nha ca-intro

6

Click here to load reader

Upload: conotos

Post on 13-Jun-2015

305 views

Category:

Education


0 download

DESCRIPTION

©Dong Tac Giao Luu 2012

TRANSCRIPT

Page 1: Nha ca-intro

VẤN ĐỀ NAN GIẢI DỊCH CHƯƠNG NHÃ CA TRONG CỰU ƯỚCTÁC PHẨM MỸ TÌNH DỤC TUYỆT TÁC CỦA NHÂN LOẠI

TS PHẠM TRỌNG CHÁNHNhã Ca là một tác phẩm văn chương cổ đại của dân tộc Do Thái, cách chúng ta khoảng 630 năm

trước Tây lịch. Một áng văn chương trữ tình, mỹ tình dục nói lên lời yêu đương tình cảm và thân xác đôi trai gái. Một tác phẩm tuyệt tác trong kho tàng văn học nhân loại. Vào thời đại đồ sắt, nước Do Thái bị chia đôi làm hai nước và 12 bộ tộc, để thống nhất dân tộc Do Thái bị chia rẽ, ảnh hưởng việc vua Ai Cập đương thời chủ trương một vị thần duy nhất là thần Mặt Trời, thay vì hàng ngàn thần, vị vua đương thời Josias đã đề ra 7 điều thống nhất: Một vị thần Yavée duy nhất cho dân Do Thái, một dân tộc duy nhất, một vị vua duy nhất, một bộ sách giáo khoa duy nhất, một thủ đô duy nhất là Jérusalem, một ngôi đền duy nhất, một nghi lễ tôn giáo Do Thái Giáo duy nhất. (Xem Israël Finkelstein et Neil Asher Silberman. La Bible dévoilée. Bayard. Paris 2002.)

Bộ sách giáo khoa Cựu Ước duy nhất của dân tộc Do Thái, được các « học giả tiên tri » đương thời san định từ 39 quyển sách chép tay trên da cừu... Gồm bốn đề mục: 5 quyển sách của Moise, 12 quyển sách về các vua Do Thái, 5 quyển sách văn thơ, và 17 quyển sách các tiên tri. Còn khoảng 40 quyển khác có kể tên nhưng đã thất truyền. Sự ra đời của Cựu Ước đồng thời tại nhiều nơi trên thế giới, chữ viết đã hoàn chỉnh, chữ viết đầu tiên của nhân loại được tìm thấy trên thẻ đất nung vùng Lưỡng Hà, trên mai rùa tại Trung Quốc. Tại Trung Quốc Khổng Tử san định Tứ Thư, Ngũ Kinh chép trên các thanh tre (thanh sử). Tại Ấn Độ các nhà sư Phật Giáo tổ chức kết tập kinh điển ghi chép những lời Phật dạy chép trên lá bối, lá buôn và kết lại bằng hai sợi dây hai đầu gọi là kinh. Tại Hy Lạp, Thơ Homère được ghi chép trên giấy da, Aristote chép lại những lời dạy của Socrate, Platon.Tại Ai Cập sách Tử Thư viết về việc ướp xác, dẫn hồn người đi về cõi bất tử, chép trên giấy thủy trúc, dòn dễ gãy. Nền văn minh Hy Lạp đã tiếp nối Ai Cập thiết lập tại Alexandrie và Athène những thư viện đầu tiên với hàng trăm ngàn cuộn sách da. Hiện nay trong số 1600 văn bản giấy da trước công nguyên, tìm thấy được ở Ai Cập, phân nửa là văn bản thơ Homère. Có hai vùng biết làm giấy trong thời đại này là vùng Ai Cập làm giấy bằng cây thủy trúc và Nam Trung Quốc, Giao Châu làm giấy bằng vỏ cây dó, cây tràm. Ngày xưa chưa có kỹ thật để nghiền gỗ thành bột giấy, kỹ thuật làm giấy thủ công nghệ dùng thân cây thủy trúc mềm, lột vỏ cán mỏng, hay vỏ cây dó cây tràm bốc ra thành từng tờ, dùng một lớp nhựa cây, hay bột nấu là có thể kết dính thành giấy như làm bánh tráng. Nhưng giấy tại Giao Châu mềm và bền hơn. Thế kỷ thứ 10, thương thuyền Á Rập, bắt cóc được một người Giao Châu đem về để dạy nghề làm giấy, từ đó kỹ thuật làm giấy tại các nước Á Rập phổ biến sang Tây Phương.

