những bài viết về văn học dành cho trẻ thơ...
TRANSCRIPT
NHỮNG BÀI VIẾT VĂN HỌC DÀNH CHO TRẺ THƠNHỮNG BÀI VIẾT VĂN HỌC DÀNH CHO TRẺ THƠ
Sưu tầm và giới thiệu: Ngô Thị Thái Sơn
LỜI GIỚI THIỆU
Văn học vốn là món ăn tinh thần không thể thiếu của trẻ thơ. Tuy nhiên
cần viết và tuyển chọn những câu chuyện và bài thơ như thế nào để món ăn
tinh thần ấy thực sự vừa bổ ích, vừa lí thú với trẻ? Đó luôn là câu hỏi đặt ra
cho đội ngũ những người cầm bút sáng tác và cũng đặt ra cho đội ngũ những
người làm công tác chăm sóc giáo dục trẻ. Khoa sư phạm mầm non tại các
trường cao đẳng, nơi đào tạo các giáo viên mầm non tương lai cũng hết sức
chú trọng đến việc giáo sinh viên đi tìm và trả lời câu hỏi này. Đây cũng là một
trong những yêu cầu mà sinh viên cần nắm vững để có cơ sở sưu tầm, lựa
chọn TPVH cho trẻ làm quan theo hướng các chủ đề hiện nay.
Nhằm giúp cho sinh viên khoa SPMN có thêm tài liệu tham khảo và học
tập môn Văn học mẫu giáo thiếu nhi, môn Phương pháp tổ chức hoạt động
cho trẻ làm quen với TPVH, chúng tôi xin giới thiệu cuốn tài liệu NHỮNG BÀI
VIẾT BÀN VỀ VĂN HỌC DÀNH CHO TRẺ THƠ. Như tựa đề của nó, tài liệu
này là sự tập hợp những bài viết của các nhà văn, nhà thơ chuyên viết cho trẻ
em và các nhà nghiên cứu, phê bình văn học xung quanh việc đi tìm đặc
trưng của văn học cho thiếu nhi nói chung và văn học cho trẻ thơ nói riêng.
Chắt lọc từ ý kiến của họ, sinh viên khoa SPMN cũng tìm được những cơ sở
để trả lời cho câu hỏi "Thế nào là văn học dành cho trẻ em?" và cơ sở để lựa
chọn các TPVH phù hợp với trẻ thơ.
Tài liệu được sắp xếp giới thiệu theo thứ tự những bài viết bàn chung
về ý nghĩa của văn học đối với trẻ thơ trước, tiếp theo là những bài tiết bàn về
đặc trưng của thơ và bàn về đặc trưng của truyện. Không sắp xếp theo thứ tự
ABC của tựa đề bài viết hay tên tác giả.
Do sơ xuất trong quá trình sưu tầm, có hai bài viết không ghi lại được
nguồn gốc xuất xứ. Mong bạn đọc thông cảm.
Hy vọng cuốn sách này ít nhiều góp phần tháo gỡ những khó khăn về
tài liệu nghiên cứu và học tập của giáo viên và sinh viên khoa SPMN.
1. VĂN HỌC VÀ TÂM HỒN TRẺ THƠQUỲNH NHI (ghi)
L.T.S: Nhà thơ Định Hải sinh năng 1937 tại Thanh Hóa, với 15 tập thơ,
chủ yếu viết cho thiếu nhi, ông đã để lại trong tâm hồn trẻ thơ những bài ca
không thể quên như: BÀI CA TRÁI ĐẤT, BÀN TAY CÔ GIÁO... Hiện nay ông
là Chủ tịch hội động văn học thiếu nhi - Hội Nhà văn Việt Nam.
Cuộc trò chuyện dưới đây với nhà thơ Định Hải được thực hiện trong
lúc không một ai trong chúng ta lại không cảm thấy đau lòng trước những tội
ác đối với trẻ em, và những tội ác gây nên bởi tội phạm ở tuổi vị thành niên.
Lúc này, câu hỏi về vai trò của văn học trong việc kiến tạo tâm hồn trẻ
thơ, vang lên. Đó là câu hỏi lớn. Câu trả lời thuộc về các nhà văn, đặc biệt là
các nhà văn viết cho thiếu nhi.
QUỲNH NHI (QN): Thưa anh, hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến trái
ngược nhau về văn học thiếu nhi. Thế nào là văn học thiếu nhi? Những ai làm
nên dòng văn học này? Phải chăng chỉ có các nhà văn chuyên viết về đề tài
thiếu nhi?
NHÀ THƠ ĐỊNH HẢI (ĐH): Trong dòng văn học thiếu nhi có hai mảng
quan trọng, mảng người lớn viết cho thiếu nhi và mảng thứ hai là chính các
em viết về đời sống của mình. Nhà thơ Chế Lan Viên từng cho rằng, khi các
nhà văn viết cho thiếu nhi thì các tác phẩm có được tính nghệ thuật cao và có
ý thức hướng dẫn tâm hồn cho trẻ. Người viết có cái mạnh là sâu lắng và
nhiều tầng ý nghĩa. Nhưng theo tôi, các tác giá tí hon tự viết về mình, về bạn
bè là hết sức quan trọng. Bởi các em nói lên được sự trong sáng. Cho dù
chính nhà thơ Chế Lan Viên không thích con gái làm thơ nhưng chính Vàng
Anh đã mang về giải nhất của cuộc thi quốc tế Trẻ em nói với trẻ em với bài
thơ Mèo con đi học bài thơ này trước khi nhận giải đã bị không ít người phản
đối là non nớt.
QN: Có lẽ cuộc sống từng trải mà mọi người đánh giá bài thơ của Vàng
Anh như thế? Nhưng phải chăng văn học thiếu nhi chỉ dành riêng cho độc giả
thiếu nhi. Những độc giả lớn tuổi tìm thấy gì ở dòng văn học này?
ĐH: Đã là văn học thì dành cho mọi lứa tuổi. Không hề có sự phân biệt.
Những bài thơ viết cho thiếu nhi hay, thì tất cả các lứa tuổi đều thấy hay bởi
nó có nhiều tầng ý nghĩa và đem lại những khám phá khác nhau. Vả lại người
lớn còn thích đọc văn học thiếu nhi bởi đó là nhu cầu tự thân. Khi mệt mỏi, lo
âu trong đời sống thì mỗi người lại có khao khát tìm về tuổi thơ trong trẻo hồn
nhiên...
QN: Nhưng dường như sự trong trẻo, hồn nhiên mà mọi người muốn là
tìm thấy trong văn học thiếu nhi lại rất hiếm gặp. Bởi có những tác giả thường
gán ghép tùy tiện cho những con vật, những đồ vật một đức tính tốt, hoặc xấu
của con người và từ đó phát triển lên, bất kể đời sống riêng của con vật hay
sự vật đó. Ví dụ như con chim thì lười biếng chỉ ca hát cả ngày, con bướm thì
rong chơi...
ĐH: Đó là điều còn nhức nhối trong văn học thiếu nhi. Bệnh ấu trĩ từ
xưa và rất khó thay đổi của văn học thiếu nhi là sự cố ý giáo huấn, răn dạy trẻ
ngay trong tác phẩm, ép trẻ phải có những ý nghĩ, những tình cảm đã được
khuôn mẫu sẵn. Người làm thơ không xuất phát từ cảm hứng thơ ca, từ tình
cảm thắm thiết mà xuất phát từ một ý đồ giáo huấn, răn dạy. Người ta đã đi
tìm và mượn vỏ các sự vật để gán ý đồ chủ quan của mình vào. Trẻ em rất
nhạy cảm với kiểu "văn vẻ" này. Các em bị dị ứng ngay và tác phẩm không gì
hơn là lời quát nạt trẻ có vần.
QN: Có thể vì điều này mà văn học thiếu nhi không hấp dẫn được các
em. Điều này còn làm bùng nổ các cơn sốt truyện tranh. Các em vùi đầu suốt
ngày vào các loại truyện tranh được dịch từ tiếng nước ngoài và bị tiêm
nhiễm không ít chất độc từ những cảnh rùng rợn trong tranh.
ĐH: Theo tôi nghĩ truyện tranh chưa phải là có hại tất cả. Thực trạng
trong những năm gần đây, thị trường sách của chúng ta có lạm phát tranh
truyện ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Nhiều ý kiến báo động về mặt bạo lực,
mê tính dị đoan những tình tiết quái dị. Trong khi đó các thể loại truyện khác
thì không có nhiều. Nhưng có một thực tế không thể phủ nhận là trẻ em rất
thích truyện tranh. Phải biết gạt bỏ phần độc hại để có được những luồng
cảm xúc mới, những ý nghĩa mới, cảnh viết mới vào văn học. Thực ra điều
này đã manh nha từ vài năm nay, ví dụ như các cây bút trẻ đầy năng lực và
hiểu biết như Châu Giang, Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Hường Lý…
QN: Nhưng dù sao văn học thiếu nhi hiện thời đã đóng góp rất nhiều
tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường. Các em bắt đầu được đọc, được
học ngay từ khi bập bẹ chữ "a", và cứ thế theo suốt mấy năm văn học cơ sở.
Anh thấy tình hình văn thiếu nhi trong trường học như thế nào?
ĐH: Thực ra trước kia là rất yếu, từ khâu tuyển chọn vào sách giấc
khoa đến các lời hướng dẫn học bài. Và đặc biệt là cách tiếp cận, quá nặng
nề vô tình giáo huấn. Trẻ em ngồi học thờ ơ và sợ môn văn. Thầy giáo ít khi
đồng cảm với giá trị đích thực của văn học. Mấy năm gần đây, sách giáo khoa
có cải tiến rất nhiều và các em bất đầu thích học môn văn hơn. Và cũng chính
vì thế mà nhà trường ngoài việc giáo dục ra còn góp phần bồi đắp các mầm
non năng khiếu văn học.
QN: Anh đã từng xuất bản 15 tập thư cho thiếu nhi. Nhiều bài thơ của
anh được các nhạc sĩ phổ nhạc như Bài ca Trái Đất, Bàn tay cô giáo... khiến
các em rất thích. Thì truyện tranh gợi cho các em một tư tưởng tượng vô
cùng phong phú. Vả lại, lời đi kefm với tranh là lợi thế đặc biệt gần gũi với đời
sống của các em. Phải chăng các nhà văn viết cho thiếu nhi không ý thức
được điều đó. Và đều ý thức được điều đó thì có lẽ họ đã bất lực vì điều kiện
đầu tiên của văn học là trí tưởng tượng họ không có?
