nhêîn thò ankhanhphong.users.sourceforge.net/documents/nhanthian.pdf · trong dòng đời, con...

48
Nhêîn thò An Tkheo THÍCH THIN PHÁP

Upload: others

Post on 11-Jan-2020

10 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Nhêîn thò An Tỳ kheo THÍCH THIỆN PHÁP

Nhẫn thì an 2

Nhêîn thò an “Nhẫn là thuyền vững chắc

Giúp ta vượt sóng gió.

Nhẫn là nước cam lồ

Rưới tắt lửa tham sân.

Nhẫn là vị thuốc hay

Cứu bệnh trong cơn nguy.

Nhẫn là tạng kho báu

Chứa giữ các công đức”.

hái tử Tất Đạt Đa đã thành Phật cách đây hơn

hai ngàn năm trăm năm nhờ tu hạnh nhẫn nhục

không chỉ trong một kiếp, mà còn trong vô số kiếp.

Điều đó cho thấy rằng đây là một pháp tu rất quan

trọng cho những ai muốn vượt phàm nhập thánh,

hay nói một cách rất đơn giản là xa lìa phiền não để

được an lạc giải thoát.

Trong dòng đời, con người thường sống bằng sự

tạo nghiệp nên dễ nóng nảy, buồn phiền, giận hờn,

làm khổ lẫn nhau. Từ mê chấp sanh phiền não, rồi

tham lam, ganh ghét là những nhân tố gây đau khổ

cho con người. Vì vậy:

Nhẫn thì an 3

“Muốn an thì nhẫn, đã nhẫn thì an”

Không nhẫn thì không an. Vợ chồng có thương

nhau cho lắm, có duyên nợ với nhau thật nhiều

nhưng nếu không nhẫn thì cuộc sống gia đình vẫn

bất hòa, không an.

Đối trị lòng sân hận

Phật dạy pháp nhẫn nhục

Một pháp môn vi diệu

Tận diệt sự hận thù.

Trên đời này do không nhẫn, do hận thù mà con

người sát phạt lẫn nhau ghê gớm, để rồi con người

làm khổ con người.

Hãy khảo sát về pháp nhẫn để biết đường tu.

Tu là gì?

Tu là sửa đổi, tu là chuyển hóa nghiệp chướng.

Gia đình mà lộn xộn, không đầm ấm, không có niềm

vui là gia đình đầy nghiệp chướng. Con người sống

không có niềm vui, không yên ổn là con người đầy

nghiệp chướng. Có “an” là nhẹ nghiệp, không an là

nặng nghiệp.

Muốn an phải hóa giải nghiệp, hóa giải tâm giận

hờn, tâm hận thù, tâm ác nơi lòng ta. Người ta nói

nặng mình, nếu mình đừng cố chấp, đừng hận thù thì

tâm an, sẽ không gây tội lỗi. Nhẫn là điều quan trọng

Nhẫn thì an 4

để tâm hồn và cuộc sống của chúng ta cảm thấy nhẹ

nhàng, bình an. Nhẫn nói cho đủ là an nhẫn.

Nhẫn nhục hay an nhẫn

Là chịu đựng là chịu khó

Gặp khó khăn chướng ngại

Không than oán, phiền não.

Không có gì an bằng nhẫn, không có gì đẹp bằng

đạo đức. “Nhẫn nhục là nhân cách sống đạo đức cao

thượng, đem đến sự bình yên và hạnh phúc cho mỗi

con người”.

Tại sao gọi là nhẫn nhục? Thế nào là

nhẫn mà có nhục? Nhẫn mà không có

nhục?

Phần đông con người sống bằng tâm phàm nên

lấy ngũ dục, lấy danh vọng, lấy lợi dưỡng làm trọng.

Do chấp thật có ta, nên kẹt về danh, về lợi. Mỗi lần

nhẫn cảm thấy như có nhục, cái danh càng lớn thì

cảm thấy nhục nhiều hơn, tức nhiều hơn. Từ đó hận

thù nhiều hơn, trả đũa nhiều hơn, tội lỗi theo đó

cũng nhiều hơn.

Nhẫn mà không nhục là do có trí tuệ nên không

thấy có tôi và cái của tôi, nên khi nhẫn thì tâm vẫn

bình thường, phiền não chẳng sanh. Quán xét kỹ

thân và ý ta thấy rõ:

Nhẫn thì an 5

Không bao lâu thân này,

Sẽ nằm dài trên đất,

Bị vứt bỏ vô thức,

Như khúc cây vô dụng.

Cái suy nghĩ cũng đâu thật là tôi, vì nó khi có khi

không, lúc vầy lúc khác, không chân thật thường

còn.

Căn trần thức duyên hợp

Ý tưởng liền sanh khởi

Tâm vô thường xuất hiện

Chẳng phải thật tâm mình.

Do thấy có tôi mà có nhục, hãy nhìn vào lẽ thật,

không thấy có mình thì ai nhục đây. Có những

chuyện thường xảy đến với chúng ta trong đời sống

hàng ngày, vậy ta nên xử trí ra sao? Chúng tôi đơn

cử một câu chuyện nhỏ sau đây:

Một hôm, một ông nọ gặp người bạn và nói:

“Hôm qua con nhỏ đó dữ quá! Nó chửi anh ghê

thật!”

Ông bạn đáp: “Ồ! nó chửi người nào chứ có chửi

tôi đâu”.

- Nó kêu tên anh thiệt mà?!

- À, chắc người nào đó trùng tên với tôi.

Nhẫn thì an 6

- Tôi nghe nó chửi anh rõ ràng mà!

Ông bạn mỉm cười đáp rằng: “Thân này mẹ tôi

sanh ra, tên này của ba mẹ tôi đặt, không có cái gì là

thật của tôi. Cái thân này nó đâu thật là của tôi. Còn

cái tâm suy nghĩ kia, nó cũng là vọng tưởng điên

đảo, khi vầy khi khác thì nó đâu phải thật của tôi!”

Do thấy thật của tôi nên nhẫn mà có nhục. Muốn

nhẫn không mà không nhục thì đừng thấy có tôi và

của tôi.

Người ta đang chĩa mũi tên bắn mình, thấy

không chịu nỗi “cần né đòn” để bình yên là người

khôn. Nếu không thấy có ta, mũi tên bắn vào đâu?

Cứ tưởng là ta giỏi, cho mũi tên bắn ngay mình rồi

nhăn nhó, thù hằn, đau khổ. Hãy xét lại mình, nếu

nội lực còn yếu thì tránh là hay nhất.

Trên đời này con người đau khổ vì cái của tôi:

thân tôi, con tôi, ruộng vườn của tôi, nhà cửa của tôi,

tài sản của tôi v.v... Nhưng sự thật cái thân này còn

chưa thật của tôi, thì cái gì là của tôi đây.

Con tôi, tài sản tôi

Người ngu sanh ưu não

Tự ta, ta không có

Con đâu tài sản đâu.

Nhẫn thì an 7

Nó không thật là của mình, nên có mắt huệ nhìn

rõ điều đó để nhẫn mà không nhục. Phải thường

quán chiếu đời là cõi tạm, thân là vô thường.

Mạng sống của chúng ta

Sớm còn tối lại mất

Chỉ trong khoảng sát na

Là đã qua đời khác.

Thân là không thật nên gọi tạm của tôi. Người ta

nói nặng, không thấy có tôi thì lấy ai giận, ai tức, ai

đau khổ. Nhẫn mà không nhục mới là hay.

Trong nhẫn có ba cái nhẫn:

1. Thân nhẫn: Dù cảnh nắng, mưa, nóng, lạnh, dù

bị người đánh đập hay chạm trán với bao nhiêu việc

khó khăn mà thân này vẫn có sức chịu đựng.

Cảnh nắng, mưa, nóng, lạnh

Hành hạ bức não thân

Thân cam chịu không phiền

Được gọi là thân nhẫn.

Người ta đánh mình, hay lỡ người ta đụng vào

người mình thì quán chiếu “cục thịt đụng cục thịt”

thì có chi mà giận. Vì thấy có tôi nên nghĩ rằng nó

ghét tôi, nó đánh tôi nên tôi giận. Không thấy có tôi

thì không phiền não.

Nhẫn thì an 8

Biết thân là giả tạm, khi gặp điều khó khăn

chướng ngại chỉ cần nhẫn là an. Sống như vậy để

không làm khổ mình.

“Nhẫn nhẫn nhẫn, trái chủ oan gia từ đây dứt”.

Nếu tâm đầy cố chấp, nó ghét tôi, nó đánh tôi, nó

thù tôi, thì hận thù không thể nguôi.

