n Án tiẾn sĨ sinh hỌc -...
TRANSCRIPT
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN VĂN HOÀNG
NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG SINH THÁI HỌC QUẦN THỂ
NHẰM ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP BẢO TỒN LOÀI RỒNG ĐẤT
(Physignathus cocincinus Cuvier, 1829)
Ở THỪA THIÊN HUẾ
Chuyên ngành: Động vật học
Mã số: 62 42 01 03
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS. NGÔ ĐẮC CHỨNG
PGS.TS. NGUYỄN QUẢNG TRƯỜNG
HUẾ - NĂM 2018
Công trình được hoàn thành tại: ................................................
..................................................................................................
Người hướng dẫn khoa học:
1. GS.TS. Ngô Đắc Chứng
2. PGS.TS. Nguyễn Quảng Trường
1. Phản biện 1: ..........................................................................
..................................................................................................
2. Phản biện 2: ..........................................................................
..................................................................................................
3. Phản biện 3: ..........................................................................
..................................................................................................
Luận án sẽ được bảo vệ tại hội đồng chấm luận án cấp Đại học Huế họp tại: ...............................................................................
Vào hồi, ….. giờ ….. ngày ….. tháng ….. năm …..
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: ...........................................
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Rồng đất Physignathus cocincinus được Cuvier mô tả loài dựa trên mẫu chuẩn thu được ở miền Nam Việt Nam, loài này phân bố
khá rộng ở rừng nhiệt đới từ Nam Trung Quốc qua Việt Nam, Lào,
về phía Nam tới Thái Lan. Ở Thừa Thiên Huế, Rồng đất phân bố ở rừng thường xanh thuộc các huyện A Lưới, Hương Thủy, Hương Trà,
Phú Lộc và Nam Đông. Rồng đất được xếp hạng ở bậc VU (sẽ nguy
cấp) trong Sách Đỏ Việt Nam (2007). Tuy nhiên, quần thể loài này
đang bị săn bắt quá mức để làm thức ăn đặc sản và buôn bán ở thị trường trong và ngoài nước. Nhiều công trình xây dựng giao thông
xuyên qua các khu rừng, chặt phá rừng, đốt rừng làm nương rẫy cũng
là nguyên nhân làm suy giảm hoặc mất sinh cảnh sống của loài này. Nghiên cứu Rồng đất trên thế giới và ở Việt Nam tập trung vào mô tả
đặc điểm hình thái và ghi nhận phân bố. Năm 2007, có nghiên cứu về
đặc điểm dinh dưỡng và sinh sản của Rồng đất trong điều kiện nuôi
nhốt ở huyện Nam Đông tỉnh Thừa Thiên Huế. Năm 2009, có nghiên cứu khả năng sinh sản và tăng trưởng của loài này trong điều kiện
nuôi nhốt ở tỉnh Bến Tre, nguồn con giống thu từ Nam Đông, Thừa
Thiên Huế và Đăk Nông, năm 2012 có nghiên cứu thử nghiệm nuôi làm cảnh Rồng đất.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá được hiện trạng quần thể, đặc điểm sinh thái, phân bố và dinh dưỡng của loài Rồng đất
Physignathus cocincinus trong điều kiện tự nhiên và đề xuất biện
pháp bảo tồn loài này ở tỉnh Thừa Thiên Huế.
3. Nội dung nghiên cứu
3.1. Đánh giá hiện trạng quần thể của loài Rồng đất ở Phong Điền,
A Lưới và Nam Đông
- Ước tính mật độ quần thể; - Ước tính kích thước quần thể;
- Đánh giá cấu trúc quần thể theo địa điểm nghiên cứu, theo
nhóm tuổi và theo giới tính.
3.2. Đánh giá đặc điểm phân bố và sinh thái
- Phân bố của Rồng đất theo đai độ cao và sinh cảnh;
- Đặc điểm vi môi trường sống và phạm vi hoạt động;
- Phương thức hoạt động.
3.3. Thành phần thức ăn của Rồng đất
2
- Thành phần thức ăn theo địa điểm nghiên cứu;
- Thành phần thức ăn theo dạng sinh cảnh, theo nhóm tuổi và
theo giới tính.
3.4. Đánh giá nhân tố tác động và đề xuất các kiến nghị đối
với công tác bảo tồn và sử dụng bền vững loài Rồng đất
- Xác định các nhân tố đe dọa đến sinh cảnh sống và quần thể của loài.
- Đề xuất bảo vệ sinh cảnh sống và sử dụng bền vững Rồng đất.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận án này cung cấp dẫn liệu cập nhật về hiện trạng quần thể làm cơ sở khoa học để đưa loài này vào Danh
lục Đỏ IUCN và công tác quy hoạch bảo tồn loài Rồng đất ở tỉnh
Thừa Thiên Huế. Các số liệu về đặc điểm sinh thái và dinh dưỡng là thông tin hữu ích góp phần xây dựng quy trình nhân nuôi, phát triển
loài bò sát đang bị đe dọa này ở tỉnh Thừa Thiên Huế cũng như nhân
rộng ra các địa phương khác.
5. Những đóng góp mới của đề tài - Lần đầu tiên đóng góp thông tin về hiện trạng và cấu trúc
quần thể loài Rồng đất trong điều kiện tự nhiên ở Thừa Thiên Huế.
- Xác định đặc điểm phân bố, phương thức hoạt động và sử dụng vi môi trường sống của loài Rồng đất trong điều kiện tự nhiên.
- Xác định thành phần thức ăn, các nhóm thức ăn quan trọng
của loài Rồng đất trong điều kiện tự nhiên. - Xác định được các nhân tố tác động đến sinh cảnh sống và
quần thể loài Rồng đất ở khu vực nghiên cứu. Đã đề xuất biện pháp
bảo tồn và phát triển bền vững loài Rồng đất ở tỉnh Thừa Thiên Huế.
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Qua các tài liệu đã tham khảo trên thế giới như: Cuvier (1829),
Duméril và Bibron (1837), Boulenger (1885), Barbour (1912), Smith
(1935), Taylor (1963), Nabhitabhata et al. (2000), Teynie et al. (2004), To (2005), Stuart et al. (2006), Grismer et al. (2007), Grismer
et al. (2008a, 2008b), Hartmann et al. (2013) cho thấy nghiên cứu
Rồng đất chỉ tập trung mô tả đặc điểm hình thái và ghi nhận phân bố
ở các quốc gia như: Trung Quốc, Thái Lan, Lào, Campuchia. Nghiên cứu sinh thái học của Rồng đất trong điều kiện nuôi nhốt có: Smith
3
(1935), Vosjoli (1992), Kaplan (1997), Foster và Smith (1997); Các
công bố trên nêu một số kinh nghiệm nuôi nhốt Rồng đất làm cảnh,
chưa có đề xuất cụ thể từ nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái của loài ngoài tự nhiên để áp dụng trong điều kiện nuôi nhốt.
Ở Việt Nam, các nghiên cứu lưỡng cư và bò sát ở Đông Dương
của Bourret (1937, 1940, 1943) và nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học ở Việt Nam cũng chỉ mô tả đặc điểm hình thái,
phân bố, nơi ở của loài Rồng đất tại nhiều địa điểm thuộc các vùng
miền núi từ Bắc vào Nam. Nghiên cứu khả năng sinh sản và tăng
trưởng của Rồng đất trong điều kiện nuôi nhốt có Ngô Đắc Chứng và cs. (2007), Ngô Đắc Chứng và Bùi Thị Thúy Bắc (2009). Vì vậy,
nghiên cứu hiện trạng sinh thái học quần thể nhằm đề xuất biện pháp
bảo tồn loài Rồng đất (Physignathus cocincinus Cuvier, 1829) ở Thừa Thiên Huế là cần thiết để cung cấp dẫn liệu khoa học cho
những nghiên cứu tiếp theo và nhất là thực tiễn cho công tác bảo tồn,
sử dụng bền vững loài bò sát đang bị đe dọa này.
CHƢƠNG 2
ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN, ĐỐI TƢỢNG VÀ
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1.2. Thời gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu được thực hiện từ
tháng 8 năm 2014 đến tháng 8 năm 2017. 2.2. Đối tƣợng nghiên cứu: Loài Rồng đất (Physignathus cocincinus
Cuvier, 1829), họ Nhông (Agamidae), bộ Có vảy (Squamata), lớp Bò
sát (Reptilia). Tên gọi tại khu vực nghiên cứu là Nhông xanh.
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1. Khảo sát thực địa
2.3.1.1. Dụng cụ: Máy ảnh, đèn soi, định vị GPS, thước kẹp điện tử
và thước dây, cân điện tử, máy đo nhiệt độ và độ ẩm, máy đo nhiệt độ cơ thể và bề mặt bám. Bút xóa để đánh dấu và nhãn đánh dấu
buộc vào vị trí Rồng đất bám. Lọ nhựa có dán nhãn đựng mẫu thức
ăn, cồn 70%, bộ dụng cụ rửa dạ dày và phiếu giám sát.
4
2.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.1.1. Địa điểm: Sinh cảnh ven bờ suối trong rừng thuộc huyện A
Lưới, Nam Đông và Phong Điền. Phỏng vấn về tình hình săn bắt, mua bán và sử dụng Rồng đất ở ba địa điểm nghiên cứu và một số
nhà hàng có mua bán và sử dụng động vật rừng ở thành phố Huế
(Hình 2.1). 2.3.1.2. Khảo sát theo tuyến: Khảo sát 11 tuyến dọc theo các suối ở
ba sinh cảnh: sinh cảnh rừng nguyên sinh, sinh cảnh rừng nguyên
sinh xen lẫn rừng thứ sinh, sinh cảnh rừng thứ sinh xen lẫn rừng
trồng (Bảng 2.1). 2.3.1.3. Thu thập số liệu điều kiện môi trường sống và mẫu vật:
- Ghi nhận điều kiện vi khí hậu: Đo nhiệt độ không khí và độ
ẩm tương đối nơi phát hiện Rồng đất. Ghi nhận về thời tiết như: trời mưa, nắng, âm u. Đo nhiệt độ bề mặt tại vị trí Rồng đất bám và nhiệt
độ cơ thể Rồng đất để đánh giá sự thay đổi nhiệt độ cơ thể của Rồng
đất theo nhiệt độ môi trường, ghi nhận về thời tiết.
Hình 2.1. Bản đồ các địa điểm khảo sát, nghiên cứu Rồng đất
ở vùng núi tỉnh Thừa Thiên Huế
- Ghi nhận vi môi trường sống: Loại bề mặt bám: cành cây, tán lá, dây leo, trên đá, bãi cát, thảm cỏ,… Xác định đặc điểm suối tại
nơi bắt gặp Rồng đất; Đo khoảng cách từ con vật bám đến mặt nước
5
B
(m), khoảng cách được tính vuông góc từ vị trí con vật bám đến giữa
suối. Ước tính độ che phủ rừng (%) nơi con vật bám, ghi nhận tọa độ
và độ cao tại vị trí phát hiện Rồng đất. - Quan sát tập tính hoạt động và đặc điểm hình thái: Quan sát
các hoạt động của Rồng đất và ghi lại các thông tin như: tập tính săn
mồi, tập tính quan sát và chờ đợi, tập tính phơi nắng, hoạt động sinh sản, đánh nhau,... ghi nhận điều kiện vi khí hậu và vi môi trường sống.
Thu mẫu Rồng đất, quan sát các đặc điểm sinh dục thứ cấp như: màu
sắc cơ thể, mức độ phát triển của gai gáy, gai lưng, lỗ đùi, các hàng
vảy dưới cằm, cân trọng lượng cơ thể và đo các chỉ số hình thái. - Thu mẫu thức ăn của Rồng đất: Thu mẫu thức ăn trong dạ
dày Rồng đất theo phương pháp của Solé et al. (2005).
- Ước tính mật độ và kích thước quần thể Rồng đất bằng phương pháp “bắt - đánh dấu - thả - bắt lại” được áp dụng theo Van
Schingen et al. (2014).
Bảng 2.1. Các tuyến (suối) khảo sát tại Phong Điền, Nam Đông và
A Lƣới, tỉnh Thừa Thiên Huế Địa
điểm Tuyến
Tọa độ điểm
đầu
Tọa độ điểm
cuối
Độ cao
(m)
Chiều dài
tuyến (m)
Phong Điền
T-1 N 16o28' 24.9'' E 107o18'08.9''
N 16o28' 04.8'' E 107o18'54.7''
44-90 860
T-2 N 16o28' 06.2'' E 107o18'38.5''
N 16o28' 04.8'' E 107o18'5.4''
43-75 1.300
A Lưới
T-3 N 16o04'55.3'' E 107o28'87.9''
N 16o04'61.9'' E 107o28'87.9''
706-780 320
T-4 N 16o05'14.1''
E 107o27'32.6''
N 16o05'21.2''
E 107o27'33.6'' 720-820 250
T-5 N 16o05'12.6'' E 107o28'67.6''
N 16o05'26.4'' E 107o28'86.1''
623-770 420
T-6 N 16o09'27.4'' E 107o27'01.0''
N 16o09'17.3'' E 107o26'48.1''
176-250 950
T-7 N 16o09'20.2''
E 107o27'15.1''
N 16o09'10.8''
E 107o27'03.9'' 179-214 700
Nam Đông
T-8 N 16o07'55.9'' E 107o48'11.2''
N 16o07'32.9'' E 107o48'06.5''
129-179 1.400
T-9 N 16o08'22.6'' E 107o48'52.9''
N 16o08'51.4'' E 107o48'56.9''
173-269 1.300
T-10 N 16o08'11.4''
E 107o47'57.8''
N 16o08'22.6''
E 107o48'16.9'' 111-145 1.000
T-11 N 16o08'22.9'' E 107o47'22.2''
N 16o08'32.6'' E 107o47'18.2''
105-129 460
2.3.2. Đánh giá hiện trạng, cấu trúc quần thể và đặc điểm dinh dưỡng
6
2.3.3.1. Xác định tuổi: Phân chia Rồng đất thành ba nhóm tuổi:
trưởng thành có SVL ˃ 140 mm, gần trưởng thành có 100 mm <
SVL ≤ 140 mm và con non có SVL ≤ 100 mm. 2.3.2.2. Xác định giới tính: Xác định giới tính dựa vào SVL và các
đặc điểm sinh dục thứ cấp. Đánh giá sai khác về kích thước (SSD-
Sexual Size Dimorphism) giữa con đực và con cái trưởng thành theo Cox et al. (2003), Ngô Đắc Chứng và Nguyễn Quảng Trường (2015):
SSD = [SVL trung bình của con đực/SVL trung bình của con cái] - 1
2.3.2.3. Ước tính mật độ quần thể: Áp dụng công thức của Regassa &
Yirga (2013) là: D = n×s/(2L×W), có điều chỉnh theo tập tính sống của loài này: D = n×s/[L×(W1 + W2)].