Năm quyển sách văn thơ trong Kinh Thánh gồm: Gióp, Thi Thiên, Châm Ngôn, Truyền Đạo và Nhã Ca.

Tương truyền chương Nhã Ca của Vua Salomon, nhưng có lẽ là những bài thơ vua Salomon ưa thích thì đúng hơn, vì các bài thơ tả tình yêu của một cô gái thành Jerusalem với một anh chăn cừu, và có đoạn tả vua Salomon, lẽ nào vị vua lại tả mình. Chương Nhã ca gây rất nhiều tranh luận, và làm khó chịu các nhà tu hành Do Thái Giáo và Thiên Chúa Giáo. Vì sao một quyển sách nhỏ thơ dâm tình, hay mỹ tình dục lại lọt vào bộ sưu tập Thánh Kinh ? Có người cho rằng nó dùng để hát trong nghi lễ động phòng hoa chúc. Có người cho đó là tình yêu của Chúa với Giáo Hội, hay Chúa với dân tộc Do Thái. Tuy nhiên toàn bộ các bài thơ này không có câu nào cầu chúa, hay lời của chúa, mà chỉ nói chuyện tình yêu, tình dục tự nhiên, không theo phép tắc lễ nghĩa đương thời, nhất là luật Do Thái, trai gái giữ trinh tiết trước khi hôn nhân. Các bản dịch cố gắng giảm bớt những sống sượng, thay vì gọi là âm hộ thì gọi là cái rún hay ổ gà « Rún nàng giống như cái ly tròn, rượu thơm không có thiếu » Thánh Kinh, Nhã Ca tr 794. Bài thơ thứ chín lược dịch động tác làm tình lộn ngược 6/9: « Và ổ gà mình như rượu ngon... Chảy vào dễ dàng cho lương nhơn tôi. Và tuôn nơi môi kẻ nào ngủ. » Kinh Thánh, Nhã Ca 7:6 trang 795.