Người kia làm khổ tôi đây

Ai còn nghĩ vậy, oán này chưa tan.

Người kia làm khổ tôi đây

Ai đừng nghĩ vậy, oán này tiêu tan.

Phải có mắt huệ nhìn rõ lẽ thật để tạo sự bình an

cho mình và người chung quanh.

2. Khẩu nhẫn:

Sự nhục mạ chua cay

Hoặc mắng nhiếc tồi tệ

Cam chịu không chửi lại

Được gọi là khẩu nhẫn.

“Thần khẩu hại xác phàm” xưa nay kinh nghệm

trong dân gian vẫn thường nhắc nhở nhau câu nói

này. Vậy, đừng để khẩu tạo nghiệp chướng, nên tập

khẩu nhẫn. Có người nọ chửi ông kia thật nhiều,

nhưng ông giữ tâm bình thản không có lời nói nặng

lại, vì biết rằng lời nói chỉ là phương tiện không thật.

Nhẫn thì an 9

“Hạnh phúc cũng từ cái miệng, phước đức cũng từ

cái miệng, tội lỗi cũng từ cái miệng”. Muốn bình yên

phải tu cái miệng. Ai có nói nặng, nhẹ thì cảm nhận

lời nói không thật, không chấp nên không khổ. Chấp

nhiều thì khổ nhiều, chấp nhiều là nặng nghiệp.

Trong một gia đình, nếu người trong gia đình thường

hay giận hờn, cố chấp thì gia đình đó là địa ngục.

Nếu một người đầy buồn phiền, đụng đâu nói đó,

không tu cái miệng, không nhẫn cái miệng thì không

có sự bình an.

Có câu chuyện: Bữa nọ, Đức Thế Tôn trên

đường đi khất thực, có bọn người Bà La Môn đi theo

sau chửi thật nhiều. Đức Thế Tôn vẫn bình thản,

chậm rãi đi từng bước mà không một lời phản ứng.

Tức quá, bọn này mới chặn Đức Thế Tôn lại và hỏi:

- Ông Cù Đàm! Nãy giờ tôi chửi ông như vậy,

ông có nghe không?

Đức Thế Tôn trầm tĩnh mà nói rằng: “Giả sử ông

dọn mâm cơm mời Như Lai ăn, Như Lai không ăn

thì mâm cơm đó ai ăn?”

- Tôi mời ông không ăn thì tôi ăn.

- Hồi nãy giờ ông chửi, Như Lai không nhận thì

tiếng chửi ấy về ai?

Kinh Phật có dạy: “Ngậm máu phun người,

miệng mình dơ trước”, hay “Ngước mặt lên trời

Nhẫn thì an 10

phun nước miếng, nước miếng không lên trời mà rơi

xuống mặt mình” ngụ ý: mình chửi người, mình ghét

người, mình thù người thì tâm mình độc ác, tâm độc

ác là có nghiệp xấu, có tội lỗi. Khi tiếp cận mọi

người mà nói nặng người, chửi mắng người, làm khổ

người thì ta có khẩu nghiệp nặng.

Ác nghiệp làm ta khổ

Phước nghiệp làm ta vui

Khi ta bỏ thân này

Nghiệp theo sát bên ta.

Ta không sợ ai, chỉ sợ ác nghiệp của lòng ta.

Nghiệp từ cái miệng thì quả cũng trổ từ cái miệng.

Nếu không tu cái miệng, thường nói lời ác, sau này

sẽ bị quả báo sứt môi, câm ngọng. Phải nhẫn ở cái

miệng để có lời nói thanh cao, êm dịu và phước đức.

Nghe người nói nặng, trách hờn mà không cãi lại là

nhẫn cái miệng. Vợ chồng thương nhau lắm mà

không nhẫn cái miệng nên gọi là khắc khẩu. Chúng

ta là người phàm sống bằng tâm trần tục nên có lúc

còn nóng giận, nặng lời. Muốn cho gia đình êm ấm,

hòa thuận thì phải nhẫn, lỡ ông nóng thì bà nhịn, bà

nóng thì ông nhịn. Đó là cách sống để tạo sự ấm áp

trong gia đình.

Lời nói phiền trách người là có nghiệp, lâu ngày

thành thói quen gọi là khẩu nghiệp xấu. “Đi đêm có

Nhẫn thì an 11

ngày gặp ma”, hôm nay nói xấu về người đó nhiều

quá, mai mốt gặp người khác họ không nhịn nên

sanh rắc rối. Hãy tu cái miệng, hãy nhẫn cái miệng.

3. Ý nhẫn:

Người đời thường nhẫn cái thân, nhẫn cái miệng,

nhưng ý khó nhẫn.

Đối trước mọi nghịch cảnh

Không khởi tâm phản đối

Không căm hờn, oán hận

Được gọi là ý nhẫn.

Người đời bằng tâm phàm thường nhẫn trong đè

nén, dằn xuống. Cái lò xo đè mạnh xuống, buông ra

nó bung lên rất mạnh. Trái banh quăng vô tường nhẹ

dội ra nhẹ, quăng vô tường mạnh dội ra mạnh. Nhẫn

đè nén cũng vậy. Nhẫn bằng hình thức đè nén khi

chịu đựng không nổi, sát phạt ghê gớm. Phải nhẫn

cái ý bằng cách không chấp, buông xả.

Một thí tất cả thí

Một xả tất cả xả

Thí xả cho sạch hết

Thức thời mặt thật hiện.

Cái gì đáng nghe thì nghe, không đáng nghe thì

xả bỏ. Cái gì luận bàn để có lợi thì nên, không đáng

thì xả bỏ. Nhẫn của đại thừa là xả bỏ, không cố

Nhẫn thì an 12

chấp, không thấy có mình có người. Chuyện đáng

đem vào thì đem, chuyện không đáng thì xả bỏ, như

vậy không có đè nén, xả hết cho tâm được nhẹ

nhàng được gọi là ý nhẫn.

Thân nhẫn, khẩu nhẫn, ý nhẫn thì không có kẻ

thù.

Kẻ thù hại kẻ thù

Oan gia hại oan gia

Không bằng tâm tà vạy

Gây ác hại chính ta.

Nếu không nhẫn, có phản ứng thì có đối thủ.

Kệ rằng:

“Nhẫn một chút, sóng yên gió lặng,

Lùi một bước, biển rộng trời cao”.

Muốn được bình yên thì phải tập “nhẫn một chút,

lùi một bước”. Khi “nhẫn một chút” thì sóng gió

không có, sóng không phải ở ngoài biển mà sóng nơi

lòng người. Nó làm điêu đứng, rối rắm, đau khổ.

Người ta đánh, mình “lùi một chút”, một người đánh

một người lùi thì người nào được thương chắc quý

Phật tử cũng biết. Mọi người vẫn thường nói: “Cái

tên gì ngang ngược bạo ác quá, người ta nhịn mà cứ

đánh hoài”, ghét người dữ mà thương người nhịn

vốn lẽ rất tự nhiên. “Lùi một chút” tâm trầm tĩnh,

Nhẫn thì an 13

dịu hòa, hồn nhiên, thênh thang rộng lớn như biển

rộng trời cao, đạo đức tăng trưởng, được mọi người

thương mến, kính yêu. Nhờ lùi mà mọi người kính

trọng, còn ngang tàn, háo thắng, sát phạt thì đó là tội

ác.

Lúc vinh đừng cao hứng

Khi nhục đừng oán hận

Nhẫn nhục có sức mạnh

Cảm phục được lòng người.

Có ông nọ tánh nóng ghê gớm lắm, đếp gặp Hòa

thượng: “Bạch Hòa thượng, tánh con nóng lắm nên

gia đình con không yên. Xin Hòa thượng dạy cho

con pháp tu dằn tánh nóng.”

Hòa thượng dạy rằng: “Con viết 1.000 chữ

“nhẫn”, chỗ nào cũng dán lên và tu với chữ nhẫn”.

Muốn hết nóng thì nhẫn, muốn yên thì nhẫn.

Tiền thân đức Phật là vị tiên tu hạnh nhẫn nhục.

Kìa tiên nhơn nhẫn nhục

Tiền thân đức Thích Ca

Thân bị cắt từng đoạn

Tâm không chút giận hờn.

Khi Đức Phật Thích Ca còn là vị tiên tu hạnh

nhẫn nhục. Ngày nọ, vua Ca Lợi dẫn một đoàn quân

đi vào một khu rừng. Đến khu rừng, các tỳ nữ của

Nhẫn thì an 14

nhà vua thấy vị tiên thì tất cả chạy lại, quay quần

bên vị tiên đó. Nhà vua tức giận mới hỏi vị tiên:

- Ông làm gì ở đây?