Trong đó: D là mật độ quần thể ước tính; n là số nhóm cá thể
nhìn thấy được; s là giá trị trung bình số cá thể/nhóm; L là chiều dài tuyến khảo sát; W1 và W2 là khoảng cách trung bình theo đường
vuông góc của nhóm cá thể nhìn thấy được bên phải và bên trái
tuyến.
2.3.2.4. Ước tính kích thước quần thể - Chỉ số Schnabel: áp dụng với những tuyến nghiên cứu được
lặp lại khảo sát nhiều lần theo công thức sau:
m
i
i
m
i
ii
R
CM
N
1
1
Trong đó: N là kích thước quần thể ước tính; Mi là tổng số cá
thể đã đánh dấu ở lần khảo sát thứ i; Ci là số cá thể bắt gặp ở lần khảo sát thứ i; Ri là số cá thể bắt gặp lại ở lần khảo sát thứ i.
Với mức sai số tính theo Schlüpmann, Kupfer (2009):
2)1(
196,1%)95(
k
i PPkk
PVB
Trong đó: k là số cá thể bắt lại; Pi là số cá thể bắt gặp ở lần
khảo sát thứ i.
- Chỉ số Lincoln & Petersen: Áp dụng với những tuyến khảo sát lặp lại chỉ một lần theo công thức sau:
2
21
m
nnP
Trong đó: P là kích cỡ quần thể ước tính; n1 là số cá thể được
7
đánh dấu và thả lại trong lần khảo sát thứ nhất; n2 là số cá thể mới
đánh dấu trong lần khảo sát thứ hai; m2 là số cá thể bắt gặp lại.
2.3.2.5. Xác định loại thức ăn: Tài liệu định loại mẫu côn trùng và động vật không xương sống dựa theo Millar et al. (2000),
Triplehorn & Johnson (2005) và Edward et al. (2004).
Thể tích mẫu thức ăn được tính theo công thức sau:
Trong đó: V là thể tích mẫu thức ăn (mm3), L là chiều dài mẫu
thức ăn (mm), W là chiều rộng mẫu thức ăn (mm, phần rộng nhất)
(Magnusson et al., 2003). Chỉ số quan trọng (Index of Relative Importance, IRI) loại thức
ăn được tính theo theo công thức sau:
Trong đó: IRI là chỉ số quan trọng, F% là tần suất xuất hiện loại thức ăn, N% là phần trăm số lượng từng loại thức ăn, V% là
phần trăm thể tích từng loại thức ăn (Caldart et al., 2012).
Dùng chỉ số đa dạng Simpson (1949) để tính đa dạng về thành phần thức ăn của Rồng đất, công thức tính như sau:
∑
Trong đó: D là chỉ số đa dạng, ni là số lượng mẫu thức ăn
trong loại thức ăn thứ i, N là tổng số mẫu thức ăn của các loại thức
ăn. Chỉ số đa dạng được trình bày dưới dạng nghịch đảo 1/D, khi 1/D
càng lớn thì đa dạng càng cao. Ứớc tính mức độ đồng đều giữa các loại thức ăn của Rồng đất,
sử dụng chỉ số Shannon’s evenness, công thức tính như sau:
Trong đó: E là chỉ số đồng đều (0 < E ≤ 1), khi E = 1 thì độ
đồng đều cao nhất, Hmax = lnS (S là tổng số loại thức ăn của bộ mẫu),
H’ là chỉ số đa dạng Shannon-Weiner.
Chỉ số H’ được tính như sau:
∑
Trong đó: pi = ni/N (ni là số lượng mẫu thức ăn trong loại thức ăn thứ i, N là tổng số mẫu thức ăn của các loại thức ăn).
Sử dụng phương pháp Rarefaction để đánh giá số lượng loại
8
B A
20 mm 20 mm
thức ăn kỳ vọng giữa cá thể trưởng thành, gần trưởng thành và con
non (mức độ tin cậy 95%). Công thức tính toán như sau:
∑[ (
)
( )
]
Trong đó: E(Sn) là số lượng loại thức ăn kỳ vọng, S là tổng số
các loại thức ăn, Ni là số lượng mẫu thức ăn thứ i, N là tổng số mẫu
thức ăn trong bộ mẫu, n là giá trị kích thước mẫu được chọn ngẫu
nhiên từ sự chuẩn hóa (n ≤ N) và ( ) là số lượng kết
hợp của n mục thức ăn có thể được chọn ra từ một tập hợp của N mẫu
thức ăn (Hurlbert, 1971; Simberloff, 1972; Krebs, 1999).
2.3.2.6. Xác định các nhân tố đe dọa và đề xuất các biện pháp bảo tồn - Các nhân tố đe dọa đến sinh cảnh sống của loài.
- Đánh giá hiện trạng khai thác và sử dụng.
- Xác định địa điểm ưu tiên bảo tồn theo hình thức xếp hạng bằng cách chấm điểm theo các tiêu chí cho từng địa điểm nghiên cứu.
2.3.2.7. Xử lý số liệu và phân tích thống kê: Kiểm tra mức sai khác ý
nghĩa bằng phần mềm MINITAB 16.0 và SPSS 19.0. Các biểu đồ được vẽ trên phần mềm OriginPro 8.5.1 và SigmaPlot 12.0.
CHƢƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Hiện trạng quần thể
3.1.1. Cấu trúc quần thể
3.1.1.1. Đặc điểm hình thái
Đã xác định trọng lượng cơ thể và đo 15 chỉ số hình thái của 250 cá thể Rồng đất thuộc ba nhóm tuổi và giới tính ở ba địa điểm
nghiên cứu. Về sai khác giới tính, kích cỡ con đực trưởng thành
thường lớn hơn con cái trưởng thành (Hình 3.1).
Hình 3.1. Rồng đất trƣởng thành (A: con đực, SVL = 260 mm;
B: con cái, SVL = 165 mm)
9
Hình 3.2. Con đực: mào gáy (A), hàng vảy dƣới cằm (B), lỗ đùi (C);
Con cái: mào gáy (D), vảy dƣới cằm (E), lỗ đùi (F)
Căn cứ vào chiều dài mút mõm-lỗ huyệt (SVL), các cá thể Rồng đất có SVL từ 140 mm trở lên là trưởng thành, vì các đặc điểm
sinh dục thứ cấp đã phát triển đầy đủ, có thể phân biệt được rõ giới
tính của từng cá thể (Hình 3.2). 3.1.1.2. Mối quan hệ giữa kích cỡ và trọng lượng cơ thể
Đã đo 15 chỉ số hình thái của Rồng đất ở ba nhóm tuổi. Chỉ số
SSD dương (SSD = 0,21), chứng tỏ ở loài Rồng đất, con đực và con
cái có sự sai khác về SVL. Các chỉ số đo về kích thước đầu như: AG, HL, HW, HH ở con đực đều lớn hơn con cái.
Mối quan hệ giữa SVL và trọng lượng cơ thể Rồng đất (W)
được biểu thị qua phương trình hồi quy tuyến tính: W = 1,987×SVL - 2,226 (F1,200 = 353,76, P < 0,0001), với R
2 = 0,64 được đánh giá có
mối quan hệ chặt chẽ. Mối quan hệ giữa SVL và HL được biểu thị
qua phương trình hồi quy tuyến tính: HL = 0,936×SVL - 0,402, với R
2 = 0,943 (F1,197 = 211,60, P < 0,0001). Mối quan hệ giữa SVL và
HW được biểu thị qua phương trình hồi quy tuyến tính: HW =
0,479×SVL - 0,243, với R2 = 0,892 (F1,197 = 1.620,96, P < 0,0001).
Mối quan hệ giữa SVL và HH cũng được biểu thị phương trình hồi quy: HH = 0,817×SVL - 0,427, với R
2 = 0,891 (F1,196 = 1.598,62, P <
0,0001).
3.1.1.3. Cấu trúc quần thể - Cấu trúc tuổi:
Ở A Lưới: Năm 2016, kết quả hai đợt khảo sát ghi nhận số
lượng nhóm con non nhiều nhất (46,6%), sau đó là nhóm gần trưởng thành (31,4%), thấp nhất là nhóm trưởng thành (22,0%).
A B
D
C
E F
10
Ở Phong Điền: Năm 2017, cấu trúc tuổi Rồng đất thay đổi theo
thời gian: trong tháng 4 nhóm con non chiếm ưu thế, sau đó là nhóm
tuổi trưởng thành; trong tháng 6 tuổi gần trưởng thành chiếm ưu thế, sau đó nhóm tuổi trưởng thành. Hai đợt khảo sát, nhóm con non
nhiều nhất (45,9%), sau đó là nhóm gần trưởng thành (29,6%), thấp
nhất là nhóm trưởng thành (24,5%). Chứng tỏ, cấu trúc tuổi Rồng đất tại các tuyến này thay đổi theo chiều hướng ổn định.
Ở Nam Đông: Năm 2017, số lượng cá thể các nhóm tuổi đều
giảm trên các tuyến khảo sát, đặc biệt nhóm trưởng thành giảm mạnh.
Nhóm con non nhiều nhất (60,0%), sau đó là nhóm gần trưởng thành (24,9%), thấp nhất là nhóm trưởng thành (9,1%). Cấu trúc tuổi Rồng
đất ở Nam Đông thay đổi theo hướng không ổn định.
Cấu trúc tuổi Rồng đất ở A Lưới, Nam Đông và Phong Điền ghi nhận nhóm con non nhiều nhất (52,9%), nhóm gần trưởng thành
(28,6%), nhỏ nhất là nhóm trưởng thành (18,5%).
- Cấu trúc giới tính:
Ở A Lưới: Hai đợt khảo sát ghi nhận số lượng con cái (19,5%) nhiều hơn con đực (18,6%), tuy nhiên, sự chênh lệch giữa đực và cái
không nhiều. Ở Phong Điền: Hai đợt khảo sát ghi nhận số lượng con
cái (24,0%) nhiều hơn 1,5 lần con đực (14,8%). Ở Nam Đông: Hai đợt khảo sát ghi nhận số lượng con cái (15,4%) nhiều hơn gấp hai lần
con đực (6,6%). Như vậy, cấu trúc giới tính Rồng đất ở ba địa điểm
nghiên cứu A Lưới, Phong Điền và Nam Đông qua hai đợt khảo sát ghi nhận con cái (18,4%) nhiều hơn con đực (13,1%).
3.1.2. Mật độ quần thể
3.1.2.1. Ở Phong Điền: Năm 2017, ước tính mật độ quần thể Rồng
đất trên hai tuyến trong tháng 4 là 93 cá thể/10.000 m2, trong tháng 6
là 101 cá thể/10.000 m2. Trung bình tháng 4 và tháng 6 khoảng 97 cá
thể/10.000 m2. Mật độ quần thể Rồng đất tăng nhưng không đáng kể.
3.1.2.2. Ở A Lưới: Ước tính mật độ quần thể Rồng đất trên năm tuyến trong tháng 4 và tháng 6 năm 2016 khoảng 44 cá thể/10.000
m2. Ước tính mật độ quần thể Rồng đất hai tuyến vào tháng 6/2017
khoảng 64 cá thể/10.000 m2.
3.1.2.3. Ở Nam Đông: Trong tháng 4 và tháng 6 năm 2017, ước tính mật
độ quần thể Rồng đất trên bốn tuyến khoảng 28 cá thể/10.000 m2.
Mật độ Rồng đất vào tháng 6 có xu hướng giảm so với tháng 4
trong cùng một năm, nguyên nhân chính do săn bắt quá mức, đặc biệt, ở Nam Đông và A Lưới. Ước tính mật độ quần thể Rồng đất ở
11
Phong Điền cao nhất (khoảng 97 cá thể/10.000 m2), A Lưới khoảng
44 cá thể/10.000 m2 và thấp nhất là Nam Đông (28 cá thể/10.000 m
2).
Mật độ quần thể loài Rồng đất ở ba địa điểm nghiên cứu chênh lệch khá nhiều. Mật độ quần thể Rồng đất phân bố ở đai độ cao dưới 100
m (97 cá thể/10.000 m2)
nhiều hơn gấp hai lần so với độ cao từ 100-
300 m (48 cá thể/10.000 m2) và hơn gấp ba lần so với đai độ cao từ
600-800 m (27 cá thể/10.000 m2).
3.1.3. Kích thước quần thể
3.1.3.1. Ở A Lưới: Năm 2016, khảo sát hai đợt trên năm tuyến (dài
2.640 m). Tháng 4 ước tính kích thước quần thể nhiều nhất tại tuyến T-7 (38 cá thể), tiếp theo là tuyến T-6 (35 cá thể), tuyến T-5 có 12 cá
thể, ít nhất là tuyến T-3 và T-4 có 6 cá thể/tuyến. Tổng cộng trong
tháng 4 ước tính kích thước quần thể Rồng đất được 97 cá thể/năm tuyến. Tháng 6 khảo sát lặp lại năm tuyến trên, ước tính kích thước
quần thể Rồng đất tuyến T-6 nhiều nhất (42 cá thể), tiếp theo là tuyến
T-7 có 33 cá thể, tuyến T-4 có 9 cá thể, tuyến T-5 có 6 cá thể và ít
nhất là tuyến T-3 có 5 cá thể, tổng cộng tháng 6 ước tính được 95 cá thể. Trung bình trong tháng 4 và tháng 6 năm 2016 ước tính kích
thước quần thể Rồng đất tại năm tuyến được 96 cá thể.
Năm 2017, tháng 6 khảo sát hai tuyến T-6 và T-7 (dài 1.650 m), ước tính kích thước quần thể Rồng đất tại tuyến T-6 được 35 cá
thể, tuyến T-7 được 24 cá thể. Trong tháng 6 ước tính tại tuyến T-6
và T-7 là 59 cá thể. So sánh hai tuyến T-6 và T-7 của năm 2016 (75 cá thể) và năm 2017 (59 cá thể) cho thấy kích thước quần thể Rồng
đất giảm rõ rệt, có thể các tuyến này đang bị tác động.
3.1.3.2. Ở Phong Điền: Năm 2017, khảo sát hai tuyến T-1 và T-2 (dài
2.160 m). Tháng 4, ước tính kích thước quần thể Rồng đất tại tuyến T-2 được 124 cá thể. Tháng 6, ước tính kích thước quần thể Rồng đất
tại tuyến T-1 được 56 cá thể, tuyến T-2 được 87 cá thể. Tổng cộng
tháng 6 ước tính kích thước quần thể Rồng đất tại hai tuyến được 143 cá thể. Trung bình trong tháng 4 và tháng 6 ước tính kích thước quần
thể Rồng đất trên hai tuyến T-1 và T-2 là 81 cá thể. Số lượng Rồng
đất tại tuyến T-2 giảm rõ rệt qua hai đợt khảo sát, chứng tỏ ở tuyến T-2 quần thể Rồng đất đang bị săn bắt quá mức.