(Bài gửi cho Ban biên tập Dong Tac Giao Luu ©2012) 1

Page 2: Nha ca-intro

Trong tiến trình văn minh của nhân loại, sau thời gian xuất hiện khoảng 5 triệu năm của con người, văn minh nhân loại chỉ xuất hiện mới khoảng 5000 năm với nền văn minh Ai Cập, từ ba ngàn năm nay sự tiến bộ nhân loại ngày càng nhanh chóng với sự ra đời các tôn giáo, chữ viết, các bộ sách, các trường ca, sử thi... Các bộ tộc thành hình từ những đơn vị một vài chục ngàn dân, cai trị bởi một người có sức mạnh nên sống lâu hơn những người khác, thuở ấy nhân loại chỉ thọ trung bình khoảng 30 tuổi, nhưng thời ấy chưa phát minh ra số, các chữ viết con số có nguồn gốc tại Ấn Độ thời Đức Phật. Do đó trí nhớ người thời cổ đại trong Thánh Kinh Do Thái thường gán cho họ sống 400, 500, 200 năm, ông Bành Tổ của Trung Quốc sống đến 900 năm. Yahvé của dân tộc Do Thái có nguồn gốc là một thầy mo, thầy phù thủy, thầy đồng bóng, hay còn gọi là tiên tri, lãnh tụ của bộ tộc tương tự như vua Hùng Vương của Việt Nam ta, có nguồn gốc là một người có sức mạnh giết được con cá sấu hung dữ (đánh thủy quái), chặt được cái cây to lớn (đánh mộc tinh), đánh bây được con cáo khôn ngoan phá hoại mùa màng (đánh hồ tinh)... được dân chúng kính phục tôn làm lãnh tụ. Các « tiên tri » làm được các phép lạ, biết dùng cây cỏ chữa bệnh, biết dùng phân dơi làm nổ, bốc cháy hay học được phép đi trên lửa, cầm than hồng trên tay, chạy phóng nhanh trên núi, chạy lướt trên nước (điều này không lạ với sự luyện tập phái võ Thiếu Lâm, hay các nhà sư Tây Tạng...) Tiên tri, thầy mo, thầy phù thủy, ông đồng, bà bóng có mặt khắp các nền văn minh, nối dây liên hệ giữa người sống và người chết. Ngày nay chúng ta với cặp mắt hiện đại nhìn việc « lên đồng » là « mê tín », nhưng lên đồng có một vai trò rất quan trọng trong lịch sử văn minh con người. Vì bản năng con người do sự chống chọi với thiên nhiên, bảo vệ sinh tồn của mình nên rất hiếu chiến, hiếu chiến với các bộ lạc khác, và hiếu chiến cả với những người lân cận, người lên đồng dựa trên sự quan hệ với thần thánh, để thiết lập sự cai trị. Ở vùng cận đông gọi là các nhà tiên tri, họ là người tự nhận có năng khiếu mặc khải được với thần thánh. Họ là người duy nhất tiếp xúc được với thần thánh, sau một nghi lễ cúng tế múa may, thần nhập vào họ phán truyền. Những điều được xem là lời Chúa, lời Yahvé, truyền qua lời các tiên tri. Ở Hy Lạp nên văn minh tiến xa hơn, nơi đầu tiên hình thành các khoa học, họ xem « lên đồng » là nguồn gốc của kịch nghệ, người kịch sĩ viết kịch nhập vai nhân vật, và họ đùa bơn cả với các thần thánh Hy Lạp. Trong Odyssée của Homère có đoạn biểu diễn một vở hài kịch thần Vệ Nữ ngoại tình với thần Chiến tranh, bị chồng là Thần Hoả Thái làm máy bây trên giường bắt nhốt hai thần dính vào nhau không cục cựa được, phải nhờ các thần khác hoà giải, bảo lãnh mới được tha.

Trong buổi bình minh con người, người tiên tri « lên đồng » thiết lập trật tự trong cộng đồng: Ví dụ Anh A đánh anh B mù mắt, hay gãy răng, qua hôm sau anh B trả thù, ăn gan, uống máu anh A, bỏ anh A vào nồi nấu, hay « xơi tái ». Các sự kiện này vẫn còn xay ra ở các bộ tộc các đảo Thái Bình Dương, hay Châu Phi cách đây vài chục năm. Làm thế nào để người tù trưởng thiết lập luật lệ: Anh A đánh B mù con mắt, thì B chỉ có quyền đánh A lại mù mắt. A đánh B gãy răng, thì B đánh lại A gãy răng, không có quyền bỏ A vào nồi ăn thịt. Tù trưởng mà ăn nói lơ mơ, có khi B sẽ ăn thịt cả tù trưởng. Để thiết lập uy quyền tù trưởng, ban đêm đốt lửa lên đồng, uống rượu hay dùng các cây cỏ kích thích, nhảy múa và đóng kịch: Thần Yahvé hiện ra phán rằng: « A đánh B đui một mắt, thì B đánh lại A đui mắt, A đánh B gãy răng thì đánh lại nó gãy răng, mi ăn thịt nó sẽ bị Yahvé trừng phạt móc cổ mi ói mửa ». Yahvé là thần khai sáng cả vũ trụ, sanh ra muôn loài, chúa tể vũ trụ, chẳng ai biết ; nhưng ói mửa là việc có thật do ăn thịt sống không tiêu, nên rạp mình cầu xin Yahvé tha tội, và được tiên tri cho cây lá chữa bệnh. Tấm gương B bị Yahvé trừng phạt được loan truyền thế là luật: « mắt thay mắt, răng thay răng » được thiết lập.

