mot phuong phap giao duc moi

132

Upload: tuduypham

Post on 18-Jan-2016

30 views

Category:

Documents


0 download

DESCRIPTION

MỘT PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC MỚILÀM THẾ NÀO ĐỂ HIỂU TÂM LÝ TRẺ(Comment Connaître Votre Enfant)Rose Vincent, thạc sĩRoger Muchielli, thạc sĩNgười dịch: Phan MậtNhà xuất bản: Anh Vũ, 1974

TRANSCRIPT

Page 1: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi
Page 2: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

MỘT PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC MỚI LÀM THẾ NÀO ĐỂ HIỂU TÂM LÝ TRẺ

(Comment Connaître Votre Enfant)

Rose Vincent, thạc sĩ Roger Muchielli, thạc sĩ

Người dịch: Phan Mật

Nhà xuất bản: Anh Vũ, 1974

Page 3: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Đây là cuốn sách không thể thiếu trong mọi gia đình. Tác giả – hai giáo sư thạc sĩ – đã phân biệt giúp chúng ta những đối tượng trẻ em khác nhau và trình bày từng đặc tính của mỗi loại trẻ để mỗi gia đình có thể căn cứ vào nét mặt, hình dáng, chữ viết và cung cách sinh hoạt của các em mà phân định bản chất, ý hướng, khả năng, hầu giúp cho sự uốn nắn các em và sự hướng dẫn nghề nghiệp [cho] các em được thuận lợi. Các vấn đề về tính tình, [trí] thông minh, xung đột gia đình, bệnh trạng tâm lý, mặc cảm, chọn nghề được tác giả diễn tả một cách cụ thể, khoa học. Quyển sách hữu ích và lý thú này sẽ đem lại nhiều thay đổi tốt đẹp trong gia đình và góp phần đáng kể trong việc cải thiện sinh hoạt.

Page 4: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

MỤC LỤC TỰA ........................................................................................................................................... 1 LỜI NÓI ĐẦU ........................................................................................................................... 2 PHẦN THỨ NHẤT. CON BẠN LÀ AI? .................................................................................. 3 CHƯƠNG 1. HAI CUỘC KHỦNG HOẢNG TĂNG TRƯỞNG LỚN .................................... 3

Trẻ con dưới tám tuổi ............................................................................................................ 3 Khúc quanh tám tuổi ............................................................................................................. 5 Cuộc khủng hoảng của tuổi dậy thì ....................................................................................... 8

CHƯƠNG 2. CÁ TÍNH CỦA TRẺ ......................................................................................... 11 PHẦN THỨ HAI. NHỮNG TÍNH TÌNH KHÁC NHAU ...................................................... 15 CHƯƠNG 1. NHỮNG YẾU TỐ TẠO NÊN TÍNH TÌNH ..................................................... 15

Làm thế nào khám phá tính nhạy cảm? ............................................................................... 16 Làm thế nào nhận xét hoạt động tính? ................................................................................ 23 Làm thế nào thẩm định khả năng thích ứng ........................................................................ 33

CHƯƠNG 2. MẤY LỜI CHỈ DẪN TRƯỚC KHI NHẬN DIỆN TỪNG TRẺ ...................... 54 CHƯƠNG 3. TRẺ THẦN KINH (LE NERVEUX) ................................................................. 55 CHƯƠNG 4. TRẺ ĐA CẢM (LE SENTIMENTAL) ............................................................... 60 CHƯƠNG 5. TRẺ DỊ NỘ (LE COLERIQUE) ........................................................................ 65 CHƯƠNG 6. TRẺ ĐAM MÊ (LE PASSIONNÉ) .................................................................... 70 CHƯƠNG 7. TRẺ ĐA HUYẾT (LE SANGUIN) .................................................................... 73 CHƯƠNG 8. TRẺ TRẦM TĨNH (LE FLEGMATIQUE) ........................................................ 77 CHƯƠNG 9. TRẺ LÂM BA (LE LYMPHATIQUE) ............................................................... 80 CHƯƠNG 10. TRẺ BẤT ĐỘNG (L’APATHIQUE) ............................................................... 84 PHẦN THỨ BA. TRÌNH ĐỘ TRÍ TUỆ VÀ NHỮNG TRẮC NGHIỆM TRÍ THÔNG MINH ................................................................................................................ 86 CHƯƠNG 1. TRẺ CÓ THÔNG MINH KHÔNG? ................................................................. 86 CHƯƠNG 2. TÍNH TÌNH VÀ THÔNG MINH ...................................................................... 91 CHƯƠNG 3. TRẺ DĨNH NGỘ, TRẺ TRUNG BÌNH VÀ TRẺ CHẬM TIẾN ..................... 93 PHẦN THỨ TƯ. CÁ TÍNH CỦA TRẺ [ĐƯỢC] CẤU TẠO NHƯ THẾ NÀO? NHỮNG ẢNH HƯỞNG NGOẠI LAI .................................................................................... 97 CHƯƠNG 1. HOÀN CẢNH VÀ CÂU CHUYỆN CỦA TRẺ ............................................... 97 CHƯƠNG 2. NHỮNG XUNG ĐỘT TRONG GIA ĐÌNH ................................................... 100 CHƯƠNG 3. KHÁM PHÁ MẶC CẢM CỦA TRẺ .............................................................. 108 PHẦN THỨ NĂM. VẤN ĐỀ HƯỚNG NGHIỆP CON BẠN SẼ CHỌN NGHỀ GÌ?......... 111 CHƯƠNG 1. TẠI SAO NGƯỜI TA THƯỜNG LẦM LẪN? .............................................. 112 CHƯƠNG 2. MỘT SỰ LỰA CHỌN HỢP LÝ ..................................................................... 115

Đời sống nghề nghiệp phải thích hợp với tính tình ........................................................... 116 Trí thông minh chỉ rõ trình độ nghề nghiệp ...................................................................... 125 Công việc chọn nghề còn được chính xác hơn nhờ biết chú trọng thị hiếu của trẻ .......... 127

o0o

Page 5: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

TỰA Ở Việt Nam, sách giáo dục nhi đồng không hiếm. Một số soạn theo quan điểm giáo dục thời xưa, nội dung không khác mấy nội dung một cuốn sách giảng dạy luân lý, đạo đức dành cho người lớn. Vài tác phẩm quan tâm đúng đắn hơn được xây dựng trên nguyên tắc đường lối giáo dục trẻ con phải thuận theo tâm lý nhi đồng, đây là một tiến bộ đáng ghi nhận. Nhưng tâm lý trẻ con không phải là một thực thể thuần nhất. Nói chung, trẻ con hiếu động, vui tính, ngây thơ, cởi mở… nhưng không phải trẻ nào cũng thế. "Trong một cụm rừng, không chiếc lá nào giống chiếc lá nào". Nhận xét này có thể áp dụng cho loài người nói chung; riêng đối với trẻ con, là một lực lực đang tiến hóa, nhận xét này lại càng chính xác hơn nữa. Thực ra, trẻ con có em hiếu động, nhưng cũng có em thích yên lặng; có em cởi mở, nhưng cũng có em kín đáo, dè dặt; có em mau thích ứng với hoàn cảnh, có em chậm làm quen với người và vật quanh mình; có em thông minh, có em tối dạ… thật là mỗi em một vẻ, mỗi người một mặt. Như vậy, không thể có một lối giáo dục chung cho tất cả các em, mà mỗi trẻ cần được hướng dẫn theo năng khiếu, tính tình cá biệt của nó. Trẻ đang đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời, cần chọn một nghề mưu sinh. Đã đành nghề nghiệp là một phương tiện sinh sống, tuy nhiên nghề nghiệp có hợp năng khiếu, tính tình thì công việc mới dễ thành tựu, và người ta mới dễ tìm thấy hạnh phúc. Một trẻ hiếu động, có khiếu tháo vát, có óc thực tế, thích sống tự do, khoáng đạt, nay bắt nó làm nghề cạo giấy trong một công sở, suốt ngày giam mình trong bốn bức tường chật hẹp thì chắc chắn sẽ buồn chán, hiệu năng kém sút thảm thương; cũng như một đứa trẻ thông minh, thành thực nhưng dè dặt, kín đáo, có năng khiếu nghiên cứu, tìm tòi, thích làm việc trong một khung cảnh trầm lặng mà chọn lầm ngành thương mại là nghề đòi hỏi một trí óc thực tế, vụ lợi, giao thiệp rộng, xoay xở nhanh thì có lẽ trẻ ấy sẽ thất bại trên đường sự nghiệp. Như thế, cá nhân chịu thiệt thòi mà xã hội cũng mất mát. Làm sao hiểu rõ tính tình, năng khiếu của trẻ để giáo dục hữu hiệu, nghĩa là phát huy những năng khiếu, tài bồi những thiên tư của trẻ, đồng thời chọn nghề thích hợp cho nó? Để đáp ứng nguyện vọng của các bậc phụ huynh, các nhà giáo dục, chúng tôi xin cống hiến sách này vốn là một công trình nghiên cứu, tham khảo, kết hợp với những kinh nghiệm về tâm lý nhi đồng của hai học giả Tây phương. Dịch sách này chúng tôi không thể không gặp vài khó khăn về hình thức. Bạn đọc cũng hiểu Việt ngữ hiện nay chưa có đầy đủ danh từ triết học – mặc dù có vay mượn ở Hán văn – nhất là những danh từ trừu tượng, để diễn tả một cách rất chính xác bao nhiêu trạng thái tế nhị trong tâm tưởng. Dịch giả cố khắc phục khó khăn đó để những kiến thức về tâm lý học được diễn tả rõ ràng, phổ cập, đồng thời nội dung ý nghĩa của nguyên tác vẫn được tôn trọng. Có vài sắc thái tính tình, vài mẫu trắc nghiệm chi tiết rườm rà cần bỏ qua [đã được lược bỏ], ngoài ra nội dung tất cả chương mục trong nguyên tác vẫn giữ nguyên vẹn. Chúng tôi mong rằng sách này sẽ bổ khuyết được những thiếu sót hiện hữu, mở ra một đường lối giáo dục hữu hiệu, ven quén mầm non dân tộc nẩy nở tốt tươi. Saigon, mùa hạ năm Giáp Dần, 1974 Phan Mật

1

Page 6: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

LỜI NÓI ĐẦU Đối với sự giáo dục trẻ con, chúng ta ai cũng có ít nhiều ý kiến. Những ý kiến đó có thể là những lý thuyết hợp lý, cũng có thể là những quan niệm sai lầm. Bởi vì ông cụ thân sinh của bạn ngày trước là một ông cha nghiêm khắc nên bạn tin tưởng dạy con thì phải theo đường lối chuyên chế, độc tài. Hoặc ngược lại, do một sự phản ứng bắt nguồn từ sự chống đối buổi thiếu thời, chúng ta muốn cung cấp cho con cái mọi thứ mà chúng ta đã chịu thiếu thốn lúc trước, cho chúng hưởng đủ mọi tiện nghi vật chất, cố tránh cho chúng những khó nhọc, vất vả. Có kẻ chống đối bất cứ sự giáo dục, uốn nắn nào và chủ trương trẻ con phải được tự do sinh trưởng. Đây là một thuyết cần được xét lại. Có lẽ người ta quên rằng con trẻ giống như cây cối tăng trưởng khác nhau tùy theo ánh sáng, đồ ăn, khí hậu được hấp thụ. Dầu chúng ta có chủ trương không uốn nắn, rèn tập con cái để cho nó tự nhiên khôn lớn, nó cũng không thoát khỏi gương của chúng ta, không vượt ra ngoài bầu không khí gia đình nhuần thắm tâm não của nó. Dù muốn dù không, chỉ sống chung với trẻ chúng ta đã phát triển nơi chúng những khả năng này hơn là những khả năng khác, và chúng ta phải mang trách nhiệm là một người làm vườn giỏi hay là người làm vườn bất lực. Một người làm vườn giỏi biết rằng hoa tiên nhân thảo cần ánh nắng mới nở đỏ đẹp và cây tử dương hoa vươn lên tươi tốt nếu được trồng trong đất mùn. Người làm vườn thạo nghề biết rõ nhu cầu của mỗi thứ hoa, mỗi loại cây. Tại sao chúng ta, người làm vườn của trẻ, chúng ta chịu thỏa mãn với những lý thuyết suông, những ý kiến tổng quát? Đứa trẻ chúng ta dạy dỗ không giống như các trẻ khác trong đàn trẻ, đó là trẻ của chúng ta, độc nhất, không trẻ nào thay thế được, sự chăm sóc đối với trẻ của chúng ta chỉ thích hợp với riêng nó mà thôi. Bạn có thể nghĩ: "Trẻ con cần được độc lập". Có đúng cho tất cả trẻ con hay là chỉ đúng với riêng con của bạn mà thôi? Bạn nói: "Con trẻ thỉnh thoảng đét vào mông nào có hại". Bạn có chắc vậy không, nếu con bạn là một trẻ hay tự ái và dễ dàng chống đối? Thực ra, trừng phạt bằng roi đối với trẻ này thì hay nhưng với trẻ khác lại có hại. Do đó, cần phải biết trẻ. Biết trẻ, hiểu trẻ, sách này muốn giúp bạn làm việc đó. Nó không có tham vọng là một cuốn sách tâm lý học. Nó chỉ muốn trình bày một số quy tắc thực tế rút tỉa trong những kết quả khảo cứu mới nhất, có ích lợi cho cuộc sống hàng này. Ngoài ra, tác giả còn đưa ra những mẫu trắc nghiệm phần nhiều chưa công bố, muốn áp dụng chỉ cần kiên tâm, không đòi hỏi kiến thức chuyên môn. Dạy trẻ trước hết là một công việc "đòi hỏi nhiều tình thương". Nhưng tình thương chưa đủ mà còn cần phải có một lý luận vững chắc căn cứ trên những kiến thức chính xác, khoa học. Nếu sách này giúp cho phụ huynh gần gũi con em hơn, hiểu rõ những nhu cầu cùng phản ứng của trẻ thơ thì tác giả đã đạt mục đích. Các tác giả

2

Page 7: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

PHẦN THỨ NHẤT. CON BẠN LÀ AI?

CHƯƠNG 1. HAI CUỘC KHỦNG HOẢNG TĂNG TRƯỞNG LỚN

Từ khúc quanh 8 tuổi đến sự biến đổi trong tuổi dậy thì

Tất cả trẻ con dẫu tính tình và thể xác khác nhau, trên đường tăng trưởng đều trải qua những giai đoạn tương tự. Cá tính của trẻ hình thành từng giai đoạn theo một trình tự đồng đều. Trước hết là tuổi hài nhi từ lúc sơ sinh đến khoảng 4 tuổi. Tiếp theo là tuổi đồng ấu từ 4 tuổi đến lúc trẻ lên tám. Rồi đến tuổi thiếu nhi từ 8 tuổi đến 16 tuổi và sau cùng là tuổi thanh niên. Trong sự tăng trưởng, trẻ trải qua hai cuộc khủng hoảng, một vào khoảng lên tám, một vào khoảng 16 tuổi là tuổi dậy thì, với những thay đổi thể xác và tâm tình. Cuộc khủng hoảng vào lúc tuổi lên tám không giống như cuộc khủng hoảng của tuổi dậy thì. Đến đây là chấm dứt tuổi đồng ấu. Thế giới biến thiên, tinh thần của trẻ cũng thay đổi. Nó biết suy nghĩ, biết chú ý, hiểu được những tư tưởng trừu tượng. Thế giới chật hẹp của gia đình vỡ tung, trẻ bước vào xã hội với những quy luật dưới mọi hình thức. Đến tuổi dậy thì, trai hoặc gái đều trải qua một sự thay đổi lớn trong thể xác và tâm lý. Tuy rằng tuổi dậy thì ở trai và gái không đồng nhau, nhưng cả hai bên thể xác phát dục mau chóng, đồng thời các tuyến nội tiết hoạt động theo nhịp điều nẩy nở của xuân tình. Hai cuộc khủng hoảng, một vào khoảng 7-8 tuổi, một vào khoảng 15-16 tuổi, là những giai đoạn khó khăn mà cha mẹ cũng như trẻ con phải trả qua, vì một sự lầm lẫn nhỏ cũng có thể gây ra những hậu quả tai hại bất ngờ. Giữa hai khúc quanh quan trọng là một thời kỳ tương đối ổn định, trong đó những nét chính tính tình được vạch rõ, cá tính nổi bật, trí tuệ tiến hóa đủ cho nhà giáo dục có dữ liệu thực hiện một cuộc nghiên cứu có giá trị. Con trẻ ở tuổi này là đối tượng khảo cứu của chúng tôi, nơi đây chúng tôi xin cống hiến các vị phụ huynh những phương pháp giản dị nhưng hữu hiệu để biết trẻ, hiểu trẻ, và hướng dẫn trẻ chọn nghề tương lai.

Trẻ con dưới tám tuổi

Thoạt nhìn một bé sơ sinh cũng giống như cái cây, có đời sống sinh lý, chỉ cần chăm sóc, giữ vệ sinh, cho ăn, cho ngủ đúng giờ, đúng giấc. Nhưng sự thật đâu có giản dị như vậy. Sữa không phải là đồ ăn duy nhất của trẻ. Bé cần tình thương.- Em bé cần tình thương và sự hiện diện của người thân yêu hơn là tiện nghi vật chất. Điều này được chứng minh do nhiều sự quan sát tại các nhà dưỡng nhi, các dưỡng đường. Hai đàn trẻ nuôi dưỡng rất khác nhau được đem ra so sánh. Nhà dưỡng nhi thứ nhất tối tân, với những nhân viên điều hành tài cán, chỉ dung nạp những bé mà mẹ chúng không nuôi được vì bận công việc làm ăn. Nhà dưỡng nhi thứ nhì tổ chức với những phương tiện tạm bợ, tiếp nhận những trẻ sơ sinh hoang thai, mẹ phạm tội bị cầm tù. Có nhiều bé thể xác ốm yếu, di truyền nặng nề. Sau một thời gian, những nhà chuyên môn có trách nhiệm điều hành đều ngạc nhiên nhận thấy những bé trong nhà dưỡng nhi thứ nhì, mặc dù thiếu tiện nghi vật chất, lại phát triển nhanh hơn những bé ở nhà dưỡng nhi thứ nhất được nuôi nấng đầy đủ hơn. Hiện tượng trái ngược này chỉ

3

Page 8: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

có thể giải thích do có sự hiện diện của những bà mẹ tuy bị cầm tù vẫn được phép thăm con mỗi ngày vài giờ. Em bé không thể phát biểu rõ ràng để đòi hỏi, ngoài sự vui thú bú mớm, ăn uống, còn được mẹ nâng niu, bồng bế, sưởi ấm trong lòng, vỗ về với nụ cười và giọng nói âu yếm. Nếu bé được tất cả những thứ ấy thì đây là cả một bầu trời hạnh phúc bao trùm nó, giúp cho nó nẩy nở về thể xác lẫn tinh thần. Vui thú là quy luật của bé.- Lần lần bé tìm thấy được xác thân của nó qua sự vui thú nảy sinh từ sự hoạt động của cơ thể trong người. Nguyên tắc giáo dục đầu tiên là tập cho bé ăn ở sạch sẽ, tập cho nó kiểm soát cơ năng bài tiết. Có những bà mẹ nghiêm khắc sai đường, dạy cho trẻ chế ngự cái thú vui giản đơn ấy. Những câu la mắng như: "Ô! Bậy! Bậy quá!" hoặc "Mày không biết xấu à?" đều được trẻ hiểu như là sự bài trừ, cự tuyệt mối vui phát sinh từ một khu vực trong thân thể gồm các bộ phận bài tiết và bộ phận sinh dục. Trẻ được dạy dỗ cách ấy vội quan niệm là tất cả vui thú đều bị trừng phạt, hoặc nó tỏ ra ghê tởm những bộ phận kín đáo trong người, sự ghê tởm còn xen lẫn với sự vui thú sẽ tác hại đến một lối phát triển lành mạnh về tính dục. Tóm lại, đường lối giáo dục lành mạnh là chỉ cho trẻ hiểu sự hoạt động của các cơ năng trong thân thể không thể bị ngăn cản hay trừng giới mà cần kiểm soát đúng cách và hữu hiệu. Trẻ sống trong hiện tại.- Người lớn cảm thấy xa lạ với thế giới trẻ con bởi vì trẻ con không sống cùng nhịp điệu với người lớn, trẻ con chỉ sống trong cái hiện tại trước mắt. Đối với trẻ con, tương lai là vô nghĩa. Trẻ con chỉ thấy và chỉ muốn thấy điều nó ham muốn tức khắc. Đối với trẻ con, người lớn là trở ngại hay đồng lõa. Nhưng trẻ con muốn gì? Đôi khi phải lanh trí mới đoán được. Một em bé lên ba chạy, la lên: "Tôi thấy một con sư tử ở trong nhà bếp". Cha mẹ nó chỉ nghĩ: "Nó muốn cho người ta chú ý đến". Cha mẹ nên đi xa hơn và tự hỏi: "Tại sao con bé lại muốn cho người ta chú ý?" Có lẽ vì nó buồn ngủ. Cũng có lẽ vì nó muốn mẹ nó bỏ đứa em để chăm sóc nó. Hay là đứa bé muốn phá ngang một câu chuyện giữa những người lớn mà nó không hiểu và cảm thấy mình bị loại ra ngoài vòng. Tuy vậy, la mắng hoặc khen ngợi đứa bé cũng đều vô lý cả. Lo ngại cho đó là một sự dối trá cũng vô lý nữa. Vì như vậy là quên rằng trẻ con lên bảy, lên tám sống trong một thế giới huyền ảo, một thế giới mà sự liên hệ giữa sự vật không bị chi phối bởi lý trí, chỉ có ý chí là sức mạnh toàn năng. Trẻ được thoải mái trong thế giới huyền diệu.- "Tôi không tin có ông già Nô-en", một em bé lên tám nói. Và nó cho biết lý do: Ông già Nô-en không thể cùng một lúc ở trong mọi nhà và mọi thành phố khắp thế giới. Ông già ấy không thể vào trong lò sưởi, đi ngang qua bức tường, không thể mang tất cả đồ chơi. Hơn nữa, người ta bán đồ chơi trong các nhà hàng và ông già Nô-en ở trường nó chỉ là một đứa trẻ ngụy trang. Em bé lên tư thì nói một cách quả quyết: "Tôi thì tôi tin có ông già Nô-en. Tôi không biết ông làm thế nào nhưng quả thực ông đem đồ chơi đến cho trẻ em". Tôi nói với em lớn: "Có những người nói trên máy thu thanh, nhưng họ không có ở trong máy. Làm sao được như vậy?" Bé lớn trả lời: "Chỉ là một chiếc máy. Không hiểu máy ấy chạy làm sao. Có thể như máy điện thoại". Và bé nhỏ góp ý: "Những người nói đều ở trong máy thu thanh. Họ nhỏ xíu". Qua mẩu đối thoại vắn tắt này, người ta nhận thấy sự dị biết giữa 2 thế giới, trước và sau khúc quanh tuổi lý trí. Trong thế giới huyền ảo của tuổi thơ, ý chí là vạn năng. Không có trở ngại của vật chất, chỉ có người lớn thiếu thiện chí mà thôi.- Bởi vậy trẻ con cố dò xét quyền năng của ý chí mình ra sao. Nó đòi hỏi một cách độc đoán. Những [cơn] giận dữ, những nước mắt được xem như phù phép để chiếm lấy điều trẻ ham thích. Cha mẹ không nên xem trẻ ở lứa tuổi này như người lớn. Nói lý với nó vô ích. Cũng như xài một ngôn

4

Page 9: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

ngữ mà nó không hiểu. Chứng minh tính cách vô lý của điều nó ham muốn cũng vô ích nữa. Trái lại, cần cho trẻ tham gia vào việc thực hiện điều nó ham muốn. Tôi còn nhớ câu chuyện cụ giá khôn ngoan và đứa cháu. Đứa cháu bảo ông với một giọng quả quyết: "cháu muốn lên mặt trăng". Ông già bình tĩnh nói: "Nếu thật cháu muốn lên mặt trăng, lúc nào trăng mọc ông, cháu mình cùng đi". Hai ông, cháu đều trông đêm mau đến. Khi mặt trăng hiện ra, tròn và sáng, hai ông cháu lên đường đi thẳng đến chân trời là nơi mặt trăng đang lơ lửng. Đi được vài cây số, đứa bé dáng điệu mỏi mệt, hỏi: "Còn bao xa nữa mới đến trăng, hở ông?" Ông già đáp: "Còn xa, xa lắm, đêm này chưa tới trăng đâu. Nhưng nếu cháu còn muốn, ta phải tiếp tục đi nữa". Đi được mười lăm phút nữa, đứa bé thôi không còn đòi lên trăng. Trẻ là trung tâm điểm của vũ trụ.- Tuổi này là tuổi ích kỷ, tuổi tự tôn. Nơi bé bản năng tài sản (giữ của) phát triển đến cực độ. Đồ dùng của bé, bé cố giữ kỹ, không cho ai lấy mà cũng không chịu cho ai mượn. Tuổi này là tuổi khoa trương. Bé hay làm trò cho người ta chú ý. Cha mẹ không nên quan ngại lắm về thái độ này, đây cũng là một cách trẻ ước lượng quyền năng của nó. Tùy theo tính tình, nhu cầu được chú ý này đưa đến hậu quả hoặc cố gắng làm một việc gì hay, hoặc làm một điều xằng. Nếu trẻ tin – sai hoặc đúng – là nó không được cha mẹ yêu thương thì nó không từ nan một phương tiện nào để được người ta chú ý đến. Thời kỳ nói trên qua nhanh, nếu không có một mặc cảm nào phát sinh. Nhưng cha mẹ nên tránh cho con đừng dừng lại ở giai đoạn này. Không nên khuyến khích thói làm trò, cũng không được ngăn cản bằng thái độ thờ ơ hay là trừng phạt. Tốt hơn là lúc đầu cha mẹ nên lưu tâm đến trò khoa trương của trẻ rồi từ đó tìm đường ngăn chặn thói xấu này bằng cách hướng sự chú ý của trẻ vào một mục tiêu khác, như đưa cho trẻ một công tác phải làm: vẽ một cái hoa, xếp một chiếc hộp, phụ giúp một công việc nội trợ nhỏ. Điểm quan trọng là làm sao cho trẻ làm nên việc, để biến đổi sự kiêu hãnh về cá nhân tí hon của nó thành niềm kiêu hãnh làm xong công việc. Trẻ cố bắt chước người lớn.- Tuổi này cũng là tuổi bắt chước. Con nhỏ của bạn không thích vâng lời, cũng không muốn nhắm mắt bắt chước theo những trẻ khác. Nó cần làm nổi bật bản ngã của nó. Nó lập lại "Tôi muốn". Nhưng đồng thời nó cũng muốn bắt chước người lớn. Bé gái bắt chước dồi phấn, sơn móng tay "như má", bé trai cũng tập hút thuốc "như ba". Điều này không hại. Nhưng nhiều sự bắt chước khác nguy hiểm hơn, như bé nói với vú nuôi với các giọng của má nó, bé nói với mẹ với cái giọng của cha, nói với người hàng xóm thì nó thuật lại những gì nó nghe được ở nhà. Mặc dầu bề ngoài không có vẻ lưu tâm, trẻ rất chú ý đến điều cha mẹ nói, đôi lúc rình nghe mẩu đối thoại giữa cha mẹ nó, hoặc nói leo, cố xen vào câu chuyện của cha mẹ, lắng nghe lời nói của khách và lời bình phẩm của cha mẹ sau khi khách về, như thế trẻ sinh hoạt, hành động bằng cách bắt chước. Nghe người ta nói nó giống cha, giống mẹ trẻ rất khoái. Vậy gương mẫu của cha mẹ là quan trọng và có thể nói gương mẫu của người lớn là căn bản giáo dục trẻ con. Ý thức về lẽ phải, điều hay thức tỉnh nơi trẻ do sự bắt chước. Trẻ con sẽ hoang mang trong tương lai nếu cha mẹ trừng phạt trẻ chỉ vì trẻ làm theo cha mẹ.

Khúc quanh tám tuổi

Vì lầm lẫn hoặc vì khoe khoang, nhiều phụ huynh cố làm sao cho con em mình biết đọc, biết viết sớm, vừa lúc lên bốn, lên năm. Nhà giáo dục thừa hiểu là những trẻ lên sáu, lên bảy mới khởi sự tập đọc, trong vài ba tháng cũng đuổi kịp bọn "thần đồng cưỡng bách" vất vả kia. Chúng ta đã thấy là chính vào khoảng 8 tuổi, trẻ con không còn tin ở chuyện thần tiên nữa. Cũng vào lứa tuổi này, trẻ thường bị ám ảnh bởi câu hỏi "Vì sao". Vì sao trời mưa? Vì sao có gió? Tại sao chiếc ghe lớn nổi trên mặt nước mà hòn sạn nhỏ lại chìm lỉm? Vì sao? Vì sao? Trẻ

5

Page 10: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

tìm hiểu. Trẻ thay thế hình ảnh bằng ý tưởng. Lên 4 trẻ nói: "Tôi thấy một ông, một chiếc ghế dựa, một tờ nhật trình". Bây giờ nó giải thích: "Tôi thấy một ông ngồi trên ghế dựa, đọc báo, sau bữa cơm tối". Thế giới huyền ảo của giai đoạn trước, trong đó tưởng tượng lẫn lộn với thực tế tan biến dần dần. Trong thế giới mà trẻ con vừa khám phá, sự vật trở thành những đồ vật vô tri. Trẻ đã biết phân biệt việc có thể thực hiện được với việc không thể xảy ra. Trí phê phán thức tỉnh.- Lên sáu, trẻ từ ấu trĩ viên hoặc lớp mẫu giáo bước qua ngưỡng cửa học đường là nơi trẻ tập đọc, tập viết, trẻ chung đụng với người lớn. Trẻ không còn tìm thấy bầu không khí thân mật và ấm áp của gia đình. Và thầy cũng như bạn không hề chú ý đến cái cá nhân bé bỏng của nó. Chìm đắm trong tập thể, trẻ phải tuân theo kỷ luật chung. Nó không còn tưởng mình là trung tâm điểm của vũ trụ, đồng thời ý niệm về bình đẳng, về tập thể thức tỉnh trong tâm trí của nó. Sự kiện này giúp cho trí phê phán của trẻ được thức tỉnh, nẩy nở bình thường. Khinh thường óc phê bình mới rợi này là một sự lầm lẫn tai hại. Cha mẹ phải chú ý sao cho lý luận của mình được đúng đắn rất mực (hai lỗi giống nhau phải chịu trừng phạt như nhau). Cha mẹ cần phải hành động phù hợp với tư tưởng. Nếu mình giảng dạy con không nên nói dối thì mình không nên bảo trẻ trả lời qua điện thoại là "cha cháu đi vắng". Giáo dục ý chí.- Thái độ của đứa trẻ lên tám đối với cha nó là thái độ của nó đối với quy luật khi nó bước vào tuổi trưởng thành. Trước những quy luật về vật lý (bốn mùa thời tiết, thiệt hại vật chất), về sinh lý (đau đớn, bệnh hoạn, chết chóc), về xã hội (luật lệ, tập tục, cấp bậc, bổn phận công dân) hoặc đạo lý (bổn phận đối với gia đình, xã hội, nhân loại), phản ứng [của] mỗi người một khác. Có người than thở: "Chẳng qua là mạng số. Ta chẳng thay đổi được gì". Có kẻ giải quyết bằng mưu mô, gian trá. Tuy nhiên, thái độ hợp lý nhất là nhìn nhận quy luật và hành động trong phạm vi của quy luật. Đối với trẻ phần đông lên tám, chính ông cha và mệnh lệnh của ông là tiêu biểu cho tất cả quy luật. Trẻ con cần hiểu là những ham muốn và ý chí của nó có thể gặp những trở ngại không thể vượt qua và nó phải chấp nhận không được chống đối. Người nông dân nguyền rủa ông trời vì cà tô mát của anh ta có trái đẹt là không có một thái độ hợp lý trước quy luật thiên nhiên. Tốt hơn là anh ta phải chú trọng thời thiết, nên trồng cà sớm để cho cà trở hoa kết trái trong mùa mưa, và nếu gặp nắng sớm thì cần ủ gốc, tưới cây. Cũng như thái độ của đứa bé la khóc và oán giận cha nó không cho nó chơi dao là một thái độ vô lý. Ông cha là biểu tượng của quy luật. Cũng như luật lệ, ông cha phải nghiêm nghị và cứng cỏi, giữ lời hứa và lời răn, hành động đúng theo quy tắc. Ông cha phải tạo một thế quân bình khó khăn giữa tình phụ tử và nhiệm vụ giáo huấn, giữa ân và uy. Nếu ông cha quá nghiêm khắc, tự nhiên trẻ nép mình trong một thái độ thảm thương, hoặc nó đâm ra tuyệt vọng vì cảm thấy bất lực, mang nặng trong tâm tư một mặc cảm thất bại, hoặc ngược lại, nuôi dưỡng một ý muốn báo thù – hoặc một ý niệm đốn hèn – hoặc một tâm lý giả dối, mưu mô, gian trá. Trái lại, nếu uy quyền của ông cha không còn, vì tính nhu nhược, vì sự vắng mặt lâu ngày, suốt đời trẻ sẽ giữ một thái độ ỷ lại, vô tư lự, ngây thơ tin tưởng ở thời may, vận tốt, luôn chờ đợi một phép mầu đem lại phúc lợi cho mình, không biết tranh đấu sinh tồn, không đủ can đảm kiên tâm vượt qua trở ngại để thực hiện một cái gì ích lợi cho bản thân. Cha dạy, mẹ dỗ.- Như vậy, cha mẹ thông minh biết đề phòng hai tình trạng nói trên. Trước, không có quyết định nào của ông cha mà không có sự suy nghĩ, cân nhắc, chín chắc. Quy luật mỗi khi đề ra cần được duy trì, lời hứa tôn trọng, sự cấm đoán thực hiện, mệnh lệnh tuân hành. Không nên nói đùa, hành động tùy hứng, phán xét nông nổi.

6

Page 11: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Sau đến sự can thiệp của bà mẹ, bà mẹ có nhiệm vụ rất tế nhị là làm cho đứa trẻ yêu cha và chấp nhận những quyết định của cha. Trong vài gia đình, trẻ muốn chống đối lại thái độ nghiêm khắc của cha, thường tìm một số đồng minh chiến đấu với mình. Đồng minh đây thường là bà mẹ, bà mẹ chống đối lại ông cha, vì đó mà trong gia đình, trẻ con thỉnh thoảng là một nguyên nhân bất hòa giữa vợ, chồng. Để đối phó với tình trạng này, cha, mẹ nên đứng vào một chiến tuyến chung. Bà mẹ thường dịu hiền và gần gũi trẻ hơn, phải giúp đỡ, bênh vực ông cha. Nhằm mục đích đó, những tranh luận, cãi vã giữa cha, mẹ về con cái không được diễn ra trước mặt trẻ, và những quyết định của ông cha phải được cân nhắc và có sự đồng ý của bà mẹ. Cuối cùng, ông cha có thể khuyến khích trẻ và giúp cho trẻ phát huy tinh thần tự tin. Nhờ gương tốt của người lớn và thái độ cứng rắn của cha, mẹ mà trẻ biết vâng lời, dễ dạy; bây giờ trẻ phải biết không nản lòng trước những trở ngại khó. Trẻ cần tập tính tự tin. Lên sáu, lên bảy, trẻ đã đối diện với những nhiệm vụ đầu tiên: làm bài ở trường, vâng lời, lễ độ, gìn giữ áo quần, nhà cửa sạch sẽ, tôn trọng tình bầu bạn, giúp đỡ những việc lặt vặt trong nhà. Nếu ông cha chỉ biểu lộ sự hiện diện của mình bằng những luận điệu như: "Mày là thằng ngu", hoặc "Mày chẳng làm nên việc gì cả", hoặc: "Thằng này không hiểu lớn lên làm gì mà ăn", thì ông cha đã không làm xong nhiệm vụ [của] một ông cha. Nghe những lời mắng ấy, lòng tự tin của trẻ sẽ tan rã, cũng như nó sẽ sinh ra bi quan, thất vọng nếu nó chứng kiến thường xuyên những vụ cãi vã, gây gỗ giữa cha, mẹ, và hơn nữa, trẻ là nạn nhân của một vụ ly dị.

Ý niệm phải, trái, thiện, ác được xác định

Trước khúc quanh 7, 8 tuổi, luân lý của trẻ rất là giản dị. Điều trái là điều cha mẹ cấm đoán. Điều phải là điều cha mẹ thừa nhận và khuyến khích. Nhưng lên tám, như ta đã thấy, trẻ bắt đầu phán đoán, phê bình, đôi khi chỉ trích, và cố tìm hiểu lý do người trên bắt nó làm. Điều gì xảy ra trong tâm não trẻ? Tất cả những ý kiến về phải, trái, thiện, ác [mà] trẻ đã học được nơi cha mẹ và trẻ đã từng xem như Thánh Kinh bây giờ nó đem ra so sánh, đối chiếu với những ý kiến khác. Trẻ so sánh mệnh lệnh của cha mẹ với mệnh lệnh của thầy giáo. Trẻ so sánh ý kiến của cha mẹ và ý kiến của bạn bè. Và nhất là trẻ đối chiếu điều cha mẹ nói với điều cha mẹ làm. Điều phải mà người lớn, cha mẹ và thầy giáo bày dạy cho nó chỉ có giá trị đối với nó nếu điều phải đó đứng vững trước sự đối chiếu thẳng thắn hàng ngày với cuộc sống và xã hội. Lúc này, hai tai họa có thể xảy ra. Có thể là cha mẹ không cư xử đúng với những quy tắc họ dạy con. Ông cha giảng dạy tôn trọng pháp luật nhưng ông cứ trốn thuế. Bà mẹ khuyên con nên ăn nói thành thật lại nói dối giá cả một món hàng mà trẻ thấy mẹ vừa mua. Những sự việc như vậy sẽ làm tổn thương không ít đến uy tín của cha mẹ. Cũng có thể xảy ra một sự mâu thuẫn giữa lối sống của gia đình và luật lệ xã hội. Những vụ buôn lậu, đầu cơ, hối lộ, tham nhũng, cha mẹ bị bắt, ngồi tù... là những tai biến gây ra kinh hoàng, điên đảo trong tâm hồn non nớt của trẻ. Thảo luận về khúc quanh lên tám, không thể không nói qua về những trừng phạt xác thân (punition corporelle), vì ở tuổi này thỉnh thoảng con trẻ bị la mắng, bị đánh đòn. Chúng ta không nói về những trừng phạt bất công, quá trớn do sự nóng nảy của cha mẹ mà con cái bị đòn oan. Có những bà mẹ muốn trị khéo chồng, trừng phạt con một cách nghiêm khắc, có những ông cha đánh con để trút hết mối hận thù đối với ông chủ đã xử tệ với mình ở xưởng, ở

7

Page 12: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

sở. Lối trừng phạt này đào cái hố ngăn cách giữa cha mẹ và trẻ con, làm đảo lộn sự quân bình tình cảm của nó. Trừng phạt mà vẫn hiểu trẻ.- Còn lại, những sự trừng phạt được được gọi là xứng đáng. Có những cha mẹ không cần đến [trừng phạt], và như vậy càng hay. Tuy nhiên, một trận đòn (đét vào mông) ít khi gây ra sự chống đối nếu cha mẹ chịu theo ba quy tắc sau. Trước hết, cố gắng hiểu trẻ. Cha mẹ buộc đứa con phạm lỗi tìm ra duyên cớ hành vi sai lầm của nó. Nếu đây không phải là cố ý mà do một sự lỡ lầm thì cha mẹ chỉ cần tỏ ra buồn tiếc là cũng đủ trừng phạt đứa trẻ. Nếu trẻ cố ý, dụng tâm làm sai, cần khám phá những duyên cớ bí mật: đứa anh đánh đứa em vì ghen tị, hoặc trẻ gặp việc bất mãn nên trút giận lên đầu kẻ yếu, con bé lén xé tờ báo của mẹ là để trả thù bị mẹ la oan, thằng nhỏ ăn cắp một vật gì là muốn "đền bù" một mặc cảm thiếu thốn. Quy tắc thứ nhì: tập cho trẻ lý luận. Nếu phanh phui những duyên cớ thầm kín của lỗi lầm thì trẻ hiểu được mình đã ăn ở một cách vô lý, bất công. Sau hết, nếu sự trừng phạt không thể tránh được thì đây, quy tắc thứ ba: không la lối om sòm, không múa may lung tung, không có vẻ mặt giận dự, ghê sợ. Bạn có nghĩ vẻ mặt hầm hầm của bạn khi bạn trừng phạt trẻ không? Trẻ sợ vẻ mặt giận dữ, hằn học của bạn, và đối với nó, bạn thành vật ghê tởm. Nó nghĩ là bạn đánh nó vì giận dữ chứ không phải vì nó làm sai. Sau này, trẻ tìm cách tránh cơn thịnh nộ của bạn hơn là tránh lỗi lầm. Trẻ hóa ra sợ sệt, gian trá mà không cải thiện nổi. Chúng tôi có biết một ông cha đánh con mà khóc và nói với một giọng bình tĩnh: "Tại sao con làm xằng để bắt buộc cha phải đánh con? Nếu con biết điều thì đâu đến nỗi này". Đứa con khóc, nhưng không khóc như những đứa trẻ bị trừng phạt giữa những tiếng la hét, nguyền rủa của cha mẹ. Tóm lại, sự trừng phạt chỉ có hiệu lực khi nào trẻ cảm thấy hoặc biết mình có lỗi, khi nào lỗi lầm được xóa bỏ, từ đây không còn ai nhắc tới nữa.

Cuộc khủng hoảng của tuổi dậy thì

Từ 8 đến 16 tuổi, trẻ phải dồn chứa những sức mạnh thể xác và tâm lý để đối phó với cuộc khủng hoảng của tuổi dậy thì. Song song với sự phát dục nhanh chóng của cơ thể, sự biến đổi về sinh lý, sự hoạt động mạnh của các tuyến nội tiết, tính tình biểu lộ rõ rệt, trí tuệ mở mang, năng khiếu phát triển, ảnh hưởng của gia đình và xã hội kết tinh thành những tập quán, tư tưởng và hành động. Sự biến đổi về tâm lý sâu xa, nhưng diễn ra một cách tuần tự. Trẻ trải qua một giai đoạn thay đổi chậm chậm. Trẻ thích cô đơn, vui với cuộc sống nội tâm, suy nghĩ, mơ mộng vẩn vơ. Giai đoạn thứ nhì, trái lại, là giai đoạn sôi động, một cuộc khủng hoảng về cá tính có thể kéo dài nhiều năm. Tuy nhiên, sự biến chuyển tâm lý của trai, gái không xảy ra ở cùng một lứa tuổi. Ở con gái thì sự thay đổi xuất hiện với đường kinh nguyệt đầu tiên vào khoảng 13, 14 tuổi. Ở con trai chậm hơn, vào khoảng 16, 17 tuổi. Cuộc khủng hoảng có thể kín đáo hoặc sôi động, chóng qua hoặc kéo dài, tùy theo thể chất, tính tình của trẻ và thái độ phản ứng của cha mẹ. Đây là một thử thách lớn cho kẻ làm cha mẹ, nên phụ huynh cần hiểu biết để đối phó thích nghi.

Giai đoạn thứ nhất: trẻ hình như muốn tách rời [với] cha mẹ

Tuổi mơ mộng vẩn vơ.- Trai cũng như gái cảm thấy trong lòng phát sinh những nhu cầu mới, những ước vọng vẩn vơ, mơ tưởng một đối tượng dị tính. Vì mặc cảm tội lỗi, thanh thiếu niên ấp ủ mộng tưởng của mình, không muốn bày tỏ với cha mẹ, anh em, bạn bè. Chúng vui thích với một thế giới huyền ảo, trong đó mộng tưởng của chúng dễ thực hiện, chúng lánh mình trong một cuộc sống nội tâm thầm kín. Lắm lúc trẻ cắt đứt sợi dây tình cảm với người thân yêu, với cha mẹ, nên cha mẹ thường gọi tuổi này là tuổi "bạc bẽo". Một đặc điểm của thời kỳ này sự

8

Page 13: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

nhạy cảm: vui, buồn, hờn giận, đôi khi vì một duyên cớ vu vơ. Một nhạc điệu u buồn làm cho trẻ xúc động, rơi lệ. Một lời nói đùa hiểu lầm cũng làm cho trẻ mang oán, ngậm hờn. Gặp một sự trái ý nhỏ, trẻ nổi nóng, cau có. Trai hay gái rất quan tâm đến những khuyết điểm trong thân thể. Mái tóc cắt sai kiểu, chúng xem như một tai nạn. Chúng bực dọc vì răng mình không trắng, không đều. Chúng băn khoăn vì cái mũi hơi dài hoặc ngắn. Đây là thời kỳ mà cha mẹ cần đề cập đến giáo dục sinh lý: lẽ huyền diệu của sự thụ thai, sự cấu tạo tinh dịch, đường kinh, v.v. Còn nhiều câu hỏi đang làm bận rộn tâm trí của thanh thiếu niên nam nữ cần được giải đáp: Tật thủ dâm có ghê tởm không? Trinh tiết là gì? Người con gái có cần giữ trinh trước khi lấy chồng không? Con trai có nên tránh những sự tiếp xúc xác thịt trước khi lấy vợ không? Vì sao? Ông cha, bà mẹ nên cho mình là may mắn nếu được con mình thường gần gũi và thành thật đặt ra những câu hỏi như vậy. Bạn thân phải thay thế cha mẹ.- Hai thái độ cần phải tránh đối với thanh niên ở trong thời kỳ khó khăn này: nhạo báng và khiêu khích [trẻ]. Vốn mang nặng tính nhạy cảm, hay hờn dỗi, nghi kỵ, lại gặp sự khiêu khích, khinh bỉ, chế nhạo của gia đình, trẻ cố dồn ép. Nhưng bước sang thời kỳ thứ nhì, sự tức tối ngấm ngầm sẽ bộc phát. Cha mẹ khôn ngoan biết cách thích ứng, ông cha bớt nghiêm khắc, tình thương của bà mẹ nên kín đáo hơn. Có nhiều cha mẹ không chịu nổi thái độ ngỗ nghịch của con, thấy con muốn thoát ly gia đình, vội trách móc, la mắng. Như vậy chỉ làm tăng sự cách biệt, nghi kỵ giữa hai bên. Bà mẹ than phiền: "Con mình không thương mình nữa". Trẻ oán trách: "Mọi người trong gia đình đều chống đối lại mình, không có ai thương mình cả". Cha mẹ cần giữ tình thương trẻ và không cần báo đáp, cũng không nên tò mò dò xét việc làm, tư tưởng của con quá đáng. Như cánh bướm vừa thoát thân từ con nhộng, lúc này không phải là lúc làm cho tình hình rối ren thêm. Một phương pháp hữu hiệu là cha mẹ hướng dẫn con mình kết thân với một người bà con gần hoặc xa, một người bạn của gia đình, lứa tuổi ở khoảng giữa tuổi cha mẹ và tuổi thanh niên. Người này sẽ là bạn tâm phúc, cố vấn của trẻ, cha mẹ có thể ủy quyền can thiệp vào cuộc sống của con mình.

Giai đoạn thứ nhì: trẻ chống đối ra mặt

Nỗi lo sợ của cha mẹ chưa hết. Tiếp theo thời kỳ ban sơ của tuổi dậy thì thì đến sự chống đối dưới nhiều hình thức kỳ quặc, đau buồn. Đến đây, chúng ta thấy những sự đề phóng trong thời kỳ trước đem lại những kết quả tốt. "Cuộc khủng hoảng độc lập của tuổi trẻ" (crise d'originalité juvénile) là một cố gắng thoát ly gia đình phát ra cao độ vào khoảng 16-17 tuổi ở thanh nữ và 19-20 tuổi ở thanh niên. Không còn mơ mộng vẩn vơ, mà đây là một thái độ khiêu khích ra mặt. Thanh thiếu niên cố thoát ly uy quyền của cha mẹ, muốn được tự do hoàn toàn. Mọi sự ràng buộc, kỷ luật trẻ [đều] xem là áp chế. Trẻ lập dị, hoài nghi, muốn xét lại những lễ giá, tập tục, tín ngưỡng, ước lệ xã hội... Không những chàng trai chống lại gia đình mà còn phải đối tất cả những gì tượng trưng cho quyền uy: giáo sư, chức quyền, chính phủ. Trẻ có tư tưởng quá khích, cực đoan, tán dương chủ nghĩa vô thần, thảo luận lý thuyết vô chính phủ. Cho trẻ đi xa để cho nó không xa cha mẹ.-Cha mẹ phản ứng thế nào? Họ thường chọn một trong hai thái độ. Hoặc đối xử với con cứng rắn, nghiêm khắc hơn và như vậy không khí gia đình căng thẳng hơn nữa. Hoặc cha mẹ nhượng bộ mà cam chịu đau buồn. Mẹ thì mong giữ tình thường của con, còn cha thì chán nản, đánh liều bỏ phế, mặc con muốn làm gì thì làm. Một lối giải quyết hữu hiệu là cha mẹ tạm xa con vào lúc cuộc khủng hoảng lên đến cao độ. Ý kiến

9

Page 14: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

này có thể làm cho các bà mẹ lo sợ vì họ không chịu chấp nhận con trai của họ đã thành người đàn ông và con gái của họ đã thành người đàn bà. Nên nhớ là cha mẹ phải biết thả con ra đúng lúc nếu họ muốn tìm lại sau này. Không chịu buông con lúc này là chước lấy cái rủi ro mất con vĩnh viễn. Hay hơn là cho con đi xa, du học tại một đô thị khác, trú ngụ ở một gia đình bà con xa. Thử thực hiện một sự tạm biết được hướng dẫn để tránh một sự đoạn giao có hại cho cả cha mẹ lẫn con cái. Ở Pháp ngày xưa có một tập tục rất hay là thanh niên gia đình thợ thuyền mới học nghề, đến tuổi 18 thì đi chu du khắp nước, làm việc tỉnh này sang tỉnh khác, sau đó trở về mái ấm gia đình, bấy giờ đã ý thức được trách nhiệm [của] kẻ làm trai. Đây là một tập tục khôn ngoan đào tạo hữu hiệu con người, vì nó trao cho thanh niên vừa sự tự do, vừa tinh thần trách nhiệm, cả quyền bay nhảy vẫy vùng, cả bổn phận tự mình xây dựng cuộc sống. Qua cuộc thử thách cuối cùng, nhân cách, cá tính của trẻ trở nên cứng cỏi, nẩy nở và lành mạnh. Thanh niên, thanh nữ đã tìm được đường đi của mình. Chỉ còn xây dựng, trong những năm sau, những cơ sở cho cuộc sống tương lai.

