nguyễn lệ uyên - t-van.nett-van.net/wp-content/uploads/2018/04/chan-dung-tu-ve-bia-nau.pdf ·...
TRANSCRIPT
Nguyễn Lệ Uyên
CHÂN DUNG TỰ VẼ
tập truyện
(Thư Quán Bản Thảo, HK 2010)
Ấn Bản Điện Tử
Tủ Sách T.Vấn & Bạn Hữu
Thực hiện 2018
Trình Bày: T.Vấn
Nguyễn Lệ Uyên
CHÂN DUNG TỰ VẼ
tập truyện
1 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Mục lục
Đồng làng 002
Con dao và lát bánh mì 017
Người đàn bà bay trên mây 036
Vòng trắng bay 056
Chân dung tự vẽ 076
Ngày thì tối, đêm thì sáng 100
Nhân dân ơi, xin chào 139
Miền không dấu chân người 154
Bóng nắng 168
Gió cuối chân mây 195
Cưới vợ ăn tết 206
Hương cau 216
Về làng 223
Mùa tết 233
Lên non hái trái 240
Giấc mơ 257
2 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Đồng Làng
______________________________
Truông tre buổi xế trưa gió hiu nhẹ như chiếc quạt
to phẩy mát cho các bà ngồi túm lại hóng mát, làm
những chuyện vặt. Nhưng hơn hết là cái cớ để
dòm ngó vào đời tư kẻ khác như một trò giải trí
không mất tiền.
Đám phụ nữ đó trên dưới bốn mươi đâu chừng bảy
tám người. Trước, họ là những nông dân rặt. Nay
thì cái “mác” nông dân của họ đã thực sự lùi sâu
vào quá khứ. Họ đã được tách bỏ bao nỗi nhọc
nhằn ra khỏi cuộc đời. Những thửa ruộng sình
không còn chỗ gieo sạ cấy lúa, không nơi đào ao
nuôi tôm cá mà là những nhà máy sừng sững cao
ngất, đè tất cả quá khứ khốn khổ bên dưới những
ống tròn xịt khói nhuộm đen cả xóm làng. Những
cột khói ấy đang từ từ giải phóng họ. Và những
con người ấy đang trở thành những kẻ nhàn hạ
ngay chính trên mẩu ruộng nhỏ giờ nhô cao hơn
nền đình làng.
Món tiền được đền bù là khúc rẽ cuộc đời của làng
Nam Thổ, nằm kẹp giữa khúc sông rộng và quốc lộ
chạy xuôi theo hướng bắc-nam.
3 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Có lúc Chẻo đứng soi mặt mình trƣớc tấm
gƣơng to bằng cuốn vở học trò, móc trên cột gỗ
góc nhà và bổng khám phá ra rằng da mặt mình
giờ mịn màng, trắng trẻo hơn. Những sợi lông tơ
phơn phớt nhuốm đôi gò má ửng hồng, khác với
mấy tháng trƣớc, khi hai chân cô còn thọc sâu dƣới
đồng ruộng sình, chìa mặt hứng những ngọn gió
nam khô khốc, táp cháy da; những sợi roi mƣa
theo gió mùa đông bắc cứa quất buốt mặt mũi, tay
chân. Bất giác cô đƣa mu bàn tay cọ lên má. Một
cảm giác nhột nhạt, gây gây rung lên. Bàn tay tự
rơi xuống cổ. Chiếc cổ dài và trắng. Nhƣng chiếc
cổ ấy có vẻ nhƣ không chịu đựng nổi những cái cọ
vuốt nhẹ của đôi tay làm cho khuôn mặt cô lúc
nghiêng bên này, nghiêng bên kia trƣớc tấm gƣơng
soi. Cuối cùng bàn tay của chính cô thả xuống
ngực. Bộ ngực phập phồng qua lần vải dày sắp
4 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
nhảy ra ngoài với đôi tay. Chẻo đỏ mặt, buông tay
quay đi chỗ khác. Chẻo không còn thấy khuôn mặt
mình nhảy múa trong gƣơng soi. Sự tách đôi đột
ngột che khuất cái nhìn nhƣng có sức hút khuấy
trộn để cô trộm nghĩ về nhan sắc mình: Nó cũng
dễ coi. Nó không đến nỗi nào.
Nó chính là cái cớ để bà Tƣ Bèo, thốt lên
kinh ngạc trong lần về quê ăn tết, bất ngờ nhìn
thấy cô đang thơ thẩn ngoài ngõ: “Trời, con Chẻo
đó hử? Đẹp chi mà đẹp não đẹp nùng. Con mẹ
mày hồi xƣa đẹp nhất làng. Mẹ mày mất, giờ thì
mày đẹp nhất làng chớ còn ai vào tranh. Mày cứ ở
mãi xó này lại phí cuộc đời”. Những lời khen ngọt
lim líp kèm theo những ngón tay trái chuối trôi
trên bàn tay Chẻo, trôi vào cõi lòng Chẻo với cảm
giác rất lạ: ấm áp và lạnh lẽo trộn lẫn. Cô cúi đầu
không trả lời. Mà cô cũng chẳng biết phải trả lời
sao cho phải khi nhìn thấy cái nguýt dài và nhọn
nhƣ lƣỡi mát dƣới đuôi mắt bà Tƣ. Cô giật nhẹ tay
khỏi lớp mỡ màng của ngƣời đàn bà tròn nhƣ đòn
bánh tét, bƣớc lui ngƣợng nghịu, tai nghe với mấy
lời vói theo: “Con nói chiều cô qua thăm anh Năm
nghen”.
Bà Tƣ mất hút đâu đó trong kiệt nhỏ. Chẻo
thở phào nhƣ vừa tránh con rắn dƣới gan bàn chân
trần, trở vào nhà cầm chiếc rổ tre ra vƣờn ngắt
những cọng bồ ngót, rau dền, bình bát, đầu óc lởn
vởn những hình ảnh của sự gặp gỡ xanh lè ngoài
ngõ với bà Tƣ lúc nãy.
5 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Con mụ - cả làng đều gọi bà Tƣ Bèo là con
mụ - bỏ làng mấy năm sau mới quay về. Bà rực rỡ,
loá sáng giữa giữa đám dân làng xốc xếch, vàng
xuyến đầy tay, dây chuyền kéo trễ xuống tới bộ
ngực chảy xệ, đồ sộ. Con mụ che chiếc dù đỏ, môi
son đỏ hoét, mắt mang kính đen, vắt chéo chân
từng bƣớc từ kiệt tre vào nhà. Con mụ nói giọng
chớt chả, cƣời rung đôi má, rung chiếc bụng đầy
mỡ khiến những đứa con gái nhƣ Chẻo vừa sợ hãi
vừa thèm thuồng.
Dân làng kêu: Không biết con mụ làm cái
giống gì mà chỉ ba năm sau ngƣời dát đầy vàng?
Ngƣời độc miệng nói: Mả cha con mụ phát đấy!
Sự “phát” của nhân vật kỳ lạ, hành tung
không bình thƣờng này, bữa nay đột ngột xuất hiện
và đƣợc bà Hai Cốm vêu mỏ lên với đám chị em,
chắc nhƣ đinh đóng cột:
- Bộ dạng ấy không làm đĩ thì cũng dắt mối,
tú bà.
Ngƣời đàn bà ngồi trƣớc rổ hột điều, hai tay
thoăn thoắt lột lớp vỏ lụa, bày bộ ngực nhão, phơi
lòng thòng ra bên ngoài để thằng con nhỏ trƣờn
lên, miệng mút chùn chụt núm vú nhăn nheo, một
tay giữ chặt núm còn lại nhƣ sợ có đứa nào lấy
mất, hất cằm lên, cãi:
- Già khụ. Bốn năm mƣơi còn đĩ điếm cái
giống gì, đâu nhƣ thời còn Tây còn Mỹ?
Một bà khác tay đập chành chạch những
con bồ hóng bay vo ve trên mắt, cƣời hềnh hệch:
- Nghe nói nay Tây ba lô qua mình nhiều.
6 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Bà Hai Cốm:
- Ừa, có thể lắm.
Chẻo đặt chiếc rổ tre lên đùi, lặt lại những
cọng rau xanh, khép nép nghe những lời bình
phẩm, không tham gia.
Câu chuyện bất ngờ chuyển qua hƣớng
khác. Chị đàn bà có chiếc vú mƣớp bỏ trần ra
ngoài xoắn những hột đào trong chiếc cão bung
vành, thành nhiều vòng:
- Đời này sƣớng thiệt đấy. Thằng cha Tám
Cận goá vợ nhận cục tiền đền sào ruộng đâu bảy
triệu, liền xuống phố tậu ngay chiếc xe máy Tàu
chạy mù trời.
- Mấy bà không biết gì sao? – Bà Ba Vịt lộn
kêu lên - Thằng chả đêm nào cũng mò xuống con
mẹ Bỉnh bánh tráng làng dƣới. Có bữa ghé lại chỗ
tôi mua cả chục.
- Vịt lộn để nhử hả? - Tiếng the thé của ai
đó nhƣ tiếng bà Năm Dây Sên cất lên bỡn cợt, bới
móc.
Chị vú mƣớp trề môi:
- Nhử gì nữa mà nhử. Để tẩm bổ mấy bà ơi!
Thằng chả bảy mƣơi, con mẽ sáu mƣơi. Hồi xuân.
Sung lắm.
- Mày thử rồi sao biết sung? – Bà Vịt lộn
thêm.
Câu nói vừa rơi vãi ra quanh chỗ bọn họ
ngồi, bay lả tả, lập tức những tiếng cƣời ngặt
nghẽo tràn ra kèm theo những tiếng “quỷ, quỷ”
đầy lỗ tai. Và phụ hoạ vào những tràng ngặt nghẽo
7 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
quỷ kia là những âm thanh phát ra từ những chiếc
loa thùng quanh xóm, xoắn theo gió bay về.
Những âm thanh lạc quạc, ngọng nghịu,.những ca
từ kéo dài, thu ngắn từ những chiếc miệng móm
ngƣời già, chƣa tròn chữ của trẻ con phát ra ong
ỏng, vƣơng víu lên tận đọt tre cao.
- Nhà bà Năm Sình mới tậu dàn raoke hôm
qua. Chính mắt tôi thấy. Xịn lắm!
- Chỉ là chức trƣởng ban con con, sao bằng
của ông bí thƣ huyện?
- Chời ơi! của cống nạp, bòn rút mà đi so
bì?
- Nghe thằng chả mèo mỡ với con Châu bỏ
chồng, đi lại với nhiều cán bộ. Lão mua chiếc Pa
Xỳ mới cứng tặng con đĩ đó đó?
- Hèn chi cứ thấy thằng chả chiều chiều đảo
qua truông Dâu rồi mất hút…
- Toàn lũ điếm thúi, thúi từ con đĩ tới thằng quan –
Giọng nói của ai đó văng ra cùng với bãi đờm nhổ
toẹt ra bên hông.
Đúng lúc này thì bà Tƣ Bèo đột ngột xuất
hiện trƣớc những cặp mắt ngỡ ngàng, soi mói.
Đám đàn bà quê nhƣ muốn lột trần con ngƣời đàn
bà kỳ lạ kia ra. Mọi con mắt đều đổ dồn về phía bà
Tƣ đang vắt chéo chân từng bƣớc ngắn về phía
đám ngƣời ngồi lê. Chuyện riêng tƣ của các cán bộ
đƣợc bọn họ lập tức xếp gọn trong cổ họng.
Bà Tƣ Bèo cất giọng chả chớt:
- Chào mấy chị. Mạnh giỏi há? Mà làng
mình nay giàu quá héng? Nhà nào cũng xe máy,
8 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
cũng karaoke. Chẳng bù hồi tui còn ở làng, nghèo
mốc đít.
- Giàu chi – bà Hai Cốm vẩu mỏ lên – có
chút tiền đền bù mới ra thế. Giỏi ca hát ba tháng là
đói dảnh bánh.
- Đói đâu chƣa thấy, nhƣng giờ nghe ca hát
vang trời là thấy vui rồi – Bà Tƣ Bèo nói vừa nhún
nhẩy, ƣ ử: Sáu mươi năm cuộc đời…Hai mươi năm
đầu vui sướng không bao lâu, hai mươi năm sau ừ
ư ư ừ ừ…
- Phƣớc đức nhà chị đi làm ăn xa giàu có,
chớ ở làng nhƣ bọn này có ngày xách bị đi ăn xin.
- Sao vậy? – Bà Tƣ Bèo ngạc nhiên.
- Sao nữa? Ruộng đất sạch sẽ. Trên thu hết
của dân rồi đƣa cho thằng giàu mở nhà máy này,
xƣởng chế tạo kia. Mà chế tạo con khỉ mốc. Chúng
nó sang tay nhau ăn chênh lệch. Làm dân thời chó
nào cũng khổ nhƣ trâu bò. Máy móc ai ngƣời ta
dùng đám khu đen này? Quét rác đổ thùng đâu
phải dùng đến trăm ngƣời?
- Vậy sao? – Bà Tƣ Bèo thốt lên bằng cái
giọng vô cảm, rồi nhìn xoắn vào chỗ con Chẻo
đang ngồi thu lu, núp sau lƣng bà vú mƣớp - Chẻo
à, con dẫn cô vào chào anh Năm đi con.
Không đợi Chẻo trả lời, bà xấn lại, xốc cổ
tay cô lôi dựng dậy, kéo đi. Rổ rau trên tay Chẻo
chao đi mấy vòng, suýt rơi xuống đất.
- Chào mấy chị nghen.
9 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Ông Năm Thọt trƣớc kia là anh thợ cày giỏi
nhất làng. Đêm ra nọc rơm rút rơm cho đôi bò, bị
du kích địa phƣơng bắt lên núi, ấn cho cây súng và
biến thành anh Việt cộng một cách dễ dàng, trơn
tru. Năm Thọt có tên cúng cơm là Tầm, Võ Văn
Tầm. Sau trận càn năm 72, ông bị trúng mấy phát
đạn vào chân, không chạy đƣợc, bị bắt làm tù binh,
bị giam ngoài Côn Đảo đâu hai năm rồi trả về địa
phƣơng với chân trái lệch đến mƣơi phân nên dân
làng lấy tƣớng đi đặt chết tên cho ông. Nếu chỉ
dừng lại ở đây thì ông còn may mắn hơn nhiều
ngƣời khác (nói về số phận). Nhƣng đời không
phải vậy, không suôn sẻ. Mấy tay ở xã ngắm nghía
tƣớng mạo ông sao đó, bèn đề nghị lên quận bắt
ông làm ấp phó. Cái chức ấy chẳng mùi mẽ, quyền
lực, cũng không cơm cháo gì trong cái xóm nhỏ
chỉ còn lèo tèo vài ngƣời già. Thanh niên lớp lên
núi, lớp xuống biển rồi gặp nhau ở chỗ nào đó
phang vào nhau ầm ầm, cứ nhƣ hồi còn để chỏm
chia phe đáng giặc giả. Có điều đám giặc giả ngày
nào giờ thành thiệt rồi: Một bên cầm súng Nga xô,
Tàu; một bên cầm sũng Mỹ nhắm vào nhau mà
bắn. Bắn đến lòi ruột, phọt óc, tan nát thịt xƣơng
mới thôi, cho dù trƣớc đó chúng đã từng chia nhau
trái ổi, cắn chung cục kẹo nổ, rủ nhau đi hái trộm
me...Năm Thọt trong số đó. Ông từ chối thế nào
cũng không xong, bèn tự nhủ: Ấp phó trong cái
làng chỉ còn hàng tre và mấy con chó ốm chạy
rông thì tội nợ gì. Cứ từ từ ít tháng rồi tìm cách!
Là nghĩ bụng thế thôi, chứ cách gì thì nghĩ mãi mà
10 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
không tìm ra. Còn chân cao chân thấp chạy lên núi
lần nữa, sao leo gộp đƣợc? Với lại... Đúng, cứ lì
dƣới này coi bộ sƣớng.
Đám đông những ngƣời nhƣ Năm Thọt chỉ
có thể nhìn thấy đƣờng gần mà không thể tính nổi
đƣờng xa; chân chỉ có thể chạm mặt đất chứ hai
tay không thành cánh mà bay lên trời cao, nên chỉ
hai tháng sau là các đồng chí cũ tràn về làm chủ.
Ông bị liệt vào hàng ngũ địch. Làm tay sai cho
địch. Lại vác tay nải, lƣơng khô đi cải tạo. Đủ hạn
lại trở về nhƣ bao ngƣời khác, mặt cắm xuống
đồng sình, chổng đít lên trời nhƣ kêu oan!
Giờ chỉ còn hai cha con trong căn nhà gạch
ba gian. Tuy cũ kỹ, rêu mốc nhƣng không đến nỗi
nào. Không làm cán bộ thì nông dân, mất mát chi,
ông nhiều lần tự nhủ nhƣ vậy. Khổ tâm là cốt nông
dân bị lột trụi nhƣ ngƣời ta nhổ lông con chim cu
hơ lên lửa: lớp da đỏ hỏn phút chốc đen thui, mỡ
chảy xèo xèo. Và nhƣ bao dân làng khác, bọn ông
chỉ có dúm chữ, chẳng nghề ngỗng, biết chuyển
đổi làm thứ gì? Ngay cả chuyện ông viết đơn xin
chân bảo vệ một nhà máy trong khu công nghiệp,
ngƣời ta liếc ngang nhìn dọc tấm lý lịch, rồi lịch
sự: “Dạ có ngƣời rồi, thƣa bác!”. Chỗ nào cũng
một giọng ấy khiến ông ngán ngẩm quay về, lật
tung lớp đất cằn trong mảnh vƣờn nhỏ, trồng các
thứ rau kiếm đồng chợ.
Bữa gặp Chín Phƣớc – cựu chủ tịch mặt
trận xã, ngƣời rất hiểu hoàn cảnh ông – đang thả
bò trên gò Dinh, ngoắt ông lại:
11 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
“Hết biết rồi anh Năm ơi! Cái làng này rồi
đến loạn mất. Nhà nào cũng hò hát. Nhà nào cũng
xúm nhau mua xe. Nhà mua sau phải mua xe đắt
hơn nhà mua trƣớc. Còn bọn thanh niên rƣợu chè
thâu đêm suốt sáng. Ầm ầm nhƣ đám giặc, chẳng
chịu làm ăn!
Năm Thọt cƣời khẩy:
“Đám ve sầu đó hát bã họng, bụng tóp teo
sẽ chạy đi kiếm ăn, lo gì?
“Không thể đƣợc. Không thể nào ăn không
ngồi rồi mãi đƣợc Anh tính coi: mƣơi triệu bạc đó
có thấm tháp vào đâu. Ăn nhậu ca hát đã đời rồi
lăn ra chết chắc?
Năm Thọt khoát tay:
“Thôi, hết đƣờng rồi anh Chín. Tôi cũng
khuyên giải nhƣng họ bỏ ngoài tai, kêu tôi là đồ
khùng. Thân già bọn mình… - Ông bỏ lửng câu
nói.
Năm Thọt bật cƣời khùng khục khi nhớ lại
mấy lời qua lại bữa đó với Chín Phƣớc. Thằng cha,
đúng chứng nào tật đó. Chuyện làng xóm chả coi
nhƣ chuyện nhà, bứt rứt không yên. Trƣớc khi đi
dự họp tƣớng mạo hùng hùng hổ hổ; tan buổi mặt
mũi ỉu xìu, bƣớc đi không muốn nổi. Bộ mặt Chín
Phƣớc lộ rõ vẻ thất vọng não nề.
- Năm ơi, anh Năm!
Tiếng gọi thẽ thọt làm ông giật nẩy ngƣời,
rút vội tay ra khỏi háng khi cơn ngứa chƣa thiệt đã.
Ông bỏ chân xuống khỏi chiếc đẩu nhựa quơ chân
12 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
tìm đôi dép cùn, vịn tay lên mặt bàn nhóng cổ ra
hỏi:
- Ai kêu tôi đó?
- Em đây. Em Bèo đây anh Năm!
- Trời đất, cô đi những đâu mà nay mới mò
về làng? Về hồi nào?
Vẫn những bƣớc chân vắt chéo, bà Tƣ bỏ
tay mình ra khỏi tay Chẻo, cởi chiếc kính đen ra
khỏi sống mũi, dòm Năm Thọt gần đụng mặt.
- Mới. Khoẻ chớ anh Năm?
- Khoẻ. Còn cô? Chà, thay đổi dữ he. Nhìn
bộ dạng này đã biết đổi đời rồi, giàu hung rồi? –
Ông nói vừa nhìn bóng con Chẻo mang rổ rau ra
giếng nƣớc.
- Đổi cái con khỉ. Giỡn hoài. Mần nhƣ trâu
nhƣ bò ấy chớ!
- Cô mần cái giống gì mà cực nhọc dữ vậy?
- Huầy, có nói anh cũng không hiểu đâu. Về
lần này trƣớc thăm anh, sau bàn với anh cho con
Chẻo đi với em vào trỏng. Em hƣớng dẫn nó làm
ăn. Nhan sắc nhƣ nó biết đâu lại quơ đƣợc thằng
chồng giàu?
- Dòm thân hình cô chắc cũng đang quơ
đƣợc thằng chồng giàu có? Mà làm thứ gì: may vá,
bán xôi, hủ tíu, bò kho, vé số…? Từ ngày làng này
hết ruộng, lũ trẻ con cũng bỏ học vô trong đó bán
vé số, đông có đến trăm!
- Đâu cực nhọc vậy anh. Số là em có quán
cà phê: sáng bán tới 9 giờ nghỉ, tối đến 10 giờ
đóng cửa.
13 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
- Cô kêu nó làm những gì?
- Dạ, ngồi quày tính tiền cho khách.
- Chỉ vậy thôi?
- Vậy thôi.
- Coi bộ dễ ăn quá héng?
- Chẳng dễ gì đâu anh. Hay là anh bán
quách căn nhà vào với em?
- Giỡn hoài.
- Thiệt đó.
Năm Thọt ngẩng ngƣời, nghĩ bụng: “Con
mẹ này định quơ luôn mình chắc. Hồi xƣa nó bám
theo mình nhƣ đỉa bám chân trâu khiến bà vợ cứ
ghen lồng lộn lên. Vợ mất nó lại ám nhƣ nhƣ ma
quỉ ám, nay thấy đơn chiếc định giở trò gì nữa
đây?”.
Háng ông lại nổi ngứa. Lúc đầu chỉ mới lăn
tăn. Ông nín thở để kéo cơn ngứa xuống, nhƣng
càng nín hơi, nó lại càng bùng lên thật dữ dội.
Ngứa hung rồi. Ông chỉ muốn thọc ngay tay vào
cào xoáy cho đã cơn, ngặt nỗi con Tƣ ngồi cạnh
ông luôn chồm về phía mình mỗi khi nói. Cơn
ngứa chạy lên mặt đỏ rần, tê cứng trên các đầu
ngón tay, cắn nhéo trên vành tai… Chỗ nào trên
thân thể ông cũng nhột nhạt khó chịu. Tƣ Bèo ngó
chăm chăm Năm Thọt. Cô thấy khuôn mặt ông có
vẻ khang khác, các mạch máu dãn đỏ vẽ vòng y
nhƣ những anh thanh niên tuổi mới lớn. Không
kềm đƣợc lòng, cô trƣờn bộ ngực đồ sộ lên mặt
bàn, cầm tay Năm Thọt:
14 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
- Anh chẳng mất gì đâu. Tình muộn là đẹp
nhất! – Nói và cô nhoẻn nụ cƣời duyên. Nụ cƣời
đỏ lòm son môi và lửa tình.
Năm Thọt trân ngƣời gần nhƣ cong quíu lại,
mắt hoa lên Ông không còn chịu nổi cái cảm giác
nhột nhạt kia nữa, không thấy nghe gì nữa, thọc
tay vào háng gãi rồn rộn, gãi thật mạnh nhƣ những
lúc ông ngồi một mình dạng chân gãi ngứa. Những
móng tay cào chạy tới đâu cơn ngứa điên cuồng
kia bị đẩy lùi tới đó. Ông híp mắt mê mẩn. Giây lát
thần kinh nhƣ dịu lại để kịp nhìn thấy bộ mặt hốt
hoảng nhìn sững ông.
- Chuyện gì vậy anh Năm?
Rõ ràng trƣớc mặt ông là Tƣ Bèo, ngƣời
đàn bà son phấn đã biến mất trong cơn ngứa khắc
khoải vừa qua, giờ trồi lên. với cặp mắt đờ đẫn,
ngây dại. Ông nghe rất rõ từng hơi thở dồn dập của
cô ta, hơi thở của ngƣời phụ nữ bám đuổi theo ông
trên cánh đồng làng mấy mƣơi năm trƣớc, giờ lại
có dịp rƣợt ông chạy hụt hơi trên chiếc đẩu nhựa.
- Không. Cô Tƣ, đừng làm thế!
Nói và ông giật mạnh tay, thiếu chút nữa là
mặt hai ngƣời dính chặt vào nhau.
Ông đứng lên, thở hắt ra. Tƣ Bèo cũng
đứng lên thở sƣợt nhƣ quả bóng xì.
Đồng làng hun hút phía sau. Truông tre
chổng ngƣợc thành những con đƣờng khói bụi, ồn
ào; vò nƣớc móc lủng lẳng chiếc gáo dừa quay
tròn cạn đáy bắt đầu lột lớp vỏ xơ cứng biến thành
15 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
những ly bia, bọt tràn nhớp nháp. Đó là những lớp
bọt phun xùi xùi từ chiếc miệng những con cua
đồng trƣớc cửa hang, lớp bọt của những con lƣơn
trơn chùi dƣới mà sâu.
Quán toàn những mùi lạ từ những con
ngƣời lạ hoắc mang vào. Đó là mùi khói thuốc
thiu, bay vất vƣởng, mùi bia vãi tung trên nền nhà
toè ra ung úng khó chịu. Nó không nhƣ mùi phân
bò, mùi bùn non, mùi khói đốt đồng và rơm khô
lẫn trong mùi cua đồng, cá nƣớng mà cô từng cất
tiếng cƣời trong vắt… Chẻo bắt đầu lạc vào thế
giới khác bằng những thứ mùi lạ ấy, quấn chặt lấy
cô. Chẻo ngập lún trong mớ nhớp nháp mỗi lúc
nhƣ dày, cao thêm làm cho đêm dài và sâu hơn.
Đêm sáng trắng và dập dềnh hỗn độn. Đêm vỡ
loảng xoảng những mảnh nhỏ găm vào đầu óc, cứa
xoáy ruột gan. Đêm nào Chẻo cũng mơ thấy cánh
đồng sình, những bƣớc chân vắt chéo và bộ mặt
đầy mỡ của bà Tƣ Bèo. Cánh đồng làng thì tít mù
xa, còn bà Tƣ thì thật gần, sát bên cô, luôn thầm
thì, nhỏ to ngọt xớt: “Bắt đầu cuộc đời là những
khó chịu nhƣng riết rồi quen con ạ!”. “Nhƣng hồi
ở nhà cô kêu chỉ ở quày thu tiền?”. “Con nhỏ mới
lạ, ngồi với ngƣời ta có mất mát cái gì đâu nè? lại
đƣợc boa. Khoảng tiền ấy còn gấp chục lần lƣơng
cô phát cho cháu ấy chớ?”. Chẻo hốt hoảng khi
thấy bà Tƣ nhất mực bắt phải lột bộ bà ba để tròng
vào chiếc robe màu đen: “Da con trắng, mặc màu
đen sang trọng lắm” bằng cái giọng thẽ thọt ru
ngủ. Trong bóng tối nhờ nhờ, cô nhƣ cái bóng ma.
16 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Đôi vai trần, cánh tay trần lạnh ngắt. Từ chân lên
đến háng là khối da thịt phơi ra trần truồng. Cô
cảm thấy nhƣ cả thân thể mình bị lột sạch sẽ
những mảnh vải che. Chẻo thu ngƣời lại, nhƣng
càng cố, cơ thể cô càng trƣơng phình lên. Những
chỗ kín cần che giấu của phụ nữ bị lật tung, toang
hoác. Nƣớc mắt cô chảy ra. Những giọt nƣớc mắt
phút chốc thành những con rắn trƣờn khắp ngƣời
lạnh ngắt. Bọn con gái tứ xứ và cả cô nữa, tất thảy
mƣời bảy ngƣời. Mƣời bảy con rắn ngơ ngác dƣới
chiếc đũa điều khiển, rất lạnh lùng của bà Tƣ.
Cả trong giấc mơ lẫn ban ngày mắt mở thao
láo Chẻo luôn nhìn thấy cánh đồng sình của cha
con cô, của ngƣời dân làng Nam Thổ bị đè bẹp bên
dƣới những khối bê tông đồ sộ của những nhà máy
im lìm ngủ bên dãy núi phía tây.
Đồng làng hun hút xa.■
17 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Con Dao Và Lát Bánh Mì
_____________________________
“Mả mẹ mày… làm ăn nhƣ củ kít”. Cây
thƣớc thợ gõ xộc lên gờ tƣờng mới xây. Lớp gạch
phía trên ngã bổ xuống, vang thành tiếng động lộc
cộc khô khốc. Cây thƣớc quay ngang qua phía đầu
Tỏ. Tiếng “cốc” nhỏ, rất nhỏ nhƣ tiếng con chim
gõ kiến gõ vào cành cây khô. Tỏ xoa xoa chỗ đau,
đƣa chiếc bay lên và kịp hạ xuống. Chiếc bay hạ
xuống để nghe tiếp câu chửi: “Đ. má… đầu mày
chứa toàn bùn thúi và phân trâu”. Tỏ cúi xuống
mảng tƣờng vênh, đè chiếc bay lên phân gạch
nhớp nháp vữa. Cây thƣớc thợ di chuyển qua phía
bờ tƣờng bên kia, nơi toán thợ đang gác tấm lanto.
Tỏ nhìn cây thƣớc thợ di chuyển, nhìn dáng
đi lạch bạch của con vịt bầu, đầu chực ngã chúi về
phía trƣớc. Chỉ cần một tích tắc thì cái bay vung
lên, nhƣng Tỏ đã ghìm lại, nén cơn giận xuống bàn
chân phải, đá tung lớp gạch vừa xây, ném chiếc
bay lên không, bƣớc thẳng.
18 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Gió lùa qua hai tai, nắng tháng Sáu ập
xuống nhƣ lửa từ bễ rèn phụt ra. Cả công trƣờng
xao bay, phậm phực trong hơi nóng. Những gờ
gạch xây chao lên hập xuống nhƣ gió nâng kéo
chiếc lá trên cành trôi trong lớp không khí loãng.
Đồng nƣớc phía trƣớc sáng trắng đến loá mắt. Tỏ
men theo con mƣơng cụt thất thểu quay về xóm.
Bộ phảng ngựa kê ở đầu chái phủ lớp bụi
mỏng. Tỏ không phủi, nằm ình xuống, đầu gối lên
hai tay, mắt ngó đăm đăm vào giàn rui kèo cong
vểnh, liên tƣởng đến thân phận của thằng ngƣời
vêu vẹo, lồi lõm là nó.
“Công trƣờng bữa nay nghỉ sao?”.
“Không”. “Đau bệnh gì à?”. “Không”. “Sao vậy?”.
“Không làm nữa”. “Mẹ cứt, không làm thì lấy gì
nhét vào miệng?”. “Ăn trộm…”.
Sáu Xƣờng ném chiếc cuốc lăn lóc xuống
nền đất, tru lên: “Thằng mất dạy. Ăn nói với cha
mẹ cứ nhƣ ném cát vào mặt. Không đi làm thì lấy
gì ăn?”. “Nói rồi. Không làm thợ xây nữa. Mai đi
Sài Gòn tìm việc khác. Mỗi tháng gửi về năm trăm
đƣợc chƣa?”. “Đúng là đồ ăn trộm, quân bất
nhơn!”. “Sao cha không ra công trƣờng chửi vào
mặt tụi ăn trộm đó. Mà không phải ăn trộm đâu.
Cƣớp. Chúng nó lắm tiền nhiều thế, đi cƣớp của
thằng dân mạt rệp đó”.
Sáu Xƣờng không nhìn con, lạch bạch ra
giếng kéo nƣớc rửa đôi chân mốc cời, trong khi Tỏ
vẫn nằm gối đầu trên hai bàn tay bắt chéo vào
nhau, lơ mơ nghĩ về thân phận cong oằn của mình
19 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
và ngủ thiếp trong cơn nóng hầm hập từ mái tôn
dội xuống.
Cơn nóng kéo Tỏ chìm lút trong cơn mộng
mị hãi hùng. Anh thấy mình cầm chiếc xà beng
đào sâu phần bờ ruộng nhà, hất tung những dãy bê
tông đè bên trên, đẩy ra xa thật xa khu công trƣờng
đang thi công, giành giật từng phân vuông đất, moi
từng hốc nhỏ nối lại, cong ngƣời đẩy tới. Những
lọn cỏ nát nhão trộn lẫn chút cát, vữa, gạch vụn
nhƣ cái xác con gà bị bánh xe cán nhẹp trên mặt
đƣờng, lầy nhầy, sền sệt… Những dề đất kết lại rồi
vỡ ra, trôi theo sức đẩy cật lực của thằng con trai
tuổi hai mƣơi. Ngƣời mẹ từ hƣớng núi bay về, tóc
rũ rƣợi, mặt đầy máu níu thằng con lại, giọng gào
khản đặc: Mẹ van con! Xƣa chúng giết mẹ dƣới
dốc đá. Giờ mẹ không muốn con chết theo mẹ. Tỏ
vuột ra khỏi đôi tay ngƣời mẹ chỉ còn những đốt
xƣơng trắng hếu rung lên. Tỏ lao tới. Mảnh ruộng
vuông vức khi xƣa theo cơn giận dữ cuồng dại bị
xô nghiêng, lệch thành nhiều hình thù kỳ dị khác
nhau: khi thì nhƣ lƣỡi mác, lúc bè ra mỏng dẹt nhƣ
bánh tráng, lúc nhƣ ống thổi lửa… rồi rơi tòm
xuống đáy sông. Bà mẹ ngã sấp xuống nền cát
cháy đầm đìa máu me, hai tay chấp chới trong
khoảng không liếp màu máu bầm. Tỏ hoảng hốt la
lên. Mồ hôi chảy bè trên mặt ván ngựa. Anh mở
mắt chỉ kịp thấy mái rui kèo cong vòng nhƣ chiếc
võng gai sắp câu mình lên cao.
20 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Mặt trời nhỏ lại bằng chiếc dĩa, dính chặt
lên đỉnh núi phía tây rồi lăn từ từ xuống.Khối đỏ
nhoè nhoẹt mất hút.
-Tui qua nhà bảy Lụa - Tỏ kéo dài giọng,
bƣớc ra khỏi bờ sân gạch.
-Đàng hoàng với con nhà ngƣời ta – Tiếng
ông Xƣờng đâu đó trong gian nhà tối vọng ra, nhỏ
nhƣ tiếng thở dài – Năm tới tao qua nhà hai
Trƣơng bàn chuyện cƣới hỏi. Lo làm ăn, dành dụm
tiền là vừa.
-Xì... - Lời phản kháng hệt đầu máy hơi
nƣớc phun ra, cố gắng rƣớn tới, kéo hàng dãy toa
nặng nhọc, ì ạch lăn về phía trƣớc.
Tỏ bƣớc thẳng. Bƣớc đi nặng nề không dám
ngoái nhìn căn nhà cũ kỹ ọp ẹp. Bao nhiêu dự tính
bị chôn sâu dƣới những tầng bê tông đè lên. Chỉ
cần hai mùa lúa, Tỏ sẽ mua gạch xây lại căn nhà.
Một mùa nữa sẽ dẫn bảy Lụa về hôm sớm cho cha.
Vậy mà giờ này bƣớc ra khỏi ngõ, chệnh choạng
nhƣ kẻ trốn chạy.
Trời tối hù. Qua mấy truông tre dài hun hút,
Tỏ xuôi ra phía gò Mãng Cù. Những bụi trâm bầu
nối dài chạy dọc hai bên đƣờng kéo bóng tối đậm
hơn. Những hình thù kỳ dị nhấp nhô phía trƣớc,
theo từng bƣớc đi cao thấp trên các mô đất lồi lõm
trên mặt đƣờng. Căn nhà bảy Lụa chìm sâu bên
trong vƣờn dừa, hắt ra chút ánh sáng yếu ớt. Tỏ dụ
dự một lúc rồi bƣớc thẳng ra đƣờng đất đỏ, phía
sau là căn nhà chìm khuất sau vƣờn dừa, hàng
trâm bầu, truông tre và căn nhà xiêu vẹo…Tỏ hiểu
21 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
rằng, nếu không đi nhanh, chỉ một thoáng chao
lòng anh sẽ chạy vào, sẽ chu môi giả tiếng chim cú
và Lụa sẽ bƣớc ra, ngã vào đôi tay chắc khoẻ. Lụa
sẽ hoá thành sợi dây thừng cột chặt Tỏ lại. Và lại
sẽ nắm chiếc bay lên, sẽ gồng mình đẩy từng xe
cát gập ghềnh cả đời ngƣời…
Mặt lộ thênh thang gió, thênh thang những
ruộng mạ thiệp đen bóng tối, nhấp nhô sau công
trƣờng. Chiếc túi vải trên lƣng đung đƣa theo nhịp
bƣớc chân chạm vào vùng thịt da, cơ hồ nhƣ có
bàn tay Lụa đang xoa lên những chỗ đau ê ẩm sau
một ngày đội nắng trên giàn xây.
Bàn tay Lụa xoa mãi trên lƣng tới ngả tƣ
quốc lộ, Tỏ chuyền túi vải xuống tay trái, ghé
mông lên cột số. Trời tối đen. Xóm làng phía sau
lƣng là một khối đen đậm đặc. Những hàng tre,
mái tranh, ruộng đồng, rặng trâm bầu và khu công
nghiệp dính chặt vào nhau, không thể nhìn thấy rõ
ràng đâu là mái đình, đâu là cầu ao nơi hai đứa
thỉnh thoảng hẹn hò lúc đêm tối trời.
Phải đợi khá lâu mới thấy ánh đèn nhấp
nháy từ xa. Chiếc xe khách trờ tới. Tỏ bật dậy
chuyền túi vải qua tay phải giơ lên.
-Đi đâu? - Ngƣời phụ xe hỏi nhanh nhƣ
viên bi bắn ra khỏi tay.
-Sài Gòn - Tỏ đáp.
-Trăm rƣởi.
-Trăm hai.
22 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
-Chạy - Ngƣời phụ xe hô lên nhƣ ngƣời chỉ
huy hô lính xung phong.
Tỏ đuổi theo vừa la “trăm rƣởi, trăm
rƣ…ởi…”. Tỏ chạy hụt hơi, vừa nhẩm tính trong
đầu: tới bến vẫn còn chín chục, đủ để sống hai
ngày ở đất Sài Gòn trƣớc khi tìm ra công việc gì
đó. Xe dừng. Tỏ lao lên nhƣ con chim cắt. Lúc
ngồi yên trong lòng xe, nƣớc mắt tự dƣng trào ra,
lăn xuống bên khoé môi mằn mặn. Anh cảm thấy
tim mình bị bóp thắt. Anh tƣởng tƣợng ngƣời cha
già khọm sẽ hoảng hốt khi thức dậy không thấy
mình ngủ trên bộ ván ngựa, con Lụa sẽ khóc nức
nở khi biết nó chỉ còn lại một mình trong vƣờn dừa
âm u. Mẹ anh chết cách đây bốn năm đồng nghĩa
với việc chấm dứt sự học, bấu trên bờ ruộng giúp
cha việc đồng áng. Bốn năm trống trải đủ để Lụa
chen ngang vào đời thằng con trai bƣớc qua tuổi
dậy thì. Và Tỏ nhƣ chiếc áo tơi móc dính trên cột.
Giờ thì chiếc áo tơi bay đi, từ từ bay đi chỉ còn trơ
khấc chiếc móc tre ám bụi. Tỏ miên man tƣởng
tƣợng anh sẽ ngã quỵ trên đƣờng, rồi lại gạt bỏ ý
nghĩ đen tối để mơ ngày trở về làng trên chiếc xe
bóng lộn, máy nổ rì rì…Lụa ra đón ở đầu con
mƣơng nƣớc cắt xéo nửa làng và dân trong ấp sẽ
nhìn nó…
-Tới bến rồi. Xuống đi cha nộ…ội - tiếng
nội kéo dài ra nhƣ tiếng kẻng hợp tác xã thuở
trƣớc, mệt mỏi và dứt khoát.
Tỏ đeo túi vải lên vai, ngáp tiếng dài trƣớc
khi bƣớc xuống. Bến nhộn nhịp. Những ngƣời
23 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
chạy xe ôm ùa tới vây quanh hỏi Tỏ đi đâu. Anh
lắc đầu bƣớc chệnh choạng giữa đất Sài Gòn ồn
ào, chen chúc và khói bụi. Bản thân anh cũng
không biết đi đâu, đến đâu. Không ai là ngƣời
quen ở xứ này. Hồi còn ở làng nghe nói có cô
Thao con gái út thầy Sáu vì chuyện tình duyên nên
bỏ nhà vào đây trên mƣời năm, và trƣớc đó có mấy
ngƣời vì dính líu đến chế độ bỏ trốn đâu đó trên
Tây Ninh. Đất Sài Gòn rộng, ngƣời đông nhƣ kiến
bò biết tìm đâu? Bƣớc chân cứ xuôi theo con
đƣờng rộng, chật cứng ngƣời, xe; tay trái giữ chiếc
túi vải, tay phải thọc sâu trong túi quần, ấn những
tờ giấy bạc cong queo nằm xẹp sát đáy.
Tới ngả tƣ kịp lúc đèn đỏ, Tỏ trôi theo dòng
ngƣời đi bộ qua bên kia đƣờng và dừng lại trƣớc
chiếc xe đẩy bán bánh mì. Tỏ mua một ổ. Lúc lôi
những tờ giấy bạc ra, nghe ngƣời bán bánh hô gọn
trơn: “mƣời ngàn” khiến nó giật thót ngƣời. Anh
hiểu rằng, đến giờ phút này trong túi chỉ còn tám
chục. Tám chục để chống chọi với việc tìm kiếm
việc làm mù mịt trƣớc mắt trong những ngày sắp
tới khiến miếng bánh trôi qua cổ họng vừa mặn
vừa chua, khiến anh nhớ tới những miếng cơm
cháy bên hông nồi, dĩa rau luộc và xoong cá kho,
nhớ tói hình ảnh ngƣời cha ngồi nhai trệu trạo,
luôn nấc cụt trong mỗi bữa cơm và những tiếng
rên nho nhỏ đêm khuya trở trời. Tỏ đang là chỗ
dựa duy nhất trong cuộc đời còn lại của ông, một
ông già trên sáu mƣơi, goá vợ, con cái muộn
mằn… Chót bánh mì cuối cùng trôi qua cổ làm
24 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
nhói lên nỗi đau tê. Đúng mình là thằng mất dạy,
bất nhơn, bất hiếu và kịp hiểu ra rằng, mỗi tháng
không có năm trăm gửi về, cũng đồng nghĩa với
chuyện đẩy cha mình men tới vực đói khát, đau
bệnh. Cả thể xác và tinh thần ông đã suy sụp kể từ
ngày toà tuyên án ba năm tù giam vì tội bắt tay với
kẻ gian làm mất năm tấn lúa hợp tác xã. Kẻ gian
ấy toà không thể “định dạng” còn ông thì cứng
họng không mở miệng khai nổi. Ông đã nhiều lần
nói: Thà mang tiếng và chịu nhục trong ba năm
hơn là phải khai ra để tự mình bôi bẩn “lý tƣởng”
mà ông và cả thế hệ thanh niên nông dân đã đổi
bằng máu, nƣớc mắt, bằng sự sống và cái chết
trong đƣờng tơ kẽ tóc! Tỏ không thể hiểu cái lý
tƣởng trừu tƣợng kia là cái giống gì, vùng vằng:
Tui không hiểu nổi, sao cha luôn chìa vai rƣớc tai
hoạ cho kẻ khác. Giờ lão ta ngồi chót vót ở huyện
này, vậy mà có bao giờ lão ghé thăm cha, hỏi han
lấy một tiếng? Mày còn nhỏ chƣa hiểu lẽ đời. Có
những việc biết thế nhƣng không thể hé răng. Ba
năm đâu là gì, đau bệnh ai chẳng có lúc? Tỏ ít chữ,
nhƣng nghĩ, chẳng lẽ tình đồng chí lại đánh đồng
với chuyện đạo đức, trái phải. Đồng chí này thà
dịp thót lên cổ, đạp lên đầu đồng chí bạn để leo lên
cao. Đó mà gọi là hy sinh với phấn đấu sao? Năm
tấn lúa cha Tỏ chƣa hề biết một hột chắc lép trong
đó nhƣng lại biết nhiều hơn, về mùi tù. Đó là lần
duy nhất Tỏ cồn cào ruột gan. Còn lần này lại dờn
dợn bỡi nó đang tách khỏi sự chở che, thúc nhắc
của cha mình.
25 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
-Ê, ông bạn, định đi đâu?
Tỏ ngƣớc lên. Đó là một ngƣời đàn ông
trung niên, nƣớc da đồng hun, đội chiếc mũ rộng
vành, miệng ngậm tẩu thuốc, phì phèo.
-Dạ, tới nhà bà con - Tỏ trả lời.
-Giỡn sao cha nội. Ngó bộ dạng ông bạn
biết ngay là ở tỉnh mới lên – ông ta gỡ tẩu thuốc ra
khỏi miệng, môi nhếch lên, lƣớt cặp mắt bên trong
chiếc kính đen, từ đầu xuôi xuống chân rồi ngƣợc
trở lên nhƣ thể đánh giá một trái bí, củ khoai chứ
không phải là thằng ngƣời đang đứng trƣớc mặt
ông ta – bà con đếch gì! Ông bạn đi tìm việc làm
thì đây giúp cho. Công việc nhẹ nhàng. Giữ xe cho
nhà hàng, tháng triệu rƣỡi. Tháng đầu ông bạn
đóng cho tôi ba trăm. Các tháng sau, mỗi tháng hai
trăm cho tới khi nào ông bạn không thích làm nữa.
Ok?
Tỏ nhìn chăm chăm vào mặt ngƣời đàn ông,
ƣớc lƣợng mức độ chân thật: Đôi môi thâm đen,
hàng lông mày rậm, cặp mắt ẩn sau lớp kính màu
tránh nắng. Tất cả chƣa nói lên điều gì. Nhƣng dẫu
sao, tỏ nghĩ, ngồi trông xe là công việc nhàn hạ.
Nghề ngỗng chẳng có lấy chút bợn, lại có công
việc khi vừa mới chân ƣớt chân ráo đã là điều may
mắn, không thể đòi hỏi hơn. Và hơn hết là có chút
tiền gửi về cho cha hàng tháng trƣớc khi đình đậu
một công việc gì đó. Tỏ gật đầu. Ngƣời đàn ông gõ
bã thuốc rớt xuống đƣờng trƣớc khi ngồi dạng
chân nổ máy. Tỏ leo lên, cứng ngắt nhƣ chiếc bao
tải phía sau tấm lƣng to bè.
26 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
*
Quán nằm trong ngõ cụt, sát bờ sông, chung
quanh là các loại cây táp nham từ rừng đƣa về làm
cảnh, cành lá um tùm. Phía sau, cứ mỗi hai ba gốc
cây là những căn chòi lợp lá dừa nƣớc. Những tấm
rèm màu xanh da trời vây quanh, tiệp với màu lá
cây và sông nƣớc trƣớc mặt. Đó là những gì Tỏ
nhìn thấy từ bên ngoài, chƣa một lần đặt chân vào
bên trong. Tỏ không đƣợc phép đặt chân vào!
Công việc của Tỏ là đƣa thẻ và đánh số xe
cho khách, sắp xếp lại ngay ngắn thành những dãy
dài, dắt xe ra cổng trả lại khách, cúi đầu nói câu “
chúc quí khách vui vẻ hay nói cảm ơn”. Các bữa
ăn không giờ giấc, do ngƣời phụ bếp mang ra trên
chiếc khay nhôm. Thức ăn ê hề, nhƣng chắc chắn
không phải nhà bếp nấu cho Tỏ mà là thức ăn thừa
của khách. Điều này không làm anh cảm thấy khó
chịu, đôi lúc còn thấy nhƣ niềm hạnh phúc đang
cúi xuống cõng mình lên vai: Tỏ mập hơn, cao to
hơn, da dẻ trở nên hồng hào mịn mƣợt hơn, khi
đứng trƣớc chiếc gƣơng soi lớn, ngay sát cổng ra
vào. Anh thấy mình khác hẳn trong bộ comple
màu trắng viền nẹp đỏ và chiếc mũ lƣỡi trai trên
đầu…Những lúc vắng khách, Tỏ ngồi trên chiếc
ghế nhựa ngó mong ra dòng sông. Dòng nƣớc đục
lềnh nhƣ không hề chảy. Hàng dừa nƣớc bờ bên
kia ken dày, che khuất những căn nhà lụp xụp, mái
rũ xuống cam phận, không dám ngƣớc nhìn bờ bên
này. Buổi chiều, nƣớc thuỷ triều lên, những tàu lá
dừa chúc ngọn trong dòng nƣớc đong đƣa nhè nhẹ,
27 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
khiến Tỏ có những cảm giác mơ hồ về sự nhớ
nhung, thoắt hiện thoắt biến, không rõ nét: khuôn
mặt Lụa lờ mờ bên dƣới màu nƣớc đục, và cha anh
cong ngƣời gãy khúc ở đầu chót lá. Cả hai cứ rung
lên nhè nhẹ, không với cánh tay ám đất về phía Tỏ.
Một chút khắc khoải nhớ nhung bỗng gãy
gập theo tiếng máy xe đỗ xịch ngay trƣớc ghế dựa,
chỗ anh ngồi. Tỏ bật dậy nhƣ quán tính chiếc lo xo
bất ngờ đƣợc thả bung. Anh mở cửa xe vừa cúi
gập ngƣời chào. Những ngƣời phụ nữ ăn mặc diêm
dúa bƣớc ra, ngƣớc mặt nhìn lên trời cao và bƣớc
thẳng vào bên trong. Tỏ đóng cửa xe, dịch ngƣời
qua bên làm hiệu cho xe đậu chỗ đất trống cạnh bờ
sông. Chiếc xe quay nửa vòng nhƣ làm xiếc, ghếch
mũi giữa hai thân dừa thẳng đuột, thở xọc một cái
thả một vùng khói trắng phía sau.
Tỏ quay đi kịp lúc nghe giọng nói sau lƣng:
“Anh bữa nay có vẻ thiếu lịch sự đấy nhé!”. “Xin
lỗi”, Tỏ nói và quay lại. Đó là ngƣời phụ nữ mặc
chiếc robe hoa cà. “Sao, chỉ có vậy thôi à?”. Tỏ
luống cuống hệt nhƣ mình là đứa trẻ mắc lỗi. “Anh
không phải đỏ mặt lên nhƣ thế, anh bạn trẻ và đẹp
trai ạ”. Sau đó Tỏ có cảm giác nhƣ một bên vai
của ngƣời phụ nữ chạm vào ngƣời mình. “Ngồi
nói chuyện một chút, đƣợc chứ hả?”, bà ta lại cất
giọng. “Không dám, mời bà ngồi”, Tỏ nói với
giọng của ngƣời đang lên cơn sốt vừa kéo ghế rút
chiếc khăn trong túi quần lau ghế (dù trƣớc đó anh
đã mài đũng quần lên đó rồi). Ngƣời phụ nữ đƣa
tay vịn thành ghế. Tỏ đứng dựa một bên cổng, chỉ
28 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
cách một với tay. Đến lúc này anh mới hoàn hồn
để kịp quan sát: Khuôn mặt thon dài, lƣỡng quyền
hơi nhô cao ửng đỏ. Hàng lông mày rậm đƣợc tỉa
tót cẩn thận…Bà ta không đẹp lắm, nhƣng đầy sức
sống.
-Công việc ở đây có dễ chịu không?
-Dạ…
-Tôi có một đề nghị: Nhiều lần qua chỗ này,
tôi thấy anh là ngƣời cẩn trọng, chu đáo. Tôi muốn
chuyển anh về văn phòng.
-Thƣa, đã hứa với anh Năm.
-Ôi dào, ngoài mấy cái nhà hàng, tôi còn
văn phòng môi giới giao dịch địa ốc. Tôi muốn
đƣa anh về chỗ đó để thay ngƣời khác đã xin nghỉ
việc. Sáng mai xe đến đón anh về làm công việc
khác. Tôi đã quyết định rồi – Nói và bà ta nhoẻn
miệng cƣời giống nhƣ bấc đèn dầu hôi đƣợc vặn
cao ngọn, và bƣớc tới, không hề ngoảnh lại.
Công việc mới của Tỏ vẫn là công việc nhƣ
lúc ở nhà hàng, chỉ khác một điều là không có mũ
lƣỡi trai, bộ comple màu trắng nẹp đỏ hai bên ống,
thay vào là bộ âu phục với chiếc cà-vạt luôn đổi
màu mỗi ngày nhƣ một quý ông. Suốt ngày anh
ngồi bên trong cửa kính đón khách. Hết việc lại
chúi mũi vào tờ báo hay ngó mong ra đƣờng nhìn
vẻ bóng lộn và diêm dúa của Sài Gòn lƣớt qua nhƣ
đèn kéo quân. Cho tận lúc này, hơn hai tháng rồi,
Tỏ không hiểu mình là cái giống gì giữa khung
cửa kính luôn đông nghịt ngƣời ra vào. Mà toàn
29 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
những kẻ sang trọng. Có lúc Tỏ cảm thấy mình
nhƣ đống giẻ rách quấn quanh hai cọc tre bắt chéo
làm hình nhân cắm sâu giữa cánh đồng hiu quạnh.
Chân gác cổng không thể vênh mặt lên để tự hào
nhìn thiên hạ, nhƣng lúc này, mỗi tháng Tỏ gửi về
gần triệu đồng chứ không phải năm trăm nhƣ đã lỡ
tuôn ra trong cơn giận dữ vô cớ trƣớc kia. Mà cũng
không rõ cha mình có nhận đƣợc hay không? Vì
mọi chuyện đều do bà chủ ghi vào mảnh giấy, kêu
thƣ ký mang đi. Có những lúc nhìn thấy vẻ lúng
túng, thắc thỏm của Tỏ, bà chủ cƣời khẩy: “Bộ anh
nghĩ tôi lừa anh sao?”. Câu nói nhƣ gáo nƣớc sôi
dội từ đỉnh đầu nóng rát xuống tận hạ bộ khiến
khuôn mặt căng đỏ của anh càng đỏ gấc. Bà vịn cả
hai tay nắn vai anh: “Anh làm sao thế? Thôi đƣợc,
chiều nay tôi đãi anh…”
Quán nằm sát bờ sông Đồng Nai, bao quanh
là vƣờn bƣởi oằn trái. Hai ngƣời ngồi ở góc khuất.
Ánh sáng vừa đủ để nhìn dòng nƣớc trôi lặng lờ,
đủ để Tỏ quan sát kỹ hơn về bà chủ có cái gì đó
vừa nhân hậu vừa dữ dằn ở đôi mắt mà anh không
thể diễn đạt bằng lời. Anh nhìn đăm đắm nhƣ một
đứa trẻ cố moi trí nhớ về một câu nào đó trong bài
học thuộc lòng đã bay mất. “Anh quan sát tôi hơi
kỹ đấy, nhƣ mấy tay phó nháy chụp hình ngƣời
mẫu vậy”. Bà chủ đột ngột lên tiếng. “Dạ, xin lỗi
bà chủ”. “Anh dẹp mẹ cái bà chủ của anh đi. Tôi
hơn tuổi anh. Gọi chị đƣợc rồi, mà nếu nhƣ tôi lấy
chồng sớm thì có thể con tôi cũng gần xấp xỉ với
30 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
anh. Nhƣng rất tiếc...”. Ba chữ cuối rớt dài xuống
dòng sông mênh mông những lọn sóng lăn tăn.
“Tên tôi là Dung, Tƣởng Dung chứ tên cha mẹ đặt
là Lụa…”. Bà lại tiếp tục kể vừa với tay cầm chai
Courvoisier rót vào chiếc cốc thuỷ tinh, uống cạn
sạch, không hề nhận ra cái giật thót ngƣời của Tỏ.
“Tôi cũng dân miền Trung nhƣ anh, cũng đƣợc
học hành tử tế cho đến khi cha tôi bị bắt, bị truy tố
về tội buôn lậu, trốn thuế. Những ngƣời liên quan
phủi tay cái rột, bởi họ có thân có thế.Còn cha tôi
thì không, chỉ một thân một mình. Vậy là tôi phải
hoá thành nàng Kiều để chuộc cha ra khỏi vòng
lao lý…” Lụa lại rót cốc đầy, lại uống, nói tiếp:
“Mẹ đời! Anh biết sao không? Một đứa con gái
đang tuổi hai mƣơi phải nằm ngửa chịu đến bốn
thằng đàn ông cỡ cha chú mình cỡi lên. Chúng là
những tên đƣợc ấn vào tay những quyển luật dày
cộm để bảo vệ công lý. Chúng nhân danh công lý
để buộc tội ngƣời này hay tha bổng ngƣời khác.
Chúng nhƣ bà phù thủy, biến có thành không, biến
không thành có! Chúng từng kết án chung thân
cho tội phạm hiếp dâm. Vậy mà chúng đã lật ngửa
tôi ra trong một nhà nghỉ nào đó, ở một xứ nào đó
sau khi chuốc cho tôi đến say bí tỉ. Mùi bia rƣợu,
mùi thuốc lá tanh lợm khiến đầu óc tôi tỉnh rụi,
không khóc, không đau đớn, mở trừng mắt nhìn
bọn chúng, những tên đĩ bợm còn sót lại trên thế
gian này và tƣởng tƣợng đến cán chày giã vào
chiếc cối nhỏ kêu lọc cọc. Cái tiếng đanh gọn, khô
khốc đến là buồn cƣời. Buồn cƣời và buồn nôn…
31 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Vậy đấy. Tôi đã trả nợ công lý bằng cách đấy. Cha
tôi trắng án! Buồn cƣời chƣa?”. Lụa lại rót đầy hai
cốc, nâng lên: “Nào, mời anh. Uống để chia sẻ
niềm hạnh phúc đắng cay với tôi chứ! Chỉ có anh
là ngƣời đầu tiên và cuối cùng tôi kể chuyện đời
mình”. Tỏ chạm cốc, nốc cạn, lòng cay xè. Lụa lôi
chiếc khăn giấy trong ví ra nhƣng cầm riết trong
lòng tay, khuôn mặt đanh khô, mắt nhìn ra dòng
sông nhƣ ƣớc đoán khoảng cách. Và nhảy ùm
xuống. Chuyện đó không xảy ra. Chỉ nghe tiếng
rƣợu chảy lóc róc vào ly. Tiếng rƣợu chảy nghe
nhƣ máu từ miệng Tƣởng Dung phọt ra. Lại rót, lại
uống. Những dĩa thức ăn đầy nguyên, không ai
buồn động đũa. Mặt sông duềnh lên những lọn
sóng nhỏ, hấp háy dƣới quầng sáng từ quán hắt ra,
những lọn sóng chới với, đuối hụt nhấp nhô nhƣ
cái xác trƣơng sình, trôi sông. Lụa ném chiếc khăn
giấy lên bàn: “Cuộc đời quá là đơn giản. Mọi
chuyện đơn giản đến trần trụi, chẳng có gì là ghê
gớm. Vậy mà tại sao mấy lão triết gia hết đi tìm
chân lý này đến chủ nghĩa nọ làm gì cho nhọc xác?
Anh nghe tôi nói rồi đó. Bốn thằng cha nhân danh
công lý trên tấm thân trần truồng của tôi đến nỗi
nữ thần Dike và Aphrodite (1) xoắn tay lại, cƣời
nức nở, hứa hẹn sẽ bay xuống trần gian hiệu đính
chuyện thần thoại của mình. Lạ chƣa?”.
Tỏ thấy, dƣới ánh sáng nhập nhoạng, hình
nhƣ có giọt nƣớc mắt nhỏ, rất nhỏ ngập ngừng nơi
khoé mắt Lụa, rồi bất ngờ thụt vô nhƣ kẻ chạy
trốn. Trong khoảnh khắc ấy, Lụa không còn hình
32 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
dạng của bà chủ sang trọng, hoá thành ngƣời đàn
bà đau khổ nhất trong những ngƣời đàn bà đã lƣớt
qua cuộc đời khốn khổ của một thằng con trai
nông thôn. Tỏ có cảm giác chị đang rất gần gũi với
anh, không phải ở cái tên trùng với tên ngƣời con
gái anh yêu thƣơng, mà ở chỗ chị đã chọn anh nhƣ
một kẻ tin cậy để giải bày những ƣu uất đời mình.
Tỏ tƣởng tƣợng cảnh nhục nhằn của chị bên dƣới
những khối thịt nhớp nháp khiến đầu óc anh ngật
ngừ váng vất. Lần đầu tiên anh uống nhiều rƣợu,
nghe chuyện nhƣ đang nhìn bầu trời sụp dần từng
mảng. Anh lừ đừ nhìn Lụa. Lụa cũng lừ đừ nhìn
anh. Hai ngƣời nhìn nhau hồi lâu. Bỗng Lụa cƣời
phá lên, tiếng cƣời nhƣ mũi kim nhọn xoáy vào
vùng da non khiến Tỏ có cảm giác nhƣ nhƣ ly
chén trên bàn cũng nhảy tƣng lên, rúng động. “ Từ
đó tôi khám phá ra rằng, chính chỗ đó, chính chỗ
vùng cấm đó mà các nhà đạo đức giảo hoạt luôn
giả bộ che mắt, luôn là thứ vũ khí lợi hại làm cho
các lãnh chúa, vƣơng hầu khanh tƣớng… phải quỳ
mọp. Tôi đã sử dụng nó để tạo nên cơ ngơi nhớp
nhúa này, để nhìn chúng ghen tuông lồng lộn vít
đầu nhau xuống bùn đen. Lũ ngƣời bẩn thỉu và đĩ
bợm kia cứ thì thụt moi hết két quỹ này đến dự án
nọ để cống nạp cho tôi trƣớc khi chúng có thể
(đƣợc phép) lần bàn tay dơ bẩn từ ngực xuống
háng tôi, rồi lộn ngƣợc trở lên. Anh cảm thấy quá
bẩn thỉu phải không? Nhƣng lũ chúng thấy nhƣ
một ân sủng từ bàn tay chúa trao cho. Chúng là
những quan chức mẫn cán và kiên định ở xứ này
33 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
đấy. Chúng bỏ lại đằng sau bầy vợ con nhếch nhác
để quỳ mọp dƣới chân tôi, úp mặt lên háng tôi nhƣ
những tín đồ xác tín về đức tin đang rầm rì cầu
nguyện một cách trân tráo. Eo ơi, toàn lũ đĩ bợm,
rặc một lũ đầu nhỏ mỏ to… Tôi có tất cả và không
có gì hết. Thật tởm lợm!”. Lụa ngã ngƣời ra thành
ghế dựa, nói nhƣ kẻ tội đồ thánh thiện bƣớc nhẹ
tênh trong cõi mộng du: “Cuối tháng tôi sẽ đƣa
anh về cái làng quê nơi cha mẹ tôi sinh ra tôi và
công lý đã vùi dập đời tôi. Nghe nói giờ nó không
thành làng quê, cũng không phải bộ mặt thị thành;
ở đó có bầy ngƣời ngơ ngác bị lùa ra khỏi mảnh
đất của mình… Thời chiến tranh hai bên đã quần
thảo nhau nát nhão nhƣ nồi cám heo, nay thì sự
nhếch nhác đó cũng không kém gì”. Tỏ buộc
miệng: “Chị định làm gì?”. Lụa ngửa ngƣời cƣời
lớn: “Đến giờ mới nghe anh mở miệng! Làm gì à?
Những căn nhà lá xiêu vẹo tôi “đốt” hết, xây lại
cho họ bằng gạch ngói, coi nhƣ tôi trả nợ xóm
làng, vậy thôi, không có gì ghê gớm. Tôi không có
ý định chuộc lại lỗi lầm lần nữa, bởi đơn giản tôi
không mắc lỗi nào cả, kể cả vấn đề tiết trinh và
đạo đức. Cái của phù du kia là do những thằng ngu
mang đến cho tôi sau những đêm truy hoan không
chút cảm giác, mùi mẽ gì. Tôi chỉ nhƣ chiếc gối
nhồi bông cho chúng cỡi lên, vậy thôi. Trinh tiết
đáng lẽ để dành hiến dâng cho ngƣời mình yêu
nhất thì đã bị những kẻ nhân danh công lý cƣỡng
đoạt rồi, còn lại sau đó nó nhƣ một hang cua: hết
ngƣời này thò tay vào bắt, lại đến lƣợt ngƣời khác.