Yahvé xuất thân là người thủ lãnh có làm nhiều điều tốt, dân chúng nhớ ơn, nên các đời sau khi có điều gì khó khăn đều lên đồng, cầu Yahvé qua miệng người tiên tri phán xét: Kinh Ê sai, Thánh Kinh trang 800 3:16 ta nghe lời lẽ một người « lên đồng » mắng các cô gái Si ôn lẳng lơ:« Đức Giê hô va phán rằng:« Vì những con gái Si ôn kiêu ngạo, ngóng cổ bước tới, liếc mắt trêu ngươi, vừa đi vừa ong ẹo, vừa khua động tiếng dưới chơn, nên Chúa sẽ làm cho đỉnh đầu con gái Si ôn đóng vẩy và Đức Giê hô va sẽ

(Bài gửi cho Ban biên tập Dong Tac Giao Luu ©2012) 2

Page 3: Nha ca-intro

lột truồng chúng nó. »Thời cổ đại, vùng Sion ít sông suối các cô gái ít tắm gội, tóc dài trùm khăn kín cả người, bị gàu

đóng vẩy trên đầu, ngứa ngáy. Quen trùm khăn đen cả người chỉ thấy có hai con mắt, bị Yahvé doạ lột truồng là một « hình phạt khủng khiếp ». Chương Khải Huyền nói về tận thế chúng ta thấy tiên tri hay người lên đồng dùng ma túy kích thích, nên hình ảnh chập chờn, nói lên những lời siêu thực.« Đoạn, tôi thấy ở dưới biển lên một con thú có mười sừng, bảy đầu, trên những sừng có mười cái mão triều thiên và trên những đầu có danh hiệu sự phạm thượng. Con thú tôi thấy đó giống như con beo, chơn nó như chơn gấu, miệng như miệng sư tử và con rồng đã lấy sức mạnh, ngôi và quyền phép lớn mà cho nó… » Khải huyền 12.12 tr 318.

Đồng thời với Thánh Kinh, trong Truyện Thơ Odyssée của Homère, Ulysse, vua một bộ tộc Hy Lạp đảo Ithaque cũng cầu tiên tri Tirésias để báo cho các biến cố sắp đến, và gặp lại mẹ đã mất, cũng như gặp lại hồn các phu nhân, các anh hùng Hy Lạp. (Xem Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh. Truyện Thơ Odysée. Thi hào Homère qua 12110 câu thơ lục bát. Khuê Văn Paris 2005 ; tr 85-195.)

Trong Sử thi Iliade, tiên tri Calchas đi theo đoàn quân đánh thành Troie, khi khai quân, khi có trận dịch, hay khi có điềm chim trời, thường cầu đảo, cúng tế để tìm ra câu giải đáp: (Xem Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh. Sử thi Iliade Thi hào Homère qua 16933 câu thơ lục bát. Khuê Văn Paris 2009.)

Thời thượng cổ, con người sống rất đơn sơ. Người ta chỉ biết có mẹ, mà không biết có cha. Loài người còn sống trần truồng sống hái lượm cây trái trong rừng, sau khi ăn xong bên đống lửa thì thích ai làm tình nấy, nên không biết ai là cha. Dần dà việc săn thú ăn thịt làm bộ óc con người phát triển hơn, đàn ông đi săn trở nên có sức mạnh họ dành riêng những người đàn bà cho mình. Nhưng loài người vẫn còn đa thê, đàn ông nhiều vợ. Từ đó mới có tình yêu nam, nữ. Đến Đức Jésus dạy dỗ gia đình chỉ một nam, một nữ và tình thương yêu và gia đình, một tiến bộ nhân bản của nhân loại. Giá trị đó ngày nay trở thành luật lệ và đạo đức cho toàn nhân loại. Và ngày nay chúng ta dùng giá trị đó để phán xét lại các thời đại trước.

