức nào dù xấu xa” [242, tr. 5].
3.1.1.3. Về văn hóa - giáo dục
Về văn hóa, thông qua các cơ quan phụ trách, phát triển văn hóa như Phòng
Thông tin Hoa Kỳ, Ty Thông tin chiêu hồi, các rạp chiếu bóng, cơ sở in ấn,... nhiều
loại phim ảnh, báo chí kích động bạo lực, đồi trụy được phổ biến từ thành thị đến
nông thôn, lối sống kiểu Mỹ được đẩy mạnh tuyên truyền. Hội thảo của các Ty
trưởng Tiểu học Vùng II chiến thuật tại Nha Trang ngày 28 và 29-11-1968, khi nói
về ảnh hưởng của văn hóa đến giáo dục đã vạch rõ: “Các phim ảnh gián điệp, cướp
bóc, tàn bạo mà mạng người coi rẻ hơn mạng súc vật, các vụ chém giết không gớm
tay được trình chiếu một cách tỉ mỉ khiêu khích cái dã man tính của con người. Đến
cả màn hình bé nhỏ của một số gia đình cũng tiếp tay đầu độc trẻ con bằng những
phim kịch thoại hóa, những lời nói bỏ lửng, những cử chỉ phác họa khêu gợi trẻ con
nghĩ tới những thú đê tiện xấu xa” [14, tr. 3]; cùng với đó, “sách báo đầu độc thiếu
nhi được phát hành bừa bãi. Mang danh nghĩa là sách nhi đồng nhưng chuyện
hoang đường quái đản, truyện cướp bóc, giết chóc và cả truyện ái tình đốn mạt
cũng được in ra bán cho trẻ con bằng những hình ảnh xanh đỏ, lòe loẹt” [14, tr. 3].
Ngay cả Đài phát thanh Nha Trang - một kênh thông tin “chính thống” của
CQSG với nhiều chương trình do Ty Thông tin và Ty Thanh niên phụ trách, cũng
đồng lõa trong việc tuyên truyền văn hóa phương Tây. Chính báo cáo của Trung
tâm Dân ý vụ CQSG tại Khánh Hòa viết: “Người ta phê bình và đánh giá quá thấp
sự hoạt động của Ty Thông tin và Ty Thanh niên vì các buổi phát thanh của 2 Ty
này chỉ phổ biến những nhạc phẩm ngoại lai mất tính dân tộc và những bản nhạc
lạc lỏng, quyến rũ, ái tình, ru ngủ làm nhụt chí chiến đấu của binh sĩ và cán bộ,
những bài bình luận không có gì thức tỉnh, giáo dục thanh niên, do đó đa số thanh
niên ngày càng trụy lạc, sa đọa, trở thành cao bồi, du đảng, cướp giật, đào ngũ, vô
kỷ luật” [259, tr. 3].
Việc xuất bản, phổ biến các sản phẩm văn hóa và hoạt động biểu diễn trước
công chúng bị kiểm duyệt nghiêm ngặt. Chẳng hạn, muốn thâu băng phải tuân thủ
quy trình: “Các nhà thâu băng nộp tại Ty Thông tin một đơn xin thâu băng kèm
92
theo 3 bản tài liệu muốn thâu; sau khi kiểm soát, nếu thấy tài liệu không vi phạm
luật lệ hiện hành về chính trị và thuần phong mỹ tục, Ty Thông tin mới cấp phép;
khi thâu xong phải nộp một bản để đối chiếu, nếu không có gì sai lạc mới được phát
hành” [215, tr. 2].
CQSG chủ trương nắm bắt thanh niên, học sinh thông qua việc thành lập
nhiều hội đoàn, trong đó đa số là tổ chức của Thiên Chúa giáo và Tin Lành như
Phong trào Thiếu nhi Thánh thể, Hạt đoàn Hùng Tâm dũng chí, Phương đoàn
Nghĩa sinh, Phân đoàn Thanh niên Hồng Thập tự, Đoàn Du ca Thùy dương, Đoàn
Vui ca Vươn lên, Đoàn Thanh niên Tin Lành, Đoàn Thanh niên Thể thao kiểu
mẫu,... [306].
Đối với Phật giáo, CQSG tiếp tục có những biện pháp nhằm kiểm soát. Hằng
năm, CQSG yêu cầu các chùa lập danh sách, lý lịch Tăng Ni và số lượng tín đồ.
Biện pháp này khi bị Tỉnh Giáo hội Phật giáo Khánh Hòa phản đối, CQSG ngụy
biện rằng: “Chỉ là một việc kiểm kê thường lệ nhằm nắm vững tình hình tổng quát
tại địa phương về địa lý, nhân văn, kinh tế, xã hội” [131]. Trong một số trường hợp,
CQSG cho tiến hành lục soát chùa. Cụ thể, ngày 26-7-1968, lấy cớ tìm hàng lậu,
cảnh sát đã lục soát chùa Thạnh Nhuận (Cam Ranh), tịch thu một máy phát điện,
hành hung Phật tử. Vụ việc đã gây phản ứng kịch liệt của Đại đức trú trì Thích
Phước Định và các Phật tử [242, tr. 5].
Ngoài ra, CQSG tại Khánh Hòa cũng thường xuyên nắm bắt thông tin và triệt
để thi hành biện pháp an ninh để ngăn chặn các hoạt động liên quan đến Phật giáo.
Chẳng hạn, vụ Phật giáo kêu gọi xuống đường đấu tranh đòi thành lập chính phủ
liên hiệp, quân đội Mỹ phải triệt thoái khỏi miền Nam, phóng thích tất cả can phạm
chính trị (từ 4-1 đến 29-1-1971); vụ sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm - Chủ tịch Tổng hội
Sinh viên Sài Gòn, với sự hậu thuẫn của Phật giáo phát động chiến dịch “Xáo trộn
dây chuyền” chống bắt lính, chống quân sự học đường, chống chiến tranh (6-1971)
đều được CQSG tại Khánh Hòa đặc biệt lưu tâm và chỉ đạo: “Quý Quận và quý Ty
lưu ý theo dõi, đề phòng và khéo léo áp dụng mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ an
ninh trật tự công cộng” [215].
Về giáo dục, năm 1968, Khánh Hòa có 31 trường trung học (6 trường công
lập, 21 trường tư thục, 1 trường văn hóa quân đội, 3 trường bán công), 310 trường
93
tiểu học và sơ học (67 trường tiểu học công lập, 166 trường sơ học công lập, 31
trường tiểu học tư thục, 40 trường sơ học tư thục, 6 trường tư thục chuyên nghiệp)
với tổng số 68.763 học sinh. Các trường có đông học sinh theo học như Võ Tánh,
Nữ Nha Trang, Lê Quý Đôn, Tương Lai, Văn Hóa, Kim Yến, Bồ Đề, Đăng Khoa,
Bá Ninh, Ninh Hòa, Vạn Ninh, Vĩnh Xương, Diên Khánh,... [306].
Dù quy mô ngày càng mở rộng nhưng dưới thời VNCH, giáo dục miền Nam
nói chung, Khánh Hòa nói riêng phải đối mặt với nhiều vấn đề nan giải, nổi cộm là
kỷ luật học đường. Hội thảo về giáo dục của Vùng II chiến thuật tổ chức tại Nha
Trang năm 1968 thừa nhận: “Những đứa trẻ trong trắng, ngây thơ của bậc tiểu học,
những thư sinh cần mẫn, ngoan hiền của bậc trung học đã mất đi một phần lớn nề
nếp, tác phong. Kỷ luật học đường thật là sa sút, số học sinh cao bồi, du đảng ngày
càng tăng, số thiếu nhi phạm pháp ngày càng nhiều” [14, tr. 4]. Những biểu hiện sa
sút nề nếp, kỷ luật như hoang nghịch, lười nhác, đua đòi, lêu lỏng, không học bài,
không vâng lời thầy; đầu tóc bù xù, chạy theo người ngoại quốc xin thuốc lá, kẹo
bánh; bỏ lớp túm tụm trước rạp hát, tiệm ăn, quán giải khát; quần ống túm, phóng
xe máy Nhật như bay,...
Kỷ luật học đường sa sút là hệ quả tất yếu của những chính sách, mà bao trùm
tất cả là chính sách thực dân mới do Mỹ và CQSG thực hiện ở miền Nam. Chính
hội thảo về giáo dục của Vùng II chiến thuật năm 1968 cũng thừa nhận điều này khi
cho rằng, kỷ luật học đường sa sút bắt nguồn từ các nguyên nhân: Ảnh hưởng của
xã hội hỗn loạn, một xã hội tạo nên môi trường thuận tiện để thui chột mọi lương
năng của trẻ con (tệ nạn xã hội, sách báo đầu độc thiếu nhi phát hành bừa bãi); thiếu
một nền giáo dục gia đình vững chắc (đa số phụ huynh bận sinh sống, một số công
chức, quân nhân sau giờ làm việc ở công sở lo làm thêm để kiếm tiền, không có thì
giờ giáo dục con em); “một bộ phận giáo viên không dốc hết công sức và tâm huyết
cho việc giảng dạy, vì cuộc sống khá bấp bênh, bị tình hình kinh tế, tài chính của
lương hướng so với thời giá chi phối, họ bị khủng hoảng vì chuyện nay ở mai đi
phục vụ cho nhu cầu quốc phòng” [14, tr. 4].
Có thể nói, giai đoạn 1965-1975, tại miền Nam nói chung, Khánh Hòa nói
riêng, Mỹ và CQSG triển khai nhiều chính sách, biện pháp nhằm đẩy lùi lực lượng
cách mạng, duy trì trật tự xã hội, ổn định chính trị. Những biện pháp này gây cho
94
cách mạng không ít khó khăn trong việc triển khai ĐTCT. Tuy nhiên, điều mà Mỹ
không thể che đậy được là chính sách đưa quân trực tiếp xâm lược, vi phạm trắng
trợn chủ quyền dân tộc Việt Nam thông qua tập đoàn quân phiệt Nguyễn Văn
Thiệu. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu làm bùng phát phong trào ĐTCT chống
Mỹ và CQSG ở Khánh Hòa trong giai đoạn này.
3.1.2. Chủ trương của Đảng về đấu tranh chính trị từ năm 1965 đến năm 1975
3.1.2.1. Chủ trương của Trung ương Đảng
Từ năm 1965, cuộc kháng chiến của nhân dân ta bước sang một giai đoạn
mới, trực tiếp đương đầu với quân Mỹ và quân các nước Đồng minh của Mỹ. Trong
bối cảnh đó, Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 12 (12-1965) tiếp tục khẳng
định khả năng của ĐTCT: “Việc đế quốc Mỹ đưa nhiều quân Mỹ và quân chư hầu
vào miền Nam chẳng những không làm giảm khả năng tập hợp LLCT và ĐTCT của
nhân dân, mà ngược lại, càng làm tăng thêm khả năng ấy của ta, đồng thời càng
làm cho địch bị cô lập và thất bại nặng nề hơn về chính trị” [35, tr. 599].
Sau thắng lợi trong cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất (mùa khô 1965-
1966), nhất là sau phong trào đô thị năm 1966, ngày 27-1-1967, Bộ Chính trị ra
nghị quyết đẩy mạnh ĐTQS và ĐTCT ở miền Nam, chủ trương: “Phối hợp chặt chẽ
phong trào ĐTCT ở đô thị và vùng nông thôn do địch kiểm soát với vùng giải
phóng; khi địch mở tiến công, càn quét, phải đẩy mạnh ĐTCT, làm cho địch bị tê
liệt, lực lượng bị phân tán, tạo điều kiện cho LLVT của ta tiêu diệt sinh lực địch,
làm thất bại kế hoạch quân sự của chúng, bảo vệ vùng giải phóng” [36, tr. 157].
Tháng 1-1968, chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân
1968, Hội nghị BCH Trung ương lần thứ 14 chỉ đạo: “Trong quá trình tổng công
kích, tổng khởi nghĩa phải nắm vững phương châm: Kết hợp chặt chẽ ĐTQS với
ĐTCT; kết hợp chặt chẽ và khôn khéo hoạt động trong các thành thị với hoạt động
ở vùng nông thôn kề cận; kết hợp LLVT và LLCT từ ngoài tiến công vào với sự nổi
dậy mạnh mẽ dưới nhiều hình thức của quần chúng trong thành phố” [37, tr. 55].
Bị giáng một đòn mạnh trong dịp Tết Mậu Thân 1968, Mỹ buộc phải xuống
thang chiến tranh, trong khi quân đội Sài Gòn tinh thần xuống dốc, nội bộ mâu
thuẫn, phân hóa rõ rệt. Đây là cơ hội tốt để ta đẩy mạnh tấn công về mặt chính trị.
Nghị quyết Bộ Chính trị ngày 10-5-1969 chỉ rõ: “Tiến công chính trị là mặt rất cơ
95
bản và đang có khả năng rất lớn, do đó, nếu tiến công và bao vây thành thị là một
thế trận mới trong thời kỳ này thì sự phát triển mạnh mẽ của ĐTCT ở thành thị là
đặc điểm quan trọng của thế trận đó để đưa cách mạng đến thắng lợi” [38, tr. 135].
Năm 1971, CQSG tổ chức bầu cử Tổng thống và Hạ nghị viện, Bí thư thứ
nhất Lê Duẩn nhận định: “Trong dịp bầu cử, mâu thuẫn nội bộ ngụy quyền càng
bộc lộ công khai và gay gắt, chắc chắn sẽ có đường lối chọi nhau khi tranh cử”
[39, tr. 325]. Trên cơ sở đó, Lê Duẩn chỉ thị: “Cần lợi dụng cơ hội này để động
viên, tập hợp quần chúng dấy lên một cao trào cách mạng đòi hòa bình, độc lập,
trung lập, dân sinh, dân chủ; đối với thành thị, gắn các cuộc đấu tranh của công
nhân, lao động với phong trào chống chiến tranh, đòi hòa bình, gắn với phong
trào chống bình định ở nông thôn” [39, tr. 325].
Sau Hiệp định Paris (27-1-1973), tại Hội nghị lần thứ 21 (7-1973), Ban Chấp
hành Trung ương Đảng chỉ rõ: “Lấy khẩu hiệu hòa bình, độc lập, dân chủ, cải thiện
dân sinh, hòa hợp dân tộc để tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, dân chủ, đặc biệt
là Lực lượng thứ ba; đẩy mạnh ĐTCT từng bước tiến lên thành cao trào cách mạng ở
thành thị kết hợp với phong trào đấu tranh mạnh mẽ ở nông thôn, đòi địch ngừng bắn,
thi hành các quyền tự do, dân chủ, chống chế độ kìm kẹp, chống đốt phá, vơ vét, cướp
bóc, đòi thi hành nghiêm chỉnh các điều khoản của Hiệp định Paris” [40, tr. 614].
Ngày 7-1-1975, tại cuộc họp bàn về kế hoạch giải phóng miền Nam, Bộ
Chính trị kết luận: “Thực hiện tiến công và nổi dậy,... phát triển phong trào ĐTCT
lên quy mô rộng lớn, đòi hòa bình, hòa hợp dân tộc” [41, tr. 6].
Có thể nói, từ năm 1965 đến năm 1975, chủ trương ĐTCT của Trung ương
Đảng đã phản ánh đúng cục diện chiến trường miền Nam cũng như tình hình nội bộ
CQSG. Đây là những định hướng lớn chỉ đạo ĐTCT ở miền Nam trong 10 năm
cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1965-1975).
3.1.2.2. Chủ trương của Liên Khu ủy V
Tháng 8-1965, trước hành động Mỹ và các nước Đồng minh của Mỹ đưa quân
đổ bộ vào miền Nam, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Liên Khu ủy V
khẳng định: “Tiếp tục đẩy mạnh ĐTCT kết hợp ĐTQS, đưa ĐTCT lên quy mô ngày
càng lớn và tính chất quyết liệt, kết hợp mạnh với ĐTVT, nhằm đánh bại âm mưu
địch, tấn công làm suy yếu địch, phát triển phong trào và chuẩn bị tiến lên khởi
96
nghĩa thành phố; phải nắm vững và kiên định phương châm ‘hai chân’ không
những về nhận thức mà phải thể hiện trong thực tế phong trào đấu tranh của quần
chúng, trong từng người dân, từng thôn xã; phải có nhiệt tình cao đối với ĐTCT và
ĐTVT, ra sức đưa phong trào ĐTCT, ĐTVT, binh vận trong Khu lên cao và ngày
càng vững mạnh” [75, tr. 18].
Tại hội nghị tháng 9-1967, Liên Khu ủy V chỉ rõ lực lượng và hình thức
ĐTCT trên từng địa bàn. Về lực lượng, ở nông thôn, phát huy vai trò của phụ nữ và
thiếu nhi, đồng thời tận dụng khả năng lực lượng ông già, gia đình binh lính Sài
Gòn; ở đô thị, nắm vững lực lượng công nhân, dân nghèo, sinh viên, học sinh, tích
cực mở rộng mặt trận liên hiệp với các tầng lớp khác trong Phật tử, trí thức, tư sản,
công chức và ngụy quân. Về hình thức, ở nông thôn, ĐTCT được tiến hành trực
diện với các hình thức như “tản cư ngược”61, chống càn quét, bình định, xúc dân,
đồng thời đẩy mạnh nhập thị với quy mô lớn; ở đô thị, “ĐTCT với hình thức trực
diện đòi dân sinh, dân chủ hằng ngày và đòi chủ quyền dân tộc, đẩy mạnh các hình
thức đấu tranh hợp pháp và không hợp pháp như gây dư luận, cầu siêu, hội thảo,
mít tinh, biểu tình, đình công” [67, tr. 9].
Sau Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, để chống lại chính sách “bình
định” của CQSG, Hội nghị Liên Khu ủy V cuối tháng 2-1968 chủ trương: “Kết hợp
chặt chẽ công tác ‘ba vùng’, ‘ba mũi giáp công’, lấy phát động quần chúng liên tục
tấn công và nổi dậy làm biện pháp chủ yếu; đồng thời, kết hợp chặt chẽ giữa nổi dậy
thường xuyên ở từng vùng, từng ấp với nổi dậy từng đợt ở nhiều điểm” [68, tr. 7].
Trước âm mưu, hành động phá hoại Hiệp định Paris (27-1-1973) của CQSG,
tại hội nghị tháng 7-1973, Liên Khu ủy V xác định nhiệm vụ trung tâm là kiên
quyết đánh bại chính sách “bình định”, lấn chiếm, giành dân và giữ dân, mở rộng
quyền làm chủ, vùng làm chủ, giữ vững và phát triển thực lực cách mạng. Muốn
vậy, phải kết hợp “ba mũi giáp công”, kết hợp tấn công của bộ đội chủ lực, tấn
công và nổi dậy ở nông thôn và cao trào ở thành thị; đặc biệt, đối với vùng CQSG
kiểm soát, “yêu cầu trước mắt là hết sức vận động quần chúng đẩy mạnh phong
trào ĐTCT, binh vận từ thấp đến cao” [73, tr. 7].
Đầu tháng 2-1975, chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy giải phóng
61. Là hình thức quần chúng chạy ngược vào vùng trung tâm hậu phương của đối phương nhằm gây
rối loạn và ngăn cản đối phương tổ chức càn quét, đàn áp các cuộc đấu tranh.
97
miền Nam, đối với Khánh Hòa, Liên Khu ủy V chỉ đạo: “Phối hợp chặt chẽ với
chiến trường Tây Nguyên, toàn tỉnh tập trung LLQS, LLCT để đón thời cơ giải
phóng” [1, tr. 577].
Có thể thấy, chủ trương ĐTCT của Liên Khu ủy V thể hiện sự nhất quán,
đồng thời, cũng là một bước cụ thể hóa chủ trương ĐTCT của Trung ương Đảng.
Những chủ trương này đã góp phần quan trọng chỉ đạo ĐTCT trên địa bàn Liên
Khu V, trong đó có Khánh Hòa.
3.1.2.3. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa
Tháng 6-1965, ngay thời điểm quân Mỹ và quân các nước Đồng minh của Mỹ
đổ bộ vào địa bàn tỉnh, Tỉnh ủy Khánh Hòa triệu tập hội nghị, trong đó về công tác
đô thị, Tỉnh ủy nhấn mạnh: “Coi trọng xây dựng LLCT trong nhân dân lao động,
dân nghèo, phụ nữ, học sinh, sinh viên, trí thức; đồng thời đưa một số cán bộ ở
vùng giải phóng vào sống hợp pháp trong thị xã, thị trấn” [1, tr. 440].
Tháng 3-1967, Tỉnh ủy Khánh Hòa ban hành “Nghị quyết mở rộng phong trào
đồng bằng”, trong đó xác định: Về lực lượng tham gia ĐTCT, “phát huy vai trò và khả
năng to lớn của phụ nữ, tận dụng mọi khả năng của lực lượng khác như ông bà già,
thiếu nhi, gia đình binh sĩ CQSG, tập hợp thành mặt trận rộng rãi có các phần tử tích
cực làm nòng cốt”; về mục tiêu “bảo vệ tính mạng, tài sản, chống bắt lính, chống càn,
chống phi pháo, chống xúc dân, chống đưa lương thực vào vùng địch, chống làm lại
ACL, bảo vệ quyền lợi thiết thân hằng ngày của quần chúng” [223, tr. 5].
Trên quan điểm tiếp tục đẩy mạnh phong trào đô thị, Hội nghị Thường vụ
Tỉnh ủy Khánh Hòa tháng 10-1967 chủ trương: “Tranh thủ lãnh đạo tốt phong trào
đấu tranh của Phật giáo, sinh viên, học sinh, tiến tới nắm cho được lực lượng này
để hướng vào chống Thiệu - Kỳ; huy động quần chúng tham gia các hoạt động đấu
tranh của Phật giáo; mở rộng các cuộc hội thảo trong giới Phật giáo chống hiến
chương mới của Thiệu - Kỳ, bàn về bầu cử gian lận của Thiệu - Kỳ” [224, tr. 3].
Từ ngày 21 đến ngày 24-1-1968, Tỉnh ủy Khánh Hòa họp bàn kế hoạch Tổng
tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 tại địa phương, trọng tâm là thị xã Nha Trang.
Về ĐTCT, Tỉnh ủy chỉ đạo cơ sở nội thị huy động LLCT ở các khu Xóm Bóng, Hà
Ra,... các xã ngoại thành, nhất là từ vùng Tứ thôn Đại Điền (Diên Khánh) cùng tiến
về trung tâm thị xã phối hợp với mũi tấn công quân sự để giành chính quyền. Tuy
98
vậy, khi chiến sự diễn ra, mũi ĐTCT không hỗ trợ được nhiều cho ĐTQS. Rút kinh
nghiệm, Hội nghị Thường vụ Tỉnh ủy tháng 2-1968 chỉ đạo: Về tuyên truyền, “làm
cho quần chúng thấy được cái nhục mất nước, vinh dự và nghĩa vụ phải đoàn kết
đứng lên làm cách mạng đánh Mỹ, lật đổ Thiệu giành độc lập tự do, làm cho quần
chúng thấy rõ trong đấu tranh này không ai có thể đứng ngoài cuộc, chỉ có tích cực
nổi dậy mới có thể cứu mình, cứu nhà, cứu nước”; về tính chủ động cách mạng,
“từng địa phương phải chủ động tranh thủ thời cơ đưa quần chúng khởi nghĩa
giành làm chủ thôn xóm, không ngồi chờ nơi này, nơi khác. Khi có lệnh, nơi nào có
cán bộ là nơi đó phát động cho bằng được quần chúng xuống đường biểu tình thị uy
cướp chính quyền, ít nhất cũng phải tổ chức cho được mít tinh, thanh viện, trống
mõ, gây đại náo trong địa phương” [225, tr. 6].
Tính chủ động của ĐTCT tiếp tục được nhấn mạnh tại Hội nghị Tỉnh ủy
Khánh Hòa mở rộng tháng 7-1968: “Trong quá trình đưa phong trào đấu tranh
quần chúng từ thấp lên cao, phải chủ động, chuẩn bị sẵn sàng khi có điều kiện thì
lập tức phát động quần chúng nổi dậy khởi nghĩa cướp chính quyền nông thôn, đưa
quần chúng vào phối hợp với phong trào khởi nghĩa trong thành phố” [226, tr. 5].
Năm 1971, để đẩy mạnh hơn nữa phong trào đô thị, Tỉnh ủy Khánh Hòa chỉ
đạo hình thành tổ ĐTCT trong các giới, tranh thủ sự đồng tình của gia đình và binh
sĩ Sài Gòn, “lấy lực lượng công nhân lao động làm nòng cốt, học sinh, sinh viên
làm ngòi pháo, Phật giáo làm ngọn cờ tập hợp quần chúng” [234, tr. 8].
Sau Hiệp định Paris 1973, Tỉnh ủy Khánh Hòa chủ trương tập hợp quần chúng
vùng đối phương kiểm soát xây dựng thành LLCT, đưa phong trào hành động cách
mạng từ thấp đến cao, đòi tự do đi lại làm ăn, giao lưu giữa đồng bằng và miền núi,
đòi chồng con trong hàng ngũ đối phương trở về nhà, chống những luận điệu tuyên
truyền xuyên tạc và vi phạm Hiệp định [236, tr. 11]; khẩu hiệu tập hợp quần chúng
là “độc lập, dân chủ, hòa hợp dân tộc, đòi địch thi hành Hiệp định, thực hiện hòa
bình”; phương pháp công tác, “đi sâu nghiên cứu mối quan hệ của quần chúng
từng thôn xóm (làm ăn, tình cảm), dùng nòng cốt tập hợp quần chúng trong các tổ
chức làm ăn tương trợ, trong tộc họ, theo láng giềng,… Từ đó, tập hợp rộng rãi,
đoàn kết quần chúng” [237, tr. 7].
99
Hội nghị Tỉnh ủy Khánh Hòa mở rộng tháng 12-1974 chủ trương động viên
toàn quân, toàn dân thực hiện “ba mũi giáp công” nhằm đánh bại một bước chính
sách “bình định”, lấn chiếm của CQSG. Ở nông thôn, tăng cường phong trào
ĐTCT của quần chúng, mở rộng diện “lỏng kìm”62, tạo điều kiện khôi phục các
vùng làm chủ cũ, mở rộng vùng làm chủ mới; ở thành thị, “đẩy mạnh ĐTCT, binh
vận, đòi dân sinh, dân chủ, chống đàn áp bắt bớ, bóc lột, đòi đi lại làm ăn, từng
bước phát động một cao trào chính trị” [1, tr. 574].
Tháng 3-1975, ngay sau trận mở màn ở Buôn Ma Thuột của Quân giải phóng
thắng lợi (10-3), thực hiện dự báo của cấp trên về chiều hướng phát triển của cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, Tỉnh ủy Khánh Hòa chỉ đạo:
“Nhiệm vụ đối với Nha Trang - Khánh Hòa lúc này là tiếp tục xây dựng LLCT, mở
rộng ĐTCT để chuẩn bị đầy đủ nhất đón thời cơ giải phóng” [7, tr. 293].
Nhìn tổng quát, trong giai đoạn 1965-1975, Trung ương Đảng, Liên Khu ủy V
và Tỉnh ủy Khánh Hòa tiếp tục đánh giá cao vai trò của ĐTCT, đặt nặng công tác
chỉ đạo ĐTCT ở đô thị và lấy vấn đề chống Mỹ gắn với chống chính quyền quân
phiệt Nguyễn Văn Thiệu làm đối tượng cao nhất để vận động, tập hợp quần chúng
đấu tranh vì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
3.2. Nội dung đấu tranh chính trị ở Khánh Hòa từ năm 1965 đến năm 1975
3.2.1. Đòi thành lập chính phủ dân sự
Từ khi quân Mỹ đổ bộ vào Khánh Hòa (10-6-1965), cùng với việc thành lập
nội các chiến tranh do Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ đứng đầu (19-6-1965),
một số cuộc hội thảo của sinh viên, học sinh tại Trường Trung học Võ Tánh,
Trường Nữ Trung học Nha Trang đã diễn ra “đòi Mỹ không được can thiệp vào nội
bộ của Việt Nam, lên án chế độ độc tài quân sự, đòi hai ông Thiệu và Kỳ từ chức”
[118, tr. 213]. Những cuộc hội thảo này góp phần thăm dò thái độ của quần chúng,
nhất là sinh viên, học sinh đối với vấn đề chống Mỹ, chống tập đoàn quân phiệt
Thiệu - Kỳ, đồng thời chuẩn bị tư tưởng, lực lượng cho đợt đấu tranh cao điểm đòi
thành lập chính phủ dân sự từ tháng 3 đến tháng 6-1966.
Cần phải thấy rằng, đợt đấu tranh cao điểm đòi thành lập chính phủ dân sự từ
tháng 3 đến tháng 6-1966 diễn ra ở khắp các đô thị miền Nam, nguyên nhân sâu xa
62. Là địa bàn mà ở đó đấu tranh của quần chúng đã làm cho địch giảm bớt các biện pháp kìm kẹp,
cơ sở cách mạng đứng chân được.
100
bắt nguồn từ chính sách trả thù Phật giáo sau cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô
Đình Diệm (1-11-1963); chính sách độc tài, quân phiệt từ thời Nguyễn Khánh đến
thời Nguyễn Văn Thiệu; chính sách mở rộng chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam bằng
việc đưa quân vào miền Nam và triển khai không quân, hải quân đánh phá miền Bắc.
Duyên cớ của phong trào là mâu thuẫn trong nội bộ chóp bu CQSG qua việc
Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ cách chức Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh Quân
đoàn I kiêm Tư lệnh Vùng I Chiến thuật và gạt Nguyễn Chánh Thi ra khỏi Ủy ban
Lãnh đạo Quốc gia (11-3-1966). Phong trào khởi phát ở Huế với cuộc mít tinh của
đông đảo quần chúng ở chùa Diệu Đế sáng 12-3-1966, tuyên bố thành lập “Lực
lượng nhân dân tranh thủ cách mạng”, nêu yêu sách đòi triệu tập đại hội dự thảo
hiến pháp, đòi các tướng lĩnh trở lại cương vị quân sự. Cùng ngày, tại Đà Nẵng,
quần chúng trong đó có cả binh lính Sài Gòn, tổ chức mít tinh, quyết định thành lập
“Uỷ ban Quân dân tranh đấu Vùng I Chiến thuật” và đưa ra các yêu sách tương tự
như ở Huế.
Từ Huế - Đà Nẵng, phong trào lan rộng ra các đô thị khác ở miền Nam. Tại Nha
Trang - Khánh Hòa, phong trào đòi thành lập chính phủ dân sự mở đầu bằng cuộc biểu
tình của học sinh trường Võ Tánh, trường Nữ Trung học vào sáng 26-3-1966. Đoàn
biểu tình tước đoạt xe phóng thanh của Ty Y tế để tập hợp quần chúng đấu tranh, hô
khẩu hiệu và căng biểu ngữ phản đối Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ.
Từ học sinh, phong trào lan rộng sang các tầng lớp xã hội khác, kể cả công
chức, sĩ quan, binh lính CQSG. Ngày 29-3-1966, trên 300 học sinh, phu xích lô,
công thương gia, tín đồ Phật giáo biểu tình trước trụ sở Ty Thông tin, sau đó trương
nhiều biểu ngữ tuần hành đến Tòa Hành chính Tỉnh. Tại đây, đại diện đoàn biểu
tình gặp Tỉnh trưởng, “nêu những yêu sách chung như: Các tướng lãnh phải trở về
cương vị cũ; yêu cầu thành lập chánh phủ dân cử,... và các yêu sách địa phương
như: 1. Yêu cầu chánh quyền địa phương đề đạt lên Chánh phủ Trung ương những
nguyện vọng tương tự như ở Huế và Đà Nẵng; 2. Mượn phòng đọc sách của Trung
tâm Tâm lý chiến để làm trụ sở hoạt động cho Lực lượng nhân dân tranh thủ cách
mạng; 3. Xin sử dụng Đài Phát thanh Nha Trang mỗi ngày một giờ chia làm ba lần
sáng - trưa - chiều” [200, tr. 2]. Trước ba yêu sách của đoàn biểu tình, Tỉnh trưởng
Khánh Hòa đã đáp ứng yêu sách thứ nhất; đối với yêu sách thứ hai, Tỉnh trưởng đề
101
nghị cho sử dụng Văn phòng Hội đồng Tỉnh; riêng yêu sách thứ ba, người đứng đầu
tỉnh Khánh Hòa hứa sẽ trình cấp trên giải quyết.
Tiếp theo, lúc 9 giờ 30 ngày 31-3-1966, tại chùa Long Sơn, một cuộc mít tinh
được tổ chức với khoảng 400 người tham gia, gồm nhiều thành phần như công chức,
học sinh, Phật tử, nhân dân lao động, trong đó có các ông Tôn Thất Nhượng, Võ Đình
Kình, Đoàn Khuê là hội viên Hội đồng tỉnh Khánh Hòa. Cuộc mít tinh mở đầu bằng
việc công bố bản Tuyên ngôn của “Ủy ban Lãnh đạo phong trào vận động chính phủ
dân cử” do Tôn Thất Nhượng làm Chủ tịch và tuyên bố thành lập “Lực lượng nhân
dân tranh thủ cách mạng Khánh Hòa” do Lê Quang Phú làm Chủ tịch. Sau mít tinh,
đoàn người tuần hành qua các đường phố, dùng xe đò gắn máy phóng thanh chạy vòng
quanh thị xã Nha Trang rải truyền đơn chỉ trích Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ
và kêu gọi đồng bào tham gia đấu tranh. Đến 17 giờ cùng ngày, đại diện lực lượng đấu
tranh đến gặp viên Đại úy đang canh giữ Ty Thông tin xin mượn Phòng đọc sách làm
trụ sở hoạt động. Việc mượn phòng không được chấp nhận, ông Tôn Thất Nhượng
tuyên bố sẽ tiếp tục đấu tranh đến cùng trong những ngày tiếp theo [210, tr. 2].
Sáng 3-4-1966, một số học sinh triển khai chặn 2 ngã đường chính ra vào trung
tâm Nha Trang, số khác rải đi các chợ, trường học, phố xá kêu gọi đình công, bãi thị,
bãi khóa. Đến chiều, hàng ngàn người từ đường Độc Lập, Quang Trung, Trần Quý Cáp,
Quốc lộ 1, Sinh Trung đổ về Công trường Cộng hòa, một bộ phận chiếm giữ Quảng
trường, bộ phận khác đứng chật các ngã đường, hình thành thế bao vây lực lượng quân
đội, cảnh sát Sài Gòn. Sau khi làm chủ toàn bộ Công trường Cộng hòa, lực lượng đấu
tranh chiếm Ty Thông tin63. Về sự kiện này, trong báo cáo gửi cấp trên của Tỉnh
trưởng Khánh Hòa viết: “Chiều 3-4-1966, độ 1.000 người kéo đến tụ họp tại Công
trường Cộng hòa dự cuộc mít tinh. Tiếp đến, đoàn biểu tình đã dùng bạo lực chiếm Ty
Thông tin Tâm lý chiến, đập phá đồ đạc và đốt một số sách vở tại Phòng đọc sách của
Ty này. Cùng thời gian trên, tại các công sở, phố xá, chợ, trường học cuộc đình công,
bãi thị, bãi khóa tiếp diễn. Đến 18 giờ 30, khoảng 100 người kéo đến biểu tình trước Ty
63. Cũng cần nói thêm, trước khi chiếm Ty Thông tin, quần chúng nhân dân đã có ý định chiếm Đài
Phát thanh Nha Trang, tuy nhiên do CQSG tăng cường lực lượng bảo vệ địa điểm này nên việc
chiếm giữ đã không thực hiện được. Phiếu trình số 172/UBHP/VoP/QV/2 của Võ Phòng Phủ Chủ
tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương ngày 1-4-1966 viết: “Trong các cuộc biểu bình của nhóm học
sinh, phu xích lô, công thương gia, Phật tử tại Nha Trang mệnh danh là Lực lượng nhân dân tranh
thủ cách mạng những ngày vừa qua đã tỏ ra muốn chiếm Đài phát thanh Nha Trang. Tỉnh đã trù
liệu mọi biện pháp đề phòng và ngăn chặn” [309].
102
CSQG Khánh Hòa” [201, tr. 2]. Trong hồi kỳ của một nhân chứng xác nhận: “Cả thị
xã chìm trong cuộc đấu tranh, băng rôn, khẩu hiệu xuất hiện ngày càng nhiều, xe hơi,
ba gác, xích lô, hon đa, xe đạp chở cơm nước, bánh mì tấp nập. Quang cảnh như là
ngày hội quật khởi của dân chúng và tuổi trẻ Nha Trang” [118, tr. 223].
Cùng thời gian trên, trước cửa Quân trấn Nha Trang64, quần chúng đã đốt
cháy 1 xe Jeep của cố vấn Mỹ, “ngọn lửa bùng lên dữ dội quyện với tiếng hô ‘đả
đảo Mỹ xâm lược’, ‘Thiệu - Kỳ từ chức’ làm huyên náo cả một vùng không gian
rộng lớn” [118, tr. 221].
Để đối phó với phong trào đấu tranh ngày càng lên cao, uy hiếp sự tồn tại của
chính quyền địa phương, Tổng trấn Nha Trang đề ra nhiều biện pháp như kêu gọi
dân chúng bình tĩnh và tôn trọng an ninh; cấm tụ tập từ 5 người trở lên ngoài đường
phố hay những nơi công cộng nếu không có phép của chính quyền; cho phép các cơ
quan an ninh, quân đội được quyền xét hỏi giấy tờ và kiểm soát tờ khai gia đình;
yêu cầu các bậc phụ huynh lưu tâm giáo huấn, kiểm soát con em; đe dọa sẽ áp dụng
biện pháp cứng rắn đối với các phần từ bất tuân,... [245], [247], [248].