10

Page 15: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

CHƯƠNG 2. CÁ TÍNH CỦA TRẺ Cá tính của trẻ là nói chung những đức tính, thói xấu, ưu điểm, nhược điểm làm cho trẻ có một vẻ đặc biệt, độc đáo, nó là nó, không giống với một trẻ nào khác. Nói rộng ra, cá tính của trẻ là cách cư xử, thái độ, hành động và phản ứng của trẻ. Như vậy, cá tính của trẻ là một cái gì hiện giờ người ta có thể biết được và ngày mai sẽ phát triển, biến hóa. Có ít nhất năm yếu tố tạo nên cá tính của trẻ là: năng lực xác thân, tính tình, trí thông minh, ảnh hưởng của hoàn cảnh và chuyện riêng của trẻ. Những yếu tố này dung hòa mật thiết với nhau và tác động chung hoặc riêng rẽ trong cuộc sống của trẻ. Sức khỏe.- Hình thể con bạn là điều mà người lạ chú ý trước hết khi phải xét đến trẻ. Em thì có đôi mắt lớn và sống mũi cao. Em này mập và lùn. Em kia ốm yếu, mảnh khảnh. Có trẻ mới sinh ra đã mang tật ở chân và phải đi khập khễnh. Đó là những sự kiện mà cha mẹ cần chú ý đến khi chuẩn bị tương lai của trẻ. Tự nhiên cha mẹ lo giữ gìn, tăng cường sức khỏe cho con bằng cách cho nó ăn uống bổ dưỡng, tập tành, thay đổi khí hậu, v.v. Nhưng những sự săn sóc này vẫn chưa đủ. Trẻ con thường mang theo di truyền của cha mẹ. Một em bé cha mẹ yếu đau hoặc sinh ra lúc cha mẹ đã già nua thì ốm yếu, bạc nhược. Một đứa bé cha mẹ nghiệm rượu, mắc bệnh kinh phong, bệnh phong tình thì suốt đời phải mang nặng một di truyền bệnh hoạn. Bé sơ sinh còn mang theo dấu vết những xúc động tâm lý của bà mẹ trong lúc thụ thai. Có những bà mẹ quá xúc động, sợ hãi trong cảnh bom đạn chiến tranh, sinh con rất nhạy cảm, thần kinh rất dễ bị kích thích. Tóm lại, sức khỏe, bệnh tật là yếu tố thứ nhất mà bạn cần đặc biệt lưu ý khi muốn tìm hiểu cá tính, tư cách của con. Tính tình.- Có bao nhiêu trẻ, có bấy nhiêu tính tình khác nhau. Em thì nhu nhược, chậm chạp, em thì hoạt động, hăng hái. Em thì ngỗ nghịch, hay gây gổ với bạn bè, em thì nhu mì, nhân nhượng. Có những bé gái tinh nghịch quá con trai, và cũng có những bé trai hiền hậu, duyên dáng như con gái. Những khuynh hướng này biểu lộ nhiều lối khác nhau, tùy theo trường hợp, nhưng vẫn là kiểu mẫu thái độ, hành động đại cương. Chúng ta thường nói về trẻ: "Bản chất của nó là vậy", và như thế có nghĩa là trẻ sinh ra với tính tình này mà không phải tính khác và, dù muốn dù không, cha mẹ phải chấp nhận. Vậy thì tính tình là một điều cố hữu, một sự di truyền hay ít ra cũng biểu lộ từ lúc sơ sinh, và tính tình biến đổi theo tuổi tác, theo cảnh ngộ tùy cơ hội trong đời người. Chẳng hạn, chúng ta đã thấy ở chương trước, tất cả trẻ con đều trải qua những thời kỳ giống nhau, những cuộc khủng hoảng tương tự, và bạn cũng nhận thấy chính bạn đã thay đổi nhiều từ tuổi ấu thơ đến ngày nay, hoặc có những hoạn nạn, thử thách đã biến đổi tính tình của bạn. Một điều nhận định nữa là những người có tính tình khác nhau không đón nhận như nhau mọi cảnh ngộ ở đời, mỗi người phản ứng mỗi khác trước nghịch cảnh gặp phải. Bạn cũng nhận thấy qua kinh nghiệm trường đời là đôi người chỉ nhìn thấy khía cạnh tốt đẹp của cuộc sống, còn có những kẻ gặp một việc không vừa ý đã đâm ra buồn rầu, nản chí. Nếu bạn có nhiều con thì bạn cũng nhận thấy thái độ, hành động, lối cư xử của chúng khác nhau mặc dù chúng sống một cuộc sống chung trong một hoàn cảnh chung. Đây là một sự dị biệt về tính tình. Một chân lý cần ghi nhận là tính tình có biến đổi, sự biến đổi ấy ở mỗi người mỗi khác. Đây hai anh em ruột, hai người đều làm nông, sống chung với nhau, rồi lập gia đình cũng vào khoảng tuổi hai mươi lăm và mỗi người đều có ba con. Tại sao với thời gian, một người trở

11

Page 16: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

nên vui tính, dễ dãi, còn người kia thì buồn rầu, cau có, làm cho không khí gia đình không được yên vui? Tại vì ngay từ buổi thiếu thời, hai anh em đã không có tính tình giống nhau. Vậy tính tình là cái gì duy trì lâu bền. Tính tình có liên hệ với "bản chất" của người, cũng có liên hệ với thái độ nhìn xem sự vật và phản ứng trước cảnh ngộ. Biết rõ tính tình là nắm được những nguyên lý sơ đẳng của nghề làm cha mẹ. Bạn đọc sẽ tìm thấy phưng pháp nhận biết trẻ trong các chương sau. Thiên tư và thông minh.- Đọc học bạ của con thấy có phê "thông minh" bạn lấy làm hãnh diện có một đứa con xuất sắc. Nhưng thông minh là gì? Đối với thầy giáo một em học sinh thông minh là em học sinh hiểu và nhớ những sự giải nghĩa của thầy một cách dễ dàng. Tùy theo tính tình, trí thông minh có nhiều hình thức khác nhau. Trong một lớp học, một em học sinh làm những bài luận hay, bài luận tả cảnh có nhiều chi tiết quan sát tỉ mỉ, nó thích địa lý, khoa học tự nhiên, hội họa. Ta nhận thấy em này có một trí thông minh cụ thể. Còn em khác thì giỏi toán, văn phạm, lý luận giỏi, hoạt động trong địa hạt tư tưởng dễ dàng hơn trong địa hạt sự vật, sau này nó theo đuổi triết học, văn chương. Trí thông minh của em này là trí thông minh trừu tượng. Nhìn kỹ lớp học, chúng ta thấy trẻ kia mắt sáng long lanh, ranh mãnh sau chiếc kính trắng, các giáo sư đều nói em này học kém, nhưng em lanh lẹ, biết xoay xở trong đời sống thực tế. Chứng chỉ học trình của em có ghi: "thông minh, có thể làm nên". Nhưng không phải ở trường mà em làm nên. Trường học, em chả thích, mà sau nay ra đời, em biết xoay xở, lanh trí, mưu mẹo và làm nên việc. Ngoài hình thức thông minh khác nhau, còn phải xét đến trình độ thông minh nữa. Các giáo sư đều biết chỉ những trẻ có một trình độ thông minh cao hơn mức trung bình mới hiểu nổi một số lý luận, quy tắc văn phạm, lý thuyết toán học. Vì thông minh là một thiên tư, như thi ca, âm nhạc, hội họa. Đành rằng thông minh còn tùy thuộc ở một sự quân bình về cơ thể và tình cảm, như một em bé chậm tiến có thể do sự suy yếu của một tuyến (hạch) trong cơ thể hoặc vì thiếu thốn tình thương từ tuổi ấu thơ. Nhưng những điều kiện bình thường không đủ làm cho một trẻ thông minh. Những điều kiện này cần thiết cho sự tác động của trí thông minh, nhưng không thể tạo ra trí thông minh. Phải có một cái gì hơn nữa, một thiên tư mà trẻ này có, người khác không. Trình độ thông minh của trẻ là một yếu tố quan trọng của nhân cách. Trước hết, trí thông minh giúp cho trẻ tiếp xúc nhiều với người và vật. Trẻ thông minh lanh lẹ, cởi mở, lĩnh hội dễ dàng những lý luận của người lớn. Trong lớp, nó là em học sinh hiếu kỳ, thường quan tâm đến mọi môn học. Có những thầy giáo xét đoán nhân cách toàn bộ của trẻ qua trí thông minh. Như vậy là quá đáng. Nhưng vẫn có một điều hợp lý: trí thông minh trội hoặc kém có ảnh hưởng đến sự học của trẻ. Học giỏi hoặc kém lại có ảnh hưởng đến nhân cách ở chỗ: lòng tự tin tùy theo đó mà giảm hay tăng. Ảnh hưởng của hoàn cảnh.- Hoàn cảnh sinh sống của trẻ ảnh hưởng đến nó. Cha mẹ không nhận thấy sự tác động ấy vì chính cha mẹ cũng bị hoàn cảnh chi phối mà không hay biết. Một trẻ Mỹ, Ấn Độ hoặc Nhật Bản không được giáo dục như con bạn. Một trẻ sinh trưởng ở nông thôn không chịu ảnh hưởng như trẻ sống ở thị thành. Còn phải phân biệt những trẻ sinh trưởng ở những địa phương khác nhau, những giới nghề nghiệp khác nhau, những giai cấp xã hội khác nhau. Hãy tưởng tượng ba trẻ tính tình và trí tuệ như nhau, một em là con một gia đình ngư phủ ở Rạch Giá, một em con nhà nông, cha mẹ làm rẫy ở miền sơn cước Quảng Nam, một em con một công chức cao cấp ở thủ đô Saigon. Sự phát triển thân thể, thị hiếu, dục vọng, ngôn

12

Page 17: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

ngữ, tư tưởng, tập quán của ba trẻ khác xa nhau. Hoàn cảnh sinh sống thấm nhuần chúng ta và uốn nắn phần nào nhân cách, cá tính của chúng ta, chúng ta tập thói sinh hoạt tư tưởng và tín ngưỡng khác nhau tùy theo hoàn cảnh dị biệt. Nơi con trẻ, ảnh hưởng ấy phát triển đôi khuynh hướng, đồng thời bóp nghẹt các khuynh hướng khác, tạo nên những nhu cầu khác nhau, và một lối nhận xét sự vật riêng biệt, lối nhận xét này rồi cũng bị uốn nắn theo thời thượng, tập tục. Phải có một nhân cách phi thường mới cắt đứt được sợi dây ràng buộc vô hình dệt nên bởi muôn vàn thói quen và tục lệ. Ngay trong thời kỳ khủng hoảng thoát ly gia đình, những cô cậu lập dị, bướng bỉnh nổi lên chống đối tập tục, xã hội, dư luận, tư tưởng đương thời mà cũng không đập vỡ nổi cái khuôn khổ vững bền của nhiều ảnh hưởng sâu đậm. Con gái của một vị sĩ quan, nếu một mai thoát ly gia đình làm nghề gái nhảy nhưng vẫn giữ thói quen quý chuộng cái phong độ hùng dũng của một quân nhân. Ép buộc con cái chọn một nghề theo những quy tắc, tập tục mà nó không thích là một lầm lẫn. Nhưng không đếm xỉa đến những quy tắc, tập tục ấy cũng là một sự sai lầm mà những nhà chuyên môn hướng nghệ cố tránh. Chuyện riêng của trẻ.- Với chuyện riêng của trẻ chúng ta tìm ra yếu tố cuối cùng tạo nên nhân cách, cá tính của nó. Chuyện riêng của trẻ là toàn thể những biến cố, những cảnh ngộ mà trẻ đã trải qua. Một đứa trẻ từng chứng kiến cảnh khói lửa chiến chinh, cảnh chém giết hãi hùng, đã chứng kiến cảnh cha mẹ gục ngã, đã bị bỏ rơi, bị ngược đãi... trẻ ấy bất luận tính tình, trí tuệ thế nào, tâm não cũng bị dao động không ít. Nhưng bên những biến cố lớn làm xáo trộn đời sống của trẻ vẫn có nhiều sự việc bạn không cho là quan hệ hoặc bạn không biết tới lại là những tai biến, những thảm cảnh đối với trẻ. Vì tâm trí của trẻ, như ta đã thấy, không phản ứng như người lớn, và chúng ta không được gì xảy ra trong đầu óc nó. Thử ghi nhận để làm ví dụ vài việc mà bạn xét là không quan trọng: - Cha mẹ cãi cọ, xung đột trước mặt con - Ông cha về nhà say sưa, la mắng, đập phá - Con trẻ chứng kiến một tai nạn hoặc chính nó là nạn nhân của một tai nạn lưu thông - Trẻ bắt gặp một cuộc "làm tình" giữa người lớn - Trẻ được nghe những chuyện ma quỷ, quái đản, hãi hùng - Trẻ bị nhát ông kẹ - Trẻ sống trong một không khí gia đình căng thẳng thường xuyên - Trẻ bị giải phẫu, v.v. Những sự việc kể trên và còn nhiều việc tương tự có thể xảy đến cho con bạn. Bạn có biết con bạn phản ứng thế nào không? Trẻ con nhiều khi nhạy cảm đến nỗi chỉ một hình ảnh quái dị trong phim xi-nê cũng đủ gây cho nó một cơn ác mộng trong giấc ngủ. Chỉ có cha mẹ mới chú trọng được tất cả những khía cạnh.- Trên là những yếu tố tạo nên nhân cách, cá tính của trẻ. Có thể ví như những nét bút họa sĩ thêm vào để hoàn thành một bức chân dung. Với thời gian, trải kinh nghiệm, cá tính ấy phát triển, trở nên phong phú hơn. Con bạn là một tương lai. Tương lai ấy đã đành bị hạn định phần nào bởi tính tình, năng khiếu bẩm sinh, bởi quá khứ riêng, nhưng đường đời còn dài; nếu bạn biết rõ con mình, bạn có thể sửa đổi được nhiều tình trạng, sử dụng đầy đủ những năng lực tiềm tàng. Nghĩ đến đường lối hướng dẫn con trên đường đời, bạn có thể lần lượt đặt bốn câu hỏi như sau: - Những khả năng thể xác của trẻ như thế nào?

13

Page 18: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

- Tính tình của nó thế nào? - Nó có thông minh không và thông minh như thế nào? - Hoàn cảnh và biến cố tác động đến nó thế nào? Thầy thuốc có thể cho bạn biết tình trạng cơ thể của trẻ và tăng cường sức khỏe của trẻ; giáo sư nhận xét về trí tuệ và những năng khiếu học tập; nhà tâm lý học có thể tìm ra tính tình hoặc những biến cố gây xúc động (événement-choc) nơi trẻ trong quá khứ. Một nhà chuyên môn hướng nghiệp giỏi có thể nhận xét tất cà các khía cạnh ấy và thử áp dụng một chương trình hành động hữu hiệu. Tuy nhiên, sự tác động sâu rộng chính là sự tác động của cha mẹ: cha mẹ sống với con hàng ngày biết được từng chi tiết nhỏ trong cuộc sống của trẻ. Nhà chuyên môn chỉ giúp cho cha mẹ những ý kiến, chính cha mẹ có nhiệm vụ đem ra thực hành để hướng dẫn một đứa trẻ mà cha mẹ biết rõ hơn ai hết.

14

Page 19: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

PHẦN THỨ HAI. NHỮNG TÍNH TÌNH KHÁC NHAU

CHƯƠNG 1. NHỮNG YẾU TỐ TẠO NÊN TÍNH TÌNH

Khi bạn nói về con "Tính nó tốt" hoặc "Nó khó tính lắm", như vậy là bạn nghĩ đến cách đối xử của nó với trẻ khác. Danh từ tính tình ở đây không chỉ dùng theo nghĩa thông thường ấy mà bao hàm một nghĩa rộng hơn. Trong sách này, tính tình là nói chung thể chất và những khuynh hướng tự nhiên tạo nên những thái độ khác nhau trong mọi trường hợp. Tính tình không phải đơn thuần mà gồm nhiều yếu tố chính yếu được các nhà tâm lý học nghiên cứu và phân loại trong mấy năm gần đây. Trước khi thảo luận về tính tình, chúng tôi nhắc lại là ở đây không nói về "đức tính" hay "tật xấu". Ví dụ, nếu ta gặp một em bé có tính tranh đấu, chúng ta không nói đây là tốt hay xấu. Bản chất của trẻ là vậy. Cha mẹ muốn quan tâm đến vấn đề này thì cần phải có thái độ khách quan và công bình. Tác giả sẽ thảo luận về những trẻ trong thực tế, không phải những trẻ bạn tưởng tượng hoặc bắt buộc phải như thế này, thế kia. Thử nhìn trẻ sinh hoạt.- Trước hết thử quan sát một trẻ phản ứng thế nào trước một sự bất ngờ, ví dụ: một tiếng động lớn như tiếng súng nổ thình lình, một em bé khác núp sau cửa hù nó. Có thể trẻ hoảng hồn, giật mình; cũng có thể nó bình tĩnh quay lại. Đây là hai cách phản ứng, hai mẫu trẻ con. Trẻ quay lại bình tĩnh không tỏ vẻ sợ sệt là [trẻ] ít "nhạy cảm" hơn trẻ giựt nẩy mình hoặc nhảy chồm lên. Nếu ta đọc một truyện buồn cho hai trẻ nghe, có thể đứa thứ nhất không lộ vẻ xúc động trong khi đứa sau thì mặt mày ủ dột. Đó là yếu tố đầu tiên của tính tình, "sự nhạy cảm", nghĩa là sự phản ứng nhanh chóng của thần kinh. Không được lẫn lộn sự nhạy cảm với tình cảm, tình thương, vì một trẻ có thể rất nhạy cảm mà không có tình thương, hoặc có tình thương mà không nhạy cảm. Trẻ có thể nhạy cảm và giàu tình cảm, hoặc không nhạy cảm, không tình cảm. Một trẻ nhạy cảm có một thần kinh dễ rung động và do đó thu nhận những cảm giác mãnh liệt hơn. Bây giờ thử quan sát đứa trẻ kia hoạt động. Dầu nó bình tĩnh, nó vẫn luôn luôn tìm việc làm, như những việc lặt vặt trong nhà. Trẻ có thể làm bài trước ở nhà, hoặc sắp đặt dụng cụ, sách vở có ngăn nắp, vui lòng nhận lãnh một việc gì người lớn giao phó, dầu việc ấy nó thích hay không. Trẻ này là trẻ làm việc, trẻ "hoạt động". Cùng ở một trường hợp tương tự, một trẻ khác buồn bực, nóng nảy. Nó chỉ làm việc gì nó thích và, nếu ép nó làm một việc gì nó không thích, nó phản ứng bằng thái độ cau có, vừa làm vừa suy nghĩ vẩn vơ, hoặc bỏ dở công việc. Trẻ này là trẻ "không hoạt động". Đấy là yếu tố thứ nhì của tính tình, "hoạt động tính", không nên lầm lẫn với sự náo động, xung động, sự xài phí sức lực, sự làm việc tùy hứng. Thật ra, tất cả trẻ con đều hiếu động và hăng hái ở vài trường hợp, nhất là chơi đùa, nhưng chúng tôi dùng danh từ hoạt động để chỉ sự sẵn sàng làm một việc bắt buộc, sự chăm chú làm một việc, nhu cầu tìm một việc để làm. Trẻ thích ứng dễ hoặc khó.- Sau hết, nếu chúng ta quan sát kỹ những trẻ nhạy cảm hoặc trẻ hoạt động, chúng ta sẽ thấy có một sự dị biệt lớn giữa lối cư xử của hai mẫu trẻ con. Đứa này cởi mở, sinh hoạt dễ dãi, biết xoay xở, biết thích ứng dễ dàng với hoàn cảnh bên ngoài. Trái lại, trẻ khác "kín đáo", khó hiểu hơn, phản ứng chậm, kém xã giao tính, khó thích ứng với hoàn cảnh. Đây là yếu tố thứ ba của tính tình: tư cách phản ứng dễ dàng hoặc khó khăn. Yếu tố này

15

Page 20: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

hơi khó phân tích hơn tính nhạy cảm hoặc hoạt động tính vì nó biểu lộ dưới nhiều hình thức. Nếu phải ước lượng bằng điểm số, chúng ta có thể cho một đứa trẻ một số điểm bao nhiêu về tính nhạy cảm hoặc về hoạt động tính, trong khi khó ước lượng khả năng thích ứng bằng cách cho điểm như trên. Ví dụ, một trẻ có khả năng xoay xở hoàn hảo trong thế giới sự vật lại thích ứng khó khăn với mọi người. Cũng có thể trẻ rất dễ thương, có xã giao tính, dấu hiệu của tư cách thích ứng, nhưng lại độc đoán, hay gây gổ, thích chống đối: một dấu hiệu trái ngược. Tuy nhiên, nhìn chung đại thể, bạn có thể nói con bạn là "cởi mở" hơn hoặc "kín đáo" hơn, và như vậy cũng đã giúp bạn nhận định tính cách quan yếu và tính cách thực tế của yếu tố cuối cùng là sự thích ứng với thế giới bên ngoài. Hình thể phán ánh tính tình.- Tư cách nhạy cảm, tư cách hoạt động và khả năng thích ứng có liên quan với những thực tế sinh lý. Vậy chúng ta không lấy làm lạ là người ta có thể xét đoán những tính cách này qua hình thể của trẻ. Những nhà tâm lý học đâu có phát minh điều gì mới lạ. Một nghìn năm trước, có những thầy thuốc đã biết phân biệt thế nào là đa huyết chất, thế nào là đảm dịch chất, và những tính tình liên quan với các thể chất đều khác nhau. Chính bạn, tự nhiên bạn cũng làm cái việc xét đoán đó hàng ngay. Bạn gặp một trẻ và nói: "Thử nhìn thằng bé kia, mập mạp, hồng hào, chắc nó dễ dãi vui tính lắm". Hoặc bạn chú ý nhiều đến cặp mắt sáng linh hoạt, lộ tình1 của một bé gái và bạn đoán biết con bé này rất đa cảm. Điều mới lạ và quan trọng là các nhà tâm lý học đã ghi nhận một cách chính xác những mối liên quan nói trên. Mỗi nét trong hình dáng của trẻ chỉ rõ tính tình của nó, cũng như tính tình của nó được phản chiếu trong nét mặt, trong hình thể bàn tay hoặc chữ viết. Nhờ ba khoa học có cái tên khác thường như hình thể tâm lý học (morpho-psychologie) hay môn học về khuôn mặt và thân thể, thủ tướng thuật (chirologie) hay môn học về bàn tay, chiết tự (graphologie) hay môn học về chữ viết mà ngày nay người ta biết xét đoán tính tình. Cũng giống như thầy thuốc quan sát làn da của con bạn, chẩn đoán bệnh ra và chỉ dẫn cách điều trị.

Làm thế nào khám phá tính nhạy cảm?

Có nhiều cách cảm xúc, cũng như có nhiều cách biểu lộ cảm xúc. Trước một tai nạn, một trẻ phản ứng rõ ràng, sợ sệt, run rẩy, vẻ mặt dớn dác, đôi mắt hốt hoảng. Một trẻ khác bề ngoài im lặng, trầm tĩnh nhưng tim đập rất mạnh, hơi thở hổn hển. Vậy cần thận trọng lắm để quyết đoán một trẻ có nhạy cảm hay không. Trước hết, chúng ta phải quan sát trẻ trong trường hợp nào để biết nó có thực nhạy cảm không. Nên tránh những trường hợp có thể làm cho chúng ta lẫn lộn sự nhạy cảm với tình cảm, một bé nhạy cảm với một bé có tình cảm. Không thể nói một trẻ là nhạy cảm vì nó buồn rầu khi mẹ nó mang bệnh nặng. Một bé trai hay một bé gái không nhạy cảm, nghĩa là có những phản ứng yếu ớt trong những trường hợp thông thường, có thể là một trẻ giàu tình cảm, cảm xúc mạnh trước cảnh hoạn nạn của người thân yêu. Mặc dầu rất bình tĩnh và không hoảng sợ trước nguy biến, nó vẫn biết thương, biết buồn, tóm lại là có tình cảm. Trái lại, một em bé không tình, không cảm, tâm hồn khô khan, cứng rắn, không biết thương người, không hề hy sinh cho người thân yêu, vẫn có thể nhảy lên ghế, la hoảng khi con chuột chạy qua, vẫn có thể run sợ, ngất xỉu khi thấy máu chảy. Đứa bé trước có tình cảm mà không nhạy cảm, đứa bé sau nhạy cảm mà

1 Lộ tình (expressif) là biểu rõ ràng tình ý chứ không có nghĩa là đa tình.

16

Page 21: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

không tình cảm. Muốn biết con bạn có nhạy cảm không, nên xem xét nó cả trong những việc nhỏ để biết nó phản ứng thế nào trước sự bất ngờ, nguy biến, tai nạn, sự khiêu khích hay sự chế giễu. Nếu trẻ nhạy cảm, nó phản ứng bằng những dấu hiệu rõ ràng (giật mình, nhảy chồm, run sợ, nổi da gà, la khóc) hoặc bằng những dấu hiệu kín đáo, khó khám phá hơn (mắt nháy lia lịa, tim đập nhanh, hơi thở hổn hển, mặt tái hoặc đỏ). Coi chừng khi xét đoán những trẻ này [vì] chúng ta có thể lầm lẫn. Một trẻ bề ngoài trầm tĩnh không phải lúc nào cũng không nhạy cảm. Nó có thể là một trẻ nhạy cảm biết tự chủ, cảm xúc mạnh nhưng biết dấu kín tâm trạng, không để lộ ra ngoài mặt.

Làm thế nào biết một trẻ nhạy cảm?

a) Trắc nghiệm Trước hết bạn xem xét [cách] cư xử thế nào trong cuộc sống hàng ngày rồi bạn tự đặt ra mười câu hỏi:

CÂU HỎI VỀ TÍNH NHẠY CẢM

1. Trẻ có dễ tái mặt hoặc đỏ mặt không? 2. Bạn có thấy nó khóc hay cười vì những duyên cớ vu vơ không? 3. Nó có biểu lộ xúc cảm ở vẻ mặt hoặc giọng nói thay đổi không? 4. Nó có nhảy chồm hoặc giật nẩy mình dễ dàng không? 5. Nó có nóng nảy vì những việc tầm phào không? 6. Nó có tức giận lắm đối với những lời trêu ghẹo, đùa cợt của bạn bè không? 7. Tính khí nó có thay đổi, khi vui, khi buồn, lúc khó chịu không? 8. Nó có nóng nảy, bồn chồn lắm không? 9. Nó có nổi nóng dễ dàng khi gặp một việc gì trái ý không? 10. Nó có phản ứng mạnh trước những việc nhỏ xảy ra một cách bất ngờ không? Trả lời "có" hoặc "không" mỗi câu hỏi và đếm số "có" và "không". Nếu "có" 5 "không" hoặc nhiều hơn, chắc chắn con bạn là trẻ "không" nhạy cảm. Nếu "có" ít nhất 6 "có", chắc chắn con bạn nhạy cảm. Trường hợp 10 "có" con bạn là đứa bé rất nhạy cảm, và sự nhạy cảm quá độ của nó là mối quan tâm của cha mẹ. b) Xem xét vẻ mặt Dù có cố gắng giữ tính cách thành thật khi trả lời những câu hỏi trên, bạn có thể lầm lẫn, nhất là nếu trẻ thuộc thành phần những trẻ nhạy cảm kín đáo. Rất may là ta có thể xác định kết quả bằng cách quan sát vẻ mặt của trẻ.

17

Page 22: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

TRẺ NHẠY CẢM CỞI MỞ

Mắt sáng với cái nhìn linh hoạt, vẻ mặt biểu lộ tình cảm tươi cười.

TRẺ NHẠY CẢM KÍN ĐÁO

Cái nhìn biểu lộ tình ý và hình như quay vào cuộc sống nội tâm, miệng nghiêm nghị, vẻ mặt

tự chủ tuy không lạnh lùng.

18

Page 23: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

TRẺ KHÔNG NHẠY CẢM

Cái nhìn trầm tĩnh, vẻ mặt yên hàn, cả khi cười nét mặt [vẫn] hơi thô.

Trẻ nhạy cảm cởi mở có đôi mắt sáng, cái nhìn linh hoạt và một vẻ mặt rất linh động, lộ tình. Nụ cười biểu hiện trên cả khuôn mặt. Chúng làm điệu bộ, mím môi, nheo mắt khi nói. Đó là những dấu hiệu dễ phân biệt. Trẻ nhạy cảm kín đáo bề ngoài có vẻ mặt lạnh lùng, kín đáo. Tuy nhiên, nếu để ý quan sát, bạn sẽ thấy nét mặt thay đổi như ở trẻ nhạy cảm cởi mở, tuy sự biến đổi không được bộc lộ rõ ràng. Cái nhìn giúp ta hiểu rõ hơn. Không phải cái nhìn trầm tĩnh mà là cái nhìn sâu sắc. Không phải cái nhìn sôi động của đôi mắt long lanh mà là cái nhìn phản ánh cuộc sống nội tâm trầm lặng. Trái lại, trẻ không nhạy cảm có lối nhìn bình tĩnh, nét mặt trầm lặng, vẻ mặt không hề nhăn nhó, không làm điệu bộ như những trẻ nhạy cảm cởi mở (hướng ngoại), mà cũng không có vẻ kềm chế, căng thẳng như trẻ nhạy cảm kín đáo (hướng nội). c) Bàn tay Dầu màu da có khác, bàn tay của trẻ nhạy cảm có vẻ hồng hào, chỉ tay rậm, lòng bàn tay lõm vào, ngón tay dài, nước da mịn màng. Trẻ không nhạy cảm, trái lại, có bàn tay kém hồng hào, da mét, kém mịn, lỗ chân lông thưa, chỉ tay thưa thớt. So sánh hai bàn tay:

19

Page 24: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Bàn tay của trẻ nhạy cảm không hoạt động tính.

Bàn tay dài, lòng bàn tay lõm sâu, ngón tay trơn (đốt không nổi), nhọn (ngón tay búp măng), chỉ tay chằng chịt, cạn. Khi trẻ đưa bàn tay lên, ngón cái ngả theo chiều các ngón khác.

Bàn tay của trẻ hoạt động, không nhạy cảm

20

Page 25: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Bàn tay vuông, lòng bàn tay ít lõm, gân guốc, ngón tay vuông, chỉ tay thưa nhưng sâu. Tư thế dựng đứng của ngón tay cái khi trẻ đưa bàn tay lên là dấu hiệu hoạt động tính. d) Chữ viết Chữ viết của trẻ dưới 10, 11 tuổi khó phân tích, vì vậy những chỉ dẫn sau chỉ áp dụng cho những "trẻ lớn". Chữ viết của trẻ nhạy cảm không đều. Tuy nhiên, tính cách không đều ấy chỉ nhận thấy ở chi tiết, một mặt do kỷ luật học đường tập học sinh sửa sang chữ viết, mặt khác nhiều trẻ nhạy cảm kín đáo biết nắn nót chữ viết để cho chữ viết đại cương có vẻ như đều đặn. Vậy cần xem xét kỹ càng nhiều mẫu chữ viết, viết trong nhiều lúc khác nhau và không nên chọn một bài làm chăm chỉ mà xét đoán chữ viết, phải lấy những giòng chữ viết tự nhiên, tình cờ ghi lại trên mặt giấy. Bạn sẽ nhận thấy chữ viết qua nhiều ngày không hề giống nhau, nét chữ không đều, chữ to, chữ nhỏ, giòng chữ không thẳng thớn, lên xuống cao thấp không chừng, nét chữ chận trên mặt giấy lúc mạnh, lúc nhẹ khác nhau. Một trẻ thần kinh kích thích có một lối chữ viết không cân phân, run rẩy, ngoằn ngoèo, lộn xộn, nét chữ chạm nhau, từ chữ này qua chữ khác, từ hàng này sang hàng khác. Trái lại, trẻ không nhạy cảm viết chữ đều đặn, không những trong đại thể mà ngay ở chi tiết, hàng chữ ngay ngắn, kích thước chữ đồng đều, nét chữ chận trên mặt giấy có vẻ nhất trí, không có thêm thắt, không có đứt quãng, không có run rẩy.

Chữ viết của trẻ nhạy cảm (cởi mở, hướng ngoại)

21

Page 26: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Chữ viết của trẻ nhạy cảm (kín đáo, hướng nội)

22

Page 27: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Chữ viết của trẻ không nhạy cảm

Làm thế nào nhận xét hoạt động tính?

Đây ba em nghỉ hè, sống chung trong một gia đình và được tự do sử dụng thì giờ của mình. Con Mai dùng thì giờ rảnh rỗi để nghỉ ngơi. Buổi sáng nó dậy trưa, dậy rồi vẫn ngồi trong phòng ca hát, sau đó ra vườn đọc vài trang sách, nói chuyện phiếm với bé gái hàng xóm, dạo quanh, suy nghĩ vẩn vơ. Nhìn qua ta biết Mai không có hoạt động tính. Mẹ nó sai bảo việc gì, Mai tuân theo, nhưng nếu không ai nhắc nhủ thì nó có khuynh hướng ngồi chơi, mơ mộng. Bây giờ đến Ba. Lúc Mai vừa thức giấc, Ba đã tắm rửa xong và đi qua làng bên cạnh, lấy bánh mì mà người bán bánh đã quên đưa tới và gửi bài làm nghỉ hè hằng ngày. Bây giờ nó đang giúp ba nó tưới cây trong vườn và lát nữa nó sẽ gặp bạn nó đúng theo lời hẹn để cùng bạn làm xong cái lều. Ba không thể ngồi im mà không làm một việc gì. Ba là một trẻ hoạt động điển hình. Nhân bắt đầu sử dụng thì giờ nghỉ hè của nó gần giống như Mai. Nó không làm việc gì vì nó có vẻ mệt mỏi. Rồi có kẻ đưa ý kiến với Nhân là rủ những trẻ hàng xóm tổ chức một buổi dạ hội, lũ trẻ trình diễn vài vở kịch vui. Từ đó Nhân không rảnh một phút. Nhân đóng vai chính trong vở kịch, nhưng ngoài nhiệm vụ diễn viên, Nhân còn là giám đốc, đạo diễn, trưởng ban tổ chức, ủy viên quảng cáo, tiếp tân... Mấy ngày tổ chức, Nhân quay cuồng, bận rộn, vất vả. Mọi người đều khen: "Nhân là một thiếu nhi xuất sắc. Nhân hăng hái hoạt động, không hề bỏ phí một phút nào".

23

Page 28: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Đó là một lời nhận xét có thể đưa chúng ta tới chỗ lầm lẫn, vì nếu Nhân hoạt động say sưa vì hứng thú chứ không phải hoạt động tính thật sự. Nhà tâm lý học không sắp Nhân vào loại trẻ hoạt động, vì họ biết chắc ngày mai khi đêm vui đã tàn, Nhân sẽ rơi vào cảnh buồn tẻ cho đến lúc nó tìm được một việc thích thú khác. Nhân hoạt động say mê, hăng hái như vậy không phải vì Nhân là trẻ hoạt động mà vì nó là trẻ nhạy cảm. Nếu má Nhân có trả lời những câu hỏi trắc nghiệm về nhạy cảm ở chương trên, bà ta sẽ đáp "có" tất cả hoặc hầu hết những câu hỏi trắc nghiệm. Vì hoạt động theo nghĩa thông thường có thể có hai nguồn gốc: Tính nhạy cảm, biểu lộ ra ngoài dưới hình thức động tác, cử chỉ, hành vi. Trẻ nhạy cảm nếu có một nguồn hứng khởi kích thích thì hành động với một sự hăng hái vượt bực, nhưng nó hành động vì hứng thú, đam mê. Nếu nó khoái vẽ, nó vẽ suốt ngày; nếu nó thích chơi, trò chơi không làm cho nó mệt mỏi; nếu ở trường nó mến ông giáo sư Pháp văn, nó làm bài Pháp ngữ suốt ngày, không hề đá động đến các môn học khác, cho dù nó không có năng khiếu về sinh ngữ, tuy nhiên sự hoạt động bao giờ cũng nặng tính chất đam mê, căng thẳng quá độ. Còn hứng khởi là còn hoạt động, hết hứng khởi, hết hoạt động. Va chạm với những thất bại đầu tiên hoặc trải qua một thời gian náo động, sự hoạt động tắt lịm vì lửa hứng khởi kích thích không thể duy trì mãi mở một mức độ đồng đều. Sau nữa, sự đam mê có thể đi đôi với sự thiếu thiện chí hoặc lười biếng với những gì trẻ không thích thú. Hoạt động tính thực sự biểu lộ khác hẳn, bề ngoài có vẻ yên tĩnh và đều đặn hơn. Có thể nói trẻ súc tích trong người nó một nguồn sinh lực dồi dào cần phải sử dụng, giống như một giòng suối chảy đều từ một mạch nước ngầm dưới đất. Đối với trẻ có hoạt động tính thực sự, không cần duyên cớ, không cần hứng khởi, dù chơi đùa hay làm việc, thiện chí của nó vẫn đồng đều. Nó sẵn sàng lên làng mua rau hộ cho bạn cũng như đi dạo với bạn bè. Điều quan trọng là cuốc xe đạp một chục cây số giúp nó xài sức lực thừa thãi. Suốt một niên khóa, nếu tuần này nó làm xong sớm bài vở, còn thì giờ rãnh rỗi nó khởi sự soạn bài tuần sau, còn trẻ nhạy cảm đợi đến giờ chót mới bắt tay vào việc, rồi thì lắm khi gấp gáp, làm ẩu, chạy nước rút cho kịp giờ. Khi bạn tự hỏi con bạn có phải là trẻ có hoạt động tính không, bạn nên thận trọng; bạn thường có khuynh hướng không biết tới động lực của sự nhạy cảm và đánh giá khá cao sự hoạt động tùy hứng của nó. Nên dè dặt, quan sát kỹ lưỡng trước khi sắp hạng trẻ. Chưa được một phần tư trẻ con có hoạt động tính thực sự.

Làm thế nào biết trẻ có hoạt động tính

a) Trắc nghiệm Bạn xem xét con bạn trong sinh hoạt hàng ngày và bạn trả lời "có" hoặc "không" mười câu hỏi sau nhằm mục đích biết rõ hoạt động tính của nó.

CÂU HỎI VỀ HOẠT ĐỘNG TÍNH

1. Thường thường trẻ có thấy khó khởi sự làm việc không? 2. Một việc làm nó không thích có làm cho nó mau nản chí? 3. Trẻ có làm việc tùy hứng, khi thì gắng sức, lúc thì dã dượi không? 4. Bạn có cần thúc giục nó tập thể dục không?

24

Page 29: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

5. Nó có thích đi lang thang, mơ mộng không? 6. Trước khi bắt tay vào việc, nó có cần một thời gian suy nghĩ hoặc phát động không? 7. Trẻ có thường hay bỏ dở những công việc khi thấy việc ấy kéo dài không? 8. Nó có nản lòng trước khó khăn không? 9. Nó có thích đọc sách hơn là lao động chân tay không? 10. Thỉnh thoảng nó có mệt mỏi lắm không? Nếu bạn trả lời "không" hơn 5 câu hỏi trên, con bạn là một trẻ hoạt động thực sự. Nếu bạn đáp "có" hơn 5 câu hỏi, chúng ta sẽ sắp trẻ vào loại trẻ không có hoạt động tính. (Nói vậy không có nghĩa là nó không có khả năng hành động, điều này tưởng có nhắc lại nhiều lần cũng nên). b) Xem xét khuôn mặt Thử nhìn khuôn mặt của trẻ. Nhìn kỹ cái người ta thường gọi là ba tầng của một khuôn mặt: tầng trên gồm trán, màng tang cho đến hai mắt; tầng giữa có mũi, gò má và hai má; tầng dưới là hai hàm, cằm và miệng. Nếu ba tầng cân phân với nhau, nhìn thẳng trước mặt hoặc nhìn nghiêng, đó là một dấu hiệu quan trọng của hoạt động tính. Một khuôn mặt hình tam giác (mặt lưỡi cày), hình chữ nhật dài hoặc hình thuẫn là dấu hiệu kém hoạt động. Một khuôn mặt hơi vuông hoặc hình chữ nhật ngắn (mặt chữ điền) là dấu hiệu hoạt động điển hình. Không nên ỷ lại ở một dấu hiệu đơn độc, cũng như không được căn cứ ở một câu giải đáp mà quyết đoán. Trẻ hoạt động có một vóc dàng dềnh dàng và rắn chắc hơn trẻ kém hoạt động: mẫu trẻ này thân hình mảnh dẻ, yếu đuối hơn, đôi khi có to cũng là mình thịt, mập bệu. Trẻ hoạt động tuy thân hình vạm vỡ mà không chậm chạp, những bắp thịt trên mặt nổi lên, cứng cáp, đôi môi tự nhiên khép kín, má cao, cằm không nhọn, không lẹm như cằm trẻ nhạy cảm mà vuông vức, cứng cáp.

25

Page 30: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Trẻ không hoạt động

Khóe miệng, đôi mắt xệ xuống, bắp thịt trên má không cứng cáp

Trẻ hoạt động

Nét mặt cương nghị, đôi môi khép kín, cằm vuông, cứng cáp

26

Page 31: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

c) Bàn tay Bàn tay của trẻ hoạt động cứng cáp và gân guốc so với [bàn tay của] những trẻ đồng lứa tuổi. Để thẩm định sự dị biệt, cần so sánh những dấu hiệu này ở trẻ khác. Bàn tay của trẻ hoạt động dày và cứng hơn, vì những bắp thịt ở tay cũng như ở mặt, ở thân thể [của trẻ này] căng thẳng hơn [bắp thịt] ở những trẻ kém hoạt động tính. Hai bắp thịt dưới ngón tay cái và ở bên đối diện (sách tướng gọi là gò Kim Tinh và gò Thái Âm) nổi cao lên và không phải vì thế mà lòng bàn tay lõm sâu (lòng bàn tay lõm ít là bình thường). Chỉ tay nâu và có mầu hồng lợt. Móng tay cứng. Bàn tay trẻ không hoạt động tính mềm mại hơn, không gân guốc, và lòng bàn tay lõm sâu. Móng tay mềm và lún xuống khi ta thử lấy móng tay ấn mạnh lên trên. Chỉ tay cạn và lợt. d) Chữ viết Chữ viết tự nhiên mang dấu vết bắp thịt căng thẳng của trẻ có hoạt động tính. Nét chữ chận mạnh vì trẻ ấn mạnh xuống bút chì, ngòi bút đôi khi mạnh quá làm cho nét bụt đận, thô, chè bè, ăn xuống mặt sau tờ giấy. Kích thước chữ đồng đều, dù ở cuối chữ hoặc cuối dòng. Toàn thể có một dáng điệu nhanh nhẹn, linh hoạt. Chữ viết của trẻ không hoạt động tính nhẹ nhàng, nét chữ không đều và chữ (mẫu tự) ở cuối chữ nhỏ hơn ở đầu.

Chữ viết của trẻ hoạt động

27

Page 32: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Chữ viết của trẻ không hoạt động tính

Một sự đoán xét đầu tiên

Bây giờ bạn có thể biết con bạn có thuộc về một trong bốn loại lớn do những nét căn bản tính tình quy định không? Bốn loại đó là: 1. Trẻ nhạy cảm thuần túy: gồm những trẻ nhạy cảm không có hoạt động tính (theo nghĩa hoạt động thực sự trong sách này). Những nhà tâm lý học đã ghi nhận là tại Pháp đây là loại trẻ đông đảo nhất. 2. Trẻ nhạy cảm hoạt động: vừa nhạy cảm vừa hoạt động. 3. Trẻ hoạt động thuần túy: là trẻ có hoạt động tính mà không có tính nhạy cảm. 4. Trẻ không nhạy cảm, không hoạt động: không có tính nhạy cảm mà cũng không có hoạt động tính theo định nghĩa của tác giả và còn mang danh từ "bất động".2 Trẻ nhạy cảm Mặt dài, phần trên rộng. Nét mặt thanh tú và linh động. Mắt lộ tình. Cổ thon, cằm nhọn. Da mịn, mí mắt dưới hơi no lên.

2 Bất động (calme) ở đây không có nghĩa trầm tĩnh.

28

Page 33: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Nhạy cảm lộ tình, hay trẻ thần kinh

Nhạy cảm kín đáo, hay trẻ đa cảm

29

Page 34: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Trẻ hoạt động Hàm lớn làm cho phần dưới mặt bạnh ra. Thịt chắc. Cổ lùn và to. Lông mày rậm. Khóe miệng thẳng. Mắt sáng với cái nhìn trầm tĩnh.

Hoạt động cởi mở, hay đa huyết chất

Hoạt động suy nghĩ, hay trầm tĩnh chất

30

Page 35: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Trẻ nhạy cảm hoạt động Nét mặt cũng thanh tú và linh hoạt như mặt của trẻ nhạy cảm thuần túy nhưng ngắn, gần như vuông. Cằm vuông, cứng cáp. Thân hình vạm vỡ. Mắt sáng. Tóc cứng. Nước da hồng hào.

Nhạy cảm hoạt động phô trương, hay dị nộ chất

Nhạy cảm hoạt động tổ chức, hay đam mê chất

31

Page 36: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Trẻ bất động Mặt không có bắp thịt nổi lên. Da mét hoặc không bóng. Mũi tẹt. Cằm lẹm. Môi dày. Vẻ mặt yên lặng, dù trong khi cười. Đuôi mắt và khóe miệng xệ xuống.

Không nhạy cảm, không hoạt động, cởi mở, hay lâm ba chất

Không nhạy cảm, không hoạt động, lãnh đạm, hay bất động chất.

32

Page 37: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Làm thế nào thẩm định khả năng thích ứng Bước vào chương này chúng ta đã thấy rằng đặc tính căn bản thứ ba của tính tình là sự thích ứng dễ hay khó. Nhà tâm lý học gọi sự thích ứng dễ dàng bằng danh từ "dễ uốn nắn". Và một tính tình kín đáo, cứng cỏi là một tính tình không "dễ uốn nắn".3 Một trẻ thích ứng dễ dàng, hay là dễ uốn nắn thì tự nhiên cởi mở, đón nhận thế giới bên ngoài. Nó quan tâm đến hiện tại, thực tế, người và vật xung quanh. Nó làm quen mau chóng với cảnh mới, người lạ, và biết xoay xở trước cảnh ngộ mới, trước vấn đề thực tại. Luôn tùy thời, nó thay đổi tư tưởng, ý kiến dễ dàng. Tham mới, chuộng lạ, vì cái mới, cái lạ không làm cho nó e sợ. Trẻ dễ thích ứng tự nhiên quay ra thế giới bên ngoài, vui với thế giới hữu hình và thích sống đời sống tập thể. Trẻ thích ứng khó khăn không hề kém hơn trẻ trước. Tính tình nó khác, chỉ có thế thôi. Quan sát con trẻ trong một hoàn cảnh, tình trạng quen thuộc để nhận xét nó thuộc về loại trẻ này là một việc làm lầm lẫn. Vì tính khó thích ứng thường biểu lộ trong những trường hợp bất ngờ trước những người lạ. Đối với mẫu trẻ này, phải có một khoảng thời gian để thích ứng, vì thế nó không thích cái mới lạ, sự đổi thay. Không biết tùy thời, nó chỉ ưa cái quen thuộc. Nó không hòa mình dễ dàng với những quan niệm, ý kiến của người khác. Nó không bộc lộ dễ dàng tình ý riêng như trẻ cởi mở. Nó suy nghĩ, đắn đo, dè dặt, kín đáo hơn. Trẻ dễ uốn nắn có một khuôn mặt cởi mở.- Tính cách dễ uốn nắn, cởi mở phát lộ rõ ràng trên vẻ mặt. Nhìn mặt trẻ, chúng ta có thể phác họa cái khuôn, bắt đầu từ cằm, hai má lên chân tóc. Đó là "mặt lớn". Chúng ta thấy tất cả vẻ mặt, nét mặt đều tập trung trong một khuôn khác nhỏ hơn, trong đó bao gồm những giác quan hiện có trên mặt. Cái khuôn thứ nhì này là "mặt nhỏ", bắt đầu từ môi dưới lên đến hai mắt. Mặt nhỏ có thể chiếm một diện tích lớn hay nhỏ trong mặt lớn; nó có thể thu hẹp lại ở giữa (hai mắt sâu và sát nhau, chân mày thấp, miệng nhỏ, môi mím, trán cao rộng), hoặc trái lại, choán gần hết mặt lớn (hai mắt lớn, lộ, mày vòng nguyệt, miệng rộng). Trường hợp sau, trẻ rất dễ uốn nắn, cởi mở. Trường hợp trước, trẻ kín đáo, trầm lặng. Hai tai, tuy vượt ra ngoài khuôn mặt, vẫn theo dáng điệu chung. Một trẻ dễ uốn nắn, cởi mở thường có hai tai lớn, xừng lên. Tai nhỏ, dính sát vào hai bên đầu là dấu hiệu không dễ uốn nắn. Dĩ nhiên những dấu hiệu này ít khi tập trung trong một khuôn mặt. Hai mẫu trẻ mô tả trên là hai thái cực. Nếu bạn quan sát kỹ con bạn, bạn sẽ thấy tính tình của nó có những màu sắc phức tạp, nó cởi mở ở một vài điểm và kín đáo ở những điểm khác. Chẳng hạn, trẻ không khéo tay nhưng có thể kết thân nhanh chóng với bạn học, hoặc nó rụt rè, kém xã giao nhưng rất khéo tay và phản ứng nhanh nhẹn hoặc hay gây gổ, thù hằn, nhưng có lúc tỏ ra hiền hậu, dễ bảo. Muốn hiểu rõ con bạn, bạn cần xem xét riêng rẽ mọi khía cạnh của tính dễ uốn nắn. Có thể phân biệt bốn khía cạnh. Muốn biết con bạn có thích ứng dễ dàng với sự vật không, thử tìm xem nó có phản ứng mau lẹ và nó có biết tập trung tư tưởng không. Muốn biết con bạn có thích ứng dễ dàng với người không, thử xem nó có hòa thuận không, có xã giao tính không? Khía cạnh quan trọng hơn hết, khía cạnh ta tìm hiểu trước nhất nơi con trẻ thuộc loại dễ uốn nắn hoặc không dễ uốn nắn là sự phản ứng mau hay chậm.

3 Danh từ "dễ uốn nắn" tuy có rườm rà những diễn tả chính xác nghĩa chữ plastique hơn là những danh từ dễ ảnh hưởng, dễ bị chi phối, dễ cảm hóa, v.v.