ĐH: Không phải trí tưởng tượng của các nhà văn hoàn toàn khô kiệt,
mà là trí tưởng tượng của họ chưa cao, hơi thiếu chất bay bổng, thần tiên,
mơ mộng... những điều rất gần gũi với trẻ. Cũng bởi vì nhiệm vụ giáo huấn
một thời khiến họ khó thoát khỏi thói quen cố hữu. Họ hướng đến một mục
đích hơn là hướng tới nghệ thuật thơ. Do đó hạ thấp giá trị tư tưởng thầm mỹ,
đánh đồng giá trị văn học với những giá trị khác.
QN: Để thay đổi một cách nhìn nhận, một cách viết là rất khó, hầu như
các lớp tác giả không thể từ thay đổi được mà phải chờ đến lớp tác giả kế
cận. vậy điều này có đúng với văn học thiếu nhi hiện nay của ta?
ĐH: Tôi lạc quan hơn nhiều. Các nhà thơ trưởng thành đã ý thức được
điều này và đang cố gắng tìm tòi, thay đổi những nếp nghĩ của mình. Hiển
nhiên phải chờ một lớp nhà thơ, nhà văn mới.
QN: Nếu tuyển chọn sách giáo khoa, anh sẽ tuyển chọn như thế nào về
phần văn học thiếu nhi?
ĐH: Trong sách giáo khoa có khoảng hơn 30 bài là các tác phẩm của
tôi, dưới bút danh Định Hải hoặc Nguyễn Biểu, thậm chí vì nhiều quá nên các
nhà làm sách bỏ cả tên tác giả đi ví dụ như các bài: Tiếng chim buổi sáng,
Đánh trận giả, Nếu chúng mình có phép lạ... Các gợi ý tiếp cận tác phẩm của
các nhà làm sách cũng khá chính xác, nhưng đồng cảm thật sự với tác giả thì
chưa.
Tiêu chí để chọn giảng trong nhà trường bao giờ cũng phụ thuộc yếu tố
đầu tiên và duy nhất đó là giá trị nghệ thuật thực sự, phù hợp với lứa tuổi,
khiến cho các em có thể cảm thụ được với vẻ đẹp của tác phẩm. Trong cách
tuyển chọn ngày nay còn quá ít các tác phẩm của họ, mang rất nhiều nét đặc
sắc, hấp dẫn, mới lạ, cuốn hút được các em.
QN: Dường như hiện nay, số lượng tác giả trẻ viết cho thiếu nhi tăng
lên rất nhiều so với trước kia. Họ tươi non, mạo hiểm và thu được khá nhiều
giải thưởng văn học nhưng tiếng nói của họ trên văn đàn thì quá ít ỏi, phải
chăng họ còn thiếu một điều gì?
ĐH: Có nhiều tác giả chỉ coi văn học thiếu nhi như một chặng đường rồi
thay đổi viết kiểu khác. Như thế họ chưa đủ tình yêu với các em. Trong 240
tác giả của tuyển tập văn học thiếu nhi của nửa thế kỷ, lực lượng tác giả trẻ
quá ít. Mỗi người có một bài, chỉ có một vài trường hợp đặc biệt như Hường
Lý là có hai bài. Nói chung các tác giả trẻ nên bền bỉ, tiếp tục học hỏi nhiều
hơn nữa và không chỉ đến với văn học thiếu nhi như người khách qua đường,
mà phải theo nó trọn đời mới mong yêu được nó.
QN: Đốtxtoiépxki: "Trẻ em như một dấu chỉ về hạnh phúc, về sự trong
sáng tinh khiết của chúng ta. Sự tồn tại của các em mang lại niềm vui lớn lao
nhất cho con người và..."
ĐH: Đúng vậy, trẻ em là những thiên đường yêu mến mặt đất này và ở
lại với chúng ta. Đời sống của các em, ánh mắt trong veo của các em nuôi
dưỡng tâm hồn mỗi người chúng ta, khiến chúng ta trở nên tốt đẹp hơn và
mỗi người cố gắng yêu lấy đời sống của mình.
QN: Xin cảm ơn anh.
(Tạp chí Văn hóa Văn nghệ Công An số 8/1998)
2. ĐI TÌM ĐẶC TRƯNG CỦA VĂN HỌC CHO THIỂU NHIPHONG LÊ
Văn học thiếu nhi vốn cũng phải thực hiện các chức năng của văn học
nói chung. Nhưng tôi muốn lưu ý một chức năng mà thiếu nó, hẳn văn học
thiếu nhi sẽ không tồn tại trong một sự phân biệt rành rõ với văn học người
lớn như người ta thường muốn, và vẫn thường bàn. Đó là yêu cầu kích thích,
khơi gợi, phát huy năng lực tưởng tượng, sáng tạo ở các em. Điều này rất
cần. Cần cho tuổi thơ, và cần ngay từ tuổi thơ. Một kết quả nghiên cứu khoa
học cho biết tiềm năng phát triển của con người còn rất dồi dào. Ở não bộ
con người có từ 14 - 16 tỷ tế bào, nhưng số tế bào được huy động vào các
lĩnh vực sáng tạo ở con người hôm nay, mới chi đạt khoảng 5 đến 7 phần
trăm. Quan sát các hoạt động thể thao thì cũng thấy con người vẫn tiếp tục
bứt ra khỏi các giới hạn tự nhiên để vươn tới các kỷ lục mới, và dường như
cuộc chạy đua này còn là vô cùng. Bên cạnh những cuộc đấu tranh cãi tạo xã
hội ngày càng rộng lớn, nhằm vào mục tiêu nhân đạo hóa đời sống, nhằm
vào sự vươn cao hơn chất lượng sống, con người đã nghĩ đến một cuộc cách
mạng nhân chủng (révolution anthropologique) sẽ diễn ra cho thế kỷ sau, với
sự phát triển hàng đầu có thể là khoa sinh học. Câu chuyện này mở ra còn
dào tôi sẽ không sa đà, đi lạc đề, mà chỉ muốn nhân đó mà nói cái ý cho rằng
con người còn dồi dào tiềm năng phát triển; và văn học có thể góp phần vào
đó để đánh thức để nuôi dưỡng các tiềm năng. Sự đánh thức ấy lại cần được
tiến hành từ sớm, từ lứa tuổi nhỏ, và văn học thiếu nhi có thể đóng vai trò
người lính tiên phong. Ở ta từ xưa có câu: "Con hơn cha là nhà có phúc". Tôi
nghe câu này vừa vui vừa băn khoăn. Vui vì thấy nhân dân ta không "phong
kiến", nhân dân ta mong muốn và ủng hộ sự tiến bộ, không ngừng mong các
thế hệ đến sau phải hơn lớp trước. Nhưng băn khoăn vì một lẽ khác: còn
chưa thấy trong câu đó cái nhận thức "con hơn cha" là một tất yếu lịch sử,
một qui luật của sự phát triển, mà lại xem như một chuyện cầu may. Có nghĩa
là trong đời sống thực phải chăng, phổ biến và quen thuộc mới chỉ có chuyện
"con bằng cha", hoặc "con thua cha" nên mới có câu "con hơn cha" là phúc
đức.
Đó là chuyện xưa. Nhưng đâu phải hôm nay không còn là hiện tượng
để cho ta suy nghĩ.
Nói chung về nhu cầu khởi động và phát triển các tiềm năng, tôi muốn
bắt đầu bằng vai trò của cổ tích và nhấn mạnh vị trí của cổ tích, là thể loại có
lẽ ít ai trong đời lại không từng có lúc đam mê vì nó, không cần chờ đến khi
biến chữ, cho đến lúc "vỡ lòng"
Truyện cổ trong diện mạo hết sức đa dạng ở mỗi dân tộc, và khắp thế
giới có thể xem là món quà quí sẵn dành cho các em ở lứa tuổi thơ. Sức hút
của truyện cổ theo tôi là ở chất ảo, chất tưởng tượng của nó. Không kể nó
còn đậm chất vui, chất hài, chất ngộ nghĩnh, ly kỳ. Bằng thứ ấy chất liệu, nó
có khả năng đưa các em vào một thế giới khác với hiện thực chung quanh,
hiện thực thường ngày. Nhưng dẫu vậy, nó vẫn không tạo một cảm giác xa lạ,
mà vẫn gợi được nơi các em cái cảm tưởng tất cả những gì được kể đều là
có thực, là có thể xảy ra. Nói cách khác, nó kích thích ở các em khả năng
đồng hóa thế giới của tưởng tượng, của mơ ước vào thế giới thực. Phải nói
khả năng đồng hóa, khả năng kết hợp đó là rất kỳ diệu; nó chỉ có thể là sản
phẩm riêng của tuổi thơ. Con người đến lúc lớn khôn cái đó sẽ mất đi. Cùng
với sự hiểu biết và vốn kiến thức được bồi đắp thêm, ta lại dễ đánh rơi hoặc
làm mòn mỏi đi năng lực của ước mơ, của tưởng tượng. Bên cái được có cái
mất, âu đó là luật bù trừ. Và chỉ những ai cố khả năng cưỡng lại sự mất mát
này, giữ được sự bồi đắp của tưởng tượng, mới là người kéo dài được cuộc
đối thoại với tuổi thơ.
Từ đặc trưng và đòi hỏi trên của lứa tuổi nhỏ mà đối chiếu với những gì
được viết lâu nay, ta sẽ thấy chỗ dễ trở thành non yếu. hạn chế trên số không
ít sáng tác của ta là đôi khi quá nệ vào cái thật, là thật quá. Ta chú trọng sử
dụng một vài phương pháp miêu tả và thường là mô phỏng theo cách viết cho
người lớn, và nhìn chung là hơi nghiêng về cái trông thấy được trong hiện
thực, cái phải giải thích được bằng lý lẽ. Trong khi, sự cảm nhận của các em
không phải lúc nào cũng đòi hỏi có lý có lẽ.