- Tôi tu hạnh nhẫn nhục.

- Vậy tôi cắt thịt của ông, thử xem ông có nhẫn

nhục nổi không.

Nói xong, nhà vua cắt tay, cắt mũi của vị tiên

nhưng vị tiên đó vẫn bình thường không tỏ ra thái độ

lo sợ hay đau đớn, vì tâm của vị tiên này đã đạt đến

trạng thái vô phân biệt. Thấy vậy, nhà vua mới hỏi

lại:

- Ông thật sự đã nhẫn nhục chưa?

- Nếu tôi thật sự tu hạnh nhẫn nhục, thì những gì

mà Ngài đã làm trên thân tôi đều lành lặn hết.

Huyền diệu thay! Những bộ phận bị cắt đều lành

lặn lại như cũ. Vị tiên ấy nói với nhà vua:

- Khi thành đạo tôi sẽ độ ông trước, vì ông có

duyên với tôi.

Và khi thành Phật, đức Phật Thích Ca đã hóa độ

Ngài Kiều Trần Như, chính là hậu thân của vua Ca

Lợi.

Nhờ nhẫn nhục mà đức Phật đã nhiếp phục được

vua Ca Lợi phải quay lại làm đại tử của Ngài. Nhẫn

Nhẫn thì an 15

làm sao mà đối thù phải mềm lòng, mọi người kính

phục, thì nhẫn đó tuyệt vời. Khi người chửi mình,

nhẫn làm sao cho người ta hết chửi, mà còn thương

mến thì mới thật là nhẫn. Còn người ta chửi một

tiếng, mình nổi sân mắng chửi lại, sanh phiền não thì

mất hết tình nghĩa.

Lấy ơn báo oán, oán tiêu

Lấy oán báo oán, càng nhiều oan gia

Người oán ta, ta nên lấy ơn hóa giải. Anh thù tôi,

thì tôi nhẫn và tạo cách cảm hóa anh. Còn người làm

xấu, mình chửi lại người thì ai phục mình. Cho nên

hạnh nhẫn nhục là hạnh cao đẹp.

Người thuần phục hạnh nhẫn nhục sẽ có lòng

nhân, hiếu thảo hơn người thường. Câu chuyện có

thật về một người học trò của Khổng Tử tên là Mẫn

Tử Khiên đã được mọi người lưu truyền đến ngày

nay với tấm lòng kính trọng và yêu mến ông.

Chuyện xảy ra trong thời Xuân Thu, tại vùng

Đông Nam Khúc Phụ, nước Lỗ (nay là thành phố

Khúc Phụ tỉnh Sơn Đông), Mẫn Tử Khiên được sinh

ra trong một gia đình kinh doanh mua bán nhỏ. Cha

lo việc buôn bán, mẹ chăm việc bếp núc trong nhà.

Năm Tử Khiên lên bốn tuổi, mẹ chú bị nhiễm bệnh

lao phổi, cha thường vắng nhà, chỉ có Tử Khiên ở

cạnh và chăm sóc mẹ.

Nhẫn thì an 16

Mùa thu năm ấy, trong giờ phút hấp hối bà đã

nói với Tử Khiên: “Sau khi mẹ chết đi, con phải làm

người lương thiện, muốn nên người thì phải học tập

chăm chỉ”. Những lời tâm huyết của mẹ trước lúc đi

xa đã in vào tâm hồn trẻ thơ của chú. Một năm sau

đó, cha Tử Khiên lấy Lý Thị làm vợ kế, lúc đầu mẹ

kế đối xử với Tử Khiên rất tốt, nhưng sau khi có hai

đứa con riêng thì dần ngược đãi chú. Chú chỉ được

ăn cơm thừa, canh cặn, mặc áo rách rưới. Tử Khiên

rất đau khổ, nhiều lúc khóc thầm, nhưng sau những

lần ấy, chú nhớ lời mẹ dặn, lấy lại tinh thần đến

trường nghe thầy giảng giải về đạo. Ngày tháng trôi

qua, Tử Khiên cũng đã học được nhiều đạo lý làm

người.

Rồi vào một ngày mùa đông giá rét năm chú

mười lăm tuổi, gió to gào thét, hoa tuyết bay đầy

trời, bốn cha con Tử Khiên cùng nhau ra ngoài kéo

xe. Lúc ấy Tử Khiên chỉ mặc một chiếc áo bông

bằng hoa lau, nên khi cơn gió nào thổi qua là chú bị

lạnh toát toàn thân như ngàn mũi kim đâm vào

người, còn hai em của chú thì được mặc áo bông

mới, vừa dầy, vừa ấm.

Khi kéo xe qua được chiếc cầu nhỏ thì đến con

đường đất. Sắc mặt của hai đứa em đều đỏ hồng hào,

không ngừng chảy mồ hôi trên trán. Nhưng Tử

Khiên toàn thân lại run cầm cập, sắc mặt trắng bệch,

Nhẫn thì an 17

cha của chú vừa nhìn thấy đã tức giận nói: “Mày là

anh lớn, kéo xe lại lười, trời lạnh thế này, đi đường

xa như vậy, mà không đỗ một giọt mồ hôi nào?”. Tử

Khiên nhìn cha bằng con mắt hờn tủi, trong lòng

nghĩ: “Cha đâu có biết được nỗi khổ tâm trong lòng

con. Nếu như con nói ra, không những em con bị

mắng mà mẹ kế...” nghĩ đến đây, chú lại gắng sức

tiếp tục kéo xe.

“Giỏi lắm! Giờ thì mày đã đủ lông đủ cánh, dám

nhìn ta với ánh mắt như vậy hả!". Trong lúc tức

giận, ông đã lấy roi đánh vào lưng Tử Khiên, khi roi

vừa đánh xuống thì áo bông của chú rách tung ra.

Từng lớp hoa lau bay lên trên không, rồi rơi xuống

nền đất. Người cha hết sức ngạc nhiên, nhặt lên xem

mới bỗng nhiên tỉnh ngộ. “Thứ con mặc là.... cha

không tốt với con rồi!”, ông ôm chặt lấy con mà

không nói thành lời.

“Tử Khiên, mau cùng hai em kéo xe về nhà đi.

Cha phải hỏi tội mẹ kế con và đuổi bà ta đi.”

“Cha ơi không thể làm như vậy được”. Tử Khiên

vừa nói vừa quỳ dưới đất, thành khẩn cầu xin: “Khi

mẹ ở lại, chỉ có mình con chịu lạnh, nhưng nếu mẹ

phải ra đi hai em con sẽ bơ vơ khổ cực". Hai người

em thấy vậy cũng quỳ xuống rơi lệ cầu xin ông.

Người cha thấy các con như vậy cũng thương tâm

mà bỏ ý nghĩ đuổi vợ đi. Người mẹ kế sau khi nghe

Nhẫn thì an 18

hai con mình thuật lại câu chuyện, bà rất ân hận và

quyết tâm sửa chữa sai lầm của mình, đối xử với Tử

Khiên ngày một tốt hơn, có khi còn hơn cả con đẻ

của mình nữa.

Thế mới thấy sức mạnh của lòng nhân đã cảm

hóa và thay đổi được con người hẹp hòi, vị kỷ.

Nhưng để có sức mạnh này, chúng ta phải có sự

nhẫn nhục và trao đổi trí tuệ để thấy được điều hay

lẽ phải nên làm, từ đó chuyển hóa chính con người

mình và ảnh hưởng tốt đến những người chung

quanh. Như Mẫn Tử Khiên, ông rất xứng đáng với

lời khen của Khổng Tử: “Mẫn Tử Khiên, trên thì

kính trọng cha mẹ, dưới thuận hòa với anh em, lời

nói và hành động không trái ngược nhau, do vậy

không bị người đời trê trách”1.

Trong nhẫn còn có 4 loại nhẫn:

1. Sanh nhẫn:

Chúng sanh hoàng hành ta

Ta sẵn sàng cam chịu

Không tỏ chút hận thù

Được gọi là sanh nhẫn.

1 Hiếu tai Mẫu Tử Khiên, nhân bất vu kỳ phụ mẫu côn đệ chi

ngôn.

Nhẫn thì an 19

Nhẫn nhục đối với con người, cả với con thú.

Con người dữ quá mình phải nhẫn, con chó dữ quá

mình cũng nhẫn... Nhẫn nhịn từng lời nói của con

người. Nhẫn để yên, nhẫn để tu.

Sanh nhẫn là nhẫn với con người và chúng sanh

trong pháp giới.

2. Pháp nhẫn:

Cảnh nắng, mưa, gió, lạnh

Hoành hành cuộc đời ta

Cam chịu không than phiền

Được gọi là pháp nhẫn.