Cùng với đó, CQSG bổ nhiệm Chuẩn tướng Đoàn Văn Quảng65 làm Tổng trấn
Nha Trang. Vừa nhận chức, Đoàn Văn Quảng đã ban hành lệnh giới nghiêm toàn
tỉnh Khánh Hòa từ 22 giờ đêm đến 5 giờ sáng, bắt đầu từ ngày 4-4-1966 [78], cho
triển khai các đơn vị của Lực lượng Đặc biệt, Binh chủng Nhảy dù bảo vệ Tòa Hành
chính, Ty CSQG, Ty Ngân khố, Bưu điện, Đài Phát thanh, các trục đường chính,...
Riêng tại Ty Thông tin, giải pháp dùng vũ lực được giới cầm quyền Sài Gòn lựa
chọn sau khi cho rằng: “Đã nhiều lần kêu gọi đám người cầm đầu biểu tình đang
chiếm đóng trụ sở Ty này từ hai ngày qua phải rời trụ sở nhưng các đương sự vẫn
ngoan cố và còn trương nhiều biểu ngữ, đại ý cương quyết đấu tranh đến cùng” [202].
Lúc 10 giờ 20 ngày 5-4-1966, CQSG mở cuộc đàn áp tái chiếm Ty Thông tin. Đoạn
hồi ký sau đây cho thấy cuộc đàn áp hết sức dã man: “Cảnh sát bắn phi tiễn, lựu đạn
cay, lựu đạn khói, lựu đạn gây nôn mửa, rồi xông vào bắt bớ, đánh đập lực lượng đấu
tranh bằng dùi cui, còn lực lượng đấu tranh dùng gạch đá ném lại, khói mù bao phủ cả
quảng trường. Hàng trăm người bị thương và bị bắt, bị cảnh sát kéo xềnh xệch ra
ngoài, quăng lên xe quân sự” [118, tr. 225]. Theo báo cáo của Tỉnh trưởng Khánh Hòa,
64. Trên đường Hoàng Văn Thụ, trước cửa ga Nha Trang ngày nay. 65. Lúc này đang giữ chức Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt.
103
trong cuộc đàn áp này, cảnh sát đã bắt 50 người. Đến chiều cùng ngày, dưới sức ép của
các cuộc biểu tình phản đối, CQSG buộc phải thả hầu hết những người bị bắt, chỉ giữ
lại 3 người là lãnh đạo của “Lực lượng nhân dân tranh thủ cách mạng Khánh Hòa”
gồm Lê Quang Phú, Vũ Văn Minh và Phạm Ngọc Thành [210].
Trước sự đàn áp quyết liệt của CQSG, phong trào đấu tranh tại Nha Trang tạm
thời lắng. Tuy nhiên, tại các quận phong trào đấu tranh có xu hướng tăng lên. Công
điện số 172-NA/CT2/M, ngày 12-4-1966 của Tỉnh trưởng Khánh Hòa gửi Bộ Nội
vụ CQSG, cho biết: “Trong khi các biến động tại thị xã Nha Trang được lắng dịu,
một số giáo sư, học sinh và Phật tử tụ tập tại các quận lỵ rải truyền đơn kêu gọi
đình công, bãi khóa, bãi thị. Số người này còn dự định sách động học sinh và dân
chúng biểu tình đòi chính phủ thực hiện các yêu sách của Phật giáo và của ‘Phong
trào Tranh thủ dân chủ tại Huế’” [204].
Như để tiếp sức cho phong trào của thanh niên, sinh viên, học sinh và Phật tử,
nửa cuối tháng 4-1966, trong giới công nhân Khánh Hòa có những cuộc đấu tranh
khá lớn. Từ ngày 19 đến 22-4-1966, 3.500 công nhân làm việc ở quân cảng Cam
Ranh đấu tranh đòi tăng lương vì đồng bạc CQSG mất giá so với đồng đô la, giá cả
tăng vọt. Cuộc đấu tranh đã làm cho việc bốc dỡ bị ngưng trệ, chỉ huy quân cảng và
chính quyền Cam Ranh phải đến giải quyết, thỏa mãn yêu sách của công nhân.
Trong 2 ngày 28 và 29-4-1966, công nhân khuân vác ở cảng quân sự Chụt (Nha
Trang) đấu tranh đòi loại trừ số người Philippin làm thuê cho Mỹ ở đây, buộc
những người này phải chuyển đi nơi khác [5], [7].
Trong phong trào đấu tranh đòi thành lập chính phủ dân sự năm 1966, không
chỉ giới hạn ở địa phương mình, nhân dân Khánh Hòa còn chi viện cho địa phương
khác. Cụ thể, sáng ngày 30-4-1966, một phái đoàn đã lên đường đi Đà Lạt để thăm
viếng và uỷ lạo các gia đình nạn nhân trong vụ đàn áp ngày 21-4-196666. Tiếp theo,
ngày 2-5-1966, tại Công trường Cộng hòa, khoảng 30 Phật tử đã thiết lập một Đài
Tử sĩ bằng vải và gỗ, căng biểu ngữ, tổ chức tuyệt thực 36 giờ để tưởng niệm nạn
nhân tử vong ở Đà Lạt [253].
66. Trước phong trào đòi dân chủ lên cao, ngày 21-4-1966, CQSG tại Đà Lạt bày trò thương lượng,
nhưng khi sinh viên, học sinh đến Tiểu khu Tuyên Đức thì binh sĩ nổ súng làm chết 1 người. Lập
tức, trên 10.000 đồng bào Đà Lạt tổ chức biểu tình để phản đối. Cuộc biểu tình bị đàn áp thẳng tay,
4 người chết, 37 người bị thương.
104
Mặt khác, các bản tin của phong trào ĐTCT ở Khánh Hòa lên tiếng tố cáo
chính sách đàn áp của CQSG ở Đà Lạt, khẳng định tính tất thắng của chính nghĩa:
“Tại sao người ta lại dùng bạo lực để trả thù dân chúng khi người ta vẫn thừa hiểu
rằng bạo lực không thể thắng được ai. Một Diệm - Nhu, một Nguyễn Khánh, một
Trần Văn Hương tất cả đều dùng bạo lực và đã bị quật ngã bởi tình thương, bởi ý
chí đấu tranh sắt đá của toàn dân. Những kẻ cầm quyền lãnh đạo Quốc gia hiện
nay không học được bài học kinh nghiệm ấy hay sao?” [79, tr. 2]. Bản tin còn
tường thuật lễ tang các nạn nhân với những lời tiễn biệt đầy xúc động và mang tính
chiến đấu cao: “Máu các anh đã đổ. Các anh chết nhưng ý chí bất khuất của các
anh sẽ mãi mãi bất diệt với thời gian, sẽ tồn tại trong muôn bách kỷ. Các anh dầu
gục ngã trước họng súng bạo tàn, thì sau các anh sẽ có trăm ngàn thân xác khác
đứng lên để đòi cho được một nước Việt Nam tự cường, để đòi cho được một nước
Việt Nam dân chủ, hùng mạnh” [79, tr. 2].
Ngày 15-5-1966, khi Nguyễn Cao Kỳ đưa quân ra Đà Nẵng mở cuộc đàn áp,
Phòng Tuyên úy Phật giáo Khánh Hòa phổ biến truyền đơn đến tất cả các đơn vị,
kêu gọi tuyệt thực 24 giờ, kể từ 15 giờ ngày 20-5-1966 tại Công trường Cộng hòa
để cầu nguyện sớm chấm dứt cuộc tàn sát quân đội và đồng bào miền Trung [255].
Tuy nhiên, do CQSG siết chặt, cô lập Công trường Cộng hòa nên cuộc tuyệt thực có
chừng 150 người tham gia sau đó phải di chuyển về chùa Long Sơn. Về sự kiện này,
Tổng trấn Nha Trang cho rằng: “Phòng Tuyên úy Khánh Hòa đã không thi hành
đúng chỉ thị của Nha Tuyên úy về vấn đề tuyệt thực, cầu nguyện đúng với thành
phần và ngày giờ ấn định. Hoạt động của Phòng Tuyên úy có tính cách sách động
và gây rối trật tự hơn là hoạt động thuần túy Tuyên úy Phật giáo quân đội” [254].
Những ngày sau đó, cuộc đấu tranh của nhân dân Khánh Hòa đòi thành lập
chính phủ dân sự tiếp tục diễn ra. Ngày 29-5-1966, tại chùa Long Sơn, 2 học sinh
tên Trương Văn Cang và Trần Đồng cắt máu viết thư gửi Nguyễn Văn Thiệu,
Nguyễn Cao Kỳ, “nội dung yêu cầu nhị vị trở về với quân đội” [210, tr. 3]. Ngày 4-
6-1966, lúc 15 giờ, tại chùa Khuôn hội Giác Hải, Ni cô Lê Thị Hiên, pháp danh
Diệu Tri đã tự thiêu, để lại hai bức thư, 1 gửi cho gia đình, 1 gửi cho Thiếu tướng
105
Nguyễn Cao Kỳ phản đối CQSG ám sát giới lãnh đạo Phật giáo67. Ngày 5-6-1966,
Giáo hội Phật giáo tỉnh Khánh Hòa tổ chức rước linh cửu Ni cô Diệu Tri về chùa
Long Sơn. Đoàn rước linh có hơn 1.000 người, dự kiến đi qua một số tuyến phố
trước khi đến chùa nhưng đã bị ngăn cản, thay vào đó chính quyền địa phương đã
ấn định lộ trình từ chùa Giác Hải thẳng chùa Tỉnh hội [209]. Phản đối hành động
này, khoảng 300 người trong đoàn rước linh biểu tình qua đêm trước Quân lao Nha
Trang68. Đến 12 giờ, ngày 6-6-1966, nhà chức trách buộc phải để đoàn rước linh đi
qua đường Phước Hải, Gia Long để về chùa Tỉnh hội.
Ngày 6-6-1966, được tin Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ đưa quân đánh
chiếm Huế, giới lãnh đạo Phật giáo phát động phong trào chống Mỹ, Thiệu - Kỳ
bằng biện pháp kêu gọi tín đồ kể cả chùa chiền và tư gia đưa “Bàn Phật xuống
đường”. Đáp lời kêu gọi, ở nhiều đô thị, hàng ngàn bàn Phật được đưa ra đường và
hàng loạt chiến lũy được dựng lên. Tại thị xã Cam Ranh - Khánh Hòa, lúc 22 giờ 30
ngày 8-6-1966, Lực lượng Phật tử Cam Ranh tổ chức buổi phát thanh với khoảng 50
tín đồ tham sự, nội dung “phát thanh lại lời kêu gọi của Thượng tọa Thích Trí Quang,
báo động Phật giáo lâm nguy, hô hào Phật tử bình tĩnh chuẩn bị và kêu gọi Phật tử
sẵn sàng chờ lệnh” [142]. Tiếp đó, rạng sáng 11-6-1966, chùa Phật giáo Cam Ranh
thực hiện “Bàn Phật xuống đường”. Tín đồ Phật giáo trong thị xã, nhất là Khu phố
Cam Linh đồng loạt hưởng ứng hành động này khiến giao thông bị tê liệt, CQSG phải
điều cảnh sát đến giải tán và ban hành lệnh thiết quân luật [142]. Sự kiện “Bàn Phật
xuống đường” kết thúc cũng đồng thời đánh dấu kết thúc cao trào ĐTCT năm 1966 ở
Khánh Hòa, tại các địa phương khác tình hình cũng tương tự.
Sau đợt đấu tranh cao điểm năm 1966 bị CQSG thẳng tay đàn áp, mục tiêu đòi
thành lập chính phủ dân sự không đạt, thực hiện chỉ đạo của Giáo hội Phật giáo Việt
Nam Thống nhất69, giới lãnh đạo Phật giáo ở Khánh Hòa chuyển phong trào ĐTCT
hướng vào chống bầu cử các cấp của CQSG.
Không lâu sau khi đàn áp đẫm máu phong trào đấu tranh của đồng bào miền
67. Ngày 1-6-1966, Thượng toạ Thích Thiện Minh - Trưởng ban Ủy ban Lãnh đạo Phật tử Việt
Nam, bị ám sát bằng lựu đạn tại cổng trụ sở Tổng vụ Thanh niên Phật tử trên đường Công Lý, Sài
Gòn (nay là đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, TP Hồ Chí Minh). Vụ ám sát làm Thượng tọa bị thương,
phải đưa vào bệnh viện điều trị. 68. Nằm ở ngã tư Lê Hồng Phong, Cao Bá Quát ngày nay. 69. Thành lập ngày 4-1-1964.
106
Trung, nhằm hợp pháp hóa chính quyền quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn
Cao Kỳ, CQSG bày trò bầu cử Quốc hội lập hiến (11-9-1966). Để chống cuộc bầu
cử này, ngày 15-8-1966, Ban lãnh đạo ấp Võ Cạnh (Vĩnh Xương) tiến hành họp tại
miếu thờ Gò Mã Thanh Minh. Cuộc họp có sự tham dự của ông Nguyễn Xuân
Hước - đại điện Tỉnh giáo hội Khánh Hòa. Theo báo cáo của Quận trưởng Vĩnh
Xương, cuộc họp này “đã phổ biến tài liệu cho rằng cuộc bầu cử sắp tới thiếu dân
chủ; đòi phải có một chánh phủ dân sự chuyển tiếp trước cuộc bầu cử” [134].
Tiếp đó, lúc 20 giờ 30 ngày 18-8-1966, chùa Long Sơn tổ chức thảo luận kế
hoạch chống cuộc bầu cử Quốc hội lập hiến. Thành phần tham gia ngoài những
người thuộc lãnh đạo Tỉnh giáo hội như Thượng tọa Thích Trí Nghiêm, Thượng tọa
Thích Trí Tánh, còn có Đại đức Tuyên úy Trường Hạ sĩ quan Đồng Đế, ông
Nguyễn Hữu Định - Phó trưởng Ty Thông tin, ông Phan Thanh Thiệu - nhân viên
Tòa Hành chính Khánh Hòa. Tại cuộc họp, các đại biểu đã nhất trí: Phân công
Thượng tọa Thích Trí Tánh chịu trách nhiệm vận động tín đồ tẩy chay bầu cử; chỉ
thị Phật tử không đi bỏ phiếu, nếu Phật tử nào không tuân theo sẽ bị khai trừ; nếu
chính quyền gây khó dễ, Tỉnh giáo hội sẽ có biện pháp đối phó, sẽ tổ chức biểu tình
để gây xáo trộn trong ngày bầu cử [111].
Ngày 11-9-1966, cùng với việc áp dụng lệnh giới nghiêm, CQSG tại Khánh
Hòa gần như huy động mọi lực lượng để vận động, bắt ép người dân đi bỏ phiếu
cũng như để bảo vệ cuộc bầu cử. Chính vì vậy, các cuộc đấu tranh của Phật giáo dù
có sự chuẩn bị vẫn không thể diễn ra theo kế hoạch. Tuy nhiên, “số đông quần
chúng bị bắt ép đi bỏ phiếu đều thấy rõ đó chỉ là trò gian lận, hầu như không ai bị
mắc lừa, bộ mặt xấu xa của Thiệu - Kỳ qua trò hề này càng bị lộ rõ, quần chúng
khinh bỉ chúng ra mặt” [224, tr. 5].
Cùng thời gian này, giới công nhân tại Cam Ranh cũng có một số cuộc đấu
tranh. Cụ thể, giữa tháng 9-1966, 1.500 công nhân hãng USARMY và PACIFIC
tiến hành đấu tranh đòi tăng lương và chống sa thải; ngày 10-11-1966, hàng ngàn
công nhân bãi công đòi bồi thường thiệt hại cho các nạn nhân trong vụ tai nạn cầu
tàu Đá Bạc làm chết 8 người, bị thương 62 người [5, tr. 148].
Qua năm 1967, tại Khánh Hòa, phong trào đòi thành lập chính phủ dân sự tiếp
107
diễn gắn với đấu tranh phản đối Sắc luật 23/67 (18-7-1967)70, chống bầu cử Tổng
thống và Phó Tổng thống VNCH (3-9-1967)71, cụ thể:
Tối 2, 4 và 6-8-1967, cơ sở cách mạng rải truyền đơn trên đường Phan Bội
Châu, Trần Quý Cáp (Nha Trang), chợ Thành (Diên Khánh), ở ấp Xuân Hồi,
Phù Hữu (Vĩnh Xương), trước cửa nhà của nhân viên CSQG tại ấp Thái Thông
(Vĩnh Xương), Quốc lộ 1 đoạn qua quận Cam Lâm,... với nội dung “đả đảo đế
quốc Mỹ, đập phá tan tành trò hề bầu cử, kêu gọi binh lính và sĩ quan miền
Nam hưởng ứng tham gia cuộc tranh đấu chống Mỹ, kêu gọi nhân dân đừng đi
bỏ phiếu bầu cử Tổng thống ngày 3-9-1967” [281, tr. 4];
Trong 2 đêm 7 và 8-8-1967, tại chùa Long Sơn, dưới sự chủ trì của Thượng
tọa Thích Trí Nghiêm, cuộc họp của giới lãnh đạo Phật giáo Khánh Hòa đã nhất trí:
“Phản đối Nguyễn Văn Thiệu cản trở Hiến chương của Phật giáo; Phật giáo sẽ
không tham gia bầu cử Tổng thống, Phó Tổng thống ngày 3-9-1967; Phật giáo sẽ
xuống đường trước 7 ngày (từ ngày 28-8) để phá cuộc bầu cử; Phật giáo sẽ phản
đối bằng những vụ tuyệt thực và tự thiêu nếu hai tướng Thiệu - Kỳ đắc cử; lập kiến
nghị gửi Nguyễn Văn Thiệu phản đối Sắc luật số 23/67” [281];
Ngày 14-8-1967, chùa Giáo hội Phật giáo Khánh Hòa tổ chức phổ biến tài liệu
có nhan đề “Hiến chương phi pháp, một quái thai vô thừa nhận đã ra đời sau 9
tháng cưu mang” [281]; tiếp đó, ngày 19-8-1967, tại chùa Phật giáo quận Vạn Ninh
treo biểu ngữ phản đối Nguyễn Văn Thiệu ra Sắc luật 23/67, kêu gọi Phật giáo đồ
siết chặt hàng ngũ, quyết tâm bảo vệ Hiến chương hợp pháp,... [281].
Những hoạt động trên đây khiến Ty CSQG Khánh Hòa lo ngại, rằng “cuộc
bầu cử Tổng thống và Phó Tổng thống sắp đến sẽ gặp nhiều trở ngại” [281]. Thật
vậy, ngày 3-9-1967, tại Nha Trang, biểu tình nổ ra với hàng ngàn người tham gia,
gây cho cuộc bầu cử không ít khó khăn [7, tr. 205].
Sau cuộc bầu cử Tổng thống, Phó Tổng thống (3-9-1967), ở Khánh Hòa, các
cuộc hội thảo, cầu siêu, mít tinh, biểu tình, đưa kiến nghị,... của Phật giáo chống
70. Sắc luật 23/67 phủ nhận Hiến chương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất - Giáo hội
của đại đa số Tăng Ni, Phật tử miền Nam yêu nước; và thừa nhận Hiến chương của Giáo hội do
Thích Tâm Châu - nhân vật cánh hữu trong giới lãnh đạo Phật giáo, đứng đầu. Đây là hành động
nhằm phân hóa, chia rẽ và lũng đoạn Phật giáo. 71. Trong cuộc bầu cử này, để đắc cử, liên danh Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ đã sử dụng
nhiều biện pháp gian lận, phản dân chủ để gạt bỏ những liên danh đối lập.
108
độc tài, quân phiệt Thiệu - Kỳ vẫn diễn ra [224, tr. 5]. Đặc biệt, ngày 1-11-1967, sau
lễ nhận chức Tổng thống của Nguyễn Văn Thiệu đúng một ngày (31-10-1967), tại
chùa Long Sơn, Ni cô Huệ Trí tự thiêu để phản đối.
Cùng với phong trào của Phật giáo, đầu tháng 12-1967, giới công nhân ở
Khánh Hòa cũng phản đối chính quyền quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu bằng một
cuộc biểu tình “tẩy chay kết quả bầu cử 3-9”, kết hợp yêu cầu “Mỹ phải ngừng ném
bom miền Bắc Việt Nam” và đòi “hòa bình cho Việt Nam” [7, tr. 207].
Có thể nói, đòi thành lập chính phủ dân sự (1965-1967) là một trong những phong
trào ĐTCT tiêu biểu của nhân dân Khánh Hòa thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1954-
1975). Tuy không rầm rộ, quyết liệt như ở Huế và Đà Nẵng, song so với nhiều địa
phương khác ở miền Trung, Khánh Hòa là nơi mà phong trào diễn ra sôi nổi với hình
thức thể hiện đa dạng, biện pháp phong phú làm cho hậu phương của CQSG rối loạn.
3.2.2. Phối hợp với lực lượng vũ trang tham gia Tổng tiến công và nổi dậy Tết
Mậu Thân 1968
Cho đến năm 1968, Nha Trang - Khánh Hòa là nơi tập trung nhiều cơ quan
đầu não của CQSG. Vì vậy, để tiến hành tổng tiến công và nổi dậy, công tác chuẩn
bị về mọi mặt, nhất là chuẩn bị cho LLVT nhập thị, được lực lượng cách mạng triển
khai khẩn trương và khá chu đáo.
Sau cuộc họp tại căn cứ Đồng Bò (từ 21 đến 24-1-1968), các cán bộ nội thị Nha
Trang đã tích cực chuẩn bị cơ sở vật chất và LLCT. Cụ thể, thành lập Ban vận động
ủng hộ tài chính, vật chất do Huỳnh Tưởng - Phó Bí thư Thị ủy, phụ trách và đã vận
động được 120 nghìn đồng, 2 tấn gạo, nhiều loại thuốc chữa bệnh cùng một số nhu yếu
phẩm khác; mua 300 bộ quần áo, giày dép, mũ chuyển lên chiến khu trang bị cho Quân
giải phóng nhập thị; mua 3 xe hon đa, huy động ô tô, xe đạp phục vụ đưa đón cán bộ,
bộ đội; may cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, cờ “Liên minh các
lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình”, viết khẩu hiệu, biểu ngữ, in truyền đơn...; bố
trí lực lượng nuôi quân, đảm bảo nhu cầu mọi mặt cho Tổng tiến công và nổi dậy; kết
nối toàn bộ đường dây liên lạc giữa các khu vực nội thị, giữa nội thị với các vùng bàn
đạp, đảm bảo liên lạc thông suốt cả ngày và đêm; phân công cơ sở dẫn cán bộ điều
nghiên mục tiêu tấn công, đón nhận cán bộ từ núi xuống, dẫn đường cho bộ đội đến các
mục tiêu theo kế hoạch đã định; tổ chức quần chúng thành đội ngũ để khi nghe lệnh từ
109
Đài Phát thanh Nha Trang sẽ xuống đường biểu tình, trấn áp tề điệp; tập hợp quần
chúng cách mạng ở các vùng bàn đạp của Nha Trang như Vĩnh Xương, Diên Khánh,
Ninh Hòa tiến hành nhập thị khi cuộc tiến công nổ ra; chuẩn bị nhân sự hình thành bộ
khung “Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Nha Trang” gồm Trần
Đình Mười, Võ Đình Vỹ, Đặng Oanh, Thái Thông, Phạm Thị Nhung, Trần Hậu Tự,
Trần Văn Cháu, Nguyễn Thị Cúc, Trương Thị Lệ Thu, Đào Văn Bạch [5], [117].
Để tăng thêm sức mạnh, ngoài việc chỉ đạo xây dựng LLCT tại chỗ, Liên Khu
ủy V còn chi viện cho thị xã Nha Trang một chi bộ bằng đường dây hợp pháp gồm
6 phụ nữ do Nguyễn Thị Lễ (Mười Minh) làm Bí thư, có nhiệm vụ vận động, tổ
chức và lãnh đạo quần chúng xuống đường ĐTCT, phối hợp với ĐTQS giành chính
quyền khi thời cơ đến [1, tr. 485].
Song song với việc bí mật chuẩn bị về vật chất và LLCT của cơ sở nội thị, công
tác tuyên truyền được Tỉnh ủy Khánh Hòa chỉ đạo đẩy mạnh. Hàng loạt truyền đơn
được rải nhiều nơi trên địa bàn tỉnh, nhất là tại thị xã Nha Trang và các thị trấn như
Diên Khánh, Ninh Hòa, Vạn Giã. Theo điều tra của Ty CSQG Khánh Hòa thì “lúc 23
giờ ngày 21-1-1968, có 4 xe máy Honda SS.50 chạy trên đường Duy Tân, 1 trong 4
xe rải truyền đơn dọc đường, truyền đơn gồm 7 loại với tựa đề: Lời chúc mừng năm
mới của Hồ Chủ tịch, Thư của Luật sư Nguyễn Hữu Thọ gởi Hồ Chủ tịch, Đề phòng
âm mưu tuyên truyền xảo trá của địch, Đả đảo âm mưu chiêu hàng của Mỹ, Cương
quyết hy sinh chiến đấu giành thắng lợi, Nhiệt liệt hưởng ứng các quyết định sáng
suốt của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Mặt trận Dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam không bắt thiếu nhi 13, 14 tuổi đi lính” [282, tr. 3].
Cùng với rải truyền đơn ở đô thị, công tác đột nhập các ấp vùng nông thôn để
tuyên truyền cũng được triển khai. Ty CSQG Khánh Hòa cho biết: “Trước Tết Mậu
Thân, Việt Cộng thường đêm đột nhập các ấp hẻo lánh rải truyền đơn và tập trung
đồng bào tổ chức mít tinh để vận động đồng bào đấu tranh” [282, tr. 3].
Đúng như kế hoạch đề ra, đêm giao thừa Tết Mậu Thân (tức đêm 30-1-1968),
tại Nha Trang, các mũi quân sự tấn công vào mục tiêu đã định. Quân giải phóng
nhanh chóng chiếm được 3 mục tiêu quan trọng là Tòa Hành chính Khánh Hòa72,
72. Nay là trụ sở UBND tỉnh Khánh Hòa, số 01 đường Trần Phú, Nha Trang.
110
Tiểu khu Khánh Hòa73 và Bộ Chỉ huy 5 Tiếp vận74. Tuy nhiên, ở các vị trí khác,
Quân giải phóng không đạt được mục tiêu. Cụ thể, không chiếm giữ được Đài Phát
thanh Nha Trang75, Quân lao Nha Trang và không đánh sập được cầu Bóng76.
Trước cuộc tiến công mạnh mẽ của lực lượng cách mạng, Mỹ và CQSG phản
ứng quyết liệt, đặc biệt là cho máy bay ném bom hủy diệt hoàn toàn các mục tiêu bị
Quân giải phóng chiếm giữ, khiến “Tiểu khu Khánh Hòa: Nhà chính sụp đổ 100%;
Bộ Chỉ huy 5 Tiếp vận: Hư hại 70%; Tòa Hành chính (gồm Ty Tài chính, Hành
chính, Nội an, Kinh xã, Văn phòng, Thuế vụ, Xây dựng nông thôn): Hư hại 100%”
[283]; đồng thời, để chặn bước tiến của Quân giải phóng, đối phương cho ném bom
phá hủy gần như toàn bộ khu Máy Nước77. Các cuộc không kích của quân đội Sài
Gòn đã làm chết nhiều người, trong đó có cả dân thường.
Về ĐTCT, đêm giao thừa, rạng mồng 1 Tết Mậu Thân, tại Nha Trang đồng
bào các thôn Phú Nông, Xuân Lạc, Phú Bình, Phú Vinh, Thái Thông, nhất là khu
Hà Ra, Xóm Cồn, Phương Sài, Xóm Mới... tập trung lực lượng sẵn sàng xuống
đường biểu tình. Tương tự, ở vùng phụ cận của thị xã Nha Trang như Vĩnh Xương,
Diên Khánh đều tổ chức mít tinh chờ lệnh kéo vào thị xã. Nhưng do tình hình
không thuận lợi, nên quần chúng đã không được huy động nhập cuộc.
Sáng mồng 1 Tết, trên 150 quần chúng thôn Đại Điền Trung (Diên Khánh) do
Lương Duy Hiến - Huyện ủy viên, làm trưởng đoàn, Bùi Thị Tâm - Tổ trưởng binh
vận, làm xung kích, đã kéo vào tiếp sức cho mũi ĐTQS tại Nha Trang. Đoàn biểu
tình đi thành đội ngũ, trên ngực mỗi người đeo tấm băng với dòng chữ đỏ “Quyết tử
cho Tổ quốc quyết sinh”, tay cầm cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam, cờ Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình và hô các khẩu hiệu:
“Việt Nam độc lập muôn năm”, “Hồ Chủ tịch muôn năm”. Đến Mã Vòng, đoàn
biểu tình bị quân đội, cảnh sát Sài Gòn chặn lại, xả súng làm chết 8 người, trong đó
có ông Nguyễn Hồng Hải - Phó ban An ninh tỉnh Khánh Hòa, bị thương 20 người.
Tuy chưa vào được nội thành để hỗ trợ lực lượng quân sự, nhưng đoàn biểu tình Đại
73. Nay là trụ sở Trung tâm Viễn thông Nha Trang, số 04 đường Lê Lợi, Nha Trang. 74. Nay là trụ sở Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Khánh Hòa, số 01 đường Ngô Quyền, Nha Trang. 75. Nay là trụ sở Truyền hình Cáp Nha Trang, số 04 đường Lê Hồng Phong, Nha Trang 76. Cầu bắc qua sông Cái, nối liền 2 khu vực Bắc - Nam của Nha Trang. Việc không đánh sập được
cầu Bóng dẫn đến quân đội Sài Gòn từ khu vực phía Bắc nhanh chóng tiếp viện cho các trọng điểm
bị Quân giải phóng tiến công ở phía Nam. 77. Khu vực đường Lê Hồng Phong, đường Đồng Nai ngày nay.
111
Điền Trung đã biểu thị được tinh thần nổi dậy tiến công mạnh mẽ [1, tr. 495].
Về hoạt động tiến công quân sự của Quân giải phóng và nổi dậy của LLCT ở
Nha Trang dịp Tết Mậu Thân 1968, Ty CSQG Khánh Hòa thừa nhận: “Các đơn vị
quân đội và một số cán bộ Tỉnh, Huyện, Thị đội đã xâm nhập đánh chiếm thị xã
Nha Trang và tổ chức dân chúng biểu tình để hỗ trợ, tiếp tay cướp chính quyền”
[283, tr. 2].
Cùng với Nha Trang, các quận trên địa bàn Khánh Hòa cũng diễn ra hoạt
động tiến công quân sự và nổi dậy chính trị, cụ thể:
Tại quận Vạn Ninh, sáng mồng 1 Tết, LLVT triển khai thành 2 cánh tiến công
đối phương ở thị trấn Vạn Giã, chiếm Phòng thông tin, Trung tâm chiêu hồi. Trong
khi đó, đông đảo quần chúng nhân dân đi thành hàng ngũ, tay cầm cờ Phật giáo, cờ
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tiến về quận lỵ. Đến 12 giờ trưa,
quân đội Sài Gòn bắt đầu phản kích khiến 11 chiến sĩ hy sinh, 1 bị bắt, 2 bị thương,
số còn lại buộc phải rút quân, các cuộc biểu tình cũng giải tán;
Tại quận Ninh Hòa, ngày mồng 1 Tết, trên 600 quần chúng của 2 xã Ninh An
và Ninh Thọ trương cờ “Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình”, cờ
Phật giáo, hô khẩu hiệu, kéo vào thị trấn. Khi đến đèo Bánh Ít, đoàn bị lính bảo an,
lính Hàn Quốc chặn lại. Về cuộc biểu tình này, Ty CSQG Khánh Hòa cho biết:
“Ngày 30-1-1968, một số đồng bào xã Ninh An, Ninh Thọ kéo về quận Ninh Hòa
biểu tình, có mang theo cờ Phật giáo, truyền đơn và biểu ngữ nhưng đã bị chính
quyền địa phương ngăn chặn và giải tán” [283, tr. 3]; trong khi đó, Tỉnh ủy Khánh
Hòa nhận định: “Dù chưa cướp được chính quyền nhưng đã đấu tranh quyết liệt,
bảo toàn đội ngũ của mình. Chí khí anh hùng đã làm cho bọn ác ôn và bọn Nam
Triều Tiên phải khiếp sợ” [225; tr. 5].
Sau Tết Mậu Thân 1968, CQSG tăng cường an ninh lên mức cao độ, tại
Khánh Hòa các hoạt động ĐTCT công khai của quần chúng vì thế bị hạn chế, ngay
cả Phật giáo cũng “quyết định đình chỉ mọi sự tranh đấu bạo động, chỉ chủ trương
treo khẩu hiệu đòi Chính phủ phải trả tự do cho Thượng tọa Thích Trí Quang cùng
các chư Tăng và phản đối Sắc luật 23/67” [284, tr. 3]. Thay vào đó, ĐTCT chủ yếu
được thực hiện dưới hình thức mít tinh hưởng ứng mỗi khi có Đội công tác vũ trang
bí mật đột nhập vào các ấp. Riêng trong tháng 2-1968, có 7 cuộc mít tinh tại các ấp
112
Xuân Lạc (Vĩnh Xương), An Ninh, Thanh Minh, Nghiệp Thành, Phú Ân Nam
(Diên Khánh), Vĩnh Bình (Cam Lâm), Vĩnh Hòe (Vạn Ninh). Theo tài liệu của
CSQG, các cuộc mít tinh nhằm: “Tuyên truyền chiến thắng của Việt Cộng, ủng hộ
‘Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình’, kêu gọi nhân viên chính
quyền bỏ hàng ngũ trở về với chúng (chỉ cách mạng - TG), đả kích lệnh Tổng động
viên của Chính phủ VNCH” [283, tr. 4].
Trong dịp Tết Mậu Thân 1968, do điều kiện không thuận lợi, công nhân ở Khánh
Hòa không thể tham gia ĐTCT. Tuy nhiên, đến tháng 6-1968 có 2 cuộc đấu tranh đã
nổ ra. Ngày 6-6-1968, 15 công nhân cứu hỏa tại công trường PAE Bình Tân (Vĩnh
Xương) đình công để phản đối việc chỉ huy công trường sa thải 1 công nhân Việt Nam
và cách đối xử tệ với công nhân của quản lý người Philippin. Ngày 24-6-1968, 300
công nhân thuộc hãng PACIFIC Bình Tân (Vĩnh Xương) đình công để phản đối việc
Ban Giám đốc hãng này đuổi việc 4 công nhân và đánh 1 công nhân người Việt. Vụ
việc sau đó được Ban Giám đốc hãng PACIFIC và Tỉnh trưởng Khánh Hòa đến giải
quyết nhưng công nhân không chấp nhận. Tiếp đó, công nhân đã tụ họp tại trụ sở Liên
hiệp nghiệp đoàn Khánh Hòa để yêu cầu Bộ Lao động CQSG can thiệp. Trước thái độ
cương quyết của công nhân, “ngày 25-6-1968, hãng PACIFIC đã đồng ý thu hồi 4
công nhân và bồi thường cho công nhân bị đả thương” [285, tr. 3].
Tóm lại, để phục vụ cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968,
LLCT ở Khánh Hòa nói chung, thị xã Nha Trang nói riêng đã được tổ chức và có sự
hỗ trợ cũng như phối hợp với LLVT. Tuy nhiên, khi cuộc tiến công nổ ra, do điều
kiện không thuận lợi bởi sự phản ứng quyết liệt của CQSG nên ĐTCT chỉ thực hiện
được ở mức độ vừa phải. Thực tiễn lịch sử này đem đến cho Tỉnh ủy Khánh Hòa
kinh nghiệm trong chỉ đạo cách mạng những năm về sau, nhất là trong cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy Xuân 1975.
3.2.3. Đòi dân chủ, dân sinh
Sau Tết Mậu Thân 1968, cụ thể là những năm 1969-1972, ĐTCT ở Khánh
Hòa chủ yếu hướng đến đòi các mục tiêu dân chủ và dân sinh, thể hiện qua phong
trào chống bắt lính, chống đuổi nhà; các cuộc đấu tranh của Phật giáo, công nhân,
thương phế binh và hoạt động của tổ chức Sao Việt.
Về phong trào chống bắt lính, ngày 19-6-1968, tại Huế, Tổng thống Nguyễn
113
Văn Thiệu ký ban hành Luật Tổng động viên (Luật 003/68) [141, tr. 215], tăng
cường đôn quân, bắt lính nhằm bù vào những tổn thất do cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của quân dân miền Nam. Trong bối cảnh đó, các hoạt
động tuyên truyền, vận động thanh niên trốn lính cũng như đấu tranh chống bắt lính
được Tỉnh ủy Khánh Hòa chỉ đạo đẩy mạnh. Ty Thông tin Khánh Hòa trong “Kế
hoạch chống Việt Cộng phá hoại quân dịch” (23-7-1968), cho biết: “Việt Cộng áp
dụng nhiều phương pháp tuyên truyền nhằm gây hoang mang, hầu tạo tâm lý sợ
quân dịch, xúi giục họ lẫn trốn, sống bất hợp pháp rồi lần lần tiến lại gần chúng
hơn và cuối cùng là chạy theo chúng. Việt Cộng còn xúi giục thanh niên và gia đình
họ đòi hỏi, đấu tranh dưới nhiều hình thức như viện lý lẽ để lần lừa, từ chối không
nhận lãnh tống đạt quân dịch, trốn lính, tỏ thái độ ương ngạnh, đào ngũ,... để gây
khó khăn, làm xáo trộn chương trình, tổ chức quân dịch của ta” [294, tr. 3]. Ty
Thông tin Khánh Hòa cũng thừa nhận chủ trương này của cách mạng thu được kết
quả “vì phù hợp với tâm lý quảng đại quần chúng giàu cũng như nghèo, trí thức
cũng như lao động, kể cả các tôn giáo, nhân viên chính quyền. Tại Khánh Hòa, tình
trạng thanh niên trốn quân dịch hoặc bị Việt Cộng lợi dụng, lôi kéo cũng đã xảy ra
tại một vài địa phương” [294, tr. 3]. Đoạn hồi ký sau đây cho thấy rõ về kết quả của
phong trào chống bắt lính: “Nhiều thanh niên trốn lính lánh ra các xã ngoại thành
Nha Trang như Vĩnh Phước, Ngọc Hiệp, Vĩnh Trường, Vĩnh Nguyên,... thậm chí,
còn chạy ra các đảo Hòn Mát, Hòn Mu Rùa, Hòn Bảy Miếu để trốn, có người chạy
sang Hòn Rớ sống như những cán bộ Việt Cộng” [117, tr. 37].