34 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Anh có hình dung ra hình tƣợng ngƣời nhà quê bắt
cua đồng không? Mà anh đã từng bắt cua đồng lần
nào chƣa? Lụa dừng lại, khuôn mặt đanh khô rồi
bất ngờ dãn ra. Chị thở sƣợt: Tôi không sử dụng
cho riêng mình, tôi chia sớt cái phù du ấy cho
nhiều ngƣời. Ban đầu là hôi thối, nhơ nhuốc nhƣng
khi trôi qua chiếc “máy giặt” trong làm ăn nó trở
thành thơm tho. Nhiều tay vênh mặt về chuyện
này, còn tôi thì cúi gằm đau đớn để trả nợ xóm
làng xơ xác của tôi. Vậy đó, có gì phải bận tâm,
phải không?”.
Không khí nặng nề đến khó thở. Tỏ muốn
nói một điều gì đó với chị ta, nhƣng không đủ sức,
không đủ chữ nghĩa và sự hiểu biết để gải bày.
Anh cục cựa trên ghế nhƣ có những con kiến nhỏ
bò vào đũng quần, lói nhói. Chai rƣợu đã cạn. Lụa
kêu bồi bàn mang chai khác. Tỏ ngăn lại, kêu nho
nhỏ trong cổ họng nhƣ ngƣời nghẹt mũi: “Thôi, đủ
rồi chị”. “Anh sợ à”. “Không”. “Vậy thì sao lại
ngăn cản niềm vui của tôi?”. “Không phải chuyện
vui, nghe buồn muốn khóc”. “Anh bạn đẹp trai của
tôi, anh uỷ mị thái quá đấy”. Im lặng hồi lâu. “Anh
đã biết mùi đàn bà chƣa hả?”. “Trời, chị!” Tỏ kêu
lên run rẩy. “Việc gì anh phải kêu phải run lên nhƣ
thế kia? Tối nay tôi sẽ cho anh biết mùi đàn bà là
thế nào. Tôi thấy nhiều thằng nhóc cứ trố mắt nhìn
xoáy vào những vùng cong trũng sau lằn vải các
cô gái nhƣ muốn lột trần ra. Còn anh thì nhìn tôi
một cách ơ hờ? Tôi đã kể cho anh nghe về cuộc
đời tôi. Tôi là một con điếm, một con điếm trong
35 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
sạch, tôi không phải là một trinh nữ hiến tế cho các
đẳng thần nữa rồi. Vậy thì việc gì anh phải hoảng
hốt?”. “Không, chị vừa là chị, là bà chủ đã vói tay
cứu em. Cái đó ngƣời ta gọi là…”. “Ý anh nói là
loạn luân chứ gì? Nhảm nhí”. “Tôi van chị”. Tỏ
chắp hai tay lại trƣớc ngực. “Anh nhảm nhí mà tôi
cũng nhảm nhí nữa. Có lẽ mình nên dừng để đầu
óc tỉnh táo, để cảnh sát không phát hiện một ngƣời
say lái xe trên đƣờng, phải không?”.
Lụa lái xe thật chậm, không mở miệng nói
câu nào suốt dọc đƣờng về. Tỏ liếc ngang thấy môi
chị mím lại, mắt đăm đăm nhìn về phía trƣớc nhƣ
thể chị đang nhìn vào vòng ngắm của tấm bia
chuẩn bị bóp cò. Vẻ căng thẳng ấy chuyền sang Tỏ
khiến anh tỉnh hẳn. Trong hai ngƣời, Lụa và anh ai
sẽ là lát bánh mì nằm gọn trong chiếc dĩa trên bàn
ăn? Lúc ngồi ở quán chị ta nói vật hiến tế? Vật
hiến tế là gì nhỉ, anh không thể nghĩ ra, không hiểu
đƣợc; mơ hồ rằng đó là sự mất lửng giữa vinh
quang và cay đắng, niền vui và nỗi thống khổ trộn
lẫn vào nhau?
Anh cảm thấy lòng mình thật trống trải.
Trống trải đến vô cùng vô tận.■
(Trà Vinh, tháng 7.2008)
_____________
(1) Dike, Aphrodite: nữ thần công lý, nữ
thần sắc đẹp và tình dục
36 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Người Đàn Bà Bay Trên Mây
______________________________
Thông tin về việc bà Sáu Linh bị ngã từ
thềm nhà xuống sân lan nhanh nhƣ vệt dầu trên
mặt nƣớc. Đầu trên, xóm dƣới ai cũng hay. Mọi
ngƣời hớt hãi, ùn ùn kéo tới đông nghìn nghịt.
Ngƣời sau vin vai ngƣời trƣớc hỏi: Bị làm sao
không? Nghe nói té cái đùng. Té từ hiên xuống
sân. Té kiểu đó thì còn gì thân!... Tiếng ai đó trong
bọn rên lên: Thiệt vô phúc.
Vòng trong vòng ngoài lèn cứng. Họ ngồi
trên bờ sân, níu hàng rào bông bụt, đứng lố nhố
ngoài truông nhóng vào, cố sao cho cặp mắt mình
đƣợc chạm tới thân thể bà Sáu Linh, nhìn thật rõ
ràng sự thể bà ngã bổ nhào. Nhƣng chỉ chừng đó,
không ai biết đƣợc gì thêm, bèn quay ra bàn tán:
-Thằng Quảng mới lạ. Làm lớn thế, lắm tiền
nhiều của, quyền lực cùng mình không nuôi nổi
mẹ mà lại đổ lên vai thằng què.
37 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
-Đâu mình thằng Quảng, cả con mụ vợ “trời
đánh” của nó nữa?
-Con với cái!
-Tội thằng què.
Thằng què mà họ nói tới là đứa con trai út,
bị dị tật bẩm sinh từ nhỏ. Hai ống chân không khác
ống thổi lửa, khuỳnh ra tƣởng chừng không đủ sức
đỡ lấy tấm thân. Hai cánh tay bỏ thõng chƣa đụng
tới hông với những ngón cong vẹo và chiếc đầu
khác ngƣời khiến nó đƣợc tiếp đón với một thứ
tình cảm vừa thƣơng hại vừa kinh hãi. Chiếc đầu
càng lạ hơn: dài và lớn, gắn hai mắt nhƣ hai viên
bi quá cỡ, mỗi khi nhìn ai thì hút lấy nhƣ thôi
miên. Tia nhìn của thằng què sƣợt lên mắt ngƣời
đối diện gây sự lạnh giá, dờn dợn trên những phần
thịt da không thể che khuất cùng với cảm giác
buồn buồn tiếp liền sau đó; số khác, ít hơn, không
nghĩ vậy, mà thấy đó là tia nhìn hiền dịu nhƣ cặp
mắt Phật!
Thân hình kỳ dị ấy không thể là anh trai cày
nhƣ bao thanh niên khác trong làng. Còn đầu óc
thì không mụ mị, nhƣng không thể nghĩ đƣợc
chuyện gì lớn hơn ngoài việc nấu cơm, tắm giặt,
thắp nhang trên bàn thờ tổ tiên bất kỳ lúc nào nó
thích. Rất nhiều lần Quảng bàn với với mẹ “gửi nó
vào trung tâm xã hội để mẹ bớt cực”, nhƣng bà
Sáu nhất mực từ chối, nói: “Nó là núm ruột của
tao, không thể dứt bỏ nhƣ liệng vật thừa ra bãi rác”
Và bà đã nuôi nó cho tới khi mắt mờ, tai nghễnh
ngãng, lƣng còng xuống.
38 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Giờ thì thằng què nuôi bà mẹ già chín mƣơi
com cóp nhƣ ngày xƣa bà nuôi nó, yêu thƣơng nó.
Nó đỡ mẹ ra thềm giếng thọc chiếc gáo sút cán vào
khạp nƣớc xối lên ngƣời, kỳ cọ; gội đầu mẹ bằng
nƣớc lá chanh, lá sả… lau chùi sạch sẽ; mùa lạnh
nó biết vùi những cục than hồng trong chậu tro đặt
dƣới chõng tre, kéo tấm mền đắp ngang ngực… Bà
đôi lúc cũng hứng chí giúp nó lặt mớ rau tập tàng,
đẩy que củi vào bếp lửa, ngồi canh nồi cá kho…
Hai ngƣời cứ thế vịn nhau qua ngày tháng. Và có
lẽ cũng không ai buồn nhớ đến Quảng, ngay cả
ngày giỗ cha.
-Không xong rồi – Ông Chín Cƣ từ trong
nhà vẹt đám đông đi thẳng ra sân, vuốt mồ hôi trán
thông báo - Bị nặng lắm, thầy Ba nói thế.
-Là sao?
-Tai biến chớ còn sao nữa!
-Sao không chở đi cấp cứu?
-Đợi mấy ông mấy bà nhắc. Kêu xe rồi chớ
sao không.
Nói và Chín Cƣ bỏ đi thẳng trƣớc sự ngơ
ngác của mọi ngƣời vì sự thể đến với bà Sáu quá
đột ngột. Họ chậc lƣỡi, hít hà tỏ rõ lòng thƣơng
với bà Sáu và cảm thấy gần nhƣ bất lực trƣớc sự
không may của ngƣời hàng xóm tốt bụng. Những
tiếng thầm thì cứ trôi đi cho đến lúc từ phía đầu
xóm có tiếng nổ phèn phẹt nhƣ tiếng khạc nhổ của
ngƣời ho lao.
Chiếc xe lam ba bánh xịt khói trờ tới. Mọi
ngƣời nép sát bờ rào tránh chỗ. Tiếng khóc sụt sịt
39 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
với dài theo sau bà Sáu đƣợc hai ngƣời đàn ông
khiêng trên đôi chân không ra chạy. Thằng què
bƣớc lủn củn sau mẹ đang nằm ngang trên đôi tay
vững chắc của ngƣời hàng xóm, mắt ráo hoảnh, vô
hồn nhìn mọi ngƣời.
Ngƣời lái xe tháo hai băng ghế ném lên mui
để lấy chỗ trải chiếc chiếu, đặt bà Sáu. Bà nằm
thẳng đơ. Mắt nhắm nghiền, bọt mép sùi ra chùi
chƣa thật sạch.
Thầy Ba la lớn:
-Vào nhà lấy chiếc nệm trải lên, sao lại đặt
bà cụ nằm trơ trọi trên sàn xe nhớp nháp thế này?
Cả chiếc mền nữa.
Tiếng than não nuột cất lên:
-Khổ thân bà già. Ai đời có con làm lớn mà
gần xuống lỗ không đƣợc hƣởng lộc.
Giọng già, rất già, phều phào cất lên:
-Con cái gì ba cái đồ đó.
Xe lại nổ phèn phẹt. Khói xịt đen một góc
truông kín cây dại và rác rƣởi. Chiếc xe khọt khẹt
rƣớn tới với nỗi nhọc nhằn đang rung lên trong
lòng xe theo từng cái xóc nẩy.
Tiếng máy nổ sừng sựt nhỏ dần, xa hút đâu
tận ngoài bìa xóm. Thằng què chắp hai cánh tay
ngắn cũn cỡn trƣớc ngực, giọng vô cảm:
-Không sao đâu. Má tui đang bay trên mây
mà.
*
Bà Sáu Linh ra đi trên chiếc xe lam rách nát
và trở về cũng trên loại xe ấy, không khá hơn. Hồi
40 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
bà nằm trên xe ra đi thế nào thì về vẫn vậy. Mắt
nhắm nghiền, thoi thóp thở không nói ra tiếng.
Miệng méo xệch một bên nhƣ có ngƣời lấy cây sắt
móc quai hàm bà kéo ngƣợc lên vậy. Năm On và
bà Hai Cọt, hai ngƣời đi theo bà Sáu ra bệnh viện,
kêu “bác sĩ lắc đầu chê”. Mọi ngƣời trong xóm lại
ùn ùn kéo tới thăm đứng chật một góc sân. Họ lật
tung đầu óc, cố moi trong hóc nhớ những kinh
nghiệm, bài thuốc dân gian cốt để giúp bà Sáu trở
lại nhƣ xƣa. Khốn nỗi có cả chục, cả trăm bài
thuốc nhƣ vậy, nên cuối cùng không biết phải nghe
theo sự bày vẽ của ai.
Bà nằm bất động trên chiếc chõng tre, ỉa đái
một chỗ. Thằng què vừa bƣng bô nƣớc tiểu ra chƣa
tới đầu hồi đã ngửi thấy mùi hinh hỉnh, tanh lợm,
vội vã quay lại, lóng ngóng thế nào cả bô nƣớc và
nó cùng ngã sóng soài trên nền đất. Hai cánh tay
quạt ngang chƣa qua khỏi đầu, giống nhƣ đang
quạt nƣớc trong đáy ao cạn. Nó ngạc nhiên nhìn bô
nƣớc màu xám cùng với thứ chất lỏng sền sệt,
vƣơng vãi lăn lóc bên cạnh, nhìn mẹ nhƣng không
khóc, chỉ ngạc nhiên tự hỏi, cớ sao mình lại có thể
ngã một cách dễ dàng nhƣ vậy?
Suốt ngày nó quanh quẩn bên mẹ. Ai bày gì
nó cũng nghe theo. Những bọc cây lá hàng xóm
mang đến chƣa nấu xong gói này, tiếp liền bọc
khác. Cứ thế chất đầy bàn nhƣ kho thuốc nam ở
trạm xá hợp tác xã. Và, nếu nhƣ những món thuốc
ấy có hiệu nghiệm theo nhƣ sự đoan chắc của
những ngƣời có tấm lòng, thì chỉ bằng ngần ấy, nội
41 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
hơi của nó xông lên cũng đủ làm bà Sáu tỉnh lại
đôi chút. Đằng này, hơi thuốc, nƣớc tiểu, phân rơi
vãi bám sâu dƣới nền đất ẩm thành thứ mùi nhƣ
mùi cháo cóc để lâu ngày! Đƣợc cái hàng xóm
không ai phàn nàn, bịt mũi quay đi. Trái lại họ
thay phiên nhau (lúc rỗi rảnh) lau rửa, mớm cháo
cho bà. Những đêm trời trong, trăng sáng họ kéo
tới ngồi chật sân, bàn về bệnh tình, về hậu sự cho
bà.
Thầy Ba là ngƣời am hiểu y học trong xóm,
ngƣời đầu tiên đƣa ra nhận định, chắc nhƣ xỏ dây
mũi trâu:
-Thím Sáu không thể nào bình phục đƣợc
đâu. Bị nhũn não. Chỉ là sống ngày sống bữa, nhƣ
cây già cỗi vậy, không hút nƣớc nổi nữa thì nghẻo.
Không lâu nữa đâu.
Tiếng Chín Cƣ lạp quạp do đôi môi thâm
đen đang kẹp cứng điếu thuốc vấn to bằng ngón
tay cái:
-Thằng Quảng không hay biết gì sao?
Không ai cho nó hay sao?
-Chắc có chớ sao không. Nhƣng do bận
việc tỉnh tà gì đó nên không về đƣợc.
-Ô hay, nó từ đất nẻ chun lên, từ trời rơi
xuống chắc? Một mình thằng què, cái thân nó lo
không xong huống hồ cõng bà mẹ già nằm ngay
đơ cán cuốc!
Xem chừng câu chuyện bàn tán có chiều
hƣớng xấu đi, thầy Ba lái sang phía khác:
42 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
-Bữa tôi đọc tài liệu nói về tác dụng của
nấm linh chi. Nó có thể chữa đƣợc chứng tai biến.
Tất nhiên là từ từ. Ngặt cái: nấm ở đâu, tiền ở đâu?
-Tui cũng có nghe. Nó chữa bách bịnh -
Một ngƣời nào đó từ phía sau gióng tới.
-Nghe đâu mắc gấp mấy chục lần sâm Cao
Ly.
Giọng bà Hai Bánh tráng the thé cất lên:
-Dƣới Tân Đông có bà già bị nhƣ chị Sáu,
trƣợt chân té xuống thềm giếng, tay chân miệng
mồm cứng ngắt, vậy mà thuốc thang gì cũng
không khỏi, chở tuốt vô Tây An có bà thầy xông
nhang xoa bóp, sờ mó đâu hơn tuần là khỏi liền.
Chín Cƣ nhổ nƣớc miếng đánh phẹt xuống
sân, ngay chỗ ông ngồi, nói nhƣ quát:
-Bá láp! Thời buổi này mà còn sờ với mó.
Khéo tin, nhảm nhí.
Bà Bánh tráng cố cãi, giọng càng nhọn nhƣ
chiếc kim may ghim vào màng nhĩ:
-Thì rành rành ra đó. Tui bày đặt ăn cái
giống gì? Có ông mới bá xàm bá láp.
Lời qua tiếng lại kéo trăng lên tới đỉnh đầu.
Cái lạnh giữa đêm bổ xuống khiến không còn ai đủ
sức để tranh thiệt hơn. Mọi ngƣời lại đứng lên, lục
tục kẻ trƣớc ngƣời sau quay về với tổ ấm của họ.
Căn nhà và góc sân trở lại vắng lặng. Thằng què
kê ngay chiếc giƣờng bố cạnh chõng mẹ, thỉnh
thoảng đập muỗi bem bép. Tiếng đập nghe thật
yếu trong đêm sâu.
43 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Bệnh tình bà Sáu Linh ngày càng xấu đi.
Tấm thân của bà giờ nhƣ con cá lép phơi khô. Hai
hốc mắt sâu hoắm, tóc rụng gần hết. Chân tay nhƣ
que củi mục. Chòm xóm đã gắng đến mức cuối
cùng, nhƣng thuốc đổ không vào, cháo không trôi
qua khỏi cổ họng làm mọi ngƣời nghĩ ngay đến
khu đất cạnh bầu nƣớc Cò Ma. Duy nhất có một
ngƣời không tin bà Sáu sắp sửa ra đi là thằng què.
Nó vẫn tin mẹ sẽ sống đời với nó, sẽ phụ nó lặt
rau, chụm lửa… Ánh mắt nó vẫn dờn dợn lạnh và
vô cảm; vẫn nghĩ rằng bà đang bay trên tầng mây
xanh. Và một ngƣời khác là thằng Quảng vẫn
không hề về thăm mẹ lấy một lần. Nó đang bận túi
bụi công việc tỉnh tà nhƣ cách nói của chòm xóm.
Nhƣng thằng Quảng trong ánh mắt, suy
nghĩ của mọi ngƣời chƣa phải là thằng vô ơn, bội
nghĩa và bất hiếu. Thế nào Quảng cũng về làng,
dẫu hơi muộn, còn kịp nhìn thấy mẹ thoi thóp thở.
Và Quảng về thật. Ông về thăm mẹ trên
chiếc xe bóng lộn.
Từ đầu xóm, ngƣời ta có thể nhìn thấy chiếc
xe chạy chậm trên đƣờng đất gập ghềnh. Bụi bốc
mù phía sau cùng đám trẻ con chạy bám theo.
Tiếng máy nổ xè xè nghe còn nhỏ và êm hơn tiếng
cối xay quay lúa trên con ngỗng gỗ rào rào, cọt
kẹt. Nhốn nháo, ầm ĩ cả một góc làng mùa tháng
Ba là lũ trẻ con, vì lần đầu tiên chúng mới đƣợc
tận mắt nhìn thấy chiếc xe đen trùi trũi. Chúng
căng mắt tìm phía bên trong, nhƣng chỉ thấy khung
kính màu đen, bốn bánh xe và đám bụi mù bốc lên
44 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
cao. Chúng vừa chạy bám theo vừa reo hò, vui nhƣ
đám rƣớc hội. Xe tới cây da Xà, không thể chạy
đƣợc nữa vì đƣờng hẹp, hang hố lồi lõm, mặt
đƣờng băm nát bỡi những súc gỗ lậu kéo lia qua
trong mùa bão lũ, găm xuống. Anh tài xế còn trẻ
bƣớc xuống, đi vòng ra sau lom khom ngƣời mở
cửa bên trái, lại chạy vòng sau đít xe mở cửa bên
phải. Hai ngƣời một nam một nữ, kẻ trƣớc ngƣời
sau lần lƣợt nhoài ngƣời ra khỏi khung cửa thấp
hẹp. Họ đều là trung niên. Ăn mặc sang trọng,
khác với đám dân làng chỉ có bộ bà ba và pyjama
để dành ăn cƣới, ăn giỗ. Ngƣời đàn ông mập nung
núc. Ngƣời đàn bà mặc robe hoa màu xanh, mang
kính đen, tay trái xách chiếc bóp đầm, môi và
móng tay màu đỏ chói. Bà vịn vai chồng, gần nhƣ
ngã cả nửa thân ngƣời lên tấm vai rộng, khó nhọc
bƣớc trên đôi giày cao gót. Họ đi thật chậm nhƣ đi
dạo. Thỉnh thoảng bà vợ níu tay chồng dừng lại,
thở: “Em nói rồi, anh về một mình cũng đƣợc mà.
Vào đƣợc tới trỏng, có khi cẳng em bị trẹo chớ
chẳng chơi”. Ông chồng suỳ suỳ: “Còn mấy bƣớc
nữa thôi”. Bà vợ ngó chồng nhƣ kiểu gái già đƣa
mắt ngó anh trai tơ: “Em mệt thấy mồ”.
Cuối cùng thì vợ chồng Quảng cũng lọt qua
chiếc cổng tre xiêu vẹo, đứng lọt thỏm trong chiếc
sân gạch cũ nát, đất trồi lên nhiều chỗ, cỏ dại mọc
tràn. Cả hai đứng ngó quanh quất hồi lâu mới bƣớc
lên thềm. Hàng xóm nghe nói Quảng về, lại vội vã
kéo nhau chạy đến, không phải để cầu cạnh, xum
xoe mà thực bụng muốn nhìn tận mắt ông quan
45 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
đầu tỉnh, vốn là con dân làng này ra thể nào.
Quảng gật đầu chào mọi ngƣời theo cung cách
lãnh đạo, không thân không sơ; chẳng mặn nồng
vồn vã mà cũng không ra lạnh nhạt. Dân làng
không hề để ý bỡi họ không còn đầu óc đủ tỉnh táo
để nhận xét. Ông ta có chào bằng những cái gật
đầu mà không hề mở miệng cũng đã quí lắm rồi.
Vả lại, thực lòng, bụng dạ họ cũng mừng. Mừng vì
Quảng về sẽ có cách gì đó tựa phép màu để giúp
bà Sáu thoát cơn hiểm nghèo; chí ít, bà cũng mở
đƣợc mắt, nhìn mọi ngƣời chung quanh với nụ
cƣời hiền cố hữu. Dẫu sao sự có mặt Quảng vẫn
còn hơn thằng què với ánh mắt dờn dợn vô cảm
luôn quấn quanh mẹ.
Hai vợ chồng vừa bƣớc lên thềm đất, thì
ngay sau đó bà vợ nhƣ bị điện giật, ngƣời rung lên
rồi quay ngoắt lại, bụm miệng, bịt mũi chạy nhƣ
ma đuổi ra phía vƣờn cây xơ xác. Bà ta nôn oẹ liên
hồi, giống mấy bà đang ốm nghén.
Quảng chạy theo, đỡ hai vai vợ:
-Em làm sao vậy? Có sao không để nói chú
Chánh đƣa em về.
Ngƣời vợ hất tay Quảng ra khỏi vai trƣớc
khi oẹ lần nữa, rõ dài:
-Em đã bảo rồi. Anh về một mình có làm
sao đâu. Sao lại đèo bòng cả em. Em đến chết mất.
-Thôi mà, phận dâu con dẫu có khó chút
vẫn phải có mặt, không khéo xóm làng chê trách.
Với lại lọt tới tai ngƣời khác thì sống thế nào?
46 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
-Mặc xác, em không biết. Em không thể
nào chịu nổi cái mùi hôi thúi nhƣ xác chết để rữa
lâu ngày thế kia.
-Em nói gì vậy? Thôi nào, đi vào kẻo…-
Vừa nói giọng dỗ dành vừa đỡ vợ nhƣng nhất định
bà ta không chịu bƣớc lấy nửa bƣớc.
Quảng đành quay vào nhà một mình. Cái
mùi hôi đến lợm giọng khiến ông có cảm giác trạo
trực khó chịu, nhƣng cố dằn lại và ngồi xuống
chiếc ghế gỗ thừ ngƣời ra nhìn về phía thân ngƣời
nằm tù hụ trong tấm mền ngã màu vàng ố. Quảng
không nghĩ rằng đó là mẹ mình, một ngƣời phụ nữ
cứng cáp, đã từng một mình gánh gần tạ gạo thay
chồng đi dân công; một mình đội mƣa mang thuốc
men ra khu cho anh em, luồn lách qua các đồn
bót…Nỗi thƣơng xót ào tới bất chợt nhƣ cơn trốt
đẩy ông đứng bật dậy, chạy lại cầm tay mẹ. Bàn
tay lạnh ngắt, chỉ có lớp da bao quanh khúc xƣơng
lỏng. Quảng lật chiếc mền ra, tấm thân dán sát
xuống tấm nệm mỏng. Tất cả đều lạnh lẽo, bốc
mùi. Quảng nắm vai thằng què:
-Mẹ nằm nhƣ thế này bao lâu rồi?
Thằng què mở nụ cƣời vô cảm và ánh mắt
dờn dợn lắp bắp:
-Mẹ đang bay trên mây đấy.
Ông thở hắt ra. Hơi thở đó nửa giống nhƣ
biểu lộ sự bất lực, lòng hiếu thảo nửa nhƣ xua đuổi
cái mùi khó chịu xa khỏi ngƣời ông. Quảng ngó
lên bàn thờ trống trơ; tấm ảnh cha hoen ố không
47 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
nhận ra mặt mũi và bát hƣơng đầy chân nhang đỏ
màu máu, nguội lạnh.
Một tia chớp vụt loé sáng trong đầu Quảng
khiến ông rụt tay khỏi lớp da bọc lạnh lẽo, quay ra
chiếc bàn long chân ngoài hiên, nơi một số đông
ngƣời đang đứng ngồi nhóng vào, dõi theo từng cử
chỉ của Quảng. Ông khẽ khàng ngồi xuống, lấy
giọng thật nhỏ nhẹ:
-Thƣa cô bác, trƣớc, vợ chồng tôi cảm ơn
cô bác đã giúp đỡ, chăm sóc mẹ tôi. Tôi có lỗi là
không về sớm hơn. Mong cô bác thứ lỗi. Công
việc dày kín, không thể tách ra mà đi đƣợc. Nay
mẹ cũng gần đất xa trời, nhƣng còn nƣớc còn tát;
xin cô bác để vợ chồng tôi đƣa mẹ về dƣới, đƣợc
ngày nào hay ngày ấy.
Những ngƣời hàng xóm thở phào, thầm
nghĩ: “Có thế chớ. Dẫu gì cũng mẹ”. Mọi ngƣời lại
xúm nhau bàn. Kẻ xuôi ngƣời ngƣợc, nhƣng thảy
đều với cả tấm lòng dành hết cho bà Sáu. Họ
không mong gì bà bình phục nhƣ xƣa. Nhƣng nếu
có ra đi thì cũng ra đi một cách thanh thản, bên
con cháu, bên dâu một cách ấm áp. Không ai nói
ra miệng, nhƣng ngƣời nào cũng thầm khen phải,
xử sự nhƣ vậy là hợp lẽ trời, hợp đạo lý làm ngƣời.
Thầy Ba và Chín Cƣ là hai ngƣời luôn sốt sắn bởi
tình nghĩa và tấm lòng bà Sáu dành cho họ trong
những lúc khó khăn. Một trong hai ngƣời nói:
-Chú nói chí phải. Dƣới tỉnh dẫu sao cũng
sẵn thuốc, sẵn thầy. Biết đâu phƣớc đức tổ tông để
lại, thím mau lành bịnh.
48 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Giọng Quảng nhỏ nhẹ:
-Dạ, cảm ơn mấy chú.
Bỗng dƣng Chín Cƣ nhƣ chợt nhớ ra điều
gì, vỗ trán:
-Uở, hồi nãy thấy thím…
Quảng hơi bối rối, nhƣng cũng trấn tỉnh lại
ngay:
-Dạ, cô ấy bị cảm cúm mấy ngày nay. Hồi
sáng tôi kêu ở nhà nhƣng cô ấy không nghe, nhất
định đòi về thăm mẹ.
Sắc mặt Chín Cƣ bổng trở lạnh, nói hờ
hững:
-Ờ hén, hèn chi…
Thầy Ba nháy Chín Cƣ, Quảng không nhìn
thấy, tiếp tục giọng thảm não:
-Năm trƣớc kìa, cô ấy kêu để đƣa cụ xuống
chăm sóc, có mẹ có con; để trên này một mình
thằng Sanh không kham nổi, nhƣng nó không chịu,
cả cụ cũng không bằng lòng. Nói thế nào cũng
không nghe. Đành để vậy.
Chín Cƣ lơ đãng ngó lên mái rui ễnh cong
nhƣ muốn rụng, miệng lại kêu “ờ hén” khiến thầy
Ba dùng chân mang dép nhựa tái chế đạp mạnh lên
mu bàn chân trần Chín Cƣ đau điếng. Ông thở
đánh phào, đứng lên:
-Chú nói cũng phải. Làm con… - và bỏ đi
thẳng. Thầy Ba xớ rớ một lát cũng về theo. Bóng
những con ngƣời chòm xóm “tắt lửa tối đèn có
nhau” lần lƣợt khuất sau truông rậm. Quảng nhƣ
ngƣời tỉnh ngủ, đứng vụt dậy bƣơn ra vƣờn. Vợ
49 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
ông vẫn ngồi gục mặt, hai tay bụm kín miệng mũi
mà nếu có ai đó vô tình nhìn thấy thể nào cũng
nghĩ vợ Quảng đang ngồi khóc vì thƣơng mẹ
chồng. Quảng bƣớc tới, ngồi xuống cạnh vợ.
-Mình đƣa bà cụ về dƣới đó.
Vợ Quảng trừng mắt:
-Đƣa xuống làm cái giống gì? Trƣớc sau bà
cụ cũng mất. Cứ để trên này có tiện hơn không,
xuống dƣới ai lo, bộ anh tƣởng tôi là con hầu
phỏng?
Quảng cúi thấp, nói nhỏ gì đó vào tai vợ.
Mặt mũi bà ta dãn ra:
-Vậy mà em không nghĩ ra. Anh thì có khác
– Nói và bà ta níu tay chồng đứng lên nhƣ thể
trƣớc đó chƣa hề có điều gì ghê gớm xảy ra.
*
Thẩm là đứa cháu họ phía bà Sáu. Nhà
nghèo, đông con nên chỉ học đến lớp Năm phải
nghỉ. Bà Sáu thƣơng tình, đƣa về nuôi, cho ăn học
tiếp nhƣng chƣa qua hết lớp Chín, không học nổi
nữa, ở nhà phụ bà chuyện vƣờn tƣợc bếp núc. Nó
là đứa thật thà, giỏi giang. Trong nhà, ngoài sân,
dƣới bếp…đâu đâu cũng đều gọn gàng, ngăn nắp.
Một lần về thăm mẹ, vợ chồng Quảng thấy vậy,
nằn nì bà Sáu cho nó về ở với mình. Bà nghĩ bụng,
dẫu sao ở với Quảng, miếng ăn, giấc ngủ ngon
hơn, quần áo lành lặn hơn, nên bằng lòng, dù trong
bụng không muốn xa nó.
50 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Vợ Quảng đúng là loại phụ nữ tinh đời.
Đánh giá về con ngƣời, sự việc hiếm khi sai. Thẩm
không có biệt lệ dƣới con mắt ngƣời phụ nữ lõi đời
này, nên trở thành nhân vật phụ tin cẩn của hai vợ
chồng. Công việc của Thẩm chỉ lau dọn phòng ngủ
hai ông bà và phòng khách, nhận thƣ, quà cáp, trả
lời khách đột ngột tới thăm khi cả hai vắng nhà.
Tất cả mọi chuyện khác đã có hai ngƣời phụ nữ
khác, đều là bà con gần bên vợ. Cuối mỗi tháng
hoặc hơn thế, Thẩm đƣợc giao chở những thùng
mì tôm, thùng sữa cũ mèm mà nặng nhƣ vác bao
lúa trên quê, đến tiệm Tân Cẩm Hƣng rồi quay về,
chỉ có vậy. Nhiều khi nó cũng thắc mắc tự hỏi “gì
mà lắm mà nặng thế” nhƣng chƣa lần nào tự ý hé
ra coi trong đó là những gì, bởi bà Quảng luôn
miệng dặn: “Ở nhà này chỉ biết làm, chớ tọc mạch
hỏi han hay làm bất kỳ điều gì mà không đƣợc
phép”.
Chính vì cái tính thật thà ấy mà bà Sáu nằm
bệnh viện hơn tháng nay, Thẩm không hề hay biết.
Cho đến buổi sáng nọ, hai ông khách đi trên xe
con sang trọng gọi chuông. Thẩm mở cửa. Ông
khách khẽ chào, lịch sự:
-Xin lỗi, chúng tôi đến thăm bác gái.
-Thƣa, bà đi vắng từ sáng sớm ạ!
Cả hai ngƣời khách đều ngạc nhiên, vẻ mặt
nửa mừng rỡ, nửa thất vọng:
-Bác đã bình phục rồi à, xin chúc mừng!
-Sao ạ? Bà tôi có làm sao đâu ạ?
51 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
-Cô nói… - Ngƣời khách chƣa hết ngạc
nhiên, và nhƣ nhớ ra, vỗ trán – Là chúng tôi hỏi
thăm mẹ của anh Quảng kìa.
-Là bà Sáu? Có làm sao đâu. Ở tận trên quê
chớ có bao giờ xuống đây đâu.
Bây giờ thì sự ngạc nhiên không phải hai
ông khách lạ mà đang chuyển dần qua Thẩm. Hai
ngƣời khách ngơ ngác nhìn vào mặt nhau, ngƣời
nọ muốn hỏi ngƣời kia, nhƣng câu hỏi đột ngột
biến mất khỏi đầu họ. Một trong hai ngƣời lấy từ
túi áo ra mẫu giấy nhỏ màu xanh, chìa ra cho
Thẩm:
-Cô làm ơn đƣa cho anh chị Quảng. Chúng
tôi sẽ gọi điện thoại sau – Nói và hai ngƣời chào
Thẩm lần nữa trƣớc khi đóng sập cửa xe.
Tấm danh thiếp in bằng tiếng nƣớc ngoài.
Tiếng Anh. Vì học dốt nên nó cũng chỉ đọc, hiểu
đƣợc mỗi chữ the và chữ and cùng tên họ không
dấu của ngƣời đƣa thiếp. Chắc có sự nhầm lẫn. Nó
tự nhủ vậy và thôi không buồn tra vấn nữa.
Sau “sự cố” hai ngƣời khách lạ Thẩm mới
để ý đến vẻ mặt của ông bà Quảng. Ông thì hốc
hác hơn xƣa. Bà ngƣợc lại, bộ mặt khó đăm đăm
với lũ kẻ ăn ngƣời ở đã rụng mất đâu đó ngoài
đƣờng. Càng bất ngờ hơn khi Thẩm nghe lỏm câu
chuyện của hai vợ chồng trên sân thƣợng, lúc
Thẩm đứng bên trong những tấm lƣới đen phun
thuốc định kỳ cho những giò phong lan treo kín
nửa góc sau.
-Sao em không thấy thằng Thành…?
52 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
-Em đi mà hỏi nó.
-Anh mới lạ. Chính lúc này mới biết đƣợc
đứa nào tình nghĩa, trung thành. Cái hồi nó chạy
chức giám đốc, sao em thấy hình nhƣ ngày nào nó
cũng xum xoe bên anh? Còn nữa, con mụ Ngàn từ
hóc núi đƣa về giữ chức quản lý dự án ngon ơ
cũng không thấy đâu?
-Anh mệt mỏi quá lắm rồi. Em mà cứ chắc
lép, vỡ lở ra thì đẹp mặt lắm đấy! Em cũng biết cả
rồi. Có thuốc thần mẹ cũng không khỏi. Ngƣời ta
tới thăm hỏi đã là quí. Em còn bày vẽ, gợi ý linh
tinh - Miệng nói vậy nhƣng bụng nghĩ khác.
Những Thành, những Ngàn kéo lƣớt qua đầu ông
nhƣ đèn kéo quân, những hình nhân chạy vòng
vòng, không tách khỏi nan tre.
-Em chỉ muốn giúp anh thôi. Đây là dịp để
anh biết ra ai là ai.
Họ còn nói gì nữa nhƣng thấp giọng, không
nghe ra. Vả lại điều Thẩm muốn biết là bà Sáu. Bà
ngã bệnh, nhƣng ở đâu thì không thể lần ra. Còn
những mẫu đối thoại qua lại giữa hai ngƣời, Thẩm
nghĩ chắc là công việc cơ quan, không liên quan
đến tình hình bà Sáu. Nó muốn bƣớc ra khỏi mành
lƣới đen, hỏi rõ ràng cớ sự. Nhƣng muộn mất rồi.
Họ đã đứng lên, bƣớc xuống cầu thang.
Lúc hai ông bà dùng xong bữa cơm chiều
(hiếm khi họ ăn cơm nhà), đang ngồi uống nƣớc ở
phòng khách sáng choang, lộng lẫy, nó định hỏi
chuyện bà Sáu thì có chuông điện thoại reo. Bà
Quảng thong thả với lấy chiếc điện thoại đƣa cho
53 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
chồng. Quảng một tay xỉa răng bằng que tăm nhọn
tay kia áp chiếc điện thoại một cách hờ hững vào
mang tai. Những âm thanh lít nhít trong máy, đến
bà vợ ngồi bên cũng không thể nghe ra điều gì.
Kịp khi ông Quảng quăng bừa cây tăm lên mặt
bàn, giọng hớt hãi:
-Sao? Anh bảo sao? Đƣợc… đƣợc rồi… Tôi
đến ngay.
Bà vợ níu cánh tay chồng:
-Gì vậy anh.
-Hình nhƣ mẹ mất rồi…!
-Bà ấy làm sao mà chết đƣợc? Rõ khéo…
Công chuyện chƣa xong…
Chính miệng ông Quảng nói ra và lỗ tai
Thẩm thì không thể nghe lầm. Phích nƣớc đang
cầm trên tay suýt rơi xuống sàn. Trần nhà nhƣ
xoay vòng vòng, kéo theo bà Sáu bay quanh nóc.
Bà chết thật rồi. Nƣớc mắt nó ứa ra. Bao nhiêu ý
định với bà, nó không thực hiện đƣợc và vĩnh viễn
không thể thực hiện. Tấm lụa màu mỡ gà bà
Quảng cho nó cất kỹ dƣới đáy túi xách, ống ngoáy
trầu bằng bạc, chai dầu gió xanh và củ sâm thừa
ông Quảng vất trong giỏ rác nó lƣợm lên, phủi
sạch, cất kỹ… tất cả sẽ đƣợc gói lại, sẽ đƣợc mang
về biếu bà khi có dịp. Vậy mà… Thẩm có cảm
giác nhƣ ngón tay mình đang bị dần nát nhũn cho
đến khi đứt ra, máu không chảy nhƣng đau nhức.
*
Đám tang bà Sáu Linh đông. Rất đông. Lễ
viếng phải kéo dài hơn thời gian lão hoà thƣợng
54 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
chùa Diên Pháp ghi trong mảnh giấy trắng gấp làm
tƣ. Phòng khách biến thành phòng tang lễ. Ảnh bà
Sáu phóng to trong khung viềng đen. Nhìn bà Sáu
thấy lạ, trẻ hơn đến vài chục tuổi, không thể nhận
ra, duy nhất có đôi mắt là hiền hậu nhìn khách
viếng tang với tấm lòng rộng mở. Họ lâm râm
trƣớc bàn thờ. Bà từ bên trong khung kính nhìn ra.
Khói nhang nghi ngút. Những vòng hoa viếng đặt
kín gian phòng. Trên bàn thờ, chiếc khay xƣa cẩn
ốc xa cừ đặt bên giỏ trái cây, chất chồng những
phong bì phúng điếu dày cộp. Sau những cái vái
lạy trả lễ, bà Quảng, đứng xế bên hông chồng lại
thò tay lên khay, đỡ lấy những chiếc phong bì và
cho vào chiếc túi xách đặt ngay dƣới chân mình.
Thằng con trai từ nƣớc ngoài về, mặc bộ vét đen,
đầu bịt khăn tang luôn lúc lắc thân ngƣời. Bên
cạnh là cô bạn gái trông bộ dạng không phải là con
gái Việt. Thỉnh thoảng nó rút khăn tay lau mắt.
Không hiểu nó thƣơng bà nội hay vì khói nhang
cay xè và khách viếng đông đảo trong không khí oi
nồng mùa Hạ?
Lễ viếng kéo dài khá lâu khiến bà Quảng có
vẻ mỏi ngƣời khi cứ phải đƣa tay tới lui liên tục.
Cuối cùng thì một ngƣời đàn ông tóc hoa râm
đứng ra đọc điếu văn. Ông Quảng từ trong bàn thờ
bƣớc ra nói mấy lời cảm ơn trƣớc khi ông thầy lễ
nhảy nhót loi choi, miệng ê a làm lễ di quan.
Chiếc quan tài phủ kín hoa dịch ra từ từ.
Nhƣng đôi chân nhƣ chân rết đƣa lên thả xuống
đều đặn hai bên hông quan tài, nhịp nhàng bò ra
55 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
tới chiếc xe tang đang chờ sẵn ngoài đƣờng. Một
rừng ngƣời và rừng vòng hoa sáng rực đoạn đƣờng
dài. Những chiếc xe con nối đuôi nhau nhƣ một
cuộc diễu hành, thật chậm…
Những ngƣời hiếu kỳ đứng hai bên đƣờng
kiễng chân nhìn theo đoàn xe tang có một không
hai trong thị xã nhỏ này. Lấp trong đám đông lố
nhố kia, có ngƣời đàn ông mặc bộ bà bà trắng,
chân đất, môi thâm sì ngậm chặt điếu thuốc vấn đã
tắt ngúm tự lúc nào. Níu một bên hông vạt áo trắng
là một thằng ngƣời dị kỳ. Đầu to và dài. Hai mắt
tròn to hơn viên bi quá khổ, tay chân khuỳnh, ngắn
cũn cỡn. Nó ngơ ngác nhìn theo đoàn xe khuất tít
tận trên ngả Bảy, rung rung vạt áo ngƣời đàn ông
có đôi môi thâm: “Coi kìa, má đang bay trên mây
kìa”.■
(Tuy Hoà, tháng 3.2008)
56 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Vòng Trắng Bay
_____________________________
Từ tấm bé, anh chƣa bao giờ đƣợc ở trong căn
phòng rộng rãi, tiện nghi nhƣ thế này. Chiếc
giƣờng đôi phủ tấm trải trắng tinh, phía dƣới là
chiếc mệm mút lò xo. Gối hoa đầu giƣờng. Dƣới
đuôi tấm màn cuộn tròn nhƣ chiếc gối ôm. Anh để
nguyên áo quần nằm lên. Nằm lên và nhún. Cảm
giác êm ái nhƣ thể tấm thân anh là sinh vật bé nhỏ
bám cánh diều chao lƣợn trên không. Nhún một
hồi, anh nằm im, ngó qua phía hông vách tƣờng.
Chiếc tủ đứng bóng đến độ soi thấy cả bộ mặt đen
sì của mình. Bộ bàn thấp có hai ghế đẩu hai bên
với ấm chén, phích nƣớc. Sát cạnh là chiếc ti vi đặt
trên chiếc tủ con kèm theo máy điện thoại màu
trắng. Ngó lên cao chút nữa, đụng trần là máy điều
hoà nhỏ, thở êm nhƣ tiếng thở của vợ con anh
57 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
trong giấc ngủ sâu. Anh nằm yên lắng nghe và
nằm yên nhìn ngó. Anh mở miệng cƣời với riêng
mình, nụ cƣời xếch ngƣợc có những cọng râu lởm
chởm bên trên móc lên.
Đúng là từ trên trời rơi xuống. Cái mảnh
giấy hoa từ trời rơi xuống đụng phải anh: báo cáo
điển hình nông lâm kết hợp. Anh chả biết cái con
mẹ gì về nông lâm kết hợp khi ông Khang cầm tờ
giấy xoay tròn thành nhiều vòng trƣớc mắt anh với
niềm phấn kích: “Sƣớng nhở, chú đƣợc vi vu ăn
chơi rồi, sƣớng nhở”. “Giỡn hoài”. “Thiệt chớ sao
lại đi giỡn với chú? Ngƣời ta ghi tên mời chú hẳn
hoi đây này?”. Anh cầm tờ giấy ráp từng chữ, lầm
nhẩm đánh vần rồi trả lại. “Không đi đâu cả, còn
vƣờn cà phê chƣa tƣới”, anh vung vẩy cây cào cỏ
trong tay. “Cà phê cục kii…ít”, ông Khang rít lên
nhƣ con rắn lục ăn đêm. “Ngƣời ta mời thì cứ đi.
Mất mát chi”, vợ anh bƣng rổ rau đi ra phía khạp
nƣớc vừa nói. Giọng nói thật tròn, rớt theo sau.
Trƣớc chuyến đi một tuần, mấy anh quay
phim mò về. Chiếc xe 4 bánh đen trùi trũi nhƣ con
trâu mộng nhà ông Tổng đỗ xịch trƣớc cổng, đứng
yên. Chiếc xe đứng tại chỗ bất động chứ không
chồm lên lƣng những con trâu khác, không rƣợt
đuổi những con trâu khác suốt buổi. Bầy chó ùa ra
sủa găng gắc và thụt lùi theo từng bƣớc chân của
bầy ngƣời bƣớc tới. Mấy đứa con đứng khép bên
cửa nhìn đám ngƣời vác những giá đỡ ba càng,
giây nhợ, túi xách từ dốc ngƣợc lên, sợ hãi.
58 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Họ chào anh. Anh cũng gắng gƣợng nở nụ
cƣời có những chiếc râu lởm chởm trên mép xách
lên. Họ kêu chúng cháu là đoàn làm phim và hỏi
anh đủ chuyện. Anh hụt hơi trả lời, lƣỡi miệng líu
quíu. Anh cảm thấy mình giống nhƣ thời khắc mấy
chục năm trƣớc, Ban quân quản gọi anh kê khai
chuyện lính tráng, hỏi tại sao không vô bƣng mà đi
theo địch, mấy lần đốt nhà dân, bao nhiêu bận hãm
hiếp, cƣớp bóc.... Anh vừa nói vừa thở phì phì nhƣ
trâu kéo cày giữa đồng nắng buổi trƣa. Họ lại kêu
anh đƣa lên cánh rừng, giả bộ rong cành nhánh
những cây keo lá tràm, xoài mít thiếu chút nữa
phập luôn bàn tay trái; cầm cuốc xới xới mấy gốc
cà phê; lại kêu đứng cạnh đàn bò đàn dê, hốt nắm
cám quăng xuống ao cá, lại quay về nhà đứng cạnh
chuồng gà, bơm nƣớc tắm heo trong khi vợ anh
bƣng thau thức ăn đổ vào máng. Những con heo
béo nung núc vừa mới ăn xong giờ cứ đứng
nghếch mõm ngó đám ngƣời ăn mặc sang trọng
nhƣ muốn hỏi: Các ông định đƣa tụi tôi vào lò mổ
ngay lập tức sao. Trong khi đó đám trẻ con đứng
lố nhố dƣới chân dốc, nhóng cổ nhìn với lên,
không dám xán lại gần.
Xong việc, vợ anh bƣng lên mâm thu đủ
chín. Mọi ngƣời vừa ăn vừa khen ngọt. Anh thanh
niên nhƣ là cấp trên của bọn họ, ngƣời thấp lùn,
mắt ti hí, trán ngắn, giọng nói đớt đát; ăn xong
miếng thu đủ, đứng dậy ra vƣờn ngó trời nhìn đất
chán, chậm rãi bƣớc tới gốc mít, đƣa tay mân mê
quả mít đang bốc mùi thơm nhƣ thể một thứ của
59 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
lạ. Những ngón tay nung núc vuốt ve, sờ nắn trái
mít nhƣ đang xoắn vào đôi vú căng cứng của
ngƣời thiếu phụ. Anh nhìn thấy và hiểu ra. Hiểu ra
rồi xách rựa dựng sẵn ở góc phên chặt liền một lúc
sáu trái đủ cho sáu ngƣời, khệ nệ bƣng để bên
hông xe. Anh cƣời hì hì, giọng cầu tài: “Chút quà
lấy thảo, loại mít dừa lai nghệ thơm ngọt nhƣ
đƣờng phèn”. Họ bắt tay nói cảm ơn chú và thêm:
“Trƣa mốt nhớ mở máy ra coi chú nhé!”.
Chiếc xe nổ máy, lao xuống dốc thật nhanh
chỉ kịp để lại vệt khói đen vất vƣởng trên vạt cỏ
bên đƣờng. Tiễn bọn họ có tiếng gù gù của con cu
cƣờm, tiếng lẹt chẹt bầy sáo nâu và tiếng chim
chèo bẻo gióng từng tràng dài nhƣ tiếng phèng la.
Tất cả những âm thanh ấy phát ra đâu đó trên
những chỏm cây cao, không ai nhìn thấy.
Họ đi rồi mà anh chẳng hiểu ra làm sao, cho
tới bữa thấy mình vung vẩy trên máy, đứng khép
nép bên sân nhà, căn nhà ba gian vách phên tre
mái lá nhƣ chực ngã bổ nhào trƣớc màn hình, run
run giơ cao chiếc rựa, vung nắm cám, đƣa vòi
nƣớc qua lại trên lƣng đàn heo…Anh không hiểu
mình đang nói gì, làm gì chỉ thấy hình ảnh mình
bay chập chờn trên mặt kính rồi tắt phụt, chuyển
qua những đoạn khác, của ngƣời khác. Anh ngẩn
ngơ muốn kéo níu lại lần nữa, nhƣng tắt mất rồi,
qua mất rồi. Mấy đứa con anh xem hết đoạn phim
kêu lên: “Cha thiệt ngộ”, rồi bỏ chạy xuống đồi,
chắc chúng lội suối mò cá mƣơng, bắt cua đá.
Nhanh thật, anh thầm nghĩ. Mới cách bảy tám năm
60 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
thôi, ngọn đồi này còn um tùm lùm bụi, dây leo
chằng chịt mà giờ đã thành khoảnh, đã có tiếng
chân ngƣời khua động. Tiếc là con Mực không còn
để nó vẫy đuôi cùng bọn trẻ chạy xuống suối, sục
sạo trong rừng cây.
Ông Khang quần ống thấp ống cao, dựng
chiếc xe đạp không phanh, hai bàn đạp là hai que
sắt nhọn hoắc, bên cây đỏ, trái mọc từng chùm từ
sát mặt đất treo ngƣợc lên giữa thân, hùng hục leo
lên mấy bậc đá, mặt mũi đỏ gay, mồ hôi nhỏ thành
giọt :
“Thấy không, tôi đã bảo rồi mà. Chú ăn nói
đƣợc lắm. Lên hình đẹp lắm. Cả xứ này chỉ mỗi
mình chú là đƣợc lên ti vi đấy thôi nhé! Ông chủ
tịch, ông bí thƣ đừng hòng. Sƣớng nhở?
Anh ngó ông Khang, ông Khang ngó anh:
“Sao vậy?
Anh định nói “làm sao coi lại hình của
mình chạy trên mặt kính ti vi”, nhƣng anh kịp
dừng lại khi thấy ông Khang chìa tờ giấy ra.
Cầm tờ giấy trong tay, không mở, anh xoay
qua trở lại. Ông chủ tịch nông dân xã có tên Khang
nhổ phẹt bãi nƣớc bọt xuống nền đất:
“Cái con mẹ nhà chú. Là đƣợc đi chơi xứ
ngƣời, đi báo cáo điển hình. Có ai đƣợc ƣu tiên
nhƣ nhà chú không, hở?
Anh gãi đầu:
“Nhƣng tôi có biết báo gì đâu. Ông để
ngƣời khác đi đi.
Ông chủ tịch Khang phồng má:
61 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
“Chú ngu thế!
Anh chìa tờ giấy ra:
“Kệ, ngu chịu ngu. Tôi chả biết viết sao, nói
sao. Với lại cà phê đang kỳ tƣới? Má cu Lít nói
mùa này cà phê mà trúng sẽ cho ông mƣợn để sửa
lại cái nhà.
Ông chủ tịch điên tiết:
“Cái củ kee…ẹc, đ. cần, rồi chìa cuộn giấy
trƣớc mặt anh: Này, ngƣời ta viết sẵn cho chú rồi.
In chữ bự chảng nhƣ trứng vịt nhà chú ấy. Từ nay
tới ngày đi, bữa nào cũng lôi ra đọc, đọc vài ba
bận để khỏi bể dĩa khi đứng trƣớc cử toạ…Cả tỉnh
chỉ mình chú biết không? Phải mang tiếng thơm về
cho tỉnh, cho huyện, cho xã và cả hóc xó này, hiểu
chƣa? Chú mà không đi thì đừng hòng ở lại cái hội
này. Lính tráng cái con mẹ gì chú. Chƣa chi đã rụt
cổ nhƣ rùa!
Ôi quan trọng vậy sao? Anh run lên. Thà đi
chặt cây, vác đá từ núi cao coi bộ còn dễ chịu hơn
cái bửng cầm tờ giấy, đánh vần trƣớc đám đông xa
lạ. Xấu hổ chết. Học hành năm ba chữ, đủ để làm
con tính cộng trừ tới số trăm, giờ kêu đứng trƣớc
đám đông đọc báo cáo. Chết mất. Chết mất thôi!
Lo lắng, bồn chồn chán rồi cũng nguội lạnh
để giờ này anh nằm lăn trên tấm nệm trắng tinh,
mát và ngột ngạt. Mùi thiu úng trong phòng khiến
anh ngột ngạt. Bất giác bàn tay trái đụng phải
chiếc giày còn dính dƣới gót chân nứt nẻ. Anh cởi
quai đƣa lên tận mũi. Mùi thơm da thục xộc vào.
Đôi giày mới nguyên. Đôi giày vợ anh hộc tốc cỡi
62 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
xe ba chục cây số, xuống chợ thị trấn mua về khi
nghe ông chủ tịch nông dân nói nhƣ ra lệnh “chú
phải đi thôi”. Lần đầu tiên sau hơn ba mƣơi năm
mới lại có dịp xỏ chân vào đôi giày, anh cảm thấy
vƣớng víu, nhƣ bị hành khổ. Giờ thì đôi giày cùng
anh ở trong căn phòng sang trọng. Ngƣời nằm trên
giƣờng êm, giày thì dƣới sàn lát gạch hoa. Nó có
cảm thấy thoải mái nhƣ anh vừa phát hiện thứ mùi
lạ kia không? Cả hai thật nhỏ bé. Nhỏ bé đến vô
cùng.
Đến hơn ba mƣơi năm sau, anh lại vƣớng
phải của tội nợ này, nhƣ lần đầu tiên anh bị xỏ
chân vào đôi giày da mà đám bạn lính kêu “bốt đờ
sô”. Ba chục ký nào cơ số đạn, quân trang, quân
dụng thêm chiếc mũ sắt đến năm ký và cây súng
tám ký còn nhẹ hơn cây cày vác vai. Nhƣng đôi
giày thì không thế. Nó nhƣ đôi cùm, riết lấy đôi
bàn chân anh trai cày suốt tháng này qua năm
khác, đôi bàn chân đã từng để trần dẫm nát những
tảng đất trên đồng ruộng, làm cho mặt đất rên siết,
run rẩy. Gót chân nứt của anh đã ấn không biết bao
nhiêu dề đất nát nhão nhƣ cháo đang sôi ùng ục
trong nồi.
Cái thời ấy đã xa quá là xa, nhƣng mỗi khi
chợt nhớ anh không khỏi phì cƣời: “lính tráng cái
nƣớc mẹ gì nhà chú” nhƣ ông Khang vẫn hay văng
ra mỗi khi không hài lòng về anh trong những
chuyện vụn vặt. Nƣớc mẹ gì. Thật là không nƣớc
mẹ gì. Hai năm lính là hai năm giặt giũ, nấu cơm,
bƣng nƣớc cho hết ngƣời này đến ngƣời khác. Ai
63 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
nói sao, bảo sao anh cũng nghe theo. Nghe theo và
lẳng lặng thi hành nhiệm vụ. Thằng Sáu Trớt, binh
nhất, dân Quảng Ngãi, hơn anh một cấp mỏng nhƣ
tờ giấy vấn thuốc, còn hô: “Nghiêm! Binh nhì Ba
Đọt chạy qua kia cầu mua ly cà phê đá cho qua
coi. Anh đứng nghiêm chào, hô “tuân lệnh” và
chạy vụt đi. Vậy đó, chỉ còn thiếu vo tròn cục giấy
chùi đít cho binh Trớt là đủ. Anh phì cƣời, kêu lên:
Nhảm nhí.
Nhảm nhí thật. Cuối cùng đời lính của anh
là ra đứng gác cầu. Cây cầu dài chừng sáu chục
thƣớc, bắc qua con rạch ken dày lục bình. Mới
nhìn, nó nhƣ bao chiếc cầu khác, không có gì đặc
biệt. Nhƣng cấp trên thì bảo: Cậu mà gà gật để tụi
Việt cộng đội lục bình đặt mìn phá sập cầu thì cậu
bị xử bắn ngay tấp lự. Mẹ cứt, sập một cầu chứ sập
cả trăm cầu ông đây chẳng màng. Anh nói thầm
cho riêng mình nghe và ôm súng bƣớc tới, dựa vai
cầu nhìn xuống: đến cá còn dính râu, vƣớng kỳ thì
tía thằng Việt cộng nào dám mò về? Anh lấy mũi
súng gõ leng keng trên thành cầu. Tiếng leng keng
nghe vang, dòn nhƣ tiếng lục lạc đeo cổ bò. Ừ nổ
thì cứ nổ, ông cóc cần. Nó mà nổ tung thì ông về
cày đồng, về mà ôm cái mông nung núc tròn lẳng
của vợ. Sƣớng đời. Cƣới nhau hơn tuần là đi. Chƣa
mùi mẽ gì nhiều nhƣng lúc nào anh cũng nhớ cái
mông tròn. Nhiều đêm anh gối đầu lên ba lô mà cứ
ngỡ nhƣ đang gối trên mông vợ, choàng tay xoa
xoa đụng nhằm phải chiếc ca nhôm lạnh ngắt. Mở
choàng mắt thấy mình đang nằm trong giao thông
64 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
hào tối thui, dƣới đũng quần hình nhƣ bầy cóc cọt
vừa mới khạc nhổ bãi bọt nƣớc lên đó… Trời ơi,
sao lại cứ phái đánh nhau, bắn nhau làm gì cho
nhọc sức? – Có lần tiếng kêu bật lên thành câu hỏi
u ám trong đầu.
Một ngày anh đứng gác ba tiếng, có khi
hơn. Đó là lúc lũ bạn lính đổi phiên nhƣng cố tình
ngồi nán lại, lê la quán nƣớc bên kia cầu, kêu thêm
xị rƣợu, cà phê có cớ tán tỉnh cô chủ quán. Mấy
bận anh cũng ra ngồi đó. Ngồi và nhìn hàm răng
trắng, miệng cƣời tƣơi nhƣ bông mắc cỡ quấn quít
bên bờ ruộng… để nhớ vợ, nhớ cái mùi chua chua
nồng nồng từ nách vợ xông lên rồi lại xách súng
quay về trại. Anh cuống cuồng trong nỗi nhớ thoi
thóp ngăn cách giữa cây cầu sắt và những con rạch
đan chéo nhau, những cánh đồng ngút mắt. Ƣớc
chi mà bỏ đƣợc cây súng, dẫm chân lên cánh đồng,
cầm chui cày, hả họng ví thá đôi trâu. Nhƣng con
sông và những con rạch thì đang chắn ngang trƣớc
mặt, còn quê nhà thì xa tít mù xa.
Khói trên mặt sông la đà. Đám lục bình dập
dềnh đang thở khói. Một vùng khói trắng buổi tinh
mơ. Đàn cò đang chao lƣợn thành hình vòng cung
phía cánh đồng lung trƣớc mặt. Những đọt dừa
nƣớc màu xanh sậm dính vào mảng da trời lờ mờ
buổi sáng sớm, vẽ thành đƣờng viền mỏng dẹt tít
tắp. Anh xách súng đứng lên, chƣa kịp đặt chân
lên mố cầu, chƣa kịp chúc mũi súng gõ leng keng
trên thành sắt để tƣởng tƣợng đó là tiếng lục lạc
trên cổ bầy bò, thì chiếc cầu bùng lên, hả họng
65 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
khạc ra cột nƣớc cao nhƣ cục đờm từ cổ họng phọt
ra, xô anh ngã sấp trên đƣờng sỏi ƣớt sƣơng đêm.
Đũng quần ƣớt nhẹp và mùi thúi trộn lẫn với khói
đạn đè vít cả ngƣời anh dán sát mặt đất. Chừng mở
đƣợc mắt, chỉ thấy hai bờ mênh mông những dề
lục bình ngã nghiêng, rũ rợi. Hàm răng trắng, nụ
cƣời tƣơi tắt phụt bờ bên kia, đàn cò hốt hoảng bay
lên la điếng, đƣờng vòng cung gãy khúc, trời nhƣ
sắp sập… Sau đó, cả mƣời một ngƣời trong tiểu
đội gát cầu đụng lƣng nhau trên nền đất lạnh, bốn
bề là tƣờng đá và hình nhƣ cả những vòng trong
vòng ngoài kẽm gai quây tròn bên ngoài…
Đôi giày chết tiệt siết chặt đôi ống chân.
Đếm ngày và đêm trong bóng tối, trong thứ mùi
hôi thúi ám vào thịt da và nghĩ tới ngày bị mang ra
khu đất trống. Đoành một phát, tim gan óc phổi
khạc ra cục đờm trắng đỏ trộn lẫn. Đó cũng là kiểu
đánh nhau? Anh rùng mình nghĩ tới ngày đó đến
độ đầu óc đông cứng.
Những ngày bị giam giữ khiến anh nhƣ
ngƣời mụ mị, nhƣng hai bàn tay với mƣời ngón
thô ráp của anh dân cày thuở trƣớc bổng dƣng biến
thành thứ chân của loài rít rừng nhƣ có phép lạ.
Chúng đụng tới đâu da thịt dãn ra, các khớp xƣơng
dãn ra. Cả tiểu đội tù chìa lƣng, chìa chân cho
những chân rít kia bò bám. Họ rên lên với những
cơn khoái cảm co giật liên hồi… Đám chân rít kia
đã cứu anh và lần nữa lại đẩy anh xuống vực sâu.
Đầu tiên là ngƣời lính đƣa cơm, đến trung đội
trƣởng đến các sĩ quan chỉ huy. Anh nhƣ Thái
66 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
thƣợng lão quân từ trời rơi xuống. Mƣời ngón tay
của Thái thƣợng đã làm cho các bà cong rút ngƣời
lại, đổ ập lên ngƣời anh và lần nữa đẩy anh xuống
vực đen ngòm. Lại bóng tối, lại đá nhám và hơi
đồng sắt. Phép lạ của những chân rít kia không đủ
sức để hơi sắt bớt lạnh, để bóng tối bay đi…
Tiếng gõ cửa. Giấc mơ hồi tƣởng khép lại
giống nhƣ nút chai bị nhét chặt. Anh xỏ giày, mở
cửa. Lọ hoa lung lay trên đôi tay thon muốt. Miệng
cƣời với về phía anh. Đôi mắt cũng nở nụ cƣời rớt
nghiêng lên mặt anh. Cô ta bƣớc khẽ khàng, đặt lọ
hoa lên bàn, gật đầu chào. Nụ cƣời khép lại sau
cánh cửa khép rất nhẹ. Anh ngẩn ngơ nhìn tấm
rèm màu mỡ gà, ngẩn ngơ nhìn cánh cửa liền khít
với gờ tƣờng. Bóng ngƣời thiếu phụ thƣớt tha vừa
mới đó đã biến mất nhƣ thuở nhỏ nghe kể chuyện
liêu trai. Đúng là anh đang sống trong mơ. Vẫn nụ
cƣời bên kia cầu. Vẫn cái dáng thon thả. Và hơn
hết là cánh cửa khạc ra cục đờm trắng khi ngƣời
thiếu phụ đã khuất phía sau, giống nhƣ mấy mƣơi
năm trƣớc chiếc cầu sắt đã khạc ra. Căn phòng kín
bƣng, chỉ có anh đang nằm trên giƣờng và đôi giày
dƣới sàn.
*
Ông trƣởng đoàn đẩy cửa bƣớc vào trong
khi anh vẫn nằm thõng chân xuống sàn nhà.
-Nhớ rừng và mông bò cái rồi hả?
67 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Câu hỏi giống chiếc cầu gãy. Khuôn mặt
non choẹt ngó quanh. Bất giác những cọng râu kéo
xệch nụ cƣời ngƣợc lên khiến anh bật dậy.
-Ông đọc thuộc bản báo cáo chƣa. Nhớ
đừng có vấp váp, lộn tùng phèo nhá?- Nói và ông
ta khép cửa.