Nhẫn đối với các pháp: nắng, mưa, gió, lạnh đều

bình thản chịu đựng được.

3. Vô sanh nhẫn:

Trực nhận được lẽ thật

Không còn chấp mình người

Không buồn giận, phiền than

Gọi là vô sanh nhẫn.

Trực nhận được lẽ thật biết đời là cõi tạm, thân

tâm là không, cảnh vật là không, sự sống không thật,

trên đời này cuối cùng là con số 0. Chúng ta đang

sống là đang đóng vở tuồng cải lương trên sân khấu,

hạ màn rồi ai cũng như nấy. Hạ màn chính là lúc

Nhẫn thì an 20

mình trút hơi thở sau cùng. Có xưng hùng, xưng bá

thì cuối cùng nằm trong sáu miếng ván. Hiểu rõ đời

người là mộng huyễn, không thấy có mình, không

thấy có người, nhẫn mà không nhục là vô sanh nhẫn.

Người nhẫn là người có đạo đức, người có giá trị.

4. Tịch diệt nhẫn:

Tâm không sanh không diệt, tâm chứng ngộ chân

lý, thanh thản bình yên, sống đời tự tại, giẫm đạp lên

thuận nghịch, khen chê. Tịch diệt là Niết bàn ở cõi

thế, không có ngã, không có ta, bất sanh, bất diệt,

bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm.

Tịch diệt nhẫn là trí nhẫn.

Sáng suốt mà chịu đựng

Muôn ngàn điều cay đắng

Do chúng sanh gây tạo

Được gọi là trí nhẫn.

Nhẫn nhục Ba la mật

Thân, khẩu, tâm trong sạch

Nhẫn không thấy mình nhẫn

Và cảnh vật để nhẫn.

Nhẫn nhục Ba la mật cao hơn. Người phàm chưa

làm được, nhưng người tu đến chiều sâu sẽ làm được

Nhẫn thì an 21

để có sự bình an cao hơn. Cụ thể chính là cuộc đời

của đức Phật, người bậc tu hành công đức viên mãn,

luôn gặp những khó khăn chướng ngại nhưng người

đều vượt qua nhẹ nhàng và độ rất nhiều chúng sanh.

Lần nọ, Đức Thế Tôn đi giáo hóa ở một làng Bà

La Môn, trong làng có gia đình nọ giỏi về tướng số

lại hạ sanh được một cô con gái rất đẹp. Ông Bà La

Môn này muốn gả con cho người có đủ ba mươi hai

tướng tốt, nhưng tìm mãi chưa được. Bỗng một hôm

ông tình cờ gặp Phật đang đi giáo hóa, ông mừng

quá chạy về nhà kêu vợ ra xem. Bà vợ ra thấy Phật

rất hài lòng, đúng là người đủ ba mươi hai tướng tốt.

Bà bèn ngỏ ý muốn gả con gái cho Ngài. Phật nói:

“Đối với bà thì con gái bà đẹp. Song, đối với ta thì

đó là một đãy da hôi thối, tất cả trong thân nàng đều

là bất tịnh”. Nghe Phật đáp, bà buồn trở về nhà thuật

lại cho con gái nghe. Cô tự ái, nổi giận, ôm lòng thù

oán và thề rằng sẽ trả thù Phật.

Chẳng lâu sau, cô được làm hoàng hậu của một

nước nhờ vào nhan sắc của mình. Bấy giờ, Phật đến

giáo hóa xứ đó, hoàng hậu bèn tập hợp du đãng chặn

đường Phật để mắng chửi. Tôn giả A Nan đi theo

Phật thấy họ vây chửi thậm tệ, Ngài không chịu nổi

mới nói: “Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn đi nước khác

giáo hóa”.

Phật hỏi: “Đi đâu?”

Nhẫn thì an 22

A Nan thưa. “Thế Tôn đi nước nào cũng được, vì

ở nước này cứ bị người vây chửi, con không kham

chịu được”.

Phật hỏi: “Giả sử đi đến chỗ khác bị người chửi

nữa thì A Nan tính sao?”

A Nan thưa: “Nếu tới đó mà bị chửi nữa thì

chúng ta về nước Xá Vệ, Ma Kiệt Đà… chỗ mà Thế

Tôn có nhiều đệ tử, ở đó giáo hóa”.

Phật hỏi: “Nếu là thầy thuốcc giỏi. A Nan có nên

để bảng: Tôi chỉ trị những bệnh nhẹ, không trị

những bệnh nặng chăng?”

A Nan thưa: ”Bạch Thế Tôn, không được. Thầy

thuốc giỏi phải trị được bệnh nặng mới cứu được

nhiều người”.

Phật nói: “Cũng vậy, dân ở đây họ nhiều mê

muội là người bệnh nặng nên gặp ta họ chửi. Thôi,

thong thả, để ta giáo hóa họ vì họ cần ta”.

Du đãng vẫn tiếp tục chửi. An Nan nói: “Họ chửi

Thế Tôn hoài, làm sao giáo hóa được?”

“Chừng nào họ không nghe lời nói của ta thì ta

đi”. Nghe Phật trả lời A Nan như vậy, du đãng nói:

“Thôi. Cù Đàm hãy ở đây giáo hóa, chúng ta sẽ nghe

lời Ngài dạy”. Từ đó, Phật nói pháp giáo hóa họ.

Nhẫn thì an 23

Đức Phật còn bị người chửi mắng huống chi là

chúng ta. Tôn giả A Nan còn tâm phàm như chúng ta

nên nghe chửi không kham chịu được, còn Phật đã

giác ngộ, tiếng chửi đối với Ngài như gió thoảng

ngoài tai. Ngài không động tâm, thương họ là những

người mê muội, bệnh nặng nên nói pháp cứu chữa.

Cũng vậy, đối với người Phật tử có gia đình mà

biết tu, khi bị chồng (vợ), hoặc con làm khó dễ, đó là

cơ hội tốt để mình tu, chớ buồn giận và đừng cho

rằng bạn mình, con mình phá rối không cho mình tu,

mà nên xét nghĩ thương bạn, thương con vì chưa

hiểu đạo, còn mờ tối, cần sự cảm hóa của mình. Thế

nên, trước những lời xúc não, mọi khó khăn, chúng

ta hãy sáng suốt kham nhẫn tất cả thì được an vui.

Từng bước ta nhẫn. Nhẫn từ thấp đến đỉnh cao là

thành Phật, đức Phật đã nói: “Ta là Phật đã thành,

chúng sanh là Phật sẽ thành”. Phải tu nhẫn để thành

Phật về sau. Đã có duyên gặp Phật, gặp Pháp, gặp

Thầy phải tăng trưởng thiện duyên, để được thành

Phật. Lấy nhẫn làm đầu, lấy nhẫn làm an, lấy nhẫn

làm sự sống, lấy nhẫn làm hạnh phúc.

Nhẫn là thuyền vững chắc

Giúp ta vượt sóng gió.

Nhẫn là nước cam lồ

Rưới tắt lửa tham sân

Nhẫn thì an 24

Nhẫn là vị thuốc hay

Cứu bệnh trong cơn nguy.

Nhẫn là tạng kho báu

Chứa giữ các công đức.

Hôm nay đi chùa về nhà viết 1.000 chữ nhẫn dán

lên “Nhẫn thì an”.

Người tu hạnh nhẫn nhục

Tập tánh giống như nước

Thường mềm dẻo mát dịu

Rộng lượng và khoan dung.

Nước mát dịu, nước lợi ích, hãy tập tánh giống

như nước. Nhìn thấy nước mát thì tâm phải mát như

nước. Tâm mát là có nhẫn, tâm nóng là có sóng gió.

Nhẫn nhục như bùn đất

Dù sạch giơ đổ lên

Đại địa cam thọ hết

Không tỏ chút giận hờn.

Đất bằng hay nhẫn nhục. Bất cứ vật gì dù sạch

hay dơ đổ lên đất vẫn cam thọ. Nguyện tu sức nhẫn

nhục như đại địa. Nguyện không trái nghịch ý người.

Hãy tập tánh giống như đất, đất dung chứa, đất cam

chịu. Ai có để đồ dơ bẩn, tội lỗi vào mình thì tâm

Nhẫn thì an 25

phải giống như đất không phản ứng, không chống

trái.

Bậc trí tuệ nhập đạo

Thường vui vẻ nhận lãnh

Sự chửi mắng cay độc

Như uống nước cam lồ.

Trên lộ trình tu phải giẫm đạp lên thuận nghịch,

bị người chửi mà không giận mới là tu thiệt, còn

người ta mới khảo đảo mà nổi cơn điên lên rồi thì

cần nên xét lại.