Không chỉ tuyên truyền, vận động, nhiều cuộc biểu tình chống bắt lính cũng
đã diễn ra. Điển hình là ngày 14-10-1970, tại Tân Đức (Vạn Ninh), khi cảnh sát Sài
Gòn bắn chết 1 thanh niên trốn lính, lập tức hơn 1.000 quần chúng tổ chức truy điệu
rồi đưa xác thanh niên đến Quận, tố cáo tội ác của CQSG. Cuộc đấu tranh đã tranh
thủ được đông đảo các tầng lớp nhân dân, kể cả binh lính Sài Gòn, buộc Quận
trưởng chấp nhận bồi thường nhân mạng [234, tr. 5].
Về đấu tranh chống đuổi nhà, tại Nha Trang, phong trào đấu tranh chống đuổi
nhà ở khu chợ Đầm78 kéo dài từ năm 1969 đến năm 1970 “được đông đảo quần
78. Ngày 16-9-1968, hỏa hoạn thiêu rụi chợ Đầm và 126 ngôi nhà, hầu hết là của đồng bào gốc
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định. Để xây lại chợ, CQSG cho lấp đầm Xương Huân (từ ngày
114
chúng tham gia kể cả gia đình binh sĩ, giằng co quyết liệt với địch, nhiều lần đánh
nhau với cảnh sát” [234, tr. 5]; trong khi đó, suốt năm 1970, nhân dân Khu phố
Cam Ranh đã tiến hành đấu tranh không chịu dời nhà để CQSG xây dựng nơi đây
thành khu vực phục vụ mục đích quân sự [5, tr. 171].
Về phong trào Phật giáo, để chuẩn bị cho Lễ Phật đản 1969 (Phật lịch 2513),
Giáo hội Phật giáo tỉnh Khánh Hòa phổ biến đến các cấp Giáo hội diễn văn của
Viện trưởng Viện Hóa Đạo tố cáo “CQSG triệt hạ Phật giáo, dằn mặt đối lập; kêu
gọi toàn thể Phật tử cầu nguyện cho Thượng tọa Thích Thiện Minh sớm thoát khỏi
cảnh lao tù; kêu gọi củng cố cơ sở, giáo dục quần chúng và trong sạch tổ chức để
tạo sức mạnh mới đủ sức cứu nước, giữ đạo” [131];
Ngày 2-6-1969, tại chùa Phật giáo Vạn Ninh treo tấm bảng có nội dung: “Tố
cáo trước dư luận trong nước và nước ngoài những hành động trả thù và phá hoại
Phật giáo của chế độ Tổng thống Thiệu, một tín đồ Thiên Chúa giáo nối tiếp chính
sách Ngô Đình Diệm” [131];
Ngày 19-10-1969, tại chùa Phật giáo tỉnh Khánh Hòa tổ chức một cuộc họp với
sự tham gia của đại diện các Khuôn hội, đoàn thể Phật tử gồm 144 người do Thượng
tọa Thích Thiện Bình chủ tọa. Cuộc họp tiến hành bầu Ban Bảo vệ Đạo pháp và tranh
thủ hòa bình; thảo luận một số vấn đề như tình hình dân tộc và Đạo pháp; vụ án
Thượng tọa Thích Thiện Minh; đòi Chánh phủ thu hồi Sắc luật 23/67 [288, tr. 2];
Ngày 19-5-1970, gần 8.000 quần chúng đã đến chùa Long Sơn tham dự lễ
Phật đản. Tại buổi lễ, giới lãnh đạo Phật giáo Khánh Hòa đã tố cáo CQSG đàn áp
Phật giáo, kêu gọi sinh viên, học sinh, Phật tử, thương phế binh đoàn kết chống
những chính sách bất công của CQSG và chống Mỹ [234, tr. 6];
Ngày 9-5-1971, gần 1.000 quần chúng ở Suối Tân (Cam Ranh) kéo đến Chùa
Phú Bình 2 làm lễ Phật đản kết hợp mít tinh chống CQSG và chống Mỹ. Các khẩu
hiệu “Đả đảo đế quốc Mỹ xâm lược”, “Đả đảo chính quyền mở lớp huấn luyện”,
“Đả đảo chính quyền ăn hối lộ, lãng phí, hà hiếp dân” và nhiều áp phích đòi Mỹ
rút quân, vãn hồi hòa bình đã được phổ biến trong cuộc mít tinh [234, tr. 6].
Về phong trào công nhân, suốt năm 1969, công nhân khuân vác ở bến tàu Cầu
Đá đấu tranh liên tục đòi tăng lương 25% và loại bỏ tên Ủy viên nghiệp đoàn phản
12-4-1969), đồng thời không cho dân làm lại nhà trên địa điểm cũ, việc này vấp phải sự phản đối
mạnh mẽ của dân chúng.
115
động; anh em xích lô, xe lam ở các khu Hà Ra, Xóm Bóng, Trường Củi (Nha
Trang), Đá Bạc, Ba Ngòi (Cam Ranh) đấu tranh đòi hạ giá sinh hoạt và chống thuế
kiệm ước, thuế đường, chống tăng giá phụ tùng và kiểm soát xe qua lại [234, tr. 7].
Năm 1970, tại Cam Ranh, các cuộc đình công phản đối người Mỹ tiếp tục
diễn ra: Vụ lính Mỹ vô cớ đổ cơm của người Việt, bị công nhân vây đánh, Quân
cảnh đưa chó nghiệp vụ đến uy hiếp, để phản đối hành động này công nhân đã đình
công 3 ngày; vụ Quân cảnh Mỹ giở trò sàm sỡ 1 nữ công nhân người Việt khi lục
soát qua cổng, anh em công nhân đình công 1 ngày. Những người Mỹ gây ra 2 vụ
việc trên bị chuyển đi nơi khác. Ở Vĩnh Xương, ngày 19-10-1970, hàng trăm công
nhân hãng thầu RMK của Mỹ tại công trường đèo Rù Rì tiến hành đình công đòi
tăng lương và yêu cầu có xe chuyên chở công nhân, Ty Lao động Khánh Hòa buộc
phải đến giải quyết [5, tr. 171].
Cuối năm 1972, đông đảo công nhân Cam Ranh tiến hành đấu tranh và đạt
được thắng lợi. Cụ thể, ngày 16-12-1972, lính Mỹ đồn trú tại Mỹ Ca bắn bị thương
1 công nhân người Việt vì đòi lục soát nhưng không được chấp nhận, lập tức, với sự
hỗ trợ của quần chúng, gia đình nạn nhân đã liên hệ và yêu cầu Liên hiệp nghiệp
đoàn Khánh Hòa can thiệp. Liên hiệp nghiệp đoàn ủng hộ bằng cách huy động 20
xe chở công nhân, nạn nhân, gia đình nạn nhân kéo đến Mỹ Ca đấu tranh. Ngoài
việc yêu cầu bồi thường, họ còn đòi “công nhân Việt Nam phải do người Việt Nam
quản lý; phải trả lương cho công nhân Việt Nam bằng với người Đại Hàn,
Philippin” [5, tr. 178]. Cuộc đấu tranh đã buộc người Mỹ phải chấp nhận bồi
thường và đưa nạn nhân đi chữa trị, đồng thời hứa giải quyết các yêu sách còn lại.
Về phong trào đấu tranh của thương phế binh, từ giữa năm 1970, phong trào
đấu tranh của thương phế binh ở Khánh Hòa phát triển mạnh, với khẩu hiệu “nông
dân có ruộng, thương phế binh có nhà”, đòi giải quyết thỏa đáng quyền lợi, đòi
Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ từ chức, đòi chấm dứt chiến tranh [7, tr. 271].
Ngày 5-7-1970, bất chấp sự ngăn cản của CQSG, thương phế binh đã đồng loạt xây
cất 30 căn nhà tại khu đất gần cầu cá Cù Lao (Vĩnh Phước, Vĩnh Xương). Đặc biệt,
dưới danh nghĩa chống tham nhũng, từ ngày 26 đến 31-8-1970, hàng chục thương
phế binh đã ủng hộ đại úy, bác sĩ Hà Thúc Nhơn tiến hành chiếm giữ Quân y viện
116
Nguyễn Huệ79. Những cuộc đấu tranh của thương phế binh đã làm cho CQSG hết
sức lo lắng. Ty CSQG Khánh Hòa trong báo cáo tháng 9-1970, viết: “Vụ nổi loạn ở
Quân y viện Nguyễn Huệ cùng một vài vụ gây rối của thương phế binh đã làm cho
một số lớn đồng bào hoang mang, lo ngại đến hiện tình đất nước” [289, tr. 3].
Về tổ chức Sao Việt, năm 1971, phong trào đô thị ở Khánh Hòa đánh dấu
bước phát triển mới với việc Hội Sao Việt chính thức được thành lập dưới sự chỉ
đạo của Huyện ủy Vĩnh Trang80. Hội gồm nhiều nhân sĩ, trí thức như bác sĩ Nguyễn
Thạch, bác sĩ Nguyễn Ngọc Hiền, giáo sư Lê Văn Bê, giáo sư Cao Thị Hương, giáo
sư Lê Đình Tần,... Ngoài ra, còn tập hợp được một số thành viên trong chính quyền,
quân đội Sài Gòn như dân biểu Trần Văn Nhung, dân biểu Trần Văn Sơn, đại úy
Vĩnh Thọ81, cảnh sát Nguyễn Đức Thắng82 [7], [315].
Kể từ khi ra đời, Sao Việt tổ chức nhiều hoạt động như mở lớp dạy chữ83,
dạy nghề miễn phí cho con em lao động ở khu Hà Ra, Chụt, Hoàng Diệu, Xóm
Xưởng; tổ chức bán báo, đánh giày, đá bóng, luyện thi vào trường công,... thông
qua đó để tuyên truyền chống Mỹ, đòi thống nhất đất nước và tiến hành công tác
binh vận; phát hành Đặc san Sao Việt với nhiều cách thể hiện khéo léo để tuyên
truyền đường lối, chủ trương của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam, ca ngợi truyền thống chống ngoại xâm, giáo dục thanh niên hướng về quê
hương, dân tộc, đề cao nguyện vọng thiết tha của nhân dân là chấm dứt chiến
tranh, lập lại hòa bình,...
Cuối năm 1971, Hội Sao Việt cho ra mắt tờ báo Lao Động với tuyên ngôn
“Lao động là tiếng nói hòa bình của nhân dân Trung Trung Bộ”. Dưới danh nghĩa
“Tiếng nói hòa bình”, Lao Động đã cho đăng một số bài viết đòi Mỹ rút quân khỏi
Việt Nam, lên án chính sách văn hóa mị dân, tố cáo chế độ độc tài Nguyễn Văn
Thiệu. Tiếp theo, để cổ vũ tinh thần yêu nước, kêu gọi, thúc giục quần chúng đấu
79. Nay là trụ sở Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Khánh Hòa. Trong quá trình chiếm giữ, bác sĩ
Nhơn và thương phế binh đã bắn chết 5 người, trong đó có 1 người Mỹ. Sáng 31-8-1970, quân đội
Sài Gòn tấn công Quân y viện, Hà Thúc Nhơn bị giết, nhiều thương phế binh bị bắt. 80. Thực tế, Sao Việt đã hoạt động trước khi chính thức thành lập. Cụ thể, từ ngày 27 đến ngày 29-
12-1970, hai thành viên của Sao Việt là Lê Quý và Nguyễn Huy Hoàng nhận chỉ thị của Huyện ủy
Vĩnh Trang lên Đà Lạt dự Đại hội Sinh viên Phật tử miền Nam Việt Nam [316]. 81. Là phi công lái máy bay A37, biên chế tại Sư đoàn 2 Không quân, Nha Trang. 82. Làm việc tại Trung tâm Thẩm vấn thuộc Ty CSQG Khánh Hòa. 83. PGS.TS. Lê Cung, lúc bấy giờ là sinh viên Trường ĐHSP Huế, có lần vào Nha Trang dạy chữ
cho các em do Sao Việt tổ chức.
117
tranh, Hội Sao Việt cho xuất bản tập thơ văn “Lửa Yến Phi”, tập nhạc “Quê hương
ta anh hùng”, “Hát cho đồng bào tôi nghe”, “Dậy mà đi, dậy mà đi”,... Ngoài ra,
Sao Việt còn mở Thư quán tại nhà Võ Văn Thanh84 và thông qua tiệm sách Bình
Dân85 để phát hành sách báo yêu nước của địa phương và Sài Gòn, Đà Lạt gửi đến.
Thư quán cũng là trạm liên lạc chủ yếu giữa tổ chức Sao Việt với Huyện ủy Vĩnh
Trang [7], [316].
Như vậy, sau Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, ĐTCT ở
Khánh Hòa vẫn được duy trì khá liên tục với sự tham gia của nhiều thành phần
xã hội nhằm đòi dân chủ, dân sinh. Điều này chứng tỏ, nhân dân Khánh Hòa,
nhất là các đô thị như Nha Trang, Cam Ranh ngày càng chán ghét CQSG do Mỹ
hậu thuẫn, do đó, LLCT ngày càng được hình thành đông đảo ngay trong sào
huyệt của đối phương.
3.2.4. Đòi thi hành Hiệp định Paris
Hiệp định Paris được ký kết (27-1-1973), nhân dân Khánh Hòa ở vùng giải
phóng chào đón bằng những cuộc xuống đường, cắm cờ, treo khẩu hiệu, rải truyền
đơn ở các đồn bốt, trụ sở, đường phố. Tại Nha Trang, các tuyến cơ sở nội thị86, nhất
là tuyến Sao Việt triển khai nhiều hoạt động đòi CQSG thi hành Hiệp định Paris.
Hoạt động đầu tiên của Sao Việt là in và phổ biến hơn 600 bản Hiệp định
Paris, cử hội viên giải thích các điều khoản của Hiệp định để nhân dân Nha Trang
và một số địa bàn lân cận nắm bắt và có cơ sở pháp lý đấu tranh với CQSG, đòi
được đi làm ruộng, làm rẫy, ra khơi đánh bắt cá, tự do đi lại thăm viếng bà con...;
Sau Hiệp định Paris, tại Sài Gòn, “Mặt trận Nhân dân đòi thi hành Hiệp
định Paris” được thành lập do Luật sư Trần Ngọc Liễng làm Chủ tịch với sự tham
gia của nhiều nhân sĩ trí thức, tu sĩ các tôn giáo, đại diện các giới đồng bào và một
số công chức, sĩ quan CQSG. Hưởng ứng phong trào này, Hội Sao Việt thành lập
“Ủy ban đòi thi hành Hiệp định Paris” tại Nha Trang. Huyện ủy Vĩnh Trang dự
84. Còn có tên khác là Thanh Long, người gốc Phú Yên, là cán bộ kháng chiến chống Pháp, nhà ông
ở ngã tư Nguyễn Tường Tam (nay là Trần Bình Trọng) - Trương Định. 85. Nằm trên đường Phan Bội Châu, gần chợ Đầm. Đây là tiệm sách của Hồng Nhật - từng làm chủ
bút báo Gió Mới năm 1955. Năm 1971, Hồng Nhật là Hội trưởng Hội Quảng Bình tương tế. 86. Ngoài tuyến Chi bộ Khu V được Liên Khu ủy V tăng cường cho Nha Trang trước Tết Mậu Thân
1968 và tuyến Sao Việt, ở Nha Trang còn có tuyến Ban Cán sự được Huyện ủy Vĩnh Trang chỉ đạo
thành lập đầu năm 1971, nòng cốt là một số cán bộ kháng chiến cũ, sinh sống lâu năm ở đây, có uy
tín trong nhân dân.
118
kiến, nếu Mỹ và CQSG thi hành Hiệp định, Ủy ban này sẽ trở thành nòng cốt
trong Lực lượng thứ ba tham gia tuyển cử vào bộ máy Chính phủ liên hiệp tại địa
phương. Về vấn đề này, một nhân chứng cho biết: “Sau Hiệp định Paris, yêu cầu
đấu tranh công khai hợp pháp ở đô thị rất lớn nhằm tập hợp, tuyên truyền giác
ngộ quần chúng đấu tranh buộc địch thi hành Hiệp định. Thực hiện chủ trương
của Khu ủy V, Huyện ủy Vĩnh Trang chỉ đạo Sao Việt cử người liên lạc với bà Ngô
Bá Thành để thành lập Ủy ban đòi thi hành Hiệp định Paris ở Nha Trang, phân
công Nguyễn Tủng87 làm Chủ tịch. Ủy ban hoạt động rất hiệu quả, tuyên truyền
sâu rộng Hiệp định Paris trong nhân dân và thu hút nhiều trí thức, công thương
gia tiến bộ” [261, tr. 3].
Tiếp đó, nhằm tập hợp rộng rãi các thành phần xã hội công khai đấu tranh cho
những vấn đề nhân đạo và quyền con người, Sao Việt thành lập “Ủy ban đòi cải
thiện chế độ lao tù”88, “Ủy ban phụ nữ đòi quyền sống”89 tại Nha Trang.
Ngoài ra, để củng cố vị thế và tăng cường ảnh hưởng của tổ chức Sao Việt
trong quần chúng; đồng thời tuyên truyền về Hiệp định Paris, đả kích các chính
sách bất công của CQSG, Hội Sao Việt đã mời một số thành viên chủ chốt của
Lực lượng thứ ba và các tổ chức tiến bộ ở Sài Gòn ra Nha Trang tuyên truyền đấu
tranh, như mời luật sư Ngô Bá Thành, sinh viên Trần Thị Lan nói chuyện tại cơ sở
của Hội; mời Ni sư Huỳnh Liên nói chuyện tại Tịnh xá Hà Thanh, Tịnh xá Lương
Sơn; mời Linh mục Nguyễn Ngọc Lan nói chuyện tại Hội trường Dòng Chúa cứu
thế90; mời đoàn Sinh viên Phật tử Vạn Hạnh do nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ, sinh viên
Nguyễn Văn An dẫn đầu diễn văn nghệ tại rạp Minh Châu91,... Khi luật sư Ngô Bá
Thành, luật sư Trần Ngọc Liễng tổ chức hội nghị thành lập “Lực lượng hòa hợp,
hòa giải dân tộc” tại Sài Gòn, Hội Sao Việt đã cử Vĩnh Thọ92 và Nguyễn Tủng
tham dự [316].
Tại Khánh Hòa, sau Hiệp định Paris (1973), văn học yêu nước với các tác
giả như Võ Hồng, Nguyễn Hoàng Thu, Lê Kỳ Phương, Trần Vạn Giã, Triệu
87. Người gốc Quảng Nam, thành viên Hội ái hữu Quảng Đà, là cơ sở cách mạng. 88. Ủy ban Cải thiện chế độ lao tù ra đời năm 1969 tại Sài Gòn do linh mục Chân Tín làm Chủ tịch. 89. Ủy ban Phụ nữ đòi quyền sống ra đời năm 1970 tại Sài Gòn do luật sư Ngô Bá Thành làm Chủ tịch. 90. Nay là khách sạn Hải Yến, số 40 đường Trần Phú. 91. Nay là trụ sở Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất tỉnh Khánh Hòa, số 35 đường Yết Kiêu. 92. Năm 1973, Vĩnh Thọ là Chủ tịch Ủy ban cải thiện chế độ lao tù Nha Trang, còn mẹ của ông là
Chủ tịch Ủy ban phụ nữ đòi quyền sống Nha Trang [316].
119
Phong, Thế Vũ, Nguyễn Âu Hồng,... bằng những cách thể hiện khác nhau đã
“phản ánh cuộc sống đầy chua xót dưới nanh vuốt của chủ nghĩa thực dân mới,
chỉ ra nguyên nhân sâu xa của áp bức, bất công nằm ngay trong chính sách xâm
lược của Mỹ...; tái hiện bộ mặt hiện thực với tất cả sự thối nát, bệ rạc và xót xa
của một thế hệ bị săn đuổi trên chính quê hương của mình” [92, tr. 23-28].
Không những thế, các văn nghệ sĩ còn thành lập nhóm Nhân Sinh93 góp tiếng nói
phản kháng khá quyết liệt chống lại CQSG và phối hợp với tổ chức Sao Việt ra
tập san Liên Kết nhằm đấu tranh đòi Nguyễn Văn Thiệu thi hành Hiệp định Paris,
thực hiện hòa hợp dân tộc, thống nhất đất nước [92, tr. 23].
Cũng như các thành phần xã hội khác ở miền Nam, đối với Phật giáo
Khánh Hòa, Hiệp định Paris được ký kết mang lại niềm hy vọng lớn. Nhưng
kinh nghiệm qua nhiều năm đấu tranh và trước những âm mưu, hành động phá
hoại Hiệp định của CQSG đã làm không ít Tăng Ni lo lắng cho nền hòa bình
của dân tộc, họ nung nấu ý định thực hiện hình thức đấu tranh quyết liệt, có tác
động mạnh mẽ để đòi Nguyễn Văn Thiệu thi hành Hiệp định Paris.
Từ ngày 14 đến ngày 16-10-1973, Phật học viện Trung phần Nha Trang tổ
chức Đại Giới đàn Phước Huệ. Đến ngày 17-10-1973, trong lúc toàn thể Giới tử
và Ban Kiến Đàn đang thiết lễ tạ Thập sư để bế mạc giới đàn thì Sa-di Thích
Viên Đạo, một giới tử của Đại giới đàn đã tự thiêu trên đồi Trại Thuỷ, trước
Kim Thân Phật tổ.
Thích Viên Đạo để lại 6 bức thư: Một gửi Chư tôn Hoà thượng, Thượng toạ,
Đại đức trong Đại Giới đàn Phước Huệ; một gửi đồng bào; một gửi Bổn sư; một để
lại cho Má; một để lại mấy em; một gửi chiến sĩ ở hai miền đất nước. Thích Viên
Đạo viết: “Đáng lý ra hoà bình có thể vãn hồi rồi, nhưng có một số người muốn
nuôi dưỡng chiến tranh để tư lợi riêng, cho nên những trận ác chiến cứ tiếp tục
diễn ra không bao giờ ngừng cả,... Tôi vì thấy cảnh khổ của đồng bào phải chịu
do chiến tranh gây ra nên đã âm thầm phát nguyện thiêu thân để cầu nguyện
hoà bình cho đất nước chúng ta và cho toàn thể thế giới. Chỉ mong đồng bào
sớm được an lạc” [120, tr. 10].
Trước một sự kiện hết sức đặc biệt, gây xúc động mạnh trong toàn thể giới tử,
93. Với các thành viên như Thế Vũ, Nguyễn Âu Hồng, Trần Vạn Giã, Thanh Hồ.
120
Ban Kiến đàn quyết định kéo dài thời gian tổ chức và gọi Đại Giới đàn Phước Huệ
năm 1973 là “Đại Giới đàn cầu nguyện hoà bình”. Hoà thượng Thích Trí Thủ -
Giám viện Phật học viện Trung phần Nha Trang, Chánh Chủ đàn khẳng định: Thích
Viên Đạo đã “gắn chặt vĩnh viễn giờ phút cuối cùng của đời mình vào Đại Giới
đàn. Mà Đại Giới đàn Phước Huệ là giới đàn đầu tiên được tổ chức sau Hiệp định
chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký kết ngày 27-1-1973 tại
Paris. Cho nên, trong ý nghĩa này, cũng có thể gọi Đại Giới đàn này là Đại Giới
đàn cầu nguyện hoà bình” [120, tr. 3].
Ngày 30-10-1973, Viện Hoá Đạo ra Thông tư số 0112/VHĐ/VP/TT chỉ thị
các Giáo hội Phật giáo địa phương cử hành lễ cầu siêu cho Đại đức Thích Viên Đạo
và cầu nguyện hoà bình. Tại chùa Long Sơn, lúc 20 giờ 30 ngày 9-11-1973, THPG
Khánh Hoà cử hành lễ cầu siêu dưới sự chủ lễ của Đại đức Thích Trí Tín, với sự
tham dự của đông đảo Tăng Ni, Phật tử ở Nha Trang và các quận [24, tr. 169].
Bước sang năm 1974, ba tuyến cơ sở nội thị Nha Trang tiếp tục có những hoạt
động nhằm giáo dục quần chúng, tập hợp và xây dựng LLCT. Tuyến Sao Việt
thành lập Mặt trận cứu đói tại Nha Trang94, tiến hành vận động quyên góp được
nhiều lương thực, thực phẩm, đồ dùng, thuốc men chở đến vùng bị nạn, kịp thời cứu
trợ đồng bào. Tuyến Ban Cán sự tập hợp ngày càng đông cán bộ kháng chiến cũ,
các nhân sĩ, trí thức, tranh thủ được một số công chức CQSG có tinh thần dân tộc,
liên hệ với công nhân trong các nghiệp đoàn. Tuyến Chi bộ Khu V duy trì được lực
lượng nòng cốt là các đội viên tự vệ vũ trang tuyên truyền hoạt động nhỏ lẻ ở từng
địa bàn cụ thể. Về các tuyến cơ sở nội thị Nha Trang năm 1974, Thành ủy Nha
Trang đánh giá: “Cả ba tuyến cơ sở đã bám sát tình hình chính trị lúc bấy giờ, vừa
hoạt động bí mật, vừa phát huy thế hợp pháp công khai đấu tranh bằng nhiều hình
thức có hiệu quả. Đặc biệt, có liên hệ khá liên tục giữa phong trào Nha Trang với
phong trào ở các đô thị khác như Sài Gòn, Quy Nhơn, Đà Nẵng, Huế” [7, tr. 293].
Những hoạt động ĐTCT ở Khánh Hòa, nhất là phong trào đô thị Nha Trang
những năm 1973-1974 đã góp phần quan trọng chuẩn bị về tư tưởng và LLCT cho
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975.
94. Năm 1974, ở miền Trung xảy ra nạn đói. Để góp phần khắc phục nạn đói, đồng thời tranh thủ
tập hợp lực lượng đấu tranh chống CQSG, ngày 22-9-1974, tại Sài Gòn, Mặt trận Nhân dân cứu
đói được thành lập do Đại đức Thích Hiển Pháp làm Chủ tịch.
121
3.2.5. Phối hợp với lực lượng vũ trang tham gia Tổng tiến công và nổi dậy
Xuân 1975
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân dân miền Nam bắt đầu được triển
khai từ ngày 4-3-1975. Sau khi Tây Nguyên được giải phóng (24-3-1975), Sư đoàn
10 hành quân theo Quốc lộ 21 xuống đồng bằng ven biển, đập tan tuyến phòng thủ từ
đèo Phượng Hoàng đến Trung tâm Huấn luyện Biệt động quân Dục Mỹ (Ninh Hòa,
Khánh Hòa). Tranh thủ thời cơ thuận lợi, LLVT và các Đội công tác đã huy động
quần chúng nổi dậy giải phóng Ninh Hòa, Vạn Ninh, Diên Khánh, Vĩnh Xương
(2-4-1975). Ngày 3-4-1975, Sư đoàn 10 tiến vào giải phóng Cam Ranh.
Riêng tại Nha Trang, khi “lá chắn” phía Tây Khánh Hòa bị phá vỡ, binh lính
Sài Gòn hết sức hoang mang, không còn tinh thần chiến đấu. Đêm 31-3-1975, công
chức, sĩ quan bất chấp lệnh giới nghiêm đã tự động di tản, quân lính ở Quân trường
Đồng Đế có trách nhiệm phòng thủ phía Bắc Nha Trang tháo chạy. Sáng 1-4-1975,
hàng trăm binh lính Sài Gòn kéo đến bến xe Ninh Hòa95 tranh cướp xe chạy về
hướng Cam Ranh. Một số tàn quân, lưu manh lợi dụng cơ hội đốt chợ Đầm, cướp phá
các cửa hàng buôn và nhà dân. Tại sân bay Nha Trang, cảng Cầu Đá diễn ra cảnh
chen lấn, giành nhau lên phương tiện di tản. Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ tại Nha Trang ra
lệnh cho tất cả công dân nước mình rời khỏi địa bàn ngay trong ngày 1-4-1975. Thị
xã Nha Trang trở nên hỗn loạn, mất kiểm soát. Tỉnh trưởng Lý Bá Phẩm trong báo
cáo gửi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thừa nhận: “Ngày 1-4-1975, Nha Trang
không còn chính quyền nữa vì công chức, cảnh sát đã đi gần hết” [1, tr. 585].
Trước tình hình diễn biến mau lẹ, mặc dù chưa nhận được chỉ thị từ cấp trên,
cán bộ chủ chốt của 3 tuyến cơ sở ở Nha Trang đã chủ động triệu tập cuộc họp để
thống nhất phối hợp hành động, đề ra chủ trương huy động quần chúng nổi dậy
giành quyền làm chủ, chuẩn bị đón Quân giải phóng tiến vào thị xã, cụ thể:
Tuyến Sao Việt cử Cao Thị Hương, Lê Quý,... sử dụng xe Jeep gắn loa phóng
thanh chạy khắp thị xã kêu gọi đồng bào bình tĩnh, không di tản; vận động binh lính
Sài Gòn nộp vũ khí, trở về với nhân dân; thông báo tin chiến thắng và Quân giải
phóng sắp tiến vào Nha Trang; mặt khác, cử người treo cờ, chiếm giữ Tòa Hành
chính, Bộ Chỉ huy Tiếp vận 5, Tòa Lãnh sự Mỹ, Ty Thanh niên, Đài Phát thanh Nha
Trang...; vận động một số y tá, bác sĩ trở lại bệnh viện cứu chữa cho những người bị
95. Nay là Công viên Sinh Trung.
122
thương và tổ chức thu gom vũ khí của quân đội Sài Gòn bỏ lại trên các trục đường
khi tháo chạy [7, tr. 294], [316];
Tuyến Ban Cán sự, tuyến Chi bộ Khu V phối hợp với LLVT hỗ trợ quần
chúng ở Vĩnh Nguyên, Vĩnh Trường nổi dậy làm chủ; huy động nhân dân may 400
lá cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam treo khắp nơi trong thị xã;
đưa lực lượng chiếm giữ Hải Học viện, khu kho cảng và sân bay Nha Trang; lập 3
tổ tự vệ vũ trang, lấy vũ khí của đối phương tự trang bị, triển khai chốt giữ các điểm
trên đường Phan Bội Châu, đường Trần Qúy Cáp, bến xe Ninh Hòa [7, tr. 295-296].
Thời điểm này, tại Trung tâm Cải huấn Khánh Hòa có khoảng 100 phụ nữ
Khánh Hòa và các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Bình Thuận... bị CQSG giam ở đây,
khi biết tin các tỉnh Tây Nguyên được giải phóng thông qua một số binh lính Sài
Gòn có cảm tình với cách mạng, chị em đã họp chuẩn bị tinh thần, bàn cách phối
hợp cùng với lực lượng bên ngoài khi thời cơ đến; đồng thời, đấu tranh không cho
đối phương lén lút đưa chị em đi thủ tiêu. Trưa ngày 1-4-1975, chị em đã phá bung
nhà lao ra ngoài, liên lạc với cơ sở chuẩn bị cho công cuộc giải phóng quê hương.
Đến sáng 2-4-1975, tình hình Nha Trang trở lại ổn định, hai lá cờ Mặt trận Dân
tộc giải phóng miền Nam Việt Nam cỡ lớn được kéo lên tại Công trường Cộng hòa và
Bến xe liên tỉnh96. Chiều 2-4-1975, cơ sở nội tuyến đã cử người ra đón và dẫn đường
cho Quân giải phóng tiến vào Nha Trang. Sau cuộc mít tinh chào mừng ngắn gọn có sự
tham gia của khoảng 500 quần chúng trước Ty Thông tin với khẩu hiệu “Hoan hô
Quân đội giải phóng miền Nam Việt Nam anh hùng”, cơ sở nội tuyến đã hướng dẫn
các đơn vị của Sư đoàn 10 tiếp quản những địa điểm quan trọng trong thị xã [316].
Cùng với đất liền, tại các đảo ven bờ, quân và dân Khánh Hòa cũng nhanh
chóng đứng lên làm chủ. Trên đảo Bích Đầm, một nhóm cán bộ kháng chiến cũ đã
treo cờ ở Lăng Ông, tụ họp đồng bào thông báo thị xã Nha Trang đã được giải
phóng, tập hợp thanh niên thành lập tổ vũ trang tự vệ canh gác, bảo vệ xóm chài.
Trên đảo Hòn Tre, khi quân đội Sài Gòn rút chạy, cán bộ cơ sở đã cử người liên lạc
với lực lượng đặc công nước kịp thời tiếp quản. Trên đảo Trí Nguyên, thanh niên tự
vũ trang đấu tranh ngăn chặn một thuyền chở tàn quân Sài Gòn có ý định đổ bộ lên
đảo, buộc chúng phải tháo chạy [1, tr. 588-589].
Có thể nói, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 ở Khánh
96. Nay là trụ sở Sở Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy tỉnh Khánh Hòa, số 233 đường Ngô Gia Tự.
123
Hòa, sự phối hợp giữa LLCT và LLVT được thể hiện khá rõ nét. Tính chủ động, linh
hoạt và kịp thời của các cơ sở nội tuyến, nhất là ở tỉnh lỵ Nha Trang đã góp phần làm
cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy thành công trọn vẹn. Điều này được các nhân
chứng xác nhận, rằng hoạt động chính trị của cơ sở cách mạng và quần chúng ở Nha
Trang đã làm “địch đổi hướng chạy vào phía Cam Ranh, vì thế giải phóng Nha
Trang hầu như không đổ máu và giữ thành phố gần như nguyên vẹn” [316]; “khi biết
là bộ đội giải phóng, người dân ra chào đón niềm nở, tay bắt mặt mừng và tạo mọi
điều kiện để Quân giải phóng chiếm các mục tiêu” [51]. Tính chủ động của LLCT ở
Khánh Hòa trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 được thể hiện cụ thể qua
đoạn hồi ký sau đây: “Mặc dù không được sự chỉ đạo cụ thể do tình hình chuyển biến
quá nhanh, anh em cơ sở vẫn chớp thời cơ. Khi địch tháo chạy, Quân giải phóng
chưa vào kịp, LLCT ở Nha Trang đã lấy danh nghĩa Lực lượng thứ ba tập hợp quần
chúng, kể cả anh em binh sĩ rã ngũ đứng lên lập các Ban tự quản, thu hồi vũ khí, ổn
định trật tự, hướng dẫn sinh hoạt bình thường trong nhân dân, bảo vệ các cơ sở kinh
tế, xã hội, chính trị quan trọng. Nhờ đó mà khi Quân giải phóng vào tiếp quản có chỗ
dựa chính trị ổn định” [261, tr. 4]. Thành ủy Nha Trang khẳng định: “Khi thời cơ
cách mạng đến, không chờ đợi chỉ thị của cấp trên, các cơ sở nội thị đã chủ động
phát động quần chúng nổi dậy, tự quản từng đường phố, xóm làng, công sở, bảo vệ
tính mạng và tài sản của nhân dân. Đây rõ ràng là một sự trưởng thành về chính trị
của quần chúng và cán bộ ta” [7, tr. 298].
Việc giữ được Nha Trang gần như nguyên vẹn là điều kiện thuận lợi để nhân
dân Khánh Hòa đóng góp nhân lực, vật lực chi viện cho Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Ngày 30-4-1975, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 toàn thắng, miền
Nam được hoàn toàn giải phóng. Tham gia vào chiến công vĩ đại đó, nhân dân
Khánh Hòa được Bộ Tư lệnh Tiền phương và Hội đồng Chi viện Chiến dịch Hồ
Chí Minh của Quân khu V “khen ngợi lòng nhiệt tình, sự đóng góp lớn lao vào sự
nghiệp chung” [1, tr. 590].
Cuộc hành trình 21 năm vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước (1954-1975)
của nhân dân Việt Nam kết thúc. Các lực lượng yêu nước Khánh Hòa có quyền tự
hào về những đóng góp của mình đối với phong trào ĐTCT ở miền Nam nói riêng
và đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung.
124
Tiểu kết
Giai đoạn 1965-1975, những chính sách về chính trị - quân sự, kinh tế - xã
hội, văn hóa - giáo dục của Mỹ và CQSG triển khai tại Khánh Hòa đều hướng đến
mục tiêu củng cố cơ sở xã hội, xây dựng nơi đây thành hậu cứ an toàn làm chỗ dựa
để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới không chỉ ở địa phương mà còn cả khu vực
cực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Những chính sách này đã gây cho lực lượng
cách mạng ở Khánh Hòa nhiều khó khăn trong công tác triển khai ĐTCT.
