n i thi n n - kinhsamthatson.files.wordpress.com · niên như điển, nguyệt như thoi, vần...
TRANSCRIPT
Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An cho
biết cuối Hạ Nguơn gần ngày Tận Thế
Hội Long Hoa sẽ có một Người Thiện
Nữ học hành chưa thông dốt chữ viết
không rành văn tự ứng khẩu thuyết pháp
lộ thiên cơ; Sấm Kim Cổ Kỳ Quan của
ông Ba Nguyễn văn Thới tiên tri cuối Hạ
Nguơn sẽ có một vị Bồ Tát với hành
trạng dị kỳ xưng Đức Cậu; Sấm Giảng
Đức Huỳnh Giáo Chủ tiên tri cuối Hạ
Nguơn sẽ có vị Bồ Tát mượn xác Nữ
{Hằng Nga}.
Nay Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney
đăng bài Tự Thuật do Đức Cậu Bần Sĩ
Vô Danh ứng khẩu thuyết nói về hành
trạng của Đức Ngài.
Để biết rõ hơn về hành trạng Người
Thiện Nữ xưng Đức Cậu Bần Sĩ Vô
Danh, mời quý vị đạo hữu đọc thêm
bài “Đức Huỳnh Giáo Chủ trở về”
đăng trên trang Blog Kinh Sấm Thất
Sơn & trang facebook Mõ Tre.
Niên như điển, nguyệt như thoi,
Vần xây thế giới luân hồi chẳng chơi.
Có Người Thiện Nữ truyền lời,
Nhứt vân thiên lộ máy trời thinh thinh. ……………………………………………………………
Non đoài giữ dạ tín thành,
Thầy cho CƯ SĨ học hành chưa thông.
Anh em ai có phục tòng,
Theo TÔI học đạo phải dùng tai nghe. (Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An tr. 103 & 109,
lưu ở đình Tòng Sơn năm 1849, Nguyễn văn Hầu
biên khảo ấn tống năm 1973)
Đức Thầy tái thế mượn xác Người
Thiện Nữ học hành chưa thông, dốt viết
không rành văn tự, xưng Đức Cậu Bần Sĩ
Vô Danh dụng thần thông ứng khẩu thuyết
pháp thiên cơ đạo lý thao thao bất tuyệt, ai
muốn theo Ngài học đạo phải dùng tai
nghe. Thời đại văn minh có phương tiện
máy ghi âm cassette, băng đĩa… Khi Bồ
Tát thuyết, bạn đạo dùng máy ghi âm đưa
lên trang mạng quảng bá rộng rãi cho bá
tánh nghe. (Cuc Nguyen đăng những mp3
trên youtube do Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh
ứng khẩu thuyết)
Thơ xướng. (Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1940)
Khen ai cắc cớ bấm trời tây, *
Tỉnh giấc HẰNG NGA khéo vẽ mày. *
Một phiến linh đinh trôi mặt biển,
Nửa vừng lửng đửng dán trên mây.
Cá ngờ câu thả tơi bời lội,
Chim tưởng cung trương sập sận bay.
Nên một nên hai còn bé tuổi,
Mười lăm mười bảy bốn phương hay.
Thơ họa. (Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1940)
Mây hồng năm sắc ở phương Tây,
Sáng suốt Ô KIM bởi vẹn mày. * Ô Kim=Kim Ô
Miệng nhỏ tiếng to vang bốn biển, là mặt trời
Lưỡi mềm lời lớn dậy rồng mây.
Lòng trong Thánh Kệ tình bơi lội,
Dạ sạch Phật Kinh ý luyện bay.
Dầu cho thân Mỗ thanh xuân tuổi, Thức giấc đời mê phải được hay.
Trong bài thơ xướng, cụm từ cắc cớ có cái lý
đặc biệt là Đức Thầy tái thế thay vì như xưa nhiều
lần mượn xác Nam, thì nay cắc cớ mượn xác Nữ,
khiến phần đông bổn đạo không thể nào ngờ,
không dè, mượn xác Cô mà tại sao xưng Cậu?
{Kim Ô mà nói đảo ngược là Ô Kim}. Vì vậy họ
lo sợ Ngài là tà ma và xa lánh, ví như cá sợ mắc
lưỡi câu và chim sợ cung tên bắn.
Cá ngờ câu thả tơi bời lội,
Chim tưởng cung trương sập sận bay.
Những chữ cá chim là những từ ám chỉ người
trong bổn đạo. Vì nghịch cảnh, tà ma lộng hành,
cắc cớ Đức Thầy về phải mượn xác nữ nhằm tạo
điều kiện tiếp cận người đạo, nhưng lại khiến
người đạo vô cùng bàng hoàng lo sợ, không những
họ tránh xa Ngài, mà họ còn chê bai, khinh bỉ nhún
trề…Chỉ có những ai đại căn mới hiểu được
chuyện cắc cớ này! Đây là cơ sàng lọc tuyển chọn:
Chấp tướng chấp danh là rớt!