Có câu chuyện bắt nguồn từ một Phật thoại sẽ

cho chúng ta tỏ rõ về hạnh tu nhẫn nhục:

Ngày xưa, có một nhà sư lên núi chọn một gốc

cây, ngồi xếp bằng tu theo lối trường định. Một

hôm, có hai vợ chồng con chim chích đến làm tổ

ngay trên đầu của nhà sư. Vị sư cứ để yên, mặc

chúng muốn làm gì thì làm.

Hôm đó, đến lượt con chim mái đi tìm mồi, lúc

lượn qua cái hồ, nó thấy một con nhện đang giang tơ

trong một đóa sen. Nhện nhác thấy chim liền ẩn

mình vào giữa những cánh hoa, làm chim mất công

tìm mãi. Không ngờ vừa tắt ánh mặt trời, hoa sen

cụp các cánh lại, nhốt chim vào trong. Chim cố tìm

lối chui ra, nhưng những cánh hoa vây bọc dầy quá

nên dành chịu nằm lại đó.

Nhẫn thì an 26

Mãi đến sáng hôm sau, chờ lúc hoa sen nở chim

mái mới thoát được bay về tổ. Một cuộc tranh cãi nổ

ra trên đầu nhà sư. Ghen vợ, chim trống mắng nhiếc

không tiếc lời. Cuộc đấu khẩu kéo dài hết cả buổi

sáng vẫn chưa chấm dứt. Nhà sư rất khó chịu. Tới

lúc vợ chồng chim cãi vả đến chỗ găng nhất, nhà sư

lấy tay giật cái tổ chim rất mạnh, quăng xuống đất

và nói:

- Đồ khốn! Chỉ có mỗi chuyện đó mà chúng mày

làm điếc cả tai ông từ sáng đến giờ.

Thế là công sức tu luyện của nhà sư hốt nhiên

vứt bỏ trong chốc lát.

Nhưng nhà sư vẫn không nản chí, ngài tìm đến

một khúc sông chảy xiết, tình nguyện làm người

chèo đò đưa khách qua sông không lấy tiền.

Một hôm nước sông tự nhiên chảy xiết hơn mọi

ngày và trời bỗng đổ một trận mưa lớn. Giữa lúc đó

có một người đàn bà dắt một em bé đòi qua sông.

Nhà sư vận dụng hết tay nghề để đưa hai mẹ con

người nọ qua bên kia sông. Lúc sắp lên bờ, người

đàn bà bỗng kêu lên:

- Ta quên mất! Có một gói hành lý bỏ quên ở cái

quán bên kia. Vậy nhờ ông chịu khó chèo sang lấy

hộ.

Nhẫn thì an 27

Nhà sư nín lặng chèo qua sông giữa sóng gió.

Mãi đến gần tối nhà sư mới đưa được gói hành lý

sang cho người đàn bà. Nhưng khi xem lại hành lý,

người đàn bà lại kêu lên: “Thôi rồi! Tôi còn một đôi

giầy của thằng bé để gần ở giường, vậy nhờ ông

gắng sang lấy hộ cho tôi một lần nữa”.

Người đàn bà nói chưa dứt lời thì nhà sư đã giơ

tay chỉ vào mặt: “Đồ đàn bà hư! Tao có phải sanh ra

để hầu hạ mẹ con nhà mày mãi đâu”.

Nhưng người đàn bà ấy vốn là Đức Bồ tát Quán

Thế Âm thị hiện thử lòng nhà sư đó, bấy giờ hiện

nguyên hình và cất tiếng bảo rằng:

- Nhà ngươi vẫn chưa thực tâm nhẫn nhục, sự tu

chưa đạt kết quả, chỉ tu hú mà thôi!

Nhà sư thẹn quá đành cúi đầu nhận lỗi.

Người tu hạnh nhẫn nhục phải giẫm đạp lên

thuận nghịch, khen chê, thương ghét. Dù người có

nói nặng, có khảo đảo vẫn không phản ứng.

Khen chê, thương ghét mặc người.

Từ bi hỷ xả, nơi nơi rải đều

Mưa trời nào nệ rong rêu

Tâm từ vô lượng rải đều chúng sanh.

Nhẫn thì an, nhẫn để tìm sự giác ngộ. Muốn đắc

đạo thì phải nhẫn. Người đắc đạo không động niệm,

Nhẫn thì an 28

không cố chấp. Chuyện bên ngoài là chuyện của

người, chuyện của ta là phải nhẫn.

Bởi chưa nhẫn sâu nên còn phiền não, còn phản

ứng.

Nhẫn nhục hạnh an ổn

Khắc phục tâm hận thù.

Tiêu trừ các tai nạn

Hưởng nhân quả sâu xa.

Nhẫn thì an ổn, kẻ thù không có, tâm linh thăng

hoa và dần dần thâm nhập Phật đạo.

Nhờ tu hạnh nhẫn nhục

Lửa sân hận dập tắt.

Dục vọng chẳng hoành hành

Căn lành dần thêm lớn.

Nhờ nhẫn mà không còn giận nữa, bao nhiêu dục

vọng không còn hoành hành. Nhẫn không chỉ bên

ngoài, mà nhẫn cả trong lòng. Bên ngoài thì nhẫn

với người, bên trong phải nhẫn với lòng mình. Nhẫn

cái nghiệp của ta là quan trọng. Bao nhiêu sự thèm

khát, đòi hỏi, giận hờn, ham muốn… ta phải nhẫn

nó, buông xả hết. Bên ngoài nhẫn được, mà bên

trong không nhẫn thì tâm vẫn chưa an. Bên ngoài

nhẫn, bên trong cũng nhẫn sẽ chuyển hóa được

Nhẫn thì an 29

nghiệp chướng, đạo tâm tăng trưởng, sự sống dần an

lành, hạnh phúc.

Nhờ tu hạnh nhẫn nhục

Gia đình được sum họp,

Bạn hữu được tương thân,

Tớ thầy được trung tín.

Trong gia đình muốn yên thì phải nhẫn, Nhìn kỹ

lại hiện thực, đừng nói rằng gia đình tôi không yên

là tại ông này phạt, bà kia phạt, mà gia đình không

yên là do mọi người trong gia đình không nhẫn. Nhờ

nhẫn mà gia đình sum họp, bạn bè thương yêu và tớ

thầy gần gũi.

Nhờ tu hạnh nhẫn nhục

Lòng từ được tăng trưởng

Trí đức được nâng cao

Đạo mầu ngày tỏ rạng.

Nhẫn nhục là trí đức có, lòng từ có và gần được

với đạo.

Toàn thể chư hành giả hôm nay hãy tập tu hạnh

nhẫn. Không nhẫn là rạn nứt tình thương, thù hận

lẫn nhau và gây đau khổ cho nhau. Có nhẫn thì được

bình yên hạnh phúc. Do vậy nên “nhẫn thì an”.

Thoát nhà lửa 30

Thoaát nhaâ lûãa rong Kinh Pháp Hoa, Phật có dạy “Tam giới

2

không an như ở trong nhà lửa”. Ở trong tam

giới chúng sanh không thể có bình an, do nội tâm bị

lửa đốt. Hôm nay, chúng tôi xin giảng giải về ngọn

lửa đặc biệt ấy. Đó là lửa giận hờn nơi con người mà

Đức Phật gọi là sân.

“Ba cõi không an

Dường như nhà lửa

Đau khổ dẫy đầy

Thật đáng sợ hãi!”

Hiện đời có ba thứ độc làm con người đau khổ,

phá hoại nếp sống bình an của con người là tham,

sân, si nhưng nếu đặt đúng trật tự từ gốc đến ngọn là

si, tham, sân. Giận hờn là ngọn lửa dễ thấy nhất, dễ

làm cho con người đau khổ nhất. Vì vậy, phải tìm

hiểu rõ về lửa giận hờn, có phương cách tu hành

thích hợp để không làm đau khổ cho nhau.

Tâm giận hờn bình thường ta không có, nó sẽ có

khi gặp cảnh trái ý nghịch lòng.

2 Tam giới là dục giới, sắc giới và vô sắc giới.

Thoát nhà lửa 31

Buồn phiền và nóng nảy

Khó chịu và bực bội

Khi gặp cảnh nghịch lòng

Thì lòng sân xuất hiện.

Sân, tham, gốc chẳng có

Bởi tập nhiễm mà có

Ẩn náo nơi thân tâm

Đủ duyên thì xuất hiện.