Mẹ cha cái lão Khang, anh phì phì trong cổ
họng không thành tiếng. Việc anh làm có nƣớc mẹ
gì đâu mà rùm beng lên thế này? Những dòng chữ
nhảy múa trên tờ giấy trắng. Mở miệng đọc nó cứ
sậm sựt nhƣ có chiếc lò xo móc hai môi lại với
nhau. Anh quay ra oán trách ông chủ tịch nông dân
xã, oán trách đám quay phim. Chớ chi không có lũ
ngƣời đáng nguyền rủa kia thì giờ này anh đã gối
đầu lên rễ cây trong bóng râm mát vƣờn rừng nhà,
thở khói phì phèo, ngó những tia nắng xiên qua
cành lá rung lợn cợn chói mắt, những tia nắng gãi
lên ngƣời, vuốt ve lên má mũi anh. Rồi tối đến,
chờ cho đứa con say giấc, anh lại đƣa tay ra xoa
xoa vào mông vợ, bồng vợ trên đôi tay khoẻ, bƣớc
nhẹ ra sạp tre dƣới gốc cây đỏ…Ba Đọt thở dài,
hất cuộn giấy nằm lăn bên hông nhƣ ngƣời bạn bỏ
quên lâu ngày, anh lim lim mắt, lơ mơ với bức
tƣờng trắng toát trƣớc mặt.
Từ ngày cây cầu bay lên. Mƣời ngón tay
thành chân rít rừng thì cuộc đời anh cũng thay đổi.
Hai năm làm binh nhì không mất đi chất cày đồng.
Tám tháng cải tạo càng thôi thúc anh quay về với
chuôi cày. Chuôi cày không rên lên nhƣ các bà
phu nhân, nhƣng mặt đất thì rên lên bỡi anh nhào
68 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
xới liên tục, không kịp thở. Thẻo ruộng nhỏ vừa
gặt xong lại thấy đậu lún phún. Hết đậu đến bắp,
đến lúa quay mòng mòng. Đất mỏi mệt mà sức trai
nhƣ anh thì không thể dừng. Thẻo đất nhỏ gục đầu
lạy anh. Còn anh thì chắp tay vái mấy vái và vĩnh
biệt những hòn đất trắng hếu, vĩnh biệt ông trƣởng
thôn tháng nào cũng gọi anh lên trình diện hỏi anh
đã cộng tác với CIA sao không khai báo, đốt nhà
dân bao nhiêu bận, hãm hiếp bao nhiêu phụ nữ, trẻ
em… Lần đầu anh són đái cả quần. Những bận sau
cũng bao nhiêu câu hỏi đó anh chợt hiểu ông ta chỉ
kiếm cớ nhờ anh đốn bụi tre, cuốc rõng đất, kéo
nƣớc tƣới vƣờn cây không mất tiền công. Anh vái
và nhổ nƣớc bọt, xách rựa đi qua hết ngọn núi này
đến quả đồi khác. Con Mực lốc thốc chạy theo,
lƣỡi thè dài nhƣ cái nhún vai lắc đầu của ngƣời
thân trƣớc một thằng ngƣời điên. Chiếc rựa rên lên
dƣới mƣời ngón tay thằng điên. Ngọn đồi cũng rên
lên. Anh lại nhào xới, lật tung từng tảng đất nâu.
Mặt đất nâu rung rung nhƣ cái giật nẩy thịt da cô
gái, sau này là vợ kế bị những chân rít chạm phải.
Ba Đọt cuồng lên. Đất sôi ùng ục… Cánh rừng lúp
xúp bị anh vạt trắng đến cả thú ăn đêm, cóc nhái
sâu bọ cũng đâm oán. Sau đó quả đồi mênh mông
phủ kín cơn cuồng bằng những cây đậu cây bắp
nằm khép bên tán keo, xoài mít…Cơn khát đất và
khát cây chẳng mấy chốc hóc xó mịt mù xa cũng
có những cặp mắt ngó tới. Con Mực thôi thè chiếc
lƣỡi dài có đốm đen mà sủa vang động cả cánh
rừng khiến đàn chim hoảng sợ bay lên, la quang
69 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
quác. Những bàn chân vạch lá tìm lối đi. Lối đi
bằng sợi chỉ nhỏ lâu thét thành lối mòn rộng. Đám
nậu nguồn xuất hiện. Có già có trẻ. Có nam có nữ.
Họ đổ xuống nền đất những gạo mắm muối. Họ
cõng đi những trái mít trái xoài và đàn gà sinh sôi
nhanh nhƣ đám mối bìa rừng. Lối mòn lớn dần
khiến lòng anh trống hoang hoác, khiến anh nhớ
không nguôi chiếc mông tròn ngún nguẩy và mùi
chua nồng từ nách vợ đã vĩnh viễn bay lên trời
cao. Đó là ngày mà tất cả mọi ngƣời đều hoảng
loạn, kéo nhau chạy, bỏ cả nhà cửa ruộng vƣờn mà
chạy. Những dây ngƣời đu bám trên xe. Đoàn
ngƣời gồng gánh trèo đèo lội suối mà chạy. Phản
xạ dây chuyền kéo vợ anh lao theo bầy ngƣời lúc
nhúc đó. Mấy chục ngƣời bấu trên chiếc sõng nan
vƣợt ra cửa biển. Vợ anh lao lên. Cửa biển nhƣ
miệng con mãng xà há rộng mồm và nuốt chửng
mọi ngƣời. Vợ anh trôi đâu đó trên chiếc lƣỡi dài
đỏ hoét màu máu, chìm lút trong bụng con mãng
xà. Ngày ra trại, anh chèo chiếc sõng nhỏ căng mắt
tìm kiếm dƣới đáy sông, nhƣng dân phƣờng chài
nói: Họ chìm nghỉm và bay đi rồi. Chắc vợ anh
cũng đƣa tay ra bấu vào chiếc cầu sắt để bay lên,
anh nghĩ vậy và thôi không bơi sõng tìm kiếm nữa.
Nhƣng sau đó thì đụn lên thành nỗi hoài nhớ khắc
khoải đêm ngày trong anh. Cơn cuồng khát đất,
khát cây giờ thành thứ cuồng khát hơi hám phụ nữ.
Nhƣng trong đám ngƣời vạch lối thành lối mòn
không có ai có chiếc mông tròn nhƣ vợ anh, không
ai có hàm răng trắng và nụ cƣời tƣơi nhƣ cô hàng
70 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
nƣớc bên kia con rạch nhỏ! Con Mực bây giờ đã
già lắm rồi, tiếng sủa không còn trong nhƣ tiếng
lục lạc đeo cổ bò khua rổn rảng. Những âm thanh
xa gần, lúc đầy vun cao thành ngọn, lúc lƣng nhƣ
khạp gạo nhô đáy vồng lên trống trơn khiến anh
vừa hân hoan chờ đón vừa cảm thấy đau xé bóp
thắt ruột gan. Bốn bề núi non với con sông nhỏ vắt
qua, với tiếng côn trùng muôn thú về đêm, tiếng
chim muông ban ngày nhƣ những chiếc chỉa ba
nhọn hoắc xuyên qua ngực. Anh chới với. Ba Đọt
đã quên mất cả họ chới với. Con chó già ngƣớc
mắt nhìn anh, nhìn lối mòn toang hoác kia lõm
những vết lăn!
Đôi mắt đục mờ của con Mực không lâu
sau đó khép lại. Vĩnh viễn khép lại. Ba Đọt hoá
thành ngƣời cô độc giữa cánh rừng mênh mông.
Còn vết lăn thì sâu thêm, rộng thêm ra nhƣ một
thứ định mệnh đƣợc báo trƣớc.
Đó là một buổi sáng tháng Mƣời. Đang
ngồi trên ngạch cửa vót những sợi mây mảnh, anh
bỗng nghe tiếng bƣớc chân khẽ khàng đặt trên nền
đất trƣớc căn chòi lệch về một phía. Chiếc rựa trên
tay anh rụng xuống. Nền đất ngay chỗ anh ngồi
bổng rung oằn khiến tay chân anh cũng rung theo.
Ngƣời phụ nữ đứng trƣớc mặt anh, chiếc gùi đè
nặng trên lƣng khiến ngực cô ta nhô cao, nhọn
hơn, mông vồng lên nhƣ sắp thành vò đất nung.
Cô gái cúi xuống đặt chiếc gùi lên hiên thềm. Một
chút da trắng trên ngực lộ ra. Đôi vú phập phồng.
71 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Anh nhƣ sắp nổ tung lên trời cao nhƣ ngày nào
chiếc cầu sắt bay lên.
Cô gái mở nụ cƣời chào anh, hỏi mua
những thứ anh có và bán lại những thứ anh cần.
Những gói bột ngọt, can rƣợu, nƣớc mắm… nhập
nhoàng trƣớc mắt lộ vùng ngực màu trắng, đôi vú
nhô cao trong cái nhìn cuống cuồng của anh. Mặt
trời tháng Mƣời chìm lấp trong đám mây dày mà
sao anh cảm thấy nhƣ có những tia nắng xiên qua
ngƣời, nắng lƣớt qua đỉnh đầu. Ngƣời anh nóng
rực.
Cô gái lại nở nụ cƣời đúng thời khắc lùm
mây đen tuôn tràn những giọt nƣớc từ trời cao, ầm
ầm nhƣ thác đổ. Mƣa dầm dề. Mƣa từ sáng tới trƣa
không tạnh. Nƣớc trắng xoá trên lối mòn dẫn lên
đồi. Nƣớc gầm réo ở đoạn cong vắt qua trƣớc mặt
nhà. Mái tranh oằn cong đƣa mặt hứng từng mảng
nƣớc dày đổ ập xuống. Nƣớc bắn tung toé trên sân
đất. Nƣớc níu những cành cây cong sát gốc, chôn
chân hai ngƣời trong căn lều trống hoác.
Mƣa tiếp tục giam hai ngƣời bên bếp lửa.
Nồi cơm sôi ùng ục. Cô lật vung, cầm đũa sơ. Anh
thẫn thờ cời mớ than đỏ. Cô nhắc nồi cơm vần lên
đống than. Anh lóng ngóng bƣng xoong cá suối
kho cả tuần đặt lên ba ông táo ám đen. Cô vói tay
cho thêm củi. Tiếng nổ lách tách. Lửa đỏ đít nồi.
Trái tim anh dƣờng nhƣ cũng bắt đầu đỏ lên. Anh
cảm thấy mùi da thịt đàn bà đang bay tới, từ từ, rất
gần.
72 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Mƣa không dứt. Trời tối dần. Lại vào bếp.
Trái tim anh sắp nổ ra, còn cô thì điềm nhiên đứng
dựa phên cáo nhìn mƣa, nhìn con sông nhỏ dƣới
chân đồi nƣớc ngập mênh mông, thì thào:
“Không xong rồi.
“Không xong rồi – Anh thẫn thờ lặp lại, vô
thức.
Nƣớc đụn lên, cao vồng, lấp lửng chân dốc.
Ngọn đèn chao qua lại mấy bận rồi tắt ngấm. Ba
Đọt trở vô mò tìm hộp quẹt. Bàn tay mát rợi níu
lại: Không cần. Tiếng nói thoát ra nhƣ hơi thở nhẹ
khiến anh sững sờ, bối rối. Bàn tay anh ấp lên. Giờ
đến lƣợt anh run bắn, chứ không phải thẻo ruộng
nhỏ, quả đồi đã từng run bần bật dƣới bàn tay anh.
Căn chòi nhỏ rên từng cơn trong đêm mƣa. Những
vạt tre mò o cũng rên lên. Tiếng rên của đất trời,
của căn chòi và vạt tre móc hai ngƣời lại với nhau
thành vợ thành chồng. Thật bất ngờ và đơn giản.
Ba Đọt vừa mới đọc hết hai chữ “kính
thƣa”, lƣỡi bắt đầu líu lại, mắt hoa lên, mồ hôi nhỏ
giọt nhƣ khởi đầu của những hột mƣa dông đầu hè.
Anh nhắm mắt, lắc lắc đầu, định thần lại: mẹ cha,
mình không ngán chiếc cầu bay lên, không ngán
óc phọt ra, không ngán tiếng “đoành” chờ đợi suốt
mấy tháng trời… sao lại sợ những dòng chữ cứ
nhảy múa nhƣ lũ ngƣời điên nhảy choi choi trên
sân khấu, miệng gào rống thế kia? Anh nhắm mắt,
lắc đầu lần nữa, nhƣ thể cái lắc đầu của con cọp
sau giấc ngủ và ném phạch cuộn giấy trên mặt bục
73 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
gỗ, bụng bảo dạ “không xong rồi”. Chợt anh nhớ
đến vợ, nhớ bộ ngực trắng, hai núm vú đỏ và nhỏ
nhƣ quả cau chín; nhớ chiếc mông tròn. Ba Đọt e
hèm:
-Kính thƣa… tôi là Ba Đọt, Trần Đọt, quê
quán… giờ ở xứ mà dân trong vùng kêu hóc Bà Tó
... – Ba Đọt miên man kể lể tông tích, kể lể công
việc làm từ tấm bé cho đến tận bây giờ, “…những
rừng cây, đàn bò dê, gà vịt, ao cá… hàng năm
kiếm khá bộn tiền. Đƣợc vậy là nhờ vợ tôi. Má
thằng cu Lít có cái đầu, nghĩ ra nhiều chuyện lạ.
Còn tôi có tay chân mạnh nhƣ ông Ầm (1), không
chịu nghỉ yên. Nghỉ một chút lại thấy ngứa ngáy,
cái đầu vợ sai cái tay, cái tay bắt cái chân chồng
phải bƣớc tới. Ngồi yên một chỗ không chịu thấu,
giờ thành ra vậy. Với lại hồi đó mà ông trƣởng
thôn không hành khổ thì giờ này chƣa chắc tôi ở
cái hóc xó kia. Có tiền rồi, đỡ cực. Định bụng xây
cái nhà, mua ti vi, kéo điện lên. Nhƣng dòm lại
thấy nhà hàng xóm túng thiếu kêu vợ cho bà con
mƣợn, bày cho cách làm nhƣ tôi đã làm. Nhiều
ngƣời làm đƣợc, nhƣng cũng có lắm ngƣời thất
bại, tôi kêu vợ đƣa tiếp, vì có làm ra tiền mới trả
đƣợc nợ cho mình chớ… Mọi ngƣời kêu vợ chồng
tôi nhân từ. Tôi có biết mẹ gì nhân từ. Thấy họ khổ
nhƣ hồi xƣa tôi khổ thì giúp, chớ nhìn họ lội trong
bùn sình coi sao đặng… Kính thƣa, dạ tôi có sao
nói vậy. Tôi không muốn đi, nhƣng ông Khang cứ
bắt tôi phải đi, không đi thì ổng doạ đuổi tôi ra
74 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
khỏi hội nông dân… Thƣa, tôi kể tới đây là hết. Ba
Đọt xin chào…”
Tiếng vỗ tay rào rào không dứt, mỗi lúc
một to, dài nhƣ đoạn đƣờng từ nơi hội trƣờng này
về tới ngọn đồi đang ở. Anh thấy loáng thoáng
những bó hoa bƣớc lên, ấn vào tay anh. Anh
choàng tay ôm hết những bó hoa trƣớc ngực. Màu
sắc sặc sỡ làm anh hoa mắt, bối rối. Lần thứ hai
anh bối rối sau cái ngày mƣa dầm xối xả. Ba Đọt
bƣớc xuống chỗ ngồi với những tràng vỗ tay với
kéo anh về phía họ.
Suốt cả đêm, tai anh chỉ nghe tràn tiếng vỗ
tay, mắt anh toàn thấy những cánh hoa rực rỡ.
Những ly rƣợu chúc tụng nhau buổi chiều, khiến
đầu óc anh quay cuồng, cả thân ngƣời nhƣ cánh
hoa sao xoay tròn xuống thấp rồi lại bay ngƣợc trở
lên, chao lƣợn chập chờn quanh ngọn đồi cây có
con sông nhỏ vắt ngang qua.
Nửa khuya, cổ họng khô rát, anh bật dậy
kéo bình trà pha sẵn từ trƣa hôm qua, kê vòi tu một
hơi dài. Cơn khát hạ xuống, nhƣng ngƣời thì nóng
ran. Anh cởi áo quần vào phòng tắm, nƣớc nóng
phun xuống làm anh giật thót ngƣời, né qua một
bên đứng nhìn vòi nƣớc chảy rào rào. Anh lại lầm
bầm trách cái lão Khang chết tiệc. Mấy trăm cọc
tiêu và mẫu cà phê đang kỳ tƣới. Chúng cũng đang
nóng, khát khô cành lá. Ba Đọt không tài nào ngủ
lại đƣợc. Anh thao thức và nhớ vƣờn đồi, nhớ đàn
bò, nhớ con Bĩnh, con Quạp sắp đẻ nay mai, nhớ
cả chiếc mông của vợ, trái cau chín đỏ, sạp tre mò
75 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
o bên gốc cây đỏ và những ánh sao lấp loá trong
tàn cây dòm xuống chỗ hai ngƣời… Anh miên
man nhớ về chốn xa, nhƣ thể căn phòng này là nơi
giam hãm anh suốt đời.
Dòng sông vắt qua nhƣ một vành cong
trắng loá trong tâm trí. Cả cơn mƣa và dòng sông
đùn lên cao, thật cao.■
(Huế, tháng 5.2008)
_______
(1) Ông Ầm: tên của một trong những lá
của bộ bài chòi nam Trung bộ. Dân quê hay gọi
ông Ầm để chỉ cho ngƣời đàn ông thô kệch, có sức
mạnh nhƣng đầu óc mụ mị, khô đặc.
76 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Chân Dung Tự Vẽ
____________________________
Ba Xanh đấm tay xuống bàn đánh rầm, trợn
mắt:
-Nói rồi, nhứt định tao không gả mày về
nhà đó.
Cô Mai tựa bậu cửa, khóc thút thít, không
có phản ứng nào rõ rệt. Ba Xanh liếc nhìn cô con
gái, vờ đƣa tay lên quai ấm nhƣ thể chuẩn bị rót
nƣớc ra chén, hoặc sắp lia chiếc ấm trà về phía cô
con gái cứng đầu, lú lẫn trong thứ tình yêu không
do ông lựa chọn.
-Mày có biết nhà đó thế nào không? Thằng
cha nó, Tƣ Nghĩa ấy, vốn là tay đãng tử, giang hồ
tứ chiến. Ỷ có vài ba chữ Tây trong đầu không coi
ai ra cái giống gì. Thằng chả đi “du học” tận Sài
Gòn, nhƣng té ra là học nghề hớt tóc với lại nhảy
đầm và làm tay sai cho địch. Về xứ mở cái mỹ
viện gì đó lép nhép nhƣ đít vịt, chuyên rờ mông, rờ
ngực mấy con me Mỹ và gái bán Bar, kỳ thực đấy
là ổ gián điệp, cung cấp tin tức để triệt hạ các cơ
sở của ta. Lại còn con mụ vợ của nó nữa, con mẹ
thằng Hậu, cậy có chút nhan sắc, nhỏng nhảnh coi
đám thanh niên làng lép nhẹp dƣới đôi guốc sơn
của con mẻ.
77 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Nói một thôi dài, Ba Xanh có vẻ nhƣ khô cổ
thực sự, lật bật nghiêng miệng vòi rót nƣớc. Nƣớc
chảy lóc róc, âm thanh nghe nhƣ mấy cục sạn tự
khua trong chiếc lon sắt. Ông ngửa cổ uống một
hơi hết sạch, đặt chén xuống bàn. Khu chén chạm
vào mặt gỗ nghe cộc một tiếng đanh khô. Ông ngó
mặt con, nạt:
-Khóc gì mà khóc. Chấm dứt! Không yêu
thƣơng gì cái đồ bá xàm bá láp, cái giống mèo mả
gà đồng đó. Nó cũng khuôn đúc nhƣ thằng cha và
con gái mẹ nó thôi, cộng với cái lý lịch đen thui!
Làm ăn gì? Khổ. Khổ cả đời con ạ.
Cô Mai ôm mặt khóc hu hu chạy vụt ra sân,
băng qua vƣờn cây, ra ngồi tuốt ngoài góc rào kín
bƣng những lùm bông bụt. Cô vò nát chéo áo, đƣa
lên miệng cắn nhƣ thể cái chéo áo kia là kẻ thù
ngăn cách mối tình của cô với Hậu.
Chỉ còn một mình ông ngồi lại trên chiếc
đẩu láng bóng mồ hôi, trên vách cao là hình lãnh
tụ bị nƣớc dột từ mái làm nhòe lệch nửa miệng và
phía mắt trái gần nhƣ bị chọt thủng có chút xíu
nƣớc mắt vƣớng bên khóe, nghiêm nghị nhìn
xuống. Không còn ai để trút cơn giận khiến ông
ấm ức nhƣ ngƣời không hoàn thành nhiệm vụ cấp
trên giao phó.
Ba Xanh nhớ lại thời trai trẻ, thời mà ông
và Tƣ Nghĩa học cùng một lớp. Hết bậc tiểu học,
thằng Nghĩa và con Mai thi đậu vào trƣờng công,
còn ông thì lủi thủi ra trƣờng tƣ. Tƣ hay công thì
chẳng tội nợ gì, cũng không có gì đáng nói. Điều
78 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
khiến ông phát cuồng là ngày ngày, hai đứa đạp xe
đạp sóng đôi tới trƣờng, nói cƣời coi bộ tâm đắc.
Thằng Nghĩa đƣợc tiếp cận làn da trắng bông bƣởi,
cặp mắt biếc và hai lúm đồng tiền, làm ông đau
nhói lên những ghen tị lúc mỗi dày thêm nhƣ
những đám mây mùa đông sà xuống thấp. Không
chịu nổi, ông luôn tìm cớ gây sự với thằng Nghĩa.
Có lần ông chặn xe nó ngay đầu con mƣơng nƣớc
dẫn ra đƣờng lớn; định tát mấy cái vào mặt cho hả
giận, nhƣng vô phúc nó biết chút võ, mới chỉ nhào
vô, định xô Nghĩa té xuống đất rồi đè lên, thụi vào
mặt mũi, bẻ cốp tay chân thì nó đã né sang bên,
quét ngang bàn chân nhẹ nhàng đủ làm ông té lăn
cù xuống mƣơng nƣớc. Vậy là Ba Xanh này thua,
ông thừa nhận. Nhƣng thực tế ông vẫn có thể
thắng keo khác. Đó là mới vào năm học Đệ Ngũ,
ông kêu học không nổi nữa, “cha mẹ cƣới vợ con
làm ăn!”. Hƣơng Bổn trợn tròn mắt, ngạc nhiên:
“Mới chừng ấy tuổi mà vợ con. Mày định lấy ai?”.
Ba Xanh gãi đầu, ấp úng: “Con cũng 17, 18 rồi”.
“Ai không biết mày 17, 18? Nhƣ nhà nẫu thì đã thi
đít lôm, ra làm sở Công chánh, Lục lộ hay chí ít
cũng ông giáo, làng xóm kêu thầy Ba, giáo Ba có
sƣớng đời không? Mà mày định lấy ai?”. “Dạ, con
Mai con bà Tƣ Bủng bán bánh bèo chỗ chòi mòng
dƣới gốc da đầu làng đó”. Hƣơng Bổn giật nẩy lên
nhƣ có ai dí sợi dây điện vào mông đít, thầm trách
“Mụ nội nó, quả báo nhãn tiền rồi. Mình đi lại với
con mẻ từ hồi chồng chết trên đƣờng đi dân công.
Giờ sui gia, coi sao đƣợc?”. Ông thở dài đánh sƣợt
79 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
nhƣ cây gai găm vào lốp xe, hơi xì ra. Suy nghĩ
một hồi, ông lên tiếng, giọng rít lên : “Không
đƣợc!”. “Sao không đƣợc?” – Ba Xanh hỏi lại.
“Tao nói không đƣợc là không đƣợc”. “Nhƣng
phải có nguyên do chớ cha?”. Ông trợn mắt:
“Thằng hỗn, dám cãi cha mẹ. Mày muốn nghe chớ
gì? Đƣợc. Con mụ Tƣ Bủng đó nhăng nhít đi lại
với nhiều ngƣời, cả làng này ai không biết? Bản
thân mụ nhƣ những chiếc bánh bèo, ai muốn nhai,
muốn cắn, sờ mó chi cũng đƣợc ráo. Con gái mụ
cũng giống cái nòi đó thôi, đồ trắc nết. Dẹp đi.
Chớ nghĩ ngợi lung tung. Ráng học, kiếm cho
đƣợc cái bằng đít lôm rồi tao lo cho”. Nói và ông
phủi đít đứng dậy, ra đầu chái vác cuốc đi thẳng ra
đồng, bên hông lủng lẳng bọc thuốc rê gói trong
mo cau, có sợi dây gai nối hai đầu.
Ba Xanh coi nhƣ thua thêm một keo nữa,
ngày ngày cút kít trên chiếc xe đạp lên tỉnh học với
nỗi buồn chất chứa, đau nhức tựa mụt nhọt đang
mƣng mủ. Ba Xanh suy tính làm sao để giành
bằng đƣợc con Mai từ tay thằng Nghĩa: Đi lính để
vác súng về bắn nó? Không dễ. Mang vòng vàng
ra òn ĩ bà Tƣ cho con Mai theo mình vô Sài Gòn
làm ăn? Cũng không xong. Mà vàng thì cha mẹ
ông chôn cất chỗ nào, nào ai biết? Những ý nghĩ
ấy cứ lởn vởn đến nỗi đầu Ba Xanh muốn nổ tung
ra, chẳng thiết tha tới lớp. Cứ sáng đi chiều về, tập
vở cuốn tròn nhét túi sau không thêm chữ nào và
chiếc xe đạp đã mòn thêm vài dem, sợi xích khô
dầu rên cót két mà cha mẹ ông đâu có hay?
80 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Không ai hay biết chuyện Ba Xanh bỏ học,
cũng không ai hay biết ông biệt tích chốn nào,
không chút tin tức.
*
Sau ngày 30.4, me Mỹ, gái bán bar tự
động biến mất nhƣ cột khói bay vào thinh không.
Dân thƣờng cũng không đủ can đảm bƣớc vô thẩm
mỹ viện Ngọc Mai. Cuộc sống bị đảo lộn. Tất cả
đều tung hê lên, lộn tùng phèo, giữ đƣợc cái mạng
sống là phƣớc ba đời, nói chi chuyện làm đẹp? Cái
thẩm mỹ viện lừng danh một thời nay bỗng thành
ngôi miếu hoang phụng thờ nhan sắc. Chủ nhân
của nó bị ghép tội dùng cơ sở làm ăn này để cung
cấp thông tin cho địch. Vậy là a lê hấp, nhà cửa bị
tịch thu vì tội làm tay sai cho địch. Tƣ Nghĩa xách
túi đi cải tạo, Cô Mai ngậm ngùi dắt con về nhà
ngoại.
Về nông thôn, tƣởng đâu có thể tạm rau cà
với mẹ, yên ổn qua ngày. Khổ nỗi, cô có học, có
chút nhan sắc, nên trên cho ngƣời xuống vận động
cô tham gia vào hội phụ nữ xã. Anh cán bộ trẻ
nhìn xoắn vào ngƣời cô nhƣ muốn lột truồng ra,
vừa nói: “Đất nƣớc ta đã sạch bóng quân thù.
Nhiệm vụ của chúng ta là góp công sức vào xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng chí không thể đứng
ngoài, phải xốc tới, phải nhào vô để làm cho nƣớc
ta giàu hơn thằng Mỹ, mạnh hơn thằng Mỹ...”. Cô
nghe một bên tai, ừ hữ tƣởng cho qua chuyện,
không ngờ mấy ngày sau ông giao liên già, khật
81 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
khƣỡng bƣớc vô sân. Con chó thấy kẻ lạ chồm lên
sủa, gầm gừ xua đuổi. Ông giao liên sẵn chiếc loa
cuốn bằng tấm tôn xáng vào đầu con chó. Nó quay
tít một vòng vãi ra cứt đái trên khoảng sân gạch.
Cái màu lem nhem, khẳm khẳm đó giống màu
nƣớc sơn lâu ngày bị anh họa sĩ không nẩy ra đề
tài mới, tức mình nhúng cọ rẩy bừa xuống sàn nhà.
“Mẹ cứt! Đón tiếp đồng chí đồng bào kiểu gì nhƣ
kẻ thù!” Ông kẹp ống loa vào nách, thò tay vào túi
áo lôi tờ giấy bèo nhèo ra kêu lớn: “Cô Mai ơi, cô
Mai! Có giấy triệu tập”. Bà Tƣ lạch bạch từ nhà
bếp ló ra: “Ai đó? Có chuyện chi vậy?”. “Chào
đồng chí chị Tƣ, cô Mai có giấy trên gửi”. Nói và
ông nhét tấm giấy vào tay bà Tƣ nheo mắt cƣời
cƣời, quay lui, bƣớc thẳng ra ngõ. Ống loa tôn kẹp
nách quất qua lại theo nhịp bƣớc của ông già đã ba
đời làm chức mõ làng!
Tan buổi chợ, Mai quảy gánh về đã thấy mẹ
ngồi trƣớc hiên nhà, xoay ngang xoay dọc tờ giấy
trong tay. Cô đặt đôi quang gánh xuống đất, chạy
lại hỏi: “Giấy gì thế, mẹ?”. “Tao chẳng biết, Bảy
Lợm vừa đƣa lúc nãy”. Mai cầm tờ giấy trên tay
mẹ, vuốt thẳng, lẩm nhẩn đọc rồi nhét vào túi áo
bà ba. Bà Tƣ chồm tới: “Có chuyện chẳng lành?”.
Mai lắc đầu: “Lành dữ chƣa rõ, những chắc là mệt,
phiền”. “Chuyện gì thì nói phức ra. Lại bắt đi cải
tạo nhƣ chồng mày chứ gì?”. “Không”. “Chuyện
gì?”. “Trên cử con vào Hội Phụ nữ lâm thời xã”.
“Dà...àoo”, bà Tƣ thở hắt ra quày quã bỏ ra nhà
sau.
82 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Hai lệnh, rồi ba lệnh triệu tập nhƣng Mai
chùng chình, không muốn tham gia. Nội chuyện lo
cho ba miệng ăn trong thời buổi khốn khó này còn
chƣa xong, chuyện phải tích góp chút đỉnh để thăm
nuôi chồng định kỳ đến tối tăm mặt mũi, còn ham
hố chi hội với hè. Nghĩ vậy và buồn, Mai nằm
khoèo ở nhà, không nhón chân thay mẹ gánh cà,
mƣớp ra chợ nhƣ những ngày trƣớc...
Đêm xuống nhập nhoạng. Tiếng chó sủa
ngoài ngõ. Ba bóng đen lù lù bƣớc vô sân. Chó sủa
rộ. Mai vặn cao bấc đèn, bƣng đƣa ngang mặt.
“Chào đồng chí phụ nữ”, tiếng nói vang ngoài sân
khàn đục, cố rƣớn lên nhƣ để chứng tỏ sức mạnh
quyền uy một cách lạnh lẽo.
Cả ba bƣớc lên thềm. Mai mời họ ngồi và
vặn ngọn vừa đủ sáng để muội khói không tỏa ra
mùi hôi nồng nặc. Lúc ngẩng mặt lên, Mai suýt
kêu thành tiếng, không rõ cảm giác mừng vui hay
sợ hãi. Ngƣời đàn ông ngồi trƣớc mặt rõ ràng là
Xanh. Ba Xanh, bạn học một thời. Anh ta biến mất
hồi đầu năm học Đệ Ngũ nay bỗng lù lù ngồi trƣớc
mặt, ngay trong nhà mình, mặc bộ Tôn Trung Sơn
màu cứt ngựa, nón cối kéo sụp, chiếc sắc cốt lòng
thòng bên hông, ngang thắt lƣng nổi cộm lên vật
cứng mà cô đoán là cây súng ngắn. Anh ta đến nhà
trong tƣ thế này, hẳn không thể là sự biểu lộ tình
bạn, mà chính xác là một cán bộ cách mạng đến
hỏi tội trì trễ của mình đây. Mai rót nƣớc ra ly,
mời họ và kéo ghế, khẽ khàng ngồi xuống, chờ
83 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
đợi. Ngƣời đàn ông mà Mai nhận ra là Xanh ngó
nghiêng khắp lƣợt, mới chịu hắng giọng: “Mạnh
giỏi cô Mai, còn nhớ tôi không?”. “Dạ cũng
thƣờng. Lâu quá mới gặp lại anh, không ngờ... ”.
“Nghe nói anh nhà đang cải tạo?”. “Dạ”. Ba Xanh
ngó chăm chăm vào bộ ngực phập phồng của Mai
dƣới làn vải phin trắng, hạ thấp giọng: “Cải tạo là
tốt. Có vậy thì mới thấy hết tội lỗi của mình. Đƣợc
cách mạng giáo dục thì mau tiến bộ, rồi đứng về
phía nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhƣng
chỉ chừng ấy thôi vẫn chƣa đủ. Cả ngƣời thân cũng
phải tích cực tham gia thì anh nhà mới mau trở về,
trở về nhƣ một chiến sĩ cách mạng chân chính”.
Mai dạ một tiếng nhỏ, không chắc lọt vào tai Ba
Xanh. Nhƣng có lọt hay không, không thành vấn
đề. Vẫn giọng đều đều ấy, Ba Xanh nói nhƣ rù rì,
rủ rỉ nhƣ chỉ có hai ngƣời với nhau: “Cô Mai à, tôi
rất cảm thông hoàn cảnh của mẹ con cô. Tôi chỉ
muốn giúp vợ chồng cô sớm đoàn tụ. Anh nhà có
đƣợc về sớm hay không là tùy thuộc vào cô. Rồi lý
lịch con cô nữa, tội nghiệp nó”. Mai nhỏ nhẹ: “Dạ,
về sớm hay muộn là do ảnh có giác ngộ, học tập
lao động tốt hay không chứ sao lại tôi?”. “Cô
không biết đấy thôi, mọi sự vật đều có liên quan
một cách hữu cơ, biện chứng. Cái này tác động
vào cái kia, đẩy cái kia theo vòng trôn ốc tiến lên,
tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội!”. “Dạ, cái
trôn ốc tiến lên, phận tôi đàn bà không hiểu thấu,
nhƣng chắc chắn đƣợc cách mạng giáo dục, thế
nào anh Nghĩa cũng tiến lên cái chủ nghĩa gì đó
84 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
nhƣ anh vừa nói thôi, tôi tin vậy”. “ Đúng là cô
không hiểu nổi – rồi ông khục khặc trong cổ nhƣ
đang có cục đờm to tƣớng bám cứng lấy thanh
quản – nghĩa là cô phải hồ hởi, phấn khởi tham gia
công tác đoàn thể để thay chồng lập công chuộc
tội!”. “Tôi làm đƣợc gì trong những hội đoàn đó?”
– Mai dè dặt. “Cô không phải lo lắng. Đảng sẽ mở
các lớp tập huấn chính trị, cô theo học, nắm rõ
mục đích, ý nghĩa, nâng cao lập trƣờng quan điểm
thì đá tảng cũng biến thành ruộng cày mà”. Ba
Xanh nói chừng đó, háy mắt với hai du kích vai
đeo súng rồi đứng dậy. Trƣớc khi bƣớc xuống bậc
cấp, Ba Xanh còn với một câu: “Tất cả đều phụ
thuộc vào một mình cô đó”. Mai lịch sự đứng dậy
tiễn họ ra sân. Ba Xanh cố ý đi chậm. Khi hai du
kích ra tới truông tối, Ba Xanh thấp giọng: “Chẳng
gì tụi mình cũng một thời bên nhau lúc còn nhỏ.
Có nhiều kỷ niệm không thể nào quên. Tỉ dụ hồi đi
cổ động hũ gạo nuôi quân, tụi mình mặc độc có
mỗi chiếc quần, lẫm chẫm chạy theo đoàn. Tôi nhớ
Mai đƣa củ khoai lang lùi tro, vừa cho vào miệng
nhai, vừa há miệng hô theo khiến sặc muốn chết”.
Mai không nhớ chuyện củ khoai lang lùi, ngƣời
bạn cũ vừa nhắc. Nhƣng cô nhớ mùa đóng nƣớc tu
bổ nông giang, cả đám xách gàu đi tát cá, bùn đất
lấm lem nhƣ trâu ngoi. Cô buột miệng: “Hồi đó
cũng vui, nhiều chuyện buồn cƣời quá”. Ba Xanh
phụ họa: “Vui, vui đậm. Giá mình còn giữ đƣợc
mãi mãi... bên nhau. Thôi cô cố gắng lên”. Ba
85 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Xanh nói giọng phấn khích rồi bƣớc nhanh theo
hai ngƣời du kích.
*
Họp hành, hội nghị liên tịch, học tập nghị
quyết... liên miên từ ngày này sang ngày khác
khiến Mai không còn đủ thời gian giúp mẹ chăm
sóc mảnh vƣờn. Những cây cà, dây bí xơ xác, vàng
chân nhƣ ngƣời bị bệnh phù thũng. Đầu óc Mai
căng cứng, mệt phờ phạc, nhƣng cũng cố tranh thủ
ra giếng kéo cần vọt xách từng gàu nƣớc đổ vào
các hốc cây nhƣ bón nƣớc sâm cho ngƣời ốm.
Xong việc, lua vội chén cơm nguội ngắt rồi lăn ra
ngủ, không còn sức để mắt tới chuyện học hành
của Hậu.
Bà Tƣ ái ngại nhìn dáng ngƣời hốc hác của
con gái, thốt lên: “Hay con xin nghỉ quách cho
khỏe, tội nợ gì. Không chó thì mèo, không mèo thì
chó, mất ai”. Mai ngƣớc nhìn mẹ, lòng xốn xang:
“Đâu đƣợc mẹ. Nhƣ vậy tổ chức kêu là đầu hàng,
là phá hoại, là chạy theo địch... khổ lắm mẹ ơi”.
“Xì, làm nhƣ mày cầm súng bắn lại ngƣời ta
không bằng”. “Chuyện đó cũng y nhƣ bắn vậy”.
Bà Tƣ bĩu môi: “Tổ chức cái con mẹ gì lạ kỳ vậy,
có tổ...”, bà kịp dừng lại.
Mai chán ngán, loay hoay tìm lối ra. Nhƣng
càng vùng vẫy thì càng bị thít chặt hơn. Tối nay lại
có cuộc họp liên tịch gì nữa đây. Họp mãi, làm
mãi nhƣng nào có thấy “mỗi ngƣời dân trong bữa
ăn có ly bia, có thịt... mỗi nhà có tv tủ lạnh” nhƣ
86 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
từng học tập nghị quyết đâu? Chỉ thấy trong nồi
cơm, càng ngày sắn mì chiếm hơn chín phần. Mấy
hột gạo khép nép nhƣ những cánh hoa héo núp
dƣới tán lá rậm rịt! Hết khoai lang hầm tới bo bo
cứng nhƣ nhai sỏi. Đã có một vài cán bộ rụt rè đề
đạt ý kiến thắc mắc của dân thì đƣợc trên giải
thích: “Làm cách mạng phải biết hy sinh. Đó là
con đƣờng ngắn nhất để tiến lên chủ nghĩa xã hội
vững chắc”. Ngồi bên dƣới, Mai cảm thấy chột dạ.
Mai tới sớm. Ngang qua hội trƣờng trống
trơn, cô quay lại vừa đụng mặt Ba Xanh. Ông cƣời
hề hề đƣa bàn tay thô nhám ra nắm lấy tay Mai lắc
lắc và giữ lại thật lâu. Mai rùng mình. “Cách mạng
nhìn ngƣời không lầm. Cô đúng là phần tử nhiệt
tình, tiến bộ thấy rõ”. Mai chƣa kịp định thần xem
coi mình tiến bộ chỗ nào thì Ba Xanh hớn hở nói:
“Vô đây, vô đây uống miếng nƣớc cái đã”, và
không đợi Mai có ƣng hay không, lôi tuột cô vào
phòng: “Ngồi xuống, cô ngồi xuống đây”, nói và
ông tự kéo ghế ra nhƣ một ngƣời lịch lãm. “Anh
nhà yên ổn cả chứ?”. Mai lúng túng: “Dạ, cảm ơn,
cũng thƣờng”. “Ảnh sẽ về thôi, không lâu nữa
đâu” – Ba Xanh hạ thấp giọng. “Dạ”. Mai trả lời
và cảm thấy có điều bất thƣờng sắp xảy ra. Ngƣời
cô nhột nhạt, cứng đờ. Im lặng một lúc khá lâu ba
Xanh mới lên tiếng, lần này thì ngập ngừng, ấp
úng: “Tôi... Cô có biết... Tôi thƣơng cô chừng nào
không? Vậy mà cô nỡ lòng...”. Ba Xanh nói nhiều,
rất nhiều nhƣng Mai không nghe đƣợc gì. Tai cô ù
lên, mắt hoa. Trƣớc mặt là một khoảng không
87 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
trắng lốp rồi biến thành màng đen dập dềnh. Đầu
óc ong ong quay cuồng. Cô nhắm mắt lại, hít thở
thật sâu cũng vừa đúng lúc Ba Xanh đứng lên, ôm
choàng lấy Mai. “Cô đừng hy vọng thằng Nghĩa
trở về. Tội gián điệp của nó chỉ tù rục xƣơng. Cô
hãy lấy tôi. Tôi yêu cô nhƣ cuồng nhƣ dại từ khi
còn đi học. Tôi bỏ đi cũng chỉ vì cô. Tôi đặt tên
con là Mai chỉ vì tôi không thể nào quên cô. Em là
cả cuộc đời của tôi. Xin em đừng phụ tôi”. Liền
theo đó là những cọng râu đâm xuống má nhƣ cả
một dề gai bàn chải ấn mạnh vào. Mai có cảm giác
nhƣ ngực mình cũng đang nhàu nát tựa trái cam bị
bóp dập nhểu nƣớc. Cô vùng dậy với tất cả sức
mạnh còn lại, phóng ra khỏi phòng, chỉ kịp nghe
tiếng ghế đẩu ngã lăn, kêu khô khốc dƣới sàn. Đầu
tóc xổ tung, cúc áo bung ra trông nhƣ một con mụ
điên.
Ra tới đầu hồi hội trƣờng, Mai ngồi bệt
xuống đất, gục đầu lên hai cánh tay vòng qua hai
đầu gối. Nƣớc mắt chảy ròng ròng nhƣ thể trinh
tiết của cô bị xé toạt, máu me chảy dầm dề giữa
hai đùi.
Một vài cán bộ đi về phía hội trƣờng. Chiếc
đèn bão treo lủng lẳng trên cây xà không đủ sáng
để nhận rõ mặt ngƣời. Ngoài xa Bảy Lợm xách
chiếc măng xông đung đƣa qua lại, vừa rên ƣ ử câu
bài chòi nghe nhƣ ngƣời nuốt củ khoai lang bị
nghẹn. Mai chùi mắt, vấn lại tóc, cài khuy rồi
đứng lên. Lúc Bảy Lợm trông thấy Mai từ xa, ông
đổi sang giọng xuân nữ: “Ối em ơi, sao em nỡ phụ
88 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
tình phụ nghĩa, sao em ham tiền ham bạc, đi lấy
người ta mà bỏ anh rày... ày...ày...”. Bảy Lợm
dừng lại trƣớc mặt Mai: “Uở, đồng chí phụ nữ tích
cực đi sớm quá hén?”. Mai không trả lời, bƣớc vào
ngồi sau băng ghế cuối cùng.
Cuộc họp toàn cán bộ, đoàn thể xã, có đại
diện lãnh đạo huyện tỉnh về dự, mục đích là phổ
biến chủ trƣơng vận động nhân dân đóng góp tƣ
liệu sản xuất, tình nguyện vào hợp tác xã. Buổi
họp kéo dài tới khuya. Đầu óc Mai đông cứng,
không nghe, nhớ đƣợc điều gì...
*
Phong trào hợp tác hóa nông nghiệp đƣợc
phát động rầm rộ. Trƣớc hết các trƣờng học tập
trung tất cả học sinh đi cổ động. Chiếc trống
trƣờng nhƣ bụng con voi đƣợc hai em nhỏ khiêng
đi sau lá cờ đỏ, ráng sức nện tùng tùng. Hai hàng
học sinh nối tiếp nhau rồng rắn, trên tay cầm lá cờ
tự chế, gắn vào que tre bay lơ phơ vì mảnh giấy
quá nhỏ và thiếu gió, giả hoặc cầm lâu quá, mỏi.
Bụi tung mù mịt.
Ngồi trong nhà, bà Tƣ Bủng nhìn ra chỉ
thấy màn bụi dày ôm choàng lấy các em học sinh
lếch thếch tách ra từng đoạn, vì đƣờng xa, nắng
nóng và nƣớc miếng dẻo quạnh trong cổ họng. Bà
chỉ nghe những âm thanh lục sục, rệu rạo từ những
chiếc miệng há to nhƣ miệng con chim con đói
mồi: tiến lên... tiến lên... tiến lên...phấn khởi...phấn
khởi... phấn khởi... vững chắc... vững chắc... vững
89 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
chắc... Những âm thanh dập dềnh trôi nổi bị sức
nóng và sự mỏi mệt chặn lại có lúc bà nghe nhƣ
tiếng gào của bầy ngƣời hợp sức than khóc ai đó
vừa chết một cách tức tƣởi. Bà bỗng nhớ lại những
năm Việt Minh nổi lên cƣớp chính quyền, lập tức
các đoàn thể tổ chức đi cổ động chào mừng cách
mạng thành công. Cờ xí rợp trời. Hoan hô đả đảo
khản cả cổ. Vui. Vui nhƣ ngày tết, bởi thực dân,
tay sai lăn quay ra rồi. Vui là phải, đèn đuốc sáng
trƣng, hò hét thâu đêm. Không ngờ những cây
đuốc hừng hực khí thế kia lại mang đến tai họa cho
cả làng: Máy bay địch phát hiện, ném xuống hàng
loạt bom xăng. Đám ngƣời bỏ chạy nháo nhào.
Nhiều phụ nữ ngã lăn quay kêu la thất thần. Bà Tƣ
Bủng cũng ngã, nhƣng cú ngã không bình thƣờng.
Bà ngã nhào xuống nhƣ nhiều ngƣời đã ngã. Bà
vừa bò, nƣớc đái, cứt tự động chui ra lầy nhầy, sền
sệt trong đũng quần. Nhƣng bà chỉ có cảm giác
mát đít chứ không ngửi thấy mùi thúi thông
thƣờng. Nhớ lại, mắc cỡ lạ lùng, nhƣ thể bà đang
vãi ra ngay lúc này.
Đoàn học sinh cổ động qua đi, để lại một
màn bụi dày đặc, lửng lơ trên những tàu lá chuối
trong vƣờn.
Sau đợt cổ động, Mai tham gia vào đoàn
công tác, vận động bà con nông dân tình nguyện
làm đơn vào hợp tác. Dựa vào tài liệu trên đƣa
xuống, Mai cố gắng giải thích. Nông dân nghe
xong nhăn mặt càu nhàu, đốp chát lại cô cán bộ chỉ
còn da bọc xƣơng, mắt sâu hoắm. Nhiều câu hỏi
90 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
họ đặt ra Mai không thể nào giải đáp nổi, mà nếu
có trình lại trên, chắc trên cũng không tìm ra lời
giải xuôi tai. Địa bàn cô phụ trách chỉ có 98 hộ
dân, nhƣng trầy trật mãi cũng mới đƣợc 13 hộ làm
đơn tình nguyện, số còn lại hoặc ngó mặt nhau,
hoặc chống đối ra mặt. Cô khổ tâm vô cùng. Đôi
lúc Mai muốn bỏ trốn. Nhƣng trốn đâu? Mẹ còn
đó. Con còn đó. Anh Nghĩa còn đó. Thế nào họ sẽ
không ghép tội? Nghĩ tới nghĩ lui không lối ra,
Mai nhét tập tài liệu và đơn tình nguyện in sẵn,
nhủ lòng: mặc kệ, tới đâu thì tới, rồi đạp xe lên
Ban chỉ đạo.
Thoáng thấy Mai, Ba Xanh (nay kiêm
nhiệm chức trƣởng ban chỉ đạo) hớn hở chìa tay ra
từ xa. Hai tay vẫn ôm khƣ khƣ cặp tài liệu, Mai
nói ngay để ngăn chặn chuyện đẩy đƣa của Xanh:
“Báo cáo lãnh đạo, địa bàn tôi phụ trách không
xong, dân thắc mắc này nọ, tôi không thể giải
quyết nổi”. “Cô nói thế là thế nào? Cô phải đả
thông tƣ tƣởng, quán triệt nghị quyết trên đƣa ra
chớ?”. Mai rời một tay khỏi chiếc cặp da, vén lại
cụm tóc lòa xòa trƣớc mắt: “Tôi đã làm đúng các
bƣớc hội nghị đã đề ra, nhƣng có lẽ, tôi không đủ
sức làm việc này do năng lực kém, xin lãnh đạo bố
trí ngƣời khác thay thế, chuyển tôi qua chỗ nào
cũng đƣợc. Tôi sẽ hết lòng”. Ba Xanh hơi sững
ngƣời một chút, vì kế hoạch sắp tới của ông sắp
vỡ. Ông định bụng hôm nào thuận tiện sẽ xuống
địa bàn Mai để kiểm tra đột xuất, rồi sau đó... thừa
91 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
cơ ứng biến, nhắc lại chuyện ngày xƣa. Giờ thì vỡ
thật, hết hy vọng.
Không thấy Ba Xanh nói gì, Mai nhỏ nhẹ:
“Báo cáo lãnh đạo, ngày mai tới kỳ thăm nuôi, tôi
muốn xin phép lãnh đạo cho tôi vắng mặt 4 ngày
cả đi và về. Mấy tháng nay công tác lu bu, đã trễ
mấy chuyến rồi. Không biết tình trạng ảnh ra sao,
xin lãnh đạo rộng lƣợng với ngƣời bạn cũ”. Nghe
nhắc “bạn cũ”, máu bốc lên mặt, ùn ùn nhƣ khói
nhà cháy, nhƣng ông kịp ghìm xuống, nghĩ bụng
vẫn còn cơ hội: “Cô khéo lo, Ban quản giáo đã
nghĩ đâu ra đó, có bỏ đói ai đâu?”. “Dạ, đành vậy,
nhƣng trên núi rừng, có thể ảnh bị bệnh này nọ...”.
Ba Xanh cắt lời: “Cô nói sao, bộ chúng tôi ở trên
rừng năm này qua tháng khác, trƣờng kỳ kháng
chiến đều lăn ra chết hết? Cách mạng vẫn giành
thắng lợi đó thôi”.
Biết không thể đôi co lại Xanh, Mai cúi
chào, nộp biên bản, báo cáo cho bộ phận tổng hợp.
Ba Xanh nhìn theo vừa ngậm ngùi, vừa tức giận.
*
Sau chiến dịch vận động, Mai bị kiểm điểm
phê bình gắt gao vì thiếu trách nhiệm, có tƣ tƣởng
lệch lạc, không nhiệt tình cách mạng... và ngồi nhà
chờ lệnh mới. Mai đón nhận với vẻ mặt hớn hở.
Hóa ra bị gán cho mấy cái tội kia trong công việc
lại hóa hay, không mắc lòng bà con chòm xóm,
khỏi phải lặn lội con cà con kê với dân trong khi
họ muốn đuổi xéo mình đi ngay lập tức. Mai có
92 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
tham gia hay không thì cái hợp tác hóa kia không
thể không thành hình và đi vào hoạt động một cách
trơn tru nhƣ cỗ máy vừa lắp ráp, nhặt chỗ này con
ốc, chỗ kia cây láp, chỗ nọ cái bugi, pít tông... nối
lại, châm dầu, giựt máy cho xịt khói và chạy...
Buổi ra quân đầu tiên, cờ xí đỏ trời. Trống
thúc liên tu bất tận, inh ỏi từ làng trên xuống tận
xóm dƣới. Tổ cày thì tay cầm roi xua đàn bò tiến
tới, vai vác những chiếc cày nặng trịch trên vai,
hàng lối ngay ngắn, thẳng tiến ra cánh đồng cày
mẫu. Tổ thủy nông, cuốc trên vai cũng hàng lối
thẳng tắp tiến về phía các con mƣơng tiêu. Tổ cụ
lão ngồi quanh sân đình sửa lại bồ cào, tra cán cho
những chiếc trang đất, đóng lại răng bừa... Khí thế
hừng hực, sôi nổi bởi tổ nào cũng kèm theo anh
hay chị cán bộ thông tin hết đọc các văn bản hợp
tác hóa lại quay ra ca hát các bài quân hành qua
ống loa cuốn lại bằng tôn. Hết hát lại sang đọc.
Đọc nhƣ cuồng.
Sau ngày ra quân rầm rộ, tiếp đến là chuẩn
bị xuống đồng. Lệnh truyền xuống: là các hộ chăn
dắt trâu bò tập thể phải cho ăn uống đầy đủ để
hoàn thành tiến độ cày bừa vƣợt mức kế hoạch,
gieo sạ kịp thời vụ. Các tổ đều phải ra sức thi đua
lập công. Nơi nào cũng một không khí rộn ràng.
Nhƣng đúng một tuần trƣớc khi xuống
đồng, ban Chủ nhiệm hợp tác nhận hết hung tin
này tới hung tin khác: Bò cày tự dƣng chƣớng
bụng lên ngã lăn quay. Hiện tƣợng gãy chân phổ
biến hơn. Hơn hai trăm đôi trâu bò cày có đến một
93 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
phần ba lâm vào tình trạng xấu. Ban chủ nhiệm và
lãnh đạo xã họp ngày họp đêm, trong khi các hộ
chăn dắt lo thanh toán những con bò què, sình
bụng vì hết phƣơng cứu chữa. Trong khi cán bộ
họp bàn phƣơng án đối phó, cả làng gát lại chuyện
cày bừa hợp tác, hào hứng tham gia mổ xẻ, chia
thịt. Khói bếp vƣơn cao, mùi thịt nƣớng, thịt xào...
thơm lựng bay theo. Rƣợu đế tăng giá vùn vụt. Cả
làng ăn uống vui say cả đêm lẫn ngày, cứ nhƣ
ngày tết! Có rƣợu tất có hát hò. Đờn cò, đờn dây
lôi ra đệm theo những câu hô bài chòi nhão giọng
vì đầy men. Có anh cao hứng xắn tay áo diễn
tuồng cổ, ca cải lƣơng. Bảy Lợm vốn ngƣời ba lơn,
ham vui, liệng ống loa ngoài góc rào xán lại đám
đờn ca: “Để Bảy này diễn lại đoạn tuồng Mạnh Lệ
Quân cho mấy ngƣời nghe”. Bảy Lợm xăng tay áo,
guộn lƣng quần, xuống tấn, ra điệu bộ lúc thua
trận, cất giọng ồ ồ: “Ôi đại bại nhất thời đại bại.
Ta bại lần này... ợ...ờ...ờ.. bày tiếp trận
sau...ơ...ơ...”. Tiếng vỗ tay rào rào nổi lên, chỉ còn
thiếu những chiếc thẻ ném ra và tiếng trống chầu
nữa thì đã thành gánh hát bộ rong!
Tội nghiệp Bảy Lợm , học hành lèm nhèm
vài ba chữ đủ đọc lá thƣ chứ đâu biết mình mắc
tội. Mà tội gì mới đƣợc chứ? Rõ ràng câu ca tối
hôm qua ông hát lên có sẵn trong tuồng tích chớ
nào do ông tự bày ra. Vậy mà chú công an xã gầm
ghè: “Nhất thời đại bại. Ai đại bại? Mà sao lại nhất
thời? Kẻ nào bày cho ông đi tuyên truyền, phá hoại
công cuộc xây dựng hợp tác xã nông nghiệp?”.
94 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Bảy Lợm cãi lại: “Ai bày biểu. Chú về hỏi lại ông
già chú đó. Mấy năm trƣớc ổng theo tui lên Quảng
Hoà coi đám hát hiến. Kép nó hát rõ ràng vậy mà.
Cha chú cũng thuộc nằm lòng, không tin chú về
hỏi ổng coi. Tôi có đặt ra đâu?”. “Không ai bày
biểu thì ông cứ ngồi nhớ lại rồi viết kiểm điểm”.
Bảy Lợm gát ống loa lên bàn, lòng căm hận muốn
nhổ toẹt bãi nƣớc miếng vào mặt thằng nhóc chỉ
đáng tuổi con cháu. “Đồ dóc phách”, Bảy Lợm
gầm lên trong cổ, nhƣng cũng ngồi vào bàn, cặm
cụi đúng một buổi sáng, nắn nót đƣợc nửa trang
giấy mà không hiểu mình viết gì. Ngƣời nhận tờ
kiểm điểm của ông hết xoay ngang lại xoay dọc,
không tài nào đọc ra con chữ, chỉ vì chữ ông viết
giống nhƣ giun dế bò, y nhƣ chữ Lào, chữ Miên.
Chịu thua, thả ông về.
Ban chủ nhiệm cho ghép lại các đôi bò để
điền vào những con đã chết hoặc bị giết thịt.
Chúng vẫn thản nhiên đi ra đồng nhƣ mọi khi,
nhƣng khi mắc hai con vào quải (ách) thì con này
húc con kia, quay đầu lại chọi nhau, khiến ba cây
cày bị gãy chui, một xã viên cày bị thƣơng. Đội
cày lại báo cáo. Chủ nhiệm hộc tốc chân cao chân
thấp chạy ra đồng, ra lệnh cửa hàng thƣơng nghiệp
cung cấp dây thừng, buộc chặt sừng mỗi con một
bên vào tay quải, không cho động cựa. Giải pháp
này xem ra hữu hiệu khi mới ấn lƣỡi cày, cày
chừng trăm mét. Nhƣng lúc tới bờ, anh đội cày
nghiêng ngƣời nhắc thá thì cả hai cứ thẳng tiến,
bƣớc đều đều lên phía trƣớc, khiến lƣỡi cày cắm
95 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
chặt vào bờ đất, làm bắp cày rời khỏi mỏ. Đôi bò
mang bắp cày thủng thỉnh bƣớc tới nhƣ kéo một
thanh gỗ nhỏ về làng, ông xã viên thì nắm phần
chuôi cày vừa tách rời, đứng giữa ruộng la ơi ới,
rồi cắm cổ chạy về không thèm đợi kẻng xổ báo
hết giờ lao động.
Sinh hoạt của làng lúc này là tiếng kẻng.
Đều đặn ngày bốn bận kẻng gióng lên báo hiệu giờ
lao động hoặc nghỉ. Một ngày nông dân làm 8
tiếng, đúng theo luật quốc tế. Nhƣ vậy cũng đã tiến
bộ một bƣớc đáng kể. Nhƣng cái cảnh kẻng báo
giờ nghỉ trƣa hay hết ngày nom nhƣ những hình
nhân trong đoàn kịch câm: Ngƣời đang vung cuốc,
nghe kẻng báo hết giờ cứ để nguyên tƣ thế đó rồi
thu cuốc lên vai; ngƣời đang gánh đôi thùng tƣới
lãnh thuốc nam, nƣớc chỉ mới tƣới phân nửa
thùng, nghe kẻng thì đổ nhào phần còn lại ra đất,
đủng đỉnh quảy đôi thùng rỗng trên vai bƣớc lên
bờ. Cảnh tƣợng buồn cƣời ấy cứ lặp đi lặp lại mãi
không tài nào chữa khỏi, nhƣ mắc chứng nan y.
*
Cô Mai do công tác phong trào kém, nên
trên điều sang công việc khác. Công việc cô sắp
đảm trách rất phù hợp với cô. Chẳng là cô đã từng
mở cái mỹ viện gì đó trên tỉnh, chuyên cắt, uốn,
ép, sấy, nhuộm... nên cô về làm cửa hàng trƣởng
Cửa hàng Hớt Tóc Nhân Dân là hợp lý. Rất hợp
lý. Trên rất sáng suốt, ai ai cũng tán đồng.
Mai quản lý 8 ông thợ hớt tóc; già xấp xỉ
60, trẻ nhất cũng 23, vốn là chủ các tiệm hớt tóc
96 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
trong làng. Các tƣ liệu sản xuất của họ nhƣ tông
đơ, kéo, gƣơng, lƣợc, dao cạo, bàn ghế, thậm chí
tấm vải choàng cũ mèm, hôi mốc đều tập trung
vào Cửa Hàng Hớt Tóc Nhân Dân, đặt trong ngôi
miếu thờ thành hoàng đƣợc nới rộng ra. Họ đến
cửa hàng theo tiếng kẻng. Ra về cũng phải chờ
kẻng. Lúc không có khách cũng phải ngồi tại cửa
hàng không ai đƣợc phép bỏ đi. Mai phân chia đều
khách đến cắt tóc cho mỗi thợ, rồi chấm công
điểm, ghi vào quyển sổ chấm công, cuối tháng báo
cáo lên ban chủ nhiệm. Ngồi trong mát, nhàn nhã
nhƣng ngày kiếm nửa cân thóc. Sƣớng chán.
Chẳng bù với mấy anh thợ cày cắm mặt dƣới nắng
mƣa suốt ngày này qua ngày nọ.
Rồi cũng giống nhƣ cảnh của các tổ đội
khác, hễ nghe tiếng kẻng báo hết giờ lao động, tất
cả các đồ nghề đều ném lên mặt bàn, mặc cho
khách chỉ vừa mới cắt một bên mái, hay vừa cắt
xong nhƣng chƣa kịp cạo mặt, ngoáy tai... Khách
hàng la oai oái. Nhƣng mặc. Đã hết giờ lao động.
Luật nói vậy. Nội qui đã đề ra. Lắm khách từ cửa
hàng ra về với một bên nửa đầu trắng ởn, nửa kia
rậm rịt đen nhƣ nùi giẻ lau xe. Khách kêu trời,
than oán cách làm ăn của Mai và đám nhân viên
bất nhân. Họ đòi đập nát cái cửa hàng hớt tóc nhân
dân kia. Họ chửi tạt vào mặt Mai và mấy ngƣời
thợ là lũ ăn hại, bọn tay sai do địch cài lại, phá
hoại...
Tiếng kêu thấu tai trên, lập tức Ba Xanh
đƣợc cử xuống quan sát, nắm tình hình. Đây cũng
97 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
là dịp tốt để Ba Xanh gần gũi cô Mai. Từ ngày vợ
ông hy sinh, Ba Xanh luôn tơ tƣởng có ngày đƣợc
ôm ấp tấm thân ngà ngọc của Mai trong vòng tay.
Nhƣng khốn thay mơ ƣớc cháy bỏng kia chƣa chịu
đến, khiến ông buồn nẫu ruột.
Lần này ông đến cửa hàng với tâm trạng
buồn vui lẫn lộn, nhƣng cũng cố đè xuống tận đáy,
để có thể nắm bắt tình hình, kịp thời uốn nắn.
Ba Xanh lựa đúng vào thời khắc chỉ còn
nửa tiếng là hết giờ lao động để vào cắt tóc, cốt
xem rõ cách thức làm ăn của họ thể nào.
Mai không ngẩng lên, cũng không chào
khách. Cô cặm cụi biên tờ phiếu rồi đƣa cho ông
già Phi Sơn đã có hơn 40 năm tuổi nghề. Ba Xanh
nhăn mặt khi nhìn thấy ông già ốm nhách, mặt
xanh mét không còn thần sắc lừ đừ đứng dậy. Nghi
mắc bệnh lao kinh niên, Ba Xanh nghiêng đầu hỏi
Mai: “Sao đồng chí không phân công các đồng chí
trẻ lại để ông cụ già tội nghiệp này hớt?”. Mai đáp
tỉnh rụi: “Báo cáo lãnh đạo, ai cũng đƣợc phân
chia đều công việc. Không ai nhiều, không ai ít, vì
nếu làm vậy là bất công, là bóc lột sức lao
động...”. Ba Xanh phẩy tay, ép mình ngồi xuống
chiếc ghế ọp ẹp. Ông Phi Sơn hấp háy cặp mắt lèm
kèm, cầm tông đơ, chậm rãi đƣa lên đƣa xuống
nửa bên trái mái tóc bắt đầu có sợi bạc của ông
Xanh. Thỉnh thoảng răng tông đơ kẹp dính sợi tóc
lúc thao tác, khiến Ba Xanh đau điếng. Một lần
ông còn chịu đƣợc. Đến ba bốn bận nhƣ vậy, ông
nổi cáu: “Hớt cái con mẹ gì nhƣ nắm tóc ngƣời ta
98 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
giựt, nhƣ lột da đầu ra vậy? Đau thấy con mụ nội!”
