ÑÒnh hÖÔÙng coÂng taÙc tuyeÂn giaÙo ĐẨy mẠnh cÔng...

32
ÑÒNH HÖÔÙNG COÂNG TAÙC TUYEÂN GIAÙO Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/2014 1 C ông tác tuyên truyền biển, đảo Việt Nam, nhất là tuyên truyền những chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, phát triển kinh tế biển đi đôi với bảo vệ chủ quyền, an ninh biển, đảo của nước ta cần được các cấp ủy, tổ chức đảng thường xuyên thực hiện nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta góp phần thực hiện thắng lợi các chủ trương của Đảng và Nhà nước đã đề ra. Sau đây là một số định hướng về nội dung tuyên truyền về biển, đảo Việt Nam trong tình hình hiện nay. 1- Biển Đông và tiềm năng biển của Việt Nam. Biển Đông có diện tích khoảng 3,5 triệu km 2 được bao bọc bởi 9 nước (Việt Nam, Philippines, Trung Quốc, In- đô-nê-xi-a, Bru-nây, Ma-lai-xi-a, Sin-ga-po, Thái Lan và Cam-pu-chia), là một trong 380 biển trên thế giới và có một vị trí, vai trò chiến lược quan trọng vào bậc nhất thế giới. Biển Đông được ví như ngã tư đường hàng hải, hàng không quốc tế, là tuyến vận tải biển lớn thứ 2 thế giới (sau Địa Trung Hải) với hơn 50.000 tàu mỗi năm, vận chuyển ¼ hàng hóa thương mại toàn cầu và ½ lượng dầu. Biển Đông tiềm ẩn nhiều tài nguyên có giá trị lớn, đặc biệt là dầu, khí và băng cháy, được coi là nguồn năng lượng tương lai.Chính vì vậy Biển Đông có lợi ích lớn của các nước trong khu vực và các nước khác có liên quan đến hàng hải, hàng không. Bước vào thế kỷ XXI, nhiều quốc gia trên thế giới cho rằng, thế kỷ XXI là thế kỷ của đại dương, nên nhiều nước càng quan tâm đến lợi ích biển nói chung, biển Đông nói riêng. Nước ta bờ biển dài 3.260 km với một vùng biển đặc quyền kinh tế rộng 1.010.274 km 2 . Như vậy, diện tích vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là khá rộng, chiếm gần 1/3 diện tích biển Đông, hơn 3 lần diện tích đất liền. Biển Việt Nam có trên 3000 đảo lớn, nhỏ, trong đó có 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bờ biển Việt Nam (Móng Cái-Hà Tiên): 3.260 km qua 29 tỉnh duyên hải (101 huyện, 35 quận, thị xã, thành phố, 12 huyện đảo ) với tổng diện tích 65.312 km 2 (20% diện tích cả nước), chiếm 60% đô thị, khu công nghiệp lớn cả nước, dân số gần 30 triệu người, 70% dân cư ven biển sống phụ thuộc vào nguồn lợi biển. Biển Việt Nam là một trong 10 trung tâm đa dạng sinh học biển của thế giới, trữ lượng cá toàn vùng biển Việt Nam khoảng 4,2 triệu tấn; trong đó, 1,7 triệu tấn ở ngoài khơi với ngưỡng khai thác bền vững từ 1,4-1,7 triệu tấn. Hệ thống cảng biển Việt Nam có 49 cảng biển các loại, gồm: 17 cảng biển loại I, 23 cảng biển loại II,9 cảng biển loại III (cảng dầu khí ngoài khơi) và phát triển các dịch vụ hàng hải khác. Dọc bờ biển Việt Nam đã có khoảng 125 bãi biển thuận lợi cho việc phát triển du lịch và đã có trên 30 bãi biển được đầu tư và khai thác. Kinh tế biển đóng góp 12% GDP và khoảng 50% giá trị xuất khẩu của cả nước. Riêng ngành dầu khí đóng góp trên 20% GDP của cả nước. Trong giai đoạn vừa qua, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) đã cung cấp gần 35 tỷ m3 khí khô cho sản xuất, 40% sản lượng điện của toàn quốc, 35-40% nhu cầu ure cho sản suất nông nghiệp và cung cấp 70% nhu cầu khí hóa lỏng cho phát triển công nghiệp và tiêu dùng dân sinh. 2- Định hướng Chiến lược biển Việt Nam đến năm ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM TS. Ngô VăN HùNg " UVTV, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam tổ chức lớp tập huấn tuyên truyền biển, đảo tại huyện Núi Thành. Ảnh: P. Sơn

Upload: others

Post on 04-Oct-2019

4 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

ÑÒNH HÖÔÙNG COÂNG TAÙC TUYEÂN GIAÙO

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/2014 1

Công tác tuyên truyền biển, đảo Việt Nam, nhất là tuyên truyền những chủ trương

của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, phát triển kinh tế biển đi đôi với bảo vệ chủ quyền, an ninh biển, đảo của nước ta cần được các cấp ủy, tổ chức đảng thường xuyên thực hiện nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta góp phần thực hiện thắng lợi các chủ trương của Đảng và Nhà nước đã đề ra. Sau đây là một số định hướng về nội dung tuyên truyền về biển, đảo Việt Nam trong tình hình hiện nay.

1- Biển Đông và tiềm năng biển của Việt Nam. Biển Đông có diện tích khoảng 3,5 triệu km2 được bao bọc bởi 9 nước (Việt Nam, Philippines, Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a, Bru-nây, Ma-lai-xi-a, Sin-ga-po, Thái Lan và Cam-pu-chia), là một trong 380 biển trên thế giới và có một vị trí, vai trò chiến lược quan trọng vào bậc nhất thế giới. Biển Đông được ví như ngã tư đường hàng hải, hàng không quốc tế, là tuyến vận tải biển lớn thứ 2 thế giới (sau Địa Trung Hải) với hơn 50.000 tàu mỗi năm, vận chuyển ¼ hàng hóa thương mại toàn cầu và ½ lượng dầu. Biển Đông tiềm ẩn nhiều tài nguyên có giá trị lớn, đặc biệt là dầu, khí và băng cháy, được coi là nguồn năng lượng tương lai.Chính vì vậy Biển Đông có lợi ích lớn của các nước trong khu vực và các nước khác có liên quan đến hàng hải, hàng không. Bước vào thế kỷ XXI, nhiều quốc gia trên thế giới cho rằng, thế kỷ XXI là thế kỷ của đại dương, nên nhiều nước càng quan tâm đến lợi ích biển nói chung, biển Đông nói riêng.

Nước ta bờ biển dài 3.260 km với một vùng biển đặc quyền kinh tế rộng 1.010.274 km2. Như vậy, diện tích vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là khá rộng, chiếm gần 1/3 diện tích biển Đông, hơn 3 lần diện tích đất liền. Biển Việt Nam có trên 3000 đảo

lớn, nhỏ, trong đó có 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bờ biển Việt Nam (Móng Cái-Hà Tiên): 3.260 km qua 29 tỉnh duyên hải (101 huyện, 35 quận, thị xã, thành phố, 12 huyện đảo ) với tổng diện tích 65.312 km2 (20% diện tích cả nước), chiếm 60% đô thị, khu công nghiệp lớn cả nước, dân số gần 30 triệu người, 70% dân cư ven biển sống phụ thuộc vào nguồn lợi biển. Biển Việt Nam là một trong 10 trung tâm đa dạng sinh học biển của thế giới, trữ lượng cá toàn vùng biển Việt Nam khoảng 4,2 triệu tấn; trong đó, 1,7 triệu tấn ở ngoài khơi với ngưỡng khai thác bền vững từ 1,4-1,7 triệu tấn. Hệ thống cảng biển Việt Nam có 49 cảng biển các loại, gồm: 17 cảng biển loại I, 23 cảng biển loại II,9 cảng biển loại III (cảng dầu khí ngoài khơi) và phát triển các dịch vụ hàng hải khác. Dọc bờ biển Việt Nam đã có khoảng 125 bãi biển thuận lợi cho việc phát triển du lịch và đã có trên 30 bãi biển được đầu tư và khai thác. Kinh tế biển đóng góp 12% GDP và khoảng 50% giá trị xuất khẩu của cả nước. Riêng ngành dầu khí đóng góp trên 20% GDP của cả nước. Trong giai đoạn vừa qua, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) đã cung cấp gần 35 tỷ m3 khí khô cho sản xuất, 40% sản lượng điện của toàn quốc, 35-40% nhu cầu ure cho sản suất nông nghiệp và cung cấp 70% nhu cầu khí hóa lỏng cho phát triển công nghiệp và tiêu dùng dân sinh.

2- Định hướng Chiến lược biển Việt Nam đến năm

ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM

TS. Ngô VăN HùNg " UVTV, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam

Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam tổ chức lớp tập huấn tuyên truyền biển, đảo tại huyện Núi Thành. Ảnh: P. Sơn

ÑÒNH HÖÔÙNG COÂNG TAÙC TUYEÂN GIAÙO

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/20142

2020. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, biển đóng biển vai trò rất quan trọng đến sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, hợp tác quốc tế của nước ta. Vì vậy, để phát huy vai trò của biển trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tại Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khoá X đã thông qua Nghị quyết “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” ( Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9/2/2007). Nghị quyết đã xác định các quan điểm chỉ đạo về định hướng chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 như sau:

Thứ nhất, nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn.

Thứ hai, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng - an ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường, kết hợp giữa phát triển vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển vùng nội địa theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Thứ ba, khai thác mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường biển trên tinh thần chủ động, tích cực mở cửa, phát huy đầy đủ và có hiệu quả các nguồn lực bên trong; tranh thủ hợp tác quốc tế, thu hút mạnh các nguồn lực bên ngoài theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.

Nghị quyết đã đề ra mục tiêu tổng quát đến năm 2020 là phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm cho đất nước giàu mạnh. Đồng thời, Trung ương Đảng cũng đã đề ra mục tiêu cụ thể là xây dựng và phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học - công nghệ, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh; phấn đấu đến năm 2020, kinh tế trên biển và ven biển đóng góp khoảng 53-55% tổng GDP của cả nước. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống nhân dân vùng biển và ven biển; có thu nhập bình quân đầu người cao gấp hai lần so với thu nhập bình quân chung của cả nước. Cùng với xây dựng một số thương cảng quốc tế có tầm cỡ khu vực, hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, sẽ xây dựng một số khu kinh tế mạnh ở ven biển; xây

dựng cơ quan quản lý tổng hợp thống nhất về biển có hiệu lực, hiệu quả, mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực về biển.

Để thực hiện các mục tiêu trên, Nghị quyết đã xác định một số nhiệm vụ cụ thể về phát triển kinh tế - xã hội; chiến lược quốc phòng, an ninh, đối ngoại; phát triển khoa học - công nghệ biển; xây dựng kết cấu hạ tầng biển đến năm 2020.

Quảng Nam là một tỉnh có nhiều tiềm năng, thế mạnh về biển với bờ biển dài 125 km, ngư trường trên 40.000 km2. Với quan điểm phát triển kinh tế gắn với bảo vệ chủ quyền, an ninh biển đảo, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã xây dựng Chương trình hành động và ban hành nhiều đề án thiết thực để góp phần thực hiện Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020 như: Hỗ trợ ngư dân đóng mới, cải hoán tàu cá xa bờ; Đề án Quản lý nuôi, trồng thủy sản nước lợ theo hướng dựa vào cộng đồng; Đề án Xây dựng vùng nuôi, trồng thủy sản tập trung an toàn dịch bệnh và vệ sinh thực phẩm; thành lập Quỹ hỗ trợ ngư dân tỉnh Quảng Nam... Cùng với sự hỗ trợ bằng nhiều hình thức, tạo điều kiện thuận lợi cho bà con ngư dân yên tâm sản xuất. Song song đó, tổ chức thành lập các tổ đoàn kết, nghiệp đoàn khai thác hải sản xa bờ; đầu tư trang thiết bị thông tin liên lạc cho các tàu cá... Song song với công tác hỗ trợ sản xuất, hằng năm, tỉnh triển khai tốt công tác phòng, chống bão lụt, giảm nhẹ thiên tai, đảm bảo an toàn cho người và phương tiện hoạt động trên biển; đồng thời lãnh đạo chỉ đạo thực hiện các dự án hợp tác quốc tế như Dự án xây dựng Khu bảo tồn biển và Khu dự trữ sinh quyền Cù Lao Chàm, Dự án quản lý tổng hợp vùng bờ của tỉnh... Tỉnh cũng đã quy hoạch phát triển các khu công nghiệp ven biển, trong đó Khu kinh tế mở Chu Lai được xác định là một trong những khu kinh tế ven biển của cả nước; quy hoạch, xây dựng kết cấu hạ tầng và tạo môi trường thu hút đầu tư các dự án du lịch nghỉ dưỡng ven biển....

3- Công ước quốc tế về Luật biển 1982 và Luật biển Việt Nam năm 2012 là những căn cứ vững chắc để bảo vệ chủ quyền biển, đảo của nước ta. Nhận thấy biển có vai trò quan trọng đối với thế giới (cả quốc gia có biển lẫn quốc gia không có biển), nên Liên hợp quốc đã đề cập đến việc có một Công ước quốc tế để các nước có căn cứ pháp lý để ứng xử trong các mối quan hệ. Vì vậy, Liên hiệp quốc đã tổ chức họp bàn về Luật Biển với 11 phiên họp (từ 12/1973 đến 12/1982) mới đi đến thống nhất. Từ ngày 10/12/1982 Công ước đã được mở ra cho các quốc gia ký kết và phê chuẩn

ÑÒNH HÖÔÙNG COÂNG TAÙC TUYEÂN GIAÙO

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/2014 3

và cuối cùng đã có hiệu lực từ ngày 16/11/1994, có 164 quốc gia ký kết trở thành thành viên; trong đó có Việt Nam và Trung Quốc.

Công ước về Luật biển năm 1982 đã thiết lập lãnh hải 12 hải lý tính từ đường cơ sở, vùng tiếp giáp lãnh hải 24 hải lý, vùng đặc quyền về kinh tế 200 hải lý và ranh giới ngoài chính xác của thềm lục địa. Trong đó, đường biên giới trên biển là đường phân chia giữa vùng lãnh hải và vùng tiếp giáp. Đồng thời, xác định quyền của các vùng biển của một quốc gia ven biển; quyền quá cảnh qua các eo biển quốc tế, chế độ quốc gia quần đảo, chế độ các đảo, chế độ biển cả; Công ước cũng quy định về bảo vệ quyền lợi của các quốc gia không có biển và các quốc gia bất lợi về địa lý, vấn đề phân định các vùng biển v.v. Công ước cũng quy định cơ chế khai thác tài nguyên đáy biển quốc tế-di sản chung của loài người; bảo tồn và bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, phát triển và chuyển giao công nghệ biển. Công ước cũng quy định các điều khoản liên quan tới việc giải quyết các tranh chấp bao gồm cả việc thành lập Toà án Quốc tế về Luật biển.

Với tinh thần Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982, các cơ quan soạn thảo pháp luật của Việt Nam đã bắt tay vào nghiên cứu soạn thảo Luật Biển Việt Nam để trình Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nghiên cứu, thông qua. Và tại kỳ họp thứ ba, khóa XIII, ngày 21 tháng 6 năm 2012, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật Biển Việt Nam. Luật Biển Việt Nam đã quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và các quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh tế biển; quản lý và bảo vệ biển, đảo của nước ta.

4-Tuyên truyền về các chứng cứ lịch sử đã khẳng định chủ quyền của nước ta đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Quần đảo Hoàng Sa nằm trong một phạm vi khoảng 15.000 km2, giữa kinh tuyến khoảng 111 độ đến 113 độ kinh độ Đông, khoảng 95 hải lý (1 hải lý = 1,853 km), từ 17độ 05’ xuống 15 độ 45’ vĩ độ Bắc, khoảng 90 hải lý. Trong đó diện tích toàn bộ phần đất nổi của quần đảo khoảng 10 km2. Xung quanh là độ sâu hơn 1000m, song giữa các đảo có độ sâu thường dưới 100m.

Quần đảo Hoàng Sa có 37 đảo, đá, cồn san hô, đá

ngầm và bãi cạn. Trong đó, có 15 đảo, 3 bãi, 3 đá, 1 cồn, 1 hòn đã được đặt tên. Các đảo chính gồm hai nhóm: Nhóm Lưỡi Liềm ở Tây Nam và nhóm An Vĩnh ở Đông Bắc, tại đây có đảo Phú Lâm là lớn nhất, diện tích khoảng 1,5 km2. Về phía Đông có nhóm đảo Linh Côn nằm; tại đây có đảo Linh Côn là lớn nhất, diện tích 1,62 km2. Ngoài ra ở cực Nam còn có đảo Tri Tôn.

Từ xưa tới nay, lịch sử chứng minh các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam, chưa bao giờ thuộc Trung quốc. Các bản đồ Việt Nam thế kỷ XVII đã gọi quần đảo Hoàng Sa bằng cái tên Bãi Cát Vàng và ghi vào địa hạt huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi (nay thuộc thành phố Đà Nẵng). Nhiều tài liệu cổ của Việt Nam như: Toàn Tập Thiên Nam Tứ chí Lộ Đồ Thư (thế kỷ XVII); Phủ Biên Tạp Lục (1776); Đại Nam Thực Lục Tiền Biên và Chính Biên (1844 - 1848); Đại Nam Nhất Thống Chí (1865-1875); các Châu bản triều Nguyễn (1802-1945)... đều nói về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như là Bãi Cát Vàng vạn dặm trên Biển Đông và việc Nhà nước phong kiến đã cử đội Hoàng Sa ra quản lý, khai thác các quần đảo này. Nhiều sách cổ, bản đồ cổ của nước ngoài; trong đó có Atlat thế giới, xuất bản năm 1827 tại Bruxen, Bỉ cũng thể hiện các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Đỉnh cao nhất của việc tuyên bố và xác lập chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là vào năm 1816 khi vua Gia Long sai quân lính ra quần đảo Hoàng Sa cắm cờ Việt Nam và tuyên bố chủ quyền. Trong chuyến thăm Đức 2 ngày vào đầu tháng 4/2014 vừa qua của Tổng Bí thư Trung Quốc Tập Cận Bình, ông Tập Cận Bình được Thủ tướng Đức, Bà Angela Merkel tặng một tấm bản đồ Trung Quốc do nhà vẽ bản đồ người Pháp Jean – Baptiste Bouruignon d’ Anville thực hiện và in tại Đức năm 1735. Tấm bản đồ này hoàn toàn không thể hiện quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nó thể hiện ranh giới cực Nam của Trung quốc chỉ đến đảo Hải Nam.