Do vô trí nên chấp ngã, phục vụ cho ngã nên có

lòng tham, tham mà không toại nguyện, hoặc bị

ngăn trở, dồn nén bức xúc, liền nổ sân. Nhất là

những người kém phước, sự sống lúc nào cũng khó

khăn, vất vả nên thường sân hận, đến đỉnh cao của

nó có thể liều lĩnh. Một khi nổi sân thì mọi tội ác

nào cũng dám làm, mọi thất bại nào cũng không sợ.

Tất cả sự hung tợn, dữ dằn, ác độc đều do sân hận

mà phát sanh. Gia đình không bình yên , không có

niềm vui cũng bởi sân hận. Sân có loại bộc phát, có

loại thầm kín và được chia làm ba loại:

1. Hỏa sân: Là sân lửa ngọn.

Nghe một lời nói trái tai, thấy một hành động

không vừa ý liền nổi nóng là rầy, thân tâm thô tháo,

mất hết lý trí, tạo nghiệp không hiền.

Thoát nhà lửa 32

Lửa sân đốt thân tâm

Mặt xanh dờn, đỏ lét,

Biết đánh đập chém giết

Chẳng màng hậu quả chi.

Loại sân biểu hiện ra tướng thô nên dễ nhận biết.

Những điều gì mình muốn mà bị kẻ khác ngăn trở,

liền nổi giận mặt xanh dờn đỏ lét, thốt ra lời nặng

nề, tay chân quơ múa, thân tâm mất hết trầm tỉnh,

mất chủ động. Một phen nổi sân là một trận bão

bùng, tai họa hiểm nguy không thể lường trước

được.

Tục rằng: Nó quá mất ngon

Và khi giận quá mất khôn thành khờ.

Lửa sân đôi mắt đã mờ,

Trắng đen phải quấy bây giờ thấy đâu.

Không phân nghĩa nặng, tình sâu,

Không rành sự cảnh, đuôi đầu là chi.

Con tâm đã lánh đường nào,

Mà con ma giận nhập vào đó thôi.

Khi sân hận bộc phát dữ dội, con người không

sáng suốt, không còn khả năng phán đoán đúng sai,

nhận định hậu quả tốt xấu, con người hành động như

kẻ điên cuồng, nên gọi là “bị ma giận nhập”.

Thoát nhà lửa 33

Bên trong có nhân, bên ngoài có nghịch cảnh, đủ

duyên hợp lại sanh ra hiện tượng giận hờn. Chúng ta

hãy cảm nhận rõ điều này. Muốn bớt giận hờn phải

bớt duyên. Mỗi lần gặp mặt một người nào đó ta

thường nổi giận, phải tránh gặp người đó để bớt giận

hờn.

Còn tâm phàm thì còn giận hờn, không thô thì tế,

không tế thì vi, không sao hết được. Chừng nào tu

đạt Thánh quả mới không còn nữa.

Bệnh mà có thuốc trị thì không đánh sợ, bệnh

nan y không có thuốc trị mới là đáng sợ. Biết mình

có bệnh giận hờn, thường chuẩn bị thuốc trị thì an

tâm, sợ nổi giận lên mà khoog có thuốc trị, làm rối

cho mình và làm khổ cho mọi người chung quanh,

đó là điều tai hại, tội lỗi.

Hỏa sân thường có ở người nam và người nữ có

tánh nam. Khi giận lên thì việc gì cũng dám làm, tội

lỗi cỡ nào cũng không sợ, người này dễ bị đọa vào

địa ngục. Nên có câu “Một ngọn lửa sân đốt cháy

rừng công đức”, làm được bao nhiêu công đức khi

nổi sân thì công đức cháy rụi hết. Vì sao vậy? Là vì

ta chưa làm chủ được ta, chẳng còn trí sáng, gây

điều tai hại tội lỗi thì công đức được bao làm sao

xóa tội, cũng như “gom củi ba năm đốt cháy một

giờ”.

Thoát nhà lửa 34

Một Phật tử đi chùa được ba năm, bị một người

chê cười, chọc tức bắt đầu nổi con giận không đi

chùa nữa, hoặc phản nghịch lại thì công đức bị cháy

hết. Chúng tôi xin nói thêm để quý vị rõ, “công đức

bị cháy” ở đây ngụ ý rằng việc tu tập dỡ dang, không

đạt kết quả, trí tuệ chẳng có cơ hội khai phát. Chứ

chẳng phải những việc làm lành trước đây của mình

sẽ không được hưởng quả tốt, nhân quả không bao

giờ sai cả. Vợ chồng chắt chiu xây dựng được ngôi

nhà, nhưng khi nổi giận lên, đốt ngôi nhà cháy rụi,

vừa phá hoại công sức của mình và làm phiền toái

người chung quanh. Hỏa sân thật là đáng sợ!

Người ôm ấp lòng sân hận là kẻ chứa chấp rắn

độc trong nhà, tai nạn đến với mình dễ dàng trong

giây phút, vậy hãy hóa giải lòng sân để trở thành

người hiền.

2. Phiền não sân: Lửa than trong tro.

Cái giận này ít bộc lộ ra ngoài, thường cố chấp,

ngấm ngầm thầm kín nơi tâm. Khi nghe lời nói trái

tai, liền phiền giận ghim gút trong lòng. Đây là hiện

tượng “cục than trong tro”, nó âm ỉ không thấy ngọn

lửa mà khi chạm vào thì bỏng tay. Loại sân này tác

hại hành hạ người giận trằn trọc, khổ đau. Những

điều bực bội giấu kín nơi lòng, ngấm ngầm phiền

não, tiêu cực chán chường, ăn không ngon ngủ

không yên, máu huyết lộn ngược, lâu ngày sanh

Thoát nhà lửa 35

bệnh. Những phụ nữ hay ghen ngầm, hoặc những

người khó tánh, cố chấp, biểu hiện qua gương mặt

“bánh bao chiều” là dấu hiệu của phiền não sân chi

phối.

Ăn uống chẳng được ngon,

Giấc ngủ chẳng được yên,

Trằn trọc đau khổ mãi,

Bởi ma giận nhập vào.

Phiền não sân thường có nơi người nữ, hoặc

người có tánh nhu. Người vợ đang giận ngầm người

chồng, vừa gặp mặt nhau có cảm giác bực bội, phiền

hà là dấu hiện “gài bom chờ nổ”, hãy tìm cách tháo

ngòi bom để không làm khổ lẫn nhau.

Từ tâm giận hờn phiền não chiêu cảm môi

trường sống nhiều âm khí. Do âm khí nhiều, sinh khí

mất, làm cho con người ngột ngạt, bực bội không

vui vẻ, nên không thích sống trong gia đình. Nếu

vào một gia đình nào mà ta có cảm giác nặng nề,

không vui, không thoải mái, thì biết rằng gia đình đó

có người đang phiền giận.

Ai quyết định gia đình ấm áp? Ai quyết định gia

đình bực bội, không yên? Mỗi thành viên trong gia

đình phải nhận định rõ điều này. Tất cả mọi người

trong gia đình là nhân tố quyết định. Phải hóa giải

bệnh giận ngầm để gia đình ấm áp, vui vẻ. Người

Thoát nhà lửa 36

Phật tử, ai có bệnh này thì phải cố gắng khắc phục,

hóa giải “đừng cho nhau ăn muối mặn lắm, khổ

lắm!”. Vì vậy, giận hờn là tội lỗi, giận hờn là không

có hạnh phúc.

Cha con phải xa nhau,

Vợ chồng phải lìa nhau,

Bởi tình thương rạn nứt,

Gốc sân hận mà ra.

Cảnh chiến tranh tan tóc,

Cảnh đánh đập rợn người,

Tạo muôn việc thê lương,

Gốc bởi lòng sân hận.

Phiền não sân ai cũng có, bệnh này đáng sợ. Ta

phải tu làm sao cho bệnh này bớt lần. Không phải tu

một ngày, một tháng, mà phải trãi qua nhiều tháng

nhiều năm mới bớt lần.

3. Độc sân: Lửa địa ngục.

Khi nổi giận lên, hành động rất là táo tợn để thỏa

mãn cơn giận, có thể giết người cho bằng được.

Cũng như con rắn có độc độc sẵn, cắn người một cái

là chết. Hành động cho lợi gan mình sẽ tạo một sự

thù hằn, tội lỗi. Hại được người, nhưng chính mình

thì cũng chẳng an ổn gì.

Thoát nhà lửa 37

Sân lên là phát cơn điên

Người khôn hóa dại, người hiền hóa ngu.

Thế nên độc sân là mối hiểm họa cho mình, cho

người. Mọi khổ đau trong đời này cho đến muôn

kiếp đều do sân gây ra.