Tôi không sành về khoa tâm lý, nhưng nghĩ rằng sự nghiên cứu tâm lý
này hắn sẽ mở ra cho sáng tác thiếu nhi nhiều hướng hay. Cần tìm hiểu xem
ít sao truyện cổ dân gian hoặc của các tác giả cổ điển lại được các em yêu
mê đến như vậy. Ở Liên Xô, truyện dân gian Nga xuất bản hơn 400 lần với
tổng số 59 triệu bản. Andecxen 407 lần với 65 triệu bản, Grim 300 lần với 43
triệu bản. Ở ta, mong có một sự thống kê hoặc điều tra xem kết quả ra sao.
Phải nói rõ thêm: Sự yêu thích cổ tích, đồng thoại là nét chung ở các
em thuộc mọi thế hệ, mọi thời đại. Ở mỗi cuộc cách mạng, hoặc chiến tranh,
từng lúc từng nơi, có thể có nhu cầu này hoặc nhu cầu kia nổi lên; nhưng
nhìn rộng ra, nhân loại trên con đường tiến hóa của mình, cũng như đời một
con người, từ thuở ấu đến tuổi trưởng thành đều có một hướng đi và một đích
chung: vươn về cái đẹp cái chân, cái thiện… Cần từ cái chung có tính nhân
loại này mà thấy các giá trị tinh thần phổ quát, thường được hàm chứa trong
cổ tích, là bền vững và trường cửu.
Tôi xin chuyển sang thơ, vẫn với chức năng khơi gợi sức tưởng ở các
em, đồng thời vô vàn câu hỏi được nhân lên theo năm tháng, suốt từ lúc ấu
thơ cho đến tuổi trưởng thành. Đem lại cho các em một nhận thức đúng, và
ngày càng sâu về thế giới chung quanh, từ gần đến xa, từ thiên nhiên về con
người, từ gia đình ra xã hội... đó là mục tiêu mà mọi người viết, mọi trang viết
cần đạt được. Nhưng đạt được bằng con đường nào lại là chỗ phân biệt sách
cho người ăn nói chung và sách cho thiếu nhi.
Nguồn gốc sự sống, sự tiến triển của lịch sử loài người là cả một giáo
trình sinh học. Đó là trí thức của nhà trường. Nhưng Chuyện cổ tích về loài
người của Xuân Quỳnh lại tỏ ra "bất chấp" tri thức sách giáo khoa. Tất cả thế
giới này đều vì trẻ con mà sinh ra. Con trẻ được sinh ra trước tiên. Rồi mới
đến mặt trời, màu sắc, chim muông, âm thanh, sông ngòi, biển, mây, đường
sá… rồi mới đến mẹ và bà, vì trẻ còn cần tình yêu, tiếp đến là lời ru và
chuyện kể… Rồi mới đến bố, vì trẻ cần sự hiểu biết. Sau đó chữ, bàn ghế,
thầy giáo, phấn, bảng…Từ bảng mà có lớp học, và buổi học đầu tiên, thầy
viết lên bảng:
…Chữ thật to:
Chuyện loài người trước nhất.
Người đọc là chúng ta không ai bất bình trước sự vô lý đó. Trẻ em càng
không biết cãi. Chỉ biết thích thú vì sự có lý của một chuỗi những điều phi lý
Sự chấp nhận đó đi ra ngoài những lôgic thông thường. Vì có một lôgic khác,
làm nền - đó là: sự tồn tại của cuộc sống cần bắt đầu từ sự chăm sóc trẻ thơ.
Sự tồn tại chung quanh loài người là vậy. Và tính ưu việt mà chủ nghĩa xã hội
muốn có cũng là vậy. Bài thơ có sự nghịch lý, nhưng không phi lý. Và như vậy
cần được giải thích, cần hiểu theo lôgic khác. Hẳn không ai phản đối Xuân
Quỳnh đã "bất chấp" tri thức sinh học mà đưa ra một lý thuyết "duy tâm" như
vậy. Vì ở đây bài thơ không nhận trách nhiệm cung cấp trí thức là chính, hay
nói đúng hơn, cung cấp một tri thức khác với sự cung cấp của sách giáo
khoa.
Đi vào thế giới chung quanh, việc xác lập một quan hệ giữa các sự vật,
đối với các em, được mở đầu bằng một quan hệ đơn giản nhất: tôi và khách
thể. Chưa vội đào sâu, lật đi lật lại vấn đề. Chưa vội một lúc bao quát hết các
quá trình. Một quan hệ đơn giản, trong đó chủ thể là em bé đóng vai trò trung
tâm. Tất cả nhìn từ mình, tất cả là vì mình. Thơ thiếu nhi cần sự ngộ nghĩnh là
do thế. Và như vậy yêu cầu nhận thức trong văn học cho thiếu nhi có một
phẩm chất riêng, không giống thơ người lớn. Cần một con đường riêng, một
phương thức riêng để đi tới đó. Để từ hiện thực được nhận thức mà gợi mở,
gắn nối các em với một khát vọng sâu xa về cái đẹp, cái tốt, cái thiện.
Như vậy là văn học cho thiếu nhi cần thực hiện nhiều chức năng, và
chức năng nhận thức cũng có vị trí quan trọng. Một nhận thức từ những gì
đơn giản, cụ thể mà có sức gợi mở ra một chuyện. Trước thế giới bao la,
ngày càng mở rộng kỳ thú, các em hăm hở và băn khoăn trước vô vàn câu
hỏi, nhưng câu hỏi từ tuổi thiếu nhi theo tôi là câu hỏi bức xúc nhất, và ẩn rất
nhiều thi vị.
Ở người lớn, các câu hỏi đặt ra không phải tất cả đều cần trả lời ngay.
Có câu hỏi cần chờ đợi. Cần để "nghiên cứu". Để tôn trọng tính thời gian, và
có lúc quá đà thành "ngâm cứu". Nhưng với các em, có câu hỏi, là cần có câu
trả lời.
Khỏi phải nói tuổi thiếu nhi là tuổi nhà trường với sự huy động tất cả bộ
nhớ vào việc học. Khỏi phải nói có một hệ thống sách giáo khoa là sự trả lời
các câu hỏi ấy, theo một trật tự phân loại từ thấp lên cao, hẹp đến rộng, đơn
giản đến phức tạp.
Văn học cũng nhằm góp vào việc trả lời các câu hỏi ấy. Nhưng như
trên ta đã nói, có mặt nó hỗ trợ cho sách giáo khoa. Có mặt nó vạch lối đi
riêng. Lại có một khu vực nhận thức chỉ văn học mới làm được. Đó là khu vực
nhận thức chỉ văn học mới làm được. Đó là khu vực không chỉ dừng lại ở sự
thỏa mãn một nhu cầu trí tuệ mà còn tiếp tục nuôi cấy cảm xúc, bồi đắp tâm
hồn. Đó chính là khía cạnh làm nên ưu thế của văn học so với mọi khoa học,
so với sách giáo khoa.
(Tạp chí Văn học số 5/1993)
3. NGÔN NGỮ VÀ THƠ MỘT ĐỀ TÀI MÊNH MÔNG PIERRE GAMARA
Đây là một vấn đề rất to lớn và các bạn hãy thứ lỗi cho tôi vì ở đây tôi
cũng chỉ lướt qua vấn đề thôi. Chúng ta là những người tiên phong trong vấn
đề này chủ yếu tôi nói về các bạn Pháp và tôi cảm thấy có phần ngợp khi nghĩ
đến bao nhiêu vấn đề hấp dẫn đang đặt ra cho chúng ta. Bên cạnh vấn đề về
văn thể, vấn đề nhạc trong thơ người ta còn thấy rất rõ vấn đề về sư phạm và
nhất là vấn đề mà tôi có thể gọi là: những vấn đề về thu nhận thực tế bên
ngoài và biến đổi những thực tế đó vào trong sáng tác.
Nếu như nhà văn cũng như bất cứ nhà sáng tác văn học nghệ thuật
nào phải đồng thời là một nhà phê bình thì những người muốn viết cho thiếu
nhi càng phải mang theo trong người họ một nhà phê bình vào loại cao nhất,
tế nhị nhất, một người có thể cân đo được sức nặng của một cánh bướm như
một vị thẩm phán luôn luôn tế nhị và nghiêm túc.
Chúng tôi luôn luôn chống lại quan niệm khá phổ biến hiện nay cho
rằng văn học thiếu nhi là một thứ văn học vào loại thứ yếu. Các nhà sư phạm
hiểu rõ hơn ai hết rằng dạy các lớp càng bé thì càng khó.
Nhà văn viết cho người lớn có thể cho phép mình sử dụng lối chơi chữ,
sử dụng những từ, những câu có ẩn ý. Họ có thể "đời hỏi" bạn đọc (phải chịu
khó suy nghĩ) có thể đánh lạc hướng hay gây cho độc giả ít nhiều hoang
mang v. v…
Nhưng đối với độc giả trẻ, công việc sáng tác cần phải khắt khe hơn;
không thể đưa lại cho họ những món ăn đã hoàn toàn nhai sẵn, mà sự khắt
khe đó phải được cân nhắc, tính toán, cộng thêm vào đó một tinh thần đầy đủ
về trách nhiệm.
Khi người ta đi từ địa hạt của người lớn qua địa hạt thiếu nhi, những
vấn đề đặt ra không phải giản đơn hơn, sơ lược hơn, mà trái lại những vấn đề
đó càng khó khăn hơn và phức tạp hơn.
CHÚNG TA MUỐN GÌ?
Theo ý kiến riêng của tôi, có 3 việc:
1) Mở con đường cho các em đi vào kho di sản văn học chung của thế
giới. Giúp các bạn đọc còn đang bập bẹ làm quen với vườn thơ văn bao la
của nhân loại.
2) Muốn làm được việc đó, chúng ta cần giúp cho các em thu nhận và
trao đổi dụng cụ của mình, tức là ngôn ngữ của mình.
3) Việc sử dụng ngôn ngữ sẽ đi đôi với sự phát triển của óc phán đoán.
Biết đọc có nghĩa là đọc ở phía bề sâu, có nghĩa là khám phá ra mọi vẻ đẹp,
mọi ẩn ý. Biết nói, biết viết, có nghĩa là diễn đạt được tư tưởng tình cảm của
mình, có nghĩa là thông cảm bắt gặp chung quanh. Người ta không bao giờ
có thể ngừng học để đọc hay để viết. Người ta cũng không có thể bắt đầu
sớm quá.