3.1.3.3. Ở Nam Đông: Năm 2107 đã khảo sát hai đợt trên bốn tuyến T-
8, T-9, T-10 và T-11 (dài 4.160 m). Tháng 4, khảo sát hai tuyến T-8 và
T-9 (dài 2.700 m), ước tính kích thước quần thể Rồng đất tại tuyến T-8 là 74 cá thể, tuyến T-9 là 52 cá thể. Tổng cộng trong tháng 4 ước tính
12
kích thước quần thể Rồng đất trên hai tuyến khảo sát là 126 cá thể.
Tháng 6, khảo sát hai tuyến T-10 và T-11, riêng tuyến T-11 chỉ khảo
sát một lần, vì vậy không ước tính kích thước quần thể Rồng đất tại tuyến này. Ước tính kích thước quần thể Rồng đất tại tuyến T-10 (dài
1.000 m) được 30 cá thể. Trung bình trong tháng 4 và tháng 6 ước tính
kích thước quần thể Rồng đất tại ba tuyến khảo sát là 78 cá thể. Kết quả khảo sát 10 tuyến ở ba địa điểm nghiên cứu cho thấy
đa số kích thước quần thể Rồng đất ở các tuyến trong tháng 6 có
chiều hướng giảm so với tháng 4. Nguyên nhân chính do trong tháng
5 và tháng 6, người dân địa phương thường xuyên săn bắt Rồng đất. Như vậy, năm 2016 ước tính kích thước quần thể Rồng đất ở A
Lưới là 96 cá thể/5 tuyến (dài 2.640 m), tính trung bình 28 m bắt gặp
1 cá thể. Năm 2017, ước tính kích thước quần thể Rồng đất ở A Lưới khoảng 59 cá thể/2 tuyến (tổng chiều dài 1.650 m), tính trung bình 30
m bắt gặp 1 cá thể; ở Nam Đông khoảng 78 cá thể/3 tuyến (tổng
chiều dài 3.700 m) tính trung bình 48 m bắt gặp 1 cá thể; ở Phong
Điền khoảng 81 cá thể/2 tuyến (tổng chiều dài 2.100 m) tính trung bình 26 m bắt gặp 1 cá thể. Như vậy, ước tính kích thước quần thể
Rồng đất tại các tuyến khảo sát ở Phong Điền lớn nhất, tiếp theo là ở
A Lưới và thấp nhất là ở Nam Đông. Tổng cộng, ước tính kích thước quần thể loài Rồng đất tại các tuyến khảo sát năm 2016-2017 là 314
cá thể (mức sai số khoảng 314 ± 16 cá thể).
3.2. Môi trƣờng sống, phƣơng thức hoạt động và đặc điểm phân bố
3.2.1. Sử dụng vi môi trường sống
3.2.1.1. Vào ban ngày
- Loại vi môi trường sống: Tổng số 102 lượt cá thể Rồng đất
hoạt động trong sáu loại vi môi trường: cành cây, tán lá, dây leo, trên đá, bãi cát và thảm cỏ ven bờ suối, vi môi trường sống khác. Cành cây
được loài này sử dụng nhiều nhất (31,3%) (F2,15 = 9,49, P = 0,003).
- Độ cao vị trí bám so với mặt nước suối: 102 lượt cá thể Rồng đất ghi nhận cho thấy loài này bám khoảng 1,43 ± 0,89 m. Nhóm
trưởng thành bám (2,26 ± 0,87 m) cao hơn so với nhóm con non
(1,12 ± 0,67 m; F1,101 = 49,59, P < 0,0001). Độ cao từ 0,00-2,00 m ghi nhận chủ yếu cá thể non, độ cao từ 2,01 m đến trên 3,00 m ghi
nhận chủ yếu cá thể trưởng thành.
- Độ che phủ rừng tại vị trí Rồng đất hoạt động khoảng 32,3 ±
29,0%; cá thể trưởng khoảng (26,1 ± 30,2%) thấp hơn so với con non (34,7 ± 28,4%; F1,101 = 1,79, P = 0,18). Vào ban ngày, Rồng đất có xu
13
hướng hoạt động ở những vị trí thoáng, nơi có nhiều ánh sáng và
nhiệt độ không khí tăng cao, độ ẩm giảm.
3.2.1.2. Vào ban đêm - Loại vi môi trường sống: Quan sát 494 lượt cá thể Rồng đất
sử dụng năm loại vi môi trường: cành cây, tán lá, dây leo, trên đá và
vi môi trường sống khác (nằm trong hốc cây, bơi dưới suối,…). Cành cây và tán lá là hai loại vi môi trường sống được Rồng đất sử dụng
nhiều nhất (F1,9 = 0,80, P = 0,40). Ban đêm, Rồng đất bám trên cây,
tán lá, dây leo ở ven bờ suối để ngủ. Không phát hiện bất kỳ cá thể
Rồng đất nào hoạt động ở thảm cỏ và bãi cát ven suối, chứng tỏ hoạt động đẻ trứng, sinh sản của Rồng đất diễn ra chủ yếu vào ban ngày.
- Độ cao vị trí bám và phạm vi hoạt động: Đã xác định độ cao
vị trí bám của 494 lượt cá thể Rồng đất, vị trí bám trung bình khoảng 1,81 ± 1,14 m so với mặt nước suối, cá thể trưởng thành khoảng 2,78
± 1,44 m, cá thể non khoảng 1,54 ± 0,87 m (F1,493 = 122,26, P <
0,0001). Nhóm con non phân bố ở độ cao từ 0,00 m đến trên 3,00 m
theo chiều hướng giảm dần, nhóm cá thể trưởng thành phân bố từ 0,51 m đến trên 3,00 m theo chiều hướng tăng dần. Phạm vi hoạt
động khoảng 4,7 ± 6,1 m, nhóm cá thể trưởng thành có phạm vi di
chuyển khỏi vị trí bám xa hơn so với nhóm con non. - Loại địa hình suối nước chảy và vũng nước ghi nhận số lượt
Rồng đất nhiều nhất, ở các khu vực có thác nước chúng tôi không ghi
nhận bất kỳ cá thể Rồng đất nào ở cả hai nhóm tuổi. - Chênh lệch nhiệt độ không khí với nhiệt độ cơ thể và nhiệt độ bề
mặt tại vị trí bám của Rồng đất: Đo nhiệt độ không khí tại vị trí bám của
nhóm trưởng thành và con non lần lượt là: 27,2 ± 1,5°C, 27,4 ± 1,1°C.
Nhiệt độ cơ thể ở nhóm trưởng thành (23,9 ± 1,1°C) xấp xỉ bằng nhóm con non (23,8 ± 1,5
oC). Nhiệt độ bề mặt tại vị trí bám của nhóm trưởng
thành và con non lần lượt là: 23,8 ± 1,5oC, 23,4 ± 1,5
oC. Nhiệt độ không
khí, nhiệt độ cơ thể và nhiệt độ bề mặt tại vị trí bám giữa hai nhóm tuổi Rồng đất sai khác nhau không có ý nghĩa thống kê.
- Độ che phủ rừng tại vị trí ghi nhận Rồng đất vào ban đêm
khoảng 66,8 ± 29,2%. Nhóm cá thể trưởng thành cao hơn (77,3 ± 25,7%) con non (64,4 ± 29,5%; F1,430 = 13,50, P < 0,0001).
3.2.2. Phương thức hoạt động
3.2.2.1. Vào ban ngày: Rồng đất hoạt động chủ yếu vào thời điểm
có nắng, ít hoạt động vào thời điểm ít nắng và âm u, đặc biệt khi trời mưa. Thời gian hoạt động từ 8:00-16:00 giờ, hoạt động mạnh
14
nhất từ 12:00-14:00 giờ. Theo Döring (2015), Rồng đất sống trong
khu vực có độ ẩm tương đối trung bình từ 40-80% và nhiệt độ
không khí từ 26-32°C. Trong nghiên cứu này, nhiệt độ không khí trung bình tại thời điểm phát hiện Rồng đất khoảng 30,6 ± 1,4
oC
tương ứng với độ ẩm tương đối trung bình khoảng 65,3 ± 10,6%.
Rồng đất hoạt động săn mồi chiếm tỉ lệ cao nhất, tiếp theo là hoạt động phơi nắng và uống nước. Rồng đất săn mồi chiếm phần lớn
thời gian, tập tính này phù hợp với mô hình “tìm kiếm rộng - wide
forager” hơn là mô hình nằm và đợi (sit-and-wait), kết quả này
cũng phù hợp với một số kết quả nghiên cứu về phương thức hoạt động phổ biến của nhóm thằn lằn.
3.2.2.2. Vào ban đêm: Thời gian từ 20:00 giờ đến 21:30 giờ ghi nhận
số lượng cá thể Rồng đất xuất hiện ven bờ suối nhiều nhất trong hai nhóm tuổi. Cá thể non xuất hiện nhiều từ 19:31 giờ, cá thể trưởng
thành xuất hiện nhiều khoảng sau 20:00 giờ (F1,19 = 2,86, P <
0,0001).
3.2.3. Phân bố theo đai độ cao và sinh cảnh 3.2.3.1. Phân bố theo đai độ cao: Rồng đất phân bố chủ yếu ở độ cao
dưới 300 m, ít phân bố ở độ cao trên 600 m. Bain và Hurley (2011)
cho rằng nhóm thằn lằn ghi nhận phân bố chủ yếu ở độ cao dưới 300 m, ở độ cao từ 300-800 m ghi nhận số lượng loài ít.
3.2.3.2. Phân bố theo sinh cảnh: Rồng đất phần bố chủ yếu ở sinh
cảnh rừng thứ sinh xen lẫn rừng trồng và sinh cảnh rừng nguyên sinh xen lẫn rừng thứ sinh, ít phân bố ở sinh cảnh rừng nguyên sinh.
3.3. Đặc điểm dinh dƣỡng
3.3.1. Thành phần thức ăn
Rồng đất ăn 20 loại thức ăn gồm: 18 loại là côn trùng và động vật không xương sống khác, 1 loại là thực vật và 1 loài thuộc các
mẫu thức ăn không xác định (Hình 3.3). Bốn loại thức ăn có IRI ưu
thế bao gồm: bộ Cánh đều (Isoptera: 37,35%), họ Kiến (Formicidae: 14,10%), bộ Cánh thẳng (Orthoptera: 9,30%), và Ấu trùng côn trùng
(Insect larvae: 7,32%).
15
Hình 3.3. Chỉ số quan trọng (IRI) về thành phần thức ăn của
Rồng đất ở vùng núi tỉnh Thừa Thiên Huế (n = 291)
Ngô Đắc Chứng và cs. (2007) cho rằng trong điều kiện nuôi
nhốt Rồng đất ăn nhiều nhất là côn trùng (56,47%), tiếp theo là giun
đất (24,25%), Rồng đất trưởng thành sử dụng 16/22 loại thức ăn Rồng
đất còn non chỉ sử dụng 11/14 loại thức ăn. Trong nghiên cứu này, Rồng đất sử dụng 20 loại thức ăn, chủ yếu là côn trùng (Mối, Kiến),
Nhện, Ấu trùng côn trùng, các loài Dế và Châu chấu trong bộ Cánh
thẳng; trong đó, Mối và Kiến là hai loại thức ăn chính của Rồng đất, Giun đất chiếm tỉ lệ rất thấp, thực vật cũng là loại thức ăn của loài này.
Huey & Pianka (1981) cho rằng các loài thằn lằn có tập tính săn mồi
theo mô hình tìm kiếm rộng (widely foraging) sử dụng thức ăn chủ yếu là các loài trong bộ Cánh đều (Isoptera) kể cả số lượng và thể tích.
3.3.2. Thành phần thức ăn theo địa điểm nghiên cứu
3.3.2.1. A Lưới: Rồng đất ăn 20 loại thức ăn, sáu loại thức ăn có IRI
ưu thế bao gồm: bộ Cánh đều (35,57%), họ Kiến (14,00%), bộ Cánh thẳng (9,31%), Ấu trùng côn trùng (6,66%), bộ Giun đất (6,29%) và
bộ Nhện (5,36%).
3.3.2.2. Nam Đông: Rồng đất ăn 17 loại thức ăn, bốn loại thức ăn có IRI ưu thế bao gồm: bộ Cánh đều (32,30%), Bộ Kiến (22,37%), bộ
Cánh thẳng (10,09%) và Ấu trùng côn trùng (9,55%).
3,73%4,62%
1,83%3,39%
0,62%
0,83%
0,18%
14,10%
0,76%
2,54%
7,32%
37,35%
1,47%
1,87%4,52%
1,43%9,30%
0,05% 1,80%2,28% Achatinidae
Araneae
Blattodea
Coleoptera
Decapoda
Dermaptera
Diptera
Formicidae
Hemiptera
Hymenoptera
Insecta larvae
Isoptera
Julidae
Lepidoptera
Lumbriculida
Neuroptera
Orthoptera
Phasmatodea
Plants
Unidentified
16
3.3.2.3. Phong Điền: Rồng đất ăn 18 loại, sáu loại thức ăn có IRI ưu
thế bao gồm: bộ Cánh đều (44,69%), bộ Cánh thẳng (8,59%), thực
vật (7,93%), Ấu trùng côn trùng (7,05%), bộ Cánh cứng (6,98%) và họ Kiến (5,72%).
Thành phần thức ăn Rồng đất sử dụng ở ba địa điểm khá giống
nhau. Có bốn loại thức ăn ưu thế đều xuất hiện ở ba địa điểm nghiên cứu là: bộ Cánh đều, họ Kiến, Ấu trùng côn trùng và bộ Cánh thẳng.
Ở Nam Đông, trong dạ dày Rồng đất có thể tích thức ăn lớn
nhất; tiếp theo là Phong Điền và thấp nhất là A Lưới (F2,290 = 2,97, P
= 0,05). Số lượng mẫu thức ăn ở A Lưới lớn nhất (16,4 ± 32,2 mẫu), tiếp theo là Phong Điền (15,4 ± 36,7 mẫu) và thấp nhất là Nam Đông
(13,9 ± 16,1 mẫu; F2,290 = 0,14, P ˃ 0,05).
Chiều dài, chiều rộng và thể tích mẫu thức ăn Rồng đất sử dụng ở Nam Đông lớn nhất, tiếp theo là Phong Điền và thấp nhất là
A Lưới (chiều dài: F2,4.585 = 16,07, P < 0,0001; chiều rộng: F2,4.585 =
159,24, P < 0,0001 và thể tích: F2,4.585 = 10,14, P < 0,0001). Loại
thức ăn Rồng đất sử dụng ở Nam Đông đa dạng nhất (3,11), theo sau là ở A Lưới (2,04) và ở Phong Điền nhỏ nhất (1,52). Ở Nam Đông
(0,23) Rồng đất sử dụng đồng đều các loại thức ăn hơn so với A Lưới
(0,15) và Phong Điền (0,14). Có thể khi thành phần thức ăn đa dạng, Rồng đất có xu hướng sử dụng đồng đều các loại thức ăn.