Khi đưa quân vào miền Nam (1965), bản chất xâm lược, tính chất phi nghĩa
của cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành với sự tiếp tay của CQSG bị phơi bày. Vì
vậy, đường lối của Trung ương Đảng, Liên Khu ủy V cũng như của Tỉnh ủy Khánh
Hòa từ đây đều tập trung vào việc tuyên truyền, giáo dục, tập hợp, lãnh đạo quần
chúng đứng lên chống Mỹ và tay sai. Thực tế cho thấy, các cuộc ĐTCT ở Khánh
Hòa giai đoạn 1965-1975 dù do Đảng Cộng sản Việt Nam trực tiếp lãnh đạo hay do
lực lượng quần chúng yêu nước tổ chức đều có mục tiêu chung là chống Mỹ và
chống CQSG.
ĐTCT ở Khánh Hòa từ năm 1965 đến năm 1975 diễn ra khá liên tục dù mức
độ, quy mô từng thời điểm có khác nhau, thể hiện qua nhiều phong trào, tập trung
tại địa bàn đô thị và thành phần tham gia chủ yếu là tín đồ Phật giáo, công nhân,
công chức, sĩ quan, nhân sĩ, sinh viên, học sinh. Dấu ấn đặc biệt trong 10 năm này
là đợt đấu tranh cao điểm từ tháng 3 đến tháng 6-1966 và các hoạt động đậm chất
phong trào đô thị từ năm 1971 đến năm 1975 của tổ chức Sao Việt.
125
Chương 4
TÍNH CHẤT, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ
4.1. Tính chất
4.1.1. Tính chất dân tộc
Trước hết, cần thấy rằng, trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), độc lập
dân tộc là mục tiêu xuyên suốt. Vì vậy, mọi phong trào cách mạng và yêu nước ở
miền Nam thời kỳ 1954-1975 không thể không đặt mục tiêu dân tộc lên hàng đầu.
ĐTCT ở Khánh Hòa không ra ngoài quỹ đạo đó.
Tính chất dân tộc thể hiện ở mục tiêu đấu tranh. Trong các phong trào ĐTCT
ở Khánh Hòa từ năm 1954 đến năm 1975, mục tiêu dân tộc được xác định rõ. Cụ
thể, ngay sau Hiệp định Genève (21-7-1954), thông qua các hình thức khác nhau,
quần chúng đã đấu tranh đòi thi hành Hiệp định, đòi quan hệ bình thường giữa hai
miền; tháng 2-1955, Phong trào Bảo vệ hòa bình Nha Trang ra đời với cơ quan
ngôn luận là báo Gió Mới đã công khai bày tỏ khát vọng hòa bình và đề cập đến
hiệp thương tổng tuyển cử, thống nhất đất nước. Rõ ràng, sau Hiệp định Genève,
mục tiêu của ĐTCT ở Khánh Hòa thể hiện rõ sự thống nhất với mục tiêu đấu tranh
của nhân dân yêu nước ở cả hai miền và hoàn toàn phù hợp với chủ trương chỉ đạo
của Đảng, đấy là thể hiện của tính dân tộc.
Năm 1963, phong trào đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo bùng phát ở
Huế và nhanh chóng lan sang các địa bàn khác, CQSG thừa nhận “sự tranh đấu của
Tổng hội Phật giáo Việt Nam đi từ phương diện chiến thuật qua chiến lược và từ
phạm vi địa phương lan rộng toàn quốc” [272]. Tại Khánh Hòa - một tỉnh mà Phật
giáo có số lượng tín đồ chiếm hơn 80% dân số và ảnh hưởng lớn trong đời sống tín
ngưỡng của nhân dân, phong trào diễn ra quyết liệt, “Tăng Ni, Phật tử và quần
chúng triệt để tham gia” [139, tr. 315]. Như vậy, phong trào đòi tự do tín ngưỡng,
bình đẳng tôn giáo ở miền Nam năm 1963 không đơn thuần là cuộc đấu tranh đòi
mục tiêu dân chủ mà trở thành cuộc vận động mang tính dân tộc và Phật giáo
Khánh Hòa đã góp phần quan trọng làm nên tính dân tộc đó.
Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ (1-11-1963), mục tiêu dân tộc càng
được thể hiện đậm nét trong các phong trào ĐTCT ở Khánh Hòa. Cụ thể, ngày
126
12-9-1964, Lực lượng tranh đấu TNSVHS Khánh Hòa tuyên bố: “Tranh đấu
cho đến bao giờ: Quyền nước là của dân; đất nước là của dân; ý chí và tinh
thần duy nhất độc lập” [80]; trong phong trào đấu tranh chống Trần Văn
Hương đầu năm 1965, Đào Thị Yến Phi - một nữ Phật tử mới 17 tuổi, đã dùng
đến hình thức tự thiêu (26-1-1965) cũng chỉ để khẳng định quyền bất khả xâm
phạm của dân tộc, rằng “đất nước Việt của người Việt, không phải của người
Mỹ hay của Đại sứ Taylor” [280]; trong phong trào đấu tranh đòi thành lập
chính phủ dân sự những năm 1965-1967, nhân dân Khánh Hòa khẳng định “sẽ
có trăm ngàn thân xác khác đứng lên để đòi cho được một nước Việt Nam tự
cường” [79, tr. 2]; trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968,
nhân dân Khánh Hòa xuống đường đấu tranh chống CQSG với quyết tâm
“Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”; năm 1973, Ủy ban đòi thi hành Hiệp định
Paris Nha Trang được thành lập để tập hợp quần chúng đấu tranh “đòi CQSG
thi hành Hiệp định Paris, hòa hợp dân tộc, thống nhất đất nước” [7, tr. 231];
cũng trong năm 1973, khi CQSG ngoan cố phá hoại Hiệp định Paris, trước nguy
cơ chiến tranh tiếp diễn, Thích Viên Đạo đã “phát nguyện thiêu thân để cầu
nguyện hoà bình cho đất nước” [120, tr. 10].
Có thể nói, cũng như nhân dân miền Nam, với người dân Khánh Hòa,
thống nhất và hòa bình là nguyện vọng bức thiết. Vì vậy, họ đã xuống đường
đấu tranh, thậm chí hy sinh cả tính mạng cho nguyện vọng đó. Đấy là sự thể
hiện cao nhất tính dân tộc của ĐTCT ở Khánh Hòa thời kỳ 1954-1975.
Tính chất dân tộc thể hiện ở việc xác định đối tượng đấu tranh, đó là đế
quốc Mỹ và CQSG - những thế lực đã tước đoạt quyền dân tộc thiêng liêng của
Việt Nam.
Dù mức độ khác nhau tùy thời điểm nhưng Mỹ là đối tượng chủ yếu của
phong trào ĐTCT thời kỳ 1954-1975. Có nhiều sử liệu để minh chứng cho nhận
định trên. Chẳng hạn, “Mỹ đừng can thiệp vào nội chính Việt Nam” là khẩu hiệu đã
xuất hiện trong các cuộc đấu tranh của nhân dân Khánh Hòa ngay từ năm 1955
[94]; ngày 12-9-1964, trong thời điểm Mỹ đang tiến hành “Chiến tranh đặc biệt” ở
miền Nam, tuyên cáo của “Lực lượng tranh đấu TNSVHS Khánh Hòa” đã lên án
“dư đảng Cần lao và quân phiệt cấu kết với nhau âm mưu thiết lập chế độ độc tài,
127
biến dải đất miền Nam thành món quà chính trị quốc tế cho đế quốc Mỹ” [81]; đầu
tháng 12-1967, trong cuộc biểu tình phản đối bầu cử Tổng thống, Phó Tổng thống
VNCH (3-9-1967), cùng với kêu gọi “tẩy chay kết quả bầu cử 3-9”, công nhân ở
Nha Trang đã tố cáo và yêu cầu “Mỹ phải ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam”
[7, tr. 207]; ngày 9-5-1971, trong cuộc mít tinh tại chùa Phú Bình 2 (Cam Ranh),
quần chúng đã đưa ra khẩu hiệu “Đả đảo đế quốc Mỹ xâm lược” [234]; Sau Hiệp
định Paris (27-1-1973), nhiều văn nghệ sĩ yêu nước ở Khánh Hòa đã “gọi đích
danh Mỹ là kẻ thù xâm lược” [92, tr. 23];...
Cùng với đế quốc Mỹ, các chính phủ của chế độ Sài Gòn từ Ngô Đình Diệm,
Nguyễn Khánh, Trần Văn Hương đến Nguyễn Văn Thiệu,... cũng là đối tượng đấu
tranh của nhân dân Khánh Hòa. Diễn biến và nội dung các phong trào ĐTCT ở Khánh
Hòa từ năm 1954 đến năm 1975 trình bày ở phần trước đã chứng minh rõ điều này.
Cần lưu ý rằng, việc tách đế quốc Mỹ và CQSG chỉ là vấn đề chiến thuật của
các cuộc đấu tranh, trên thực tế, tấn công Mỹ chính là tấn công vào chỗ dựa của
CQSG và tấn công CQSG thực chất là tấn công vào chính sách xâm lược của Mỹ.
ĐTCT ở Khánh Hòa thời kỳ 1954-1975 mang tính chất dân tộc còn thể hiện ở
sự tham gia đông đảo của quần chúng, trong đó có cả binh lính, sĩ quan, công chức
CQSG. Vấn đề này được chứng minh qua số lượng người tham gia các cuộc đấu
tranh. Ngày 16-8-1954, toàn bộ 170 binh sĩ của 2 trung đội Nghĩa Dũng quân đội
Sài Gòn cùng bao vây dinh Tỉnh trưởng Khánh Hòa để đòi lương; ngày 1-5-1955,
hàng ngàn công nhân Nha Trang tổ chức mít tinh đòi CQSG thi hành Hiệp định
Genève [1, tr. 325]; ngày 2-6-1963, khoảng 3.000 Tăng Ni, Phật tử tuần hành trên
các đường phố Nha Trang đòi CQSG thỏa mãn 5 nguyện vọng của Phật giáo; chiều
15-9-1964, trên 2.000 thanh niên, học sinh và dân chúng tập hợp để nghe “Hội
đồng nhân dân cứu quốc” Khánh Hòa công bố yêu sách đấu tranh chống dư đảng
Cần lao và chống độc tài; tối 26-1-1965, khoảng 10.000 người tụ tập tại chùa THPG
Khánh Hòa để tưởng niệm Đào Thị Yến Phi, thực chất là để bày tỏ khát vọng dân
tộc độc lập, tự do và dân chủ; ngày 4-4-1966, độ 1.000 người chiếm Ty Thông tin
Khánh Hòa; ngày 31-1-1968, 150 quần chúng thôn Đại Điền Trung (Diên Khánh)
kéo về thị xã Nha Trang và 600 quần chúng ở xã Ninh An, xã Ninh Thọ tiến vào
thị trấn Ninh Hòa biểu tình; ngày 19-5-1970, gần 8.000 quần chúng đến chùa
128
THPG Khánh Hòa tham gia lễ Phật đản và mít tinh chống Mỹ; trưa 2-4-1975,
khoảng 500 đồng bào mít tinh tại Công trường Cộng hòa chào đón Quân giải
phóng vào Nha Trang;...
Như vậy, trong ĐTCT ở Khánh Hòa từ năm 1954 đến năm 1975, dân tộc là
nét quán xuyên, điều này bắt nguồn từ tinh thần yêu nước của quần chúng và tính
chính nghĩa của cuộc kháng chiến do nhân dân ta tiến hành. Đây là yếu tố quan
trọng tạo nên sức mạnh của ĐTCT Khánh Hòa nói riêng, miền Nam nói chung.
4.1.2. Tính chất dân chủ, dân sinh
Song song tính chất dân tộc, tính chất dân chủ được thể hiện khá rõ nét và xuyên
suốt quá trình ĐTCT ở Khánh Hòa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1975).
Tính chất dân chủ thể hiện ngay trong từng cuộc đấu tranh cụ thể. Có thể nêu
một vài dẫn chứng: Đêm 24-2-1956, các cơ sở cách mạng đã rải hàng ngàn
truyền đơn ở Nha Trang, Diên Khánh, Vĩnh Xương,... “phản đối khủng bố trả
thù núp dưới hình thức tố Cộng” [303]; ngày 2-2-1956, Liên hiệp nghiệp đoàn
Khánh Hòa triển khai nhiều biện pháp đấu tranh đòi CQSG thả Hồ Duy Khoan;
tháng 4, 5-1957, nhiều cuộc đấu tranh phản đối CQSG bắt nhân dân học tập “tố
Cộng” và giữ dân qua đêm tại trụ sở cơ quan chính quyền diễn ra dưới nhiều
hình thức như Nguyễn Thoi (Cam Lâm) lấy bình hoa tự đập vào đầu, Nguyễn
Tấu (Ninh Hòa) hăm dọa cán bộ CQSG, cựu đảng viên cộng sản (Vạn Ninh) tố
cáo cán bộ CQSG; ngày 29-8-1959, nhân dân vùng núi Khánh Hòa tẩy chay
cuộc bầu cử Quốc hội khóa II của CQSG bằng cách “lên núi phát rẫy” và bỏ
hình Chủ tịch Hồ Chí Minh vào hòm phiếu [166]; ngày 25-7-1970, công nhân ở
Cam Ranh đình công phản đối Quân cảnh Mỹ sàm sỡ, xúc phạm nhân phẩm nữ
công nhân người Việt; ngày 16-12-1972, Liên hiệp nghiệp đoàn Khánh Hòa và
đông đảo công nhân đấu tranh đòi “công nhân Việt Nam phải do người Việt
Nam quản lý” [5, tr. 178]...
Ngoài những cuộc đấu tranh có tính đơn lẻ như đã nêu, ở Khánh Hòa trong
kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), đấu tranh vì mục tiêu dân chủ có những thời
điểm trở thành phong trào rộng lớn như phong trào đấu tranh đòi tự do tín ngưỡng,
bình đẳng tôn giáo năm 1963; phong trào đấu tranh chống độc tài, quân phiệt, đòi tự
do và dân chủ những năm 1964-1965; phong trào đấu tranh đòi thành lập chính phủ
129
dân sự, đòi Quốc hội lập hiến, phản đối Sắc luật 23/67, chống bầu cử gian lận
những năm 1965-1967; phong trào đòi cải thiện chế độ lao tù, đòi quyền sống cho
phụ nữ năm 1973;...
Có thể nói, về quyền dân chủ thì dân chủ trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn
giáo, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị là cao nhất. Bởi vậy, thời kỳ 1954-1975,
nhất là giai đoạn 1963-1966, khi CQSG có những chính sách độc tài đi ngược
lại các giá trị dân chủ, nhân dân Khánh Hòa đã rầm rộ xuống đường đấu tranh
để bảo vệ các quyền dân chủ cơ bản đó. Thực tiễn diễn biến ĐTCT ở Khánh
Hòa trình bày ở phần trước đã chứng minh rõ điều này.
Gắn liền với đấu tranh vì dân chủ, trong suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ
(1954-1975), nhân dân Khánh Hòa đã tiến hành nhiều cuộc ĐTCT vì mục tiêu dân
sinh, trong đó có những cuộc đấu tranh mang lại kết quả rất cụ thể. Chẳng hạn,
cuộc bao vây của binh lính Sài Gòn ngày 16-8-1954 đã buộc Tỉnh trưởng Khánh
Hòa “giải thích về sự chậm trễ lương bổng của anh em Nghĩa Dũng và hứa sẽ
can thiệp với Tòa Đại biểu Chính phủ Trung Việt để trả lương trong một ngày
gần đây” [152]; cuộc đình công ngày 15-8-1957 của công nhân đồn điền cao su
Suối Dầu buộc chủ đồn điền chấp nhận yêu cầu chống sa thải; cuộc bãi công giữa
tháng 9-1966 của công nhân hãng USARMY và hãng PACIFIC Cam Ranh buộc
chủ hai hãng thầu phải chấp nhận tăng lương; cuộc đình công ngày 6-6-1968 của
15 công nhân cứu hỏa (Bình Tân, Vĩnh Xương) phản đối việc sa thải công nhân
và cách quản lý của người Philippin làm thuê cho Mỹ đã buộc CQSG tại địa
phương đến giải quyết; cuộc đấu tranh ngày 24-6-1968 của 300 công nhân hãng
PACIFIC Bình Tân (Vĩnh Xương) đã buộc Ban Giám đốc hãng phải nhận 4 công
nhân trở lại làm việc và bồi thường cho 1 công nhân bị đánh thương tích [285];
cuộc đấu tranh của thương phế binh ngày 5-7-1970 buộc CQSG phải chấp nhận
để họ đồng loạt xây nhà tại Vĩnh Phước (Vĩnh Xương); sau ngày 27-1-1973,
nhân dân Khánh Hòa dựa vào các điều khoản của Hiệp định Paris làm cơ sở pháp
lý đấu tranh buộc đối phương phải chấp nhận nới lỏng kìm kẹp, để đồng bào
được tự do đi làm ruộng, làm rẫy, ra khơi đánh bắt cá;...
Như vậy, dù không thực sự nổi bật nhưng trong thời kỳ kháng chiến chống
Mỹ (1954-1975), ở Khánh Hòa, ĐTCT vì mục tiêu dân sinh cũng có khá nhiều
130
thành phần xã hội tham gia như binh lính, công nhân, thương phế binh, nông dân,
ngư dân,... Và để đạt mục tiêu đó, quần chúng nhân dân đã sử dụng đa dạng các
hình thức đấu tranh như bao vây trụ sở, biểu tình, bãi công, đình công, đấu lý,...
Cần lưu ý là, trong ĐTCT ở Khánh Hòa thời kỳ 1954-1975, sự tách biệt tính
chất dân tộc, dân chủ và dân sinh chỉ là tương đối, bởi thực tế giữa chúng có sự đan
xen, hòa quyện, khó rạch ròi, đúng như nhận định của Tỉnh ủy Khánh Hòa:
“Trong kháng chiến chống Mỹ, phong trào đấu tranh của quần chúng từng
bước gắn chặt khẩu hiệu đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ với đòi Mỹ rút quân,
vãn hồi hòa bình, đòi lật đổ CQSG” [234, tr. 7].
4.2. Đặc điểm
Xét tổng thể, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), ĐTCT ở Khánh
Hòa có chung đặc điểm với ĐTCT ở miền Nam, tuy nhiên được biểu hiện ở những
dấu hiệu rất khác, mang tính địa phương khá rõ nét. Nhận định này được chứng
minh qua ba đặc điểm nổi bật sau đây:
4.2.1. Thu hút hầu hết các thành phần xã hội tham gia
Như đã trình bày ở phần trước, ĐTCT ở Khánh Hòa thời kỳ 1954-1975 thu
hút hầu hết các thành phần xã hội tham gia, tuy nhiên, trong từng phong trào đấu
tranh cụ thể, có một hoặc một vài thành phần giữ vai trò nòng cốt. Chẳng hạn, trong
phong trào đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Genève (1954-1956), đấu tranh chống
“tố Cộng” (1955-1958), đồng khởi ở vùng rừng núi (1959-1960), đấu tranh chống
phá ACL (1961-1963), đồng khởi ở vùng nông thôn đồng bằng (1964-1965)... thành
phần tham gia chủ yếu là nông dân; trong phong trào đấu tranh đòi tự do tín ngưỡng,
bình đẳng tôn giáo (1963), đấu tranh chống Trần Văn Hương, đòi tự do và dân chủ
(1965), đấu tranh đòi thành lập chính phủ dân sự (1965-1967)... thành phần đông
đảo nhất là tín đồ Phật giáo; trong phong trào đấu tranh chống độc tài, quân phiệt
Nguyễn Khánh (1964), thành phần chủ lực là công chức, học sinh, sinh viên; trong
phong trào đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Paris (1973-1974), thành phần cơ bản
là nhân sĩ, trí thức, công chức, sĩ quan.
Đặc biệt, ĐTCT ở Khánh Hòa thời kỳ 1954-1975, nhất là từ năm 1963 về sau,
có sự tham gia của một bộ phận công chức, trí thức, sĩ quan trong bộ máy chính
quyền và quân đội Sài Gòn - những người ít nhiều “hưởng lộc” của chế độ do Mỹ
131
hậu thuẫn. Cụ thể, trong phong trào đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo năm
1963, cảnh sát viên Đỗ Văn Trới cùng một số nhân viên thuộc Ty CSQG Khánh
Hòa tích cực hưởng ứng và “tỏ thái độ cảm tình với Phật giáo” [276]; trong Ban
Chấp hành “Hội đồng nhân dân cứu quốc” Khánh Hòa (1964) có các ông Hoàng
Ngọc Di, Hoàng Quốc Cung là công chức CQSG và nhiều trí thức như bác sĩ
Nguyễn Thạch, nhân sĩ Quách Tấn, giáo sư Đào Trữ, giáo sư Nguyễn Văn Dành,
giáo sư Nguyên Bá Tiết, giáo sư Lê Hữu Đỗ, giáo sư Phạm Thụy, nhân sĩ Cao Minh
Xuân, sinh viên Nguyễn Văn Hiệp, sinh viên Đoàn Minh Châu;... trong phong trào
đấu tranh đòi thành lập chính phủ dân sự những năm 1965-1967, các hội viên Hội
đồng hàng tỉnh như Tôn Thất Nhượng, Võ Đình Kình, Đoàn Khuê đều là thành
phần lãnh đạo [210], trong khi đó các ông Tôn Thôi - nhân viên Tòa Hành chính
tỉnh, Trần Hạnh - nhân viên Ty Thuế vụ, Nguyễn Quảng - công chức, Nguyễn Hữu
Định - Phó trưởng Ty Thông tin, Phan Thanh Thiệu - nhân viên Tòa Hành chính
tỉnh, tham gia rất tích cực [134]; trong tổ chức Sao Việt (1971-1975) có sự tham gia
của bác sĩ Nguyễn Thạch, bác sĩ Nguyễn Ngọc Hiền, giáo sư Lê Văn Bê, giáo sư
Cao Thị Hương, giáo sư Lê Đình Tần, đại úy không quân Vĩnh Thọ, cảnh sát
Nguyễn Đức Thắng, dân biểu Trần Văn Nhung, dân biểu Trần Văn Sơn,... [316].
Cũng cần nói thêm, nhìn tổng thể, ở Khánh Hòa, trong kháng chiến chống Mỹ
(1954-1975), ĐTCT diễn ra rộng lớn và quyết liệt, nhất là những năm 1963-1966.
Trong giai đoạn này, mặc dù hầu hết các thành phần xã hội tham gia đấu tranh
nhưng phải thừa nhận, tín đồ Phật giáo và học sinh là đông đảo nhất.
Thật vậy, trong giai đoạn 1963-1966, ở Khánh Hòa gần như các phong trào
ĐTCT đều do Phật giáo và học sinh châm ngòi. Cụ thể, phong trào đấu tranh đòi tự
do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo năm 1963 khởi đầu ngày 7-5 bằng sự kiện
Thượng tọa Thích Trí Thủ và Đại đức Thích Đức Minh cùng một số Tăng Ni, Phật
tử gặp Tỉnh trưởng Khánh Hòa phản đối Công điện 9195 của CQSG; phong trào
chống dư đảng Cần lao, chống độc tài, quân phiệt năm 1964 mở đầu ngày 12-9 với
cuộc tuần hành của 700 học sinh; phong trào chống chính phủ Trần Văn Hương,
đòi tự do và dân chủ đầu năm 1965 bắt đầu từ sáng 8-1 với việc gần 500 học sinh
tổ chức bãi khóa; phong trào đòi thành lập chính phủ dân sự năm 1966 được chính
thức phát động sáng 26-3 bởi cuộc biểu tình của hàng trăm học sinh.
132
Trong giai đoạn 1963-1966, ĐTCT ở Khánh Hòa được lãnh đạo trực tiếp, chủ
yếu và công khai bởi các tổ chức của Phật giáo và học sinh như Tỉnh hội Phật giáo
Khánh Hòa, Ủy ban Bảo vệ Phật giáo Khánh Hòa, Phật học viện Trung phần Nha
Trang, Lực lượng Phật tử Khánh Hòa, Thanh niên Phật tử Khánh Hòa, Lực lượng tranh
đấu TNSVHS Khánh Hòa; Lực lượng nhân dân tranh thủ cách mạng Khánh Hòa.
Đáng nói hơn, trong ĐTCT, tín đồ Phật giáo và học sinh ở Khánh Hòa không
hoạt động riêng lẻ mà có sự phối hợp để giữ thế hợp pháp cho phong trào, huy động
lực lượng tham gia và phát huy ảnh hưởng đấu tranh. Điều này được các nhân
chứng khẳng định: “Phong trào đấu tranh của lực lượng thanh niên, học sinh và
của nhân dân Nha Trang chống Diệm, chống Khánh - Hương, chống Mỹ, Thiệu -
Kỳ luôn được sự ủng hộ triệt để của mọi tổ chức, mọi tầng lớp quần chúng. Phật
giáo, chùa Long Sơn, Trường Trung học Bồ đề Nha Trang là chỗ dựa của lực lượng
chống Mỹ và tay sai” [117, tr. 30]; và “Thanh niên Phật tử không những là một tổ
chức quần chúng của Giáo hội mà còn là nơi tập hợp tuổi trẻ Nha Trang dưới nhiều
vỏ bọc khác nhau” [118, tr. 173].
Ở Khánh Hòa, giai đoạn 1963-1966, đông đảo tín đồ Phật giáo và học sinh
tham gia ĐTCT có thể được lý giải vì Phật giáo có số lượng tín đồ đông nhất và ảnh
hưởng lớn nhất trong đời sống tín ngưỡng của nhân dân ở đây; Phật học viện Trung
phần Nha Trang đứng cạnh Tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa đóng vai trò là nơi khởi
xướng và lãnh đạo phong trào đấu tranh; các nhà sư “vị pháp thiêu thân” xuất thân
từ quê hương Khánh Hòa hoặc từng học tập, giảng dạy tại Phật học viên Trung phần
Nha Trang như Thích Quảng Đức, Thích Quảng Hương... có ảnh hưởng to lớn và
trở thành tấm gương để Phật tử Khánh Hòa noi theo. Cùng với đó, Khánh Hòa là
một trong những tỉnh có nhiều trường Bồ đề nhất khu vực Nam Trung Bộ, các
trường Bồ đề ở Nha Trang, Diên Khánh, Vạn Ninh, Ninh Hòa, Dục Mỹ, Cam Ranh
thu hút nhiều học sinh theo học; trong khi tại các trường trung học công lập như Võ
Tánh, Nữ Nha Trang số lượng học sinh cũng khá đông, trong đó có nhiều người là
tín đồ Phật giáo.
Rõ ràng, ĐTCT ở Khánh Hòa trong thời kỳ 1954-1975 thu hút hầu hết các
thành phần xã hội tham gia, trong đó, riêng giai đoạn 1963-1966, lực lượng đông đảo
nhất là tín đồ Phật giáo và học sinh. Điều này tạo nên sức mạnh, sự ảnh hưởng to lớn
133
của phong trào trong xã hội, gây sức ép mạnh mẽ đối với CQSG, đồng thời cũng góp
phần mang đến sự phong phú, đa dạng và quyết liệt của hình thức đấu tranh.
4.2.2. Hình thức, biện pháp đấu tranh phong phú, linh hoạt và quyết liệt
ĐTCT của nhân dân Khánh Hòa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
(1954-1975) có hình thức phong phú như rải truyền đơn, treo khẩu hiệu, mít tinh,
biểu tình, tuần hành, đưa kiến nghị, phát hành báo chí, đốt xe Mỹ, chiếm trụ sở, cắt
máu viết thỉnh nguyện, tuyệt thực, tự thiêu,...
Mỗi thành phần xã hội có hình thức đấu tranh khá đặc trưng. Cụ thể, nông dân
thường sử dụng hình thức biểu tình để phản đối CQSG giết hại cán bộ kháng chiến,
chống phá ACL, giải phóng nông thôn đồng bằng, nổi dậy nhập thị,... Các cuộc biểu
tình tiêu biểu của nông dân diễn ra ở các xã Diên Lâm, Diên Phước, Diên Lạc ngày 1
và 2-8-1954; ở chợ Thanh Minh (xã Diên Lạc) ngày 7-8-1954; ở thị trấn Diên Khánh
tháng 2-1955; ở xã Ninh Phước ngày 23-3-1962; ở xã Ninh Diêm ngày 7-11-1964; ở
xã Ninh An, xã Ninh Thọ và thị xã Nha Trang ngày 31-1-1968;...
Công nhân sử dụng hình thức bãi công để đòi tăng lương, phản đối sa thải, cải
thiện chế độ làm việc. Công nhân đồn cao su Suối Dầu (Diên Khánh) bãi công ngày
15-8-1957; công nhân bốc xếp ở quân cảng Cam Ranh bãi công từ ngày 19 đến
ngày 22-4-1966; công nhân khuân vác ở cảng quân sự Chụt (Nha Trang) bãi công
cuối tháng 4-1966; công nhân hãng RMK và hãng USARMY (Cam Ranh) bãi công
tháng 9, 10-1966...;
Với sinh viên, học sinh, để phản đối CQSG, các hình thức như rải truyền đơn,
phổ biến thơ ca, hội thảo, mít tinh, bãi khóa,... được ưu tiên sử dụng: Ngày 28-8-1955,
học sinh Trường Trung học Võ Tánh rải truyền đơn tại Nha Trang, Vĩnh Xương, Diên
Khánh; ngày 25-10-1963, học sinh Trường Trung học Võ Tánh và Trường Nữ Trung
học Nha Trang phổ biến bài thơ “Ca dao mới”; trong phong trào đấu tranh chống độc
tài, quân phiệt, đòi tự do và dân chủ những năm 1964-1965, đòi thành lập chính phủ
dân sự những năm 1965-1967,... học sinh Trường Bồ đề Nha Trang, Trung học Võ
Tánh, Nữ Trung học Nha Trang, Trung học bán công Lê Quý Đôn thường xuyên tổ
chức bãi khóa, hội thảo, mít tinh;
Trong khi đó, đối với Phật giáo, hình thức đấu tranh phổ biến là biểu tình,
tuần hành, cắt máu viết thỉnh nguyện, tuyệt thực và tự thiêu. Phong trào Phật giáo
134
Khánh Hòa trong các năm 1963, 1965 và 1966 đều triển khai những hình thức trên,
riêng cao trào đấu tranh năm 1966 có thêm hình thức “bàn Phật xuống đường”.
Trong mỗi hình thức có nhiều biện pháp thực hiện, đơn cử như rải truyền đơn,
nhân dân Khánh Hòa có nhiều cách làm hết sức độc đáo và sáng tạo. Chẳng hạn,
ngày 17-10-1960, truyền đơn “bọc trong giấy bóng xanh, đỏ như những chiếc kẹo
rải trên đường Trần Quý Cáp, Gia Long và ở trong học bàn học sinh Trường Trung
học công lập Võ Tánh và Trường Trung học tư thục Kim Yến” [169]; đêm 18 rạng
19-12-1960, tại 2 thôn Phụng Cang và Phước Mỹ (Ninh Hưng, Ninh Hòa), truyền
đơn “được gói trong lá rừng, ngoài buộc dây gai được để trước nhà của cán bộ
chính quyền, đoàn thể CQSG” [176]; ngày 4-11-1961, “chim bồ câu mang theo cờ
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam dài 34 phân và rộng 23 phân
buộc ở chân được thả tại Vĩnh Xương” [132]; ngày 15-10-1962, 3 lá cờ Mặt trận
Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và nhiều truyền đơn đặt trên bè thả trôi
trên sông Cái Nha Trang [89, tr. 9].
Trong quá trình đấu tranh chống Mỹ và CQSG, nhân dân Khánh Hòa thể hiện
rõ sự linh hoạt về hình thức, biện pháp ĐTCT. Có nhiều sử liệu chứng minh cho lập
luận này:
Những năm 1955-1958, với chiến dịch “tố Cộng” của CQSG, phong trào
cách mạng ở Khánh Hòa gặp nhiều khó khăn, cơ sở quần chúng bị tổn thất nặng nề,
các hình thức đấu tranh bất hợp pháp và các cuộc đấu tranh lớn không thể triển khai.
Trước tình hình đó, đấu tranh công khai lẻ tẻ đã được áp dụng. Việc thành lập “Tổ
đổi công” (1955) và các cuộc đấu tranh trong tháng 2, 3, 4 và 5-1957 như tiểu
thương bán vải ở chợ Thành (Diên Khánh) bãi thị vào ngày Quốc tế Phụ nữ (8-3);
ông Võ Chút (Ninh Hòa) và dân chúng đưa đơn khiếu kiện vì một số người bị
CQSG bắt; ông Nguyễn Thoi (Ba Ngòi) lấy bình hoa tự đập vào đầu để phản đối
học tập “tố Cộng”; ông Nguyễn Tấu (Ninh Hòa) không nhận giấy triệu tập đi học
“tố Cộng”;... tất cả đều diễn ra công khai. Hình thức biến tướng này tỏ rõ hiệu quả
khiến CQSG tại Khánh Hòa lo ngại sẽ “trở thành kinh nghiệm đấu tranh công khai
được phổ biến để chống lại CQSG” [263];
Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ (1-11-1963), nội bộ CQSG mâu thuẫn
trầm trọng, các phe phái đẩy mạnh thanh trừng lẫn nhau, thêm vào đó, ngày 5-1-1964,
Tỉnh trưởng Khánh Hòa thành lập ủy ban để điều tra về tài sản và tội trạng của chính
135
quyền họ Ngô cùng với tay chân,... tranh thủ thời cơ thuận lợi, một hình thức đấu
tranh mới được nhân dân Khánh Hòa thực hiện rộng rãi, đó là viết thư tố cáo. Việc tố
cáo không chỉ hướng vào những đảng viên Cần lao không còn chức vụ để yêu cầu
CQSG điều tra tội trạng và đưa chúng ra trừng trị, mà quan trọng hơn là nhằm vào
những dư đảng Cần lao tiếp tục được CQSG sử dụng sau ngày 1-11-1963. Hình thức
đấu tranh này đã góp phần loại bỏ một số dư đảng Cần lao, đồng thời, “gây chia rẽ
nội bộ, gây hoang mang và làm suy giảm phần nào hoạt động công tác của nhân viên
CQSG” [277];
Kể từ khi Mỹ đổ quân vào Khánh Hòa (10-6-1965), nhất là khi có dư luận cho
rằng tại Hội nghị Honolulu (từ ngày 6 đến ngày 8-2-1966), CQSG đã bán Cam
Ranh - một cảng biển được coi là “báu vật thiên nhiên” của đất nước, cho Mỹ, tinh
thần chống Mỹ, chống Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ ngày càng lên cao.
Đây là nhân tố quan trọng để trong đợt đấu tranh cao điểm đòi thành lập chính phủ
dân sự từ tháng 3 đến tháng 6-1966, ĐTCT ở Khánh Hòa triển khai đồng loạt các
hình thức. Ngoài những hình thức “truyền thống” đã áp dụng những năm trước đó,
trong đợt đấu tranh này, bạo động đã nổ ra mà đốt xe Mỹ và chiếm Ty Thông tin là
biểu hiện rõ nhất;
Sau Tết Mậu Thân 1968, CQSG tăng cường lùng sục, bắt bớ, sẵn sàng đàn áp
những cuộc xuống đường của quần chúng, ĐTCT công khai vì thế cũng bị hạn chế. Để
phù hợp với tình hình, các cuộc mít tinh bí mật phối hợp giữa đội công tác vũ trang và
quần chúng tại các địa bàn nhỏ lẻ được tổ chức. Hình thức này “góp phần tuyên truyền
chiến thắng, ổn định tinh thần, củng cố niềm tin cho nhân dân” [1, tr. 503];
Từ năm 1969, thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, Mỹ bắt đầu
triển khai rút quân về nước và giảm dần viện trợ cho CQSG, tại Khánh Hòa tâm lý
chán ghét chiến tranh, hoang mang, dao động xuất hiện ngày một rõ trong hàng ngũ
công chức, quân đội Sài Gòn. Trong bối cảnh đó, Hội Sao Việt được công khai
thành lập (1971). Thông qua các hoạt động xã hội, xuất bản báo chí, thành lập các
tổ chức đấu tranh cho hòa bình và quyền cơ bản của con người, Hội Sao Việt đã tập
hợp được đông đảo lực lượng từ nhiều thành phần trong xã hội, nhất là bộ phận
nhân sĩ, trí thức, công chức, sĩ quan CQSG. Những hoạt động của tổ chức Sao Việt
đã góp phần quan trọng tuyên truyền, giáo dục, tập hợp quần chúng, chuẩn bị LLCT
cho công cuộc giải phóng Khánh Hòa ngày 2-4-1975.
Về sự quyết liệt, trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), ĐTCT ở Khánh
136
Hòa cũng thể hiện rất rõ nét. Hình thức cắt máu viết thỉnh nguyện được thực hiện
bởi Hồ Kim Tuấn (25-1-1965), Nguyễn Thị Ngọc (26-1-1965), Trương Văn Cang
và Trần Đông (29-5-1966); tuyệt thực được Phật giáo Khánh Hòa tổ chức rầm rộ
trong các đợt đấu tranh năm 1963, 1965 và 1966, trong đó có những cuộc thu hút
hơn 500 người tham gia, như cuộc tuyệt thực ngày 23-1-1965; đốt xe Mỹ được quần
chúng tiến hành ngày 3-4-1966, ngay trước cửa Quân trấn Nha Trang; dùng bạo lực
chiếm trụ sở, cụ thể chiếm Ty Thông tin Khánh Hòa diễn ra vào ngày 3-4-1966.
Riêng tự thiêu, ở Khánh Hòa thời kỳ 1954-1975 có 6 cuộc: Ni cô Diệu Quang
(15-8-1963), Phật tử Đào Thị Yến Phi (26-1-1965), Phật tử Nguyễn Thanh Liêm
(8-5-1965)97, Ni cô Diệu Tri (4-6-1966), Ni cô Huệ Trí (1-11-1967) và Sa di
Thích Viên Đạo (17-10-1973)98; ngoài ra, còn có một số cuộc tự thiêu do bị cản
trở nên không thực hiện được, đặc biệt là cuộc tự thiêu đồng loạt tại 6 địa điểm
công cộng ngày 12-6-1963 [241] và có nhiều người dự định tự thiêu sau cái chết
của Đào Thị Yến Phi (26-1-1965) [196].