Trẻ con là một sinh vật rất mới, rất mong manh. Trẻ con luôn luôn phát
hiện và tìm hiểu. Chưa bao giờ cụm từ "cân nhắc mỗi chữ" lại có nhiều giá trị
như thế đối với một nhà văn viết cho thiếu nhi. Phải dừng lại ở mỗi chữ, phải
soát kỹ lại để hiểu mỗi chữ chứa đựng ý nghĩa gì và sẽ tác động ra sao.
Do đó, những cái mà người ta gọi là mòn sáo sẽ tìm được tất cả hiệu
lực và tính độc đáo ban đầu của nó, mỗi khi các độc giả tí hon đọc đến. Ví dụ:
những ngón tay hồng của hừng đông giống như những bông hoa tươi đẹp.
Những hoa cúc hoang rải rác trên đồng cỏ có một màu sắc rực rỡ.
Nhưng các độc giả trẻ cũng phải hiểu là những "ngón tay hồng" đó,
những "màu sắc rực rỡ" đó trước đây đã được tìm ra, đã được "phát minh"
ra, dùng mãi đã mòn, và có thể kém tác dụng. Cũng phải chỉ cho các độc giả
trẻ biết những cái đã nói rồi đồng thời cũng phải chỉ cho các em thấy cái ích
lợi, cái cần thiết của sự tìm tòi và sự phát minh. Vì thế mà công việc của nhà
văn viết cho thiếu nhi càng gặp nhiều khó khăn trở ngại.
Đối với tôi hình như có hai trở ngại chính: thứ nhất là sự nhạt nhẽo vô
vị, sự luôn luôn tầm thường, một phong cách quá đơn giản, bi bô, nhé nhé.
Thứ hai là một cách viết lòe loẹt, "chải chuốt" giả vờ.
Người ta không bao giờ có thể sáng tạo, phát minh từ một cái không có
gì cả. Những bài thơ hay nhất, độc đáo nhất lại bất nguồn từ những cái tìm
thấy xưa nhất trong những lá khô của sáo ngữ (tức là những hình tượng cũ
đã được lan ra từ trước và đã được dùng nhiều lần)
Tôi không tin có những trẻ em thi sĩ, do đó tôi không muốn thúc đẩy các
em, buộc chúng nhất thiết phải làm thơ. Cũng có thể các bạn đọc trẻ, các bạn
viết trẻ (trẻ con), vì sự tươi mát và ngây thơ có thể tìm ra được những cái
mới. Nhưng chúng ta không nên tìm cách đào tạo, những Elua mười hai hoặc
mười lăm tuổi. Chúng ta chỉ nên tìm cách đào tạo những độc giả của Elua,
những độc giả có nhiều kiến thức càng nhiều càng tốt. Thơ ca là tinh hoa cao
nhất của trí óc loài người và của ngôn ngữ.
Điều chúng ta mong mỏi là làm sao cho những em bé ngây thơ, vụng
về trước mắt chúng ta, một ngày kia sẽ hiểu nổi, sẽ thưởng thức nổi Puskin
hay Raxin, sẽ đi vào được cái thế giới bí mật nhất và phong phú nhất của
tiếng ca nhân loại. Và biết đâu người học trò non trẻ đó cũng có thể trở thành
một Puskin hay Raxin nhờ sự giúp đỡ của chúng ta, nhờ có tài năng và công
phu lao động. Nhưng nhất thiết không bao giờ có sự thành công do yếu tố
thần kỳ.
NGÔN NGỮ DỤNG CỤ QUAN TRỌNG ĐẦU TIÊN
Người ta ít để ý đến vấn đề ngôn ngữ. Tôi biết là tôi đang mơ khi nói
đến vấn đề này. Vì ở đây người ta không bao giờ để ý đến văn học thiếu nhi.
Trừ một vài tạp chí chuyên môn, những vấn đề căn bản không bao giờ được
đả động đến. Nhưng thực ra những vấn đề đó là những vấn đề có liên quan
mật thiết đến một đối tượng hết sức rộng rãi, đó là các thầy giáo, và các bậc
phụ huynh. Tôi tin rằng, người ta có thể làm cho các bậc phụ huynh học sinh
quan tâm đến vấn đề này khi ta trình bày với họ những phương pháp khả dĩ
có thể làm giàu thêm vốn từ ngữ, những phương pháp để sử dụng ngôn ngữ
một cách chính xác và sinh động, những phương pháp để tăng thêm sức tiếp
thu, khả năng truyền cảm và trí óc phán đoán, những phương pháp để tăng
thêm cái vui trong thưởng thức nghệ thuật
Đối với tôi nếu có một vấn đề chủ yếu, quan trọng, để lại nhiều hậu
quả, thì đó là vấn đề ngôn ngữ.
1) Vấn đề học tập, sử dụng ngôn ngữ, chế ngự ngôn ngữ để biểu hiện
tư tưởng và tình cảm của mình.
2) Sự khác nhau giữa ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ nói thông thường
hàng ngày. Đây là vấn đề rất cũ, nhưng đối với trẻ em, chúng ta có thể thấy
đó là vấn đề mới. Trẻ con được đào tạo ở học đường nhưng đồng thời cũng
được đào tạo bởi cuộc sống, bởi hoàn cảnh gia đình, ở ngoài đường, ở các
sân giải trí (hơn nữa thỉnh thoảng ở vài vùng trẻ con còn học cả tiếng địa
phương, tiếng thổ âm).
Phải tính đến những thu hoạch đầu tiên đó, những thổ âm đó là những
ngôn ngữ sinh động và đặc biệt đó là những ngôn ngữ đã sống trên môi của
nhân dân. Trong khi đó thì một nhà văn ít sáng tạo lại chỉ biết sử dụng một
thứ ngôn ngữ cứng đờ đầy bụi bặm. Ngôn ngữ là một hiện tượng sống và trẻ
em là một vật sống. Đây là một vấn đề cần được thảo luận.
3) Còn một vấn đề khác cũng quan trọng: đó là vấn đề khốn cùng và
thoái hóa của một loại ngôn ngữ tân thời, những cái mà người ta thường thấy
trên những đầu đề của một bài báo, trên những tranh vẽ, một loại ngôn ngữ
thô sơ, mờ nhạt, quá tóm tắt, lờ mờ. Dưới những bề ngoài "khỏe" đó là một
thứ ngôn ngữ thấp kém đấy những từ lai căng nước ngoài.
Chúng ta cũng cần chỉ ra và vạch trần sự nghèo nàn đó, chỉ cho mọi
người thấy và giúp mọi người hiểu được tính chất phong phú của ngôn ngữ,
một sự phong phú vô tận.
Chúng ta sẽ can thiệp vào lúc nào? Ngay ở mỗi bản chú thích của một
minh họa, ngay ở một vài ba từ được ghép lại, ngay ở mỗi tập ảnh mỏng nhất
ít cần sự chú ý nhất, ngay ở những bước đầu, cần phải gọt dũa cẩn thận
ngay trong một vài câu đơn sơ kèm theo một bức tranh ảnh đẹp.
CẦN CÓ SỨC HỢP TÁC
Ở đây rõ ràng cần thiết phải có một sự hợp tác. Luôn luôn tôi kêu gọi
sự hợp tác. Đó là sự hợp tác giữa nhà văn, nhà sư phạm và phụ huynh học
sinh. Tôi cũng mong không phải chỉ một mình tôi lên tiếng trong vấn đề này.
Thật thế tôi không đòi hỏi những nhà sư phạm phải viết văn, những bậc
phụ huynh phải sáng tác những tiểu thuyết. Thường thường họ cũng có làm
những việc ấy và sáng tác của họ đôi lúc cũng hay nhưng nói cho cùng, mỗi
người mỗi nghề, mỗi người đều có kinh nghiệm riêng và tài năng riêng nó.
Nhưng ý kiến của các bậc phụ huynh và các nhà giáo là rất cần thiết và
rất bổ ích cho những người sáng tác văn học, trước lúc sáng tác và sau lúc
sáng tác.
Trước lúc sáng tác là để soi sáng cho nhà văn về thế giới phức tạp của
trẻ em, về những diễn biến của cảm giác, về phạm vi của thế giới trẻ con, về
sự quan trọng của tri giác, sự giàu có của vốn hiểu biết, của vốn từ v. v…
Sau sáng tác là để giúp cho nhà văn hiểu biết về kết quả đã đạt được,
về thành công và thất bại và nói chung về những cảm hứng của độc giả trẻ,
nói tóm lại là để làm một cuộc phê bình xây dựng cho tác phẩm xem nó đã
được quần chúng thiếu nhi đón tiếp như thế nào. Tôi nói thêm đến thế giới
phê bình, chính giới phê bình chuyên nghiệp văn học thiếu nhi và giới phê
bình văn học chung (nếu như họ muốn đoái hoài đến) cũng đóng một vai trò
rất quan trọng.
TINH HOA CAO NHẤT CỦA THI CA
Trong bao nhiêu những thể loại văn học, trong đó ngôn ngữ được
khẳng định được mài sắc và được làm giàu thêm, người ta không thể chọn
nên một thể loại nào. Tôi không tin là có những thể loại văn học vào loại cao
hay vào loại thấp và tôi không muốn có những "nhóm Do thái" (nhóm người
đặc biệt) trong xã hội cũng như trong ngôn ngữ.
Các em, những độc giả trẻ của chúng ta có thể thưởng thức và làm cho
chính mình giàu có thêm nhờ một câu chuyện, nhờ những lời vấn đáp, nhờ
những diễn xuất sinh động của đối thoại trong kịch, mà cũng nhờ cách diễn tả
vô cùng tế nhị của thể loại thi ca. Tôi đã nói đến vấn đề đó, bây giờ tôi xin trở
lại. Thơ là một loại quí báu và dành cho nó một sự chú ý đặc biệt. Thơ ca
cũng tạo cho chúng ta những dễ dàng đồng thời cũng đưa lại cho chúng ta
những khó khăn.