33

Page 38: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Đây, hai thái cực

Mắt lớn, miệng rộng, chiếm hết khuôn mặt. Tai lớn và vểnh

Mắt sâu, gần sát nhau, mắt nhỏ, phần biểu lộ tình ý chiếm một diện tích rất hẹp

34

Page 39: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

1. TRẺ RẤT DỄ UỐN NẮN

Mặt: - Nước da trắng - Trán rộng - Mắt lớn, sáng long lanh, chân mày cong - Má đầy đặn, tai lớn và vểnh - Miệng rộng, môi mở, vành môi sắc sảo Tay: - Mập mạp, mềm và nóng - Dễ ra mồ hôi - Ngón tay ngắn4, trơn (đốt tay không nổi lên), mềm mại Cách cư xử: - Rất cởi mở, nghĩ sau nói vậy - Dễ uốn nắn, dễ cảm hóa, thường ngả theo ý kiến của người khác - Hay quên và chóng đổi ý - Dễ thương và mau làm quen với người lạ - Vấn đề gì cũng thảo luận mà thực tế thì không am tường - Khéo tay, biết xoay xở, không kén ăn

2. TRẺ KHÔNG DỄ UỐN NẮN

Mặt: - Nước da ngăm đen - Trán cao, bằng hoặc vồ - Đôi mắt sâu, sát nhau, chân mày thẳng - Má bằng, tai nhỏ - Mũi mỏng - Miệng nhỏ, môi mím Tay: - Hẹp, lạnh, màu da lợt - Ngón tay thon, dài như lòng bàn tay - Đốt ngón tay nổi lên Cách cư xử: - Kín đáo, dè dặt, rụt rè - Ít nói - Khó bảo, không chịu vâng lời

4 Ngón tay được gọi là ngắn nếu ngón tay thứ ba ngắn hơn 4/5 lòng bàn tay đo từ cườm tay.

35

Page 40: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

- Tính tình độc lập, hay suy nghĩ, khó ngả theo ý kiến người khác, khó cảm hóa - Lo lắng công việc - Lâu "bắt bồ" nhưng rất trung thành - Học chậm nhưng không quên - Khéo tay, biết xoay xở, không kén ăn

Phản ứng mau hay chậm

Bạn có thể hiểu thế nào là phản ứng mau hay chậm bằng cách tự quan sát lấy bạn. Bạn đang trò chuyện với một người bạn thân. Thình lình người này đưa ra một ý kiến bất ngờ (châm biếm, ý nhị hay hài hước), bạn phản ứng làm sao? Có thể bạn lanh trí và trả lời tức khắc, như vậy là bạn phản ứng mau chóng. Nhưng cũng có thể bạn thuộc hạng người bị đánh bất ngờ, không đủ lẹ tay lanh trí đỡ đòn. Bạn không trả lời gì cả, có lẽ bạn nghe khó chịu, nhưng một giờ sau hoặc qua ngày mai, bạn ngẫm nghĩ tức tối vì lời nói nhục mạ hoặc bạn mỉm cười một mình nếu là lời hài hước, cợt đùa, hoặc bạn cố tìm câu trả lời ý nhị [mà] đáng lẽ bạn [đã có thể] ứng khẩu nói ngay lúc đó. Bạn phản ứng chậm chạp trước một biến cố bất ngờ. Bù lại, biến cố ấy lưu lại nơi bạn một ấn tượng sâu đậm, một âm hưởng dai dẳng. Chớp và sấm khác nhau. Chớp sáng lòe rất nhanh rồi biến mất, còn sấm nổ rền vang từng hồi. Giống như thế, trước một việc bất ngờ, đứa trẻ có thể có một phản ứng mau chóng nhưng nhất thời, đó là "phản ứng mau", hoặc trái lại, có một phản ứng chậm hơn, theo sau là những ý nghĩ dai dẳng, miên man, đó là "phản ứng chậm". Trẻ phản ứng chậm cảm xúc sâu xa, nhưng cần phải một thời gian lâu. Nó không sống hoàn toàn ở hiện tại, nó cần rời khỏi những ấn tượng cũ để hòa nhịp với hiện tại. Những phản ứng của trẻ này thường là hậu quả của một sự dồn ép. Khi nó nổi giận, cơn giận ấy có những duyên cớ không chỉ ở hiện tại mà còn bắt nguồn từ trong quá khứ. Khi nó buồn, khó mà an ủi. Cảm giác, ấn tượng, phản ứng nơi trẻ này chất chứa, dồn ép, sâu đậm theo với thời gian. Trong bốn loại ta vừa quan sát ở chương trước, bây giờ ta có thể phân biệt hai mẫu trẻ: - Trẻ có phản ứng mau, dễ uốn nắn, nghĩa là cởi mở, dễ cảm hóa. - Trẻ có phản ứng chậm, không dễ uốn nắn. Như vậy, có tám mẫu tính tình chính, nhà tâm lý học gọi bằng những danh từ riêng cho dễ phân biệt. Từ đây, chúng ta dùng những danh từ ấy mà không nên quên nghĩa thực của mỗi danh từ. Dễ uốn nắn Không dễ uốn nắn Nhạy cảm thuần túy Thần kinh chất Đa cảm chất Nhạy cảm hoạt động Dị nộ chất Đam mê chất Hoạt động thuần túy Đa huyết chất Trầm tĩnh chất Bất động Lâm ba chất Bất động chất

Làm thế nào phán đoán tính cách mau, chậm của phản ứng

a) Trắc nghiệm Quan sát trẻ trong cách cư xử hàng ngày và trả lời mười câu hỏi sau:

36

Page 41: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

CÂU HỎI VỀ TÍNH CÁCH MAU, CHẬM CỦA PHẢN ỨNG

1. Trẻ có dễ an ủi không? 2. Nó có dễ chi phối, cảm hóa không? 3. Những ham thích của nó có chóng qua, chóng thay đổi không? 4. Có phải lúc nào cũng phải bắt đầu lại với nó vì nó có khuynh hướng mau quên? 5. Nó có vô tư lự và nông nổi, bồng bột không? 6. Nó có dễ quên những quyết định và lời hứa không? 7. Nó có chuyển từ việc này sang việc khác một cách dễ dàng không? 8. Cơn giận của nó có giống như lửa rơm, dễ cháy và mau tàn không? 9. Nó có đợi đến giờ chót mới nghĩ đến những việc nó có thể làm trước không? (Nên ghi nhận trẻ có thể lo trước mà không làm việc đó. Ở đây cần biết nó có nghĩ đến việc hay không?) 10. Nó có thích sự mới lạ, bất ngờ, sự thay đổi không? Nếu bạn đếm trên 5 câu trả lời "có", chắc chắn con bạn là trẻ có phản ứng mau. Nếu không, nó sẽ được liệt vào số trẻ phản ứng chậm. Ta hiểu ngay trẻ có phản ứng mau nói chung thích ứng với hoàn cảnh, cởi mở, dễ dãi. Nó nghĩ thế nào, người khác biết ngay. Nó vui tính và dễ cảm hóa, [dễ bị] chi phối nếu người ta biết cách điều khiển. Trái lại, mẫu trẻ kia kín đáo hơn, hay suy nghĩ, chín chắn, thận trọng, ít bồng bột, sôi nổi. Không dễ gì chi phối, cám dỗ nó. Biết tôn trọng kỷ luật, nguyên tắc. Lâu làm quen, nhưng trung thành với bạn hữu. Hai loại trẻ nói trên không thể giáo dục như nhau, điều này dễ hiểu quá. Mẫu trẻ thứ nhất không có những đặc tính của mẫu trẻ thứ nhì, và mẫu trẻ thứ nhì không có những đặc tính của mẫu trẻ thứ nhất. Nên khôn khéo chỉ đòi hỏi nơi trẻ những gì hợp với khả năng của nó. b) Vẻ mặt Sự phản ứng mau biểu lộ rõ ràng trên vẻ mặt. Trẻ có phản ứng mau và nhất thời có: - Chân mày vòng nguyệt đóng cao [bên] trên mắt - Cặp mắt sáng, lớn, đôi khi lộ - Cái nhìn linh hoạt - Điệu bộ tự nhiên - Hai tai vểnh Trái lại, trẻ phản ứng chậm có: - Cái nhìn kém linh hoạt nhưng sâu sắc, lối nhìn trầm tư hoặc mơ mộng - Ít làm điệu bộ khi nói - Trán vồ hoặc bằng, ở giữa có vết nhăn

37

Page 42: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Trẻ phản ứng mau. Đôi mắt lớn, sáng, mày cong, tai vểnh

Trẻ phản ứng chậm. Đôi mắt sâu, chân mày đóng thấp

38

Page 43: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

c) Chữ viết Trẻ có phản ứng mau có một lối viết chữ gãy gập, chữ (mẫu tự) rời rạc. Nếu thuộc loại trẻ nhạy cảm, chữ viết càng không đều hơn nữa. Chữ lớn, chữ nhỏ, chữ đứng, chữ nghiêng, hàng chữ lên xuống ngoằn ngoèo. Trẻ có phản ứng chậm viết chữ đều đặn, chữ nối liền nhau, không rời rạc, hàng ngay ngắn. Tuy nhiên, cần để ý một điều, là do kỷ luật nhà trường, thói quen viết trên giấy và dưới sự kiểm soát của thầy giáo, trẻ viết chữ đều hơn.

Chữ viết của trẻ phản ứng mau

39

Page 44: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Chữ viết của trẻ phản ứng chậm

Nhu thuận hay tranh đấu?

Thế tình ai cũng nghĩ con gái là dịu hiền, dễ dãi và nhân nhượng, còn con trai thì ương ngạnh, hay chống đối, thích tranh đấu. Chỉ cần xem nam sinh, nữ sinh chơi đùa là đủ biết. Thực tế vẫn có những bé gái ưa tranh đấu, không chịu phục tùng, và bé trai nhu mì, nhân nhượng. Muốn cho rõ hơn, thử nhìn thái độ của chúng đối xử với người khác. Trẻ nhu thuận không cãi cọ, gây gổ, tranh giành. Nó có thể gây gổ khi bị khiếu khích, nhưng thường thì cư xử hòa nhã, thỏa hiệp với bè bạn. Lúc nào nó cũng tìm cách làm vui lòng kẻ khác. Trẻ làm quen mau, kết thân dễ dàng. Trái lại, trẻ tranh đấu là trẻ thích chống đối, ưa chỉ trích, không chịu nhân nhượng trước ý kiến của kẻ khác và cứ bênh vực, bảo thủ ý kiến của mình. Không lùi bước trước sự cãi cọ, gây gổ mà có khuynh hướng khiêu khích, làm trái điều người khác yêu cầu. Làm thế nào biết con bạn là trẻ nhu thuận hay trẻ tranh đấu?

40

Page 45: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

a) Trắc nghiệm về đường lối cư xử của trẻ

CÂU HỎI VỀ TÍNH TRANH ĐẤU 1. Trẻ có tính bất phục tùng không? 2. Nó có óc chống đối mạnh mẽ không? 3. Nó có thường cãi cọ, gây gổ, kiện cáo không? 4. Nó có chỉ trích việc làm của người khác không? 5. Nó có khinh rẻ những trẻ không dám đánh lộn không? 6. Nó có thái độ lúc nào cũng cho mình là có lý không? 7. Nó có khư khư cố giữ thói quen, lề lối làm việc của mình, dù đó không làm vừa lòng kẻ khác không? 8. Nó có dễ nổi sùng trong một cuộc tranh luận không? 9. Nó có cóc cần cư xử nhã nhặn, làm vừa lòng người khác không? 10. Nó có thích mạo hiểm không? Nếu bạn tìm được 5 câu giải đáp "có", con bạn có thể sắp vào số trẻ "tranh đấu"; dưới 5 "có", nó thuộc loại trẻ "nhu thuận". b) Vẻ mặt Trẻ nhu thuận có một khuôn mặt tròn và gồm nhiều đường cong xinh xắn. Vẻ mặt có một cái gì đó "đàn bà", với cái nhìn hiền dịu và một cái mũi cong. Góc quai hàm làm thành một đường cong êm ái. Cằm tròn. Nhìn một bên nét mặt không góc cạnh. Trái lại, trẻ tranh đấu có một vẻ mặt cương cường, vẻ mặt "nam tử". Lối nhìn đứng đắn hoặc có vẻ châm biếm, mũi cao, thẳng hoặc nhô lên ở giữa đường sống. Góc quai hàm nhô lên. Nhìn một bên, nét mặt có góc cạnh. Nụ cười cũng biểu lộ tính nết. Trẻ nhu thuận hay cười và nụ cười hồn nhiên. Trẻ tranh đấu không biết cười. Chỉ lúc chơi đùa chúng mới cười, nhưng nụ cười chóng tàn trên đôi môi nghiêm nghị.

41

Page 46: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Trẻ tranh đấu

Nhìn trước, nét mặt cứng cỏi, có góc cạnh, cái nhìn không mềm yếu

Nhìn một bên, nét mặt có góc cạnh, với cái mũi thẳng và dô ra

42

Page 47: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Trẻ nhu thuận

Nhìn trước, khuôn mặt tròn với vành cong êm ái, đôi mắt hiền hòa, không có vẻ khiêu khích

Nhìn một bên, nét mặt êm dịu, mũi ngắn hoặc thấp theo chiều trán kéo dài, đường cong cong c) Chữ viết Chữ viết của trẻ nhu thuận tròn trịa, những nét thẳng hóa ra cong, dáng chữ nghiêng. Trẻ tranh đấu viết chữ có cạnh, có những móc, ngang chữ T nhọn ở cuối như những mũi tên, dấu hiệu một khiếu chỉ trích sắc bén.

43

Page 48: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Chữ viết của trẻ nhu thuận

Chữ viết của trẻ tranh đấu

44

Page 49: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Rộng hay hẹp

Ta thử tưởng tượng phải trải thuốc màu chứa trong một hộp thuốc vẽ nhỏ lên trên mặt giấy. Nếu cần phải trải thuốc màu trên một mảnh giấy rất lớn, ta phải pha ít nước để thuốc màu rải đều trên giấy. Như vậy ta có một màu nhạt, loãng. Trái lại, nếu ta trải cả hộp thuốc màu trên mảnh giấy nhỏ, ta không cần pha nước vào thuốc, và thuốc màu sẽ đậm hơn. Để so sánh, nhà tâm lý học gọi những trẻ biết tập trung sự chú ý một cách sâu sắc bằng danh từ "hẹp", và những trẻ mà sự chú ý pha loãng như thuốc màu trải trên một tờ giấy rộng bằng danh từ "rộng". Một trẻ "rộng" có thể quan tâm đến nhiều vấn đề một lần. Trong lớp, không những nó chăm chú nghe lời thầy giảng mà còn chú ý đến giọng nói của ông, đến tiếng động của cây thước khua trên bàn, đến thời tiết ngoài trời... Một trẻ "hẹp" chỉ lưu tâm đến một việc và quên các việc khác. Nó lợi được mặt sâu sắc mà mất đi phương diện rộng rãi. Đây là một trẻ "rộng", ngồi bên bàn, làm bài. Nó có thể vừa làm bài toán vừa coi sóc đứa em, trả lời chị nó và nghe nhạc. Trẻ khác – trẻ "hẹp" – cũng trong tình trạng này sẽ chống đối, yêu sách yên lặng: nó không muốn bài làm của nó bị bỏ dở vì phải quan tâm đến nhiều việc. Xem trên, ta thấy rằng tính cách "hẹp", hay năng lực tập trung chú ý, ở một trẻ có phản ứng mau, bù lại được sự ham thích, đổi mới; do đó, làm cho nó khó [bị] cảm hóa, khó bị ảnh hưởng của hoàn cảnh bên ngoài. Trái lại, ở trẻ phản ứng chậm và sâu sắc hơn, tính cách "hẹp" tăng cường khuynh hướng duy trì lâu bền một cảm giác, một ấn tượng, một tình cảm hoặc một công việc. Ở trường (phổ thông), trẻ "hẹp" chuyên tâm về một vài môn học, sao nhãng các môn học khác; và nếu [trẻ "hẹp" thuộc loại] trẻ "nhạy cảm" chỉ làm điều gì [trẻ thấy] vui thích, [trẻ] thực khó chống lại khuynh hướng [chỉ làm những gì vui thích] đó. Trái lại, trẻ "rộng" là một trẻ hiếu kỳ, lưu tâm đến nhiều vấn đề một lúc mà không cần đào sâu. Trong giao thiệp, trẻ "hẹp" thích giao du thân mật với một số bạn hữu hạn chế, và nếu nó có tính xã giao cao, nó vẫn thích sinh hoạt trong một đoàn, một đội nhỏ.

Làm thế nào phân biệt trẻ rộng với trẻ hẹp?

a) Trong sinh hoạt hàng ngày

CÂU HỎI VỀ TÍNH CÁCH HẸP

1. Con bạn có nổi nóng khi người ta phá rối việc làm của nó không? 2. Nó có ghê sợ lối ăn mặc lài xài, quần áo hoen bẩn không? 3. Trong khi làm việc cũng như lúc chơi đùa, nó có khuynh hướng chăm chú chi tiết và không thỏa mãn với đại thể không? 4. Nó có thường hay trở lại những lối chơi cũ không? 5. Có những môn học trẻ thích học hơn những môn khác không? 6. Nó có thích những quần áo vừa vặn hơn là y phục xuềnh xoàng không? 7. Nó có cần yên tĩnh khi nó chuyên tâm vào một công việc hứng thú không?

45

Page 50: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

8. Nó có thích những đồ chơi nhỏ hơn không? 9. Trẻ có thích đồ dùng riêng của nó được sắp đặt ngăn nắp không? (mặc dù tự nó, nó không thể sắp đặt có thứ tự) 10. Nó có quan tâm đến sự đúng giờ, đúng hẹn không? Trên 5 "có" là dấu hiệu "hẹp". Dưới 5 "có" là dấu hiệu "rộng". c) Trên vẻ mặt Trẻ "rộng" có năng lực chú ý linh động và khoáng đạt thường có: - hai màng tang nhô lên - đôi mắt không gần nhau5 - chân mày rời nhau Trái lại, trẻ "hẹp" có: - hai thái dương lõm hoặc bằng - đôi mắt gần nhau và sâu - đôi chân mày gần sát như nối liền nhau bên trên sống mũi Cũng có trường hợp hai chân mày không sát gần nhau nhưng lúc suy nghĩ, trẻ nhíu mày tạo thành những vết nhăn bên trên sống mũi.

Rộng

Đôi mắt xa nhau, màng tang tròn và nhô lên

5 Bình thường, khoảng giữa hai mắt rộng bằng một con mắt.

46

Page 51: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Hẹp

Đôi mắt gần nhau, thái dương lõm xuống

d) Chữ viết Chữ viết, liên quan đến một năng lực chú ý rộng, thường thường: - lớn, rộng, có những vòng lớn - những chữ rời nhau, khoảng khoát - lảo đảo, kém cân phân, không ngay thẳng - lối viết buông thả, sót dấu, sót chữ Chữ viết của trẻ "hẹp" thường: - nhỏ (dấu hiệu này không có giá trị ở trẻ cận thị thường viết chữ nhỏ) - chữ dồn sít sao, kích thước chữ hẹp - lối viết chăm sóc, cẩn thận, dấu đặt đúng chỗ, dấu chấm câu đầy đủ

47

Page 52: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Chữ viết của trẻ "rộng"

Chữ viết của trẻ "hẹp"

Có xã giao tính hoặc kín đáo

Trong lúc thảo luận về tính tranh đấu, ta đã có dịp thấy trẻ đối xử thế nào với người đối thoại, nó phản ứng bằng thái độ thuận hòa, thỏa hiệp hoặc đối nghịch, khiêu khích. Tính xã giao thì khác. Xã giao tính là nhu cầu, khuynh hướng sống tập thể, tập thể đó là đoàn, đội, gia đình, trường học, xã hội.

48

Page 53: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Trẻ tự nhiên có khuynh hướng sống tập thể là trẻ có khả năng thích ứng dễ dàng. Vì vậy, xã giao tính là một yếu tố của tính "dễ uốn nắn", cũng như tính cách phản ứng mau lẹ trước thực tại, năng lực chú ý khoáng đạt, tâm lý hòa thuận, thỏa hiệp. Trẻ có xã giao tính tin cậy ở người khác. Nó vui sướng được sống chung, nó ưa làm chung, chơi chung với bạn bè, thích những cuộc hội họp gia đình, gia tộc. Trẻ "kín đáo" tự nhiên nghi kỵ và tìm các bảo vệ cảnh cô độc mà nó cảm thấy cần thiết. Không dễ dầu gì bảo nó thổ lộ tâm tình, ý nghĩ thầm lặng. Có những sự kết hợp tính tình kỳ thú như một trẻ rất thuận thảo hoặc có phản ứng mau có thể là trẻ kín đáo; do đó, nó biến thành một trẻ có hai bộ mặt: lúc nào cũng có một cái gì cần dấu diếm trong dáng điệu nhanh nhẹn dễ thương. Do cái khuynh hướng kín đáo nói trên mà cuộc sống nội tâm của một trẻ phản ứng chậm trở nên sâu sắc. Trẻ tranh đấu có phản ứng chậm và kín đáo không chịu bày tỏ những phản ứng đối nghịch mà âm thầm ngầm hờn nuốt oán. Trái lại, trẻ phản ứng mau, tranh đấu và có xã giao tính lúc nào cũng có thể đối nghịch, khiêu khích ra mặt với kẻ khác.

Làm sao biết được xã giao tính của trẻ?

a) Trắc nghiệm Trả lời mười câu hỏi sau đây:

CÂU HỎI VỀ XÃ GIAO TÍNH

1. Con bạn có không thích sống riêng một mình không? 2. Nó có hoạt động mau mắn, vui vẻ trong một nhóm trẻ không? 3. Nó có thích giúp đỡ người khác không? 4. Nó có vui lòng (không cau có) cho bạn mượn sách, vở, đồ chơi không?6 5. Nó có mau làm quen với người lạ không? 6. Nó có kết thân dễ dàng với bạn mới không? 7. Nó có thấy khó giữ gìn những bí mật riêng không? 8. Nó có thổ lộ tâm tình dễ dàng không? 9. Nó có thích đi chơi chung với bạn hữu, vui vẻ tham dự những buổi họp mặt gia đình không? 10. Nó có hay tin người không? Với 5 "có" hoặc hơn, con bạn có thể được sắp vào loại trẻ có xã giao tính. Dưới 5 "có" nó là một trẻ kín đáo. b) Vẻ mặt Một cách nhận định tính tình "kín đáo" của trẻ là xem mặt trẻ, dưới mắt, dưới gò má có một chỗ lõm vào, nhất là khi nhìn mặt một bên (trắc diện) lúc trẻ không cười. Ta có thể ghi nhận những dấu hiệu này như dấu hiệu ít có xã giao tính:

6 Chú ý: Ở chương 1, chúng ta đã thấy tất cả các trẻ lên 3, 4 tuổi đều trải qua một giai đoạn ý niệm về tài sản rất phát triển và không có trẻ nào vui lòng cho trẻ khác mượn đồ chơi. Cũng thế, chúng ta đã thấy đến tuổi dậy thì, tất cả trẻ đều qua một giai đoạn sống cô đơn, sống cuộc sống nội tâm trầm lặng trước khi có tháy độ chống đối ra mặt. Những cuộc khủng hoảng này có thể tăng lên trầm trọng hoặc giảm nhẹ đi tùy theo tính tình của mỗi trẻ. Ở những giai đoạn này, trắc nghiệm có thể bị sai lạc.

49

Page 54: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

- mặt hơi tóp ở dưới gò má - má lõm vào ở hai bên mũi - môi dưới nhô ra hơn môi trên Còn trẻ có xã giao tính thì: - má đầy đặn, tròn trịa, thái dương đầy đặn Có trường hợp một trẻ mang dấu hiệu không có xã giao tính (má lõm) mà vẫn thích sống tập thể. Đây là trẻ bản chất rất nhu thuận, thỏa hiệp hoặc có phản ứng mau lẹ nên việc ham thích làm vừa lòng bù lại tính tình kín đáo của nó. Nhưng không nên quên là trẻ chỉ tỏ ra cởi mở và tìm cách làm vừa lòng kẻ khác để cho cuộc sống được vui thú. Kỳ thực, bên trong trẻ vẫn sống một cuộc sống nội tâm kín đáo, trầm lặng, và vẫn có những tình ý nó không muốn thổ lộ cho ai.

50

Page 55: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Trẻ có xã giao tính

Má ở dưới mắt đầy đặn, tròn trịa

Trẻ kín đáo

Má như lõm vào dưới mắt, gần mũi

51

Page 56: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

c) Chữ viết Dấu hiệu xã giao tính rất dễ nhận trong chữ viết. Đó là những chữ a, o, d, đ, g, b, p viết hở ở trên đầu và bên phải. Chú ý chữ hở bên trái và phía dưới cũng là dấu hiệu cởi mở, nhưng ở đây nếu người viết có cởi mở là cởi mở với mục đích vị kỷ. Nếu có chuyện trò là để dò xét tư tưởng của người khác, còn tư tưởng của mình thì giữ kín, như vậy là bản tính cởi mở nghi kỵ, vụ lợi, giả dối. Những nét cuối kéo dài theo một đường thẳng ngang. Trái lại, trẻ kín đáo viết các chữ như o, a khép kín, đôi khi phụ thêm một cái vòng. Chữ hoa cũng viết kín. Nét cuối trái thường đưa sang bên phải. Có những chữ sửa đi sửa lại, chi tiết này nói lên sự cẩn thận, một nhu cầu làm cho chính xác, lý trí muốn điều chỉnh sự nóng nảy của tình cảm.

Chữ viết của trẻ có xã giao tính

52

Page 57: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Chữ viết của trẻ kín đáo

53

Page 58: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

CHƯƠNG 2. MẤY LỜI CHỈ DẪN TRƯỚC KHI NHẬN DIỆN TỪNG TRẺ Bây giờ chúng ta dừng lại ở đây một lát. Chúng ta đã phân biệt những đặc tính chính yếu của tính tình và những phương thức nhìn nhận nơi trẻ. Từ đây, những đặc tính ấy sẽ hòa hợp với nhau để tạo nên những tính tình phức tạp và cụ thể. Nếu bạn để qua một bên tính thiên vị tự nhiên của kẻ làm cha mẹ, nếu bạn đã quan sát kỹ, trả lời hẳn hoi những câu hỏi và xác nhận những giải đáp bằng nét mặt, chỉ tay và chữ viết của trẻ thì bạn đã biết nhiều điều về con bạn và có những điều không khỏi làm cho bạn ngạc nhiên. Bạn biết con bạn có thể sắp vào loại trẻ: - nhạy cảm hoặc không nhạy cảm - có hoạt động tính hoặc không hoạt động tính - có phản ứng mau hoặc chậm - "rộng" hoặc "hẹp" - nhu thuận hay tranh đấu - có xã giao tính hoặc kín đáo Nơi đây, mỗi danh từ có cái nghĩa như chúng tôi đã xác định chứ không nhất thiết có nghĩa thông dụng. Trước khi đi thẳng vào những mẫu tính tình với những chi tiết phức tạp, ta nên có một cái nhìn đại cương, bao quát về một đứa trẻ, như là một bước sơ khởi trên con đường phân tích tâm lý trẻ con. Đây là Năm. Với câu hỏi trắc nghiệm về tính nhạy cảm, nó trả lời "có" 8 câu. Với câu hỏi trắc nghiệm về hoạt động tính, nó trả lời "có" 7 câu. Vậy Năm là trẻ nhạy cảm thuần túy. Khuôn mặt nhỏ, nét mặt thanh tú, vẻ mặt cởi mở và cả lối viết không đều, nhẹ nhàng của nó xác nhận điều đó. Đôi mắt lớn, miệng rộng, tai hơi vểnh của trẻ làm cho chúng ta nghĩ Năm là một trẻ "dễ uốn nắn". Thực tế, với câu hỏi trắc nghiệm về phản ứng mau, chậm, Năm được 7 "có". Ta đã tiến thêm một bước: Năm là một trẻ thần kinh, không phải là trẻ đa cảm. Những trắc nghiệm kế tiếp cho nó 2 "có" về tính cách rộng, 4 "có" về tính nhu thuận, 6 "có" về xã giao tính. Ta tiến được một bước nữa: Năm là một trẻ thần kinh tranh đấu, hẹp và có xã giao tính. Thực tế, Năm có hai thái dương lõm vào, cái mũi dô ra trước, hai má đầy đặn, tròn trịa. Chữ viết của nó nhỏ và có thứ tự, với những gạch ngang chữ T đâm thẳng tới trước và những chữ O, A hở ở trên. Ở Phần Hai, mẫu tính tình của Năm sẽ được phân tích tỉ mỉ theo sau là những đường lối đào tạo riêng biệt. Tất nhiên, trong phạm vi sách này không thể miêu tả đầy đủ những sắc thái dị biệt của các mẫu tính tình có những khía cạnh ít thấy xuất hiện, không đáng lưu tâm. Cũng nên nói thêm là sách này chỉ xét những trẻ bình thường, nghĩa là những trẻ không mắc một bệnh trầm trọng về thể xác và tinh thần, những trẻ đang sống một đời sống gia đình bình thường. Mặt khác, đối với mỗi mẫu tính tình, thái độ hành động của trẻ chỉ được miêu tả ở trạng thái trung bình. Chính bạn đọc có nhiệm vụ tô đậm thêm mấy nét ở nơi này hoặc làm cho màu sắc nhạt đi ở chỗ khác, tùy theo sự phân tích đã trình bày ở Chương trước.

54

Page 59: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

CHƯƠNG 3. TRẺ THẦN KINH (LE NERVEUX) Khuôn mặt nhỏ, nét mặt thanh tú, linh hoạt, dễ gây cảm tình. Dưới chân mày vòng nguyệt, đôi mắt sáng long lanh gieo niềm vui cho gia đình. Khi nó biết nói, nó nói được nhiều tiếng, gia đình đừng vội khen vì trẻ bản tính khoe khoang, tự mãn. Thực tế thì mọi người đều cảm mến vẻ ngộ nghĩnh, duyên dáng của nó. Cổ nhỏ, cao. Tai hơi vểnh. Tóc nhỏ, ngắn, mềm dịu, nó không thích hớt ngắn. Thân hình mảnh dẻ. Bé gái thần kinh nhẹ nhàng, xinh xắn như con chim non. Nhanh nhẹn, rất hiếu động, trẻ thần kinh không ngồi yên được một chỗ. Chơi thì nó chơi không biết mệt. Làm việc thì không ngồi được lâu, nhất là việc bắt buộc. Chính sự bất động làm cho trẻ mệt mỏi. Cần có những công việc, những trò chơi liên tục để duy trì sự chú ý của nó. Ngồi trong lớp học, nó không chăm chú được lâu, mắt lơ đãng ngó ra ngoài tìm sự giải trí. Nó không chú ý được lâu, thỉnh thoảng nghĩ lảng sang vấn đề khác. Làm việc tùy hứng, không phương pháp, không chương trình. Việc học của trẻ không đều, khi thì tiến bộ, lúc thì thụt lùi, hôm nay bài vở xuất sắc, ngày mai tồi tệ thảm thương. Về mặt tình cảm, trẻ cũng linh hoạt, nhanh nhẹn không kém. Tự nhiên nó nổi hứng với một trò chơi mới, những bạn sơ ngộ hoặc ông giáo sư mới. Nó nói, nói rất nhiều. Không nói đối với nó cũng khó chịu như ngồi im. Nó thích người khác nghe nó nói, tán thưởng nó. Bé gái được xem là trẻ nhẹ dạ, bồng bột, lắm chuyện, lắm điều, nhưng vì nó duyên dáng, dễ thương nên không ai oán ghét. Cái gì kéo dài làm cho nó bực bội. Cái đều đều làm cho nó chán nản. Người ta yêu trẻ vì nó nhanh nhảu, vui tính, nhưng người ta trách nó nhẹ dạ, nông nổi. Trẻ hay đổi bạn, đúng hơn là thích bạn mới mà không hề oán ghét bạn cũ, vì nó không giận được lâu. Nó hay hờn dỗi, nhưng hờn dỗi mà liếc mắt ngó chừng kẻ khác, mong tìm sự giải hòa.

Những sắc thái dị biệt của mẫu trẻ thần kinh

Trẻ thần kinh kích thích.- Đây là mẫu tính tình rất phổ thông. Hay khuấy phá, giận hơn, nhưng ít khi đánh lộn. Giàu trí tưởng tượng và óc sáng tạo. Có tính khôi hài, đôi khi quay ra hỗn xược. Thích chưng diện. Có thể kỳ vọng nơi lòng tự ái của trẻ. Trẻ thần kinh thỏa hiệp.- Biết phục tùng hơn loại trẻ trên. Nó tìm cách vuốt ve, mơn trớn người khác để người ta tha thứ những sự khờ khạo. Nó không giận ai được lâu vì nó khao khát cảm tình, âu yếm. Mẫu tính tình này thường gặp ở con gái. Trẻ thần kinh trì độn.- Tỉnh táo hơn trẻ khác. Nó không chống đối kỷ luật, nó chỉ phớt tỉnh thôi. Dễ bị chi phối, cám dỗ. Nhiều con gái thuộc loại này thích chưng diện, biết cách cám dỗ bằng lối nũng nịu. Trẻ thần kinh buồn rầu.- Đây là loại trẻ thần kinh duy nhất thích sống cô độc. Tính tình hay thay đổi, có những lúc hăng hái kích thích, có những lúc chán nản, uể oải.

Đường lối giáo dục trẻ thần kinh

Những ý kiến chỉ đạo trong sách này áp dụng cho mẫu trẻ thần kinh chính thức. Có vài sắc thái dị biệt cần được hướng dẫn theo một lối giáo dục khác: đó là trẻ thần kinh trì độn cần giáo dục

55

Page 60: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

như trẻ lâm ba, nghĩa là cần nhiều uy quyền và kiểm soát. Rồi đến trẻ thần kinh buồn rầu, cần được rèn luyện như trẻ đa cảm trong thời kỳ suy nhược, u buồn. Những trẻ thần kinh khác – số đông – đều được đào luyện theo đường lối chung dưới đây. Francis Bacon có nói: "Người ta chỉ điều khiển thiên nhiên bằng cách tuân theo thiên nhiên". Quy tắc cổ kính này có thể dùng làm khuôn vàng thước ngọc trong giáo dục. Cùng một ý đó, André Le Gall diễn giải cách khác: "Chỉ có một phương pháp đào luyện tính tình7 hữu hiệu là lợi dụng những khuynh hướng trội nhất của tính tình". Một nhà giáo dục giỏi phải biết lợi dụng tối đa những khuynh hướng tính tình nhằm mục đích phát triển những khả năng của trẻ. Không ai có ý nghĩ làm cho ống sáo phát ra tiếng đàn vĩ cầm, và khôn ngoan hơn là học thổi sáo chứ không ngồi than phiền mình không có một cây đàn vĩ cầm. Đối với tính tình cũng vậy. Không ai mong đợi một trẻ thần kinh có thái độ, hành động như một trẻ trầm tĩnh, và một trẻ lâm ba có lối sinh hoạt giống trẻ đa huyết. Có ích gì bực tức sao mình không có đứa con trầm tĩnh mà tạo hóa lại trao cho một đứa con thần kinh, hoặc mình thích một đứa trẻ bản tính đam mê mà lại có một đứa trẻ bản chất đa cảm. Tốt hơn là nên lợi dụng, khai thác tối đa những gì sẵn có trong tính tình tự nhiên của trẻ.

Cần chấp nhận vài nét tính tình của trẻ thần kinh

Nên chấp nhận tính nhạy cảm của trẻ.- Muốn phá vỡ hoặc giảm bớt sự nhạy cảm của trẻ thì chẳng khác nào giết con ngựa đang kéo xe chỉ vì mình không bết cầm cương, tra giàm. Nhạy cảm là nguồn động lực của trẻ thần kinh. Trẻ sống hoàn toàn nhờ nhạy cảm. Nhạy cảm là cảm giác, hoạt động hăng hái, thanh xuân, sinh lực của trẻ. Trẻ chỉ làm nên việc nhờ ở sự đam mê làm vệc. Có cái năng lực say mê làm một việc gì quả là một điều vạn hạnh. Đừng cắt đi đôi cánh của trẻ. Tính tình của trẻ được cấu tạo trên cơ sở nhạy cảm. Trẻ xài ít thần kinh lực hơn trẻ đa huyết hoặc trẻ trầm tĩnh muốn sống theo nhịp điệu quay cuồng, rộn rịp của nó. Tuy nhiên, cần phải ngăn ngừa tình trạng mất thăng bằng của tính nhạy cảm. Khi trẻ thần kinh (và có thể là trẻ đa cảm) phải làm một việc gì nó không thích hoặc chịu đựng lâu một tình trạng khó chịu, nó trở nên nóng nảy, căng thẳng tột độ. Có thể gây ra sự kích thích nơi trẻ bằng cách buộc nó ngồi yên đọc một cuốn sách không thích thú. Dọa trẻ buộc nó làm bài cho xong – có khi kéo dài hàng giờ – nó bực dọc, cau có, múa may, loay hoay phí nhiều sức lực hơn là dự một trận túc cầu suốt một buổi chiều. Sự nhạy cảm quá độ có thể sửa chữa bằng giáo dục. Nếu nhạy cảm thành một căn bệnh kinh niên thì chỉ có một cách chữa trị là tìm cách thay đổi hoàn cảnh sinh sống. Và đây là một ví dụ cụ thể. Ba là một trẻ thần kinh kích thích. Cha nó cũng thuộc thần kinh chất, vì nghề nghiệp mà tâm trí căng thẳng, kích thích hơn. Qua bảng phân hạng ở lớp, tính tình ngỗ nghịch bất thường của Ba làm cho cha mẹ lo âu, bực dọc. Cha nó sử dụng uy lực, tát tai, đánh đòn. Mẹ nó bắt vòng tay ngồi im hàng giờ mỗi khi làm xong bài vở. Ba càng đi sâu vào tình trạng kích thích, náo động. Điểm học và điểm kỷ luật ngày càng tồi tệ. Ở trường bạn hữu, thầy giáo xem nó như một trẻ đại nghịch. Theo lời khuyên của một bác sĩ chuyên khoa y học giáo dục, cha mẹ Ba gửi Ba vào nội trú một trường ít học sinh ở tỉnh lỵ, đồng thời thông báo tình trạng của Ba cho ông hiệu trưởng. Vài tuần sau, mọi người nhận thấy nơi Ba có sự tiến bộ, trẻ lần lần trở

7 Nên nhớ ở đây tính tình có nghĩa rộng là nhân cách, cá tính của mỗi người.

56

Page 61: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

lại thái độ bình thường. Cần chấp nhận sự tiêu thụ thần kinh lực là điều tự nhiên nơi trẻ thân kinh, đồng thời [cần] tránh sự nhạy cảm, kích thích quá độ. Vì vậy, không được bắt trẻ làm việc liên tục quá nửa tiếng đồng hồ. Ngắt quãng làm việc của trẻ bằng những giờ chơi ngắn. Chính bạn phải phân định "khoảng thời gian chăm chỉ hữu hiệu". Đối với một số trẻ, khoảng thời gian ấy không quá nửa giờ, nhất là khi làm một việc bắt buộc. Quá số giờ hữu ích, việc làm của trẻ thần kinh không còn giá trị, đó là sức lực uổng phí. Kinh nghiệm cho biết trẻ 13 tuổi phải bỏ ra hai giờ để làm một bài phiên dịch sinh ngữ trong tình trạng gò bò, chú ý liên tục thì bài làm có hai phần ba câu dịch sai nghĩa, không hiểu được. Nếu việc làm được phân chia làm bốn giai đoạn, mỗi giai đoạn hai mươi phút [có thời gian] giải trí, thì bài làm hoàn tất trong khoảng một giờ hai mươi phút, nội dung bài làm khả quan hơn nhiều. Kiên tâm nhìn trẻ làm việc tùy hứng.- Làm việc tùy hứng là gặp việc gì thích thú thì cố công gắng sức mà làm, làm vồn vã, say sưa, không biết mệt mỏi; còn việc gì không thích thì không thiết tha đến. Lối làm việc này không riêng gì ở trẻ thần kinh mà còn thường thấy nơi trẻ đa cảm. Nếu bạn thấy trẻ lăng xăng, hăng hái tổ chức một buổi lễ ở nhà trường, góp sức với trẻ khác dựng một căn lều nơi góc vườn hoặc làm việc gì chỉ trong một thời gian ngắn thì bạn nên khuyến khích nó, nó sẽ tìm thấy sự vui thỏa làm nên việc, nhờ đó sau này nó hăng hái làm việc khác. Nếu cần, cha mẹ nên giúp đỡ con một cách kín đáo, dành cho nó niềm kiêu hãnh một mình làm nên việc. Nhưng nếu bạn thấy nó khởi sự sưu tập hình ảnh, bưu hoa, bươm bướm, hoa cỏ, v.v. bạn chớ ngạc nhiên thấy sự hứng khởi lịm dần vài ba tuần sau, rồi ra chẳng nhắc tới nửa. Nên chấp nhận với trẻ chỉ có hiện tại là đáng kể.- Trẻ thần kinh chỉ sống trong hiện tại và nét tính tình này giải thích được nhiều khuyết điểm của nó: không tự chủ, thiếu suy nghĩ, xung động, phí phạm thời giờ, không đủ nghị lực chống lại mọi sự cám dỗ... Nhưng đồng thời nhờ đó trẻ có ý thức về thực tế, nhận xét sự vật với trí óc thực tế. Vì trẻ sống ở hiện tại, tránh nói với nó về tương lai, về một mục tiêu xa vời. Ngay những lời khuyên của phụ huynh nó cũng khó lĩnh hội, nó hay để tình cảm, dục vọng, phản ứng quá lố xen vào. Trẻ chỉ thấy một khía cạnh của sự vật, vậy cần thường xuyên điều chỉnh, chỉ cho nó thấy những phương diện nó lãng quên. Con Hồng, một bé gái thần kinh 10 tuổi, thường chống đối ra mặt cô giáo. Nó lười biếng, ngỗ nghịch và có thái độ khiêu khích với cô giáo đến nỗi muốn giữ lớp học được im lặng, thỉnh thoảng cô giáo phải đuổi nó ra ngoài lớp. Thử nói với con bé: "Nếu mày cứ tiếp tục lười biếng, nghịch ngợm, mày sẽ học đúp và ở lại với cô giáo, sang năm không được lên lớp học với cô giáo khác yêu mày hơn". Lý luận vững vàng, có giá trị đấy, nhưng không có ảnh hưởng gì đối với con bé. Năm sau đối với nó mơ hồ hơn là sự chống đối hiện tại. Nếu biết gợi hình ảnh một người thân yêu để nói với Hồng thì có thể thay đổi được thái độ của Hồng và tạo nên một sự cố gắng hữu ích: "Cô giáo tưởng ba mày xúi giục mày hỗn xược với cô, nên mỗi lần mày bị đuổi ra ngoài lớp là một lần ba mày mang nhục".

Vài lỗi lầm trong việc giáo dục trẻ thần kinh

Tránh cưỡng bức, bạo hành.- Cha mẹ có con thần kinh đều nói con mình cứng đầu và không dễ dàng nhượng bộ. Thoạt nghĩ, điều hình như mâu thuẫn, trẻ thần kinh có năng lực thích ứng dễ dàng, đáng lẽ dễ cảm hóa, kém kiên trì mới phải. Sự mâu thuẫn bề ngoài này dễ hiểu nếu ta

57

Page 62: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

biết rõ thói phản ứng của trẻ. Trẻ có tính tự ái nặng, nên [nếu] bị tấn công trước mặt [hoặc] bị cưỡng bách, nó không chịu nhượng bộ đâu. Nói về đứa con 10 tuổi, một ông cha kể kể như sau: "Ông bạn thấy cháu nhanh nhẹn, vui tính, dễ thương, nhưng thực tế nó rất cứng đầu, bướng bỉnh. Hôm qua tôi phải mất một giờ hầm hét với nó để bắt nó viết thư cho bà nó. Bị đòn, nó khóc nhưng vẫn không chống chỏi, thực không ngờ! Cuối cùng thì nó chịu phục tùng, nhưng cả cha, con đều vất vả". Em bé mảnh dẻ, duyên dáng, hai má tròn ửng, với những cổ tay ốm tong vừa tỏ ra bướng bỉnh khác thường. Đúng như một nhà tâm lý học từng ví trẻ thần kinh như một quả bóng cao su, hễ đập nó xuống mạnh chừng nào thì nó dội mạnh lại chừng ấy. Vậy tính bướng bỉnh, ngoan cố của đứa con quả là tiếng vang của sự bạo động, sự bướng bỉnh của ông cha. Tránh đừng làm nhục trẻ trước đám đông.- Làm nhục một trẻ thần kinh, nhất là làm nhục nó trước đám đông thì không còn mong gì ở nó nữa. Không những làm cho nó mất lòng tự trọng vốn là phương tiện giáo dục quan yếu mà còn đẩy trẻ tới những việc quá khích là khác. Nó không quên được một sự sỉ nhục. Bắt trẻ đi xin lỗi một ông khách vì nó trót đối xử vô lễ là làm một việc khôi hài, vì [làm] thế trẻ có thể chạy trốn, có thể ra mặt chống đối, và cha mẹ lại phải trừng phạt nữa. Nên gọi riêng trẻ và bảo nhỏ với nó là [nó] đã làm một việc dại dột, cha mẹ lấy làm phiền lòng, và cha mẹ kỳ vọng nó sửa đổi từ đây. Tránh những cơ hội kích thích vô ích.- Như những buổi tiếp tân, tiệc tùng kéo dài miên man, những đêm khuya kể chuyện ma quỷ, chuyện tiếu lâm tục tĩu của người lớn, những xuất xi-nê chiếu cảnh chém giết rùng rợn, những tiểu thiết, tranh ảnh, ca nhạc dâm ô.

Những phương tiện giáo dục hữu hiệu

Cần tạo một không khí êm đềm quanh trẻ để cho những kích thích, những xung động có điều kiện lắng dịu xuống. Tuy nhiên, nên tránh hai điều quá đáng: thái độ lãnh đạm và sự hẹn lần hẹn hồi. Thái độ lãnh đạm làm cho trẻ bực dọc và kích thích tính tò mò của nó. Đối với những sự giận dỗi, bướng bỉnh, bừa bãi, dối trá của nó, cần có một thái độ bình tĩnh, tập cho trẻ lưu tâm đến những việc khác. Lại không được hẹn nay hẹn mai mà phải trả lời những điều trẻ hỏi, thỏa mãn yêu cầu của trẻ [là] được cha mẹ giúp đỡ. Nêu gương tốt.- Các giáo sư đều nhận xét là trẻ thần kinh nếu ngồi gần với bạn học giỏi và hạnh kiểm tốt thì sách vở sạch sẽ, bài làm cẩn thận, dụng cụ ngăn nắp; còn hai trẻ thần kinh bê bối ngồi gần nhau thì mặc tình trò chuyện, tha hồ bừa bãi. Đối với mẫu trẻ dễ cảm hóa, gương tốt của người lớn trong gia đình, ngoài xã hội có ảnh hưởng không nhỏ đến hạnh kiểm cũng như việc làm hàng ngày. Thúc đẩy trẻ thực hiện những việc cụ thể.- Không nên để cho trẻ thỏa mãn với ý tưởng, danh từ suông. Trẻ phải trang trí phòng riêng của nó, trẻ phải đóng một khung ảnh, trẻ phải sơn cánh cửa, trẻ phải trồng chậu hoa, trẻ phải thêu chiếc khăn tay, tất cả những gì nó muốn, nó phải làm một cái gì cụ thể, cái gì người ta có thể đưa ra mà nhắc tới nó, như vậy nhằm mục đích tạo cho trẻ cái thích thú lao động chân tay và chuyển thói khoe khang thành niềm kiêu hãnh làm xong việc, sáng tạo được một món đồ. Sau hết, biến đổi sự nhạy cảm thành hành động. Thể dục thể thao làm êm dịu sự kích thích thần kinh, tiết chế được sự xung động, ngăn chặn sự nóng nảy, điều hòa những cảm xúc quá độ. Nhưng cần tránh những môn thể thao mạnh và tranh tài, chọn những môn thể thao nhẹ như bóng chuyền, bóng rổ, quần vợt, chạy nhảy, đi bộ, v.v.

58

Page 63: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Công việc đồng áng ở nông thôn rất có lợi cho trẻ về phương diện thể xác, tinh thần và tình cảm.

59

Page 64: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

CHƯƠNG 4. TRẺ ĐA CẢM (LE SENTIMENTAL) Trẻ đa cảm có đôi mắt lộ tình nhưng không linh hoạt như đôi mắt của trẻ thần kinh hoặc trẻ dị nộ. Đôi mắt mơ mộng, u buồn diễn tả cảm nghĩ sâu xa như quay vào cõi nội tâm thầm kín. Không mảnh dẻ như trẻ thần kinh, vóc dáng nó có thể dềnh dàng, vạm vỡ nhưng không bao giờ lùn và mập. Khuôn mặt hình chữ nhật, trán cao và bằng với đôi mắt trầm lặng. Như chúng ta đã thấy, trẻ thần kinh biểu lộ hoàn toàn bản ngã của nó trong mỗi phản ứng. Trẻ đa cảm phức tạp hơn, có nhiều bộ mặt. Hiện tượng này có ba lý do. Trước hết, trẻ đa cảm có những phản ứng chậm và sâu xa, vì phản ứng sâu xa nên trẻ có một đời sống nội tâm phong phú. Lại nữa, trẻ ở mỗi hoàn cảnh mỗi khác. Một nhà tâm lý học (bác sĩ Corman) đã nói nhiều về "hoàn cảnh nẩy nở" và "hoàn cảnh co rút". Thực tế thì những hoàn cảnh này chỉ có đối với trẻ đa cảm. Danh từ có vẻ kỳ dị nhưng ý nghĩa thì rất giản đơn. Trong mọi cảnh ngộ, tình huống, trẻ đa cảm phân biệt những trường hợp nó "mở ra" và những trường hợp nó "khép lại". Tùy theo hoàn cảnh bên ngoài quen thuộc hay mới lạ, thuận lợi hay trái nghịch, nó có thái độ, hành động khác nhau. Trẻ không có năng lực phản ứng dễ dàng như các trẻ khác nên chẳng lạ gì lúc sống trong cảnh ngộ quen thuộc thì nó khác với lúc sống trong một tình thế mới lạ. Và sau hết, nguyên nhân thứ ba, trẻ đa cảm có nhiều "mặc cảm", những mặc cảm có thể thay đổi sâu xa phản ứng tự nhiên của nó. Do những sự kiện nói trên, cha mẹ không nên giới hạn sự quan sát trong một hoàn cảnh riêng biệt. Một trẻ nóng nảy khiêu khích trong gia đình lại cư xử hiền hậu, rụt rè trước mặt người lạ. Một trẻ khác có vẻ trì độn, nhưng nó chịu thổ lộ tâm tình cho một đứa bạn tâm phúc. Theo bức chân dung cổ điển, một cậu bé đa cảm (hoặc một cô) rất kín đáo, rụt rè, ẩn mình trong cảnh cô độc, chỉ sống chung với bạn bè trong vài trường hợp đặc biệt, thích sống riêng rẽ nhưng lại hờn dỗi kẻ khác xa lánh mình. Rất rụt rè, ăn nói lúng túng, ganh tị, lo lắng [về] ý kiến của kẻ khác đối với mình, đồng thời tỏ ra khinh thường dư luận, bề ngoài làm bộ bình tĩnh nhưng không che giấu nỗi lòng khao khát được chiều chuộng, mến yêu. Bức chân dung trên cho thấy tương lai của một trẻ đa cảm thế nào nếu cha mẹ không biết phòng ngừa, chăm sóc. Nhưng thực tế thì từ 8 đến 13 tuổi không có trẻ nào giống như vậy. Vào tuổi này, trẻ đa cảm vui vẻ chơi đùa như bao trẻ khác, chưa biết che dấu tình ý dưới một bề ngoài bình tĩnh. Tuy nhiên, nhưng nét chính trong tính tình đã xuất hiện ra rồi. Còn nhỏ, trẻ đa cảm rất quyến luyến gia đình thân thuộc; lớn lên, ở giữa đám đông thì rụt rè, mất tự nhiên, cảm thấy khó chịu, nhưng chăm chỉ, chín chắn, hiền hậu, ân cần. Rất e dè, thận trọng, tâm hồn tế nhị, nó sợ làm sai, phạm lỗi, luôn luôn đi tới chỗ hoàn thiện, chăm chú từng chi tiết, tỉ mỉ, do đó mà không lúc nào yên tâm, thỏa mãn. Nặng tự ái nên rất dễ bị tổn thương. Bị la mắng, trẻ không chống đối nhưng âm thầm hờn giận. Không nên xem thường sự hờn dỗi của nó (không giống như trẻ thần kinh, hờn dỗi là một cách làm cho kẻ khác chú ý), ở đây hờn dỗi là dấu hiệu của một sự tổn thương thầm kín. Những thống kê về tính tình ghi nhiều chi tiết lạ về mẫu trẻ này. Theo đó, trẻ đa cảm: - Hay e sợ (luôn luôn lo nghĩ đến bài vở, sức khỏe bạn bè của mình) - Tính khí hay thay đổi nhất - Thường buồn rầu và luôn luôn không an phận, bất mãn với mình (về điểm này nó trái ngược với trẻ thần kinh, lúc nào cũng tự mãn, tự tôn) - Rụt rè - Do dự (với trẻ này đừng hỏi nó sẽ làm gì, vì nó không biết rõ)

60

Page 65: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

- Hay hờn dỗi Trẻ cũng thường ngã lòng nản chí, ít chăm nom đến y phục mà nó không thiết tha bằng mộng tưởng nó ôm ấp trong tâm tư. Nhưng nó có một đặc điểm là rất lương thiện, thực thà. Ở lớp học, không bao giờ thêm điểm, gian điểm như các trẻ khác, và mặc dù có lâm vào thế bí cũng không bao giờ chịu ngó bài làm của bạn ngồi bên cạnh.

Mấy sắc thái dị biệt của mẫu trẻ đa cảm

Trẻ đa cảm đa nghi.- Dễ giận, dễ hờn, ai nói gì nó cũng chước lấy, lại suy diễn ra khía cạnh bi đát. Nó thận trọng trong việc làm, lo lắng đến độ phát bệnh và nổi sùng nếu có người khuấy phá đồ đạc của nó, nhưng đồng thời nó bỏ lộn xộn đồ dùng mà nó không tha thiết. Cảnh cô độc không làm cho nó khó chịu, trái lại, nó đắm mình trong suy tư, thích đọc sách và ham làm việc trong yên lặng. Bản tính kiêu căng, nó không muốn tìm đến trẻ khác, nhưng nếu trẻ khác lánh nó, nó sẽ âm thầm buồn tủi. Nếu gặp được một ông giáo nó yêu kính thì đây là một học sinh kiểu mẫu. Trẻ đa cảm châm biếm.- Gần giống như trẻ thần kinh ở văn nói lưu lợi, ở dáng điệu lãng tử, nhưng chậm chạm và nhu nhược hơn. Không có ý khiêu khích, nhưng nếu bị quấy rầy lâu nó oán thầm và phản ứng bằng những lời châm biếm cay cú. Trẻ đa cảm lãng mạn.- Mơ mộng, đôi mắt to lơ đãng, trẻ hình như lúc nào cũng ở trên cung trăng. Thực tế nó suy nghĩ nhiều và có trực giác kỳ lạ, thấu triệt được cuộc sống huyền diệu của tạo vật. Nó ngầm khinh kẻ khác và hờn trách người khác không hiểu được mình.