Ba loại sân hận trên chi phối hàng ngày trong đời

sống của chúng ta, cộng với tham lam, mê chấp phủ

trùm khắp tam giới nên gọi là “Tam giới không an

như ở trong nhà lửa”. Ở trong cõi phàm tục này,

muốn tu dưỡng thân tâm cho thanh tịnh là điều hơi

khó. Nhưng điều đó không ngại, vì đã có phương

pháp tu tập chữa trị được các thứ tâm bệnh nên trên.

Phật dạy từng phương cách đối trị tâm bệnh giận

hờn, nếu chúng ta quyết tâm kiên trì thực hiện một

thời gian sẽ hàng phục được tâm bệnh đó.

Muốn trừ bệnh sân hận

Tập uống bốn loại thuốc

Một thuận thảo, hòa hợp

Hai nhẫn nhục nhịn nhường

Ba từ, bi, hỷ, xả

Bốn vô ngã, vị tha

Tùy bệnh mà dụng thuốc

Khéo dùng tất an vui.

Thoát nhà lửa 38

Đây là những loại thuốc quý giúp hành giả hóa

giải tâm bệnh giận hờn.

1. Thuận thảo, hòa hợp

Người ta thường nói:

“Khi thương trái ấu cũng tròn

Khi ghét quả bồ hòn cũng méo”.

Khi thương thì thông cảm cho nhau hết, khi ghét

rồi thì chuyện nhỏ cũng bới móc thành lớn chuyện.

Vì vậy, để có tình thương trọn vẹn cho nhau, chất

liệu cần thiết phải có là thuận thảo, hòa hợp. Từ nếp

sống thuận hòa giữa chồng đối với vợ, giữa cha mẹ

với con cái, giữa anh em với nhau… sẽ đem lại sự

bình an hạnh phúc cho gia đình. Mối quan hệ giữa

xã hội và gia đình, giữa con người và con người phải

tương thân, tương trợ, tôn trọng lẫn nhau để không

có sự chống trái, rạn nứt tình thương.

Muốn hòa thuận phải có sự thông cảm. Muốn

thông cảm phải tập lắng nghe nỗi thống khổ của

nhau. Do không biết nên chấp, biết rồi còn chấp

không? Hiểu được thì không trách hờn, không hiểu

thì dễ trách hờn. Tất cả mọi người hãy hiểu rõ về

nhau để thông cảm cho nhau, kiến tạo sự hòa thuận

cùng nhau.

2. Nhẫn nhục nhịn nhường

Thoát nhà lửa 39

Nhịn nhường là bước đầu tiên

Kìa chư Phật Thánh đã khuyên ta hoài.

Nhẫn là trạng thái tâm có sức chịu đựng tốt, khi

tiếp xúc các pháp trần gặp những điều trái tai gai

mắt, mà chư hành giả không động niệm, không tức

giận, không bực bội. Nhẫn nhục là mạnh mẽ, bền

vững trong cuộc sống. Như có người chọc giận

mình, làm trái ý mình, thì chúng ta sáng suốt chủ

động, đừng để tâm sân dấy lên. Hãy cảm nhận lời

nói là duyên hợp huyễn mộng, không thật, gác bỏ

ngoài tai để không bị động tâm thành phiền não.

Nhẫn nhục là mạnh mẽ

Vì chẳng ôm lòng ác

Thân tâm thường an kiện

Được người trời kính yêu.

Những người có nghiệp nóng nảy, giận hờn thì

hậu quả là phải sống cô đơn. Mỗi lần giận hờn là nổi

gai góc đâm mọi người chung quanh, thì không ở

gần với ai được. Do đó người thường giận hờn là tự

cô lập mình và làm khổ cho mình.

Kinh Pháp cú có câu:

Dầu tại bãi chiến trường

Thắng hàng ngàn quân địch

Tự thắng mình tốt hơn

Thoát nhà lửa 40

Thật chiến thắng tối thượng.

Cơn tức giận dấy lên mà chúng ta kiềm chế được

là có sức chịu đựng, cứng cỏi, chớ không phải tầm

thường. Thắng được cơn nổi giận của chính mình

còn hơn một ông tướng thắng cả một vạn quân, bởi

chiến thắng của ông tướng là từ sự đóng góp, hi sinh

của nhiều người, còn ta đối diện với chính ta thì đó

mới là cuộc chiến cam go nhất. Người nhẫn nhục

như thế đâu phải yếu đuối. Đối với lời nói trái tai,

hành động gai mắt mà chúng ta nổi giận, bỏ hết công

việc thì hư việc của mình, chứ đâu hư việc của

người. Người mắng chửi, đánh đập, mà chúng ta

nhịn được, bỏ qua hết, không buồn giận là chúng ta

đã thuần hạnh nhẫn nhục.

Với người Phật tử “nhẫn nhục, nhịn nhường” là

điều quan trọng vì “Muốn an thì nhẫn”. Khi chồng

nổi nóng thì vợ phải nhịn, nhịn mà không bỏ qua, để

khi nào chồng vui thì vợ nên nhắc nhở “Hôm qua

ông nổi cơn kỳ quá, làm cho gia đình không được

vui vẻ, mai mốt đừng nổi cơn như vậy”. Nhẫn có

nghĩa là để gia đình yên ổn, chứ không phải nhẫn để

thành nhu nhược, bị mọi người lấn lướt. Nhẫn để

xây dựng cho nhau tốt hơn. Chồng nóng vợ phải

nhẫn, vợ nóng chồng phải nhẫn. Vợ chồng đều nổi

giận thì “xẹt lửa”, mâm cơm rớt xuống đất, đồ đạc

trong nhà bay tứ tung, hoặc xách gói ra đi, là điều

không hay.

Thoát nhà lửa 41

Nhẫn mà không nhục, không nhu nhược yếu hèn.

Nhẫn để xây dựng nhau đến chổ hoàn thiện, kiến tạo

sự sống tốt đẹp cho nhau.

Trong Kinh A Hàm có câu chuyện về Ngài Phú

Lâu La, một trong mười đệ tử lớn của Đức Phật. Khi

Ngài xin Đức Phật đi về phương Bắc giáo hóa. Đức

Phật liền hỏi:

“Này Phú Lâu La, người phương Bắc hung hăng

lắm, nếu ông về đó giáo hóa họ sẽ chửi mắng ông,

ông nghĩ thế nào?”

Ngài trả lời: “Bạch Thế Tôn, nếu họ chửi mắng

con, con nghĩ họ còn lương thiện vì họ chưa đánh

đập con”.

Phật nói: “Giả dụ họ đánh đập ông thì ông nghĩ

thế nào?”

Ngài thưa: “Bạch Thế Tôn, nếu họ đánh đập con,

con nghĩ họ cũng còn lương thiện vì chưa giết chết

con”.

Phật bảo: “Nếu họ giết ông chết thì ông nghĩ thế

nào?”

Ngài trả lời: “Bạch Thế Tôn, nếu họ giết con chết

thì họ là người ơn của con, vì nhờ họ mà con xả

được cái thân tứ đại hôi thúi này”.

Thoát nhà lửa 42

Phật nói: “Được. Như vậy thì ông nên đến đó

giáo hóa họ”.

Đây là tấm gương cho chúng ta học hỏi. Đừng

nghĩ mình cải giỏi, nói hay là tốt, càng cải giỏi nói

hay, lấn lướt người thì tội lỗi càng tăng chứ không

phải giảm. Người ta nói nặng, nói nhẹ cũng nhẫn,

nhẫn nhịn là buông bỏ đừng chấp.

Kẻ hơn thì thêm oán

Người thua ngủ chẳng yên.

Hơn thua hai đều xả,

Ấy được yên ổn ngủ.

“Nhẫn thì an” hãy tự nhắc mình như vậy.

3. Từ bi, hỷ xả

Từ bi, hỷ xả là tình thương rộng lượng bình đẳng

giữa con người đối với muôn loài.

Lấy ân báo oán, oán tiêu

Lấy oán báo oán càng nhiều oan gia.

Không thể lấy thù oán mà diệt được lòng sân

hận, chỉ có tâm từ bi mới hóa giải được hận thù.

Đời này hận rửa hận

Muôn thuở chẳng sạch thù.

Từ bi rửa sạch hận

Là định luật ngàn thu.

Thoát nhà lửa 43

Ai ghét ta nhiều nhất, ai thù ta nhiều nhất, ai có

thành kiến với ta nhiều nhất, ta phải trải rộng tình

đến với người đó để hóa giải hận thù nên gọi là “từ

bi quán”.

Trên đời này cái khổ đáng sợ nhất là “oán tằng

hội khổ”.