Nó tạo cho chúng ta những dễ dàng nhờ những khía cạnh sắc bén, sâu
xa mãnh liệt, nhờ những tính chất cô đọng và lấp lánh của kim cương, nhờ
sức "chứa đựng" của nó. Thi ca giúp cho chúng ta hay là phải giúp cho chúng
ta tích lũy trong kí ức (trong trí óc và trong tim của độc giả trẻ) cả một tủ sách
di động, một kho tàng quí báu không thể nào quên được.
Ở đây lại phải đặt ra một vấn đề bức thiết là cần phải có những sáng
tác có giá trị. Chúng ta có thể, chúng ta cần phải đem lại cho các em những
bài thơ hay của tất cả các nước. Trước tiên phải giới thiệu cái vốn quí, cái gia
tài của tổ quốc. Những bản dịch thơ nước ngoài sẽ đem lại cho những tâm
hồn mới rồi đó những tinh hoa chủ yếu và lâu đời trong vốn quí nhân loại.
Tất nhiên sẽ có những khó khăn. Chúng ta đều thấy cả, rõ ràng không
thể giới thiệu cho các em tất cả các loại bài thơ. Mà cần phải chọn lọc. Nhưng
thực ra, nhờ cái vốn quí sẵn có của nhân loại mà số thơ chọn cho các em sẽ
được nhiều hơn, có thể tìm được nhiều bài thơ cho các loại sở thích, cho nhu
cầu từng lúc và cho sự cần thiết của khoa sư phạm. Chúng ta không thể thu
hẹp thơ ca cho thiếu nhi vào phạm vi những bài hát tập đếm, những bài chơi,
những bài ca dao loại dở. Những bài hát chơi cũng cố vẻ đẹp của nó nhưng
chúng ta phải có nhiều tham vọng hơn. Chúng ta giúp cho các em và các giáo
viên quan tâm đến và yêu thích kho tàng văn học phong phú của nhân loại.
Ở đây cũng lại nảy sinh một vấn đề cấp thiết: cần có một sự cộng tác
tập thể để tổ chức các cuộc sáng tác, để dự định những công việc dịch thuật,
những bản phóng tác, để xúc tiến việc xuất bán các tuyển tập v.v… Trước
đây tôi có phản đối lối lai căng Anh, Mĩ (việc nhập các từ ngữ Anh, Mĩ). Nếu
tôi có phản dối là phán đối lối sử dụng lai căng, sống sượng, thấp kém chứ
không phải phân đối những thiên tài của Anh, Mĩ cùng phần tinh hoa của
những quốc gia khác. Tôi mong mọi người hiểu cho tôi. Chúng ta mong sao
cho những tinh hoa xa lạ ấy không phải xa lạ với con người, đã được trình
bày gần sát nguyên bản, đặc biệt qua những bản dịch được chọn kỹ và dịch
tốt.
Hiện nay có lúc người ta tìm cách đối lập hình ảnh và nét vẽ với chữ
viết. Sự thật thì hai yếu tố này có một giá trị truyền cảm trực tiếp và dễ dàng
hơn. người ta bảo rằng hiện nay chúng ta không sống trong thế giới hình ảnh,
ý kiến này còn cần phải bàn cãi thêm.
Thực ra tôi không thể chối cãi giá trị của hình ảnh, của màu sắc, của
nhịp điệu Những ai có tham dự ít nhiều hoạt động sư phạm đều không thể
nào từ chối các phương tiện bổ sung này. Tôi tin rằng nếu có một thế giới
hình ảnh thì cũng phải có một thế giới văn từ, một thế giới được phác họa lại,
được cấu tạo bởi những tinh hoa lấp lánh của từ ngữ, bằng ngang ngôi sao
băng vụt thoáng vụt hiện và điều rất quan trọng là làm sao cho các em được
tập vận dụng một cách vững vàng những tinh hoa đó, những ngôi sao băng
đó, hiểu được sức sống của các từ có thể đọc hiểu được những ý nghĩa khác
nhau còn đọng lại trên những từ ấy nhận thức được sức gợi cảm mãnh liệt
mà những từ đó có thể gieo vào lòng người.
Tôi nói vấn đề này không phải vì thời thượng, vì cái "mốt" hiện nay là
phải đề cập đến vấn đề ngôn ngữ học, mà vì lòng tin tưởng sâu sắc của một
nhà văn và của một người có quan tâm chút ít đến vấn đề giáo dục.
Chính quá trình chuyển biến lâu dài của từ ngữ và của các hình thức
văn phạm sẽ giúp chúng ta tìm hiểu quá trình chuyển biến lâu dài của lịch sự
con người trên con đường giải phóng của họ.
Sự chinh phục các từ ngữ, sự chinh phục ngôn ngữ, từ những bệnh
bập bẹ đầu tiên của loài người cổ sơ, và của mỗi con người từ thuở còn bé,
cho đến viên kim cương tinh khiết, gọt giũa rất công phu - tức là thơ ca. Đó
cũng là một công cuộc giải phóng. Sự tập dượt để sử dụng nó cũng là một sự
tập dượt để giải phóng.
Nói rõ, nói đúng, việc đó sẽ dẫn đến suy nghĩ rõ và suy nghĩ đúng
Việc đó sẽ dẫn đến ý thức công dân và tôi muốn chấm dứt những suy
nghĩ còn rất nhiều những thiếu sót của tôi về vấn đề ngôn ngữ bằng danh từ
cuối cùng này, danh từ ý thức công dân.
NGUYỄN THỊ Ả dịch từ Tạp chí Châu Âu
(Tạp chí Văn học số 5/1993)
*Nhà văn Pháp nổi tiếng - Tổng biên tập Tạp chí Châu Âu
4. NHỮNG BÍ QUYẾT LÀM THƠ HAY CHO TRẺ EMCOÓCNÂY TRUCỐPXKI:
Khi bắt đầu làm thơ cho thiếu nhi, trong một thời dài, tôi vẫn không sao
tìm được cho chúng một hình thức sinh động, chặt chẽ. Dần dần qua biết bao
sự đắn đo lần thất bại tôi mới đi tới một niềm tin vững chắc rằng, chiếc la bàn
duy nhất trên con đường này đối với tất cả các nhà văn chính là thơ ca dân
gian.
Tất nhiên điều đó không có nghĩa nhiệm vụ của chúng ta là sao chép lại
những tác phẩm dân gian xưa. Không ai cần đến sự bắt chước nô lệ fonclo
ấy. Song người ta cũng không thể không biết rằng trải qua bao thế kỷ, trong
các bài ca, các chuyện kể, chính các vần thơ dân gian đã tạo ra những
phương pháp lý tưởng, mang tính nghệ thuật và giáo huấn độc đáo, có ảnh
hưởng sâu đậm đến lứa tuổi thiếu nhi, và chúng ta không thể không tính đến
cái kinh nghiệm hàng thiên niên kỷ này.
Người thầy thứ hai của chúng ta chính là các em thiếu nhi. Song không
nên suy diễn rằng nói như vậy là tôi muốn cổ vũ cho việc chỉ biết chiếu theo
các em. Tôi xin nhắc lại là chúng ta không có quyền từ chối việc giáo dục các
em, gây ảnh hưởng đến các em, giúp các em hình thành nhân cách, nhưng
chúng ta chỉ đạt được điều ấy nếu chúng ta biết nghiên cứu sâu sắc tâm lý
các em, cách suy nghĩ của các em, và nếu chúng ta tìm ra được một cách
chính xác nhất cho mình một hình thức văn học nào có hiệu quả nhất.
Bản thân tôi đã tự đặt ra cho mình những quy tắc bắt buộc hoặc có thể
gọi là những bí quyết cũng được, khi tôi làm thơ cho các em đặc biệt là các
em ở tuổi nhi đồng.
Ở trên tôi đã nói về bí quyết thứ nhất. Còn ở đây tôi muốn nói rằng thơ
ca của chúng ta phải có tính hội họa, tức là trong mỗi khổ thơ, nếu không phải
là hai câu thơ liền nhau, phải là một đề tài cho họa sĩ, bởi lẽ các em nhỏ chỉ
tư duy bằng hình ảnh. Các bài thơ nào mà họa sĩ không tìm ra được đề tài để
vẽ thì sẽ không thích hợp với các em. Ai viết cho các em đều phải - nếu có
thể nói được như vậy tư duy bằng hình vẽ. Các bài thơ được in ra mà không
có minh họa, ít ra cũng mất đi một nửa hiệu quả. Đôi mắt trẻ thơ trong những
năm đầu tiên của cuộc đời. Chủ yếu nhận ra các sự vật qua những chuyển
động, vận động của nó hơn là phẩm chất của nó, vì vậy chủ đề thơ cho các
em nhỏ phải đa dạng, linh động, biến hóa, và chỉ độ dăm sáu dòng đã lại nảy
sinh một hình ảnh mới. Sự thay đổi mau chóng hình ảnh, đó là bí quyết thứ
hai mà nhà thơ cần tuân thủ.
Bí quyết thứ ba: bức tranh bằng lời ấy lại đồng thời phải mang tính
chất. trữ tình Nhà thơ - họa sĩ lại cũng phải là nhà thơ - ca sĩ. Đối với các em,
thơ chẳng những phải vẽ lên được hình ảnh mà còn có thể hát lên được, múa
lên được; nếu không, những vần thơ đó sẽ không làm rung động được trái tim
các em. Chẳng phải ngẫu nhiên mà ở tất cả các nước, những bài thơ dân
gian dành cho các em được gìn giữ qua bao thế kỷ đều có thể hát lên, múa
lên được.
Bí quyết thứ tư: đó là nhạc tính của ngôn ngữ thơ. Cần nhận thấy rằng
các câu thơ do các em nhỏ đặt ra bao giờ cũng có nhạc điệu. Nhạc tính của
câu thơ đó trước hết là ở sự hòa âm đặc biệt của chúng. Trong thơ của mình,
các con nhỏ không khi nào dồn đống các phụ âm, vốn thường vẫn làm "xấu"
đi những văn thơ của người lớn chúng ta viết cho các em. Trong thơ do các
em sáng tác, chưa bao giờ tôi bắt gặp những âm thanh thô cứng, như trong
một số bài thơ ca sách vở hiện nay.