Đường lối giáo dục trẻ đa cảm

Sự giáo dục trẻ đa cảm khó khăn và tế nhị. Khó khăn hơn hết vì nhiều lý do. Trước hết, vì bản chất đa cảm quá độ và vì cảm giác thường ghi sâu đậm, bền bỉ nơi trẻ nên những va chạm, lỗi lầm về giáo dục thường gây hậu quả tai hại. Sau nữa, sự tiếp xúc của nó với thực tế, với người khác rất đỗi tạm bợ, mỏng manh vì trẻ có thể "rút mình" thình lình trước một sự rối ren về tình cảm, lúc trẻ bệnh hoạn hoặc học hành kém sút. Sự thích ứng với thực tại và sự giao tế của nó lúc nào cũng như đi trên đỉnh núi cheo leo, va chạm một tí là rớt tùm xuống vực thẳm. Bấy giờ trẻ lánh mình và xung đột với những ai muốn gần gũi nó. Nó mất cả sinh lực, không còn khả năng thích ứng. Thái độ của nó thay đổi bất thường, lúc thì lười biếng dã dượi, lúc thì khiêu khích, giận dữ. Hiện tượng này có những nguyên nhân sâu xa trong quá khứ, có thể là hậu quả của một biến cố bị cha mẹ xem thường, hoặc có thể do nhiều nguyên nhân nhỏ dồn dập đưa tới. Tóm lại, một sự mâu thuẫn tình cảm, một sự xong đột trong gia đình, một sự sa sút trên bước đường học vấn – vì trẻ rất chú trọng đến sự thành công ở nhà trường – đôi khi một khuyết điểm nhỏ trên mặt như nổi mụn, mắt lé, răng sún, cũng có thể làm cho trẻ bực dọc, lo âu và tự nhiên rút mình trong tháp ngà cô độc.

Phải chấp nhận những nét tính tình nào nơi trẻ đa cảm?

Vụng về trong giao thiệp.- Đây là một trường hợp về sự chuyển dịch duyên cớ. Ví dụ như trẻ muốn được mẹ nâng niu mà không dám đòi hỏi, [nên] tự nhiên la khóc, mặc dù không đau ốm hoặc chỉ đau nhẹ.

61

Page 66: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Lại có trường hợp sự phản ứng xảy ra sau một thời gian chờ đợi. Một em bé làm phiền lòng cha mẹ hoặc đập vỡ một chiếc bình. Liền sau đó nó có ý chối cãi, hoặc đổ thừa cho trẻ khác. Nhưng một thời gian trôi qua nó ăn năn muốn thú nhận, xin lỗi hoặc sửa sang những đổ vỡ. Trẻ phải mất một thời gian để tìm đường. Cha mẹ nên biết cách chờ đợi phản ứng lành mạnh. Sau hết, bạn có thể gặp lối xử sự khác hẳn với lối xử sự được chuẩn bị sẵn sàng. Trẻ đa cảm chuẩn bị sẵn một thái độ, một lối xử sự, như học bài thuộc lòng; nghiền ngẫm những lý lẽ để làm một bài thuyết trình, tưởng tượng câu nói để tiếp xúc với bậc trưởng thượng, nói trước những gì cần phải nói với bạn nó để xin gia nhập một đội thể thao, v.v. Nhưng rồi nó trả bài không đúng, thuyết trình chẳng xong, đứng trước người lớn nó ngập ngừng, ấp úng và không tìm được dịp nào nói chuyện với bạn. Vì trẻ đa cảm tưởng tượng dễ dàng hơn là hành động, và nó rụt rè, e sợ trước cảnh ngộ thực tế hơn là hình ảnh nó đã hình dung. Tính ích kỷ tự nhiên.- Trẻ đa cảm cảm thấy nó có dính dáng đến điều bạn làm hoặc điều bạn không làm. Nó cần cha mẹ chăm sóc nó nhiều hơn trẻ khác. Nếu bạn có hai đứa con, một đứa thuộc dị nộ chất, một đứa thuộc đa cảm chất, bạn cần chăm sóc đứa trẻ đa cảm gấp đôi đứa kia – để cho nó có cảm tưởng là bạn công bình, không thiên ái. Cô giáo hỏi đứa trẻ đưa tay mà không chú ý cái nhìn của con bé đa cảm, cái nhìn có giá trị như sự đưa tay, đã vô tình xây nên bức tường ngăn cách cô và em học sinh rụt rè. Tối đến, trước khi cho con đi ngủ, bà mẹ hôn đứa bé thần kinh hai cái mà quên hôn đứa bé đa cảm bốn cái, mặc dù nó không đòi hỏi, không ngờ đã gây ra nơi bé một sự phản ứng ngấm ngầm, một cơn hờn dỗi, ghen tị. Trẻ đa cảm rất trung thành với người nó yêu mến và không chịu xa rời. Do đó, nó hay có thói ghen tương. Rất tôn sùng những tư tưởng công bằng, bao dung, nhưng không thực hành được mỗi khi nó để tình cảm xen vào sự việc. Và ở đằng sau thái độ, hành động của trẻ lúc nào cũng có rất nhiều ảnh hưởng của những ấn tượng quá khứ dồn dập. Trẻ cần có một phòng riêng.- Tất cả trẻ đa cảm, dù là trẻ "rộng" đều cần một phòng riêng, nghĩa là một nơi chúng có thể sống riêng rẽ và cất giữ những đồ dùng của chúng để cho anh em, chị em của chúng khỏi lục lạo, khuấy phá. Thực tế, ít có gia đình nào mà mỗi trẻ có được một căn phòng riêng, nhưng trẻ thích một phòng riêng dù có xấu xí tồi tàn còn hơn một phòng chung trang trí xinh đẹp. Nếu phải ở chung một phòng với anh em, trẻ cũng thích có riêng một tủ nhỏ có khóa hoặc một tấm màn, một bức bình phong, phân định "bờ cõi" của nó, nơi đây đồ đạc riêng của nó cùng những giờ phút yên nghĩ suy tư của nó được tôn trọng.

Một vài lỗi lầm cần tránh trong đường lối giáo dục trẻ đa cảm

Tránh gây ra cái vòng lẩn quẩn hờn dỗi.- Như đã nói ở trên, sự hờn dỗi của trẻ đa cảm không phải là lòng mong muốn ngầm được giải hòa mà thực ra là dấu hiệu của sự tổn thương. Trẻ không tìm cách làm cho người ta lưu ý đến sự bất bình mà muốn đoạn giao với người đã làm tổn thương nó. Sự hờn dỗi này xảy ra khi trẻ bị đụng chạm mà không trả đũa được hoặc sau một vụ cãi vã, gây gổ. Trẻ tách riêng và bạn bè, cha mẹ, thầy giáo cũng phản ứng bằng các xa rời nó. Trẻ cảm thấy bị bỏ rơi, lại càng sống riêng rẽ hơn nữa. Một lối giải quyết hay là nên để cho trẻ tách riêng một thời gian, rồi sau đó, không cần la rầy, giải thích với thái độ dịu hiền, kéo nó trở về với cuộc sống chung. Đừng xem sự suy nhược của nó là sự lười biếng.- Ngoại trừ vài trường hợp đặc biệt, trẻ đa cảm không phải là một trẻ có bản tính lười. Trái lại, nó rất lo lắng học tập. Vậy cần phân biệt sự lười biếng thực (tính lười biếng của trẻ bất động, trì độn) với sự lười biếng ngẫu phát. Sự lười

62

Page 67: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

biếng ngẫu phát của trẻ có 2 nguyên nhân: - Hoặc là do một phản ứng chống đối. Trẻ tin mình không tới đích được, không cần gắng công vô ích, và chống đối cha mẹ hoặc thầy giáo đòi hỏi nó phải nỗ lực tranh đua. - Hoặc do thân thể mệt nhọc, suy yếu. Trẻ đa cảm không có sức lực dồi dào, cần phải cố gắng nhiều để thích ứng, lại thường bị hao tổn vì những phản ứng, những cảm xúc quá độ, nên làm việc mau [mệt] hơn các trẻ khác. Do đó, thỉnh thoảng xảy ra trạng thái suy nhược, khó cố gắng, dễ chán nản, không chú ý nổi. Sự suy nhược này thường biểu lộ bằng những dấu hiệu như mỏi mệt, đau đầu, bần huyết, nhưng cũng có lúc những triệu chứng này không thấy xuất hiện. Vậy cần săn sóc trẻ chứ không nên vội cho nó là lười biếng, ù lì. Tốt hơn nên giảm giờ học tập của nó, đừng bắt nó làm việc nhiều. nên giúp trẻ vượt qua tình trạng suy nhược tạm thời, đưa đến bác sĩ thăm bệnh, lợi dụng triệt để thời gian nghỉ hè để cho trẻ được giải trí thoải mái. Đề phòng trẻ phóng đại sự thất bại và thử thách trẻ có thể đương đầu.- Trẻ đa cảm phản ứng sâu xa trước sự thất bại. Hơn nữa, vì bản chất đa cảm nên nó tưởng tượng trước những thử thách phải đương đầu, cố khuếch đại hình ảnh khó khăn, trở ngại đến nỗi nó nản chí trước khi chạm trán thử thách. Vậy cần ngăn ngừa khuynh hướng này, đừng để cho trẻ e sợ quá đáng sự thử thách, sự thất bại. Ví dụ, một kỳ thi nên trình bày như một việc tự nhiên, thông thường trên con đường học vấn.

Tác động thế nào cho có hiệu quả?

Duy trì sự tiếp xúc giữa bạn và trẻ.- Nên chú ý đến bất cứ sự gì xảy ra trong tâm trí trẻ. Với một thái độ kiên trì, âu yếm, cho trẻ hiểu là không có cái gì nó cảm nghĩ mà bạn không biết, những phản ứng của nó biểu lộ một bản tính đa cảm và nó cần can đảm và quyết tâm. Không được biến thành đồng lõa với trẻ để cho sự nhạy cảm của bên này tăng lên với sự nhạy cảm của bên kia, mà bạn phải là con đường để cho trẻ cởi mở và tiếp xúc người khác, đón nhận thế giới bên ngoài, nhờ đó mà cá tính, nhân cách của nó được hình thành, đào luyện. Mặt khác, bà mẹ có một nhiệm vụ chính yếu đối với trẻ, vì trẻ chờ đợi ở mẹ một sự hiểu biết sâu rộng, trẻ tìm nơi mẹ một nguồn can đảm, nghị lực. Bà mẹ là nhịp cầu giữa trẻ và thế giới bên ngoài. Nếu không có mẹ hoặc không có ai thay thế thì trẻ rút mình trong cảnh cô đơn, bệnh hoạn. Duy trì sự tiếp xúc giữa trẻ và gia đình.- Trẻ đa cảm cần có một hoàn cảnh bảo vệ. Như một đoàn quân muốn tiến tới vững vàng và thủ thắng, cần phải có một đạo quân hậu tập tinh nhuệ, trẻ cần có một thành trì vững chãi, nơi đây nó có thể tìm sự yên nghỉ, sự cởi mở, thoái mái để tiến bước trong cái thế giới đối nghịch và phục hồi sức lực mới mỗi lúc gặp hiểm trở, nản lòng. Vậy ngoài căn phòng riêng mà trẻ cảm thấy dễ chịu, trẻ cần tìm thấy nơi gia đình một nơi ẩn náo quen thuộc, [để] trẻ có thể yên tâm nghỉ ngơi, cởi mở. Một không khí gia đình cảm thông làm nhẹ bớt những va chạm, đối nghịch, xô bồ sẽ giúp cho trẻ không còn ngại đời, sợ người nữa. Trái lại, nếu trẻ tìm thấy trong gia đình một không khí căng thẳng, lạnh lùng, những tiếng la rầy, những lời nguyền rủa, thì trừ phi nó có một bản lĩnh vững vàng, nó sẽ rơi vào một thái độ cách biệt bệnh hoạn (attitude schizoide), nói theo danh từ của nhà chuyên môn điều trị bệnh thần kinh, nghĩa là sự đoạn giao hoàn toàn với mọi người, với cảm tưởng sâu sắc mình bị lạc loài, bị đẩy ra ngoài lề xã hội. Duy trì sự tiếp xúc giữa trẻ và người khác.- Khuyến khích trẻ kết thân, chọn bạn, đón tiếp bạn bè tới chơi tại nhà. Hướng dẫn trẻ sinh hoạt tập thể, gia nhập đội, đoàn, thiếu nhi, thể thao,

63

Page 68: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

hướng đạo, v.v. Cho trẻ tới chỗ đám đông, hội hè, gặp gỡ người lạ, tiếp xúc bậc trưởng thượng.

Hướng dẫn trẻ hoạt động để đi tới những thực hiện cụ thể Kinh nghiệm cho thấy phần nhiều những nhà bác học cặm cuội trong phòng thí nghiệm, những kỹ sư phát minh, chế tạo máy móc đều là những người thuộc đa cảm chất. Trong lĩnh vực cụ thể này, người đa cảm thành công mỹ mãn nếu ngay từ buổi thiếu thời họ được hướng dẫn tìm thấy mối thích thú làm những công việc cụ thể, vật chất. Nhờ vậy, trẻ được tập rèn luyện chống lại thói mơ mộng vẩn vơ. Cần phát triển ở trẻ đa cảm sự vui thú làm việc chân tay. Nơi đây chúng ta gặp lại lời khuyên giáo dục chính xác của văn hào Rousseau: với bản tính đa cảm, ông hiểu rõ những phương thuốc điều trị thói mơ mộng hão huyền, sở thích thoát ly thực tại [vốn] là những căn bệnh tự nhiên, cố hữu của người đa cảm. Trẻ đa cảm yêu sách? Tập cho nó đóng sách. Trẻ yêu thiên nhiên? Cho nó cắm trại, du ngoạn. Trẻ thích ăn ngon? Tập cho nó làm bếp. Trẻ chuộng mỹ thuật? Bảo nó trang hoàng lấy phòng riêng. Tán thành và thỏa mãn những ước vọng của trẻ có một bộ dụng cụ thợ mộc nhỏ hơn là một cuốn truyện cổ tích, và sau này trẻ muốn có một máy ảnh, hãy sắm cho nó những dụng cụ cần thiết để nó tự rửa lấy phim. Chống lại tính rụt rè, e lệ.- Tính rụt rè có nhiều hình thức như sự mắc cở, cả thẹn trước đám đông, nói năng ấp úng trước công chúng, một thí sinh lúng túng, bối rối không giải đáp được câu hỏi của giám khảo, mặc dù am hiểu vấn đề, trước một vấn đề gì có thái độ chờ đợi, dè dặt, e ngại khó khăn, e ngại thất bại. Phương pháp hữu hiệu nhất để trừ khử tính rụt rè là tấn công ngay ở cội rễ, cội rễ là thiếu lòng tự tin. Muốn gây lòng tự tin nơi trẻ, hướng dẫn trẻ hoạt động, dạy cho trẻ hiểu sự cố gắng là cần, là quý hơn hết, một việc dầu hỏng mà nó cố công thì cũng đáng khen, không nên chú trọng quá đến sự thành bại. Nên hướng trẻ sinh hoạt tập thể, tiếp xúc đám đông. Gây cho trẻ sự thích thú lao động tay chân và khuyến khích nó luyện tập thể thao, thể dục. Chống lại thói suy đi tính lại.- Trẻ đa cảm thiếu lòng tự tin, do dự, phân vân, vì nó suy nghĩ quá độ, hay suy đi tính lại, nhưng đồng thời nó ý thức điều nó cảm nghĩ. Cần lợi dụng sự sáng suốt này để tránh thói suy đi tính lại. Trẻ có khuynh hướng tự nhiên hồi tưởng những việc đã qua, tưởng tượng ra những mẫu đối thoại, lập đi lập lại những gì nó sẽ nói trong trường hợp nào, nghiền ngẫm những thất bại lỡ làng. Nhưng nếu trẻ ý thức được căn bệnh, nó đã chữa lành được một nửa. Nó sẽ nhận ra căn bệnh mỗi khi chứng bệnh phát hiện, và do đó không bị sa vào cạm bẫy. Vậy cần giải thích cho trẻ đa cảm, trai hay gái, là nó mang sẵn khuynh hướng ấy như bao nhiêu trẻ đồng loại, khuynh hướng tự nhiên như màu da, màu tóc, không nên nhắm mắt buông xuôi mà cần biết rõ để kềm chế. Sau hết, cố gắng biến chuyển sự nhạy cảm thành hoạt động.- Đây là một điểm chung trong việc giáo dục trẻ thần kinh và trẻ đa cảm. Sự nhạy cảm ở trẻ thần kinh có thể biến ra kích thích và xung động, còn nơi trẻ đa cảm, nó tiêu ma trong tư lự và lo âu. Biết gây hứng thú cho trẻ hoạt động, nhen nhúm tự tin, lợi dụng lòng tham vọng và chí thành công của trẻ, cha mẹ biến đổi được động lực tình cảm ra hoạt động thực tế. Nơi trẻ đa cảm, nhà giáo dục còn tìm được một nguồn động lực khác: đó là ý thức tương lai. Nói với trẻ về tương lai của nó, khuyên trẻ đừng quá quyến luyến quá khứ mà nên nhìn thẳng vị lai, ấn định cho nó một mục đích chính xác, đó là những gì bạn có thể cung cấp cho mẫu trẻ này, mẫu trẻ tính tình vừa phức tạp vừa đầy hứa hẹn, để nó có thể vượt qua những khó khăn mà nó sẽ gặp trên đường đời.

64

Page 69: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

CHƯƠNG 5. TRẺ DỊ NỘ (LE COLERIQUE) Không có trẻ nào nhanh nhẩu, hiếu động bằng nó. Mới biết đi, mình nó đã đầy vết bầm, đầu u, chân trầy. Thấy cái gì cũng sờ mó, chơi với bạn là đập lộn và, khi thử bắt nó về, là nó chống lại, vùng vẫy, la ré om sòm. Tuy nhiên, ai cũng yêu nó vì bản tính thành thực, lanh lẹ. Trẻ có một thân hình vạm vỡ, gân guốc. Nước da ngăm đen hoặc nâu nhạt hoặc hơi vàng. Vẻ mặt cương quyết, cổ lùn, tóc cứng, tai to, mắt lớn và vui, miệng rộng, chân mày vòng nguyệt: đây là mẫu trẻ cởi mở, vui tính. Ở nhà, trẻ tỏ ra cứng đầu, nhưng biết xoay xở. Không chịu phục tùng, nhưng một mình có thể sửa chữa chiếc xe đạp hoặc những ống nước trong nhà. Không thích được che chở, nâng niu. Ở trường nó là đầu đảng. Nó thích giờ chơi hơn giờ học. Nếu bó buộc quá thì nó nổ, nếu nhốt nó thì nó nhảy. Nó thích làm theo ý riêng. Nó không có thói hờn giận âm thầm, hễ trái ý là nổi nóng ra mặt, nhưng sự nóng giận của trẻ thần kinh bộc lộ bằng tiếng la hét om sòm, cơn giận của trẻ dị nộ phát ra bằng những cái thoi, cú đấm. Trẻ dị nộ chia làm hai nhóm khác nhau, tùy theo chúng có tính nhu thuận hay tranh đấu. Hai nhóm này khác nhau về những nét tính tình cũng như về phương thức giáo dục nên tác giả thấy cần phải tách riêng ra cho dễ nhận.

1. Trẻ dị nộ nhu thuận

Đây là một mẫu trẻ dễ thương và không lười biếng, yếu hèn; có nhiều thiện chí và rất hòa nhã, sẵn sàng nhân nhượng, thỏa hiệp với bạn bè, lúc nào cũng ân cần giúp đỡ kẻ khác. Biết xoay xở, tháo vát, thích trò chuyện nhưng không đa ngôn, tử tế, quảng đại, ai có việc gì khó cũng cố dàn xếp hộ, thực là một mẫu trẻ vui tính, dễ dãi. Tuy nhiên, nếu trẻ bị khiêu khích quá độ, nó nổi tam bành lên, không ngần ngại dùng vũ lực, nhưng rồi làm lành mau chóng. Nó tự tin lại cả tin. Bé trai tròn trịa, nhanh nhẹn, bé gái cũng vui tính, hoạt bát, nhưng đẫy đà chứ không mảnh dẻ, duyên dáng như bé gái thần kinh.

Lối giáo dục trẻ dị nộ nhu thuận

Việc giáo dục trẻ dị nộ dễ dàng hơn cả. Bởi bản chất nhạy cảm nên nhà giáo dục dễ gợi hứng, gây cảm xúc. Và vì bản tính hoạt động nên trẻ có nhiều thiện chí, chăm chỉ và không quản công. Lại được thân hình vạm vỡ, bạo ăn, làm việc lâu mệt, mẫu trẻ này mặc dù hay nóng giận vẫn là trẻ dễ chịu. Có thể nói nơi trẻ này, sự hoạt động và nhạy cảm ảnh hưởng lẫn nhau. Bởi trẻ mập mạp, đẫy đà, vui tính nên ai cũng tưởng nó chế ngự được cảm xúc; kỳ thực trẻ dị nộ rất đa cảm, nhất là con gái.

Điều phải chấp nhận

Thái độ vô tư lự của trẻ.- Chỉ sống trong hiện tại, trẻ dị nộ nhu thuận, ít nghĩ đến tương lai. Đừng trách trẻ này thiếu suy tư và không biết những va chạm của cuộc sống. Vui vẻ, lạc quan, nó kéo dài cuộc sống ấu thơ, không lo sợ gì bất trắc, hiểm nghèo. Vậy cha mẹ cần chú ý tránh cho nó những tình thế mà nó có thể gặp nhiều rủi ro.

65

Page 70: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Tính đa cảm của nó.- Trẻ dị nộ nhu thuận rất đa cảm, tự nhiên quyến luyến kẻ có cảm tình với nó. Nơi trẻ này có những tình ý mâu thuẫn: một mặt thì tha thiết tình mẫu tử ấm êm, mặt khác ham thích những mới lạ của sự phiêu lưu, phóng khoáng. Thay đổi tính khí.- Xem như điều tự nhiên không thể sửa đổi và nên để cho nó trôi qua. Trẻ có thay đổi thái độ, tính khí, ấy là do sức mạnh của sự phản ứng đối với những gì xảy ra chung quanh. Những bé vừa có một thể chất hiếu động vừa có một tính tình đa cảm tất nhiên phải có những phản ứng mâu thuẫn, điều này củng là sự thường.

Những lỗi lầm cần tránh trong việc giáo dục trẻ dị nộ nhu thuận

Tránh sự cô độc.- Thích sống cô độc là một dấu hiệu không tốt ở trẻ dị nộ nhu thuận. Mặt khác, bắt một đứa trẻ sống cô độc, trừng phạt nó bằng cách nhốt nó một chỗ, sẽ gây ra một thái độ chống đối không có lợi cho sự tiếp xúc giữa cha mẹ và con cái. Cần để cho trẻ được tương đối tự do, đồng thời lưu ý kiểm soát một cách kín đáo, vì trẻ có tính vô tư lự không biết phòng xa tai nạn. Tránh đối xử với trẻ một cách lãnh đạm.- Mẫu trẻ này cần tình yêu. Đối xử một cách lãnh đạm, lấy lý do rèn luyện, chế tài, là gây nên những phản ứng dữ dội. Trước một thái độ lạnh nhạt, một trẻ thần kinh tìm cách thỏa hiệp, làm lành; một trẻ dị nộ kiêu hãnh và tự ái dưới vẻ hòa nhã nổi lên chống đối gia đình đã bỏ rơi mình và tìm ở một nơi khác tình cảm mà nó thấy thiếu thốn, đôi khi đưa đến hậu quả tai hại không ngờ. Đừng đòi hỏi nơi trẻ sự nỗ lực, sự tranh tài trong những môn học trừu tượng.- Ngoại trừ vài trường hợp đặc biệt, trẻ dị nộ thích một nền kiến thức thực tế. Nó mạnh khỏe, khéo tay, xoay xở, tháo vát và có xã giao tính nên nó cần học những môn học cụ thể, sống động. Đối với trẻ này hơn là đối với các mẫu trẻ khác, lối giáo dục hoàn hảo nhất phải là lối giáo dục có tính cách hoạt động, tập thể, thực tế, vụ lợi và chú trọng cần lao.

Nên áp dụng những phương pháp thực tế nào trong việc giáo dục trẻ dị nộ nhu thuận?

Lợi dụng ảnh hưởng của những người chung sống với trẻ.- Mẫu trẻ này tự nhiên đứng theo quan điểm chân thực của những người sống chung với nó. Nói chân thực là vì trẻ có trực giác, biết rõ hơn ai hết sự thực xảy ra đằng sau cái vẻ bề ngoài giả dối. Những danh từ hoa mỹ không lừa gạt được trẻ. Trẻ tự hiểu những người lớn chung quanh nó ăn ở làm sao, vậy không nên tìm cách cảm hóa trẻ bằng những lời hoa mỹ, hùng hồn, những nguyên tắc suông mà phải nêu gương mẫu hành vi cụ thể. Trẻ dị nộ chỉ trung thành với hoàn cảnh, với điều kiện hoàn cảnh hòa hợp với nó. Khung cảnh gia đình mau trở nên ngột ngạt với trẻ dị nộ tranh đấu, nhưng rất cần thiết cho trẻ dị nộ nhu thuận. Chính gia đình cung ứng cho trẻ này mọi sự ổn định mà nó đang khát khao. Lợi dụng tình bằng hữu.- Trẻ dị nộ nhu thuận, dầu có kín đáo, cũng là một bạn tốt. Nếu lợi dụng đặc điểm này mà phát triển những đức tính thường bắt nguồn trong tình bằng hữu: tinh thần tập thể, nghĩa tương trợ, chí tranh đua, tính thành thực trong lúc chơi đùa. Chính nhờ ở sự lựa chọn bạn bè và đoàn đội trẻ tham gia mà trẻ được bảo vệ khỏi bị lôi cuốn theo những thói hư tật xấu, điều đáng sợ ở mẫu trẻ này, [với] bản tính dễ bị ảnh hưởng, dễ cảm hóa.

66

Page 71: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

2. Trẻ dị nộ tranh đấu Bản chất hiếu động lại có khuynh hướng tranh đấu, đây là mẫu trẻ gây gổ điển hình. Không ngồi yên, không biết mệt, khỏe mạnh, vạm vỡ, thích không gian bay nhảy, tự do phóng khoáng, thích hành động, dù là bạo động. Nóng nảy, ít suy nghĩ, làm việc tùy hứng, xung động, dễ giận, nên không ngần ngại gây gổ, đánh đấm. Bé gái cũng hung dữ, nhưng biết che chở, đùm bọc trẻ yếu. Đặc tính của mẫu trẻ này là cơn thịnh nộ, mỗi khi trẻ nổi giận thì không tự chế được. Bù lại trẻ rất thành thực và trung thành với những người đã chiếm được lòng cảm phục của nó. Trí thông minh của trẻ thực tế và cụ thể. Nó chỉ hiểu những gì nó nghe thấy được, sờ mó được. Nó không vận dụng nổi những tư tưởng trừu tượng, cả những danh từ. Nói về trẻ dị nộ tranh đấu, không thể không đưa ra so sánh với trẻ thần kinh kích thích: hai bên có những điểm tương đồng. Cũng là tùy hứng, cũng là xung động, cũng là bất thường, cũng là phản ứng quá đáng. Có thể nói sự hoạt động của trẻ thần kinh có tính cách bất thường hơn trẻ dị nộ, trẻ thần kinh làm việc dễ chán nản nếu việc kéo dài, và bỏ dở những việc bắt buộc. Nhưng kinh nghiệm cho thấy trẻ dị nộ cũng chẳng thích việc bắt buộc và kéo dài. Ở lứa tuổi này, những nét sinh hoạt nói trên không đủ để phân biệt hai mẫu trẻ, nếu trẻ thần kinh có một năng lực hoạt động trung bình làm cho nó giống trẻ dị nộ. Dưới đây là những điểm giúp ta phân biệt hai mẫu trẻ: Hình vóc và cân nặng. Trẻ dị nộ tranh đấu tuy nhỏ hơn trẻ dị nộ nhu thuận và đôi khi ốm gầy, nhưng to lớn, vạm vỡ, nặng cân hơn so với trẻ thần kinh kích thích. Văn nói. Ai cũng biết trẻ thần kinh kích thích hay nói, nói liên miên. Trẻ dị nộ ít nói, kín đáo hơn. Ăn uống. Trẻ thần kinh ăn ít, nhưng thích ăn ngon, ăn vặt, ưa kẹo bánh. Trẻ dị nộ ăn nhiều, nhưng không kén ăn, chọn lượng hơn phẩm. Giấc ngủ. Trẻ thần kinh thức khuya và dậy trưa. Trẻ dị nộ ngủ sớm, ngủ say mê và có thói quen dậy sớm.

Đường lối giáo dục trẻ dị nộ tranh đấu

Nơi trẻ dị nộ tranh đấu, "cuộc khủng hoảng sống độc lập" (khuynh hướng thoát ly gia đình) và xuân tình phát động sớm hơn các mẫu trẻ khác. Vậy không nên ngạc nhiên trước những hành vi của trẻ khi nó bước vào tuổi thanh niên. Nếu trẻ được hướng dẫn vững vàng thì những năm về sau cha mẹ sẽ tránh được nhiều sự buồn lòng.

Điều cần chấp nhận ở trẻ tranh đấu

Chấp nhận trẻ làm việc không đều. Mẫu trẻ này không thích công việc đều đều, cuộc sống trầm lặng. Có những lúc trẻ dốc sức làm một việc, làm ráo riết cho xong rồi mới chịu nghỉ. Đừng sợ trẻ phí sức, đây là nhịp điều làm việc quen thuộc của nó, lề lối làm việc này tự nhiên đem lại năng suất cao cho trẻ. Đừng buồn khi thấy trẻ không có những điểm tốt ở lớp học. Trẻ vui vẻ, thoải mái trong trường tranh đấu và kinh nghiệm hơn là trong lớp học với những bài luận, bài toán khô khan. Đừng sợ. Sẵn trí thông minh cụ thể, có óc thực tế và sáng kiến, biết tháo vát, xoay xở, khéo tay, không

67

Page 72: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

khéo lời như trẻ thần kinh, tin tưởng ở vận mạng tương lai, trẻ dị nộ sẽ thành công trong khi nhiều trẻ khác đồng cảnh ngộ, đồng phương tiện có thể bị thất bại.

Những lỗi lầm cần tránh trong việc giáo dục trẻ dị nộ tranh đấu

Đừng dùng uy quyền khe khắt.- Lối sử dụng vũ lực có thể gây nên một thái độ chống đối và rồi lại phải tiếp tục dùng vũ lực. Với trẻ này, nên đối xử như người bạn hiền mới mong chinh phục nó. Đừng đem luân lý giảng dạy nó.- Mẫu trẻ này không có ý thức về luân lý theo cái nghĩa chúng ta hiểu là những ước lệ xã hội. Trẻ dị nộ từ tuổi biết lý luận đã xem thường những ước lệ xã hội, những quy tắc, nghi thức do xã hội đặt ra [mà] nó xem như sự ràng buộc vô ích. Nếu trẻ thuộc mẫu trẻ kín đáo, tranh đấu và hẹp thì chủ nghĩa cá nhân của nó càng sâu sắc. Nó cũng có luân lý riêng của nó, do ý kiến, quan niệm biệt lập, và nó chỉ hành động theo đó. Đừng làm nhục trẻ.- Không được la mắng trẻ trước đám đông, cũng như không được so sánh nó với những trẻ có thiên tư hơn. Tưởng làm như vậy là kích thích chí tranh đua của trẻ, không ngờ đẩy nó đi sâu vào thái độ đối nghịch. Không được quên trẻ hay hờn giận, mặc dù bề ngoài có vẻ cứng cỏi và trẻ rất kiêu hãnh.

Nên sử dụng những phương pháp nào trong việc giáo dục trẻ dị nộ tranh đấu?

Chọn lấy những mục tiêu kế tiếp trong tương lai.- Trẻ có một nguồn động lực bất tận, không nên lãng phí mà cần ấn định một mục tiêu hành động. Nhưng không nên quên là đối với trẻ phản ứng mau lẹ thì phải có một chương trình ngắn hạn và dễ thực hiện. Đừng phí thì giờ vạch ra một mục đích xa xăm, một nghề tương lai mà trẻ không thích tí nào, có nói về tương lai thì chỉ nên nói sự độc lập tương lai (danh từ này trẻ thích hơn) mà trẻ phải lo xây dựng. Ví dụ thi vào lớp sáu – muốn vậy phải lên lớp năm – muốn vậy phải giỏi toán – muốn vậy phải chăm chỉ làm bài trước mắt.

Cảm hóa trẻ bằng gương mẫu và uy tín

Chúng ta đã thấy trẻ dị nộ tranh đấu, và nhất là trẻ dị nộ phiêu lưu, rất trung thành với người nó yêu mến và sẵn sàng phục tùng những người chiếm được sự ngưỡng mộ, tôn sùng của nó. Để không phụ lòng kỳ vọng của một ông giáo, một người bạn đã đặt hết lòng tin cậy nơi mình, một trẻ dị nộ có thể làm những việc xuất sắc không ngờ. Còn nhớ em Tư đã nhiều lần bỏ học, bỏ nhà đi trốn vì Tư bị cha mẹ la mắng. Thực ra Tư học hành bê bối, tính nết hoang đàng, thường bị thầy giáo quở phạt. Ngày kia, ông giáo bị bệnh phải nghỉ dạy. Tư gặp được một ông giáo điền khuyết, dáng điều, vẻ mặt, đôi mắt, giọng nói đã gây ra một "tiếng sét giao tình". Thầy trò thành ra đôi bạn thân. Trong ba tháng, Tư học hành tiến bộ và thi đỗ, còn chiếm được học bổng nữa. Tập trẻ tôn trọng kỷ luật.- Như chúng ta đã thấy ở trên, mẫu trẻ này làm việc tùy hứng và hay tự ý tự tác. Bản chất trẻ này không chấp nhận được ngay cái ý niệm về kỷ luật. Tuy nhiên, với sự khéo léo, tế nhị, cha mẹ, thầy giáo vẫn có cách làm cho con ngựa bất kham trở nên thuần thục. Trước hết, trẻ có thể chấp nhận một kỷ luật áp dụng với lòng âu yếm, sau đó trẻ sẽ tự áp dụng kỷ luật của nó, một kỷ luật cứng rắn hơn kỷ luật bắt buộc. Điều cần là nên để cho trẻ tự tìm lấy kỷ luật. Như một tay thể thao biết tự áp dụng một kỷ luật rất khắt khe để giữ cho hình vóc được nở nang, cân đối (không uống rượu, không hút thuốc, ăn uống điều độ, không ăn nhiều chất béo, v.v.), trẻ tự vạch cho mình một chương trình, một kế hoạch làm việc hẳn hòi,

68

Page 73: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

nhưng giá ai bắt buộc nó, chắc rằng không bao giờ nó chấp nhận. Vậy cần lợi dụng óc sáng kiến, chí tự lập và lòng kiêu hãnh của trẻ để khuyên bảo nó là mọi người đều mong nó cố gắng đạt tới một mục tiêu mà trẻ hoài vọng. Phát triển tinh thần quảng giao.- Mẫu trẻ này không có khuynh hướng giao du rộng rãi dễ dàng như trẻ dị nộ nhu thuận. Đây là một trẻ biết yêu đoàn, đội, và chính nó là linh hồn của đoàn, đội. Tuy vậy, nó vẫn thích sống ngoài xã hội nói chung. Nhờ thể thao và ê-kíp thể thao mà trẻ phát triển được tính quảng giao. Sau đó, nên cho trẻ gia nhập nhiều đội thể thao khác nhau ở mọi giới xã hội. Trên bình diện giao tế, nên khuyến khích sự tản mát sức lực trong khi cần phải hạn chế trên bình diện làm việc.

69

Page 74: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

CHƯƠNG 6. TRẺ ĐAM MÊ (LE PASSIONNÉ) Không nên lẫn lộn đôi mắt của trẻ đam mê với trẻ đa cảm. Cái nhìn của trẻ đam mê cũng sâu sắc, nhưng không có vẻ mơ mộng, u buồn. Khuôn mặt nó kém dài hơn và ba tầng (xem lại Chương 1, Phần 2) trán, mũi và má, miệng và cằm rất cân phân. Cổ lùn và cằm vuông như trẻ dị nộ nhưng mặt nó ít gân guốc hơn. Bề ngoài xem nó không có vẻ một tay cứng đầu. Người ngoài chú ý đến nó ở cái vẻ nghiêm nghị, đứng đắn. Ngay từ lúc bé, nó đã tận tụy, say mê một mình với trò chơi cũng như việc làm và không muốn ai quấy rầy. Ở trường, đây là một học sinh chăm chỉ, chuyên cần, hăng hái. Ở lứa tuổi của nó, nó có vẻ chín chắn hơn bạn bè, thường đứng cao trong lớp. Nhưng thấy vậy mà suy luận nó dễ bảo, dễ dạy là sai lầm. Nó là trẻ hay hờn giận và rất cứng đầu. Không thích ăn ngon, không khoe khoang, không chuộng thể thao và cũng không mơ mộng, không thích làm thơ, trẻ chỉ thích làm việc và muốn ở đâu cũng đứng đầu, ở đâu cũng điều khiển kẻ khác. Nó không chịu thua ai và không chịu ai điều khiển. Ai chống nó là cơn giận bộc phát dữ dội. Tuy vậy, đối với trẻ nhỏ hơn nó lại hiền dịu, hòa nhã. Hoặc nếu có bạn nào làm theo ý nó là nó hết mình che chở. Có thể tin cậy ở trẻ mà giao cho nó những việc làm đòi hỏi tinh thần trách nhiệm. Trẻ tận tụy làm việc để mang lại kết quả tốt đẹp vì nó có năng khiếu tổ chức, có biệt tài điều khiển.

Những sắc thái dị biệt của mẫu trẻ đam mê

Trẻ đam mê cuồng tín.- Nóng nảy và độc đoán, nó có những cơn thịnh nộ, mâu thuẫn với vẻ bình tĩnh quen thuộc. Chơi với bạn nó tỏ ra chuyên chế, muốn bạn làm theo ý kiến của nó, phê bình chỉ trích bạn, đôi khi nó có thái độ hỗn láo. Trẻ đam mê hảo tâm và hay pha trò.- Hai trẻ này rất giống nhau, nhưng trẻ trước tính hiếu kỳ hơn. Cả hai đều siêng năng, ngăn nắp, vui tính, ân cần. Chúng che chở bạn nhỏ và tự cho mình là chiến sĩ bênh vực công lý. Bạn bè đều mến chuộng và vui lòng tùng phục. Trẻ đam mê có khiếu tổ chức.- Trẻ biểu lộ sớm năng khiếu tổ chức, làm việc có phương pháp, theo quy củ, tôn trọng kỷ luật, trật tự, đây là điều hứa hẹn sự thành công trong lai, dù trẻ làm nghề gì sau này. Mặc dù còn ở tuổi ấu trĩ, trẻ đã phát lộ năng khiếu chỉ huy và tinh thần trách nhiệm. Thường đứng đầu trong lớp, ngoài xã hội trẻ cũng được kính nể vì nghị lực, can đảm, thái độ đúng đắn.

Đường lối giáo dục trẻ đam mê

Trẻ rất khó giáo dục vì ngay cái ý niệm giáo dục trẻ cũng không chịu được. Trẻ không thích người ta điều khiển, khuyên răn. Đối với trẻ đam mê hảo tâm thì sự lễ độ có chăng cũng là vẻ lịch sự bề ngoài. Không thể giao việc giáo dục trẻ đam mê cho một người đàn bà, dù là mẹ hay cô giáo. Vậy chính ông cha phải nhận lãnh trách nhiệm dạy trẻ và bà mẹ nên vui lòng từ khước sử dụng quyền uy chính đáng của mình.

Điều cần chấp nhận nơi trẻ đam mê

Nên biết trẻ không hiểu nổi sự hài hước. Trẻ không hiểu nổi sự khôi hài, diễu cợt. Nó chỉ thích sự đứng đắn, nghiêm nghị. Bất luận làm việc gì nó cũng cho là quan trọng, vì nó có tính kiêu hãnh, có lòng tự tin và cũng vì nó có ý đối nghịch ngầm với kẻ khác (ở trẻ đam mê hảo tâm,

70

Page 75: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

thái độ này được che dấu bằng một bề ngoài lễ độ và từ tốn). Tỏ ý hoài nghi giá trị, khả năng và sự làm việc của nó là hạ nhục nó, và trẻ sẽ phản ứng bằng thái độ khiêu khích ra mặt hoặc oán hờn ngấm ngầm. Nên biết nơi trẻ đam mê, có những ngày yên tĩnh xen kẽ với những ngày dao động. Trẻ đam mê sống theo lý trí nhưng lý luận của nó lại không khách quan (trẻ thường để tình cảm, dục vọng xen vào), và lối đối xử của nó không phải lúc nào cũng hợp lý. Với khách lạ, nó tỏ ra có một lối sống chừng mực, nhưng cha mẹ biết tính khí nó thay đổi bất thường; có những ngày trẻ rất bình tĩnh, cư xử hợp lý, và cũng có những ngày nó có thái độ khiêu khích, gây gổ.

Những lỗi lầm cần tránh với trẻ đam mê

Tránh những quyết định quan trọng trong những ngày kém vui của nó. Có những lúc trẻ tỏ ra cứng đầu, lì lợm. Thái độ của nó là sự khiêu khích, một sự khiêu khích cho người giận dữ, và người ta có chiều hướng lấy bạo lực mà trả lời bạo lực, lấy ngoan cố mà trả lời ngoan cố. Đây là điểm tế nhị trong việc giáo dục trẻ đam mê vì, cũng như trẻ thần kinh và trẻ dị nộ, nó không hề nhượng bộ trước bạo lực. Vậy cha mẹ cần thi hành chính sách "bất bạo động", ngăn ngừa sự khiêu khích bằng cách cho trẻ làm việc khác, chơi đùa, giải trí, mỗi khi trẻ thấy tâm tư nó căng thẳng. Phải tỏ cho trẻ hiểu cha mẹ từ khước không chịu thảo luận với trẻ bất cứ việc gì trong những ngày kém bình tĩnh, và cha mẹ đợi cho lý trí trở lại, và lý trí sẽ sớm trở lại với trẻ. Trẻ đam mê chịu thái độ ấy hơn là một phản ứng hành hung chỉ gây ra nơi trẻ sự chống đối, bất mãn.

Tác động thế nào đối với trẻ đam mê?

Lợi dụng khuynh hướng nghề nghiệp sớm biểu lộ của trẻ.- Vì trẻ luôn luôn biết rõ điều nó muốn. Một trẻ lên mười nói với bạn: "Tôi sẽ chọn nghề này, tôi sẽ làm nghề khác", trẻ ấy không nhất thiết là trẻ đam mê. Có thể em bé cảm phục một vị anh hùng thời đại hoặc một ca sĩ, một tài tử xi-nê, hoặc trẻ muốn bắt chước ông chú, ông cậu có những thái độ, cử chỉ hấp dẫn hoặc có hành vi đã chinh phục được sự ngưỡng mộ của bà con, xóm giềng. Tất cả bé gái yêu cô giáo lúc lên tám đều nói: "Tôi sẽ làm nữ giáo viên", và có nhiều bé trai 12, 13 tuổi mê tiểu thuyết kiếm hiệp đều mơ làm chàng tráng sĩ oai hùng. Trẻ đam mê thì từ ngày ấu thơ đã định tâm chọn một nghề tương lai và về sau lớn lên không thay đổi ý kiến. Khuynh hướng chọn nghề sớm là phương pháp giáo dục tốt, nó sẽ là mục tiêu sớm [được] chấp nhận, ngay từ giờ này có thể liên hệ một cách hợp lý công việc học hành của trẻ. Kiểm soát những phương tiện trẻ dùng để thực hiện ý nguyện của nó.- Trẻ có khuynh hướng áp dụng công thức "tất cả phương tiện đều tốt". Trẻ sử dụng bất cứ phương tiện nào để đạt kết quả mong muốn. Cần dạy cho trẻ là xô đẩy, giày xéo kẻ khác để đạt mục đích của mình là vô lý, là bất nhân, cũng như lợi dụng người khác, lợi dụng sự yếu hèn, sự đau khổ của người làm phương tiện trục lợi, cầu danh đều không xứng đáng với con người có lương tâm, biết trọng danh dự. Kềm chế khuynh hướng bi thảm hóa.- Trẻ đam mê hành động và phản ứng mạnh mẽ. Một việc nhỏ nó thêm thắt, thêu dệt thành chuyện lớn; một tình ý tầm thường nó phóng đại thành ra hãi hùng, bi đát. Để trừ khử khuynh hướng ấy, khuynh hướng có thể đưa đến một chứng bệnh loạn trí nghi kỵ bị nhiều kẻ thù hãm hại (maladie de la persécution), nên lợi dụng lý trí của trẻ, chỉ cho nó thấy khuynh hướng này là một nét tính tình của trẻ đam mê, cần triệt để đề phòng. Lợi

71

Page 76: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

dụng kinh nghiệm, chỉ cho trẻ thấy chính nó bi thảm hóa mọi việc chứ không phải kẻ khác, và một sự thay đổi thái độ của trẻ – một thái độ hòa nhã, tin cậy – có thể biến đổi được hoàn cảnh chung quanh. Khuyên trẻ không được phí phạm sức lực.- Trẻ đam mê say mê việc làm, từ việc học ở nhà trường, công việc gia đình cho đến sự chơi đùa với bầu bạn. Cần dạy trẻ là không phải việc gì cũng có tầm quan trọng như nhau, có những việc cần làm trước, có việc nên để lại sau; lại có những việc làm để mà chơi, những câu nói để giải trí, những trò vui để mua cười trong chốc lát. Không nên phí phạm sức lực. Muốn đi đường dài cần phải dưỡng sức ngựa.

72

Page 77: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

CHƯƠNG 7. TRẺ ĐA HUYẾT (LE SANGUIN) Tất cả trẻ con mà chúng ta vừa nhận đều dễ bị kích thích, nếu không thường xuyên thì ít ra cũng từng giai đoạn, dù sự kích thích chỉ ở hình thức ngấm ngầm. Trái lại, những trẻ không nhạy cảm tự nhiên rất bình tĩnh. Nhưng trẻ ấy có thể bị thúc đẩy hoạt động, nhất là trẻ đa huyết và trẻ lâm ba. Điểm này có thể làm cho cha mẹ lầm lẫn về tính tình thực của con mình. Trong một công viên, một lũ trẻ đang chơi đùa. Tuổi của chúng vào khoảng mười một, mười hai. Trong đám trẻ có trẻ đa huyết. Nó la hét, chạy nhảy, múa may, cười ồ. Nó chơi với ba trẻ khác cùng một lứa tuổi, hai trẻ thần kinh và một trẻ dị nộ. Cha mẹ ngồi bên cạnh cho biết, ở nhà đứa trẻ chơi lặng lẽ một mình với bất cứ thứ gì: cát, gỗ, giấy, dụng cụ, v.v. Nhưng khi chơi với một số trẻ nhạy cảm, dễ kích thích – như trong trường hợp này – nó tự kích thích với đồng bọn. Đây là một hiện tượng điển hình: trẻ đa huyết không tự nhiên kích thích (nó không nhạy cảm) nhưng không tự chủ (nó rất dễ bị uốn nắn, dễ hòa mình với hoàn cảnh) nên dễ bị lôi cuốn theo hoàn cảnh chung quanh. Nhận xét về trẻ đa huyết, người ta còn vấp phải một lầm lẫn khác là đánh giá quá thấp sự hoạt động của nó. Người ta quên rằng hai trẻ cùng hoạt động, một trẻ thuần túy hoạt động, một trẻ nhạy cảm thuần túy, trẻ trước có vẻ ít vận dụng sức lực hơn trẻ sau. Bên cạnh một trẻ thần kinh không thể ngồi im (đã từng nghe một người thần kinh nói: "tôi không thể ngồi im mà không làm việc gì"), vì nó ở trong trạng thái náo động thường xuyên, một trẻ đa huyết và một trẻ trầm tĩnh ngồi im không làm gì khi không có việc gì để làm. Muốn nhận diện rõ hơn, chỉ cần quan sát ba mẫu trẻ này được đặt trước một công việc bắt buộc. Trẻ nhạy cảm thuần túy tỏ ra kém hoạt động và mau mệt mỏi trước công việc bắt buộc, không mấy thích thú. Trẻ hoạt động thuần túy thì bắt tay vào việc vì đây là công việc bắt buộc. Còn những trẻ nhạy cảm hoạt động mới là trẻ hoạt động thực sự, và những trẻ không nhạy cảm, không hoạt động là trẻ lười biếng. Một đặc điểm khác của trẻ không nhạy cảm là "cuộc khủng hoảng sống độc lập" (thoát ly gia đình) thường phát hiện rất trễ hoặc không biểu lộ rõ rệt. Trẻ quyến luyến gia đình hơn các trẻ khác. Trẻ đa huyết nước da hồng hượt, mịn màng, mắt to, miệng rộng, cổ lùn, thân hình mập, lùn. Mặt bành ra ở phần dưới, hàm vuông, rộng. Đôi mắt trầm tĩnh nhưng sáng láng, linh hoạt, đôi mắt của trẻ hoạt động thuần túy. Trẻ thích ăn ngon, ăn bạo, lớn lên lấy sự ăn nhậu làm lạc thú ở đời, cũng như sự hưởng thụ làm động cơ hoạt động. Nhìn chung, đây là một trẻ vui tính, dễ dãi, cởi mở, hòa nhã đối với bạn bè cũng như đối với người lớn. Nó lanh lẹ, đôi khi ranh mãnh, ăn nói lưu lợi, khéo xã giao, luôn luôn chăm lo bảo vệ quyền lợi riêng tư. Nó có biệt tài tùy cơ ứng biến để thủ lợi cho mình. Rất ân cần, sẵn sàng giúp bạn nhưng với điều kiện không hy sinh quyền lợi riêng, vì đối với nó quyền lợi của mình là tối thượng. Khoe khoang, tìm đủ mọi cách làm cho người khác chú ý đến mình. Không có ý thức đạo lý, nhưng nó vẫn có nhiều bạn vì nó vui tính, cởi mở, chơi giỏi và khéo xoay xở. Trẻ đa huyết thông minh nhưng không thông minh theo kiểu trẻ đa cảm và trẻ đam mê. Trí thông minh của nó cụ thể và thực tế, kém sâu sắc, nhưng nhanh nhẹn. Có tính hiếu kỳ và biết cách làm việc, không phí phạm sức lực.

73

Page 78: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Những sắc thái dị biệt của mẫu trẻ đa huyết Trẻ đa huyết đa mưu và khôn khéo.- Có xã giao tính nhưng thận trọng, dè dặt. Sẵn nhiệt tình nhưng có thói quen châm biếm, ân cần nhưng cũng lo bảo vệ quyền lợi riêng bằng mọi cách. Nói giỏi, khéo thuyết phục, nên thường mua bán đổi chác với bạn bè để thủ lợi. Trẻ đa huyết hảo tâm.- Giống như trẻ dị nộ, dễ bảo nhưng kém hăng hái, cởi mở. Hiếu kỳ, muốn giao hảo với mọi người xung quanh, dù nó phải "bắt bồ" trước. Bé gái hiền dịu, kiên nhẫn, duyên dáng. Gặp cảnh ngộ nào cũng thích ứng được và tìm cách giúp đỡ bạn bè. Trẻ đa huyết tham lam.- Ăn nói lưu lợi, khéo xã giao. Hoài nghi, không tin người, không tin đời. Vui tính, khéo đóng kịch, bề ngoài có vẻ vô tư, không vụ lợi nhưng rất ích kỷ, tương lai có thể làm nên việc.