3.3.3. Thành phần thức ăn theo sinh cảnh
3.3.3.1. Rừng thứ sinh lẫn rừng trồng: Bốn loại thức ăn có IRI ưu thế bao gồm: bộ Cánh đều (38,85%), họ Kiến (14,48%), bộ Cánh thẳng
(9,47%), Ấu trùng côn trùng (8,46%).
3.3.3.2. Sinh cảnh rừng nguyên sinh lẫn rừng thứ sinh: Sáu loại thức
ăn có IRI ưu thế bao gồm: bộ Cánh đều (chiếm 36,36%), họ Kiến (14,91%), bộ Giun đất (9,06%), Ấu trùng côn trùng (7,82%), bộ
Cánh thẳng (5,84%) và bộ Nhện (5,61%).
3.3.3.3. Sinh cảnh rừng nguyên sinh: Sáu loại thức ăn có IRI ưu thế bao gồm: bộ Cánh đều (34,41%), họ Kiến (12,62%), bộ Cánh thẳng
(14,45%), họ Ốc sên trần (5,96%), bộ Nhện (5,00%) và Ấu trùng côn
trùng (5,00%). Mỗi dạ dày Rồng đất ở sinh cảnh rừng thứ sinh lẫn rừng trồng
có số lượng mẫu thức ăn (14,6 ± 27,7 mẫu) thấp nhất, ở sinh cảnh
rừng nguyên sinh xen lẫn rừng thứ sinh (16,6 ± 29,1 mẫu) và ở sinh
cảnh rừng nguyên sinh (16,1 ± 36,4 mẫu) khác nhau không nhiều. Tuy nhiên, thể tích thức ăn trong dạ dày của Rồng đất ở sinh cảnh
17
rừng thứ sinh lẫn rừng trồng lớn nhất (4.106,4 ± 5.931,4 mm3), sau
đó là sinh cảnh rừng nguyên sinh xen lẫn rừng thứ sinh (3.131,3 ±
5.195,3 mm3) và thấp nhất là sinh cảnh rừng nguyên sinh (2.921,6 ±
3.151,2 mm3). Sự sai khác về số lượng mẫu thức ăn và thể tích thức
ăn trong dạ dày Rồng đất ở ba dạng sinh cảnh không có ý nghĩa.
Sinh cảnh rừng thứ sinh lẫn rừng trồng có chỉ số đa dạng (2,56) lớn nhất, tiếp theo là sinh cảnh rừng nguyên sinh xen lẫn rừng
thứ sinh (2,09) và nhỏ nhất là sinh cảnh rừng nguyên sinh (1,97). Ở
sinh cảnh rừng thứ sinh lẫn rừng trồng Rồng đất sử dụng mẫu thức ăn
có chiều dài (12,3 ± 7,6 mm), chiều rộng (4,5 ± 2,6 mm) và thể tích (281,0 ± 684,8 mm
3) lớn nhất; chiều dài, chiều rộng và thể tích mẫu
thức ăn giữa sinh cảnh rừng nguyên sinh xen lẫn rừng thứ sinh và
sinh cảnh rừng nguyên sinh chênh lệch nhau không nhiều (chiều dài: F2,4.585 = 14,20, P < 0,0001, chiều rộng F2,4.585 = 146,94, P < 0,0001
và thể tích: F2,4.585 = 5,40, P = 0,005).
3.3.4. Thành phần thức ăn theo nhóm tuổi
Rồng đất trưởng thành sử dụng bốn loại thức ăn có IRI ưu thế: bộ Cánh đều (43,79%), họ Kiến (13,46%), bộ Cánh thẳng (6,97%),
Ấu trùng côn trùng (5,86%). Rồng đất gần trưởng thành sử dụng năm
loại thức ăn có IRI ưu thế bao gồm: bộ Cánh đều (43,12%), họ Kiến (9,91%), bộ Cánh thẳng (10,20%), bộ Nhện (5,39%) và Ấu trùng côn
trùng (5,72%). Con non sử dụng sáu loại thức ăn có IRI ưu thế: bộ
Cánh đều (22,52%), họ Kiến (21,11%), bộ Cánh thẳng (9,98%), Ấu trùng côn trùng (10,53%), bộ Giun đất (7,81%) và bộ Nhện (5,76%).
Bốn loại thức ăn: bộ Cánh đều, họ Kiến, bộ Cánh thẳng và Ấu
trùng côn trùng ghi nhận nhiều trong dạ dày ở cả ba nhóm tuổi. Theo
Pough et al. (1998) hầu hết các loài thằn lằn trưởng thành thường tiêu thụ loại thức ăn tương tự như con non, nhưng trong giai đoạn phát triển
chúng chỉ cần sử dụng thêm vài loại thức ăn khác. Trong nghiên cứu
này cũng cho thấy, ngoài việc lựa chọn loại thức ăn chính là côn trùng, cá thể gần trưởng thành và con non đang ở độ tuổi phát triển nên chúng
có xu hướng lựa chọn thêm các loại con mồi như Giun đất, Nhện.
Nhóm tuổi trưởng thành sử dụng mẫu thức ăn có chiều dài, chiều rộng với thể tích lớn nhất, nhóm tuổi gần trưởng thành và con
non sử dụng mẫu thức ăn có kích thước gần bằng nhau (chiều dài:
F2,4.585 = 166,88, P < 0,0001; chiều rộng: F2,4.585 = 70,41, P < 0,0001;
thể tích: F2,4.585 = 4,34, P = 0,01). Như vậy, Rồng đất sử dụng mẫu thức ăn có kích thước và thể tích khác nhau tùy thuộc vào độ tuổi.
18
Trung bình số lượng mẫu thức ăn trong mỗi dạ dày của nhóm
tuổi gần trưởng thành lớn nhất (21,7 ± 44,9 mẫu), tiếp theo là số lượng
mẫu thức ăn trong dạ dày của nhóm tuổi trưởng thành (15,0 ± 20,1 mẫu) và nhỏ nhất là nhóm con non (11,0 ± 19,3 mẫu; F2,290 = 3,50, P =
0,03). Thể tích thức ăn trong mỗi dạ dày của nhóm tuổi trưởng thành
(4.447,2 ± 6.430,3 mm3) và nhóm tuổi gần trưởng thành (4.175,7±
5.514,3 mm3) chênh lệch nhau không nhiều, riêng nhóm con non có
thể tích thức ăn trong dạ dày nhỏ nhất (2.257,2 ± 3.359,9 mm3; F2,290 =
5,94, P = 0,003). Rồng đất gần trưởng thành tiêu thụ số lượng mẫu
thức ăn lớn hơn nhiều so với nhóm trưởng thành và con non. Theo Rocha và Anjos (2007), hầu như những loài thằn lằn còn non bị giới
hạn bởi kích cỡ miệng nên chúng thường sử dụng các loại con mồi có
kích thước tương đối nhỏ so với thằn lằn trưởng thành, nên các cá thể non có xu hướng sử dụng số lượng mẫu thức ăn bằng hoặc nhiều hơn
cá thể trưởng thành, tuy nhiên, về thể tích thức ăn có thể nhỏ hơn. Việc
sử dụng số lượng thức ăn nhiều ở cá thể non nhằm đảm bảo đầy đủ
dinh dưỡng để duy trì quá trình phát triển và cân bằng năng lượng trong cơ thể. Con non sử dụng loại thức ăn đa dạng nhất (3,12), tiếp
theo là nhóm trưởng thành (2,06) và nhỏ nhất là nhóm gần trưởng
thành (1,76). Nhóm trưởng thành (0,13) và gần trưởng thành (0,14) có xu hướng lựa chọn loại thức ăn ưa thích hơn con non (0,22).
Kết quả phân tích Rarefaction cho thấy nhóm con non và nhóm
trưởng thành sử dụng đa dạng loại thức ăn hơn nhóm gần trưởng thành. Nhóm trưởng thành và nhóm gần trưởng thành sử dụng đồng
đều các loại thức ăn hơn nhóm con non (Hình 3.4).
3.3.5. Thành phần thức ăn theo giới tính
Con đực sử dụng 5 loại thức ăn có IRI ưu thế gồm: bộ Cánh
B A
Hình 3.4. Đƣờng cong tích lũy kỳ vọng số lƣợng mẫu thức ăn (A)
và loại thức ăn trong dạ dày (B) của Rồng đất
19
đều (45,16%), họ Kiến (9,79%), thực vật (5,91%), bộ Cánh thẳng
(5,55%) và Ấu trùng côn trùng (5,29%). Con cái sử dụng 6 loại thức
ăn có IRI ưu thế: bộ Cánh đều (42,17%), họ Kiến (17,23%), bộ Cánh thẳng (8,33%), bộ Cánh cứng (6,64%), Ấu trùng côn trùng (6,50%)
và bộ Cánh màng (5,53%).
Số lượng mẫu thức ăn trung bình trong mỗi dạ dày con đực nhiều hơn con cái nhưng không có ý nghĩa (F1,62 = 0,17, P = 0,678).
Thể tích thức ăn con cái tiêu thụ lớn hơn so với con đực nhưng
không có ý nghĩa (F1,62 = 0,08, P = 0,781). Con cái (2,24) sử dụng
loại thức ăn đa dạng hơn con đực (1,88), con đực có xu hướng lựa chọn một số loại thức ăn ưa thích hơn con cái được thể hiện qua chỉ
số đồng đều (con cái: 0,21 và con đực: 0,19). Chiều rộng miệng của
con đực trưởng thành lớn nhất (25,5 ±7,3 mm), sau đó là con cái trưởng thành (22,5 ± 3,1 mm) và nhỏ nhất là nhóm con non (16,2 ±
1,9 mm). Chiều dài, chiều rộng và thể tích mẫu thức ăn con đực sử
dụng cũng lớn nhất, sau đó là con cái và nhỏ nhất là con non (F3,1.404
= 20,32, P < 0,0001). Theo Reilly et al. (2007) cho rằng các loài thằn lằn có tập tính
săn mồi theo mô hình tìm kiếm rộng thì độ rộng miệng có quan hệ
mật thiết với kích thước mẫu thức ăn. Trong nghiên cứu này, độ rộng miệng của Rồng đất càng lớn thì sử dụng mẫu thức ăn có kích cỡ
càng lớn.
3.3.6. So sánh thành phần thức ăn ngoài tự nhiên và nuôi nhốt Ngoài tự nhiên Rồng đất sử dụng 20 loại thức ăn là côn trùng,
động vật không xương sống khác và thực vật, trong đó có bảy loại
thức ăn ưa thích bao gồm: Mối (bộ Cánh đều), Kiến (họ Kiến), Dế và
Châu chấu (bộ Cánh thẳng), Giun đất (bộ Giun đất), Nhện (bộ Nhện), Ấu trùng côn trùng, một số loài trong bộ Cánh cứng và thực vật (quả
Sung). Nuôi nhốt, Rồng đất ăn 26 loại thức ăn, có 5 loại thức ăn ưa
thích thuộc côn trùng và động vật không xương sống như: Mối, Châu chấu và Dế (bộ Cánh thẳng), Giun đất, Giun quế, Sâu gạo, Ấu trùng
côn trùng và bốn loại thức ăn ưa thích là thực vật thuộc các loại quả
chín (chuối, xoài, mít, đu đủ).
20
3.4. Đánh giá nhân tố tác động và các vấn đề liên quan đến bảo
tồn Rồng đất
3.4.1. Các nhân tố tác động 3.4.1.1. Săn bắt quá mức
- Ở A Lưới: Rồng đất săn bắt từ tháng 2 đến tháng 10 hàng năm,
tần suất và sản lượng săn bắt Rồng đất nhiều nhất từ tháng 4 đến tháng 8. Tổng cộng 7 hộ gia đình săn bắt khoảng 364,5 kg Rồng đất/năm.
Các hộ săn bắt đa số là dân tộc Kơ tu, nên thói quen săn bắt không bền
vững, họ tìm các bãi đẻ của Rồng đất rồi đào lên lấy trứng.
- Ở Nam Đông: Thời gian săn bắt Rồng đất cũng diễn ra từ tháng 2 đến tháng 10 hàng năm. Tính trung bình trong năm 2016, 8
hộ gia đình săn bắt được 224 kg Rồng đất/năm, chủ yếu các cá thể
gần trưởng thành và trưởng thành. - Ở Phong Điền: Các tháng săn bắt Rồng đất có sản lượng cao
nhất từ tháng 5 đến tháng 7 (tháng 6: 82 kg), thấp nhất vào tháng 10
(10 kg). Trung bình năm 2016, 6 hộ thu hoạch được 400,5 kg Rồng
đất. Tổng sản lượng trung bình ước tính 989 kg/năm (Bảng 3.1). 3.4.1.2. Tình hình buôn bán và sử dụng Rồng đất
- Tình hình buôn bán: Giá bán Rồng đất cũng khác nhau theo
từng địa phương. Ở A Lưới và Nam Đông Rồng đất có giá bán cao hơn Phong Điền, giá bán còn thay đổi theo tháng. Qua điều tra tình
hình buôn bán Rồng đất tại thành phố Huế cho thấy, thời điểm cao
nhất có giá 450.000 đồng/kg.
Bảng 3.1. Ƣớc tính tổng sản lƣợng Rồng đất bị săn bắt ở A Lƣới,
Nam Đông và Phong Điền năm 2016
Tháng Sản lƣợng trung bình (kg)
A Lƣới Nam Đông Phong Điền Tổng cộng
2 11 5 10 26
3 27 12 34,5 73,5
4 47,5 28 62 137,5
5 72 51 66 189
6 80 57 82 219
7 64,5 35 74 173,5
8 37,5 24 48 109,5
9 18 8 18 44
10 7 4 6 17
Cộng 364,5 224 400,5 989
21
- Tình hình sử dụng: Xã Phong Mỹ có 2 nhà hàng buôn bán
Rồng đất không thường xuyên. A Lưới có 4 nhà hàng sử dụng Rồng đất thường xuyên. Khe Tre có 3 nhà hàng buôn bán và sử dụng Rồng
đất thường xuyên. Tại thành phố Huế, có 5 nhà hàng sử dụng Rồng
đất thường xuyên, thịt Rồng đất được chế biến thành nhiều món ăn khác nhau (Hình 3.5).
3.4.1.3. Tác động đến sinh cảnh sống
- Hoạt động khai thác gỗ và lâm sản ngoài gỗ: Kết quả nghiên cứu vi môi trường sống của loài Rồng đất cho thấy loài này phân bố
chủ yếu ở đai độ cao dưới 300 m, các hoạt động khai thác gỗ, trồng
rừng, đốt rừng làm nương rẫy,…. đã ảnh hưởng tiêu cực đến sinh
cảnh sống của Rồng đất. - Xây dựng công trình giao thông xuyên qua rừng.