Ông già suýt soa xin lỗi vì tông đơ chƣa đến kỳ tu
sửa, tổ mài dũa chƣa chịu nhận. “Khỏi, hớt nhanh
lên”. Ba Xanh vừa liếc nhìn chiếc đồng hồ đeo
trên tay vừa giục. Kim đồng hồ nhích dần, nhích
dần. Nửa bên trái đƣợc cắt xong, cắt vội vã, còn
những đƣờng tóc đen nổi đậm, nhƣng nhìn sơ,
không đến nỗi tệ. Chỉ còn nửa bên phải. Mai nháy
mắt với anh thợ trẻ. Điều này có nghĩa là phải
tranh thủ, ƣu tiên cho cán bộ. Anh thợ trẻ hiểu vậy
và nhanh nhẹn cầm tông đơ phụ với ông già phần
tóc bên phải. Hai chiếc tông đơ đua nhau lóc chóc,
lóc chóc trên mái tóc Ba Xanh nhƣ hai con ngựa
gõ móng xuống mặt đƣờng phi nƣớc kiệu. Ba
Xanh tỏ vẻ ngạc nhiên về cách cắt tóc này. Trên
đời này đâu có kiểu hai thợ xúm nhau trên một đầu
tóc khách hàng? Nó chƣa từng xảy ra với ông, với
cả làng này? Hay Mai đúng là “nghệ sĩ hớt tóc”
nhƣ lời quần chúng đồn đãi? Ba Xanh nghĩ thầm
và ngồi yên chịu đựng những nhát bứt tóc từ chiếc
tông đơ của ông già Phi Sơn. Ngựa chạy, hết
đƣờng chạy thì dừng lại. Hai chiếc tông đơ cũng
dừng lại khi mảng tóc cuối cùng rớt xuống tấm vải
choàng quanh ngƣời, để lộ chỗ đậm chỗ lợt trên
mái tóc phía phải Ba Xanh. Kẻng xổ tràng dài. Ba
Xanh nghiêng qua nghiêng lại đầu tóc trƣớc chiếc
gƣơng lớn, đã tróc thủy vài chỗ. Ông ngạc nhiên
khi thấy cả hai ngƣời thợ không chịu tiếp tục công
việc còn lại trên đầu tóc mình, quay lui nói: “Nghỉ
sao?”. Ông Phi Sơn nhỏ nhẹ: “Dạ thƣa, đã hết giờ
99 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
lao động, xin mời đồng chí sáng mai tới sớm, tui
sẽ cắt nốt phần còn lại”. Ba Xanh giận dữ giật
mạnh tấm vải choàng quanh ngƣời làm tóc văng
tung tóe, văng tục: “Mẹ cứt, làm ăn gì lạ vậy? Phải
cho xong đầu tóc ngƣời ta chứ?”. “Dạ - giọng Phi
Sơn khúm núm, nhƣng dứt khoát, rành rọt – xin
mời ông xem bảng nội qui treo trên vách kia”. Ba
Xanh không cần dòm cũng biết bảng nội qui đề ra
cho các tổ đội sản xuất, cửa hàng... là do chính tay
ông thảo. Vậy mà khi từ trên xanh về, ông dò la tin
tức cô Mai, ngƣời làng nói “cổ là nghệ sĩ hớt tóc
trứ danh trên tỉnh đến nỗi các quan bà, me Mẽo
cũng chết mê chết mệt dƣới bàn tay tài hoa của
cổ”. “Cứt. Nghệ sĩ với tài hoa củ cứt” ông buột
miệng gầm lên trong cổ họng. Âm thanh bị nén lại
nghe nhƣ tiếng rít của con rắn vồ trật con mồi.
Không ai hiểu ông nói gì, rồi xẵng giọng trong lúc
mọi ngƣời trong tƣ thế bồn chồn, chuẩn bị ra về:
“Có ai dƣ cái mũ nào không?”. Mai hỏi lại: “Thƣa,
để chi ạ?”. Ba Xanh trổ quạu: “Chụp cái đầu lại
chớ còn chi nữa, còn đứng đấy hỏi. Cô coi, vác cái
đầu tóc này mà đi đƣợc à?”.
Mọi ngƣời nhìn nhau, chẳng ai đội mũ. Mai
nhanh nhẹn lấy chiếc nón lá treo trên móc đƣa
bằng hai tay: “Đội tạm cái này ạ”.
Tự dƣng khuôn mặt Ba Xanh dãn ra, dịu
dần lại khi chạm vào chiếc nón có mùi ngƣời đàn
bà trong tay. Vạt nắng nhảy nhót trƣớc miếu thành
hoàng bỗng sáng choang, hắt lên màu nắng quái,
khiến Ba Xanh quay tít, ngất ngây đến tê dại.■
100 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Ngày Thì Tối, Đêm Thì Sáng
_____________________________
Tiếng còi xe toe toe ngoài ngõ. Âm thanh nửa nhƣ
reo nửa ngập ngừng.
Ở cái xóm nhỏ này hiếm khi nghe tiếng còi
xe, hiếm khi có chiếc xe nào trờ tới, can dự chi tới
mình. Nghĩ vậy, ông tiếp tục cắt tỉa cây sanh bám
ngang trên mặt đá hòn non bộ góc sân. Cây sanh
ấy là chút kỷ niệm nhỏ lúc ông làm tổ trƣởng tổ cộ
bò cho hợp tác xã. Lúc đội của ông kéo lúa nhập
lên tổng kho, trong khi chờ đợi giấy tờ, biên bản,
ông tha thẩn ra phía sau hàng rào và nhìn thấy cây
sanh nằm lăn lóc bên bãi rác. Cây sanh bám trên
cục đá vôi, ngã soài theo thế bạt phong. Ông thấy
tiếc, thấy đẹp và đƣa nó lên thùng cộ mang về.
101 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Mang về và đặt trong bể nƣớc có hòn giả sơn từ
thời ông nội để lại. Một hòn đá chết và một thân
cây sống đu bám nhau tiếp tục sống nhƣ thể ai đó
mang một hòn núi nhỏ đặt vào bể nƣớc!
Tiếng còi lại bin bin. Ngƣời đàn ông mở
cửa bƣớc xuống, ngƣời phụ nữ bƣớc tiếp theo. Lúc
ngoái nhìn qua bờ giậu thƣa, ông thấy cả hai đều
trong tƣ thế lom khom, nhƣ từ hang đá chui ra.
Con Bo và con Bô thấy bóng ngƣời chạy vụt ra,
bấu hai chân trƣớc lên cổng gỗ sủa gắt. Ngƣời phụ
nữ bấu tay vào ngƣời đàn ông, vẻ sợ hãi. Ông
đứng dậy, trên tay vẫn còn cầm chiếc kéo cắt cành
bƣớc ra cổng. Ông trố mắt nhìn ngƣời đàn ông.
Vừa lạ mà cũng hơi quen quen, không nhớ nổi là
ai. Trí nhớ cạn dần theo tuổi già chồng cao. Ông
mở cổng. Ngƣời đàn ông lao tới ôm chầm hai vai,
bấu riết:
-Trời, anh Sáu, anh không nhớ em?
Ông xô ngƣời gọi mình là anh Sáu ra, nhìn
sát mặt ngƣời lạ mấy giây, rồi tự mình ôm chầm
lấy ngƣời đàn ông, chỉ kêu đƣợc mỗi một tiếng
“chú!”.
Lúc này ngƣời đàn bà mặc váy ngắn, tay
xách bóp đầm cũng lao tới, kêu “anh Sáu!” rồi
choàng tay ôm cả hai ngƣời đàn ông. Cả ba nhƣ
khối đá vôi trong bể non bộ. Hai con chó thôi sủa,
đứng nhìn ba ngƣời dính cục lại với nhau, miệng
há ra, lƣỡi thè dài, đung đƣa. Ba ngƣời trong tƣ thế
không rời nhau, bƣớc thấp bƣớc cao, bƣớc qua lối
đi nhỏ đầy gạch bể lởm chởm và cỏ dại, vào nhà.
102 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Hai con chó lủn củn chạy theo sau vẫy đuôi đón
khách.
Khi cả ba đã yên vị quanh chiếc bàn mộc
ngoài hàng ba, chủ nhà mới lên tiếng:
-Mấy chục năm vợ chồng chú biệt tăm biệt
tích?
-Sau khi đón vợ con qua, em có biên cho
anh tới năm lá thơ mà không thấy hồi báo. Em có
hỏi mấy ngƣời đồng hƣơng nhƣng không ai biết
anh, nghĩ chắc anh cũng bỏ xứ mà đi.
-Thơ gởi về đây thì chắc không đến tay rồi.
Mà có đến, địa phƣơng cũng không cho nhận.
-Kỳ lạ vậy?
-Họ sợ liên hệ với nƣớc ngoài – nói và ông
phẩy tay.
Ngƣời đàn bà bây giờ mới lên tiếng:
-Chị Sáu khỏe không? Mà đi chợ hay ra
đồng, không thấy chị?
Chủ nhà nhìn sâu vào gian thờ, lặng lẽ rót
ra hai ly nƣớc nấu sôi để nguội, đẩy ra trƣớc mặt
hai ngƣời, giọng ngùi ngùi:
-Bà ấy mất bốn năm nay. Ung thƣ phổi.
Bệnh viện ghi là “lao lực quá sức, suy dinh dƣỡng,
điều trị không đúng phác đồ”.
Chủ nhà vừa dứt câu, hai ngƣời khách mặt
xàu xuống nhƣ tàu chuối héo, rồi lần lƣợt kẻ trƣớc
ngƣời sau đứng lên, bƣớc chậm vào gian thờ. Chủ
nhà xô ghế đứng lên theo. Ông biết phải làm gì
trong giây phút này, liền lấy hộp quẹt trong túi,
vặn cao ngọn đèn, mấy cây nhang cũng lật bật run
103 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
rẩy khi chủ nhà đƣa lên đốm sáng trên chiếc tim
đỏ quạch. Muội đèn và khói nhang cuộn lại, bay
một vòng rồi hạ thấp theo bàn tay đen xạm, nhăn
nheo những da và đƣờng gân chồng chéo. Hai
ngƣời khách đỡ lấy mấy cây nhang. Họ cúi đầu
lâm râm. Ngƣời đàn bà mặc áo bà ba đƣợc thợ
hình tô màu lại, từ khung kính nhìn ra, có vẻ nhƣ
cảm ơn sự thành kính, trân trọng, mở một nụ cƣời
vừa phải với họ, cũng có thể cố moi trí nhớ coi hai
ngƣời kia là ai? Chủ nhà đứng một bên, lòng thấy
chùng xuống.
Lát sau, những cây nhang đƣợc cắm vào lƣ
hƣơng. Đôi mắt ngƣời đàn bà trong khung kính
nhƣ dán vào những đốm sáng đỏ trên đầu những
cây nhang. Đôi mắt ấy hút những cuộn khói bay về
phía khung kính. Cả ba nhìn sững hồi lâu trƣớc khi
trở ra bàn ngồi.
-Đúng là dâu biển – Khách kêu lên khe khẽ.
Dâu biển thiệt. Mới đó mà đã gần ba chục
năm. Ba chục năm còn mất, có không nhƣ chuyện
đùa kể trên đầu môi. Ông khách ngồi trƣớc mặt
bên kia bàn cùng ngƣời vợ chính là thằng Cán, nhỏ
hơn ông tới nửa giáp. Sau khi mãn tù cải tạo về, nó
và ông rủ nhau mò vào rừng đốn củi kéo về bán
cho các lò gạch tƣ nhân, lò nấu rƣợu lậu. Làm ăn
mới phất lên chút đỉnh định sửa căn nhà méo xệch,
thì tất cả đều bị lùa vào hợp tác xã, giống nhƣ
ngƣời ta lùa bầy vịt vào mành quây. Ruộng đất, tƣ
liệu sản xuất đều xung vào tập thể. Đôi bò của ông
104 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
và thằng Cán cùng nhiều nông dân khác đều bị hóa
giá với cái giá bọt bèo, đủ để mua chui nhủi vài
chục cân thóc, rồi giao lại chủ cũ chăm sóc. Đôi bò
đã có chủ mới. Mà chủ mới kia lại là một đống
ngƣời ngồi chồng chéo trong ban chủ nhiệm cùng
với tất thảy những xã viên, nôm na gọi là bò hợp
tác xã. Có hàng trăm ông chủ dòm ngó vào, khen
chê bình phẩm đủ điều, đến cả con bò hình nhƣ
cũng cảm thấy nhồn nhột ở đuôi chứ chƣa nói
ngƣời chăn giữ. Nhiều lúc nhìn đôi bò của mình
chỉ trong phút chốc biến thành của tập thể làm ông
ứa nƣớc mắt, lòng thắt lại.
Hết mùa cày bừa, cái tập thể kia chỉ định đi
kéo gạch mộc, kéo củi cho lò gạch hợp tác, kéo lúa
về kho... Quay tròn nhƣ chiếc chong chóng, tối
tăm mặt mũi cũng chỉ đủ nuôi mấy cái miệng há ra
nhƣ bầy chim đói mồi. Lúc thành lập các tổ đội
sản xuất ông đƣợc đám giữ bò bầu làm chức đội
trƣởng, phân công điều hành ba sáu chiếc cộ. Ông
giữ chức này không phải ba bốn đời hành nghề kéo
cộ nhƣng ông có chút chữ, vốn là anh giáo làng,
hiền lành, biết tính toán, phân công cho anh em.
Làm đội trƣởng cũng phải làm việc nhƣ ai, chứ
không phải ngồi trong căn nhà gạch chỉ chỏ, ra
lệnh, nên chỉ thêm đƣợc vài chục ký lúa gọi là
“phụ cấp chức vụ”. Cũng chẳng sao. Công sức
mình bỏ ra chứ không đi ăn cắp của ai. Và ông
nhận lời. Đám xã viên cộ bò trong đội ông, coi lại
toàn là những anh lon ton trong chế độ cũ: lính
nghĩa quân, lính địa phƣơng, nhân viên tùy phái
105 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
trong công sở, mấy anh nhà giáo bị động viên, một
số ít khác tự hủy hoại thân thể để trốn lính. Giờ
này tất cả đều phải vịn đuôi bò mà sống. Biết thân
biết phận, không ai ca thán.
Nhớ lại, sau ngày đi cải tạo về, vợ ông lục
đáy rƣơng còn 8 chỉ vàng y, bàn với ông:
“Nghe nói vàng sẽ bị nhà nƣớc tịch thu hay
đóng dấu gì đó. Có giữ lại phòng thân cũng không
ổn, chi bằng đem đổi đôi bò về cày bừa, hái củi,
kéo trấu cho ngƣời ta tráng bánh, có đồng ra đồng
vô để nuôi con và cha mẹ già”.
Ông nghe phải, liền xách tám chỉ vàng nhờ
Cán đi tìm bò. Khoản này nó giỏi hơn ông nhiều.
Nó biết coi răng lƣỡi, coi đuôi, tƣớng mạo cày hay,
hay trở chứng và nó chọn đôi này. Đôi bò tơ, to
đẹp ngƣời ta đồng ý đổi lấy năm chỉ. Ông mừng,
lùa đôi bò về. Thấy bò vợ ông cũng mừng, con ông
cũng thế. Riêng cha ông đứng trong hiên nhìn ra
lắc đầu, cái lắc đầu chán nãn, mệt mỏi và thất
vọng.
Cán phụ ông dựng chuồng tạm, trồng nọc
rơm. Hai anh em thân nhau thành đôi, chăn bò trên
các nghĩa địa, soi cỏ ven sông những lúc không
phải ra hợp tác. Nó lại chỉ dẫn ông cách cho ăn
uống, tắm táp. Nhờ chút kinh nghiệm nhỏ, đôi bò
cứ phình to lên nhƣ những con bò mộng trong đấu
trƣờng.
Ngày Cán lấy vợ không vui nhƣ trƣớc. Đám
cƣới đƣợc tổ chức trong gian phòng nhà hạnh phúc
ở thôn với cờ xí, khẩu hiệu treo kín tƣờng. Hai họ
106 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
và bạn bè ngồi hai bên dãy bàn dài với những ly
nƣớc trà cám, kẹo nổ, cốm vắt làm từ đƣờng đen
trộn với bột gạo, sắn... Phía trên cao là lá quốc kỳ,
ảnh lãnh tụ nhìn xuống. Những cục kẹo nhƣ những
viên sỏi ngọt, khách khứa cố cho vào miệng để
chung vui, trong khi đoàn thanh niên đứng ra đọc
lời chúc mừng cô dâu chú rể: “chung sống để góp
tay vun xới cho hợp tác xã giàu mạnh, để mọi
ngƣời dân đều trở thành con ngƣời mới xã hội chủ
nghĩa... tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên
chủ nghĩa xã hội”. Tiếng vỗ tay lốp bốp, rời rạc.
Hai họ uể oải đứng lên. Cô dâu chú rể nắm tay
nhau đứng lên. Vậy là họ chính thức thành vợ
thành chồng, chẳng cần tổ tiên ông bà chứng giám
gì ráo trọi, vì đã có ngƣời trên cao chứng rồi.
Ông Chấn, cha Cán không chịu cảnh nhục
nhã đó. Ông nói nhỏ gì đó vào tai anh sui gia. Hai
họ không về hƣớng về nhà mình mà qua truông tre
tạt vào nhà ông. Hai trẻ đều mặc bộ bà bà đứng
trƣớc bàn thờ, vái lạy ông bà sau khi ông Chấn và
ông sui gia thắp hƣơng khấn niệm. Họ làm thật
nhanh ròi quay ra nhà sau. Hai chiếc bàn tròn kê
phía chái nhà, phía sau là hàng rào tre ken dày,
nghĩ là không ai thấy. Hai con gà nấu cháo xé phay
và mấy tô thịt heo chỉ thấy mỡ trắng hầm măng
tƣơi chặt trong vƣờn nhà đƣợc bày ra. Tất cả chỉ
có vậy. Hai họ ngồi vào bàn với vẻ mặt lấm lét
nhƣ đang đi ăn vụng. Không nghe tiếng nói cƣời.
Chỉ lặng lẽ nhƣ thể đang dự một đám tang.
107 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Ông Chấn nƣớc mắt giọt vắn giọt dài, mắt
đỏ hoe nhìn anh sui gia sụt sùi:
“Cái thời bắt phải thế, chớ vợ chồng tôi đâu
nỡ nhìn cảnh này. Cũng có một chút gọi là...” –
Nói và ông khóc. Mọi ngƣời bùi ngùi ngồi xuống
nhƣ cảnh ăn cơm tù.
Tan tiệc, mạnh ai về nhà nấy. Riêng ông
Chấn, sáng hôm sau có hai anh du kích vào nhà
mời lên thôn. Ông thôn trƣởng tuổi bằng thằng
Cán, nhƣng trông oai vệ nhƣ những anh vệ quốc
quân thời đánh Pháp. Chiếc nón cối màu cứt ngựa
đặt cạnh mép bàn, bên này là chiếc sắc cốt, chồng
giấy tờ trƣớc mặt. Bộ áo quần kaki và đôi dép râu
không làm anh ta oai phong lên mà có vẻ khôi hài
bởi vẻ mặt non nớt, trên mép có chút râu lún phún.
Ông trƣởng thôn xuất thân là anh đánh xe
ngựa, một bên chân bị tật bẩm sinh nên không phải
vào lính. Anh ta xuôi ngƣợc từ thị xã lên các vùng
trung du chở nông thổ sản, cá mắm. Có lúc ngƣời
ta nghi anh tiếp tế cho Việt cộng, bắt giam mấy
ngày để hỏi cung nhƣng không lần ra tang vật, lại
phải thả ra. Bƣớc ra khỏi trại tạm giam anh cƣời
khẩy: “Mẹ cứt, tụi liếm gót giày đế quốc”.
Ngƣời du kích chỉ ông ngồi xuống chiếc
đẩu trƣớc bàn trƣởng thôn. Ông Chấn chƣa kịp
chảo hỏi thì đƣợc nhận ngay một tràng giáo huấn
phủ đầu: “Ông khai đi. Ông tƣởng cách mạng,
nhân dân không biết việc làm của ông sao? Đấy là
hành động chống đối lại chánh sách cách mạng.
Thử hỏi ông, gà heo là của hợp tác xã, tức là của
108 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
nhân dân. Ông lấy đâu ra những thứ đó để tiệc
tùng nếu không phải là ăn cắp? Cách mạng đã dẹp
bỏ những hũ tục cƣới xin. Ăn uống tiệc tùng tức là
ăn uống mồ hôi nƣớc mắt của nhân dân, là bóc lột
nhân dân, ăn cắp của nhân dân...”. Hắn ta nói
nhiều. Tai ông ù lên, mắt hoa. Nƣớc mắt ông chảy
dài. Phải chi ông là tên ăn cắp thứ thiệt, đằng này
con gà nhà ông nuôi trong vƣờn lại biến thành con
gà của nhân dân. Bà con chòm xóm góp tem phiếu
để ông mua hai ký thịt lèo nhèo những mỡ đãi họ
gái thì gọi là bóc lột nhân dân. Cái mụt măng nấu
lẫn với thịt heo kia, nếu nó biết nói hẳn sẽ kêu lên
rằng nó là chút chít từ thời ông cụ kỵ tằng tổ gì đó
trồng chớ có thấy nhân dân nào thọc tay vô đâu?
Nhƣng giờ ông trƣởng thôn đã nói vậy thì phải cúi
đầu nghe theo. Ông trƣởng thôn là đại diện cho
nhân dân, mà nhân dân là cách mạng, cách mạng
không có tay chân hình hài nhƣng là cái bóng to
lớn bao trùm cả bầu trời này! Ông không nói đƣợc.
Ông khóc.
Trƣởng thôn ngó sát mặt ông: “Nhƣ vậy là
ông đã nhận ra tội lỗi, biết ăn năn. Khóc tức là ăn
năn hối cải về những lỗi lầm tự mình gây ra, tức
thị trƣớc đây chƣa giác ngộ, tƣ tƣởng chƣa thông...
Ông ngồi viết bản kiểm điểm đi”.
Trong khi ngƣời cha ngồi ở trụ sở nhân dân
thôn viết kiểm điểm thì Cán đã đánh cộ bò ra sân
kho chuẩn bị chở lúa về nhập kho. Ba sáu chiếc cộ
sắp ngay hàng trên nền gạch sân kho giống nhƣ
109 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
những cỗ xe tăng trong lễ duyệt binh. Chúng
nghếch hai chiếc sừng cong hƣớng về phía kho
trung tâm, mõm đƣa qua đƣa lại nhƣ đang ôn lại
bài hát quân kỳ chút nữa đây sẽ cất lên.
Khi ba sáu chiếc cộ bò đã chất đầy những
bao lúa căng phồng, tổ trƣởng ký biên bản giao
nhận và ra lệnh đoàn cộ lên đƣờng, thành một
hàng dài thẳng tắp, kéo về kho chính của hợp tác
cách đó không xa lắm.
Tổ trƣởng cũng là xã viên nhƣ ai, không
phải kẻ “ngồi mát ăn bát vàng”, vì vậy tổ trƣởng
cũng kê vai đỡ đủ hai mốt bao lúa nặng hàng tấn, ì
ạch vác vào kho. Khốn nỗi, thân ông thì gầy còm,
thấp nhỏ nên bao lúa trên vai không với tới những
tấm ván chặn trƣớc cửa kho. Mấy lần ông suýt ngã
quỵ. Lại thằng Cán phát hiện trƣớc tiên, nó kêu lên
“anh Sáu! Để đó cho em”. Tiếng la của nó nhƣ
tiếng hô xung phong khi tiến chiếm mục tiêu ngoài
mặt trận khiến ông sững lại, bao lúa nặng trên vai
đang đƣa tới bỗng bị dừng bất ngờ làm cho vai ông
sụm xuống, té nhào. Anh em đỡ ông dậy. Cán kêu
anh ngồi nghỉ, để tụi em. Cán hì hục lôi đủ hai mốt
bao lúa lên tít đọt cao rồi xổ ra. Nó lại gom tất cả
các bao rỗng bỏ vào thùng cộ, kéo anh Sáu đứng
lên đánh bò về.
Cán không về thẳng nhà mà rẽ vào nhà anh
Sáu, giúp mở bò dắt vào chuồng, rút rơm cho vào
máng, lại ra giếng xách nƣớc đổ vào thùng. Lúc
nhìn thấy chị Sáu cầm những bao rỗng trên tay, nó
110 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
hấp háy cƣời cƣời. Ông không hiểu chuyện gì. Đến
khi vợ ông kêu lên:
“Sao lúa còn trong bao nhiều dữ vầy?”.
Ông quay lại nhìn Cán, nó tỉnh bơ:
“Là em để lại. Thằng cha nào khi nhập kho
cũng nắm lấy hai đáy bao và giữ lúa lại. Tội nợ gì
anh. Của nhân dân mà”.
“Các chú làm nhƣ vầy bao lâu rồi?”.
“Chuyến nào cũng có”.
“Là ăn cắp của xã viên?”.
“Anh thông suốt đƣờng lối chánh sách, nắm
vững cái nhân dân khổng lồ rồi đó” – Nói và Cán
nở nụ cƣời thật rộng – “Anh chƣa biết đâu, cách
đây bốn hôm, thay vì kéo thẳng về kho, thằng
Tổng đánh bò chạy thật nhanh và trút cả cộ vào
nhà ông phó chủ nhiệm đó. Còn trƣớc nữa thì có
trời biết đã có bao nhiêu cộ lúa vào nhà ông chủ
nhiệm, kế hoạch, kiểm soát... Mỗi cộ nhƣ vậy cũng
trên dƣới hai tấn chứ ít sao anh, của nhân dân
mà!”.
Nghe giọng nói thong thả, đều đều của
thằng em lối xóm, tự dƣng đầu ông đau nhức nhƣ
búa bổ. Kiểu này thà ông bán bò, bán cộ ra đồng
cắm mặt xuống bùn sình coi bọ đỡ xấu hổ hơn.
Ông nổi giận thiệt tình, giận dữ đập tay xuống bàn:
“Chú mang số lúa kia đi đi”.
Cán hỏi lại:
“Mang đi đâu, anh?”.
“Tôi không biết. Chú mang ra khỏi nhà tôi
ngay”.
111 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Cán lẳng lặng đứng lên, ra sân gom hết số
bao quăng lên cộ mình rồi đánh bò đi, không thèm
nói tiếng phải trái với ông.
Ba ngày sau, ông lên ban quản trị hợp tác,
nại cớ đau bệnh, giao cả bò lẫn cộ cho ngƣời khác,
mặc dầu ông tiếc đứt ruột.
Suốt mấy ngày liền Cán không dám tới nhà
anh Sáu. Tổ cộ bò cũng không thấy kế hoạch phân
công vận chuyển. Cán nằm nhà giỡn với cô vợ trẻ
trong thời kỳ đầu mất kinh. Cán xoa xoa bụng vợ
qua lần vải áo: “Em đẻ cho anh một thằng nhân
dân thiệt ngộ nghen”. Cô vợ thốt lên “con nít”. Hai
ngƣời vít đầu nhau muốn hôn nhƣng không dám,
vì lúc đó đang đứng giữa vƣờn trống. Cán buông
vợ ra, nói: “Để anh qua nhà anh Sáu coi sao, với
lại tối nay kêu ảnh ra rừng dƣơng kéo cành lá khô
cho lò rƣợu ba Dinh kiếm ít đồng”.
Cán thập thò ngoài cổng một lúc mới dám
bƣớc vào. Anh Sáu đang lui cui chẻ lạt ở đầu hiên
nhìn thấy nó nhƣng giả lơ. Cán xán tới, ngồi bệt
xuống đất:
“Thôi mà anh Sáu, giận chi em”.
Im lặng.
“Tụi ngồi trên ban quản trị đứa nào cũng
nhân danh nhân dân. Thơm tho lắm, nhƣng thằng
cha nào cũng tham. Tụi em phát hiện cái cân bàn
rồi mới dám làm. Tay thủ kho hễ xuất lứa thì mở
nắp hộp cân bỏ vài cục sạn nhỏ trƣớc khi cân; còn
nhập vào thì hộp quả cân trống trơn. Số lúa thừa
112 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
trong kho ai ăn? Lúa nhân dân mà. Chia nhau.
Chia nhau hết. Khỏe ru. Bởi vậy thằng Tổng mới
dám kéo lúa về thẳng nhà phó chủ nhiệm chớ. Mà
phó chủ nhiệm ăn thì không lẽ chủ nhiệm ngồi
nhìn. Của nhân dân, nhân dân ăn tuốt. Khỏi lo”.
Anh Sáu gác cán rựa lên chiếc đòn kê:
“Chú chớ có nói những chuyện đó với tôi.
Tôi không muốn nghe nữa”
“Thôi bỏ. Nhƣng tối nay em có mánh. Là
xuống rừng dƣơng kéo vài cộ lá cành về cho mấy
lò rƣợu lậu. Họ đặt hàng rồi. Anh đi với em?”.
“Không, chú đi đi. Tôi giao cả bò lẫn cộ
cho hợp tác rồi” – Anh sáu vùng vằng, trong khi
Cán mặt tái đi, vì lần đầu tiên Cán nghe nói anh
Sáu giao lại cả cộ lẫn bò. Cán không dám nhìn ra
chuồng, không nói thêm lời nào nữa, lặng lẽ đứng
dậy ra về, không chào.
*
Vợ Cán từ nãy giờ cứ nhìn sững vào mặt
anh Sáu cố giấu lòng thƣơng cảm xót xa với ngƣời
ngồi đối diện, lúc này mới lên tiếng:
-Chị mất rồi anh sống thế nào? Còn mấy
đứa nhỏ đâu không thấy?
Ông thở đánh sƣợt, giọng kể lể:
-Từ ngày vợ chồng chú biệt tích, tôi giao bò
giao cộ cho hợp tác ra đồng nhƣ những xã viên
khác. Làm cật lực cũng chỉ đủ nhét mấy cái bao tử
khỏi sôi réo. Hai thằng con thấy cảnh khó khăn,
túng bấn vừa cố học vừa phụ giúp cha mẹ, nhƣng
113 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
cũng chỉ nhƣ “gió vào nhà trống”. Đƣợc cái chúng
học giỏi. Thằng trƣớc thi đậu vào đại học, giấy gửi
về địa phƣơng, bốn tháng sau mới tới tay, coi nhƣ
trễ. Năm sau nó lại thi đậu lần nữa, cũng vừa đúng
lúc có giấy gọi đi nghĩa vụ. Lại mất hai năm. Lại
thi, lại đậu nhờ nó khôn ra, ghi địa chỉ ở nơi khác
dƣới thị xã. Cầm tờ giấy báo đỗ, nó mừng nhƣ
ngƣời chết sống lại, mua vé xe đi ngay vào trƣờng.
Nhƣng khốn nỗi, địa phƣơng không chịu cắt khẩu
về trƣờng, nói là “thi lậu”. Vợ tôi lại lục dƣới đáy
rƣơng lấy ba chỉ vàng cuối cùng mang xuống xã
đút lót, nài nỉ mới êm. Thằng sau may mắn hơn,
không còn cảnh trù ếm nhƣ trƣớc. Cả hai giờ làm
trong Sài Gòn.
Cán cắt ngang:
-Anh sống một mình, xoay trở làm sao?
-Chừng này tuổi, có còn nhu cầu gì nữa đâu
chú. Con cái thành đạt tôi mừng.
-Em nghĩ anh vào sống với các cháu là ổn
nhất – Vợ Cán nói.
-Chúng có vợ con, có căn nhà nho nhỏ
trong đó rồi, tôi không còn bận tâm, lo lắng gì nữa.
Nhƣng bỏ chốn này vào với chúng thì tôi không
thể. Cô chú biết đấy, nhà cửa của cha mẹ là nhà
cửa của con cái, nhƣng nhà cửa con cái không phải
là nhà của cha mẹ. Rồi tiền bạc của cha mẹ cũng là
tiền bạc của con cái, và ngƣợc lại thì không phải
của cha mẹ. Cô chú có con cũng hiểu chuyện đó
mà.
114 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Ông im lặng hồi lâu mới ngập ngừng hỏi
Cán:
-Chú nói tôi nghe, cái hồi vợ chồng chú kêu
đi kéo rác dƣơng đó là chú rủ tôi đi vƣợt biển?
Cán cƣời nhƣng nụ cƣời không tròn:
-Suýt nữa chết mất xác. Bữa đó vợ chồng
tôi đánh cộ ra khu Long Hà, nơi vắng nhất chỉ vì
sợ kiểm lâm bắt đƣợc thì chết. Không ngờ khi tới
nơi, sát mé biển hai vợ chồng đi cào rác. Cào đƣợc
phần cộ thì gặp đống rác lớn nhƣ của ai để sẵn. Vợ
tôi nói của ngƣời ta dừng đụng tới. Còn tôi thì
nghĩ, của nhân dân, tội nợ gì và cào bừa. Cào hết
lớp rác mặt thì đụng ngay những can dầu chất
đống. Tôi giật mình, nhƣng muộn rồi. Mấy thanh
niên từ phía rừng dƣơng dày bịt xuất hiện. Đêm tối
nhờ nhờ không nhìn thấy mặt. Cả mƣời mấy ngƣời
ập đến, áp vợ chồng tôi vào gốc dƣơng, dùng khăn
nhét vào miệng. Một toán khác đứng phía xa thầm
thì gì đó. Cuối cùng thì nghe tiếng lộp bộp khua
nƣớc và tiếng sóng. Một toán giữ chặt chúng tôi,
toán kia chuyển những thùng dầu đi. Tôi hiểu ra
tất cả. Họ làm rất nhanh. Loáng một cái số can dầu
hết sạch. Lúc này có tiếng hỏi: “Xử trí sao đây anh
Hai?”. Ngƣời kia trả lời: “Theo phƣơng án ba”.
Nghe vậy tôi nghĩ chắc cả hai sẽ chết hoặc chí ít
cũng bị cột chặt vào gốc dƣơng trƣớc khi có ngƣời
phát hiện. Ngƣời đƣợc gọi là “anh Hai” tiến lại chỗ
tôi, dùng tay nhét chặt hơn chiếc khăn vào miệng,
ôn tồn: “Anh chị thông cảm. Sự thể nhƣ thế này thì
không có sự lựa chọn nào cho anh chị cả. Anh chị
115 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
cùng lên tàu với chúng tôi, mặc dù chúng tôi biết
anh chị không muốn nhƣ thế. Còn thả anh chị ra
lúc này rất có thể tụi tôi bị bắt ngay khi mới ra
cách bờ vài hải lý. Lúc này không thể tin ai nổi.
Anh chị thông cảm. Thôi sống chết đều có số cả.
Lên tàu. Sống cùng sống. Chết cùng chết”. Nói và
ông ta hất đầu ra hiệu cho toán ngƣời đẩy vợ
chồng tôi xuống bãi và lên tàu... Vậy là từ anh kéo
cộ bò bỗng trở thành kẻ phản bội, chạy theo đế
quốc... rồi thành Việt kiều yêu nƣớc...
Nói xong Cán ngửa mặt cƣời ha hả, cƣời
đến chảy nƣớc mắt.
-Cô chú biết không, sự mất tích đột ngột
của cô chú khiến cả xã, cả huyện nhƣ đang ngồi
trên đống lửa vì mất thành tích an ninh chính trị
địa phƣơng. Đủ mọi thông tin và thông tin chắc
chắn nhất là cô chú vƣợt biển khi công an tìm ra
manh mối chiếc cộ bò gần đó cùng mùi dầu trên
cát. Họ rần rần tới nhà chú tra hỏi ông bà cụ cùng
bằng chứng cả đám ngƣời dƣới phố đi đêm đó, nên
ông bà bị đuổi ra khỏi nhà, tịch thu theo diện con
cái bỏ trốn ra nƣớc ngoài, giao lại cho tay phó thôn
phụ trách an ninh. Hai ông bà uất quá sinh bệnh,
chết cách nhau vài năm. Cả xóm tới lo hậu sự mà
lấm la lấm lét nhƣ đi ăn trộm. Thật tội nghiệp.
Cán bật khóc, vợ Cán cũng khóc mùi mẫn:
-Vợ chồng em có tội với ông bà cha mẹ.
Một lần ruộng đất của cải phải hiến cho nhân dân.
Lần sau lại bị mất nhà cửa vào tay nhân dân. Mệnh
số chi mà lạ lùng nhƣ vậy? Lần này vợ chồng em
116 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
về xin trú tạm với anh mƣơi ngày để lo xây phần
mộ cho ông bà cụ, coi nhƣ để trả nợ hiếu nghĩa
cho cha mẹ. Anh giúp em lần này.
-Nghĩa tử là nghĩa tận. Thôi, cô chú đừng
khóc nữa. Cứ tạm tin vào cái số đi. Nghe việc này,
tôi chắc hai bác nở nụ cƣời tƣơi nơi chín suối.
Đúng ngày thì tối thui mà đêm thì lại sáng trƣng.
Nhân dân ơi, xin chào
1.Bốn Lợt đang là nhân dân, đang là hột cát
nhỏ, rất nhỏ trong hòn đá tảng, là tế bào tí xíu
trong thân cây mấy ngàn năm tuổi. Ngày xƣa ông
lú lấp đâu đó giữa hàng đống nông dân. Bây giờ
cái mác nông dân bị bóc ra, dán tem mới, tem nhân
dân.
Và lúc này nhân dân bốn Lợt đang đứng
trên bờ ruộng, bên này con mƣơng nƣớc, trên đôi
chân run run, cảm thấy ngực mình xẹp xuống, hai
lá phổi tan vỡ từng mảnh vụn, bay lên không
trung, mắt đục xám, xƣơng sƣờn, tay chân cũng
tan ra từng mảnh. Cây gậy củ tre láng bóng chịu
tất cả sức nặng bắt đầu tan ra đó, lún xuống, cong
oằn nhƣ thể những cây lúa thì con gái đang dập
gãy. Những thửa ruộng chìm sâu bên dƣới quả núi
cát khổng lồ ùn ùn bay tới. Cây lúa thì con gái bị
hãm hiếp. Cánh đồng mơn mởn xanh cũng bị hãm
hiếp. Máu từ háng, từ nách, từ rún đến cả miệng,
mắt mũi ròng ròng chảy. Chảy lênh láng, vón cục
thành đống cát cao nghệu. Đống cát cao kia dính
117 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
máu đỏ bầm, chính là thằng hãm hiếp cây lúa,
cánh đồng. Tiếng lẹp nhẹp nhấn xuống, đẩy mạnh,
nhấn lút, đẩy mạnh sâu hơn nữa, phát ra âm thanh
lóc chóc, lóc chóc... Tiếng lóc chóc dãy dụa quẫy
đạp. Nƣớc tứa ra. Màu nƣớc máu đen từ háng, từ
rún phụt ra, phụt thành vòi cao. Những mái tóc
xanh, những thân hình non nớt chìm nghỉm trong
cái màu nƣớc đen, dƣới sức đè của thằng khốn
khiếp.
Bốn Lợt cƣời ha hả, cƣời khằng khặc nhƣ
điên nhƣ dại khi nhớ lại ngày xƣa ngƣời lớn ở làng
này thƣờng ví von cánh đồng làng An Phổ giống
cái mông tròn của cô gái dậy thì. Mông đàn bà thì
luôn hấp dẫn với đám ngƣời có cặp mắt hau háu cú
vọ. Lại là mông cô gái hơ hớ tuổi xuân, nên làm
nhiều anh lé mắt, lé mắt và nhểu nƣớc miếng. Duy
nhất chỉ có những anh bị thiến, những tay cù bơ cù
bất mới không tơ tƣởng, hay không dám tơ tƣởng
đến chuyện đƣợc choàng tay sờ soạn, giữ rịt làm
của riêng. Dân trong làng và các xứ khác chết mê
chết mệt bởi cái mông ấy. Nó xanh mƣớt màu
xanh ngọc bích. Nó vàng ruộm màu vàng ròng dát
trên các pho tƣợng nữ thần trong ngôi đền thiêng.
Đƣợc nằm gối đầu lên mông, một lần thôi cũng đủ
ngửi mùi hƣơng lạ, mùi thơm của đất trời tụ lại
ngan ngát mùi bồ kếp, lá chanh, bông bƣởi trộn
lẫn, một thứ hƣơng thơm lạ lùng, hiếm thấy trên
cõi đời này, làm say nức từ ông lão sắp xuống hố
chí đến đứa trẻ mới tập đi. Ngƣời ta sống không
thể thiếu nó, thèm thuồng vì nó. Ngƣời ta ghen tức
118 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
vì nó, bởi dân làng này đƣợc sở hữu một cái mông
tròn mênh mông rộng, cong mẩy, nằm vểnh giữa
một bên là khúc sông Diễn, bên kia là cánh núi
hình cung choàng tay ôm ấp, vuốt ve suốt đêm
ngày, năm tháng.
Vậy mà giờ này cái mông ấy bị hãm hiếp
đến nát tan, bị đứa hiếp dâm nuốt chửng vào bụng,
bảo làm sao tim ông không vỡ vụn ra từng mảnh
nhỏ, bay lên trời cao, bay vào cõi mù tăm vô tận?
Cây gậy củ tre cong thêm chút nữa. Ông
sắp khuỵu xuống mất rồi, cũng sẽ tan theo cái
mông bị nhấn lút lần hồi kia thôi.
Đám quái vật thời cơ khí, ào ào chạy qua
mặt ông gào rống, giống nhƣ những tên cƣớp
ngày, tung bụi mù mịt, ném vào mặt ông những cái
tát bầm bập. Nó xịch tới xịch lui trên chiếc mông
nát tan thành trăm ngàn mảnh vụn, rồi đè nghiến
lên chiếc mông tròn của cô gái yêu làng An Phổ,
chổng đít ỉa từng đống lớn rồi hối hả bỏ chạy. Tốp
khác lại ập đến, lại chổng đít. Ông nhƣớng mắt
nhìn mà thấy nhƣ chúng đang ỉa vào mặt ông, tới
tấp ỉa vào mặt ông. Tội nghiệp cô gái yêu của làng.
Khốn khổ thay cô gái yêu của làng bị hãm hiếp
trƣớc sự bất lực của nhân dân.
Bụi trùm kín đƣờng về. Những con quái vật
nối đuôi lao tới. Cuộc chiến không cân sức tiếp tục
giữa một bên là cô gái yếu đuối bị đè ngửa nằm
bất động và bên kia là những tên cƣớp có sức
mạnh gấp mấy chục thần Hercules nối lại. Nƣớc
119 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
mắt ông chảy dài. Cây gậy trong tay ông cũng
chảy nƣớc mắt.
Vào đến đầu làng, bốn Lợt chạm mặt
trƣởng thôn Mạnh. Trƣởng thôn có khuôn mặt méo
một bên, luôn luôn đỏ nhƣ vừa từ trong hũ rƣợu
bƣớc ra. Trƣởng thôn ngó ông già, đón lại:
-Lại ra đầu đƣờng nữa chớ gì?
Ông già đƣa cây gậy củ tre lên hƣơ hƣơ nhƣ
thay câu chào mà cũng nhƣ sắp bổ xuống đầu
trƣởng thôn. Nhƣng cây gậy củ tre không ngẩng
đƣợc lâu. Nó từ từ rớt xuống, lƣng lửng giữa thắt
lƣng rồi lại cắm đầu xuống đất. Ông ngó trƣởng
thôn bằng cặp mắt có đám bụi bám trên hàng lông
mi màu trắng.
-Giỏi, chú lại theo dõi tôi.
-Ông mà cứ gào rống, tôi không tha.
- Thì sao? – Ông già nhƣớng cặp mắt có
hàng lông mi nhuộm trắng bụi.
-Ông đi vận động nhân dân trong thôn
chống lại chính sách của trên. Ông muốn tƣ hữu,
ông muốn cả thôn cứ chổng đít lên trời, mặt cắm
xuống bùn đen miết sao? Nông dân. Nông dân là
cái củ kít gì. Một năm làm ra đƣợc bao nhiêu sản
phẩm cho làng nƣớc? Trên đã giải thích nhiều lần
rồi. Chỉ có công nghiệp hóa nông thôn thì dân mới
giàu, nƣớc mới mạnh. Ông hiểu ra chƣa? Chỉ có
những cái đầu bã đậu mới không nhận ra điều này.
Trên luôn luôn sáng suốt. Chỉ có những cái đầu bã
đậu là ngu tối.
120 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
-Biết chớ sao không? Mang cả hàng trăm tỉ
bạc của nhân dân lên núi, thuê xe ũi, xe xúc vẩy
càng đâu mƣơi mẫu, liền giăng cờ gióng trống,
quay phim chụp ảnh ca ngợi thành tích khai hoang
ruộng nƣớc cho đồng bào thiểu số. Thành tích lớn
lắm. Nhân dân lại đứng mũi chịu sào cho cái thành
tích ấy. Vậy chớ mấy chục mẫu thƣợng đẳng điền
đây, phải mất mấy trăm năm mới thành khoảnh?
Mồ hôi nƣớc mắt và cả máu nữa. Đổ ra bao nhiêu
mới có con đập dẫn nƣớc tƣới tiêu hoàn chỉnh, nay
đem phá đi?
-Phá? Sao lại pha…á á… - Trƣởng thôn trợn
ngƣợc mắt.
-Không phá sao tự dƣng lấp ruộng lập khu
công nghiệp?
-Ông đúng là đồ bã đậu – Trƣởng thôn nhổ
phẹt bãi nƣớc miếng quày quã bỏ đi. Bỏ đi thẳng
không thèm ngó lại. Ông già nói nhóng theo:
-Có chúng mày là đồ ngu, đồ bã đậu. Khu
công nghiệp thì làm đâu chẳng đƣợc. Thiếu mẹ gì
những khu đất khô cằn, lại đi lấy cây lúa, vánh
đồng màu mỡ đỡ đít khu công nghiệp? Tiền đền bù
mỏng dính chỉ ba ngày là sạch. Họ làm gì với dúm
tiền lẻ, thứ của bố thí đó? Chuyển đổi cái con mẹ
chúng bay! – Ông già cũng nhổ phẹt bãi nƣớc
miếng, nhƣng bãi nƣớc miếng không rơi xuống
đất, nó dính toòng teng giữa hai môi thâm đen nhƣ
cái câu móc níu dính lại. Cái móc câu ấy nhƣ
muốn khuyên: ông đừng có há miệng ra nữa.
121 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Về tới nhà ông thấm mệt. Mệt không phải vì
đƣờng xa, vì đôi chân già nua. Ông mệt bởi vừa
sáng đã gặp thằng thổ tả chận họng. Cái mặt méo
câng câng. Đầu tóc luôn bôi mỡ đến con ruồi vừa
chạm lên cũng trƣợt té nhào. Và nhân dân nữa,
cũng bị coi nhƣ lũ ruồi không bám đƣợc trên mái
tóc bôi mỡ của thằng mặt méo. Chân chƣa chạm
đã trƣợt ngã, sức đâu mà cản ngăn. Nhân dân đâu
dám cản, chỉ là tấm đệm lót, là những chiếc ghế
đẩu để chủ nhân xê dịch, ngồi lên. Ngồi lên và còn
đái són, địt tũn vào mặt ghế đẩu. Nhân dân đƣợc
tung hê lên mây xanh và nhân dân lãnh đủ. Ông
ấm ức nhƣng ông chỉ là một hột nhỏ, rất nhỏ trong
tảng đá khổng lồ kia thôi. Chịu phép!
2.Ông già thọc gáo dừa vào khạp nƣớc.
Nƣớc cạn đáy. Chiếc gáo khua rồn rột vào thành
khạp. Âm thanh khô dòn, vê tròn lại nhƣ một ấm
ức không bay ra khỏi ngƣời. Ông ném gáo vào
khạp. Cán gáo quay tròn nhƣ cái chong chóng,
quay một vòng mới chịu đứng yên. Ông trở ra
thềm giếng đƣa tay kéo cần vọt, thòng xuống
giếng. Chiếc gàu thiếc lủng nhiều lỗ dƣới đáy.
Chiếc gàu kéo lên khỏi thành, nƣớc tòe tròn nhƣ
vòi sen. Kéo qua khỏi thành chỉ còn nửa gàu. Một
tay vịn sào cần vọt, tay kia hứng những giọt nƣớc
rớt rửa mặt. Lại thòng gàu vục xuống giếng, kéo
lên và xối chảy ồ trên hai mu bàn chân. Nƣớc mát
làm ông tỉnh táo. Cái thằng mặt méo ó đâm,
chuyên rình trộm và tâu báo. Mà mọi ngƣời trong
122 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
làng này làm gì đến nỗi nguy hại chớ. Cái khẩu
hiệu “dân biết, dân bàn…” nhƣ tờ vàng mã dán
trên cổng chuồng heo, chuồng bò mỗi dịp năm mới
cúng ông chuồng bà chuồng chắc. Bàn cái củ đếch.
Mới mở miệng ra nó kêu phá hoại thì còn bàn nỗi
gì? Mà có bàn đến lƣỡi nát nhão ra cũng vậy thôi.
Ai nghe theo nhân dân? Chỉ có nhân dân là bị xỏ
mũi nhƣ xỏ mũi bò dắt đâu chạy đó. Trì kéo lại thì
rách lỗ mũi. Lỗ mũi mà rách thì máu mình chảy,
thịt da mình đau, lƣỡi mình nát…. Chạy theo. Cứ
chạy theo. Nhắm mắt chạy theo? Chạy lên núi,
nhảy xuống biển, nhảy vào lửa, chun vào gai…
Ông cụ tổ nhà mày. Tao gào rống đấy, làm gì tao?
Tao gào rống chớ không cầm cây đánh lại chúng
mày thì làm gì tao? Ông trời cho con ngƣời cái
miệng. Cái miệng không mở ra, không nói là câm.
Miệng sẽ thúi nhƣ củ hành thúi. Nói vậy, gào vậy
đến trời xanh còn động lòng. Chỉ có lũ mày là đá,
là hòn đất, cứt đái không biêt đầu đuôi để suy xét
thiệt hơn…
Ông nổi giận nhƣ thể có thằng mặt méo
đang đứng trƣớc mặt. Chừng miệng khô đắng, ông
mới thấy mình vô lý. Đi nói với cây gậy củ tre thì
ích gì. Nó đâu có gây ra chuyện, nó luôn đỡ bƣớc
đi rệu rụm của mình mà? Ông mệt và bƣớc tới
phiến đá nhẵn kê sát gốc mận ngồi thở dốc. Mả mẹ
thằng mặt méo. Ông lầu bầu, giở gói thuốc ra, nghĩ
sao lại nhét vào túi. Lại lôi ra rồi vo tròn, ném
mạnh ra xa, nhƣ thể ném vào thằng mặt méo.
123 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Chó sủa ngoài ngõ. Giỏi lắm, vào đây mặt
méo. Ông cho một gậy u đầu nhƣ cái sừng trâu.
Cặp mắt hom hem có những sợi lông bạc nhƣớng
lên. A… lại thằng ba Thể. Gì nữa đây? Làng này
ai không biết mày xung phong đăng lính. Đăng
lính để xách súng về rƣợt thằng chú nhà mày
lƣơng lẹo mất ba sào ruộng ông bà chia cho. Rồi
mày có bắn nổi chú mày không? Hay cuối cùng
mày tự bắn vào chân để tìm cách giải ngũ? Mày tự
móc thịt da mày ra, vậy mà có ai tha thứ mày
không? Ra tòa án binh, ngồi tù. Ngồi tù chán thì ra
lao công đào binh. May mà mày chƣa chết. Súng
đạn tha mày. Cách mạng không nhắm vào đầu mày
bắn vỡ làm trăm mảnh, quốc gia cũng không nỡ
hành hạ mày chết thảm. Vậy mày biết ơn. Mày đi
vận động bà con giao lại thẻo ruộng để làm khu
công nghiệp. Cái miệng dẻo quẹo của mày khiến
bà con mềm lòng. Một ngƣời ký đơn thì hai ngƣời
ký, rồi ba, rồi mƣời. Giỏi. Dân vận giỏi. Mày còn
bày ra trò tao chống đối chánh sách để xã kêu,
huyện kêu, tỉnh áp giải. Tao chỉ nói cái “dân bàn”.
Không cho “bàn” thì tao rống, tao gào chớ có cầm
cây gậy củ tre đánh vào đầu lũ chúng mày đâu?
Mẹ đời! bà bảy É đấy. Cả đời không chồng
con, chỉ có hai đôi nừng với lùng tùng xèng kim
chỉ, dầu mỡ, kẹo cốm chắt mót từng đồng để mua
sào ruộng làm phần thực, để sau này giao cho đứa
cháu nhận giỗ tự cho bà. Là cách phòng xa hƣơng
khói, để vong linh khỏi vƣớng vất lạnh lão nơi đầu
truông cuối xóm; để bà không trở thành con ma
124 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
đói. Đấy, cái sào ruộng bảy É mua kia ai không
biết bà nhịn ăn? Một muỗng gạo ăn hai ngày. Mày
nhớ coi. Cả làng này ai không nhớ cái cảnh con cá
trê bà mua về, rộng vào thùng nƣớc. Ngày đầu
cầm dao cắt phần đuôi tí bẻo nấu canh, phần còn
lại thả vô thùng. Nó quẫy mạnh nhƣ từ máy chém
trở về. Máu loang ra nhuộm đỏ nƣớc. Ngày sau nó
bị bắt lên đoạn đầu đài, bị tùng xẻo chút xíu nữa,
ngày sau thêm chút, mỗi ngày một chút thịt xƣơng
chỉ còn trơ khất cái đầu và hai cái ngạnh cùng mấy
cọng râu thòi ngửa lên mặt nƣớc… Chung số phận
với con cá trê là trái thu đủ trƣớc sân, mỗi ngày
xẻo một miếng nhỏ. Phần còn lại đau quá nó khóc,
khóc cho đến khi còn cái cuốn vẫn khóc. Nƣớc
mắt trắng đục rớt xuống. Nó khóc tới chiều vẫn
còn chảy nƣớc mắt. Trái thu đủ và con cá trê bằng
cƣờm tay ăn cả tuần chƣa hết. Ăn chƣa hết một
con cá bằng cƣờm tay con nít cả tuần, nên mua
đƣợc sào ruộng. Sào ruộng ấy bà cƣớp giựt, lƣơng
lẹo của ai? Vậy mà sau hợp tác, góp của góp công
làm ăn chung, sào ruộng tự dƣng biến mất, chia
cho mảnh khác bằng đít trâu ngoi. Nhƣng rồi vũng
trâu ngoi ấy cũng không yên, bị lật sấp cạp vào
mông, rồi lật ngửa bắt dạng háng để hãm hiếp.
Mấy trăm con cá trê và bao nhiêu những hột muối
mặn chát bị lật ngửa ra, bị nhồi dập thành mây
khói, bay thẳng.
Mày còn nhớ cây duối đứng ở đầu gò Tơ
không? Hồi đánh Mỹ, nó đƣa bụng ra hứng chịu
không biết bao nhiêu là đạn của hai bên: đạn súng
125 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
máy, súng cối, cà nông, đại liên, tiểu liên, mìn, lựu
đạn… xối xả găm vào ngƣời nó. Thân hình nó bị
băm vằm y nhƣ mảnh đất cày. Ngƣời ta lại đóng
đinh lên ngƣời nó, móc khẩu hiệu, lá cờ. Hai bên
thi nhau vẽ khẩu hiệu treo cờ. Treo lên, giật xuống,
giật xuống rồi lại treo lên. Nay cờ màu vàng, mai
cờ màu đỏ thay phiên nhau đứng trên mình nó. Nó
giơ cao những tấm khẩu hiệu, giơ cao những lá cờ
và ôm chặt những mảnh đạn của hai bên vào
ngƣời, sâu trong ngƣời. Máu chảy ròng ròng.
Không phải máu màu đỏ, chỉ là một chất lỏng sền
sệt, nhờn nhợt đục. Nó cũng đau nhƣ con ngƣời.
Nó chảy máu nhờn nhợt đục nhƣ cốt tủy từ trong
ngƣời nó tuôn ra. Vậy mà nó đâu có chết. Nó sống
nhăn răng. Hết chiến tranh, cành nhánh mọc ra tua
tủa, che mát một khu đất lớn cho lũ trẻ chận bò
ngồi đánh bi, xóc đũa, nhảy cờ chuông… Mùa
tháng Tƣ trái chín đặc cành, vàng ruộm, tụi trẻ
tranh nhau trèo lên suốt bỏ đầy mũ. Tụi trẻ con vui
với những chùm trái chín vàng, hỉ hả với những
cành sà thấp để chúng bấu tay vào, nhún chân bay
lên không, sà xuống đất. Nó tƣơi tốt, vòm nhánh
tủa ra nhƣ làn tóc mây, thân nó mây mẩy nhƣ đứa
con gái một con… Cả làng này ai không nhìn
thấy? Vậy mà từ khi vào hợp tác, ông kế hoạch
lƣợm trái cà nông thúi treo lên làm kiểng lệnh.
Nhân dân đƣợc điều hành bằng tiếng kiểng lệnh
này. Sáng ra đồng: kiểng; trƣa hết chuyện: kiểng;
xế ra đồng: kiểng. Chiều tắt nắng lại kiểng; tối
kiểng họp hành, kiểng mít ting, kiểng ăn chia công
126 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
điểm… Kiểng, kiểng… ngƣời dân phản xạ theo
tiếng kiểng Pavlov. Kiểng chi phối toàn bộ sinh
hoạt của nhân dân trong ngày, chỉ còn thiếu tiếng
kiểng để nhân dân đồng loạt leo lên giƣờng ngủ,
ôm đít vợ là thành một quyển kinh âm thanh cho
một giáo phái mới nữa thôi!
Nhƣng mà, lạ. Tại sao nhân dân chịu đựng
đƣợc tiếng kiểng ấy hàng bao năm trời, không ai bị
tâm thần, không ai chết vì tiếng kiểng buốt tai?
Vậy mà cây duối chết đứng bởi tiếng kiểng ngân
vang, rền. Nó chết từ giữa thân chết xuống, rồi lộn
ngƣợc lên đầu. Cành nhánh vẫn xanh đấy, nhƣng
thân thể chết rồi, chết từ từ, lên tới tóc tai. Cuối
cùng, cành nhánh cũng khô oặt, thành một khối
xám xịt? Lũ trẻ con buồn vì không còn chỗ trốn
nắng, đánh bi. Riêng chỉ có cái kiểng là vẫn ngoác
mõm rổn rảng mỗi sáng mỗi tối… đều đều, không
ngƣng.
Ba Thể xán tới, sà xuống ngay gốc mận.
Bốn Lợt chỉ chỉ đầu gậy ra phía xa, ý nói ba Thể
chịu khó ngồi nhích xa ra một chút. Ông không
chịu nổi cái mùi hôi muôn thuở, từ miệng ba Thể
mỗi khi há ra. Không phải mùi cóc chết, cũng
không là mùi thiu úng của thịt cá ƣơn. Nó là cái
mùi tổng hợp của tất cả những thứ xƣơng xẩu, rác
rƣởi vất ra ngoài mƣa nắng lâu ngày đƣợc ủ kín
trong bụng nó phà ra. Hôi không chịu đƣợc!
Ba Thể nhích ra chút, đít kê lên hòn gạch,
gãi đầu:
127 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
-Anh Bốn ơi, anh cứ làm vậy, không khéo
sắp nhỏ liên lụy…
-Cái gì, chú nói sao? Tôi làm gì để sắp nhỏ
liên lụy?
Đắn đo một lát, ba Thể mở miệng:
-Nhân dân có mất chút đất, nhƣng thế vào là
những nhà máy, xƣởng sản xuất… thu hút công
nhân hàng trăm. Lƣơng tháng triệu rƣỡi, hai ba
triệu, cao gấp mấy trăm lần ôm thẻo ruộng nhỏ,
không sƣớng hơn sao?
-Tôi có nói chi đâu. Tôi đồng ý. Nhân dân
cũng bị đồng ý. Có điều là thiếu mẹ gì những khu
đất cằn khô, gát nƣớc… cả trăm mẫu không dùng
lại đi lấy đất ruộng hai vụ, lại là đất thƣợng đẳng
điền để làm khu công nghiệp là sao? Ngày trƣớc
một mẫu ruộng ở khu này, có giá tới hơn ngàn cây
vàng, chú rõ quá mà. Cả khúc “Năm Eo” này có
ruộng đất nào sánh bằng ruộng đất này? Con ngƣời
thì đƣợc sinh ra liền liền chớ đất đai đâu sinh đẻ ra
đất con đất cháu đƣợc?
-Cả làng giờ ai cũng ký đơn, chỉ còn anh.
-Tôi không ký. Tôi nhất quyết không ký.
Chú đừng kỳ kèo vận động vận điếc gì ráo trọi –
Nói và ông giơ đầu gậy có ý bảo ba Thể đi về.
Ba Thể không về. Ba Thể ngồi lại với ông,
không nói chuyện đất đai nữa. Ba Thể lái sang
chuyện khác, kể đông kể tây, nói tuồng nói tích.
Ông quá rõ cái bản mặt nhơn nhơn của nó khi
dông dài. Ông nhổm mông đít lên toan đứng dậy.
Ba Thể lận đâu chai rƣợu trong lƣng quần, lôi ra.
128 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Thấy chai rƣợu màu vàng vàng, mắt ông sáng lên.
Ông có tật xấu, rất xấu là thấy rƣợu thì lòng không
thể dằn xuống. Uống không nhiều, chừng vài ly.
Nhƣng hễ thấy rƣợu là mắt ông sáng lên, lòng
mềm nhũn. Ông thu cây gậy về, ép sát vào thân
mình, nhƣ thể nó là đứa vệ sĩ, tên nhắc tuồng, nhắc
ông rằng chớ để lòng mềm nhƣ con bún thiu.
Ba Thể tự động vào nhà tìm ly. Tìm đƣợc
hai ly hột mít liền quay ra, đặt giữa khoảng cách
hai ngƣời, mở nút, rót rƣợu. Hai chiếc ly vun thành
ngọn. Thơm. Thơm nhƣ hồi xƣa ông đứng ngửi
mùi thuốc Seventy Nine tuôn ra từ cái lỗ đen của
ống vố có hình dạng giống bầu diều con gà ăn no
của thằng Mỹ đen. Ba Thể nâng ly “mời anh”. Ông
bƣng ly nhấp một ngụm nhỏ. Thơm, đúng là rƣợu
ngon. Ông kẹp chiếc ly giữa hai ngón tay, nheo
mắt hỏi:
-Chú tìm đâu ra ngữ này? Chắc của quan
thầy biếu cống?
-Thằng cháu đi Ba Lan về, tặng cho chai
nhỏ. Nghĩ anh sành rƣợu nên mới sang anh. Uống
rƣợu cũng nhƣ Bá Nha với Tử Kỳ vậy.
Thằng này định lái thuyền vô bến đây, ông
nghĩ và cảnh giác, xuống tấn và tung ra ngọn cƣớc:
-Cái vụ vào hợp tác làm ăn tập thể cứ coi
nhƣ bƣớc đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa từ hạ
tầng đi. Hồi đó không ai không dám vô. Không vô
thì bị liệt vào hàng ngũ phản động, bị bắt đi học
tập cải tạo phải không? Tự nguyện vô hợp tác với
cây dùi cui và chiếc còng kín hở sau đít thì đến
129 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Thiên Lôi cũng vãi cứt đái. Vô tuốt. Nhƣng cái hạ
tầng đó nó không “thƣợng” mà ngày cứ “hạ” mãi
nên ngƣời ta mới nghĩ ra khoáng 10, khoán 100.
Cái thời đói khát mù mờ chuông kiểng điếc tai,
khiến nhân dân cũng mê lú để nhảy qua khoáng.
Nhƣng ruộng nhận khoáng không phải ruộng của
chính mình nữa, mà ở đâu đó, của ai đó, gốc tích
mờ mịt; nhƣng nhân dân cũng đƣợc làm chủ, cứ
coi nhƣ cuộc cải cách ruộng đất ở hạ tầng lần thứ
ba. Hết địa chủ, hết phú nông, trung nông, bần cố
nông hết sạch. Chỉ còn nhân dân. Nhân dân đứng
lên làm chủ. Ai cũng nhƣ ai. Mừng. Mừng quá đi
chớ? Ngƣời không tấc đất giờ có đất trong tay.
Sƣớng. Sƣớng đến rụng rời chân tay. Đâu có kiểu
con cá trê bằng cƣờm tay con nít cắt làm nhiều lần,
từng khoanh nhỏ một đến cả tuần, còn lại cái đầu
của nó ngóc lên mặt nƣớc thoi thóp thở để ngó
mảnh ruộng xa xa, để cháu chắt mình sẽ bơi lội
tung tăng dƣới làn nƣớc thơm ngan ngát? Cứ cho
lấy của ngƣời giàu chia cho ngƣời nghèo là hợp
đạo lý. Quá hợp, phải không? Nhƣng sắp tới đây
cái thằng nhân dân cào bằng kia bị cho ra rìa,
ruộng đất thu lại để đƣa cho mấy thằng giàu nứt đổ
đổ vách xây nhà xây xƣởng, kinh doanh. Cái đám
mafia này sẽ “thƣợng” lên, thƣợng tuốt lên trời
cao, còn đám nhân-dân-nông-dân thì sẽ “hạ”, hạ
mãi xuống bùn đen. Nhân dân sẽ mãi chổng đít để
đội cái đám mafia này không biết chừng nào mới
gãy cổ đây!
130 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
-Anh Bốn nói quá đi chớ trên vẫn nghĩ tới
tiền đồ dân tộc: Anh coi, hồi mấy thằng Ngụy nó
có làm đƣợc con đƣờng nhựa, có kéo điện về tận
nông thôn cho dân xài không? Nay nhà nào cũng
có ti vi, máy hát… Đòi sao nữa?
Ly rƣợu vẫn kẹp giữa hai ngón tay, nhƣng
coi bộ nó run run, run lật bật. Hình nhƣ ly rƣợu trở
chứng run chớ không phải bốn Lợt?
-Chú mới kỳ. Thời chiến tranh hai bên chỉ lo
vít đầu nhau mà cắn xé, đá đạp, thoi vào sƣờn của
nhau đến chảy máu… còn sức đâu mà lo tới
chuyện điện đóm, đƣờng sá…? Hết cắn xé, đánh
nhau rồi mà không làm đƣợc ba chuyện cỏn con
này, hóa ra chú ám chỉ bọn lục lâm thảo khấu?