Như vậy, có thể nói, ĐTCT ở Khánh Hòa thời kỳ 1954-1975 gần như thực
hiện tất cả các hình thức mang tính quyết liệt nhất như ở Huế và Sài Gòn dù số
lượng, quy mô không bằng. Trong khi đó, nếu so với các địa phương khác, nhất là
các địa phương lân cận như Phú Yên, Ninh Thuận, Bình Thuận và khu vực Tây
Nguyên thì ĐTCT ở Khánh Hòa vượt trội về tính quyết liệt.
Tóm lại, ĐTCT ở Khánh Hòa trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975) thể
hiện rõ sự phong phú, linh hoạt và quyết liệt về hình thức, biện pháp. Điều này cho
phép các tầng lớp xã hội tham gia tùy theo khả năng của mình, qua đó phong trào đã
huy động được mọi thành phần xã hội vào cuộc đấu tranh nhằm từng bước làm suy
yếu lực lượng của đối phương.
97. Riêng trường hợp tự thiêu của Nguyễn Thanh Liêm, Công điện số 3733/F7/C, ngày 11-5-1965
của Nha Tổng Giám đốc CSQG gửi Bộ Nội vụ CQSG, cho biết “Lúc 6 giờ, ngày 8-5-1965, một
thanh niên Phật tử tên Nguyễn Thanh Liêm, sinh ngày 12-2-1947 tại Vĩnh Phước, Vĩnh Xương,
Khánh Hòa làm công tại tiệm giày ABC đường Độc Lập, Nha Trang, đã tự thiêu tại đồi Trại Thủy.
Điều tra sơ khởi và qua thư từ để lại được biết vì thấy chiến tranh tiếp diễn gieo đau thương nên
đương sự đã có ý định tự thiêu từ lâu [116]. Tiệm giày ABC hiện nay vẫn hoạt động tại số 215
đường Thống Nhất, Nha Trang. 98. Theo Thích Thiện Hoa trong cuốn “50 năm (1920-1970) chấn hưng Phật giáo Việt Nam”, danh
sách tự thiêu ở Khánh Hòa thời kỳ 1954-1975 còn có Đại đức Thích Thiện Huệ (1-6-1966) [56].
137
4.2.3. Tích cực hưởng ứng và phối hợp với các địa phương khác trong đấu tranh
Từ chỗ thống nhất về mục tiêu đấu tranh, cộng với lợi thế về vị trí địa lý
và điều kiện kinh tế - xã hội, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
(1954-1975), ĐTCT ở Khánh Hòa, nhất là phong trào đô thị ở Nha Trang đã
tích cực hưởng ứng cũng như phối hợp với các địa phương khác.
Thực tế lịch sử cho thấy, trong thời kỳ 1954-1975, nhân dân Khánh Hòa
hưởng ứng hầu hết các phong trào ĐTCT lớn ở những đô thị khác của miền
Nam như phong trào hòa bình (1954-1956) khởi phát từ Sài Gòn - Chợ Lớn;
đấu tranh đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo (1963) khởi phát từ Huế; đấu
tranh chống độc tài, quân phiệt, đòi tự do và dân chủ (1964-1965) khởi phát từ
Huế - Sài Gòn; đấu tranh đòi thành lập chính phủ dân sự (1965-1967) khởi phát
từ Huế - Đà Nẵng;...
Cùng với đó, tại Khánh Hòa, trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975),
đã ra đời một số tổ chức tương tự như ở Sài Gòn và Huế. Đó là tổ chức “Phong
trào Bảo vệ hòa bình Nha Trang” (1955); “Hội đồng nhân dân cứu quốc
Khánh Hòa” (1964), “Lực lượng nhân dân tranh thủ cách mạng” (1966), “Liên
minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Nha Trang” (1968), “Ủy ban
đòi thi hành Hiệp định Paris Nha Trang”, “Uỷ ban đòi cải thiện chế độ lao tù
Nha Trang”, “Uỷ ban phụ nữ đòi quyền sống Nha Trang” (1973), “Mặt trận
nhân dân cứu đói Nha Trang” (1974),... Về vấn đề này, Tỉnh ủy Khánh Hòa
khẳng định: “Phong trào đấu tranh của quần chúng, nhất là ở Nha Trang có
truyền thống đấu tranh liên tục dưới sự lãnh đạo của Đảng và hưởng ứng các
phong trào đấu tranh công khai ở các đô thị khác, nhất là Sài Gòn” [234, tr. 5].
Trong quá trình ĐTCT, nhân dân Khánh Hòa không chỉ hưởng ứng mà
còn chủ động liên hệ, phối hợp với các địa phương khác. Có thể nêu vài dẫn
chứng tiêu biểu: Trong phong trào đấu tranh chống “tố Cộng”, có thời điểm
Liên hiệp nghiệp đoàn Khánh Hòa đã yêu cầu Tổng Liên đoàn Lao công Việt
Nam ở Sài Gòn can thiệp việc CQSG bắt công nhân tại Khánh Hòa như vụ Hồ
Duy Khoan ngày 2-2-1956. Trong phong trào đấu tranh đòi tự do tín ngưỡng,
bình đẳng tôn giáo năm 1963, một số Phật tử ở Khánh Hòa như Hồ Đắc
Chương, Nguyễn Phi Vân, Nguyễn Đạo Uy đã vào Sài Gòn để tự thiêu; ngày
138
18-8-1963, Ni cô Ngô Thị Phương Lan và Ni cô Vũ Thị Kim Oanh mang đơn
vào Sài Gòn đề nghị Tổng hội Phật giáo can thiệp đòi xác Ni cô Diệu Quang.
Trong phong trào chống dư đảng Cần lao và độc tài, quân phiệt năm 1964, “Hội
đồng nhân dân cứu quốc” Khánh Hòa “luôn luôn sát cánh với các Hội đồng
nhân dân cứu quốc ở miền Trung” [190, tr. 3]. Trong phong trào đấu tranh đòi
thành lập chính phủ dân sự những năm 1965-1967, đồng bào Khánh Hòa “yêu
cầu chánh quyền địa phương đề đạt lên Chánh phủ Trung ương những nguyện
vọng tương tự như ở Huế và Đà Nẵng” [200]; cử đại diện thăm viếng nạn nhân
bị CQSG đàn áp ở Đà Lạt. Cũng trong phong trào đòi thành lập chính phủ dân
sự những năm 1965-1967, nhân dân Khánh Hòa còn đẩy mạnh đấu tranh để
“chia lửa” với Sài Gòn, đồng thời kìm chân không để Lực lượng Đặc biệt của
quân đội Sài Gòn ra đàn áp phong trào ở Huế, Đà Nẵng [314], [316].
Đổi lại, cuộc tranh đấu của nhân dân Khánh Hòa cũng nhận được sự ủng hộ từ
các địa phương khác. Cụ thể, khi Phật tử Đào Thị Yến Phi tự thiêu (26-1-1965), sáng
6-2-1965, Gia đình Phật tử Thừa Thiên Huế tổ chức rước di ảnh của Yến Phi, đoàn
rước độ 10.000 người, có Giáo kỳ dẫn đầu và mang theo biểu ngữ “Tưởng niệm nữ
Huynh trưởng Đào Thị Yến Phi vị pháp thiêu thân”; từ chùa Diệu Đế, đoàn rước di
ảnh tuần hành qua đường Trần Hưng Đạo, cầu Nguyễn Hoàng99, đường Lê Lợi, Lam
Sơn100 đến chùa Từ Đàm tổ chức lễ truy điệu lúc 10 giờ cùng ngày [115]; hay trong
đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Paris 1973, một số nhân vật tiêu biểu trong Lực
lượng thứ ba ở Sài Gòn như Luật sư Ngô Bá Thành, sinh viên Trần Thị Lan, Ni sư
Huỳnh Liên, linh mục Nguyễn Ngọc Lan,... đã ra Khánh Hòa tuyên truyền tranh đấu.
Sự hưởng ứng và phối hợp trong đấu tranh không chỉ giúp phong trào ĐTCT
ở Khánh Hòa học tập kinh nghiệm mà còn thể hiện sự đoàn kết của nhân dân Khánh
Hòa, nhất là thị xã Nha Trang với các địa phương khác, góp phần tạo nên phong
trào ĐTCT rộng lớn ở miền Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1954-1975).
4.3. Ý nghĩa lịch sử
4.3.1. Góp phần nâng cao giác ngộ chính trị đối với các tầng lớp nhân dân
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), để nâng cao giác
ngộ chính trị cho các tầng lớp nhân dân, công tác tuyên truyền được Tỉnh ủy Khánh
99. Nay là cầu Trường Tiền. 100. Nay là đường Điện Biên Phủ.
139
Hòa cũng như các tổ chức đoàn thể xã hội coi trọng. Điều này thể hiện ở chỗ:
Hầu hết các cuộc ĐTCT ở Khánh Hòa thời kỳ 1954-1975 đều có sử dụng
khẩu hiệu, biểu ngữ, truyền đơn, kiến nghị, tuyên ngôn,... Chẳng hạn, “Không được
bắt người, phải thi hành Hiệp định” là khẩu hiệu của cuộc đấu tranh ngày 2-8-1954
tại Diên Khánh; “Đòi thi hành Hiệp định Genève, đòi quan hệ bình thường giữa hai
miền, đòi Mỹ đừng can thiệp vào nội chính Việt Nam” là nội dung các biểu ngữ
được công nhân Nghiệp đoàn thợ may Khánh Hòa, học sinh Trường Trung học Võ
Tánh phổ biến tại Nha Trang, Vĩnh Xương, Diên Khánh, khu vực Suối Dầu, Cầu
Đá, trụ sở Ủy hội Quốc tế kiểm soát đình chiến rạng sáng 28-8-1955 [96]; “Thêm
một tội ác nữa đối với đồng bào di cư,...” là lời kết tội thể hiện trong truyền đơn
phản đối vụ CQSG dỡ nhà đồng bào di cư ở Xóm Mới (Nha Trang) ngày 26-1-1956
[154]; “Yêu cầu Chính phủ giải quyết gấp 5 nguyện vọng của Phật giáo Việt Nam”
là biểu ngữ được sử dụng rộng rãi trong phong trào đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng
tôn giáo ở Khánh Hòa năm 1963 [270]; “Đả đảo đế quốc Mỹ xâm lược” là khẩu
hiệu được nhân dân Khánh Hòa sử dụng nhiều lần trong các cuộc đấu tranh từ năm
1965; “Phản đối Sắc luật số 23/67” là kiến nghị được Phật giáo Khánh Hòa gửi
Nguyễn Văn Thiệu tháng 8-1967; “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” là khẩu hiệu
được nhân dân Khánh Hòa đeo trên ngực áo trong cuộc biểu tình sáng mồng 1 Tết
Mậu Thân 1968; “Lao động là tiếng nói hòa bình của nhân dân Trung Trung Bộ”
là tuyên ngôn của tổ chức Sao Việt trong những năm 1971-1975;...
Trong thời kỳ đấu tranh chống Mỹ và CQSG, việc tuyên truyền qua báo chí
được Tỉnh ủy Khánh Hòa quan tâm chỉ đạo triển khai, bằng chứng là có nhiều tờ
báo, ấn phẩm đã được xuất bản và phổ biến như Gió Mới, Tự Trị, Giải Phóng, Bản
Tin, Tin Tức, Lao Động, Liên Kết, Lửa Yến Phi, Quê hương ta anh hùng, Hát cho
đồng bào tôi nghe, Dậy mà đi, dậy mà đi,...
Trong các hình thức tuyên truyền để giác ngộ quần chúng, thơ ca rất có lợi thế
bởi vì dễ nhớ, dễ thuộc và dễ đi vào lòng người. Do vậy, tại Khánh Hòa thời kỳ
1954-1975, trong từng phong trào cụ thể có những bài thơ với nội dung tuyên
truyền mục tiêu đấu tranh phù hợp được phổ biến rộng rãi như “Giữ gìn tiết tháo
người chiến sĩ” ra đời trong những năm đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Genève;
“Ca dao”, “Về làng”, “Cũng độ này” ra đời trong phong trào chống phá ACL;
140
“Bức thư gửi bạn phương xa”, “Ca dao mới” ra đời trong phong trào đấu tranh đòi
tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo;...101.
Những hình thức tuyên truyền trên đây góp phần giúp quần chúng nhìn rõ bộ
mặt xâm lược của Mỹ, bộ mặt tay sai của CQSG cũng như hiểu rõ cuộc kháng chiến
chính nghĩa của nhân dân ta, từ đó tùy theo hoàn cảnh của mình mà tự nguyện tham
gia vào cuộc đấu tranh vì mục tiêu độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Nói ĐTCT
ở Khánh Hòa trong kháng chiến chống Mỹ góp phần nâng cao giác ngộ chính trị đối
với các tầng lớp nhân dân ở đây chủ yếu là nói theo ý nghĩa này.
Việc nhìn rõ bộ mặt xâm lược của Mỹ, bộ mặt tay sai của CQSG được thể
hiện ở nhiều khía cạnh, nhưng quan trọng nhất là ở chỗ nhân dân Khánh Hòa không
mơ hồ trước những âm mưu và hành động dù được che đậy tinh vi của CQSG từ
Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu. Lập luận này có thể được chứng minh qua
một vài dẫn chứng sau:
Ngày 16-6-1963, chính quyền Ngô Đình Diệm ký với giới lãnh đạo Phật giáo
miền Nam bản Thông cáo chung, về cơ bản thỏa mãn 5 nguyện vọng của Phật giáo
được đề ra trong bản Tuyên ngôn ngày 10-5-1963. Nhìn trên văn bản, có thể nói,
đây là một thắng lợi đối với Phật giáo miền Nam. Tuy nhiên, sau Thông Cáo chung,
THPG Khánh Hòa vẫn khuyến cáo toàn thể Phật giáo đồ “chớ quá lạc quan mà
quên mất bổn phận và trách nhiệm trong lúc hiện tại [150]. Điều đáng nói là, ngày
21-6-1963, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra
lời kêu gọi đồng bào, tín đồ Phật giáo miền Nam nâng cao cảnh giác, “quyết không
vì những lời hứa hẹn xảo quyệt của bọn Mỹ - Diệm mà buông lơi và bỏ dở cuộc đấu
tranh” [21, tr. 323]. Điều này chứng tỏ, trong phong trào đấu tranh đòi tự do tín
ngưỡng, bình đẳng tôn giáo năm 1963, cả Phật giáo và Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam đều “hiểu biết thấu đáo bản chất chế độ Ngô Đình Diệm”
[150]. Những hành động vi phạm Thông Cáo chung, đặc biệt là “Kế hoạch nước
lũ” do chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành từ ngày 20 đến ngày 21-8-1963, tất
cả đã chứng minh khuyến cáo của giới lãnh đạo Phật giáo Khánh Hòa cũng như của
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là hoàn toàn chính xác;
101. Ngoài ra, còn có những bài “đậm chất binh vận” như: “Đẹp gì súng Mỹ anh mang; Vui chi
bắn phá xóm làng hỡi anh; Ruộng vườn là gốc anh ơi; Ham chi tiền Mỹ hại đời, phản dân; Giờ đây
nước đã đến chân; Sao anh vẫn cứ dấn thân vũng lầy” [13, tr. 158].
141
Thời điểm năm 1964, khi chưa đưa quân trực tiếp tham chiến ở miền Nam, bộ
mặt xâm lược của Mỹ, bộ mặt tiếp tay cho ngoại bang thực hiện chính sách thực
dân mới tại miền Nam của CQSG ở mức độ nào đó vẫn còn được che đậy, song đối
với nhân dân Khánh Hòa, điều này đã bị bóc trần. Tuyên cáo của Lực lượng tranh
đấu TNSVHS Khánh Hòa ngày 12-9-1964 khẳng định: “Quốc gia lâm nguy, dư
đảng Cần lao và quân phiệt cấu kết với nhau âm mưu thiết lập chế độ độc tài, biến
dải đất miền Nam thành món quà chính trị quốc tế cho đế quốc Mỹ” [81];
Sau khi dập tắt đợt đấu tranh cao điểm của quần chúng từ tháng 3 đến tháng
6-1966, CQSG tổ chức bầu cử Quốc hội lập hiến, bầu cử Tổng thống và Phó Tổng
thống. Nhân dân Khánh Hòa, nhất là giới Phật giáo không mơ hồ trước hành động
dân chủ giả hiệu này, vì vậy, biện pháp sử dụng quyền công dân “không đi bỏ
phiếu, nếu có đi thì tìm cách làm cho lá phiếu bất hợp lệ” đã được quần chúng sử
dụng để chống các cuộc bầu cử của CQSG [134];
Ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris được ký kết, mang lại niềm hy vọng lớn cho
đất nước Việt Nam. Tuy nhiên, nhân dân Khánh Hòa nhận thấy trong CQSG “có
một số người muốn nuôi dưỡng chiến tranh để tư lợi riêng” [120, tr. 10], do vậy
họ không mơ hồ về một nền hòa bình thực sự cho dân tộc Việt Nam nếu không
tiếp tục đấu tranh. Và “Ngọn đuốc hòa bình” Thích Viên Đạo bùng cháy ngày
17-10-1973 tại Nha Trang là biểu hiện cao nhất của sự giác ngộ trước những âm
mưu, hành động phá hoại hòa bình của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu.
Nhờ sự giác ngộ về chính trị của quần chúng nên dù Mỹ và CQSG thi
hành nhiều biện pháp, kể cả thẳng tay đàn áp nhưng phong trào ĐTCT ở Khánh
Hòa vẫn liên tục phát triển sâu rộng, góp phần quan trọng và thắng lợi chung
của dân tộc.
Điều cần chú ý thêm, không chỉ nâng cao về nhận thức, mà thông qua thực tiễn
phong trào, ĐTCT còn từng bước rèn luyện quần chúng đấu tranh. Đây là mức độ cao
của sự giác ngộ chính trị. Ở Khánh Hòa trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975),
nhiều cuộc đấu tranh thể hiện rõ ý nghĩa này, có thể nêu một vài dẫn chứng:
Như đã trình bày ở phần trước, năm 1957, CQSG triển khai chiến dịch “tố
Cộng” hết sức ác liệt, trong hoàn cảnh tương quan lực lượng không cho phép, nhân
dân Khánh Hòa không triển khai đấu tranh quy mô lớn mà chỉ thực hiện các cuộc
142
đấu tranh nhỏ lẻ. Hình thức đấu tranh này giúp duy trì phong trào cách mạng và rèn
luyện quần chúng đấu tranh công khai, “trở thành kinh nghiệm được phổ biến để
đấu tranh chống lại CQSG” [263, tr. 3];
Sau thời gian dài bị đối phương kìm kẹp, cuối năm 1964 đầu năm 1965, nhân
dân vùng nông thôn đồng bằng ở Khánh Hòa đã nổi dậy giành chính quyền. Cuộc
đồng khởi này không chỉ giải phóng một phần nông thôn đồng bằng mà còn “giải
quyết được những tư tưởng hoài nghi nhân dân Khánh Hòa bị chiếm lâu, cầu an
nên không vùng dậy được” [227, tr. 3].
Về khía cạnh từng bước rèn luyện quần chúng đấu tranh, có thể thấy rõ hơn
qua 2 cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 và năm 1975. Cụ thể, trong cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, tại Khánh Hòa, nhất là thị xã Nha
Trang, dù LLCT có sự chuẩn bị, nhân dân sẵn sàng xuống đường biểu tình nhưng
ĐTCT mạnh mẽ để hỗ trợ ĐTQS không nổ ra, “nguyên nhân là nhiều nơi còn bị
động, nặng ỉ lại, trông chờ nơi khác, trông chờ điểm, chưa mạnh dạn tấn công địch
liên tục, chưa dám chiếm lĩnh thị trấn, chưa dám huy động quần chúng nhập thị
khởi nghĩa” [225, tr. 4].
Từ hạn chế đó, tại hội nghị ngày 15-2-1968, Tỉnh ủy Khánh Hòa đặc biệt
nhấn mạnh tính chủ động cách mạng: “Khi có lệnh, nơi nào có cán bộ là nơi đó
phát động cho bằng được quần chúng xuống đường biểu tình thị uy cướp chính
quyền thôn xã, ít nhất cũng phải tổ chức cho được mít tinh, thanh viện, trống mõ,
gây đại náo trong địa phương. Nơi nào không làm coi như không chấp hành mệnh
lệnh khởi nghĩa, bằng mọi cách dựng cho được quần chúng đứng dậy hành động
cách mạng trong giai đoạn đấu tranh quyết liệt này, đừng để LLVT, lực lượng bất
hợp pháp đơn độc chiến đấu với địch” [225, tr. 5].
Rút kinh nghiệm, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 ở Khánh
Hòa, nhất là thị xã Nha Trang, tình trạng “nằm im chờ đợi” của quần chúng đã
được khắc phục. Thật vậy, vào những ngày cuối tháng 3, đầu tháng 4-1975, chớp
thời cơ khi bộ máy chính quyền và quân đội Sài Gòn hỗn loạn rồi rút khỏi Nha
Trang, cơ sở cách mạng và quần chúng nhanh chóng chiếm giữ các cơ quan, vị trí
trọng yếu, ổn định tình hình thị xã, chờ Quân giải phóng vào tiếp quản. Sự chủ động
của cơ sở nội tuyến góp phần làm cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ở Nha Trang
143
- Khánh Hòa thành công trọn vẹn. Đúng như Thành ủy Nha Trang đánh giá: “Đây
là một sự trưởng thành về chính trị của quần chúng và cán bộ ta” [7, tr. 298].
Như vậy, đối với nhân dân Khánh Hòa, Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu
Thân 1968 là cuộc rèn luyện về ĐTCT, cụ thể là rèn luyện về tính chủ động của
ĐTCT. Nói cách khác, thực tiễn ĐTCT trong Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu
Thân 1968 đã nâng cao giác ngộ chính trị cho quần chúng. Đây là nhân tố góp phần
làm nên thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 ở địa phương.
4.3.2. Làm rối loạn hậu phương và suy giảm thế lực của chính quyền Sài Gòn,
tạo điều kiện cho phong trào cách mạng phát triển
Thời kỳ 1954-1975, Nha Trang - nơi tập trung những cơ quan đầu não chính
trị, quân sự, kinh tế, văn hóa của CQSG, là hậu phương quan trọng của đối phương
không chỉ đối với Khánh Hòa, mà còn đối với cả khu vực Tây Nguyên và Nam
Trung Bộ. Để bảo vệ hệ thống cơ quan trọng yếu này, CQSG duy trì ở Nha Trang
một lực lượng quân đội, cảnh sát hùng hậu và công tác an ninh luôn thực hiện
nghiêm ngặt.
Thế nhưng, trong 21 năm dưới chế độ Sài Gòn, Nha Trang đã nhiều lần bị rối
loạn bởi các phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân. Có thể nêu một vài dẫn
chứng: Cuộc bao vây dinh Tỉnh trưởng Khánh Hòa ngày 16-8-1954 của binh lính
thuộc 2 Trung đội Nghĩa Dũng quân đội Sài Gòn không chỉ uy hiếp Tỉnh trưởng,
khiến mọi hoạt động của cơ quan này bị đình trệ, mà còn làm “các tầng lớp nhân
dân Nha Trang và các cấp chính quyền xôn xao” [238, tr. 3], đến nỗi Tỉnh trưởng
Khánh Hòa phải khẩn cấp nhờ quân đội cấp trên tới giải cứu. Cuộc đấu tranh đòi tự
do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo của Phật giáo Khánh Hòa năm 1963 có những
thời điểm gây náo loạn cả Nha Trang, làm cho CQSG hết sức bối rối, “không biết
xử trí ra sao” [182]. Phong trào đấu tranh chống dư đảng Cần lao, chống độc tài
năm 1964 diễn ra mạnh mẽ buộc Tỉnh trưởng Khánh Hòa phải yêu cầu “các đơn vị
quân đội trong tỉnh ngừng các cuộc hành quân để tăng cường bảo vệ Nha Trang
[190]. Phong trào chống Trần Văn Hương, đòi tự do và dân chủ đầu năm 1965
với nhiều cuộc biểu tình, tuyệt thực rầm rộ làm xáo trộn thị xã Nha Trang, như
chính đối phương thú nhận: “Các cuộc đấu tranh có ảnh hưởng không tốt đến đồng
bào địa phương cũng như ảnh hưởng đến tiềm lực chiến đấu của quân đội (Sài Gòn
144
- TG) tại chiến trường” [310]. Đợt đấu tranh cao điểm đòi thành lập chính phủ dân
sự từ tháng 3 đến tháng 6-1966 làm cho “thị xã Nha Trang trải qua mấy ngày rối
loạn”, buộc Mỹ và CQSG phải điều cả Lực lượng Đặc biệt, Binh chủng Nhảy dù
đến bảo vệ [257].
Những dẫn chứng trên đây chứng minh nhận định của Tỉnh ủy Khánh Hòa là
có cơ sở: “Tại Khánh Hòa, nhất là thị xã Nha Trang, phong trào công nhân, lao
động, Phật giáo, học sinh,... liên tục đấu tranh làm cho hậu phương địch không ổn
định” [231].
Cũng cần nói thêm rằng, theo các sử liệu hiện có, thời kỳ 1954-1975, ít nhất có
2 lần Tư lệnh Quân đoàn II của VNCH buộc phải từ Pleiku về Nha Trang để chỉ đạo
đối phó với các cuộc ĐTCT của quần chúng. Lần thứ nhất, Thiếu tướng Nguyễn
Khánh đến Nha Trang ngày 16-8-1963, trong thời điểm phong trào đòi tự do tín
ngưỡng, bình đẳng tôn giáo lên cao; lần thứ hai, Thiếu tướng Nguyễn Hữu Có đến
Nha Trang ngày 8-1-1965, vào thời điểm phong trào đấu tranh chống chính phủ Trần
Văn Hương, đòi tự do và dân chủ đầu năm 1965 bắt đầu bùng phát mạnh mẽ.
Điều cần nhận thấy là, ĐTCT làm rối loạn hậu phương của đối phương ở
mức độ nào đó cũng có nghĩa là CQSG suy giảm thế lực sau mỗi phong trào đấu
tranh của quần chúng. Bởi vì thực tế qua mỗi phong trào đấu tranh, dù được hậu
thuẫn tối đa về mọi mặt của Mỹ, CQSG vẫn phải đối mặt với nhiều vấn đề nảy
sinh khó giải quyết.
Bên cạnh các phong trào đấu tranh tiêu biểu nói trên, trong kháng chiến chống
Mỹ (1954-1975), ở Khánh Hòa còn có một số cuộc đấu tranh tuy không rầm rộ
nhưng cũng góp phần làm cho CQSG bị suy giảm thế lực và mất uy tín trong dân
chúng. Chẳng hạn, để chống CQSG dỡ nhà (26-1-1956), đồng bào di cư miền Bắc ở
Xóm Mới (Nha Trang) đã đến Ủy hội Quốc tế kiểm soát đình chiến khiếu kiện, sau
đó gửi đơn lên Phủ Tổng thống và Phủ Tổng ủy di cư. CQSG thừa nhận việc khiếu
kiện đã “làm mất ảnh hưởng chính trị của Chính phủ” [154]; năm 1957, các cơ sở
cách mạng ở Khánh Hòa đã xâm nhập thành công, nắm giữ nhiều vị trí trong bộ
máy hành chính và chi phối nhiều hoạt động của chính quyền đối phương ở cơ sở.
CQSG thừa nhận hoạt động này của cách mạng đã làm một số địa bàn, nhất là Cam
Lâm “quá trầm trọng về phương diện an ninh”, “làm mất thể diện của chính quyền
145
Quốc gia” [164]; khi đổ bộ vào Khánh Hòa (10-6-1965), quân đội Mỹ và Hàn Quốc
đã chiếm dụng đất của dân để xây dựng cơ sở đồn trú. Để chống lại, nhân dân
Khánh Hòa làm đơn khiếu kiện tập thể lên cả CQSG ở trung ương. Chính Dân biểu
Quốc hội VNCH Lê Tài Hoa thừa nhận, việc này “không chỉ làm cho dân chúng
giảm tin tưởng vào chính quyền Quốc gia mà còn làm cho họ nghi ngờ cả sứ mạng
cao đẹp của quân đội Đồng minh” [54, tr. 2].
Ngoài việc bản thân tạo ra sự xáo trộn mạnh mẽ trong lòng đối phương,
ĐTCT ở Khánh Hòa thời kỳ 1954-1975 còn tích cực phối hợp, hỗ trợ LLVT từ bên
ngoài tấn công CQSG ngay trên chính sào huyệt của chúng. Điều này càng làm cho
hậu phương của CQSG bị rối loạn, thế lực của CQSG ngày càng suy giảm. Những
phong trào thể hiện rõ điều này có thể kể đến như đồng khởi, phá các khu tập trung
ở vùng rừng núi những năm 1959-1960; chống phá ACL những năm 1961-1963;
đồng khởi ở vùng nông thôn đồng bằng cuối năm 1964, đầu năm 1965 và nhất là
trong cuộc hai Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968, Xuân 1975. Diễn biến, kết
quả các phong trào đã trình bày ở phần trước đã khẳng định điều này.
Nếu chỉ dừng lại ở chỗ làm rối loạn hậu phương, suy yếu thế lực của đối
phương thì ĐTCT chưa thể hiện hết vai trò, ý nghĩa của nó. Điều quan trọng hơn là,
từ chỗ làm rối loạn hậu phương, giảm thế lực của CQSG, ĐTCT đã tạo điều kiện
cho phong trào cách mạng phát triển. Cụ thể, năm 1963, tại đô thị Nha Trang,
phong trào ĐTCT đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo diễn ra quyết liệt, góp
phần quan trọng làm sụp đổ chế độ Ngô Đình Diệm (1-11-1963); tiếp đó, những
năm 1964-1965, cũng tại Nha Trang phong trào đấu tranh chống dư đảng Cần lao,
chống độc tài Nguyễn Khánh, chống chính phủ Trần Văn Hương diễn ra mạnh mẽ.
Trong khoảng thời gian này, tại vùng nông thôn Khánh Hòa, hầu hết các tổ chức
kìm kẹp quần chúng bị buông lỏng, ACL không canh gác, tình hình chính trị rối ren.
Đây là điều kiện quan trọng để phong trào đồng khởi ở các huyện Vạn Ninh, Ninh
Hòa, Diên Khánh giành thắng lợi (7-11-1964), góp phần giải phóng một phần vùng
nông thôn đồng bằng sau 10 năm bị Mỹ và CQSG kìm kẹp, và tạo áp lực mạnh mẽ
đối với đô thị Nha Trang, như Đài BBC tường thuật: “Việt Cộng đã chiếm một vùng
phía Tây thị xã Nha Trang và đang uy hiếp thị xã này” [1, tr. 410];
Năm 1966, phong trào đấu tranh đòi Quốc hội Lập hiến ở Nha Trang diễn ra
146
rầm rộ, thu hút hầu hết các thành phần xã hội tham gia, uy hiếp mạnh mẽ sự tồn tại
của CQSG ở địa phương. CQSG buộc phải huy động gần như mọi lực lượng đồn trú
trên địa bàn Khánh Hòa, kể cả Lực lượng Đặc biệt, Binh chủng Nhảy dù,... để bảo
vệ Nha Trang. Chính điều này đã tạo thuận lợi cho phong trào cách mạng ở các
huyện như Ninh Hòa, Vạn Ninh phát triển. Tỉnh trưởng Khánh Hòa trong Công điện
số 172-NA/CT2/M, ngày 12-4-1966, gửi Tư lệnh Vùng 2 chiến thuật, thừa nhận:
“Phong trào đấu tranh của một số giáo sư, học sinh và Phật tử tại Vạn Ninh, Ninh
Hòa, Diên Khánh có thể bành trướng và gây trở ngại cho việc bảo vệ an ninh.
Thỉnh cầu Thiếu tướng chỉ thị để biết trường hợp cần phải dùng quân đội để giải
tán biểu tình thì Tỉnh tôi (chỉ CQSG tại Khánh Hòa - TG) phải trưng dụng ở đâu.
Trong hiện tình, các đơn vị đồn trú tại Nha Trang đều được Tổng trấn sử dụng bảo
vệ thị xã, còn tại các quận, lực lượng trừ bị đóng giữ quân lỵ rất ít” [204];
Nhìn một cách toàn cục, ĐTCT ở Khánh Hòa trong kháng chiến chống Mỹ
(1954-1975) diễn ra rộng khắp và liên tục, tuy nhiên, mạnh mẽ và quyết liệt nhất
là tại vùng đô thị trong những năm 1963-1966. Trong giai đoạn này, CQSG buộc
phải điều quân từ vùng rừng núi, vùng nông thôn đồng bằng về hỗ trợ nhằm lập lại
trật tự cũng như bảo vệ Nha Trang, Cam Ranh. Do đó, CQSG không còn đủ tiềm
lực để tổ chức các cuộc hành quân đánh phá căn cứ cách mạng ở vùng miền núi,
đúng như Tỉnh ủy Khánh Hòa khẳng định: “Sau cuộc càn ‘Thiềm Đầu Thủy’ (từ
1-6 đến 25-8-1963 - TG) đến nay (1967) đã trên 3 năm, nhân dân miền núi chưa
phải đối phó với cuộc càn quét lớn nào của địch” [224, tr. 7]. Rõ ràng, ĐTCT ở
đô thị đã góp phần quan trọng đảm bảo an toàn cho vùng miền núi, tạo điều kiện
cho phong trào cách mạng vùng miền núi phát triển.
4.3.3. Góp phần làm phong phú thêm những bài học kinh nghiệm đối với sự
nghiệp giải phóng dân tộc
4.3.3.1. Mục tiêu đấu tranh phải cụ thể và phù hợp với từng giai đoạn
Cũng như cách mạng miền Nam, mục tiêu xuyên suốt của ĐTCT ở Khánh
Hòa những năm 1954-1975 là độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Tuy nhiên,
trong từng giai đoạn, ĐTCT ở Khánh Hòa đều xác định mục tiêu cụ thể và có sự kết
hợp một cách hợp lý giữa mục tiêu trước mắt với mục tiêu lâu dài, giữa mục tiêu
kinh tế với mục tiêu chính trị, giữa mục tiêu dân sinh, dân chủ với mục tiêu dân tộc.
147
Điều này thể hiện ngay trong chỉ đạo của Tỉnh ủy Khánh Hòa qua các thời điểm.
Cụ thể, những năm 1954-1956, Tỉnh ủy Khánh Hòa xác định: “Mục tiêu chung là
đấu tranh kinh tế kết hợp ĐTCT đòi quyền lợi hằng ngày kết hợp quyền lợi lâu dài
của dân tộc; mục tiêu cụ thể là đấu tranh kinh tế chống cướp giật, bóc lột hàng ngày
song song đấu tranh đòi tự do dân chủ, chống khủng bố, ‘tố Cộng’, bắt bớ, trả thù,...
Đồng thời, kết hợp chặt chẽ đòi hiệp thương, tổng tuyển cử” [217, tr. 3]; những năm
1961-1965, mục tiêu là “phá kế hoạch gom dân lập ACL của CQSG, giải phóng nông
thôn đồng bằng ven đô thị và đường giao thông lớn” [227]; sau Tết Mậu Thân 1968,
“mục tiêu trước mắt là phải đẩy mạnh cao trào ĐTCT mạnh mẽ và liên tục nhằm
đòi địch giải quyết những yêu cầu bức xúc của nhân dân như đòi giải tỏa lệnh thiết
quân luật, chống khủng bố, bắt bớ, đòi giải quyết đời sống, chống độc tài Thiệu -
Kỳ” [225, tr. 7]; sau Hiệp định Paris 1973, mục tiêu là “hòa bình, độc lập, dân chủ,
hòa hợp dân tộc, đòi địch thi hành Hiệp định, thực hiện hòa bình” [237, tr. 5].
Thực tiễn ĐTCT ở Khánh Hòa trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975) cho
thấy, các cuộc đấu tranh do Đảng trực tiếp lãnh đạo hay do lực lượng yêu nước tổ
chức đều thể hiện khá rõ việc xác định mục tiêu cụ thể và phù hợp. Chẳng hạn, trong
những năm 1954-1956, các cuộc đấu tranh diễn ra ngày 2-8-1954, ngày 7-8-1954,
tháng 2-1955 đều nhằm mục tiêu chủ yếu là chống đối phương khủng bố, trả thù cán
bộ kháng chiến; mục tiêu của báo Gió Mới (từ tháng 2-1955 đến tháng 12-1956), của
đợt rải truyền đơn trên diện rộng ngày 21-7-1955, hay của chiến dịch “Vạch mặt Mỹ
nô” cuối năm 1955,... đều hướng vào việc đòi CQSG thi hành Hiệp định Genève;
Trong những năm 1961-1965, các cuộc đấu tranh, nhất là phong trào đồng
khởi ở các huyện Diên Khánh, Ninh Hòa và Vạn Ninh đều nhằm chống phá “quốc
sách” ACL, giải phóng vùng nông thôn đồng bằng;
Sau sự kiện Tết Mậu Thân 1968, phong trào chống bắt lính, các cuộc bãi công
của công nhân, đấu tranh của thương phế binh,... cũng có mục tiêu rất cụ thể. Đó là
chống lệnh Tổng động viên (19-6-1968), chống chính sách độc tài, quân phiệt của
Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ, chống người Mỹ bóc lột, coi thường công
nhân người Việt, đòi giải quyết quyền lợi của thương phế binh;
Sau khi Hiệp định Paris được ký kết (27-1-1973), việc Uỷ ban đòi thi hành
Hiệp định Paris, Uỷ ban đòi cải thiện chế độ lao tù, Uỷ ban phụ nữ đòi quyền sống ở
148
Khánh Hòa lần lượt ra đời, rồi đến sự kiện Thích Viên Đạo tự thiêu (17-10-1973),...
tất cả đều hướng đến mục tiêu rất rõ ràng là đòi thi hành Hiệp định Paris, đòi hòa bình
cho Việt Nam.