Bản năng con người có nhiều động thái súc vật, tiềm ẩn, không chỉ tham sân si, mà còn dục vọng, thích ăn thịt người, thích dâm dục. Một vị Tổng Giám Đốc ngân hàng quốc tế FMI, tài giỏi biết bao, dân chúng Pháp sẵn sàng bầu làm Tổng Thống, thế mà không kiềm chế nổi cái dục, để cô bồi phòng xấu xí kiện cáo, thế là sự nghiệp tan tành ra mây khói. Một quan tòa, đang giữa phiên toà bổng rơi vào tình trạng mất trí, ngồi thủ dâm. Một nghiên cưu sinh du học tại Pháp, con một nhân vật quan trọng Nhật Bản, ăn thịt một cô bạn người Hoà Lan tại Paris. Một thanh niên người Đức tìm người để ăn thịt trên internet, thế mà cũng có người tìm đến để được ăn thịt... Không phải chuyện cách đây hai ba ngàn năm mà là chuyện trong thế giới hiện đại.

Nghi lễ ăn mình Chúa, uống máu Chúa trong Thiên Chúa Giáo, đáp ứng được nhu cầu bản năng con người thời nguyên thủy còn tồn tại trong mỗi cá nhân, thích ăn thịt uống máu lẫn nhau. Chương Nhã Ca trong Thánh Kinh đáp ứng nhu cầu thích nói chuyện dâm tục trong mỗi con người, người nông dân gặp nhau sau vụ gặt, nói chuyện với nhau rồi cũng đem chuyện dâm ra đùa bơn, ngày nay bạn bè cũ lập lại thành một mạng trên internet, trao đổi nhau thế nào cũng có những chuyện cười dâm tục. Chương Nhã Ca trong Thánh Kinh đáp ứng nhu cầu tiềm tàng dâm tục của con người.

Trong các tác phẩm dân ca văn chương của người da đỏ tại Mễ Tây Cơ, Péru... họ mô tả cảnh làm tình, tinh dich bắn tung tóe vào mặt rất tự nhiên. Tại Ấn Độ những đền tháp Khajuraho đầy tượng điêu khắc cảnh làm tình tập thể, người lớn với con nít, trai gái lẫn lộn, cả cảnh ngựa với người, voi với người thật hỗn loạn, làm cho người nhìn đã đời no nê cái bản năng dâm tục tiềm ẩn trong mỗi người.

Thiên Chúa Giáo có nguồn gốc từ Do Thái Giáo, Chúa Jésus giảng dạy những điều không ngoài bộ sách này, nhưng bản tính cương trực, đuổi các người buôn bán thần thánh ra khỏi nhà thờ, nên không được các lãnh đạo Do Thái Giáo đương thời chấp nhận, nên họ vu cáo là “cách mạng” chống chính quyền đô hộ của La Mã đương thời. Chúa Jésus bị bắt và xử tử đóng đinh năm 33 tuổi. Các môn đệ bị truy lùng với lòng mơ ước Jésus không chết, còn sống sẽ trở lại, phải lẫn tránh đi khắp nơi để

(Bài gửi cho Ban biên tập Dong Tac Giao Luu ©2012) 3

Page 4: Nha ca-intro

truyền đạo qua khắp các nước Cận Đông, họ bị bức tử, cấm đạo khắp nơi, người ngoài dân tộc Do Thái ngày một nhiều và biến thành một tôn giáo cả hoàn cầu. Nhưng tôn giáo này vẫn giữ bộ sách nguyên thủy làm sách duy nhất của dân tộc Do Thái giảng dạy ngày nay gọi là Cựu Ước và Tân Ước gồm 27 quyển là 4 môn đệ kể chuyện Chúa Jésus và lời Thánh Paul được xem là người tổ chức sáng lập tôn giáo. Khác với các kinh điển đạo Phật, đạo Khổng chỉ dạy lời đạo đức ; Quyển Cựu Ước kể trong sách tất cả những xấu xa, tội lỗi của cuộc đời: chuyện anh em giết nhau, cha lấy con loạn luân, thành Sodome làm tình hỗn loạn, con người thờ tiền bạc, thờ bò... Bản chất con người là tội lỗi, chỉ Yahvé mới cứu được con người.