3.4.2. Đề xuất các biện pháp bảo tồn loài Rồng đất
3.4.2.1. Khoanh vùng các khu vực ưu tiên bảo vệ Để bảo tồn quần thể loài Rồng đất ở huyện A Lưới, Nam Đông
và Phong Điền tỉnh Thừa Thiên Huế, các nhà quản lý nên ưu tiên bảo
tồn khu vực các tuyến theo thứ tự sau: tuyến T-2 và T-1 bảo tồn
trước; tiếp theo là tuyến T-7, T-6; đến các tuyến T-3, T-4, T-8; sau
C D
A B
Hình 3.5. Rồng đất bán tại chợ A Lƣới (A); Sử dụng và chế biến
các món ăn Rồng đất tại nhà hàng ở thành phố Huế (B, C, D)
22
cùng là các tuyến T-5, T-9, T-10 và T-11 (Hình 3.6).
3.4.2.2. Nhân nuôi Rồng đất bảo tồn và phát triển kinh tế
Gây nuôi sinh sản Rồng đất là một trong những biện pháp nhằm hạn chế việc săn bắt loài này trong tự nhiên, đồng thời giúp
phát triển kinh tế hộ gia đình ở các huyện thuộc khu vực miền núi.
3.4.2.3. Các giải pháp về quản lý - Kiểm soát việc săn bắt và mua bán trái pháp luật.
- Tăng cường tuần tra, giám sát để ngăn chặn các vi phạm có
ảnh hưởng tiêu cực đến sinh cảnh sống và quần thể của các loài động
vật rừng trong đó có Rồng đất, đặc biệt lưu ý ở các khu vực Nam Đông và A Lưới.
- Bảo vệ và phục hồi hệ sinh thái rừng tự nhiên.
- Xây dựng các hành lang rừng để liên kết các khoảng rừng bị biệt lập để mở rộng sinh cảnh sống và tạo không gian giao lưu nguồn
gene giữa các quần thể động vật, trong đó có loài Rồng đất.
Hình 3.6. Khoanh vùng bảo tồn loài Rồng đất ở Thừa Thiên Huế
- Kiểm tra, giám sát các nhà hàng và cơ sở sử dụng mua bán
động vật hoang dã, chứng minh được nguồn gốc hợp pháp, nếu
không cần có chế tài xử lý thích hợp: tịch thu động vật thả lại rừng hoặc nhắc nhở, xử phạt.
- Tuyên truyền giáo dục về bảo vệ động vật hoang dã: Các cơ
23
quan quản lý ở địa phương cần có chương trình tuyên truyền về việc
giảm thiểu nhu cầu sử dụng động vật hoang dã, đặc biệt là tuyến xã.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN
1.1. Hiện trạng quần thể - Kích thước quần thể Rồng đất tại các tuyến khảo sát ở Phong
Điền lớn nhất, khoảng 81 cá thể/2 tuyến (dài 2.100 m), trung bình 26
m gặp 1 cá thể; Ở A Lưới, năm 2016, khoảng 96 cá thể/5 tuyến (dài 2.640 m), trung bình 28 m gặp 1 cá thể, năm 2017, khoảng 59 cá
thể/2 tuyến (dài 1.650 m), trung bình 30 m gặp 1 cá thể; Ở Nam
Đông khoảng 78 cá thể/3 tuyến (dài 3.700 m), trung bình 48 m gặp 1 cá thể. Tổng cộng, ước tính kích thước quần thể loài Rồng đất ba địa
điểm nghiên cứu năm 2016-2017 là 314 cá thể (mức sai số khoảng
314 ± 16 cá thể).
- Mật độ quần thể Rồng đất tại các tuyến khảo sát ở Phong Điền ước tính khoảng 97 cá thể/10.000 m
2, ở A Lưới khoảng 44 cá
thể/10.000 m2, ở Nam Đông khoảng 28 cá thể/10.000 m
2.
- Cấu trúc quần thể Rồng đất tại các tuyến khảo sát ở ba địa điểm nghiên cứu ghi nhận con non chiếm ưu thế (chiếm 52,9%), tiếp
theo là nhóm gần trưởng thành chiếm 28,6%, thấp nhất là nhóm
trưởng thành chiếm 18,5%. Như vậy, từ tháng 4 đến tháng 6 quần thể Rồng đất đang trong giai đoạn phát triển.
- Cấu trúc giới tính tại các tuyến khảo sát ở ba địa điểm nghiên
cứu đã xác định tỉ lệ đực : cái là 13,1 : 18,4. Như vậy, quần thể Rồng
đất ở khu vực nghiên cứu có cá thể cái chiếm ưu thế hơn cá thể đực.
1.2. Đặc điểm môi trƣờng sống, phƣơng thức hoạt động, phân bố
- Đặc điểm môi trường sống: Ban ngày, Rồng đất hoạt động ở
mặt đất và trên cây trong 6 loại vi môi trường sống: cành cây, tán lá, dây leo, trên đá, bãi cát, thảm cỏ và vi môi trường sống khác. Ban
đêm, Rồng đất bám chủ yếu trên cành cây, tán lá, dây leo ven bờ
suối. Độ cao vị trí bám của cá thể trưởng thành cao hơn so với cá thể non. Vào ban ngày, độ che phủ rừng nơi cá thể trưởng thành hoạt
động thấp hơn (26,1%) so với con non (34,7%), ban đêm thì ngược
lại các cá thể trưởng thành bám nơi có độ che phủ rừng (77,3%) cao
hơn so với con non (64,4%). - Phương thức hoạt động: Ban ngày, Rồng đất hoạt động từ
24
8:00-16:00 giờ (nhiệt độ không khí từ 28,3-30,6oC, độ ẩm từ 65,3-
85%), hoạt động mạnh nhất từ 12:00-13:00 giờ (nhiệt độ không khí
khoảng 31,4oC, độ ẩm khoảng 61%) khi trời nắng ráo, hoạt động
chủ yếu săn mồi, bắt cặp sinh sản, đẻ trứng, phơi nắng và uống
nước. Ban đêm, Rồng đất bám trên cành cây, tán lá, dây leo ven bờ
suối để ngủ. - Đặc điểm phân bố: Rồng đất phân bố chủ yếu ở độ cao dưới
300 m, ít phân bố ở độ cao từ 600 m trở lên. Sinh cảnh rừng thứ sinh
lẫn rừng trồng ghi nhận nhiều nhất, đến sinh cảnh rừng nguyên sinh
xen lẫn rừng thứ và ít phân bố ở sinh cảnh rừng nguyên sinh.
1.3. Thành phần thức ăn
- Rồng đất ăn 20 loại thức ăn, chủ yếu là côn trùng (Mối,
Kiến), Nhện, Ấu trùng côn trùng, các loài Dế và Châu chấu trong bộ Cánh thẳng, Mối và Kiến là hai loại thức ăn ưa thích, Giun đất có tỉ
lệ thấp, thực vật (lá và quả Sung) cũng là loại thức ăn của loài này.
- Rồng đất trưởng thành ăn 4 loại thức ăn ưu thế: bộ Cánh đều,
họ Kiến, bộ Cánh thẳng, Ấu trùng côn trùng; Con gần trưởng thành ăn 5 loại: bộ Cánh đều, họ Kiến, bộ Cánh thẳng, bộ Nhện và Ấu
trùng côn trùng; Con non ăn 6 loại thức ăn: bộ Cánh đều, họ Kiến, bộ
Cánh thẳng, Ấu trùng côn trùng, bộ Giun đất và bộ Nhện. Con gần trưởng thành ăn nhiều hơn con trưởng thành và con non.
- Con đực ăn 5 loại thức ăn ưu thế: bộ Cánh đều, bọ Kiến, thực
vật, bộ Cánh thẳng, Ấu trùng côn trùng. Con cái ăn 6 loại thức ăn ưu thế: bộ Cánh đều, họ Kiến, bộ Cánh thẳng, bộ Cánh cứng, Ấu trùng
côn trùng, bộ Cánh màng.
1.4. Các nhân tố tác động, bảo tồn và phát tiển loài Rồng đất
- Nhân tố tác động đến quần thể Rồng đất chủ yếu do săn bắt quá mức làm thực phẩm và buôn bán, ước tính năm 2016 ở A Lưới
săn bắt khoảng 364,5 kg/năm, Nam Đông khoảng 224 kg/năm, Phong
Điền khoảng 400,5 kg, cả khu vực nghiên cứu khoảng 989 kg/năm. Thu hẹp diện tích rừng, chặt phá rừng, chia cắt sinh cảnh sống cũng
là nhân tố tác động đến sinh cảnh sống của loài này.
- Địa điểm bảo tồn theo thứ tự: Tuyến T-2, T-1; tuyến T-7, T-6, T-3, T-4; tuyến T-8, tuyến T-5, tuyến T-9, T-10 và T-11.
25
2. KIẾN NGHỊ
2.1. Đối với công tác nghiên cứu tiếp theo
Cần tiếp tục thực hiện chương trình giám sát quần thể loài Rồng đất ở tỉnh Thừa Thiên Huế để theo dõi sự biến động về số
lượng cá thể. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp quy hoạch bảo tồn
phù hợp.
2.2. Đối với công tác bảo tồn
- Xem xét, đánh giá hiện trạng bảo tồn của loài ở phạm vi toàn
cầu để đưa loài Rồng đất vào Danh lục Đỏ IUCN và danh lục các loài
hạn chế khai thác vì mục đích thương mại. - Cơ quan quản lý của tỉnh Thừa Thiên Huế cần có thể tham
khảo số liệu của đề tài này để quy hoạch các địa điểm ưu tiên bảo tồn
đa dạng sinh học trong đó có quần thể của loài Rồng đất, chú ý bảo vệ sinh cảnh rừng tự nhiên ở các khu vực sau: Hương Nguyên, A Pát,
Khe Dâu (A Lưới), Hương Lộc (Nam Đông), KBTTN Phong Điền.
- Cơ quan quản lý và chính quyền địa phương cần kiểm soát
việc khai thác và sử dụng Rồng đất quá mức, đặc biệt là vào mùa sinh sản do mức độ ảnh hưởng rất lớn đến quần thể của loài này trong
tự nhiên. Thực hiện các chương trình tuyên truyền nâng cao nhận
thức của cộng đồng địa phương, giảm thiểu các hoạt động ảnh hưởng đến sinh cảnh và quần thể Rồng đất.
- Cần xem xét nhân nuôi sinh sản thử nghiệm Rồng đất quy mô
hộ gia đình để giảm thiểu việc săn bắt ngoài tự nhiên và đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Việc nhân nuôi Rồng đất có thể tham
khảo số liệu của đề tài trong thiết kế chuồng nuôi, sinh cảnh, đảm các
các điều kiện về nhiệt độ, độ ẩm và thành phần thức ăn phù hợp với
đặc điểm sinh thái và tập tính của loài.
26
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1. Ngô Văn Bình, Nguyễn Công Lục, Nguyễn Văn Hoàng, Ngô Đắc
Chứng, Nguyễn Quảng Trường (2016), “Môi trường sống và
phương thức hoạt động của loài Rồng đất (Physignathus cocincinus Cuvier, 1829) ở tỉnh Thừa Thiên Huế”, Báo cáo Khoa
học, Hội thảo Quốc gia về lưỡng cư và bò sát ở Việt Nam lần thứ
ba, Nxb. KHTN & CN, Hà Nội, tr. 175-180.
2. Nguyễn Văn Hoàng, Ngô Đắc Chứng, Ngô Văn Bình, Nguyễn Quảng Trường (2017), “Hoạt động ngày đêm của loài Rồng đất
(Physignathus cocincinus Cuvier, 1829) ở vùng núi tỉnh Thừa
Thiên Huế”, 126(1A), T p c o ọc ọc u : o ọc T n n -1388, Nxb. Đại học Huế, tr. 103-112.
3. Nguyen Van Hoang, Ngo Van Binh, Ngo Dac Chung, Nguyen
Quang Truong (2017), “Diet of the Indochinese Water Dragon
Physignathus cocincinus Cuvier, 1829 (Squamata: Agamidae) from Thua Thien Hue Province, Vietnam”, Russian Journal of
Herpetology, (Đã nhận đăng).
4. Truong Quang Nguyen, Hai Ngoc Ngo, Cuong The Pham, Hoang
Nguyen Van, Chung Dac Ngo, Mona van Schingen, Thomas
Ziegler (2017), “First population assessment of the Asian Water
Dragon (Physignathus cocincinus Cuvier, 1829) in Thua Thien Hue Province, Vietnam”, Nature Conservation, 26 :1-14, doi:
10.3897/natureconservation.26.21818
http://natureconservation.pensoft.net.
MINISTRY OF EDUCATION AND TRAINING
HUE UNIVERSITY
HUE COLLEGE OF EDUCATION
NGUYEN VAN HOANG
STUDY ON THE POPULATION STATUS OF THE ASIAN
WATER DRAGON (Physignathus cocincinus Cuvier, 1829)
WITH IMPLICATIONS FOR CONSERVATION
IN THUA THIEN HUE
Major: Zoology
Code: 62 42 01 03
SUMMARY OF DOCTOR OF BIOLOGY THESIS
Academic Instructors:
PROF. PHD. NGO DAC CHUNG
ASSOC. PROF. PHD. NGUYEN QUANG TRUONG
HUE - 2018
This thesis was completed at: .........................................................
........................................................................................................
Academic Instructors:
1. Prof. PhD. Ngo Dac Chung
2. Assoc. Prof. PhD. Nguyen Quang Truong
1. Reviewer 1: ................................................................................
........................................................................................................
2. Reviewer 2: ................................................................................
........................................................................................................
3. Reviewer 3: ................................................................................
........................................................................................................
The thesis will be protected at the thesis review Council of Hue
University meeting at: .....................................................................
At, ................ hours, day ........ , month .......... , year ....................
This thesis can be found at the library: ...........................................
1
INTRODUCTION
1. Reason for choosing topic
The Asian Water Dragon, Physignathus cocincinus, was
originally described from southern Vietnam (Cuvier, 1829). The Asian
Water Dragon is widely distributed in tropical forests from Southern
China through Vietnam, Laos, southwards to Thailand. In Thua Thien
Hue, P. cocincinus has been recorded in the evergreen forests of A
Luoi, Huong Thuy, Huong Tra, Phu Loc and Nam Dong districts
(Nguyen et al. , 2009). This species was listed in the Vietnam Red
Data Book (2007) as Vulnerable due to the population reduction and a
decline in area of extent of occurrence and habitat quality (Dang et al.,
2007). However, populations of this species are being hunted
excessively to make specialty foods and trade in domestic and foreign
markets. Besides, many construction works traffic through forests,
deforestation, and burning forest for cultivation are also causes of loss
or habitat loss of this species. Research on the Asian Water Dragon the
world and in Vietnam focuses on characterization of morphology and
distribution records. In 2007, there was a study on the nutritional and
reproductive characteristics of the Asian Water Dragon in captivity in
Nam Dong district, Thua Thien Hue province. In 2009, there was a
research on fertility and growth of this species in captivity in Ben Tre
province, the juveniles were collected from Nam Dong district, Thua
Thien Hue and Dak Nong province. In 2012, there was a study of the
Asian Water Dragon as a scene.