Chú phạm tội tày đình đó nghe. Phạm tội từ tƣ
tƣởng, từ suy nghĩ chệch choạc. Chú coi chừng.
Chỗ bàn chân bị lỗ đạn tự bắn của ba Thể
bỗng dƣng nổi đỏ hỏn nhƣ mào con gà cồ. Ba Thể
gãi đầu giục:
-Coi kìa, uống đi anh… đổ hết bây giờ.
-Ờ, uống chớ. Rƣợu ngon. Thiệt ngon. Mà
chú hay chuyện gì chƣa?
-Gì anh?
-Cái thằng ba Tánh với năm Bầu đó.
-Mấy ảnh làm sao anh bốn?
-Chú có bà con? Bà con thì đây không tiết
lộ.
-Dạ không. Bà con chi đâu. Kêu anh anh em
em với lãnh đạo cho nó thân mật, có tính quần
chúng nhân dân chút xíu đó mà. Xƣa anh không
131 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
nhớ hội nghị nào khi nhắc đến tổng bí thơ Lê
Duẫn, ai cũng gọi anh Ba đó sao. Gọi nhƣ vậy cho
thân mật, cho gần gũi với quần chúng nhân dân.
Mình dân chủ mà. Một thời nhƣ vậy thành quen.
-Đám vô tích sự. Thấy ngƣời sang bắt quàng
làm họ thì có.
-Hồi nãy anh nói…
-Ờ, nhớ rồi. Là nhƣ vầy. Ngƣời ta chỉ thằng
cha bí thơ ba Tánh ngồi ghế chƣa nóng đít đã có
đàn em xúm tới xây cho nhà riêng bốn bốn từng
dƣới tỉnh, nhờ chỉ định cho lũ nhỏ trúng thầu mấy
công trình lớn. Thằng cha có đồng ra đồng vào liền
bỏ bà vợ già rụng răng đi ôm đít một em gà móng
đỏ múp rụp, mua cho nhà riêng. Ầm ĩ cả lên, giấu
ai? Còn cha năm Bầu chủ tịch, ăn theo đổi đất lấy
công trình, lƣơn lẹo một lúc mấy lô đất rìa thành
phố chia cho con. Sƣớng chƣa? Nhân dân với quần
chúng nhƣ tôi và chú đây thì đƣợc cái đếch gì,
hử?
Thấy ngồi lâu với bốn Lợt không đƣợc
chuyện gì, có khi bị vạ lây, bèn đứng lên nói “thôi
em về”. Ba Thể bƣớc đi hai bƣớc bị bốn Lợt gọi
giật:
-Hè, chú mang chai rƣợu về - Bốn Lợt giơ
đầu gậy chỉ chai rƣợu màu vàng đang đứng lẻ loi
trên nền. Cực chẳng đã, ba Thể quay lại, quay lại
và khum xuống, khum xuống rồi cầm chai rƣợu
nhét vào lƣng quần, bƣớc đi…
132 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
3.Làng An Phổ giờ nhƣ đang có trận động
đất kéo dài. Cả làng cuồng lên với những tiếng
động nhƣ bị kẻ cƣớp cầm đinh nhọn chọt vô lỗ tai,
kêu gào inh ỏi. Mới bảnh mắt, hai thằng cha gặp
nhau đầu ngõ, nháy nhau. Thằng trẻ tuổi giơ bọc
mồi lên cao ngang mày, đƣa qua đƣa lại nhƣ mấy
tay tập chó săn mồi. Thằng già hơn chút xíu cƣời
tít mắt. Một thằng đƣa qua đƣa lại, một thằng cƣời
tít mắt. Cả hai quàng vai nhau bƣớc đi, giữa đƣờng
gặp thằng chạy xe máy Tàu mới mua chiều qua,
bèn chận lại. Bọc mồi giơ lên, đƣa qua đƣa lại.
Thằng có chiếc xe tàu rú ga, bóp còi tin tin, khói
phun sau đít xanh dờn. Ba thằng hể hả chất nhau
lên xe, rú ga phành phạch, phóng thẳng.
Cuộc nhậu bắt đầu bằng tiếng rú ga. Những
thằng trai làng lao vào hũ rƣợu. Chúng vừa đƣợc
giải phóng, vừa đƣợc lột xác. Không ai gọi chúng
là thằng nông dân nghèo kiết xác nữa. Tiền ấy từ
trời cao rớt xuống, rớt trúng vào tay một lũ trƣớc
là bần cố nông. Làm bần cố nông tự dƣng đƣợc
ruộng, nay sắp làm công nhân thì đƣợc tiền. Có
tiền trong tay rồi. Nhậu. Nhậu để mừng đƣợc lột
xác. Nhậu để lột cái xác nông dân hôi hám mùi
bùn, mùi cứt trâu, cứt bò bám dày trên tóc. Mai
mốt đây thôi, không ai dám ngang nhiên gọi chúng
là nông dân, chúng sắp thành công nhân rồi đến đít
rồi. Phải gọi là anh, anh công nhân! Công nhân là
giai cấp tiền phong, tiến lên hàng đầu, sản xuất
hàng loạt sản phẩm cao cấp bán ra nƣớc ngoài, thu
về đống vàng, đống ngoại tệ. Giàu nƣớc, giàu làng,
133 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
anh công nhân cũng giàu, thơm tho chớ không hôi
hám mùi bùn cứt. Dzô… dzô… Chúng khạc ra
những tràng dài nhƣ đạn pháo bắn vào đồn địch.
Đồn địch vỡ toang, xác địch nhƣ rạ. Dzô… dzô…
Từ sáng đến xế chiều những tràng đại bác
bắn xối xả, bắn tiếp tiếp, liên tu bất tận lên những
đồn bót đã bị vỡ cháy. Và, giờ đã đến lúc ca khúc
khải hoàn. Những kẻ thắng trận nhừ tử bắt đầu mở
máy, vặn volum hết mức, thọc dĩa nhựa vào ổ
máy. Máy chạy xè xè êm nhƣ cơn gió nồm phất
phơ buổi xế chiều. Chiếc karaoke mới mua êm nhƣ
xe ô tô con mới xuất xƣởng. Những hình ngƣời
chạy nhảy trên màn hình. Nhạc xập xình xập xình,
những chiếc micro đƣa sát miệng. Chiếc micro
giống ống thổi lửa kê miệng thổi vào bếp lò, củi
bốc khói. Phooo…phooo...ooo… Cả rƣợu, cả
miệng răng và lƣỡi cùng cất lên, phooo… phooo…
đồng ca: “ …Đêm mắc mùng ngủ với vợ, nghe nói
rượu thì dậy mà đi. Vợ có nói năng chi, đây là cho
một đạp…vợ là vợ mà ta là ta. Vợ cầm chén lên
tay ta cầm chai đập lại trong cuộc chiến điêu tàn,
mà vợ là vợ còn ta là ta. Vợ thì ví như cơm, em thì
như tô phở, cơm mà khê thì đi ăn phở, vợ là vợ mà
cơm là cơm…” .Những tràng đại bác bắn vọt từ
những chiếc miệng há lớn. Âm thanh bập bùng.
Rƣợu phừng phực bập bùng bay ra tiếng đại bác
nổ đinh tai. Mái nhà rung rinh. Cây cối đứng ngoài
rào nghiêng ngã theo tiếng đại bác dội lên. Cuối
xóm, tràng đại liên của mấy bà sồn sồn không chịu
kém mấy thằng thanh niên, xổ những tràng baằng
134 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
bằaaàng… ra sân. Tiếng nổ chát chúa, tiếng đại
liên tiểu liên gào lên: “Lỡ yêu rồi, làm sao quên
được anh ơi”. Những cái miệng rƣợu phậm phực
gào lên, trả lễ: “Thôi nín đi em, lệ đẫm vai rồi,
buồn chi nữa em, mai mốt sang ngang, lòng anh
nát tan, tình đã dở dang…”. Dở cái con mẹ lũ
nhóc: “Đêm nay trên đường hành quân ra mặt
trận, trùng trùng đoàn quân…”. Mẹ kiếp mặt trận
vỡ rồi, thắng trận rồi, hành con khỉ gió. Lập tức
tiếng bộc phá ình oàng ca vọng cổ eo éo ở đâu đó,
nổi lên, tung bổng mái tranh: “Cúc Hoa ôi, cũng vì
duyên số, kẻ bắc người nam… đôi nhạn lẻ bầy…
nên đôi ta chẳng đặng sum ơ…ơ… vâ…y
vầ…ầy…”. Đấy không phải đạn pháo, tiểu đại liên,
bộc phá, cà nông mà là tiếng súng thắng trận.
Ngƣời ta bắn pháo bông mừng thắng trận. Anh
công nhân thắng thằng nông dân. Nhà máy chiến
thắng ruộng đồng. Chết lũ chúng bay. Hết cái thời
khói đốt đồng bay bay trong gió chiều. Hết cái mùi
rơm rạ phảng phất. Sẽ chỉ còn lại mùi xăng dầu,
mùi công nghiệp cất cao cuộn khói nhƣ vòi rồng.
Vòi rồng chóc mõm hút nƣớc biển Đông, há mõm
phun ra khói. Khói phun ra sản phẩm cao cấp. Sản
phẩm phun ra tiền bạc và tiền bạc đẩy mấy anh
công nhân bay bổng lên tít trời cao, tận mây xanh.
Rƣợu trộn lẫn với tiếng ca sậm sựt hóa thành
những con rồng, bay lộn vòng vòng…
(…) Bữa hôm ba Thể gặp thằng mặt méo
trƣởng thôn lấy danh sách đám thanh niên đƣa cho
135 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
ban quản lý khu công nghiệp tuyển chọn công
nhân, hắn nhăn nhó: “ Cái cột nghề ngiệp ghi sao
đây? Có đứa nào có nghề ngỗng gì đâu, toàn cắt
lúa, đánh cộ bò, thồ hàng... Có đứa nào biết gì về
máy móc dây chuyền, ghi làm sao?”. Trƣởng thôn
đang bập bập điếu thuốc trên môi nói: “Thì ông
ghi đại vào. Đứa nào cũng biết chuyền, biết công
nghiệp tất, chết ai?”. Ba Thể: “Còn cái vụ hát hò,
rƣợu chè ông tính sao chớ coi không đặng. Mấy
ông bà già phản ánh: chịu hết thấu. Hát thâu đêm
suốt sáng. Cả làng thi nhau hát, không ai ngủ nghê
gì đƣợc. Đầu xóm đùng đùng, cuối xóm đùng
đùng!”. “Văn nghệ. Đấy là văn nghệ! Không thể
cấm nhân dân phát huy văn nghệ. Mặc, cứ để hát
líp ba ga. Hát ớn, mỏi miệng tự chúng nghỉ. Không
cấm đƣợc đâu. Luật không ghi cấm hát hò, cứ phát
huy tính dân chủ, là nhân dân làm chủ…”. Trong
khi đang nói, điếu thuốc vẫn dính cứng trên môi.
Điếu thuốc nhảy tƣng tƣng trên môi khi phát âm,
nhƣ thể điếu thuốc cũng đang múa may điệu hip
hop, múa may đến ngất ngây, nƣớc miếng thấm ra
đầu giấy ƣớt kêu đánh xèo nghe thiệt nhỏ. Điếu
thuốc tắt ngấm. Trƣởng thôn bập bập mấy hơi tiếp,
không nghe khói chạy vô phổi, liền nhổ phẹt
xuống đất. Ba Thể nói: “Vậy thì cứ ghi thí xác?”.
“Ừ, thí xác!”.
4.Không ai làm tình làm tội hột cát nhỏ, tế
bào nhỏ xíu kia. Sức của ông có gào rống, bất quá
bay xa vài chục mét, bay lòng vòng trong làng, rồi
136 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
mắc kẹt đâu đó giữa lùm bụi ken dày, tối thui, mất
hút. Lúc đầu ngƣời ta cũng hơi bị bực mình, khó
chịu. Khó chịu và tìm cách hạ ông, nhƣng không
hạ đƣợc, không thể làm tình làm tội ông đƣợc. Bốn
Lợt vin vào cái dân “bàn kia” để bực tức bàn, lớn
tiếng bàn. Nhƣng không ai nghe ông bàn, coi nhƣ
ông gào rống với đầu gối, bay vào thinh không.
Ngƣời ta ngó lơ. Bí thơ bận bịu với con bồ nhí bia
ôm. Chủ tịch loay hoay giấy tờ cho mấy lô đất giá
ngàn vàng. Ngƣời ta lo giữ mấy lô đất riêng, lo ôm
ấp bộ ngực căng phồng của cô bồ nhí, hơi đâu
tranh cãi với ông già sắp gần đất xa trời?
Đất trời không chìu theo ông, theo nhân
dân. Càng ngày ông càng gầy xọp đi. Gầy xọp có
lẽ vì buồn, tiếc… mà cũng có thể con ngƣời ông
chỉ đứng vững chừng ấy với năm tháng.
Lũ con ông xúm về săn sóc. Có đứa còn ấn
vào tay ông quyển kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa.
Ông đẩy ra, thều thào: “Một mình cha đọc thì
phỏng ích gì. Không ích gì, nếu nhƣ cả bầy đầy tớ
nhung nhúc kia không thèm liếc mắt tới Bát
Nhã…”.
Mặc dù ông đã nằm một chỗ, miệng không
thể gào nhƣ trƣớc, nhƣng hai tai ông lại vểnh lên
nhƣ tai mèo. Ông nghe hết mọi chuyện từ đầu thôn
tới cuối xóm. Ông nghe rành rọt từ những cái
miệng của ngƣời khác. Những ngƣời tới lúc này
mới nhận ra ông già có lý do để gào, để cầm cây
gậy củ tre chỉ vào mặt thằng mặt méo một bên,
hƣơ cây gậy xua đuổi thằng tự bắn vào thịt da
137 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
mình. Nhƣng giờ thì đã quá muộn. Bốn Lợt xẹp
lép, nằm dán sát trên chiếc chõng tre. Ông nhƣ
chiếc lá sắp rụng xuống đất, nhƣ bọt bèo sắp tan
vào đại dƣơng mênh mông. Hối thì đã quá muộn,
nhƣng thế nào ngƣời ta cũng không để ông cô độc.
Ngƣời ta đến thăm ông, không có hộp trà nhân
sâm, không có yến sào… chỉ vài nải chuối mật,
chục trứng gà so, và kèm theo:
“Nhà thằng Bảnh sạch trơn. Mua xe máy
Tàu chở vợ đƣợc ba bữa. Đi nhậu quắt cần câu, tự
đâm đầu vào cột cây số nƣớc. Xe cong nhƣ chiếc
bánh tráng nƣớng, còn cái đầu nó thì toác ra. Mới
hôm kia thôi, không chắc sống nổi. Khổ con vợ!”.
Ông già vểnh tai lên nghe tiếng chép miệng
thƣơng cảm của bà bạn già ngoài xóm Lẫm. Âm
thanh tiếng chép chƣa kịp bay tan đâu đó trên tấm
vách tróc lở vôi vữa thì một giọng khác chen vào:
“Từ ngày hết ruộng, có đồng tiền đền bù
sinh lung. Từ nhỏ chí lớn nhậu nhẹt, ca hát suốt
ngày nhƣ lũ điên. Nhà này có dàn máy karaoke thì
nhà khác dòm vô, ba chân bốn cẳng chạy xuống
phố ôm về cái đắc hơn, xịn hơn. Suốt ngày đêm
đùng đùng nhƣ động đất… Đứa vào nhà máy chỉ
đếm trên đầu ngón tay. Còn lại thất nghiệp! Ruộng
đâu nữa mà sống, đứa đi phụ hồ, đứa chặt mía
thuê, đứa giữ em dƣới phố… cũng long lỏng cái
bụng, chƣa chết đói!”.
Một giọng khác cất lên, nhƣ giọng đàn ông,
còn trẻ:
138 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
“Con Nhạn con Tòng ròm sắp sửa làm đám
cƣới với thằng Nhơn con hai Phó, bỏ nhà đi, rủ
theo chục đứa khác lên Sài Gòn bán bia ôm…”.
Ông già cục cựa trở mình. Trở mình mà
không xoay qua đƣợc. Những âm thanh cứ lăn tăn
trong đầu, những hình ảnh cứ lăn tăn trƣớc mắt.
Cái mông tròn của cô gái làng An Thổ vùng dậy
khỏi thằng hãm hiếp, chạy tuốt lên Sài Gòn.
Những cái mông tròn làng An Thổ lại dạng háng,
lại tiếp tục bị hãm hiếp. Giọt máu đen từ xa, rất xa
bay thẳng, găm vào mắt ông, chảy ra, vón lại thành
cục ghèn to bằng đầu đũa…■
(Vĩnh Long, tháng 7/20010)
139 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Buổi Sáng Trong Làng
________________________________
Gà vừa cất tiếng gáy sang canh, Dự vội vã
bật dậy nhóm bếp nấu ấm nƣớc pha trà, loại trà nát
nhƣ cám đƣợc phân phối theo tem phiếu trên cửa
hàng mậu dịch hợp tác xã. Uống loại nƣớc chan
chát không mùi vị khiến anh có cảm giác nhƣ lúc ở
trại Thập hái lá cây rừng sao vàng thay trà. Dẫu
sao trà cám vẫn hơn nƣớc đun sôi và nƣớc đun sôi
vẫn hơn loại lá rừng đắng chát. Với lại, thời buổi
này không thể tìm đâu ra thứ trà ƣớp ngâu, ƣớp
sen… mà có thì cũng không có tiền mua. Cái gì
cũng có thể trở thành thói quen, anh thầm nghĩ và
uống cạn bình trà trƣớc khi đứng dậy ra tháo cổng
chuồng.
Lúc lùa đôi bò ra ngõ, vợ Dự vừa kịp lóp
ngóp ngồi dậy, hỏi nhóng theo:
-Sáng nay anh ăn ghé khoai lang hay mì?
Dự nhổ phẹt bãi nƣớc bọt xuống nền đất,
xoay cây cày sang vai phải, từ bìa sân gạch nói
với:
140 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
-Phở Pasteur! – Dự nói nhƣ lệnh của ông
đại đội trƣởng ngày nào: “Hàng ngang, tiến!”. Phở
Pasteur là tiếng lóng chỉ hai vợ chồng anh hiểu. Đó
là những sợi bột sắn mì nhƣ con bún gạo, vợ anh
tự chế biến, trộn chút muối hầm, đƣờng đen, hành
lá và ít mỡ heo mang hấp chín. Ăn thứ này đỡ
ngán hơn nấu chay, trộn dúm gạo ghé. Những lúc
bƣng chén mì đƣa lên mũi, mùi thơm xông lên sực
nức khiến Dự nhớ những ngày về thủ đô dự lớp tu
huấn, đƣợc thằng bạn bên cầu chữ Y dẫn ăn phở
Pasteur. Lần đầu tiên Dự ăn món phở mà cứ ngỡ
nhƣ mình là ông hoàng bà chúa. Nó ngon đến nỗi
dƣới đáy tô không còn sót lại chút gì, và nếu nhƣ
không có thằng bạn, Dự sẽ vào một quán khác gần
đấy kêu liền hai tô. Những ngày học sình lầy ở
Dục Mỹ, đôi giày bị nhấn lút trong lớp bùn nhão,
Dự cứ ngỡ nhƣ mình đang bơi trong tô phở Pasteur
hôm nào!
-Nhà hết mỡ. Hay để tôi ghé khoai lang
vậy?
-Gì cũng xong – Dự vọng lại từ cánh cổng
gỗ.
Đôi bò theo thói quen, ra khỏi ngõ rẽ qua
truông trái, chậm rãi bƣớc thẳng ra đồng. Cây cày
trên vai bị trở vai liên tục, vì hồi nào tới giờ anh có
biết cày cuốc là gì. Học chƣa hết năm đệ Tam tới
tuổi quân dịch, đánh nhau suốt từ năm này sang
tháng khác cho đến lúc bị gán cho tội cầm súng đế
quốc chống lại nhân dân. Cái tội tày đình đó phải
học tập cải tạo nhƣ bao nhiêu ngƣời khác cùng
141 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
cảnh ngộ đến gần hai năm. Hai năm theo đúng
nghĩa của ngƣời tù khổ sai để cuối cùng cầm mảnh
giấy rơm vàng ố quay về trình diện địa phƣơng.
Nhƣ vậy kể cũng may mắn: Đạn bom chƣa giết
chết Dự. Bệnh tật, đói khát, sơn lam chƣớng khí…
trên rừng núi không vật ngã đƣợc anh. Dự vẫn
sống nhăn răng để trở về và chịu đựng tiếp những
khổ nạn của thân phận thằng ngụy quân cầm súng
bắn phá cách mạng, chống lại nhân dân…
Cây cày đè nghiến trên vai. Màn đêm lờ
mờ. Cây cày bị xoay trở liên tục. Lúc ngang qua
xóm Gòn, lũ chó chạy ra thọc mõm qua bờ rào sủa
nhƣ muốn xé rách màn đêm. Cả một đàn chó trong
xóm cùng gào lên nhƣ thể Dự là quân trộm cắp, là
bóng ma đang lởn vởn trong làng. Ra tới chòi canh
đầu xóm, ngƣời du kích quấn chiếc mền thu lu
quanh cổ, đang bập bập điếu thuốc chỉ thấy đốm
lửa đỏ nhƣ que nhang, quẹt đèn pin thành vệt dài
một lƣợt, hỏi:
-Cày sớm anh Hai?
-Cày sớm về nghỉ cho khỏe.
-Ngồi hút điếu thuốc đã.
-Cảm ơn, để tranh thủ cày cho xong còn
làm chuyện khác - nói và Dự thúc đôi bò bƣớc
nhanh.
Bóng đêm vẫn còn đậm đặc, tiệp với màu
cây cối hai bên đƣờng. Tiếng chó sủa thôi rát
nhƣng tiếng gà gáy thì bắt đầu rộ lên. Cũng tiếng
gà ấy, nhƣng ngày trƣớc nghe giục giã, còn giờ thì
nghe mỏi mòn, eo óc, giống tiếng kẻng lệnh treo
142 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
giữa xóm, trên cây duối, điều khiển mọi hoạt động
của đám ngƣời trong làng.
Đôi bò lầm lũi bƣớc. Dự lầm lũi bám theo
chúng. Đôi bò, nay trở thành vị cứu tinh của cả
nhà. Dự áng chừng cũng gần bốn giờ sáng. Bốn
giờ bắt đầu mắc bò vào quải, bắt đầu đánh rõng,
cày đến khi mặt trời gát qua khỏi đọt tre cũng gần
mƣời giờ. Mƣời giờ mở bò, mở trƣớc lúc tiếng
kẻng lệnh vang lên chói tai. Thời gian lúc này đối
với Dự (và cả dân làng) không còn có thể nhìn vào
chiếc kim nhỏ chạy vòng tròn trên mặt số nữa rồi.
Tiếng gà gáy và mặt trời đã thay thế vị trí của nó,
bởi những chiếc đồng hồ đã bị chiếc kẻng treo
lủng lẳng trên cây duối choáng chỗ, đƣợc đem bán
cho mấy ông cán bộ chi viện, tập kết thèm thuồng.
Bán để mua thêm vài mƣơi cân lúa dự phòng. Có
đồng hồ trong nhà mà cái bụng tóp teo phỏng ích
gì, ai cũng nghĩ vậy.
Mắc đƣợc đôi bò vào quải, Dự đã nghe rõ
mồm một tiếng lội bì bõm trong đám ruộng bên.
Té ra cha con Hƣơng Bổn còn ra đồng sớm hơn.
Dự tằng hắng:
-Bữa nay nữa xong chƣa đó?
Tiếng Hƣơng Bổn từ xa:
-Chƣa. Còn gần hai sào nữa.
-Tôi ráng bữa nay là gát cày.
-Mửng này đói vẫn hoàn đói, chƣa chết là
may - tiếng Hƣơng Bổn lầu bầu không ăn nhập gì
tới sự quan tâm cày nhanh chậm.
143 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Dự nghe mà không trả lời, cầm chui cày,
nhịp roi lên mông đôi bò. Cả ba dựa vào nhau
bƣớc tới. Bƣớc tới để hít mùi bùn đất dậy lên gây
gây trong buổi sáng tinh mơ. Tiếng chân bò thả bì
bõm trong nƣớc. Đôi chân anh cũng thả bì bõm
trong màn nƣớc ngậm bóng đêm lạnh ngắt. Thỉnh
thoảng những bƣớc chân bƣớc hụt xuống lỗ đất
hẹp thấp làm nƣớc ruộng bắt vọt lên mặt, giống
nhƣ cái tát của ngọn roi mƣa. Nhƣng cái lạnh ấy
khiến anh cảm thấy có chút yên ổn rằng mình đang
còn cử động, hơi thở vẫn còn thụt ra vào hai lỗ
mũi, tim vẫn còn đập, dẫu biết rằng nó sẽ tắt nghẽn
bất kỳ lúc nào.
Lƣỡi cày găm vào đất, xới lên thành vồng
tỏa ra thứ mùi thơm nồng đặc biệt. Đó là mùi bùn
đất lƣu cửu tổ tiên để lại cho con cháu bằng cả mồ
hôi, nƣớc mắt và máu và xƣơng. Cái mùi ấy đã
thấm sâu vào da thịt dân làng này. Họ biết vậy.
Biết và hàm ơn nên ông bà lớp trƣớc mới xây một
ngôi đình khang trang để thờ ngƣời mở đất…
Đó là ngôi đình thờ thành hoàng. Ngôi đình
rộng mênh mông từ bao đời, bỗng nhiên, chỉ trong
một buổi sáng, nó biến thành nơi hội họp của hợp
tác xã theo lệnh của ai đó ở trên. Họ nói thờ cúng
là mê tín dị đoan. Với lại đất đai là của nhà nƣớc,
của nhân dân chớ không của riêng một kẻ nào,
không có ông thành hoàng nào mở đất cả!
Lệnh rớt xuống nhƣ lƣỡi dao bén chém
ngang thân chuối. Cái lệnh ấy khiến đám thanh
niên lóc chóc hò la xông vào, gỡ những tấm nghi
144 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
khậu, liễng đôi ném xuống đất nhƣ thể chúng đang
đánh nhau với kẻ thù. Đám khác chia nhau ôm cờ
phƣớn, đèn thờ, trống, phèn la… vất vào gian lẫm
phía sau chái. Vật tế tự, từ khí đồng thau, nằm
vƣơng vãi, lăn lóc nhƣ xác địch quân sau trận ác
chiến. Máu không chảy thành vũng, nhƣng những
mạng nhện lòng thòng có vẻ nhƣ những mảnh tim
gan phèo phổi của tổ tiên rớt ra từ những vật tế tự
kia. Phút chốc ngôi đình trống hoác, nhƣ ngôi
miếu hoang phế. Bức hoành phi với mấy chữ đại
tự sơn son thếp vàng, mới đây còn uy nghiêm trên
thanh xà gian giữa, giờ nằm chổng chơ trên nền
đất lạnh. Chất nhiệt tình cách mạng đã nghiến nát
tâm linh. Ngƣời chết và kẻ sống đã phân đôi, nhìn
nhau qua những thứ vung vãi dƣới nền nhƣ thể
chết thêm lần nữa!
Dự đi ngang qua, tình cờ cong ngƣời nhìn
vào và chợt thấy, rùng mình nhƣ hồi nhỏ từng
chứng kiến cảnh tiêu thổ kháng chiến. Anh gạt
những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán và những giọt
nƣớc mắt chực trào ra, quay lui về phía kiệt tre và
đụng mặt ngay cô Lại đang nhởn nhơ bƣớc tới,
ngƣời bạn chận bò thuở thiếu thời.
Lại cƣời khẩy, rít lên:
“Anh tiếc mấy thứ giẻ rách kia hả, cứ vào
lấy mang về nhà. Tôi cho đấy!”
Dự liếc mắt nhìn cô, nghĩ thầm: Không ngờ
con Lại của mƣời mấy năm về trƣớc nay thay đổi
thiệt nhanh chóng. Cô lạnh lùng, tàn nhẫn… vụt
bay ra từ cái nhìn nhọn sắc và hàm răng khít rin,
145 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
thù hận. Dự suy nghĩ mãi, không hiểu tại sao cô lại
làm nhƣ vậy? Một đứa con gái nhƣ bao cô gái
khác trong làng, cần mẫn với ruộng vƣờn, bếp núc;
cũng cƣời đùa hể hả với đám bạn mỗi khi có dịp
đùm túm với nhau. Vậy nhƣng sau cái đêm cô biến
mất khỏi làng, “sau một thời gian dài không tung
tích, nó đột ngột quay về trong đêm, tập hợp dân
làng hô hào nổi lên diệt ác ôn đánh Mỹ cứu nƣớc -
Cha Dự chậm rãi cất giọng lào khào kể lại - Nó
răng đe mọi ngƣời sẽ bị xử trị đích đáng nếu tiếp
tay cho địch. Nói xong nó bắn một phát súng thị
uy rồi biến mất trong đêm tối một cách đột ngột
nhƣ lúc đến”. Giờ thì Lại quay về, lãnh đạo cả xã,
cả làng phá sạch những thứ mà Lại gọi là tàn dƣ, là
rác rƣởi của đế quốc và tay sai để lại. Mấy ngôi
miễu thờ cô hồn là nạn nhân đầu tiên; ngôi chùa
nhỏ cuối làng cũng không thoát khỏi số phận hẩm
hiu… Rồi nay tiếp đến ngôi đình này. Không biết
cô còn nghĩ ra những gì khác nữa để tiếp tục đập
phá cho hả lòng căm thù?
Những khi cô ra lệnh nhƣ vậy, Dự tự hỏi,
có giây phút bất chợt nào đó, Lại nhớ về cái đêm
trăng non sang tiết lập thu? Đêm mà cô háo hức xô
ngã Dự lọt qua bờ rào chiêm chiêm, phóng theo đè
lên ngƣời Dự. Mảng da thịt âm ấm của cô gái
mƣời bảy phủ chụp lên khắp ngƣời thằng nhóc con
là Dự đang bƣớc vào tuổi dậy thì, khiến nó run rẩy
với những khoái cảm sững sờ. Ánh trăng không đủ
sáng, nhƣng Dự nhớ nhƣ in màu trắng trên thân
thể nó cùng món tóc đen trùm kín mặt Dự. Lại sờ
146 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
soạn, bấu riết, hôn lên mặt mũi, lột truồng nó ra.
Mọi thứ diễn ra thật nhanh, giống nhƣ lúc Dự bất
ngờ bị xô ngã qua hàng rào chiêm chiêm. Dự
không còn thấy màu sáng của trăng của da thịt đứa
con gái, nhƣng Lại đã thành thạo biến một thằng
nhóc thành đàn ông khi mới mƣời ba! Đêm trăng
non trong tiết lập thu vĩnh viễn để lại trên ngƣời
Dự vết sẹo của nỗi hoang mang, sợ hãi cuộn tròn
lại nhƣ những đợt sóng lớn nhỏ đập mãi vào bờ đá.
Những ngày đi lính, gặp phụ nữ Dự sợ còn hơn
đang lúc đánh trận. Đêm đầu tiên gần vợ, Dự cong
ngƣời lại y nhƣ lúc ngã qua bờ rào. Nỗi sợ hãi
chập chờn trôi nổi bềnh bồng nhƣ túm rác trôi trên
con kênh đen quánh… Lại, dƣới con mắt Dự là
hiện thân của những tội lỗi rực rỡ chồng chất thành
những vệt lân tinh trong khu rừng ẩm ƣớt mỗi lúc
hành quân, trên chiếc giƣờng tre có cô vợ bé nhỏ
nằm bên cạnh và ngay cả khi thả chân xuống mặt
ruộng trắng nƣớc. Tiếng bƣớc chân của chính Dự
vang lên bì bọp, òn ọt khiến Dự luôn có những cái
rùng mình bất ngờ…
Dự vãi mồ hôi giữa buổi tinh mơ lạnh ngắt.
Đôi bò thong thả kéo chiếc lƣỡi sắt nhọn lật
tung những dề đất phía dƣới, còn Dự thì miên man
suy nghĩ xa gần trên chuôi cày. Ba sinh linh bé nhỏ
giữa đất trời cao rộng này bơi vòng vòng quanh
đám ruộng hợp tác xã, giống con vịt bơi trong ao
tù.
Cày đâu hơn hai rõng đất thì trời sáng rõ.
Lát sau cu Lớn lơn tơn xách giỏ cơm đặt trên bờ
147 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
ruộng gọi lớn: “Cha ăn cơm con về đi học!”. Dự
ngoái lại nhìn thằng con ốm nhách, cao nhƣ cây
sậy, trong lòng gợn lên nỗi cồn cào không hình
dạng. Hồi nhỏ, anh có đâu nhƣ vầy. “Ừa, để đó”.
Dự la lớn và hình nhƣ tiếng la đó rớt cái tõm
xuống ruộng nƣớc. Cu Lớn đã lên tới bờ mòn, cắm
cúi bƣớc thật nhanh về phía làng.
Dự cày giáp vòng, đến gần phía bờ đặt rổ
cơm, anh dừng lại, rút náp cho lƣỡi cày găm sâu
xuống đất (giống nhƣ ngƣời ta thắng xe) hô “dọ,
dọ…” để đôi bò dừng lại rồi gát roi lên bắp cày,
thủng thỉnh bƣớc lên bờ.
-Anh Năm ơi - Dự kêu lớn - nghỉ vào ăn
cơm cái đã.
-Ăn đi. Tôi ăn cơm nguội ở nhà rồi.
-Thì nghỉ uống nƣớc cái đã. Xong sớm tôi
qua cày giúp anh mấy đƣờng - Dự nói cho có nói
chứ trong bụng biết tỏng Hƣơng Bổn chƣa có hột
cơm nào trong bụng. Mấy tháng nay vợ bệnh, con
đau số lúa dự trử cứ vơi dần, lấy đâu cơm sáng cho
ông đi cày? Đến viên thuốc cũng không có, thay
vào là những viên Xuyên Tâm Liên từ hiệu thuốc
nhân dân đắng ngắt trị bá bệnh thì bệnh nào qua
khỏi, sao có thể phục hồi sức lực!
Hƣơng Bổn dừng bò, kẹp chiếc roi cày vào
nách bƣớc về chỗ Dự đang ngồi.
-Cái đời tôi – Hƣơng Bổn khọt khọt trong
cổ họng để đẩy cục đờm vƣớng víu đâu đó, khạc
ra, nhổ phẹt xuống mặt nƣớc ruộng - lúc nào cũng
đen đủi, bắt thăm trúng đôi bò cày của con mẹ
148 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Chánh ốm nhách, giống nhƣ đồ ho lao, thúc mấy
cũng không mập lên. Ngƣời ta cày cả sào thì nó lê
lếch chƣa đƣợc phân nửa. Mẹ đời, tôi muốn trả lại
cho hợp tác quá trời, ngặt nỗi trả lại thì lấy gì mà
sống đây. Đã bị phân vào tổ cày bừa rồi. Còn phần
ruộng chú thấy đó, nó là cái ao thì đúng hơn, phải
bơi để cấy…
Dự nghe giọng nói hùn hụt gần nhƣ đứt hơi,
cảm thấy chạnh lòng:
-Anh Năm, kệ mẹ đời, anh ăn chút cơm rồi
hẵng cày. Chòm xóm với nhau anh khách khí làm
gì.
-Tôi đã nói, ăn rồi. Chú biết tánh tôi mà?
Nói dứt câu, Hƣơng Bổn thở phì phì nhƣ
chính ông kéo cây cày nặng trình trịch thay đôi bò
và tiếp tục bơi trong đám ruộng ao của mình.
-Thôi anh, để hôm nào họp tổ, anh em xúm
nhau đƣa đơn xin đổi đôi khác cho anh.
-Đổi ai? Đâu có đôi nào “rề dẹt” mà đổi.
Thiệt ngán. Tôi muốn giao lại, nhƣng nhìn đàn con
lít nhít thấy không nỡ. Mẹ đời. Cách với chả mạng.
Trƣớc tôi đâu đến nỗi khổ vầy. Bao nhiêu ruộng
vƣờn ép vào hết hợp tác, thành của ngƣời khác,
của nhân dân, mình trắng tay. Mẹ cứt, nhân dân là
cặc đách gì không biết nữa!
-Thôi đi anh Năm ơi. Đại nạn là chung cho
cả bầy ngƣời lúc nhúc, đâu riêng gì anh em mình?
Hè, làm chén cơm cho nóng rồi xuống cày tiếp –
Dự nói, liền tay xới chén cơm ghé sắn mì, nâng lên
đƣa cho ông bạn già.
149 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Hƣơng Bổn xua tay:
-Ăn rồi. Cơm nguội từ hôm qua cứng nhƣ
sạn cũng cố mà nuốt. Chú mày ăn đi, tao uống
miếng nƣớc, không thấy đói. Nói và ông giở ấm
chén rót ra uống đánh ực một hơi rồi lần vô túi áo
rút gói thuốc rê ra vấn. Điếu thuốc to bằng ngón
tay cái quấn bằng giấy vở học trò tách đôi ra nhƣ
ngƣời ta lóc phần da và thịt con cá lóc. Hƣơng Bổn
kẹp điếu thuốc lấm lem mực viết. Điếu thuốc cứ
rung rung giữa hai ngón tay nhƣ chính nó đang lên
cơn sốt.
Dự chần chừ một lúc mới giở trật tấm lá
chuối đậy trên rổ cơm vừa ái ngại nhìn ngƣời hàng
xóm, cảm thấy nhƣ mình là kẻ có tội với cha con
Hƣơng Bổn. Dự biết là ông chƣa có hột nào trong
bụng, nhƣng nài ép thêm chút nữa có nghĩa là làm
nhục ông ta, bèn dùng tay nhón lấy chút cơm lẫn
trong những miếng sắn mì, vón thành cục nhỏ
chấm muối é cho vào miệng, nhai nhỏn nhẻm. Dự
nhìn chén cơm trên lớp cỏ lấm bùn, phần dành cho
Hƣơng Bổn, chạnh lòng. Dự không còn lòng dạ
nào ngồi ăn vừa nhìn Hƣơng Bổn khốn khổ, râu
tua tủa, ốm nhách. Mà, Dự cũng không hơn gì ông
hàng xóm, có điều đỡ gánh nặng gia đình, chỉ phải
nuôi đứa con duy nhất. Vợ Dự còn khỏe, vào tổ
đan đát, mỗi ngày kiếm cũng vài trăm gam lúa. Cả
hai chắt mót, tùng tiệm cũng đủ xoay xở. Chỉ tội
Hƣơng Bổn. Con đông quá, cả hai vợ chồng vật
lộn với ruộng đồng cũng không đủ miếng ăn.
150 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Dự đậy tấm lá chuối lại, hỏi xin điếu thuốc.
Hƣơng Bổn ngó sững Dự:
-Sao không ăn. Chú tội nghiệp tôi hả?
-Dạ không, anh Năm. Tự dƣng hết muốn
nuốt. Làm ăn kiểu này đến lụn bại mất. Anh nhớ
mùa rồi, tụi thằng Cạnh thằng Sang giấu lúa hột
kéo về nhà? Chúng nó là đội trƣởng, đội phó đấy.
Lại nghe nói tay chủ nhiệm và tay thủ kho tuồn
mấy tấn ra chợ đen. Bị bể ổ, nhƣng chúng tự biết
dán miệng nhau thành ra êm xuôi. Chẳng ai làm gì
chúng, cũng chẳng có thằng xã viên nào dám hó
hé. Đấy, mẫu hình hợp tác xã nông nghiệp đấy!
-Ậy, mình mà xỏ miệng vô thì trƣớc sau
cũng bị gán phản động.
-Tôi vẫn ức vụ ngôi đình.
-Ức thì chú làm đƣợc gì?
-Đúng là không làm đƣợc gì. Nhƣng cái
mặt con Lại đấy, từ đất nẻ chui lên chắc?
-Tôi biết nó thù chú mà? Mấy lần chú giải
thích nhƣng nó đâu có nghe, phải không?
Nghe mấy tiếng “nó thù chú”, tự dƣng
ngƣời Dự nóng ran lên vì xấu hổ, ngỡ nhƣ trong
đêm trăng non lờ mờ kia, Hƣơng Bổn đứng ngay
sau lƣng và đã nhìn thấy, đã hiểu tất cả. Ngập
ngừng lúc lâu, Dự mới lên tiếng:
-Giải thích gì anh ơi. Tôi chỉ nói là nếu cần
hung thì dọn dẹp đồ thờ tự sang một góc để làm
tạm hội trƣờng, chớ có đập phá, tội. Kẻ hậu sinh
cũng phải nhớ công lao ngƣời đi trƣớc. Tôi nói chỉ
151 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
có vậy mà cổ kêu tôi là kẻ phá hoại. Anh coi có
oan tôi không?
Hƣơng Bổn kéo một hơi thuốc thật dài, phà
khói bay thành mảng trắng mờ mặt nƣớc:
-Chuyện dâu biển, nay dời mai đổi, biết đâu
mà lƣờng, chú ơi.
Hai ngƣời chuyện vãn một lát rồi đứng lên,
trở lại cầm chuôi cày.
Những dề đất lật qua một bên láng tƣng nhƣ
thoa một lớp mỡ. Những con sáo nâu, cò xám sà
tới tranh nhau những con trùn nƣớc, cắn mổ la chí
chóe. Chúng đậu thật gần, chỉ cần hƣơ củ roi là
đụng ngay, có một bữa “cải thiện” cho cả nhà;
nhƣng Dự không làm vậy. Nó cũng đang tìm
miếng ăn nhƣ bọn anh mà. Chúng chẳng đụng
chạm, cắn mổ, phá phách mình thì mắc mớ chi đập
chúng? Không hẳn anh từ tâm, tu hành gì ráo, chỉ
có điều, cái sự kiếm ăn của chúng sao giống nhƣ
bọn ngƣời nhƣ anh và Hƣơng Bổn lúc này, nên
không nỡ xuống tay! Suy nghĩ miên man một lúc
khiến anh mệt nhoài và không để ý gì đến lũ cò
sáo, cắm cúi cầm chắc chuôi cày, cốt cho thật
nhanh để ngày mai theo bọn thằng Xanh lên núi
hái ít gánh củi về dự trử cho mùa mƣa bão sắp tới.
Cày bừa xong giao đất cho tổ gieo sạ coi nhƣ yên
một bề, tìm thêm chuyện mà làm, đâu có thể nằm
chờ mấy công điểm mọn?
Nắng lên cao, thu ngắn bóng ngƣời cày và
đôi bò về một phía. Còn một rõng nhỏ nữa là
xong, có thể qua bên Hƣơng Bổn cày giúp ông ta
152 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
vài đƣờng, nhƣng tiếng ví thá bên kia ruộng sao
nghe cứ nhỏ dần, bƣớc chân và đƣờng cày nhƣ
một dòng nƣớc yếu bị cản lại không thành tiếng
lõm bõm nhƣ lúc trƣớc. Dự ngó qua. Đôi bò chệnh
choạng dựa vào bắp cày bƣớc thật chậm. Hình nhƣ
cả Hƣơng Bổn không phải bƣớc chậm nữa mà đu
bám lên chui cày trƣợt theo. Dự La lên:
-Anh Năm mệt lên bờ ngồi nghỉ. Tôi cũng
sắp xong. Để đó tôi qua cày giúp cho.
Tiếng Dự bay đâu đó trên không, không
thấu tai Hƣơng Bổn. Hình nhƣ ông ta đuối hung
rồi. Dự “dọ” bò dừng lại, bƣớc dài nhƣ chạy về
phía đám ruộng Hƣơng Bổn đang cày, nhƣng chƣa
tới bờ đã thấy ông khụy xuống, tay vẫn nắm chặt
chuôi cày làm cho nó nghiêng hẳn về một bên.
Dự hớt hải la lên:
-Anh Năm, anh Năm… làm sao vậy? Có bị
sao không?
Lúc Dự tới nơi thì Hƣơng Bổn ngồi khụy
xuống ruộng nƣớc, mặt tái xanh. Dự luồn hai tay
qua nách đỡ ông đứng lên:
-Anh có sao không?
Hƣơng Bổn không mở đƣợc miệng chỉ lắc
lắc đầu, nhƣng cái lắc rất yếu. Dự hiểu tất cả. Ông
bị lũi đói. Từng ấy miếng cơm độn ít ỏi từ chiều
qua thì còn sức đâu để cày với bừa? Dự khom
ngƣời thấp xuống quàng tay Hƣơng Bổn lên vai rồi
du dần vào bờ, đặt nằm trên lớp cỏ lởm chởm. Dự
lấy chiếc nón ngựa kê đầu, rót nƣớc ra chén và
vạch miệng đổ từng hớp nhỏ:
153 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
-Ít thôi nghe anh Năm, từ từ. Mà anh cũng
thiệt lạ. Chòm xóm với nhau, ăn chút cơm ghé có
gì là ghê gớm? Tôi biết bụng anh trống nhƣng
không dám nài ép sợ anh giận. Thôi, cứ nằm nghỉ
cho khỏe rồi mở bò. Tôi cũng mở. Mai tôi ra
quanh mấy đƣờng xong ngay. Chớ lo, anh Năm.
Nhƣng Dự nói cho chính tai mình nghe vì
đôi mắt hƣơng Bổn đã nhắm nghiền, bên khóe ứa
ra chút nƣớc sền sệt. Ông không còn nghe và thấy
gì nữa. Dự hoảng hốt thọc tay vào ngực ngƣời bạn
cày hàng xóm, lạnh ngắt. Dự bàng hoàng, khóc ồ
lên nhƣ nỗi uất ức lúc bị đẩy qua bờ rào chiêm
chiêm, đè nén lại thành cục u nhỏ đầy gai nhọn,
bấy lâu nay có dịp vỡ bung ra.
Hai đôi bò vẫn đứng yên tại chỗ. Bóng nắng
thu tròn, nhỏ lại quanh hai ngƣời.
Đồng nƣớc trắng xoá, những ngƣời cày
đồng thấp thoáng phía xa và lũ chim cò vẫn tranh
nhau cắn mổ chí choé. Buổi sáng nhƣ đứng lại. Nó
đứng lại bởi chƣa có tiếng kẻng lệnh hợp tác xã.
Nhìn từ xa, có vẻ nhƣ hai ngƣời đang to nhỏ
chuyện miếng ăn.■
(Tháng 9/2010)
154 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Miền Không Dấu Chân Người
________________________________
Le champ couvert de morts sur qui tombait la nuit.
Il lui sembla dans l'ombre entendre un faible bruit.
(Victor Hugo, Après la bataille)
Chuyến xe cuối ngày xuống khách ở ngả ba
đƣờng dẫn vào thị trấn. Lẫn trong đám ngƣời nhớn
nhác là ngƣời đàn ông gày gò, vai lệch, hai hốc
mắt trũng sâu, ngơ ngác đƣa mắt đảo một vòng rồi
khoát chiếc túi xách lên vai, lầm lũi bƣớc trên con
đƣờng đất đỏ dƣới cơn mƣa lất phất.
Đứng trên đầu dốc, ngƣời đàn ông nhìn
sững màn khói lạnh đùn lên thành dãi trắng đục
lềnh quấn quanh chóp núi cao, những ngọn đồi lô
nhô dƣới xa kia và sự di động chậm chạp của
những bóng ngƣời li ti bên những đƣờng ranh đất
đỏ giữa các vƣờn cà phê. Trong thị trấn, các hàng
quán bắt đầu kéo hẹp cửa, sáng ánh đèn từ bên
trong và mái hiên dội xuống, lẫn trong bóng chiều
ngập sƣơng.
155 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Phía bên kia đƣờng, ngƣời phụ nữ đi ngƣợc
chiều, mang chiếc gùi có mấy cọng bạc hà xanh
mƣớt nhô lên. Cả thân hình chị chúc xuống nhƣ
sắp ngã chúi về phía trƣớc, trên con dốc nhoè đỏ
giữa màu sáng lửng nhập nhoạng cuối ngày.
Ngƣời đàn ông dõi mắt nhìn một lúc, rồi
tiếp tục bƣớc dƣới bụi mƣa bay bay. Bóng tối
xuống mỗi lúc một đậm hơn.
Ngƣời đàn ông bƣớc ngập ngừng qua mấy
dãy phố nhỏ rồi ngóng về phía ngọn núi trƣớc mặt
bắt đầu nhoè sẫm. Ông không nhớ mình đã bám xe
đò lên miền đất này bao nhiêu lần để nhìn nó, rờ
chạm vào nó nhƣ đang trở về với ngƣời thân, nhƣ
tìm kiếm vật báu đã rớt lại chốn này. Ông đã bao
lần háo hức bƣớc ngƣợc lên dốc núi dựng đứng,
rồi thả rơi về chốn cũ với vẻ mặt đầy thất vọng đau
khổ.
Lần này, ông cũng bắt đầu bằng nỗi háo
hức mới nguyên khi cắm đũa vào tô mì đang bốc
khói nghi ngút, trong ngôi quán dựng bằng những
tấm cót mò o. Những sợi mì vàng quấn quanh đôi
đũa không ấm lên bóng núi nhoè vào bóng đêm.
Một chút khí lạnh trƣờn tới quanh tô mì tƣởng có
thể thò tay nắm lên đƣợc.
Đang lúc ăn, khách không nhận biết ngƣời
chủ quán bƣớc ra, đứng sau lƣng. Ông ta cao to.
Râu quai nón và râu mép xồm xoàm làm cho
khuôn mặt càng thêm u tối. Chủ quán quan sát
khách một lúc rồi bƣớc tới, ngồi xuống phía đối
diện, bộ dạng dò xét, vừa lôi từ túi áo gói thuốc,
156 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
bật quẹt rít một hơi thật dài, phun khói mù mịt.
Đợi khách ăn hết tô mì, ông hỏi: “Ông đi đâu giờ
này còn ngồi đây?”. “Lên đỉnh núi 635, ngọn núi
Tử Thần”. “635 là núi nào?”. “Ngọn núi cao nhất
ở trƣớc mặt kìa”. Ngƣời đàn ông bật cƣời ha hả,
những cọng râu cũng bật rung theo: “Núi Chƣ
Đ‟rắk. Đó là Chƣ Đ‟rắk. Mà ông lên đó làm gì?”.
“Tìm một ngƣời”. Chủ quán ngạc nhiên vừa liếc
nhìn vào chiếc tô trống trơn trên mặt bàn gỗ. Ông
ta lắc đầu, rít mạnh hơi thuốc rồi quăng tàn vào
vách. Mẫu thuốc thừa bị chạm mạnh lên vách ván
văng ra những đốm đỏ li ti và tắt ngấm mau chóng.
“ Lên núi tìm ngƣời. Lạ thật. Có ai trên đó để tìm?
Nhƣng trời tối rồi, sao đi kịp? Ở xứ này không có
quán trọ. Mà cũng thiệt lạ, ngọn núi kia cất giấu
những thứ của quí gì nhỉ? Tôi nghe nói có một
ngƣời đàn ông cứ thỉnh thoảng lại lên thị trấn nhỏ
này rồi mò vào núi tìm kiếm cái gì đó. Chợt đến
chợt đi nhƣ con sói mẹ đi tìm đứa con đã bị đánh
cắp”. Khách dừng đũa ngó vào mặt chủ quán định
nói gì đó nhƣng rồi lại tiếp tục cúi xuống tô mì chỉ
còn chút nƣớc lợn cợn dƣới đáy. “Anh không biết
đấy thôi - chủ quán đổi cách xƣng hô- Ngày xƣa,
trên ngọn núi này là nỗi kinh hoàng của quân hai
bên. Tất cả đều bị san bằng, không một ai sống sót,
thành một nấm mồ tập thể. Kinh khủng. Chiến
tranh thật kinh khủng”. Nói và chủ quán thẫn thờ
nhìn những vạt sáng tối nhảy nhót ngoài hiên, thò
tay vào túi áo định rút điếu thuốc khác châm lửa,
nhƣng nghĩ sao rụt tay lại, nhìn vào mặt ông
157 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
khách. “Anh có ai quen ở thị trấn này không?”.
“Không”. Ngẫm nghĩ một hồi: “Nhà chỉ mỗi một
chiếc giƣờng. Hay tôi lấy tấm bạt anh nằm tạm
trên nền vậy. Tôi vào rừng khuya mới về”.
Trong khi nói, bộ râu trên mép và chòm râu
dƣới cằm luôn khua động, có vẻ nhƣ lời nhắc
chừng ngƣời khách lạ, cho đến khi đôi môi khép
lại thì hình nhƣ sự bình yên nhƣ mái hiên nhà đƣợc
kéo dài thêm ra một chút cho khách.
Cái lạnh và mệt mỏi đƣờng xa khiến ngƣời
đàn ông cong rút trong tấm bạt quấn kín lại nhƣ
con sâu kèn. Mƣa gõ lào xào trên mái tôn. Tiếng
gió chạm, tiếng chim đêm kêu thảng thốt ngoài
cánh rừng, nghe thật gần; có cả những tiếng lộc
cộc đều đều nhƣ có ngƣời cầm búa gỗ gõ lên thân
cây mục. Những âm thanh và gió ngái lạnh kéo
sụp hai mắt ngƣời khách lạ bằng tiếng thở nặng,
gãy khúc.
Giấc ngủ chập chờn đu đƣa qua lại trên mẫu
xƣơng cá nhọn vây quanh ngọn đồi. Những tiếng
lộc cộc vỡ toác ra, rít lên the thé, vỡ toang tiếng nổ
bên giao thông hào. Đất đá khạc ra màu đỏ của lửa
rực và máu, còn bên trên, tít trên cao kia là chiếc
chổi của mụ phù thuỷ xịt từng cột khói đen ngùn
ngụt, lúc cao lúc thấp cùng với những tiếng nổ đến
trời long đất lở.
Cả đại đội của anh chẳng khác gì bầy gà
con bị ném vào vũng cỏ rối. Bên dƣới kia, trong
các khe lũng, dòng suối, đối phƣơng trùng trùng
158 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
lớp lớp ào lên nhƣ thể những đợt sóng thần dựng
đứng và bổ ầm xuống. Hết đêm lại ngày. Từ ngày
này qua ngày khác. Cái chảo lửa khổng lồ ấy hừng
hực thiêu đốt cả trăm sinh mạng, đẩy ngƣợc từ
phía lƣng núi gãy lên tới đỉnh bằng kèm theo
những tiếng nổ xé nát núi rừng. Cả đại đội chỉ còn
mƣơi ngƣời không lành lặn, co cụm về phía các
hốc đá nhƣ những mộ huyệt định mệnh, không còn
đủ sức chống đỡ đối phƣơng băng lên. Trên cao
kia là những chiếc chổi lem luốc và những con mụ
phù thuỷ lem luốc dữ dằn không ngớt khạc nhổ
những bãi nƣớc bọt trắng xanh, tanh lợm xuống
đỉnh đồi.
Cứ điểm 635 trở thành vũng bùn nhão
nhoét. Thân thể anh bị hất tung ra khỏi hốc đá.
Khẩu súng trên tay hình nhƣ biến thành con cá núi
lặn tít xuống vực suối sâu. Sau đó, thân thể mọc ra
đôi cánh, từ từ bay lên chóp trời mây trắng và tan
loãng thành những hột nƣớc mƣa ngập ngừng rơi
không đến mặt đất.
Anh nghe miệng mình khô khốc và đắng
nghét. Toàn thân nhƣ thỏi sắt nung. Chung quanh
yên tĩnh đến rợn ngƣời. Ngày hay đêm sau đôi mắt
khép cứng? Hình nhƣ có ai đó bỡn cợt dùng cây
lẹm khâu kín hai mí mắt bằng sợi thép gai? Và anh
đang ở đâu?
Mắt không mở. Cả ngƣời cứ lạo rạo nhƣ
những hạt sỏi nhỏ, dần súc trong chai. Đôi chân
thành hai tảng đá. Hình nhƣ cả tay cũng hoá đá?
159 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Đầu cứ lụp bụp lói nhói những hột bắp bị ghè lăn
trong đƣờng rãnh cối xay đến nát ngứu.
Ngày và đêm không còn xù xì hình dạng.
Mọi tiếng động trƣớc đây đều im bặt. Im lặng đến
có thể kéo nhổm cả cánh rừng bạt ngàn bay qua
miền đất không có tên tuổi..
Lại lịm đi. Lại tỉnh dậy. Có tiếng rên yếu ớt
đâu đây. Tiếng từ lồng ngực vỡ của mình thoát ra
hay tiếng xƣơng gãy khua chạm vào nhau? Mắt
vẫn bị xâu kín. Tay chân không thể động cựa. Một
sinh vật nhỏ bé áp vào thân thể anh âm ấm, thì
thào “nƣƣƣ…ƣơ…”. Tiếng kêu mỏng manh nhƣ
sƣơng nhƣ khói, đứt quãng nhƣ một mảng mây
mỏng bị trận cuồng phong kéo lên dập xuống đến
tả tơi.
Thời gian trôi qua không biết bao lâu,
nhƣng giờ thì anh nhận ra, quanh quất đâu đây là
mùi khói đạn, mùi nhựa cây, đá bị thiêu cháy trộn
lẫn với mùi máu khô nồng nặc. Đầu óc anh nhận
biết đƣợc rằng cả ngọn núi này đã thành tro bụi.
Mọi sinh vật đều bị nghiền nát. Tiếng thì thào lại
nổi lên. Anh cố sức quay về phía phát ra giọng nói
yếu ớt, cố hết sức mở hai mí mắt một cách khó
khăn và đau đớn. Theo bản năng, anh lần bàn tay
vào thắt lƣng và nhận ra chiếc bình đông nƣớc còn
đeo dính bên hông. Đất đá phủ kín ngƣời. Phải khó
khăn lắm mới cong đƣợc tay gạt lớp đất đá, lần
vào thắt lƣng, chỗ có chiếc bình đông nhƣớng mắt
về phía vừa phát ra những âm thanh méo mó khi
nãy. Nhƣng anh không còn cảm giác gì nữa, rồi lả
160 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
đi, chìm trong cơn sốt chói loà màu đỏ lẫn với màu
vàng cam nhảy nhót, quay cuồng. Bất thần một trái
bom (hay một tảng đá) dội thẳng vào ngƣời anh,
nát ngứu… Anh cảm thấy mình nhẹ tênh nhƣ một
chiếc lông con thiên nga tự trời cao chao lƣợn mãi
mãi trong khoảng không bềnh bồng mây trắng,
mênh mông...
“Hình nhƣ anh đang lên cơn sốt. Anh đang
kêu khản giọng câu gì đó không thành tiếng.
Ngƣời nóng quá. Anh bị sốt rồi”, chủ quán nói với
khách vừa lay lay một bên vai. Khách mở choàng
mắt, chống tay ngồi dậy, lắp bắp: “Lại những giấc
mơ hãi hùng”. Cặp mắt không còn thần sắc ngó
dáo dác ra bên ngoài, trong khi chủ quán chạy vội
vào trong. Lát sau trở ra trên tay cầm chiếc khăn
vải bọc những thỏi đá nhỏ. Chủ quán chà xát lên
mặt lên cổ khách nhƣ thể một ngƣời thân lâu ngày,
quá lâu ngày, trở về. Trời vẫn còn tối đen. Gió sột
soạt luồn vào vách ván lạnh ngắt. Khách có vẻ dịu
lại đôi chút. Chủ quán: “Để tôi pha cho anh ly cà
phê”.
Bây giờ thì ngƣời khách lạ đã tỉnh táo chút
đỉnh. Anh ta ngồi dậy, cuộn tấm bạt, chăn gối đặt
ngay ngắn lên ghế. Hai ly cà phê bốc khói trên mặt
bàn gỗ ghép bằng những mẫu ván bìa. Chủ quán
lại rút thuốc châm lửa nhƣ một thói quen không
thể dừng. “Hồi nãy anh kêu hãi hùng…?”. “Tôi
luôn bị những giấc mơ kinh hoàng xuất hiện trong
giấc ngủ từ hơn ba mƣơi năm nay. Nó lì lợm nhƣ
161 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
một gã ăn xin truyền kiếp”. “Giấc mơ? Có những
giấc mơ đẹp và những giấc mơ làm con ngƣời chết
khiếp. Mà sao anh toàn mơ thấy những điều kinh
hãi…?”. Khách rụt chân lại, đầu gối chạm lên mép
bàn kêu thành tiếng. Suy nghĩ một lúc, khách lên
tiếng: “Cái ngƣời đàn ông mà ông nghe nói đó là
tôi. Chính là tôi”. “Anh đi tìm gì?”. “Ngọn núi
Chƣ Đ‟rắk đó là nơi tôi bị ném xuống nhƣ ngƣời ta
ném một viên sỏi cách đây hơn ba mƣơi năm. Sau
khi tốt nghiệp trƣờng Luật, tôi bị động viên, rồi
trực thăng thả chúng tôi lên đỉnh núi tử thần này.
Đó là một ngọn núi chiến lƣợc. Bên nào chiếm giữ
đƣợc nó coi nhƣ khống chế toàn bộ cả vùng rừng
núi bao la trải dọc mạn tây-bắc thành phố, và hơn
hết nó là cái nút chai bịt kín, ngăn không cho đối
phƣơng tràn xuống đồng bằng ven biển. Nó là cái
yết hầu. Đƣợc là có tất cả. Mất là mất tất cả. Hai
bên quần nhau từ ngày này sang tháng khác.
Thƣơng vong là chuyện cơm bữa. Chúng tôi có phi
pháo yểm trợ tối đa, còn đối phƣơng thì có núi
rừng điệp trùng, có những gộp đá che chắn cùng
với sự liều lĩnh…Bất phân thắng bại bởi đồ tiếp tế
(súng đạn, nƣớc uống, lƣơng thực…) từ trên cao
thả xuống đỉnh núi chỉ đến đƣợc tay chúng tôi
phân nửa. Phần còn lại là cánh quân lẫn trong màu
lá rừng. Cả hai đều đƣợc tiếp tế đầy đủ nên tha hồ
quần thảo nhau nhƣ thuở nhỏ chơi trò cút bắt. Tới
một đêm mƣa lắc cắc, cái lạnh của khí đá tràn về
cũng là lúc họ dồn tất cả mọi hoả lực tấn công lên
vành đai phòng thủ. Hình nhƣ họ từ dƣới lòng đất
162 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
chui lên, từ các cành cây hay trời cao bay xuống.
Vành đai phòng thủ phía đông-nam bị vỡ, rồi tiếp
tới mạn sƣờn phía bắc. Vậy là bao nhiêu bom đạn
từ các chiến đấu cơ điên cuồng đổ xuống nhƣ vãi
cát. Một ngày u ám, một ngày rung lên và bắt đầu
cuộc giết chóc man rợ nhất: xoá sổ cả đại đội để
xoá sổ luôn quân địch. Các đại đội trƣởng, đại đội
phó đều tử thƣơng, trung đội đều tử thƣơng. Tôi là
chuẩn uý mới ra trƣờng nắm quyền chỉ huy 14
ngƣời lính sống sót, mình mẩy đầy thƣơng tích.
Chúng tôi không đủ hơi sức chống đỡ hoả lực từ
bên dƣới bắn lên, từ trời cao dội xuống. Ngày tàn
của kiếp ngƣời đã hiện rõ, thật rõ theo những
chùm bom lấp loá trong ánh sáng hoả châu. Và
không hiểu sao, tất cả 14 con ngƣời sắp về với cát
bụi kia cùng một lúc hƣớng mũi súng lên trời cao
bắn nhƣ điên nhƣ cuồng vào cõi trống không, nhƣ
thể thoả mãn chút tủi nhục cay rát đang tòe ra. Bởi
kẻ thù của chúng tôi lúc ấy, chính là những chiếc
chổi nhớp nhúa trên cao kia chứ không phải quân
đối phƣơng đang tiến lên, cũng không phải chủ
nghĩa, ý thức... này nọ. Sự sống và cái chết nhƣ
một cành cây giữa giông bão. Mà bản năng con
ngƣời luôn giành lấy sự sống trong tình cảnh khắc
nghiệt trƣớc mặt. Và rồi điều tệ hại nhất đã đến:
hàng loạt bom tấn cuối cùng cũng dội cả lên đầu
chúng tôi, lên tất cả những ai còn thở trên đỉnh núi.
Những ngƣời lính của tôi, ngƣời ngã vật ra máu
phun thành vòi, ngƣời bị nhấc bổng lên cao rồi rơi
xuống nhƣ thể ngƣời ta cầm con cóc ném lên cao.
163 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Phần tôi chỉ kịp nghe một tiếng nổ long trời lở đất
và một cột lửa bốc cao để thấy mình đang bay vào
cõi chết tức tƣởi, ô nhục nhất của tuổi trẻ”.
Chủ quán nhìn ngƣời khách lòng trĩu nặng,
ái ngại. Chiếc bật lửa và điếu thuốc cầm sẵn trên
tay, nhƣng lửa không đốt lên, khói không bay ra.
“Ơn trời phật, anh đã thoát chết, nhƣ…ƣƣng…”.