Ngay cả các cứ liệu lịch sử của Trung Quốc cũng cho thấy, các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam, như bản đồ “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” của nhà Thanh, xuất bản năm 1904 ghi chú rõ biên giới cực Nam của Trung Quốc chỉ đến đảo Hải Nam; hay trong quyển “Trung Quốc địa lý học giáo khoa thư” được biên soạn năm 1905, xuất bản năm 1906, tại trang 241 ghi rõ: “phía Nam Trung Quốc từ vĩ độ Bắc 18013’, tận cùng là bờ biển Nhai Châu, đảo Hải Nam, hoàn toàn không có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

ÑÒNH HÖÔÙNG COÂNG TAÙC TUYEÂN GIAÙO

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/20144

Sau khi đô hộ Đông Dương, Pháp nhân danh Việt Nam tiếp tục quản lý quần đảo qua việc cử tàu chiến tuần tiễu để đảm bảo an ninh, ngăn chặn buôn lậu, cho phép người Nhật khai thác phân chim trên đảo, cử tàu De Lanessan ra nghiên cứu hải dương, địa chất, sinh vật. Từ năm 1930 đến 1932, các tàu chiến Inconstant, Alerte, La Malicieuse và De Lanessan của hải quân Pháp liên tiếp ra quần đảo Hoàng Sa.

Năm 1956 Pháp chuyển giao lãnh thổ miền Nam Việt Nam cho chính quyền ngụy Sài Gòn quản lý. Chính quyền Sài Gòn đã cho quân ra tiếp quản, tổ chức hai quần đảo về mặt hành chính (lập ở mỗi quần đảo một xã thuộc một huyện ở đất liền), xây các bia chủ quyền, duy trì các trạm khí tượng.

Từ những năm 50 của thế kỷ 20 tình hình hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bắt đầu trở nên phức tạp. Lợi dụng tình hình rối ren khi Pháp rút khỏi Đông Dương theo Hiệp định Genève năm 1954, Trung Quốc đã bí mật chiếm đóng trái phép nhóm đảo phía đông của quần đảo Hoàng Sa vào năm 1956. Chính quyền Sài Gòn đã kịch liệt phản đối. Năm 1959, quân Trung Quốc giả làm ngư dân đổ bộ lên nhóm đảo phía tây quần đảo Hoàng Sa. Quân đội Sài Gòn đã phát hiện ngăn chặn và bắt giữ 82 "ngư dân” Trung Quốc và đến tháng 01-1974, Trung Quốc đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, lúc đó do chính quyền Sài Gòn quản lý.

Sau khi Trung Quốc chiếm đóng Hoàng Sa tháng 1-1974, chính quyền Sài Gòn và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam lúc đó đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ và đưa ra lập trường giải quyết.

5- Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về giải quyết vấn đề biên giới với các nước láng giềng và tình hình Biển Đông.

Như chúng ta đều biết, Việt Nam có chung đường biên giới đất liền với Trung Quốc ở phía Bắc, với Lào ở phía Tây và Cam-pu-chia phía Tây Nam. Về biển Đông có mối quan hệ với Trung Quốc và các nước Đông Nam Á. Vì vậy, giải quyết vấn đề biên giới, bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ kể cả trên bộ, trên không và trên biển với các nước láng giềng được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng, kiên trì bằng biện pháp đấu tranh chính trị, ngoại giao và các biện pháp hòa bình khác, trong những năm qua nước ta đã đạt được một số kết quả trong việc ký kết các hiệp ước với các nước láng giềng về vấn đề biên giới.

Với Trung Quốc: Ngày 07/11/1991, hai nước Việt

Nam và Trung Quốc ký kết Hiệp định tạm thời về việc giải quyết công việc trên vùng biên giới. Ngày 19/10/1993 ký Thoả thuận về Những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ. Ngày 30/12/1999 ký Hiệp ước hoạch định biên giới trên đất liền. Ngày 25/12/2000 ký Hiệp định phân định biển trong Vịnh Bắc Bộ. Đặc biệt ngày 4-11-2002, Tuyên bố về cách ứng xử trên biển Đông giữa ASEAN với Trung Quốc (DOC) đã được ký kết tại Campuchia. Hiện nay các nước ASEAN đang thúc giục Trung Quốc bàn thảo để đi đến ký kết các Nguyên tắc ứng xử trên biển Đông (COC).

Với Campuchia: Ngày 18/2/1979, hai nước Việt Nam và Campu chia ký kết Hiệp ước hoà bình, hữu nghị và hợp tác. Ngày 07/7/1982, ký kết Hiệp định Vùng nước lịch sử. Ngày 20/7/1983: Hiệp định về quy chế biên giới. Ngày 20/7/1983: Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết các vấn đề biên giới. Và ngày 27/12/1985: Hiệp ước Hoạch định biên giới quốc gia.

Với Lào: Ngày 18/7/1977 Việt Nam và Lào ký kết Hiệp ước Hoạch định biên giới quốc gia. Ngày 24/1/1986: Hiệp ước bổ sung Hiệp ước Hoạch định biên giới quốc gia. Ngày 24/1/1986: Nghị định thư v/v phân giới trên thực địa và cắm mốc toàn bộ đường biên giới. Ngày 01/3/1990: Hiệp định về Quy chế biên giới quốc gia. Ngày 31/8/1997: Nghị định thư sửa đổi, bổ sung Hiệp định về Quy chế biên giới.

Với các nước khu vực Biển Đông khác: Với Thái Lan Việt Nam đã ký kết Hiệp định phân định biên giới biển (ký ngày 09/8/1997). Với Indonesia: Hiệp định phân định ranh giới thềm lục địa (ký ngày 26/6/2003, có hiệu lực từ 29/5/2007). Với Malaysia: Thoả thuận hợp tác khai thác dầu khí trong khu vực chồng lấn thềm lục địa Việt – Malaysia (ký ngày 05/6/1992).

Như vậy, với thiện chí của Việt Nam, nước ta đã cơ bản ký kết hiệp định biên giới và giải quyết tranh chấp với các nước. Tuy nhiên, trên biển Đông, do tư tưởng nước lớn cho rằng, nếu kiểm soát được Biển Đông tức là kiểm soát được toàn bộ khu vực và có ảnh hưởng rất lớn đến an ninh hàng hải, hàng không thế giới nói riêng và an ninh thế giới nói chung, nên Trung Quốc coi Biển Đông là “lợi ích cốt lõi” của họ và đang thực hiện âm mưu theo lộ trình 3 bước: Kiểm soát Biển Đông – Làm chủ Biển Đông – Độc chiếm Biển Đồng, nên trong nhiều thập kỷ qua Trung Quốc đã dùng chính sách bành trướng đánh chiếm và gần đây công bố yêu sách “đường lưỡi bò” – 80% diện tích biển Đông là vùng đặc quyền kinh tế của Trung

ÑÒNH HÖÔÙNG COÂNG TAÙC TUYEÂN GIAÙO

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/2014 5

Quốc.Tháng 1/1974, Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa; tháng 3/1988, đánh chiếm 6 đảo, đá (Chữ Thập, Châu Viên, Gạc Ma Xu Bi, Huy Gơ, Ga Ven) và tháng 01/1995 đánh chiếm bãi đá Vành Khăn tại quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Trong những năm gần đây, Trung Quốc xâm phạm chủ quyền của Việt Nam hết sức trắng trợn và ngày càng nguy hiểm, làm cho cả thế giới quan ngoại, phản đối hành động của Trung Quốc. Năm 2008, Trung Quốc đã cản trở tàu Nga và Na uy do ta thuê thực hiện thăm dò dầu khí. Năm 2011, Trung Quốc liên tục vi phạm nghiêm trọng hơn không những với ta mà còn với một số nước ASEAN: Ngày 21/5/2011: Tàu Trung Quốc gây hấn với tàu Philippin. Ngày 26/05/2011, 03 tàu hải giám của Trung Quốc đã cắt cáp thăm dò của tàu Bình Minh 02 thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam tại vị trí 12 độ 48,25 phút Bắc và 111 độ 26,48 phút Đông cách mũi Đại Lãnh (Phú Yên) 116 hải lý. Ngày 9/6/2011, cản phá tàu thăm dò dầu khí Viking II. Ngày 21/6/2012, Tuyên bố thành lập thành phố Tam Sa. Ngày 23/6/2012, công bố mời thầu 9 lô dầu khí trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Từ ngày 26/6/2012 đến ngày 8/7/2012, đưa biên đội tàu Hải giám xuống tuần tra dọc theo đường yêu sách lưỡi bò; đồng thời tăng cường đưa tàu cá xuống đánh bắt một cách có tổ chức tại các vùng đặc quyền kinh tế của các nước theo phạm vi “đường lưỡi bò”; ngăn cản ngư dân Việt Nam hoạt động đánh cá ở vùng biển Hoàng Sa. Ngày 01-02/5 đến nay, Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 thăm dò dầu khí tại khu vực đảo Tri Tôn, nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, cách đảo Lý Sơn 119 hải lý (221 km).

Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương: “Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giải quyết những bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hoà bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và những thoả thuận giữa lãnh đạo cấp cao Việt Nam - Trung Quốc; đồng thời giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước.” (Thông báo Hội nghị Trung ương 9, khóa XI).

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, trả lời báo chí nhân chuyến thăm và dự Diễn đàn Kinh tế thế giới tại Philippin 21/5 vừa qua đã khẳng rõ: "Việt Nam đã chịu nhiều đau thương mất mát từ các cuộc chiến tranh xâm lược. Vì thế, chúng tôi luôn tha thiết có hòa bình,

hữu nghị để xây dựng và phát triển đất nước. Chúng tôi không bao giờ đơn phương sử dụng biện pháp quân sự, không bao giờ khơi mào một cuộc đối đầu quân sự, trừ khi chúng tôi bị bắt buộc phải tự vệ.

Chúng tôi luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó. ”

Hiện nay các lực lượng Kiểm ngư, Cảnh sát biển của ta đã đấu tranh trên thực địa, yêu cầu phía Trung Quốc ngừng vi phạm chủ quyền, rút giàn khoan khỏi vùng đặc quyền kinh tế của ta. Bên cạnh đó, ta đã kiên trì đấu tranh bằng con đường ngoại giao với các cơ quan hữu quan của Trung Quốc. Cùng với đó là đẩy mạnh công tác tuyên truyền, thông tin đến các tổ chức, các nước trên thế giới. Nhiều nước đã cử phóng viên đi thực địa để đưa tin về Trung Quốc xâm phạm chủ quyền của ta. Hầu hết các nước đều lo ngại về sự vi phạm của Trung Quốc đối với chủ quyền của Việt Nam và với biển Đông, đồng tình, ủng hộ ta về đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Về đấu tranh pháp lý, đến nay có nhiều tổ chức, cá nhân am hiểu luật pháp quốc tế có đề cập và ủng hộ Việt Nam kiện Trung Quốc. Việc này, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tuyên bố tại cuộc họp Chính phủ ngày 30/5/2014 như sau: “Đấu tranh pháp lý cũng là biện pháp hòa bình. Hình thức này sẽ được cân nhắc để quyết định sử dụng vào thời điểm phù hợp, theo đúng Hiến chương Liên hiệp quốc”.

Một số lưu ý trong công tác tuyên truyền biển, đảo Việt Nam: Tuyên truyền biển, đảo Việt Nam là nhằm nâng cao kiến thức, nhận thức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và trong nhân dân, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng ta. Trong công tác tuyên truyền cần nhấn mạnh những quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh bảo vệ chủ quyền biên giới, biển đảo bằng các giải pháp hòa bình; phê phán hành động, thông tin và lập luận sai trái của Trung Quốc, nêu cao chính nghĩa của ta. Chúng ta chống lại sự sai trái của nhà cầm quyền của Trung Quốc, nhưng không chống lại nhân dân Trung Quốc, các nhà đầu tư và làm ăn tại Việt Nam, khách du lịch.Đảm bảo an ninh, trật tự trong nước, giữ môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước; cảnh giác, phòng ngừa, không để mắc mưu của các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội.

ÑÒNH HÖÔÙNG COÂNG TAÙC TUYEÂN GIAÙO

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/20146

Về vai trò của gia đình trong xã hội Việt Nam, lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh

đã khẳng định: “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình”. Với ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy, Đảng và Nhà nước ta không ngừng quan tâm, chỉ đạo công tác gia đình. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới toàn diện do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, công tác gia đình càng được tăng cường. Ngày 4/5/2001, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 72/2001/QĐ-TTg về việc lấy ngày 28/6 hàng năm là ngày Gia đình Việt Nam; ngày 21/2/2005, Ban Bí thư Trung ương Đảng (K.IX) đã ban hành Chỉ thị số 49/CT-TW “về xây dựng Gia đình thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước”; ngày 29/5/2012 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 629/QĐ-TTg “về việc phê duyệt Chiến lược phát triển Gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030”; ngày 03/01/2013 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 02/2013/NĐ-CP quy định về Công tác gia đình.

Trong thời gian qua, tỉnh Quảng Nam đã triển khai thực hiện các chủ trương trên đây của Trung ương đạt được những kết quả quan trọng.

1- Về công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý: Căn cứ các chủ trương trên đây của Trung ương, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam đã cụ thể hóa bằng các chủ trương, cơ chế chính sách nhằm xây dựng gia đình phù hợp với điều kiện của tỉnh. Ngày 21 tháng 4 năm 2011, Tỉnh uỷ ban hành Chỉ thị số 09-CT/TU “về việc đẩy mạnh xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh”, UBND tỉnh ban hành Chỉ thị số 23/CT-UBND ngày 08/7/2008 về việc triển khai thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình; Kế hoạch số 3258/KH-UBND ngày 05/9/2012 về việc thực hiện Đề án “Tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình giai

đoạn 2012 – 2015”... là những văn bản quan trọng để thúc đẩy công tác gia đình trong thời gian qua, tạo những bước đột phá để phát triển trong thời gian tới.

Bên cạnh ban hành văn bản pháp lý trên lĩnh vực gia đình, Quảng Nam cũng hết sức chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách, pháp luật, truyền thông nâng cao nhận thức về công tác gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình đến các cấp, ngành, địa phương thông qua tổ chức các hoạt động với nhiều nội dung, hình thức đa dạng, phong phú. Nhân kỷ niệm Ngày Quốc tế Hạnh phúc 20/3, ngày Gia đình Việt Nam (28/6), ngày Thế giới xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ (25/11), các hoạt động

Tăng cường lãnh, chỉ đạo và phát huy hiệu quả công tác gia đình trên địa bàn tỉnh

ĐiNH Hài "TUV, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.

ÑÒNH HÖÔÙNG COÂNG TAÙC TUYEÂN GIAÙO

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/2014 7

tuyên truyền được đẩy mạnh như: tuyên truyền trên hệ thống loa truyền thanh xã, phường, thị trấn; tổ chức tuyên truyền thông qua Câu lạc bộ gia đình phát triển bền vững ở thôn, khu phố, tổ chức nói chuyện chuyên đề, tọa đàm, hội thi, hội diễn có nội dung về xây dựng gia đình văn hoá, phòng, chống bạo lực gia đình. Đến nay toàn tỉnh tổ chức 2.911 buổi họp có lồng ghép nội dung tuyên truyền, phổ biến các văn bản, chính sách, phát luật về phòng, chống bạo lực gia đình thu hút hơn 20.000 lượt người tham dự; 561 hội thi, hội diễn; 211 buổi nói chuyện chuyên đề có nội dung về gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình; hơn 815 buổi mitting truyền thông phổ biến Luật; 78 cuộc thi tìm hiểu về Luật Phòng, chống bạo lực gia đình; hàng trăm bài viết, chuyên trang, chuyên mục trên báo, tạp chí, bản tin, hệ thống đài truyền thanh, truyền hình;... Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với Hội nông

dân tỉnh, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh và Liên đoàn Lao động tỉnh xây dựng Kế hoạch tổ chức cuộc thi tìm hiểu Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, với hơn 27.293 bài dự thi.

Bên cạnh đó công tác xây dựng kiện toàn bộ máy cán bộ chuyên trách về công tác gia đình cũng được các cấp, ngành chú ý. Đến nay, cấp tỉnh đã 05 cán bộ, Cấp huyện có 18/18 huyện/thành phố và nhiều xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh đã bố trí cán bộ kiêm nhiệm làm công tác gia đình.

2- Những kết quả đạt được: Qua thống kê, đến nay trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đã xây dựng được 15 mô hình phòng, chống bạo lực gia đình, với 105 câu lạc bộ gia đình phát triển bền vững và nhóm phòng, chống bạo lực gia đình và 246 Tổ tư vấn về gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình, 131 cơ sở khám chữa bệnh,

29 cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, 236 địa chỉ tin cậy, 1160 lượt người gây bạo lực gia đình được tư vấn.

Thông qua các mô hình trên, các giải pháp phòng ngừa bạo lực gia đình đã được tiến hành can thiệp xử lý như: góp ý phê bình trong cộng đồng dân cư 1281 vụ; áp dụng các biện pháp cấm tiếp xúc 38 vụ; tiến hành xử phạt hành chính 120 vụ; truy cứu trách nhiệm hình sự 11 vụ. Tổ chức tư vấn tâm lý, pháp luật cho 1309 nạn nhân; 472 nạn nhân được đưa đến địa chỉ tin cậy tại cộng đồng; 70 nạn nhân được hỗ trợ tại các cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình. Đến nay, có 100% hội viên phụ nữ được quán triệt Luật Hôn nhân gia đình, Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Các cấp Hội tích cực lồng ghép công tác phòng, chống bạo lực gia đình vào trong các phong trào lớn như: Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” gắn với xây dựng gia đình đạt 4 chuẩn mực no ấm - bình đẳng - tiến bộ - hạnh phúc và cuộc vận động xây dựng gia đình “5 không 3 sạch”. Đến nay đã có 100% chi hội đăng ký mỗi chi hội có ít nhất 10 gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình “5 không 3 sạch”. Qua 05 năm, các cấp Hội Liên hiệp phụ nữ đã phối hợp với ban, ngành, đoàn thể liên quan tổ chức được 99 lớp tập huấn cho 5965 lượt người tham dự; tổ chức 420 buổi truyền thông phổ biến Luật với 55.128 lượt người tham dự. Ngoài ra các cấp hội đã tổ chức trên 42 cuộc thi về phòng, chống bạo lực gia đình.

Đối với mô hình tuyên truyền giáo dục đạo đức lối sống trong gia đình trên địa bàn tỉnh lúc đầu chỉ triển khai thí điểm ở 2 xã Quế

Các gia đình văn hóa (người cầm hoa) và cán bộ làm công tác gia đình cấp huyện tại Hội nghị tuyên dương gia đình văn hóa tiêu biểu, xuất sắc

tỉnh Quảng Nam.

ÑÒNH HÖÔÙNG COÂNG TAÙC TUYEÂN GIAÙO

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/20148

Lộc, Sơn Viên của huyện Nông Sơn. Đến nay, mô hình đã được nhân rộng ra 18 huyện, thành phố và mỗi xã, phường chọn một thôn để triển khai.