Bản dịch Thánh Kinh đầu tiên được các vị Thừa Sai Bồ Đào Nha và Pháp soạn thảo tại Việt Nam từ thế kỷ 17, các vị thừa sai ngoại quốc mới học tiếng Việt vài ba năm nên dịch kinh lời lẽ ngây ngô. Người đọc không thông, không hiểu Nhã Ca nói gì, chữ nghĩa chập chờn kỳ quái, lại thêm các giống cây cỏ, hương liệu, hình ảnh sa mạc, đàn dê, đàn cừu, các địa danh Do Thái tiếng Việt không có, phải Việt hóa ra sao ? Ta thử đọc một đoạn:“Nguyện người hôn tôi bằng cái hôn của miệng người.Vì ái tình chàng ngon hơn rượu,Dầu chàng có mùi thơm tho;Danh chàng thơm như dầu đổ ra;Bởi cớ ấy các gái đồng trinh yêu mến chàng.Hãy kéo tôi; chúng tôi sẽ chạy theo chàng.Vua đã dẫn tôi vào phòng Ngài.Chúng tôi sẽ vui mừng và khoái lạc nơi chàng.”

Đoạn thơ tả cô gái xinh đẹp cái gì cũng sánh đôi không gì riêng lẻ (Chacun a sa jumelle et nulle n’en est privée): hai gò má, hai cái môi, hai cái vú thì lại hiểu lầm là con cừu thảy đều sanh đôi, không con nào son sẻ:“Hỡi bạn tình ta, nầy mình đẹp đẽ thay, mình đẹp đẽ thay !Mắt mình trong lúp giống như mắt bồ câu;Tóc mình khác nào bầy dê nằm nơi triền núi Ga-la-át,Răng mình như thể bầy chiên mới hớt lông,Từ ao tắm rửa đi lên,Thảy đều sanh đôi, không một con nào son sẻ.Môi mình tơ sợi chỉ hồng,Miệng mình có duyên thay,Má mình trong lúp tợ như nửa quả lựu.Cổ mình như tháp Đa vít, xây cất để treo binh khí,Ngàn cái khiên treo tại đó, là các khiên của tay anh hùng.Hai nương long mình như cặp con sanh đôi của hoàng dương,Thả ăn giữa đám hoa huệ. “Câu: Mon bien aimé est frais et vermeil (Người yêu tôi tươi mát và hồng hào) dịch thành: Lương nhân tôi trắng và đỏ.

Tóm lại hàng bao nhiêu năm qua, bao triệu người Việt Nam đọc bản Nhã Ca, Kinh Thánh mà chẳng ai hiểu gì cả ! Hiểu trật và dịch trật từng câu. Nêu hết các câu trật có người lại hiểu lầm là chống lại thánh kinh, lỗi đức bác ái. Bao năm qua hàng trăm vị linh mục, mục sư được du học, đỗ Tiến Sĩ Thần Học, nhiều vị sáng suốt đã thấy khuyết điểm này, nhưng lại bị kẹt giữa vấn đề làm linh mục, mục sư mà phải dịch những đoạn thơ đầy dục tình, tả thân thể người con gái, tả việc làm tình thì “tội nghiệp” cho chức vị linh mục. Các vị giỏi tiếng Pháp thì tiếng Việt lại không rành, không biết làm thơ Việt. Người biết làm thơ lại không rành tiếng Pháp, thì nói chi phải tham khảo bằng tiếng Do Thái và từng đi qua vùng này để thấy cây cỏ, khí hậu. Vấn đề khó khăn là phải dịch làm sao cho thấy cái tình

(Bài gửi cho Ban biên tập Dong Tac Giao Luu ©2012) 4

Page 5: Nha ca-intro

yêu thanh tao, trinh khiết của đôi trai gái mà không sa vào dâm tục. Từ tình yêu vùng sa mạc xứ nuôi dê, cừu, chuyển vào Việt Nam đã thấm nhuần đạo đức Phật Giáo, Khổng Giáo mà không thấy chướng tai, gai mắt.