Chủ quán ngập ngừng, bỏ lửng câu cuối. Khách
nhìn chủ quán, hàm ơn sự cảm thông, chia sẻ. “
Tôi không biết tại sao mình sống sót trong cái chảo
lửa khổng lồ kia. Khi mở đƣợc mắt, cử động đƣợc
chân tay việc đầu tiên là vẹt những lớp đất đá phủ
kín ngƣời nằm bên cạnh. Không phải là ngƣời lính
mà một cô gái. Túi cứu thƣơng vắt ngang ngực cô
ta có hình chữ thập đỏ ƣớt đẫm máu. Quần áo cô ta
rách toạc, mặt mũi đen nhẻm nhƣ anh lính cứu hoả
vừa từ đám cháy dữ dội phóng ra. Tôi rút chiếc
bình đông, nhỏ từng giọt nƣớc nhỏ vào miệng,
dùng vạt áo rách lau mặt mũi…rồi tìm vết thƣơng
trên ngƣời: bàn chân bị dập gãy, bên hông sƣợt
một vết sâu. Những vết thƣơng trên ngƣời cô gái
không rõ có phải do mảnh bom đạn hay là những
vết cắt, dần của những mảnh đá vỡ xán vào. Máu
me đầm đìa. Tôi nắn đến đâu cô ta cong ngƣời lại
đau đớn tột cùng. Tôi mở túi cứu thƣơng thấy có
cả dao kéo và thuốc nhƣng chẳng biết phải làm gì
với chúng. Tôi dùng băng cá nhân từ chính chiếc
túi xách trên ngƣời cô băng bó các vết thƣơng,
nhƣng máu cứ chảy ra nhƣ những mạch nƣớc
trong các khe đá. Tôi chỉ làm đƣợc có vậy. Chung
164 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
quanh không còn ai, không có gì để có thể cứu cô
gái tỉnh lại và bớt đau đớn. Những ngƣời lính nằm
vắt ngang trên những phiến đã vỡ, thân thể bẹp nát
nhƣ vừa lấy ra từ cối xay bột! Tôi bất lực, đầu óc
mụ mị đông cứng trƣớc cảnh tƣợng đó. Lâu sau cô
ta ú ớ giống tiếng nứt vỏ của hạt cây nào đó từ
lòng đất. Tôi nâng đầu cô lên, ghé vào tai nói bằng
chút sinh khí yếu ớt: Cô can đảm lên. Sẽ có ngƣời
đến cứu. Cô ta mở mắt nhìn tôi và kinh hãi đến tột
độ qua ánh mắt tôi nhìn thấy, thì thào: “Còn
chờ...ba…án” . Tôi siết thật chặt bàn tay nhỏ nhắn
của cô gái cứu thƣơng giọng phấn khích: “Chúng
ta đều là những nạn nhân khốn khổ…”. Không rõ
cô có nghe đƣợc câu tôi nói không. Tôi chắc là
không bỡi cô lịm đi, hơi thở thoi thóp. Trời bắt đầu
mƣa lắc cắc, gió lạnh lùa về mang theo bóng đêm
ghê rợn. Với chút hơi sức còn sót lại, tôi mở chiếc
áo chống đạn đắp lên ngƣời cô, kéo những cành
cây gãy phủ lên che mƣa, chắn gió. Nửa đêm gió
lạnh dữ. Cô gái kêu khát. Tôi mở nắp bình đông
với niềm hy vọng sẽ có ngƣời đến, dù bên này hay
bên kia để cứu cô. Vì trong giờ phút ấy, tôi nghĩ
bên nào tìm thấy chúng tôi, ranh giới thù hận sẽ
không còn ai nghĩ tới. Hai sinh linh thoi thóp kia
cần phải đƣợc sống bỡi họ còn tuổi trẻ, họ còn
ngày mai.
Bả vai trái của tôi bắt đầu đau nhức ghê
gớm. Tôi có cảm giác nhƣ chiếc áo trận nơi bả vai
cứ phồng lên từng giây từng phút. Cô gái bắt đầu
mê sảng, sốt hầm hập. Bằng hơi thở yếu, giọng đứt
165 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
khúc cô nói: “...cái ví trong túi áo. Nhà tôi ở phố....
Tấm ảnh gia ….”. Phải khó khăn lắm tôi mới nghe
tiếng đƣợc tiếng mất. Tôi kề sát vào tai nói không
sao cả, cô sẽ đƣợc cứu, cô sẽ đƣợc trở về với gia
đình, chúng ta sẽ đƣợc cứu sống. Đồng đội của cô
sẽ đến ngay. Một lúc sau giọng cô bất thần vụt
sáng chói nhƣ chiếc bấc đèn giữa đêm gió lạnh cắt
da: “Bên trƣờng Y, tôi còn…” Tôi kề tai sát môi
cô gái nhƣng không nghe đƣợc gì nữa. Cô cong
ngƣời lên, tay bấu chặt vào ngƣời tôi. Tôi vội vàng
ôm ngƣời cô nhƣng thân hình mỏng manh đầy
máu me kia nguội dần, lạnh dần sau tiếng nấc
nghẹn.
Đêm tối đen. Gió vi vút thổi qua ngọn đồi
tan nát. Đất đá rơi xuống. Tôi không biết cả hai
đang nằm ở đâu, trên đỉnh, lƣng chừng núi hay đáy
vực. Tôi ôm xác cô và khóc. Tôi khóc vì sự bất lực
của mình. Tôi khóc vì sự tàn nhẫn của chiến tranh,
phi lý của một kiếp ngƣời, lòng hờn oán…Tôi
khóc cho tuổi trẻ chúng tôi và rồi lịm đi...
“Chiến tranh thì ở đâu và lúc nào cũng
vậy…, chủ quán thở dài với giọng buồn bã, trƣớc
tôi cũng ở binh đoàn Hƣơng Giang, cũng từng
chứng kiến cảnh vật vã của thƣơng binh miền
Nam, của đồng đội chúng tôi sau những trận đánh.
Tôi cũng nhìn tận mắt cái chết của họ trên tay, tôi
đã nhìn thấy nụ cƣời của họ khi nhìn tôi trong giây
phút cuối cùng. Nhƣng khốn thay những nụ cƣời
ấy không làm cho chiến tranh ngƣng lại cho tới
khi…”. Khách ngạc nhiên nhìn chủ quán với cái
166 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
nhìn đồng cảm. “Tôi định bụng khi tỉnh dậy sẽ
dùng chút sức thừa còn sót, đào cho cô ta và các
chiến hữu của tôi một mộ huyệt, sẽ xếp những viên
đá bị bom dội nát kia thành một nấm mồ tuyệt đẹp
cho họ, nếu có thể. Nhƣng điều đó đã không đến,
không bao giờ đến đƣợc; cũng nhƣ từ khi tôi nhìn
thấy đồng đội tôi ngã xuống...đến lúc cô tắt thở...
Tôi luôn cầu khấn cho cô qua đƣợc cơn đau đớn
khủng khiếp, cô sẽ sống và trở về với gia đình, với
những ngƣời thân yêu. Nhƣng điều đó đã không
xảy ra. Lòng thành của tôi không thấu trời cao…”.
“Rồi phép màu nào anh đƣợc cứu sống?”, chủ
quán hỏi.
Khách xoay ly cà phê nguội ngắt trong lòng
tay. “Đó là một bi kịch của đời tôi. Thay vì chết tôi
đã sống. Thay vì sống để tự tay chôn cất cô gái
xấu số kia thì tôi lại mất tất cả: Tỉnh dậy tôi thấy
mình đƣợc nằm trên chiếc giƣờng trắng tinh,
ngƣời đƣợc băng bó nhƣ đang khoác tấm áo
choàng lông trắng, sợi dây dài lòng thòng chuyền
sự sống vào ngƣời tôi… Nƣớc mắt tôi ứa ra. Lúc
này tôi tỉnh táo hoàn toàn dù khắp ngƣời vẫn đau
đớn. Những gì hiện ra đầu tiên trong đầu óc tôi lúc
đó không phải là cha mẹ, anh chị… mà là cô gái
máu me đầm đìa là những đồng đội không toàn
thây. Những ngƣời bạn của tôi và cô gái không
đáng phải nhận lãnh cái chết nhƣ thế. Và điều tệ
hại nhất khi tôi xuất viện (trên một chiếc tàu ngoài
khơi) tất cả quần áo, vật dụng cá nhân đã biến mất.
Chiếc ví cô gửi gắm cũng biến mất. Trong đầu tôi
167 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
chỉ còn mấy từ chợ gì đó và trƣờng Y nhảy múa...
Tôi gào lên nhƣ một đứa trẻ bị mất đồ chơi.
Chiến tranh thì có tội với tuổi trẻ. Còn tôi
thì có tội với cô gái không nhìn rõ mặt, cũng
không biết đƣợc tên tuổi, bởi tôi đã không thực
hiện đƣợc lời gửi gắm cuối cùng”.
Chủ quán tới lúc này mới đốt điếu thuốc
nhƣng cứ giữ mãi giữa hai ngón tay. Vòng khói
trắng la đà cất lên rồi tan nhanh trƣớc mặt hai
ngƣời. Vòng khói nhƣ có nhƣ không kia khiến
ngƣời khách chạnh lòng nhìn sững.
Khách đột ngột đứng lên, chìa bàn tay
khẳng khiu về phía chủ quán: “Cảm ơn ông đã cho
tôi ngủ nhờ một đêm. Giờ thì tôi phải lên ngọn núi
kia”.
Chủ quán bóp chặt tay khách, không nói
câu nào, yên lặng nhìn ngƣời khách lạ khoát túi
xách lên vai, bƣớc ra khỏi quán với đôi vai lệch
làm cho những chân nhang màu đỏ nhô trên miệng
túi đeo, lủng lẳng trên vai cứ nhảy nhót theo từng
bƣớc chân khập khễnh của ông ta.■
(Thủ Đức, 3/2010)
168 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
MƯA TRÊN SÔNG ĐAKBLA
____________________________________
Trên đoạn đƣờng dài hơn ba trăm cây số,
nẩy xóc, ngân ngất ổ gà ổ vịt khiến không mấy ai
còn hứng thú để chuyện trò nhƣ lúc đầu hăm hở
ngồi trên băng ghế nệm. Cách đây vài tiếng, khi
vừa mới bƣớc lên xe, đám hành khách ồn ào
chuyện nói, chuyện kể. Mấy ngƣời đi buôn nói về
giá cả lên xuống bất thƣờng và chắc mẩm rằng
mình sẽ bán đƣợc nhiều hàng với giá lời cao.
Ngƣời phụ nữ đi xa nhà lâu ngày nói về sự nhớ
nhung hai đứa con nhỏ, tự chị nói ra rằng chúng
học rất giỏi, rất ngoan ngoãn. Sau những lời khen
ấy, hẳn chị sẽ tƣởng tƣợng rằng mình sẽ đƣợc
chúng reo mừng đón ngay trƣớc cổng. Vậy mà lúc
này ngƣời đàn bà buôn đồ khô bỏ rớt những lời lẽ
ba hoa về những con cá phơi trên bãi cát, những
đêm trắng chờ chồng cỡi lƣng sóng bão; ông cán
bộ thƣơng nghiệp mập ú, cổ ngấn mỡ bốc phét về
công việc điều hành buôn bán trong cơ quan của
ông ta, đang nhƣ chiếc bị vải lăn qua, lăn lại trên
ghế theo nhịp xe nghiêng võng, thỉnh thoảng lại
ngã hẳn lên vai ngƣời phụ nữ ngồi kế bên, khiến
169 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
chị ta phải khó nhọc lắm mới đẩy đƣợc ông trở lại
vị trí cũ. Ở hàng ghế bên kia, ngang với ông cán
bộ là cậu thanh niên mang kiếng đen, giống nhƣ
những tay thám tử. May mà cậu ta không dòm
ngó, xoi mói ai, chỉ bông lơn khoe mẽ về bản thân
với cô gái ngồi cạnh cƣời ngặt nghẽo mỗi khi anh
ta pha trò. Còn lại là những ngƣời có tuổi và hai
đứa bé. Họ yên lặng ngó trời nhìn đất, cây cối, nhà
cửa... chạy vụt về phía sau, đang suy nghĩ những
gì không ai biết. Những ngƣời ngồi trong xe, bên
cạnh nhau có cớ để giải bày chút tâm sự trên đoạn
đƣờng dài, có khi sẵn sàng thổ lộ tâm can với
nhau.
Lúc xe lên đèo qua những đoạn vòng vèo,
lắc lƣ, gấp khúc nghe có tiếng giấy sột soạt, mùi
dầu gió bay dạt, trôi lều bều trong lớp không khí oi
nồng buổi xế chiều. Có giọng đàn bà la lên: “chạy
từ từ, đừng có bẻ cua gắt quá, cơm cháo lộn lên tới
cổ rồi nè”. Tiếng cƣời lục khục, lẻ loi chìm nghỉm
đâu đó cùng mùi dầu gió lúc càng nồng nặc hơn.
Lên tới đỉnh đèo, tài xế cho xe đậu dƣới tán hàng
keo lá tràm trồng dọc theo đƣờng, chỗ gần vòi
phun nƣớc tự nhiên dẫn từ đỉnh xuống. Mọi ngƣời
lục tục xuống xe. Ông cụ ngồi cùng băng ghế, sau
khi làm công việc vệ sinh cá nhân, bƣớc đến chỗ
tôi đứng, hỏi:
-Mấy tiếng nữa xe mới tới Kontum?
-Giờ mới trên đèo An Khê, chạy kiểu này
chắc xẩm tối mới tới nơi.
170 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
-Khổ dữ đa. Không biết có tới đƣợc Tân
Cảnh không đây? – Ông cụ thở dài, xa xôi.
Tôi chƣa kịp hỏi han điều gì, ông cụ tiếp
lời:
-Tôi đi thăm mộ thằng con, chết hồi mùa hè
đỏ lửa, năm 72. Tôi có mình nó. Bao nhiêu lần
định bốc mộ đƣa về Diên Khánh, nhƣng vợ nó
không chịu, nói “ảnh sống trên này với con, giờ
chết đi ảnh cứ sống với con, ba đừng lo”. Con nhỏ
đó gan ruột, mấy chục năm vẫn ở vậy nuôi con,
mua đƣợc chục hecta cà phê, dựng vợ gả chồng
cho hai đứa cháu. Mấy năm trƣớc cà phê còn có
giá đời tụi nó lên hƣơng chút đỉnh, nay thì sống dở
chết dở. Lần này tôi lên bàn với nó, bán nhà, vƣờn
cà phê đƣa lũ cháu về dƣới này. Tôi đã lên cố rồi
mà nào có ai bên cạnh. Đứa con gái và lũ cháu
ngoại thỉnh thoảng tạt về thăm rồi biến mất. Chúng
thoắt hiện thoắt biến nhƣ bầy chim ăn đêm. Còn
đám cháu nội thì xa xuôi dặm trƣờng, hiếm khi
chúng về. Kiểu này mà kéo dài có khi máu mủ ruột
thịt lại lẫn lộn với nhau. Tôi lên lần này là để bàn
với chúng nó gom về một mối. Tôi chỉ còn sống
nay chết mai thôi. Biết làm sao, chú? Già rồi, đâu
ngủ nghê gì đƣợc. Đêm thức trắng, chỉ có bức ảnh
của thằng con trên bàn thờ. Nó và tôi ngó nhau
trong bóng tối, gần vậy mà không nói đƣợc lời
nào!
Giọng ông cụ buồn buồn khiến tôi cũng
buồn lây.
171 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Mà thật ra, tâm trạng của tôi lúc này cũng
không khác ông cụ mấy. Cũng một thứ cảnh ngộ
khá bi hài. Tình yêu. Cuồng dại. Sự Chia ly. Nỗi
nhớ thƣơng khắc khoải đến dằn xé nỗi lòng, ngoi
ngót những trông đợi kéo lƣớt thƣớt bên ngoài
khung cửa, bay qua bầu trời chao động cõi lòng
tan nát. Ông cụ nhớ con thƣơng cháu, lo sợ sự gìn
giữ huyết thống mai sau không trọn vẹn, còn tôi
thì thƣơng nhớ một cõi mênh mông rừng rú mộng
mị. Cõi mộng mị ấy đã bị Siu B‟Liêng mang tận
lên rừng sâu núi cao, để giờ này tôi phải ngất ngƣ
chạy theo một cái bóng vừa thật, vừa hƣ. Trong
những cơn sốt màu vàng tả tơi trên giƣờng, tôi
nghe tiếng nàng hát trên giòng Sésan chỗ đoạn
ngoặt tiếp giáp giữa sông Poko với sông Đakbla,
tiếng hát mang mang theo giòng nƣớc ngầu đỏ đất
bazan, lúc ầm ầm cuốn tung nỗi hân hoan của
tiếng thác đổ, lúc rì rào lăn tăn, ve vuốt qua từng
phiến đá hai bờ. Nàng nhƣ con nai, con hoẵng trên
đồng cỏ ngút ngàn, nhƣ cánh cò trắng muốt, lặng
lẽ bên các tum nƣớc. Nàng ẩn hiện nhƣ thứ ráng
chiều chói rực chao trong cơn nắng quái rồi trƣờn
mất vào bóng đêm, đằng sau chỉ còn lại một vệt lờ
mờ bay lên từ đất, từ muôn loại cỏ cây quấn thành
cột khói hƣ huyền, kết tụ rồi tan nhanh rồi quay lại
vất vơ trên những cành lá, nhƣ có nhƣ không.
Mƣời sáu năm rồi tiếp nối niềm hân hoan
mệt lả, nỗi buồn nhớ mệt lả.
Và mỗi lần chợt nhớ những giây phút sum vầy,
hạnh phúc bên nhau, con tôi lại hỏi:
172 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
“Tại sao mẹ không yêu con, yêu ba mà bỏ về với
núi rừng?”.
Câu hỏi ấy tôi không giải thích nổi với nó, cũng
nhƣ Siu B‟Liêng, nàng không sao giải nghĩa rành
rọt cho con hiểu! Chúng tôi đành phải chấp nhận
cứ mỗi sáu bảy tháng một lần làm cuộc hành
hƣơng về chốn tình yêu, hoặc với tiếng sóng lõa
thể động ầm ầm trƣờn dọc theo bãi cát; hoặc trên
cánh đồng cỏ xanh, mƣợt đến tận cùng mƣợt của
những ngọn lông tơ. Chúng tôi vùi nỗi nhớ vào
nhau nhƣ con thú hoang trong mùa trăng mật.
Rừng núi thì níu kéo biển lên non và biển khơi
mênh mông thì níu kéo rừng xuống thật gần, quấn
cánh tay trần vào nhau không buông dứt. Nhƣng
sự cuồng say ấy rồi cũng tơi tả, tơi tả nhƣ cành lá
bị cơn bão dữ quật nát búp non mởn, để mỗi ngƣời
một bên cầu sông Đakbla nhìn nhau vẫy tay, rớt
nƣớc mắt.
Dòng sông Đakbla là một thứ định mệnh khắc
nghiệt trói chặt cuộc đời chúng tôi lại với nhau, để
sau đó, mỗi ngƣời một đầu mố cầu nhìn nhau lặng
lẽ lúc chia tay.
Cái định mệnh tơi tả ấy là tôi đã vít cong cần rƣợu,
cong đến tận cùng cơn say tuổi trẻ để sau đó theo
chân đám con trai trong làng mang đàn gông đứng
dƣới chân cầu thang nhà nàng, nghêu ngao hát,
nhƣ con thỏ con đang tập ăn cỏ non, con chìa vôi
đang tập hót.
173 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
thau ddơi dơi
ih bblac jiong tỏnia
em ơi anh quá biết
nước da em rạng ngời như gỗ cây knia
em mượt mà như cây cẩm hương
thân hình em đẹp quá
thấp thoáng bắp chân em
Như tia chớp tháng hai
Thấp thoáng cặp đùi em
như sét đánh tháng ba
để trần cặp vú em
cả làng ta bốc cháy
tỏlũk phun tỏsau
ja’bung sang...
Cái giọng hát ngật ngƣỡng la đà câu say câu
tỉnh của tôi khiến những tiếng cƣời không thể nén
lại, chợt bật ra đâu đó trên sàn nhà cao, ba hay bốn
gì đó không thể phân biệt đƣợc trong đêm tối nhập
nhòa bên đống lửa sáng rực dƣới hiên. Những
tiếng cƣời trong veo của gió núi đại ngàn, của
dòng suối sáng bạc dội đập vào cõi lòng hoang
mang, ngơ ngẩn…
Tụi con trai tiếp tục đàn và nhảy múa. Còn
tôi thì mồ hôi rớt thành hột dài bởi tiếng cƣời, kích
động nỗi háo hức ham muốn chƣa định hình, chƣa
có tên gọi.
Những mắt củi nổ lép bép, toé những hạt đỏ li ti
trong trẻo, reo vui với đêm xuống sâu, với tiếng
đàn thánh thót, ngân xa và cả tiếng cƣời rúc rích
174 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
nửa xua đuổi, chế giễu, nửa mời gọi. Các cô gái
vẫn núp đâu đó trên sàn. Đám con trai nhảy quanh
ngọn lửa bập bùng, hát mãi không thôi, nhƣ cơn
mƣa đầu mùa làm bay động những con mối từ tổ
bay ra và quấn quít trên không trung.
Bất chợt từ trên sàn nhà cao, tiếng hát lƣớt
nhẹ nhƣ tơ nhƣ gió, phả vào mặt đám trai làng, phả
vào tôi đến ngất ngây còn hơn men rƣợu cần đang
loanh quanh trong cơ thể bắt đầu nóng dần lên:
ơi anh bạn xinh xinh
anh rình theo vết chúng em
vết chân con gái bên bờ suối
vết chân anh bị xóa đi trên cát
và anh cũng mất cả
dấu chân chúng em
...
chân chúng ta cùng gặp
theo một điệu
tay chúng ta cùng uốn
theo một nhịp
đôi má ta chạm vào nhau
và nhận ra nhau.
Tiếng hát bay lƣợn quanh đống lửa, trên
đầu chúng tôi mang theo mùi hƣơng của trăm ngàn
loài hoa rừng trộn lẫn với mùi đất thơm lừng lựng.
Tôi nhận ra nàng qua tiếng hát khói sƣơng. Chính
cô ta, ngƣời con gái của núi rừng đại ngàn sâu
thẳm, chứ không thể là ai khác vừa cất tiếng hát
nhƣ suối trong, thác reo đó. Thằng K‟lƣng Đrăck
khều tay tôi:
175 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
-Mày bắt nó về làm vợ đi. Nó đẹp nhất
trong số con gái đẹp trên cao nguyên này. Nó học
chữ nhiều. Nó nói đƣợc tiếng tây, ăn cơm bằng
muỗng, bằng nỉa chớ không bốc nhƣ bọn tao. Nó
giống tụi bay.
Tôi gật đầu nghe K‟lƣng nói chứ không
thấy mặt mũi “Nó” ra sao. K‟lƣng tiếp:
-Mày ƣng, nó sẽ cƣới mày ngàn con bò,
trăm ché túc và nhiều thứ nữa.
-Tao không biết. Tao chỉ đi hát với tụi bay
thôi. Mà sao “nó” không bắt đứa nào trong đám
bọn bay làm chồng?
-Con mắt nó không chịu ngó tới ai. Bụng nó không
ƣng tụi tao. Mày chƣa thấy nó đâu. Nó đẹp đến nỗi
những con báo cái đẹp nhất xứ này cũng lồng lên
mà ghen với nó. Nó nói chuyện đƣợc với mấy ông
Tây về thăm làng. Nó rất thƣơng ngƣời già và lũ
con nít. Cái bụng nó rộng rãi mà...
Đống lửa tàn dần.
Đêm sâu hun hút những xao động vu vơ.
Tôi nhập vào đám trai làng quàng vai nhau,
chân thấp chân cao trở về, kéo theo những cần
rƣợu say, những câu hát say, lửa hồng và đêm
rƣng rƣng trên mặt cỏ đẫm sƣơng. Tôi kéo “nó”
theo trên những cọng cỏ đẫm sƣơng đêm, kéo theo
những âm thanh nhƣ thật nhƣ hƣ, thênh thênh
trong đêm khuya khoắt.
đôi má ta chạm vào nhau
và nhận ra nhau
176 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Câu hát vời vợi mời gọi đó ám theo đầu óc
tôi, rƣng rƣng bƣớc chân tôi liêu xiêu nhƣ bay nhƣ
lƣớt trên con đƣờng đất đỏ say nhè, trên đồi cỏ
sũng sƣơng đêm bên kia bờ Đakbla.
Và trên con đƣờng đất đỏ ấy, trên bãi cỏ
hoang ngậm sƣơng ấy, tôi đã nhận ra nàng trong
cõi thênh thang tiếng hát ngọt ngào, ngây ngất nhƣ
vừa đƣợc uống thêm chén rƣợu bồ đào.
Mãi về sau này, khi đã là vợ tôi, nàng mới
hé lộ cái đêm đầu tiên và thần tiên “chạm vào
nhau”.
“Nghe cái giọng anh hát buồn cƣời thật, y
nhƣ mấy ông nƣớc ngoài tập hát tiếng Việt. Em để
bụng thƣơng anh cũng chỉ vì bài hát bọn trai làng
bày cho anh, cái giọng hát ngọng nghịu, đơ đớ
nghe ngồ ngộ, nhƣ con chim non mới tập hót, con
gà tập gáy vậy. Điều này giống nhƣ đám con nít
hồi nhỏ tụi em cố chứng minh mình là ngƣời lớn”.
Từ đó chỉ có nàng hát cho tôi nghe, rồi con gái tôi
nghe bên tao võng. Nàng không bày tôi thêm bài
nào nữa cả, nói “đủ rồi, để em giữ mãi giọng hát
lần đầu anh tập hát”.
Biển động dữ dội, ầm ì suốt ngày đêm. Đài
trực canh báo có bão gần. Mây đen vần vũ và mƣa
tối đƣờng. Mƣa và gió quần nhau nhƣ trẻ con chạy
cút kiếm, lúc hất bên này, lúc tạt bên kia, xoáy tròn
tròn trên mái. Hạ Cơ thỉnh thoảng lại giật mình
khóc thét sau tiếng sấm động. Siu B‟Liêng bƣớc
tới ôm con vào lòng ru ấp, mắt buồn vời vợi. Mƣa
177 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
bão và sấm chớp khiến nàng chạnh lòng nhớ
những quả đồi thoai thoải, tiếng con mang tác, con
công tố hộ, gà rừng te tát trên ngọn cây? Đầu óc
tôi nghĩ vậy, nhƣng thầm mong chuyện ấy không
bao giờ là sự thật. Chúng tôi thật sự yêu nhau,
ngƣời này không thể thiếu ngƣời kia. Hạnh phúc
của chúng tôi tròn đầy. Nhƣng thỉnh thoảng nàng
lại xa xôi nhìn những đám mây trôi về hƣớng mặt
trời lặn. Nhiều lần tôi gặng hỏi, nàng một mực
không có gì. Bữa nay, điệu bộ ấy đƣợc lặp lại
trong một thoáng xa xăm cuối đáy mắt, khiến tôi
chạnh lòng.
-Hay em về trên đó vài tuần, với mẹ, với
làng?
-Em mới đi ba tháng trƣớc đây. Thôi, để
mùa trăng cúng cơm mới em và anh và Hạ Cơ
cùng về thăm làng luôn.
Buông câu nói, tôi nhìn sâu vào đôi mắt
nàng, thấy long lanh một niềm vui vàng vọt nhƣ
cánh hoa bồ xít vàng ngoài tƣờng rào.
Biển đập ầm ầm. Sấm chớp xòe sáng mọi
ngóc ngách trong nhà.
Nửa đêm Siu B‟Liêng ngồi bật dậy, kéo cả
tôi theo nhƣ một thứ phản xạ tự nhiên.
-Anh nói đúng, sấm chớp thế này khiến em
nhớ rừng quá đỗi là nhớ.
-Anh cũng vậy. Anh nhớ chân cầu thang
dƣới hiên nhà em, nhớ những đốm lửa nổ tí tách,
nhớ dòng sông đỏ quạch màu son, chảy ngƣợc lên
dãy Trƣờng Sơn trƣớc khi đổ ra biển Đông.
178 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
-Những năm em học ở Couvent des
Oiseaux, thầy J. Dupont vẫn thƣờng nói với tụi
em, nói trong giờ ra chơi, rằng có sống chung, sinh
hoạt chung với đồng bào cao nguyên mới hiểu thế
nào là tình yêu đất, yêu rừng và rồi ông phát hiện
vô số những định kiến mà ngƣời kinh dƣới xuôi,
ngƣời châu Âu đã và đang tiếp tục đối xử với đồng
bào cao nguyên bằng sự so sánh không công bằng,
thiên lệch.
-Ai nói với em những điều này?
-Thầy J. Dupont. Thầy chỉ phát hiện nói ra,
chứ còn dân tộc tụi em thì đã nhìn thấy các vấn đề
từ sự bày biện có sẵn trƣớc mặt, từ đời này qua đời
nọ mà các anh gọi là tập quán. Chẳng hạn, tự đáy
lòng sâu thẳm, mà nền văn minh chữ nghĩa các
anh gọi là Tâm Thức thì núi rừng đối với tụi em là
ngôi nhà chung. Rừng là hơi thở, là mạch máu, là
đƣờng gân, thớ thịt không thể thiếu, không bao giờ
chia cắt đƣợc. Sống thiếu rừng, thiếu sông suối
chẳng khác nào cây lúa, cây bắp nhổ gốc phơi trần
trên mặt đất khô khốc, nhƣ xua đuổi bầy thú ra
khỏi cánh đồng cỏ, sông suối vậy.
-Điều này đã quá rõ ràng – tôi nói.
-Hẳn nhiên. Nhƣng những điều không rõ
ràng chính là cái nhìn lỗi phạm khi cho đồng bào
thiểu số mê tín, văn hóa ăn và văn hóa ở bất cập.
Họ sinh sống ở giữa lòng những cánh rừng đại
ngàn thì họ phải cất nhà sàn, phải nấu ăn ngay
trong nhà, lửa cháy suốt đêm ngày... để nòi giống
còn tồn tại tới ngày nay. Những ông tây bà đầm và
179 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
ngƣời miền xuôi dạng hai chân trên nền văn hóa
của dân tộc này để ném một cái nhìn lệch chiều về
một nền văn hóa của dân tộc khác là điều không
thể chấp nhận. Văn minh và văn hóa là hai khái
niệm, hai phạm trù khác biệt nhau. Văn hóa của
ngƣời Mỹ là gì?
-Anh hiểu rồi. Anh hiểu đất, rừng và sông
suối kể từ khi anh có em. Anh cũng đang bắt đầu
thuộc về rừng nhƣ em. Thôi ngủ đi. Không biết
bão có vào hay quay hƣớng đi xa?
Siu B‟Liêng chảy nƣớc mắt trên ngực tôi.
-Tại vì quá yêu anh nên em đã phản bội
rừng, phản bội con sông, con suối.
-Em đã biết rồi mà, anh chƣa bao giờ có
định kiến với cao nguyên. Nếu vậy anh đã không
lấy em từ lâu rồi. Cả em cũng vậy, phải không?
-Em không biết. Nhƣng chắc chắn xứ sở em
là rừng núi, sông suối thác gềnh, là bầy thú hoang,
là những cánh đồng cỏ mênh mông, rờn xanh từ
phía mặt trời mọc sang bên mặt trời lặn, từ đỉnh
chân trời này giáp đỉnh cong trời đất kia.
-Thì em và anh không ở chỗ giáp đỉnh cong
trời đất kia là gì?
-Không phải vậy. Ở đây chỉ có sự gào rú
suốt ngày đêm. Biển gào rú. Phố xá gào rú. Tất cả
đồng thanh cất lên một thứ âm thanh thật dễ sợ.
Những lúc anh đi vắng, em cố lắng nghe tiếng thì
thào nhƣ ru, nhƣ hát, những âm thanh mỏng nhƣ
dòng nƣớc vuốt ve hòn đá xanh rong rêu... nhƣng
chẳng bao giờ em nghe đƣợc. Anh còn nhớ không?
180 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Hãy nói lại cảm giác của mình khi lần đầu em đƣa
anh vào khu rừng P‟lick Jar?
-Anh không chú ý gì cả giữa khu rừng trùng
trùng cây to cây nhỏ, vì em đã choáng hết chỗ
trong khu rừng đó. Trƣớc mắt anh chỉ có em mà
thôi. Duy nhất một mình em.
-Đó chỉ là tình yêu anh dành cho em. Còn
P‟Lick Jar là một thế giới mê hoặc níu giữ bƣớc
chân ngƣời, bởi nó là cánh rừng già đẹp nhất của
em, đẹp từ tuổi ấu thơ cho mãi đến giờ. Chính nó
chứ không ai khác đã che chở em và dân làng,
nuôi dƣỡng, phả hơi thở thơm ngọt mùi mật ong
vào thớ thịt mọi ngƣời. Rồi những cây đại thụ
hàng trăm năm tuổi xoay tròn tán lá trong gió và
nắng trên một thảm cỏ mƣợt nhƣ nhung. Cả con
ngƣời và chim thú đều gặp nhau trên mảnh đất ấy,
rất bình yên; một nơi chốn mà có nằm mơ cả thế
giới văn minh cũng không tìm đƣợc nơi thứ hai
trên trái đất này.
-Ngay ngày mai, anh có thể đƣa em về thăm
núi rừng. Em biết là anh sẽ làm bất cứ điều gì để
em vui, để anh không mất em, chúng ta vĩnh viễn
bên nhau.
-Em cũng vậy. Em yêu anh nhƣ con nai yêu đồng
cỏ của nó, nhƣ con chim yêu cành cây của chúng,
nhƣ con cá lúi cá mƣơng lƣợn lờ bên khe nƣớc
trong soi mặt. Em không thể thiếu anh, nhƣng nếu
phải xa cách rừng núi quá lâu ngày, thì nỗi nhớ
nhung ấy sẽ dày vò đến làm em chết mất, chứ chƣa
nói chi đến sự trừng phạt của Yang.
181 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
-Khi yêu nhau, thánh thần không nỡ bắt tội.
-Nhƣng rừng núi bắt tội em. Mà tại sao anh
không dám bỏ biển lên rừng với em, nhƣ em đã
từng làm cho anh? Nền văn minh cơ khí luôn có
cái nhìn khắt khe với ngƣời khác, ngắm nghía văn
hóa của dân tộc khác theo cái nhìn một chiều của
mình?
-Chẳng lẽ huyền sử Âu Cơ và Lạc Long
Quân lại rơi đúng vào trƣờng hợp của chúng
mình? Tổ tiên ta có những trăm ngƣời con để chia
nhau đồng đều. Còn em và anh chỉ có mỗi một
mình Hạ Cơ, chúng ta phải làm sao đây cho rừng
núi không bỏ em, cho đồng bằng, biển khơi không
quay lƣng lại với chúng ta, hỡi Siu B‟Liêng?
Nàng im lặng không nói gì, vùi đầu vào ngực tôi
khóc nhƣ mƣa bão đổ sầm sập ngoài kia. Tôi vuốt
ve khuôn mặt nhòe nhoẹt nƣớc mắt nàng. Thân thể
nàng rung bần bật từng cơn dài nhƣ những cây
bằng lăng cong oằn dƣới gió bão. Một sự chịu
đựng phi thƣờng đến quá mức đối với nàng, một
đứa con của rừng, dần dần lạc mất lối về, rơi tõm
vào xứ sở mông muội hồ đồ hổ lốn những khói bụi
phi nhân văn. Hạ Cơ, đứa con duy nhất của chúng
tôi vẫn ngủ say trong chiếc nôi ấm, không hề hay
biết cõi lòng tan hoang của cha và mẹ. Bao nhiêu
lần, tôi muốn nhỏm dậy, bồng Hạ Cơ đặt giữa hai
chúng tôi, để tấm thân nhỏ bé ấm áp ấy, tâm hồn
trong trắng ấy sƣởi chút hơi ấm tinh nguyên cho sự
chia lìa sắp vỡ toang. B‟Liêng càng lúc càng khóc
dữ dội hơn bằng sự kềm nén âm thanh trong lồng
182 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
ngực, âm thanh không bật thành tiếng mà chuyển
động khắp cơ thể, rung lên từng hồi, chuyền hẳn
qua ngực tôi những thỏi đá lạnh băng, lạnh não nề
nhƣ thể mọi giác quan bị thỏi lạnh băng kia làm co
quắp lại.
Tôi chỉ còn biết ôm chặt nàng, ve vuốt nàng
thay những lời an ủi không thể thốt ra thành lời.
Lát sau, B‟Liêng gỡ tay tôi, ngồi dựa lên
thành giƣờng.
-Anh tha lỗi cho em. Em không muốn làm
vậy. Ngàn lần em không muốn vậy. Nhƣng em
không thể cƣỡng chống lại tiếng thì thào của rừng
núi, nơi chốn tụ hội hàng ngàn, hàng vạn thứ trên
mặt đất này đã thấm đẫm trong thịt da em mà anh
chỉ mới hiểu, mới len vào một cõi nhỏ trong em.
-Anh hiểu nỗi nhớ thƣơng quay quắt của
em. Giờ thì em hãy ngủ đi, hỡi con sóc bé nhỏ của
anh.
Ông cụ muốn đi ngay Tân Cảnh, mà bến thì
vắng hoe. Ông loay hoay với chiếc túi vải trên tay,
vẻ mặt căng thẳng và đầy lo lắng. Ông nhìn sững
vào mặt ngƣời tài xế nhƣ muốn cầu cứu một sự
hóa phép nào đó để ông có thể có mặt ngay tại Tân
Cảnh lúc này. Ngƣời tài xế còn trẻ có vẻ bối rối.
Tôi thì càng lúng túng hơn. Mấy lần định mở
miệng mời ông về nhà B‟Liêng nghỉ qua đêm, mai
đi sớm. Nhƣng chiếc túi vải cứ sang vai liên tục, ý
hẳn ông muốn đi ngay đêm nay.
Ngƣời tài xế rút thuốc mồi lửa, ngửa cổ rít
một hơi thật dài, nói gì đó với ông già rồi cả hai
183 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
lên xe, đóng sập cửa chạy hút về phía chợ. Tôi
không nghĩ ngƣời tài xế có tấm lòng rộng mở đến
thế để đƣa ông già đi tiếp 70 cây số đƣờng rừng,
nhƣng rất có thể anh ta tìm cách nào đó để gửi ông
già đi nhanh nhất. Và vô tình, ngƣời tài xế lại nhiệt
tình tham gia vào sự thƣơng nhớ nao nao của ông
cụ già cô độc. Tôi ngó sững chiếc xe khách mất
hút ở cuối phố vắng hoe. Chiếc xe dƣờng nhƣ cũng
hăm hở rung lên, chờ đợi giây phút trùng phùng
giữa cha con, ông cháu. Nhƣng liệu sau đó, những
ngƣời thân yêu nhất có thực hiện đúng theo sự
khao khát mãnh liệt của ông? Hay rừng núi đã níu
chân họ lại, để ông già lầm lũi quay về đoạn
đƣờng dài gần bốn trăm cây số, không biết lấy ai
chia sớt nỗi buồn?
Ông già đã mất hút trong niềm hân hoan
chen lẫn nỗi buồn.
Còn tôi? Và B‟Liêng?
Đƣờng phố Kontum heo hút những con
đƣờng nhỏ, dài, nhà cửa núp sâu dƣới những tàn
cây, vƣờn tƣợc rộng thênh. Tôi giống nhƣ ngƣời lạ
mặt, ngập ngừng trên phố, ngập ngừng bƣớc về
phía làng Đak Jar.
Tôi đã đến với em thật gần. Tôi nhƣ kẻ tội
đồ bạc mệnh bƣớc về phía giáo đƣờng, nơi em
đang đắm hồn trong chốn mênh mông của đất trời,
cây cỏ, chim muông. Tôi đang đuổi theo bóng em
chìm dần vào bóng hoàng hôn nhòa nhạt. Mặt trời
của em giấu tia sáng đâu đó, nơi em gọi là đỉnh
cong của trời đất kia.
184 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Tôi đang bƣớc về phía em, nhƣ con nai
bƣớc tới thảm cỏ, nhƣ đàn voi bƣớc tới con suối.
Tôi nhìn thấy đôi mắt lung liêng của em trên bậc
cầu thang dõi theo tôi và Hạ Cơ. Tôi lao tới với tất
cả nỗi nhớ nhung rực lửa, reo cùng tiếng đàn gông
quấn quít bên hiên nhà và bay vút lên chóp cây.
Còn tôi và em thì bay vút về phía mặt trời mọc.
Tôi đang đứng bên bờ Đakbla, dòng sông
đã thít chặt đời tôi và em vào nhau, rồi bất ngờ xô
ngã chúng ta dạt qua hai bờ.
Đakbla ơi! đến ngƣơi cũng bắt đầu bi lụy
nhỏ những giọt nƣớc mắt xuống đời ta, phủ một
lớp bụi mỏng trùng trùng trƣớc mặt? Ngƣơi hay
Mƣa bắt đầu đổ. Ban đầu chỉ là những hạt li ti nhƣ
bụi phấn bay. Rồi càng lúc càng dày thành sợi.
Làng Đak Jar nhòa trong nƣớc mắt mƣa và bóng
hoàng hôn. Rừng đen thẫm ở phía xa và em nhƣ
đội cơn mƣa, hình nhƣ không phải bƣớc về phía
tôi, giang đôi tay thƣơng nhớ ôm choàng lấy tôi
mà bƣớc qua bên kia, sâu vào cánh rừng, với một
chút dịu dàng gió núi, một chút ngập ngừng của
dòng nƣớc chảy rẽ hai. Em bƣớc về với rừng
không ngoảnh lại.
Trong cơn mƣa, đất thơm nồng, níu chặt
bƣớc chân tôi vội vã lao về phía em...
Và tôi chợt hiểu rằng, em là cô gái rừng, ngƣời con
gái của rừng, đẹp nhất trần gian.■
(Kontum,6/2003)
185 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Bóng Nắng
_________________________________
Sau khi mãn tang chồng tôi ngỏ lời cầu hôn lần thứ
hai với chị. Thay vì từ chối hay ƣ hừ, hay một cái
tát nhƣ trời giáng mƣời sáu năm về trƣớc, thì lần
này chị quay mặt đi, hai vai rung lên nhƣ thể một
thân cây bị lay lắt, vật vã đến nao lòng. Tôi bƣớc
ra khỏi cổng, bỏ mặc thân cây run rẩy, cong oặt
chỉ mang theo cái nhìn sững sờ của chị. Cái nhìn
đẹp và sáng nhƣ lƣỡi dao nhọn.
Chị biết là tôi yêu chị đến cuồng dại và chị
cũng yêu tôi. Nhƣng để lấy tôi thì chị không thể.
“Em nhỏ tuổi hơn chị”. “Em không cần”. “Mai
mốt chị sẽ già trƣớc em, em sẽ chán chị”. “Không
đời nào”. Chị sẽ sàng với bộ mặt u buồn khiến chị
càng đẹp rực rỡ trong mắt tôi, cuốn tôi chìm xuống
tận đáy sông.
Và tôi lang thang. Lang thang cùng trời
cuối đất những tƣởng quên đƣợc chị. Nhƣng cái tát
trên má tôi rõ ràng là nụ hôn cháy bỏng chị dành
riêng cho tôi. Tôi cất giữ nhƣ một bảo vật. Thỉnh
thoảng tôi lại giở ra trong những giấc mơ khắc
khoải, cảm thấy nồng nàn, bỏng rát và ấm áp đến
lạ kỳ.
186 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Tôi bị bắt lính, chị theo tôi. Tôi ra chiến
trƣờng, chị sát bên cạnh. Vào trại lao cải, chị thấp
thoáng ngoài vòng rào… Chị luôn theo tôi trong
từng giấc mơ.
Mãn tù lao cải, tôi bổ nhào đến nhà chị giữa
lúc hạnh phúc chị bị gãy đôi. Đợi hết tuần chay tôi
mang bó huệ trắng cắm lên bàn thờ anh Lê, lâm
râm cầu khấn, rằng tôi sẽ thay anh bảo vệ mẹ con
chị Bông đến tận cuối đời. Tấm ảnh dính chặt sau
khung kính nhìn thẳng vào mặt tôi với nụ cƣời độ
lƣợng. Một cảm giác ấm áp len vào tận cùng thân
thể. Chị nhỏ nhẹ: “Cảm ơn em. Giờ em tính
chuyện làm ăn gia đình là vừa”. Tôi ngó chị: “Nếu
không lấy đƣợc chị, em sẽ không lấy ai cả”. Chị
thong thả đứng lên, thong thả rút thẻ nhang thắp
lên bàn thờ anh Lê, rồi quì xuống gõ lốc cốc vào
chiếc mõ bằng trái gạo già, nâu thẫm. Ƣớc chi là
điều lành. Tiếng mõ lốc cốc kéo dài xô tôi ra tận
bãi vàng. Gió rít quanh đồi ƣớt mƣa. Cái lạnh quấn
nhƣ tấm mền dày bao lấy cơ thể mệt nhoài cả ngày
dƣới hầm sâu. Tôi hùng hục cùng với hàng trăm
con ngƣời trên bãi đá, giơ cuốc bổ xuống lớp đất
cứng hơn sắt. Cứ mỗi nhát cuốc, chừng nhƣ nhìn
thấy từ đáy sâu kia cơ man là vàng lấp lánh. Dƣới
đáy sâu là hình bóng chị lung linh. Tôi rƣớn ngƣời
lên, bổ xuống. Xách từng xô đổ lên. Tôi phải kiếm
thật nhiều để chị không già, để chị long lanh nhƣ
hạt sƣơng mai, bổ nghiêng về phía tôi. Những buổi
chiều xuống thấp, mây quấn thành cột quanh ngọn
đồi và trong căn lều bạt, tôi thấy bóng chị nhƣ bay
187 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
nhƣ lƣợn trên tầng mây trắng lốp. Đêm hâm hấp
nóng, từ xốp mây trắng nõn chị vẹt ra đến bên tôi,
ấp bàn tay lên má tôi nhƣ một nụ hôn nồng nàn
của ngƣời trinh nữ khiến tôi bật khóc trong đêm
lạnh buốt xƣơng. Tôi biết chị yêu tôi nhƣng lại
không thể lấy tôi. Nếu không yêu, sao những năm
bên lò gạch, chị đã lặn lội lên tận núi với giỏ quà
toàn thuốc chống sốt rét, kêu lên “em ốm quá”?
Cái khoảng cách lừng chừng ấy khiến tôi đào căn
hầm rộng hơn, sâu hơn để cuối cùng tới mùa mƣa
nƣớc trắng rừng đành phải quay về với tám phân
vàng. Tám phân vàng trong bốn tháng nơi cùng
cốc thâm sơn tôi mang về đặt lên bàn thờ anh Lê .
Đứa con trai chị giờ đã lớn. Nhìn thấy tôi lâm râm
trƣớc bàn thờ, nó hỏi: “ cái hộp gì vậy chú?”. “Quà
cúng ba cháu”. “Chú không chờ mẹ cháu về?”.
“Mẹ cháu không chờ chú đâu, ngoan nhé”. Vầng
mây trắng bay nghiêng đâu đó. Tôi ngơ ngác ngó
quanh khu vƣờn rộng, bƣớc bộ trên con đƣờng gập
gềnh nhƣ cuộc đời gập gềnh của tôi. Những bƣớc
chân giống cơn giận lẩy trẻ con và mặt đƣờng thì
chẳng khác nào chiếc rổ rách. Gió lào xào nhƣ
tiếng thở dài.
Thân cây cong oằn ấy, giờ bật đứng nhƣ
chƣa hề có trận bão ập qua. Chị vén mớ tóc ra sau.
Những ngón thon búp trắng muốt giữa suối tóc đen
nhánh. Bƣớc qua tuổi năm mƣơi, chị vẫn còn giữ
những đƣờng cong gợn thời con gái. Tôi trân trối
188 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
nhìn ngọn tóc và những ngón tay, nhìn vào bộ
ngực côi cút của chị và ánh mắt rƣời rƣợi..
Bất ngờ chị Bông đề nghị:
-Chị em mình lên chùa đi.
-Để chi? – Tôi hỏi.
-Cúng Phật.
-Cúng Phật? – Tôi hỏi lại.
Con đƣờng trƣớc nhà chị không còn gập
gềnh, không nhƣ cái rổ rách trƣớc kia. Hàng cây
sao, bằng lăng tím che kín bóng. Tôi đèo chị trên
chiếc xe máy khụt khịt nhƣ ngƣời bị sổ mũi, chạy
chậm. Tôi nghe mùi da thịt chị miết vào khứu giác.
Mạch máu chạy dồn dập nhƣ bầy ngựa đua. Qua
ngả tƣ, thay vì quẹo trái tôi cho xe chạy thẳng ra
hƣờng biển. Chị bấu vai tôi:
-Em quên đƣờng rồi sao?
-Không.
-Sao lại ra biển?
-Ra biển để em nghe mùi nƣớc mắt.
Chị bấu chặt hơn và tôi tƣởng tƣợng cái bấu
tay bắt đầu một nụ hôn, những nụ hôn dài.
-Đừng có lãng mạn, em có biết…
-Biết, em biết rất rõ. Đó là những giọt nƣớc
mắt tích tụ hàng ngàn triệu năm.
Tôi nghe tiếng thở sƣợt ấm sau gáy. Chị
buông tay ra và bất ngờ tôi quành xe lại. Chính tôi
cũng bất ngờ về hành động này. Có lẽ, tôi nghĩ cái
mùi nƣớc mắt ấy cũng không thể mặn thêm hay
nhạt hơn tí chút. Phỏng có ích gì khi lòng đã cay
xè?
189 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Chùa Hảo Sơn giữa khu đồng trống. Cổng
tam quan vòi vọi phía trên. Chị Bông thong thả
bƣớc lên từng bậc cấp, thong thả đến mong manh.
Gió nam cồ siết quanh chị, lất phất trên chỏm cây
bồ đề bành gốc, tua tủa rễ nhƣ một ông già ngàn
năm tuổi ngó lửng cuộc đời trƣớc mặt, mặc cho
râu xoãi dài, bỡn cợt với tháng ngày lƣớt qua, đâm
sâu xuống lòng đất.
Lên đến bậc cuối cùng, chị ngoái lại, ngoắc
tôi bƣớc lên. Chị vòi vọi cao, vòi vọi lộng lẫy. Gió
nam cồ hất bay món tóc chị ra sau nhƣ thể sắp đu
dính vào cội bồ đề.
-Em vào đi.
-Không chị vào lễ Phật một mình.
-Sao vậy?
Tiếng nói nhƣ rớt từ thinh không, xao vào
đầu óc tôi.
-Phật chỉ có nụ cƣời từ bi và những lời răng
dạy. Em không thể bƣớc qua cửa thiền khi lòng
không thanh thản. Chị vào lễ Phật và tiếp tục… -
tôi bỏ lửng câu nói.
Chị Bông quay đi, bƣớc hẳn vào bên trong.
Gió lất phất mang theo hơi nóng trên rặng
Trƣờng Sơn dồn về. Cái nóng làm tê cuống lòng
ngƣời, làm khô dòn tấm áo phong phanh tôi mặc
trên ngƣời. Chị khuất sâu vào bên trong. Tôi lần
từng bƣớc lên cổng tam quan, ngồi lên bậc đá cuối
cùng. Phía dƣới là cánh đồng xanh dờn, xa hơn là
phố xá bẹt dính sát mặt đất. Những con ngƣời nhỏ
bé xuôi ngƣợc. Bầy ngƣời nhỏ bé ấy đang hối hả
190 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
tìm cuộc sống cho riêng mình. Còn tôi? Tôi nhƣ
chiếc rổ bung vành đang nhấn xuống nƣớc đồng
sâu vớt chút rong rêu. Vậy mà không thể tìm thấy
cọng rong nhỏ nào. Những chiếc nan gãy mục
vểnh lên hay chúc nghiêng, trống hoang hoác là ba
mƣơi năm cố gắng vá lấp để thấy trống trơn, để
thấy vô cùng chẳng với chụp đƣợc.
Gió lặng yên đƣợc một lúc rồi bỗng chúc
xuống, hất tung những cọng rác khô trên bậc đá.
Không gian đã sững lại bổng ồn ào. Gió ràn rạt
miết lên tƣờng thành nối cổng tam quan, cuốn
cong những cành bồ đề rồi ngƣng bặt, nhƣ chƣa hề
có gió thổi ngang qua.
Bóng nắng đổ nghiêng qua tàng lá rậm, che
phủ bậc thềm đá chỗ tôi ngồi, nên khi chị Bông
bƣớc ra, đứng về phía chiều nắng nghiêng tôi
không thấy bóng chị phủ lấp lên ngƣời tôi, nhƣng
tôi nghe hơi thở chị thật gần.
Chị vén áo ngồi xuống bên cạnh.
-Chị lễ Phật và xin xăm.
-Xin xăm – Tôi hỏi lại, lòng hoang mang tột
cùng.
Chị bổng bật khóc. Hai vai rung lên. Tôi
sửng sốt, nhích ra nhìn chị. Chị không còn là
ngƣời đàn bà mạnh mẽ mỗi khi từ chối lời cầu hôn
của tôi. Chị trở nên ngƣời phụ nữ nhỏ bé, yếu
đuối. Tôi giữ đôi vai mỏng manh nhƣ hồi nhỏ tôi
giữ, tay kia rút cây gai nhọn dƣới gan bàn chân
chị, nhƣng cái đau của hai lần cách xa có vẻ nhƣ
không giống nhau. Lần này, nỗi đau sâu kín, gặm
191 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
mòn tâm trí chị hơn mà tôi không hiểu vì nguyên
do gì.
Một lúc sau, tôi dè dặt lên tiếng:
-Chị làm sao vậy?
Cả ngƣời chị rung lên dữ dội hơn.
Cả hai im lặng cho đến khi nắng vắt chéo
qua đầu.
-Chị không phản bội anh Lê, nhƣng chị
phản bội em.
-Em không hiểu chị định nói gì?
-Đúng chị là ngƣời không ra gì. Chị đã phản
bội em. Chị là con ngƣời đốn mạt, nhƣng chị
không thể làm khác đƣợc – nói và chị lại ngã lên
vai tôi nức nở.
Nắng quét những quả trứng mỏng tang trên
tầng lá cao, rụng lả tả trƣớc mặt hai ngƣời. Đợi chị
bình tĩnh lại, tôi gỡ tay chị và ấp lại trong đôi tay
mình. Lúc này tôi trở thành con ngƣời lớn hơn chị,
bắt đầu dỗ dành chị giống hệt hồi nhỏ chị dỗ dành
tôi bị lũ trẻ con hàng xóm ức hiếp.
-Em nghe chị nói. Chị cứ nói hết ra.
-Ngàn lần chị xin lỗi em.
-Sao phải xin lỗi? Nếu cần xoa dịu sự tổn
thƣơng do em gây ra thì em xin lỗi chị mới phải.
-Không. Em bình tỉnh nghe chị nói.
-Em nghe đây.
Chị sững ngƣời giây lát, rồi sụt sịt:
-Ông Thâu cầu hôn chị. Ông goá vợ cách
đây tám năm.
-Và chị…
192 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
-Nhận lời.
Tôi cƣời lớn, cƣời đến tim bóp thắt, nƣớc
mắt ràn rụa và gió lăn lông lốc trên những ruộng
mạ xanh dƣới kia. Gió rƣợt đuổi nhƣ giỡn nhƣ ca
hát, bảng lảng một điệp khúc yêu thƣơng đến héo
hắt tận đáy lòng.
-Vậy mà em tƣởng chuyện gì ghê gớm lắm!
-E…eemm…
-Chị ngỡ em phản đối, ngỡ em sẽ buồn?
Không trái lại.
Chị Bổng oà khóc khi nghe tôi nói hết câu
và xô tôi ra.
-Thà em đay nghiến chị, nguyền rủa chị…
có lẽ còn dễ chịu hơn cái gật đầu vô cảm kia. Em
biết là chị không thể kéo xuống mƣời lăm tuổi để
bằng em, không thể nhìn những cặp mắt xói miết
chung quanh. Vâng, chị yêu em. Yêu em còn hơn
ngàn lần em yêu chị. Nhƣng để là vợ chồng thì
không thể. Sau lần chị ôm em vào lòng dỗ dành vì
đám trẻ con trong xóm ví em, chị đã linh cảm điều
này sẽ có ngày xảy ra. Nhƣng chị bất lực. Chị chỉ
là ngƣời đàn bà bình thƣờng nhƣ bao nhiêu ngƣời
khác.
-Em đƣa mẹ con chị vào Lộc Ninh, Bù
Đốp… vƣợt biên qua Lào, qua Thái… Chúng ta sẽ
sống hạnh phúc.
-Không. Em điên rồi.
-Chị nhận lời lấy ông Thâu thì không điên
chắc. Em biết chị nhận lời lấy ông ta chỉ vì chỗ
193 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
dựa, cái học vị tiến sĩ ấy sẽ… mà chị thì không hề
yêu.
-Em còn nhớ hồi lên trại thăm, em nói “đời
ngƣời nhƣ khúc sông, chỗ đến thì không chịu dừng
mà rẽ ngoặc sang hƣớng khác”. Hồi đó em nói vậy
là ý gì? Còn giờ này sao em lại không chấp nhận
khúc sông rẽ ngoặc?
-Sông của chị giờ là con sông gãy, sông lấp
bỡi những tảng đá muôn thuở đè lên một cách
khủng khiếp. Chị không dám né những tảng đá đó,
lúc nào cũng nhìn thấy chúng lù lù trƣớc mặt.
-Nhƣng có nhất thiết khi yêu nhau thì phải
sống chung với nhau không?
-Hoang tƣởng.
-Đúng. Hoang tƣởng, chỉ vì chị cũng yêu
em đến điên cuồng.
Chị Bông nói và đứng lên, bƣớc thật chậm
xuống từng bậc đá. Chị đi nhƣ không hề chạm
chân lên mặt thềm. Chị đang bay về nơi khác, nơi
có vầng trăng bị xé rách giữa trận nam cồ, tơi tả,
méo mó đến dị hợm. Chị thả trôi về khúc sông xa,
chị đầm mình trong vùng mắt bão, gió cuốn tung
chị tơi tả trong tôi.
Tôi ngồi yên nhìn chị. Ngồi mà ngắm nhìn
dáng mỏng khói sƣơng từ từ tan biến vào khoảng
trống đến vô cùng tận. Hạnh phúc cuối cùng của
chị là niềm hoang tƣởng hay sự hoang tƣởng là
niềm hạnh phúc? Tôi nào có nhận ra khi chị bất
ngờ quay lên. Vẫn từng bƣớc thong thả, từng gót
chân thong thả và nhẹ nhàng đặt lên phiến đá mòn
194 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
lĩn nhƣ chiếc lá rơi xuống, nằm đấy từ muôn đời
kiếp.
Chị Bông đứng cách một với tay, không
bƣớc tiếp, ngƣớc nhìn với cặp mắt lạ lùng tôi chƣa
hề chạm phải: hừng hực nhƣ ngọn lửa cháy rừng
rồi chuyển sang giá lạnh nhƣ tảng băng trôi. Hình
nhƣ không phải chị nhìn tôi mà dành riêng cho kẻ
vô hình nào đó vảng vất đâu đây, môi mấp máy
nhƣ muốn nói điều gì đó mà không thành lời. Chỉ
cách một vói tay nhƣng có vẻ nhƣ chúng tôi đang
ở hai thế giới khác nhau, ở hai đầu cánh cung bị
đứt dây. Môi chị lại mấp máy nhƣ mời nhƣ gọi,
xoè chớm nhƣ nụ hoa hàm tiếu. Tôi hiểu tất cả, lao
xuống. Chị ôm tôi, nƣớc mắt ƣớt vai trong tiếng
thì thào ngây dại “chị yêu em, tha lỗi cho chị”. Chị
hôn tôi bằng nƣớc mắt mặn chát, vị mặn của niềm
hạnh phúc đắng cay nhƣng sao tôi thấy không nhƣ
dƣ vị của nụ hôn bằng cái tát ngày nào?
Bóng nắng rớt nghiêng. Chúng tôi nhƣ hai
pho tƣợng trƣớc cổng tam quan. Chỉ có cội bồ đề
và những chòm rễ đâm xuống đất là gần chỗ tôi và
chị Bông đứng, sắp té nghiêng dƣới bóng nắng.■
(tháng 9.2008)
195 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Gió Cuối Chân Mây
_____________________________
1. Ban đầu tôi nghĩ khu nhà trọ nhƣ một trại gia
binh, sau nhớ lại thì nó giống một trại chăn nuôi
gia súc. Bốn mƣơi căn phòng, mỗi căn rộng chƣa
tới hai chục mét vuông đôi mặt vào nhau. Ở giữa
là dãy hành lang dài hun hút. Khu nhà trọ táp
nham này chứa đủ các thành phần từ thợ thuyền
đến công chức, và chẳng mấy khi họ đứng lâu, ngó
mặt nhau nói chuyện thân thiện. Mới tờ mờ sáng
mọi ngƣời đã vội vội vàng vàng dắt xe máy, xe
đạp hoặc hộc tốc chạy ra bến xe buýt. Chiều tối
mịt họ mới lác đác kéo nhau về, kẻ trƣớc ngƣời
sau, với sự mệt mỏi bám lủng lẳng trên mí mắt,
trên những đôi chân bƣớc chậm. Chính xác hơn,
khu nhà trọ này giống cái tổ ong thu nhỏ. Một tổ
ong trong mùa gió rét, mƣa bão!
Nhƣng sáng nay thì không nhƣ mọi ngày.
Một sự bất tiện. Một sự quấy rối. Một sự bất ngờ.
Lẫn lộn những cảm xúc bực bội và thích thú. Đó là
tiếng gõ cửa. Những tiếng động nhẹ đã làm chao
đảo, không, chính xác là làm đảo lộn trật tự vốn
196 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
đƣợc giữ gìn cẩn thận theo thói quen sẵn có và
lƣời biếng bấy lâu nay. Hơn ba tháng ở khu này,
lần đầu tiên tôi đón nhận tiếng gõ cửa thong thả,
không ngập ngừng, không vội vàng. Thoạt nghe
hơi khó chịu nhƣng hình nhƣ những tiếng lốc cốc
phát ra từ sự đụng chạm giữa các ngón tay và cánh
cửa gỗ đã đè ép sự bực dọc xuống ở mức độ thấp
hơn nhiều lần. Tôi khoát thêm chiếc áo ngoài để
che đậy sự hở hang khi chỉ một mình trong phòng,
nhón gót hé cánh cửa.
Một chiếc đầu lƣớt qua kẻ hở. Một khuôn
mặt dài ngoằng khi mới thoạt nhìn qua khe hẹp.
Chiếc đầu lùi lại. Khe hở của cánh cửa mở rộng và
khoảng tối biến mất. Chiếc đầu lên tiếng:
-Chào chị. Tôi tới trọ gần tuần nay. Nếu
không phiền thì chị cho tôi mƣợn kim chỉ khâu lại
hột nút bị sút. Định ra đầu hẻm mua, nhƣng nghĩ
các vị phụ nữ thế nào cũng chỉn chu hơn trong
chuyện may vá…
Chiếc đầu nói thêm những gì nữa nhƣng tôi
không để ý. Sự nói dài của Chiếc đầu khiến cánh
cửa dƣới tay tôi cũng chỉ hé thêm vài phân một
cách dè chừng. Chiếc đầu ngƣng đột ngột và thở
dài đánh sƣợt nghe thật rõ khiến tôi bối rối, bàn
tay tự động hé rộng cánh cửa thêm vài phân:
-Có thể đấy – tôi trả lời – nhƣng anh phải
nói chỉ màu gì?
-Dạ màu xanh nhạt hay trắng cũng đƣợc.
Tôi kéo cánh cửa hẹp thêm một chút nhƣ
thể phòng ngừa Chiếc đầu có thể bất ngờ chui tọt
197 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
vào bên trong, trong khi tôi quay vào tìm kim chỉ.
Mở chiếc va li tìm chiếc hộp chứa lỉnh kỉnh các
thứ vặt vãnh nhƣng cần thiết của phụ nữ, và lôi ra
đúng loại chỉ khâu Chiếc đầu yêu cầu, tôi đƣa cho
hắn qua khe cửa hẹp:
-Anh có thể giữ lấy mà không cần trả lại.
Bàn tay Chiếc đầu chạm vào bàn tay tôi. Và
thay vì nói lời cảm ơn, Chiếc đầu lại xuýt xoa:
-Ôi bàn tay chị đẹp quá.
Tôi đóng sập cửa lại nghe thành tiếng. Lần
đầu tiên có ngƣời khen bàn tay tôi đẹp. Tôi lật qua
lật lại hai bàn tay; xoè mƣời ngón rồi cong lại nhìn
ngắm. Trời đất có đẹp thiệt dƣới con mắt hắn hay
chỉ là sự nhầm lẫn, tâng nịnh lấy lòng? Tôi nằm
ƣờn trên ghế, lật tiếp tạp chí Thời Trang Phụ Nữ
để không nghĩ về bàn tay, lời khen nịnh và thái độ
của Chiếc đầu bên kia cánh cửa đóng.
Những chiếc váy dài, váy ngắn, áo pulls,
soutiens, slips …màu sắc sặc sỡ, đủ loại nhƣ một
rừng cờ tổ quốc của nhiều chủng tộc đang quàng
vai bá cổ diễu hành trên đƣờng lớn.
Lại một chiếc đầu thò vào, bím tóc buông
thõng trƣớc ngực:
-Em ở sát phòng chị đây mà. Em tên Mai.