Đường lối giáo dục trẻ đa huyết – Điều cần chấp nhận nơi trẻ đa huyết

Trước hết chấp nhận một sự "trống rỗng nội giới".- Điều này có nghĩa là trẻ không có cuộc sống nội tâm. Bản chất của trẻ là thế. Trẻ không có những vấn đề luân lý, không hề thắc mắc về cách xử thế, không có sự dè dặt, tế tâm, sợ làm sai, phạm lỗi. Nếu có làm tròn một nhiệm vụ, đó là vì nhiệm vụ đó đem lại cho nó một cái lợi gì đó. Có những trẻ đa huyết tính toán, so đo, sắp đặt trong trí những kế hoạch, mưu chước thực hiện dự định đi đến thành công. Những trẻ này tự nhiên thích ứng và hòa mình vui vẻ với xã hội, với hoàn cảnh sinh hoạt. Hãy để cho chúng yên tâm, đừng đem đạo đức ra mà giảng giải, vì đạo đức đối với chúng hầu như vô nghĩa! Chấp nhận chủ nghĩa vụ lợi của trẻ.- Tuy không hay biết, tự nhiên trẻ thực hành một triết lý của nhà ngụy biện cổ thời, là "cái gì thành công, cái đó mới có thực"; triết lý này người đời nay cũng chủ trương với nguyên tắc: "Điều phải là khối lượng tối đa thỏa mãn cá nhân". Đừng lấy cớ khuynh hướng ấy va chạm lương tâm mà cố đả phá. Không thể biến đổi người đa huyết thành một chàng hiệp sĩ hào hùng, lý tưởng cao xa đến độ ngông cuồng, vì bản chất hắn là một con người thực tế, mắt không nhìn lên mây mà hai chân trụ vững dưới đấy, một con người thực tế, hơi lì lợm, bất lương8.

Những lỗi lầm cần tránh với trẻ đa huyết

Đừng chịu bó tay vì văn nói và mưu mẹo của trẻ.- Khi thấy ông giáo cầm đến chiếc thước hoặc ông cha cau này, cậu cô đều làm đủ cách, sử dụng mọi mưu chước để ngăn chặn cơn thịnh nộ, trận lôi đình của người trên. Nên dè dặt, đừng cả tin. Trẻ sẽ có những lý luận rất hay, rất vững để tự bào chữa, và nó sẽ cười thầm trước thái độ chưng hửng của bạn. Không nên tranh luận với trẻ thần kinh vì nó sẽ làm bạn nổi sùng; không nên cãi cọ với trẻ đa huyết vì nó sẽ làm cho bạn bó tay. Lanh trí, nó khéo xoay chiều cho lý luận của nó thích hợp với phản ứng của bạn; chỉ có mục tiêu quyền lợi riêng của nó là vững như bàn thạch. Đừng thỏa mãn với mệnh lệnh suông như "mày phải lên lớp", "mày cần học thêm sinh ngữ", "con phải làm sao cho cha mẹ vui lòng". Đừng để cho trẻ tự vạch lấy chương trình, chọn lấy phương pháp. Trong cái khung cảnh mơ hồ ấy, trẻ sẽ sử dụng những phương tiện dối trá còn công việc thì thường để đến giờ chót mới bắt tay vào. Nên bố trí việc làm, kiểm soát phương tiện và ấn định một thời hạn hoàn tất.

8 Đoạn này nói về người lớn thì chính xác hơn. Thực ra, trẻ con hay người lớn [nói trong Chương này] đều thuộc cùng một thể chất là đa huyết chất.

74

Page 79: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Đừng kêu gọi lương tâm của trẻ. Ở đây, không như trẻ thần kinh có thể lấy lòng tự ái mà thay thế lương tâm, không như trẻ dị nộ có thể lấy tinh thần tập thể mà thay thế lương tâm. Với trẻ đa huyết hảo tâm còn có thể kêu gọi tình thương cha mẹ, kêu gọi thiện cảm đối với bà con, bạn bè để mà cảm hóa, thuyết phục. Còn với trẻ đa huyết tham lam thì không biết lấy gì mà kích động được. Chỉ có một cách "dĩ độc trị độc", lợi dụng chủ nghĩa vụ lợi của trẻ để hướng trẻ về con đường ngay lành.

Những phương pháp tích cực nào nên áp dụng trong việc giáo dục trẻ đa huyết?

Cần sử dụng một uy quyền nghiêm khắc.- Không có thái độ nóng nảy nhưng phải cương quyết và kiên trì. Chúng ta đang đứng trước một mẫu trẻ mà uy quyền của ông cha có thể đem lại kết quả tốt, ông cha có thể buộc trẻ lựa chọn giữa một việc làm tối thiểu và một sự trừng phạt hoặc sự thiếu thốn nhọc nhằn. Nên hướng dẫn tính hiếu kỳ của trẻ. Tính hiếu kỳ của mẫu trẻ này rất sắc bén. Nó thích rút kinh nghiệm. Rất may là ngoại trừ trường hợp tính nhạy cảm của họ ở mức độ trung bình, trẻ không thích mạo hiểm (sự mạo hiểm vật chất, rủi ro mà nó phải hứng chịu, không phải "con đường tắt" nó thường sử dụng trong những mưu đồ nho nhỏ của nó). Vậy cần phải chỉ cho trẻ, trai cũng như gái, thấy rõ những rủi ro – nếu cần, nên phóng đại thêm – nó sẽ phải gặp vì tính hiếu kỳ của nó, nhất là hiếu kỳ trong vấn đề tình dục. Ngay từ giờ này, nên chuyển hướng tính hiếu kỳ của trẻ vào lĩnh vực trí tuệ như học địa lý, lịch sử để biết lề lối sinh hoạt và tập tục lạ của các dân tộc trong hàn vũ, cho trẻ học thuộc lòng những vần thơ, kịch, tóm lược những sách truyện nó đã đọc, cố gắng khai thác năng khiếu thẩm mỹ: hội họa, ca nhạc, vũ, v.v. xem đó như những phương tiện đào luyện cảm tính của trẻ. Tập cho trẻ đừng xem sự thành công là tối quan trọng. Trẻ đa huyết dù trai hay gái đều quan niệm thành công là cứu cánh, không cần chú trọng phương tiện hay dở thế nào. Một nhà giáo dục giàu kinh nghiệm đã nói rằng cái khó là khuyến khích trẻ học hành, đồng thời tập cho nó đừng quan niệm sự thành công là mục tiêu duy nhất của hoạt động học đường. Điểm chính yếu cần nhắc nhở là đừng cho sự thành công ở học đường hoặc ở một địa hạt nào khác một tầm quan trọng quá mức. Thực ra, kẻ làm cha mẹ rất khó giữ thái độ này; cha mẹ thường kiêu hãnh về việc học hành xuất sắc của con, và trong thời buổi khó khăn này thường bị lôi cuốn vào phong trào săn đuổi văn bằng. Tốt hơn là nên khắc khe đối với việc chuẩn bị một bài làm, một bài luận, một bài thi (thi lục cá nguyệt, chẳng hạn), trẻ gắng công làm kỹ, nhưng về sau cha mẹ đừng hỏi đến số điểm, hạng thứ, để cho trẻ hiểu là sự làm việc, sự gắng sức của nó đối với cha mẹ có giá trị hơn sự thành công. Lại cần trừng phạt gắt gao những vụ gian lận bị phát giác. Đừng dung thứ một sự gian lận, lười biếng, tắc trách nào nếu không muốn con mình trở thành một trẻ hư hỏng. Phát triển nơi trẻ một thứ luân lý vụ lợi.- Có thể sử dụng chính cái nguyên tắc xử thể của trẻ đa huyết: "Điều phải là khối lượng tối đa thỏa mãn cá nhân". Cũng không khó chỉ cho trẻ thấy là làm được một việc phải thì tự nhiên cá nhân mình thấy thỏa mãn, và từ đó có quan niệm rõ về sự thỏa mãn được người khác yêu chuộng, nể vì. Lại cần phân biệt cái phẩm, cái lượng của sự vui thú, có những cái vui thỏa tế nhị như chọn được một người bạn tốt, tạo ra cho kẻ khác một niềm vui. Cuối cùng, có thể phân tích chứng minh sự thành công mà trẻ khao khát, trẻ ca ngợi không có do gian lận, mưu mô, lươn lẹo mà do biết sử dụng một phương pháp làm việc biến đổi được năng suất, do khéo áp dụng chương trình, kế hoạch thích hợp.

75

Page 80: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Nâng đỡ sự cam đảm của trẻ.- Trẻ đa huyết cũng giống như người lớn thuộc đa huyết chất, trái với nhận định thông thường, kém can đảm, không dám mạo hiểm. Gặp khó khăn nó tìm cách trớ tránh. Cha mẹ cần giúp cho trẻ đương đầu và vượt qua những khó khăn phải gặp trong sinh hoạt học đường hoặc ở nơi khác.

76

Page 81: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

CHƯƠNG 8. TRẺ TRẦM TĨNH (LE FLEGMATIQUE) Một điều lạ lùng là người ta thường lẫn lộn trẻ trầm tĩnh với trẻ đa cảm. Bề ngoài chúng có vẻ giống nhau nhưng thực ra hai mẫu trẻ này rất tương phản. Nên tìm hiểu tại sao có sự lầm lẫn này. Nếu trẻ giấu kín những cảm xúc của nó, nó có vẻ ít nhạy cảm và bạn căn cứ bề ngoài kém nhạy cảm của nó mà cho trẻ là không nhạy cảm. Mặc khác, vì trẻ chỉ học, lo học và gặt hái được nhiều thành công trên đường học vấn nên bạn tưởng nó là trẻ hoạt động mà không phân biệt hoạt động đam mê (do nhạy cảm) và hoạt động tính thực sự, rồi sắp nó vào loại trẻ trầm tĩnh; kỳ thực nó vốn là trẻ đa cảm. Vì muốn tránh sự lầm lẫn nói trên nên ngoài những câu hỏi trắc nghiệm đã trình bày, chúng tôi tưởng nên thêm vào đây những dấu hiệu phụ biểu lộ ở nét mặt và chữ viết. Chúng ta sẽ thấy khi xét trẻ bất động, một sự lầm lẫn quan trọng như vậy có thể xảy ra. Ba nét chính yếu giúp ta thẩm định sự dị biệt: Trước hết về hình thể. Trẻ trầm tĩnh thân hình vạm vỡ, khỏe mạnh, nặng cân, khuôn mặt cân phân, hàm rộng, mắt sáng, với cái nhìn tươi cười. Trẻ đa cảm dù có hình vóc tương đồng vẫn nhẹ cân hơn và không mạnh mẽ bằng trẻ trầm tĩnh; mặt dài với những dấu hiệu của tính nhạy cảm kín đáo, cái nhìn sâu sắc, trầm lặng, kém sự cảm thông tức thời. So sánh một trẻ trầm tĩnh với một trẻ đa cảm thì trẻ trầm tĩnh có vẻ mặt vui vè, tươi cười; còn vẻ mặt của trẻ đa cảm căng thẳng, trầm lặng vì nó thường suy tư và kín đáo, không chịu bộc lộ tình ý. Rồi đến thái độ ngoài xã hội. Một số đông trẻ trầm tĩnh là những trẻ không thích sống tập thể, nhưng mỗi khi đã dấn thân vào đám đông thì chúng cũng vui vẻ như trẻ đa huyết và trẻ dị nộ, còn trẻ đa cảm không lúc nào được cởi mở thoải mái trong một nhóm người lạ hoặc kém quen thân. Cuối cùng, trẻ trầm tĩnh rất hiếm, vào khoảng 2 đến 3 phần trăm, còn trẻ đa cảm nhiều hơn, vào khoảng 20 đến 25 phần trăm (riêng tại Pháp). Trẻ trầm tĩnh lúc bé đã tỏ ra trầm tĩnh và đứng đắn. Nó chơi một mình hàng giờ, không khuấy phá ai, và chơi xong cẩn thận sắp đặt đồ chơi có ngăn nắp. Nó thích được yên lặng chơi đùa, học hành. Nó bình tĩnh đi theo con đường riêng của nó, kiên trì nhưng không cứng đầu. Nó không cần có thái độ cứng đầu, bướng bỉnh, vì nó vạm vỡ, tráng kiện nên ai cũng nể vì. Không bao giờ nó từ nan một việc làm, dù có khó nhọc phiền hà, và nếu bạn sai nó ra phố mua một món hàng gì hoặc giao nó săn sóc em bé, bạn có thể tin cậy ở nó. Không có vẻ đa cảm, không thích được nâng niu, nhưng rất quyến luyến gia đình. Tóm lại, đây là mẫu trẻ đứng đắn, sạch sẽ, ngăn nắp, ở lớp học thường đứng cao về hạnh kiểm, sau này sẽ thành người đứng đắn, đàng hoàng. Trẻ trầm tĩnh châm biếm và có tật kỳ vĩ.- Bình tĩnh, đứng đắn, thích chính xác, tỉ mỉ, lo đúng giờ, đúng khắc trong chuyện làm, kiên nhẫn và luôn luôn trung thành với bạn. Nó phê bình nghiêm khắc những vi phạm kỷ luật vì bản tính nó tôn trọng kỷ luật, tôn trọng vời thái độ tự hào. Trẻ có những thói quen kỳ vĩ và trong cuộc sống của nó, cái gì cũng làm theo mực thước, sắp đặt trật tự. Trẻ trầm tĩnh dè dặt và trẻ trầm tĩnh hiền hòa.- Tính khí ít thay đổi, bình tĩnh, kín đáo, trật tự. Ngoài những đức tính ấy, trẻ còn có những nét tình cảm như quyến luyến gia đình, giao hảo với bầu bạn, giống như trẻ đa huyết hảo tâm. Trẻ trầm tĩnh hiền hòa đối với mọi người cởi mở

77

Page 82: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

hơn trẻ trầm tĩnh dè dặt bề ngoài có vẻ lễ độ nhún nhường nhưng dè đặt, kín đáo, khó hiểu.

Đường lối giáo dục trẻ trầm tĩnh Điều cần chấp nhận nơi trẻ trầm tĩnh.- Nên chấp nhận nhịp điệu làm việc chậm chạp của nó. Mẫu trẻ này không nhanh nhẹn, hoạt bát, nó cần một thời gian để thích ứng và cũng cần một nhịp điệu làm việc chậm, điều này có thể làm cho cha mẹ thuộc thần kinh chất hoặc dị nộ chất phải nóng nảy, bực dọc. Thực là hoàn toàn tương phản với trẻ thần kinh, trẻ này có thể chê nó là chậm chạp, ù lì. Lối làm việc của nó chậm rãi, mực thước, thực khác với sự náo động, rộn rịp, nôn nóng của trẻ thần kinh và lối làm việc rầm rộ, gắng gổ, dốc sức của trẻ dị nộ. Trẻ này cần biết trước một thời gian công việc phải làm vì cần thì giờ phát động, tổ chức. Nó rất sợ công việc biến báo cấp thời, việc làm gấp rút và những hình thức rầm rộ, hào nhoáng để quảng cáo, khoe danh. Chấp nhận tính trầm tĩnh và tính không nhạy cảm của trẻ.- Thử khêu gợi, đánh thức sự nhạy cảm của trẻ là một làm phí công vô ích. Trẻ có một tâm hồn bình tĩnh, vui sướng, tại sao làm cho nó rối trí, bận lòng? Một người trầm tĩnh không làm sao biến thành một người có tâm tính hứng khởi, bồng bột. Nhờ tính cách kém nhạy cảm mà nó có những lý luận đúng đắn, một trí óc thực tế. Một lần nữa, đừng lẫn lộn sự kém nhạy cảm với sự lãnh đạm vô tình. Một người trầm tĩnh vẫn có thể là người giàu cảm tính, biết yêu thương, thương mến gia đình và xót xa trước cảnh đau khổ của đồng loại. Chịu đựng khuynh hướng chỉ trích và hài hước của trẻ.- Thoạt nghĩ, điều này khó chấp nhận quá, nhưng phải hiểu nơi trẻ trầm tĩnh, sự khôi hài không phải là ranh mãnh, tàn nhẫn có ý thức châm chọc kẻ khác làm cho người ta đau khổ chơi mà là dấu hiệu một sự kết hợp giữa óc quan sát, tính vui vẻ, dí dỏm tự nhiên. Cần chỉ cho trẻ thấy lối hài hước, châm biếm của nó có thể đụng chạm kẻ khác, làm mếch lòng nhiều người, nhưng điều này có liên hệ đến việc giáo dục trẻ dựa trên vấn đề gây thiện cảm mà bạn đọc sẽ thấy sau.

Những lỗi lầm cần tránh trong việc giáo dục trẻ trầm tĩnh

Tránh cho trẻ sống trong một hoàn cảnh gia đình rối loạn, vô tổ chức.- Trẻ yêu trật tự, đẳng cấp, tổ chức, trách nhiệm và, như trẻ đa huyết, cảm thấy sung sướng được sống trong khung cảnh gia đình thân mật. Tuy tình quyến luyến gia đình của nó kín đáo nhưng đó là sự thực, cha mẹ nên củng cố cảm tình của trẻ bằng cách tạo ra một không khí gia đình đầm ấm cởi mở, một gia đình có tổ chức, có kỷ cương. Một bà mẹ nóng nảy, một ông cha tính khí bất thường, khi thì hiền hậu đến độ yếu đuối, lúc thì nghiêm khắc, độc tài, cảnh đó cũng đủ cho trẻ xa lánh gia đình. Tránh khước từ giải thích.- Mẫu trẻ này cần hiểu để thích ứng. Cần hành động đối với nó như đối với trẻ đam mê trong những thời kỳ bình tĩnh và đứng đắn. Không được quên rằng trẻ vốn có một trí khôn thực tế, khách quan, thường so sánh những gì cha mẹ, thầy giáo nói với kinh nghiệm riêng của nó. Vậy cha mẹ cần tỏ ra thận trọng trong việc giải thích để tránh mâu thuẫn giữa lập luận của cha mẹ và kinh nghiệm của trẻ. Tránh cho trẻ đi sâu vào cảnh cô độc.- Trẻ không đi tìm cảnh cô độc, dù cho bản tính nó "kín đáo". Nhưng tuy trẻ có xã giao tính, nó vẫn có khuynh hướng tự nhiên sống cô đơn. Đừng để cho trẻ lấy sự cô đơn làm lạc thú, nên khéo léo dịu dàng hướng dẫn trẻ tìm mối vui trong cuộc sống khoáng đạt, rộn ràng.

78

Page 83: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Tránh đừng cho trẻ đi sâu vào lĩnh vực chuyên môn.- Khuynh hướng này cũng tai hại như khuynh hướng sống cô độc. Trẻ trầm tĩnh "hẹp" có khuynh hướng chuyên chú đến một số ít vấn đề và có một tinh thần chấp nhất, đây là hai nguyên nhân khiến cho trẻ thu hẹp phạm vi hoạt động và hạn chế sự giao du của nó. Tránh sử dụng bạo lực.- Bạo lực tỏ ra vô ích đối với trẻ trầm tĩnh, bởi uy lực làm cho trẻ co rút lại, lánh mình, khép kín cõi lòng và gây ra một thái độ chống đối, cứng đầu, ù lì. Nhu cầu hiểu biết của trẻ làm cho nó chống lại mọi uy quyền chuyên chế. Mặt khác, vốn có một bản lĩnh vững vàng, một tinh thần trách nhiệm, một tâm nghề nghiệp cao độ, nó cố khai thác tối đa năng lực của nó, điều mà trẻ đa huyết chất không bao giờ tự động làm được. Tuy vậy, đối với một số trẻ như trẻ trầm tĩnh hiền hòa, bản chất giống như trẻ đa huyết, thì uy lực trở nên cần thiết.

Nên sử dụng những phương pháp tích cực nào trong việc giáo dục trẻ trầm tĩnh?

Ấn định cho trẻ một mục tiêu và để cho nó tự chọn lấy phương tiện. Mục tiêu phải có tính cách thực tiễn. Như trẻ đa huyết, trẻ trầm tĩnh không phải [làm] để mà làm. Trẻ đa huyết muốn cho hoạt động của nó đem lại một mối lợi gì đó, còn trẻ trầm tĩnh đòi hỏi hoạt động phải có một ý nghĩa, một giá trị thực tế. Vậy cần nêu ra những mục tiêu và ấn định thời hạn, không nên ấn định những thời hạn gần nhau quá. Trẻ cần có thời giờ để thích ứng với sự đòi hỏi của bạn và tổ chức công việc làm. Lại nên xác định phần thưởng nếu công việc thành tựu, và không cần nhắc đi nhắc lại mà chỉ bình tĩnh chờ ngày có kết quả. Tạo ra cho trẻ những cơ hội tham dự vào những gì xảy ra quanh nó. Bản tính trẻ không thích trò chuyện, lại không tự động dấn thân vào hiện tại. Cần đem trẻ ra ngoài cái tháp ngà êm ấm trong đó trẻ vui thích với những suy tư riêng của nó. Nên cho trẻ đi ra [ngoài], những cuộc họp, những ngày lễ lạc đình đám, những hội chợ, những cuộc viếng thăm là cơ hội cho trẻ tiếp xúc với nhiều người, làm quen với cảnh vật mới, tư tưởng lạ, rất có lợi cho tinh thần của trẻ. Tập cho trẻ vượt qua bức tường ngăn cách được tạo ra do sự dè dặt, khiêm tốn. Trẻ trầm tĩnh không bao giờ đòi hỏi một chức vụ gì ở trường học, trong lớp, trong đoàn, đội hoặc trong ban tổ chức một buổi lễ, một cuộc họp, v.v. Phải giúp trẻ vượt qua bức tường trở ngại do sự dè đặt tạo nên, sự dè dặt khác hẳn với sự rụt rè của trẻ nhạy cảm. Tập cho trẻ rành lịch sự, xã giao, biết tháo vát, xoay xở, có cử chỉ tự nhiên hoạt bát như tập cho một người nông dân làm quen với nếp sống thị thành. Khuyến khích sự quảng giao. Khi trẻ biểu lộ một cảm tình với một trẻ khác, nên khuyến khích trẻ kết giao, vì cần giúp trẻ mở rộng sự giao tế. Nên hướng dẫn trẻ rủ bạn trai, bạn gái tới nhà chơi, cố xếp đặt sao cho trẻ thường xuyên có bạn mới trong lũ trẻ hàng xóm hoặc trong số con em thân bằng, quyến thuộc. Mục tiêu cho trẻ là mở rộng giao du và củng cố tình bằng hữu. Tập trẻ sống khoáng đạt.- Tập trẻ sống phóng khoáng trên hai bình diện: bình diện thể dục và bình diện kiến thức phổ thông. Hai dự định này không tránh được một vài trở ngại. Trẻ trầm tĩnh không thích thể thao, và, nhất là trẻ "hẹp", thích đào sâu chuyên môn hơn là thu thập những kiến thức phổ thông. Để mở ra hai con đường tối cần thiết cho cuộc sống phóng khoáng của trẻ, nên lợi dụng những phương tiện gián tiếp như thể thao ngoài trời (đi bộ, đi xe đạp, quần vợt, bóng chuyền, v.v.) và những cuộc du lịch, du ngoạn (đi chơi những nơi xa, ngắm phong cảnh lạ trong kỳ nghỉ hè, có dịp quan sát người dân và tập tục trong một vùng, một xứ nào đó, v.v.) Như vậy, tập cho trẻ ra khỏi thói quen cố hữu của nó. Không có tính bắt chước của trẻ đa huyết, cũng không có tính dễ cảm hóa của trẻ lâm ba, trẻ trầm tĩnh có bị thúc giục, lôi kéo mới chịu lao mình vào cuộc phiêu lưu, nhưng nó biết tìm ra lợi ích trong việc tiếp xúc cảnh mới, người lạ một khi đã dấn thân vào cuộc sống phóng khoáng.

79

Page 84: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

CHƯƠNG 9. TRẺ LÂM BA (LE LYMPHATIQUE) Thoạt nhìn khuôn mặt tròn trĩa, mũm mỉm là biết ngay đây là đứa trẻ hiền hòa, dễ bảo. Thân hình mập mạp, nước da trắng, mịn, mát, thịt nhão. Bản tính lười biếng, ham vui, vô tư lự, trẻ buông xuôi theo giòng đời êm ả trôi đi. Một khó khăn trong việc nghiên cứu trẻ lâm ba là phải tránh ba điểm ngộ nhận sau: - Khuynh hướng xem những trẻ trì độn là trẻ lâm ba. Những trẻ này có thể là trẻ thần kinh rộng, trẻ đa cảm kín đáo hoặc trẻ đa huyết kém hoạt động. Chúng tôi tin tưởng nhờ đọc kỹ những chương đầu và trả lời những câu hỏi trắc nghiệm mà bạn đọc tránh được những sự lầm lẫn nói trên. - Khuynh hướng xem những trẻ nhu nhược vì trí tuệ chậm phát triển là trẻ lâm ba. Thực ra, trí thông minh làm cho một trẻ hóa ra hăng hái, dầu cho trẻ vốn là trẻ lâm ba; trái lại, vì trí tuệ chậm mà một trẻ trở nên bạc nhược. Nhờ những trắc nghiệm về trí thông minh ta có thể phân biệt dễ dàng sự bạc nhược do trí tuệ chậm tiến với sự trì độn của trẻ lâm ba. - Khuynh hướng xem những trẻ nhu nhược, chậm chạp vì những tuyến nội tiết trong cơ thể chúng hoạt động kém, như sự yếu kém của tuyến giáp trạng9, của tùng quả tuyến10, của thượng thận tuyến11, là trẻ lâm ba. Một trẻ có những tuyến nội tiết hoạt động yếu kém thì cơ thể có một lối sinh hoạt giống như trẻ lâm ba trong một thời gian, nhưng đây chỉ là dấu hiệu của một sự mất quân bình tạm thời của các tuyến nội tiết, không hẳn là bản chất của trẻ. Trẻ lâm ba thực sự có sự thăng bằng sinh lực tương đối. Sự bình tĩnh, một năng lực thích ứng sắc bén là những đặc tính nổi bật của trẻ lâm ba. Trẻ không thích rộn rịp, vội vàng, lúc nào nó cũng sống theo lối sống chậm rãi, chừng mực, êm đềm. Bản tính phục tùng, sẵn sàng noi gương người khác, và nếu sống chung với trẻ ngỗ nghịch nó trở nên vô kỷ luật. Trí nhớ rất bền bỉ, nhờ đó trẻ nhớ những thái độ, hành vi của người khác để mà bắt chước theo, phản ành cảm xúc cũng như hoạt động. Trí tưởng tượng phong phú giúp nó thoát ly thực tại để chìm đắm trong mơ mộng. Nó ham ăn, mê ngủ, thích vị ngon, sắc đẹp, mùi thơm, cảm giác, khoái lạc, hưởng thụ. Nó ưa sống tập thể. Nó có lòng trắc ẩn nhưng nếu giúp người mà phải gắng sức, hy sinh quyền lợi riêng thì chắc nó từ nan. Nó thích khung cảnh gia đình, vì nơi đây nó được tự do thoải mái, tiện nghi, êm ấm, được che chở, nuông chìu.

Những sác thái dị biệt của mẫu trẻ lâm ba

Trẻ lâm ba trì độn.- Rất lười biếng, nó tránh xa khi người khác nhờ nó giúp đợ. Dễ nhượng bộ trước sự cám dỗ cũng như đe dọa. Trẻ lâm ba hưởng thụ.- Giống như trên nhưng hơi khó uốn nắn hơn. Nó ham vui thú, thích vật dục. Chơi với bạn nó hăng hái hơn.

9 Giáp trạng nội tuyến (glande thyroide): một tuyến (hạch) ở đầu khí quản, sinh ra một chất kích thích tố (thyroxine) hòa với máu châu lưu khắp thân thể, giúp cho sự tăng trưởng của cơ thể và sự tác dụng biến thể. 10 Tùng quả tuyến (hypophyse): là một hạch nội tiết sinh ra chất kích thích tố giúp cho sự phát dục. 11 Thượng thận tuyến (glande surrénale): gồm 2 tuyến quan trọng ở trên 2 quả thận, sinh ra các chất kích thích tố như adrénaline, aldostérone giúp cho sự phát dục tăng trưởng, sự biến hóa điều hòa các chất diêm loại, chất bơ-rô-tít, gờ-lu-xít trong thân thể.

80

Page 85: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Đường lối giáo dục trẻ lâm ba – Điều cần chấp nhận nơi trẻ lâm ba

Trước hết, nên chấp nhận nhịp điệu làm việc chậm chạp của trẻ.- Bắt trẻ làm việc mau, trả lời mau một câu hỏi, hiểu nhanh một sự giải thích, nhất là hối thúc trẻ thực hiện nhanh chóng những việc cha mẹ, thầy giáo giao phó là làm cha mẹ mau đuối sức mà không thu được kết quả gì. Với mẫu trẻ này cần phải kiên nhẫn, sự kiên nhẫn trước sự chậm chạp rất khó chịu đối với trẻ nhạy cảm, có phản ứng mau, thường hăng hái bắt tay vào việc và nôn nóng làm cho chóng thành. Nên biết tầm mức quan trọng của nhu cầu thân xác của trẻ.- Trẻ lâm ba ăn bạo, hốc ăn nhưng kén ăn, không phải gặp gì cũng ăn. Vài tác giả mô tả trẻ lâm ba như những trẻ hốc ăn, đần độn, như vậy không đúng với sự thực. Kinh nghiệm cho thấy những trẻ này vốn là kẻ hưởng thụ, muốn nếm đủ lạc thú của cuộc đời, nâng niu thân xác và quý trọng những cảm giác, khoái lạc nên không phải gặp gì cũng ăn mà biết chọn món ăn, tỏ ra sành điều, cầu kỳ. Tóm lại, ăn và ngủ là hai lạc thú trẻ không bao giờ chán. Có điều lạ là những nhu cầu tính dục nơi mẫu trẻ này phát hiện chậm hơn các trẻ khác. Để cho trẻ sống trong hiện tại.- Trẻ vốn đam mê khoái lạc và có tính hiếu kỳ, muốn biết những gì xảy ra chung quanh. Nó yêu đời, muốn hưởng thụ những cái đẹp, cái vui trên trần gian mà không bận tâm đến đạo lý, không muốn gắng công mệt nhọc. Có óc thực tế, một trí [thông minh] thực tế rất hạn chế vì thiếu sự thích ứng hoạt động. Tuy nhiên, ý niệm thực tế trổi dậy mỗi khi trẻ cần đạt tới một năng suất cao mà khỏi phải nhọc nhằn hoặc tìm những mưu kế tránh trở một công việc. Hướng dẫn trẻ noi gương kẻ khác.- Đối với bạn bè, trẻ khác hoặc là người lớn, trẻ rất dễ bị uốn nắn, cảm hóa và tìm cách bắt chước mau lẹ. Dễ uốn nắn, hay bắt chước, cha mẹ nên xem đó là những phương tiện giáo dục quan trọng. Nhưng một đức tính có thể biến thành một tật xấu. Trẻ rất dễ bị uốn nắn, dễ bị lôi cuốn theo thói xấu, tật hư, mặc dù muốn bắt chước kẻ khác, đôi khi trẻ phải nén tính rụt rè, thụ động. Nên biết trẻ có khuynh hướng nằm lì trong một lối sống.- Đây cũng là hậu quả của tính cách thụ động của trẻ. Trẻ bám sát vào thói quen của nó, nghĩa là mỗi khi chọn được một lối sống riêng, nó khư khư noi theo lề lối cũ. Sự mới lạ chưa lay chuyển nổi nó. Tuy bản tính dễ uốn nắn, nó rất chậm nên cần có thì giờ cho nó tập một thói quen mới. Chấp nhận trẻ kèm nhiệt tình.- Mẫu trẻ này không tha thiết, say mê một cái gì. Là một tay tài tử, một khán giả, đúng như lời một nhà tâm lý học, một "khán giả bẩm sinh", nó muốn hưởng thụ cuộc đời với thái độ bàng quan, không ưa hoạt động, tham dự, xây dựng cuộc đời. Trẻ không thể khơi nguồn hứng khởi phát xuất từ tính nhạy cảm, cũng không vận dụng được sự hăng hái nẩy sinh từ tính hoạt động. Bản tính nhu nhược, sống không định hướng, khuynh hướng nghề nghiệp của nó còn lâu mới rõ rệt, và từ nhỏ đến lớn có nhiều cơ hội chi phối, ảnh hưởng đến việc chọn nghề của trẻ.

Những lỗi lầm cần tránh trong việc giáo dục trẻ lâm ba

Đừng nuông chiều trẻ quá mà cũng đừng hành hạ nó.- Trẻ lâm ba, trai hay gái, là những trẻ hiền hậu, ngoan ngoãn, dễ thương – ngoan ngoãn quá đến độ không biết chống độ, không biết bênh vực bản thân. Làm sao la rầy được một đứa trẻ hiền hòa, ngoan ngoãn, dễ thương như

81

Page 86: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

thế? Trẻ được nuông chiều quá thành ra hư hỏng. Trái lại, có nhiều cha mẹ bực bội cho trẻ không nhiệt tình, hèn yếu, không có một nghị lực để làm việc. Với cảm tưởng đó, cha mẹ đối xử với con rất nghiêm khắc, thúc đẩy con làm việc nhọc nhằn. Giữa hai thái cực nên chọn một lối dung hòa. Đừng có lơ đễnh với việc học của con ở trường.- Nếu chỉ nhìn mẫu trẻ này làm việc ở nhà thì có thể bị lầm lẫn về bản tính của nó. Trong hoàn cảnh gia đình quen thuộc, nó được tự do thoải mái nên nó làm việc đều đều. Có lúc nó chơi đùa hăng hái. Nhưng có xem xét việc học ở nhà trường mới thấy được sự lười biếng của nó và nếu cha mẹ không quan tâm đến việc học hành của con, nếu gặp trường hợp thầy giáo mất hết hy vọng đánh thức học trò, buông xuôi mặc xác nó thì sau bao năm tháng trôi qua, người ta mới chưng hửng thấy trẻ không hề cố gắng và cũng chẳng thu được kết quả nào. Tránh gây ra chán nản cũng như tham vọng quá độ.- Trẻ lâm ba ít có tham vọng, nó không hề tranh đua chiếm hạng cao ở trường, ở lớp. Đừng thúc đẩy nó, ép sức nó để thực hiện những tham vọng mà cha mẹ ôm ấp vì nó. Ngược lại, cũng đừng rơi vào thái cực tương phản mà nó “Thằng bé nhu nhược, lười biếng, chẳng làm nên trò trống gì”. Ngay trong khả năng thích ứng và trong xã giao tính của trẻ có nhiều năng lực có thể khai thác hữu hiệu. Vậy những đòi hỏi, những tham vọng của cha mẹ phải phù hợp với tính tình của trẻ, và chỉ ở trong trường hợp này cha mẹ mới nên cương quyết buộc con cố công gắng sức thỏa mãn những nguyện vọng chung. Trước hết phải cương quyết.- Trẻ cần được nắm tay dẫn dắt mỗi khi trao công việc hoặc đòi hỏi nó một sự cố gắng nào. Như một vật nặng, nếu bỏ mặc thì rơi xuống, nên cần phải luôn luôn nắm giữ, trẻ cần được kiên trì chăm sóc, không được buông xuôi, thả lỏng. Kỷ luật chặt chẽ không có nghĩa là uy quyền nghiêm khắc. Sự nghiêm khắc có cần thiết chăng là ở lúc ban đầu, [hoặc] sau một thời gian dài thả lỏng, trẻ chơi bời lêu lỏng bây giờ cần gò lại dây cương. Sự trừng phạt phải xứng đáng và có vẻ tự nhiên.– Trẻ xả rác bẩn nhà, nó phải quét dọn sạch sẽ. Trẻ không thuộc bài, nó phải ngồi học trong khi trẻ khác chơi đùa. Không cho trẻ xem hát, truất phần tráng miệng của trẻ, lối trừng phạt không cần đối với trẻ khác lại rất thích hợp với trẻ lâm ba. Những cái chau mày, những phút im lặng, những cái bỉu môi, trừng mắt khiến cho trẻ thần kinh và trẻ đa cảm ngại ngùng, chùn bước thì với trẻ lâm ba nó phớt tỉnh. Ví dụ, có thể nói: “Mày không làm bài, vậy mày không được nhận bánh”. Mỗi cái lỗi đều có một lối phạt tương xứng. Và có làm như vậy mới tạo nên được nơi trẻ những phản ứng, những thói quen giúp nó làm việc dễ dàng. Tìm những phương tiện khác với sự hoạt động để thúc đầy trẻ đi tới hành động.- Có ba phương tiện chính yếu: sự tham lam, nhu cầu được khen ngợi, sự làm việc tập thể. Trẻ thèm khát đồ ăn, tiền bạc. Mỗi khi trẻ cố gắng thực sự hoặc thu được một kết quả ở học đường, cha mẹ cần trao những phần thưởng xác thực và tức thì: “Chiều nay má dắt con đi ăn kem”, “Thứ bảy này ba sẽ dẫn con đi xi nê”, “Đây là năm chục ba cho con bỏ ống”. Trẻ phải hiểu là hễ không chịu bỏ ra thì đừng mong thu vào, và [nó] cần xứng đáng với sự thỏa mãn, dù là một sự thỏa mãn tầm thường. Nhu cầu được khen ngợi cũng tha thiết nơi trẻ: sự ngợi khen, tán thưởng của một nhóm người, thường là gia đình thân thuộc. Nhu cầu này như một phương tiện giáo dục, bản tính hiền hòa, trẻ thích ứng dễ dàng với những điều người khác mong đợi nó.

82

Page 87: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Sau cùng là sự làm việc tập thể.- Vì trẻ thích ứng mau chóng lại dễ cảm hóa nên sự làm việc tập thể rất có lợi cho nó. Trẻ có cảm giác là một việc mà được nhiều người gánh vác thì nhẹ nhàng hơn. Cũng nên dè dặt trong lúc phân công, phòng ngừa trẻ dùng mưu mẹo – bản chất tự nhiên của nó – để lánh nặng tìm nhẹ. Nên tập cho trẻ sống phóng khoáng.- Đừng cho trẻ tự giam mình trong khung cảnh gia đình chật hẹp, giữa những khuôn mặt quen thuộc. Cho trẻ đi cắm trại, du ngoạn, sinh hoạt đội, đoàn thiếu nhi, hướng đạo, v.v. Điều đó có mục đích giúp trẻ thoát khỏi bản ngã nhu nhược của nó để thích ứng một cách tích cực với hoàn cảnh, không phải sự thích ứng tiêu cực thụ động, quen thuộc của trẻ, một thái độ thản nhiên nhìn giòng đời êm ả trôi xuôi.

83

Page 88: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

CHƯƠNG 10. TRẺ BẤT ĐỘNG (L’APATHIQUE)12 Trẻ bất động hoàn toàn rất hiếm. Nó vừa không nhạy cảm, không hoạt động vừa khó uốn nắn, nghĩa là không nhiệt tình, không nghị lực và, khác với trẻ lâm ba, không có khả năng thích ứng với hoàn cảnh, tham dự vào cuộc sống tập thể. Nếu bạn đứng trước những dấu hiệu như vậy, bạn nên thận trọng đặt lại những câu hỏi trắc nghiệm vì bạn có thể bị lầm lẫn đó. Có những trẻ phản ứng chậm và dai dẳng không biểu lộ tính nhạy cảm hoặc hoạt động tính được liệt vào số trẻ bất động. Trước một trẻ mà bạn vừa sắp vào loại trẻ bất động, bạn nên tự hỏi: 1. Nó có phải là một được đứa trẻ đa cảm không? Đối với một trẻ đa cảm, có trí chú ý hẹp, sự nhạy cảm chỉ biểu lộ ở một vài vấn đề nó ham thích, còn thì nó tỏ ra lãnh đạm, hững hờ. Bởi sự nhạy cảm của nó luôn luôn kín đáo nên bạn nghi nó là trẻ không nhạy cảm. Mặt khác, trẻ có thể là một trẻ đa cảm và những cuộc khủng hoảng tâm tình đã làm khô cạn nguồn tình cảm. Vậy cần đọc chương nói về những mặc cảm và những mâu thuẫn gia đình mới quyết đoán được. 2. Nó có phải là một trẻ trầm tĩnh không? Trẻ trầm tĩnh hoạt động, nhưng nếu nó “rộng” thì nó có khuynh hướng để tản mác sức lực, nó không tập trung tất cả nghị lực vào việc làm và đôi lúc dã dượi, sự dã dượi được hiểu lầm là bất động. Ngược lại, một trẻ trầm tĩnh rất “hẹp” chỉ chuyên chú vào một vấn đề duy nhất, không làm việc nào khác nữa, cũng có thể bị nhận lầm là trẻ không có hoạt động tính. Những lầm lẫn bỏ qua rồi, bây giờ chúng ta đứng trước một mẫu bất động thực sự, nghĩa là đứa trẻ kém nhạy cảm, kém hoạt động, kém thích ứng, khó uốn nắn hơn các trẻ khác. Trẻ bất động có một khuôn mặt đặc biệt. Mặt dài, ba phần trên mặt không cân phân, má bầu, cằm nhọn và lẹm. Mắt sâu, chân mày đóng thấp, môi dày, hai khóe miệng xệ xuống. Trái với trẻ lâm ba, trẻ bất động không có xã giao tính, thích sống cô đơn. Nó suy nghĩ nhiều, phân tích, phê bình. Nó rất dè đặt, kín đáo, dù đối với cha mẹ. Tuy nhiên, nó rất quyến luyến gia đình, không muốn xa cha mẹ, anh em, lớn lên rất ít bạn bè ngoài gia quyến, rất khó chịu khi đề cập đến chuyện cưới vợ, lấy chồng. Lễ độ, chừng mực, chín chắn, trẻ khư khư giữ mãi những thói quen cố hữu. Thực thà, ngay thẳng, ít nói, ít cười, tính khí ít thay đổi, không gây gổ với ai, nhưng nếu có ai động chạm đến nó là nó âm thầm oán hận mãi. Tuy có một thân hình to lớn, sức nó yếu kém. Một sự cố gắng nhỏ, dù làm việc chân tay hay trí óc cũng làm cho trẻ phải xài phí nhiều sức lực, vì vậy trẻ cần thận trọng dưỡng sức.

Những sắc thái dị biệt của mẫu trẻ bất động

Trẻ bất động trì độn.- Chậm chạp, bạc nhược, cả trong chơi đùa. Chơi với trẻ khác, nếu bị trẻ đồng tuổi, đồng chạng khiêu khích, xô đẩy, nó cũng chạy trốn. Hiền hòa, dễ thương, thích sống yên lặng, được che chở, không muốn rời mẹ. Trẻ bất động cô độc.- Chỉ thích sống cô độc, giam mình trong một màng lưới thói quen, không

12 Thực ra, người thuộc thể chất này không phải bất động hoàn toàn mà sự hoạt động thể xác cũng như cảm xúc rất kém cỏi. Cần hiểu danh từ này theo các nhà tâm lý học thường dùng. Danh từ “trì độn” có vẻ mỉa mai quá.

84

Page 89: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

chịu thoát ra. Bản tính thực thà, ngay thẳng nhưng kín đáo, không hay giúp người.

Đường lối giáo dục trẻ bất động Nên biết trẻ không được tráng kiện.- Trẻ không có nguồn sinh lực dồi dào, bộ máy hô hấp lại yếu kém, sự tiêu hóa không điều hòa có ảnh hưởng nặng nề đến sự phát triển của trẻ. Tự nhiên nó cần dưỡng sức. Không nên đòi hỏi trẻ xài phí sức lực quá khả năng của nó. Nên biết đây là mẫu trẻ khó thích ứng với cuộc sinh tồn cạnh tranh.- Trẻ yếu quá nên không thể tham dự vào một thi đua nào, dù trong phạm vi lớp học. Trẻ cần được gia đình che chở, gia đình làm thành một bức bình phong giữa nó và cuộc đời, gia đình là chốn ẩn náu của trẻ, nơi đây trẻ tránh được mọi sự va chạm, trẻ không sự những bất trắc của đời sống. Nên chuẩn bị chốn ẩn náu ấy và cố làm cho mái ấm gia đình được vững bền, vì đến tuổi trưởng thành, đôi khi đến già, đến chết, trẻ bất động vẫn thích sống trong hoàn cảnh ấu thơ, trong ngôi nhà quen thuộc, giữa những người thân yêu. Đừng bao giờ để cho trẻ phải tự xoay xở mau chóng một mình, đối phó với những lo âu, đương đầu với những thử thách. Trẻ cần cảm thấy có cha mẹ một bên, cần biết nó đang sống ở một nơi nó không phải nhọc nhằn tranh đấu. Săn sóc sức khỏe của trẻ.- Nên bắt trẻ tập thể dục nhằm mục đích phát triển cơ thể chứ không bao giờ chơi [các môn] thể thao có mục đích tranh tài. Khám và chữa trị bộ máy hô hấp và bộ máy tiêu hóa. Nhờ bác sĩ khám kỹ hoạt động của các tuyến nội tiết. Đừng nuôi nhiều tham vọng học vấn cho trẻ.- Cha mẹ không nên hành hạ trẻ, ép nó tranh đua học hành, thi cử quá cao, quá sức. Tốt hơn là cho trẻ học một lớp với những trẻ dưới tuổi nó hoặc dưới trình độ nó một ít vì hai lý do.Một là dầu trẻ có thông minh, nó vẫn cần thì giờ để lĩnh hội; cho trẻ học những điều dễ hơn, giản dị hơn trình độ của nó giúp nó rút ngắn thời gian lĩnh hội. Hai là cho trẻ học chung với những trẻ nhỏ hơn nó sẽ ít e ngại, lớp học nhờ đó mà có vẻ dễ chịu, trẻ cảm thấy được an toàn hơn.

85

Page 90: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

PHẦN THỨ BA. TRÌNH ĐỘ TRÍ TUỆ VÀ NHỮNG TRẮC NGHIỆM TRÍ THÔNG MINH

CHƯƠNG 1. TRẺ CÓ THÔNG MINH KHÔNG?

Biết con bạn có thông minh không, đó là điều quan yếu. Vì trí thông minh ảnh hưởng nhiều đến cá tính, nhân cách, đến sự phán đoán của người khác đối với trẻ và vốn là yếu tố quyết định đường hướng chọn nghề tương lai. Nên dè dặt, đừng cả tin ở cảm giác ban đầu. Kinh nghiệm hàng ngày cho thấy tính tình một trẻ có ảnh hưởng đến cách biểu lộ trí thông minh của nó. Có những trẻ lanh lẹ, mau miệng, ăn nói hoạt bát, đôi mắt sáng quắc, hình như lúc nào chúng cũng vận dụng tối đa khả năng, tâm trí – qua sự miêu tả trên ta nhận định đây là trẻ thần kinh. Chúng có vẻ thông minh, nhiều khi coi bộ thông minh hơn thực tế. Mau trí khôn, lanh lẹ, biến báo, ta thường căn cứ vào những điều đó để thẩm định trí thông minh của một người. Và một em bé, một người lớn thường nói những câu khôi hài, dí dỏm được xem – một cách sai lầm – là thông minh hơn người. Những trẻ rụt rè, thầm lặng, những trẻ kém cởi mở, không dám bộc lộ điều chúng nghĩ và nói ra những điều chúng biết, đều được xem là kém cỏi. Như vậy, trẻ đa cảm của chúng ta chịu thiệt thòi, và nó có vẻ kém sáng dạ hơn một trẻ thần kinh đồng một trình độ thông minh. Bây giờ bạn thấy cần thẩm định trình độ thông minh của trẻ và biết vượt lên trên cảm giác ban đầu. Có nhiều hình thức thông minh.- Nhìn chung quanh bạn, bạn thấy ngay trong số người lớn, có những người đứng trước chữ số, toán học thì bối rối, nhưng khi phải giải quyết những vấn đề thực tiễn thì họ rất thông minh. Ngược lại, có những nhà bác học rất oai hùng trong phòng thí nghiệm hoặc trước bảng đen, nhưng lúng túng, ngượng nghịu khi được yêu cầu tổ chức một hội chợ. Ở đây chúng ta đề cập đến vấn đề hình thức thông minh, những "mẫu thông minh" nói theo ngôn ngữ thông dụng của nhà tâm lý học. Có trí thông minh mau và trí thông minh chậm.- Có những trẻ cần một thời gian để hiểu, suy nghĩ và nói ra những điều chúng hiểu. Đây không phải là vấn đề trình độ thông minh mà chỉ là khía cạnh hình thức. Cần phải biết con bạn có hình thức thông minh nào để có thể giải thích một vài sự thất bại của nó. Nếu con bạn cần hơn trẻ khác nửa tiếng đồng hồ để làm một bài toán, như vậy không có nghĩa nó kém thông minh hơn, mà nó chỉ cần thêm nửa giờ nữa thôi. Và nếu nó không được thêm nửa giờ nữa thì bài toán của nó làm chưa xong. Sự kiện này ảnh hưởng đến tâm trí của trẻ. Trẻ biết hoặc cảm thấy nó cần nhiều thì giờ hơn trẻ khác, và khi phải làm một công việc có ấn định thời hạn tối thiểu, nó đâm ra lo sợ, hoang mang. Nhìn đại cương, những trẻ có phản ứng mau, dễ uốn nắn theo hoàn cảnh thực tại thì có một trí thông minh mau, những trẻ phản ứng chậm có trí thông minh chậm. Đây chẳng phải là khuyết điểm hay ưu điểm, vì mỗi một hình thức thông minh có cái lợi và cái hại của nó. Như trẻ thông minh mau đôi khi không chịu suy nghĩ, tưởng khỏi cần giải thích, ngược lại nó làm nên việc nhờ mau trí khôn và giải quyết được việc trong cảnh ngộ gấp rút. Trẻ thông minh chậm thì sâu sắc, chín chắn hơn vì hay suy nghĩ, nhờ đó mà tìm ra lối giải quyết lâu bền và có giá trị. Ngược lại, nó chịu lép khi phải tranh đua mau, chậm và không tìm ra ý tưởng kịp thời. Bạn không hối tiếc mà cũng chẳng vui mừng vì đã có con thông minh mau hoặc có con thông minh chậm. Vấn đề là phải biết rõ để tùy liệu trong cách đối xử với trẻ và trong việc chọn nghề tương lai.

86

Page 91: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Có trí thông minh lý luận và trí thông minh trực giác.- Đại để trước khúc quanh lên tám, trí thông minh của trẻ không có gì là lý luận. Trẻ "cảm" sự vật hơn là giải thích. Có trường hợp lớn lên, trí thông minh trực giác của trẻ vẫn còn phát triển và lấn át hình thức lý luận. Trẻ trực giác là trẻ cảm mà biết, trẻ lý luận cần suy luận mới hiểu rõ. Trực giác có tính cách cấp thời, suy luận cần ít nhiều thời gian. Bạn biết con bạn thông minh trực giác hơn là lý luận khi thấy nó giỏi Việt văn, luận văn; trong môn hội họa nó thích sáng tạo hơn là vẽ theo mẫu sẵn; nó có thị hiếu về mỹ thuật, thi ca. Trái lại, nếu hình thức thông minh của con bạn có tính cách lý luận hơn là trực giác thì nó giỏi toán hơn Việt văn, luận văn; trong môn hội họa nó có khuynh hướng phỏng theo mẫu sẵn hơn là có sáng kiến nghĩ ra đề tài độc đáo. Có trí thông minh cụ thể và trí thông minh trừu tượng.- Trí thông minh cụ thể của trẻ thường có tính cách thực tế, và biểu lộ trong những công việc làm bằng tay, trong lối xoay xở kịp thời, ứng biến mau lẹ. Trong lúc chơi đùa, trẻ thích lấy bìa, gỗ, gạch, cát xây nhà, làm cầu và tỏ ra mau trí khôn, nhiều mưu chước. Trí thông minh trừu tượng thích hoạch định chương trình, kế hoạch hơn là thực hiện. Nó chuộng những trò chơi gọi là trí thức hơn trò chơi thực tiễn, ví dụ nó thích đọc sách, chơi ô chữ, đánh cờ, v.v. hơn là chơi những dụng cụ thợ mộc, lấy những tấm gỗ, khối nhựa cất nhà, xây cầu, v.v. Ở trường, trẻ cụ thể thích môn vạn vật, địa lý, lịch sử hơn toán học, văn phạm; thích may, vẽ, cắt, dán hơn tập đọc, [học] giảng văn, ngữ vựng. Đừng vội quyết đoán trí thông minh của con bạn là "cụ thể" hoặc "trừu tượng". Trước hết, trẻ con thường nghiêng về sự vật cụ thể hơn là ý tưởng trừu tượng, trẻ chỉ hiểu được nhờ hình ảnh và ví dụ cụ thể; sau nữa, ảnh hưởng gia đình có tác dụng nhiều đến sự bắt chước của trẻ. Nếu cha làm thợ mộc thì trẻ lưu tâm đến dụng cụ, bào, cưa, đục các loại gỗ; nếu cha là giáo chức thì trẻ thích sách vở, bản đồ. Muốn phán đoán chính xác, nên để qua một bên ảnh hưởng của tuổi tác và môi trường sinh hoạt, tốt hơn nên đợi đến lúc trẻ lên chín, lên mười, lúc trẻ tỏ ra có những khiếu về môn học gì cũng như sở thích chọn những trò chơi nào. Bấy giờ bạn sẽ giải đáp những câu hỏi sau đây:

Trắc nghiệm về trí thông minh cụ thể

1. Con bạn có thích vẽ lắm không? 2. Nếu có vật gì trong nhà được đổi chỗ, nó có chú ý không? 3. Thầy giáo nó có khuyên bạn nên bắt nó đọc sách nhiều không? 4. Nó có thích vạn vật, lịch sử hơn toán học không? 5. Nó có cất nhà, xây cầu đẹp với bộ đồ chơi xây cất của nó không? 6. Trong lúc chơi, nó có biết biến báo, lợi dụng những đồ chơi khác với đồ chơi của nó không? (Ví dụ lấy một tầm màn cũ làm một chiếc lều, dùng bìa, gỗ, gạch xây một ngôi nhà, v.v.) 7. Nó có để ý nhận xét nhiều về những bạn gặp, lối ăn mặc của họ không? 8. Nếu bạn sai nó đi tìm một vật gì, nó có biết tìm mau chóng, dễ dàng không? 9. Nó có khéo tay không? 10. Nó có ít hỏi về Trời, Chúa, về giấc mộng, về người đầu tiên trên địa cầu sinh ra thế nào không? Nếu bạn trả lời "có" 5 câu hỏi hoặc trên 5 câu, con bạn có trí thông minh cụ thể. Nếu bạn trả lời "có" dưới 5 câu, con bạn có trí thông minh trừu tượng.