Bí quyết thứ năm: mỗi câu thơ phải có cuộc sống riêng nó như một
chỉnh thể độc lập. Nói cách khác, mỗi câu thơ phải mang ngữ nghĩa học trọn
vẹn:, mỗi câu thơ là một câu độc lập, và một số đông cũng ngang bằng với số
mệnh lệnh đó (tính đặc thù này của thơ cho thiếu nhi làm cho thơ đó gần gũi
với thơ ca dân gian). Đối với trẻ em lớn tuổi hơn, thì mỗi mệnh đề không chỉ
là một dòng thơ mà có thể là hai dòng. Tuy vậy nó cũng không được vượt
quá giới hạn này.
Ở phần trên chúng tôi đã nói rằng các em nhỏ tuổi nhận biết hành động
của khách thể dễ dàng hơn là phẩm chất của nó. Từ đó có thể dẫn tới bí
quyết thứ sáu: Không nên chồng chất quá nhiều các tính từ vào những câu
thơ. trong thơ do các em nhỏ làm, gần như không bao giờ có hình dung từ.
Điều đó cũng dễ hiểu, bởi lẽ hình dung từ là kết quả của sự nhận thức hoặc
lâu hoặc mau về khách thể. Đó là kết quả của kinh nghiệm, của sự quan sát,
tìm tòi, nên hoàn toàn là khó đối với các em nhỏ. Chỉ có các hành động, sự
thay đổi nhanh chóng của các sự kiện mới thật sự làm các em say mê. Chính
vì vậy cần dùng động từ nhiều hơn, còn tính từ thì càng ít dùng càng tốt. Tôi
cho rằng ở tất cả các bài thơ viết cho nhi đồng thì chính tỉ lệ số lượng những
động từ và tính từ sẽ là chuẩn mực khách quan nhất và tốt nhất để bình xem
bài thơ đó có phù hợp với tâm lý các em nhỏ hay không,
Dĩ nhiên tất cả những điều tôi vừa trình bày trên chỉ liên quan tới các
em còn rất nhỏ tuổi. Khi các em lớn lên thì cái biểu lộ tốt hơn cả sự chín mùi
trí tuệ của các em chính là số lượng các tính từ, mà nhờ chúng ngôn ngữ của
các em được phong phú thêm.
Bí quyết thứ bảy: Thơ cho các em nhỏ cần làm sao để có thể biến
thành trò chơi bởi lẽ tính hiếu động của trẻ nhỏ, trừ một vài ngoại lệ hiếm hoi,
được biểu thị dưới hình thức các trò chơi.
Mặc dù các bài thơ hay cho trẻ em chẳng có liên quan gì đến trò chơi,
thế nhưng không nên quên rằng thơ ca dân gian làm cho thiếu nhi lại được
nảy sinh ra từ các trò chơi. Nói chung, nhà thơ nào viết cho lứa tuổi nhi đồng
đều phải thấy rằng: mỗi đề tài của mình cũng giống như một trò chơi. Ai
không có khả năng chơi với trẻ nhỏ, người ấy khó có thể làm thơ cho các em.
Song trẻ em không cho biết chơi với các đồ vật, các em còn biết chơi
với các âm thanh. Những trò chơi âm thanh và từ ngữ đó xác thực, hiển
nhiên, cực kỳ có lợi bởi vì trong văn học dân gian cho thiếu nhi của thế giới,
chúng chiếm một vị trí đáng kể. Ngay cả khi lớn lên rồi, các em vẫn thường
bộc lộ niềm vui thích với từ ngữ, bởi vì chúng không thể quen ngay lập tức
với các việc từ chỉ chứa đầy chức năng thực tiễn, chức năng truyền cảm.
Tôi không nghĩ rằng tất cả các nhà văn viết cho thiếu nhi chỉ cần quan
tâm đến trò chơi của từ ngữ mà quên đi những nhiệm vụ giáo dục khác của
văn học (điều đó thật đáng sợ và nó sẽ dẫn tới chổ hủy hoại nền thơ ca cho
thiếu nhi), tôi chỉ muốn nói rằng rút cục người ta cần phải thừa nhận tính hiệu
quả trong việc giáo dục của thể loại văn học này, và không phải vô cớ mà
trong thơ ca dân gian truyền miệng nó lại được biểu hiện phong phú đến thế.
Như vậy là chúng ta đã xem xét vấn đề phải làm thơ cho thiếu nhi bằng
cách thức đặc biệt, khác với làm thơ cho người lớn. Và phải bình giá thơ đó
xuất phát từ một chuẩn mực khác. Một nhà thơ tài năng không phải bao giờ
cũng có thể viết được thơ cho trẻ em.
Nhưng không phải vì vậy mà nhà thơ khi viết cho các em lại có quyền
không biết đến cái mà người lớn đòi hỏi ở thơ ca.
Không. Chúng ta phải xuất phát từ một chuẩn mực duy nhất để đánh
giá chất lượng văn học, dù đó là thơ ca cho thiếu nhi thuần túy hay là thơ ca
cho người lớn. Về tài nghệ, sự điêu luyện, kỹ thuật hoàn thiện, thơ cho thiếu
nhi cũng phải ở ngang tầm với thơ sáng tác cho người lớn. Những vần thơ
chưa hoàn hảo không thể coi là thơ hay cho thiếu nhi.
Đấy chính là bí quyết thứ tám: Không nên quên rằng thơ ca cho các em
nhỏ cũng phải bình đẳng về chất lượng thơ ca cho người lớn!
Và bí quyết cuối cùng: Trong thơ của mình, chúng ta phải làm sao để
không phải chúng ta thích ứng với thiếu nhi, mà để các em thích ứng với
chúng ta, thích ứng với cách cảm, cách nghĩ của "người lớn". Dĩ nhiên làm
việc đó phải hết sức thận trọng, không được trái bản tính của các em, nhưng
nếu chúng ta không làm điều đó thì chúng ta phải từ chối vai trò nhà giáo dục
của chúng ta. Bởi vậy chúng ta phải biết vi phạm từng ít một những "nguyên
tắc" nêu trên, để có thể khi làm phức tạp hóa dần dần hình thức thơ ca dẫn
dắt các em nhỏ hiểu biết dần những nhà thơ lớn. Việc giáo dục thơ ca thật sự
ấy chúng ta còn quan tâm quá ít, tôi cũng hiểu tại sao. Việc giáo dục trẻ em
bằng thơ ca đã trở nên cần thiết, bao gồm cả việc khởi thảo ra những phương
sách hợp lý nhà cốt sao để vi phạm từng tí mới những bí quyết nêu trên,
ngoại trừ bí quyết thứ tám, tức là đòi hỏi chất lượng cao của các bài thơ làm
các em. Trong bất kỳ trường hợp nào cũng không nên vi phạm nguyên tắc
này.
Tiếc thay, vẫn còn không ít các nhà sư phạm, các nhà phê bình lại bình
giá thơ ca cho thiếu nhi có dựa duy nhất vào nội dung của nó, bởi họ không
hiểu rằng nội dung, cho dù quý giá đến đâu chăng nữa trong thơ thiếu nhi
cũng sẽ vô tác dụng, nếu hình thức của nó khiếm khuyết và cẩu thả. Vậy thì,
trước tiên cần phải nghiên cứu kỹ những đặc thù về một hình thức của thơ
viết cho thiếu nhi, cũng như các phương pháp có hiệu quả nhất của sáng tạo
thơ ca./.
BÙI HÒA dịch.
(Tạp chí Văn học số 5/1993)
5. LÀM THƠ CHO THIẾU NHIXUÂN QUANG
Ngày xưa, khi còn bé tôi thường nghĩ. "Nếu như tôi là người lớn tôi sẽ
tốt hơn nhiều". Tôi chắc rằng những người lớn chúng ta ngày xưa ai cũng đã
từng nghĩ như vậy. Nhưng khi lớn chúng ta đã quên đi nên lại "chưa tốt lắm"
(như trẻ em nghĩ). "Tại sao người lớn lại không hiểu được trẻ em?". Đấy là
câu hỏi trong tôi suốt cả một thời thơ ấu mà không sao tự giải đáp nổi. Khi ấy
tôi cứ nghĩ: "Nếu như để tôi sống với toàn người lớn thôi chắc là tôi sẽ cô độc
lắm". Có lần tôi cãi nhau với một đứa bạn, hai đứa bỏ nhau, không chơi với
nhau nữa. Tên rất buồn, về nói lại chuyện đó với bà tôi, muốn tìm ở bà tôi một
lời cảm thông hoặc một cách giải quyết. Thế mà bà tôi lại bảo "Nó không chơi
với cháu thì thôi cần gì, cháu ở nhà chơi với bà". Thế là tôi hoàn toàn cô độc.
Bà tôi đâu hiểu là tôi cần chơi với bạn ấy bao nhiêu!
Khi lớn lên tôi hiểu rằng sự không cảm thông được của người lớn đối
với trẻ em là do người lớn nhìn con trẻ bằng cái nhìn của người lớn, từ đó mà
mọi quan niệm đúng, tốt, xấu thường nhầm lẫn cả.
Đây là bài thơ mà theo con mắt nhìn của người lớn đã viết cho con trẻ
trong sách học vần cũ:
Mèo con bé tỉ
Đã có râu ria
Mèo cử ngồi kia
Meo meo kêu mẹ
Ăn thì ăn khỏe
Mà lại ham chơi
Bạn nhỏ ta ơi
Chớ theo mèo nhé.
Hai câu đầu có chút nhận xét ngồ ngộ kiểu trẻ con, nhưng từ câu thứ
ba trở đi hoàn toàn theo quan niệm của người lớn, cách đánh giá tốt xấu của
người lớn. Thực ra việc: "Kêu mẹ, ăn khỏe, ham chơi... " của trẻ con hoàn
toàn không có lỗi. Tại sao lại bắt con trẻ không được làm nũng mẹ, không
được ăn khỏe, không được ham chơi. Nếu như ta chưa có hoàn cảnh đáp
ứng cho các em được gần mẹ nhiều được ăn và chơi đây đó thì đó là lỗi ở
chúng ta. Còn các nhu cầu kia của các em là cần thiết và chính đáng.
Đọc những câu thơ trên tôi thấy thương các em nhỏ.
Là một người làm thơ cho các em, qua những đau khổ và khao khát
thuở nhỏ qua những lầm lỗi của tôi khi đối xử với các con tôi, tôi luôn luôn tự
nhủ: "Muốn viết cho các em điều đầu tiên là sự cảm thông với các em, đó
không phải là sự áp đặt. Đừng bắt các em sống và nghĩ theo cách của mình.