2. Study purposes
Assess the population status, ecological characteristics,
distribution and diet of P. cocincinus in Thua Thien Hue province
with implications for conservation.
3. Study scope
3.1. Assess the population status of Physignathus cocincinus in
Phong Dien, A Luoi and Nam Dong districts
- Estimate the population density;
- Estimate the population size;
- Assess the population structure at study sites, age groups and sexes.
3.2. Assess the distribution characteristics and ecological
characteristics of Physignathus cocincinus
- Distribution of P. cocincinus in altitude and habitat;
2
- Characteristics of microhabitat and home range;
- Foraging mode of P. cocincinus.
3.3. Dietary composition of Physignathus cocincinus
- Dietary composition of P. cocincinus in each study site;
- Dietary composition P. cocincinus in each habitat, age groups and sex.
3.4. Assess the impact factors and propose recommendations for the
conservation and sustainable use of Physignathus cocincinus
- Determining the threats to habitat and population;
- Proposing the conservation of microhabitat and sustainable
use of P. cocincinus.
4. The scientific and practical significance of the thesis
The results of this thesis provide updated data on the
population status as a scientific basis for the planning of the Asian
Water Dragon conservation in Thua Thien Hue Province. It also
provides the ecological and dietary composition of P. cocincinus
which are useful information for the captivity and development of
this endangered reptile in Thua Thien Hue Province as well as
replication in other localities.
5. New contributions of the thesis
- Provide the first contribution of information on the status and
population structure of P. cocincinus in Thua Thien Hue Province.
- Determine the distribution characteristics, foraging mode and
use of microhabitats of P. cocincinus in natural habitat.
- Identify the dietary composition, important prey items of P. cocincinus.
- Determine factors affect the microhabitat and populations of P.
cocincinus in the study sites and propose the conservation and sustainable
development of the Asian Water Dragon in Thua Thien Hue Province.
CHAPTER 1. LITERATURE REVIEW
Through the references in the world as: Cuvier (1829), Duméril
and Bibron (1837), Boulenger (1885), Barbour (1912), Smith (1935),
Taylor (1963), Nabhitabhata et al. (2000), Teynie et al. (2004), To
(2005), Stuart et al. (2006), Grismer et al. (2007), Grismer et al. (2008a,
2008b), Hartmann et al. (2013) show that the study of Physignathus
cocincinus focused only on the morphological characteristics and record
habitat of this species. Smith (1935), Vosjoli (1992), Kaplan (1997),
Foster and Smith (1997) studied on the ecology of P. cocincinus in
3
captivity. In Vietnam, Bourret's (1937, 1940, 1943) Amphibians and
Reptiles studies in Indochina and Vietnamese scientists only described
morphological characteristics and only record the habitat of P.
cocincinus. Ngo Dac Nguyen et al. (2007), Ngo Dac Thong and Bui Thi
Thuy Bac (2009) studied on the reproduction and growth of P.
cocincinus in captivity. In 2012, there was a study of the Asian Water
Dragon as a scene. Therefore, making a study of the population status of
the asian water dragon (P. cocincinus Cuvier, 1829) in Thua Thien Hue,
Viet Nam with implications for conservation is needed to provide
scientific data for further studies and this is especially true for the
conservation and sustainable use of these endangered reptiles
CHAPTER 2
SITES, TIME, OBJECTIVES AND METHODS OF STUDY
2.1. Study sites and research period
2.1.1. Study sites: At streams in the evergreen forests of A Luoi,
Nam Dong and Phong Dien district. Interviews the hunter of the
status of hunting and trade P. cocincinus in study sites and
restaurants in Hue City (Figure 2.1).
Figure 2.1. The map of survey sites, study on Physignathus cocincinus
in the mountain region of Thua Thien Hue province
LAOS DA NANG
CITY
QUANG TRI
PROVINCE EAST
SEA
Poor forest
Rich forest
Medium forest
Plantation forest
Watershed
Study sites
NOTE:
4
2.1.2. Research period: This thesis was conducted from August 2014
to August 2017.
2.2. Study object: Physignathus cocincinus (Cuvier, 1829), Agamidae,
Squamata, Reptilia.
2.3. Research methods
2.3.1. Survey fields
2.3.1.1. Instruments: Camera, spotlights, GPS, electronic rulers,
electronic scales, device of temperature and humidity, device of
measure body temperature and surfaces temperature of substrate where
P. cocincinus lived in. Eraser to make a mark and marked labels tie to
the position of P. cocincinus. The plastic bottle was marked labels to
contain food, 70% alcohol, and stomach-flushing device.
2.3.1.2. Field survey: Survey 11 routes along streams in three
habitats: primary forest habitats, primary forest habitats alternated
with secondary forests, secondary forest habitats alternated with
plantation forest (Table 2.1).
2.3.1.3. Data collection for microhabitat and sample of the Asian
Water Dragon:
- Record microclimate conditions: Measure the air temperature
and humidity. Record weather such as rainy, sunny, murky. Measure
the temperature of substrate where P. cocincinus lived at; Measure air
temperature and temperature of P. cocincinus to evaluate the change
of the body temperature of P. cocincinus according to the temperature
of the environment, record about weather conditions.
- Record microhabitat: Substrate type: rock; dead wood;
branch; bamboo; leaf; sand; water; convolve; ground; Measure the
distance from the animal to the water surface (m), the distance is
calculated perpendicular from the position of the animal to the
middle of the stream. Estimate the forest cover (%) where the
animal lived in, note the coordinates and altitude at the position of
P. cocincinus.
- Observe the foraging mode and morphological
characteristics: foraging mode such as predatory behavior,
observation and waiting behavior, bask behavior, fighting and
reproduction activities, recording microclimate conditions and
microhabitat. Collecting P. cocincinus, observation of secondary
reproductive characteristics such as body color, developmental level
of spine, chin scales, weight and measurement morphology.
5
- Collect the stomach-flushing method of Solé et al. (2005) to
obtain stomach contents without sacrificing lizards.
- Estimate population density and sizes of P.cocincinus by
“Capture-recapture Method” (Van Schingen et al., 2014).
Table 2.1. The routes (streams) surveyed in Phong Dien, Nam
Dong and A Luoi, Thua Thien Hue province
Sites Routes Coordinates
of first point
Coordinates
final point
Altitude
(m)
Length
of routes
(m)
Phong
Dien
T-1 N 16o28' 24.9''
E 107o18'08.9''
N 16o28' 04.8''
E 107o18'54.7'' 44-90 860
T-2 N 16o28' 06.2''
E 107o18'38.5''
N 16o28' 04.8''
E 107o18'5.4'' 43-75 1.300
A Luoi
T-3 N 16o04'55.3''
E 107o28'87.9''
N 16o04'61.9''
E 107o28'87.9'' 706-780 320
T-4 N 16o05'14.1''
E 107o27'32.6''
N 16o05'21.2''
E 107o27'33.6'' 720-820 250
T-5 N 16o05'12.6''
E 107o28'67.6''
N 16o05'26.4''
E 107o28'86.1'' 623-770 420
T-6 N 16o09'27.4''
E 107o27'01.0''
N 16o09'17.3''
E 107o26'48.1'' 176-250 950
T-7 N 16o09'20.2''
E 107o27'15.1''
N 16o09'10.8''
E 107o27'03.9'' 179-214 700
Nam
Dong
T-8 N 16o07'55.9''
E 107o48'11.2''
N 16o07'32.9''
E 107o48'06.5'' 129-179 1.400
T-9 N 16o08'22.6''
E 107o48'52.9''
N 16o08'51.4''
E 107o48'56.9'' 173-269 1.300
T-10 N 16o08'11.4''
E 107o47'57.8''
N 16o08'22.6''
E 107o48'16.9'' 111-145 1.000
T-11 N 16o08'22.9''
E 107o47'22.2''
N 16o08'32.6''
E 107o47'18.2'' 105-129 460
2.3.2. Assessment of population status and dietary composition
2.3.3.1. Age determination: We divided them into three age groups:
Adult with SVL > 140 mm, sub adult with 100 mm < SVL ≤ 140 mm
and juvenile with SVL ≤ 100 mm.
2.3.2.2. Sex determination: Sex determination is based on SVL and
secondary sexual characteristics. Estimating Sexual Size Dimorphism
(SSD) between males and females according to Cox et al. (2003),
Ngo Dac Chung and Nguyen Quang Truong (2015):
SSD = [SVL mean of male/SVL mean of female] - 1
6
2.3.2.3. Population density estimation: Applying Regas & Yirga
(2013) as follows: D = n × s/(2L × W), adapted to behavior of this
species D = n × s/[L × (W1 + W2)].
Where: D is the estimated population density; n is the number
of visible groups; s is the average number of individuals/groups; L is
the length of routes; W1 and W2 are the average distance
(perpendicular) of the visible group to the right and left of the routes.
2.3.2.4. Estimation of population size
- Schnabel index: According to the following formula (The
routes were surveyed repeatedly many times):
m
i
i
m
i
ii
R
CM
N
1
1
Where: N is the estimated population size; Mi is the total
number of individuals marked at the ith survey; Ci is the number of
individuals captured at the ith survey; Ri is the number of individuals
recaptured at the ith
survey.
With the error was calculated (Schlüpmann, Kupfer 2009):
2)1(
196,1%)95(
k
i PPkk
PVB
Where: k is the number of individuals recaptured; Pi is the
number of individuals captured in the ith survey.
- Lincoln & Petersen Index (The routes only were surveyed
once times):
2
21
m
nnP
Where: P is the estimated population size; n1 is the number of
individuals marked and dropped during the first survey; n2 is the
number of new individuals marked in the second survey; m2 is the
number of individuals recaptured.
2.3.2.5. Identification of prey categories: Millar et al. (2000),
Triplehorn & Johnson (2005) and Edward et al. (2004).
- The volume of prey categories was calculated according to the
following formula:
7
Where: V is the volume of prey (mm3), L is the length of the
prey (mm), W is the width of the prey (mm, the widest part)
(Magnusson et al., 2003).
- Index of Relative Importance (IRI)
Where: IRI is relative importance index for each prey category,
F% is occurrence percentage, N% is numeric percentage, and V% is
volumetric percentage.
- We use the reciprocal Simpson’s heterogeneity index, 1/D, to
calculate dietary prey heterogeneity:
∑
Where: D is Simpson’s index, ni is the number of prey items in
the ith prey category and N is the total number of prey categories
(Krebs, 1999). To estimate prey evenness, we used the Shannon’s
evenness. The evenness is calculated from the equation: H’ = Hmax =
ln S, S is the total number of prey taxa and H’ is the Shannon-Weiner
index of taxon diversity. Here, the value of H’ is calculated from is
the proportion of total food items the equation H’ = –Ʃ pi × ln pi
where the quantity pi is the proportion of total food items belonging
to the taxon for the total food items of the sample ith.
The rarefaction method was used to estimate the diversity of
diet among adults, subadults, and juveniles. We standardized all diet
samples from the rarefaction method using the modified algorithm by
Hurtlbert (1971) and Simberloff (1972) as follows:
∑[ (
)
( )
]
Where: E(Sn) is the expected number of prey taxa in a random
sample of nprey items, S is the total number of prey taxa in the entire
collection from stomach contents, Ni is the number of prey items in
the ith taxon N is the total number of prey items in the entire
collection (= Ʃ Ni) n is the value of sample size (number of prey
items) chosen for standardization (n = N) and ( ) is
8
the number of combinations of n prey items that can be chosen from
a set of N prey items (Krebs, 1999).
2.3.2.6. Determination of the threat factors and propose conservation
measures
- Determine the factors affect the microhabitat of the species.
- Evaluate of hunting and trade status.
- Identify the priority conservation sites by making criteria
score for each study site.
2.3.2.7. Data processing and statistical analysis: Significant difference
was detected by software MINITAB 16.0 and SPSS 19.0. The charts
were drawn on the software OriginPro 8.5.1 and SigmaPlot 12.0.
CHAPTER 3
RESULTS AND DISCUSSIONS
3.1. Population status
3.1.1. Population structure
3.1.1.1. Morphological characteristics
Thanks to the data, we determined the weight and 15
morphological indexes of 250 individuals of P. cocincinus in three
age groups and sexes in three study sites. In terms of sex differences,
the adult males are larger than the females (Figure 3.1).
Figure 3.1. Physignathus cocincinus (A: male, SVL = 260 mm;
B: female, SVL = 165 mm)
Based on length of SVL, individuals with SVL of 140 mm or
more are adult males, as secondary genital characteristics were fully
developed and can be clearly distinguished sex of each individual
(Figure 3.2).
3.1.1.2. The relationship between body size and body weight
The SSD was positive (SSD = 0.21), indicating that there was
a difference in SVL between males and females. Indicators of size
such as AG, HL, HW, HH in males are larger than females.
B A
20 mm 20 mm
9
Correlation between SVL and body weight (W) of P.
cocincinus was expressed by linear regression equation: W = 1.987 ×
SVL - 2.226 (F1,200 = 353.76, P < 0.0001), with R2 = 0.64 was
considered to have a close correlation. The correlation between SVL
and HL was expressed by the linear regression equation: HL = 0.936
× SVL - 0.402, with R2 = 0.943 (F1,197 = 211.60, P < 0.0001). The
correlation between SVL and HW was expressed by the linear
regression equation: HW = 0.479 × SVL - 0.243, with R2 = 0.892
(F1,197 = 1,620.96, P < 0.0001). The correlation between SVL and HH
was also shown by the regression equation: HH = 0.817 × SVL –
0.427, with R2 = 0.891 (F1,196 = 1,598.62, P < 0.0001).
Figure 3.2. Male: crest (A), scales under the chin (B), femoral hole (C);
Female: crest (D), scales under the chin (E), femoral hole (F)
3.1.1.3. Population structure
- Age structure:
In A Luoi: In 2016, the results of the two surveys recorded the
number of the largest was the juveniles (46.6%), followed by the sub
adults (31.4%), the lowest was the adults (22.0%).
In Phong Dien: In 2017, the age structure of P. cocincinus
changed with time: in April recorded the number of the largest was
juveniles, followed by adults; in June, the number of the largest was
sub adults, then the adults. In the two surveys, the largest was
juveniles (45.9%), followed by the sub adults (29.6%), the lowest
was adults (24.5%). Age structure of P. cocincinus at these routes
changed in a stable direction.