87

Page 92: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Có nhiều trình độ thông minh khác nhau Chúng ta vừa xem tường tận các mẫu thông minh, còn trình độ thông minh là vấn đề khác. Trong mỗi mẫu, mỗi hình thức trí thông minh, chúng ta có thể gặp một trình độ kém, trung bình hoặc cao. Ví dụ, đây là một trẻ "thông minh mau", không cần bảo nó suy nghĩ hàng giờ để tìm giải đáp một bài toán, như vậy chỉ làm cho nó rồi trí và nó sớm đầu hàng. Hoặc nó hiểu tức khắc, hoặc nó không bao giờ hiểu. Nhưng ta có thể bắt trẻ làm những bài toán càng ngày càng khó, đến một mức khó nào đó nó hiểu tức khắc hoặc không bao giờ hiểu được. Một trẻ khác thông minh hơn, đi từ cái "tức khắc" qua cái "không bao giờ" cho đến một trình độ cao hơn. Đối với trẻ có trí thông minh chậm cũng vậy, nó cần thời gian để lĩnh hội, suy nghĩ về những bài toán mỗi lúc mỗi khó, đến một mức độ khó nào đó nó giải quyết được rồi sau đó nó bó tay. Theo cách khảo sát, chúng ta có thể tìm ra những trẻ thông minh trội hoặc kém trong đám trẻ thông minh "cụ thể" và trẻ thông minh "trừu tượng". Có một sự dị biệt tương tự về hình thức thông minh giữa kỹ sư và một giáo sư, hoặc giữa một nhà thám hiểm phải giải quyết nhiều vấn đề [thực tế] và một nhà thiên văn học phải giải quyết nhiều vấn đề toán học. Nếu con bạn có một trí thông minh cụ thể mà bắt nó làm những nghề [mà] năng khiếu của nó không giúp được gì [thì] thật là tai hại cho tương lai của trẻ. Không nên chuẩn bị cho một trẻ có trí thông minh cụ thể và thực tế làm một giáo sư triết học, trẻ này có thể thành công rực rỡ trong ngành kỹ nghệ. Nếu có trình độ thông minh cao, trẻ này có thể cố gắng đảm nhiệm một chức vụ giáo sư triết học, nhưng như vậy thì nó không được đặt đúng chỗ, và nếu nó được làm giám đốc một cơ sở doanh nghiệp chắc chắn nó sẽ thành công và sung sướng hơn. Có thể ước lượng trình độ thông minh.- Muốn biết một đứa trẻ thông minh – hoặc kém thông minh – đến mức độ nào, chỉ cần so sánh nó với một trẻ đồng lứa tuổi, trí tuệ bình thường, nghĩa là một trẻ trung bình. Làm sao biết được một trẻ trung bình? Thử tượng tượng chúng ta hỏi nhiều trẻ lên bảy, không phân biệt sức khỏe, tính tình, giai cấp xã hội. Chúng ta đọc cho chúng nghe một bảng kê 100 từ và ghi rõ chúng có hiểu hay không. Trong 100 từ, đứa trẻ đầu hiểu 18 từ, đứa sau 25, đứa thứ ba 15, đứa thứ tư 22. Chúng ta thấy trung bình của những câu giải đáp ấy là 20 từ, chúng ta có thể nói là những trẻ con 7 tuổi mà chúng ta đã hỏi, trung bình có thể hiểu 20 trong 100 từ ghi trên bảng lê. Nếu chúng ta có thể trắc nghiệm với một trăm, một nghìn trẻ lên bày và lúc nào cũng tìm thấy con số trung bình 20 từ, chúng ta có thể nói – không sợ lầm lẫn – là trẻ bình thường lên bảy có thể hiểu 20 từ trong bảng kê của chúng ta. Một trẻ thông minh trội hơn hiểu nhiều từ hơn, trẻ thông minh kém hiểu ít hơn. Theo kinh nghiệm, một trẻ bình thường ba tuổi phải: - chỉ mắt, mũi, miệng, tai, tóc, ngực, bụng ở đâu. - biết tên những món đồ quen thuộc: chìa khóa, bút chì, muỗng, nĩa, tô, bát, xanh, chảo, nồi, son. - đếm từ 1 đến 20. - lập lại những câu ngắn có 6 hoặc 7 từ mà không lầm lẫn. Lên bốn trẻ phải: - kể được mười lăm vật thông dụng. - trả lời những câu hỏi dễ như: "Bé phải làm gì khi buồn ngủ, khi nghe lạnh, khi thấy đói?" - vẽ theo một hình vuông, một hình chữ nhật.

88

Page 93: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Lên năm trẻ phải: - phân biệt được màu sắc. - lập lại những câu từ 15 đến 20 từ. - đếm từ 1 đến 50. - vẽ hình tròn, quả bóng, bánh xe. Nếu Nam có 3 tuổi mà giải đáp đúng trắc nghiệm của trẻ lên 3 và không giải đáp được trắc nghiệm khác, như vậy Nam có một trí thông minh trung bình. Bắc đồng lứa tuổi, không những giải được trắc nghiệm của trẻ lên 3 mà còn giải được trắc nghiệm của trẻ lên 4. Vậy Bắc thông minh hơn Nam. Bắc có 3 tuổi thực nhưng tuổi trí tuệ (âge mental) của nó là 4 tuổi. Theo trên, chúng ta có thể ước lượng trình độ thông minh của trẻ bằng cách chia số tuổi trí tuệ cho số tuổi thực của nó. Như thế gọi là thương số thông minh (quotient d'intelligence), viết tắt là Q.I. Q.I. của Nam có 3 tuổi trí tuệ và 3 tuổi thực là 3/3 hay 1, đây là thương số trung bình. Thương số của Bắc là 4/3 hay 1,33, đây là một thương số rất cao. Bắc rất thông minh. Bây giờ đến lượt Đông. Đông 5 tuổi nhưng nói không giải nổi trắc nghiệm của trẻ lên 5, cũng không giải được trắc nghiệm của trẻ lên 4; nó chỉ giải được trắc nghiệm của trẻ lên 3. Tuổi thực của Đông là 5 mà tuổi trí tuệ có nó chỉ có 3. Q.I. của nó là 3/5, nghĩa là 0,60, rất thấp so với thương số trung bình. Vậy Đông là một trẻ chậm tiến rõ rệt. Đại khái, để giản dị hóa những con số, người ta lấy tuổi trí tuệ chia cho tuổi thực rồi nhân cho 100, và nói: Q.I. của Nam là 100 Q.I. của Bắc là 133 Q.I. của Đông là 60 Chúng ta có thể đối chiếu Q.I. với bảng Q.I. mà các nhà tâm lý học kỹ thuật thường dùng:

Bậc thang thương số thông minh

Dưới 50 đần độn Từ 50 đến 70 bạc nhược Từ 70 đến 80 trẻ chậm tiến Từ 80 đến 90 thông minh dưới mức trung bình Từ 90 đến 100 thông minh trung bình Từ 100 đến 110 thông minh trên trung bình Từ 110 đến 120 trẻ rất thiên tư Trên 120 thông minh lỗi lạc

Nếu bạn theo dõi kỹ những giải thích trên và với một trắc nghiệm giản dị áp dụng không cần kiến thức chuyên môn, bạn sẽ có một ý niệm phỏng chừng về trình độ thông minh của con bạn. Tuy nhiên đứng quá tin ở con số Q.I. của con bạn, vì 5 lý do sau đây: 1. Điều tác giả đề nghị ở đây đã được giản dị hóa và chỉ có thể cho một ý niệm về cái mà người ta gọi là thương số thông minh. Muốn có được chi tiết rõ ràng hơn, nên nhờ đến một nhà tâm

89

Page 94: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

lý học chuyên môn. 2. Không nên ỷ lại vào một trắc nghiệm duy nhất, đơn độc mà phải thực hiện nhiều trắc nghiệm, vì có nhiều trắc nghiệm đối chiếu kết quả mới được chính xác. 3. Thông minh có nhiều hình thức. Con bạn có thể biểu lộ một năng khiếu đặc biệt khi áp dụng những trắc nghiệm khác với những mẫu trắc nghiệm vừa trình bày ở trên. Có nhiều hình thức thông minh không thể giảng giải hết trong phạm vi hạn định của sách này. Nơi đây tác giả chỉ làm công việc mở đường cho bạn. 4. Trí thông minh có thể tiến hóa. Một trẻ sớm phát lộ thông minh chưa hẳn là trẻ xuất sắc. Có những trẻ ban đầu chậm bước nhưng về sau nó cũng thông minh như ai, và có những trẻ sớm lộ vẻ thiên tư, dĩnh ngộ một thời, nhưng rồi dậm chân mà không hề cải tiến. 5. Trí thông minh có thể bị rối loạn vì ảnh hưởng của những nguyên nhân thuộc về cơ thể hoặc tình cảm. Đây là một điểm quan trọng nên tác giả tưởng cần dành nhiều giải thích sau này. Vì những lý do nêu trên, xin bạn thận trọng khi diễn giải những trắc nghiệm mà tác giả trình bày như những kiểu mẫu. Cũng không được quên là một trắc nghiệm chỉ có giá trị một lần là lần đầu. Nên nhờ một nhà tâm lý học xem xét con bạn, nên cho họ biết trẻ đã chịu trắc nghiệm nào.

90

Page 95: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

CHƯƠNG 2. TÍNH TÌNH VÀ THÔNG MINH Trí thông minh được khởi sắc nhờ tính tình.- Bạn đọc đã thấy những trắc nghiệm được xây dựng trên cơ sở trí thông minh của trẻ phát triển đều đặn theo đường thẳng. Thực tế không hẳn vậy. Kinh nghiệm cho thấy tinh thần của trẻ phát triển kém đồng đều, và sự kiện ấy có thể giải thích do tính tình của trẻ không giống nhau. Những trẻ phản ứng chậm, nghĩa là phản ứng không dễ dàng như trẻ khác thì có trí thông minh chậm, vì chúng lĩnh hội kém nhanh và vì chúng bị lạc hướng – hay chán nản – trước một môn học mới được giảng giải đột ngột, vội vã. Thử tưởng tượng một trẻ phản ứng chậm, cảm giác diên trì, một đa cảm, một đam mê, một trầm tĩnh hoặc một bất động lại có trí chú ý "hẹp" ngồi trong lớp nghe giảng bài, ông giáo giảng nhanh, đi rất mau từ tiết này sang mục khác, trẻ không sẵn sàng thu thập như một trẻ có phản ứng mau. Nó cần thì giờ làm quen với những kiến thức mới, lại còn ngăn ngừa không để cho những ý ức sâu đậm về bài học cũ chen vào. Trong lúc đó, trẻ thần kinh, trẻ dị nộ, trẻ đa huyết hoặc trẻ lâm ba hiểu mau hơn, đẩy lớp học đi tới nhanh. Ông giáo cứ tiếp tục... Trẻ lĩnh hội chậm đâm ra rối trí, cơ hồ hổng chân đứng. Bài học càng đi mau, trẻ càng cảm tưởng không theo dõi được, nhưng sự chậm trễ này là sự chậm trễ về nhịp điệu chứ không phải sự chậm trễ về trí tuệ. Trẻ có phản ứng mau thích ứng dễ dàng. Nó thích thú và hứng khởi trước những cái mới lạ. Nó mau chán nản, nhưng nó mau lĩnh hội nếu sự việc vừa tầm hiểu biết. Nó có vẻ thông minh hơn sự thực chính vì nó lĩnh hội mau hơn. Trí nhớ cũng có nhiều hình thức khác nhau. Trẻ đa cảm như trẻ đam mê, trẻ trầm tĩnh và trẻ bất động, nếu chúng có một trí thông minh trừu tượng và lý luận thì chúng cần hiểu rõ mới nhớ được, nhưng chúng lâu quên. Còn những trẻ đa huyết, lâm ba đều có một trí nhớ rất uyển chuyển, dù chúng không hiểu biết, hình ảnh vẫn in đậm lên não tủy. Khi phải nói lại điều chúng nhớ, người ta lầm tưởng rằng chúng đã am tường. Trái lại, những trẻ có phản ứng chậm, phát biểu hơi khó khăn, do đó việc thẩm định trí thông minh thực sự của chúng có thể bị lầm lạc. Những mẫu tính tình khác nhau không ham thích những vấn đề giống nhau.- Trẻ thần kinh chú trọng đến sự vật cũng như ý tưởng. Giữa sự vật và ý tưởng là những danh từ mà trí thông minh của trẻ lấy làm thích thú. Nó nói và viết dễ dàng. Hiếu kỳ, việc gì cũng muốn nhúng vào. Không chịu nép mình trong khuôn khổ cứng rắn của lý luận và toán học, nó thích văn chương, mỹ thuật và địa lý, môn học hứa hẹn những cuộc du lịch lý thú. Trẻ đa cảm có trí thông minh chậm, trừ phi trình độ thông minh của nó vượt trên mức thông minh trung bình. Trong trường hợp này, trẻ hoạt động dễ dàng trong lớp học, bài vở nó xem thường. Trí thông minh của trẻ này sâu sắc hơn linh hoạt. Tự nhiên nó ham thích và sở trường về lối phân tích và suy diễn. Tùy theo trí thông minh của nó là thực tế hay lý thuyết, trẻ nghiên về kỹ thuật hay triết học. Trẻ dị nộ lúc nào cũng thích những vấn đề thực tế. Nó ưa chuộng cái mới lạ trong những vấn đề cụ thể, thích bày mưu lược, trổ tài xoay xở. Nếu trẻ có một trí thông minh trừu tượng – điều hiếm có – nó sẽ nghiêng về công cuộc thí nghiệm. Trẻ đam mê cần có trật tự và liên lạc mới hiểu được. Trí thông minh của nó phát lộ chậm, mãi đến tuổi dậy thì mới khởi sắc. Tự nhiên nó thích khoa học, lịch sử, ngữ pháp.

91

Page 96: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Trẻ đa huyết thường có khiếu trực giác, một trí thông minh mau. Nó thích những môn học quan sát, những vấn đề kỹ thuật và thí nghiệm. Nó chuộng lối văn bình dị, rõ ràng. So với trẻ nhạy cảm, nó kém trí tưởng tượng. Trẻ trầm tĩnh có trí thông minh chậm. Nó thích phương pháp, tổ chức và không quên nguyên tắc, quy củ. Nó cần thì giờ để suy nghĩ chín chắn. Trẻ thích toán học, khoa học, lý thuyết. Trẻ lâm ba, như trẻ đa huyết, có khiếu trực giác và một trí nhớ bền bỉ. Trẻ có óc quan sát, thích mỹ thuật. Trẻ bất động chậm nhất về mặt trí tuệ. Nó thích làm việc theo phương pháp trong một khung cảnh ổn định quen thuộc. Nếu phải lập lại mãi một điều gì nó cũng không biết chán, trong khi cái mới lạ thường làm cho nó bối rối, ngỡ ngàng.

92

Page 97: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

CHƯƠNG 3. TRẺ DĨNH NGỘ, TRẺ TRUNG BÌNH VÀ TRẺ CHẬM TIẾN

Có nên thúc đẩy những trẻ dĩnh ngộ không? Năm 1921, nhà tâm lý học Hoa Kỳ Terman chọn 1470 trẻ trong số 250.000 học sinh để trắc nghiệm. Những trẻ này đều có một Q.I. (thương số thông minh) 140, nghĩa là chúng tiến nhanh 4 năm về phương diện trí tuệ. Từ đó, công việc khảo cứu và quan sát cứ tiếp tục mãi cho đến năm 1947. Kết quả công cuộc khảo cứu cho thấy trẻ thông minh lỗi lạc có một năng lực lĩnh hội và thích ứng khác thường nên có thể rút ngắn thời gian học tập, cho học nhiều môn khác nhau, khỏi phải chú trọng đến khuynh hướng chọn nghề, vì trẻ ham thích đủ các môn học. Người Mỹ đã mở cho những trẻ này một trường riêng gọi là "trường thí nghiệm", nơi đây thời gian học mỗi lớp rút xuống sáu tháng, có khi ba tháng. Nếu con bạn là trẻ rất có thiên tư, với một Q.I. bằng hoặc cao hơn 120, trách nhiệm của bạn rất nặng đó. Không nên để uổng phí một cái vốn quý báu mà tạo hóa đã ban cho. Nhưng vấn đề còn có một khía cạnh tế nhị. Một trẻ thiên tư dĩnh ngộ tiến mau hơn những trẻ đồng tuổi, nghĩa là trong lớp nó hiểu mau hơn bạn nó và trí tuệ chín chắn hơn. Cho nó học chung với bạn đồng lứa tuổi, nó sinh ra buồn chán, lơ đãng và có khi mất cả hứng thú học hành nữa. Nhưng nếu bạn cho con bạn học chung với những trẻ lớn hơn, mạnh hơn về mặt thể xác và không chơi những trò chơi chung thì con bạn không được vui thích. Chính ngoài sân chơi trẻ mới thấy buồn chán. Về lâu về dài, tình trạng này có thể gây ra những vấn đề khó khăn về mặt tâm lý, có ảnh hưởng tai hại đến việc học của trẻ. Cha mẹ khôn ngoan chỉ cho trẻ "nhảy lớp" một cách thận trọng. Tốt hơn đừng cưỡng bách trẻ trong những năm thơ ấu và nên cho trẻ phát triển điều hòa về mặt thể xác, đây là mối chăm lo quan trọng hàng đầu của bạn đối với trẻ. Thể dục, thể thao, sinh hoạt ngoài trời, nghỉ hè cần cho con bạn hơn các trẻ khác. Trẻ bình tĩnh theo đuổi con đường học vấn cho đến lớp nhất13. Cứ tin cậy ở trẻ, nó sẽ lợi dụng trí lực có thừa và sở thích bén nhạy của nó để đọc sách, quan sát xã hội, thế giới bên ngoài. Bước sang giai đoạn thứ nhì, chú trọng hướng dẫn trẻ đừng để cho trẻ có thiên tư phải đi theo một con đường mà nó không phát triển được hết tài năng. Từ 12 tuổi nó phải chọn giữa hai nền học vấn, một là phổ thông, hai là chuyên khoa, kỹ thuật, tùy theo hình thức thông minh của trẻ14. Cần lưu ý "nhảy lớp" là một việc không khó đối với trẻ có thiên tư, nhưng vội vã quá trong những năm đầu chỉ gây hại cho sự thích ứng của nó. Đừng đòi hỏi quá nhiều nơi trẻ trung bình.- Lớp học mở ra cho trẻ trung bình. Một trẻ trung bình không được học đúp một lớp nếu họ học bình thường. Bạn đã biết trí thông minh của con bạn chậm hay mau, trừu tượng hay cụ thể. Chính bạn có trách nhiệm nên đòi hỏi, chờ đợi những gì ở nó. Đừng cố chấp đòi hỏi trẻ nhiều về những môn học xa lạ với hình thức thông minh của nó, mà chỉ cần một sự gắng sức trung bình, đồng thời nên thúc đẩy nó nỗ lực về những môn học mà hình thức thông minh của nó vận dụng thuận lợi hơn, vì đối với các môn học này, sự cố gắng của nó sẽ tự nhiên dễ dàng.

13 Ghi chú: Lớp 5 tiểu học bây giờ. 14 Điều này chắc được áp dụng ở Pháp.

93

Page 98: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Tuy nhiên, có trường hợp một em học sinh sút kém liên tiếp về một môn học mà lẽ ra nó phải giỏi, như vậy nguyên nhân do ở sự lầm lạc từ những bước đầu (ví dụ một em có trí thông minh trừu tượng mà kém toán). Gặp "ca" này nên cố gắng sửa sai. Bạn quả quyết sẽ được kết quả tốt vì bạn đòi hỏi trẻ chuyên tâm về một môn học thích hợp với nó. Một trường hợp tương tự xảy ra ở những trẻ đa cảm và những trẻ đam mê (những trẻ khác chắc cũng không thoát khỏi) sút kém về tập đọc, chính tả. Tình trạng này do lúc mới khởi sự tập đọc, trẻ được hướng dẫn sai lạc. Nên cho chúng theo học những giờ tập đọc riêng, hướng dẫn chúng đọc như đối với học sinh lớp một, lớp hai. Bước đầu còn dễ nhưng về sau chương trình học càng nặng thì sự sửa sai càng khó. Giúp trẻ chậm tiến thế nào? Vấn đề giáo dục trẻ chậm tiến trở nên rắc rối vì có những nguyên nhân ngoài phạm vi trí tuệ, ảnh hưởng đến trí khôn của trẻ và làm cho năng suất trí lực sút kém. Sự chậm trễ này có tính chất ngẫu phát, tạm thời và có thể đuổi kịp. Chúng ta sẽ xét sau. Hiện giờ chúng ta đang đối diện với một em bé có Q.I. thấp. Qua mấy năm học tập, trẻ không đạt được mảy may tiến bộ nào. Cha mẹ lo âu, buồn nản, bực tức. Tuy vậy, lỗi không do trẻ mà trẻ chỉ là nạn nhân. Đừng cho trẻ là ngu si, đần độn. Nếu thương số thông minh của nó kém thì cũng không phải lỗi của nó. Trước những kết quả bê bối về học vấn của trẻ, cha mẹ bực tức, la rầy mãi là gây cho nó mặc cảm tự ti làm tiêu tan hết hy vọng cải tiến. Tốt hơn là bạn nên theo một đường lối hoạt động tích cực, ví dụ tôn trọng cái quy tắc: tuổi trung bình lớp học phải phù hợp với tuổi trí tuệ của trẻ. Nói cách khác, nếu trẻ có thương số thông minh khoảng 80 đến 90 và có 9 tuổi trí tuệ thì nó phải học chung với những trẻ 9 tuổi, cho dù nó 10 hoặc 11 tuổi. Bắt nó học chung với những trẻ trình độ cao hơn, nó theo không kịp và lắm lúc sinh ra chán nản, bệnh hoạn. Nếu cần cho trẻ học đúp một lớp để cho trí lực của trẻ được phát triển bình thường. Quy tắc thứ nhì là không nên quan niệm việc thụt lùi (học đúp) như thế một sự thất bại, một sự nhục nhã, mà cần có thái độ thích nghi cho trẻ vui lòng, sáng suốt chấp nhận bước thoái tạm thời đó. Quy tắc thứ ba là nên có tham vọng khiêm tốn về địa vị xã hội của trẻ sau này. Nên cho trẻ học hết bậc tiểu học rồi tùy theo năng khiếu, tính tình của trẻ, hướng dẫn nó học nghề. Đối với việc chọn nghề của trẻ, nên dự liệu một chuyên môn sít sao để cho nó sử dụng tối đa trí lực trên một đường lối duy nhất. Dưới trình độ trí tuệ nói trên, những trẻ có Q.I. 75 có thể vào những lớp học riêng gọi là lớp "cải tiến". Những lớp cải tiến này thường do những giáo viên được huấn luyện riêng đảm nhiệm. Có những phụ huynh do dự không muốn gửi con em đến học những lớp này vì tự ái và cũng vì họ quan niệm con em họ học chung với những trẻ bình thường thì có lợi hơn. Đây là một sự lầm lẫn. Những phụ huynh nói trên không hiểu rằng những trẻ được hướng dẫn theo phương pháp riêng thích hợp với trẻ chậm tiến thì tiến bộ khả quan, và đôi khi sau vài năm có thể học lại với trẻ bình thường. Trường hợp trẻ không trở lại lớp học bình thường, một khi mãn khóa ở lớp đặc biệt, trẻ ra đời với một nghề trong tay như đóng sách, làm đồ gốm, đan, thêu, cắt, may, v.v. Hơn nữa, sống với bạn bè đồng cảnh, đồng tình, trẻ không còn rụt rè, mắc cở, không còn mặc cảm tự ti, được thoải mái, vui thích, hoàn cảnh thuận lợi giúp cho nó phát triển tâm trí, trí năng. Đứng ở bình diện khác mà xét, trẻ chậm tiến may mắn được sống trong những gia đình cha mẹ xem tình trạng này như một sự tự nhiên, còn với cha mẹ nhiều tham vọng, xem điểm số và thứ

94

Page 99: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

hạng ở lớp là quan trọng thì trẻ chậm tiến lại bị gò bó, kềm thúc, nhồi sọ một cách vô ý thức, như thế chỉ tạo ra cho nó những vấn đề tình cảm, làm cho cuộc sống nó rắc rối thêm. Một trí thông minh bình thường cũng có thể bị rối loạn. Có những việc bất thường xảy ra mà phụ huynh không hay biết ảnh hưởng đến hiệu năng làm việc và trí lực của trẻ. Biết rõ những bất thường đó không những [giúp] thẩm định thương số thông minh mà bạn đã tìm ra mà còn giúp cho bạn những phương tiện cải thiện quan trọng. Những trung tâm tâm lý học phụ trách rèn luyện trẻ bất thường ghi nhận hầu hết học sinh nhỏ của trung tâm là trẻ có thương số thông minh trung bình, có lẽ còn cao nữa. Chúng chỉ gặp "khó khăn", nghĩa là trí thông minh không phát triển bình thường do những rối loạn ngẫu phát. Những khó khăn đó có thể giải quyết, và ở đây chúng ta thấy sự ước lượng thương số thông minh là một việc quan trọng. Một sự chậm trễ về học vấn của trẻ có thương số thông minh bình thường bao giờ cũng là một dấu hiệu báo động. Những rối loạn của tuyến nội tiết giải thích được những ca chậm trễ về học vấn.- Có những sự chậm trễ về học vấn phát sinh từ sự mất quân bình của các kích thích tố hoặc do sự tiết xuất của các tuyến nội tiết bị suy yếu. Sự suy yếu thường thấy – và cũng là dễ chữa nhất – là sự suy yếu giáp trạng tuyến15. Sự suy yếu này do giáp trạng tuyến thiếu chất i-ốt (iode)16 gây ra tình trạng phì nộn, đần độn, chậm lớn, và theo sau là sự chậm tiến về mặt trí tuệ. Bác sĩ tìm ra những căn bệnh đó bằng những trắc nghiệm sinh lý như đo tác dụng biến thể, nhiệt độ phát ra trong thân thể do việc biến hóa thức ăn thành sức lực (métabolism basal)17, nhiệt độ này có thể thấp; và đo chất cholestérol18 trong máu, chất này có thể cao. Để đối phó với những rối loạn nói trên, cha mẹ, thầy giáo phải trông cậy vào thẩm quyền của thầy thuốc. Sự mệt mỏi tạm thời.- Có thể trẻ không mắc phải một chứng bệnh nào nói trên, các tuyến nội tiết hoạt động bình thường, bây giờ thầy thuốc phải nghĩ đến sự xáo trộn tạm thời trong cơ thể như những bệnh thông thường, làm việc quá độ, cơ thể suy yếu, v.v. Khi một bệnh thông thường như cảm, ban, sởi, thương hàn, v.v. phát ra, bạn lo chạy chữa cho trẻ và cho nó nghỉ. Nhưng có những căn bệnh không rõ rệt, khó chẩn đoán, trong đó bệnh duy nhất phát hiện được là sự mệt mỏi dã dượi. Trẻ tự nhiên kém chăm, biếng học. Cha mẹ không cho con nghỉ mà nghi con lười biếng. Đôi khi cũng đúng, nhưng nhiều trường hợp cần xét đến nguồn gốc, tìm ra nguyên do mới biết sự suy nhược tinh thần có đúng là triệu chứng và không phải sự lười biếng thực. Ở tất cả trẻ con, tình trạng uể oải dã dượi thường xuất hiện trong thời kỳ phát dục, tăng trưởng. Trong giai đoạn này bao nhiêu sức lực trong người trẻ đều dồn vào việc sinh hoạt, tăng trưởng của thân thể nên phải rút khỏi cuộc sống trí tuệ. Nếu nhu cầu của xác thân quá lớn, trạng thái trì độn xuất hiện rõ rệt; vì kém sức, việc học hàng ngày đối với trẻ trở nên nặng nhọc, chán nản. Có trường hợp xảy ra một hiện tượng tương phản. Trẻ muốn đáp ứng đòi hỏi của nhà trường,

15 Xem chú thích ở Chương 9 về lâm ba chất. 16 Chất iode có tác dụng quan trọng trong thân thể. Thiếu chất này, giáp trạng tuyến không đủ chất liệu để tạo ra kích thích tố. Ngày nay y học có thể lấy giáp trạng tuyến của loài vật chữa trị bệnh yếu kém kích thích tố giáp trạng tuyến. Cá biển, tôm, cua, rong biển đều chứa nhiều chất iode. Điều này giải thích được hiện tượng lạ là dân cư sống ở bờ biển không hề mắc bệnh bướu cổ; bệnh này do thiếu chất iodee trong đồ ăn, nước uống sinh ra. 17 Danh từ này chỉ sức lực tối thiểu để duy trì những cơ năng trọng yếu của sinh hoạt như tuần hoàn, hô hấp và nhiệt độ châu thân. 18 Chất cholestérol, một chất như mỡ ở trong máu hoặc trong mật. Nhiều quá nó gây ra chứng cứng mạch máu, bít mạch máu, gây nên bệnh đau tim.

95

Page 100: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

cha mẹ, muốn thỏa mãn tham vọng thành công nên cố gắng học tập, lao tâm lao trí, thân thể mệt mỏi, suy nhược. Tình trạng này thường xảy ra nơi trẻ đa cảm, có tinh thần trách nhiệm cao, lúc nào cũng lo làm kỹ, làm tốt. Cha mẹ, thầy giáo đều đồng ý cho trẻ nghỉ học và tẩm bổ cho nó. Trái lại, trong trường hợp thứ nhất, trẻ bị nghi oan là lười biếng, ù lì; sự thực đó là một trạng thái có liên quan đến sự tăng trưởng của trẻ. Chánh phạm là những rối loạn về tâm tình.- Tuy nhiên, nhà giáo dục phải nhìn nhận là sự chậm trễ về học vấn nhiều khi không do những rối loạn trong thân thể của trẻ. Thầy thuốc lắm lúc cũng chịu bó tay, tuyên bố không có thẩm quyền và đành giao trẻ lại cho nhà tâm lý học. Thực ra, trí lực của trẻ chỉ phát triển bình thường nếu có được sự thăng bằng về tình cảm; nói khác, nó cảm thấy vui sướng, yên tâm vì được yêu mến, chở che. Những nhà hữu trách quản trị các bệnh viện nhi đồng đều ghi nhận là những trẻ sống lâu trong bệnh viện có trí não chậm tiến rõ rệt, bởi vì tuy trẻ được ăn uống no đủ, săn sóc kỹ lưỡng, thuốc men dồi dào, trẻ vẫn thiếu tình thương của mẹ, tình trìu mến của anh em, chị em của nó. Thiếu hơi ấm của tình mẫu tử, ngột ngạt trong bầu không khí thù nghịch của gia đình, cảnh cô đơn, lạnh lùng mà trẻ phải sống trong những năm tấm bé, bao nhiêu điều đó đã gây ra rối loạn trí tuệ và tâm tình. Trẻ là nạn nhân chực sẵn của những lời nguyền rủa, hờn giận giữa cha và mẹ. Sự ra đời của trẻ được xem như một tai họa, đôi khi trẻ sinh ra trái với ý muốn, trái với mưu tính của mẹ, cha. Khi trí khôn và tình cảm của trẻ được thức tỉnh nhờ trẻ đã trải qua một thời kỳ ấu thơ bình thường, trẻ vẫn chưa thoát khỏi những va chạm. Trẻ này sống cô đơn, thui thủi vì nó phải từ biệt gia đình vào ở nội trú. Trẻ khác biết cha mẹ có ý định ly dị nhau, trẻ thứ ba cảm thấy mối bất hòa đang manh nha trong gia đình vốn từ lâu êm ấm. Những va chạm, xúc động đó lần lần tạo ra những tai hại ngấm ngầm nhưng cha mẹ nào thấy. Cha mẹ chỉ sự biến đổi tính tình bên ngoài và nhận xét: "Thằng bé đã thay đổi", hoặc than thở: "Thằng con dạo này khó chịu quá". Bao nhiêu sự thay đổi đó diễn tả sự tổn thương trong đời sống tình cảm của trẻ. Trẻ càng đa cảm, thông minh, nó càng sớm hiểu rõ những mâu thuẫn, rối ren trong gia đình, tâm hồn nó càng dễ đau thương. Như vậy, người ta mới giải thích được tại sao những trẻ loạn trí được điều trị tại Trung Tâm Y Khoa Sư Phạm Claude Bernard (Pháp) phần đông có thương số thông minh cao (115-120). Với tâm hồn đa cảm, trí thông minh của trẻ dễ phát triển trong bước đầu, nhưng ngược lại tâm trạng kia cũng dễ dao động, vừa lúc nhờ trí khôn trưởng thành trẻ hiểu biết, chịu đựng và phán đoán những nghịch cảnh gia đình. Hiểm nguy ở khắp nơi và đón chờ mọi lứa tuổi. Gia đình phải gánh một trách nhiệm nặng nề. Khi thảo luận về tầm quan trọng của sự quan bình tâm tình, trí tuệ của trẻ, chúng tôi không thể bỏ qua mà không nhắc nhở các bậc phụ huynh về sự giúp đỡ họ tìm được ở những Trung Tâm Y Khoa Sư Phạm. Nơi đây có những bác sĩ chuyên môn tâm lý học thăm trẻ miễn phí19. Nếu có những phụ huynh chưa đưa con em đến là do họ e ngại, không muốn nói ra những mâu thuẫn gia đình. Thực ra, khoa tâm lý trị liệu là một phương tiện điều trị rất thần hiệu. Trong Trung Tâm, trẻ phải trải qua những trắc nghiệm nhiều hơn nhưng vẫn giản dị như những trắc nghiệm trình bày trong sách này. Trẻ biểu lộ cá tính qua những hình vẽ, tham dự những vở kịch điệu bộ; lúc diễn xuất, tự nhiên nó bộc lộ những mâu thuẫn ngấm ngầm trong tiềm thức mà không hay biết. Nhờ giải bảy được băn khoăn, thắc mắc một cách tự do mà trẻ thoát khỏi những ám ảnh từ lâu đè nặng tâm tư nó.

19 Ở Việt Nam chưa có cơ sở loại trung tâm này.

96

Page 101: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

PHẦN THỨ TƯ. CÁ TÍNH CỦA TRẺ [ĐƯỢC] CẤU TẠO NHƯ THẾ NÀO?

NHỮNG ẢNH HƯỞNG NGOẠI LAI

CHƯƠNG 1. HOÀN CẢNH VÀ CÂU CHUYỆN CỦA TRẺ Một nhà sinh vật học Hoa Kỳ và bà vợ làm một cuộc thí nghiệm ngộ nghĩnh. Khi đứa con của họ vừa sinh, họ nuôi một con khỉ cũng chào đời cùng một ngày với đứa bé. Họ cố gắng cung ứng cho người và vật những tiện nghi tương tự, cũng một thức ăn, đồ mặc; cũng thương yêu, âu yếm [chúng] đồng đều. Ba năm sau, vợ chồng nhà sinh vật học không khỏi ngạc nhiên nhận thấy hai "đứa trẻ" đều có thái độ, cử chỉ, lối cư xử giống nhau. Có thể nghĩ ra một thí nghiệm tương phản. Hai bé đồng tính tình, cùng một hình thức, một trình độ thông minh, nhưng một em thì sống ở thôn quê trong một gia đình đông đảo, hòa thuận; một em khác là con một ở thành thị, sống trong một gia đình thường lục đục vì cha mẹ muốn mua chuộc cảm tình của con mà sinh ra bất hòa. Hai trẻ lớn lên khác nhau, phát triển khác nhau, và thành hai người lớn không giống nhau về thái độ, cử chỉ, cách xử thế, tiếp vật. Tại sao? Tại vì tính tình và năng khiếu có thể thay đổi do những nguyên nhân khách quan bên ngoài để cấu tạo nên cá tính, nhân cách của trẻ. Trẻ có thể nẩy nở hoặc co rút do hoàn cảnh bên ngoài.- Ảnh hưởng của hoàn cảnh trong việc cấu tạo cá tính, nhân cách của trẻ rất quan trọng, quan trọng đến nỗi có lúc người ta nói: "hoàn cảnh tạo nên tính tình". Bác sĩ Louis Corman thường ví trẻ con ban sơ như một cái hạt chứa đầy khả năng, và mô trường sinh sống của nó có thể làm cho hạt nở ra hoặc co lại. Hoàn cảnh nẩy nở là khí hậu điều hòa, tiện nghi vật chất, vệ sinh, là tình thương, việc đứa trẻ được che chở và cảm thấy được sống yên vui. Sống trong một hoàn cảnh như vậy, trẻ trở nên vui tính, hiền hòa, cởi mở, hăng hái, yêu đời, có lòng tự tin và hy vọng ở tương lai. Trái lại, trong một hoàn cảnh đầy khó khăn, trở ngại, khí hậu nghiệt ngã, phải tranh đấu sớm để mưa sinh, thiếu thốn vất vả, thêm vào đó, trẻ lại thiếu tình thương, không được che chở, tự nhiên trẻ sinh ra rụt rè, nghi kỵ, hay hờn dỗi, buồn phiền, thích sống cô độc, không muốn giao du, thiếu lòng tự tin và nhìn đời với cặp mắt bi quan. Hình ảnh xác thực và linh động. Tuy nhiên không được quên là nó chỉ đúng trong những trường hợp cực đoan. Trong một gia đình có hai trẻ song sinh, cũng mạnh khỏe như nhau, được nuôi nấng, giáo dục đồng đều vậy mà vẫn có những cá tính dị biệt. Mới sinh, trẻ không phải là một tờ giấy trắng để cho hoàn cảnh cùng những biến cố in nhiều dấu vết lên trên, tạo nên cá tính, nhân cách tương lai. Trái lại, khi chào đời, trẻ đã mang sẵn một tính tình. Trẻ không hoàn toàn do hoàn cảnh tạo nên, mà cá tính, nhân cách của trẻ là tổng hợp của tính tình, năng khiếu, thể chất và ảnh hưởng cùng những biến cố trẻ đã trải qua. Cá tính của trẻ được hình thành vào khoảng từ 8 đến 15 tuổi hoặc chậm hơn. Đối với tính tình và năng khiếu trẻ mang theo từ lúc sơ sinh, cha mẹ ít có quyền hạn, không thể tự do thay đổi theo ý muốn, nhưng cha mẹ cần biết đến để uốn nắn, hướng dẫn. Còn đối với môi trường sinh hoạt và những biến cố xảy ra trong cuộc sống của trẻ, cha mẹ có một ảnh hưởng rất lớn, mạnh. Đây thuộc phần trách nhiệm của cha mẹ, cha mẹ có thể thay đổi môi trường sinh hoạt của con cái. Bây giờ chúng ta thử khám phá lĩnh vực duy nhất nơi hoạt động

97

Page 102: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

của cha mẹ tỏ ra hữu hiệu hơn. Khung cảnh sinh hoạt tác động mạnh đến sự phát triển của trẻ.- Biết vậy, nhưng cha mẹ làm sao thay đổi được hoàn cảnh thiên nhiên. Trẻ sinh trưởng ở thôn quê, khí hậu nóng bức hay sinh sống ở thành thị đầy bụi bặm, ngạt khói xưởng, hơi xăng, đây là sự kiện dù muốn dù không phải chấp nhận. Thực ra thì khung cảnh sinh hoạt có một ảnh hưởng ngấm ngầm nhưng mãnh liệt, có thể biến đổi tính tình mà không hay biết. Một khung cảnh hùng vĩ, hoang vu, núi cao, sông rộng, đất đai khô cằn, khí hậu nghiệt ngã đào luyện những người có óc tranh đấu, có chí kiêu hùng nhưng không cởi mở, hay nghi kỵ, dè dặt. Còn sống giữa một phong cảnh êm đềm, xinh xắn, khí hậu ôn hòa, đất đai mầu mỡ, người dân vui tính, cởi mở, lạc quan yêu đời, thích ăn, mặc đẹp, vị trí, phương hướng ngôi nhà, ánh sáng, không khí và cách trang trí bày biện bên trong cũng có ảnh hưởng đối với trẻ, giống như cảnh tượng ảm đạm của một ngôi nhà tồi tàn trong ngõ hẻm bùn lầy tác động đến tâm tư của người lớn. Sống trong một môi trường lành mạnh là điều cần thiết.- Ngoài ảnh hưởng của khung cảnh thiên nhiên còn có ảnh hưởng của điều kiện vệ sinh. Chắc chắn một ngôi nhà khang trang, sạch sẽ không gây ảnh hưởng như những ngôi nhà ổ chuột, tối tăm, dơ bẩn, gia đình đông đảo, con cái lúc nhúc, chen chúc nhau. Không nói ai cũng hiểu điều kiện sinh sống như vậy gây nên những tai hại vật chất như thế nào. Ai chịu trách nhiệm? Quốc gia, xã hội đã đành, nhưng sự vô ý thức, buông xuôi của một số phụ huynh cũng là nguyên nhân của những tình cảnh đau buồn. Tác giả xin thuật lại hai việc mà tác giả đã chứng kiến, Một chú bé 13 tuổi sáng nào cũng đến quán rượu bên cạnh nhà nhận một ly rượu mạnh, thể theo lời khuyên của ông bố cũng như những người trong giới nhậu là rượu đem lại sức khỏe cho người, uống rượu thì hăng hái, dẻo dai, làm được nhiều việc. Trường hợp thứ hai là một con bé 3 tuổi, cha mẹ có một khách sạn ở thôn quê. Vì cha mẹ bận việc suốt ngày nên bỏ bê con bé, nó gặp gì ăn nấy, ăn ngủ không giờ giấc, suốt ngày la lết trong phòng ăn chung, thực khách đông đảo đủ hạng người, thường thường quá nửa đêm cha mẹ nó mới nhớ tới con và bồng con đi ngủ. Lên năm con bé mắc bệnh lao. Chúng ta ai cũng biết những chuyện tương tự, có khi còn tệ hơn. Cha mẹ có nhiệm vụ thực hiện những điều kiện vệ sinh tối thiểu cho trẻ. Lời khuyên này mới xem như thừa nhưng không phải vô ích, ta thường thấy ban đêm trong những rạp xi nê có những bà mẹ bế con theo để cho bé thức khuya, mất ngủ, thở không khí ô trược, chỉ vì các bà không bỏ qua được một phim hấp dẫn. Hoàn cảnh tâm lý không kém quan trọng.- Tư tưởng thấm nhuần mỗi người chúng ta qua lời nói và sự sống chung cũng như thái độ, cách cư xử của những người xung quanh ảnh hưởng đến con trẻ. Trẻ bắt chước người lớn, khuôn rập thái độ của người lớn. Trẻ bị lôi cuốn bởi mọi thứ ảnh hưởng: gia đình, bạn bè, nhà trường, đường phố, thân bằng, quyến thuộc, những ảnh hưởng phức tạp rèn tập trẻ suy nghĩ thế này, thế kia... Cách ăn ở của bạn đã uốn nắn con cái thế nào? Trẻ thường xuyên nghe bạn phán đoán thế nào về người hàng xóm, về bằng hữu, về xã hội, về thời cuộc, về giới phụ nữ? Trẻ nghe gì trên máy thu thanh, trẻ thấy gì trên màn ảnh truyền hình? Bạn đọc sách báo gì, những sách báo bỏ ngổn ngang trên bàn kia? Bạn thích xài những danh từ, thành ngữ nào, những danh từ, thành ngữ mà dư luận cho là hấp dẫn, hợp thời? Câu trả lời chung nằm sẵn trên môi là "trẻ không hiểu", "trẻ không chú ý", hoặc "trẻ bận chơi đùa". Nhưng kinh nghiệm cho biết là trẻ hiểu lắm, hiểu trước khi biết nói. Hơn nữa, trẻ còn cả tin ở người lớn, không phân biệt lời nói khôi hài, tiếng nói mỉa mai, câu nói để vui cười trong giây lát.

98

Page 103: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Một nhà tâm lý học kể trường hợp một con bé nổi cơn động kinh mỗi lần cha nói đi làm. Lý do là mấy năm về trước, lúc nó lên năm, một hôm cha nó nổi giận la hét, hăm dọa: "Tao sẽ giết cả mẹ con mày" rồi bỏ nhà ra đi. Bà mẹ khóc tức tưởi, con bé hoảng sợ và cơn động kinh đầu tiên của nó phát ra từ vụ xung đột đó. Mấy giờ sau không khí giá đình trở lại yên lặng khi ông cha đã trút hết cơn giận dữ trong mấy ly rượu mạnh. Chỉ còn tâm trạng bàng hoàng và cơn động kinh của con bé là không ai nghĩ tới. Gia đình là vũ trụ của con trẻ.- Hoàn cảnh gia đình còn quan trọng hơn hoàn cảnh thiên nhiên, gia đình là vũ trụ của trẻ từ lúc nó chào đời cho đến khi trẻ bước qua ngưỡng cửa học đường, và còn là nơi ẩn náu, nơi yên vui của tuổi thiếu nhi. Tại sao chúng ta ngạc nhiên khi thấy những lối cư xử bất thường của trẻ bắt nguồn từ hoàn cảnh gia đạo rối ren? Hoàn cảnh gia đình có một tầm quan trọng đặc biệt và nhiều khía cạnh phức tạp mà tâm lý học còn phải dày công khám phá. Để giản dị hóa vấn đề, chúng ta sẽ phân biệt ba khu vực: cha mẹ, anh em chị, em, những người sống chung trong gia đình. Cha mẹ có trách nhiệm về sự thăng bằng tâm lý của trẻ.- Trên kia, chúng tôi đã đề cập đến trách nhiệm của cha mẹ trong sự cấu tạo cá tính, nhân cách của trẻ, vai trò của cha mẹ trong sự tiến hóa tâm lý bình thường của con cái. Chúng tôi cũng đã chỉ rõ những hậu quả tai hại gây ra do sự hững hờ [vô] trách nhiệm của cha hoặc mẹ, do sự vắng mặt của một người, do sự xung đột trong gia đình (dù rõ rệt hay ngấm ngầm) và do việc cha mẹ ly di. Và đây là nguồn gốc của những mặc cảm.

99

Page 104: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

CHƯƠNG 2. NHỮNG XUNG ĐỘT TRONG GIA ĐÌNH Sao gọi là mặc cảm? Mặc cảm là một danh từ tâm lý học chỉ một ý tưởng chi phối cả đường lối cư xử của một đứa trẻ hoặc một người lớn, nguyên nhân lắm khi không rõ, vì mặc cảm bắt nguồn từ một tình trạng tình cảm xảy ra từ lâu. Ví dụ mặc cảm tự ti là ý niệm rằng mình không có khả năng làm một việc gì, không đủ năng lực đương đầu với những người tài ba, đảm lược hơn mình, mặc cảm này ám ảnh và chi phối thái độ, hành động của một người trong mọi trường hợp. Nó gây ra tính rụt rè, dè dặt, làm cho mất lòng tự tin, không còn can đảm kiên tâm để làm việc, sợ người, e đời, ngại thất bại. Mặc cảm này có những cội rễ ăn sâu trong quá khứ. Mặc cảm có thể phát sinh từ thái độ của một ông cha, ông cha lấy uy quyền nghiêm khắc áp đảo ý chí của đứa con. Ông cha mắng con: "Im đi, đồ ngu. Mày chả biết gì mà nói", là có thể gây nên một phản ứng tự ti nơi trẻ. Sau này, dù còn thơ ấu hay đã đến tuổi trưởng thành, mỗi khi phải đối phó với ai hoặc đương đầu với một việc gì, như nói đã đối phó với cha nó ngày trước, tự nhiên không hay biết trong tâm tư của trẻ lại phát sinh cái ý thức sợ sệt, e dè: trẻ tự cho mình yếu hèn, bất lực. Có những người sống suốt đời với mặc cảm tự ti. Nhưng có lúc lương tâm, danh dự, ý thức tự do của người đó nổi lên chống đối và làm cho mặc cảm biểu lộ một cách khác hẳn. Hai cách biểu lộ trạng thái biến đổi là sự đền bù và sự thăng hoa. Đền bù là lối phản ứng chống lại mặc cảm bằng cách tranh tác một thái độ tương phản. Sự thăng hoa biến hóa mặc cảm thành một đức tính, nhờ đó cá tính, nhân cách không bị bóp nghẹt mà được phát triển một cách khác. Trở lại ví dụ đứa trẻ bị ông cha áp đảo. Bình thường thì mặc cảm tự ti tạo ra cho nó một thái độ rụt rè, sợ sệt, nhưng nó có thể phản ứng để đền bù và trang tác một thái độ tương phản. Nó đảo lộn vai trò và đóng vai kẻ lớn, người mạnh. Nó muốn áp đảo kẻ khác, nó muốn làm nên việc, nó không chịu nhục, chịu thua, nó muốn chứng tỏ cho thiên hạ thấy nó là người tài năng, đảm lược. Trường hợp trẻ thăng hoa, mặc cảm của nó thành thị hiếu hy sinh, nó chọn những nghề cần hy sinh, tận tụy, đem công lao, tài sản của mình phục vụ đồng loại đau khổ. Trước khi bắt đầu phân tích những mặc cảm thường thấy, bạn đọc nên biết bốn điều rất quan trọng sau đây: - Trẻ con cảm trước khi hiểu, và cũng không cần diễn tả rõ ràng tình ý của nó. - Trẻ không có phương tiện, cũng không có ý thức thuật lại những điều nó cảm. Trở lại ví dụ trên, khi em bé cảm thấy nó bị ông cha dùng uy quyền chuyên chế áp đảo, khi nó thấy mọi người trong gia đình đều khuất phục dưới quyền lực tối thượng của ông cha và nó cảm thấy bằng trực giác [rằng nó] không làm gì được, không nói gì được, nó không diễn tả rõ ràng tình hình, tuy nhiên nó trực tiếp nhìn thấy tình hình dù không hay biết. - Trẻ suy diễn những điều nó thấy theo quan niệm của nó, tự tạo ra niềm tin riêng, và chính những niềm tin đó hướng thái độ, hành động của nó theo một đường lối riêng. Đây là một điểm quan trọng, giúp bạn có nhãn quan đúng đắn khi quan sát trẻ. Bạn không còn quan sát sự thực xảy ra trước mắt, mà bạn gắng hiểu điều gì đã phát sinh trong đầu óc trẻ. Khi một em bé tin rằng cha mẹ không yêu nó, cha mẹ không cần bực dọc, la lối, nhọc công giải thích cho nó là không có trẻ nào được cha mẹ âu yếm bằng. Cha mẹ thành thực yêu con, phần con thì thành

100

Page 105: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

thực tin cha mẹ không yêu mình. Không cần trưng ra bằng chứng mà nên tự hỏi có cái gì bí ẩn bên trong, tại sao con trẻ đi đến tình trạng này? - Mặc cảm không đột ngột phát sinh, mặc cảm là kết quả của nhiều việc dồn dập nơi trẻ. Nói cách khác, một ý niệm hoặc một cảm xúc xuất hiện nhiều lần, về lâu về dài mới biến thành mặc cảm chi phối tất cả thái độ và hành động của một người. Không phải vì trẻ bị thất bại một lần mà có mặc cảm thất bại, không phải vì thỉnh thoảng trẻ không được mẹ nâng niu mà nó có mặc cảm bị bỏ rơi. Một mặc cảm cấu tạo chậm rãi và do nhiều va chạm kéo dài trong một thời gian. - Mặc cảm không phát sinh bất cứ ở tính tình nào, bởi vì sự cảm thụ, khuynh hướng, phản ứng thay đổi tùy theo bản tính của trẻ. Trẻ nhạy cảm, và trong số trẻ nhạy cảm những trẻ có phản ứng chậm, dễ có mặc cảm hơn các trẻ khác. Mặt khác, hai trẻ tính tình khác nhau cùng trải qua những xung đột tương tự [có thể] không phản ứng như nhau. Cùng chung một cảnh ngộ, có trẻ phản ứng bằng sự đền bù, có trẻ phản ứng bằng sự thăng hoa.