Nếu muốn giáo dục các em thì phải nhìn bằng con mắt của các em mà nhận
xét đánh giá mọi việc. Cách giải quyết bắt đầu từ đây."
6. THÊM MẤY SUY NGHĨ VỀ VIỆC LÀM THƠ CHO NHI ĐỒNGPHẠM HỔ
Một nhân vật không thể thiếu trong thơ cho các em.
Tôi rất ít khi gặp thấy một cái cây xấu, một bông hoa xấu, một cái quả
xấu. Tôi từng chú ý đến cái vẻ đẹp của một bông hoa và của cả một cành
hoa, một vườn hoa. Có những bông hoa đứng riêng một mình đâu có đẹp.
Nhưng kết thành chùm, nở thành một giàn thì lại rất đẹp. Phải chăng đó là cái
đẹp của tập thể, của đám đông? Tôi cũng thường chú ý đến những dáng cây
bị chặt, bị gãy. Chỉ sau một thời gian, hầu hết những cái cây gặp phải cảnh
ngộ không may ấy đều đã tự tạo cho mình một vẻ đẹp khác, với những cành
mới, đường nét và hình khối mới. Nhiều khi tôi đứng lại ngắm chúng mà xúc
động đến lạ lùng… Cái đẹp của thiên nhiên là một điều đã được con người
khẳng định, nhưng tìm ra, nói lên cho được hết các vẻ đẹp ấy ở trong mọi
khía cạnh không phải là chuyện cũ. Còn sự phong phú của thiên nhiên thì có
lẽ không có gì sánh được. Triệu triệu họ cây, từ cây rêu bé như cái lông tơ
của chú vịt con đến cái cây chò cao vút lưng chừng trời. Vô vàn loài chim, loài
cá…Trong một loài cam; có bao nhiêu thứ cam, trong một họ bứa có bao
nhiêu thứ bứa (măng cụt cũng là họ hàng nhà bứa đấy). Có bao nhiêu dáng
hoa, mẫu hoa, có bao nhiêu mùi thơm, có bao nhiêu cách chín: chín trắng,
chín vàng, chín xanh, chín nâu, chín tím, chín đen… Dù giàu tưởng tượng
đến mấy, trước sự phong phú của thiên nhiên, con người chúng ta đều phải
lạ lùng, kinh ngạc… Và kèm theo đấy là bao nhiêu cá tính: hoa này nở sáng,
hoa kia nở tối, hoa này thích sương, hoa kia thích gió…
Rồi, sự biến hóa đến kỳ diệu của thiên nhiên từ lá sang hoa, từ hoa
sang quả từ hạt đến cây. Tôi tin rằng những điều ấy thật bổ ích cho các em,
cả về hiểu biết, cả về sự phát triển trí tưởng tượng, sự bồi đắp về tâm hồn.
Thiên nhiên còn gợi cho chúng ta bao nhiêu, điều suy nghĩ về cuộc
sống của con người. Thiên nhiên là rộng rãi, là sự im lặng cho không đòi lại,
là sự bao dung. Đang có nỗi buồn, gặp một cánh đồng xanh, một khu rừng
đẹp, một mặt biển trăng lên, một trời sao lấp lánh, ta như được an ủi, được
nghe những lời khuyên bảo chí tình và bổ ích. Thiên nhiên ở đây là sự chống
trả dũng cảm bền bỉ của núi, của sông đối với nắng mưa, nóng rét, và ở kia là
sự tự lực tự cường của những loài cây mọc trên đồi trọc, mọc trên cát bóng,
là sự kiên nhẫn để cho đến đích, của sông ra biển (cuộc hành trình có khi dài
hàng vạn dặm), của hạt đi đến quả (thời gian có khi đến bảy năm, mười lăm
năm như trường hợp cây dừa, cây ô-liu…).
Thiên nhiên, một nhân vật đẹp đến như vậy đấy, có nhiều tinh đến như
vậy làm sao có thể thiếu mặt trong thơ cho các em.
Thiên nhiên còn là một nhà sư phạm đại tài. Thiên nhiên không bao giờ
nói lên cái điều thiên nhiên muốn khuyên bảo chúng ta. Bằng chính cái đẹp,
thiên nhiên dạy ta yêu cái đẹp. Bằng chính sự phong phú, thiên nhiên gợi cho
ta nên có cuộc sống phong phú về vật chất, về tinh thẫn.
Sự biến hóa hay trò chơi ú tim trong thơ cho các em.
Viết thơ cho các em bé, theo tôi, rất cần chú ý đến nhạc điệu. Nhiều khi
các em chủ yếu nhớ được là nhờ nhạc điệu. Nhờ nó mà các em nhớ được cả
những câu các em chưa hiểu được nghĩa.
Hình như một trong những nguyên nhân làm tôi yêu thơ lúc còn bé đó
là cách viết, cách sắp xếp rất đẹp của những câu thơ; nó không giống như
văn xuôi mà lại từng câu, từng khóm, hai câu, bốn câu, hai bên là giấy trắng
thênh thang, thoải mái. Và từ lối sắp xếp đó mà có nên nhạc điệu và tiết tấu
của câu thơ, bài thơ. Các em bé vốn hiếu động, các em luôn thích sự thay
đổi, sự khác đi. Các em thích cái kính vạn hoa là do như vậy đó. Chơi ú tim,
trốn bắt với các em, ai nấp mãi một chỗ, xuất hiện mãi một chỗ, các em cũng
sẽ thấy hết thú vị. Nhưng, nếu thay đổi luôn, khi thì sau cánh màn, khi thì sau
cánh cửa, khi thì dưới gầm bàn, các em sẽ thích thú đến cười ngặt ngoẽo hay
hét tướng cá lên nữa. Vì vậy thơ viết cho các em, rất nhiều người, nhiều nhà
thơ lớn trên thế giới khuyên là nên viết theo thể tự do, viết theo nhạc điệu của
cảm nghĩ của sự việc, của hành động
Nhạc bài "Con voi" thoải mái đấy chứ:
Con vỏi con voi
Cái vòi đi trước
Hai chân trước đi trước
Hai chân sau đi sau
Còn cái đuôi đi sau rốt
Tôi xin kể nốt
Cái chuyện con voi...
Khi bốn chữ, lúc năm chữ, và nhạc điệu từng câu cũng có nhau: khi
như trỏ, khi như gọi, lúc thì như tả, như đùa…
Chính sự biến hóa trong nhạc, trong hình ảnh, trong thể loại… đã góp
phần làm cho bài thơ sinh động hơn, vui hơn. Mà vui thì chúng ta đã bàn
nhiều và đã nhất trí với nhau đã từ lâu rồi: đó là một nét chiến lược trong thơ
cho các em, nhất là ở lứa tuổi bé.
Thu hoạch này riêng đối với tôi, không chỉ rút ra từ các câu hát ru, các
bài đồng dao, mà cả ngay cả trong các trò chơi, trong các câu chuyện cổ tích,
trong khi chơi đùa, gần gũi với các em trong khi đọc những tác phẩm viết ở
trong nước, ở nước ngoài… Tôi thường dặn tôi: hãy tăng cường tính chất
chơi ú tim trong thơ viết cho các em, nhất là đối với các em ở lứa tuổi nhỏ
nhất…Ở đây không phải là sự ú oà hời hợt mà là những thay đổi bất ngờ và
thú vị về nhạc điệu, về màu sắc về hình tượng, về cảm nghĩ mang đến cho
bạn đọc lên năm, lên bảy…
Tuổi thơ của các em, tuổi thơ của chúng ta.
Một trung tâm nghiên cứu về văn học cho thiếu nhi ở phương Tây bằng
phương pháp và phương tiện khoa học đã chứng minh rằng nhà văn nổi tiếng
kia đã dùng hình tượng ba người thợ làm bánh mì trong câu chuyện mình
viết, chứ không phải là hai, cũng không phải là bốn, hoặc năm người, chỉnh vì
lúc bé, ông bố của nhà văn là một người thơ may, và khi làm việc, lúc nào
ông bố ấy cũng có hai người giúp việc ở bên cạnh. Hình ảnh ba người, ý
nghĩa ba người là đẹp nhất đã có sẵn từ trong tuổi thơ của tác giả. Cũng cùng
một nguyên nhân như vậy nhà văn dùng cái chai sữa mà không dùng cái bình
sữa, dùng chất liệu này mà không dùng chất liệu kia, chất liệu về sự vật, chất
liệu về tình cảm…
Nhiều nhà nghiên cứu khác, sau khi tìm tòi, phân tích lại cũng khẳng
định: nhà văn viết một tập thơ, tập truyện cho các em, tác giả không phải chỉ
làm việc về tập thơ, tập truyện ấy, mà là làm việc với chính tuổi thơ của mình.
Đọc mà tiếp nhận những điều nói trên, đối chiếu với những tập thơ, bài
thơ tôi viết cho các em, các bạn tôi viết cho các em, tôi thấy đó là những điều
rất đáng chú ý.
Khi tôi viết "Gà con và quả trứng" hay "Sen nở" tôi đã soát kỹ và đúng
là tôi đã viết những điều tôi ngạc nhiên từ lúc bé. Sao cái trứng nằm im như
hòn đá kia, bỗng dưng lại biến thành con gà, sao những trái mít con sau vườn
nhà tôi nó lớn nhanh đến như vậy, những bông hoa sen nở nhanh đến như
vậy mà tôi rình xem vẫn không nhìn thấy...? Cũng như khi viết về sự lầm lẫn
của một em bé thời nay, tưởng giọt sương là giọt nước mắt của hoa hồng, tôi
đã viết đúng sự lầm lẫn của tôi ngày xưa.
Cái vốn của tuổi thơ xưa ấy có khi cụ thể như tôi nói trên nhưng cũng
có khi nó khá tinh vi, thậm chí trừu tượng: một âm hưởng mơ hồ, một rung
động thoáng qua, một cách cảm nghĩ không có hình dáng, một điều buồn
thương không có tiết tấu Nhưng nếu có cái kính hiển vi để soi nhìn vào những
câu thơ chúng ta viết hiện nay, có lẽ chúng ta sẽ thấy được là bóng dáng của
tuổi thơ của chúng ta hiện lên ở đây ở đó…
Nhưng chỉ với cái vốn của những ngày thơ ấu ấy thì không thể đủ để
viết được. Mà phải cộng với cái vốn mới của cuộc sống ngày nay và nhất là
của các em bé ngày nay.