Việc xây dựng và nhân rộng các mô hình điển hình tiên tiến tạo ra phong trào thi đua trong mỗi gia đình kịp thời biểu dương, nhân rộng các mô hình gia đình vượt khó vươn lên làm giàu chính đáng, gia đình làm kinh tế giỏi, gia đình trẻ hạnh phúc, gia đình nhiều thế hệ chung sống mẫu mực, chăm sóc người cao tuổi, bảo vệ và giáo dục trẻ em. Qua đó đã thực sự tác động và làm thay đổi cuộc sống tinh thần, vật chất của nhiều gia đình. Các gia đình đã vun đắp những mối quan hệ nhân ái tốt đẹp, có trách nhiệm giữa các thành viên trong gia đình, chăm lo phát triển kinh tế tạo việc làm và tăng thu nhập chính đáng nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống tiến tới một cuộc sống gia đình hạnh phúc, phát triển bền vững góp phần ổn định xã hội và phát triển đất nước.

3- Một số định hướng phát triển: Công tác gia đình là nhiệm vụ quan trọng không chỉ của riêng mỗi một cấp ngành, địa phương mà cần có sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, Chính quyền, Đoàn thể, sự vào cuộc mạnh mẽ của toàn xã hội, sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành và sự ủng hộ nhiệt tình của các tầng lớp nhân

dân. Với mốc thời gian 2015 - 2020, lĩnh vực công tác gia đình trên địa bàn tỉnh sẽ phấn đấu đạt được những chỉ tiêu cơ bản:

- Phấn đấu đến năm 2015 đạt trên 85% và đến năm 2020 đạt trên 95% số hộ gia đình được tiếp cận thông tin về phòng, chống bạo lực gia đình.

- Phấn đấu đến năm 2015 đạt trên 50% và đến năm 2020 đạt trên 90% số cán bộ tham gia phòng, chống bạo lực gia đình các cấp được tập huấn nâng cao năng lực phòng, chống bạo lực gia đình.

- Phấn đấu đến năm 2015 đạt trên 60% và đến năm 2020 đạt trên 90% số lãnh đạo chính quyền, đoàn thể cấp xã được tập huấn nâng cao năng lực phòng, chống bạo lực gia đình.

- Phấn đấu đến năm 2015 đạt trên 30% và đến năm 2020 đạt 100% số địa phương trong tỉnh có giảng viên, báo cáo viên các cấp về phòng, chống bạo lực gia đình.

- Phấn đấu đến năm 2015 đạt trên 70% và đến năm 2020 đạt trên 95% số nạn nhân bạo lực gia đình được tiếp cận các hoạt động hỗ trợ về phòng ngừa bạo lực gia đình, tư vấn pháp lý, chăm sóc y tế, bảo vệ sự an toàn cho nạn nhân.

- Phấn đấu đến năm 2015 đạt trên 90% và đến năm 2020 đạt trên 95% số người có hành vi bạo

lực gia đình được tiếp cận các hoạt động hỗ trợ về phòng ngừa, giáo dục chuyển đổi hành vi.

- Phấn đấu đến năm 2015 đạt trên 60% (vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số đạt trên 40%) và đến năm 2020 đạt trên 90% (vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số đạt trên 70%) số xã, phường, thị trấn xây dựng và nhân rộng mô hình phòng, chống bạo lực gia đình...

Để đạt được điều đó, chúng ta cần tăng cường tổ chức, lãnh đạo và quản lý công tác gia đình; truyền thông, giáo dục, vận động, cung cấp kiến thức về xây dựng gia đình; tiếp tục hoàn thiện việc xây dựng và thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về gia đình và công tác gia đình; thực hiện các chính sách, chương trình về an sinh xã hội; xây dựng mạng lưới cung cấp dịch vụ gia đình; xây dựng cơ sở dữ liệu về gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình và kết hợp đẩy mạnh xã hội hóa công tác gia đình... Có như vậy công tác gia đình mới đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội, để mỗi gia đình trong tỉnh đều đạt gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, góp phần thực hiện tốt Chỉ thị 49-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương (K.IX) và Chỉ thị số 09-CT/TU của Tỉnh ủy về “Xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước”./.

ÑÒNH HÖÔÙNG COÂNG TAÙC TUYEÂN GIAÙO

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/2014 9

Hệ thống hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm 4 cấp. Trong đó, cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) có vị trí,

vai trò quan trọng, đã được quy định trong nhiều nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng ấy, bởi vì cơ sở là nơi diễn ra các hoạt động sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt vật chất và tinh thần, thực hiện các quan hệ xã hội của toàn thể nhân dân; là nền tảng của tổ chức, bộ máy hành chính nhà nước, là nơi thể hiện trực tiếp quyền lực của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân; là nơi các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được thực hiện thông qua những hoạt động cụ thể của chính quyền và nhân dân; là nơi các cơ quan đảng và nhà nước, đoàn thể có quan hệ trực tiếp với dân, hàng ngày nhận được những phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, trực tiếp giải quyết những bức xúc về đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân… Mọi sự biến động ở cơ sở, một khi đã trở thành phong trào trên phạm vi rộng lớn đều có tác động to lớn đến toàn xã hội, kể cả những tác động tích cực và tiêu cực. Vai trò nổi bật nhất của công tác tư tưởng trong xã hội là góp phần quan trọng để hình thành thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận, định hướng cho sự phát triển của các lĩnh vực kinh tế - xã hội, góp phần quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội ở cơ sở, xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện. Chính vì vậy, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: Công tác tư tưởng có vị trí quan trọng hàng đầu.

Từ vị trí, vai trò và đặc điểm của cơ sở như đã nêu ở trên, công tác tư tưởng ở cơ sở là một trong ba lĩnh vực chủ yếu trong công tác xây dựng Đảng, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp ổn định, phát triển kinh tế - xã hội. Có thể nói công tác tư tưởng có mặt trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong lĩnh vực nhạy cảm và thời điểm bước ngoặt của cách mạng, công tác tư tưởng có

vai trò và tác dụng rất to lớn trong việc định hướng đối với tư tưởng xã hội. Có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với những người dân, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, phát huy tính chủ động, sáng tạo của quần chúng nhằm biến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thành hiện thực, thành phong trào hành động cách mạng của quần chúng. Thời kỳ mới của cách mạng, công tác tư tưởng ở cơ sở có vai trò quan trọng trong việc xây dựng cơ sở vững mạnh, tạo nên sự nhất trí, tin tưởng, đồng thuận cao trong toàn Đảng và nhân dân, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế-xã hội ở cơ sở.

Nhận thức được vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác tư tưởng ở cơ sở, trong những năm qua, đa phần Ban Tuyên giáo xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đã làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo, đồng thời trực tiếp phối hợp với các ban, ngành, mặt trận, đoàn thể, chi bộ đảng trực thuộc để làm công tác tư tưởng, nhất là phổ biến, tuyên truyền, quán triệt kịp thời, sâu rộng chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong cán bộ, đảng viên, nhân dân; bám sát cơ sở để vừa tìm hiểu, nắm bắt, dự báo tình hình tư tưởng chính trị, tâm trạng xã hội, vừa thông tin tình hình, định hướng tư tưởng chính trị, động viên, cổ vũ phong trào hành động cách mạng… góp phần quan trọng vào việc duy trì, củng cố sự thống nhất tư tưởng và hành động trong đảng, sự đồng thuận trong xã hội; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết, phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân dân ở cơ sở trong sự nghiệp ổn định, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, góp phần quan trọng vào thành tựu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Nam trong những năm qua. Đáng chú ý, những địa bàn dân cư phải tái định cư, bồi thường, giải phóng mặt bằng để thực hiện các dự án phát triển kinh tế, xã hội dễ nẩy sinh những phức tạp về tư tưởng, gây ra những bức xúc trong nhân dân, ban tuyên giáo cơ sở đã chủ động kịp thời nắm bắt, dự báo tình hình

Phát huy vai trò của hệ thống tuyên giáo cơ sở trong công tác tư tưởng

TrầN KHắc THắNg " Phó Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy

ÑÒNH HÖÔÙNG COÂNG TAÙC TUYEÂN GIAÙO

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/201410

diễn biến tư tưởng, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền giải pháp giải quyết, đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, giải thích nên đã giữ vững ổn định tư tưởng, góp phần đảm bảo an ninh trật tự ở địa phương; nhiều ban tuyên giáo cơ sở đã tích cực làm công tác tư tưởng, tạo sự đồng thuận trong nhân dân thực hiện và đem lại kết quả bước đầu trong việc xây dựng nông thôn mới…

Có thể khẳng định rằng, những năm gần đây cùng với những thắng lợi chung của sự nghiệp đổi mới đem lại, công tác tư tưởng đã góp phần mang lại tinh thần phấn khởi ở cơ sở, nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý, điều hành của Nhà chính quyền các cấp; vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước trong đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Tuy nhiên, tình hình thế giới trong những năm gần đây và hiện nay diễn biến phức tạp, nhất là vấn đề xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ…, trong nước, trong tỉnh và mỗi địa phương tình hình phát triển kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, tiềm ẩn những rủi ro khó lường; các thế lực thù địch vẫn không ngừng chống phá Đảng, Nhà nước, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo để tuyên truyền xuyên tạc hòng tác động tiêu cực làm dao động tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, kích động nhân dân biểu tình, bạo loạn, lật đổ chính quyền cách mạng. Bên cạnh đó, mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường đã và đang hàng ngày, hàng giờ tác động tiêu cực đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên, nhân dân ở cơ sở. Đây là nguyên nhân tạo ra những tiềm ẩn phức tạp về diễn biến tư tưởng không thể xem thường. Trước tình hình đó, yêu cầu phải tăng cường công tác tư tưởng ở cơ sở, là một yêu cầu quan trọng nhằm củng cố sự đoàn kết, thống nhất, đồng thuận trong xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển kinh tế -xã hội, đòi hỏi hệ thống tuyên giáo cơ sở tỉnh nhà phát huy tốt hơn nữa, hiệu quả hơn nữa trong công tác tư tưởng.

Để thực hiện được yêu cầu nêu trên, Ban Tuyên giáo cơ sở phải nắm chắc, hiểu sâu vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình và nhận thức sâu sắc yêu cầu của công tác tư tưởng trong tình hình mới. Kịp thời tham mưu, giúp cấp ủy tổ chức học tập, quán triệt, phổ biến đầy đủ, có chất lượng các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nhằm đưa quan điểm, đường

lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong phát triển kinh tế - xã hội; chủ động bám sát cơ sở nắm bắt, dự báo tình hình tư tưởng, tâm trạng xã hội của đảng viên, nhân dân, qua đó tham mưu cho cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo, giải quyết không để xảy ra điểm nóng, chú trọng những địa bàn phức tạp như nơi có dự án; có đông người dân theo đạo; nơi đời sống nhân dân có nhiều khó khăn… Cùng với việc nắm bắt, dự báo tình hình tư tưởng, Ban Tuyên giáo cần tham mưu cấp ủy kế hoạch tăng cường thông tin thời sự, định hướng tư tưởng chính trị kịp thời, nhất là thông tin về thành tựu của đổi mới đất nước, trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, đối ngoại… nhằm mang lại lạc quan cách mạng cho nhân dân, cổ vũ nhân dân hành động cách mạng; đấu tranh, phản bác những luận điệu xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước, bôi nhọ Đảng, Nhà nước ta, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Cần tiếp tục đổi mới công tác tư tưởng ở cơ sở để đạt được hiệu quả cao nhất, trước hết là đổi mới phương thức tiến hành công tác tư tưởng. Thay đổi phương thức học tập, quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng, thông tin thời sự, định hướng tư tưởng cho phù hợp với đối tượng, tăng cường sử dụng công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng báo cáo viên. Nội dung thông tin tuyên truyền cần ngắn gọn, dễ hiểu và nhất thiết phải liên hệ thực tiễn. Xây dựng, kiện toàn đội ngũ tuyên truyền viên cấp ủy để phát huy lợi thế tuyên truyền miệng, phục vụ đắc lực cho công tác tư tưởng. Bám sát thực tiễn cuộc sống ở cơ sở, kịp thời giải đáp những đòi hỏi của thực tiễn làm cho công tác tư tưởng có sức sống và hiệu quả cao. Phát huy nhân tố tích cực trong nhân dân, dựa vào nhân dân để tuyên truyền giáo dục, vận động nhân dân.

Để Ban Tuyên giáo cơ sở phát huy tốt vai trò của mình trong công tác tư tưởng ở cơ sở thì Ban Tuyên giáo cấp trên trực tiếp phải tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn, kịp thời cung cấp thông tin và tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ tuyên giáo cơ sở. Cấp uỷ cần quán triệt nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên đối với công tác tư tưởng ở cơ sở, phải coi công tác tư tưởng quan trọng hàng đầu và là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, của toàn đảng bộ mà lực lượng nòng cốt, chuyên trách là Ban Tuyên giáo cơ sở; tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, phương tiện, con người… để công tác tư tưởng tiến hành được thuận lợi, hiệu quả, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp cách mạng.,.

NGHIEÂN CÖÙU - TRAO ÑOÅI

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/2014 11

Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã thảo luận báo cáo của Bộ Chính trị về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị

quyết hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) về “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” với tinh thần dân chủ, trách nhiệm cao và đã thống nhất ban hành Nghị quyết về “xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Hội nghị khẳng định cần tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc 5 quan điểm xây dựng nền văn hóa Việt Nam mà NQTW5 (Khóa VIII) đã nêu trước đây, những quan điểm đó vẫn còn nguyên giá trị, đồng thời, tiếp tục bổ sung và phát triển quan điểm mới ở những góc độ mới nhằm phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Nghị quyết chỉ ra: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước; nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng tiêu biểu là dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học; trong xây dựng văn hóa, lấy chăm lo thường xuyên việc xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp làm cốt lõi, trọng tâm, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, cần cù, sáng tạo, đoàn kết, nghĩa tình, thủy chung, trung thực, trí tuệ, nhân văn, tự chủ…; xây dựng môi trường văn hóa một cách đồng bộ, trong đó có vai trò rất quan trọng của gia đình và cộng đồng, văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế; xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng; là sự nghiệp lâu dài cần được tiến hành tích cực, sáng tạo, kiên trì.

Nghị quyết đã xác định rõ: “mục tiêu xây dựng nền

văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học, nhằm đưa dân tộc Việt Nam phát triển và hạnh phúc. Phấn đấu đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030, đạt được những tiến bộ mới trong xây dựng, chấn hưng và phát triển văn hóa, ngăn chặn và từng bước đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội”.

Nhằm thực hiện tốt những tư tưởng chỉ đạo và mục tiêu đề ra, Nghị quyết nêu một số nhiệm vụ chủ yếu cần tập trung thực hiện. Đó là:

- Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là nhân cách, lối sống, trong đó, chú trọng việc bồi dưỡng tư tưởng, đạo đức, lối sống, xây dựng nhân cách con người làm trọng tâm cốt lõi của phát triển văn hóa; chăm lo xây dựng con người một cách thiết thực. Hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học vào việc xây dựng con người, giúp con người tự hoàn thiện nhân cách, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Gắn xây dựng đạo đức với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Mọi người Việt Nam hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc; hình thành lối sống có ý thức tự trọng, tự cường, sống và làm việc theo pháp luật, bảo vệ môi trường. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn. Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, gây ảnh hưởng xấu đến xây dựng con người.

- Tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, chú trọng việc xây dựng nhân cách, lối sống con người: Xây dựng gia đình hạnh phúc, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong xây dựng nếp sống văn hóa tiến bộ, văn minh. Nâng cao

Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước

TrầN BìNH PHươNg "

NGHIEÂN CÖÙU - TRAO ÑOÅI

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/201412

chất lượng các cuộc vận động văn hóa; gắn hoạt động văn hóa với chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, cộng đồng bền vững. Gắn kết chặt chẽ xây dựng văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, từng bước thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, các nhóm xã hội. Phát huy các nhân tố tích cực trong sinh hoạt văn hóa tôn giáo, gắn bó với dân tộc, hướng thiện, nhân đạo, nhân văn, tiến bộ, “tốt đời đẹp đạo”, yêu chuộng hòa bình. Mở rộng xã hội hóa hoạt động văn hóa, thu hút các nguồn lực xã hội tham gia các dịch vụ văn hóa.

- Chăm lo xây dựng văn hóa trong chính trị, văn hóa trong kinh tế và văn hóa gia đình: Thường xuyên chăm lo xây dựng nền chính trị xã hội chủ nghĩa; hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có đạo đức trong sáng, tận tụy, trách nhiệm, là công bộc của dân. Chăm lo xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, về văn hóa, đạo đức. Nhận thức đúng đắn về giá trị văn hóa trong kinh tế và chức năng kinh tế của văn hóa. Khai thác, phát huy tiềm năng kinh tế của văn hóa và tiềm năng văn hóa của kinh tế. Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế, lấy con người làm trung tâm trong các chương trình kinh tế - xã hội. Đổi mới cách thức đầu tư cho văn hóa. Tạo môi trường pháp lý và văn hóa để các doanh nghiệp tham gia xây dựng, phát triển văn hóa. Thực hiện Chiến lược quốc gia về gia đình Việt Nam; xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, nghĩa tình, văn minh.

Thực hiện tốt Nghị quyết số 29-NQ/TW Trung ương 8 (khóa XI) về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, Nghị quyết số 20- NQ/TW Trung ương 6 khóa XI về phát triển khoa học và công nghệ. Nhấn mạnh việc chuyển giáo dục chủ yếu từ truyền thụ kiến thức sang tập trung phát triển nhân cách, năng lực ngay từ giáo dục mầm non và xây dựng hệ thống giáo dục mở gắn với xây dựng xã hội học tập vì mục tiêu phát triển toàn diện con người. Đổi mới cơ chế quản lý hoạt động khoa học, hướng đến một nền khoa học phát triển và hiệu quả, đội ngũ trí thức trưởng thành về nhân cách, trí tuệ, khả năng cống hiến.

- Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc, các di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến, môi trường sinh thái, di sản văn hóa các dân tộc thiểu số, đi đôi với việc bài trừ các hủ tục lạc hậu. Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt; quan tâm bảo vệ, sử dụng tiếng

nói, chữ viết của các dân tộc thiểu số; chống việc lạm dụng tiếng nước ngoài. Huy động sức mạnh toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa; gắn bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, phát triển du lịch bền vững, mở rộng hoạt động đối ngoại. Tăng cường giáo dục pháp luật về di sản văn hóa, xử lý nghiêm hành vi xâm phạm di sản.

Phấn đấu sáng tạo nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân tộc, dân chủ, tiến bộ. Đẩy mạnh sáng tác, quảng bá tác phẩm, công trình về đề tài cách mạng, kháng chiến, lịch sử dân tộc, công cuộc đổi mới. Cổ vũ, khẳng định cái tốt đẹp, lên án cái xấu, cái ác. Tạo điều kiện để văn nghệ sĩ phát huy năng lực sáng tạo, sáng tác, quảng bá văn học, nghệ thuật bằng tài năng, trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân. Trọng dụng, tôn vinh trí thức, văn nghệ sĩ trên cơ sở cống hiến cho đất nước; chú trọng phát triển năng khiếu và tài năng trẻ. Nâng cao tính chuyên nghiệp trong hoạt động văn học, nghệ thuật.