Chiếc bàn ủi của em bị sao đó không ăn điện. Chị
làm ơn cho em mƣợn. Trời ơi, thiệt là phiền chị
quá trời - Giọng nói miền Nam nhào nhão nghe dễ
chịu đến lạ.
Tôi cúi xuống gậm bàn lôi chiếc bàn ủi đƣa
cho cô gái. Không thể đoán đƣợc tuổi tác, không
198 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
đẹp, nhƣng khuôn mặt phúc hậu. Cô ta vội vã rụt
đầu và biến mất sau cánh cửa, quên cả kéo sát lại.
Thôi kệ, ta không ngắm đƣợc gì, không sờ soạn
nắm đƣợc tay ai, ngồi hàn huyên to nhỏ với ai
trong khu tổ ong thì để chút không khí chủ nhật
luồng vào tận phòng tắm cũng chẳng mất mát gì,
tôi tự nhủ nhƣ vậy, cầm bằng nhƣ không khí cũng
đƣợc xếp loại sinh linh trên trái đất này.
Em ơi…nếu như đôi ta… Em ơi… nếu như
đôi ta… câu vọng cổ cứ lặp đi lặp lại một cách sộn
sựt trên mặt đĩa bị trầy xƣớc phát eo éo qua hai
chiếc loa nhỏ, đập vào tai khiến tôi tƣởng tƣợng
đến Chiếc đầu đang ngồi dạng chân xỏ chỉ qua lỗ
kim bị trật hoài. Chuyện này rất có thể sẽ xảy ra.
Chuyện kim chỉ không phải dành cho đám đàn ông
con trai. Tệ thật, tinh thần cộng đồng của bầy ong
nơi tổ này không đƣợc phát huy một cách triệt để.
Giá nhƣ có một thủ lĩnh – tôi nghĩ vẩn vơ – mà lấy
đâu ra thủ lĩnh kia chứ? Ai rỗi công đâu mà đứng
ra gánh vác chuyện hàng tổng? Nhảm nhí. Thiệt
nhảm nhí. Tôi đứng dậy, vói tay tắt chiếc loa vi
tính. Những câu em ơi… sậm sựt tắt ngấm.
Bỗng dƣng Chiếc đầu lọt hẳn vào bên trong,
kéo theo cả tấm thân đồ sộ đo chật khung cửa.
Chiếc đầu chìa gói kim chỉ về phía tôi:
-Trả lại chị. Cảm ơn rất nhiều. Ủa mà chủ
nhật chị không đi đâu sao? Xin lỗi, tôi hơi tò mò
thái quá.
-Không có chi.
199 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Câu trả lời khiến Chiếc đầu chƣng hửng.
Hắn đƣa tay lên gãi đầu theo thói quen của những
gã con trai có thói tán tỉnh vu vơ, mắt nhìn quanh
nhƣ thể che lấp sự hổ thẹn bắt đầu tăng lên. Chiếc
đầu lúng túng thật sự, mắt dán chặt vào bức tranh
khoả thân, buông câu nói không dành cho ai.
-Đẹp thật, tuyệt.
Tôi nói:
-Xin lỗi, tôi hơi nhức đầu – và đỏ mặt.
Chiếc đầu quay lui:
-Chào chị.
Bây giờ thì tôi mới kịp hoàn hồn, nhìn lại
khoảng cách Chiếc đầu đứng bên trong khung cửa
và bức tranh. Hắn nhìn thấy gì nhỉ? Tôi hoảng hốt
bỏ tờ tạp chí xuống nền đất, chạy lại đúng chỗ lúc
nãy Chiếc đầu đứng, và đứng đúng với tƣ thế của
hắn, cũng ngoái đầu nhìn về phía bức tranh, ƣớc
lƣợng khoảng cách và độ sáng: cũng đến chục
bƣớc chân, độ sáng thì nhoè ở một nửa khung
tranh. Nhƣ vậy Chiếc đầu chỉ có thể nhìn thấy một
cách lờ mờ, không rõ ràng. Tôi tạm an lòng và
thầm nhủ, sẽ không để bất kỳ gã đàn ông con trai
nào ngắm bức tranh này lần thứ hai dù là trong tƣ
thế đứng nhìn ngắm không rõ ràng nhƣ Chiếc đầu
lúc nãy.
Thật ra bức tranh ấy không có gì là ghê
gớm. Chỉ tội một điều: nó chính là chân dung tôi.
Ngƣời vẽ nó không phải là gã hoạ sĩ cuồng tình mà
chính là Lan, con bạn thân sắp đi lấy chồng nay
mai của tôi, theo trí tƣởng tƣợng của nó. Tôi
200 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
không hiểu mấy về hội hoạ, nhƣng khi nó chìa bức
tranh ra, tôi không khỏi ngạc nhiên. Có điều gì đó
khó diễn tả đang phát ra từ thân thể tôi bằng thứ
màu nƣớc trơn tuột. Nó lạnh lẽo một cách nồng
nàn; héo buồn đến ngây dại trên một tấm thân
hừng hực những đồi trũng nhấp nhô, xa vắng, mời
gọi, xô đẩy… với thân thể loã lồ từ gót chân đến
hai cánh tay giơ thẳng vƣợt khỏi đầu, chân chéo
vào nhau chỉ thấy một miền cỏ mƣợt xanh hình
tam giác nối liền từ háng lên phía dƣới khoang
bụng…
Chiếc đầu là kẻ lạ duy nhất nhìn thấy sự ẩn
hiện thấp thoáng, hƣ ảo, nhạt nhoà những đƣờng
nét không thật rõ ràng.
Chiếc tổ ong bị xé toạt trong buổi sáng chủ
nhật tình cờ này rồi.
2. Chui khỏi tổ ong nhỏ, ra bên ngoài là tổ
kiến khổng lồ. Tất cả mọi loại kiến chen chúc nhau
trên đƣờng, ngƣợc xuôi; nối đuôi nhau, hối hả suốt
cả ngày thâm đêm. Con kiến con trong đàn khổng
lồ là tôi rêụ rã dẫn chiếc xe xẹp lốp lê lết đã bốn
trăm mét nhƣng chẳng tìm ra chỗ vá. Đôi chân
giống chiếc chân giả vặn gai ốc; tay nhừ mỏi, thân
thể nhớp nháp qua lớp mồ hôi rịn vấy áp vào quần
áo đến nhột nhạt khó chịu. Đến đôi giày gót cao
mới thật khốn nạn: nó nghiến sít, thắt chặt đôi
chân nhƣ bàn tay thô ráp, nham nhở của gã cà
bông bóp thít lại, nhoi nhói. Ôi trời, một con bé
cắm đầu dắt xe giữa dòng ngƣời xuôi ngƣợc nhƣ
201 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
một kẻ lạ. Tôi chẳng biết phải làm thế nào nữa?
Công ty thì sáng nay có cuộc họp sớm, nghe nói
quan trọng. Đành phải gọi về thôi. Tôi cố đẩy
chiếc xe đáng nguyền rủa lên vỉa hè. Phía sau
lƣng, tiếng nói hơi quen quen gọi giật.
-Nè chị, sao vậy? Bể lốp à? Khổ thật!
Chiếc đầu trờ tới, cho xe leo lên lề, sát gần
chỗ tôi đang loay hoay tìm cách gạt chân chống
choãi ra. Chiếc đầu nhanh hơn, đỡ lấy tay nắm,
dựng chân rồi khum ngƣời quay vòng vòng bánh
xe trƣớc, một tay áp lên vành bánh xe đang quay.
Tôi không hiểu hắn đang làm cái trò gì; cứ nhƣ là
hắn đang tìm kiếm lỗ thủng trên chiếc lốp đen thui
hay một vật gì cấu xé vào đâu đó khiến chiếc xe bị
xẹp. Cuối cùng Chiếc đầu đứng lên, chìa trƣớc mắt
tôi chiếc đinh nhọn, kêu lên:
-Xong rồi!
-Là sao?
-Là chiếc ruột bị nát nhƣ ngƣời ta băm ruột
vịt xiêm xào sả ớt - Chiếc đầu nói thản nhiên.
-Can cớ chi tới vịt xiêm?
Chiếc đầu nhƣ không nghe tôi nói gì, lên
tiếng:
-Nếu nhƣ chị không ngại tôi là kẻ gian, cỗm
mất chiếc xe đáng giá năm mƣơi triệu này thì chị
có thể lấy chiếc cà tàng của tôi chạy tạm tới công
sở, chiều về đổi lại. Còn nếu quá tám giờ tối mà
không thấy tôi mò về, tức thị tôi đã bán chiếc xe
này và đã đi xa thiệt xa? Lúc đó chị nên báo cho
chính quyền sở tại để họ phát lệnh truy nã - Hắn
202 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
nói một thôi dài - Chị mà tìm ra chỗ vá xe thì
cũng mất đến nửa tiếng nữa. Thôi lấy xe tôi đi đi
kẻo trễ giờ làm việc!
Chiếc đầu nói giọng kẻ cả, nhƣ ra lệnh. Tôi
ngó bộ dạng hắn, nhìn ngƣợc từ đầu xuống chân.
Không có dấu hiệu nào chứng tỏ hắn là kẻ dối trá.
Đến nƣớc này thì tôi phải nghe theo, không còn
cách nào khác. Đỡ lấy chùm chìa khoá trên tay
hắn, tôi nói cảm ơn và bỏ mặc hắn với chiếc xe
xẹp lốp giữa phố đông. Đầu óc trống trơn. Không
nghĩ mình sẽ phản ứng ra sao nếu nhƣ hắn làm
thật?. Không nghĩ mình tới công ty có còn bị trục
trặc gì nữa không?
Chiếc xe cà tàng của hắn không giở chứng
giữa đƣờng. Nó ì ạch cõng tôi đến sở đúng giờ.
Ngồi vào phòng họp. Mọi việc diễn ra chính xác
và nhanh gọn.
3. Tôi không nhớ mình đã đi chiếc xe nào,
chỉ mang máng đó là chiếc xe màu xanh rêu đã
tróc sơn. Nhƣng trong nhà để xe có hàng chục
chiếc màu rêu biết làm thế nào? Chính xác là tại vị
trí này, nhƣng cũng có hai ba chiếc giống nhau,
chiếc nào là của Chiếc đầu? Lôi chùm chìa khoá ra
tra vào các ổ khoá, xe nào cũng mở đƣợc? Vầy là
thế nào? Chỉ còn nƣớc đứng đợi cho mọi ngƣời lấy
hết xe ra, chiếc còn lại là của mình đi khi sáng?
Mình đâu có số điện thoại của hắn để có thể hỏi rõ.
Đành lòng vậy. Đứng chờ. Khởi đầu và kết thúc
203 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
một ngày đều xui xẻo nhƣ nhau. Nó không có hình
dạng, nhƣng sự bực bội, căng thẳng thì có thừa?
Lúc về tới tổ ong nhỏ, tôi dựng xe trƣớc cửa
và liếc nhìn các ô cửa khép mở không đều. Không
thấy dấu hiệu nào là có bóng dáng Chiếc đầu trong
khu tổ ong. Cứ tƣởng tƣợng rằng Chiếc đầu biến
mất thì sự thể sẽ nhƣ thế nào nhỉ? Trên TV thỉnh
thoảng vẫn thấy mấy khuôn mặt non choẹt, rất dễ
thƣơng bị còng tay chỉ vì chiếc di động và vài trăm
ngàn nhƣ những thứ cần thiết cho đời sống tạm bợ
cần phải đổi lấy thật nhanh chóng? Thời buổi táp
nham này đến không thể phân biệt Phật Chúa với
những tên mạt hạng thì nói chi đến… Ôi hơi quá
đà, đi xa rồi. Tôi thốt nho nhỏ trong miệng, cố đẩy
những ý nghĩ u ám trong đầu ra ngoài. Lòng trống
không nhƣ cái bụng đang đói.
Đúng lúc tôi đang cởi soutien, quần lót thì
tiếng Chiếc đầu vang lên:
-Chào chị, xe chạy tốt chứ?
Tôi vọng ra từ trong buồng:
-Không có chi, tốt.
Lúc tôi thay áo quần xong thì Chiếc đầu mở
rộng cửa, đẩy xe vào góc:
-Má tôi gửi vào mấy cân sò. Tôi muốn mời
chị món quê nhà. Nhƣng ngồi đây chắc không tiện
mà sang bên tôi lại càng bất tiện hơn. Nếu chị
đồng ý, tôi mời chị qua bên kia cầu Rạch Chiếc.
Chị có thể nhìn ngọn dừa nƣớc còn tôi thì nhìn
mấy cây cau thẳng đuột để ai cũng thấy quê nhà
sát bên mình.
204 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Tôi bật cƣời về lối ví von và cách mời chào
khá đặc biệt, nghĩ hắn là ngƣời có thể tin cậy đƣợc
nhƣng vẫn cứ trù trừ. Chiếc đầu cƣời cƣời vẻ chế
nhạo:
-Tôi làm mất xe chị thì nguy to, nhƣng làm
mất chị thì có thể là điều may mắn.
-Anh có dám làm vậy không?
-Nếu chị cho phép?
-Không đời nào!
-Là nói vui, chứ tôi không bao giờ có ý nghĩ
sàm sỡ đó.
-Vậy thì tôi đồng ý ngồi nhìn cau, nhìn dừa
với anh nhƣng phải về trƣớc 8 giờ. Bỡi tôi có hẹn
với ngƣời bạn.
-Cảm ơn.
-Tôi cảm ơn mới đúng chứ sao lại anh? Anh
kêu đãi tôi món ngao sò gì kia mà?
-Đúng thế
(…)
Chiếc xe cà tàng của Chiếc đầu chở tôi ngồi
sau, giữ một khoảng cách vừa phải. Tôi để ý qua
mấy chỗ đèn đỏ, hắn chậm rãi dậm thắng. Té ra
hắn cũng là con nhà tử tế, khá lịch sự trong đời
sống khi hắn xách bọc sò đƣa cho chủ quán, kéo
ghế cho tôi, lau chén đũa, lật ly… Tôi ngồi quan
sát, thấy hắn không đến nỗi nào, cũng có thể gần
gũi, bạn bè đƣợc. Và ăn uống với Chiếc đầu chỉ là
cái cớ để hắn dốc bầu tâm sự về hoàn cảnh gia
đình, về những công việc hắn đang làm, những
trắc trở, khó khăn thời mới ra trƣờng. Tóm lại hắn
205 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
là ngƣời có ý chí, cứng rắn nhƣng không thiếu tình
cảm.
Những cốc rƣợu vơi đi là thêm một thông
tin, những vỏ sò mở banh ra trống trơn là thêm
một chi tiết bất ngờ về cuộc đời hắn. Hoá ra Chiếc
đầu là con nhà danh giá, bị sơ sẩy trên đƣờng làm
ăn khiến gia đình lâm vào ngõ cụt. Giờ thì chính
Chiếc đầu là ngƣời gƣợng dậy và đang đến gần
đích, theo nhƣ lời hắn giải bày.
-Chị biết không? - Chiếc đầu ngó ra phía
đƣờng – Gia đình tôi xuống dốc lúc tôi học năm
thứ ba, vừa kèm trẻ vừa hoàn tất học trình vừa đau
vừa giận cô bạn. Cô ta quay lui nhƣ lính nghe khẩu
lệnh “đằng sau quay”. Vậy đấy, rồi mọi chuyện
cũng ổn. Giờ tôi phải khôi phục lại công ty của ba
mẹ tôi bằng bất kỳ giá nào.
-Chúc anh thành công – Tôi nâng cốc rƣợu
vang trắng lên - những con sò của anh ngọt lắm.
Cảm ơn – Nói và tôi liếc nhìn đồng hồ.
Lúc đi qua chiếc cầu gỗ nối liền quán với
khu đất trống bên ngoài, Chiếc đầu bất ngờ cầm
tay tôi;
-Cảm ơn chị đã dành cho tôi một buổi tối
thật đẹp.
Tôi không rụt tay lại, với ý nghĩ là lúc này
không nên để Chiếc đầu mất đi niềm hứng khởi.
Bàn tay tôi nằm gọn trong tay hắn hình nhƣ cũng
âm ấm đôi chút, nhƣng khi ngồi sau yên xe tôi vẫn
giữ một khoảng cách khá an toàn, thật an toàn cho
đến khi về tới khu tổ ong.■
206 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Cưới Vợ Ăn Tết
_______________________________
1.Trƣớc ngày giỗ cha, chị Đông giở máy,
thong thả gọi cho từng ngƣời: các em phải về
trƣớc một ngày để phụ với má, không đƣợc đứa
nào vắng mặt. Tám cuộc gọi đƣợc phân đều chừng
ấy từ không hơn kém Có lẽ không phải do chị tiếc
tiền khi phải nói nhiều mà, chỉ vì ngắn gọn thì
quyền uy đƣợc khẳng định một cách rõ ràng hơn?
Và dù là gái đã xuất giá nhƣng là chị cả nên cái sự
quyền huynh thế phụ đƣợc chị thâu tóm và phát
huy đến mức tối đa trong gia đình có tới tám cô
con gái nắm bím tóc nhau, kẻ trƣớc ngƣời sau lần
lƣợt ra đời để reo vui, bổ sung thêm quân số cho
bà Trƣng bà Triệu. Còn tôi là đứa con trai duy nhất
đƣợc chắt mót nhƣ anh dân nghiện ngửa cổ, dốc
đít chai cho rớt vào họng giọt cuối cùng của bữa
rƣợu tàn. Tuổi tôi chỉ nhỉnh hơn đứa con gái đầu
chị Đông có sáu bảy năm. Đó cũng là lý do để đôi
lúc chị giả tảng không coi tôi là đứa em út ét mà
đối đãi ở hàng con cháu!
207 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Lệnh điều động của chị đƣợc mọi ngƣời
răm rắp thực hiện giống nhƣ một cuộc dạo chơi
tình cảm. Chị Ty về trƣớc tiên trên chiếc Civic
bóng loáng với những bánh trái chật cốp sau.
Trong khi chồng kệ nệ bƣng những túi nặng thì chị
ngó nghiêng, miệng hát nghêu ngao bài Back to
Sorento, nhƣ thể hai ông bà vừa lái xe từ vạn dặm
về chốn quê nhà? Sau đó chừng nửa tiếng, chị
Khảnh bƣớc xuống taxi với chiếc bụng vƣợt quá
mặt, lặc lè ôm bụng và ôm bó hoa ly to tƣớng khó
nhọc bƣớc vào sân. Chị Nam đi xe máy đèo theo
chị Sâm lủng lẳng giỏ trái cây. Ba bà còn lại có lẽ
đang ở trong cái spa nào đó để ủi mặt, duỗi tóc
trƣớc khi về sì sụp lễ cha, và câu nói cửa miệng
của ba bà này sẽ là:cuối năm, công chuyện cơ quan
ngập đầu. Câu nói sẽ bay xẹt qua lỗ tai các ông
chồng mang bộ mặt thoả hiệp và đồng cảm với
công chuyện bộn bề giả hiệu của vợ trƣớc khi lọt
vào lỗ tai má tôi. Chị Minh áp út, đẹp nhất nhà dắt
tay ông anh rể vừa mới cƣới nhau cách không lâu,
nhƣ thể nếu chị không cầm tay anh dẫn đƣờng thì
rất có thể anh sẽ nhầm chị Minh với ai đó trong
nhà, giả hoặc anh không biết lối nào vào nhà mà
không lộn qua nhà hàng xóm? Cách thể hiện tình
yêu của anh chị Minh, chính yếu là chị Minh, có
hơi vẻ sên sến, cải lƣơng một chút nhƣng lại thích
hợp với khung cảnh trời mây ở đất quê đồng nội
nếu chỉ duy nhất có hai ngƣời trong khoảng không
gian này.
208 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Thƣờng ngày căn nhà vắng teo, đã rộng
càng thênh thang hơn khi chỉ có má và tôi; còn giờ
này thì ồn ào, náo nhiệt cứ nhƣ đám đông ngƣời
đang chen lấn nhau xem hát áng. Mỗi năm chỉ duy
nhất có hai lần đƣợc làm ồn là dịp giỗ cha và ngày
tết. Nhƣng hai cái ồn cũng hơi khang khác tí đỉnh.
Cái ồn trƣớc có chút ngùi ngùi vì mùi nhang, mùi
khói đốt vàng mã, thỉnh thoảng vài giọt nƣớc mắt
bị dồn nén trƣớc kia nay đƣợc dịp rịn ra tựa nhƣ
nƣớc lỗ mọi rỉ ra từ bờ ruộng cao làm đậm thêm
màu đỏ đôi đèn sáp nhểu giọt ngập ngừng trên bàn
thờ. Còn cái ồn sau là tiếng cƣời của ba thế hệ
cộng lại thành niềm vui cùng những hạnh phúc
riêng tƣ khoe mẽ, theo thông lệ muôn thuở: đầu
năm mới chỉ có vui cƣời. Có buồn cũng phải giấu
kỹ dƣới đít giƣờng chờ ra giêng!
Lúc tôi bƣng nia lá gói bánh ngang qua chỗ
chị Đông ngồi xào nhƣn trên bếp lò, chị liếc tôi
buông thõng một câu kiểu anh chận vịt ném cây
sào cắm sâu sau đít bầy vịt đang lội qua ranh giới
hạn: “Mày thì liệu cái thần hồn”. Tôi giả bộ nhƣ
không nghe chị nói gì, quay ngoắt lại định bụng
kéo anh Minh ra quán đầu ngõ.
- Này không nghe thiệt hả?
- Chị bảo gì ạ?
- Giỏi, giống cha in đúc, chỉ khéo cái giả lơ.
Nói cho mà biết, kỳ giỗ này tao mời chị tƣ Lam và
cái con bé đó sang ăn giỗ cha. Nghiêm túc một
chút đừng có trẻ con nữa.
209 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
- Chị mời ai thì ảnh hƣởng gì tới em? Bộ
chị tƣởng em tiếc đôi đũa, cái chén sao?
Chị Đông gõ đôi đũa xào nhƣn đang cầm
trong tay lên vành chảo kêu rừng rực nhƣ ngƣời
mắc cụt:
- Sao? Nói vậy mà nghe đƣợc à? Hăm tám
hăm chín rồi, nhỏ nhít gì nữa. Có nghe nói tam
thập nhi lập không? Đâu còn là đứa trẻ con? Cũng
phải vợ con rồi lo làm ăn chớ bắt ai nuôi mãi.
-Thì em làm việc em nuôi em chứ ai nuôi
em?
-Còn má?
-Má sao?
-Ai chăm sóc?
-Chớ ai vô. Tám bà cộng lại thì đƣợc mấy
ngày trong ba trăm sáu lăm…
-Á, à dám trả treo, lại bày thói phân bì chứ
gì? Em lôi đâu ra cái kiểu ấy về nhà này, hả?
-Thì rõ vậy chớ còn gì nữa.
-Không đôi co. Các chị và má đã quyết rồi.
-Quyết cái gì?
-Mời chị Tƣ và con bé đó qua chơi nhà, tiện
dịp mấy chị mày coi mắt luôn - Chị Đông xuống
giọng - Hiền, đẹp, nết na, tốt nghiệp khoa Văn loại
khá. Hợp, chị nghĩ rất xứng đôi. Chỉ ngặt nỗi chị
Tƣ hơi nhỏ hơn má tới hơn hai chục tuổi, nhƣng
không sao. Má nghe nói đã ƣng rồi – Tôi cƣời
thầm sao chị không nói bằng tuổi chị có dễ hình
dung không, nhƣng sợ chị giận, bèn nói ngang:
210 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
-Thích thì chị lấy cái con nhỏ gì đó đi, can
dự gì đến em? – Nói và tôi bỏ đi.
Chị Đông há hốc miệng nhìn theo nhƣ thể
tôi đang hoá kiếp từ con ngƣời bình thƣờng sang
loài động vật khác một cách từ từ, thong thả nhẩn
nha, thong thả hoá kiếp. Dƣới mắt chị lúc này, có
lẽ tôi là con tắc kè trên ngọn cây, đổi màu và lẩn
nhanh đâu đó ngay trƣớc mắt không thể nhìn thấy?
Anh Minh thấy bộ mặt nhăn nhó của tôi
ngoài thềm giếng, bèn lên tiếng:
-Kỳ này em bị khủng bố nặng rồi.
Tôi không phản ứng, bỏ ngay ý định rủ anh
ra ngồi quán.
2. Má tôi đứng trƣớc bàn thờ lâm râm khấn
vái những gì đó thật lâu. Khói nhang quyện đặc
gian thờ. Những chân nhang trong bát hƣơng đỏ
thẫm, hai cây nến đỏ thẫm, màu sáng cây đèn hột
vịt phải nhờ đến ngọn néon mới nhìn rõ ảnh thờ
cha tôi treo trên cao, phía dƣới giá đỡ tƣợng Phật
bà Quan Âm. Vẻ đẹp trai, phong lƣu vẫn rung rinh
đâu đó trên khuôn mặt chữ điền, đôi mày rậm,
miệng nhƣ nở nụ cƣời từ bộ râu vểnh ngƣợc, nom
giống một quí ông ở thời kỳ Phục hƣng. Khổ nỗi,
hình ảnh bộ râu quí tộc bị chiếc khăn xếp và áo dài
hoa văn chữ Thọ trên bức chân dung đã phá cách
vẻ đẹp mã một cách khó coi, không hợp với khuôn
mặt luôn nhìn thấy điều gì cũng dung dị, đẹp; đời
cứ nhƣ bông hoa không bao giờ tàn vậy. Bức chân
dung ấy còn mang cả đôi mắt sáng ngó thẳng về
211 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
phía con, rể đứng sắp hàng kẻ trƣớc ngƣời sau,
nhƣ muốn nói: Cha rất hài lòng vì các con. Đôi
mắt ấy cũng ngó về phía má tôi và nói thật to: Dù
anh đang ngồi trong khung kính nhƣng tim anh
vẫn dành trọn cho em. Tôi nghĩ, rất có thể má có
nhìn thấy và nghe đƣợc những điều này qua linh
cảm, vì thỉnh thoảng má đƣa tay lên mắt, thỉnh
thoảng sụt sịt. Có thể là do khói nhang nghi ngút,
có thể là má nhớ thực lòng. Không nhớ, không
thƣơng yêu nhau sao lại khóc, lại lắm con thế?
Tiếng nói nhỏ nhƣng vang nhƣ tiếng
chuông khiến ngọn nến đang cháy thẳng đứng
bỗng lay nghiêng, chao qua trái qua phải chực
rụng xuống bàn: Mẹ ơi, khói ngợp thở quá mẹ ơi!
Tiếng chị Sâm quát khẽ: Im, ráng thêm chút nữa,
đừng ồn. Lại một giọng nữa cất lên, giọng con gái:
Đói quá mẹ ơi, cúng gì lâu thế?
Khối đám đông con cháu trƣớc bàn thờ cha
tôi từ tƣ thế nghiêm trang bổng rục rịch, chuyển
động tại chỗ, chỉ thấy phần trên. Vậy chắc cũng đủ
để cha tôi thấy đƣợc sự ấm cúng hạnh phúc của gia
đình nếu ông còn có thể nhìn thấy từ bức ảnh lồng
kính, treo trên cao?
(…) Lễ cúng trôi qua chậm chạp nhƣ khúc
bi ca lỗi nhịp và kết thúc bằng những cái vái lạy,
vàng mã đốt khói um đầy nhà, muối gạo ném vãi
trắng sân. Khách khứa đã tới gần đủ. Các chú bác,
những ngƣời thân trong gia tộc đâu hơn mƣơi
ngƣời đƣợc chị Đông sắp ngồi ở chiếc bàn tròn lớn
ngay đầu hồi tây, nơi trƣớc kia cha tôi và các chú
212 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
bác hay ngồi nhâm nhi ly rƣợu, tách trà nói chuyện
đông tây. Anh Đông và anh Ty thay mặt gia đình
ngồi tiếp. Gian phòng khách ở dƣới bày một bàn
khác có má tôi, cô Sáu, các anh chị và hai mẹ con
bà bạn chị Đông.
Thừa lúc mọi ngƣời không chú ý, tôi vẫy
Khôi, con chị Sâm ra chỗ để xe. Thích quá, nó hét
to: dạ để con tìm chiếc mũ. Tiếng la của nó khiến
mọi ngƣời chú ý. Và vì tôi là nhân vật đang đƣợc
canh giữ cẩn mật, nên khi tiếng thằng bé vừa dứt,
chị Đông đã đứng sát cạnh nhƣ bà nữ cảnh sát hình
sự đang tác nghiệp: Mày làm cái trò gì vậy, thằng
khỉ? Tôi nghe hai hàm răng chị riết lại thành tiếng:
vào nhà ngay. Khôi chƣng hửng, nhùng nhằng kéo
quần tôi, còn chị Đông thì ép sát ngƣời níu dây
thắt lƣng đẩy tôi vào nhà nhƣ đẩy tên tử tù lên xe
cây. Thôi đành lòng vậy, tôi thầm nhủ.
Chị ấn tôi ngồi xuống chiếc ghế trống, giữa
chị Khảnh và chị Quế, đối diện với mẹ con bà Tƣ,
cố ý để hai phía “đối tác” có thể nhìn rõ mặt
mũi,cử chỉ của nhau. Chị Đông mào đầu bằng
những câu nghi thức vòng vèo từ thời ông Bành
Tổ, Khổng Tử rồi mới vào phần chính là trƣớc ăn
giỗ sau để quen biết, thân tình nhau hơn. Tôi xoay
xoay cái chén trống trơn ƣớc chi chị biến ngay
thành đàn ông thì cái nhà này đỡ đi nhiều việc, ít
nhất là không phức tạp hoá mọi chuyện.
Bình thƣờng, những khi cả nhà họp mặt đông đủ
thì đến cả chén đũa, ghế đẩu cũng rung rinh cƣời
theo tiếng cƣời của tất cả mọi ngƣời, đến cả má
213 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
cũng hào phóng tham gia. Còn bữa nay, phần bắt
đầu theo nghi thức ngoại giao khiến không khí
nặng nề; tiếu lâm nhƣ chị Quế, chị Sâm cũng ngồi
cắm đũa giữ lễ.
Thấy chị Đông to nhỏ gì với bà Tƣ, tôi chợt
nghĩ và đứng dậy cầm ly bia:
-Con mời má, mời chị Tƣ, mời cô và các
anh chị…
Chị Đông giật thót ngƣời, thiếu chút nữa là
đánh rơi đôi đũa xuống đất. Chị há hốc miệng nhìn
tôi rồi ngó lên trần nhà. Tôi thấy mặt chị tái đi đến
tội nghiệp. Chị Quế huých khuỷu tay vào hông tôi,
nói nhỏ “điên”. Tôi đá vào chân chị có vẻ hơi
mạnh, chị đau suýt bật thành tiếng la, trong khi
những ly bia cứ lƣng lửng trên tay một cách khó
hiểu.
Thật lòng, tôi không có thành kiến gì với
mẹ con bà bạn chị, nhƣng do cung cách thái quá
của ngƣời chị kiêm bảo mẫu khiến tôi trở thành
thằng nhỏ thật sự. Giây phút đăng đắng trôi qua
nhƣ những ngụm bia đang ngắt ngứ trôi lọt xuống
bao tử.
Không khí vui vẻ đƣợc nối trở lại. Mọi
ngƣời xúm vào vừa hỏi thăm mẹ con bà Tƣ vừa
gắp thức ăn chăm chút cho hai ngƣời nhƣ cố xoá
lấp phần lỗi không đáng có do tôi gây ra lúc nãy.
Giờ tôi mới để ý quan sát hai mẹ con bà bạn
chị Đông. Bà ta trạc tuổi chị, lƣỡng quyền hơi cao,
đôi mày đƣợc chăm sóc quá kỹ khiến mỗi khi bà
cƣời, các nếp nhăm dƣới khoé mắt dính sát vào
214 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
đuôi chân mày một cách khó coi. Có lúc tôi tƣởng
tƣợng phía đuôi mày là phần ngọn của chiếc cần
trúc đang lòng thòng với dây nhợ lƣỡi câu bên
dƣới. Tuy vậy bà có duyên nhờ chiếc miệng lúc
nào cũng muốn cƣời với tất cả những ai đang đối
diện với nó. Cô con gái chắc bằng tuổi hoặc hơn
Hà My – con gái đầu anh chị Đông – chút đỉnh;
nƣớc da màu bông bầu, mũi cao, mắt sáng, khuôn
mặt trái xoan, phúc hậu; nhƣng hình nhƣ phía dƣới
khoé mắt có nốt ruồi nhỏ bị cố tình che lấp bỡi lớp
phấn dày. Nếu quả thật đây là nốt ruồi thì cô ta bị
liệt vào hàng ngũ của đám phụ nữ có số trích lệ
khấp phu, theo nhƣ quyển sách tƣớng số phụ nữ
mà tôi đã đọc ở đâu đó ? Loại phụ nữ này, ngày
xƣa ông bà rất kiêng kỵ, còn thời nay có thể sẽ
khác đi. Nhƣng đó sẽ là cái cớ để thoái thác, để nói
với mọi ngƣời rằng: tôi là con độc đinh, thuộc loại
quý hiếm của gia đình cần bảo vệ, không thể biến
tôi thành vật hiến tế dƣới bàn tay cô ta đƣợc. Tóm
lại là không thể vợ con.
Thật lòng mà nói, tôi không ác cảm gì với
cô ta và cũng không thấy có điều gì làm xốn xang
cõi lòng, chỉ thấy cô lẻ loi, tội nghiệp, khép nép
trong không khí không bình thƣờng.
Thấy tôi chú ý quan sát hai nhân vật đặc
biệt trong bàn ăn, hết chị Quế rồi chị Khảnh quay
sang khuyến khích: Chị thấy đám này đƣợc đấy,
chỉ cần tìm hiểu thêm tính tình… Chị cho 8/10.
Tôi trả lời nếu 10/10 thì thành hoa hậu thế giới rồi.
Chị Khảnh: chị thấy má có vẻ hài lòng. Thì đó là
215 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
cặp mắt xanh hay mắt hồng của má, tôi trả lời. Chị
Khảnh: bậy, chị cũng thấy con bé có vể hiền, em
tìm hiểu từ từ. Mẹ đang mong có cháu nội đó, em
biết không?
Cách nói của chị Khảnh se sẽ, ngùi ngùi
giống anh thợ cày cầm chiếc dùi nƣớng đỏ trên lửa
dùi từ từ vào ống tre tƣơi, kêu xèo xèo làm hoang
mang cõi lòng. Tôi sờ chỗ bụng nhô cao của chị:
ƣớc chi chị là anh trai em nhỉ?
Cuối buổi tiệc, lúc ngƣời nhà dọn lên dĩa trái cây
tráng miệng, tôi chồm ngƣời bóc múi bƣới chìa về
phía bà bạn chị Đông, nói trổng: xin mời; một múi
khác về phía cô gái, ngƣời mà chị Đông muốn
mang về làm em dâu, nói: mời chị. Các chị cƣời ồ.
Tôi là kẻ đỏ mặt trƣớc tiên chớ không phải cô gái
và lúng túng làm đổ phần bia thừa trong ly vãi ra
bàn, bỡi tiếng cƣời đồng loạt cất lên chỉa về hƣớng
tôi giống nhƣ những mũi tên của các chiến binh
thời Trung cổ xông trận vậy.
Tôi rút êm bằng cách giả bộ đỡ ly bia ngã mang
xuống bếp, đi vòng ra sau vƣờn. Liếp vạn thọ non
đang đâm nhánh chẳng mấy chốc sẽ nở xoè những
bông vàng rực. Vậy mà tôi không làm đƣợc điều
mà má và các chị mong đợi. Sao vậy?■
216 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Hương Cau
____________________________
Giờ thì là sao? Không sao cả. Vậy thì ông
đang ở đâu? Trên tầng cao, rất cao; giống nhƣ một
cái ổ chim trên chót núi cheo leo. Mình cũng đang
ngồi trong ổ chim đó, trên cao tít mù mù, cách biệt
với thế giới ùn ùn dƣới kia… Ông già lẩm bẩm, đi
tới đi lui trong gian phòng bày biện sang trọng vừa
nhìn sững vào vách tƣờng dựng đứng nhƣ một
chiếc hộp diêm. Ông già tự hỏi rồi tự trả lời, rồi lại
nhìn xuống sàn nhà, bất ngờ thấy lại gót chân nứt
nẻ của mình, thấy những chiếc móng vêu u, sứt
sẹo của mình… Và chợt nhớ quay quắt gian nhà
mái âm dƣơng năm gian, nền lót gạch tàu nham
nhám ở tận đồng sâu. Nỗi nhớ cồn cào đến quặn
thắt ruột gan, trào ra nhƣ chút khói trong bếp tro
vùi vòng vèo quanh ông táo, không xa hơn để vón
cục lại thành những ƣớc ao bé nhỏ.
217 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Vậy nhƣng những ƣớc mơ chƣa thể thành
sự thật ấy không đến với ông khoảng cuối đời.
Một chút ánh trăng lúc nửa đêm về sáng đã không
đến. Gió từ cánh đồng mênh mông không thổi mát.
Tiếng cóc nhái côn trùng nín bặt. Xuồng ba lá
không chạm mái dầm lộp bộp. Mấy chiếc xuồng
đuôi tôm không khua nƣớc ầm ĩ cả một khúc sông
vắt ngang trƣớc nhà. Nhà ông đó. Nhà ông là tít
mù dặm mây. Nhà ông là lọn khói đồng vật vƣởng
xa xăm, mang theo mùi cá nƣớng trui xa xăm. Xa
nhƣ chuyện cổ tích. Mà đâu phải vậy. Chỉ cần với
một cánh tay là đến, nhƣng khốn nỗi không ai cho
ông đến. Không đến đƣợc thì thƣơng nhớ âm u,
khắc khoải. Nỗi nhớ nghi ngút nhƣ nồi cơm bốc
hơi thơm một khoảng trời mơ tƣởng. Ừa, cứ cho
ông mơ…
Đã nhiều lần ông kêu thằng con trai: “Coi
chừng tía trợt té gãy chƣn à con”. Nó hiểu ngay
ông muốn nói điều gì, lập tức đƣa bộ mặt sầu thảm
ra: “Tội tụi con mà tía. Về dƣới đó ai chăm sóc
tía? Chừng này tuổi rồi… Hồi nhỏ tía má nuôi tụi
con, nay con cái phụng dƣỡng cha mẹ già…”.
Trăm lần nó đều mở cái giọng thảm não ấy
và trăm lần ông phải bỏ ra khỏi phòng, chống tay
lên bao lơn ngó xuôi theo hƣớng con rạch nhỏ
trƣớc mặt, bị rạch nát bỡi những căn nhà ở hai bờ,
mái gần nhƣ níu lấy nhau. Những vệt nƣớc đen
ngòm lấp loáng màu sáng bạc về đêm giống nhƣ
vệt phấn son của cô đào thƣơng về già, giống nhƣ
bộ quần áo bà ba thỉnh thoảng ông mới dám mặc
218 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
lúc con đi vắng, cho đỡ nhớ bùn sình, rặng tre
cùng những lùm ô rô cóc kèn níu chùm rễ bần vọt
lên khỏi mặt nƣớc sông đỏ quạch. Dòng chảy của
con rạch khác chi ngày tháng cuối đời của ông.
Bởi nó là con rạch nên chẳng kêu la, chẳng hoài
nhớ tháng ngày thênh thang hai bờ rộng, nƣớc
trong vắt nối dòng sông lớn ở đâu đó. Còn ông là
đoạn cuối một dòng sông vắt cạn nƣớc qua hai bờ,
một nông dân thứ thiệt, chữ nghĩa ít, nhƣng thấu
hiểu nghĩa lý ở đời. Nghĩa lý ấy làm ông đau. Đám
con chẳng tội tình chi khi phải làm vậy. Nhƣng giá
nhƣ chúng cứ để ông dƣới quê, trong căn nhà mái
ngói rêu phủ, nền gạch mòn lĩn dấu chân cha mẹ,
vƣờn cây trái sum suê…hẳn ông sẽ hạnh phúc hơn
nhiều.
Ông già quay trở vào. Căn phòng rộng, bày
biện đủ mọi tiện nghi thành phố nhƣng cũng chỉ
mình ông thui thủi. Mỗi ngày chỉ gặp nhau trong
bữa tối cỡ tiếng đồng hồ, nói chuyện tầm phào, rồi
mạnh ai vào phòng nấy. Bảnh mắt, chúng đã vác
xe đi tự lúc nào! Cách phụng dƣỡng của đám con
là để ông một mình trong căn phòng rộng, trên
tầng năm và bà vợ bán thân bên trong khung kính,
khiến ông nhƣ cái bóng lay lắc giữa bốn bức tƣờng
thẳng đứng với những rèm che, cửa kính… thiệt
buồn!
Ông đứng bên ô cửa nhóng ra. Xa cuối con
rạch kia là đâu, nó có chảy xuôi về quê ông, xẹt
ngang trƣớc ngõ nhà có chiếc cầu ván từ bờ đất bắt
doi ra nhƣ chiếc mỏ vịt? Thuở nhỏ ông đã đứng
219 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
trên cầu nhảy ùm xuống sông. Lớn lên ông đứng
trên tấm ván lắc lẻo, đắm đuối ngó cô Bảy chèo
xuồng ba lá chở giỏ đầy bông điên điển vàng mặt
sông. Và cuối cùng những giỏ điển điển ấy cũng
rắc đầy từ mặt sông lên ngõ nhà ông, để giờ này cô
ngồi sau khung kính nở nụ cƣời vàng rực.
Mau thiệt – Ông buột miệng than. Tất cả đã
lùi xa, thiệt xa. Mới đây mà căn nhà xƣa giờ bị
khuất lấp ở cuối đƣờng chân trời. Muốn rờ đụng
hàng cột tròn láng bóng ông cũng chỉ rờ đƣợc
trong trí tƣởng tƣợng, ông bay nhảy với tuổi ấu
thơ, muốn giang đôi tay khẳng khiu níu kéo lá mái
che cuối đời mình nhƣ nó đã che cho cả nhà ông
mát trong mùa nắng, ấm mùa lạnh. Dàn trần tre
trét đất bên trên nhƣ thể cả căn nhà mang bùn đất
của ruộng đồng vào tận những chiếc chõng tre,
thơm hăng hắc, nồng nàn. Rồi đến cả những tấm
liễng, hoành phi, những nghi khậu ở gian thờ lung
linh bóng hình tổ tiên trong lớp nhang khói bay
vòng lên cao. Bao nhiêu đời kế tiếp nhau để có
đƣợc gian nhà nơi “chôn nhau cắt rún” bỗng chốc
xa vời vợi khiến ông muốn khóc. Giá mà khóc
đƣợc nhƣ những giọt nƣớc mắt trẻ thơ khi phải
cầm nùi giẻ lau sạch bóng bộ cửa bằng pha bằng
gỗ lim chạy dài suốt năm gian, chuẩn bị đón tết,
trong khi lũ bạn nhỏ đang chọi đáo, u quạ ngoài
ngõ! Bộ cửa ấy với ông nhƣ hai kẻ luôn đối đầu:
Trƣớc ngày giỗ có tiếng kêu “Út Đễn ơi, lau cửa đi
con”; ngày giáp tết „Út Đễn ơi lau cửa đi con”. Nùi
giẻ và bộ cửa đã theo ông suốt dọc đời ngƣời, đến
220 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
nỗi nhắm mắt ông có thể đếm đúng những khe
rãnh chạm trổ, mỏ chim phƣợng, mắt lân nằm
khoảng nào, những con dơi láng đen, những chùm
trái nho thòng thễnh chỗ nào; cả đến những vết
sƣớt khi ông dùng mũi dao khƣ những mảng bụi
bám trong khe... Vậy mà giờ này.
Bất giác ông ngó lên khung ảnh vợ có nụ
cƣời vàng rực bông điên điển. Ngó và nhớ cái
ngày hai ông bà đứng trƣớc bàn thờ tổ tiên, nhớ cái
vấp té đầu tiên của vợ nơi ngạch địa, nhớ tổ ấm ở
chái sau... Ông khóc thiệt, khi bàn tay vô tình
chạm nhẹ vào khóe mắt, một chút nƣớc sền sệt
nhƣ quá khứ xa xôi hiện về.
Ông nghĩ bụng: Tối nay lũ con đi làm về sẽ
nói thiệt với chúng để ông về thăm quê một
chuyến, nhƣ chuyến đi cuối cùng: Ông sẽ đứng
trên ván cầu dõi tìm bông điên điển, ông cởi trần
nằm dài xuống nền gạch tàu mát lạnh, gối đầu lên
ngạch địa nhìn lên trần đất thơm hắc mùi bùn đất,
rờ đụng vào những khe rãnh bộ cửa, thắp nén
nhang nhìn tổ tiên bay về cùng ông; về ngôi nhà
xƣa dày mọp tiếng ve sau vƣờn. Ông ra cầu ao
múc nƣớc đầy dãy khạp đứng sắp hàng thẳng đuột
rồi quay vào đu đƣa trên chiếc võng gai nơi hàng
hiên ngó hàng cau trƣớc sân nhỏ. Mùa này cau đã
trỗ buồng rồi. Hƣơng cau thoang thoảng nhƣ mùi
tóc cô Bảy đang ngồi đẩy những nhánh củi trâm
bầu dƣới đít ông táo. Hƣơng cau xa xôi đó đƣa ông
đi, đi miết trong cơm mơ thiếp rắc hoa vàng.
-Tía ơi… tía…
221 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Ông giựt mình, xoay quả nắm, hé cánh cửa
dòm ra.
-Tía ơi… tía ở đâu vậy? Tía…
-Tao đây. Tía đây. Chi mà la um trời lên
vậy?
-Tía thay quần áo nhanh lên. Xe chờ dƣới
đƣờng kia kìa.
-Đi thiệt hả? Đi ngay bây giờ?
-Dạ, đi liền.
Ông quay vào trong, lòng khấp khởi mừng.
Chí ít con cái cũng bắt đầu hiểu đƣợc tâm trạng
ngƣời già, dẫu là có hơi muộn. Muộn vẫn còn hơn
không. Tay chân ông run run, lóng ngóng… cài
khuy áo, thắt dây rút. Cuối cùng thì mọi chuyện
cũng xong. Ông bƣớc ra lòng phấn chấn hệt đứa
cháu nội mỗi khi nó cầm giấy khen về nhà.
Ra tới phòng khách, thằng con trợn ngƣợc
mắt, kinh ngạc đến vô cùng, nhƣ thể ông là một
sinh vật nào khác, từ một hành tinh nào khác đứng
trƣớc mặt nó. Ông chƣa hề, chƣa bao giờ là cha
nó.
-Chèng ơi, sao tía ăn mặc vầy?
-Chớ mày biểu tía mần sao?
-Đi nhà hàng tía ơi. Bữa nay con đƣợc bổ
nhiệm trƣởng phòng. Con chiêu đãi cả nhà. Con
mời tía với vợ chồng chú Út nó…
-Chớ không phải bay đƣa tía về dƣới miệt
vƣờn?
-Trời, tía! Miệt vƣờn thì có chi hấp dẫn mà
tía nhắc hoài?
222 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
-Sao không? Nơi cha mẹ sanh ra tía đó. Nơi
má bay sinh ra tụi bay đó, rồi má bay nhắm mắt
xuôi tay trên mảnh vƣờn đó đấy, rồi mai mốt tới
lƣợt tía. Bao nhiêu đời tổ tiên con cháu quần tụ
trên mảnh đất đó đấy.
-Con xin tía. Tía vào thay lại áo quần đi. Cả
nhà đợi tía, xếp và đồng sự con đợi tía ở New
Pearl.
Không hiểu sao khi nghe thằng con nói tới
đây, ông già nổi giận phừng phừng, xán lại gần
đụng mặt nó, hét lên:
-Tía không cần. Cái tao cần không phải là
những chỗ đó. Một ông già nhà quê nên tao biết
mình ngồi chỗ nào thoải mái, dễ chịu hơn - Nghỉ
một chút lấy hơi, ông tiếp – Đi đi, tía không đi
đâu.
Ông già nói chừng đó, đóng sập cửa lại.
Ông thong thả dốt nén nhang cắm lên bàn
thờ cô Bảy.
Ông lâm râm gì đó mà ngay cả ông cũng
không rõ. Một hồi lâu sau, ông lục tủ thờ lôi ra
nhạo rƣợu với chiếc ly. Ông rót từ tốn để nhìn rõ
ngọn rƣợu vun cao thành hột cƣờm, lung linh nhƣ
những cánh cò trắng trên đồng nƣớc. Dƣới kia là
cánh đồng bông điển điển vàng rực. Mắt ông mờ
đi thấy mình đang đong đƣa trên cánh cò bay
thẳng về phía đồng nƣớc. Những cánh cò mang
theo mùi hƣơng cau thơm lựng đất trời.■
(7/2009)
223 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Về Làng
____________________________
“Derrière chaque l’homme,
il y a un enfant”
Angel. V
Ông Xang gắng sức đạp liền mấy chục cái
chiếc xe mới chịu nổ. Nó bật rung lên, ho lạch
cạch nhƣ ngƣời bị hen suyễn, còn ông thì gần đứt
hơi. Chỉ cần thêm mấy cái đạp nữa có thể ông sẽ
khuỵu xuống. Ông đã già. Chiếc xe cũng già. Nó
già gấp mấy lần con chó nhà ông đã rụng lông xơ
xác, vảy tróc lên từng mảng ghẻ lở màu phân trâu.
Ông thở hắt ra rồi tự nhủ “dù gì cũng phải cố đƣa
ông bạn già về làng một chuyến sau nhiều năm xa
cách, nhƣ một bổn phận không thể cƣỡng chống”.
Nhƣng ông bạn Việt kiều hình nhƣ không
nhìn thấy cảnh này, đang ngó nghiêng nhìn trời
ngắm đất. Mãi đến khi chiếc xe hắng giọng ho
khùng khục liên hồi thì ông mới quay lại hỏi
“đƣợc chƣa” rồi thản nhiên dạng chân ngồi lên sau
yên cƣời hềnh hệch: “Ôi con ngựa già của chúa
224 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Trịnh. Con ngựa mới thật đáng yêu!”. Tiếng máy
nổ át tiếng nói, ông Xang không nghe gì, chỉ có
mảng khói đen khét lẹt phụt ra sau nhƣ cố lấy sức
dƣớn tới một cách khó nhọc. Ông bạn Việt kiều
cƣời hể hả: “Mấy chục năm về làng đƣợc đi xe ông
nhƣ lý trƣởng ngày xƣa cỡi ngựa, ông hỉ?”. Ông
Xang nghe tiếng đƣợc tiếng mất: “Chịu khó ngồi,
nửa tiếng nữa tới làng”.
Làng của hai ông là xóm nhỏ nằm bên tả
ngạn khúc sông uốn hình vòng cung trƣớc khi
chảy xuôi ra biển, bên này là con đƣờng chạy song
song với kênh dẫn nƣớc nối đồng bằng với các
vùng núi phía tây. Trƣớc, cái làng ấy nổi tiếng
giàu có nhờ ruộng đất phì nhiêu; nổi tiếng đá gà và
và xóc dĩa kéo dài từ tết cho đến giáp mùa lúa
tháng Ba. Con gái trong làng đẹp bởi nƣớc da
trắng, mắt đen láy nhƣng khổ nỗi mông to nhƣ đít
trâu cày, hai bàn chân thì bè ra nhƣ chân vịt. Mông
to và chân bè vì những gánh lúa đè nặng lên đôi
vai trên những bờ ruộng khấp khểnh, trơn lầy. Các
cô ít ai ra khỏi làng, chẳng mấy ngƣời đƣợc học
hành tử tế, cao lắm cũng chỉ hết bậc tiểu học để
làm con tính, viết thƣ tình rồi lấy chồng đẻ con.
Cuộc đời cứ vậy lặng lẽ trôi qua, không ai bận
tâm, thắc mắc này nọ.
Cả hai, ông Xang và ông Tĩa Việt kiều đều
xa làng khá lâu. Sau chiến tranh, một ngƣời lên
thành phố kiếm sống và sống cũng tạm ổn; ngƣời
kia lên thuyền vƣợt trùng dƣơng và mang quốc
tịch khác. Hai cảnh đời khác nhau, nhƣng vì tình
225 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
thân từ tấm bé nên mỗi khi hai ngƣời gặp nhau, từ
thời trai trẻ cho chí tuổi già, thƣờng bên cạnh nhau
nhƣ hình với bóng.
Lần này ông Tĩa về nƣớc sau gần ba mƣơi
năm không hề biết đến mùi nƣớc mắm, cá kho
năm bảy lửa và khói bếp nên thấy cái gì cũng lạ,
ăn cái gì cũng ngon, hệt đứa con nít mới lớn. Tâm
trạng ấy chỉ lấp ló trong đầu ông Xang nhƣ đốm
đỏ đầu cây nhang nhìn thấy từ xa, rất xa. Ngƣợc
lại, ông Tĩa thì luôn háo hức, hồi hộp, chờ đợi...
rồi nó bật rên nho nhỏ khi hai ông nằm chung trên
chiếc giƣờng chỉ có chiếc chiếu trên tấm vạt tre:
“Mai mình về thăm làng, hẻ. Cũng sắp tết rồi”.
Ông Xang gạt chân bạn đang gát ngang qua bụng:
“Còn ai đâu!”. Ông Tĩa chồm lên, thì thào: “Còn
chớ sao không. Lùm tre, đọt dừa, đồng làng, con
mƣơng... với cô Hai Khảnh”. Ông Xang thở dài:
“Tôi cũng không nhớ nữa. Còn sống thì chắc cũng
phệu phạo, răng rụng hết rồi”.
Chiếc đèn ngủ trên vách tỏa chút ánh sáng
nhòa nhạt. Mọi vật đều lờ mờ. Tâm trí ông Xang
cũng lờ mờ về hình ảnh cô Hai Khảnh. Ông không
thể hình dung nổi cô Hai ra sao. Không nhớ nổi.
Lâu quá rồi, xa quá rồi. Nhƣng ông Tĩa chắc nhớ
rõ. Không nhớ sao lại nhắc đến? Mà nhớ là phải.
Hai ngƣời đã có tình ý từ hồi học septième classe.
Hồi đó chắc cô cũng đã phát mã, gò ngực mây
mẩy, nƣớc da trắng nhƣ trứng gà bóc vỏ khiến anh
học trò Tĩa ngây ngất? Khuôn mặt đó, cặp mắt đó
hẳn ông Tĩa lƣu giữ mạnh mẽ trong đầu hơn bất kỳ
226 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
ai. Về nƣớc nhớ làng. Về làng bỗng nhớ ngƣời yêu
trong mộng đã mốc meo từ kiếp nào. Nhƣng chút
bụi mốc ấy bỗng sáng lóa, trơn tru, mới mẻ đến bất
ngờ. Hai ông bạn già tuổi quá bảy mƣơi tự dƣng
thấy lòng cồn cào nỗi nhớ bâng quơ, mỗi ngƣời
nhớ về một chốn, một kiểu khác nhau.
Giờ thì hai ông bạn già đang trên đƣờng về
làng với chiếc xe máy cũ kỹ, thỉnh thoảng ho khan
của ngƣời bị bệnh hen suyễn mãn tính.
Xe ra khỏi thành phố non cây số, bất ngờ
ông Tĩa bấm vào hông bạn.
-Dừng, dừng lại!
Ông Xang ngó lui làm chiếc xe lạng đi, suýt
đâm bổ sang lề bên kia.
-Chi vậy, bộ mắc tiểu hả?
-Không, dừng lại. Mình nhớ...
Ông Xang đạp thắng. Chiếc xe khi đứng
yên cũng khốn khó nhƣ khi nổ máy lao tới. Ông
bạn già ngoái chân ra sau bƣớc xuống, đứng chống
nạnh ngó ra hƣớng bấc:
-Ngôi miếu chỗ này đâu rổi nhẻ? Rõ ràng
hồi nằm miếu tọa vị trên khu đất này mà?
-Ngôi miếu thờ thành hoàng?
-Đúng. Xƣa kêu miếu Cây Da.
-Phía trên kia, non cây số; nhƣng nó biến
mất rồi, biến từ khuya!
-Sao vậy? Bão sập, lũ nƣớc cuốn trôi?
Ông Xang xa xăm.
-Bão lũ con khỉ gì. Hồi vô hợp tác xã, mấy
ông cán bộ kêu “không có thần thánh gì sất, mê tín
227 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
dị đoan. Phá đi để làm sân kho, phải duy vật, phải
biến nó làm ra của cải chớ không để chình ình ra
đó, choáng đất...”.
-Trời đất, không có ngƣời tiên phong mở
đất lập làng thì làm gì có chốn này. Một thẻo đất
nhỏ để phụng tự ngƣời có công mở đất mà kêu dị
đoan với mê tín!
-Thôi đi. Công trạng coi nhƣ đã hoàn mãn.
Giờ thì qua chƣơng khác, phải làm ra của cải.
Nghe nói hồi đó mấy lăng tẩm, đền miếu ngoài cố
đô còn bị phá huống chi ngôi miếu nhỏ này. Lên
xe ông bạn, trƣa rồi – ông Xang nói nhƣ ra lệnh.
Chiếc xe khốn khổ rên lên rồi lấy hết sức
bình sinh dƣớn tới, lẫm chẫm giống đứa trẻ mới
tập đi. Nó loạng choạng không hẳn vì sức nặng
của ông bạn ngồi sau mà đơn giản nó quá cũ kỹ,
rệu rã chỉ năm thì mƣời họa mới lôi ra dùng; nhƣ
bữa nay nó lấy hết hơi tàn lực kiệt để đƣa hai
ngƣời về làng, nhƣ một cách trả đền ơn nghĩa cho
những tấm lòng thiết tha đến cố hƣơng. Ông Xang
có cảm giác mắc cỡ với bạn vì sự chậm chạp, ọc
ạch. Nhƣng ông Tĩa thì không thấy thế, sự chậm
chạp kia giúp ông có đủ thời gian quan sát mọi vật
chung quanh. Đó là dòng nƣớc trong xanh từ đập
chắn ngang khúc sông lớn đƣa về. Nƣớc len vào
các chân ruộng đang thì con gái. Mùi thơm nhẹ
của cây cỏ, đất bùn phảng phất trong gió hiu chút
nắng buổi sáng. “Giá có chút khói đốt đồng” ông
nghĩ thầm trong đầu. Thứ khói đó chỉ có ở các
làng quê trong nƣớc, lừng lựng thơm nhƣ một loại
228 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
nƣớc hoa khác biệt với thế giới cơ khí, nhôm
nhựa! Chỗ ông ở thỉnh thoảng vẫn có khói, nhƣng
đó là những đám khói cuồn cuộn trong các vụ cháy
rừng. Khói mù mịt, nồng nặc đến ngạt thở, co giò
chạy thục mạng, lên xe phóng nhƣ tên bắn; loại
khói của nỗi hoảng loạn khi chúng men tới sát mép
rìa khu thị trấn. Dễ đến ba bốn lần ông hít phải thứ
khói ấy với nỗi sợ hãi mình sẽ bị thiêu cháy tức
khắc!
Phía trƣớc, ông Xang bất ngờ đƣa cánh tay
khẳng khiu ra và bất ngờ ngoặc sang trái để rẽ vào
đoạn đƣờng trải sỏi đỏ hỏn. Ông Tĩa chồm tới:
-Đi đâu vậy, cua vào đây làm gì?
-Thì vào làng mà – Ông Xang trả lời.
-Làng? Làng mình nay giàu thế sao? Cả
một dãy nhà lầu kia dân làng xây?
-Không. Khu công nghiệp tiểu thủ công
nghiệp đó.
-Hồi xƣa chỗ này là đồng lúa phì nhiêu, sao
tự dƣng đi làm khu công nghiệp?
-Không biết. Ở trên ấy. Họ nói công nghiệp
hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn mà!
-Ôi trời! – Ông Tĩa kêu lên nức nở nhƣ
chính mắt mình nhìn thấy ông bạn bị chôn lấp bên
dƣới lớp cát nền khu công nghiệp.
-Lạ thiệt – Ông Tĩa tiếp tục rên.
-Có gì mà kêu lạ. Rất bình thƣờng. Ruộng
đất của nhà nƣớc, họ muốn làm gì thì làm, nông
dân đâu có quyền kêu ca. Cả ngàn mẫu ruộng tƣơi
tốt bỗng dƣng lấp trọi, rồi đƣa cho thằng giàu làm
229 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
cái sân banh, đánh trái gì trăng trắng nhƣ trứng vịt
đấy.
- Bố siệt!
-Gì? – Ông Xang ngoái lui hỏi.
Ông Tĩa không trả lời, cảm thấy ngƣa ngứa
bên mang tai.
Phải khó khăn lắm hai ông bạn già mới hỏi
thăm đƣợc nhà bà Hai Khảnh.
Đó là căn nhà ngói cũ kỹ, xây theo kiểu chữ
đinh nằm khuất sau mấy hàng cau, bƣởi... Trên
khoảng sân hẹp lèo tèo mấy chậu cây cảnh cành lá
xác xơ, hình nhƣ chẳng mấy khi đƣợc chăm sóc.
Xe dựng bìa sân. Con chó từ trong nhà nhảy xồ ra
sủa từng tràng dài nhƣ muốn xua đuổi hai ngƣời
khách lạ. Lát sau ngƣời đàn ông có chòm râu bạc
quăn queo, ở trần từ sau bếp bƣớc tới, tay còn nắm
cây rựa cán dài:
-Hai ông hỏi ai?
-Dạ chúng tôi là bạn cũ của chị Hai. Chúng
tôi học chung lớp từ hồi nhỏ. Mấy chục năm... –
Ông Xang tiếp tục kể lể dông dài. Ngƣời đàn ông
vừa nghe thỉnh thoảng lại lắc đầu nửa nhƣ tin nhƣ
ngờ:
-Chết rồi. Chết năm ngoái. Bị tăng xông.
Ông Tĩa chƣng hửng, quay mặt đi trong khi
ông Xang còn kịp thốt ra một câu không biết để an
ủi ngƣời chồng góa vợ hay an ủi ông bạn già luôn
bao phủ quanh ngƣời một thứ mùi hăng hăng, chua
chua của loại bánh mì kẹp thịt ở xứ lạnh:
230 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
-Tội nghiệp.
Chủ nhà dựng cây rựa vào tấm phên liếp:
-Mời hai ông vào trong này – Nói vừa chỉ
tay vào nhà.
Đúng là loại nhà không có bóng dáng phụ
nữ, ông Tĩa thầm nghĩ trong đầu, nhìn quanh. Mọi
thứ đều lộn xộn, đặt ở những vị trí không mấy
thích hợp: Cây chổi dựng ngay cửa đi, phích nƣớc
đặt dƣới nền xi măng, bó rau đã héo nằm chỏng
chơ gần bậu cửa... Tất cả nhƣ muốn kêu lên rằng
“chúng tôi cô đơn”.
Bỏ mặc ông Xang hỏi han này nọ với chủ
nhà, ông Tĩa đứng dậy vừa nói vừa bƣớc tới bàn
thờ nằm khuất trong góc tối “ Xin phép anh tôi
thắp chị Hai cây nhang”, nói và đứng bật lên, bƣớc
tới.
Chị Hai đang ngồi trong khung kính, trƣớc
mặt ông Tĩa. Trên bàn có nải chuối chín rục lặng lẽ
trên cỗ bồng, bát nhang cắm đầy chân màu son và
hai cây đèn sáp hai bên cháy phân nửa còn đọng
lại những dây sáp thòng thòng nhƣ những giọt
nƣớc mắt chƣa khô. Ông Tĩa cảm thấy bùi ngùi khi
nhìn lên bức chân dung ngƣời quá cố: Chị Hai mặc
áo nhung đen quần trắng, chân vắt chéo trên chiếc
đẩu có vai tựa, bên cạnh là chiếc bàn con có lọ hoa
và bình trà cùng chén tách. Chị Hai xƣơng xẩu,
môi đƣợc tô đỏ, chân mày vẽ cong cố nở nụ cƣời
với ai đó trƣớc mặt nhƣng không tƣơi. Duy nhất có
đôi mắt vẫn còn giữ đƣợc vẻ sắc sảo ngày nào. Đôi
mắt ấy đã nới với ông bao điều giờ bị đóng cứng
231 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
trong khung kính với cái nhìn xa xăm, khiến ông
nhớ lại những năm tháng cũ, có lần nhìn thấy cô
Hai đứng bên góc rào với tay hái những lá mồng
tơi, bồ ngót. Bàn tay trắng thon lƣớt trên những
phiến lá màu lục diệp. Cô dƣớn lên, mông nhƣ
phình ra đỡ bộ ngực căng tròn, làm điểm tựa cho
đôi tay thoăn thoắt. Ông ngắm mãi, ngắm mãi...
Giờ này cô Khảnh không còn tồn tại trên
thế gian này, nhƣng trong tận cùng tiềm thức ông
vẫn nhìn thấy rất rõ những ngón tay búp thon,
chiếc mông tròn căng. Và rồi ông ao ƣớc giá nhƣ
ngay lúc này có nồi canh tập tàng mồng tơi, bồ
ngót, sẽ không ngại ngùng vừa ăn vừa nhìn cô
trong khung kính.