Mặc cảm phát sinh trong những hoàn cảnh gia đình nào?

Trẻ có ba nhu cầu chính yếu mà gia đình phải thỏa mãn, đó là nhu cầu yêu đương, nhu cần an toàn (nghĩa là được cha mẹ che chở), và nhu cầu xác nhận cá tính không gặp trở ngại. Ba nhu cầu này cũng cần thiết cho tuổi trưởng thành. Khi cuộc sống diễn tiến điều hòa, không gặp nghịch cảnh, khi sự giáo dục được thực hành bình thường trong một gia đình lý tưởng nơi cha mẹ hiểu rõ vai trò trách nhiệm của mình thì không có sự rối loạn nào xảy ra. Nhưng nếu không khí gia đình căng thẳng, xáo trộn, mất thăng bằng thì mặc cảm phát sinh. Một hay nhiều nhu cầu chính yếu của trẻ không được thỏa mãn, xung đột xảy ra và có thể trở nên trầm trọng.

Mặc cảm không thỏa mãn

Đối với trẻ đây là ý niệm thường xuyên thiếu thốn tình yêu. Trẻ bị ngăn trở trong việc thỏa mãn một nhu cầu sinh tử và cảm thấy đau khổ. Không cần biết trẻ có thiếu thốn tình yêu không, chỉ cần nó tin như thế cũng đủ tạo nên mặc cảm. Vì vậy, mặc cảm không thỏa mãn phát sinh dễ dàng ở một trẻ bị ruồng bỏ, nhưng cũng thấy xuất hiện ở một trẻ được cha mẹ thực sự yêu đương. Ở đây sự thực không quan hệ, chỉ có ý thức của trẻ là điều đáng kể. Đây là bà mẹ vì rất bận việc nên không bồng ẵm, hôn bé trong lúc nó chờ đợi một dấu hiệu âu yếm, không dỗ dành con trong lúc nó cần được mơn trớn vỗ về. Một mặc cảm không thỏa mãn phát sinh. Trẻ đòi mẹ nâng niu hoặc quay ra hờn dỗi. Nếu bà mẹ thấy con mếu máo, vội âu yếm vỗ về thì mọi việc êm xuôi. Nhưng ví dụ, vì quá bận rộn công việc làm ăn mà bà mẹ vẫn quên tỏ tình mẫu tử, ngày qua tháng lụn, con trẻ không được âu yếm nuông chiều, lại giả thiết nó làm mất một vật gì nó ưa thích, ở trường bị bạn bè tước đoạt đồ dùng, không ai can thiệp, nó cũng không dám trình thầy... mặc cảm không thỏa mãn về lâu về dài in sâu vào tâm não thành ra một ám ảnh. Có thể tưởng tượng nhiều trường hợp khác về trẻ có cảm tưởng như thiếu thốn tình thương, những tình trạng như thế thuộc về một quá khứ xa xôi. Như một ngày nào đó, một đứa bé có cảm giác không thỏa mãn vì chị vú lơ đãng đã cho nó một bình sữa quá lưng. Mặc cảm biểu lộ bằng thái độ bất bình, hờn dỗi, bằng những cử chỉ kỳ quặc như đòi hỏi, chống đối, khiêu khích. Tâm trạng ấy cũng bộc lộ ra ở một hình thức khác như trẻ lấy trộm một vật gì của người đã gây nên thiếu thốn cho nó, hình như để trả thù; trẻ ăn cắp tiền đi mua vật nó thèm thuồng; hoặc xoáy quà bánh, hàng hóa ở một cửa tiệm. Làm vậy, với dụng tâm đền bù sự

101

Page 106: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

thiếu thốn và thỏa mãn sự thù hằn.

Mặc cảm bị bỏ rơi Danh từ này chỉ ý thức của một đứa trẻ khi nó có cảm tưởng bị bỏ rơi. Nhu cầu an toàn không được thỏa mãn. Thử tưởng tượng một gia đình hai vợ chồng bận rộn công ăn việc làm nên giao trẻ cho những người giúp việc và những người này mải mê ăn chơi, bỏ bê không chăm sóc đứa bé. Nếu tình trạng này kéo dài, mặc cảm bị bỏ rơi phát sinh nơi trẻ. Một việc bất thường ngẫu phát có thể tạo nên mặc cảm. Một ngày nào đó đứa trẻ đi lạc trong một thành thị đông đúc, có thể nó được điều trị một thời gian ở bệnh viện, hoặc nó phải đi ở nội trú trong một trường học xa nhà. Nhưng thường thường mặc cảm phát sinh do trẻ cảm thấy mình như là một kẻ thừa trong gia đình. Đây là trường hợp cha mẹ không muốn trẻ ra đời, trẻ là chướng ngại vật trước mưu đồ của cha mẹ, sự hiện diện của đứa trẻ làm cho cha mẹ lúng túng vì cha mẹ tính chuyện tái giá, tục huyền; trẻ tật nguyền cha mẹ phải hổ thẹn với xóm giềng, khách lạ. Mặc dù cha mẹ có gắng công che dấu tình cảnh trớ trêu nan giải ấy, trẻ vẫn đoán được ẩn tình và tự nhiên sinh ra mặc cảm. Thái độ của trẻ khác nhau tùy theo tính tình. Vửa là ý muốn làm vừa lòng kẻ khác xen lẫn với nỗi lo sợ mất người thân yêu, vừa là lòng ham thích an toàn lẫn lộn với nỗi e ngại sống cô độc. Trẻ không muốn rời mẹ một bước, trẻ rất muốn được âu yếm nuông chiều, hoặc để đền bù mặc cảm, nó sống riêng rẽ với thái độ kiêu căng như khiêu khích những người thân yêu.

Mặc cảm tự ti

Mặc cảm tự ti có thể phát sinh từ sự thất bại. Nếu trẻ thất bại liên tiếp trong một việc làm nó thích thú hoặc một công việc hàng ngày, tự nhiên nó cảm thấy bất lực. Cha mẹ quá đòi hỏi ở con, ép nó phải nhảy qua những bức tường quá cao, lúc nào cũng phải đứng nhất nhì trong lớp, là dẫn con thẳng đến mặc cảm tự ti. Mặc cảm tự ti còn nảy sinh từ sự so sánh. Cha mẹ thường so sánh trẻ với anh, chị nó, và như vậy cũng gây ra một ý thức đối nghịch. Ông cha thường so sánh trẻ với mình: "Tao hồi còn cái tuổi mày...". Phụ huynh thường so sánh con em với bạn bè nó, như: "Xem thằng Ba, nó nhỏ hơn con hai tuổi mà nó khôn lanh, giỏi giắn", v.v. Sự so sánh thường nguy hiểm. Nhiều người đã lên tiếng chỉ trích lối giáo dục ghi điểm số, phân hạng thứ vì nó kích thích những trẻ giỏi và làm tê liệt những trẻ kém, gây ra nơi chúng một mặc cảm tự ti, đẩy chúng đi sâu vào đường mòn thất bại. Trẻ cần được vui sướng trong môi trường sinh hoạt của nó.- Dầu cho 3 nhu cầu chính yếu của trẻ có được thỏa mãn đi nữa, trẻ không thể tìm đến sự quân bình tình cảm mà không gặp va chạm. Trẻ phải sống chung, nép mình trong khuôn khổ quy luật, hạn chế ý muốn của nó trước ý muốn của kẻ khác. Sống chung như vậy, trẻ không tránh được những sự đụng chạm. Từ tuổi ấu thơ cho đến tuổi trưởng thành, trên con đường tiến hóa, trẻ gặp nhiều xung đột phải cố vượt qua. Trong cuộc sống hàng ngày, thỉnh thoảng trẻ làm hỏng việc, điều đó là sự thường. Đôi khi trẻ tranh luận, cãi vã với anh em thì đây cũng là sự tự nhiên. Và nếu trẻ có bị thầy giáo quở phạt vì đã không làm xong công việc giao phó thì cũng không có gì đáng khinh, đáng phiền. Nhờ những sự việc này mà trẻ tự đào luyện để ngày mai có đủ tư cách vào đời. Những rối ren nhỏ nhặt xảy ra hàng ngày rồi trẻ quên đi. Nhưng có lúc trẻ không vượt qua được sự xung đột quá mạnh có thể gây ra sự rối loạn trong tâm não. Vậy cần phải giúp trẻ thanh toán những xung đột, vì xung đột, va chạm, mâu thuẫn là nguồn gốc của mặc cảm. Xung đột sinh ra, phát triển và tự hủy một cách bình thường. Có rối loạn cá tính là khi nào xung đột không được thanh toán

102

Page 107: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

một cách bình thường.

Mặc cảm tội lỗi Khi lương tâm phát triển, trẻ cảm thấy phải sống hòa hợp với hoàn cảnh của nó. Ban sơ trẻ muốn bắt chước người lớn, nhất là ông cha mà trẻ xem như một người hùng. Dần dần trẻ phân biệt được phải, trái, tốt, xấu, hay, dở... Nó biết nó phải làm gì. Nó nhận mệnh lệnh, nếu không tuân theo thì bị trừng phạt. Sau hết, trẻ biết sự dối trá dưới mọi hình thức, nó khám phá ra một thế giới bí ẩn không ai nói tới, thế giới bí mật có liên hệ đến những vấn đề trai, gái, dục tình mà bạn bè của nó thường lén lút trò chuyện với nhau. Từ tuổi ấu thơ, trẻ đả biết có những nhiệm vụ, những ràng buộc, đồng thời nó cũng cảm thấy manh nha cái khuynh hướng chống đối những sự ràng buộc ấy. Ý muốn của trẻ có lúc không hợp với điều nó phải làm. Nó ý thức điều đó, nên nó cảm thấy nó phạm lỗi. Sự trừng phạt là một trong những nguyên nhân gây ra mặc cảm tội lỗi. sự trừng phạt đôi khi cũng cần thiết, trong phạm vi học đường cũng như trong khung cảnh gia đình. Nhưng nghiêm khắc trừng phạt những lỗi lầm nhỏ không thể không tái phạm chắc chắn sẽ gây ra cho trẻ một mặc cảm tội lỗi. Chứng kiến những sự cấm kỵ cũng có thể gây ra mặc cảm tội lỗi. Như để trẻ thấy được sự giao cấu của cha mẹ là điều tối kỵ. Dầu trẻ không hiểu, nó vẫn cảm thấy có cái gì xảy ra trong bóng tối nó không được biết. Có những cảm giác bí mật, cấm kỵ, sợ sệt, trừng phạt lẫn lộn gây ra mặc cảm tội lỗi, đôi khi đưa đến chứng thần kinh thác loạn.

Mặc cảm OEdipe

Mặc cảm OEdipe20 là một mặc cảm thường xuất hiện nơi trẻ con. Mặc cảm OEdipe là tình yêu chuyên nhất của một em bé chỉ yêu cha hoặc chỉ yêu mẹ và muốn loại trừ một người, hoặc cha hoặc mẹ vốn xem như làm rối loạn đời sống tình cảm của nó. Lấy trường hợp Hiền làm ví dụ. Cha Hiền quan niệm đường lối giáo dục con trai phải khắc khổ, và muốn đào luyện con thành người mạnh dạn, can trường. Mẹ Hiền cưng con, bênh con, cho chồng là nghiêm khắc, độc tài. Hiền hành động theo bản năng, trách cha và tìm sự che chở nơi mẹ. đó là một cách làm cho vợ chồng chống đối nhau, thắt chặt tình mẫu tử giữa hai mẹ con Hiền, và tình phụ tử vì đó mà phần nào lạnh nhạt. Ông cha thấy vậy, bất bình, quy tội cho hai mẹ con và như thế càng làm cho tình cảm giữa mẹ và con thêm đậm đà hơn nữa. Cha Hiền thấy vợ quá nghiêng về con, sinh ra ganh tị và cũng gợi tính ganh tị nơi Hiền. Hiền muốn giữ mẹ cho một mình nó, nuôi ý định lớn lên sẽ che chở cho mẹ chống lại ông cha hung dữ. Gia đình Hậu lại khác hẳn. Cha Hậu đối với con trai rất nhu nhược, cưng con, nuông chiều con quá đáng. Để mua chuộc tình yêu của Hậu, cha Hậu che chở nó mỗi khi bà mẹ, vốn bản tính

20 Theo thần thoại Hy Lạp, OEdipe là con vua Laios và hoàng hậu Jocaste. Vua Laios, trị vì thành Thèbes, được một nhà tiên tri cho biết ông sẽ bị con hạ sát nên lúc OEdipe chào đời, vua sai người đem con bỏ trên núi. Được bọn chăn chiên cứu sống và được vua thành Corinthe nuôi dưỡng, OEdipe khôn lớn, nhờ một nhà tiên tri đoán hậu vận. Nhà tiên tri bảo chàng không nên về nước, số của chàng là giết cha và lấy mẹ. Chỉ biết Corinthe là quê hương duy nhất, chàng bỏ xứ ra đi. Trên đường phiêu bạt, chàng gặp vua Laios, không biết đó là cha, chàng giết cha trong một vụ gây gổ. Bấy giờ có con quái vật Sphinx phá hoại chung quanh thành Thèbes, vua Créon kế vị vua Laios hứa ai giết được con quái vật Sphinx ông sẽ nhường ngôi báu và gã Jocaste cho. OEdipe hạ được con quái vật, lên làm vua, kết hôn với Jocaste mà chàng không biết đó là mẹ. Sau có nhà tiên tri nói lên sự thật, Jocaste tự vận còn OEdipe đau khổ, tự móc hai mắt, bỏ xứ đi mất.

103

Page 108: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

cứng cỏi, muốn chứng tỏ tinh thần trách nhiệm chính đáng của mình. Mẹ đâm ra ganh tị, oán con và trút hết giận hờn đối với chồng lên đầu Hậu. Như vậy chỉ thắt chặt sợi dây liên hệ gắn bó giữa cha và con. Đây củng là mặc cảm OEdipe, nhưng là mặc cảm đảo ngược, nói theo danh từ tâm lý học. Mặc cảm OEdipe cũng thấy xuất hiện nơi con gái. Có những ông cha có khuynh hướng để cho con hoàn toàn tự do, không muốn áp dụng lối giáo dục nghiêm khắc với con gái vốn mảnh khảnh và duyên dáng. Mặc cảm OEdipe sinh ra nơi con bé, bé gái muốn giành ông cha về phần mình. Nay thử tưởng tượng ngược lại, một ông cha có thành kiến trọng nam khinh nữ, không hay nâng niu con gái, cô bé tự nhiên tìm đến mẹ, quấn quít mẹ, mong tìm sự âu yếm nuông chiều. Cô bé sinh ra lạt lẽo với cha và muốn giành lấy tình yêu của mẹ. Cũng là một mặc cảm OEdipe đảo ngược. Ngoài ra, mặc cảm OEdipe còn nảy sinh từ những hoàn cảnh đặc biệt của một gia đình. Một bà mẹ sống với đứa con nhỏ, trai hoặc gái, ông cha đi làm ăn xa nhà, bị tù hay chết. Hai mẹ con sống êm thắm trong một thế giới riêng biệt, mẹ dồn hết tình thường cho đứa con độc nhất, con chỉ biết có mẹ là nguồn sống trên đời. Đột nhiên ông cha hồi hương hay được trả tự do, trở về sau những năm dài cách biệt, hoặc bà mẹ tái giá. Và đây có một kẻ lạ đến cướp đoạt tình thương của trẻ. Trẻ phải thỏa hiệp, miễn cưỡng chia xẻ tình thương với người lạ và đời sống bé bỏng của nó ít nhiều cũng bị rối ren, xáo trộn. Mặc cảm OEdipe biểu lộ ở thái độ khiêu khích, thù hằn, ghen tị của trẻ đối với người lạ. Có lúc sự khiêu khích hướng về bà mẹ vì bà mẹ đã chấp nhận sự chia rẽ, và từ đó trẻ giữ một thái độ đối nghịch với mọi người. Mặc cảm OEdipe tự thanh toán một cách bình thường khi đứa trẻ chấp nhận vai trò thiên nhiên của nó, tìm cách cảm thông, hòa hợp với người thân đồng phái. Không có thái độ thù hằn, bé trai tìm cách bắt chước người đối nghịch là cha, bé gái bắt chước người đối nghịch là mẹ. Đây là một sự tiến bộ cần thiết, một sự tiến bộ không khỏi gặp phải khó khăn. Nhưng cha mẹ đồng lòng thì mọi việc được thuận lợi. Như bà mẹ nên tỏ lòng âu yếm bé trai nếu nó giúp ba nó cưa cây, cuốc vườn... Ông cha khuyến khích bé gái phụ giúp má nó và nhiệt tình khen ngợi nói khi nó thay thế mẹ sắp đặt ngăn nắp đồ đạc trong nhà... Điều cần là ông cha, bà mẹ biết nêu gương mẫu và tỏ tình yêu thương tùy theo sự tiến bộ trẻ đã thực hiện được trong vai trò thiếu nhi, thiếu nữ của nó. Sự hiện diện của anh em, chị em tạo ra nhiều xung đột mới.- Tình hình trở nên phức tạp khi trẻ có nhiều anh chị em. Đành rằng sống giữa đám con bầy, trẻ phát huy được tình thương, tinh thần tập thể, nhưng đồng thời gây ra cho trẻ những mâu thuẫn, va chạm, như khi một em bé sơ sinh được anh cả, chị cả thay thế cha mẹ chăm sóc, chăm nom thì đối với anh, chị đôi khi nó cũng có những mặc cảm như vừa nói ở trên.

Con một

Con một được cha mẹ nâng niu, chiều chuộng hơn trẻ khác vì cha mẹ sống với tâm trạng phập phồng, lo sợ con mình có thể chết đi vì bệnh tật, tai nạn. Ý kiến, nguyện vọng của trẻ không gặp đối thủ. Nó tưởng mình là trung tâm điểm của vũ trụ, tức là vũ trụ gia đình. Tự xét có quyền gây ra lo âu cho cha mẹ, nó thường lạm dụng quyền hạn ấy. Trẻ có khuynh hướng ngự trị, có thái độ độc tài, có giọng điệu chỉ huy. Sống trong hoàn cảnh này, trẻ thấy thích thú, tự mãn, tự tôn, vì chỉ cần bày tỏ ý muốn là nguyện vọng được thực hiện ngay. Nếu lớn lên mà trẻ không gội rửa được tâm lý này thì nó không có năng lực tinh thần đương đầu với những khó

104

Page 109: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

khăn, thử thách trên đường đời.

Trẻ đồng phái Những bé trai không có chị, em gái và những bé gái không có anh, em trai, lớn lên [có thể] không liên lạc, cảm thông thực sự với những trẻ khác phái. Quen nô đùa với nhau, chúng hợp thành một thế giới trẻ con, đối với những gì thuộc về trẻ khác phái, chúng không biết rõ hoặc có một quan niệm lầm lạc. Đến tuổi trưởng thành, thanh niên, thanh nữ có ý niệm sai lạc về sự tiếp xúc giữa trai và gái. Chúng mất tự nhiên, thiếu tự tin trong giao tiếp với bạn khác phái. Chúng ẩn mình trong một thế giới hạn chế, đầy sợ sệt đối với những cái bí mật, xa lạ. Trái lại, trong một gia đình có con trai, con gái, sự tiến hóa về tâm tình được bình thường hơn. Bé gái có anh hoặc em trai, biết những trò chơi khác, thái độ, cử chỉ khác, sớm làm quen với bạn của anh hay của em trai, sẽ có một hình ảnh thực tế, tự nhiên về sự dị biệt giữa trai và gái, sau này tiếp xúc với bạn trai nó sẽ tự nhiên, dạn dĩ hơn. Về phần bé trai cũng thế, nếu trẻ đã sống chung với chị, em gái từ ngày thơ ấu thì sau này tiếp xúc với bạn gái nó sẽ thân mật, tự nhiên, thành thực hơn, không còn ẩn ý, không có ngụy trang.

Sự ghen tị giữa anh, chị em, hay mặc cảm Cain21

Có những người không hiểu hậu quả tâm lý của một lời nói thường hỏi chơi một em bé: "Ba và má, em yêu ai hơn?" Có lúc cha mẹ so sánh một đứa con với anh, chị nó có thiên tư hơn, tưởng làm như vậy là khích lệ trẻ. Nào ngờ so sánh như thế là gợi ra nơi trẻ một ý niệm đã có mầm mồng sẵn trong tâm não: tính ghen tị. Mầm ghen tị đâm rễ mọc chồi và thành ra mặc cảm, nhà tâm lý học gọi là mặc cảm Cain. Đứa con đầu lòng, trong một thời gian là con một, làm trung tâm điểm của vụ trụ gia đình. Khi em gái hoặc em trai đứa bé chào đời, nó không còn được xem là ông hoàng, bà chúa nữa. Nếu bé là con một trong một thời gian khá lâu, bé sẽ xem đứa em mới sinh như kẻ cướp đoạt tình thương của cha mẹ và sinh ra ghen tị. Hoặc nó tỏ vẻ thù hằn thẳng với em bé sơ sinh, không đánh, không cắn em thì cũng tìm cách giấu bình sữa, giành chiếc nôi. Hoặc mặc cảm biểu lộ một cách gián tiếp bằng thái độ nũng nịu, bắt chước cử chỉ của đứa em mới sinh, mục đích là làm cho cha mẹ chú ý đến nó. Còn thấy những thái độ phức tạp hơn, thỉnh thoảng trẻ chuyển sang thù hằn đối với em sang cha mẹ, nó tỏ ra chống đối, khiêu khích. Có lúc mặc cảm được đền bù, trẻ quay lại chăm sóc em nó với những cử chỉ âu yếm, dịu dàng của bà mẹ đối với con. Ngoài ra, còn có những cơ hội tạo nên mặc cảm Cain là sự so sánh giữa anh em, chị em trong phạm vi gia đình hoặc trước mặt khách lạ. Một đứa em có thể mập mạp, khôi ngô, thiên tư hơn anh và nếu cha mẹ hoặc bà con thường so sánh với anh nó thì vô tình đã làm cho đứa anh đau xót bực tức. Ngược lại, không có gì làm cho một đứa em buồn tủi, oán hận bằng thường nghe cha mẹ la mắng: "Anh mày lúc còn tuổi mày đã làm được việc này, việc khác". Bao nhiêu lời khen ngợi, bao nhiêu dấu hiệu chiều chuộng, trọng vọng riêng đối với một đứa trẻ trước đám đông, trước khách lạ sẽ gây ra nơi đứa khác một mặc cảm tư ti, chua xót, một mặc cảm ghen tị thấp hèn. Trẻ tìm cách đọ sức với anh em, chị em, do đó thường thấy chúng cãi cọ, gây gổ nhau vì một lý do vu vơ, không ngoài mục đích chiếm phần thắng về mình.

21 Cain, con trai đầu lòng của ông Adam và bà Eve, vì ghen tị mà giết em ruột là Abel.

105

Page 110: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Không được quên vai trò của người chung sống với gia đình Nói về ảnh hưởng của những người sống chung với gia đình, ta thường nghĩ đến ông bà nội, ông bà ngoại. Một trẻ ở với cha mẹ thì rất ngoan ngoãn, nhưng khi có ông bà thì hỗn hào, bướng bỉnh, vì trẻ biết ông bà lúc nào cũng thương cháu, chiều cháu; cũng có thể vì sự hiện diện của ông bà làm cho mối liên lạc giữa cha và mẹ, giữa cha mẹ và con cái phần nào thay đổi. Nhưng ít ai nhớ đến vai trò không kém quan trọng của những chị vú bồng ẵm bé, cho bé bú, đút cơm bé, tắm rửa bé, dắt bé đi chơi, ru bé ngủ, kể chuyện cổ tích cho bé nghe, dẫn bé vào một thế giới huyền ảo có những nàng tiên sinh đẹp, những thú vật dị kỳ, những hoa thơm, cây lạ.

Câu chuyện của bé

Bên cạnh hoàn cảnh thiên nhiên và khung cảnh gia đình còn có những biến cố xảy ra ảnh hưởng đến cuộc sống, cá tính, nhân cách của trẻ. Tuổi thơ cũng đã có một câu chuyện riêng.

Những biến cố quan hệ đến sức khỏe

Tai nạn, bệnh hoạn, tật nguyền có ảnh hưởng đến cá tính đang hình thành của trẻ. Bình, một chú bé 10 tuổi, té xe đạp, gãy xương chân nơi mắt cá. Được giải phẫu, vết thương lành nhưng khớp xương sai vẹo. Bình phải đi khấp khểnh, chân trái yếu đi. Vậy mà Bình vốn là trẻ dị nộ, thích hoạt động, đi đây đi đó. Tật ở chân ảnh hưởng đến tương lai nói không ít. Trí, một trẻ đa cảm, cởi mở, có xã giao tính, đến tuổi mười ba thì bị bệnh tê liệt. Trí được đưa đi chữa bệnh ở ngoại quốc, xa cách gia đình một thời gian. Mười sáu tuổi nó trở về, bệnh tình thuyên giảm nhưng vẫn còn mang tật, cá tính thay đổi, đứa bé vui vẻ ngày nào đã hóa ra chàng trai nghiêm nghị, lo âu, hình như định mệnh trả đũa nó về thái độ bình thản, vô tư lự của một thời ấu thơ.

Những biến cố trong cuộc sống gia đình

Cuộc sống gia đình nếu được bình thản như nước xuôi giòng thì chẳng nói. Tuổi thơ cũng sớm va chạm những sự trắc trở, cũng không tránh được những chuyện đau lòng. Một ngày nào đó, trẻ đau khổ biết được má nó là mẹ nuôi hoặc ba nó chỉ là ông dượng ghẻ. Tình cờ trẻ khám phá được những chuyện bí mật của cha mẹ, những chuyện làm cho nó bàng hoàng, kinh dị. Bất hạnh hơn nữa là trẻ thấy uy tín của cha mẹ bị sụp đổ nhân một vụ tai tiếng làm cho dư luận xôn xao, xóm giềng dị nghị. Những khủng hoảng, tai biến như thế đã ghi lại bao dấu vết đau buồn trong đời sống tinh thần, tình cảm của trẻ.

Trẻ không thoát khỏi ảnh hưởng của những biến cố lịch sử

Những xáo trộn chính trị, những cải cách xã hội không làm cho trẻ dao động vì tuổi thơ ngay chưa có ý thức chính trị, nhưng cảnh chiến tranh với hình ảnh khói lửa ngập trời, bom đạn nổ đập mạnh vào trí óc non nớt của trẻ. Trẻ phải rời mái ấm, bỏ quê hương, màn trời chiếu đất, lang thang phiêu bạt, chen chúc trong những trại tạm cư. Rồi cảnh bom đạn tơi bời, cảnh chém giết dã man, cảnh nhà cửa sụp đổ, đồng ruộng hoang tàn, không khí điêu linh, tang tóc bao trùm quê hương, những "cú sốc tâm

106

Page 111: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

lý" dồn dập đưa tới, lay động tận gốc rễ những ý niệm về công lý, vị tha, lạc quan yêu đời chớm nở trong tâm não của trẻ. Rồi vật giá leo thang, chợ đen, buôn lậu, rồi tham nhũng, hối lộ, thất nghiệp, đói khát, trộm cướp, lường gạt, ngột ngạt trong bầu không khí hoang mang xao xuyến chung, cá tính của trẻ như một mầm non thiếu không khí, ánh sáng trong lành, khó vươn lên tươi tốt.

107

Page 112: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

CHƯƠNG 3. KHÁM PHÁ MẶC CẢM CỦA TRẺ Mặc cảm làm đảo lộn quân bình tâm lý của trẻ. Trẻ có mặc cảm thì từ thái độ, cử chỉ đến tư tưởng, hành động đều không được bình thường. Có mặc cảm như mặc cảm tự ti làm cho ý chí của người tê liệt, khả năng kém hèn. Giống như một võ sĩ tay chân bị trói và đẩy vào đấu trường tất nhiên bị thua cuộc, một người bước vào xã hội với một mặc cảm tự ti, nghĩa là một tâm trạng hoài nghi, sợ sệt, thì chắc chắn sẽ thất bại trong cuộc cạnh tranh sinh tồn. Tuy nhiên, mặc cảm không phải là tai họa tất nhiên đang rình rập tất cả trẻ con trên con đường tiến hóa. Trẻ lành mạnh và bình thường không có mặc cảm, và dầu có mặc cảm cũng chế ngự được. Mặc cảm chỉ gây rối loạn trong tâm trí của những trẻ có cha mẹ thần kinh dễ kích thích, trẻ thừa hưởng một di truyền thần kinh nặng nề thì tự nhiên tinh thần của nó dễ suy yếu. Trong nhiều trường hợp, trẻ phản ứng mặc cảm một cách ý thức, tùy theo trí lực của trẻ, mặc cảm hoặc tự thanh toán hoặc tiến tới tình trạng đền bù, tình trạng thăng hoa. Theo những quan niệm mới về tâm lý học, mặc cảm không được xem như bệnh tâm lý của cá nhân mà là bệnh thuộc sự liên hệ, sự tiếp xúc giữa trẻ và môi trường sinh hoạt của nó. Có thể quyết đoán phần nhiều những mặc cảm không phải bệnh riêng của trẻ mà chính là những căn bệnh của gia đình. Quan niệm này làm cho vấn đề rắc rối thêm vì phải điều trị gia đình thay vì chỉ lo chữa trị một mình con trẻ; mặt khác, quan niệm này cũng đánh thức sự lưu tâm của cha mẹ, là cha mẹ có thể thay đổi không khí tâm lý gia đình, làm cho mặc cảm biến hóa bình thường mà không gây ra một sự rối loạn nào trong cá tính của trẻ. Những ai có khuynh hướng la mắng con sao có mặc cảm này, mặc cảm nọ thì người đó nên tự bảo chính mình có trách nhiệm lớn lao trong đời sống tình cảm của con cái.

Những dấu hiệu báo động

Trong những trường hợp trầm trọng có nhiều dấu hiệu báo động làm cho người có óc quan sát phải chú ý: những giây phút hoảng sợ, những cơn động kinh liên tiếp, tâm trạng dao động, bàng hoàng, ban đêm sợ sệt, giật mình, đái dầm, v.v. Trong những trường hợp thông thường mà có ba triệu chứng nếu cùng xuất hiện một lần thì cha mẹ phải nghĩ tất nhiên đã có một sự rối loạn nào đó trong cá tính của trẻ. 1. Phản ứng quá đáng Nếu trong đời sống hàng ngày, thỉnh thoảng trẻ khóc, cười, giễu cợt thì không có gì tự nhiên hơn. Nhưng nếu lúc nào nó cũng khóc, gặp việc gì cũng khóc, nếu nó giễu cợt luôn, gặp việc không đáng cười cũng cười, với giọng cười khác thường, thì cha mẹ nên tự hỏi phải chăng đây là dấu hiệu rối loạn tâm lý. Một đứa trẻ đã lớn mà còn đái dầm một vài lần, thỉnh thoảng ngủ mơ, nói sảng trong cơn ác mộng thì điều này vẫn là chuyện thường, nhưng đêm nào cũng đái dầm, đêm nào cũng nói sảng thì hiện tượng đó là điều đáng ngại, phải tìm cho ra nguyên do. 2. Trường hợp nào trẻ cũng giữ một thái độ duy nhất Bình thường thì cách cư xử của một trẻ thay đổi tùy theo cảnh ngộ, tình thế, đối tượng mỗi lúc mỗi khác. Nhưng khi trẻ chịu ảnh hưởng của một mặc cảm, lúc nào nó cũng giữ một thái độ duy nhất. Đây không phải là vấn đề bản tính, trí lực là những yếu tố bẩm sinh của trẻ. Đây là những tình cảm của trẻ đối với người khác, với cha mẹ, thân thuộc, là ý kiến, thị hiếu riêng của

108

Page 113: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

trẻ. Nếu trẻ ngẫu nhiên khiêu khích, như vậy rất là tự nhiên. Do tình thế thúc đẩy hoặc trong người nó có một ít máu khiêu khích. Nhưng nếu gặp ai nó cũng khiêu khích, bạn bè, anh em đến cha mẹ, thầy giáo nó cũng không từ, và bất cứ lúc nào cũng tỏ ra chống báng thì ở đây cha mẹ nên tìm cho ra sự giải thích. Nếu một đứa trẻ nói: "Rõ ràng anh nói tôi có lỗi", nó chỉ diễn tả sự bất bình của nó vì bị la rầy hoặc bị phản đối. Nhưng nếu trong mọi trường hợp phán đoán, ý kiến đó trở đi trở lại mãi thì chúng ta đang đứng trước một ý kiến cố chấp, báo hiệu có một tình cảm độc nhất, mãnh liệt chi phối hoàn toàn giòng tư tưởng và lối sinh hoạt của trẻ. Một em bé ăn cắp một chiếc bánh ngọt, một quả chuối trong tủ đựng đồ ăn, thỉnh thoảng đọc những truyện bằng tranh ảnh, đó là thường tình chẳng có gì lạ. Nhưng nếu trẻ có thói quen nhìn trộm, nghe lén trước cửa phòng, và trẻ thích đọc truyện tranh ảnh ngày này qua ngày khác mà không biết chán thì đây quả là một hiện tượng bất thường, rất đáng lưu tâm. Nên tìm cho ra những nguyên nhân xác thực. Một lối cư xử bất thường là dấu hiệu của một ý tưởng ám ảnh trong tâm não cần phải khám phá: mặc cảm không thỏa mãn (ăn cắp), mặc cảm tình dục (nghe lén, nhìn trộm), nhu cầu thoát ly (đọc truyện suốt ngày). Người ta không giải thích được gì nếu muốn cho khỏe, xem đó chỉ là thói quen ăn cắp, tính tò mò, sự ham mê đọc truyện. 3. Lối hành động của trẻ không phù hợp với tính tình của nó Trường hợp Minh, một em học sinh 13 tuổi. Minh học kém, trình độ thông minh trung bình, nhưng nó không thiết tha gì đến học tập. Cha mẹ Minh sắp Minh vào loại trẻ không hoạt động tính và xem nó là một trẻ đa cảm. Nhưng tất cả dấu hiệu ở minh đều trái với phân loại nói trên. Minh không có đôi mắt mơ màng và khuôn mặt dài như trẻ đa cảm, nó là một trẻ thân hình vạm vỡ, bàn tay gân guốc, mặt vuông với đôi mắt cương quyết, cứng cỏi. Chữ viết của nó chận mạnh xuống giấy làm cho giấy rách, đây là chữ của trẻ hoạt động. Suy nghĩ về sự mâu thuẫn là lạ đó, cha mẹ Minh mới nhớ rằng trước đây Minh không phải là đứa bé lười. Mấy năm học đầu, Minh siêng năng, chăm chỉ, đi học rất đều, làm bài nhanh, không ai nhắc nhở. Cha mẹ Minh phàn nàn: "Con mình thay đổi tính nết". Không đúng hẳn. Thực ra Minh là trẻ đa cảm. Có một sự va chạm nào đã tạo ra nơi Minh một thái độ bất thường. Tìm hiểu nguyên do vụ va chạm đó, cha mẹ biết con đã gặp một ông giáo nó không yêu kính, nó nổi lên chống đối, trước ra mặt, sau ngấm ngầm, và sự chống đối ấy đã gây nên một sự rối loạn tâm lý có ảnh hưởng tai hại đến sự học vấn của trẻ.

Phải làm gì đây?

Như chúng ta đã thấy, mặc cảm không thuộc về khoa thần kinh tâm lý trị liệu và khoa phân tâm học, đây là bệnh của gia đình hoặc của cá nhân con trẻ. Cha mẹ nên nhận lấy trách nhiệm thực hiện sự cải thiện đường lối tiếp xúc, cảm thông giữa mọi người trong gia đình, như vậy cha mẹ sẽ trực tiếp góp công vào việc điều trị những rối loạn tâm lý và giúp cho cá tính của trẻ được phát triển điều hòa. Đây trường hợp Quang. Quang là một trẻ 12 tuổi, thuộc mẫu trẻ đa cảm, có 3 em, thương số thông minh trung bình (95). Ở trường nó học kém, mặc dù nó có khả năng. Trước người lạ, nó rụt rè, sợ sệt, nhưng ở nhà, nó có thái độ khiêu khích với cha mẹ và ba em.

109

Page 114: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Cha mẹ Quang cần phải làm gì bây giờ? 1. Trước hết họ tìm hiểu tình ý kín đáo, sâu xa của Quang. Đằng sau thái độ khiêu khích thường của Quang phải có một cái gì bí ẩn, có thể một tâm trạng bất bình mà Quang cố đè nén? 2. Cha mẹ Quang thử nhớ lại trong cuộc của Quang giữa khung cảnh gia định việc gì đã xẩy ra gây nên mối bất mãn đó? Một sự trùng hợp đáng ghi nhận. Thái độ khiêu khích của Quang đã bộc phát từ ba năm nay. Ba năm về trước, Quang về nghỉ hè ở quê ngoại trong lúc ở nhà đứa em thứ hai của nó chào đời. Trở về, nó thấy đứa bé sơ sinh nằm chễm chệ trong nôi, được mọi người săn sóc, âu yếm, ý thức ghen tị vừa manh nha trong đầu óc của đứa trẻ đa nghi. 3. Cha mẹ Quang lại tự hỏi trong quá khứ họ đã hành động thế nào, họ đã đối xử với Quang làm sao khiến cho ý thức ghen tị phát triển thành mặc cảm? Họ nhận ra rằng suốt ngày hai vợ chồng đều bận rộn công việc làm ăn, tối đến họ có vừa đủ thì giờ chăm sóc con bé sơ sinh và hai đứa nhỏ, họ không có thì giờ hỏi han sức khỏe, việc học hành của đứa lớn, tưởng nó có thể xoay xở một mình. Không ngờ nơi đứa trẻ đa cảm ý thức ghen tị chưa được giải trừ thì một mối bất mãn khác sinh ra, bất mãn không được âu yếm, bất mãn thiếu thốn tình thương, tâm trạng nghi kỵ là bị bỏ rơi. Và mặc cảm bị bỏ rơi biểu lộ qua những cử chỉ khiêu khích, thái độ hằn học của Quang, đây cũng là nguyên nhân gây ra sự sa sút học vấn của đứa trẻ đa cảm. 4. Cha mẹ Quang không tìm cách chỉ cho Quang biết rằng việc nó tin là bị bỏ rơi là lầm, vì họ biết Quang sẽ chống lại bất cứ luận điệu nào. 5. Nhưng cha mẹ Quang thay đổi thái độ, đối xử với con cởi mở hơn, để con tham gia mật thiết vào cuộc sống gia đình. Họ hỏi ý kiến Quang về nhiều vấn đề nhỏ nhặt trong phạm vi gia đình, nhất là những vấn đề liên quan đến ba em nó. 6. Mỗi khi đi dạo hoặc thăm viếng ở đâu, hễ có dẫn theo mấy đứa bé thì họ không quên cho Quang cùng đi. Nếu thấy cần, họ dẫn một mình Quang về quê nghỉ hè một thời gian. 7. Cha mẹ Quang cũng tìm cách làm cho những phản ứng đền bù của Quang được thuận lợi. Làm sao cho Quang cảm thấy được vui sướng trong công việc nó đảm đương một mình. Có thể họ tổ chức cho Quang một "xưởng nhỏ" để làm và sửa chữa những đồ đạc lặt vặt trong nhà, nơi Quang được tự do làm việc riêng rẽ, thoải mái.

Gặp những trường hợp khó khăn, nên tìm đến nhà chuyên môn.

Nếu bạn không phăng được nguồn gốc của một mặc cảm, nếu mặc cảm đã thành một ám ảnh trầm trọng, việc thanh toán triệt để [mặc cảm đó] đòi hỏi công khó và thời gian, nếu bạn không có đủ phương tiện giải trừ mặc cảm, bạn nên tìm đến nhà chuyên môn, hợp tác với nhà chuyên môn hoạch định một phuơng pháp trị liệu. Con bạn bị bệnh ruột dư, mang tật nơi chân, bạn đưa nó đi giải phẫu để cho thân thể trẻ được tráng kiện, cân đối. Tại sao bạn không dẫn trẻ đến một nhà chuyên môn để giải trừ những tình cảm bệnh hoạn có ảnh hưởng tai hại đến sự phát triển điều hòa cá tính, nhân cách của nó?

110

Page 115: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

PHẦN THỨ NĂM. VẤN ĐỀ HƯỚNG NGHIỆP

CON BẠN SẼ CHỌN NGHỀ GÌ? Giúp trẻ chọn một nghề khác hẳn cung cấp cho trẻ những phương tiện kiếm ăn. Một người hàng tháng lãnh một số lương đủ nuôi sống vẫn chưa tạo được hạnh phúc. [Dù] suốt đời có thu vào một số lợi tức khả quan, một người [vẫn] có thể có cảm tưởng đã "làm hỏng" cuộc đời [mình]. Con bạn không sung sướng nếu trong thâm tâm nó có cảm tưởng [nó] là một người thất bại. Đối với trẻ, đây là một thiệt hại không phương cứu chữa. Người con gái, nếu thất bại trên đường nghề nghiệp có thể gửi hy vọng, sinh kế, hạnh phúc, ước nguyện thành công vào đời sống làm vợ, làm mẹ sau này. Nhưng đối với con trai, đường hướng tương lai có khác. Con trai cần phải tìm được, toại nguyện và thành công trong nghề nghiệp. Chính trong đời sống nghề nghiệp, một người phát triển được năng khiếu, tận dụng được khả năng, thỏa mãn được thị hiếu của mình. Và có phát triển năng khiếu, tận dụng được khả năng – nghĩa là thực hiện được cá tính, nhân cách – người đó mới tìm được hạnh phúc chân chính. Sự thất bại trong cuộc sống nghề nghiệp sẽ gây ra những hậu quả tâm lý tai hại. Người thất bại (hoặc người cảm thấy mình thất bại) không còn tha thiết đến tương lai, dần dần mất lòng tự tin, đâm ra bi quan, chán nản. Anh ta làm việc không thích thú, chẳng khác một cái máy. Ngược lại, sự thành công trong việc chọn nghề thích hợp với năng khiếu, sở thích, đem lại cho người đó niềm vui, sự mãn nguyện, lòng tự tin, quyết tâm xây dựng cuộc đời hạnh phúc, vẻ vang. Khi nói đến thành công, điều đó không có nghĩa là tạo nên địa vị xã hội, giàu sang, vinh hiển mà chính là tìm được hạnh phúc, sinh thú ở đời. Một gã tiều phu suốt đời làm việc vất vả trong rừng xanh có thể hoàn toàn sung sướng vì cảm thấy nghề của mình, lối sống của mình hợp với thể chất và khả năng. Anh ta thành công trong nghề nghiệp. Một ông vua cũng được sung sướng – mặc dù nhà thi sĩ nói khác – nếu cái nghề làm vua thích hợp với khả năng và bản tính của ông. Vấn đề là đặt một người cho đúng chỗ. Trách nhiệm của cha mẹ là tìm cho con, hoặc tốt hơn là cùng với con, chọn một nghề thích hợp với cá tính của nó, nhờ đó nó tìm được hạnh phục trong niềm vui toại nguyện.

111

Page 116: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

CHƯƠNG 1. TẠI SAO NGƯỜI TA THƯỜNG LẦM LẪN? Trong việc lựa chọn khó khăn và quan trọng này, bạn có thể lầm lẫn vì bốn lý do, đó là: những ảo tưởng của trẻ, những thành kiến của cha mẹ, sự chống đối của trẻ và những đòi hỏi của cảnh ngộ.

Ảo tưởng của trẻ

Chắc bạn cũng hiểu rõ trong xã hội có hàng ngàn nghề, trẻ làm sao biết hết được. Ý niệm về nghề nghiệp của trẻ còn mơ hồ, đôi khi sai lạc. Ý niệm ấy còn bị hạn chế nhiều. Trẻ không hiểu được dễ dàng những chi tiết của những nghề nó ít trông thấy. Có thể trẻ không thích nghề đó. Không hiếm trường hợp trẻ chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh nghề nghiệp gia đình. Có những trẻ không biết rõ cha mẹ làm gì, nhất là ở thành thị, [với] cha mẹ làm công chức. Tác giả còn nhớ sự ngây thơ của một bé lên năm, con một công chức, bé tưởng sở làm ba nó là một nơi chất đầy bùng binh, ngày ngày ba nó tới đó lấy tiền cho má nó mua gạo và đi chợ. Thỉnh thoảng cha mẹ cũng nên dẫn trẻ đi thăm chỗ làm việc của mình. Như vậy giúp cho trẻ lên sáu, lên bảy bước ra khỏi thế giới huyền ảo của nó và xây dựng vũ trụ mới của nó chung quanh nghề nghiệp, trách vụ xã hội của những người thân yêu. Nhưng vẫn có nhiều trẻ sống trong khung cảnh nghề nghiệp của cha mẹ như trẻ con sống nơi thôn dã, con nhà buôn, con của những người làm nghề tự do, con của những công chức ở ngay trong sở làm (cảnh binh, lính cứu hỏa, công chức cao cấp, quan nhân ở hậu cứ, v.v.) Ở Phần 4, Chương 1, chúng ta đã thấy ảnh hưởng hoàn cảnh đối với tính tình của trẻ, vì tự nhiên trẻ tiêm nhiễm lề lối sinh hoạt, tư tưởng của những người nó chung sống. Theo ảnh hưởng đó, ta có thể tìm ra lí do những ước mong nghề nghiệp của trẻ lên bảy lên tám. Nếu cha làm nghề hàng thịt thì đứa trẻ mơ ước làm nghề bán bánh mì, không thì cũng buôn bán như cha hoặc người hàng xóm. Cũng có lúc trẻ ngỏ ý ưa thích một nghề nào đó vì trong thâm tâm nó yêu chuộng một người làm nghề đó. Một ví dụ điển hình là có một số bé gái khoảng 9, 10 tuổi mơ ước sau này làm nghề nữ giáo viên, vì ở lứa tuổi này chúng yêu kính cô giáo của chúng. Sau hết, nơi trẻ có một sự liên hệ giữa nghề nó mơ ước và trò chơi nó thích. Như một bé trai lên bảy mơ làm nghề lính cứu hỏa. Hỏi tại sao, nó trả lời: “Để chạy hết sức nhanh và hụ còi liên hồi”. Một trẻ 11 tuổi, mơ làm nhà thám tử, giống như nhân vật nó ngưỡng mộ trong tiểu thuyết. Kinh nghiệm cho biết, đối với trẻ khoảng 10, 12 tuổi mà hỏi về việc chọn nghề tương lai thì vô ích, vì ta sẽ lầm lạc.

Thành kiến của cha mẹ

Do không thể hoàn toàn tin cậy ở những mong ước nghề nghiệp của trẻ trước tuổi đó, đôi khi sau nữa, và cũng do trẻ không có một cái nhìn đúng đắn, khách quan về năng khiếu thực của chúng và về vô số nghề nghiệp trong xã hội nên cha mẹ thường có khuynh hướng chọn nghề cho con. Nhưng lắm lúc trong những nguyện vọng nghề nghiệp vô tình có xen vào những yếu tố không mấy hợp lý. Cha mẹ có chiều hướng đánh giá quá cao khả năng, trí lực của con mình và như vậy cũng thỏa mãn được lòng kiêu hãnh của người sinh thành. Họ muốn đẩy con lên trên địa vị xã hội của họ, họ có tham vọng cho con và xét cho kỹ, họ nuôi tham vọng riêng qua đứa con của họ. Điều này

112

Page 117: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

giải thích tại sao cha mẹ rất oán hận con khi trẻ không bước lên được địa vị mà cha mẹ thoáng thấy trong mộng tưởng. Nhiều cha mẹ đâm ra oán giáo sư mà họ sẵn sàng buộc tội là ngu xuẩn, bất lực, cổ hủ, quá độc tài hoặc quá nhu nhược. Khi họ biết được lỗi do nơi con mình, họ bèn quay sang con, mắng nhiếc chúng là ngu đần, vô dụng, chẳng làm nên trò trống gì. Cha mẹ thường mơ thấy con cái thực hiện những nguyện vọng họ không thỏa mãn được lúc bình sinh. Một ông cha hiện là công chức, trước kia từng mơ làm nghề bác sĩ, nay thích cho con theo học y khoa. Ông cha ngày trước không vào được trường hải quân vì mắt kém, giáo dục con với quan niệm trường hải quân là một trường lớn nhất, có uy tín nhất, và ba mẹ từng yêu mến ngưỡng mộ giáo sư sinh ngữ ngày bà còn học ở trường trung học, nay thích cho con trai hoặc con gái học Văn khoa. Đối với họ, mục đích ở đời là sao cho con thực hiện được nguyện vọng bình sinh. Họ tiếc rẻ: “Nếu ngày trước cha mẹ tôi có phương tiện cho tôi theo học trường này, trường kia…thì bây giờ tôi có thế” rồi họ mơ ước: “[Cho] con trai tôi, tôi sẽ hi sinh”. Họ hi vọng con họ được cung cấp đầy đủ, được nâng đỡ, khuyến khích sẽ thực hiện mơ ước thực hiện mơ ước ngày xưa. Qua đứa con, cha mẹ làm lại cuộc đời nghề nghiệp và họ cảm thấy mình đang đóng hai vai trò, vai trò của chàng trai đi tấn công một nghề và vai trò của cha mẹ tận tụy hi sinh cho tương lai của trẻ. Ngoài những nguyên nhân lầm lẫn, còn có cái ý muốn rất phổ thông của cha mẹ là ý muốn duy trì một nề nếp cha truyền con nối, tử thừa phụ nghiệp, cha làm nghề gì thì con làm nghề ấy. Có nhiều gia đình, từ đời cha đến đời con, từ ông đến cháu vẫn làm nghề kỹ sư, bác sĩ, nghị sĩ, đóng giày, làm nông. Nghề gia truyền kết hợp với danh tiếng một họ ăn đứt được điều kiện năng khiếu trong việc chọn nghề. Tập tục, khuynh hướng cha làm nghề gì thì con làm nghề ấy là một lối giải quyết êm xuôi, khỏi phải e sợ ngỡ ngàng trước cái mới lạ, lại còn được noi theo một con đường vạch sẵn. Ông cha đã leo được nhiều cấp bậc trong ngành hành chính, giống như ông chủ đồn điền, giám đốc một xí nghiệp, một hãng buôn, một dược phòng, một phòng mạch, hi vọng [có] một đứa con nối nghiệp cha để thừa hưởng một cơ sở xây dựng sẵn.

Trẻ phản ứng trước những dự định của cha mẹ

Có những trẻ, thường thường là những trẻ dễ thỏa hiệp, sẵn sàng đi theo con đường đã vạch và vui lòng chấp nhận một nghề vừa tầm tay. Những trẻ khác không có thị hiếu rõ ràng cũng không có một bản lĩnh cương quyết, chọn nghề mà cha mẹ ước mơ hay đề nghị, vì chúng, không có lý lẽ gì vững mạnh để đi ngược lại ý nguyện của cha mẹ. Tuy nhiên vẫn có những trẻ không biết rõ chúng sẽ làm gì nhưng biết quả quyết rằng chúng không làm điều cha mẹ mong ước, chúng làm bất cứ nghề gì nhưng không làm nghề của cha mẹ hoặc nghề đã được chọn sẵn. Vì sở thích riêng hoặc vì lập dị, chúng chọn cái nghề bà con ruồng rẫy, cha mẹ xem là tai tiếng, nghề trái ngược hẳn với nghề cha mẹ bắt buộc. Con trai một vị luật sư danh tiếng muốn làm nghề chào hàng, con gái ông thầy thuốc có bề thế thích làm vũ nữ. Ông cha nổi giận, la hét, nguyền rủa, cúp viện trợ [nhưng] không làm sao thay đổi được ý định của con. Cha mẹ cảm thấy bất lực không giữ nổi đứa con trong khuôn khổ gia đình, đứa con chống đối dữ dằn, cố chặt đứt những ràng buộc của phong tục tập quán. Thỉnh thoảng cuộc khủng hoảng bùng nổ dữ dội làm cho gia đình phải nao núng, vì cha mẹ, anh em không thể đứng trung lập mà phải ngã về phe đứa con bướng bỉnh hoặc chống đối nó. Trong tất cả dự định và xung đột nói trên, ai cũng quên chú ý đến những điều đáng kể, đó là tính tình, thương số thông minh và những năng khiếu riêng của trẻ.