Các cơ quan báo chí phải thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ. Nâng cao tính tư tưởng, tính chân thật, tính khoa học, tính nhân văn và thẩm mỹ của thông tin truyền thông. Công tác thông tin, truyền thông phải quan tâm hàng đầu việc xây dựng nhân cách, đạo đức, lối sống cho công chúng. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong hoạt động và quản lý hệ thống thông tin đại chúng, truyền thông đa phương tiện, thực hiện phương châm xã hội hóa truyền thông giải trí theo quy định của pháp luật để phát huy nguồn lực của xã hội. Chú trọng công tác điều hành và quản lý thông tin mạng; phát huy mặt tích cực, hạn chế, khắc phục những mặt trái của Internet và các phương tiện truyền thông mới.

Đầu tư phát triển ngành công nghiệp văn hóa thực sự là ngành công nghiệp sáng tạo. Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng các sản phẩm văn hóa đáp ứng yêu cầu trong nước và xuất khẩu; phát huy hiệu quả các loại hình nghệ thuật truyền thống và hiện đại. Tạo môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp văn hóa, văn nghệ, thể thao, du lịch thu hút các nguồn lực xã hội để phát triển.

- Giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa: Thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại. Mở rộng giao lưu, hợp tác văn hóa với các nước. Xây dựng một số trung tâm dịch thuật, giới thiệu văn hóa

NGHIEÂN CÖÙU - TRAO ÑOÅI

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/2014 13

Việt Nam ra nước ngoài; chọn lọc, giới thiệu các tác phẩm, công trình văn hóa, văn nghệ tiêu biểu của nhân loại cho công chúng trong nước. Ngăn chặn, loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của toàn cầu hóa đối với văn hóa trong nước.

Ở Quảng Nam, nhiều năm qua, Đảng bộ và nhân dân đã hưởng ứng tích cực vào việc thực hiện các chủ trương của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đặc biệt, vừa qua, dưới sự chỉ đạo của Ban Thường vụ tỉnh ủy, Ban chỉ đạo tổng kết lý luận và thực tiễn 30 năm đổi mới về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam ở Quảng Nam đã tổ chức hội nghị tổng kết và đã nêu lên những định hướng tiếp tục phát triển văn hóa và xây dựng con người với những nội dung cơ bản sau:

Tiếp tục triển khai thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt, kết hợp thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII với thực hiện tốt các chương trình, dự án đào tạo cán bộ chất lượng cao, thực hiện quy hoạch phát triển nguồn nhân lực của tỉnh giai đoạn 2011 - 2020. Gắn xây dựng và phát triển văn hóa với xây dựng nông thôn mới, xây dựng đô thị văn minh trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Quảng Nam; gắn với việc thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (Khoá XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng đảng hiện nay”.

Các tổ chức trong hệ thống chính trị từng cấp, bằng nhiều hình thức tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lòng tự hào dân tộc, phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng của quê hương “Trung dũng, kiên cường” trong đấu tranh chống ngoại xâm trước đây với thi đua yêu nước thực hiện các nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Cần thấm nhuần quan điểm “Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân” do đó, cần có biện pháp thu hút mọi nguồn lực, phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo của nhân dân để xây dựng và phát triển văn hóa.; tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đổi mới phương thức vận động để nâng cao hiệu quả thực hiện các phong trào, trong đó, quan tâm đúng mức phong trào : “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư.”, hướng vào mục tiêu xây dựng Quảng Nam thành tỉnh công nghiệp và vì mục tiêu chung “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của con người Xứ Quảng. Trong đó, quan tâm bảo tồn, nghiên cứu phát huy các giá trị bản địa vùng, miền và dần loại bỏ các tập tục lạc hậu, tiếp thu các giá trị văn hóa văn minh, hiện đại nhưng rất Quảng Nam, Việt Nam.

Chú trọng phát huy trách nhiệm, vai trò của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trong việc nghiên cứu, sáng tác, quảng bá hình ảnh Quảng Nam trong nền văn học, nghệ thuật Việt Nam và bạn bè quốc tế. Đồng thời đẩy mạnh nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào đời sống, góp phần phát triển chất lượng cuộc sống.

Quan tâm tích cực đến giáo dục, đào tạo; chăm sóc sức khỏe nhân dân; bảo vệ môi trường sinh thái; công tác dân số... nhằm tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển nguồn nhân lực Quảng Nam về lượng và về chất.

Phát triển đi đôi với quản lý tốt tổ chức và hoạt động của hệ thống thông tin đại chúng trên địa bàn tỉnh trọng tâm là tập trung đầu tư cơ sở vật chất theo hướng hiện đại, đào tạo bồi dưỡng cán bộ, nâng cao chất lượng thông tin. Lồng ghép các chương trình đầu tư để trang bị, cung cấp trang thiết bị nghe nhìn cho đồng bào vùng sâu, vùng xa, biên giới.

Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hóa, qua đó giới thiệu văn hoá Quảng Nam với bạn bè quốc tế, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại để phát triển văn hoá xứ Quảng góp phần làm phong phú văn hoá dân tộc. Thông qua hợp tác quốc tế về văn hóa góp phần trong công tác quảng bá thu hút đầu tư phát triển Quảng Nam.

Văn hóa Việt Nam là sản phẩm của cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước, là kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất, lâu bền nhất của dân tộc; và chính nó đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, góp phần làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc. Và chính ở sức mạnh nội sinh của nền văn hóa ấy, để rồi Chủ tịch Hồ Chí Minh nói lên rằng: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống qúi báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn – nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”.

NGHIEÂN CÖÙU - TRAO ÑOÅI

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/201414

“Hành động vì một xã hội không bạo lực, không xâm hại trẻ em” là chủ đề của Tháng hành động vì trẻ em năm 2014, đây cũng là lần thứ 25 phát động Tháng hành động vì trẻ em tại Việt Nam ( từ ngày 1/6 đến ngày 30/6/2014 ) nhằm nâng cao sự chuyển biến về nhận thức, hành động và trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền, các ngành, gia đình và toàn xã hội về ý nghĩa, tầm quan trọng và các mục tiêu cần đạt được của công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em cũng như phòng ngừa, hạn chế tối đa tình trạng trẻ em bị bạo lực, xâm hại; thu hút sự tham gia của trẻ em vào các chính sách, chương trình có liên quan; vận động xã hội nhằm cải thiện điều kiện sống, tạo cơ hội để trẻ em được sống trong môi trường an toàn, lành mạnh và phát triển toàn diện đặc biệt là trẻ em nghèo, trẻ em miền núi, trẻ em dân tộc thiểu số và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.

Công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua mặc dù còn nhiều khó khăn, song được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp và cả hệ thống chính trị đã tổ chức thực hiện tốt các mục tiêu, chương trình vì trẻ em và đạt được những kết quả đáng khích lệ; một số mục tiêu đạt kết quả khá như: tăng tỷ lệ chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, giảm tỷ lệ trẻ em có nguy cơ lang thang, giảm tỷ lệ trẻ em lao động trong điều kiện nặng nhọc, độc hại và nguy hiểm; trẻ em vi phạm pháp luật, trẻ em bị bạo lực giảm dần; các hoạt động Vì trẻ em đã được đầu tư hiệu quả, tập trung; huy động các nguồn lực cho công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em; công tác kiểm tra giám sát được nâng lên; hoạt động truyền thông, tư vấn được đẩy mạnh góp phần hoàn thành kế hoạch đề ra. Với những kết quả trên, dự kiến đến năm 2015 các chỉ tiêu, mục tiêu về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em sẽ đạt được: tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi (thể nhẹ cân) giảm xuống dưới 15%, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi (thể thấp còi) dưới 28,00 %; tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt còn

dưới 6%; 82% trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được chăm sóc, trợ giúp kịp thời; có 65% xã, phường đạt tiêu chuẩn xã, phường phù hợp với trẻ em theo tiêu chí mới. Quỹ bảo trợ trẻ em tỉnh và các huyện, thành phố đã vận động hằng năm bình quân hàng chục tỷ đồng để tổ chức các hoạt động trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh khó khăn như: khám bệnh, cấp thuốc miễn phí cho hàng chục ngàn trẻ em; phục hồi chức năng cho trẻ em khuyết tật; hỗ trợ phẫu thuật tim bẩm sinh, chữa bệnh nan y; cấp học bổng; hỗ trợ xây dựng hàng chục điểm vui chơi giải trí, chương trình nước sạch, nhà vệ sinh cho trẻ em…

Có thể khẳng định, thông qua các chính sách, chương trình cho trẻ em, đại bộ phận trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em nghèo, trẻ em bị thiệt thòi trên địa bàn tỉnh đều được hưởng các chính sách an sinh xã hội của Nhà nước và xã hội mang lại.

Tuy nhiên, hiện nay tình hình trẻ em và công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh vẫn còn nhiều khó khăn; tình trạng trẻ em lang thang, vi phạm pháp luật, bị lạm dụng, xâm hại, bạo lực... lại có chiều hướng gia tăng. Nhiều em phải làm việc xa gia đình có nguy cơ cao bị ngược đãi, bạo lực, xâm

Hãy hành động vì một xã hội Không bạo lực, không xâm hại trẻ em !

NguyễN THùy " Phó Giám đốc Sở LĐ-TB&XH Quảng Nam

Lớp học của trẻ em miền núi Quảng Nam. - Ảnh: Sở GD - ĐT

NGHIEÂN CÖÙU - TRAO ÑOÅI

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/2014 15

hại tình dục và lạm dụng sức lao động, theo số liệu của Công an tỉnh Quảng Nam, từ năm 2011-2013, tổng số vụ xâm hại trẻ em trên địa bàn tỉnh có 42 vụ, 45 đối tượng trong đó: Giết trẻ em 01 vụ 01 đối tượng, hiếp dâm trẻ em 12 vụ 14 đối tượng, giao cấu với trẻ em 13 vụ 14 đối tượng, dâm ô trẻ em 11 vụ 11 đối tượng, cố ý gây thương tích đối với trẻ em 03 vụ 03 đối tượng các hành vi khác 02 vụ 02 đối tượng. Ngoài ra, trẻ em ở miền núi, vùng sâu, vùng xa do điều kiện tự nhiên và kinh tế, xã hội chậm phát triển nên khó có cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội. Công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em một số địa phương chưa được đầu tư đúng mức, chưa đề ra các giải pháp có hiệu quả để tháo gỡ khó khăn ở cơ sở.

Tháng Hành động Vì trẻ em năm nay với chủ đề “Hành động vì một xã hội không bạo lực, không xâm hại trẻ em”, là mong muốn hướng tới toàn xã hội chung tay bảo vệ trẻ em khỏi bạo lực, xâm hại, bóc lột để trẻ em được sống trong môi trường an toàn, lành mạnh, thân thiện và phát triển toàn diện, được thể hiện trên các nội dung chủ yếu sau:

Thứ nhất, tất cả trẻ em trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là trẻ em nghèo, trẻ em dân tộc thiểu số đều được bảo vệ một cách an toàn, không bị tai nạn thương tích, không bị bạo lực, bị xâm hại, không bị bóc lột, bị lạm dụng, không bị xao nhãng. Tất cả trẻ em đều được chăm sóc sức khoẻ, được khám chữa bệnh khi ốm đau; đều được bảo đảm về dinh dưỡng, hạn chế tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi, nhẹ cân.

Thứ hai, đảm bảo cho tất cả trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh thuộc hộ nghèo, cận nghèo, thuộc diện trợ cấp bảo trợ xã hội hàng tháng theo quy định của pháp luật và trẻ em có hoàn cảnh khó khăn

được hưởng chính sách hỗ trợ phẫu thuật tim theo quy định tại Quyết định số 55a/2013/QĐ-TTg ngày 04/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ và các chương trình chăm sóc trẻ em xã hội hóa.

Thứ ba, tất cả trẻ em đều được đến trường, được tiếp cận giáo dục có chất lượng, thực hiện phương châm trường học thân thiện, mỗi ngày đến trường của trẻ em là một ngày vui, hạn chế tối đa trẻ em bỏ học.

Thứ tư, tất cả trẻ em đều được sống trong môi trường lành mạnh; được tham gia các hoạt động xã hội, được vui chơi giải trí bổ ích; được tiếp thu các nguồn thông tin, tri thức, văn hoá một cách thuận lợi, trong sáng, phù hợp với độ tuổi; được bày tỏ nguyện vọng chính đáng của mình.

Thứ năm, tất cả trẻ em đều được tiếp cận với các chính sách, phúc lợi xã hội liên quan đến trẻ em một cách thuận lợi; các địa phương không ngừng mở rộng đầu tư chăm lo cho trẻ em, nhất là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, Nhà nước, các đoàn thể các cấp tiếp tục tăng cường trách nhiệm và hỗ trợ gia đình cũng như cộng đồng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

Trên cơ sở đó, trong năm 2014 hệ thống chính trị các cấp cần tập trung thực hiện một số nội dung cụ thể sau:

1. Thực hiện tốt công tác tham mưu cho Đảng, Nhà nước tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tham gia nhiều hoạt động của trẻ em ở các cấp, đồng thời phối hợp chặt chẽ với Uỷ ban Mặt trận tổ quốc, các ban ngành, đoàn thể vận động các tầng lớp nhân dân, huy động nhiều nguồn lực hưởng ứng Tháng hành động Vì trẻ em, tham gia tích cực vào sự nghiệp Bảo vệ, chăm sóc trẻ em.

2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức cho mọi người dân về trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thông qua các lực lượng truyền thông, các phương tiện thông tin đại chúng nhằm tạo dư luận xã hội tích cực góp phần xóa bỏ tình trạng trẻ em bị bạo lực, bị xâm hại, hạn chế trẻ em bị tai nạn thương tích, bị bóc lột sức lao động, sa vào tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật và huy động toàn xã hội hưởng ứng sôi nổi, có hiệu quả Tháng hành động Vì trẻ em năm 2014.

3. Tập trung triển khai tổ chức thực hiện có hiệu quả Kế hoạch số 69-KH/TU ngày 06/02/2013 của Tỉnh ủy Quảng Nam thực hiện Chỉ thị 20-CT/TW về

Lễ phát động Tháng hành động Vì trẻ em và ngày hội "sắc màu tuổi thơ" năm 2014. - Ảnh: Thúy Hằng

(Xem tiếp trang 21)

NGHIEÂN CÖÙU - TRAO ÑOÅI

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/201416

Thời gian qua, Tỉnh ủy Quảng Nam đã lãnh đạo, chỉ đạo và ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, chương trình, kế hoạch về phát triển giáo dục

và đào tạo, trong đó, có Chỉ thị số 02/CT-TU ngày 26-12-1997 về việc “Tăng cường công tác xây dựng đảng trong trường học”; Chương trình hành động số 10-CTr/TU về “Giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ giai đoạn 2002-2007”; Nghị quyết số 12-NQ/TU ngày 28-12-2012 của Tỉnh ủy về “Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo tỉnh Quảng Nam đến năm 2020”.

Qua hơn 10 năm 2004-2013, nhìn chung, các tổ chức đảng của các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh phát huy được vai trò hạt nhân chính trị tại cơ sở trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Hầu hết các tổ chức đảng của 2 trường đại học và 7 trường cao đẳng đều được củng cố, kiện toàn và phát triển. Đến nay, có 1 trường đại học, 5 trường cao đẳng có đảng bộ cơ sở, 2 trường cao đẳng có chi bộ cơ sở và có chi ủy. Các trường đại học, cao đẳng công lập1 có đảng bộ trực thuộc Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh. Các trường ngoài công lập có chi bộ cơ sở trực thuộc cấp ủy đảng thành phố nơi trường có trụ sở 2. Trong đó, 08 trường có lãnh đạo làm bí thư đảng bộ, chi bộ cơ

1 Đại học Quảng Nam, Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Quảng Nam, Cao đẳng Y tế Quảng Nam, Cao đẳng nghề Quảng Nam.2 Cụ thể, Đảng bộ trường Cao đẳng Điện lực miền Trung và Đảng bộ trường Cao đẳng Công nghệ - Kinh tế và Thủy lợi miền Trung, Chi bộ Trường Đại học Phan Chu Trinh trực thuộc Đảng bộ Thành phố Hội An; Chi bộ Trường Cao đẳng Công kỹ nghệ Đông Á, Chi bộ trường Cao đẳng Phương Đông thuộc Đảng bộ thành phố Tam Kỳ. Riêng trường Đại học Phan Chu Trinh có chi bộ cơ sở 8 đảng viên nhưng do vi phạm quy định về tổ chức và hoạt động nên đã giải thể theo Quyết định số 2843-QĐ/TU ngày 15-4-2014 của Ban Thường vụ Thành ủy Hội An

sở. Tổng số chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở là 54, số chi bộ độc lập là 44 (81,5%), số chi bộ ghép 10 (18,5%), số chi bộ có chỉ ủy 17 (31,5% ).

Tỷ lệ cán bộ, giảng viên có trình độ tiến sỹ, thạc sỹ so với đội ngũ viên chức của các trường là 40,1%. Số lượng và tỉ lệ đảng viên trong đội ngũ cán bộ, viên chức tăng lên theo các năm và đạt mức chung của các trường gần 41%3. Một số đơn vị hằng năm, đặt ra chỉ tiêu và vận dụng nhiều cơ chế phù hợp để động viên, khuyến khích cán bộ, giảng viên tích cực đi học nghiên cứu sinh, cao học, cao cấp lý luận chính trị, ngoại ngữ... và có nhiều cán bộ, giảng viên đạt danh hiệu chiến sỹ thi đua, bằng khen, giấy khen các cấp.

Hầu hết các tổ chức đoàn thể, hội quần chúng ở các trường đã được thành lập, kiện toàn, phát huy hiệu quả hoạt động. Trường Đại học Quảng Nam, Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Quảng Nam, Cao đẳng Y tế Quảng Nam có tổ chức Hội Hữu nghị Việt - Lào với nhiều hoạt động mang ý nghĩa thiết thực, các đơn vị đã và đang liên kết đào tạo hàng trăm sinh viên Lào. Nhiều trường, trong từng học kỳ hoặc năm học tổ chức đối thoại với sinh viên từ 1-2 lần; thường xuyên chỉ đạo thực hiện và kịp thời nắm bắt, báo cáo và xử lý công tác tư tưởng của cán bộ, đảng viên, viên chức và sinh viên. Chi ủy Trường Cao đẳng Công kỹ nghệ Đông Á xây dựng nhiều văn bản chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác chính trị, tư tưởng. Các đơn vị đều có nội dung triển khai thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị (Khóa XI) về “tiếp tục

3 Đảng bộ trường Cao đẳng nghề có tỉ lệ cao nhất gần 55%, Đảng bộ trường Cao đẳng Công Kỹ nghệ - Kinh tế - Thuỷ lợi miền Trung trên 52%, Đảng bộ trường Đại học Quảng Nam gần 50%, thấp nhất là Chi bộ Trường Cao đẳng Phương Đông mới đạt khoảng 10%, Đại học Phan Chu Trinh trên 15%, Đảng bộ Cao đẳng Y tế trên 27%.

NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM VỀ CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG

TRÊN ĐỊA BÀN QUẢNG NAM

TrầN VăN DũNg " Trưởng phòng Khoa giáo, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy

NGHIEÂN CÖÙU - TRAO ÑOÅI

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/2014 17

đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng đảng hiện nay”, chống suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên; lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực chính trị tư tưởng, phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực góp phần xây dựng đơn vị trong sạch vững mạnh.

Hiện nay, có 78 - 89% đảng bộ, chi bộ cơ sở đạt trong sạch vững mạnh, trên 95% chi bộ trực thuộc đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh và trong sạch vững mạnh tiêu biểu, trên 90% đảng viên hoàn thành tốt và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đảng bộ Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Quảng Nam đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh tiêu biểu 5 năm liền (2008 - 2012). Chi ủy Trường Cao đẳng Công kỹ nghệ Đông Á giữ vững nền nếp sinh hoạt chi ủy, chi bộ; phối hợp tổ chức tốt các lớp bồi dưỡng và kết nạp đảng viên; thực hiện tốt chế độ tự phê bình và phê bình, đấu tranh xây dựng tổ chức vững mạnh. Nhiều trường có tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên được công nhận vững mạnh và vững mạnh xuất sắc nhiều năm liền, tiêu biểu. Ngoài ra, các đảng bộ, chi bộ cơ sở còn giữ mối quan hệ giữa cấp ủy với ban lãnh đạo; mối quan hệ với đảng ủy địa phương.

Có được kết quả trên là do hầu hết các cấp ủy đảng, chính quyền đã nhận thức đúng và tập trung chăm lo lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác xây dựng đảng trong trường học nhất là công tác chính trị, tư tưởng; ban lãnh đạo các trường đã kịp thời triển khai thực hiện có chất lượng các nghị quyết, chương trình, kế hoạch của cấp ủy đảng về các nội dung đã nêu.

Tuy nhiên, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các đảng bộ, chi bộ trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh vẫn còn những vấn đề cần được quan tâm, như:

Việc theo dõi nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của giảng viên, sinh viên có lúc chưa kịp thời; công tác bồi dưỡng chính trị cho đội ngũ giáo viên, tổ chức học tập chính trị đối với sinh viên thực hiện chưa đồng đều, hiệu quả chưa cao. Công tác phối hợp theo dõi, quản lý sinh viên ngoại trú chưa được chặt chẽ, có sinh viên, học sinh vi phạm pháp luật. Việc theo dõi nắm bắt cán bộ, viên chức ngoài đảng về sinh hoạt tại địa phương, các cấp chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể. Các cuộc vận động xây dựng nhà

giáo, nhà trường chất lượng, hiệu quả chưa cao. Có trường chưa thành lập được hội sinh viên, một số tổ chức hội đoàn thể hoạt động chưa mạnh.

Số lượng cán bộ, giảng viên có trình độ cao về chuyên môn vẫn còn ít; trình độ lý luận chính trị của cán bộ còn rất thấp so với chỉ tiêu của Nghị quyết 04-NQ/TU của Tỉnh ủy. Còn nhiều cán bộ quản lý cấp khoa, phòng, trung tâm chưa được được kết nạp đảng. Trình độ ngoại ngữ của nhiều cán bộ, giảng viên còn hạn chế.

Có đơn vị thực hiện chưa đúng quy định trong công tác quản lý đảng viên, một số đảng viên là sinh viên ra trường nhiều năm nhưng vẫn để sinh hoạt tại chi bộ nhà trường với lý do chưa có việc làm ổn định hoặc đơn vị công tác mới không có tổ chức đảng; công tác kết nạp đảng còn hạn chế, tỉ lệ đảng viên so với đội ngũ cán bộ, viên chức còn thấp; còn nhiều chi bộ ghép, chi bộ chưa có chi ủy; trong sinh hoạt chi bộ còn nặng về chuyên môn, chưa thực hiện tốt chức năng công tác xây dựng đảng; có nơi, có lúc chưa phát huy mạnh mẽ vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên...

Nguyên nhân cơ bản của những khuyết điểm, hạn chế nêu trên, đó là: Một số cấp ủy đảng, ban lãnh đạo trường chưa có sự đầu tư đúng mức trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng kế hoạch, kiểm tra, đôn đốc triển khai thực hiện. Ngoài ra, một số trường nhất là trường ngoài công lập đang gặp khó khăn trong công tác tuyển sinh, nhiều giảng viên chuyển công tác đi nơi khác. Cá biệt có trường hợp bí thư chi bộ không phải cán bộ quản lý trường học, hiệu trưởng không đảng viên, thiếu sự hợp tác nên chi bộ nhà trường không hoạt động dẫn đến bị giải thể và chuyển đảng viên về sinh hoạt tại địa phương cư trú (Đại học Phan Chu Trinh)...

Các cấp ủy đảng, ban lãnh đạo địa phương đều nhận thức rõ vai trò, ví trí của các trường đại học, cao đẳng thuộc phạm vi quản lý, tuy nhiên đối với các trường cao đẳng thuộc các bộ, ngành Trung ương quản lý trên thực tế đôi lúc, đôi nơi, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra của các cấp ủy, ban lãnh đạo địa phương chưa được thường xuyên, cụ thể, sâu sát; nhiệm vụ chính trị, chỉ tiêu đào tạo, kinh phí sự nghiệp hàng năm và công tác cán bộ chủ yếu do các bộ ngành quản lý, chỉ đạo, phê duyệt hoặc trình cấp thẩm quyền phê duyệt nên cấp ủy địa phương ít liên quan, thiếu thông tin, khó đánh giá về kết quả thực

NGHIEÂN CÖÙU - TRAO ÑOÅI

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/201418

hiện; đối với các trường ngoài công lập thì những nội dung này càng khó theo dõi, nắm bắt, đánh giá hơn. Chính vì vậy, phần trách nhiệm của cấp ủy địa phương trong công tác đánh giá thực hiện nhiệm vụ chính trị trọng tâm đối với các đảng bộ, chi bộ các trường có lúc chưa được sâu sát, cụ thể, kịp thời không ít đảng bộ, chi bộ cơ sở nhà trường chưa xây dựng và thực hiện tốt quy chế phối hợp với tổ chức đảng, chính quyền địa phương.

Chính vì đặc điểm các trường như trên, nên một số chính sách, cơ chế do cấp ủy, chính quyền địa phương ban hành, nhưng lại chưa mở rộng áp dụng đầy đủ đối với cán bộ ở các trường. Ví dụ như cán bộ ở một số trường ngoài công lập rất khó được cử đi đào tạo cao cấp lý luận chính trị hoặc được hưởng chính sách, cơ chế đào tạo, bồi dưỡng do địa phương ban hành.

Một số trường chưa có hướng dẫn triển khai thực hiện tốt Quy định 97-QĐ/TW (đối với đảng bộ, chi bộ cơ sở trường công lập) và Quy định 163-QĐ/TW của Ban Bí thư (Khóa IX) về việc công nhận cán bộ quản lý đơn vị theo hướng có quan tâm xem xét thêm một số tiêu chí về chính trị để thuận tiện trong việc sớm thành lập được tổ chức đảng trong trường học.

Trong thời gian đến cần đẩy mạnh việc củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của các cấp ủy đảng ở trường cao đẳng, đại học trên địa bàn tỉnh với những nhóm nhiệm vụ và giải pháp sau.

1. Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của cấp ủy đảng, xây dựng chi bộ và đảng bộ trong sạch ở các trường.

Chỉ đạo đảng bộ, chi bộ các trường tiếp tục rà soát, đánh giá, rút kinh nghiệm để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng được quy định tại Điều lệ Đảng, Quy định 97-QĐ/TW và Quy định 163-QĐ/TW của Ban Bí thư (Khóa IX). Bổ sung và tổ chức thực hiện đúng quy chế hoạt động đảng ủy, chi ủy; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình, phân công nhiệm vụ, quản lý, kiểm tra, theo dõi, đánh giá đảng viên, cán bộ, viên chức. Đảm bảo nền nếp, đổi mới nội dung, hình thức, tập trung nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng bộ, chi bộ. Thực hiện tốt mối quan hệ đảng ủy, chi ủy với thủ trưởng, với cấp ủy và chính quyền địa phương, chế độ thông tin, báo cáo. Tập trung lãnh đạo nhiệm vụ chính trị, nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học; lãnh đạo, quản lý tốt đội ngũ viên chức

theo phân cấp; lãnh đạo các đoàn thể thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở; lãnh đạo công tác xây dựng đảng, bảo vệ chính trị nội bộ, chống quan liêu tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực khác.

Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và có biện pháp cụ thể sớm khôi phục tổ chức đảng tại trường Đại học Phan Chu Trinh, củng cố tổ chức đảng tại trường Cao đẳng Phương Đông, trường Cao đẳng Công kỹ nghệ Đông Á.

2. Nâng cao chất lượng công tác chính trị, tư tưởng ở các trường.

Trong thực hiện nhiệm vụ, các tổ chức đảng đặc biệt chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng và đạo đức cách mạng đối với cán bộ, đảng viên, viên chức và sinh viên, học sinh. Xác định rõ trách nhiệm của cấp ủy đảng, hiệu trưởng, hội đồng khoa học, chủ nhiệm khoa, chủ nhiệm lớp, đội ngũ giáo viên, các đoàn thể, khoa Mác - Lê nin, phòng chính trị, ban quản lý ký túc xá nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp trong công tác chính trị tư tưởng.

Tiếp tục thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên chính trị, giảng viên khoa học xã hội nhân văn, đổi mới phương pháp nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục môn khoa học Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lịch sử, văn học Việt Nam. Thường xuyên cung cấp thông tin, thời sự, định hướng chính trị, tư tưởng, chính sách đối với giáo viên, sinh viên làm cho nhà trường luôn bám sát nhiệm vụ chính trị và thực tiễn cuộc sống.

Phát huy vai trò Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Sinh viên trong thực hiện phong trào thi đua dạy tốt, học tốt và trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, hoạt động xã hội. Đồng thời, phòng chống có hiệu quả các biểu hiện vi phạm pháp luật, lệch lạc về chính trị tư tưởng, sa sút về đạo đức lối sống trong cán bộ, đảng viên, viên chức, sinh viên, học sinh.

Đồng thời, thực hiện tốt các nhóm giải pháp sau: (1) Đổi mới nhận thức của cấp ủy địa phương đối với các trường đóng trên địa bàn; (2) Đổi mới quy chế và mối quan hệ giữa cấp ủy địa phương với cấp ủy trường; (3) Tăng cường công tác lãnh đạo và tuyên truyền, vận động các đoàn thể tham gia xây dựng các trường; (4) Thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên; (5) Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên và sinh viên; (6) Thực hiện tốt công tác tổ chức và cán bộ; (7) Tăng cường công tác truyền thông về công tác đảng đối với các trường.

NGHIEÂN CÖÙU - TRAO ÑOÅI

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/2014 19

Môi trường liên quan đến tính ổn định và bền vững của sự phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, vì vậy, Đảng bộ, chính quyền thành phố

đặc biệt chú trọng đầu tư các hoạt động bảo vệ môi trường, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cộng đồng; vấn đề ô nhiễm từ nước thải, rác thải sinh hoạt từng khu dân cư được kiểm soát, đặc biệt là chương trình phân loại rác thải tại nguồn đã mang lại nhiều hiệu quả thiết thực; việc trồng và chăm sóc cây xanh tích cực đẩy mạnh; mạng lưới quan trắc môi trường được chủ động xây dựng. Hội An đã không ngừng nỗ lực trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học Cù Lao Chàm - Khu dự trữ sinh quyển thế giới, cùng với

việc tập trung nguồn nhân lực, phương tiện, trang thiết bị để bảo vệ môi trường. Đây vừa là kết quả nhưng đồng thời cũng là mục tiêu để thành phố tiếp tục phấn đấu trong tiến trình “Xây dựng thành phố Hội An-Thành phố sinh thái” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội 16 của Đảng bộ thành phố.

Là một đô thị thương mại, có các nền văn hóa đa dạng, có nhiều tiềm năng về du lịch, vì vậy, trong quá trình xây dựng các mô hình văn hóa, Hội An luôn đặt vấn đề này gắn với việc cải thiện và nâng cao chất lượng của môi trường sinh thái tự nhiên. Trong đó, lấy việc ứng xử, thái độ của con người với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội để làm chuẩn

Bảo vệ môi trường gắn với chiến lược phát triển Kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn thành phố Hội An

TrầN TruNg SơN " Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Hội An

Trong lộ trình phát triển Hội An theo hướng “Thành phố sinh thái - văn hóa - du lịch”, Đảng bộ, chính quyền thành phố luôn có những nỗ lực lớn trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các giải pháp về quản lý, đầu tư, tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức và trách nhiệm toàn dân, tích cực cùng tham gia các biện pháp bảo vệ môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Qua đó, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn thành phố một cách bền vững. Ngược lại, để đảm bảo cho mục tiêu phát triển bền vững về kinh tế, văn hóa, xã hội thì cần phải đặt trong sự hài hòa cả về môi trường để không ngừng nâng cao chất lượng sống của con người. Phát động phong trào bảo vệ môi trường đô thị Hội An. - Ảnh: ML

NGHIEÂN CÖÙU - TRAO ÑOÅI

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/201420

mực phấn đấu. Đặc biệt, sáng kiến thiết lập “lằn cai đỏ” trên vỉa hè vào năm 1995 quy định trật tự để xe và ranh giới cho người đi bộ khởi phát từ phường Minh An rồi trở thành chủ trương chỉ đạo thực hiện đồng bộ cho các đường phố của thị xã, được nhân dân đồng tình ủng hộ và đem lại kết quả tốt trong việc lập lại trật tự không gian, mỹ quan đô thị. Trong Đề án đẩy mạnh xây dựng Hội An - Thị xã văn hóa giai đoạn 2006 - 2010 và giai đoạn 2011-2015, thành phố cũng đã xác định các tiêu chuẩn: Kinh tế tăng trưởng bền vững - Văn hóa đậm đà bản sắc - Xã hội văn minh an toàn - Phố làng khang trang sạch đẹp. Năm 2013 thành phố đề ra chủ trương xây dựng “Nếp sống văn minh, mỹ quan đô thị” với chủ điểm “Đường thông, hè thoáng, sạch - đẹp - an toàn” tạo chuyển biến đáng kể trong hành động của các cấp ủy Đảng, chính quyền và các tầng lớp nhân dân trên địa bàn; vấn đề vệ sinh môi trường, cảnh quan đô thị, nông thôn có những tiến bộ rõ rệt.

Đạt được kết quả trên là bắt đầu từ sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền thành phố trong việc ban hành các chủ trương, trong đó có Chỉ thị 37-CT/TV, ngày 17/6/2009 về “tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên, nhân dân nâng cao ý thức và giảm thiểu sử dụng túi nilông nhằm góp phần bảo vệ môi trường”, Chỉ thị 19-CT/TU, ngày 19/3/2014 về “tăng cường công tác đảm bảo vệ sinh môi trường”. Bên cạnh đó, thành phố đã phát động nhiều chương trình và phong trào nhằm thực hiện có hiệu quả công tác bảo vệ môi trường, như “Vì môi trường Hội An xanh, sạch, đẹp và an toàn”, gồm môi trường an ninh - trật tự xã hội, môi trường vệ sinh, môi trường trật tự giao thông, môi trường cảnh quan, môi trường kinh doanh -

dịch vụ - du lịch, môi trường thông tin..., “nói không với túi ni lông”, “không khói thuốc lá”, “ngày không khói xe”, “sử dụng phương tiện giao thông thân thiện với môi trường” ; trồng, chăm sóc và bảo vệ cây xanh…được các tầng lớp nhân dân và du khách nhiệt tình hưởng ứng và tự giác thực hiện. Trong việc thực hiện Nghị quyết 24 -CT/TW, ngày 03/6/2013 của Hội nghị lần thứ bảy BCH Trung ương Đảng (khóa XI) về “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”, Thành ủy Hội An đã cụ thể hóa bằng Chương trình hành động phù hợp với điều kiện cụ thể và xác định rõ “Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững, phải được thể hiện trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành và địa phương. Lấy phòng ngừa và hạn chế tác động xấu đối với môi trường là chính, kết hợp với kiểm soát, xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái, cải thiện môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; lấy bảo vệ sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu. Phát huy vai trò xã hội hóa trong việc đầu tư và bảo vệ môi trường”.

Bảo vệ môi trường chính là để giúp cho sự phát triển kinh tế cũng như văn hóa - xã hội được bền vững. Kinh tế - văn hóa - xã hội phát triển giúp chúng ta có đủ điều kiện để đảm bảo an ninh quốc phòng. Điều đó lại tạo điều kiện ổn định chính trị xã hội để kinh tế - xã hội phát triển. Như vậy, bảo vệ môi trường không chỉ có ý nghĩa hiện tại mà quan trọng hơn là nó có ý nghĩa cho tương lai. Chính sự kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội và bảo vệ môi trường cho thấy bộ mặt đô thị trong thời gian qua trở nên khang trang... Điều này cũng được khẳng định khi Hội An liên tục được các tổ chức và Tạp chí khu vực Châu Á lẫn thế giới bình chọn là điểm đến hấp dẫn bởi môi trường thân thiện, cảnh quan sáng, xanh - sạch - đẹp, an toàn thân thiện... thu hút khách du lịch trong và ngoài nước.

Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, môi trường tự nhiên và môi trường xã hội ở thành phố còn một số bất cập. Cảnh quan đô thị và nông thôn chưa thật sự xanh - sạch - đẹp; công tác bảo vệ môi trường có mặt chưa đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của thành phố; ý thức tự giác chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường của nhân dân còn hạn chế. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về môi trường còn bất cập; công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về môi trường chưa đồng bộ và quyết liệt.

Hiện nay, thành phố có khoảng gần 90.000 người,

Đi chợ bằng giỏ nhựa, góp phần gìn giữ Cù Lao Chàm - Biển đảo xanh, sạch, đẹp. - Ảnh: ML

NGHIEÂN CÖÙU - TRAO ÑOÅI

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/2014 21

với những biến động về cơ cấu dân số, mật độ dân số, nghề nghiệp, môi trường sống, tâm lý xã hội. Quá trình này sẽ tác động mạnh mẽ, liên tục cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực đến vấn đề môi trường và chắc chắn sẽ đặt ra nhiều thách thức đối với thành phố trong việc bảo vệ môi trường. Đồng thời, việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững của thành phố về kinh tế, văn hóa, xã hội cũng cần phải đặt trong sự hài hòa với bảo vệ môi trường. Để giải quyết các vấn đề môi trường phát sinh trong quá trình phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội cần triển khai những giải pháp đồng bộ và mang tính tổng hợp, đồng thời phải có sự phối hợp và thống nhất cao của các cấp ủy Đảng, chính quyền, nhân dân, đặc biệt là các doanh nghiệp trên địa bàn.