Như vậy, ở Khánh Hòa thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), mục tiêu
của ĐTCT từng giai đoạn được xác định cụ thể, phù hợp không chỉ thể hiện trong
chủ trương chỉ đạo của Tỉnh ủy mà còn được thể hiện rõ trong thực tiễn đấu tranh.
Việc xác định mục tiêu đấu tranh cụ thể, phù hợp là một khía cạnh quan trọng của
phương thức tập hợp quần chúng, góp phần đảm bảo thắng lợi và củng cố niềm tin
cho nhân dân. Đây là bài học kinh nghiệm có thể vận dụng trong công tác vận động
quần chúng thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội trên địa
bàn tỉnh Khánh Hòa hiện nay.
4.3.3.2. Chú trọng xây dựng cơ sở cách mạng, lực lượng nòng cốt trong đấu
tranh chính trị
Ngay sau khi Hiệp định Genève được ký kết (21-7-1954), Tỉnh ủy Khánh Hòa
đã chú trọng xây dựng cơ sở cách mạng bằng cách đưa cán bộ kháng chiến trở về
làng xã sống hợp pháp. Số cán bộ kháng chiến về sống hợp pháp ở mỗi xã có đến
30 - 40 người, trong đó nhiều cán bộ trung kiên được bố trí hình thành các chi bộ
nhỏ, hoạt động bí mật trong từng thôn, xóm [1, tr. 320]. Nhờ vậy, trong những năm
1954-1958, dù CQSG chủ trương phá hoại Hiệp định Genève và triển khai chiến
dịch “tố Cộng”, đẩy mạnh lùng sục, khủng bố nhưng tại Khánh Hòa, một số cơ sở
cách mạng vẫn tồn tại được, và “những cuộc đấu tranh của từng nhóm 20, 30 người
đòi được đi lại làm ăn, không được khủng bố, bắt bớ vô cớ vẫn diễn ra liên tiếp.
Phong trào lắng vào chiều sâu, tận dụng khả năng công khai, hợp pháp để trao đổi,
bàn tán, lên án chỉ trích, vạch mặt tay sai tàn ác và động viên nhau đoàn kết chiến
đấu, giữ gìn tính mạng, tài sản, giúp đỡ nhau trong lúc ngặt nghèo” [1, tr. 333].
Để phục vụ ĐTCT, Tỉnh ủy Khánh Hòa không chỉ chủ trương xây dựng cơ sở
cách mạng trong quần chúng mà còn cả trong bộ máy chính quyền đối phương. Có
thời điểm như những năm 1955-1957, Tỉnh ủy Khánh Hòa đã thành công trong việc
đưa cơ sở cách mạng vào một số tổ chức, cơ quan như Nghiệp đoàn Hỏa xa, Hội
đồng xã Diên Điền,... riêng tại Cam Lâm đã có gần 50 cán bộ cách mạng tham gia
vào bộ máy CQSG.
149
Khi Mỹ và Đồng minh của Mỹ đưa quân vào Việt Nam (1965), nhất là sau
“Sự kiện Tết Mậu Thân 1968”, tâm lý chán ghét chiến tranh, bất mãn với chế độ
Nguyễn Văn Thiệu trong quần chúng và cả trong binh lính, sĩ quan, công chức
CQSG lan rộng, trước tình hình đó, Tỉnh ủy Khánh Hòa chỉ đạo đẩy mạnh công tác
binh vận, xây dựng cơ sở cách mạng ngay tại địa bàn của đối phương. Đến năm
1971, Hội Sao Việt - một tổ chức hợp pháp do Huyện ủy Vĩnh Trang trực tiếp chỉ
đạo, được thành lập đã tập hợp được nhiều trí thức, công chức, sĩ quan quân đội Sài
Gòn như bác sĩ Nguyễn Thạch, bác sĩ Nguyễn Ngọc Hiền, giáo sư Lê Văn Bê, giáo
sư Cao Thị Hương, giáo sư Lê Đình Tần, dân biểu Hạ viện Trần Văn Nhung, Trần
Văn Sơn, đại úy Vĩnh Thọ, cảnh sát Nguyễn Đức Thắng,...
Ở Khánh Hòa trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), nhiều cuộc ĐTCT
thể hiện rõ dấu ấn của cơ sở cách mạng. Chẳng hạn, cuộc bao vây Tỉnh đường ngày
16-8-1954 của 170 binh sĩ thuộc 2 Trung đoàn Nghĩa Dũng quân đội Sài Gòn không
đơn thuần là cuộc đấu tranh để đòi tiền lương mà là một cuộc ĐTCT có tổ chức,
CQSG thừa nhận “do một số người cầm đầu xúi giục để đả phá chính quyền”
[238]; cuộc đấu tranh chống CQSG dỡ nhà của đồng bào miền Bắc di cư ở Xóm
Mới ngày 26-1-1956 gây được tiếng vang, một phần là dựa vào cơ sở cách mạng và
lực lượng nòng cốt bên trong, nói như CQSG là do “nhân viên Việt cộng đứng đằng
sau” [154]; các “Tổ đổi công” tại vùng nông thôn Diên Khánh, Ninh Hòa trong
những năm chống chiến dịch “tố Cộng” (1955-1958) nhiều lần làm đơn bảo lãnh
cho những người bị CQSG bắt, thực chất là các cơ sở cách mạng, “bí mật hoạt động
cho cộng sản” [97]; ở Cam Lâm, trong những năm 1955-1957, nhiều cuộc đấu
tranh đòi thả “cán Cộng” bị đối phương bắt cũng là do cơ sở cách mạng nằm ngay
trong bộ máy hành chính của CQSG chỉ đạo và tổ chức [164].
Ngoài việc trực tiếp phát động, lãnh đạo quần chúng đấu tranh, cơ sở cách
mạng còn tranh thủ tham gia các phong trào ĐTCT do đoàn thể khác tổ chức. Thực
tế cho thấy, trong phong trào đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo (1963);
chống độc tài, quân phiệt, đòi tự do và dân chủ (1964-1965); đòi thành lập chính
phủ dân sự (1965-1967); đòi dân chủ, dân sinh (1969-1972),... đều ít nhiều có sự
tham gia của cơ sở cách mạng. Tỉnh ủy Khánh Hòa cho biết: “Cơ sở nơi nào cũng
có, không những có trong lao động mà còn có cơ sở tiếp cận được một số tầng lớp
150
trên và đã có những hoạt động như rải truyền đơn, treo cờ, gây náo động trong
hàng ngũ địch và kích động được phong trào. Mặt khác, hướng dẫn quần chúng đấu
tranh đòi dân sinh, dân chủ, chống đuổi nhà, cướp đất và từng bước xen vào lãnh
đạo một số phong trào đấu tranh của quần chúng” [237, tr. 5].
Cơ sở cách mạng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của phong trào
cách mạng, là cầu nối giữa Đảng với quần chúng. Trong thời kỳ chống Mỹ và
CQSG, cơ sở cách mạng ở Khánh Hòa đã thực hiện tốt vai trò đó, nhờ vậy, “cách
mạng chưa bao giờ mất liên lạc lâu với tình hình thị xã, thị trấn, nhất là thị xã Nha
Trang” [237, tr. 3].
Bên cạnh thành công, hoạt động xây dựng cơ sở cách mạng ở Khánh Hòa
trong kháng chiến chống Mỹ cũng có hạn chế, điển hình là trong những năm 1957-
1958 và 1965-1968, cụ thể:
Cuối năm 1957, Tỉnh ủy Khánh Hòa chuyển một số cán bộ lãnh đạo và đảng
viên ra sống hợp pháp xây dựng cơ sở cách mạng ở vùng đô thị, đồng bằng. Đây là
chủ trương không căn cứ vào tình hình thực tế, vì “địch đang thực hiện chính sách
kiểm soát chặt chẽ, hầu hết cán bộ bất hợp pháp của ta bị lộ mặt, bọn đầu hàng phản
bội làm tay sai cho địch đã biết rất rõ” [1, tr. 346]. Thực tế diễn biến sau đó đã khẳng
định ý kiến trên, không ít cán bộ ra hợp pháp bị bắt hoặc bị thủ tiêu, kéo theo hệ lụy
là nhiều địa bàn như Cam Ranh, Diên Khánh, Vạn Ninh gần như trắng cơ sở cách
mạng [1, tr. 346-348]. Cùng với việc đưa cán bộ ra sống hợp pháp ở vùng đô thị và
đồng bằng, một sai lầm khác là tại vùng rừng núi, Tỉnh ủy Khánh Hòa chủ trương rút
cán bộ cách mạng người Kinh vào hoạt động bí mật, không được ở trong nhà đồng
bào thiểu số, không được trực tiếp gặp dân mà phải thông qua cán bộ người dân tộc.
Chủ trương này “khiến tự ta bó ta, làm cho phong trào miền núi tương đối vững
trong năm 1956 lâm vào thế khó khăn” [1, tr. 352]. Tỉnh ủy Khánh Hòa khẳng định
đây là sai lầm trong chỉ đạo cách mạng ở vùng miền núi lúc bấy giờ.
Nếu như những năm 1957-1958, công tác xây dựng cơ sở cách mạng ở Khánh
Hòa sai lầm từ chủ trương thì những năm 1965-1968 lại sai lầm trong tổ chức thực
hiện. Việc tổ chức thiếu chặt chẽ, không đảm bảo bí mật đã dẫn đến “xảy ra 3 vụ bể
vỡ lớn trong 4 năm, mỗi vụ vỡ đều chi phối nặng nề các mặt tình hình trong thị xã
và mất hàng năm mới khôi phục lại được” [227, tr. 3]. Trong đó, riêng năm 1965,
151
“Ban Cán sự nội thành Nha Trang và Chi đoàn thanh niên bị bắt, cơ sở trong thị xã
gần như tê liệt; tại Cam Ranh, Ban Cán sự cũng hy sinh do gián điệp chui vào cơ sở
phá từ bên trong” [1, tr. 427].
Cùng với cơ sở cách mạng, thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), tại
Khánh Hòa, lực lượng nòng cốt cũng thể hiện vai trò quan trọng trong ĐTCT, nhất
là trong các cuộc nổi dậy do Đảng trực tiếp lãnh đạo. Chẳng hạn, trong phong trào
đồng khởi ở nông thôn đồng bằng cuối năm 1964, đầu năm 1965, lực lượng nòng
cốt phần lớn là phụ nữ “được tổ chức, có chuẩn bị bồi dưỡng lý lẽ nên thu được kết
quả tích cực, cùng với quần chúng đóng vai trò chủ yếu trong việc đẩy địch vào thế
bị động và làm cho địch lúng túng trong việc triển khai tái chiếm vùng giải phóng”
[222, tr. 3]; trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, cuộc biểu
tình sáng mồng 1 Tết của 150 quần chúng thôn Đại Điền Trung và cuộc biểu tình
của 600 quần chúng Ninh An, Ninh Thọ là do lực lượng nòng cốt của Huyện ủy
Diên Khánh, Huyện ủy Ninh Hòa lãnh đạo; trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Xuân 1975, khi CQSG rút chạy khỏi Nha Trang, lực lượng nòng cốt của 3 tuyến cơ
sở nội thị đã chiếm giữ, bảo vệ các cơ quan, vị trí quan trọng, tổ chức biểu dương
lực lượng, trấn áp bọn cơ hội,... nhanh chóng ổn định tình hình Nha Trang, góp
phần làm cho quân đội Sài Gòn khi “rút lui chiến lược” từ Tây Nguyên về đồng
bằng ven biển đã chạy về hướng Cam Ranh. Điều này giúp cho công tác tiếp quản
thị xã Nha Trang của quân Giải phóng diễn ra thuận lợi.
Tất cả cho thấy, tại Khánh Hòa trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), cơ
sở cách mạng và lực lượng nòng cốt ĐTCT là những nhân tố có vai trò đặc biệt
quan trọng đối với sự phát triển của phong trào cách mạng. Những thành công cũng
như hạn chế của công tác xây dựng cơ sở cách mạng và lực lượng nòng cốt ĐTCT
thời kỳ 1954-1975 là kinh nghiệm tham khảo hữu ích đối với Đảng bộ, chính quyền
và nhân dân Khánh Hòa trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng
đất nước và bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn tỉnh hiện nay.
4.3.3.3. Luôn luôn quán triệt quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”
“Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” là quan điểm cốt lõi của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời là bài học lớn trong lãnh đạo
cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua thực tiễn của ĐTCT ở Khánh Hòa
152
thời kỳ 1954-1975, bài học này một lần nữa được chứng minh bằng sử liệu hết sức
phong phú.
Trước hết, “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” thể hiện ở chỗ, có
những thời điểm cách mạng Khánh Hòa gặp nhiều khó khăn, nhưng nhân dân vẫn
một lòng tin tưởng, nuôi giấu, che chở, bảo vệ cơ sở cách mạng. Chẳng hạn, trong
những năm 1955-1958, với chiến dịch “tố Cộng” khủng bố, tù đày, bắn giết tràn lan
của CQSG, quần chúng nói chung có phần e sợ, “nhưng địa phương nào cũng xuất
hiện một bộ phận quần chúng giác ngộ hơn, họ đấu tranh khôn khéo, giữ thế hợp
pháp và bí mật ủng hộ cán bộ hoạt động” [1, tr. 339]; ACL dù được nâng lên tầm
“quốc sách”, được kỳ vọng sẽ “thanh toán các hình thức xâm lăng thống trị, đặc
biệt là chiến thắng giặc Cộng sản, chia rẽ, chậm tiến” [62], thế nhưng khi xây dựng
xong, cán bộ cách mạng vẫn được nuôi dấu bên trong các ACL ở Ninh Hòa, Diên
Khánh, Vạn Ninh; trong những năm 1963-1966, “Phật giáo, chùa Long Sơn,
Trường Trung học Bồ đề Nha Trang là chỗ dựa của lực lượng chống Mỹ và tay sai”
[117, tr. 30]; năm 1965, khi quân Mỹ và quân Hàn Quốc đổ bộ vào Khánh Hòa trực
tiếp đánh phá vùng nông thôn giải phóng, “tuy đồng bào rất lo lắng, nhưng nói
chung họ không nhụt chí đấu tranh. Đồng bào Ninh An, Ninh Thọ vẫn gan góc lấy
xương máu của mình để giữ vững vùng giải phóng gần nửa năm trời” [232].
“Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” còn được chứng minh ở chỗ,
trong điều kiện bị đối phương đàn áp và kìm kẹp gắt gao nhưng ở Khánh Hòa thời
kỳ 1954-1975, ĐTCT vẫn liên tục diễn ra. Trong đó, có nhiều phong trào đấu tranh
tập hợp đông đảo lực lượng và thu hút hầu hết các thành phần xã hội tham gia như
đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Genève (1954-1956); đấu tranh đòi tự do tín
ngưỡng, bình đẳng tôn giáo (1963); đấu tranh chống độc tài, quân phiệt, đòi tự do
và dân chủ (1964-1965); đồng khởi ở nông thôn đồng bằng (1964-1965); đấu tranh
đòi thành lập chính phủ dân sự (1965-1967),... Đặc biệt, trong cuộc Tổng tiến công
và nổi dậy Xuân 1975, mặc dù không nhận được sự chỉ đạo cụ thể của Đảng, nhưng
khi chính quyền và quân đội Sài Gòn rối loạn rồi rút chạy khỏi Nha Trang, cơ sở
nội thị cùng với quần chúng nhân dân đã chủ động và kịp thời chiếm giữ các cơ sở
quan trọng, ổn định tình hình thị xã để đón Quân giải phóng vào tiếp quản.
Bên cạnh chứng minh bằng những thành công, ở Khánh Hòa trong kháng
153
chiến chống Mỹ, bài học “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” còn được
khẳng định qua những hạn chế của ĐTCT. Tỉnh ủy Khánh Hòa thừa nhận, khuyết
điểm lớn nhất trong chỉ đạo ĐTCT thời kỳ 1954-1975 là có những thời điểm Tỉnh
ủy cũng như các cơ sở cách mạng chưa đánh giá đúng tình hình nhân dân, thiếu tin
tưởng và không mạnh dạn phát động quần chúng đấu tranh, rằng “về nhận thức, ai
cũng hiểu và dễ nhất trí cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nổi dậy phá kìm
giành quyền làm chủ phải lấy dân làm gốc, nhưng trong thực tiễn phong trào những
vấn đề trên chưa thực hiện tốt” [234, tr. 7].
Hạn chế này thể hiện rõ nhất trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu
Thân 1968 ở thị xã Nha Trang. Cụ thể, đêm giao thừa Tết Mậu Thân 1968, trong
khi LLVT tham gia tấn công vào thị xã Nha Trang tiến đánh mục tiêu theo kế
hoạch, chiến sự diễn ra ác liệt, thì LLCT ở các khu vực nội thị như Hà Ra, Xóm
Cồn, Phương Sài, Xóm Mới,... chỉ trong trạng thái “sẵn sàng xuống đường biểu
tình”; còn ở các vùng bàn đạp như Vĩnh Xương, Diên Khánh nhân dân cũng chỉ
trong tư thế “sẵn sàng chờ lệnh kéo vào thị xã Nha Trang” [1, tr. 494]. Mãi đến
sáng mồng 1 Tết mới có cuộc biểu tình của 150 quần chúng thôn Đại Điền Trung
(Diên Khánh) kéo về Nha Trang hỗ trợ LLVT, nhưng khi đến Mã Vòng - cửa ngõ
phía Nam thị xã, đoàn biểu tình đã bị đối phương chặn lại và dùng bạo lực đàn áp,
giải tán.
Vì vậy, cả ba hội nghị Tỉnh ủy diễn ra trong 7 tháng đầu năm 1968102 và tại
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ V (11-1968), Tỉnh ủy Khánh Hòa đều cho
rằng: “Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 ở Nha Trang, trong ba mũi
giáp công thì mũi chính trị còn yếu” [227, tr. 6]. Về nguyên nhân hạn chế, Hội nghị
Thường vụ Tỉnh ủy ngày 15-2-1968 thẳng thắn chỉ rõ: “Nguyên nhân có phần do
khó khăn khách quan, nhưng chủ yếu là do nhiều cán bộ ta không không dám huy
động quần chúng xuống đường, thậm chí không dám phát động quần chúng thanh
viện trống, mõ, có nơi giấu trống, giải tán quần chúng” [225, tr. 5]. Rõ ràng, trong
“Sự kiện Tết Mậu Thân 1968” ở Nha Trang - Khánh Hòa, sức mạnh quần chúng
không được phát huy kịp thời, điều này có nghĩa là bài học “cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng” chưa được thực hiện một cách đầy đủ.
102. Ba hội nghị gồm: Hội nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy bất thường ngày 3-2-1968, Hội nghị Ban
Thường vụ Tỉnh ủy ngày 15-2-1968, Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng ngày 15-7-1968.
154
Tóm lại, lực lượng quần chúng luôn giữ vai trò hết sức quan trọng trong sự
nghiệp cách mạng. Muốn vậy, quần chúng phải được giáo dục, giác ngộ và tổ chức.
ĐTCT ở Khánh Hòa trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975) đã chứng minh sự
thành bại của cách mạng phụ thuộc rất lớn vào việc thực hiện bài học “cách mạng
là sự nghiệp của quần chúng” cả trong nhận thức lẫn thực tiễn; nơi nào thực hiện
tốt thì thành công, còn nơi nào không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ sẽ dẫn
đến thất bại. Bài học này được Tỉnh ủy Khánh Hòa khẳng định “có giá trị chỉ đạo
to lớn không chỉ trong giai đoạn hiện tại mà mãi mãi về sau” [1, tr. 603].
Tiểu kết
Qua những biểu hiện hết sức phong phú, ĐTCT ở Khánh Hòa trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ (1954-1975) thể hiện rõ tính dân tộc, dân chủ và dân sinh.
Các tính chất này đan xen, hòa quyện khó phân tách rạch ròi, trong đó, tính chất dân
tộc là xuyên suốt và nổi bật nhất.
Giống như những trung tâm ĐTCT tại miền Nam (Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng),
trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), ĐTCT ở Khánh Hòa thu hút hầu hết các
thành phần xã hội tham gia; được tiến hành bằng hình thức, biện pháp phong phú,
linh hoạt, quyết liệt; tích cực hưởng ứng, phối hợp với các địa phương khác. Những
đặc điểm này đã được chứng minh bằng các sự kiện rất cụ thể và sinh động.
ĐTCT ở Khánh Hòa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-
1975) có nghĩa to lớn, góp phần nâng cao giác ngộ chính trị đối với các tầng lớp
nhân dân; làm rối loạn hậu phương và suy giảm thế lực của CQSG, tạo điều kiện
cho phong trào cách mạng phát triển; làm phong phú thêm những bài học kinh
nghiệm đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nói cách khác, ĐTCT ở Khánh Hòa
thời kỳ 1954-1975 đã hoàn thành vai trò của một mũi “giáp công”, kể cả khi độc
lập chiến đấu cũng như khi phối hợp với mũi ĐTVT để tấn công đối phương, đóng
góp quan trọng vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ ở địa
phương nói riêng, cả nước nói chung.
155
KẾT LUẬN
1. Do lợi thế về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên, Khánh Hòa trở thành địa
bàn chiến lược của cách mạng cũng như của CQSG. Cùng với điều kiện tự nhiên,
điều kiện kinh tế - xã hội Khánh Hòa cũng có những nét khá đặc thù. Trong khi đó,
trải qua tiến trình lịch sử, các thế hệ người dân Khánh Hòa đã hun đúc nên truyền
thống yêu nước và cách mạng quy báu, trở thành động lực tinh thần mạnh mẽ luôn
đồng hành với nhân dân địa phương trong suốt quá trình tồn tại và phát triển. Đây là
những nhân tố có ảnh hưởng đến ĐTCT ở Khánh Hòa trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).
Từ năm 1954 đến năm 1975, bằng các chính sách, biện pháp về chính trị -
quân sự, kinh tế - xã hội, văn hóa - giáo dục, Mỹ và CQSG từng bước xây dựng
Khánh Hòa thành hậu cứ vững chắc hỗ trợ đắc lực cho quá trình thực hiện chủ
nghĩa thực dân mới ở địa phương nói riêng, miền Nam nói chung. Những chính
sách của Mỹ và CQSG qua các giai đoạn ở mức độ khác nhau một mặt gây cho lực
lượng cách mạng khó khăn trong việc chỉ đạo và tổ chức kháng chiến, trong đó có
ĐTCT; mặt khác, đây lại là nhân tố quan trọng thúc đẩy, hay nói đúng hơn là
nguyên nhân chủ yếu bùng phát các cuộc ĐTCT ở Khánh Hòa thời kỳ 1954-1975.
Thực hiện chỉ đạo của Trung ương Đảng và Liên Khu ủy V, trong từng giai
đoạn của cuộc kháng chiến trên cơ sở thực tiễn địa phương, Tỉnh ủy Khánh Hòa đã
chủ động đề ra chủ trương, phát động quần chúng tham gia ĐTCT. Nhìn một cách
tổng thể, chủ trương chỉ đạo ĐTCT thời kỳ 1954-1975 của Tỉnh ủy Khánh Hòa bám
sát âm mưu, hành động của Mỹ và CQSG; linh hoạt trong việc xác định mục tiêu,
biện pháp, hình thức đấu tranh đáp ứng yêu cầu của cách mạng. Tuy nhiên, cũng có
thời điểm chưa thật sự hợp lý dẫn đến tổn thất đối với phong trào cách mạng. Với
thái độ trung thực và thẳng thắn, Tỉnh ủy Khánh Hòa đã nghiêm túc rút kinh nghiệm,
sửa chữa khuyết điểm để lãnh đạo nhân dân từng bước đi đến thắng lợi. Cần lưu ý
rằng, không phải tất cả các cuộc đấu tranh, phong trào quần chúng ở Khánh Hòa
thời kỳ 1954-1975 đều do Đảng trực tiếp lãnh đạo, mà có những lúc là phản ứng tự
phát của nhân dân hoặc do đoàn thể quần chúng yêu nước phát động và tổ chức,
mặc dù tất cả đều có chung mục tiêu là chống đế quốc Mỹ và CQSG. Điều này
156
được Tỉnh ủy Khánh Hòa xác nhận: “Có những phong trào do ta lãnh đạo, cũng có
nhiều phong trào, nhiều cuộc đấu tranh ta lãnh đạo không chặt hoặc không lãnh
đạo nhưng đều tập trung vào mục tiêu chống địch, gây cho địch nhiều khó khăn,
lúng túng trong việc thực hiện các âm mưu lớn của chúng” [234, tr. 7].
2. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), xét về thời gian
và phong trào đấu tranh, nhân dân Khánh Hòa tham gia hầu hết các phong trào
ĐTCT tiêu biểu ở miền Nam, từ những phong trào bùng phát ngay sau ngày 21-7-
1954 như phong trào đòi thi hành Hiệp định Genève (1954-1956), chống “tố Cộng”
(1955-1958),... đến những phong trào nổ ra vào giai đoạn cuối cuộc kháng chiến
như phong trào đòi thi hành Hiệp định Paris (1973-1974), tham gia Tổng tiến công
và nổi dậy Xuân 1975.
Xét về không gian, ĐTCT ở Khánh Hòa thời kỳ 1954-1975 diễn ra trên cả ba
vùng chiến lược. Ở vùng rừng núi Khánh Sơn, Khánh Vĩnh, được LLVT hỗ trợ,
ĐTCT diễn ra chủ yếu trong phong trào đồng khởi phá khu tập trung những năm
1959-1960. Ở vùng nông thôn đồng bằng Diên Khánh, Ninh Hòa, Vạn Ninh, Cam
Lâm, dù không thật sự mạnh mẽ nhưng ĐTCT diễn ra khá liên tục, trong đó có
những thời điểm phối hợp hiệu quả với ĐTVT như những năm 1961-1963 trong
phong trào chống phá ACL, từ cuối năm 1964 đến đầu năm 1965 trong phong trào
đồng khởi. Trong khi đó, ở vùng đô thị, nhất là Nha Trang, ĐTCT diễn ra sôi nổi,
quyết liệt giai đoạn 1963-1966, sau đó tiếp tục diễn ra đều đặn vào những năm
1967-1972 với các cuộc đấu tranh của Phật giáo, học sinh, sinh viên, công nhân,
thương phế binh, công chức và binh lính Sài Gòn; đặc biệt, từ năm 1971 đến năm
1975, phong trào đô thị Nha Trang tuy không rầm rộ nhưng rất hiệu quả trong việc
giáo dục, tập hợp quần chúng, xây dựng LLCT với vai trò nòng cốt của tổ chức Sao
Việt và các tuyến cơ sở nội thị. Như vậy, có thể nói, ĐTCT ở Khánh Hòa trong
kháng chiến chống Mỹ (1954-1975) được tiến hành liên tục và diễn ra trên ba vùng
chiến lược, mặc dù quy mô, mức độ không đồng đều giữa các vùng, tăng dần từ
miền núi đến nông thôn rồi đến đô thị. Điều này hoàn toàn phù hợp với chủ trương
chỉ đạo ĐTCT của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Xét về quy mô, trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), so với các địa
phương lân cận như Phú Yên, cực Nam Trung Bộ hay khu vực Tây Nguyên, ĐTCT
157
ở Khánh Hòa nổi trội hơn. Đặc biệt, có những phong trào, Khánh Hòa chỉ sau một
số ít trung tâm ĐTCT ở miền Nam như phong trào đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng
tôn giáo năm 1963 chỉ sau Huế và Sài Gòn, phong trào đòi thành lập chính phủ dân
sự năm 1966 chỉ sau Huế, Sài Gòn và Đà Nẵng.
Về phân kỳ, ĐTCT ở Khánh Hòa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ gồm hai giai
đoạn: 1954-1965 và 1965-1975. Cơ sở để phân kỳ là dựa trên sự thay đổi căn bản về
chiến lược chiến tranh của đối phương thể hiện qua việc Mỹ và các nước Đồng minh
của Mỹ trực tiếp đưa quân tham chiến ở miền Nam nói chung, Khánh Hòa nói riêng
vào thời điểm năm 1965. Thực tế cho thấy, sự thay đổi về chiến lược chiến tranh của
Mỹ có ảnh hưởng lớn đến ĐTCT ở Khánh Hòa. Nếu như giai đoạn 1954-1965, ĐTCT
diễn ra trên cả ba vùng chiến lược thì sang giai đoạn 1965-1975, chủ yếu diễn ra ở
vùng đô thị. Nguyên nhân là do kể từ năm 1965, nhờ lực lượng mạnh, quân đội Sài
Gòn cùng với quân Mỹ và Đồng minh tăng cường đóng chốt, tổ chức hành quân càn
quét cũng như thực hiện nhiều chính sách, biện pháp kìm kẹp nhân dân vùng nông thôn
đồng bằng và rừng núi, vì thế ĐTCT ở đây gặp khó khăn hơn trước. Trong khi đó, tại
vùng đô thị, nhất là Nha Trang, Cam Ranh - những nơi tập trung nhiều quân Mỹ và
Đồng minh của Mỹ, mâu thuẫn dân tộc trở nên trực tiếp, gay gắt hơn bao giờ hết, do
vậy phong trào vẫn có điều kiện duy trì thông qua cuộc đấu tranh của Phật giáo, học
sinh, công nhân, nhân sĩ, công chức, sĩ quan CQSG,... để đòi mục tiêu dân chủ, dân
sinh kết hợp với mục tiêu dân tộc, cụ thể là chống chính quyền quân phiệt Sài Gòn,
phản đối Mỹ can thiệp vào Việt Nam và đòi Mỹ phải rút quân về nước.
3. Trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
ĐTCT ở Khánh Hòa cũng như ở miền Nam chỉ là một và ĐTCT của nhân dân
Khánh Hòa là một bộ phận không thể tách rời của ĐTCT ở miền Nam. Đây là yếu
tố căn bản dẫn đến tính chất, đặc điểm của ĐTCT ở Khánh Hòa và tính chất, đặc
điểm của ĐTCT ở miền Nam là vấn đề khó rạch ròi. Điều quan trọng là ĐTCT ở
Khánh Hòa thời kỳ 1954-1975 đã chứng minh, bổ sung làm rõ tính chất, đặc điểm
đó bằng chất liệu lịch sử riêng có của địa phương. Đó là các tính chất: Dân tộc, dân
chủ, dân sinh và các đặc điểm: Thu hút hầu hết các thành phần xã hội tham gia; hình
thức, biện pháp đấu tranh phong phú, linh hoạt và quyết liệt; tích cực hưởng ứng và
phối hợp với các địa phương khác trong đấu tranh.
158
Tiếp nối truyền thống yêu nước và cách mạng, từ năm 1954 đến năm 1975,
nhân dân Khánh Hòa đã tích cực tham gia ĐTCT và đạt được những kết quả to lớn
xét riêng trên địa bàn từng tỉnh, góp phần nâng cao giác ngộ chính trị đối với các
tầng lớp nhân dân; làm rối loạn hậu phương và suy giảm thế lực của CQSG, tạo
điều kiện cho phong trào cách mạng phát triển; làm phong phú thêm những bài học
kinh nghiệm đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nhìn trong bối cảnh Khánh Hòa
là tỉnh có vị trí chiến lược với nhiều đơn vị quân đội Mỹ, Đồng minh của Mỹ đồn
trú, nhiều căn cứ, cơ quan quân sự đứng chân, bộ máy kìm kẹp và công tác an ninh
luôn hoạt động ở mức cao nhất, thì những ý nghĩa nêu trên càng đáng được lịch sử
ghi nhận.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), công tác chỉ đạo, lãnh
đạo ĐTCT của Tỉnh ủy Khánh Hòa có mặt được - đây là mặt chủ yếu, nhưng cũng
có mặt chưa được, thực tiễn ĐTCT bên cạnh thành tích còn có cả hạn chế. Thực tế
đó đưa đến những bài học kinh nghiệm như mục tiêu đấu tranh phải cụ thể và phù
hợp với từng giai đoạn; chú trọng xây dựng cơ sở cách mạng và lực lượng nòng cốt
trong ĐTCT; luôn quán triệt quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”.
Đây là những bài học “dù thời gian sẽ trôi qua, vẫn giữ nguyên giá trị cho đến hôm
nay và sau này, là tài sản vô giá để Đảng bộ và nhân dân Khánh Hòa tiếp tục tiến
bước trên con đường cách mạng” [1, tr. 603].
4. Nghiên cứu về ĐTCT ở Khánh Hòa thời kỳ 1954-1975 mang đến cho chúng
ta nhiều điều bổ ích, giúp nhận thức toàn diện, sâu sắc hơn về cuộc đấu tranh trực
diện, lâu dài và liên tục của nhân dân Khánh Hòa với CQSG được Mỹ hậu thuẫn
ngay trên sào huyệt của đối phương. Đó là cuộc đấu tranh của những con người xung
trận không mang theo một tấc sắt trong tay nhưng có đầy đủ sức mạnh của chính
nghĩa và lòng yêu nước. Tuy nhiên, điều cần nhấn mạnh là, nghiên cứu về ĐTCT ở
Khánh Hòa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) không chỉ để
biết thêm và tự hào về truyền thống yêu nước, cách mạng của quê hương mà quan
trọng hơn là biến truyền thống trở thành sức mạnh, góp phần xây dựng Khánh Hòa
trở thành tỉnh “có một quá khứ hào hùng, một hiện tại đáng yêu và một tương lai
nhiều hứa hẹn” [139, tr. 453].
159
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN NỘI DUNG LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ
1. Nguyễn Trung Triều (2015), “Khánh Hòa trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Xuân 1975”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “40 năm thống nhất đất nước và xây dựng, bảo
vệ Tổ quốc”, Trường Đại học Sư phạm, Trung tâm Giáo dục Quốc phòng - Đại học Huế.
2. Nguyễn Trung Triều (2015), “Lực lượng chính trị thị xã Nha Trang trong
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975”, in trong sách Về phong trào đô thị
miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), NXB Tổng hợp TP HCM.
3. Nguyễn Trung Triều (2016) (viết chung), 60 năm Phật Học viện Hải Đức
Nha Trang (1956-2016), NXB Tổng hợp TP HCM.
4. Nguyễn Trung Triều (2016) (viết chung), “Phật Học viện Hải Đức Nha
Trang với cuộc vận động của Phật giáo miền Nam năm 1963”, Tạp chí Nghiên cứu
Tôn giáo, số 07&08 (157).
5. Nguyễn Trung Triều (2016), “Thanh niên, học sinh Nha Trang đấu tranh
chống Trần Văn Hương đầu năm 1965”, Tạp chí Thanh niên, số 43.
6. Nguyễn Trung Triều (2017), “Thanh niên, sinh viên, học sinh Nha Trang
đấu tranh chống dư đảng Cần lao, độc tài năm 1964”, Tạp chí Thanh niên, số 1.
7. Nguyễn Trung Triều (2017), “Thanh niên, học sinh Nha Trang đấu tranh
chống Thiệu - Kỳ năm 1966”, Tạp chí Thanh niên, số 11.
8. Nguyễn Trung Triều (2017), “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân
1968 ở Nha Trang - Nhìn từ sự chuẩn bị về lực lượng chính trị, diễn biến và hạn chế
của mũi đấu tranh chính trị”, Tạp chí Khoa học Đại học Huế, Tập 126, Số 6A (2017).
9. Nguyễn Trung Triều (2017), “Phong trào đô thị Nha Trang năm 1966”, Tạp
chí Lịch sử Quân sự, số 307 (7-2017).
10. Nguyễn Trung Triều (2017), “Phong trào thanh niên, học sinh thị xã Nha
Trang những năm 1964-1965”, Tạp chí Khoa học & Giáo dục, Trường Đại học Sư
phạm - Đại học Huế, số 03 (43)/2017.
11. Nguyễn Trung Triều (2017), (viết chung), “Phong trào Phật giáo ở Khánh
Hòa năm 1963”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 10 (498)/2017.
12. Nguyễn Trung Triều (2018), “Đấu tranh chính trị trong cuộc Tổng tiến công
và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 ở Nha Trang”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 - Bài học lịch sử”, Đại học Huế.
160
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa (2001), Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Khánh Hòa (1930-1975), Cơ sở in chi nhánh NXB CTQG, Nha Trang.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Khánh Vĩnh (2015), Lịch sử Đảng bộ huyện
Khánh Vĩnh (1954-1975), Cơ sở in chi nhánh NXB CTQG, Nha Trang.
3. Ban Chấp hành Hội Nông dân Khánh Hòa (2002), Lịch sử phong trào nông
dân và Hội Nông dân tỉnh Khánh Hòa (1930-2000), Cơ sở in chi nhánh
NXB CTQG, Nha Trang.
4. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1995), Tổng kết cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thắng lợi và bài học, NXB CTQG, Hà Nội.
5. Ban Thường vụ Huyện ủy Cam Ranh (1994), Lịch sử Đảng bộ huyện Cam
Ranh 1930-1975, Cơ sở in chi nhánh NXB CTQG, Nha Trang.
6. Ban Thường vụ Huyện ủy Ninh Hòa (1995), Lịch sử Đảng bộ huyện Ninh
Hòa thời kỳ 1954-1975, Cơ sở in chi nhánh NXB CTQG, Nha Trang.