Cụm từ “pháo nổ lầu đài” ám chỉ tòa tháp đôi
WTC & Ngũ Giác Đài ở Mỹ bị quân khủng bố al
Qaeda đánh sập ngày 11-9-2001, chết 3000 người,
dân Mỹ & châu Âu hoảng sợ kinh hoàng.
Thầy TIÊN môn đệ tục, Tiên Trưởng
Đạo chánh tín đồ tà;
Cha hiền sanh con dữ,
Tức bụng chị HẰNG NGA. HẰNG NGA bóng vẫn sáng,
Mặc dù nhiều mây áng;
Khi ngọn gió thổi qua,
Ánh TRĂNG huờn tỏ rạng.
Tỏ rạng là ánh TRĂNG,
Mây không thể cản ngăn;
Cản ngăn chỉ phí sức,
Không thắng nổi CHỊ HẰNG.
CHỊ HẰNG soi thế gian,
Cho kẻ tối thấy đàng;
Không vì câu danh lợi,
Vạn cổ vẫn minh quang.
Minh quang tánh của TRĂNG,
Như minh quang đạo HẰNG;
Khoảng thế gian càng tối,
Ánh quang minh càng tăng. (Lá Thơ Đông Kinh Q. 1, tr.132, Bồ Tát Thanh
Sĩ viết ở Tokyo ngày 10-6-1964)
Ai biết nước xuôi nuôi nước ngược,
Bịnh căn vô dược được thọ trường.
Dị thế dị thường tường dị lộ,
Phật Trời cứu độ ngộ Phật Trời.
Dị cư dị thời lời dị thuyết,
Dị đoan dị tiếc kiết dị minh.
Dị sự dị ninh linh dị pháp,
Vô nhơn đối đáp pháp thinh không.
Đức Thầy Đức Ông công Đức Cậu,
Hội Đồng cơ hậu đậu trào Minh.
Phép phép linh linh ninh quốc sự,
Nhơn dân vô lự tự an khương.
An quốc an Vương khương thới nhạc,
Di Đà Di Lạc đạt Vi Vô. (Kim Cổ Kỳ Quan, Cáo Thị 83: 85, Ông Ba Nguyễn văn
Thới viết năm 1915)
Ông Ba Thới tiên tri gần ngày Tận Thế
và Hội Long Hoa, sẽ có một đấng Bồ Tát xưng
ĐỨC CẬU giáng trần với hành trạng nhiều đặc
điểm: dị thế, dị thường, dị lộ, dị thuyết, dị pháp,
dị cư, dị thời, dị sự, và hành đạo tưởng như dị
đoan tà giáo, nhưng mà có phép mầu dị linh
khiến người dân được an khương thời Di Lạc
Phật Vương sắp tới. Thánh địa Di Lạc ở miền
Nam VN.
Dị thế là Bồ Tát ra đời thuyết pháp nhằm thời
ma chướng hoành hành; Dị thường là Bồ Tát có
hành trạng kỳ lạ, ví như mượn xác Nữ mà xưng
là Đức Cậu; Dị thuyết là thuyết pháp khác
thường, khi ngâm nga ca hát, khi rao đờn, khi
rao giọng lôtô; Dị pháp là pháp khác thường, kỳ
lạ tưởng chừng như dị đoan nhưng có phép linh
nhiệm mầu khó nghĩ bàn; Dị cư là Bồ Tát thuyết
pháp mà mang hành trạng Cư Sĩ tại gia xưng
khùng điên, không xuất gia ở chùa; Dị sự là Bồ
Tát làm những chuyện kỳ cục khó hiểu, hư hư
thực thực… Tất cả những điều dị kỳ đó của Đức
Cậu kết hợp thành pháp linh rất mầu nhiệm.
Dị sự dị ninh linh dị pháp,
Vô nhơn đối đáp pháp thinh không.
Đức Thầy Đức Ông công Đức Cậu, *
Hội Đồng cơ hậu đậu trào Minh.
Phụ lục: Minh họa hành trạng Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ trở về.
Tưởng rằng CẬU ở lầu son,
Con tìm gặp CẬU thon von châu mày.
Tưởng rằng CẬU ở lầu đài,
Ai dè CẬU tợ ăn mày tả tơi.
Tưởng rằng CẬU ở ngôi trời,
Xác thân đẹp đẽ tuyệt vời xa xa.
Ai ngờ như quỷ như ma,
Nói đây đồng đạo cả nhà mến thương.
Tưởng rằng CẬU ở tòa chương,
Đâu ngờ CẬU lại phơi xương biển hồ.
Tưởng rằng má phấn đắp tô,
Ai dè ngó CẬU trầm trồ biết bao !
Ăn xin thân phận ngạt ngào,
Xin ân xin đức đồng bào ráng cho.
Xin Thầy độ bữa cơm no,
Thân Này khổ sở biển gò sang qua.
Tưởng rằng CẬU ở cung nga,
Dè đâu không cửa không nhà dân ơi.
Tưởng rằng CẬU đã ngao chơi,
Dè đâu vâng lịnh ngôi Trời phải lâm.