Trước hết, cần tiếp tục hưởng ứng tích cực các chủ trương, cuộc vận động và phong trào nhằm bảo vệ môi trường đã được thành phố phát động. Xây dựng tiêu chí, chuẩn mực về bảo vệ môi trường trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư gắn với các tiêu chí thi đua các danh hiệu văn

hóa, xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh; tiếp tục nhân rộng mô hình tự quản về môi trường, đẩy mạnh hoạt động của đội thanh niên xung kích về bảo vệ môi trường. Cần gắn kết các hoạt động tuyên truyền, tập huấn, quảng bá công tác bảo vệ môi trường với việc hoàn thiện các chính sách, quy định về sử dụng môi trường liên quan trực tiếp đến cộng đồng, gắn lợi ích kinh tế của cộng đồng với các hoạt động bảo vệ môi trường. Qua công tác thông tin, tuyên truyền tạo dự luận xã hội lên án và thống nhất nhận thức về việc phải xử lý nghiêm các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Phát triển công tác giáo dục nâng cao nhận thức môi trường bằng những hình thức thích hợp; tuyên truyền giáo dục, xây dựng nếp sống thân thiện với môi trường làm cơ sở cho việc vận động sự tham gia của cộng đồng vào các hoạt động bảo vệ môi trường. Qua đó, phấn đấu vì môi trường Hội An xanh, sạch, đẹp và an toàn; cơ bản trở thành một trong những đô thị sạch của quốc gia vào năm 2015, tạo chuyển biến rõ trong quá trình xây dựng thành phố sinh thái.

tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới; Quyết định 1032/2011/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt Chương trình Bảo vệ trẻ em tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011-2015; Quyết định 716/QĐ-UBND của UBND tỉnh phê duyệt Chương trình hành động vì trẻ em tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2013-2020; Kế hoạch số 1258/KH-UBND ngày 10/4/2014 của UBND tỉnh về triển khai thực hiện Quyết định số 55a/2013/QĐ-TTg ngày 04/10/2013 của Thủ tướng chính phủ về phê duyệt chính sách hỗ trợ phẫu thuật tim cho trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh; Kế hoạch 1521/KH-UBND ngày 26/4/2014 của UBND tỉnh thực hiện Chương trình phòng chống tai nạn thương tích trẻ em tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2014-2015.

4. Vận động toàn xã hội, phấn đấu mỗi huyện, thành phố, xã phường thị trấn, thôn khối phố, cơ quan đơn vị có ít nhất 1 việc làm tốt hoặc công trình Vì trẻ em như: công trình nước sạch; nhà tình thương; trang thiết bị vui chơi cho trẻ em, tổ chức gặp mặt, biểu dương tấm gương trẻ em, con

các gia đình có công với nước, trẻ em nghèo vượt khó học giỏi; đẩy mạnh phong trào nhận đỡ đầu trẻ em có hoàn cảnh khó khăn ở cơ sở; tổ chức khám bệnh cấp thuốc miễn phí cho trẻ em miền núi, vùng khó khăn; tổ chức tốt hoạt động hè năm 2014 cho trẻ em.

5. Sơ kết, tổng kết các phong trào Vì trẻ em, tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện các quyền cơ bản của trẻ em, biểu dương khen thưởng kịp thời các tổ chức, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

Tháng hành động Vì trẻ em là một thời điểm hoạt động có ý nghĩa sâu sắc của toàn xã hội mang lại cho trẻ em, thực hiện tốt tháng hành động Vì trẻ em, hưởng ứng chủ đề: “Hành động vì một xã hội không bạo lực, xâm hại trẻ em” là thời cơ để đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Vì vậy rất cần đến trách nhiệm, sự nỗ lực, hỗ trợ và cộng tác rất lớn của lãnh đạo các cấp, các ngành, đoàn thể, các cơ quan đơn vị, các địa phương, mỗi gia đình và mỗi người dân.

(Tiếp theo trang 15)Hãy hành động...

TÖ LIEÄU - THOÂNG TIN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/201422

Công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, chính vì vậy, các cấp, ngành luôn nỗ lực

hết mình nhằm đảm bảo cho trẻ em có cuộc sống phát triển về mọi mặt. Trong những năm qua, huyện Điện Bàn xem công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em là công tác của toàn xã hội nhằm huy động mọi nguồn lực từ gia đình, nhà trường, các cấp ủy, chính quyền...

Huyện Điện Bàn là một huyện phía bắc của Tỉnh Quảng Nam, có 20 đơn vị hành chính xã, thị trấn gồm 182 thôn, khối phố, tổng số dân số là: 218.846 người. Trong đó tổng số trẻ em từ 0 đến dưới 16 tuổi: 46.964, chiếm 21,46% tổng dân số. Điện Bàn là một trong những huyện có số lượng trẻ em đông nhất tỉnh, vì vậy, việc đầu tư vào công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em càng được quan tâm đặc biệt. Từ năm 2011-2013, ngân sách huyện đã chi hỗ trợ cho công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em là 450 triệu đồng, ngân sách xã là 150 triệu đồng, ngoài ra huyện còn vận động từ cộng đồng hơn 2 tỉ và nguồn của các tổ chức quốc tế là 8 tỉ (kể cả xây dựng trung tâm, trang thiết bị, chi phí nuôi dạy trẻ, phục hồi chức năng, hỗ trợ học bổng, hỗ trợ gia đình và trường học...). Thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TW, ngày 05/11/2012 của Bộ Chính trị và Kế hoạch số 69-KH/TU, ngày 06/02/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam, Ban Thường vụ Huyện ủy Điện Bàn xây dựng Kế hoạch số 30/KH-HU thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TW, ngày 05/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới trong đó yêu cầu các cấp ủy đảng chỉ đạo chính quyền cùng cấp xây dựng chương trình, kế hoạch, xác định mục tiêu, chỉ tiêu và các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể nhằm triển khai thực hiện Chỉ thị thiết thực, hiệu quả; đề ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của trẻ em và từng bước giảm thiểu sự bất bình đẳng về cơ hội phát triển giữa các

nhóm trẻ; nâng cao chất lượng chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ phụ trách trẻ em từ huyện đến cơ sở và phong trào toàn dân tham gia chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Đồng thời, từng cấp ủy tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra rà soát, bổ sung chương trình, kế hoạch hành động vì trẻ em phù hợp với đặc điểm tình hình địa phương, đơn vị.

Với những bước đi đó, trẻ em có những hoàn cảnh đặc biệt khó khăn luôn được các cấp, ngành chức

năng ưu tiên hàng đầu, vì vậy, căn cứ vào chương trình Bảo vệ trẻ em huyện giai đoạn 2011-2015 đã đề ra, huyện Điện bàn đã thực hiện được một số kết quả như: 100% số xã-thị trấn trên địa bàn huyện đạt tiêu chuẩn xã phù hợp với trẻ em; 100% trẻ em khuyết tật được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, hỗ trợ phẫu thuật chỉnh hình, phục hồi chức năng, giáo dục và các dịch vụ công cộng; 100% trẻ em bị bỏ rơi, mồ côi không nơi nương tựa được hỗ trợ chăm sóc sức khoẻ; 80% trẻ em lao động nặng nhọc, nguy hiểm, trẻ em làm việc xa gia đình được trợ giúp; 100% trẻ em dưới 6 tuổi được cấp thẻ BHYT; Trẻ em bỏ học, trẻ em có nguy cơ bỏ học, trẻ em vi phạm pháp luật, trẻ em bị xâm hại có chiều hướng giảm đáng kể. Về Dự

HIỆU QUẢ TỪ VIỆC HUY ĐỘNG TOÀN XÃ HỘI TRONG CÔNG TÁC CHĂM SÓC, GIÁO DỤC VÀ BẢO VỆ TRẺ EM

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐIỆN BÀNTrầN VăN THu "

Trưởng ban Tuyên giáo Huyện ủy Điện Bàn

Hội nghị tuyên dương học sinh THPT đoạt giải cấp tỉnh, quốc gia và trẻ em nghèo vượt khó học giỏi của huyện Điện Bàn

TÖ LIEÄU - THOÂNG TIN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/2014 23

án xây dựng mô hình trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt dựa vào cộng đồng, huyện đã thực hiện tốt 3 mô hình: Xây dựng phát triển trợ giúp trẻ em bỏ rơi, mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em khuyết tật dựa vào cộng đồng; Duy trì, xây dựng và phát triển mô hình trợ giúp trẻ em lang thang, trẻ em lao động sớm, nặng nhọc, nguy hiểm, trẻ em có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt; Xây dựng và phát triển mô hình trợ giúp trẻ em làm trái pháp luật.

Điện Bàn là một huyện có trẻ em khuyết tật nhiều, ngân sách hàng năm của huyện dành cho công tác BVCSGD trẻ em còn hạn hẹp nên huyện đã kêu gọi sự hỗ trợ, đầu tư từ cộng đồng, các tổ chức, nhà hảo tâm nhằm trợ giúp trẻ em kém may mắn. Quỹ bảo trợ trẻ em (BTTE) được huy động trong CB, CNVC-LĐ, nhà hảo tâm… năm sau luôn cao hơn năm trước dù tình hình kinh tế thế giới đang bị suy thoái, năm 2012 quỹ BTTE huy động được 450 triệu đồng, năm 2013 là 495 triệu đồng. Trung tâm nuôi dạy trẻ em khuyết tật huyện Điện Bàn tại xã Điện Nam Đông và Trung tâm phục hồi chức năng trẻ em khuyết tật cụm liên xã Điện Thọ là nơi nương tựa của những trẻ em kém may mắn và là nơi cán bộ nhiệt tình tham vấn, hướng dẫn tập vật lý trị liệu tại nhà, tập huấn kiến thức, kỹ năng cho cha mẹ, người chăm sóc trẻ, trợ giúp hướng nghiệp, dạy nghề, tạo việc làm phù hợp cho gia đình, trẻ em và một số hoạt động đặc thù khác, giúp các em tránh những tổn thương về tâm lý bằng những hoạt động vui chơi phù hợp, đặc biệt hai trung tâm được huyện linh hoạt huy động từ nguồn vận động các tổ chức quốc tế, các nhà hảo tâm tham gia đầu tư xây dựng.

Tỉ lệ hộ nghèo của huyện hiện nay còn dưới 4,5%, trong đó có gần 4.000 trẻ em con hộ nghèo, hộ cận

nghèo. Với mục tiêu không để cho các em vì hoàn cảnh khó khăn mà bỏ học nửa chừng, bị bóc lột sức lao động, bằng những hoạt động thiết thực như phong trào nhận đỡ đầu, cấp học bổng, tặng sách vở, quần áo, động viên thăm hỏi những lúc ốm đau, khó khăn đột xuất, gặp mặt tặng quà nhân các ngày lễ, Quốc tế thiếu nhi... Nhờ đó mà những trẻ em có nguy cơ bỏ học lại tiếp tục đến trường, được phát triển về mọi mặt như bao trẻ em khác, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn có cơ hội học tập, rèn luyện, vui chơi và hòa nhập cộng đồng. Đối với trẻ em lao động nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, huyện được Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) hỗ trợ chương trình “Ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em” tại huyện từ tháng 7/2011 và kết thúc vào 9/2013. Bước đầu đã đem lại hiệu quả, số trẻ em tham gia lao động sớm, lao động nặng nhọc, độc hại nguy hiểm đã được giảm nhanh so với trước. Hàng trăm trẻ em rơi vào hoàn cảnh khó khăn không thuộc diện hưởng chính sách của Nhà nước cũng được Làng SOS hỗ trợ tài chính cộng đồng hoặc được nhận học bổng từ các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân có lòng hảo tâm trao tặng nhằm tạo điều kiện tốt hơn để các em tiếp tục đến trường.

Hiện nay, huyện Điện Bàn đang trong quá trình đô thị hóa để trở thành thị xã, một trong những hệ quả kéo theo là tình hình an ninh trật tự an toàn xã hội sẽ rất phức tạp, trong đó gây tác động xấu đến tâm sinh lý của lứa tuổi chưa tới vị thành niên. Vì vậy, việc xây dựng và phát triển mô hình trợ giúp trẻ em làm trái pháp luật cũng là một trong những bước đi đang được triển khai trên địa bàn huyện. Huyện chọn xã Điện Thọ làm điểm - nơi trẻ em vi phạm pháp luật nhiều của huyện. Trước tiên là việc tổ chức tập huấn thu thập thông tin về trẻ em và tổng hợp nắm tình hình trẻ em tại địa phương, từ đó giúp cán bộ Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em dễ dàng quản lý, có những biện pháp can thiệp kịp thời nhằm đảm bảo mọi trẻ em đều được bảo vệ. Tổ chức tập huấn Nâng cao năng lực về công tác Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cho đội ngũ cán bộ trong mạng lưới bảo vệ trẻ em và CTV thôn. Đặc biệt là việc tổ chức tập huấn kỹ năng sống cho nhóm trẻ nòng cốt tại trường THCS Phan Thúc Duyện với sự tham gia của 30 học sinh và tổ chức sinh hoạt, giao lưu đối với các em có nguy cơ bỏ học và vi phạm pháp luật nhằm cảm hóa, lôi kéo các em tránh xa những mầm mống nguy hại.

Một tiết mục biểu diễn tại Diễn đàn trẻ em Điện Bàn với Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em

(Xem tiếp trang 27)

TÖ LIEÄU - THOÂNG TIN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/201424

Địa linh, nhân kiệt.Tĩnh Gia là mảnh đất cực Nam của đất “Quý

hương” Thanh Hóa. Là một huyện đồng bằng ven biển nhưng địa hình nơi đây khá đa dạng có cả đồi núi, trung du, đồng bằng, biển và hải đảo. Thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho Tĩnh Gia bức tranh tự nhiên nhiều màu sắc, độc đáo và hấp dẫn. Ngoài biển có đảo Hòn Mê (cách đất liền 15km), đảo Biện Sơn và hàng loạt đảo nhỏ: hòn Bung, hòn Sổ, hòn Sập, hòn Bảng... Phía Đông Nam huyện có Non Tiên (Hải Thanh), phía Nam Non Tiên có hòn Câu Chữ, trên núi có chùa Đót Tiên, đền Quang Trung và đền Lạch Bạng soi mình xuống cửa Bạng tạo nên hình ảnh non xanh, nước biếc như thực như mơ. Đảo Biện Sơn có khe Ngọc, Giếng Ngọc, đền Ngọc với sự tích An Dương Vương, Mỵ Châu - Trọng Thuỷ... Phía Tây Nam huyện, trong các dãy núi đá vôi có hệ thống hang động kỳ ảo, tiêu biểu là quần thể động Trường Lâm (xã Trường Lâm, giáp với xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An- quần thể hang động đẹp, đầy huyền bí của xứ Thanh và đã được xếp hạng di tích thắng cảnh cấp tỉnh. Phía Tây Bắc huyện có hệ thống núi non kỳ vĩ; mỗi ngọn núi đều gắn với truyền thuyết ly kỳ xa xưa: Ngọc Sơn (núi Bợm) với sự tích "Ngọc Trống - Ngọc Mái"; núi Long Cương (Núi Năng, xã Nguyên Bình) với câu chuyện Đào Duy Từ sáng tác khúc Long Phi ngâm trước khi vào Nam gặp chúa Nguyễn làm nên cơ đồ; núi Các với sự tích Bàn cờ tiên và chùa Am Các...

Tĩnh Gia là quê hương của nhiều anh hùng, hào kiệt, danh nhân văn hoá, nhiều nhà khoa bảng nổi tiếng: Khuông Việt Đại sư Ngô Chân Lưu thời Đinh - Tiền Lê; Khai quốc công thần Lê Văn An (Lê Nhân Trung), Đông các đại học sĩ Lê Nhân Qúi thời Hậu Lê; Lộc Khê Hầu Đào Duy Từ - Đệ nhất Khai quốc công thần của nhà Nguyễn, nhà chính trị, nhà quân sự và nhà văn hoá nổi tiếng của đất nước; Hoàng giáp, Thượng thư Lương Chí thời Lê trung hưng...

Là địa bàn có vị trí chiến lược trọng yếu phía Đông Nam Thanh Hoá, với tinh thần "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược", "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", "Xe chưa qua nhà không tiếc", trong kháng chiến chống Mỹ, quân và dân Tĩnh Gia đã cùng với các lực lượng vũ trang và nhân dân miền Bắc anh dũng chiến đấu đánh bại các cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, bảo vệ được mạch máu giao thông nối liền Bắc - Nam, bảo vệ hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa. “...Qua đây lại nhớ năm nào/ Xé trời đạn lửa, bom đào đất rung/ Đường ra mặt trận miền Trung/ Quân dân ta vẫn trùng trùng tiến lên...”(Tố Hữu). Năm tháng đi qua, song các địa danh như phà Ghép, cầu Hang, Hòn Mê, Nghi Sơn, cầu Đồi, cầu Vằng, cầu Hổ...đã mãi mãi đi vào lịch sử không chỉ của Tĩnh Gia, của Thanh Hóa, mà của cả dân tộc.

Tĩnh Gia ngày nay đang “bừng sáng tương lai”, bởi là địa bàn có Khu Kinh tế Nghi Sơn - Khu kinh tế trọng điểm của tỉnh Thanh Hoá và khu vực Bắc - Trung bộ, một trong năm khu kinh tế trọng điểm của cả nước. Sau 7 năm đi vào hoạt động, Khu kinh

Tĩnh Gia- Đại Lộc

VâN TrìNH "

Chuyến công tác của lãnh đạo huyện Đại Lộc tại huyện Tĩnh Gia (Thanh Hóa) kết nghĩa để tham dự hội thảo tập sách “Tĩnh Gia - Đại Lộc, nghĩa nặng tình sâu” và giao lưu tiếp lửa truyền thống giữa các thế hệ lãnh đạo và tuổi trẻ hai huyện đã làm sống lại một quá khứ hào hùng hơn nửa thế kỷ trước và dào dạt tình nghĩa Bắc - Nam, Quảng - Thanh...

Nghĩa nặng, tình sâu!

Tuổi trẻ Thanh Hóa hăng hái lên đường vào chiến trường miền Nam đánh Mỹ, cứu nước. - Ảnh: Tư liệu

TÖ LIEÄU - THOÂNG TIN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/2014 25

Tĩnh Gia- Đại Lộc

tế này đã thu hút được trên 70 dự án với tổng vốn đầu tư khoảng 16 tỷ đô la Mỹ, trong đó có 2 dự án trọng điểm quốc gia là Liên hợp lọc hoá dầu Nghi Sơn và Trung tâm Nhiệt điện Nghi Sơn.