In Nam Dong: In 2017, the number of individuals of all age
groups declined on the survey routes, especially the adult population
A B
D
C
E F
10
decreased. The number of juveniles was the most (60.0%), followed
by the subadults (24.9%), the lowest was the adult group (9.1%). Age
structure of P. cocincinus changed unstable.
- Sex structure:
In A Luoi: The two surveys recorded more females (19.5%)
than males (18.6%), however, the difference between males and
females was not much. In Phong Dien: two surveys were recorded
the number of females (24.0%) more than 1.5 times that of males
(14.8%). In Nam Dong: two surveys were recorded more than twice
as many females (15.4%) as males (6.6%). Thus, the sex structure at
the three study sites (A Luoi, Phong Dien and Nam Dong) was
females (13.4%) more than males (13.1%).
3.1.2. Population density
3.1.2.1. In Phong Dien: In 2017, the estimated population density of
P. cocincinus in the two routes in April was 93 individuals/10,000
m2, in June, 101 individuals/10,000 m
2. April and June average about
97 individuals/10,000 m2. Population density of P. cocincinus
increased but not significantly.
3.1.2.2. In A Luoi: The estimated population density of P. cocincinus
in five routes in April and June 2016 about 44 individuals/10.000 m2.
In 2017, estimated the density of populations in June were about 64
individuals/10,000 m2.
3.1.2.3. In Nam Dong: In April and June 2017, the estimated the
density of populations on four routes were about 28
individuals/10,000 m2. The population density of P. cocincinus in
June tended to decrease compared to April in the same year, mainly
due to over hunting, especially in Nam Dong and A Luoi. In Phong
Dien, the estimated the population density was the highest (about 97
individuals/10,000 m2), A Luoi (44 individuals/10,000 m
2) and Nam
Dong (28 individuals/10,000 m2). The population density of P.
cocincinus was distributed at altitudes below 100 m (97
individuals/10,000 m2) more than twice at altitudes of 100-300 m (48
individuals/10,000 m2) and more than triple compared to the altitude
of 600-800 m (27 individuals/10,000 m2).
3.1.3. Population size
3.1.3.1. In A Luoi: In 2016, the research was surveyed at five routes
(2,640 m long). In April, the largest population size was estimated at
T-7 (38 individuals), followed by T-6 (35 individuals), T-5 with 12
11
individuals, T-3 and T-4 were 6 individuals/route. In April, the
estimated the size of P. cocincinus was 97 individuals in total. In
June, the largest population size was at T-6 (42 individuals), followed
by T-7 with 33 individuals, T-4 with 9 individuals, T-5 with 6
individuals and at least T-3 (5 individuals), the individuals indicated
a total of 95 in June. On average, in April and June 2016, the
population sizes of P. cocincinus were 96 individuals/5 routes.
In June 2017, two routes were conducted (T-6 and T-7, 1,650
m long), estimated the population size at the T-6 was 35 individuals,
T-7 was 24 individuals. In June, estimated data at T-6 and T-7 were
59 individuals. Comparing to the two T-6 and T-7 routes of 2016 (75
individuals) and 2017 (59 individuals), it was clear that the
population size of P. cocincinus was affected.
3.1.3.2. In Phong Dien: In 2017, the research sites were two routes
(T-1 and T-2, 2,160 m long). In April, the population size of P.
cocincinus at T-2 was 124 individuals. In June, at T-1 route was 56
individuals, T-2 was 87 individuals. In June, the population size of P.
cocincinus at T-1 and T-2 were 143 individuals. In April and June,
the average population size at T-1 and T-2 were 81 individuals.
3.1.3.3. In Nam Dong: In 2107, T-8, T-9, T-10 and T-11 (4,160 m
long) were surveyed. In April, T-8 and T-9 routes (2,700 m long) were
surveyed and the results were 74 individuals at T-8, 52 individuals at
T-9. In April, the population size of P. cocincinus was 126
individuals/2 routes. In June, surveyed two routes (T-10 and T-11), at
T-11 only was surveyed once, so there was no estimate of the
population size of P. cocincinus. Estimated at the T-10 (1,000 m long)
was 30 individuals. On average, in April and June, estimated the
population size of P. cocincinus at the three routes were 78 individuals.
A survey of 10 routes in three study sites showed that the
majority of the population of P. cocincinus at all routes in June tended
to decrease in comparison with April. The main reason was that in
May and June, P. cocincinus was hunted by hunter in the local.
Thus, the population size of P. cocincinus in 2016 was
estimated 96 individuals/5 routes (2,640 m long), on average of 28 m
caught 1 individual. In 2017, there were about 59 individuals/2 routes
(1,650 m long) in A Luoi, on average of 30 m caught 1 individual.
There was about 78 individuals/3 routes (3,700 m long) in Nam
Dong, on average of 48 m caught 1 individual; in Phong Dien was
12
about 81 individuals/2 routes (2,100 m long) on average of 26 m
caught 1 individual. Thus, it was estimated that the population size of
P. cocincinus at the routes in Phong Dien was the largest, followed
by A Luoi and the lowest was in Nam Dong. In total, it was estimated
that the population size of P. cocincinus at the routes in 2016-2017
was 314 individuals (the error rate is 314 ± 16 individuals).
3.2. Habitat, foraging mode and distribution characteristics
3.2.1. Use of microhabitat
3.2.1.1. Daytime
- The type of microhabitat: Observed the total of 102 times of
individuals of P. cocincinus shown that this species was active in six
types of microhabitat: branches, leaf, convolve, rocks, sand and
grasses along the stream and other microhabitats. Branches were
most commonly used (31.3%) (F2,15 = 9.49, P = 0.003).
- The height of perches compared to water surface: The adults
(2.26 ± 0.87 m) lived at higher than the juveniles (1.12 ± 0.67 m;
F1,101 = 49.59; P < 0.0001). The height from 0.00 to 2.00 m recorded
mainly juveniles, the height from 2.01 m to above 3.00 m recorded
mainly adults individuals.
- The canopy at the active position of P. cocincinus was about
32.3 ± 29.0%; the adults individuals (26.1 ± 30.2%) was lower than
the juveniles (34.7 ± 28.4%), (F1,101 = 1.79, P = 0.18). During the
day, P. cocincinus tended to activity in airy position, where there was
a lot of light and the air temperature raised, humidity decreased.
3.2.1.2. Night-time
- The type of microhabitat: Observed the total of 494 times of
individuals of P. cocincinus shown this species was active in 5 types
of microhabitat: branches, leaf, convolve, rocks and other
microhabitats (in tree niches, swimming in stream...). Branches and
leaf were used the most (F1.9 = 0.80, P = 0.40). At night, P.
cocincinus lived at branches, leaf, convolve on the banks of streams
to sleep. None of P. cocincinus were found in the grass and sand
along the stream, indicating that the spawning activities of this
species took place mainly during the day.
- The height of perches compared to water surface: Observed
the total of 494 times of individuals of P. cocincinus. On average,
P. cocincinus lived at 1.81 ± 1.14 m compared to the water surface.
The adults lived at 2.78 ± 1.44 m, the juveniles lived at 1.54 ± 0.87
13
m (F1,493 = 122.26, P < 0.0001). The juveniles lived at altitudes
ranging from 0.00 m to over 3.00 m in decreasing, the adults lived
at from 0.51 m to 3.00 m in increasing. The home range of activity
was about 4.7 ± 6.1 m, the adults moved away from perches further
than the juveniles.
- Type of stream: Running stream and pool were recorded the
most of number of P. cocincinus; in the waterfalls, we did not record
any individual in both of age groups.
- Measurement of air temperature at the position of the adults
and the juveniles are in the orders: 27.2 ± 1.5°C, 27.4 ± 1.1°C. Body
temperature in the adult group (23.9 ± 1.1°C) was approximately
equal to that of the juveniles (23.8 ± 1.5°C). The surface temperature
at perches of the adult and juvenile groups were 23.8 ± 1.5°C and
23.4 ± 1.5°C. The air temperature, body temperature of P. cocincinus
and surface temperature of perches at the position of P. cocincinus
between the two age groups were not significantly.
- Canopy at the position of P. cocincinus lived at about 66.8 ±
29.2%. The adult group lived at higher (77.3 ± 25.7%) than the
juveniles (64.4 ± 29.5%; F1.430 = 13.50, P < 0.0001).
3.2.2. Foraging mode
3.2.2.1. Daytime: P. cocincinus was mainly active in sunny, less
active during dark sky, especially when it rains. Active time was
from 8:00 to 16:00 hours, the strongest activity was from 12:00-
14:00 hours. According to Döring (2015), P. cocincinus lived in
the area with average humidity of 40-80% and air temperature of
26-32°C. In this study, the average air temperature at the time of
the strongest activity of P. cocincinus was about 30.6 ± 1.4°C, the
average humidity of 65.3 ± 10.6%. P. cocincinus hunted the prey
accounts for the highest proportion, followed by bask and
drinking, this behavior is suitable for the "wide forager" model
rather than the “sit-and-wait” model, which was also suitable for
some studies results on the common foraging mode of the group
of lizards.
3.2.2.2. Night-time: From 20:00 to 21:30 hours recorded the number
of P. cocincinus appearing the most on the perches of streams in two
age groups. The juveniles recorded as early as 19:31, and the adults
recorded after 20:00 hours (F1.19 = 2.86, P < 0.0001).
14
3.2.3. Distribution by altitude and habitat
3.2.3.1. According to the altitude: The Asian Water Dragon mainly
lived at altitudes below 300 m, less lived at altitudes above 600 m.
Bain and Hurley (2011) noted that the recorded lizards mainly lived
at altitudes below 300 m, at altitudes from 300-800 m recorded small
numbers of species.
3.2.3.2. According to the habitat distribution: The Asian Water
Dragon is mainly distributed in the secondary forest habitat
alternated with plantation forest and primary forest habitat alternated
with secondary forest, little distribution in the primary forest habitat.
3.3. Dietary composition
3.3.1. The prey categories in study sites
The Asian Water Dragon consumed 20 prey categories include
18 prey categories of insects and other invertebrates, one being plants
and one being unknown prey categories (Figure 3.3). IRI (Index of
Relative Importance) of the four prey categories was the most of all
included: Isoptera (37.35%), Formicidae (14.10%), Orthoptera
(9.30%), Insect larvae (7.32%).
Figure 3.3. Index of Relative Importance (IRI) of prey categories of
Physignathus cocincinus in Thua Thien Hue province (n = 291)
3,73%4,62%
1,83%3,39%
0,62%
0,83%
0,18%
14,10%
0,76%
2,54%
7,32%
37,35%
1,47%
1,87%4,52%
1,43%9,30%
0,05% 1,80%2,28% Achatinidae
Araneae
Blattodea
Coleoptera
Decapoda
Dermaptera
Diptera
Formicidae
Hemiptera
Hymenoptera
Insecta larvae
Isoptera
Julidae
Lepidoptera
Lumbriculida
Neuroptera
Orthoptera
Phasmatodea
Plants
Unidentified
15
Ngo Dac Chung et al. (2007) recorded in captivity, the Asian
Water Dragon consumed maintly insects (56.47%), followed by
earthworms (24.25%), the adult consumed 16/22 prey categories, the
juveniles consumed only 11/14 prey categories.
In this study, the P. cocincinus consumed 20 prey categories,
mainly insects (termites, ants), spiders, Insect larvae, crickets and
grasshoppers (Orthoptera); earthworms occupied a very low rate,
plants were also food of this species. Huey & Pianka (1981) argued
that lizard species hunted prey with widely foraging model,
consumed mainly the prey categories in Isoptera.
3.3.2. The prey categories in each study sites
3.3.2.1. A Luoi: P. cocincinus consumed 20 prey categories, IRI of
six prey categories were the most of all, including: Isoptera
(35.57%), Formicidae (14.00%), Orthoptera (9.31%) Insect larvae
(6.66%), Lumbriculida (6.29%) and Araneae (5.36%).
3.3.2.2. Nam Dong: P. cocincinus consumed 17 prey categories, IRI
of four prey categories were the most of all, including: Isoptera
(32.30%), Formicidae (22.37%), Orthoptera (10.09%) and Insect
larvae (9.55%).
3.3.2.3. Phong Dien: P. cocincinus consumed 18 prey categories, IRI
of six prey categories were the most of all, including: Isoptera
(44.69%), Orthoptera (8.59%), Plants (7.93%), Insect larvae (7.05%),
Coleoptera (6.98%) and Formicidae (5.72%).
The prey categories in the three study sites were quite similar.
There was four the prey categories appearing in three study sites:
Isoptera, Formicidae, Insect larvae, and Orthoptera.
In Nam Dong, in the stomach of P. cocincinus had the largest
volume of food items; followed by Phong Dien and lowest is A Luoi
(F2,290 = 2.97, P = 0.05). The largest of food items in A Luoi (16.4 ±
32.2 items), followed by Phong Dien (15.4 ± 36.7 items) and lowest
in Nam Dong (13.9 ± 16.1 items; F2,290 = 0.14, P ˃ 0.05).
In Nam Dong, length, width and volume of food items in the
stomach of P. cocincinus was the heightest, followed by Phong Dien
and the lowest is A Luoi (length: F2,485 = 16.07, P < 0.0001; width:
F2,4.585 = 159.24, P < 0.0001 and volume: F2,4.585 = 10.14, P <
0.0001). Simpson index of prey categories of P. cocincinus were the
most abundant in Nam Dong (3.11), followed by A Luoi (2.04) and
Phong Dien (1.52).
16
3.3.3. The prey categories by habitat
3.3.3.1. Secondary alternated plantation forest: The four prey
categories (IRI ≥ 5.0%) of P. cocincinus were Isoptera (38.85%),
Formicidae (14.48%), Orthoptera (9.47%), Insect larvae (8.46%).
3.3.3.2. Primary alternated secondary forest: Six prey categories (IRI
≥ 5.0%) of P. cocincinus were: Isoptera (36.36%), Formicidae
(14.91%), Lumbriculida (9.06%) Insect larvae (7.82%), Orthoptera
(5.84%) and Araneae (5.61%).
3.3.3.3. Primary forest: Six prey categories (IRI ≥ 5.0%) of P.
cocincinus were: Isoptera (34.41%), Formicidae (12.62%), Orthoptera
(14.45%), (5.96%), Araneae (5.00%) and Insects larvae (5.00%).
The secondary alternated plantation forest habitats had the
lowest number of food items (14.6 ± 27.7), the primary alternated
secondary forest (16.6 ± 29) and the primary forest habitat (16.1 ±
36.4). However, the volume of food items in the stomach of P.
cocincinus in the secondary alternated plantation forest habitat
(4,106.4 ± 5,931.4 mm3), followed by the primary alternated
secondary forest habitat (3,131 , 3 ± 5,195.3 mm3), the lowest is
primary forest (2,921.6 ± 3,151.2 mm3). Difference in the number of
food items and the volume of food items in the stomach of P.
cocincinus in three habitat did not significantly.