Tưởng rằng đeo đẳng vàng râm,
Ai dè CẬU lại giả câm giả khùng.
Tưởng rằng CẬU lại anh hùng,
Dè đâu CẬU khổ Cậu khùng ngày nay.
Bá gia bá tánh an bài,
Nhắc cho đồng đạo ngày nay đặng nhờ.
Tưởng rằng CẬU hãy tôn thờ,
Ai dè trôi dạt bên bờ sông dương.
Thôi thôi từ giã muôn đường,
CẬU cười ba tiếng dân nhường cùng nhau.
Cười rằng cơm đói cháo rau,
Một ngày một bữa chùi lau vui vầy.
Cười rằng mất chức mất thầy,
Mất nhà mất cửa giờ này tan hoang.
Cười rằng dân chúng trần gian,
Thật là ngu muội giang san trôi rồi.
Cười rằng dân chúng ôi thôi,
Tại đời bạc bẽo như vôi kia kìa.
Cười rằng dân tộc rẽ chia,
Cười rằng không thức canh khuya sưu tầm.
Cười rằng dân chúng còn lầm,
Lầm TA xuống thế tay cầm ngọc châu.
Lầm TA ở chốn đảnh đầu,
Dè đâu mượn xác công hầu bày khai.
Lầm TA lại hỡi con trai, *
Hay là con gái ngày mai rồi tường.
Lầm TA phải chịu oan ương,
Nói đây cô bác đoạn trường biết bao !
Ô Kim - Cậu hồn Nam
Hằng Nga - Cô xác Nữ
Để hiểu rõ hơn cụm từ Hằng Nga
& Ô Kim, mời quý vị đọc thêm bài
xướng họa Hằng Nga của Đức
Huỳnh Giao Chủ.
Thôi thôi kính chúc đồng bào,
Buổi chiều CẬU nói ngạt ngào vô biên.
Ở đây kính chúc đạo hiền,
Chúc cầu anh chị bốn miền âu lo.
Thôi thôi đừng sợ đói no,
Ráng tu ráng sửa qua đò nay mai.
Biết rằng đời tục không lai,
Đời Tiên gần đến nay mai rồi tường.
Thôi nghe CẬU ráng nhẫn nhường,
Nhẫn người qua được đoạn đường thoát nguy.
Nhường người mở lối ta đi,
Đừng sợ ai có khinh khi chi mình.
Cứ tu CẬU lại cầu xin,
Cầu xin cho chúng rửa mình sạch trong.
Đừng tưởng CẬU ở non bồng,
Cậu ở dưới thế toại lòng cùng nhau.
Tu xin bá tánh ngạt ngào,
Gởi thơ thăm hết đồng bào bốn phương.
Thôi thôi bút mục phô trương,
Khùng Điên tỏ hết đoạn trường canh thâu.
Nói ra bút mực đôi câu,
Gởi cùng Bần Sĩ ngõ hầu tâm nao.
Kính thưa anh chị Kinh Đào,
Buổi chiều CẬU viếng đồng bào CẬU thăm.
Thấy người cũng được thâm tâm,
Vui mừng CẬU lại nhiều năm tuyệt vời.
Nay mai CẬU sẽ xa vời,
Giã từ đồng đạo đôi lời cậu khuyên.
Giã từ ĐỨC CẬU Khùng Điên,
Đặng mà CẬU lái con thuyền ra đi.
Giã từ đôi khúc ai bi,
Chừng nào trở lại ra thi bớ trò.
Thi rằng nơi chốn ráng lo,
Ráng lo cầu nguyện CẬU cho sau này.
Ráng cầu nguyện Phật nguyện Thầy,
Đặng CẬU về tới sửa xây cho mình.
CẬU đi bá tánh chúng sinh,
Không cầu đi mãi rung rinh cửa trời.
Giã từ đồng đạo nơi mơi,
Cậu đi nơi khác tuyệt vời kính khuyên.
Giã từ đồng đạo vô biên,
Đến thăm một chút sĩ hiền rõ chưa ?
Rõ rồi sớm muối chiều dưa,
Rõ rồi ĐỨC CẬU mới đưa thơ đề.
Rõ rồi ĐỨC CẬU mới về,
Rõ rồi ĐỨC CẬU mới kề thi văn.
Giã từ sự khổ khó khăn,
Lui thuyền trở lại sáng trăng trong lòng.
CẬU về nơi cõi rừng tòng,
Hay là ven biển mênh mông đại ngàn.
Thuyền kia qua lại rước ngang,
Thôi thôi từ giã đạo tràng bình yên.
Chúc cho bá tánh thị thiềng,
Thật là vô lượng vô biên chỗ này. (trích mặt B băng cassette ghi âm Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết pháp ở Kinh Đào, kết tập sách Phật Di Lạc
Giáng Thế tr. 119-123, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 1998)
Sydney, 17-5-2018, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo (facebook Mõ Tre) * https://kinhsamthatson.wordpress.com/