Nghĩa tình trọn vẹn như dòng sông chung đầu, hợp cuối.

Ngược dòng lịch sử, Thanh Hóa - Quảng Nam, Tĩnh Gia - Đại Lộc có mối quan hệ mật thiết từ lâu đời. Nhiều tộc họ ở Đại Lộc có nguồn gốc từ Thanh Hóa. Tình nghĩa keo sơn giữa hai tỉnh và hai huyện càng gắn kết keo sơn hơn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc ta. Ngày ấy, thực hiện khẩu hiệu: “Miền Nam gọi - miền Bắc trả lời, Quảng Nam cần - Thanh Hoá có”, trong tình cảm Bắc - Nam cao cả và thiêng liêng, Đảng bộ, nhân dân Tĩnh Gia thường xuyên theo dõi, cổ vũ, động viên tinh thần dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, kiên quyết bám trụ quê hương, tổ chức chiến đấu lập nên chiến công vang dội của quân và dân Đại Lộc. Mỗi chiến công từ Quảng Nam - Đại Lộc đến với Thanh Hóa - Tĩnh Gia là động lực thúc đẩy các phong trào:“Thi đua làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, “Thanh niên 3 sẵn sàng”, “Phụ nữ 3 đảm đang”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “sản xuất giỏi chiến đấu giỏi, giao thông vận tải giỏi”, “Hòn đá chống Mỹ”...Các phong trào thi đua yêu nước ấy cổ vũ thôi thúc lớp lớp thanh niên Thanh Hóa - Tĩnh Gia vượt Trường Sơn đi cứu nước, hàng vạn thanh niên Tĩnh Gia đã trở thành anh giải phóng quân, dũng sỹ diệt Mỹ, diệt ngụy, cống hiến tuổi thanh xuân tươi đẹp của mình cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, giải phóng quê hương Đại Lộc - Quảng Nam. Và, khi được chiến đấu trên quê hương kết nghĩa, những

người con của xứ Thanh luôn được bà mẹ đất Quảng hết lòng đùm bọc, nuôi dưỡng, bảo vệ như những người con ruột thịt của mình.

Xây đắp bền chặt hơn mối tình kết nghĩa đặc biệt.

“Em gái Đại Lộc nuôi tằm dệt lụa/ Gửi tặng anh cùng điệu lý thương nhau/ Trai Tĩnh Gia căng buồm thả lưới/ Gửi tặng em câu hò sông Mã”(*). Dẫu cách xa hàng trăm cây số nhưng bằng tình cảm kết nghĩa, những năm qua, hai huyện Đại Lộc - Tĩnh Gia thường xuyên cử đoàn đại biểu đi thăm để chúc mừng nhau nhân các lễ kỷ niệm, các sự kiện chính trị - xã hội quan trọng như kỷ niệm ngày giải phóng hoàn toàn huyện Đại Lộc, ngày Tĩnh Gia tổng khởi nghĩa trong Cách mạng tháng Tám 1945, ngày thành lập Đảng bộ huyện Đại Lộc, ngày thành lập chi bộ đầu tiên của huyện Tĩnh Gia, khánh thành Đền Tưởng niệm Trường An, khánh thành Nhà lưu niệm nơi thành lập Đảng bộ huyện Đại Lộc... Mỗi khi xảy ra thiên tai, bão lũ, hai huyện kịp thời thăm hỏi, động viên giúp đỡ nhau cả về vật chất và tinh thần để sớm khắc phục hậu quả, nhanh chóng ổn định đời sống và sản xuất. Những kỷ vật, những món quà quý báu: Tập Lịch sử Đảng bộ huyện Tĩnh Gia, Lịch sử Đảng bộ huyện Đại Lộc, cờ lưu niệm tình kết nghĩa mang dòng chữ: "Tĩnh Gia - Đại Lộc đoàn kết keo sơn, xây dựng quê hương, Tổ quốc mạnh giàu", phiên bản trống đồng Đông Sơn, chiếc xe đạp cày của nông dân Lương Minh Đồng (Đại Hồng, Đại Lộc) cùng những hoạt động: trồng cây lưu niệm, tặng nhà tình nghĩa… là những bằng chứng sinh động thể hiện tình cảm thủy chung son sắt giữa hai huyện Tĩnh Gia và Đại Lộc.

Rời Tĩnh Gia, chúng tôi nhớ mãi câu nói xúc động của bác Nguyễn Văn Tuyên, nguyên Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Tĩnh Gia tại hội thảo tập sách “Tĩnh Gia - Đại Lộc, nghĩa nặng tình sâu”: “Mối quan hệ kết nghĩa đặc biệt Thanh Hóa - Quảng Nam nói chung, trong đó có Tĩnh Gia - Đại Lộc nói riêng thật sự là tình cảm có tính chất cội nguồn, máu thịt; là tình cảm cách mạng, trong sáng, thủy chung mà các thế hệ hôm nay và mai sau hãy khắc sâu ghi nhớ và phải có trách nhiệm xây đắp bền chặt hơn”. Đó cũng là ý nguyện chung và lời nhắn nhủ của các thế hệ lãnh đạo hai huyện với các bạn trẻ trong cuộc giao lưu tiếp lửa truyền thống: “Tĩnh Gia- Đại Lộc, nghĩa nặng tình sâu”.

(*): Ca từ bài hát Tĩnh Gia- Đại Lộc, nghĩa nặng tình sâu (Lời: Nguyễn Văn Tòng, nhạc: Trọng Bích)

Giao lưu tiếp lửa truyền thống: “Tĩnh Gia- Đại Lộc, nghĩa nặng tình sâu”.

TÖ LIEÄU - THOÂNG TIN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/201426

Vừa qua, UBND tỉnh đã tổ chức Lễ phong tặng, truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” đã có nhiều cống hiến, hy

sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cho 55 Bà mẹ Việt Nam anh hùng được phong tặng và 69 Bà mẹ Việt Nam anh hùng được truy tặng thuộc tỉnh Quảng Nam. Tại buổi Lễ, đồng chí Nguyễn Ngọc Quang, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó chủ tịch thường trực UBND đã đọc bài phát biểu với nội dung:

Non sông đất nước Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Nam chúng ta được vẻ vang, rạng rỡ như ngày hôm nay là nhờ sự anh dũng hy sinh không kể xương máu của hàng ngàn, hàng triệu những người con ưu tú của dân tộc. Đó là những cống hiến của các anh hùng liệt sĩ, các thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ. Khắc ghi truyền thống và đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, những năm qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong tỉnh đã không ngừng đẩy mạnh phong trào “Đền ơn đáp nghĩa", tích cực giải quyết các tồn đọng sau chiến tranh và thực hiện kịp thời các chính sách đối với người có công cách mạng.

Thực hiện Pháp lệnh Bà mẹ Việt Nam anh hùng, từ năm 1995 đến 2012, tỉnh Quảng Nam đã kịp

thời triển khai thực hiện và đã được Chủ tịch nước Quyết định phong tặng và truy tặng cho 7.609 Mẹ Việt Nam anh hùng thuộc tỉnh Quảng Nam, hiện nay có 356 Mẹ còn sống. Ngày 22/5/2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 56 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo các ngành, các cấp triển khai thực hiện, đến nay tỉnh Quảng Nam đã thụ lý trình Trung ương được 03 đợt, gồm 1.833 trường hợp, trong đó, có 709 Mẹ sống. Hiện nay, các huyện, thành phố và Sở Lao động, Thương binh và xã hội đang thụ lý 1385 trường hợp, trong đó có 29 Mẹ sống, đang khẩn trương hoàn chỉnh thủ tục để trình Trung ương trong dịp kỷ niệm 69 năm Cách mạng tháng 8 và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Ngày 12/3/2014, Chủ tịch nước đã ký Quyết định tặng và truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” cho 104 mẹ còn sống và 75 mẹ đã hy sinh, từ trần (Trong đợt I), (Huyện Thăng Bình đã tổ chức Lễ trao tặng và truy tặng cho 55 Mẹ vào ngày 06/5/2014). Đây là dịp để chúng ta tôn vinh, tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với các anh hùng, liệt sỹ, người có công với cách mạng và cũng là dịp để chúng ta giáo dục cho thế hệ trẻ hôm nay trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam nói chung và Quảng Nam nói riêng.

Trong những năm qua, công tác chăm lo đời sống thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng đã trở thành chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước và không ngừng hoàn thiện, tổ chức thực hiện chính sách đối với người có công cách mạng nhằm tạo điều kiện cho thương binh, gia đình liệt sĩ được hưởng những chính sách ưu đãi của nhà nước có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình so với người dân tại địa phương.

Với niềm vinh dự to lớn được Nhà nước tặng

Quảng Nam thực hiện pháp lệnh “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng”

NguyễN ĐìNH TăNg "Phó Trưởng ban Thi đua - Khen thưởng Quảng Nam

TÖ LIEÄU - THOÂNG TIN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/2014 27

thưởng danh hiệu cao quý này, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, chúng ta tin tưởng rằng các Mẹ và thân nhân các Mẹ sẽ luôn nêu cao truyền thống yêu nước, giữ vững phẩm chất tốt đẹp xứng đáng là tấm gương sáng cho các thế hệ con cháu noi theo, phấn đấu vượt qua những khó khăn trong cuộc sống đời thường, với tinh thần đoàn kết, gắn bó thuỷ chung, chúng ta nhất định sẽ giành được thắng lợi to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước do Đảng, Nhà nước đề ra.

Nhân dịp này, Đồng chí Nguyễn Ngọc Quang kêu gọi các cấp ủy đảng, chính quyền, cơ quan, ban, ngành, đoàn thể và các tổ chức chính trị - xã hội, các cộng đồng doanh nghiệp, các tầng lớp nhân dân trong và ngoài tỉnh dành sự quan tâm và chăm lo nhiều hơn nữa cho các gia đình chính sách..., tiếp tục đẩy mạnh phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” và xem đó là trách nhiệm, là đạo lý của mỗi chúng ta. Đồng thời, đề nghị các cấp, các ngành, các địa phương cần tập trung hơn nữa, giải quyết cơ bản việc xác lập hồ sơ, thủ tục cho các Mẹ, đặc biệt là các Mẹ còn sống phải giải quyết dứt điểm trong năm 2014. (Qua khảo sát, tỉnh Quảng Nam chúng ta có khoảng trên 8.000 Bà Mẹ được phong tặng và truy tặng theo các tiêu chí theo Nghị định 56/ Chính phủ).

Lịch sử hào hùng, vẻ vang của quân và dân tỉnh ta trong chiến đấu cũng như trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta phải biết tôn trọng, giữ gìn và phát huy. Trong những năm qua, trong điều kiện khó khăn chung của nền kinh tế, nhưng tỉnh ta đã có nhiều nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn thách thức, tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và đạt được nhiều thành quả đáng kể: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân mỗi năm gần 10%; cơ sở hạ tầng được tăng cường, thực hiện tốt mục tiêu ổn định kinh tế; bảo đảm an sinh xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc; kinh tế xã hội nông thôn, miền núi, chương trình nông thôn mới tiếp tục được thực hiện và đạt một số kết quả trên các lĩnh vực; các đối tượng chính sách được quan tâm chu đáo hơn, các hoạt động văn hóa xã hội ngày càng phong phú đa dạng, tình hình an ninh chính trị được giữ vững, đó là sự phấn đấu không mệt mỏi của quân và dân toàn tỉnh. Chúng ta sẽ tiếp tục noi gương, học tập các thế hệ cha anh đi trước, cố gắng đem hết sức mình phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân một cách tốt nhất, ra sức cùng với đồng bào, đồng chí quyết tâm phấn đấu xây dựng, phát triển tỉnh Quảng Nam giàu đẹp, hiện đại, công bằng, dân chủ, văn minh./.

Tuy Điện Bàn là một huyện có khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các làng nghề truyền thống đã góp phần không nhỏ cho việc tăng trưởng kinh tế huyện, song đa số nhân dân sống bằng nông nghiệp gặp không ít những rủi ro thiên tai dịch bệnh từ sản suất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản... nên đời sống kinh tế của nhiều người dân còn nhiều khó khăn. Do đó, việc đầu tư kinh phí xây dựng các công trình phục vụ vui chơi cho trẻ em và tổ chức các mô hình hỗ trợ cho trẻ em, tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức về quyền trẻ em... còn hạn chế. Song, vượt qua mọi khó khăn, trong những năm qua được sự quan tâm của các cấp uỷ Đảng, Chính quyền, Hội, đoàn thể, gia đình, nhà trường và các tổ chức chính - xã hội, nhà hảo tâm đã xây dựng được nhiều mô hình, các nhóm trẻ nòng cốt, nhiều hình thức hoạt động phong phú đã tạo điều kiện cho trẻ em được nói lên tiếng nói bảo vệ quyền của mình trong học tập, chăm sóc sức khỏe, đời sống tinh thần. Việc thành lập các CLB, các hoạt động ngoại khoá ở trường, tại địa phương đã nhận được sự đồng tình từ chính các em. Vì vậy mà các em đã tham gia rất nhiệt tình, năng nổ, đồng thời đã giúp nhau tiến bộ trong học tập, rèn luyện, tham gia tốt các phong trào thi đua trong nhà trường, khu dân cư...

“Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em” (Điều 37 Hiến Pháp (sửa đổi năm 2013)). Vì vậy, Đảng, chính quyền và các ngành chức năng của huyện Điện Bàn luôn ra sức nỗ lực để đảm bảo mọi quyền lợi của trẻ em được thực thi, việc huy động toàn xã hội tích cực chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em đã trở thành một trong những nhiệm vụ, giải pháp nhằm giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội, chăm lo nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Điện Bàn lần thứ XXI (nhiệm kỳ 2010-2015) đã đề ra. Với những kết quả nêu trên, trong thời gian tới, Điện Bàn quyết tâm phấn đấu thực hiện tốt hơn công tác chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em trên địa bàn huyện vì trẻ em hôm nay là thế giới của ngày mai.

(Tiếp theo trang 23)

HIỆU QUẢ TỪ VIỆC...

GÖÔNG NGÖÔØI TOÁT - VIEÄC TOÁT

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/201428

Vào năm 1964, tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước, 7 năm sau được tổ chức phân công làm việc

ở ngành in báo Đảng ở vùng căn cứ cách mạng khu V, từ đó đến nay gắn bó thủy chung với ngành, trong đó hơn 10 năm làm Phó Giám đốc, Giám đốc Xí nghiệp In Báo Quảng Nam - Đà Nẵng, ngót nghét 15 năm làm Bí thư Chi bộ, Giám đốc Xí nghiệp In Báo Quảng Nam (nay là Công ty Cổ phần In - Phát hành sách và Thiết bị trường học Quảng Nam), anh Huỳnh Đây đã có một chặng đường dài gần 43 năm đầy tự hào phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân; một Giám đốc doanh nghiệp luôn tận tâm và hết mình với người lao động.

Quản lý và lãnh đạo doanh nghiệp in Báo Đảng qua nhiều thời kỳ khác nhau, anh luôn tâm niệm phải bảo đảm chất lượng cao nhất của một loại sản phẩm đồng thời là phương tiện quan trọng và không thể thiếu để tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước đến đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân trong toàn tỉnh. Xuất thân từ một công nhân bản kẽm và nhiều thập niên là người đứng đầu doanh nghiệp ngành in, anh hiểu rõ quy trình, công nghệ in và tầm quan trọng của thiết bị nên luôn tìm cách bổ sung, đổi mới trang, thiết bị phục vụ sản xuất. Năm 2005, lãnh đạo tỉnh thấy anh và anh em vất vả nên đã cấp kinh phí (khi còn là doanh nghiệp khối Đảng) mua xe ô tô phục vụ công tác nhưng anh đã xin phép cấp trên cho chuyển mục đích sử dụng nguồn tiền cấp mua xe sang mua máy in 4 màu để phục vụ cho việc nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Đây chính là việc làm rất đúng

hướng vì thiết bị tiên tiến này đã tạo nên sự đột phá trong sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo đà cho bước chuyển mạnh mẽ của Công ty lúc bấy giờ. Mới đây, anh đã mạnh dạn đầu tư máy xuất kẽm - một loại thiết bị hiện đại đẳng cấp thế giới để tăng công suất và hiệu quả sản xuất, góp phần tăng lợi nhuận doanh nghiệp và thu nhập của người lao động. Tuy lúc đầu trong đơn vị còn những ý kiến băn khoăn, lo lắng nhưng chỉ sau một thời gian đưa vào vận hành đã đem lại kết quả hết sức mỹ mãn, khả năng từ 2 năm rưỡi đến 3 năm sẽ thu hồi vốn, đem lại niềm vui và tăng thêm niềm tin của người lao động đối với doanh nghiệp và người đầu tàu doanh nghiệp.

Nhớ lại, năm 1990, Xí nghiệp In Báo Quảng Nam - Đà Nẵng làm ăn thua lỗ trầm trọng, 150 cán bộ,

tận tụy với công việc, tận tâm với người lao độngNguyễN ĐìNH KHâm "

Trưởng ban Tuyên giáo Đảng ủy khối Doanh nghiệp

Đ/c Huỳnh Đây - Giám đốc công ty (người thứ 2 từ phải sang) kiểm tra, hướng dẫn công nhân vận hành dây chuyền thiết bị mới.

Gương đảng viên

GÖÔNG NGÖÔØI TOÁT - VIEÄC TOÁT

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/2014 29

công nhân lao động thiếu việc làm, thu nhập bấp bênh nên cơ quan quản lý có ý định giải thể và sáp nhập vào Báo Nhân Dân. Vì việc làm và đời sống của người lao động, đồng thời trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng, anh mạnh dạn đề xuất giữ lại doanh nghiệp, xây dựng đề án kiện toàn, củng cố, tiếp tục duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh. Kết quả Xí nghiệp đã chuyển mình một cách ngoạn mục, đem lại niềm vui mừng khôn xiết của hàng trăm lao động, được lãnh đạo tỉnh đánh giá cao và nhiều người thán phục. Sau ngày tái lập tỉnh Quảng Nam năm 1997, năm 1999, tỉnh cấp 3 tỉ đồng để đổi mới trang thiết bị nhưng anh xét thấy chưa thật cần thiết vì trong thực tế quy mô của một tỉnh nếu đầu tư quá lớn sẽ không đem lại hiệu quả mong muốn nên Công ty chỉ sử dụng 1,5 tỉ đồng. Do vậy đơn vị đã không rơi vào vòng xoáy nợ nần như nhiều doanh nghiệp khác thời bấy giờ.