Những điều ngày xưa, xem là thiêng liêng không ai dám đụng đến đều được các nhà khoa học, các nhà chuyên môn đem ra khảo sát. Thời Trung Cổ, quyển Kinh Thánh chỉ dành riêng cho các linh mục, đọc và diễn giảng cho tín đồ. Từ thế kỷ 15 đạo Tin Lành ra đời chủ trương mọi tín đồ đều đọc được Kinh Thánh. Ngày nay thì ai cũng có thể mua Kinh Thánh để đọc để biết trong Kinh Thánh viết gì ?. Chương Nhã Ca trong Thánh Kinh người Do Thái không phải là lời Chúa mà chỉ là một tác phẩm văn chương. Cái hay cái đẹp của tác phẩm này phải được dịch ra để người Việt Nam hiểu rõ, để thưởng thức, không thể để tác phẩm trong mơ hồ, xem sự mơ hồ là siêu việt, thiêng liêng, người nào không hiểu cái siêu việt đó là dốt thì cũng giống như chuyện ông vua ở truồng của Andersen, bị lường gạt bởi hai tên gian manh là mặc bộ áo trí tuệ, người thông minh mới thấy. Vua không hiểu nhưng sợ mình dốt nên hãnh diện trong sự trần truồng của mình, quần thần nịnh bợ ca tụng là vua mặc áo trí tuệ, thi sĩ tâng bốc áo người đại trí, dân chúng sợ hãi uy quyền không dám nhìn và cứ thế vua trần truồng nhỡn nhơ đi kiệu cả ngày trong thành, cho đến khi một em bé cất tiếng: « Vua trần truồng như nhộng », thì vua và mọi người mới tỉnh thức.

Kinh Kim Cương Phật Giáo được Bảng nhãn Lê Quý Đôn ca tụng không tiếc lời, nhưng thi hào Nguyễn Du đọc nghìn lượt vẫn thấy: Những ý nghĩa gọi là sâu xa trong đó phần nhiều không rõ ràng và quan niệm rằng Nghìn lời lưu lại ích chi, chỉ để bọn ngu tằng đời sau đọc điếc tai người ta. Không ai cho rằng Nguyễn Du phản đạo, phá hoại đạo, ma quỷ xúi dục, mà mọi người đều đồng ý với Nguyễn Du. Kinh điển, văn chương, thi ca cũng phải rõ ràng, để ai cũng hiểu được, nếu mọi người không hiểu thì lẽ vì đâu ? Nhiệm cụ của dịch giả, của nhà văn, nhà phê bình, nhà nghiên cứu phải làm sáng tỏ. Bản dịch Nhã Ca được các vị thừa sai thiếu trình độ dịch thuật, chữ nghĩa lủng củng, câu cú không thông, cần phải được dịch lại.

Giáo Sư Đào Mộng Nam cũng đã dịch chương Nhã Ca và in thành sách tại California nhưng bản dịch vẫn chưa đáp ứng lại điều mong muốn. Tôi đã từng học Hán Văn với GS Nam tại Hội Khổng Học Sài Gòn, năm 1967.

Tôi có hai người bạn rất thân là: Giáo Sư Võ Thu Tịnh, tác giả các sách Giáo Khoa Việt Văn Trung Học, từng là môn sinh của Giáo Sư Nghiêm Toản tại Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. Giáo sư Tịnh giảng dạy Văn Chương Việt Nam đào tạo các mục sư Tin Lành tại Hải Ngoại và Giáo Sư Tiến Sĩ Phạm Đán Bình, linh mục dòng Xuân Bích Saint Sulpice, phụ trách Ban Việt Học. Trường Ngôn Ngữ Phương Đông, Viện Đại Học Paris VII.