7. Ban Thường vụ Thành ủy Nha Trang (1996), Lịch sử Đảng bộ Nha Trang
1925-1975, Cơ sở in chi nhánh NXB CTQG, Nha Trang.
8. Ban Thường vụ Huyện ủy Vạn Ninh (1999), Lịch sử Đảng bộ huyện Vạn
Ninh 1954-1975, Cơ sở in chi nhánh NXB CTQG, Nha Trang.
9. Ban Thường vụ Huyện ủy Diên Khánh (2002), Lịch sử Đảng bộ huyện
Diên Khánh 1954-1975, Cơ sở in chi nhánh NXB CTQG, Nha Trang.
10. Ban Thường vụ Tỉnh đoàn Khánh Hòa (2017), Lịch sử Đoàn TNCS HCM
và phong trào thanh thiếu nhi tỉnh Khánh Hòa (1925-1975), NXB Thanh
Niên, Hà Nội.
11. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Khánh Hòa (1990), Bác Hồ trong lòng dân Khánh
Hòa, In tại Nhà in Cát Thành, Nha Trang.
12. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Khánh Hòa (2009), Tài liệu tuyên truyền 45 năm
phong trào đồng khởi giải phóng một phần nông thôn đồng bằng tỉnh
Khánh Hòa (7/11/1964 - 7/11/2009).
161
13. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Khánh Hòa (2015), 80 năm ngành tuyên giáo
Khánh Hòa (1930-2010), Cơ sở in chi nhánh NXB CTQG, Nha Trang.
14. Biên bản hội thảo Ty Trưởng tiểu học vùng II chiến thuật (28 và 29-11-1968) tại
Nha Trang, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, HS 36, H59.
15. Bộ Quốc Phòng - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) (9 tập), NXB CTQG, Hà Nội.
16. Bộ Tư lệnh Quân khu V - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1999), Một số
kinh nghiệm chỉ đạo chiến tranh nhân dân địa phương ở Khu 5 trong kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), NXB QĐND, Hà Nội.
17. Chỉ huy trưởng Tiểu khu Nha Trang (1955), Công văn số 4029, ngày 3-12-
1955, gửi Tư lệnh Phân khu Duyên hải, Về chiến dịch “vạch mặt Mỹ nô” của
Việt Cộng, Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 2105.
18. Chi khu Cam Lâm (1969), Công văn số 284/CKCL, ngày 3-3-1969, gửi Tiểu
khu trưởng Tiểu khu Khánh Hòa, V/v quân nhân Đại Hàn bắn trọng thương 1
quân nhân Việt Nam, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính,
H17, HS15.
19. Lê Cung (2006), “Phong trào đấu tranh ở đô thị miền Nam Việt Nam năm
1966”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (6), tr.8-12.
20. Lê Cung (2008), Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963, in lần
thứ 4, NXB Thuận Hóa, Huế.
21. Lê Cung (2013), 50 năm nhìn lại phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam
(1963-2013), NXB Đại học Huế.
22. Lê Cung (2014), Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam (1964-1968),
NXB Thuận Hóa, Huế.
23. Lê Cung (chủ biên) (2015), Về phong trào đô thị miền Nam trong kháng chiến
chống Mỹ (1954-1975), NXB Tổng hợp TP HCM.
24. Lê Cung (chủ biên) (2016), 60 năm Phật học viện Hải Đức - Nha Trang
(1956-2016), NXB Tổng hợp TP HCM.
25. Lê Cung, Nguyễn Trung Triều (2016), “Phật học viện Hải Đức Nha Trang với
cuộc vận động của Phật giáo miền Nam năm 1963”, Nghiên cứu Tôn giáo, số
07&08 (157).
162
26. Quỳnh Cư (1980), “Tìm hiểu về ‘đội quân chính trị’ của quần chúng trong
cách mạng miền Nam (1954-1975)”, Nghiên cứu Lịch sử, số 3.
27. Douglas Ramit (2004), Làn gió mát từ thành phố Hồ Chí Minh, NXB Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
28. Lê Duẩn (1976), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ
nghĩa xã hội, tiến lên giành thắng lợi mới, NXB Sự thật, Hà Nội.
29. Đại diện Giáo dục tại TNTP (1961), Công điện số 887/ĐDGD/NA/M, ngày 7-
3-1961, gửi Trưởng Ty Giáo dục Khánh Hòa, Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu:
Tòa ĐBCP tại TNTP 2434.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 15 (1954),
NXB CTQG, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 16 (1955),
NXB CTQG, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 20 (1959),
NXB CTQG, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 23 (1962),
NXB CTQG, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 24 (1963),
NXB CTQG, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 26 (1965),
NXB CTQG, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 28 (1967),
NXB CTQG, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 29 (1968),
NXB CTQG, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 30 (1969),
NXB CTQG, Hà Nội.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 32 (1971),
NXB CTQG, Hà Nội.
163
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 34 (1973),
NXB CTQG, Hà Nội.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 36 (1975),
NXB CTQG, Hà Nội.
42. Trịnh Đạt, Nguyễn Thị Cỏn, Trần Thị Mẹo, Bùi Thị Tư, Võ Học, Lê Thị
Di, Lê Thị Dung, Nguyễn Văn Đay, Trần Đình Khánh (1969), Đơn khiếu
nại, ngày 10-12-1969 gửi Thủ tướng VNCH, Về việc quân đội Đồng minh
xâm chiếm đất đai, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 27988.
43. Trần Bạch Đằng (2005), “Chung một bóng cờ”, Lịch sử Đảng, số 12 (181).
44. Trần Bá Đệ (chủ biên), Lê Cung (2010), Giáo trình Lịch sử Việt Nam, Tập
VII, từ 1954 đến 1975, in lần thứ hai, NXB ĐHSP, Hà Nội.
45. Nguyễn Thị Định (1985), “Đấu tranh chính trị - Một hình thức đấu tranh cơ
bản, một mũi tiến công sắc bén của cách mạng và chiến tranh cách mạng miền
Nam”, Kỷ yếu hội thảo “Nghiên cứu một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ,
cứu nước”, Viện Mác - Lênin, Hà Nội.
46. Gabrien Kolko (1989), Giải phẫu một cuộc chiến tranh, NXB QĐND, Hà Nội.
47. Tuệ Giác (1964), Việt Nam Phật giáo đấu tranh sử, NXB Hoa Nghiêm, Sài Gòn.
48. Võ Nguyên Giáp (2006), Tổng tập luận văn, NXB QĐND, Hà Nội.
49. Trần Văn Giàu (2006), Tổng tập, NXB QĐND, Hà Nội.
50. Trịnh Thị Hồng Hạnh (2010), “Đấu tranh chính trị trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước”, Lịch sử Đảng, số 6.
51. Viết Hảo (2015), “Phá “cánh cửa thép” trên đèo Phượng Hoàng tiến về giải
phóng Nha Trang”, Dantrionline, truy cập ngày 1-4-2015.
52. Vũ Thị Thúy Hiền (2000), “Phụ nữ miền Nam tham gia đấu tranh chính trị
chống chiến lược Chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ (1961-1965)”, Lịch sử
Đảng, số 7.
53. Nguyễn Thị Kim Hoa (2010), Những chuyển biến kinh tế - xã hội ở Khánh Hòa
từ năm 1975 đến 2005, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học KHXH - NV TP HCM.
54. Lê Tài Hoa (1969), Về việc đồng bào Khánh Hòa khiếu nại bị chiếm dụng
đất đai, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 27988.
164
55. Lê Tài Hoa (1970), Về việc đồng bào Khánh Hòa khiếu nại bị chiếm dụng
đất đai chưa được bồi thường, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 27988.
56. Thích Thiện Hoa, “50 năm (1920-1970) chấn hưng Phật giáo Việt Nam”,
Xuất bản trên Internet, truy cập ngày 22-3-2017.
57. Trần Hoài, Lê Cung, Lê Văn Thuyên, Nguyễn Duy Hiền, Nguyễn Xuân Hoa
(2015), Lịch sử phong trào đô thị Huế 1954-1975, NXB Trẻ, TP HCM.
58. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Lịch sử Đảng (1993),
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (2 tập), NXB CTQG, Hà Nội.
59. Hội đồng nhân dân cứu quốc Khánh Hòa (1964), Thông cáo số 21, ngày 21-10-
1964, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS03.
60. Hội LHPN tỉnh Khánh Hòa (1992), Truyền thống cách mạng của phụ nữ
Khánh Hòa (1930-1975), Cơ sở in chi nhánh NXB CTQG, Nha Trang.
61. Hội Tăng già Khánh Hòa (1963), Thư gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, ngày 22-8-
1963, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS04.
62. Hương ước Ấp Cư Thạnh, xã Suối Hiệp, quận Cam Lâm, Chi cục VTLT
Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H02, HS16.
63. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2016), Phong trào công nhân ở các đô thị miền
Nam Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ từ năm 1954 đến năm 1965, Luận
án Tiến sĩ, Trường ĐHSP - Đại học Huế.
64. Trần Thị Lan (2014), Đấu tranh chính trị ở Tây Nguyên trong kháng chiến
chống Mỹ từ năm 1961 đến năm 1968, Luận án Tiến sĩ, Trường ĐHSP - Đại
học Huế.
65. Liên Khu ủy V (1960), Nghị quyết Hội nghị Liên khu ủy mở rộng ngày 4-5-
1960, Kho lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
66. Liên Khu ủy V (1966), Nghị quyết Hội nghị Ban Thường vụ Khu ủy mở
rộng đầu tháng 10-1966, Kho lưu trữ Tỉnh ủy Khánh Hòa.
67. Liên Khu ủy V (1967), Nghị quyết Hội nghị Thường vụ Khu ủy (mở rộng)
tháng 9-1967, Kho lưu trữ Tỉnh ủy Khánh Hòa.
68. Liên Khu ủy V (1968), Nghị quyết Hội nghị Thường vụ Khu ủy (mở rộng)
ngày 22,23-2-1968, Kho lưu trữ Tỉnh ủy Khánh Hòa.
165
69. Liên Khu ủy V (1970), Báo cáo Tổng kết Hội nghị Khu ủy lần thứ 10 (3-
1970), Kho lưu trữ Tỉnh ủy Khánh Hòa.
70. Liên Khu ủy V (1970), Nghị quyết Hội nghị Thường vụ Khu ủy lần thứ 10
(tháng 3-1970), Kho lưu trữ Tỉnh ủy Khánh Hòa.
71. Liên Khu ủy V (1971), Nghị quyết Hội nghị Khu ủy V lần thứ 11 (tháng 7-
1971), Kho lưu trữ Tỉnh ủy Khánh Hòa.
72. Liên Khu ủy V (1971), Tổng kết Hội nghị nổi dậy giành dân nông thôn (từ
15-6 đến 5-7-1971), Kho lưu trữ Tỉnh ủy Khánh Hòa.
73. Liên Khu ủy V (1973), Báo cáo của BCH Đảng bộ Khu V tại Hội nghị đại
biểu Đảng bộ lần thứ 3, Kho lưu trữ Tỉnh ủy Khánh Hòa.
74. Liên Khu ủy V (1974), Nghị quyết Hội nghị Hội nghị Khu ủy lần thứ hai
họp từ ngày 1 đến 12-9-1974, Kho lưu trữ Tỉnh ủy Khánh Hòa.
75. Liên Khu ủy V (1974), Đề cương tổng kết tình hình 20 năm phong trào
cách mạng và cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1974) của quân
và dân khu V, Kho lưu trữ Tỉnh ủy Khánh Hòa.
76. Chu Đình Lộc (2009), “Bàn thêm về một số cuộc đồng khởi ở cực Nam Trung
Bộ 1959-1960”, Nghiên cứu lịch sử, số 8.
77. Chu Đình Lộc (2014), “Đấu tranh chính trị đòi thi hành Hiệp định Genève ở
các tỉnh cực Nam Trung Bộ 1954-1955”, Lịch sử Đảng, số 7.
78. Lực lượng Đặc biệt (1966), Công điện số 096, ngày 4-4-1966, gửi Bộ Tư lệnh
Vùng 2 Chiến thuật, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15706.
79. Lực lượng Phật tử Khánh Hòa (1966), Bản tin số 3, ngày 30-4-1966, Trung
tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 1128.
80. Lực lượng tranh đấu TNSVHS Khánh Hòa (1964), Lời kêu gọi, ngày 12-9-
1964, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS03.
81. Lực lượng tranh đấu TNSVHS Khánh Hòa (1964), Tuyên cáo, ngày 12-9-
1964, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS03.
82. Lực lượng tranh đấu TNSVHS Khánh Hòa (1964), Thông cáo số 6, ngày 14-9-
1964, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS03.
166
83. Lực lượng tranh đấu TNSVHS Khánh Hòa (1964), Thông cáo số 15, ngày 21-10-
1964, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS03.
84. Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Khánh Hòa (1961), Giải Phóng, số 11, ngày 15-
6-1961, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H10, HS12.
85. Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Khánh Hòa (1961), Giải Phóng, số 12, ngày 15-
8-1961, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H10, HS12.
86. Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Khánh Hòa (1961), Giải Phóng, số 14, ngày
11-11-1961, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H10, HS12.
87. Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Khánh Hòa (1962), Bản Tin, số 3 (từ 1-10 đến
20-1-1962), Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H10, HS12.
88. Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Khánh Hòa (1962), Giải Phóng, số 24, ngày
5-9-1962, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H10, HS12.
89. Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Khánh Hòa (1962), Bản Tin Đặc Biệt, ngày 25-
11-1962, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H10, HS12.
90. Hoành Linh Đỗ Mậu (1991), Tâm sự tướng lưu vong (Việt Nam máu lửa
quê hương tôi), NXB Công an Nhân dân, Hà Nội.
91. Giang Nam (2004), Sống và viết ở chiến trường, hồi ký, NXB Hội Nhà văn,
Hà Nội.
92. Giang Nam, Phong Lê (chủ biên) (1989), Nha Trang - Khánh Hòa: 30 năm văn
học yêu nước và cách mạng (1945-1975), Hội VHNT Thành phố Nha Trang.
93. Nha Cảnh sát Quốc gia Nha Trang (1963), Công điện số 467/LV-3-Y, ngày 30-
4-1963, gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa
ĐBCP tại TNTP 2703.
94. Nha Cảnh sát và Công an Quốc gia Trung Việt (1955), Công văn số
2799/CSCA/TBI/M. ngày 25-4-1955, gửi Đại biểu Chính phủ tại Trung Việt,
Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H4, HS05.
95. Nha Cảnh sát và Công an Quốc gia Trung Việt (1955), Công văn số
2881/CSCA/TB1/M, ngày 29-4-1955, gửi Đại biểu Chính phủ tại Trung Việt,
Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H4, HS05.
167
96. Nha Cảnh sát và Công an Quốc gia Trung Việt (1955), Công văn số
7019/CSCA/ TBI.M, ngày 8-9-1955, gửi Đại biểu Chính phủ tại Trung Việt,
V/v truyền đơn và biểu ngữ của Việt Minh ở Khánh Hòa, Chi cục VTLT
Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H4, HS05.
97. Nha Cảnh sát và Công an Quốc gia Trung Việt (1955), Công văn số
8075/CSCA/TBI.M, ngày 4-10-1955, gửi Giám đốc Nha Cảnh sát và Công
an Quốc gia tại Trung Việt, “Tổ đổi công” của Việt Cộng, Trung tâm
LTQG IV, Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 2105.
98. Nha Cảnh sát và Công an TNTP (1956), Công văn số 1461/CACS/B1.M,
ngày 16-2-1956, gửi Tổng Giám đốc Cảnh sát và Công an, Mặt trận Tổ
quốc của Việt Cộng tại Khánh Hòa, Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa
ĐBCP tại TNTP 2434.
99. Nha Cảnh sát và Công an TNTP (1956), Công văn số 2806/CSCA/TBI.M,
ngày 17-3-1956, V/v bắt một tổ chức Cộng sản tại Nha Trang, Trung tâm
LTQG IV, Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 1650.
100. Nha Cảnh sát và Công an TNTP (1960), Công văn số 2213/CSCA/TBI/M,
ngày 29-3-1960, gửi Tổng Giám đốc Cảnh sát và Công an Việt Nam Cộng
hòa (Sở Trung ương Tình bào), V/v đồng bào Thượng bỏ làng ra đi, Trung
tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 2434.
101. Nha Cảnh sát và Công an TNTP (1960), Công văn số 3413/CSCA/TBI.M1,
ngày 11-5-1960 gửi Tổng Giám đốc Cảnh sát và Công an VNCH, Về hoạt
động của Việt Cộng ở miền thượng du Diên Khánh, Trung tâm LTQG IV, Ký
hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 2434.
102. Nha Cảnh sát và Công an TNTP (1961), Công điện số 646/BNV/CT/16/M,
ngày 8-4-1961, gửi Đại biểu Chính phủ tại TNTP, Trung tâm LTQG IV, Ký
hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 2434.
103. Nha Cảnh sát và Công an Trung Việt (1956), Công văn số 2849/CSCA/TBI/M,
ngày 16-10-1956, gửi Đại biểu Chính phủ tại TNTP, V/v đấu tranh để đưa cán
bộ cộng sản vào guồng máy hành chính của ta, Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu:
Tòa ĐBCP tại TNTP 2105.
168
104. Nha Cảnh sát và Công an Trung Việt (1956), Công văn số 14664/CSCA/TBI/M,
ngày 28-11-1956, gửi Đại biểu Chính phủ tại TNTP, V/v bắt Trương Huyền
Quang - Giám đốc Học đường Thương nghiệp ở Nha Trang, Trung tâm LTQG
IV, Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 1773.
105. Nha Cảnh sát Quốc gia Miền Nam TNTP (1963), Công văn số 670
CSQG/MN/TNTP/C/TM, ngày 24-10-1963, gửi Đại biểu Chính phủ tại TNTP,
Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 2610.
106. Nha Giám đốc Trung Việt (1954), Hồ sơ ngày 24-8-1954, gửi Đại biểu
Chính phủ tại Trung Việt, Về 2 trung đội Nghĩa Dũng Đoàn thuộc Tiểu
đoàn 32 náo loạn Tỉnh đường Khánh Hòa, gửi Đại biểu Chính phủ tại TNTP,
Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 1935.
107. Nha Giám đốc Trung Việt (1956), Công văn số 1930/CSCA/TBI.M, ngày 2-
2-1956, gửi Tổng Giám đốc Cảnh sát và Công an, Về âm mưu phá hoại của
Việt Cộng sau khi tên Hồ Duy Khoan hoạt động trong Mặt trận Tổ quốc,
Trung tâm LTQG, Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 1935.
108. Nha Giám đốc Trung Việt (1956), Công văn số 1798/CSCA.TBI.M, ngày 21-
2-1956, gửi Tổng Giám đốc Cảnh sát và Công an, Về kinh nghiệm đấu tranh
chống âm mưu phản động hóa bộ máy hành chính của địch, Trung tâm
LTQG IV, Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 1935.
109. Nha Giám đốc Trung Việt (1956), Công văn số 1341-VP/M, ngày 28-3-1956,
gửi Tổng Giám đốc Cảnh sát và Công an, Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu:
Tòa ĐBCP tại TNTP 1935.
110. Nha Giám đốc Trung Việt (1956), Công văn số 8168/CSCA/TBI/M, ngày 10-
7-1956, gửi Tổng Giám đốc Cảnh sát và Công an, V/v ông Trương Huỳnh và
bà Nguyễn Thị Hợi khiếu oan cho hai con là Trương Thị Tú và Trương Thị
Truyện bị bắt, Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 1650.
111. Nha Nội an (1966), Công văn số 677-TBAN/NA/CTM/M, ngày 31-8-1966, gửi
Thiếu tướng Tổng ủy viên Thông tin chiêu hồi, Chi cục VTLT Khánh Hòa,
Ký hiệu: Tòa Hành chính, H14, HS03.
112. Nha Tổng giám đốc CSQG (1963), Tờ trình, ngày 20-8-1963, V/v Ni cô Diệu
Quang tự hỏa thiêu tại Ninh Hòa, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa
Hành chính, H13, HS04.
169
113. Nha Tổng giám đốc CSQG (1964), Công văn số 17025/TCSQG/CSTP/9, ngày
1-6-1964, V/v điều tra tên Võ Sĩ hoạt động kinh tài cho Ngô Đình Cẩn, Chi
cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu; Tòa hành chính, H4, HS14.
114. Nha Tổng giám đốc CSQG (1965), Công điện số 738/L6/B, ngày 25-1-1965,
gửi Bộ Nội vụ, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 29547.
115. Nha Tổng Giám đốc CSGQ (1965), Công điện số 1081/F7/C, ngày 11-2-1965,
gửi Bộ Nội vụ, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu : PTTg 29547.
116. Nha Tổng Giám đốc CSQG (1965), Công văn số 3733/F7/C, ngày 11-5-
1965, gửi Bộ Nội vụ, V/v Phật tử Nguyễn Thanh Liêm tự thiêu, Trung tâm
LTQG II, Ký hiệu: PTTg 29531.
117. Hoài Phong (2008), Hồi ức một thời, quyển 1, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
118. Hoài Phong (2014), Hồi ức một thời, quyển 2, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
119. Phân khu Duyên Hải (1956), Công văn số 107/PKHD/P2/M, ngày 26-1-1956,
Về buổi họp của Liên hiệp Nghiệp đoàn, Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu:
PTTg 2703.
120. Phật học viện Hải Đức Nha Trang (1973), Đặc san Đuốc thiêng Hoà Bình,
Phật học viện xuất bản.
121. Phật học viện Hải Đức Nha Trang (2012), Kỷ yếu Về cội - Kỷ niệm 55 năm ngày
thành lập Phật học viện Trung Phần (1957-2012), NXB Tổng hợp TP HCM.
122. Phủ Thủ tướng VNCH (1955), Công văn số 126-PTT/DL/M, ngày 14-4-1955,
gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu: PTTg 2778.
123. Phủ Tổng thống VNCH (1960), Công điện đi số 319/TTP/60/M, ngày 16-5-
1960, gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 1132.
124. Phủ Tổng thống VNCH (1960), Công điện đi số 062/VP/BT, gửi Bộ Nội vụ
ngày 17-5-1960, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 1132.
125. Nguyễn Văn Quang (2005), “Người nước ngoài tìm lời giải cho thất bại của
Mỹ trong chiến tranh Việt Nam”, Lý luận Chính trị, số 4.
126. Quận trưởng Diên Khánh (1956), Tờ trình số 160/DK/HC, ngày 26-7-1956,
gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Về sự bại lộ công tác địch vận của Việt Cộng,
Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 2334.
170
127. Quận trưởng Diên Khánh (1971), Công văn số 4809/NA-CT2, ngày 20-5-1971,
gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành
chính, H127, HS 06.
128. Quận trưởng Ninh Hòa (1956), Công văn số 2217/VP.M, ngày 19-7-1956,
gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành
chính, H02, HS15.
129. Quận trưởng Cam Lâm (1959), Công văn số 1286-VP/ĐHC, ngày 13-4-1959,
gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành
chính, H4, HS05.
130. Quận trưởng Cam Lâm (1964), Công văn số 1330/VPM, ngày 10-10-1964. V/v
Hội đồng nhân dân cứu quốc quận Cam Lâm tổ chức mít tinh để ra mắt đồng
bào, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS03.
131. Quận trưởng Vạn Ninh (1969), Công văn số 094/VP/CT/M, ngày 2-6-1969,
gửi Đại đức Thích Thiện Lương - Trú trì chùa Phật giáo Vạn Ninh, Chi cục
VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính H17, HS15.
132. Quận trưởng Vĩnh Xương (1961), Công văn số 1015/VP/M, ngày 4-11-1961,
gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Về việc Việt Cộng thả chim bồ câu mang cờ tại
xã Vĩnh Phước, Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 2609.
133. Quận trưởng Vĩnh Xương (1965), Công văn số 152/VP/M, ngày 26-1-1965,
gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, V/v việc một Ni cô dự định tự thiêu, Chi cục
VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H14, HS04.
134. Quận trưởng Vĩnh Xương (1966), Công văn số 331/VP/M, ngày 25-8-1966,
gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, V/v âm mưu hoạt động của một nhóm người
chống phá cuộc bầu cử Quốc hội, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa
Hành chính, H14, HS03.
135. Quốc gia Việt Nam (1955), Công văn số 1901-BNV/HC/M, ngày 16-8-1955,
gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Về việc thiết lập Hội đồng hương chính, Chi cục
VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H4, HS05.
136. Quốc trưởng Việt Nam (1955), Sắc lệnh số 232-QP, ngày 4-7-1955, sửa đổi
Sắc lệnh số 152-QP, ngày 13-5-1955, V/v thiết lập một Tòa án Quân sự tại
Nha Trang, Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 2334.
171
137. Robert S.McNamara (1995), Nhìn lại quá khứ, tấn thảm kịch và những bài
học về Việt Nam, NXB CTQG, Hà Nội.
138. Sở GDĐT Khánh Hòa (2015), Vai trò của giáo dục cách mạng ở Khánh
Hòa trong đấu tranh giải phóng dân tộc, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Lịch
sử Giáo dục cách mạng ở Khánh Hòa giai đoạn 1945-1975”.
139. Quách Tấn (2002), Xứ Trầm hương, Xí nghiệp In Số 5 (PX3), TP HCM.
140. Thanh tra Hành chánh (1963), Phúc trình về các điểm khiếu nại của Phật
giáo tại tỉnh Khánh Hòa và Bình Định, ngày 22-7-1963, gửi Bộ Nội vụ, Trung
tâm LTQG II, Ký hiệu: ĐNCH, HS 8521.
141. Đoàn Thêm (1968), 1968 - Việc từng ngày: Chính trị, quân sự, kinh tế, tài
chính, văn hóa, xã hội, quốc tế, tài liệu công bố trên internet, truy cập ngày
18-5-2017.
142. Thị trưởng Cam Ranh (1966), Công điện số 715-CR/NA/78/83, ngày 11-6-
1966, gửi Đổng lý Văn phòng Bộ Nội vụ, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu:
PTTg 15706.
143. Thị trưởng Nha Trang (1956), Công văn sô 34-VP/M, ngày 7-1-1956, gửi
Đại biểu Chánh phủ tại Trung Việt, V/v đề phòng và đối phó hoạt động của
Việt Cộng, Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 2105.
144. Thị trưởng Nha Trang (1971), Công văn số 4223-NA/CT2, ngày 3-5-1971, gửi
Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành
chính, H172, HS06.
145. Hà Văn Thịnh (1988), “Tìm hiểu tôn giáo ở Phú Khánh dưới ảnh hưởng
của chủ nghĩa thực mới của đế quốc Mỹ”, Bản lưu tại Ban Tuyên giáo Tỉnh
ủy Khánh Hòa.
146. Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Bảo an 38 (1963), Công văn số 1251/BA/KCT31
/TDD38/TB/M, ngày 5-6-1963, gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, V/v đồng bào
Phật giáo diễu hành, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính,
H13, HS04.
147. Tiểu khu trưởng Tiểu khu Khánh Hòa (1963), Thông cáo số 306/TKKH/3, ngày
22-8-1963, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS04.
172
148. Tỉnh đoàn Công dân vụ Khánh Hòa (1963), Báo cáo ngày 2-4-1963, gửi Tỉnh
trưởng Khánh Hòa, Sơ kết công tác đã thực hiện tại 3 ACL Cự Thạnh, Phú
Hậu và Bắc Vĩnh quận Cam Lâm, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa
Hành chính, H13, HS04.
149. Tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa (1963), Công văn số 307 PG/KH, ngày 4-6-
1963, gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, V/v Tuyệt thực của chư Tăng, Ni, Chi cục
VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS04.
150. Tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa (1963), Công văn số 339 PG/KH/HC, ngày 26-
6-1963, gửi toàn thể Tăng Ni, quý Ban trị sự Phật giáo đồ trong tỉnh, Về việc
lễ tụng niệm cầu nguyện tại chùa và các Khuôn hội, Chi hội, Chi cục VTLT
Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS04.
151. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1954), Công văn số 296, ngày 26-6-1954 gửi Thủ
hiến Trung Việt, Về việc các nghiệp đoàn hội họp, Trung tâm LTQG IV, Ký
hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 2703.
152. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1954), Công văn số 518-VP/M, ngày 10-9-1954, gửi
Đại biểu Chính phủ tại Trung Việt, Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa
ĐBCP tại TNTP 2703.
153. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1955), Công văn số 270/TPC, ngày 10-3-1955, gửi
Đại diện Tổng ủy phủ di cư Trung Việt tại Huế, Chi cục VTLT Khánh Hòa,
Ký hiệu: Tòa Hành chính, H02, HS15.
154. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1956), Hồ sơ ngày 18-2-1956, gửi Đại biểu Chính
phủ tại Trung Việt, Về vụ biểu tình lên Ủy hội Quốc tế kiểm soát đình chiến,
Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 1650.
155. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1956), Công văn số 422-VP, ngày 18-2-1956, gửi
Đại tá Tư lệnh Phân khu Duyên Hải, Chỉ huy trưởng Tiểu khu Nha Trang...,
V/v mít tinh để cựu cán bộ Việt Cộng ly khai Đảng Cộng sản, Chi cục
VTLT Khánh Hòa,, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H02, HS15.
156. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1956), Công văn số 847-VP, ngày 7-4-1956, gửi
Bộ trưởng Bộ Thông tin và Thanh niên, Số cán bộ Việt Cộng bị bắt và cách
đối xử với họ, Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 1650.
173
157. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1957), Số 101/TC, Báo cáo tháng 4-1957, gửi
Chủ tịch Hội đồng Nhân dân chỉ đạo chiến dịch tố Cộng Trung ương,
Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 2609.
158. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1957), số 1568/VP/TC/M, Báo cáo tháng 5-1957,
gửi Chủ tịch Hội đồng Nhân dân chỉ đạo chiến dịch tố Cộng Trung ương,
Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 2609.
159. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1957), Tờ trình số 1740-VP.DHC/M, ngày 25-5-
1957, Về tình hình lập trại định cư Văn Thủy, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký
hiệu: Tòa Hành chính H42, HS31.
160. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1957), Kế hoạch số 393/BAT/KH/BTT/M, ngày 1-
7-1957, V/v đối phó với âm mưu của Việt Cộng nhân dịp 20-7-1957 sắp tới,
Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H6, HS12.
161. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1957), Công văn số 2425/VP/CTM, ngày 21-8-
1957, gửi Bộ Nội vụ, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính,
H6, HS12.
162. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1957), Công văn số 2601-VP/CT/M, ngày 5-9-
1957, gửi Bộ Nội vụ, Chủ trương và kế hoạch của Việt Cộng trong giai
đoạn hiện tại, Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 2609.
163. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1957), Công văn số 2769/VP/CT/M, ngày 20-9-
1957, gửi Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Chuyển hướng hoạt động của Việt Cộng,
Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 2609.
164. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1957), Báo cáo số 4110/VP/CT/M, ngày 15-11-
1957, gửi Bộ trưởng Nội vụ, Tổng quát về vụ khám phá một tổ chức quan
trọng của Việt Cộng tại Cam Lâm, Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa
ĐBCP tại TNTP 2609.
165. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1958), Công văn số 581/TP/M, ngày 30-1-1958, gửi
Giám đốc Nha Cảnh sát và Công an Cộng hòa Việt Nam tại Trung Nguyên
Trung Phần, Đề nghị giáo hóa 3 cán cứu chính trị, gửi Bộ trưởng Nội vụ,
Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 1748.
166. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1959), Công văn ngày 22-8-1959, V/v đề phòng
Việt Cộng hoạt động phá hoại bầu cử Quốc hội, Chi cục VTLT Khánh Hòa,
Ký hiệu: Tòa Hành chính, H05, HS05.
174
167. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1960), Công văn số 530/VPCTM, ngày 20-2-1960,
gửi Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Tình hình quận Cam Lâm, Trung tâm LTQG IV,
Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 2609.
168. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1960), Công văn số 3299-VP/CT.M, ngày 21-2-
1960, gửi Bộ trưởng Nội vụ, Tình hình vùng Tô Hạp (quận Cam Lâm) và
Kà Thêu (quận Diên Khánh), Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại
TNTP 2609.
169. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1960), Công văn số 3513-VP/CTM, ngày 25-2-
1960, gửi Bộ trưởng Nội vụ, V/v Việt Cộng treo cờ và rải truyền đơn, Trung
tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 2609.
170. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1960), Công văn số 616-VP/M, ngày 23-3-1960,
gửi Bộ trưởng Nội vụ, Về hoạt động của Việt Cộng tại Thượng du, Trung
tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 2609.
171. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1960), Công văn số 911-VP/TD, ngày 24-3-1960,
gửi Tỉnh trưởng Ninh Thuận, Tuyên Đức, Đắk Lắk, V/v đề phòng tiếp tế cho
cán bộ Việt Cộng ẩn núp tại Thượng du, Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu:
Tòa ĐBCP tại TNTP 2609.
172. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1960), Mật điện đến số 062/VP/BT, ngày 17-5-
1960, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 29547.
173. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1960), Công văn số 3649-VP/CTM, ngày 4-11-
1960, gửi Đại biểu Chính phủ tại Trung Nguyên Trung Phần, Hoạt động
Việt Cộng tại vùng Thượng du quận Diên Khánh, Trung tâm LTQG IV, Ký
hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 2609.
174. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1960), Công văn số 3741-VP/CTM, ngày 15-11-
1960, gửi Đại biểu Chính phủ tại Trung Nguyên Trung Phần, V/v Việt Cộng
về phá rối làng Thượng du Thạch Trại, Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa
ĐBCP tại TNTP 2609.
175. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1960), Công văn số 3862-VP/CTM, ngày 24-11-
1960, gửi Bộ trưởng Nội vụ, V/v Việt Cộng phá rối tại làng Tà Dục, Trung
tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 2609.
175
176. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1960), Công văn số 4200-VP/CTM, ngày 22-12-
1960, gửi Bộ trưởng Nội vụ, Việt Cộng rải truyền đơn tại Ninh Hưng, Trung
tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 2609.
177. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1961), Kế hoạch số 4.578-NA/CT/1M, ngày 22-11-
1961, gửi Quận trưởng trong tỉnh, V/v thi hành việc lập Ấp chiến lược, Trung
tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 7664.
178. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1962), Quyết định số 810-NA/CT/1, ngày 23-2-
1962, Về việc thiết lập Ủy ban Xây dựng ACL, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu:
PTTg 7664.
179. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1963), Công điện số 789/VP/M, ngày 13-6-1963,
gửi Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành
chính, H13, HS04.
180. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1963), Công điện số 1901/VP/M, ngày 27-6-1963, gửi
Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Về “Bức thư gửi bạn phương xa ký tên Nữ sĩ Hoàng
Thành”, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS04.
181. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1963), Thông cáo số 10.491-CT/1, ngày 29-7-1963,
Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS04.
182. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1963), Công điện số 1077/VP/M, ngày 16-8-1963,
gửi Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành
chính, H13, HS04.
183. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1963), Công văn số 2524/CT/1M, ngày 21-8-1963,
gửi Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành
chính, H13, HS04.
184. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1963), Công văn (chép tay), ngày 11-11-1963, gửi
Tư lệnh Vùng II Chiến thuật, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa
Hành chính, H5, HS11.
185. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1964), Quyết định số 76/NA/ĐT, ngày 5-1-1964, Chi
cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS03.
186. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1964), Công văn số 1187/NA/NT/M, ngày 11-5-1964,
gửi Bộ Nội vụ, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS03.
176
187. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1964), Công điện số 485/VP/M, ngày 12-9-1964,
gửi Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nội vụ,... Trung tâm LTQG II, Ký hiệu:
PTTg 15651.
188. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1964), Công điện số 486/VP/M, ngày 12-9-1964,
gửi Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nội vụ,... Trung tâm LTQG II, Ký hiệu:
PTTg 15651.
189. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1964), Công điện số 1228/VP/TR, ngày 20-9-1964,
gửi Thủ tướng Chính phủ, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15651.
190. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1964), Công văn số 3614/NA/CT/2M, gửi Thủ
tướng Chính phủ, Bộ Nội vụ,... Về tình hình tổng quát tại tỉnh Khánh Hòa
quanh biến cố ngày 13-9-1964, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15651.
191. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1964), Công điện số 616/VP/M, ngày 21-10-1964, gửi
Bộ Nội vụ,... Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS03.
192. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1965), Công điện số 27/NA/CT/2M, ngày 12-1-
1965, gửi Bộ Nội vụ, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15651.
193. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1965), Công điện số 63/VP/M, ngày 23-1-1965,
gửi Bộ Nội vụ, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15651.
194. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1965), Công điện số 64/VP/M, ngày 25-1-1965,
gửi Bộ Nội vụ, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15651.
195. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1965), Công điện số 66/VP/M, ngày 26-1-1965,
gửi Bộ Nội vụ, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15651.
196. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1965), Công điện số 68/VP/M, ngày 26-1-1965, Chi
cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H14, HS04.
197. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1965), Công điện số 029/VP/M, ngày 28-1-1965,
gửi Phủ Thủ tướng, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính,
H14, HS04.
198. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1965), Các vấn đề trọng yếu và khẩn thiết tại địa
phương, Tài liệu đệ trình đại Hội nghị toàn quốc ngày 15-3-1965, Chi cục
VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H15, HS03.
199. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1966), Công điện số 139/NA/CT/2M, ngày 26-3-
1966, gửi Bộ Nội vụ, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15706.
177
200. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1966), Công điện số 144/NA/2M, ngày 29-3-1966,
gửi Bộ Nội vụ, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15706.
201. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1966), Công điện số 154/NA/CT/2M, ngày 5-4-1966,
gửi Bộ Nội vụ, Trung tâm LTQG II, Tp. HCM, Ký hiệu PTTg 15706
202. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1966), Công điện số 156/NA/CT/2M, ngày 6-4-
1966, gửi Bộ Nội vụ, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15706.
203. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1966), Công điện số 159/NA/CT2/M., ngày 6-4-
1966, gửi Bộ Nội vụ, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15706.
204. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1966), Công điện số 172/NA/CT2/M, ngày 12-4-1966,
Tư lệnh Vùng 2 chiến thuật, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15706.
205. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1966), Công điện số 177/NA/CT2/M, ngày 15-4-
1966, gửi Bộ Nội vụ, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15706.
206. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1966), Công điện số 219/NA/CT/2/M, ngày 16-4-
1966, gửi Bộ Nội vụ, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15706.
207. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1966), Công điện số 644/NA/CT/M, ngày 16-4-
1966, gửi Bộ Nội vụ, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15706.
208. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1966), Công điện số 154/NA/CT/2M, ngày 4-5-
1966, gửi Bộ Nội vụ, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15706.
209. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1966), Công điện số 270/NA/CT2/M, ngày 6-6-
1966, gửi Bộ Nội vụ, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15706.
210. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1966), Tường trình ngày 18-6-1966, gửi Bộ Nội
vụ, Về diễn biến tình hình an ninh chính trị tại tỉnh Khánh Hòa từ 15-3 đến
..., Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15706.
211. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1967), Hồ sơ ngày 1-3-1967, gửi Thiếu tướng Tư
lệnh Vùng II Chiến thuật, Về chương trình lập ấp năm 1967, Chi cục VTLT
Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H15, HS03.
212. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1969), Công điện số 174/NA/CT2M, ngày 28-5-
1969, gửi Bộ Nội vụ, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính
H17, HS15.
178
213. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1971), Thông cáo thượng khẩn số 814/NA/CT, ngày
25-1-1971, gửi Đài phát thanh Nha Trang, Ty Thông tin Khánh Hòa,... Chi
cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H172, HS06.
214. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1971), Thông cáo số 4049/NA/CT, ngày 29-4-1971,
gửi Đài phát thanh Nha Trang, Ty Thông tin Khánh Hòa,... Chi cục VTLT
Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H127, HS06.
215. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1971), Công điện số 56/NA/CT2-M, ngày 21-6-
1971, gửi các quận trong tỉnh, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa
Hành chính, H172, HS06.
216. Tỉnh trưởng Khánh Hòa (1972), Thông cáo số 4137/NA/CT/TX/1, ngày 18-4-
1972, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H172, HS06.
217. Tỉnh ủy Khánh Hòa (1956), Hội nghị Tỉnh ủy tháng 2-1956, Kho lưu trữ
Tỉnh ủy Khánh Hòa.
218. Tỉnh ủy Khánh Hòa (1956), Nghị quyết Hội nghị Tỉnh ủy tháng 8-1956,
Kho lưu trữ Tỉnh ủy Khánh Hòa.
219. Tỉnh ủy Khánh Hòa (1956), Nội dung quyết nghị cuộc hội nghị Tỉnh ủy
Khánh Hòa hạ tuần tháng 9-1956, Kho lưu trữ Tỉnh ủy Khánh Hòa.
220. Tỉnh ủy Khánh Hòa (1958), Nghị cuộc hội nghị Tỉnh ủy Khánh Hòa tháng
9-1958, Kho lưu trữ Tỉnh ủy Khánh Hòa.
221. Tỉnh ủy Khánh Hòa (1963), Báo cáo tình hình năm 1963, Kho lưu trữ Tỉnh
ủy Khánh Hòa.
222. Tỉnh ủy Khánh Hòa (1965), Báo cáo tình hình 6 tháng đầu năm 1965, Kho
lưu trữ Tỉnh ủy Khánh Hòa.
223. Tỉnh ủy Khánh Hòa (1967), Nghị quyết mở rộng phong trào đồng bằng, Kho
lưu trữ Tỉnh ủy Khánh Hòa.
224. Tỉnh ủy Khánh Hòa (1967), Nghị quyết Hội nghị Thường vụ Tỉnh ủy mở
rộng (10 đến 12-10-1967), Kho lưu trữ Tỉnh ủy Khánh Hòa.
225. Tỉnh ủy Khánh Hòa (1968), Nghị quyết Hội nghị Thường vụ Tỉnh ủy, ngày
15-2-1968, Phòng Lưu trữ Tỉnh ủy Khánh Hòa.
226. Tỉnh ủy Khánh Hòa (1968), Nghị quyết Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng lần thứ
VII, ngày 15-7-1968, Kho lưu trữ Tỉnh ủy Khánh Hòa.
179
227. Tỉnh ủy Khánh Hòa (1968), Báo cáo tổng kết của Tỉnh ủy Khánh Hòa khóa
1965-1968, Kho lưu trữ Tỉnh ủy Khánh Hòa.
228. Tỉnh ủy Khánh Hòa (1969), Nghị quyết Hội nghị Thường vụ mở rộng, ngày
25-3-1969, Kho Lưu trữ Tỉnh ủy Khánh Hòa.
229. Tỉnh ủy Khánh Hòa (1970), Dự thảo tổng kết tình hình các mặt công tác từ
tháng 1-1969 đến 6-1970, Kho lưu trữ Tỉnh ủy Khánh Hòa.
230. Tỉnh ủy Khánh Hòa (1970), Nghị quyết Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng tháng
12-1970, Kho lưu trữ Tỉnh ủy Khánh Hòa.
231. Tỉnh ủy Khánh Hòa (1971), Tổng kết tình hình 6 tháng đầu năm 1971, Kho
lưu trữ Tỉnh ủy Khánh Hòa.
232. Tỉnh ủy Khánh Hòa (1971), Nghị quyết Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng tháng 7-
1971, Kho lưu trữ Tỉnh ủy Khánh Hòa.
233. Tỉnh ủy Khánh Hòa (1971), Nghị quyết Đại hội Tỉnh Đảng bộ tháng 10-
1971, Kho lưu trữ Tỉnh ủy Khánh Hòa.
234. Tỉnh ủy Khánh Hòa (1971), Báo cáo tổng kết của Tỉnh ủy 1968-1971, Kho
lưu trữ Tỉnh ủy Khánh Hòa.
235. Tỉnh ủy Khánh Hòa (1972), Báo cáo 6 tháng đầu năm 1972, Kho lưu trữ
Tỉnh ủy Khánh Hòa.
236. Tỉnh ủy Khánh Hòa (1973), Nghị quyết Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng từ ngày
1 đến 4-4-1973 (sau 8 ngày chỉnh huấn), Kho lưu trữ Tỉnh ủy Khánh Hòa.
237. Tỉnh ủy Khánh Hòa (1973), Nghị quyết Đại hội Đại biểu lần thứ VII từ 4
đến 8-10-1973, Kho lưu trữ Tỉnh ủy Khánh Hòa.
238. Tòa Đại biểu Chính phủ tại Trung Việt (1954), Công văn số 1992 VP.CT/M,
ngày 23-9-1954, V/v về việc truy tố Nghĩa Dũng quân thuộc Tiểu đoàn 32 nổi
loạn tại Tỉnh đường Khánh Hòa trước Tòa Quân sự pháp đình, Trung tâm
LTQG IV, Ký hiệu: Tòa ĐBCP, hồ sơ số 2786.
239. Tòa Đại biểu Chính phủ Trung Việt (1956), Công văn số 2/62, ngày 18-5-
1956, gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa
ĐBCP, hồ sơ số 2786.
240. Tòa Hành chính tỉnh Khánh Hòa (1963), Biên bản hội nghị, ngày 5-6-1963,
Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS04.
180
241. Tòa Hành chính tỉnh Khánh Hòa (1963), Biên bản hội nghị, ngày 12-6-1963,
Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS04.
242. Tòa Thị chính Cam Ranh (1968), Báo cáo số 320-CR/NA/M, ngày 1-8-
1968, gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Về vấn đề Khu phố Cam Ranh, Trung
tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 996.
243. Tổng Nha CSQG (1965), Công điện số 738/L6/B, ngày 25-1-1965, gửi Bộ Nội
vụ, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15706.
244. Tổng trấn Nha Trang (1966), Thông cáo số 3, ngày 4-4-1966, Trung tâm
LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15706.
245. Tổng trấn Nha Trang (1966), Thông cáo số 5, ngày 5-4-1966, Trung tâm
LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15706.
246. Tổng trấn Nha Trang (1966), Thông cáo số 6, ngày 5-4-1966, Trung tâm
LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15706.
247. Tổng trấn Nha Trang (1966), Thông cáo số 7, ngày 5-4-1966, Trung tâm
LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15706.
248. Tổng trấn Nha Trang (1966), Thông cáo số 8, ngày 6-4-1966, Trung tâm
LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15706.
249. Tổng trấn Nha Trang (1966), Công điện số 026/BCH/TT/NTG, ngày 6-4-
1966, gửi Bộ Tư lệnh Vùng II Chiến thuật, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu:
PTTg 15706.
250. Tổng trấn Nha Trang (1966), Thông cáo số 10, ngày 9-4-1966, Trung tâm
LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15706.
251. Tổng trấn Nha Trang (1966), Công điện số 40/BCH/TT/NTG, ngày 14-4-1966,
gửi Bộ Tư lệnh Vùng II Chiến thuật, Trung tâm LTQG, Tp. HCM, Ký hiệu
PTTg 15706
252. Tổng trấn Nha Trang (1966), Thông cáo, ngày 2-5-1966, Trung tâm LTQG
II, Ký hiệu: PTTg 15706.
253. Tổng trấn Nha Trang (1966), Mật điện số 088/TT/NTG, ngày 3-5-1966, gửi
Bộ Tư lệnh Vùng II Chiến thuật, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu PTTg 15706.
254. Tổng trấn Nha Trang (1966), Mật điện số 121/TT/NTG, ngày 21-5-1966, gửi
Bộ Tư lệnh Vùng II Chiến thuật, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15706.
181
255. Tổng trấn Nha Trang (1966), Mật điện số 122/TT/NTG, ngày 23-5-1966, gửi
Bộ Tư lệnh Vùng II Chiến thuật, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15706.
256. Tổng trấn Nha Trang (1966), Mật điện số 125/TT/NTG, ngày 24-5-1966, gửi
Bộ Tư lệnh Vùng II Chiến thuật, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15706.
257. Tổng trấn Nha Trang (1966), Mật điện số 143/BCH/TT/NTG, ngày 6-6-
1966, gửi Bộ Tư lệnh Vùng II Chiến thuật, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu:
PTTg 15706.
258. Tổng trấn Nha Trang (1966), Công điện số 149/TT/VP, ngày 9-6-1966, gửi
Bộ Tư lệnh Vùng II Chiến thuật, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15706.
259. Trung tâm Dân ý vụ Khánh Hòa (1969), Số 1100/DYV/KH/BC, Báo cáo hàng
tháng từ 1 đến 31-8-1969, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành
chính, H15, HS03.
260. Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự Bộ Quốc phòng (1996), Từ điển
Bách khoa quân sự Việt Nam, NXB QĐND, Hà Nội.
261. Nguyễn Văn Tự (2012), Ba lần gắn tôi với phong trào nội thành - Thời gian
tham gia chỉ đạo tổ chức Sao Việt (hồi ký), Bản chép tay.
262. Ty Công an tỉnh Khánh Hòa (1957), Tờ trình số 1300/VP/M, ngày 19-3-
1957, gửi Giám đốc Nha CSCA TNTP, Về hoạt động của địch và ta từ 16-2-
1957 đến 15-3-1957, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính,
H3, HS06.
263. Ty Công an tỉnh Khánh Hòa (1957), Tờ trình số 2559, ngày 17-5-1957, gửi
Giám đốc Nha CSCA TNTP, Về hoạt động của địch và ta từ 16-4-1957 đến 15-
5-1957, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H3, HS06.
264. Ty CSQG Khánh Hòa (1963), Công văn số 4599/C3.M, ngày 17-5-1963, gửi
Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Về dự định của Phật giáo Nha Trang, Chi cục
VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS04.
265. Ty CSQG Khánh Hòa (1963), Công văn số 4641/C2.M, ngày 18-5-1963, gửi
Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Về diễn biến tình hình Phật giáo, Chi cục VTLT
Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS04.
182
266. Ty CSQG Khánh Hòa (1963), Công điện số 4648/LV/3/Y, ngày 18-5-1963,
gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành
chính, H13, HS04.
267. Ty CSQG Khánh Hòa (1963), Công văn số 4992/C2.M, ngày 29-5-1063, gửi
Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Về nhận xét tình hình Phật giáo, Chi cục VTLT
Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS04.
268. Ty CSQG Khánh Hòa (1963), Công văn số 5102/C2.M, ngày 31-5-1963, gửi
Tỉnh trưởng Khánh Hòa, V/v diễn tiến của tình hình Phật giáo, Chi cục
VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS04.
269. Ty CSQG Khánh Hòa (1963), Công điện mang tay số 5124/C2.M, ngày 1-6-
1963, gửi Tòa Hành chính tỉnh Khánh Hòa, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký
hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS04.
270. Ty CSQG Khánh Hòa (1963), Công điện số 5133/C2.M, ngày 1-6-1963, gửi
Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Tường trình về cuộc biểu tình của Phật giáo, Chi
cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS04.
271. Ty CSQG Khánh Hòa (1963), Công văn số 5137/C2.M, ngày 2-6-1963, gửi
Tình trưởng Khánh Hòa, V/v tường trình cuộc biểu tình của Phật giáo ngày 2-
6-1963, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS04
272. Ty CSQG Khánh Hòa (1963), Công văn số 5661/C2/M, ngày 17-6-1963, gửi
Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Trình về Chỉ thị đặc biệt của Tổng Nha, Chi cục
VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS04
273. Ty Công an Khánh Hòa (1963), Công văn số 6276/C2/M, ngày 2-7-1963, gửi
Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Về lễ cầu siêu của THPG Khánh Hòa, Chi cục
VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS04.
274. Ty CSQG Khánh Hòa (1963), Công văn số 10027/C2.M, ngày 25-10-1963,
gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Về việc một số học sinh chủ trương gây tiếng nổ,
Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS04.
275. Ty CSQG Khánh Hòa (1963), Công văn số 10150/C2.M, ngày 30-10-1963,
gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Về việc học sinh phổ biến ca dao phản động, Chi
cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS04.
183
276. Ty CSQG Khánh Hòa (1964), Công văn số 2244/ST.KH, ngày 2-3-1964, gửi
Giám đốc Nha CSQG miền Nam TNTP, V/v phúc trình điều tra đơn của
Nguyễn Văn Minh tố giác một số đảng viên Cần lao đầu sỏ, tàn ác tại Khánh
Hòa, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS03.
277. Ty CSQG Khánh Hòa (1964), Công văn số 3526/U5.M, ngày 1-4-1964, gửi
Giám đốc Nha CSQG miền Nam TNTP, V/v phúc điều tra ông Trương Mỹ Trí
nhân viên Chi CSQG quận Diên Khánh, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu:
Tòa Hành chính, H4, HS14.
278. Ty CSQG Khánh Hòa (1964), Công văn số 5009/U5.M, ngày 12-5-1964, gửi
Giám đốc Nha CSQG miền Nam TNTP, V/v phúc trình điều tra đơn của 15
công dân tố cáo một số công chức tỉnh Khánh Hòa đàn áp Phật giáo đồ, Chi
cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H4, HS14.
279. Ty CSQG Khánh Hòa (1964), Công văn số 7693/U5.M, ngày 6-7-1964, gửi
Giám đốc Nha CSQG miền Nam TNTP, V/v phúc trình điều tra ông Hoàng
Đình Giang, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H4, HS14.
280. Ty CSQG Khánh Hòa (1965), Tài liệu về diễn biến phong trào Phật giáo
1964-1965, gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu:
Tòa Hành chính, H14, HS04.
281. Ty CSQG Khánh Hòa (1967), Báo cáo hàng tháng (từ 25-7 đến 24-8-1967),
gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành
chính, H15, HS 03.
282. Ty CSQG Khánh Hòa (1968), Báo cáo hàng tháng (từ 25-12-1967 đến 24-1-
1968), gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa
Hành chính, H17, HS15.
283. Ty CSQG Khánh Hòa (1968), Báo cáo hàng tháng (từ 25-1 đến 24-2-1968),
gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành
chính, H17, HS15.
284. Ty CSQG Khánh Hòa (1968), Báo cáo hàng tháng (từ 25-4 đến 24-5-1968),
gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành
chính, H17, HS15.
184
285. Ty CSQG Khánh Hòa (1968), Báo cáo hàng tháng (từ 25-5 đến 25-6-1968),
gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành
chính, H17, HS15.
286. Ty CSQG Khánh Hòa (1968), Báo cáo hàng tháng (từ 25-11 đến 24-12-1968)
gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành
chính, H17, HS15.
287. Ty CSQG Khánh Hòa (1969), Công văn số 20841/CSQG/KH, ngày 20-10-
1969, gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, V/v 3 quân nhân thuộc cơ quan an ninh
Đại Hàn xâm nhập Chi Y tế Khánh Hòa bất hợp pháp, Chi cục VTLT Khánh
Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính H17, HS15.
288. Ty CSQG Khánh Hòa (1969), Báo cáo tháng 10-1969, gửi Tỉnh trưởng Khánh
Hòa, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính H17, HS15.
289. Ty CSQG Khánh Hòa (1970), Báo cáo tháng 9-1970, gửi Tỉnh trưởng Khánh
Hòa, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính H17, HS15.
290. Ty Kinh xã Khánh Hòa (1965), Tình hình kinh tế tỉnh Khánh Hòa, Chi cục
VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H93, HS16.
291. Ty Thông tin Khánh Hòa (1956) Báo cáo số 2582/CDTC, ngày 16-10-1956,
gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, Tổng kết Chiến dịch tố Cộng giai đoạn 1, Chi
cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H02, HS15.
292. Ty Thông tin Khánh Hòa (1963), Công văn số 177/TT/KH/HC/M, ngày 24-
6-1963, gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, V/v gây ảnh hưởng vụ hỏa thiêu tại Sài
Gòn, Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H02, HS15.
293. Ty Thông tin Khánh Hòa (1965), Kế hoạch số 14/TTKH/KH/M, ngày 22-1-
1965, gửi các Trưởng chi Thông tin trong tỉnh, Chống Việt Cộng âm mưu
sách động công nhân xí nghiệp và đồn điền biểu tình đấu tranh trực diện, Chi
cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H15, HS03.
294. Ty Thông tin Khánh Hòa (1968), Kế hoạch số 44/TT/TLC/KH/M, ngày 23-7-
1968, gửi các Trưởng chi Thông tin, Chống Việt Cộng phá hoại quân dịch,
Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H15, HS03.
185
295. Ty Thông tin Khánh Hòa (1969), Công văn số 242/TTKH/KH, ngày 28-3-
1969, gửi các Trưởng chi Thông tin trong tỉnh, V/v đả phá luận điệu tuyên
truyền của Cộng sản cho rằng Hoa Kỳ có thể phản bội VNCH, Chi cục VTLT
Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H15, HS03.
296. Ủy ban Bình định Trung ương (1964), Công văn số 0660/BĐTƯ/TTK/TV/NC,
ngày 5-4-1964, gửi Tỉnh trưởng các tỉnh, Tài liệu dẫn giải về Ấp Tân sinh, Chi
cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H93, HS16.
297. Ủy ban Đại biểu Chính phủ tại Trung Việt (1955), Công văn số 54-
VP/CT/M, ngày 5-1-1955, gửi Giám đốc Nha Cảnh sát và Công an Quốc
gia Trung Việt, Về hoạt động chính trị của đối phương tại Khánh Hòa,
TTLTQGIV, Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 2105.
298. Ủy bản Điều tra tài sản và tội ác Khánh Hòa (1964), Hồ sơ số
1160/UBĐT/HS/TC, ngày 15-3-1-64, gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, V/v ông Lý
Huệ Hoành, số 98 Quốc lộ I Nha Trang tố cáo ông Hoàng Đình Giang, Chi
cục VTLT, Ký hiệu: Tòa hành chính, H12, HS16.
299. Ủy ban Điều tra tội ác và tài sản Khánh Hòa (1964), Tờ trình gửi Tỉnh trưởng
Khánh Hòa, Về việc tổng kết hồ sơ của Ủy ban Điều tra, Chi cục VTLT
Khánh Hòa, H13, HS03.
300. Ủy ban Điều tra tội ác và tài sản Khánh Hòa (1964), Công văn số
52/UBĐT/VPĐD/KH, gửi Tỉnh trưởng Khánh Hòa, V/v liệt kê tài sản của gia
đình họ Ngô và bè lũ tại Khánh Hòa, Chi cục VTLT Khánh Hòa, H13, HS03.
301. Ủy ban Liên bộ đặc trách ACL (1963), Công văn số 0671/LB/ACL/TTK/TV,
ngày 26-2-1963, gửi Tỉnh trưởng các tỉnh, V/v Việt Cộng chủ trương đánh phá
ACL, Chi cục VTLT, Ký hiệu: Tòa hành chính, H12, HS10.
302. Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Khánh Hòa (1962), Hiệu triệu chống
phá quốc sách ACL và các âm mưu gian ác khác của Mỹ - Diệm, Chi cục
VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H10, HS12.
303. Ủy ban Mặt trân Tổ quốc tỉnh Khánh Hòa (1956), Truyền đơn ngày 24-2-
1956, TTLTQG IV, Ký hiệu: Tòa ĐBCP tại TNTP 1650.
304. Viện Lịch sử Đảng (2002), Khu VI kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-
1975), NXB CTQG, Hà Nội.
186
305. Viện Sử học (2017), Lịch sử Việt Nam, (tái bản lần thứ nhất), NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
306. Việt Nam Cộng hòa (1968), Địa phương chí tỉnh Khánh Hòa, Thư viện tỉnh
Khánh Hòa, Ký hiệu: Phòng Địa chí 004264.
307. Việt Nam Cộng hòa (1974), Địa phương chí thị xã Nha Trang, Thư viện
tỉnh Khánh Hòa, Ký hiệu: Phòng Địa chí 004264.
308. Việt Nam Cộng hòa (1975), Địa phương chí tỉnh Khánh Hòa, Thư viện tỉnh
Khánh Hòa, Ký hiệu: Phòng Địa chí 004264.
309. Võ phòng Phủ Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương (1966), Phiếu trình số
172/UBHP/VoP/QV/2, ngày 1-4-1966 gửi Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung
ương, V/v tỉnh Khánh Hòa xin chỉ thị thi hành biện pháp đối phó với các cuộc biểu
tình muốn chiếm Đài Phát thanh, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15706.
310. Vùng II Chiến thuật (1965), Công điện số 0111/51, ngày 9-1-1965, gửi Thủ
tướng VNCH, Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 29547.
Tiếng Anh
311. Jerrold Schecter (1967), The New Face of the Buddha, John Weatherhill, Tokyo.
312. Stanley Karnow (1983), Vietnam, A History - The First Complete Account of
Vietnam at War, Viking Press, New York.
Nhân chứng
313. Giang Nam, nguyên Phó ban Tuyên huấn tỉnh Khánh Hòa những năm 1954-
1962, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa những năm 1989-1993. Hiện tại ở
46 Yersin, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
314. Trần Viết Ngạc, nguyên Ủy viên Ban Cứu trợ nạn nhân chiến tranh thuộc Bộ
Giáo dục VNCH kiêm phụ trách báo chí của Viện Hóa Đạo, Tổng hội Phật giáo
Việt Nam. Hiện tại ở 280 An Dương Vương, phường 4, quận 5, TP HCM.
315. Hoài Phong, nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Thị ủy Nha Trang, cán bộ nội
thị những năm 1963-1968. Hiện tại ở tổ 5, ấp 2, xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh
Cửu, tỉnh Đồng Nai.
316. Lê Quý, cơ sở nội thị Nha Trang những năm 1964-1975. Hiện tại ở 64 Nhị
Hà, phường Phước Hải, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
317. Nguyễn Đắc Xuân, sinh viên Viện Đại học Huế những năm 1961-1966. Hiện
tại ở 3/7 Nguyễn Công Trứ, phường Phú Hội, TP. Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Lược đồ tổ chức hành chính Khánh Hòa dưới chính quyền cách mạng
thời điểm năm 1968 ................................................................................................. P1
Phụ lục 2: Lược đồ tổ chức hành chính Khánh Hòa dưới chính quyền Sài Gòn thời
điểm năm 1970 ........................................................................................................ P2
Phụ lục 3: Công văn số 3729/PI-M, ngày 27-8-1954 của Giám đốc địa phương Sở
Cảnh sát và Công an Quốc gia tại Trung Việt gửi Đại biểu Chính phủ tại Trung Việt,
“V/v 2 Trung đội Nghĩa Dũng Đoàn kéo đến trước Tỉnh đường Khánh Hòa để đòi
lương bổng”. ........................................................................................................... P3
Phụ lục 4: Sắc lệnh số 232-QP, ngày 4-7-1955 của Quốc trưởng Việt Nam sửa đổi Sắc
lệnh số 152-QP, ngày 13-5-1955, “V/v thiết lập một Tòa án Quân sự tại Nha Trang” .. . P5
Phụ lục 5: Công văn số 422-VP, ngày 18-2-1956 của Tỉnh trưởng Khánh Hòa gửi
Đại tá Tư lệnh Phân khu Duyên Hải, Trung tá Chỉ huy trưởng Tiểu khu Nha Trang,
Về việc “Mít tinh để cựu cán bộ Việt Cộng ly khai Đảng Cộng sản”. .................. P6
Phụ lục 6: Công văn số 8168/CSCA/TBI/M, ngày 10-7-1956 của Giám đốc Nha
Cảnh sát và Công an Cộng hòa Việt Nam tại Trung Việt gửi Thiếu tướng Tổng
Giám đốc Cảnh sát và Công an Cộng hòa Việt Nam (Sở Trung ương Tình báo),
“V/v ông Trương Huỳnh và bà Nguyễn Thị Hợi khiếu kiện cho 2 con là Trương Thị
Tú và Trương Thị Truyện bị bắt”. .......................................................................... P7
Phụ lục 7: Công văn số 2217/VP.M, ngày 19-7-1956 của Phủ trưởng Ninh Hòa gửi
Tỉnh trưởng tỉnh Khánh Hòa. .................................................................................. P9
Phụ lục 8: Công văn số 14664/CSCA/TBI/M, ngày 28-11-1956 của Giám đốc Nha
Cảnh sát và Công an Cộng hòa Việt Nam tại Trung Việt gửi Đại biểu Chính phủ tại
Trung Nguyên Trung Phần, “V/v bắt Trương Huyền Quang, Giám đốc Học đường
Thương nghiệp ở Nha Trang”. .............................................................................. P10
Phụ lục 9: Công văn số 4110/VP/CT/M, ngày 15-11-1957 của Tỉnh trưởng
Khánh Hòa gửi Bộ trưởng Bộ Nội vụ (Ngành Nội an), “Tổng quát về vụ khám
phá một tổ chức quan trọng của Việt Cộng tại Cam Lâm”. .............................. P12
Phụ lục 10: Trang đầu Báo Giải Phóng - Cơ quan thông tin tuyên truyền của Mặt
trận Dân tộc Giải phóng tỉnh Khánh Hòa, số 12, ra ngày 15-8-1961. .............. P15
Phụ lục 11: Biên bản “Hội nghị bất thường để bàn về việc đối phó về vụ hỏa thiêu
của Tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa tổ chức” tại Tòa Hành chính tỉnh Khánh Hòa
ngày 12-6-1963. .................................................................................................... P16
Phụ lục 12: Công văn số 2244/ST.KH, ngày 2-3-1964 của Thiếu tá, Trưởng Ty
Cảnh sát Quốc gia Khánh Hòa gửi Giám đốc Nha Cảnh sát Quốc gia Miền Nam Trung
Nguyên Trung Phần tại Nha Trang, “V/v phúc đơn điều tra của Nguyễn Văn Minh tố
giác một số đảng viên Cần lao đầu sỏ, tàn ác tại tỉnh Khánh Hòa”. ....................... P19
Phụ lục 13: Phiếu trình Thủ tướng, ngày 1-10-1964 của Đổng lý Văn phòng Phủ
Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa, “V/v tình hình tổng quát tỉnh Khánh Hòa quanh
biến cố ngày 13-9-1964”. ..................................................................................... P24
Phụ lục 14: Công điện số 27/NA/CT/2M, ngày 12-1-1965 của Tỉnh trưởng
Khánh Hòa gửi Bộ Nội vụ, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng... ................................... P27
Phụ lục 15: Bản chép lại Bức Huyết thư của Hồ Kim Tuấn, ngày 25-1-1965. .... P28
Phụ lục 16: Sao y nguyên bản viết tay Thư của Đào Thị Yến Phi gửi Thủ tướng
Trần Văn Hương, ngày 26-1-1965. ....................................................................... P29
Phụ lục 17: Tường trình của Tỉnh trưởng Khánh Hòa, “Diễn biến tình hình an ninh
chính trị tại tỉnh Khánh Hòa từ ngày 15-3-1966 đến....”. ..................................... P30
Phụ lục 18: Công điện số 715-CR/NA/78/83, ngày 11-6-1966 của Thị trưởng
Cam Ranh gửi Đổng lý Văn phòng Bộ Nội vụ, Tư lệnh Vùng 2 Chiến thuật kiêm
Đại biểu Chánh phủ. ............................................................................................. P34
Phụ lục 19: Một số hình ảnh về đấu tranh chính trị ở Khánh Hòa trong kháng chiến
chống Mỹ (1954-1975). .......................................................................................... P35
Phụ lục 20: Tác giả và ông Giang Nam, nguyên Phó ban Tuyên huấn tỉnh
Khánh Hòa những năm 1954-1962, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa những
năm 1989-1993. ................................................................................................... P37
Phụ lục 21: Tác giả và ông Hoài Phong, nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Thị ủy
Nha Trang, cán bộ nội thị những năm 1963-1968. ............................................... P38
Phụ lục 22: Tác giả và ông Lê Quý, cơ sở nội thị Nha Trang những năm 1964-1975. .... P39
P1
Phụ lục 1: Lược đồ tổ chức hành chính Khánh Hòa dưới chính quyền cách mạng
thời điểm năm 1968
Nguồn: Tác giả
P2
Phụ lục 2: Lược đồ tổ chức hành chính Khánh Hòa dưới chính quyền Sài Gòn thời
điểm năm 1970
Nguồn: Tác giả
P3
Phụ lục 3: Công văn số 3729/PI-M, ngày 27-8-1954 của Giám đốc địa phương Sở
Cảnh sát và Công an Quốc gia tại Trung Việt gửi Đại biểu Chính phủ tại Trung
Việt, “V/v 2 Trung đội Nghĩa Dũng Đoàn kéo đến trước Tỉnh đường Khánh Hòa để
đòi lương bổng”.
Nguồn: Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa Đại biểu Chính phủ, hồ sơ số 2786.
P4
P5
Phụ lục 4: Sắc lệnh số 232-QP, ngày 4-7-1955 của Quốc trưởng Việt Nam sửa đổi Sắc
lệnh số 152-QP, ngày 13-5-1955, “V/v thiết lập một Tòa án Quân sự tại Nha Trang”.
Nguồn: Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa Đại biểu Chính phủ tại TNTP 2334.
P6
Phụ lục 5: Công văn số 422-VP, ngày 18-2-1956 của Tỉnh trưởng Khánh Hòa gửi
Đại tá Tư lệnh Phân khu Duyên Hải, Trung tá Chỉ huy trưởng Tiểu khu Nha Trang,
Về việc “Mít tinh để cựu cán bộ Việt Cộng ly khai Đảng Cộng sản”.
Nguồn: Chi cục VTLT Khánh Hòa,, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H02, HS15.
P7
Phụ lục 6: Công văn số 8168/CSCA/TBI/M, ngày 10-7-1956 của Giám đốc Nha
Cảnh sát và Công an Cộng hòa Việt Nam tại Trung Việt gửi Thiếu tướng Tổng
Giám đốc Cảnh sát và Công an Cộng hòa Việt Nam (Sở Trung ương Tình báo),
“V/v ông Trương Huỳnh và bà Nguyễn Thị Hợi khiếu kiện cho 2 con là Trương Thị
Tú và Trương Thị Truyện bị bắt”.
Nguồn: Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa Đại biểu Chính phủ tại TNTP 1650.
P8
P9
Phụ lục 7: Công văn số 2217/VP.M, ngày 19-7-1956 của Phủ trưởng Ninh Hòa gửi
Tỉnh trưởng tỉnh Khánh Hòa.
Nguồn: Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H02, HS15.
P10
Phụ lục 8: Công văn số 14664/CSCA/TBI/M, ngày 28-11-1956 của Giám đốc Nha
Cảnh sát và Công an Cộng hòa Việt Nam tại Trung Việt gửi Đại biểu Chính phủ tại
Trung Nguyên Trung Phần, “V/v bắt Trương Huyền Quang, Giám đốc Học đường
Thương nghiệp ở Nha Trang”.
Nguồn: Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa Đại biểu Chính phủ tại TNTP 1773.
P11
P12
Phụ lục 9: Công văn số 4110/VP/CT/M, ngày 15-11-1957 của Tỉnh trưởng Khánh
Hòa gửi Bộ trưởng Bộ Nội vụ (Ngành Nội an), “Tổng quát về vụ khám phá một tổ
chức quan trọng của Việt Cộng tại Cam Lâm”.
Nguồn: Trung tâm LTQG IV, Ký hiệu: Tòa Đại biểu Chính phủ tại TNTP 2609.
P13
P14
P15
Phụ lục 10: Trang đầu Báo Giải Phóng - Cơ quan thông tin tuyên truyền của Mặt
trận Dân tộc Giải phóng tỉnh Khánh Hòa, số 12, ra ngày 15-8-1961.
Nguồn: Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H10, HS12.
P16
Phụ lục 11: Biên bản “Hội nghị bất thường để bàn về việc đối phó về vụ hỏa thiêu
của Tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa tổ chức” tại Tòa Hành chính tỉnh Khánh Hòa
ngày 12-6-1963.
Nguồn: Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS04.
Ký hiệu: Tòa Hành chính, H10, HS12.
P17
P18
P19
Phụ lục 12: Công văn số 2244/ST.KH, ngày 2-3-1964 của Thiếu tá, Trưởng Ty
Cảnh sát Quốc gia Khánh Hòa gửi Giám đốc Nha Cảnh sát Quốc gia Miền Nam
Trung Nguyên Trung Phần tại Nha Trang, “V/v phúc đơn điều tra của Nguyễn Văn
Minh tố giác một số đảng viên Cần lao đầu sỏ, tàn ác tại tỉnh Khánh Hòa”.
Nguồn: Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H13, HS03.
Ký hiệu: Tòa Hành chính, H10, HS12.
P20
P21
P22
P23
P24
Phụ lục 13: Phiếu trình Thủ tướng, ngày 1-10-1964 của Đổng lý Văn phòng Phủ Thủ
tướng Việt Nam Cộng hòa, “V/v tình hình tổng quát tỉnh Khánh Hòa quanh biến cố ngày
13-9-1964”.
Nguồn: Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15651.
Ký hiệu: Tòa Hành chính, H10, HS12.
P25
P26
P27
Phụ lục 14: Công điện số 27/NA/CT/2M, ngày 12-1-1965 của Tỉnh trưởng Khánh
Hòa gửi Bộ Nội vụ, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng...
Nguồn: Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15651.
P28
Phụ lục 15: Bản chép lại Bức Huyết thư của Hồ Kim Tuấn, ngày 25-1-1965.
Nguồn: Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15651.
P29
Phụ lục 16: Sao y nguyên bản viết tay thư của Đào Thị Yến Phi gửi Thủ tướng
Trần Văn Hương, ngày 26-1-1965.
Nguồn: Chi cục VTLT Khánh Hòa, Ký hiệu: Tòa Hành chính, H14, HS04.
P30
Phụ lục 17: Tường trình của Tỉnh trưởng Khánh Hòa, “Diễn biến tình hình an ninh
chính trị tại tỉnh Khánh Hòa từ ngày 15-3-1966 đến....”.
Nguồn: Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15706.
P31
P32
P33
P34
Phụ lục 18: Công điện số 715-CR/NA/78/83, ngày 11-6-1966 của Thị trưởng Cam
Ranh gửi Đổng lý Văn phòng Bộ Nội vụ, Tư lệnh Vùng 2 Chiến thuật kiêm Đại
biểu Chánh phủ.
Nguồn: Trung tâm LTQG II, Ký hiệu: PTTg 15706.
P35
Phụ lục 19: Một số hình ảnh về đấu tranh chính trị ở Khánh Hòa trong kháng
chiến chống Mỹ (1954-1975).
Nguồn: Chi cục VTLT Khánh Hòa.
Nhân dân Khánh Hòa biểu tình chống dư đảng Cần lao, chống độc tài năm 1964
Nhân dân Khánh Hòa tuần hành tưởng niệm Đào Thị Yến Phi và đòi Trần Văn Hương
từ chức năm 1965
P36
Nhân dân Khánh Hòa biểu tình đòi thành lập chính phủ dân sự năm 1966
Nhân dân Khánh Hòa biểu tình chống chính quyền Nguyễn Văn Thiệu năm 1967
P37
Phụ lục 20: Phỏng vấn ông Giang Nam, nguyên Phó ban Tuyên huấn tỉnh Khánh
Hòa những năm 1954-1962, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa những năm
1989-1993.
Nguồn: Tác giả
P38
Phụ lục 21: Phỏng vấn ông Hoài Phong, nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Thị ủy
Nha Trang, cán bộ nội thị những năm 1963-1968.
Nguồn: Tác giả
P39
Phụ lục 22: Phỏng vấn ông Lê Quý, cơ sở nội thị Nha Trang những năm 1964-1975.
Nguồn: Tác giả