113

Page 118: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Cảnh ngộ, cơ hội và tình trạng sức khỏe ảnh hưởng đến quyết định chọn nghề “Tại sao cháu lại học nghề chế tạo đồng hồ?”, chúng tôi hỏi một trẻ đa huyết 15 tuổi vừa ở tỉnh lên để chuẩn bị vào trường chế tạo đồng hồ. Em này nếu học nghề thương mại hoặc nghề khách sạn thì thích hợp hơn nhiều. Nhún vai, vẻ mặt chán nản, chàng trai đáp: “Vì cha mẹ cháu nghèo, cháu lên đây nhờ bà dì nuôi, học nghề kiếm ăn”. Nhà dì cháu ở gần trường đồng hồ nên học trường này cháu khỏi lo vấn đề ăn ở”. Đây là trường hợp một trẻ vì cảnh ngộ bắt buộc phải học một nghề nó không có mảy may năng khiếu. Sự kiện này không hiếm. Vì cảnh ngộ bó buộc, cơ hội đưa đẩy, có những cha mẹ chọn nghề cho con mà không suy tính. Trong vùng có hầm mỏ, mọi người đều làm thợ mỏ, ở vùng duyên hải, cả gia đình, thân thuộc đều chuyên nghề chài lưới. Tình trạng sức khỏe cũng ảnh hưởng đến việc chọn nghề, như tai nạn, tật nguyền khiến cho trẻ không chọn được nghề nó có năng khiếu. Là nhạc sĩ mà mất một cánh tay trong một tai nạn; thích làm tài xế hỏa xa, phi công mà mắt kém; có năng khiếu làm nghề hướng đạo leo núi, tìm mỏ mà rủi bị tật nơi chân... Những chi tiết đó cũng không khác gì điều kiện hạn tuổi trong thời kỳ thi. Thực ra, vẫn có những trường hợp tật nguyền cũng thi thố được thiên tài. Alain Gerbault vì mắt kém, không vào được trường hải quân, về sau thành một nhà hàng hải lỗi lạc, với chiếc thuyền buồm ông vượt Đại Tây Dương và chu du thế giới. Có những họa sĩ cụt hai tay, vẽ với miệng và chân, có những người mù làm nghề tốc ký, đánh máy… Nhưng đây chỉ là những “ca” đặc biệt, hạn hữu.

114

Page 119: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

CHƯƠNG 2. MỘT SỰ LỰA CHỌN HỢP LÝ Đã nhận định đâu là ảo tưởng, là thành kiến, bây giờ chúng ta thử tìm một phương pháp hợp lý, nhằm mục đích khai thác những khả năng chân chính của trẻ để ngày mai lớn lên, nó tìm được thích thú, hạnh phúc và thành công trong nghề. Trên con đường hướng nghệ, trước hết chúng ta gặp cái “thiên tư”, năng khiếu bẩm sinh như một tiếng gọi khẩn thiết, bất khả kháng, rồi đi tới những trường hợp thông thường, đòi hỏi một phương pháp khám phá năng khiếu của trẻ.

Con bạn có thể có một thiên tư đặc biệt

Sự kiện có thiên tư có thể giải quyết được vấn đề hướng nghiệp mà cũng có thể làm cho vấn đề rắc rối thêm. Giải quyết được vấn đề là vì thiên tư tự nó mang sẵn một khuynh hướng chọn nghề, một khả năng hoạt động nghề nghiệp; làm cho vấn đề rắc rối thêm, bởi vì thiên tư không phải lúc nào cũng dễ sử dụng, không phải lúc nào cũng dẫn trẻ đi tới một nghề giúp trẻ sinh sống ngày mai nó trưởng thành. Thiên tư là một cái gì cao hơn năng khiếu, là một động lực sáng tạo theo một chiều hướng rõ ràng, là một năng khiếu cao cả và mãnh liệt lôi cuốn người tới một ngành hoạt động nào. Bạn không có quyền để cho thiên tư của con bạn mai một nếu thật trẻ có thiên tư, vì môt người không thể tìm được quân bình, hạnh phúc nếu thiên tư không được phát triển. Đối với trẻ thiên tài sớm phát lộ, những thần đồng, cần áp dụng một lối giáo dục vượt ra ngoài khuôn sáo thông thường. Thiên tư thường phát lộ sớm (như Mozart lên bốn đã bắt đầu đánh đàn), có thiên tư thì sự học hỏi tập rèn được mau chóng lạ thường, ví dụ trẻ có thiên tư về âm nhạc học đàn rất mau, rất dễ. Thiên tư giống như một đam mê về trí tuệ. Sau cùng, thiên tư phát lộ lâu dài. Vào tuổi trưởng thành, thiên tư hóa ra khuynh hướng chọn nghề, nghĩa là nam nữ thanh niên tự nhiên nghe được “tiếng gọi nghề nghiệp” và cảm thấy có đi theo con đường này thì tương lai mới thành công toại nguyện.

Sự hướng nghiệp cần chú trọng thiên tư

Đối với cha mẹ, một vấn đề khẩn thiết được đặt ra là vấn đề liên hệ giữa thiên tư, khuynh hướng chọn nghề của trẻ và cái nghề thực dụng. Cha mẹ thường có khuynh hướng tách rời thiên tư với nghề nghiệp, đối với cha mẹ, nghề nghiệp phải là một kế sinh nhai và thiên tư đôi khi gây tai hại hơn là làm lợi cho nghề kiếm ăn. Quan niệm lầm lạc này thường thấy trong cuộc sống thường ngày. Cha mẹ có con gái có thiên tư hội họa, ca nhạc, tìm đủ cách cản trở con, không cho nó đi vào lĩnh vực nghệ thuật và cố hướng con bước vào con đường thực tế hơn như thi vào các ngành hành chính, vào trường tốc ký, đả tự, kế toán, ngân hàng, v.v. Có những thanh thiếu niên có khiếu nhạc, thơ, bị cha mẹ ép buộc chọn một nghề chắc ăn, làm ra tiền, dễ tạo nên địa vị xã hội như y khoa, dược khoa, thương mại, kỹ thuật, v.v. Phụ huynh đang do dự phân vân trước những bấp bênh của một nghề mỹ thuật có thể chọn một trong hai giải pháp sau: Hoặc hướng con em về một nghề thích hợp với những “thị hiếu phụ” của chúng, trẻ vẫn có thì giờ chuyên tâm về vấn đề ham thích, nếu trẻ thực sự có thiên tư thì dễ học cả hai môn một lúc. Hoặc tìm trong số những nghề cha mẹ cho là khả quan, những nghề cần đến năng khiếu bẩm sinh như năng khiếu hội họa có thể sử dụng vào nghề vẽ tranh ảnh sách báo, vẽ báo nhi đồng, vẽ quảng cáo, trang trí, vẽ kiểu y phục thời trang, năng khiếu tạc

115

Page 120: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

tượng và điêu khắc là những lợi khí sắc bén trong nghề tạo hình nộm, trình bày y phục thời trang, nghề đồ gốm, đồ sứ, đồ chơi trẻ con, nghề chế tạc đồ đạc bằng nhựa, v.v.

Nếu không có một thiên tư nào phát lộ thì làm sao?

Phương thức hoàn hảo nhất là chú trọng ba khía cạnh của cá tính, trước hết là tính tình, thứ đến là thương số thông minh, sau cùng là thị hiếu riêng của trẻ. Cảnh ngộ, tình trạng vật chất nên để lại sau, chỉ nhằm mục đích làm cho quyết định được chính xác hơn. Mỗi yếu tố nghiên cứu sẽ giúp chỉ dẫn thêm chính xác. Chỉ căn cứ vào tính tình thôi chưa đủ để chọn nghề. Tính tình chỉ đòi hỏi lối sống thích hợp. Còn phải chú trọng đến thương số thông minh để bổ túc sự chỉ dẫn và chỉ ra trình độ thông minh đáp ứng được đòi hỏi của một nghề. Sau cùng, những thị hiếu của trẻ liên hệ với những mặc cảm hoặc được thức tỉnh do môi trường sinh hoạt sẽ giúp chúng ta chọn được một nghề chính xác.

Đời sống nghề nghiệp phải thích hợp với tính tình

Nhu cầu sống giữa thiên nhiên hoặc không thể làm việc theo một thời biểu nhất định thuộc những nét tính tình không có gì thay đổi được. Nguyên tắc đầu tiên trong việc chọn nghề phải là không cản trở những nhu cầu đó. Trong mỗi nghề có những lối sinh hoạt dị biệt. Ví dụ với văn bằng y khoa, bác sĩ, mỗi người có thể có một lối sống riêng, theo chức vụ đảm đương trong ngành y khoa, như bác sĩ điều trị ở một bệnh viện, bác sĩ làm việc trong phòng thí nghiệm, bác sĩ giám đốc bệnh viện, bác sĩ trưởng ty y tế, bác sĩ điều trị ở nông thôn, bác sĩ quân y, v.v. Cùng làm nghề bác sĩ, mỗi chức vụ đòi hỏi một lối sinh hoạt riêng: với chức vụ này, ông bác sĩ làm việc trong một khung cảnh nhất định, việc làm tương tự; với chức vụ khác ông bác sĩ có một lối sống hoạt động, một thời biểu uyển chuyển, phải luôn luôn xê dịch và tiếp xúc với nhiều người. Mặc khác, không kể văn bằng, khả năng chuyên môn, mỗi người sẽ nghiêng về chức vụ thích hợp với tính tình của mình. Đây, hai trẻ không có văn bằng cũng không có kiến thức chuyên môn, một em thích làm nghề gác cổng hoặc chạy giấy trong một công sở, em khác chọn nghề làm vườn hoặc bán hàng rong vì nó chuộng tự do, thích hoạt động, yêu không gian.

Cản trở những khuynh hướng tự nhiên là tác hại không ít cho trẻ

Một trẻ dị nộ phiêu lưu, bản chất hiếu động tháo vát có những đức tính can đảm, dẻo dai, có năng khiếu chỉ huy, điều khiển, giải quyết mau lẹ những vấn đề thực tế, thích mạo hiểm, yêu không gian khoáng đạt, và không có năng khiếu về những môn học trừu tượng, lý thuyết. Lối sinh hoạt nghề nghiệp của nó nằm trong chiều hướng tính tình và chính lối sinh hoạt nghề nghiệp thỏa mãn những đòi hỏi của tâm tình, thể chất. Nay thử bắt trẻ ấy làm nghề bàn giấy, nghề bảo quản thư viện, bản quản văn khố, v.v. hoặc nhờ trí lực thông minh sẵn có của trẻ, bạn cho nó lên đại học, để làm một giáo sư, một nhà ngôn ngữ học, một nhà khảo cổ. Bạn có thể tin chắc điều này: vì lí do phục tùng cha mẹ, lí do sinh kế, con bạn cứ làm nghề mà bạn chọn và nó sẽ có cảm tưởng thất bại trong đời sống nghề nghiệp, hay là đến một ngày nào đó, con bạn sẽ bẻ gãy khuôn khổ giả tạo mà bạn muốn nhốt nó và sẽ làm lại cuộc đời từ con số không, quyết định đi theo con đường thích hợp với tính tình, thể chất của nó. Nơi đây, chúng ta lại gặp một nguyên tắc thứ nhì phát xuất từ nguyên tắc thứ nhất và soi sáng sự liên quan giữa tính tình và khuynh hướng chọn nghề, là sự phân tích tình hình chỉ rõ những

116

Page 121: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

nghề cấm kỵ, nói một cách khác, nhờ sự phân tích tính tình mà chúng ta biết rõ những nghề nào không hợp với trẻ, nếu miễn cưỡng làm thì khó tránh thất bại, chán nản. Biết được những điều cần tránh không phải là một việc làm vô ích. Dầu không có sự hướng nghiệp chính xác, vì sự hướng nghiệp khó thực hiện đầy đủ do ở đây chỉ [thử] xác định lối sống thích hợp, thì ít ra sự hiểu biết đó cũng giúp cho cha mẹ và con trẻ tránh nhiều sai lầm tai hại về sau. Sau đây lần lượt trình bày những lối sống thích hợp với mỗi tính tình trong tám mẫu tính tình được phân loại ở Phần Hai, Chương 2 và các Chương kế tiếp

Trẻ 22 thần kinh cần một lối sống nghề nghiệp hoạt động, thay đổi và tự do

Bản tính hiếu động, nhạy cảm, bồng bột, sôi nổi, có óc sáng kiến, có khiếu xã giao, trẻ thần kinh cần một cuộc sống nghề nghiệp hoạt động, thay đổi, tự do, hào nhoáng. Nhờ biệt tài ăn nói, khéo đóng kịch, giỏi xoay sở, nhanh nhẹn, cởi mở, phản ứng mau lẹ, ứng biến dễ dàng, lại có một khiếu thẩm mỹ sắc bén, một trí tưởng tượng dồi dào, một nghệ thuật trình diễn, trang trí, trẻ sẽ chọn những nghề có thể thỏa mãn được những khuynh hướng nói trên (thơ, ca nhạc, kịch, cải lương, hát bội, khiêu vũ, điện ảnh, nhiếp ảnh, truyền hình, quảng cáo, phóng viên báo chí, v.v.) Những nghề tuyệt đối cấm kỵ: Trẻ thần kinh thiếu nhẫn nại, kém bình tĩnh, lối làm việc của nó không đều đặn, nếp sống không chừng mực. Nó sợ phương pháp quy củ, và nhất là óc bảo thủ cố chấp. Không tôn trọng nổi một thời biểu nhất định, một sự phân biệt đẳng cấp khe khắt, không thích đi theo đường mòn cũ, trẻ hẳn buồn bực trong ngành hành chính và ghê sợ nạn giấy tờ. Vụng tổ chức, kém tự chủ, đây không phải là một nhà cai trị có nhiệm vụ nghiên cứu, hoạch định kế hoạch chương trình. Trẻ em nên tránh những nghề như: −

Giáo sư, cử nhân khoa học có tính cách lý thuyết (vật lý, toán học, vật lý không gian, v.v.) và ngay cả khía cạnh thực hành (hóa học áp dụng trong ngành canh nông, v.v.), khía cạnh quan sát tỉ mỉ, kiên trì (giáo sư địa chất học, thực vật học, côn trùng học).

− Nghề làm việc trong phòng thí nghiệm, nghề khảo cứu. − Nghề tổ chức nói chung. − Nghề làm việc văn phòng, ghi-sê. − Nghề ngân hàng và kế toán. − Nghề quản trị trong các ngành (quân đội, các trường trung học, đại học, v.v..). − Nghề làm việc ở nông thôn, đồng áng và chăm sóc thú vật (Canh nông thực hành, trường

nông lâm súc, quản trị nông trại, thú y). − Nghề liên quan đến đất đai, từ nghề đào đất, làm vườn đến nghề khảo cứu sinh vật học. − Những nghề thuộc về tòa án như thẩm phán, biện lý, luật sư. − Nghề gác cổng, canh gác. Do tính tình tương phản và trái ngược, những nghề trẻ trầm tĩnh cần tránh lại là những nghề thích hợp với trẻ thần kinh (những đặc điểm tính tình của trẻ thần kinh: nhạy cảm, kém hoạt động, dễ uốn nắn, trái hẳn với tính tình trẻ trầm tĩnh: không nhạy cảm, hoạt động, không dễ

22 Ở mục này và các mục kế tiếp, danh từ “trẻ” thỉnh thoảng bao gồm hàm ý người (người lớn). Dùng danh từ “trẻ” để duy trì tính nhất quán.

117

Page 122: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

uốn nắn).

Trẻ đa cảm thích những nghề cần suy nghĩ trong một khung cảnh trầm lặng Trẻ đa cảm cần một lối sống ổn định chừng mực. Trẻ dễ uốn nắn hơn có thể hướng về những nghề của trẻ thần kinh, nhưng luôn luôn cẩn thận trong cố gắng mới thu được kết quả vững bền. Sinh lực cũng như khả năng hoạt động của trẻ không đều, nhưng bù lại, trẻ có một ý chí và một tâm nghề nghiệp cao độ. Giữ gìn trật tự, yêu chuộng phương pháp là bản tính của trẻ đa cảm. Quen sống yên một chỗ, và nếu có trẻ thích đi du lịch thì chúng cũng đi tới những nơi quen thuộc, cố định. Trẻ thích làm việc trong một khung cảnh quen thuộc, thân mật và vì bản tính khó thích ứng với những điều bất trắc, những việc bất thường mặc dù trẻ có thiện chí và quyết tâm, nên trẻ nghiêng về những nghề hoạt động trong một môi trường ổn định, những nghề có thể nghiên cứu sâu rộng về sự vật hơn là nghề thường thay đổi đối tượng khảo sát. Trẻ không có năng khiếu với những nghề phải tiếp xúc nhiều, giao thiệp rộng, những nghề đòi hỏi lanh trí, lẹ tay, ứng biến xoay trở. Không thích nghề quảng cáo. Không có năng khiếu doanh thương, có chăng là tiểu thương và tiểu công nghệ. Hình thức thông minh cũng quan trọng. Trẻ có trí thông minh trừu tượng thích nghiên cứu những vấn đề khoa học, triết lý văn chương, có khả năng làm việc trong phòng thí nghiệm. Trẻ có trí thông minh cụ thể thích khảo cứu về cơ giới, nhiếp ảnh, điện ảnh. Trẻ đa cảm có xã giao tính, chế ngự được bản tính nhút nhát, có thái độ khác hẳn trẻ đa cảm điển hình, nên chọn những nghề cần sự tiếp xúc nhưng nhất định không phải sự giao thiệp rộng của trẻ thần kinh, dị nộ và đa thuyết. Tuyệt đối cấm kỵ: nghề doanh thương, thương mại, kỹ nghệ quy mô, những nghề phải bất nhẫn với thú vật, những nghề mạo hiểm, những nghề đòi hỏi tốc lực, sức mạnh, nghề thể thao, những nghề cần tiếp xúc rộng với quần chúng luôn luôn mới lạ, những nghề hoạt động sôi nổi, những nghề cần ứng biến lanh lẹ, xoay sở kịp thời. Vậy trẻ đa cảm cần tránh những nghề sau đây: −

Nghề trang sức, nghề chào hàng, bán hàng, bán hàng rong, bán hàng chạy, nghề làm áp phe. − Nghề thương mại, từ tiểu thương đến thương nghiệp quy mô. − Nghề báo chí, thông tín viên, phóng viên, quảng cáo. − Nghề thể thao, thể thao tranh tài, đoạt giải. − Nghề thám hiểm. − Nghề khách sạn. − Nghề thông dịch viên (nghề phiên dịch làm việc một mình trong văn phòng lại là nghề thích

hợp với trẻ đa cảm). − Nghề mua bán súc vật, giết, mổ, xẻ súc vật, nghề hàng thịt. Nên chú ý những nghề thích hợp nhất với trẻ đa cảm là những nghề mà trẻ đa huyết cần tránh.

Trẻ dị nộ là một tay lãnh tụ bẩm sinh

Trẻ dị nộ không có một cảm giác tính tế nhị như trẻ thần kinh, nhưng lại có một sức chịu đựng bền bỉ, một sức xông pha mạnh mẽ hơn. Nghề của trẻ thần kinh thích hợp với nó, với điều kiện không đòi hỏi tới ý thức văn chương, mỹ thuật. Trẻ dị nộ ưa sống cuộc sống hoạt động, phóng

118

Page 123: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

khoáng, khao khát không gian và những phương trời xa lạ, thích mạo hiểm, có năng khiếu chỉ huy mà cũng có gan nhận lấy những trách nhiệm. Nó sẵn sàng đương đầu với những khó khăn trong đời sống thực tế. Hai nhóm trẻ dị nộ có những điểm dị biệt nên cần xét riêng rẽ lối sống thích hợp của mỗi nhóm. 1. Trẻ dị nộ nhu thuận và có xã giao tính bản chất hiếu động, có óc tháo vát và khiếu tổ chức. Nhưng đặc điểm của trẻ này là xã giao tính nên trẻ thích nghề cần tiếp xúc với đám đông, diễn thuyết, tuyên truyền, thuyết phục tranh luận… trẻ có thể nhận lãnh những chức vụ đòi hỏi vai trò trách nhiệm, những trách vụ chỉ huy. 2. Trẻ dị nộ tranh đấu không nghiêng về sự quảng giao, sự tuyên truyền, quảng cáo, nhưng lại có tính tự do, phóng khoáng, thích mạo hiểm, phiêu lưu. Trẻ yêu chuộng những nghề đòi hỏi sức lực, can đảm, bền bỉ dẻo dai, luôn luôn phải giải quyết những vấn đề thực tế và cụ thể, phải đương đầu với những sức mạnh thiên nhiên. Thích làm việc tập thể, trong một nhóm nhỏ. Nghề cấm kỵ ít hơn trẻ đa cảm nhưng rất quan hệ: trẻ dị nộ nhu thuận có xã giao tính nên tránh: - Những nghề làm việc trong phòng thí nghiệm, khảo cứu những đối tượng trừu tượng hoặc cụ thể, công việc khó khăn, tỉ mỉ, làm việc đơn độc hoặc trong một nhóm nhỏ. - Những nghề liên quan ít nhiều đến toán học lý thuyết và áp dụng, triết học, v.v. - Những nghề đòi hỏi kỷ luật chặt chẽ và nghiêm khắc. - Những nghề thuộc ngành hành chính, văn phòng, cần sắp đặt giấy tờ, hồ sơ, lưu trữ văn kiện, nghề bảo quản văn khố, v.v. - Những cơ sở khảo cứu. Trẻ dị nộ tranh đấu nên tránh: - Những nghề cần tiếp xúc rộng với công chúng, nghề trạng sư, đại diện nghiệp đoàn, đảng phái chính trị, v.v. - Những nghề làm việc trong phòng thí nghiệm, công việc văn phòng, nghề nghiên cứu như trẻ nhu thuận, nhưng vì lí do khác nhau (trẻ dị nộ nhu thuận vì lí do nhu cầu tiếp xúc công chúng đông đảo, trẻ dị nộ tranh đấu vì lí do nhu cầu hoạt động và phiêu lưu). - Nhưng nghề nghiên cứu vấn đề trừu tượng như triết học, toán học. - Những nghề phải ngồi một chỗ, công việc chừng mực, phải theo nề nếp, quy củ vạch sẵn. - Những nghề giám đốc, quản trị. - Nghề thủ công nghệ phải ngồi một chỗ mà làm việc. - Những nghề của đàn bà (đối với con gái dị nộ cũng vậy) hoặc liên hệ đến phụ nữ như làm nữ trang, y phục thời trang, mỹ phẩm. Về nhiều điểm kể trên, trẻ dị nộ, nhất là trẻ dị nộ nhu thuận có xã giao tính mâu thuẫn với trẻ đa cảm nghi kỵ. Tuy nhiên có chỗ hai bên giống nhau là chúng không có năng khiếu doanh nghiệp, thương trường.

Trẻ đam mê có năng khiếu điều khiển, chỉ huy

Trẻ đam mê là một trẻ đa cảm đã thâm nhập mạnh vào thực tại và hoạt động. Thật ra, tất cả trẻ đa cảm đã dấn thân vào con đường hoạt động thì cuối cùng đều có thái độ và hành động của trẻ đam mê. Trẻ đam mê là một trẻ có ý thức đẳng cấp, một năng lực làm việc dồi dào, một nhu cầu hành động lớn lao, một sở thích chỉ huy tương đương với một thị hiếu tổ chức theo phương

119

Page 124: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

pháp. Tham vọng đối với trẻ đam mê hình như là một nhu cầu tự nhiên. Bên cạnh một trẻ đa cảm tâm trí căng thẳng vì tham vọng, trẻ đam mê có những toan tính, mưu kế đi tới thành công mà không hề băn khoăn, thắc mắc. Nghề gì cũng thích hợp với trẻ đam mê, miễn là nghề đó mang lại thành công, đồng thời là một môi trường cho trẻ thi thố tài chỉ huy, tổ chức. Thiên tư đối với trẻ đam mê cũng rất quan trọng, vì trẻ muốn thi thố tài năng với bất cứ giá nào. - Trẻ đam mê nhu thuận có sở thích quảng giao, nuôi tham vọng cải thiện xã hội, nâng cao mức sống của đồng bào, và như trẻ dị nộ, nó sẽ thành công trên đường chính trị. - Trẻ đam mê tranh đấu thường thường cứng cỏi, ít có cảm tình hơn trẻ đam mê nhu thuận. Nó thích tổ chức, điều khiển, chỉ huy, nhưng trong sự tiếp xúc với quần chúng, nó dễ bị người oán ghét, bất mãn. Trẻ đam mê được đặt đúng chỗ trong quân đội, lục quân, trong ngành hành chính. Không tránh được người thù oán, nhưng nhờ ý chí cương quyết, nhờ những thành công rõ rệt, chính những đối thủ cũng phải kính nể. Nghề cấm kỵ: trẻ đam mê không có tài ứng biến, xoay xở nên rất sợ những việc làm gấp rút, những việc xảy ra bất ngờ. Trẻ kém nhanh nhẹn, hoạt bát, thiếu vẻ hào hoa. Đại để trẻ nên tránh những nghề như sau: - Nghề sân khấu, điện ảnh (diễn xuất, ca nhạc, trang trí ngoại trừ đạo diễn và sáng tác). - Nghề nhạc sĩ, nhạc công trong ban nhạc, hòa tấu, độc tấu, ngoại trừ nhạc trưởng. - Nghề khách sạn. - Nghề chào hàng, giới thiệu hàng, đại diện các hãng buôn, quảng cáo. - Nghề làm đồ nữ trang, mỹ phẩm, quần áo, giày, mũ đàn bà. - Nghề thuộc về nước và có liên hệ với nước: hồ tắm, nghề nuôi cá, chài lưới và dụng cụ chài lưới, sông, hồ, suối, kênh rạch.

Trẻ đa huyết có năng khiếu doanh thương

Bản tính lạc quan, yêu đời, biết xu thời, khéo xử thế, có óc vụ lợi, thích ứng mau lẹ với hoàn cảnh thực tế, không có sự say mê của trẻ thần kinh, sự khoa trương của trẻ dị nô và sự thụ động của trẻ lâm ba. Trẻ cần một lối sống tự do, phóng khoáng, hoạt động trong một môi trường cạnh tranh rộn rịp để vận dụng trí thực tế, khiếu tháo vát, thi thố biệt tài xã giao, mánh lới quảng cáo, mưu lược xoay sở. Trẻ sẽ được thích thú trong ngành kinh doanh thương mại, công kỹ nghệ, ngành quảng cáo, ngành thể thao, ngành báo chí, v.v. Nghề cấm kỵ: - Nghề canh nông. - Nghề giáo viên, giáo sư. - Nghề nghiên cứu triết học, siêu hình học, thần học, nghề có liên quan đến tôn giáo. - Nghề nghiên cứu tâm lý học, phân tâm học, tâm lý trị liệu. thần kinh trị liệu. - Nghề làm việc trong phòng thí nghiệm, nghề khảo cứu. - Nghề chế tạo những máy móc nhỏ, máy móc rất chính xác, kỹ sư chuyên môn.

120

Page 125: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

- Nghề hoạch định chương trình, phương pháp. - Nghề làm việc ở một nơi cố định, công việc văn phòng, nghề bảo quản văn khố, bảo quản thư viện. Do tính tình tương phản, trẻ đa huyết tự nhiên thích chọn những nghề cấm kỵ đối với trẻ đa cảm.

Trẻ trầm tĩnh thích phương pháp và hiệu năng

Nhiều trẻ trầm tĩnh có những điểm tương tự với trẻ đa huyết. Thực ra, trẻ trầm tĩnh không có tham vọng giàu sang, mưu đồ địa vị như trẻ đa huyết, nhưng thay vào đó trẻ trầm tĩnh làm việc rất tận tụy, có tâm nghề nghiệp cao độ đáng kính. Có chỗ trẻ trầm tĩnh xích lại gần trẻ đa huyết là nó thích giao du (mặc dù trong một phạm vi hẹp), lễ độ, hòa nhã, vui tính trong giao thiệp, đó là những đức tính giúp ta phân biệt trẻ trầm tĩnh với trẻ đa cảm có một thái độ trầm lặng, nghiêm trang. Trẻ trầm tĩnh cần làm việc trong một khung cảnh cố định, không thay đổi, trong một môi trường quen thuộc. Nó thích phương pháp, chuộng hiệu năng, dầu cho phương pháp có lúc biến thành đường mòn của con người thủ cựu. Vì bản tính chậm chạp, chín chắn nên không có khả năng ứng biến, hay e ngại những việc bất kỳ, những sự xáo trộn, nhưng mỗi khi đã tổ chức được công việc rồi thì kiên tâm theo đuổi đến cùng. Trẻ thích làm việc đơn độc hoặc trong một tập thể nhỏ, và nếu khá cởi mở thì nó có thể thành công trong công việc giao dịch, thương trường. Nghề cấm kỵ là những nghề thích hợp với trẻ thần kinh và trẻ dị nộ, những nghề cần di động, thay đổi như nghề trình diễn, quảng cáo, trình bày. Những nghề cần tiếp xúc với quan tòa, luật sư, tổ chức lễ lạc, mít-ting cũng không mấy thích hợp với trẻ trầm tĩnh, vì mặc dù nó có khả năng tổ chức, nó vẫn khó cảm thông được thị hiếu, ý kiến của quần chúng. Vậy trẻ trầm tĩnh cần tránh: - Nghề làm thơ, sáng tác kịch, viết tiểu thuyết, truyền kỳ. - Nghề đòi hỏi tốc lực, nhanh nhẹn, thể thao nhẹ, chạy đua, đua xe, đấu gươm, kỵ mã, v.v. - Nghề sân khấu, điện ảnh, đấu trường, - Nghề báo chí, quảng cáo. - Nghề du lịch. - Nghề bán hàng trực tiếp. - Nghề luật sư, thẩm phán. Ngoài ra cũng nên tránh những sự thay đổi nghề nghiệp.

Trẻ lâm ba sợ trách nhiệm

Cởi mở, dễ uốn nắn, ưa chuộng sự vật cụ thể, cảm giác thẩm mỹ, thích hưởng thụ, an nhàn, không tham vọng, kém nghị lực. Đó là bản tính của trẻ lâm ba. Tuy nhiên, nhóm trẻ này bao gồm những nhóm nhỏ có năng khiếu dị biệt. Nếu trẻ khá nhạy cảm, nó chọn nghề của trẻ thần kinh, nếu trẻ có hoạt động tính hơn là nhạy cảm thì nó chọn nghề của trẻ đa huyết.

121

Page 126: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Đại để lối sống nghề nghiệp thích hợp với trẻ lâm ba là một cuộc sống yên lặng, tiện nghi, khỏi phải gia công gắng sức nhiều, làm việc trong một khung cảnh quen thân, bao giờ cũng giữ mực thường, một thái độ cầu an, nhàn nhã. Uyển chuyển, dễ bảo, trẻ biết nép mình theo kỷ luật. Trẻ sợ những chức vụ trách nhiệm, phải tự ý quyết định, không muốn có một sự thay đổi, xáo trộn nào trong cuộc sống trầm lặng, yên ổn hàng ngày và cố tránh va chạm xung đột với kẻ khác. Nghề cấm kỵ là những nghề thích hợp với trẻ dị nộ và trẻ đam mê, nghề chỉ huy, nghề cần xong pha, lao lực nhiều, nghề cần di chuyển luôn, nghề bắt buộc phải xung đột, chống đối, tranh đấu, nghề cần thích ứng với những điều kiện cam go của cuộc sống như: - Chỉ huy trong quân đội, chỉ huy đơn vị lưu động. - Làm chính trị, lãnh tụ chính đảng, cán bộ đảng. - Đại diện nghiệp đoàn. - Giám đốc, quản lí một xí nghiệp. - Báo chí, quảng cáo. - Sử gia, giáo sư kinh tế học. - Sử gia tôn giáo. - Thợ máy hỏa xa, phi công, tài xế xe vận tải hạng nặng. - Nghề thể thao mạnh, nguy hiểm, đua xe hơi. - Nghề thám hiểm, hàng hải, hướng đạo leo núi.

Trẻ bất động cần một khung cảnh cố định

Tưởng nên nhắc lại, trẻ bất động là trẻ lâm ba cứng rắn hơn và khó thích ứng hơn. Bù lại trẻ bất động có tinh thần trách nhiệm, biết tuân theo kỷ luật, nề nếp, biết tôn trọng tập quán và những ước lệ xã hội. Trẻ thích sống yên ổn, an nhàn, làm việc trong một khung cảnh quen thuộc, theo nề nếp, quy củ vạch sẵn. Trẻ sợ thay đổi, xáo trộn, không dám đi ra ngoài đường mòn, lối cũ, không rời được thói quen, nô lệ tập quán, có lúc thành ra thủ cựu, mê tín. Nghề cấm kỵ: là nghề đòi hỏi sự hoạt động, sự thay đổi, bắt buộc phải thích ứng với những hoàn cảnh mỗi lúc mỗi khác, nghể phải luôn luôn va chạm tranh đấu, chế ngự đối thủ, nghề vận dụng biệt tài chỉ huy, nghề thường xuyên tiếp xúc với một quần chúng đông đảo cần thuyết phục, cảm hóa và cám dỗ… Đại để trẻ bất động nên tránh những nghề như sau: - Nghề sân khấu, điện ảnh, đấu trường. - Nghề quảng cáo, chào hàng, đại lý, thương mãi, mối lái buôn bán (trọng mãi). - Nghề chế tạo mỹ phẩm và y phục thời trang. - Nghể phải làm việc trong những điều kiện vật chất cam go như: phi công, thủy thủ, thầy thuốc nông thôn (lưu động). - Nghề luật sư, chính trị gia. - Nghề thương mại, làm áp phe.

122

Page 127: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Đây, vài trường hợp chọn nghề

Nguyên, 13 tuổi là học sinh trung học, học khá, thỉnh thoảng có vi phạm kỷ luật học đường. Gia đình dư giả, Nguyên có một em trai. Được hỏi sau này làm nghề gì, Nguyên đáp muốn có một nông trại nhỏ để quản lý, sống cảnh thôn quê thanh tịnh. Nhưng cha Nguyên mơ ước cho con vào trường cao đẳng thương mại. Kết quả trắc nghiệm cho thấy: - Tính nhạy cảm: 8 - Hoạt động tính: 2 - Phản ứng mau, chậm: 2 - Tranh đấu: 2 - Rộng (chú ý tập trung hay tản mác): 7 - Xã giao tính: 3 Nhạy cảm, hoạt động tính kém, phản ứng chậm, Nguyên là một trẻ đa cảm điển hình. Rất rộng (chú ý tản mác), tính tình ôn hòa, thỏa hiệp nhưng kém xã giao tính, Nguyên vốn là một trẻ đa cảm lãng mạn. Chữ viết của Nguyên xác nhận sự chỉ dẫn của những câu hỏi trắc nghiệm. Chữ viết không đều, kích thước chữ lớn, nhỏ, rộng, hẹp không cân, vị trí chữ cao thấp bất thường, hàng chữ lên xuống, ngoằn nghèo là dấu hiệt tính nhạy cảm. Những chữ nghiêng xuống và những chữ (mẫu tự) cuối nhỏ hơn chữ đầu diễn tả hoạt động tính kém cỏi. Tính cách rộng (chú ý tản mác) được thấy trong những chữ lớn, khoảng cách rộng, lối viết hơi cẩu thả, dấu đánh không đúng chỗ hoặc thiếu sót. Nét chữ rất tròn trịa chỉ rõ tính nhu thuận, nhân nhượng, dễ thỏa hiệp. Sau cùng, nét chữ a, chữ o rất kín cho biết người viết rất kín đáo (ít bộc lộ tính tình, kém xã giao tính) Nguyên nên tránh những nghề đòi hỏi tranh đấu, nghị lực để chống trả đối thủ và vượt qua trở ngại, thử thách thường gặp trên đường tiến thủ. Tuyệt đối cấm ky ngành thương mại, áp phe. Chuẩn bị cho Nguyên vào trường thương mại là một tai họa.

123

Page 128: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

(Mẫu chữ viết của Nguyên)

Cũng không nên chọn những nghề phải thường xuyên tiếp xúc với công chúng đông đảo như nghề làm báo, nghề luật sư, lãnh tụ chính đảng, nghề quảng cáo, chào hàng, v.v. Lối làm việc thích hợp với Nguyên là lối làm việc một mình hoặc trong một ê kíp nhỏ, giữa một khung cảnh cố định, có tổ chức, có nề nếp. Như những trẻ đa cảm khác, nguyên sẽ sung sướng nếu được sống nơi thôn dã, giữa cảnh thiên nhiên thanh tĩnh. Có lẽ sự chọn nghề của Nguyên phải thuận theo chiều hướng đó. Trường hợp thứ 2 Thành, 15 tuổi là học sinh lớp 10. Cha và anh đều là nhà giáo nên cha Thành muốn cho con kế nghiệp mình, sau khi đỗ tú tài, Thành sẽ thi vào trường đại học sư phạm. Kết quả trắc nghiệm tâm lý của Thành cho thấy: Nhạy cảm: 3 Hoạt động tính: 8 Phản ứng mau, chậm: 7 Tranh đấu: 4 Rộng: 5 Xã giao tính: 8

124

Page 129: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Hoạt động tính cao, phản ứng mau, dễ uốn nắn, tuy ít nhạy cảm. Phối hợp kết quả trắc nghiệm với sự quan sát hình thể của Thành: nước da hồng hượt, hình vóc mập mạp, hơi lùn, nét mặt nở nang, đôi mắt lớn vui vẻ, ta có thể đoán Thành là một trẻ đa huyết. Thực vậy, Thành rất cởi mở, thích giao du. Những ngày chủ nhật, trong lúc trẻ khác ngồi nhà đọc truyện cổ tích thì Thành tới nhà bạn chuyện trò hoặc rủ nhau đi du ngoạn. Thành là một trẻ đa huyết có xã giao tính cao. Nay thử đem đối chiếu chữ viết của Thành với những nhận xét trên để có thể đi tới một sự phán đoán chính xác. Chữ viết của Thành đểu đặn, nét cứng cỏi, đậm đà như nhấn mạnh xuống mặt giấy, đó là dấu hiệu của hoạt động tính. Bản chất hoạt bát thể hiện ở dáng chữ nhanh nhẹn, kích thước chữ lớn, khoảng cách chữ rộng. Nét chữ tròn trịa, những chữ a,o,d,g hở ở trên nét cuối kéo dài ra biểu lộ một tâm tính cởi mở, hòa nhã, dễ uốn nắn, thích giao du. Thành nên tránh làm việc ở một nơi cố định, nghề văn phòng, những nghề cần đến kế hoạch, chương trình tỉ mỉ, những nghề đòi hỏi kiên trì suy tư trong một khung cảnh trầm lặng. Khi thẩm định năng khiếu của Thành, cha mẹ Thành ghi nhận một khía cạnh nữa. Thành có một trí thông minh cụ thể, một trí óc thực tế. Nó chỉ quan niệm dễ dàng những sự vật hữu hình, nó chỉ thiết tha những lợi ích thực dụng. Ở trường nó thích khoa học thiên nhiên, địa lý, hội họa. Thành khéo tay, nó biết sửa chữa cái ổ khóa, bếp dầu hôi, chiếc quạt điện. Chính Thành đã vẽ những tranh ảnh và tự tay làm lấy khung, trang trí phòng học. Và những chậu hoa đẹp bày trước sân, chưng trong phòng khách là do Thành vun trồng trong lúc rảnh rỗi. Nghề dạy học không phù hợp với Thành. Thành nên hướng về những nghề cần hoạt động, tháo vát, vận dụng trí óc thực tế, thỏa mãn bản tính vụ lợi, thị hiếu xã giao, thi thố biệt tài xoay sở, đôi khi còn cần đến mưu cơ, mánh khóe nữa. Có thể Thành sẽ thành công trong nghề thương mại, doanh nghiệp hoặc nghề khách sạn, nghề chào hàng, quảng cáo, nghề phóng viên, báo chí, nghề thể thao…

Trí thông minh chỉ rõ trình độ nghề nghiệp

Đối với mỗi mẫu tính tình, chúng tôi không quy định nên chọn đích thực một nghề nào mà chỉ vạch ra một lối sinh hoạt thích hợp, đồng thời chỉ rõ những nẻo đường lầm lạc phải tránh. Như thế không phải là một sự thiếu sót mà chính là một sự dụng ý. Thực vậy, chúng ta đã thấy tính tình phù hợp với một lối sống riêng, nhưng một mặt tính tình chưa đủ, cần vận dụng những yếu tố khác nữa cho được chính xác hơn, chúng ta mới gặp được một nghề thích hợp. Yếu tố thông minh phải là yếu tố nên đề cập trước.

Trình độ nghề nghiệp cần phù hợp với thương số thông minh (Q.I.)

Nếu trẻ không có một thiên tư sớm thúc đẩy nó hướng tới một nghề nào thì nên nhờ thương số

125

Page 130: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

thông minh để hướng dẫn, ngõ hầu tránh những thất bại và những thất vọng trên đường sự nghiệp. Thương số thông minh chỉ rõ trình độ trí tuệ đáp ứng sự đòi hỏi của một nghề trong một lối sống thích hợp. Anh lao công ở một viện bảo tàng và người bảo quản bảo tàng viện cũng có một lối sống như nhau. Tuy nhiên, người này phải học hỏi, trải qua nhiều kỳ thi, người kia thì không. Trường hợp anh tùy phái chạy giấy trong thư viện và người bảo quản thư viện cũng tương tự. Theo lối tổ chức giáo dục hiện hành, có thể anh lao công ở bảo tàng viện và anh tùy phái chạy giấy trong thư viện cũng thông minh như cấp trên của họ. Có lẽ họ phải làm việc kiếm ăn từ lúc tuổi thơ và cũng có thể họ không được hướng dẫn chọn nghề thích hợp. Nhưng phải hiểu rằng nếu anh lao công bản chất thông minh thì tất nhiên không được sung sướng trên đường nghề nghiệp. Anh ta cũng chẳng sung sướng gì nếu anh ta thuộc mẫu người thần kinh hoặc dị nộ. Nhưng trong trường hợp này anh ta không thích đảm đương chức vụ bảo quản 1 thư viện, một viện bảo tàng, còn một người thông minh đã tìm được nơi đây một lối sống thích hợp lúc nào cũng ao ước địa vị của người bảo quản và oán trách cảnh ngộ đã không cho họ theo đuổi con đường học vấn đến ngày thành tài. Chuẩn bị nhiều năm cho một thanh niên thi vào trường bảo quản thư viện, bảo tàng viện trong lúc hắn không đủ thông minh để học hỏi thì cũng phi lý, bất công như để cho một đứa trẻ thừa thông minh, đủ trí lực theo đuổi học vấn phải nhận một chức vụ tùy phái trong thư viện hoặc lao công trong viện bảo tàng. Bên những đứa trẻ thiên tư, thông minh, có những trẻ đần độn, trí tuệ kém cỏi, đối với những trẻ này nên có một tham vọng khiêm tốn, chọn cho chúng những nghề dễ học, dễ làm. Đàn ông cũng như đàn bà, trình độ thông minh cao hơn trình độ việc làm đòi hỏi sẽ đâm ra bất mãn, còn những người trí thông minh ở dưới trình độ việc làm thì sớm bị tràn ngập và dễ sinh ra chán nản. Chắc rằng anh lao công nếu thực sự thông minh thì không cần vận dụng tất cả trí lực để làm nghề của mình. Đây là một người đặt không đúng chỗ, dùng không đúng tài, một sự thiệt thòi, mất mát cho xã hội. Thời vận, số mạng, ưu đãi giai cấp không giải thích được sự trớ trêu này mà ta phải tìm nguyên do ở những lầm lẫn trong hướng nghiệp, những lầm lẫn có thể tránh được nhờ những trắc nghiệm đã được chỉ dẫn ở trên. Có những trung tâm hướng nghiệp giúp trẻ chọn nghề thích hợp và tùy theo đường hướng bạn đã chọn, giới thiệu những trường trung cấp cho trẻ những kiến thức cần thiết theo một trình tự từ dễ đến khó. Những trung tâm này phục vụ công chúng với tính cách miễn phí.

Cần chú trọng đến hình thức thông minh

Biết trình độ thông minh chưa đủ. Còn cần phải phân biệt hình thức thông minh nữa. Hướng nghiệp phải theo một nguyên tắc rất rõ là trong một nghề mà ít chú trọng đến hình thức thì trình độ nghề nghiệp một người đạt tới tự nhiên thấp kém. Nói cách khác, nếu bạn hướng một trẻ có thông minh rất cụ thể về nghề dạy học đó thì nó sẽ buồn chán, trái lại nếu nó chọn được một nghề cụ thể như vẽ kiểu áo thời trang thì nó có thể trổ tài thông minh mẫn tiệp. Hẳn bạn cũng thường nghe kể chuyện có nhiều nhà bác học tài ba tỏ ra thiếu trí khôn thực tế, ngược lại nhiều kẻ giỏi xoay sở, khéo tìm ra những giải pháp thực tiễn, thuyết phục nổi người lại bó tay trước một bài toán tầm thường. Vậy cần sử dụng tối đa những ân huệ tạo vật đã ban cho trẻ. Nên bổ túc những trắc nghiệm bằng những chỉ dẫn ở chương nói về trí thông minh. Những trung tâm hướng nghiệp sẽ giúp các bạn về vấn đề này.

126

Page 131: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

Công việc chọn nghề còn được chính xác hơn nhờ biết chú trọng thị hiếu của trẻ Mới nghe qua ai cũng cho là kỳ dị, nhưng một điều xác thực là mặc cảm có ảnh hưởng đến những thị hiếu riêng về nghề nghiệp. Sự việc một mặc cảm ảnh hưởng đối với công việc hướng nghiệp gọi là xã hội hóa một mặc cảm. Xã hội hóa là sử dụng những thái độ bắt nguồn từ một hoặc nhiều mặc cảm vào công việc sinh hoạt hàng ngày. - Những thái độ đó có thể phát xuất trực tiếp ở mặc cảm. Như một đứa trẻ có một mặc cảm ẩn lánh sẵn sàng nhận những chức vụ không chịu trách nhiệm và có đủ tư cách hợp tác đắc lực với ông chủ hãng buôn, ông giám đốc một xí nghiệp. - Những thái độ đó có thể sinh ra từ một sự thăng hoa như trường hợp một bé gái có mặc cảm thăng hoa tự nhiên thích hy sinh và có tư cách đảm nhận những chức vụ đòi hỏi tận tụy hi sinh như làm việc phước thiện, cứu tế xã hội, v.v. - Những thái độ đó cũng có thể do một sự đền bù đưa tới. Như mặc cảm tự ti được đền bù sẽ giúp cho một trẻ trở nên mạnh dạn và tìm cách tỏ ra mình không kém hèn. Mặc cảm này thúc giục trẻ hoạt động, tham vọng, cương quyết hăng hái như để đền bù lại những rụt rè, yếu kém, những thiệt thòi trong quá khứ. Theo lối biến hóa này có những khuynh hướng được thỏa mãn trong hoạt động nghề nghiệp. Tuy nhiên có ba điều cần biết trước: 1. Có nghề không nhất thiết là sự biểu lộ một mặc cảm. Nghề có thể được chọn do nhiều lý do, trong đó nhất định có lý do tính tình, hình thức thông minh và yếu tố hoàn cảnh. 2. Sự kiện một nghề được chọn vì một mặc cảm không thể xem như một điều bất lợi. Trái lại, một mặc cảm được xã hội hóa trong một nghề chứng tỏ cá tính tác động một cách lành mạnh đến những động lực của tiềm thức. Mặc cảm không được đền bù, không được thăng hoa, không được xã hội hóa sẽ gây ra những thái độ, hành động bệnh hoạn, bất thường. Sự đền bù, sự thăng hoa, sự xã hội hóa nếu thành công sẽ biến hóa và vận dụng được những xung động của mặc cảm. Nhờ đó mà những xung động của mặc cảm được sáp nhập vào cá tính, nhân cách. 3. Khuynh hướng xuất phát từ mặc cảm có thể xung đột với khuynh hướng nảy sinh ở tính tình nhưng thường thì hai bên dung hòa lẫn nhau. Trường hợp này khuynh hướng của mặc cảm làm cho thị hiếu của tính tình được chính xác hơn và giúp cho trẻ tiến thêm một bước nữa trên đường quyết định nghề nghiệp. Đại để trẻ mang một mặc cảm, tự nhiên thích một thái độ, một cử chỉ, một hành vi diễn tả được một xung động của tiềm thức phù hợp với mặc cảm. Thử đơn cử một ví dụ: Đây là những động từ diễn tả những cử động như: đốn, chặt, đẽo, cắt, chẻ, đục. Nay thử hình dung những động từ ấy, chúng ta sẽ thấy những cử động đều có tính cách khiêu khích cả. Nếu một cá nhân thích những cử chỉ khiêu khích đó thì chúng ta phải nghi từ trong tiềm thức, cá nhân mang sẵn một xung động khiêu khích. Nhưng giả sử cá nhân đó xã hội hóa xung động khiêu khích, nghĩa là chế ngự được để cho xung động có giá trị xã hội và nghề nghiệp thì chúng ta sẽ có một lão tiều phu, một gã thợ rừng, một bác thợ mộc, một cô hàng thịt, một anh thợ đá, một người thợ chạm, và mặc cảm lầm lỗi hao mòn đi, biến thành tập quán nghề nghiệp, cá nhân

127

Page 132: Mot Phuong Phap Giao Duc Moi

nhờ đó mà trở nên một kẻ yêu nghề. Một người làm nghề đốn củi, thợ mộc, bán thịt, chẻ đá, thợ chạm, có thể do gia đình hướng dẫn, do cảnh ngộ đưa đẩy, do tình thế bắt buộc, nhưng anh ta sẽ được thỏa mãn hơn trong khi hành nghề, nếu những cử động, hành vi của anh ta phù hợp với những khuynh hướng sâu xa được xã hội hóa. Tuy vậy, riêng một cử chỉ không chỉ rõ được một nghề chính xác. Ví dụ, cử chỉ đốn, chặt, đẽo, cắt, chẻ, đục… có liên quan đến một số nghề như nghề đốn củi, nghề thợ rừng, nghề bán thịt, nghề chẻ đá, nghề trạm trổ. Chúng ta có thể thêm vào anh thợ đầm đường làm việc ngoài trời, nhà điêu khắc có năng khiếu mỹ thuật. Cùng một cử chỉ có thể hướng tới nghề này nghề khác, tùy theo màu sắc tính tình và trình độ thông minh. Bạn đọc vừa thấy trong việc dạy dỗ con cái, hướng dẫn nó chọn nghề, cần phải phân tích tính tình của trẻ, tìm hiểu năng khiếu, xác định lối sống thích hợp, trắc nghiệm, ước lượng trình độ, hình thức thông minh, ngoài ra lại còn phải khám phá thị hiếu riêng nữa. Bao nhiêu công việc đòi hỏi suy nghiệm và kiên tâm. Nhưng phần thưởng đền đáp công khó của bạn là một mối vui thỏa lớn lao, thâm trầm, mối vui của cha mẹ nhìn rõ chân tướng con mình với những ưu điểm, khuyết điểm, những khả năng tiềm tàng giống như những mầm non đầy hứa hẹn trong vườn xuân. Khả năng ấy, chúng ta phát triển, mầm non ấy chúng ta vun tưới với lòng kỳ vọng mai đầy trổ hoa thơm, sai quả ngọt là hạnh phúc của con trẻ và cũng là hạnh phúc của chúng ta.

o0o

128