Ông Tĩa đứng thật lâu, lâm râm cầu khấn
thật lâu khiến ông bạn già bên ngoài chột dạ, ái
ngại. Nhƣng với ông thì chẳng hề chi. Ông chƣa
làm gì lỗi đạo, chỉ muốn nói với ngƣời đang ngồi
bên trong khung kính rằng ông về thăm với tất cả
lòng thành. Tiếc là không đƣợc gặp nhau để nhắc
lại những chuyện cũ, những chuyện rất vu vơ của
thời trai trẻ: Nói với nhau bằng ánh mắt, giữ trong
nhau bằng những nhịp tim đập thình thịch của thứ
mặc cảm phạm tội bị câu thúc bỡi lễ giáo, gia
phong . Chỉ có vậy. Một chút xíu thôi, nhƣng nhớ
đời.
Ông Tĩa quay ra. Ánh mắt hình nhƣ ẩn một
chút lạ. Ông ngồi xuống đỡ tách trà nguội ngắt từ
tay chủ nhà.
232 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
-Cảm ơn hai ông. Nhà tôi đơn chiếc. Lũ nhỏ
đi làm ăn xa, ở mỗi đứa một nơi, năm thì mƣời họa
mới về.
Chỉ với mấy câu ngắn ngủn đó cũng đủ vẽ
nên bức tranh về gia cảnh của ngƣời đàn ông vừa
mất vợ, cũng đủ để ông Tĩa và ông Xang chạnh
lòng.
Họ tiếp tục câu chuyện, hạ thấp giọng, bùi
ngùi an ủi, ngân ngấn cảm thông. Họ nói đủ
chuyện cho tới lúc nhƣ không còn chuyện gì để
nói nữa bèn đứng lên chào nhau. Ba ngƣời đàn ông
cùng bƣớc xuống thềm bằng những bƣớc chân
nặng nhẹ khác nhau.
Chiếc xe rên từng hồi dài nhƣ ngƣời hấp
hối, cọc cạch dƣớn tới đƣa hai ông già ra khỏi ngõ,
luồn vào truông tre tối thui.■
233 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Mùa Tết
___________________________
Ông Hai Son đã già. Già lắm rồi. Ông một
mực không chịu đi, nhƣng con ông thì nói: Cha
vẫn còn sức khỏe nên đi một chuyến cho biết xứ
ngƣời. Xứ ngƣời và xứ ta thì có khác gì nhau? Ông
phân vân. Ông từ chối. Viện mọi lý lẽ để từ chối
chuyện trả hiếu của con cái. Cù cƣa qua lại mãi
trên dây nói, không xong. Ông chấp nhận thua
cuộc vì không đủ lý lẽ với chúng, cuối cùng đành
phải làm hộ chiếu, xin visa rồi leo lên máy bay.
Hàng trăm ngƣời lần lƣợt leo lên. Áo xống đủ kiểu
tây tàu, cà vạt, khăn choàng. Riêng ông độc nhất
một bộ bà ba, dép nhựa. Mọi ngƣời ngó ông mỉm
cƣời. Ông cũng nở nụ cƣời méo mó thu ngƣời ngồi
suốt mƣời mấy tiếng. Xuống sân bay, con ông nhìn
ông bằng ánh mắt khác, không nhƣ những ngƣời
nhìn ông lúc lên máy bay. Cái nhìn khác lạ, hình
nhƣ buồn, nhƣ không hài lòng...
Giờ thì ông ngồi đây một mình, ngồi chong
ngóc nhìn tuyết rơi trắng xóa bên ngoài khung
kính cửa sổ.
234 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Hơn bốn năm rồi, ngày nào ông cũng ở nhà
một mình, loay hoay với mớ kỷ niệm cũ kỹ nơi
quê nhà, bởi xứ Xì-Tô này ông không có bạn,
chung quanh toàn ngƣời lạ, nói thứ ngôn ngữ lạ.
Mỗi lần giao tiếp chỉ thấy tội nghiệp cho đôi tay,
thân hình và đôi khi cả chân nữa. Luôn vặn vẹo,
luôn đƣa lên đƣa xuống, miệng há ra, môi vẩu lên,
tay chỉ chọt, chân hƣơ hƣơ nhƣ ngƣời động kinh.
Có khi ngƣời bản xứ cũng hiểu đôi chút, ông cũng
hiểu đôi chút qua những cái gật đầu theo cảm tính,
không mấy chắc chắn. Còn hai đứa cháu không
khác chi bọn họ: oong, hót quaa... ai đơn...Chịu.
Ông cháu mà y nhƣ ngƣời khác xứ.
Chuyện trò bằng chân tay khiến ông chán
ngấy, dẹp nỗi buồn sang một bên, lò dò bƣớc vào
nhà. Nhà trống trơn, càng buồn hơn. Đứng lên
ngồi xuống, rồi tựa cửa nhóng ra ngoài. Tuyết phủ
dày. Thẫn thờ bƣớc lại giá sách, lấy ra một cuốn,
giở vài trang. Cũng chữ a, chữ e, chữ h... nhƣng
ông không tài nào đọc đƣợc hiểu đƣợc, lòng buồn
xo. Xớ rớ một lúc, ông quay qua nói chuyện với bà
vợ đang ngồi trong khung kính. Ông nói nhiều
chuyện với bà, từ hồi chận trâu, tắm sông tới khi
lớn lên, nhìn nhau, lấy nhau... bao chuyện tân toan,
tấm mẳn ông thầm thì, lúc cao lúc thấp, nhƣng thật
ra chỉ mình ông nghe. Vợ ông cứ ngồi trong khung
kính ngó ông và nở nụ cƣời muôn thuở.
Có bữa chịu không thấu, dằn lòng đợi đến
chủ nhật, ông kêu vợ chồng thằng con ra ngồi trên
ghế sopha, trƣớc mặt mình:
235 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
-Cha nói thiệt. Quá đủ rồi, là chịu quá đủ
rồi. Hai đứa con mua vé cho cha về.
Thằng con trai:
-Bên nhà không còn ai nữa. Ba cứ thui thủi
một mình, tối lửa tắt đèn...
Con dâu thêm:
-Bên này có đủ mọi tiện nghi chăm sóc, kể
cả sức khỏe, cha lo gì.
Ông cáu:
-Thằng Quảng kêu bên nhà mình cha thui
thủi, nhƣng còn bà con hàng xóm, còn nói đƣợc,
còn nghe chuyện với nhau, chớ bên này cha thui
thủi coi bộ nặng hơn, y nhƣ ngƣời câm ra dấu vậy.
-Thôi cha, mặc áo ấm vào rồi cả nhà ra
ngoài pạac sƣởi nắng, ăn trƣa.
Ông cƣời rung lên, thiếu chút nữa là đứt
hơi:
-Đó đó... bên này chạy đi tìm nắng, còn ở
nhà nắng giàu vô kể. Nắng tràn xuống sân, chun
tọt vô nhà... đâu có mắc công tìm kiếm?
Đó cũng là câu nói cuối cùng rớt đánh đụi
xuống sàn nhà, giữa tiếng reo của hai đứa cháu:
ya...yaa... gâu pạac... yayaaa...
Cái gâu pạac của cháu và hai con ông là bãi
cỏ mút tầm mắt, là những đƣờng đi uốn lƣợn, cây
cối xanh um, bồn hoa, vòi nƣớc, là những bà đầm
nằm tênh hênh phơi nắng, trẻ con tung tăng chạy
nhảy. Ngó quanh quất chẳng thấy ai da vàng mũi
tẹt nhƣ mình, ngoại trừ cha con ông cháu đang
ngồi dƣới tán cây cổ thụ! Ông đƣa mắt nhìn một
236 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
vòng rồi nhìn lại chân tay mình, hình nhƣ còn bám
nặng mùi bùn phèn ở đâu đó, thoang thoảng, bắt
ông nhớ, nỗi nhớ mênh mông nhƣ đám mây trắng
đang bay qua trên đầu.
Bữa nay chỉ mới giữa tuần, có nghĩa là còn
ngồi đợi ba ngày nữa cha con ông cháu mới gặp
mặt nhau đông đủ, có nghĩa là ông còn phải đứng
nơi cửa sổ nhìn ra bên ngoài: những chiếc xe cố
sức trƣờn trên lớp tuyết giống con trùn bị ném lên
mặt đất, khó khăn, chậm chạp; hàng cây trƣớc nhà
trắng xóa in hệt những tảng bông gòn bám chặt,
giống nhƣ hồi nhỏ nhà ông bắn bông vải bằng cây
cung để kéo sợi, bám trắng ngƣời. Nhƣng những
mảng bông bám lên ngƣời chỉ cần đƣa tay phủi
nhẹ là sạch trơn. Còn màu trắng nơi quê ngƣời thì
nhếch nhác, ẩm ƣớt toàn một màu trắng lạnh lẽo,
tang tóc đến vô cùng.
Trời đất, xứ sở chi mà có mùa đông khắc
nghiệt, lạnh buốt; xứ sở chi mà mọi thứ đều không
giống quê nhà? Ông liếc lên tấm lịch móc trên
tƣờng. Lịch chỉ độc nhất có ngày tháng dƣơng,
không thấy một ô, một hàng ngày âm. Ông cố moi
óc, sắp xếp: 1/20 có nghĩa là ngày 20 tháng Giêng
lịch tây. Ông xòe hai tay ra đếm, cộng trừ. Vậy là
nhằm ngày mùng 6 tháng Chạp ta. “Cha mẹ ơi!”
ông kêu lên sắp tết rồi. Chỉ còn 17 ngày nữa sẽ đƣa
ông Táo. Đã năm cái tết qua đi ông không đƣợc
đƣa rƣớc ông Táo, không đƣợc đốt vàng mã cho
ông bà, ông Táo lên chầu Ngọc Hoàng cứ một bộ
237 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
quần áo cũ kỹ từ những năm trƣớc khi ông còn ở
quê, nay thì rách rƣới, tả tơi. Ở xứ Xì Tô này tìm
đâu ra vàng mã, tìm đâu ra bộ quần áo, cả miếng
cốm hộc đƣa ông Táo về Trời? Năm ngoái, bí quá,
nhớ quá ông loay hoay tìm giấy báo cũ ngồi cắt bộ
quần áo cho ông Táo, tìm hộp bút màu của cháu tô
vẽ lên. Những mảng màu xanh đỏ nhƣ bức tranh,
không phải loại tranh làng Hồ mà của ông tự chế,
lòe loẹt. Ông tự nhủ: miễn sao có bộ áo quần tƣơm
tất cho Táo công là đủ. Nửa đêm, ông lén ra sau
nhà để xe, bày chiếc bàn con đặt ba cây nến thay
nhang đèn, một dĩa chocola thay cốm, một chút
mứt chery thay riêm gừng... Đang lâm râm khấn
vái, thằng con bất ngờ xuất hiện, la lên giận dữ:
“Trời! Cha? Kiểu này thì cháy ga ra nhƣ chơi. Ở
xứ ngƣời mà cha chẳng hiểu gì cả? Táo tiếc gì, chỉ
vớ vẩn”. Ông giật mình ngó sững bộ mặt hằm hằm
của thằng con. Nó bị Tây hóa rồi, đâu còn là con
mình nữa. Ông thoáng nghĩ trong đầu và lẳng lặng
dẹp tất, lẳng lặng vào phòng. Buồn mà không biết
lấy ai chia sẻ cùng.
Ông nghĩ: không đƣa, không rƣớc, không
cúng bái bằng những lễ vật cụ thể thì cúng bái đƣa
rƣớc bằng tâm linh, bằng trí tƣởng tƣợng. Hoàn
cảnh mà, ông bà nào nỡ quở trách? Hăm ba tới ông
sẽ làm theo cách đó. Sắp tết rồi.
Phải, ở quê nhà đang là mùa tết. Cái mùa
thiệt lạ lùng. Mùa luôn làm ông xao xuyến dẫu cho
lúc hãy còn trẻ hay đã già. Bắt đầu là thứ gió
chƣớng mang chút hơi lạnh ngọt ngào nhuộm đầy
238 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
màu nắng vàng trải rộng nhƣ dãi lụa, bầu trời lúc
trong vắt lúc lơ thơ vài đám mây trắng vắt ngang
rồi bất ngờ âm u bất ngờ nắng, bất ngờ rớt chút
mƣa xuân; những hột mƣa chỉ đủ làm xoăn tí bụi
đƣờng thành những ô tròn bằng mút đũa. Rồi trong
vƣờn, sân nhà những bông vạn thọ bắt đầu nở lúp
búp và chỉ sau mƣơi hôm thôi là xòe ra rực rỡ.
Loại hoa này mới lạ, lâu tàn, đơm kín nhƣ mâm
xôi. Hèn chi ông bà đặt tên vạn thọ cũng phải.
Loại hoa ấy, cùng với đất trời làm sáng rực lên
một góc vƣờn. Bƣớm nữa. Bƣớm vờn quanh
những cánh hoa và đâu đó tiếng chim hót rộn ràng,
xoắn xít nhƣ bóng nắng muốn trói chúng lại rồi thả
tung lên trời cao.
Xâm xẩm thì tiếng chày giã cốm bắt đầu
nện thình thịch, hƣơng cốm mùa Giêng theo tiếng
chày bay lên, lan tỏa khắp các truông tre, thơm
lừng lựng. Tháng Chạp, bếp nhà nào cũng đỏ lửa.
Khói củi, khói than nồng nàn. Chảo riêm gừng sôi
lục sục. Những mảng đƣờng trắng bao lớp mỏng
miếng riêm nhƣ thể các cô gái thoa chút phấn làm
duyên... Tất cả những thứ đó, qua trí nhớ còm cõi
khiến ông nôn nao nhƣ thể mình là đứa trẻ nít chờ
ngóng mẹ mua bộ áo quần mới, giày dép mới.
Bốn mùa tết qua đi lặng lẽ nơi xứ ngƣời. Ai
cũng dửng dƣng với nó. Ngƣời bản xứ, không
cùng văn hóa, ngôn ngữ đã đành một lẽ. Đến cả
những lƣu dân nơi quê ngƣời cũng không có chút
thời gian hƣởng mùa tết! Ông bạn già tận tít Cali
năm ngoái gọi xuống: “Ngƣời đồng hƣơng thì
239 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
nhiều, cũng tết nhứt, bánh trái, chúc tụng... nhƣng
sao tui thấy nó lạt phèo”. Ông hỏi cớ sao lại lạt
phèo? Ông bạn già đáp: Không có mùa tết. Không
có không khí tết nhƣ quê nhà! Nói và ông thở đánh
xì và gát máy y nhƣ rằng đó là lời trăn trối với
ngƣời bạn chân tình.
Suốt cả tuần, Hai Son cứ loay hoay với mùa
tết của ông. Ông nhớ miếng thịt kho tàu, nhớ món
cải chua, củ kiệu tôm khô và xị rƣợu đế, những
lùm vạn thọ, cúc và lũ trẻ nít xúng xính áo mới,
bao lì xì màu đỏ tƣơi và cả câu hò mang mang tận
xóm dƣới... chúng quyện với mùi nhang khiến chỗ
nào cũng thơm ngan ngát.
Giá nhƣ có đôi cánh, ông sẽ bay lên, bay ra
khỏi xứ tuyết trắng xóa buồn thảm, bay về tận ngôi
làng bé nhỏ của mình ngay lập tức để hƣởng trọn
vẹn mùa tết ngọt ngào.■
240 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Lên Non Hái Trái
____________________________
Nước trên cao chảy xuống ì ầm
Vượn bồng con lên non hái trái
(ca dao)
...ngày... tháng... năm...
Gửi anh,
Tính từ ngày xách va li lên tàu, đến nay
đúng hai tháng. Khoảng thời gian không dài không
ngắn, giữa núi rừng trùng điệp này, đủ để tôi mang
trái tim ra nghĩ về cách hành xử của mình và
không thể không giải bày với anh bằng những suy
nghĩ dài lê thê, với lòng mong mỏi anh và những
ngƣời thân yêu sẽ dần hiểu tôi.
Ngay từ lúc chọn nghề, cả ba mẹ, anh chị
đều cho tôi là một con điên. Bốn năm dùi mài,
thích thú với khoa sƣ phạm, bất ngờ gặp và quen
anh, tôi cứ nghĩ anh là ngƣời đồng cảm với tôi,
nhƣng khi thấy ánh mắt lúc tiễn lên tàu, tôi chợt
thấy anh lại ném về phía tôi một cái nhìn đầy nỗi
niềm và tuyệt vọng, cùng với sự bịn rịn của ngƣời
thân trên sân ga. Tôi không ƣa cảnh tƣợng đó,
mong cho còi tàu mau rúc lên và lăn bánh thật
nhanh để tránh những cảm giác lẫn lộn có thể sẽ
241 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
khiến tôi bỏ cuộc giữa chừng bỡi những sự vây
bủa định kiến khó hiểu.
Tàu lăn bánh. Đó là tín hiệu khởi đầu cho “
sự lập thân” của mình và là lúc tôi bĩnh tĩnh tự lật
ngửa mình ra, moi hết tim gan coi nó méo mó, trầy
trật ở chỗ nào? Trƣớc hết là cảm giác xốn xang,
nao nao khi phải rời xa nơi tôi sinh ra và lớn lên.
Một chút đau nhớn nhác giống nhƣ con chó con bị
bắt cho ngƣời lạ, đột ngột rời xa núm vú quen
thuộc trên bụng mẹ, rời xa hơi hớm bầy đàn, rên
ủng ẳng thảm thiết! Tôi cũng vậy, có điều tôi
không rên lên, nhƣng nhất định có chút buồn, nỗi
buồn cay xè của kẻ lần đầu xa nhà, xa mọi thứ
thân quen. Phút chạnh lòng, tôi giật mình thoáng
nghĩ, mình có vẻ nhƣ là con điên thật sự, thứ dở
hơi thực sự nhƣ tất cả mọi ngƣời, kể cả anh gán
cho. Nếu không, sao tôi lại chọn nghề này, trong
khi bạn bè cùng lứa, đứa thì vào y, đứa kiến trúc,
kinh tế... những ngành hái ra tiền, lại đƣợc hƣởng
thụ mọi tiện nghi trong thành phố? Còn tôi? Tôi đã
liên tục thổi tắt ngọn lửa hy vọng của mọi ngƣời,
từ cách chọn nghề đến kiểu chọn nơi đến? Rồi tôi
lại phản biện những định kiến sắp đặt kia: Tiền
bạc, tiện nghi là cái gì? Nó giải quyết đƣợc gì? Tôi
phân thân ra, vừa tra hỏi vừa loay hoay tìm kiếm
cách lý giải. Cùng một lúc, tôi vừa là quan tòa, vừa
là bị can đến nỗi đầu óc căng cứng mệt nhoài, theo
bánh sắt lăn rập rình trên đƣờng ray, rập rình cơn
gà gật gãy khúc, nhƣ lúc vô tình nhìn chiếc bánh
242 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
tráng nƣớng có cục mắm ruốc đỏ hỏn trên tay
ngƣời đàn bà ngồi bên cạnh, cứ vơi dần đi...
Tôi là kẻ đã lên tàu và đang lao tới, không
dừng lại đƣợc. Tôi xa dần và nhỏ dần trong mắt
mọi ngƣời.
Xuống sân ga, chẳng ai đón. Tủi thân. Lầm
lũi ra bến xe chen chúc trong chiếc xe đò chật
cứng, ì ạch non nửa ngày mới tới nơi. Lại tủi thân.
Niềm tủi phận cứ thế, cao thêm một chút, dày
thêm một ít. Rồi lại tự nhủ: “Thôi, sự đã rồi. Đã
lên tàu còn phân vân nỗi gì!”.
...ngày... tháng... năm...
Viết tiếp...
Nơi tôi đến, anh không thể nào tƣởng tƣợng
nổi. “Thật kinh khủng!”. Đó là cảm giác đầu tiên
khi tôi nhìn thấy ngôi làng bé tẹo bị vây phủ giữa
đồi núi chập chùng. Tôi đã từng nhìn thấy núi rừng
dọc đƣờng lên Đà Lạt. Nhƣng núi rừng ở đó thì dễ
thƣơng, thơ mộng, còn chỗ này thì quạnh quẽ, đìu
hiu: Những con đƣờng đất đỏ dọc ngang, vài quán
tạp hóa, những con bò thản nhiên nằm giữa đƣờng.
Nhà sàn chen lẫn với nhà mái tôn tƣờng gạch làm
tôi ngẩn ngơ: Không gian văn hóa Tây nguyên bị
tróc vảy sao? Nhƣng tôi lại thích những bụi sắn,
giàn bầu và lũ heo kéo lê chiếc bụng sát đất nom
nhƣ nùi giẻ lau nhà... chen lẫn với cảnh tƣợng đó
là những ngƣời đàn bà cong ngƣời trên những
chiếc gùi nhô lên vài que củi, mụt măng, trái bắp...
Tất cả đều lắc lƣ theo bóng những ngƣời đàn ông
rựa vác vai, miệng ngậm ống vố thở khói phì phèo,
243 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
nhẩn nha đi phía trƣớc, khiến tôi liên tƣởng đến
ống khói con tàu đƣa tôi đến tận chốn này; trong
khi đám trẻ con thì mình trần, mốc cời, tóc hoe
vàng nom rất lạ mắt.
Khi thấy tôi, lũ trẻ nhìn ngơ ngác, còn cha
mẹ chúng thì mở tròn mắt, tò mò vì sự xuất hiện
đột ngột của một cô gái lạ giữa chốn “thâm sơn
cùng cốc” này. Tôi hỏi thăm ngƣời thanh niên
đƣờng tới trƣờng. Anh ta reo lên và nói câu gì đó
bằng tiếng dân tộc tôi không hiểu. Sau đó lại khum
tay lên miệng hú một tiếng dài làm tôi hết hồn,
nhƣ thể mình sắp bị đƣa lên giàn hỏa vậy. Lát sau,
mọi ngƣời lục tục kéo ra đƣờng, tiến về phía dãy
nhà sàn dài. Ngƣời thanh niên đƣa tôi nhập vào
đám đông. Tới lúc đó, tôi mới kịp quan sát: Anh ta
cao lớn, vạm vỡ, da màu đồng thau, mái tóc bềnh
bồng nhƣ nghệ sĩ trong dàn nhạc Jazz. Tôi lí nhí
nói mấy tiếng cảm ơn và đƣa tay ra để anh ta dắt,
trèo lên nhà sàn nối với khúc cây khất từng nấc,
không mấy dễ dàng. Lát sau ba thầy cô giáo xuất
hiện. Một vài ngƣời còn mang theo nải chuối, thu
đủ và vài loại trái rừng màu đỏ chót. Ché rƣợu có
mặt ngay giữa sàn cùng lúc với bếp lửa nổi lên.
Cuộc tiếp đón mộc mạc, chân thành làm tôi cảm
động thực sự. Họ xoăn xít hỏi han, giải thích, an
ủi... khiến tôi đỡ quạnh lòng đôi chút. Ông trƣởng
buôn, rồi tới lƣợt ông xã trƣởng kéo cần rƣợu đƣa
về phía tôi bằng ánh mắt sáng rỡ. Có lẽ, một chút
rƣợu ấy khiến tôi đủ tỉnh táo để xách va li theo các
đồng nghiệp về trƣờng.
244 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Đi bộ non cây số, cô giáo tên Hài chỉ tay về
phía dãy nhà sau ngọn đồi kín lá: “Trƣờng đấy.
Thầy cô ở ngay tại trƣờng, trong một phòng học.
Rồi em sẽ thấy...”. Chị Hài bỏ lửng câu nói. Tôi
giật mình khi nghe nói thầy cô ở cùng phòng và
lầm lũi bƣớc theo mọi ngƣời một cách nặng nề,
cuốn theo cảnh “thầy cô ở chung phòng” cứ trƣơng
phình dần trong đầu!
Anh có thể tƣởng tƣợng nổi không? Đến
trƣờng, suýt nữa tôi bật thành tiếng. Gọi là trƣờng
học, nhƣng giống nhƣ một trại chăn nuôi bị bỏ
hoang. Một dãy nhà lợp tôn, mái ễnh cong; tƣờng
thì sứt sẹo đầy những vết tróc lở khiến tôi liên
tƣởng ngay đến những ngôi trƣờng khang trang ở
thành phố, đến những công sở cao ngất ngƣởng,
lộng lẫy. Tâm trạng nặng nề ấy khiến chị Hài
tƣởng tôi mệt vì đƣờng xa, xô liếp cửa phòng tập
thể nhỏ nhẹ: “Em nằm nghỉ chút rồi ăn cơm”.
Tôi đặt chiếc va li xuống nền đất nện láng
tƣng và bắt đầu quan sát: Nửa bên này dành cho
các cô, rộng hơn và đƣợc chắn kín bằng tấm cót
mò o nẹp dày. Bên kia là phòng ông Thắng, phụ
trách trƣờng, có cửa đi riêng. Tấm cót vẫn nguyên
vẹn, không hề thấy lỗ thủng, chứng tỏ mọi ngƣời
đều sống nghiêm túc khiến tôi có thêm chút an
tâm. Chiếc bàn học trò duy nhất giữa phòng nữ,
hai bên là hai băng ghế gỗ vừa là chỗ soạn bài, tiếp
khách, vừa làm nơi ăn uống. Phía trong là tấm vải
hoa giăng ngang, có lẽ là chỗ ngủ. Giá sách vở
đƣợc đặt trên những mảnh gỗ ghép gắn vào tƣờng,
245 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
phía đối diện 4 ly thủy tinh đứng ôm phích nƣớc
màu xanh da trời. Mọi thứ đều lỏng chỏng, lẻ loi,
xa lạ khiến tim tôi đập loạn xạ, nhƣ thể đang ở trại
lao cải! Anh biết không, lúc chị Hài trở lên nhìn
thấy vẻ mặt dàu dàu liền ôm choàng vai an ủi:
“Rồi em sẽ quen, sẽ vui. Hồi mới lên chị cũng vậy,
suýt ngã nhào xuống đất! Vào thay áo quần, rửa
mặt, chị dọn cơm đây”. Tôi thẫn thờ vẹt tấm màn
chắn ngang căn phòng: Chiếc giƣờng gỗ và chiếc
chiếu hoa, bên trên là chiếc gối ôm và tấm mền
cùng màu vàng nhạt... Tôi chƣng hửng và nghĩ
mình sẽ không chịu đựng nổi nếu nằm quá ba đêm,
bởi thói quen nằm nệm từ thuở bé. Tôi lúng túng
thật sự, loay hoay với những ý nghĩ lộn xộn cùng
cảm giác lạnh lẽo bắt đầu sƣng tấy lên. Tôi thừ
ngƣời ra, nƣớc mắt chảy dài...
Hồi còn ở nhà, những đêm trời trở lạnh tôi
thƣờng chui qua giƣờng chị Nga tìm chút hơi ấm
từ ngƣời chị choàng lên. Còn nơi này, đêm đầu
tiên mới kinh khủng làm sao! Phần xa nhà, phần
khí núi lạnh tôi không tài nào ngủ đƣợc. Mắt mở
thao láo nhìn bóng đêm, tai dỏng lên nghe ngóng
mọi tiếng động chung quanh: Tiếng côn trùng rả
rích nhƣ giàn bát âm đám tang; tiếng chim đêm
vang lên đột ngột xé toạt màn đêm; tiếng lộc cộc
đâu đó quanh nhà nhƣ kẻ trộm tìm cách cạy cửa.
Tôi điếng ngƣời, cong riết rồi quơ tay ôm chị
Ngân nhƣ đứa bé chui rúc vào lòng mẹ vì sợ hãi.
Lúc ấy, nếu anh một mình ở đây, tôi chắc anh cũng
có cảm giác giống tôi: Sợ hãi! Tôi cố gắng chống
246 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
chọi, tới sáng thì mệt bơ phờ. Tôi phân vân: Mình
sai lầm thật sao?
...ngày... tháng... năm...
Anh này,
Công việc của anh thế nào rồi, hy vọng anh
sẽ thành ông chủ nhỏ. Lúc đó không chắc anh sẽ
nhận ra tôi, cô giáo lạc loài đâu đó giữa chốn đèo
heo hút gió này? Nhận thƣ anh, tôi cứ ngỡ anh sẽ
kể chuyện phố phƣờng, cái mà tôi đang thiếu lúc
này. Chẳng dè, anh toàn an ủi và trách móc nhẹ
nhàng khiến tôi không biết nên buồn hay vui?
Nhƣng tôi đã nói với anh rồi, tôi là kẻ đã lên tàu,
đang dấn thân vào mục tiêu tôi chọn lựa, tuy
không to tát, ghê gớm gì nhƣng cũng là sự chọn
lựa đúng đắn của riêng tôi với lũ trẻ vùng núi non
cách trở. Ở một góc nhìn nào đó, có khi lại là một
sứ mệnh cao cả, nên những an ủi của anh cũng
đồng nghĩa với sự “báng bổ” đấy (sic), đừng căng
cứng nữa.
Anh có thể tƣởng tƣợng nổi không? Trƣờng
không có giếng nƣớc, phải ra suối mang về. Tôi
hào hứng tham gia nhƣ thể một trò chơi mới mẻ:
Ông Thắng thì đèo hai xô nƣớc sau yên xe. Còn tụi
này thì học cách gùi của phụ nữ miền núi. Xô nƣớc
lắc lƣ càng đè nặng hai vai. Ba cô gái bƣớc chậm
trong rừng chiều. Cảnh tƣợng thật lộng lẫy huy
hoàng nhuốn màu lãng mạn trong chút nắng quái
lơ lửng trên đầu. Những giọt nƣớc rơi trên đƣờng
đi, thấm nhanh vào lớp bụi bũn khiến tôi nghĩ đến
247 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
những chiếc lông ngỗng thời huyền sử. Nhƣng
những chiếc lông ngỗng kia có chàng Trọng Thủy
nặng tình phi ngựa đuổi theo, còn những giọt nƣớc
lẻ loi, cô đơn mau chóng tan biến dƣới lớp đất, chỉ
còn những vệt đỏ bầm xoăn lại. Dấu nƣớc nhanh
chóng tan đi, anh hiểu không?
Nƣớc mang về chỉ dùng cho nấu nƣớng.
Tắm giặt phải ra suối cách đó gần cây số. Chuyện
tắm của tụi tôi luôn là nỗi khổ tâm: Cứ để nguyên
áo quần nhảy tùm xuống suối, ngâm mình và kỳ
cọ. Khi áng chừng đã sạch “bụi trần” thì cả bọn
chui vào lùm cây thay đồ. Một ngƣời thay thì hai
ngƣời đứng canh. Lạ chƣa? Rất kỳ cục. Chị Hài
nháy mắt, nói phải làm vậy, vì đám thanh niên ở
đây lém lắm. Năm trƣớc, có lần chị và Ngân đang
thay quần áo, cả ngƣời cứ cảm thấy nhồn nhột nhƣ
bị vuốt ve, quay lui thì có ba anh chàng đang núp
trong bụi rậm nhìn sang. Chị Hài ré lên nhƣ bị rắn
cắn, chạy một mạch tới nhà ông trƣởng buôn. Ông
Thắng làm dữ với địa phƣơng... Nghe giọng kể
đều đều của chị Hài làm tôi bắt nổi da gà và luôn
bị ám ảnh mỗi khi cởi trút bộ quần áo ƣớt ra khỏi
thân thể giữa lùm cây không lấy gì làm an toàn.
Nhiều lúc đụng phải cành lá kêu lạt sạt, cứ ngỡ đó
là bàn tay thô nhám, càn rỡ của đàn ông chạm vào,
giật nẩy ngƣời!
... ngày... tháng... năm...
Anh,
248 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Thƣ rồi anh viết “giận gì mà không thèm
viết một chữ”. Bụng dạ đâu mà giận? Chẳng là chủ
nhật trƣớc học sinh “rủ” các cô lên rẫy ăn bắp
nƣớng. Nghe nói bắp nƣớng, mắt chị Hài, chị
Ngân sáng lên, kích động sự tò mò nơi tôi. Với lại
định bụng, khi nào viết thật dài nhƣ kiểu mấy ông
nhà văn viết truyện rồi sẽ gửi, không muộn, vừa
thử lòng anh đang lú lấp đâu đó những hào nhoáng
phố phƣờng, cùng lúc coi lại đầu óc mình thật sự
định chuẩn chƣa!
Học trò nơi tôi dạy thật dễ thƣơng. Chúng
hiền lành, ngơ ngác nhƣ loài chim thú trong rừng,
nhƣng khổ nỗi chúng tới trƣờng lƣa thƣa, hiếm khi
đông đủ. Lúc đầu tôi thấy giận ghê gớm về sự lƣời
nhác, nhƣng hỏi kỹ mới hay: Học hành là chuyện
phụ. Đi rẫy, tuốt lúa, bẻ bắp, hái đậu... mới là
chính. Nói thế nào phụ huynh cũng không nghe.
Xem chừng thay đổi thói quen này không mấy dễ.
Bốn thầy cô hết chia nhau đến từng nhà giải thích,
lại bám ông xã trƣởng, buôn trƣởng kêu cứu. Có
lần ổng càu nhàu: “Chuyện đó tui đâu biết. Mà luật
pháp đâu cấm học sinh nghỉ học lên rẫy phụ cha
mẹ?”. Anh coi, ăn nói kiểu đó có kỳ cục không?
Thôi thì cũng phải ráng đợi hết mùa vụ bằng cách:
Thầy cô cũng xúm vào bẻ bắp, khiêng lúa... với
học trò. Mệt đứt hơi nhƣng kèm theo là cảm giác
lâng lâng khó tả nhƣ cảm giác cả đám đƣợc ngồi
trên chiếc đu quay, quay tít. Xong mùa, các em hí
hửng tới trƣờng, tay lủng lẳng chùm bắp tƣơi, bịch
ni lông đậu đỏ, con gà rừng... gọi là quà thầy cô,
249 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
trƣớc khi ngồi ngay ngắn trên bàn học. Lại phải
mất hơn tuần để làm quen với cái chúng thiếu. Rồi
đâu cũng vào đó, nghĩa là có nhiều đứa tiếp thu
khá nhanh...
Tháng trƣớc tụi này bàn với ông Thắng, rồi
kêu gọi cả trƣờng dựng một căn nhà nho nhỏ cho
các em ở xa, vì mùa mƣa sắp tới rồi, để chúng lội
bộ năm, mƣời cây số qua sông qua suối thật tội
nghiệp (mấy năm trƣớc đã có em bị nƣớc cuốn mất
đó). Cả buôn hƣởng ứng. Thầy cô cũng rìu rựa với
các em vào rừng, đốn cây, cắt tranh rồi ì ạch tha về
nhƣ đàn kiến tha chiếc lá to. Suốt bốn ngày chủ
nhật vào rừng, tôi để ý một điều là chúng chặt cây,
đẽo gọt thật giỏi, thật nhanh. Một thân cây tròn cỡ
thân ngƣời, loáng một cái đã vuông vức, láng
coóng. Tôi mới suy nghĩ, để làm đƣợc chuyện này,
với số tuổi còn nhỏ, tất nhiên do thói quen gắn với
rừng, nhƣng hơn hết là đầu óc biết tính toán, suy
nghĩ nữa chứ. Tôi áp dụng ngay vụ đẽo cây để
hƣớng dẫn các em cách giải một bài toán, làm một
bài văn cùng các môn học khác, không theo những
quy định bắt buộc: Bắt các em tự đặt câu hỏi và tự
tìm câu trả lời, nhƣ kiểu ngồi lột từng mao bắp cho
tới khi ló hột ra vậy. Lúc đầu, chúng thấy bối rối,
bẽn lẽn. Sau quen dần. Khó khăn qua đi. Qua đi và
thành công. Tôi mừng còn hơn bắt đƣợc hũ vàng,
bởi các em hứng thú hơn trong việc học, chúng tự
khám phá ra những điều thầy nêu lên, có khi cả
thầy và trò cùng tham gia một cách đồng đẳng,
nhƣ thể cùng học chung với nhau. May mà ba
250 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
tháng nay không có bóng dáng Phòng, Sở nào về
thanh tra. Chứ họ mà thấy kiểu dạy này chắc đuổi
tôi ra khỏi trƣờng ba mƣơi giây! Riêng tôi, tôi rất
hài lòng vì mình đã thành công, làm cho chúng
ham thích học tập hơn, ít vắng mặt hơn.
Mãi dông dài “thành tích” suýt nữa quên
chuyện này. Thiệt ngộ. Khá bất ngờ. Số là khi
quan sát các em khiêng cây, tôi mới để ý thấy
những vòng kiềng đen quanh cổ chúng, nổi đậm
đặc bên trên lớp mồ hôi nhễ nhại. Anh biết cái
vòng gì không? Vòng kiềng đất! Khi ra tới bờ
suối, tôi hỏi thằng Y Blin: “Em có thƣờng tắm
không?”. Nó hớn hở: “Dạ có, cô. Ngày nào em
cũng tắm”. Tôi hiểu ra kiểu tắm của chúng là nhảy
tòm xuống nƣớc, ngoi nhƣ rái cá rồi leo lên.
Chúng nhúng nƣớc đó mà. Tôi để bụng và chủ
nhật rồi lẳng lặng đèo chị Ngân ra chợ kêu ông thợ
cắt tóc, mua mấy cục xà bông thơm và dầu gội,
quay về lùa hết đám học sinh lớp tôi ra bờ suối, cắt
gọn theo kiểu húi cua, con gái thì cắt “bom bê”.
Tới đoạn lấy ráy tai, ông thợ cắt tóc kêu trời: “Tụi
bay nhét bùn vào lỗ tai chi dữ vậy?”. Chúng ngó
mặt nhau cƣời lỏn lẻn. Anh có thể tƣởng tƣợng nổi
không? Hăm bảy đứa, đủ cả năm tƣ cục bùn bằng
đầu đũa. Ông thợ cắt tóc sắp ngay ngắn trên miếng
lá ngái to rồi nói: “Tụi bay đem về cất làm kỷ
niệm!”. Hèn chi mỗi khi tôi gọi Y Lin thì ngay lập
tức thằng Y Blin đứng dậy, gọi Y Đoa thì Y Doãn
trả lời, mới mở miệng: H‟Ngung thì H‟Nhung
đứng lên làm rối tung cả lớp. Thiệt kinh khủng! Hễ
251 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
cắt xong đứa nào là tôi và chị Ngân lôi đi gội đầu,
lấy bọt đá ngay dƣới suối chà xát từ cổ tới gót
chân ngay. Lớp cáu ghét đó nếu không bị nƣớc
cuốn trôi, có thể gieo một rò cải nhỏ đó.
Cái vụ lùa đi cắt tóc, tắm gội lan sang các
lớp khác thiệt nhanh và không phải đợi thầy cô
nữa, chúng tự động vệ sinh. Tuần sau sạch sẽ hẳn.
Vui không?
... ngày... tháng... năm...
Mấy tuần nay không đụng tới cây bút, tờ
giấy chẳng phải không nhớ nhà, mà bởi hai tay
mỏi nhừ. Tôi cũng phải khiêng vác với mọi ngƣời
để dựng cho xong căn nhà. Chính xác hơn là nhờ
thanh niên địa phƣơng: Họ nhiệt tình đục đẽo,
dựng cột, tra ngàm... chẳng mấy chốc sƣờn nhà
cũng “sừng sững” phía sau trƣờng. Họ lại đánh
tranh, chẻ lạt rồi lợp, rồi trét vách. Tất cả đều một
tay bọn họ với ông Thắng. Mấy cô chỉ hậu cần.
Thoạt nghĩ cũng hơi giựt mình: Nếu không có mấy
anh trai làng phụ giúp thì không biết đến bao giờ
mới đƣợc nhìn thấy “ngôi nhà nhỏ lộng lẫy” giữa
khu rừng trống hoác này. Ngôi nhà nằm dƣới tán
cây da đá, có nhiều rễ phụ thọc xuống đất, tha hồ
chúng nô đùa. Nó chỉ cách trƣờng chừng vài chục
bƣớc chân. Tôi nói nhỏ với ông Thắng: “Hay tụi
em ra nhà mới còn các em ở với thầy?”. Ông
Thắng suỵt: “Tầm bậy, các cô ở ngoài đó thú dữ
vào bắt đi mất!”. Nghe nói “thú dữ” tôi xanh mặt,
còn chị Hài thì bĩu môi: “Thằng chả sợ mất hơi tụi
252 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
mình đó mà”. Tôi chợt hiểu, cƣời toe toét: “Thì chị
ƣng ổng đi. Ổng yêu chị quá mà?”. Chị Hài quay
mặt: “Chuyện!”. Vì không thấy đƣợc mặt khi chị
buông ra chữ “chuyện” cụt lủn, nên bí mật giữa hai
ngƣời vẫn cứ treo lơ lửng ở đâu đó.
Anh hãy nghe đây. Chuyện này rất nghiêm
túc: Khi nền nhà đã khô, vách đã cứng, mƣời bốn
em hớn hở về nhà mới. Tất nhiên là có bữa tiệc
nhỏ, cây nhà lá vƣờn. Và để tỏ lòng biết ơn địa
phƣơng, ông Thắng đi mời. Họ kéo đến đầy nhà,
còn mang theo ché rƣợu, con gà, miếng khô.
Đông, vui cứ nhƣ ngày hội. Nhƣng sự thể chỉ khép
lại tại chỗ này thì tròn trịa biết nhƣờng nào. Đằng
này, đêm cạn, tiệc tan, lúc mọi ngƣời lục tục ra về,
đến đầu hồi trƣờng, xế giếng nƣớc, bổng lù lù một
bóng ngƣời cao lớn. Hắn lên tiếng: “Cô đừng sợ.
Tôi là Y Blách. Xin gửi cô chiếc vòng”. Nói và
hắn dúi vào tay tôi chiếc vòng rồi chạy biến vào
bóng trăng trải rộng trƣớc mặt. Tôi tƣởng tƣợng
nhƣ đó là bức tƣợng đồng đen đang di chuyển.
Đêm dài, kéo theo những cảm giác dập
dềnh trộn lẫn: bồn chồn, lo lắng, sợ hãi, thích thú,
buồn tủi... Tất cả giống y chang những thứ trong
lẩu thập cẩm đun mạnh lửa, nhào lộn nhƣ xiếc.
Đêm dài vô cùng tận. Mắt lại mở trao tráo, hết
xoay qua rồi lăn lại khiến chị Ngân hỏi nhỏ: “Gì
vậy?”. Tôi giả bộ ú ớ nhƣ ngƣời mớ ngủ, nằm im.
Nằm im và cố moi trí nhớ về anh chàng hồi tối, Y
Blách, và lần tháo từng gút. Hắn vạm vỡ, bắp tay
cuồn cuộn, nƣớc da đồng thau, mái tóc bồng bềnh,
253 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
nhất là đôi mắt khi nhìn ai nhƣ hút hết ngƣời ấy
vào hai con ngƣơi. Nhớ rồi, tôi đã gặp anh ta lúc
mới đặt chân lên đất này. Anh ta đã nắm tay tôi dắt
lên cầu thang? Có lúc tôi cũng nghĩ bậy: Mang đặt
hắn vào trong công viên, giữ làm của riêng, thì hẳn
sẽ là một bức tƣợng tuyệt hảo để nhìn ngắm không
biết chán! Còn trong công việc, mỗi khi vung
chiếc rìu lên, cả ngƣời hắn cuộn lên những bắp thịt
nhƣ vận động viên thể hình, nhƣ phình to ra.
Những lúc đó tôi cứ sợ hắn sẽ nổ tung mất. Nhƣng
không phải vậy, chỉ có những thân gỗ là bị thu nhỏ
dần theo ý muốn thôi...
Sáng thức dậy nhƣ ngƣời bị ốm, mặt mũi
bơ phờ. Chiếc vòng tối qua tôi lén giấu vào đáy va
li, không biết tạo từ chất gì, nặng. Và cũng không
dám hé lộ ra. Chị Hài và Ngân mà biết đƣợc, chắc
tôi chết mất! Anh cũng biết rồi. Ở xứ này, một khi
ngƣời nam tặng vòng cho ngƣời nữ, sẽ đồng nghĩa
với sự bày tỏ tình cảm và xa hơn chút là lời cầu
hôn. Anh coi, có chết tôi không? Mà nếu trời đất
xui khiến, tôi ƣng hắn thì anh nghĩ sao?
...ngày... tháng... năm...
Mấy ngày nay trời mƣa tầm tã. Nƣớc chảy
ầm ầm từ các con suối dồn về nhánh sông nhỏ phía
dƣới chân đồi, chảy cuồn cuộn, ngầu đỏ nom dễ sợ
nhƣ màu máu. Những ruộng bắp, mía ở thung lũng
phía trƣớc ngập lút trong biển nƣớc mênh mông.
Nƣớc cuồn cuộn. Học sinh nghỉ học gần hết, trừ
mƣời bốn em ở trong căn nhà tập thể. Chị Ngân
254 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
kêu năm nay mƣa sớm, nên củi đun nấu không
chuẩn bị sẵn. Vậy mà tụi nhỏ có sáng kiến, chờ
ngớt mƣa, chạy ra bìa rừng lôi củi ƣớt về rồi tháo
bớt vạt mò o trên giƣờng nằm, vừa nấu cơm, vừa
hong khô. Nhờ có đống củi ƣớt vừa khô hong tiếp
cho lớp khác nên tụi này không còn phải ngồi nhìn
nồi cơm sống. Anh thấy chúng nó có thông minh
không?
Tối lạnh thấu xƣơng. Ban ngày thì không
thấy mặt trời đâu cả, nhƣ thể đất trời dính liền lại
một cục. Ƣớc gì ngay bây giờ mƣa tạnh, mặt trời
ló lên để tôi có thể đứng trên đồi cao này ngóng về
phƣơng Nam, nơi có cha mẹ, anh chị và cả anh
nữa. Khối tròn đỏ ối đó sẽ từ từ nhô lên mỗi sáng
nhƣ quả cầu rực lửa nhớ mong, có lần làm tim tôi
thắt lại nỗi nhớ về chốn cũ, bạn bè. Giờ thì nó
chìm khuất sau lớp mây dày u ám. Gần Tết rồi.
Anh này, có kiểu mƣa chi mƣa lạ mƣa lùng
vậy? Mƣa suốt ngày đêm. Mƣa nhƣ cầm chĩnh mà
trút! Nƣớc ở nhánh sông dâng cao, tràn qua đƣờng,
gầm réo nhƣ muôn vạn thủy binh đi đánh Sơn
Tinh ngày xƣa. Mọi ngả đƣờng ra trung tâm xã
đều bị cắt đứt. Khu trƣờng học giờ nhƣ một ốc
đảo, thiệt dễ sợ! Gạo trong khạp bắt đầu khua sồn
sột rồi. Cả mƣời tám con ngƣời quay sang chế độ
cháo, ngày hai cữ. Để có thêm hƣơng vị thì trộn
thêm mì tôm vào cháo. Thầy trò sì sụp húp vừa
khen ngon hơn bát cháo hành Thị Nở, vừa nghe
mƣa đập ầm ầm trên mái. Vui đáo để.
255 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Nƣớc chảy xiết, lém sân. Ông Thắng đội
mƣa, gom hết các em vào, chong đèn thức suốt
đêm để canh nƣớc. Chị Hài ôm chị Ngân khóc rấm
rức, nói: “Mƣa kiểu này chết mất!”. Chị Ngân nạt:
“Nói bậy”. Đám học trò ngồi chóc ngóc, thì thào
trên những chiếc bàn học kê khít... Không ai ngủ
đƣợc. Ông Thắng kêu: “Mọi ngƣời cố gắng nhắm
mắt để giữ sức. Có gì tôi gọi...”. Mặc cho ông
Thắng bồn chồn, mƣa vẫn tuôn, nƣớc vẫn tiếp tục
gầm siết. Tôi thiếp đi, để sáng ra ngồi ghi vội mấy
chữ này, nghe mƣa đổ mù trời đất vừa tả lại cơn
mƣa núi cho anh biết với...
...Nƣớc lên nhanh quá. Hết đƣờng ra trung
tâm xã rồi...
*
Hai ngày sau cơn lũ kinh hoàng, toán cứu
hộ mới tới đƣợc buôn H‟Leo. Có anh chàng thanh
niên bản địa xung phong hƣớng dẫn đoàn. Bùn đất
ngập tới thắt lƣng. Những thùng hàng nhƣ muốn
nhấn lút họ xuống tầng sâu của sình nhƣ cháo hồ
nhuyễn. Phải khó khăn lắm mới chuyển hết số
hàng lên đỉnh gò cao của buôn. Ba bên bốn bề là
cảnh tƣợng tan hoang. Họ dựng lều rồi vội vã chia
nhau đi tìm kiếm.... Suốt buổi lội trong bùn sình
nhƣng không tìm thấy đƣợc dấu vết nào của sự
sống. Ngƣời thanh niên, có vẻ nhƣ trƣởng toán,
buồn bã buột miệng: “Chẳng lẽ cả làng bị xóa
trắng rồi sao?”.
256 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Chiều thấp dần. Họ quay lại nơi dựng lều.
Trên đƣờng đi, thu nhặt đƣợc vài mẫu quần áo,
chăn mùng quện chặt vào bùn, vƣớng trên những
cành cây nghiêng ngã theo chiều nƣớc cuốn. Qua
bãi sình, chỗ có mấy bụi gai móc ó đƣa cả bộ rễ
lên trời, họ phát hiện chiếc va li vùi sâu giữa lùm
rậm. Mọi ngƣời xắn xở dùng rựa, câu móc phát
sạch, lôi chiếc va li ra, tiếp tục mò trong lớp bùn
dày với hy vọng có thể tìm thấy ngƣời bị vùi lấp.
Nhƣng không có gì cả. Toàn bùn nhão nhoét. Bùn
sình bám lên tận cổ, mặt mũi họ...
...Dƣới ánh sáng leo lét của chiếc đèn bão,
toán cứu hộ hồi hộp nhìn chăm chú theo bàn tay
run rẩy của ngƣời trƣởng toán. Chiếc va li đƣợc
mở ra: một mớ quần áo lót và chai lọ của phụ nữ,
một chiếc vòng bằng đồng và cuốn sổ nhật ký.
Ngƣời thanh niên địa phƣơng mặt tái đi khi nhìn
thấy các đồ vật đƣợc bao bọc bỡi lớp bùn nhão.
Anh lặng lẽ cầm chiếc vòng đồng đƣa ra xa rồi
xích lại gần tầm mắt. Một ngƣời khác dùng nƣớc
đóng chai rửa sạch quyển sổ rồi trao cho ngƣời
trƣởng toán. Anh cẩn thận gỡ từng trang và bắt đầu
đọc cho mọi ngƣời cùng nghe. Ban đầu giọng còn
vang, càng về sau càng run rẩy, nhỏ dần, nhƣ
nghẹn lại. Nƣớc mắt anh chảy dài xuống má,
xuống cổ. Những tiếng sụt sịt nổi lên. Ngọn đèn
bão chao lắc không đủ sáng soi rõ mặt mọi ngƣời.
Đêm buông xuống thật sâu.■
(Tháng 5/2010)
257 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Giấc Mơ
____________________________
Ba bức thƣ điện tử cách nhau ba ngày, cùng
một nội dung là những lời thăm hỏi vu vơ không
khiến ông phải bận tâm. Nhƣng đến thƣ thứ tƣ
cách thƣ trƣớc khoảng một tuần thì nội dung giống
chiếc đuôi con thằn lằn ngoay ngoáy trên vách
tƣờng rình mồi. Cái đuôi ấy lúc cong lên lúc lắc
qua lắc lại, vừa xa mà cũng vừa nhƣ tóm đƣợc con
mồi trong chiếc lƣỡi dài: “Chào ông, ông có nghĩ
rằng thời gian sẽ đẩy con người tới chốn âm u để
quên đi tất cả. Trí nhớ sẽ không còn nhạy bén như
hồi trẻ. Đi đứng khó khăn. Một vài thứ bệnh xuất
hiện… Hẳn nhiên người ta sẽ phải loay hoay với
những thứ đó, bận rộn suốt ngày với nó để không
còn thời gian mà nhớ…?”.
258 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Ông phì cƣời. Có lẽ cô nàng nào đó đã
nhầm ông với một ngƣời nào khác. Rõ ràng cái địa
chỉ này ông chƣa hề quen, chƣa một lần tiếp xúc
qua bàn phím, nói chi đến chuyện nhớ quên?
Nhƣng mƣời ngày sau, trong inbox lại xuất hiện
cái địa chỉ xa lạ kia. Cố nén bực bội nhƣng cũng
vừa tò mò, ông mở ra: “In life, there are moments
when you miss someone so much that you feel like
you could only fulfill your dreams by holding that
person tight in your arms. Ngộ chƣa? Nhớ đến ai,
tƣơng tƣ ai đến nỗi phải ôm chặt ngƣời ta trong
giấc mơ? Một mối tình tan vỡ chăng? Hay là hoài
nhớ lại những ngày xuân xanh? Ông muốn gõ vài
chữ trả lời rằng, xin lỗi cô (bà) đã nhầm địa chỉ,
nhƣng ông không đụng vào ô reply, nghĩ bụng
một cô bé theo kiểu nhân vật trong các feuilletons
trƣớc kia thì cứ để mặc cho cô chìm đắm trong
những giấc mơ đẹp, không mất gì! Ông bỏ qua,
mở các thƣ khác và trả lời, và không còn nhớ gì
đến những giấc mơ của cô hay bà nào đó. Những
giấc mơ bay mờ dần, tan dần trƣớc màn hình kín
đặc những con chữ màu đen.
Ông lại chúi mũi vào công việc. Bàn phím
lại lóc cóc vang lên những âm thanh quen thuộc.
Viết đƣợc nửa trang thứ ba có chuông điện thoại
reo. Lại ngƣng công việc, lại phải nhấc ống nghe
áp lên lỗ tai:
-Tôi là Bằng, xin nghe.
-Thƣa ông tôi muốn nói chuyện với ông
một chút, có phiền lắm không ạ?
259 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
-Vâng, chị cứ nói, tôi nghe.
-Tôi là Mai, Ngọc Mai, ông còn nhớ không
ạ?
-Mai thì rất nhiều, nhƣng Ngọc Mai thì
cũng có vài ngƣời thân sơ. Chị có thể nói rõ hơn
chút đƣợc không? – Ông lúng túng với trí nhớ bắt
đầu lãng đãng của mình.
Đầu dây bên kia ngập ngừng một lát rồi nhỏ
nhẹ vang lên. Chất giọng mềm mƣợt tựa thảm cỏ
tỉa tót cẩn thận trƣớc sân vƣờn nhà ông.
-Đáng lẽ ra không nên làm ông bận rộn vì
một việc không đâu, nhƣng hôm qua, trong bữa
họp mặt đồng hƣơng, có ngƣời nhắc đến tên thầy
làm em nhớ những ngày còn ở trƣờng Lê Ngọc
Hân.
Ông giật mình. Trong số các nữ giáo sƣ
cùng trƣờng thời xƣa, hình nhƣ chỉ có Thanh Mai
và Lê Thị Mai một dạy pháp văn, một dạy triết.
Ngoài ra không còn Mai nào khác. Ông cố lục
tung mọi ngõ ngách trong đầu. Một loạt các đồng
nghiệp cũ hiện ra, nhƣng cái tên Ngọc Mai thì
chịu. Chẳng lẽ ông bắt đầu bƣớc vào vũng còm cõi
đến vậy sao. Hay cô ta dạy ở trƣờng tƣ thục nào đó
cùng thành phố. Mà tƣ thục thì có đến năm sáu
trƣờng, ông có quen ai đâu.
Ông nói với giọng không mấy tin tƣởng:
-Tôi dạy ở Lê Ngọc Hân chỉ có hai năm,
sau đó chuyển đi trƣờng khác. Không rõ cô có dạy
cùng thời gian với tôi ở đó không?
260 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
-Không thầy ơi. Em là học trò thầy lớp
11B3, phòng học ở cuối dãy hành lang lầu 1, xế
hành lang có cây bằng lăng vƣợt cao hơn balcon.
Giờ ra chơi tụi em hay vói tay níu hái những búp
hoa tím, có lần bị thầy bắt gặp và nhắc nhở một
câu nhớ đời: “Hoa thì đẹp đấy. Nhƣng các em thì
còn đẹp hơn gấp ngàn lần. Từ balcon tới mặt đất
có đến 4 mét. Phía dƣới không êm ái nhƣ tấm nệm
trong phòng ngủ có máy điều hoà đâu”. Thầy chỉ
nói có vậy rồi bỏ đi không thèm ngoái nhìn lại coi
coi lũ học trò có thôi đi trò nghịch ngợm nguy
hiểm kia không hay vẫn tiếp tục vói tay ra tận
những cành xa. Hôm qua chị bạn nhắc lại, chị Lan
làm thơ hay nhất lớp đấy, chắc thầy nhớ?
-Vâng, tôi nhớ cô Lan, tôi nhớ những năm
Lan và các bạn say mê làm tờ đặc san cuối năm
cho trƣờng.
-Dạ, giờ chị Lan không thành nhà thơ mà là
một doanh nhân tầm cỡ trong cộng đồng ở nơi đất
khách quê ngƣời này.
-Tôi cầu mong tất cả mọi ngƣời đều thành
đạt. Niềm hạnh phúc riêng tƣ của mỗi ngƣời là
nắm giữ đƣợc những mơ ƣớc có thật trong tay.
-Thầy có khoẻ không và hiện đang làm gì?
-Cảm ơn, có lúc khoẻ lúc không bởi tuổi già
cứ rập rình ngoài khung cửa, giống nhƣ khạp nƣớc
bị nứt. Bữa nay nƣớc rỉ ra một chút, mai một chút
cho tới khi cạn đáy coi nhƣ chấm dứt mọi món nợ
trần gian.
261 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
-Thầy luôn có lối ví von gây sự chú ý. Tụi
em nhớ thầy chính vì điểm này. Thầy luôn có sự
khác biệt đối với những thầy khác, khó nói, khó tả
chính xác. Xin lỗi thầy, giờ em có hẹn, em sẽ gặp
lại thầy. Chúc thầy…
Ông gác máy, ngã ngƣời ra thành ghế,
nhắm mắt làm một cuộc thanh lọc và tái hiện lần
hồi, bắt đầu từ buổi sáng cầm sự vụ lệnh đến trình
diện với bà hiệu trƣởng. Giờ phút đầu tiên cầm
viên phấn và đám nữ sinh xì xào bên dƣới… Một
khối trắng bềnh bồng trôi trong phòng học, không
phải là những con thiên nga giang đôi cánh trên
trời cao mà là những chùm bông gòn kết dính, rối
nùi bay lả tả trong không gian hẹp đến khó chịu.
Sự khó chịu kia có lần ông buộc miệng với bà hiệu
trƣởng: “Tôi không thể nào hiểu nổi ai đó ở bộ
Giáo dục lại đƣa ra ý tƣởng lập một trƣờng trung
học toàn nữ. Sự mất thăng bằng về giới tính trong
nhà trƣờng dễ dẫn đến những hậu quả tai hại về
học tập, sinh hoạt về vấn đề tâm sinh lý…”. Câu
tổng kết kinh nghiệm mới mẻ kia đƣợc phát đi từ
miệng anh thầy giáo non choẹt mặt mũi, non choẹt
tuổi nghề, đƣợc đón nhận bằng những ánh mắt trái
ngƣợc nhau và đều có ngầm ý cho rằng ông đang
nói trên vị trí của anh đồ gàn của nhiều thế kỷ
trƣớc còn sót lại. Nhƣng với ông, lúc đó hoàn toàn
chính xác đến từng ly mét. Một thầy giáo mới ra
trƣờng, tuổi tác so với học trò chỉ cách nhau năm
ba tuổi, có thể gọi là cùng thế hệ đã dẫn tới nhiều
hệ luỵ rất trẻ con.
262 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Chất trẻ con đầu tiên ông đụng mặt là
những câu tấn công tình cảm vu vơ trên bảng,
đánh lừa ngƣời khác bằng cách viết tay trái. Thỉnh
thoảng lại nhìn thấy một cánh hoa dại bứt vội đâu
đó trên đƣờng tới trƣờng đặt trên bàn kèm theo
mảnh giấy “gửi đến thầy với trái tim tan nát”, một
tờ giấy pelure màu hồng sực nức nƣớc hoa và
những vệt nƣớc nhoè trên mặt giấy mà ông đoán
chắc là những giọt nƣớc từ chiếc vòi ngoài sân cỏ.
Nhƣng khủng khiếp hơn cả là khi ông giảng về
phong trào thơ mới ở Việt Nam. Hàng chục cánh
tay giơ lên, nhao nhao tranh luận, đặt những câu
hỏi phản biện nhƣ đùa nhƣ thật:
-Thƣa thầy, tại sao yêu là chết trong lòng
một ít? Vô lý, không yêu nhau thì thôi chớ chết chi
cho uổng? Sao ông Phan Khôi tự dƣng đặt tên bài
thơ là tình già, tình già khác tình trẻ chỗ nào, thầy?
Lại còn liếc nhau con mắt còn có đuôi, bộ nhƣ
đuôi chim đuôi gà hay kiểu tóc đuôi ngựa tụi con
gái thời nay? Ông Nguyễn Bính so sánh khập
khiễng: Nắng mưa là bệnh của trời/tương tư là
bệnh của tôi yêu nàng. Dạ, cứ cho là bệnh đi,
nhƣng so sánh với mƣa nắng thì nhà thơ dở ẹt...
Dạ, thƣa... có bao giờ thầy tƣơng tƣ, thầy chê...ết...
chƣa ạ? Tiếng cƣời ồ đồng loạt nổi lên. Tôi lúng
túng thật sự. Lúc đó tôi không còn là ông thầy
nghiêm trang nữa, mà quay lại đúng vị trí anh
thanh niên vừa tròn 23 tuổi mụ, đang bị bao vây
bởi một bầy thiên nga lông trắng, nhao nhao bên
dƣới. Rất khó khăn tôi mới lập lại đƣợc trật tự. Và,
263 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
cũng chừng ấy khó khăn, tôi bình tĩnh giải thích,
cắt nghĩa rành rẽ về cấu trúc ngôn ngữ thơ ca, về
tứ trong một bài thơ... đến khi chấm dứt giờ học,
thay vì những tiếng cƣời ồ trƣớc đây là những
tiếng vỗ tay bôm bốp, kèm theo: “Ôi, thật tuyệt
vời, thầy đáng yêu quá... Chúng em yêu thầy...”.
Chuông đổ, tôi thu gom tài liệu trên bàn,
vụt ra cửa nhƣ một chiến binh bị địch truy đuổi
phía sau. Những tiếng la í ới, tiếng đập bàn nhƣ
thể những phát đạn bắn với theo.
*
Bầy thiên nga lông trắng ngày xƣa với giấc
mơ lỏng lẻo từ trời cao rớt xuống, cách một đại
dƣơng mênh mông, nếu dừng lại ở đấy thôi cũng
đủ làm ông nhồn nhột, huống chi ba ngày sau cuộc
nói chuyện bất ngờ trên điện thoại, lại có một bức
thƣ khác ở một địa chỉ e-mail khác, viết rằng: Thầy
có biết thầy là người vô tình không? Con Mai yêu
thầy đến phát cuồng. Nó yêu thầy ngay từ ngày
đầu thầy nhận lớp. Đã chồng con đề huề, nhưng
mỗi khi nhắc trường xưa bạn cũ nó lại khóc ròng
nói nhớ thầy. Nếu hồi đó mà thầy biết sự tình, giờ
này chắc tròn trịa. Thầy có tưởng tượng ra nó
chưa? Con Mai đẹp nhất trường, kiêu kỳ nhất, đa
cảm nhất... và yêu thầy nhất... Ông tắt cả hộp thƣ,
shut down máy. Đầu óc váng vất, mệt muốn đứt
hơi với mớ chữ vừa đọc.
Ông xô ghế, rót cốc nƣớc lọc, uống từng
hớp nhỏ. Thần kinh dịu xuống đôi chút. Lúc sau
ông thừ ngƣời ngồi nhìn chiếc laptop mỏng dính
264 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
im lìm trên bàn: lẻ loi, cô độc bởi ông không đụng
đến nó; im lìm nhƣ ngƣời có lỗi bị xua đuổi. Trong
đầu bổng dƣng lóe lên một ý nghĩ không mấy bình
thƣờng: nếu nhƣ ông biết sự thể kia, nếu nhƣ ông
chấp nhận mối tình của cô bé học trò, nếu nhƣ hai
ngƣời lấy nhau... thì giờ này ra sao nhỉ?
Những chữ “nếu” kéo dài và dính cục lại,
bồng bềnh nhƣ cánh những con chim thiên nga
lông trắng muốt trên trời cao vẫy những giấc mơ
đẹp bay theo. Ông nhắm mắt lại và ngỡ nhƣ mình
đang bay đuổi theo những cánh thiên nga trắng
muốt kia.■
Tháng 5/2010
265 | N G U Y Ễ N L Ệ U Y Ê N
Nguyễn Lệ Uyên
CHÂN DUNG TỰ VẼ
tập truyện
(Thư Quán Bản Thảo, HK 2010)
Ấn Bản Điện Tử
Tủ Sách T.Vấn & Bạn Hữu
Thực hiện 2018
266 | C H Â N D U N G T Ự V Ẽ
Tác Phẩm
Nguyễn Lệ Uyên
Tủ Sách T.Vấn & Bạn Hữu
Đã Xuất Bản