Là một đơn vị sản xuất trực thuộc khối Đảng, lúc còn có những ý kiến khác nhau khi bắt đầu chuyển đổi doanh nghiệp, anh đã mạnh dạn đề nghị với các ngành, các cấp hữu quan tiến hành cổ phần hóa để nâng cao hiệu quả hoạt động, vừa bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao, vừa thích ứng với cơ chế cạnh tranh của doanh nghiệp trong giai đoạn mới. Thực tiễn sau gần bảy năm chuyển đổi, không những Công ty thoát khỏi khó khăn, trì trệ của thời bao cấp mà sản xuất kinh doanh ngày càng ổn định và phát triển thuận lợi. Đặc biệt là sau khi đơn vị chính thức trở thành thành viên của Nhà Xuất bản Giáo dục, việc làm và thu nhập của cán bộ, công nhân viên và người lao động được bảo đảm tốt hơn. Chất lượng sản phẩm, thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp ngày càng được nâng lên, đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp cùng ngành nghề trong khu vực và cả nước. Hiện nay, sản phẩm của Công ty chiếm thị phần chủ yếu trên địa bàn tỉnh và chiếm 70% sản lượng của Nhà Xuất bản Giáo dục.

Bảo đảm việc làm cho gần 130 cán bộ, công nhân lao động với mức thu nhập năm sau cao hơn năm trước, luôn thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước, người lao động và xã hội - đó là phương châm hành động và là mệnh lệnh cao nhất luôn thôi thúc,

động viên anh nỗ lực, phấn đấu không mệt mỏi.

Với tích cách quyết đoán, dáng đi nhanh nhẹn, giọng nói và nhất là tiếng cười sang sảng, và sự chân thành, bộc trực, anh luôn gần gũi, chan hòa với đội ngũ cán bộ, nhân viên và người lao động. Anh luôn để lại ấn tượng đặc biệt với mọi người ngay lần đầu tiếp xúc. Vốn không màu mè, quan cách và một tấm lòng bao dung, nhân hậu, anh luôn để lại trong suy nghĩ, tâm trí của các thế hệ người lao động của công ty tình cảm tin yêu và quý trọng. Họ tin yêu và quý trọng vì họ luôn nhận ra ở anh hình ảnh của một giám đốc doanh nghiệp bên cạnh cái TÀI còn có cái TÂM rất đáng quý: Luôn luôn tận tâm, hết lòng vì người lao động. Ở đâu và bất cứ khi nào, anh em trong đơn vị đều gọi anh bằng những tên gọi rất thân thiết, trìu mến: anh Đây hoặc là chú Đây.

Cũng chính vì vậy nên mặc dù đã đến tuổi về hưu từ 4 năm trước, nhưng tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, công nhân lao động toàn đơn vị đều đồng lòng mong muốn và đề xuất anh tiếp tục ở lại quản lý và điều hành doanh nghiệp thêm một nhiệm kỳ nữa. Mặc dù tuổi đã cao, sức không còn khỏe, trong thâm tâm anh cũng muốn tìm về một chốn bình yên sau gần nửa thế kỷ chiến đấu, lao động, hết lòng tận tụy phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân, nhưng thể theo ý nguyện tha thiết của anh em, kể cả sự tâm huyết với nghề nghiệp nên anh không thể khước từ. Và đối với anh, chốn bình yên của một con người không chỉ có gia đình, người thân mà đó còn là cả một tập thể đã từng cùng anh gắn bó, chia ngọt sẻ bùi trong những lúc khó khăn, gian khổ cũng như vào thời khắc tươi sáng và vui vẻ hôm nay.

64 tuổi đời, 40 năm tuổi Đảng, gần nửa thế kỷ phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân, bây giờ dù đã đến tuổi về hưu, anh vẫn tiếp tục tận tụy cống hiến, tận tâm hết mình vì người lao động. Viết về anh, tôi lại nghĩ nhiều đến Bác Hồ kính yêu. Dù thận trọng và dè dặt bao nhiêu đi nữa, tôi vẫn thấy anh thật xứng đáng là một tấm gương sáng, một gương điển hình về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

GÖÔNG NGÖÔØI TOÁT - VIEÄC TOÁT

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/201430

Hơn hai mươi năm kiên trì bám đảo, chữa bệnh cứu người, được nhân dân địa

phương tin yêu, quý trọng như người thân trong gia đình. Có được tình cảm quý báu ấy chính do bác sỹ Phạm Văn Tuấn – Trưởng phòng khám đa khoa khu vực xã đảo Tân Hiệp (Cù Lao Chàm) luôn khắc sâu trong tâm lời dạy của Bác Hồ kính yêu - “Lương y phải như từ mẫu. Phải yêu thương, chăm sóc người bệnh như ruột thịt của mình, xem họ đau đớn cũng như mình đau đớn”.

Năm 1991, sau khi tốt nghiệp Y sĩ tại trường Trung học Y tế Quảng Nam – Đà Nẵng (cũ), Bs Phạm Văn Tuấn đã tình nguyện ra đảo Cù Lao Chàm công tác với lòng hăng say, nhiệt huyết của tuổi trẻ. Đảm nhận nhiệm vụ của một Y sĩ điều trị tại trạm y tế xã Tân Hiệp, anh đã không quản ngại khó khăn, chấp nhận cuộc sống thiếu thốn về vật chất lẫn tinh thần cùng với tập thể cán bộ nhân viên của trạm chăm sóc tốt sức khỏe nhân dân trên đảo.

7 tháng trước đây, chị Dương Thị Kim Hồng, ở thôn Cấm, xã đảo Tân Hiệp (Cù lao Chàm) chuyển dạ sinh con thứ 3, với vết mổ cũ. Chị được đưa vào phòng khám trong tình trạng hết sức nguy kịch do bị ra nước ối nhiều khi chưa đến ngày sinh như dự kiến, đau bụng dữ dội, được tiên lượng có nguy cơ vỡ tử cung nên phải chuyển lên tuyến trên gấp. Thế nhưng lại gặp lúc trời giông bão, biển động dữ dội, không

tàu thuyền nào có thể di chuyển được. Không thể chần chừ, bs Tuấn đã huy động toàn thể nhân viên y tế theo dõi sát sao tình hình bệnh nhân, chính anh là người trực tiếp đỡ đẻ cho bệnh nhân. Và cuối cùng thì người thầy thuốc “mát tay” ấy đã khiến cả phòng khám và người nhà bệnh nhân vỡ òa trong niềm vui “mẹ tròn con vuông”. Chị Hồng vẫn rưng rưng cảm xúc khi nhắc lại sự kiện này: “Nói thật là lúc đó em quá lo sợ. Trời mưa gió bão bùng, biển động dữ lắm, tàu thuyền thì không vào đất liền được. Nếu không có bác sĩ Tuấn và các y bác sĩ của trạm chắc không có mẹ con em ngày hôm nay. Thật lòng em không biết phải bày tỏ lòng biết ơn như thế nào đến các thầy thuốc ở đây. Họ như là người thứ hai sinh ra mẹ con em”.

Đảo Cù lao Chàm cách đất liền 19 km đường biển, việc giao thông giữa đất liền với biển đảo trước đây gặp nhiều khó khăn. Nhất là vào mùa mưa bão, biển động dữ dội, do vậy nhiều khi cả mấy tháng trời anh chưa được về thăm gia đình.

Năm 2001 anh dự thi và trúng tuyển vào trường Đại học Y - Dược Huế, tốt nghiệp năm 2005, bác sĩ Tuấn lại tiếp tục ra Đảo với bà con từ đó đến nay. Những trường hợp cấp cứu bệnh nặng vượt quá khả năng của trạm, đích thân bác sĩ Tuấn cùng với người nhà đưa bệnh nhân vào đất liền để cấp cứu kịp thời giữa những cơn cuồng phong thịnh nộ của đất trời, biển cả mà không màng đến tính mạng của bản thân; hay rất nhiều bà con trên đảo nửa đêm đến gõ cửa kêu đau, cấp cứu đều phải cần đến bàn tay của bác sĩ Tuấn. Anh luôn quan tâm, lo lắng, hỏi han họ về tình hình bệnh tật, sức khỏe, chăm sóc và cứu chữa tận tình. Chính vì vậy mà Lãnh đạo và nhân dân nơi đây rất tin tưởng, quý mến anh.

Bệnh nhân Hoàng Thị Sương, 80 tuổi, ở thôn Bãi Ông, xã Tân hiệp được đưa đến phòng khám trong tình trạng nguy kịch, huyết áp không đo được, trụy mạch, sùi bọt mép,… nhưng đã được bác sĩ Tuấn cùng toàn thể cán bộ y tế phòng khám hết lòng cứu chữa bệnh nhân qua cơn nguy kịch. Anh Trần Văn Anh - con trai bà cảm động kể lại: "Khi đó mẹ tôi tưởng như đã chết, bác sĩ Tuấn bảo: Nếu đưa bà đi vào đất liền bằng tàu thuyền thì khả năng sẽ tử vong trên đường đi. Vậy là bác sĩ Tuấn chỉ đạo các y bác sĩ của trạm, kẻ bóp bóng, người thì lo kéo bình ô-xy cho mẹ tôi thở, cấp cứu hồi sức để cứu sống mẹ tôi. Gia đình tôi rất biết ơn bác sĩ Tuấn và các thầy thuốc ở trạm nhiều lắm. Dân chúng tôi mong rằng

hơn 20 năm kiên trì bám đảo TrưởNg Hoa "

Trung tâm TTGDSK Quảng Nam

Bác sĩ Phạm Văn Tuấn bên bàn làm việc. - Ảnh: Trưởng Hoa

Người thầy thuốc

(Xem tiếp trang 32)

TIN HOAÏT ÑOÄNG

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/2014 31

Thăng Bình sơ kết 3 năm thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị:

Ngày 13/5 Huyện ủy Thăng Bình tổ chức Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị “về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Trong 3 năm qua, Huyện ủy đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai kịp thời sâu rộng những yêu cầu, nội dung Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị; cụ thể hóa các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên thành các kế hoạch, hướng dẫn để chỉ đạo việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Hội nghị đã nghiêm túc đánh giá những kết quả đạt được cũng như nhìn nhận lại những hạn chế, yếu kém trong suốt thời gian 3 năm qua; trên cơ sở đó thảo luận, trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm, những cách làm hay, sáng tạo trong học tập và làm theo gương Bác; đề ra những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để thực hiện học tập và làm theo gương Bác có hiệu quả hơn trong thời gian tới.

Nhìn chung, qua 3 năm triển khai thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị tại huyện Thăng Bình, đã tạo được sự chuyển biến tích cực trong nhận thức, hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đa số cán bộ, đảng viên đều thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cũng như các quy định của địa phương; tinh thần trách nhiệm, tính tự giác, chủ động, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ được nâng lên, nhiều cán bộ, đảng viên đã tăng thời gian làm việc vào các ngày thứ bảy, chủ nhật để hoàn thành công việc, phong cách công tác của đa số đảng viên, cán bộ có chuyển biến tích cực, xuất hiện các mô hình làm tốt, cách làm hay, chủ động sáng tạo tại nhiều cơ quan đơn vị và các địa phương. Mặt trận huyện Thăng Bình cụ thể hóa phong trào tặng bò giống cho hộ nghèo phát triển sản xuất, Hội liên hiệp phụ nữ

Thăng Bình triển khai khá hiệu quả phong trào “Thực hành tiết kiệm” tại 161 chi tổ hội, với 4.270 phụ nữ tham gia đóng góp 1,3 tỷ đồng giúp hội viên nghèo vươn lên trong cuộc sống, Đoàn thanh niên xây dựng 36 mô hình phát triển kinh tế hiệu quả để thanh niên học tập làm theo, Hội nông dân vận động hội viên đóng góp xây dựng 17 ngôi nhà tình nghĩa, nhà nhân ái tặng hộ nghèo ổn định chỗ ở, hàng ngàn hộ dân hiến đất làm đường giao thông, dồn điền đổi thửa xây dựng nông thôn mới…

Tại Hội nghị, UBND huyện đã tặng giấy khen cho 21 tập thể và 33 cá nhân có thành tích trong học tập và làm theo gương Bác.

Nguyễn Thị Ngân

Phú Ninh triển khai, quán triệt quyết định 217, 218 của Bộ Chính trị (khoá XI):

Sáng ngày 16-5, Huyện ủy Phú Ninh tổ chức hội nghị triển khai, quán triệt Quyết định 217, Quyết định 218 của Bộ Chính trị (khóa XI). Có 260 đồng chí là cán bộ chủ chốt của huyện, cán bộ chủ chốt của xã, thị trấn; cán bộ phụ trách công tác dân vận, cán bộ phụ trách công tác Tuyên giáo, cán bộ phụ trách công tác Văn phòng Đảng uỷ, Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận và các đoàn thể xã, thị trấn dự hội nghị.

Tại hội nghị các đồng chí được nghe đồng chí Nguyễn Cảnh- TUV, Bí thư Huyện uỷ quán triệt Quyết định 218-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị về việc “ban hành Quy định về việc Mặt trận TQVN, các đoàn thể chính trị-xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền” và thông tin tình hình Trung Quốc đặt giàn khoan HD-981 ở thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam và định hướng công tác tuyên truyền trong thời gian đến; Đồng chí Bùi Võ Quảng- Phó Bí thư Huyện uỷ quán triệt Quyết định 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị về việc

Đ/c Hồng Quốc Cường - Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy trao giấy khen cho các cá nhân có thành tích trong học tập và làm theo tấm gương

đạo đức Hồ Chí Minh. - Ảnh: Ngân Ánh.

Quang cảnh Hội nghị. - Ảnh: NL

TIN HOAÏT ÑOÄNG

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 6/201432

“ban hành quy chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận TQVN và các đoàn thể chính trị-xã hội”; Đồng chí Đỗ Xuân Phong-HUV, Phó Trưởng Tuyên giáo Huyện ủy quán triệt Chỉ thị của Ban Thường vụ Huyện ủy về lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Quyết định số 217-QĐ/TW, Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị (khóa XI) và triển khai kế hoạch của Ban Thường vụ Huyện ủy về tổ chức học tập, quán triệt và triển khai thực hiện 02 Quyết định trên.

Phát biểu bế mạc hội nghị, đồng chí Bùi Võ Quảng- Phó Bí thư Huyện uỷ yêu cầu các cấp uỷ đảng, Mặt trận, các đoàn thể từ huyện đến cơ sở xây dựng kế hoạch tổ chức quán triệt Quyết định 217 và Quyết định 218 của

Bộ Chính trị (khoá XI) sâu rộng đến cán bộ, đảng viên, đoàn, hội viên và nhân dân nắm bắt để tham gia thực hiện đạt kết quả; đồng thời, đồng chí yêu cầu các cấp uỷ đảng trên cơ sở định hướng tuyên truyền về tình hình biển Đông của đồng chí Bí thư Huyện uỷ tổ chức tuyên truyền, định hướng tư tưởng cho cán bộ đảng viên nắm rõ chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong việc bảo vệ độc lập, chủ quyền của Tổ quốc, giữ gìn môi trường hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển; giải quyết mọi tranh chấp trên biển bằng ngoại giao, các giải pháp hòa bình.

Ngọc Lâm

bác sĩ Tuấn ở đây chữa bệnh lâu dài cho bà con thì mừng lắm”.

Trước sự yêu thương, quý mến và tin gửi của bà con trên đảo nên dù cuộc sống còn nhiều khó khăn bác sĩ Tuấn đã không nỡ lòng rời xa bà con, anh đã tình nguyện ở lại chăm sóc sức khỏe cho bà con nơi đây, xem đảo như là quê hương thứ hai của mình. Anh tâm sự: “Ai cũng chọn cho mình công việc phù hợp lấy đó làm niềm vui trong cuộc sống. Hơn hai mươi năm gắn bó với bà con nơi đây, tôi được rất nhiều đó là sự yêu thương, tin tưởng nên tôi cảm thấy mình rất hạnh phúc. Đó chính là động lực để tôi có thêm nghị lực để gắn bó với đảo, nơi mà gần như toàn bộ tuổi thanh xuân của mình đã cống hiến”.

Những bữa cơm chỉ có một

mình một bếp, người vợ cưới đã hai mươi ba năm nhưng sống cùng anh chẳng được bao nhiêu ngày lại là người thay anh gánh nặng, chu toàn công việc gia đình, nuôi dưỡng con cái, chăm sóc cha mẹ anh bệnh nặng nhiều năm trời tại thành phố Hội An. Nghĩ về người vợ yêu thương của mình, anh chân thành trải lòng: “Hai mươi ba năm công tác xa gia đình, xa vợ con nên bản thân tôi nhận thấy rằng trách nhiệm của mình với gia đình là chưa làm tròn. May mắn là tôi có một người vợ đảm đang, chịu thương chịu khó. Tôi thấy mình còn nợ vợ, con nhiều lắm. Tôi thật lòng biết ơn vợ đã giúp tôi chu toàn việc gia đình. Vợ tôi vừa nuôi dạy con nhỏ, vừa chăm sóc cha tôi bị di chứng tai biến mạch máu não, mẹ tôi thì già yếu. Mặt khác vợ tôi còn

phải làm nhiệm vụ của một giáo viên tiểu học. Tôi chịu ơn vợ nhiều lắm, đó là một sự hy sinh to lớn giúp tôi yên tâm công tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ ở nơi biển đảo này”.

Ăn một bữa cơm gia đình, hướng dẫn các con học tập,... là việc rất đỗi bình thường nhưng với anh thật khó thực hiện. Dù trong lòng luôn canh cánh nỗi nhớ gia đình, nhớ vợ nhớ con nhưng vì nặng tình, nặng nghĩa với bà con xã đảo Cù Lao Chàm, bác sĩ Tuấn vẫn kiên trì bám đảo, bám dân. Thật đáng trân trọng và khâm phục những người thầy thuốc như anh, sẵn sàng hy sinh hạnh phúc của bản thân để bảo vệ, giành lấy những hạnh phúc lớn lao hơn đó chính là sức khỏe, niềm vui và sự bình yên của bà con trên đảo.

HỘP THƯTrong tháng qua, Bản tin “Thông tin Tuyên giáo” của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã nhận được nhiều tin, bài, ảnh của các cộng tác viên: Đình

Hiệp, Thúy Ưu, Nguyễn Hiếu Trung, Minh Hiền, Nguyễn Thị Phượng, Mỹ Lệ, Hoàng Việt, Nguyễn Thị Vân,... nhưng do số lượng trang in có hạn nên chúng tôi sẽ tiếp tục sử dụng và đăng tải vào các số sau.

Ban biên tập rất mong nhận được sự tham gia, cộng tác nhiệt tình và đóng góp ý kiến của các cộng tác viên trong thời gian đến.Các tin, bài viết cũng như mọi ý kiến góp ý xin gửi về hộp thư điện tử: [email protected], địa chỉ: phòng Thông tin, Ban Tuyên

giáo Tỉnh ủy, số 16 - Trần Quý Cáp, tp. Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.Kính chúc quý cộng tác viên hạnh phúc, thành đạt.Chân thành cảm ơn!

(Tiếp theo trang 30)Người thầy thuốc...