The diversity index of prey categories in the plantation alternated
secondary forest were the most abundant (2.56), followed by primary
secondary forest (2.09) and the smallest primary forest (1.97). In the
plantation alternated secondary forest habitats, food items: 12.3 ± 7.6
mm in length, 4.5 ± 2.6 mm in width, and 281.0 ± 684.8 mm3 in volume
were the largest; length, width and volume of food items between
primary alternated secondary forest and primary forest habitats were not
much different (length: F2,485 = 14.20, P < 0.0001, width: F2.4858 =
146.94, P < 0.0001 and volume: F2.4855 = 5.40, P = 0.005).
3.3.4. The dietary composition P. cocincinus by age groups
The adults consumed four prey categories (IRI ≥ 5.0%) were:
Isoptera (43.79%), Formicidae (13.46%), Orthoptera (6.97%), insects
larvae (5.86%). The subadults ate five prey categories were: Isoptera
(43.12%), Formicidae (9.91%), Orthoptera (10.20%), Araneae
(5.39%) and Insect larvae (5.72%). The juveniles consumed six prey
categories: Isoptera (22.52%), Formicidae (21.11%), Orthoptera
(9.98%), Insects larvae (10.53%), Lumbriculida (7.81%) and Araneae
17
(5.76%). Four prey categories: Isoptera, Formicidae, Orthoptera and
Insects larvae were recorded in the stomach in all three age groups.
According to Pough et al. (1998), the most adult lizards consumed
the same prey categories as juveniles, but in the development stage
they only need to eat some other food items. This study also showed
that in addition to the main food items were insects, the subadults and
the juveniles consumed some prey categories (earthworms, spider).
The adults consumed the food items the largest in length,
width and volume, the subadults and juveniles consumed the
approximately equal size the food items in length, width and volume
(length: F2.485 = 166, P < 0.0001; as such, P. cocincinus consumed
different sizes and volumes of food items depend on age groups.
On average, the number of food items per stomach of sub
adults was the highest (21.7 ± 44.9), followed by the adults (15.0 ±
20.1) and the smallest was the juveniles (11.0 ± 19.3, F2,290 = 3.50, P
= 0.03). The volume of food items in per stomach of the adults
(4,447.2 ± 6,330.3 mm3) and the subadults (4,175.7 ± 5,514.3 mm
3)
were not much different. The volume of food items in the stomach of
juveniles were the smallest (2,257.2 ± 3,359.9 mm3, F2,29 = 5.94, P =
0.003). The subadults consumed a much larger food items than adults
and juveniles. Simpson index of the juveniles was the most abundant
(3.12), followed by the adults (2.06) and the subadults (1.76). Results
from the Rarefaction analysis showed that juveniles and adult
consumed a more food items than subadults. The adults and
subadults consumed equally more food items than the juveniles
Figure 3.4. Expected prey-taxon accumulation curves from the data of
stomach contents (A) and food items (B) by Physignathus cocincinus
18
3.3.5. The dietary composition by sex Physignathus cocincinus
The males consumed five mainly prey categories: Isoptera
(45.16%), Formicidae (9.79%), Plants (5.91%), Orthoptera (5.55% )
and Insect larvae (5.29%). The females consumed six mainly prey
categories: Isoptera (42.17%), Formicidae (17.23%), Orthoptera
(8.33%), Insect larvae (6.50%) and Hymenoptera (5.53%).
On average, the number of food items in per male stomach
more than female, but was not significant (F1.62 = 0.17, P = 0.678).
The volume of food items were consumed by females was larger than
that of males but not significant (F1.62 = 0.08, P = 0.781). Simpson
index shown that: females (2.24) consumed the abundant of food
items more than males (1.88). Males tended to consume the food
items more equally than females shown by Evenness index (female:
0.21 and males: 0.19). The mouth width of the largest adult male
(25.5 ± 7.3 mm), followed by adult females (22.5 ± 3.1 mm) and
juveniles (16.2 ± 1.9 mm). The males consumed the largest of food
items in length, width and volume, followed by females and juveniles
(F3,1.404 = 20.32, P < 0.0001).
3.3.6. Comparison of dietary composition in captivity and in nature
P. cocincinus consumed 20 prey categories as insects,
invertebrates and plants, seven mainly prey categories: termites
(Isoptera), ants (Formicidae), earthworms (Lumbriculida), spiders
(Araneae), Insect larvae, some species of Coleoptera and plant. In
captivity, P. cocincinus consumed 26 prey categories, there are five
prey categories were insects and invertebrates and four favorite food
items are fruits (bananas, mangos, jackfruit, papaya).
3.4. Evaluate the impact factors and propose recommendations for
the conservation and sustainable use of Physignathus cocincinus
3.4.1. Impact factors
3.4.1.1. Over-hunting
- In A Luoi: Hunting the Asian Water Dragon from February
to October every year, especially from April to August. A total of
seven households hunted about 364.5 kg the Asian Water
Dragon/year. The eggs of the Asian Water Dragon were taken.
- In Nam Dong: Hunting time was also from February to
October every year. On average in 2016, eight households hunted
224 kg, mainly juveniles and subadults.
19
- In Phong Dien: The Asian Water Dragon was harvested the
highest quantities from May to July (June: 82 kg), the lowest in
October (10 kg). In 2016, six households hunted 400.5 kg. A total
quantities was estimated about 989 kg/year (Table 3.1).
Table 3.1. Estimated quantities of Physignathus cocincinus
was hunted in A Luoi, Nam Dong and Phong Dien district in 2016
Month Average quantities (kg)
A Luoi Nam Dong Phong Dien Total
2 11 5 10 26
3 27 12 34.5 73.5
4 47.5 28 62 137.5
5 72 51 66 189
6 80 57 82 219
7 64.5 35 74 173.5
8 37,5 24 48 109.5
9 18 8 18 44
10 7 4 6 17
Total 364.5 224 400.5 989
Figure 3.5. Physignathus cocincinus at A Luoi market (A);
Physignathus cocincinus at restaurants in Hue city (B, C, D)
C D
A B
20
- Situation of use: There are 13 restaurants that sold P.
cocincinus irregularly (Phong My commune: 2 restaurants, A Luoi
district: 4 restaurants, Khe Tre town: 3 restaurants, Hue city: 5
restaurants, the Asian Water Dragon was processed into a variety of
dishes (Figure 3.5).
3.4.1.3. Impact on habitats
- Timber and non-timber forest product exploitation: The
results of the study on microhabitat of P. cocincinus shown that this
species mainly distributed at altitudes below 300 m, logging
activities, burning forest for cultivation ... has negatively affected the
habitat of P. cocincinus.
- Building traffic through the forest.
3.4.2. Propose recommendations for the conservation and
sustainable use of Physignathus cocincinus
3.4.2.1. Exclusion of priority protected areas
In order to preserve the population of P. cocincinus in A Luoi, Nam
Dong and Phong Dien districts in Thua Thien Hue province, managers
should prioritize the preservation of the area of the routes in the following
order: The first is T-2 and T-1 routes; followed by T-7, T-6; to the T-3, T-
4, T-8; the finally is the T-5, T-9, T-10 and T-11 (Figure 3.6).
3.4.2.2. Captivation for conservation and economic development
Captivate the P. cocincinus is one of the measures to limit
hunting of this species in the wild, and helping to develop the
economy of household at mountain regions.
3.4.2.3. Solutions
- Control illegal hunting and trading.
- Strengthen patrols to prevent violations that have a negative
impact on the habitats and populations of forest animals, including P.
cocincinus, especially in Nam Dong and A Luoi districts.
- Protect and restore the natural forest ecosystems.
- Establish the forest corridors to link isolated forest areas to
expand habitats and create space for exchanging genetic resources
among animal populations, including P. cocincinus.
- Control the illegal trade and use wildlife at the restaurants
and have the right punishments.
- Raise the awareness of the wildlife protection: Local
authorities should have a propaganda program to reduce the demand
for the wildlife, especially at the commune level.
21
Figure 3.6. Enclosed the conservation area of Physignathus cocincinus
in Thua Thien Hue
CONCLUSIONS AND RECOMMENDATIONS
1. CONCLUSION
1.1. Population status
- The size of population at the surveyed routes in Phong Dien
was the largest, about 81 individuals/2 routes (2,100 m long), on
average 26 m/one individuals; In A Luoi, in 2016, 96 individuals/5
routes (2,640 m long), on average 28 m/one individuals, in 2017, 59
individuals/2 routes (1,650 m long), on average 28 m/1 individual; In
Nam Dong 78 individuals/3 routes (3,700 m long), on average 48
m/one individual. In total, estimated the size of population the three
study sites in 2016-2017 was 314 individuals (314 ± 16 individuals).
- The density of populations: in Phong Dien estimated 97
individuals/10,000 m2, in A Luoi: 44 individuals/10,000 m
2, in Nam
Dong: 28 individuals/10,000 m2.
- The structure of populations at the surveyed sites in the three
study sites recorded: the number of juveniles was the highest
(52.9%), followed by the subadults (28.6%), the lowest adults
LAOS
DA NANG
CITY
EAST
SEA
QUANG TRỊ
PROVINCE
NOTE:
Poor forest
Rich forest
Medium forest
Plantation forest
Watershed
Study routes
22
accounted for 18.5%. Thus, from April to June population of P.
cocincinus wasin the development stage. The sex structure at the
surveyed routes in the three study sites were determined with ratio
the males: females was 13.1: 18.4.
1.2. Characteristics of microhabitats, foraging modes and distribution
- Characteristics of microhabitats: During the day, P.
cocincinus lived on ground and on the trees in six microhabitat types:
branches, leaf, convolve, rocks, sand, grass and microhabitat other.
At night, this species lived on the branches, leaf, convolve along the
stream. The adults usually lived at higher position than the juveniles.
In daytime, the level of forest cover at position of the adults was
lower (26.1%) compared to juveniles (34.7%). At night (77.3%) the
level of forest cover at position of the adults was higher than the
juveniles (64.4%).
- Foraging mode: Daytime, P. cocincinus was recorded from
8:00 to 16:00 (air temperature: from 28.3-30.6oC, humidity: 65.3-
85%), recorded most of the time from 12:00-13:00 (air temperature:
31.4oC, humidity: 61%) when it was sunny, mainly activities: hunting
prey, spawning, layering, bask and drinking. At night, P. cocincinus
lived at branches, leaf, convolve along the stream to sleep.
- Distribution: P. cocincinus lived in mainly the altitude of less
than 300 m, less lived in the altitude of 600 m or more. P. cocincinus
was recorded mainly in and plantation alternated secondary forest
habitat, with primary alternated secondary forest habitat and less
distribution in primary forest habitats.
1.3. The dietary composition
- P. cocincinus consumed 20 prey catergories, mainly insects
(termites, ants), spiders, Insect larvae, crickets and grasshoppers
(Orthoptera), termites and ants are two favorite prey catergories,
some of earthworms, plants were also the food items of this species.
- The adults consumed six favorite prey catergories: Isoptera,
Formicidae, Orthoptera, Insect larvae; the subadults consumed five
prey catergories: Isoptera, Formicidae, Orthoptera, Araneae and
Insect larvae; the juveniles consumed six favorite prey catergories:
Isoptera, Formicidae, Orthoptera, Insect larvae, Lumbriculida and
Araneae. The subaduts consumed more than adults and juveniles.
- The males consumed five favorite prey catergories: Isoptera,
Formicidae, Plants, Orthoptera, Formicidae, Insect larvae. The
23
females consumed six favorite prey catergories: Isoptera, Formicidae,
Orthoptera, Coleoptera, Insect insects, Hymenoptera.
1.4. Impact factors, conservation and develop Physignathus
cocincinus
- Impact factors on the Asian Water Dragon mainly due to
over hunting for food and trade, estimated in 2016 in A Luoi
hunting 364.5 kg/year, Nam Dong 224 kg/year, Phong Dien 400.5
kg, and the three study sites about 989 kg/year. Narrowing forest,
deforestation, habitat fragmentation was also the impact factors to
the habitat of this species.
- Conservation locations are as follows: Routes T-2, T-1; T-7,
T-6, T-3, T-4; T-8, T-5, T-9, T-10 and T-11.
2. RECOMMENDATIONS
2.1. Suggestion for further studies
It is necessary to continue monitoring the population of P.
cocincinus in Thua Thien Hue province to update the variation in the
number of individuals. Based on that, appropriate conservation
planning solutions will be developed.
2.2. Suggestion for conservation
- Review and evaluate the conservation status of P. cocincinus
species to add them on to the IUCN Red List and the list of species
that are restricted for commercial purposes.
- Make the priority sites for conservation: Huong Nguyen, A
Roang, Khe Dau (A Luoi), Huong Loc (Nam Dong), Phong Dien.
The biodiversity conservation in these areas should be protected
including the populations of P. cocincinus.
- Raise the awareness of local communities to reduce the
hunting of wild animals, including the P. cocincinus.
- Control the exploitation and use of excess P. cocincinus,
especially in the breeding season.
- Consider the reproduction P. cocincinus to decrease hunting
in the wild.
PUBLISHED STUDIES
1. Ngo Van Binh, Nguyen Cong Luc, Nguyen Van Hoang, Ngo
Dac Chung, Nguyen Quang Truong (2016), “Microhabitat use and
foraging mode of the Green Water Dragon (Physignathus
cocincinus Cuvier, 1829) in Thua Thien - Hue Province”,
Proceeding of the 3th National Scientific Conference on
Amphibians and Reptiles in Vietnam, Publishing House for
Science and Technology, Ha Noi, pp. 175-180.
2. Nguyen Van Hoang, Ngo Dac Chung, Ngo Van Binh, Nguyen
Quang Truong (2017), “Day and night activities of the Green
Water Dragon (Physignathus cocincinus cuvier, 1829) in the
mountain region of Thua Thien Hue province”, 126(1A), Hue
University Journal of Science: Natural Science; ISSN 1859-1388,
Published by Hue University, pp. 104-112
3. Nguyen Van Hoang, Ngo Van Binh, Ngo Dac Chung, Nguyen
Quang Truong (2018), “Diet of the Indochinese Water Dragon
Physignathus cocincinus Cuvier, 1829 (Squamata: Agamidae)
from Thua Thien Hue Province, Vietnam”, Russian Journal of
Herpetology, (Accepted).
4. Truong Quang Nguyen, Hai Ngoc Ngo, Cuong The Pham, Hoang
Nguyen Van, Chung Dac Ngo, Mona van Schingen, Thomas
Ziegler (2018), “First population assessment of the Asian Water
Dragon (Physignathus cocincinus Cuvier, 1829) in Thua Thien
Hue Province, Vietnam”, Nature Conservation, 26 :1-14, doi:
10.3897/natureconservation.26.21818
http://natureconservation.pensoft.net.