Biết tôi ngoại đạo nhưng đã có kinh nghiệm dịch thơ chữ Hán của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du và mười năm dịch Odyssée và Iliade, 30.000 câu thơ ra thơ lục bát, tác phẩm nổi tiếng khó dịch thơ nhất của nhân loại, hai vị tặng cho tôi các quyển Thánh Kinh Pháp và Việt và nhờ tôi làm công việc khó khăn này. Theo hai vị thì sách Nhã Ca khó dịch nhất, và dịch thành thơ Việt thành công thì xưa nay chưa ai làm được. Và sau đây là bản dịch của tôi: theo La Bible de Jérusalem. Eds du Cerf & Desclée de Brouwer Paris 1999, và quyển Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước. United Bible Societies in tại Đại Hàn năm 1994. Ngoài ra tôi còn tham khảo La Bible. Nouvelle traduction Bayard 2001 và Ancien Testament. Traduction œcuménique de la Bible. Eds Cerf. 1977. Các sách này dễ dàng có được nên bài viết này lược bớt phần trích dẫn bản dịch tiếng Pháp, tiếng Anh, để nguyên tác chữ Do Thái thì cũng chẳng ai đọc được.

Tiếc thay lúc hai vị nhờ tôi, thì tôi đang bận phải hoàn tất hai quyển Odyssée và Iliade ra thơ lục bát và bận soạn quyển Tự Điển Tình Yêu bằng thơ tình Xuân Diệu mà nhà thơ Xuân Diệu ký thác tôi toàn bộ di cảo từ năm 1981. Bây giờ tôi dịch xong thì GS Võ Thu Tịnh và LM Phạm Đán Bình đã qua đời hai năm rồi. Bản dịch này để tưởng nhớ hai người bạn vong niên thân thương.

Mục đích bản dịch này, là mong chuyển được cái hay cái đẹp của thi ca cổ đại Do Thái ra Việt

(Bài gửi cho Ban biên tập Dong Tac Giao Luu ©2012) 5

Page 6: Nha ca-intro

ngữ, để mọi người Việt Nam thưởng thức. Và bác bỏ cái thần thoại, hiểu theo nghĩa nông cạn đây là lời Chúa phán truyền, tự tay Chúa hay sai các tiên tri chép ra, mà phải hiểu và đặt câu hỏi: vì đâu con người thích hướng đến cái đẹp, cũng như cái chân, cái thiện. Cái đẹp nó tồn tại từ ba ngàn năm qua. Người dịch giả không chịu được những câu thơ xấu xí, thô kệch, hiểu sai làm cho một áng văn kiệt tác bị vùi vào vũng bùn. Người Hồi Giáo gọi cái đẹp là Thượng Đế, người Thiên Chúa Giáo gọi tình yêu là Thượng Đế. Cái cao vời tuyệt diệu nằm trong đó. Chứ không phải là một chương, một quyển sách nhân danh là của Thượng Đế.

Paris 6-12-2012P.T.C

*Tiến Sĩ Khoa Học Giáo Dục. Viện Đại Học Paris V Sorbonne. Tác giả: Hồ Xuân Hương, Nàng Là Ai ?. Thơ Tình Nhất Uyên (Huy Cận, Xuân Diệu đề tựa). Cánh chim từ vùng lửa đỏ (Thơ Nhất Uyên, nhạc Tôn Thất Lập), Truyện Thơ Odyssée, Sử Thi Iliade bằng thơ lục bát. Tự Điển Tình Yêu bằng Thơ Tình Xuân Diệu. Nguyễn Du mười năm gió bụi... và nhiều công trình nghiên cứu về Giáo Dục và Văn Học Việt Nam.

(Bài gửi cho Ban biên tập Dong Tac Giao Luu ©2012) 6