Nhìn thấy mặt kẻ thù

Như kim đâm vào mắt

Ở chung với người nghịch

Như nếm mật nằm gai

Cảnh ngượng ngùng khổ sở

Do ghét mà gặp nhau

Là oán tằng hội khổ.

Muốn gặp mặt nhau mà không khổ thì chúng ta

phải trải rộng tình thương với nhau. Người ghét ta,

người thù ta, do kiếp trước mình đã gieo nghiệp

chướng với người đó nên mới có sự oán thù như

vậy. Muốn hóa giải nghiệp chướng đó phải lấy tình

thương xóa bỏ hận thù. Anh có quyền ghét tôi,

nhưng tôi không có quyền ghét anh, mà tôi phải trải

rộng tình thương đến với anh. Cha mẹ nào lỡ sanh ra

một đứa con ngỗ nghịch, bất hiếu, nên biết rằng do

nhân bất hiếu mình đã gieo, nay nên trải rộng tình

thương đến với đứa con này, cứ trải mãi đến ngày

nào đứa con biết hiếu thảo mới thôi.

Thoát nhà lửa 44

Trong vô lượng kiếp chúng ta đã tạo biết bao

nhiêu nghiệp chướng, đã làm đau khổ biết bao nhiêu

người, nên bây giờ gặp mặt ta là người có sự thù

ghét. Ai ghét thì ta cứ đem tiền, đem quà đến cho,

thăm viếng hoài, người ta sẽ chuyển ghét thành

thương, hết oán hận mà thành ân nghĩa.

Người đình trưởng ở nước Lương và người đình

trưởng ở nước Sở, hai bên cùng trồng dưa. Người

nước Lương chăm làm và thường tưới nước nên dưa

tốt. Còn bên nước Sở ít chăm sóc, ít tưới tiêu nên

dưa xấu.

Người đình trưởng thấy dưa bên nước Lương tốt

hơn dưa mình, nên sinh ra ghen ghét. Đem đến lén

sang cào phá dưa nước Lương, làm hỏng đi một ít.

Sau người đình trưởng nước Lương biết được,

nói với quan Tống Tựu, ý muốn đem dân qua cào

dưa nước Sở trả thù. Tống Tựu bảo:

- Ôi! Sao làm thế được! Làm như vậy chỉ gây thù

chuốc họa mà thôi! Nay ngươi đừng sang cào dưa

người, mà nên đêm đến lén sang tưới dưa cho người,

đừng cho người ta biết thì việc sẽ tốt đẹp.

Người đình trưởng nghe lời Tống Tựu, y như vậy

mà làm. Sau dưa bên Sở mỗi ngày tốt, đình trưởng

bên Sở lấy làm lạ, dò xét mãi mới biết người bên

nước Lương tưới giúp.

Thoát nhà lửa 45

Quan nước Sở biết việc đó, tâu lên vua nước Sở.

Vua Sở có ý buồn thẹn, nghĩ rằng: “Ngoài cái tội đi

cào dưa, chắc còn nhiều việc khác rắc rối đáng tội

với người ta nữa”. Vua bèn lấy của, sai người sang

nước Lương để tạ tội và giao hảo.

Vua Lương cũng tin lòng thành thật nên hai nước

giao hòa bền lâu.

Lão Tử nói: “Báo oán dĩ đức” nghĩa là lấy đức

trả oán. Người ta đã làm không phải thì đừng bắt

chước họ, mà hãy làm những việc lợi giúp người ta,

tích đức lâu dần sẽ được người cảm phục, không còn

oán hận nữa. “Có tình thương thì không có hận thù,

có hận thù thì không tình thương”. Vậy hãy chuyển

hóa hận thù bằng cách trải rộng tình thương cho

nhau. Ở bất cứ đâu chúng ta cũng khởi tư tưởng

thương yêu và giúp đỡ mọi người. Có tình thương là

có phước đức, có tình thương hận thù sẽ chết ngộp,

niềm vui, hạnh phúc sẽ nảy nở.

Người Phật tử muốn không làm khổ mình phải

thương mình, tập hạnh từ bi hỷ xả, đừng giận ai,

đừng ghét ai. Mỗi lần giận người là ta khổ trước.

Thương người là thương ta, hận người là hại ta như

“Ngước mặt lên trời phun nước miếng, nước miếng

rớt xuống dính mặt mình”. Thường xuyên tự nhắc

mình phải biết thương yêu mọi người.

Dù người không yêu ta

Thoát nhà lửa 46

Dù đời cay đắng như vôi

Dù người bạc đen lừa dối

Ta vẫn cứ yêu thương người.

Khi lòng từ phát triển thì lòng sân bị chế phục.

Lòng từ ái thương yêu mọi người như dòng nước

suối trong mát, dập tắt ngọn lửa sân hận đang bừng

cháy âm ỉ trong tâm hồn chúng ta.

4. Vô ngã vị tha

Vô ngã là không thấy có mình. Vị tha là sống vì

mọi người. Người sống vô ngã vị tha là người không

tự kỷ, không xem mình là trọng, mà lúc nào cũng có

đức tính khiêm tốn, bình dân, sống vì người, biết lo

cho người, biết giúp đở mọi người, biết tạo sự tỉnh

ngộ cho người. Đó là tâm Bồ tát, tâm thánh thiện vi

diệu, mà mỗi người con Phật chúng ta cần phải trang

bị.

Không thấy có mình, nên khi người ta nói nặng

sẽ không buồn, không khổ. Vì thấy có mình nên có

giận, có tức, không thấy có mình thì lấy ai giận đây?

Cái thân này là duyên hợp bởi tứ đại, nó không thật

là mình, đừng có chấp nó lắm. Người ta có chửi

mình thì tên đó đâu thật là mình, nó là do cha mẹ đặt

ra. Kiếp này sanh ra, cha mẹ đặt tên A, kiếp sau sanh

ra lại đặt tên B, như vậy cái tên là giả tạm, biết nó

tạm sẽ không có phiền não, còn nghe người ta nói

Thoát nhà lửa 47

lén tên mình liền nổi nóng, như vậy phải khổ thôi.

Do mê chấp mà tạo thành cái khổ cho mình.

Chúng ta phải có trí tuệ nhìn rõ lẽ thật cuộc sống,

thân này là giả tạm, mạng sống con người đo bằng

hơi thở như chỉ mành treo chuông. Dù muốn dù

không, không ai thoát khỏi vòng vận hành “sinh –

già – bệnh – chết”. Khi kiếp người đã mãn, thân xác

này hòa vào cát bụi, xuôi tay nhắm mắt bỏ lại mọi

thứ trên đời. Xác định thân này là không thật, nên

đừng bám víu vào nó. Điều quan trọng là phải tỉnh

ngộ trong việc sống chết. Chúng ta đau khổ với sống

chết, hay hạnh phúc với sống chết, đó là vấn đề mà

người Phật tử cần phải lưu tâm.

Trong cuộc sống muốn có hạnh phúc phải gieo

bòn phước đức và trí tuệ. Mọi hành động phải nên

nhịp nhàng và trầm tỉnh. Thân người như bập dừa

trôi giữa sông, thần thức bám vào bập dừa thì hãy cố

gắng vào bờ cho nhanh, bằng cách tập tinh tấn tu

hành, tinh tấn niệm Phập để được tỉnh ngộ giữa cuộc

đời. Tỉnh ngộ thì sống chết có sợ đâu.

Tục ngữ có câu: “Con nhà tông không giống

lông cũng giống cánh”, Đức Phật là bậc đã chứng

ngộ chân lý, tâm vị tha vô lượng, nên đệ tử Phật

chúng ta cũng phải học hỏi, thực hành hạnh vô ngã,

vị tha khi tiếp cận mọi người. Chúng ta phải thể hiện

đức tính này qua lời nói, hành động, để từ đó dục

Thoát nhà lửa 48

vọng và sân hận sẽ giảm lần và thường xuyên phản

tỉnh, kiểm soát mình trong cuộc sống.

Một người nóng giận mắng ào ào

Chẳng lẽ ta đây cũng vậy sao?

Một đứa cọc cằn thêm đứa nữa

Thành ra hai đứa cũng như nhau.

Sân hận là hiểm họa của con người. Chúng ta

phải nổ lực buông xả để đem lại an ổn cho ta và mọi

người. Khi bệnh sân hận nổi lên, chúng ta phải dùng

bốn loại thuốc: “Thuận thảo hòa hợp, nhẫn nhục

nhịn nhường, từ bi hỷ xả và vô ngã vị tha” để trị

tâm bệnh. Người Phật tử cần hiểu rõ pháp tu này để

hóa giải bệnh giận hờn ngỏ hầu thoát ra khỏi nhà

lửa.