Có lẽ vì vậy mà khi nói đến công việc sáng tác cho các em, K.Tsu-cốp-
ski đã nêu lên hai nguyên tắc lớn: một là học tập vốn cổ, hai là học tập các
em, nói cách khác tìm hiểu đời sống tâm hồn của các em.
Làm thơ cho các em, nếu không có cái tuổi thơ phong phú của chúng ta
cộng với cái tuổi thơ ngày càng lớn hơn đẹp hơn của các em, làm sao chúng
ta có thơ hay, thơ hợp với các em được… Mà đó chỉ mới là vấn đề về vốn.
Còn bao nhiêu vấn đề khác nữa đặt ra cho người làm thơ cho các em. Nhưng
theo tôi vấn đề vốn vẫn là một trong những vấn đề gốc gác và có tính quyết
định nhất.
7. BÀN VÀO CÂU CHUYỆN LÀM THƠ CHO THIẾU NHI PHONG LÊ
Đòi hỏi người viết cho thiếu nhi đồng thời có thêm các thiên chức của
nhà tâm lý, nhà giáo, nhà sự phạm, nhà khoa học… đó là điều từng được nói
đến từ lâu. Đi vào chuyên đề này hắn có nhiều chuyện cần bàn, mở ra nhiều
khía cạnh thú vị. Tôi chỉ muốn nói thêm một ý, dẫu vẫn là ý cũ, người viết cho
thiếu nhi phải trở lại chính điểm xuất phát của mình - tư cách nhà văn, người
nghệ sĩ.
Nói yêu cầu nghệ sĩ là để đảm bảo sự chuyên môn hóa, để thực hiện
triệt để sự phân công xã hội, trong tình hình có rất nhiều ngành, nhiều bộ
phận cùng quan tâm đến công tác giáo dục thiếu nhi như hiện nay.
Nói yêu cầu nghệ sĩ - xin được hiểu không chỉ giới hạn ở giá trị nghệ
thuật tôi chỉ muốn nói ở những gì được viết ra, dẫu chỉ là một khổ thơ, một
đoạn văn, một mẫu truyện, người viết cho thiếu nhi cũng cần huy động tổng
lực những gì mình có, với tư cách một người thầy ngôn ngữ.
Văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Sao cho với năng lực ngôn từ mà
làm nổi bật được màu sắc, và hoạt động của sự vật ghi được âm thanh và
nhịp điệu của đời sống, đời sống bên ngoài và đời sống bên trong, đời sống
tự nhiên và đời sống xã hội - tạo được một ngân vang thật dài lâu trong cảm
xúc, tạo một thế giới thứ hai lung linh ẩn hiện sau những dòng chữ - thế giới
của ước mơ, của tưởng tượng.
Từ những khả năng ấy tôi muốn xem ngôn từ như vật liệu xây dựng;
tổng hợp để kiến trúc nên những lâu đài của thi ca.
Giúp cho sự giàu có của cảm xúc, cho sự phát triển của năng lực
tưởng tượng bằng chất liệu ngôn từ đó - là yêu cầu cao mà sáng tác cho
thiếu thủ cần vươn tới; và người viết chỉ có thể đạt được, trước hết với tư
cách là nhà văn.
Đã có những yêu cầu đặt ra cho ngôn ngữ văn hóa nói chung: giản dị,
trong sáng, giàu hình ảnh, gợi cảm, tạo hình, linh hoạt, sống động… Đối với
văn học thiếu nhi nếu có điều cần nói thêm là: bằng vào những phẩm chất ấy,
sáng tác phải sao cho vừa tầm, có ý nghĩa là phải phù hợp với cách nghĩ,
cách nói hàng ngày của các em, đồng thời lại phải góp phần nâng cao và làm
giàu thêm cho cách nghĩ, cách nói đã quen thuộc ấy.
Sao cho vừa tầm, phù hợp mà lại phải làm giàu có và nâng cao cách
nói cách nghĩ của các em, tôi muốn từ sự bao quát các yêu cầu như đã nêu
trên mà đi sâu vào một điểm: sự giản dị. Đó là phẩm chất theo tôi nghĩ, có thể
xem như cơ bản, và để nhấn mạnh thêm, tôi lại muốn xem như bao trùm, đặc
biệt đối với văn học cho thiếu nhi, kể cả thơ và văn.
Giản dị, đó là khái niệm để chỉ sự dễ hiểu. Nhưng không phải bất cứ sự
dễ hiểu nào cũng được xem như là giản dị, như một yêu cầu của văn phong.
Để đừng đánh đồng đánh tráo nó bằng sự tầm thường. Mặt khác khi nói đến
sự giản dị ở chiều ngược lại, cũng xin đừng đối lập nó với sự điêu luyện.
Có tác phẩm nào điêu luyện bằng Truyện Kiều? Nhưng bằng quan sát
riêng, tôi thấy không ít các em ham và thuộc rất nhanh nhiều đoạn dài Truyện
Kiều, dầu có thể có chỗ chúng chưa hiểu hết, hoặc chưa hiểu nổi. Nhưng
đừng vội sốt ruột vì sau khi thuộc rồi chúng sẽ hiểu. Ngay cả người lớn chúng
ta, đâu phải mỗi ngày tới lại không có thêm những khám phá trong ngôn ngữ
Truyện Kiều. Trong thơ văn hiện đại cũng vậy. Có cái giản dị, trong văn phong
lời chữ và cả cuộc đời Bác Hồ mà thế giới khám phá mãi không cùng. Và như
sự giải thích của Phơ-răng-xoa Cô-re-dơ, nhà báo và nhà thơ Pháp, có được
sự giun dị đó là do Người đã nhiều từng trải, nhiều đau khổ, nhiều đấu tranh.
Cũng có thể nói như vậy ở thơ Tố Hữu. Không phải chỉ Bà má Hậu Giang,
Lượm, Mẹ Suốt, trong phong cách kể mộc mạc, mà ngay cả Em ơi Ba Lan, ê-
mi-li con trong ngân nga của nhạc điệu, trong tinh học của ngôn từ cũng là
những bài các em rất dễ thuộc.
Giản dị không phải là kém sâu. Giản dị mà sâu, nhiều chỗ thấm đượm
triết lý không phải dạng của triết học mà trong dạng của đời thường, đó là
phong cách Nam Cao. Và truyện ngắn Nam Cao gần như tất cả, kể cả Chí
Phèo, theo tôi các em đều đọc được.
Giản dị không phải là nhạt nhẽo, vô bản sắc. Giản dị mà mặn là ở Võ
Quảng, Phạm Hổ. Giản dị mà nghiêm trang ở Nguyễn Huy Tưởng. Giản dị mà
hóm vui, gây cười, ở phía này là Nguyễn Công Hoan cô đọng lắm bất ngờ
trong nhiều truyện ngắn, ở phía bên kia là Tô Hoài ý nhị như trong Dế mèn
phiêu lưu ký.
Giản dị vốn không phải chỉ là nhu cầu riêng của trẻ em do tư duy còn
đơn giản. Giản dị cũng là yêu cầu chung của người lớn. Nhưng có chỗ giống
và chỗ khác. Chỗ giống: khiến cho một sáng tác hay cho trẻ con mọi người
lớn đều đọc được. Và chỗ khác: không phải bất cứ sáng tác nào hay cho
người lớn trẻ con cũng thích đọc.
Như vậy có một yêu cầu phổ biến: sự giản dị cho văn học nói chung, và
càng nhấn mạnh đối với văn học thiếu nhi. Giản dị trong câu chữ, trong nội
dung trong nghệ thuật. Vì sự giản dị làm nối lại được, bằng con đường ngắn
nhất cái ngoài đời và cái trong tác phẩm, cái hôm nay, và cái đang tới, thế giới
hiện thực và thế giới ước mơ, đối với các em dường như được mở ra đến vô
hạn.
Cố nhiên bên cạnh sự giản dị còn nhiều chuyện khác cần bàn khi đi sâu
vào đối tượng mô tả, vào yêu cầu riêng của từng lứa tuổi, vào các đặc rưng
của nhiều loại hình sáng tác, vào phong cách riêng trong viết cho các em. Có
thể nêu hàng loạt những yêu cầu như là sự tiếp tục, bổ sung cho nhau. Cũng
lại có thể nêu những yêu cầu xem ra như mâu thuẫn. Chẳng hạn, đi sâu vào
hai thể loại thơ và truyện, mỗi loại vốn có những đặc trưng riêng, khác nhau,
tôi lại muốn nói sự phối hợp, một sự giao thoa, một sự giống nhau giữa hai
thể loại, cố nhiên không vắng thiếu trong văn học cho người lớn, nhưng với
văn học thiếu nhi lại gần như phải có, đến nỗi tôi muốn xem như một điều bắt
buộc.
Đó là chất thơ trong truyện và chất truyện trong thơ.
Với trẻ em khi đọc truyện sự hấp dẫn trước hết ở cốt truyện, ở các tình
thế động, ở các xung đột luôn luôn xảy ra, ở những nhân vật vừa quen thuộc
vừa mới lạ… Nhưng truyện viết cho các em lại không thể thiếu chất thơ, như
một cái gì đó ẩn sau trang viết, khó có thể nhận diện cho thật rạch rồi, nhưng
luông ngừng làm người đọc vương vấn mãi. Chất thơ - đó là những gì được
lọc lừ hồi tưởng, là những xúc động dội từ sâu, trong những mạch ngầm của
tình cảm. Lại có thể là một cái gì bay bổng mời gọi về phía trước của những
mơ ước, những khát vọng cao hơn hiện thực hàng ngày. Có phải đó là cái mà
Goóc-ki tuổi thiếu thời từng nói đến khi đọc Phơ -lô -bê.
Và nếu chất thơ cần cho truyện, thì đến lượt nó, lại cần chất truyện cho
thơ.
Rõ ràng có sự khác nhau giữa truyện cho các em và truyện cho người
lớn. Nhưng theo tôi, sự khác nhau đó có thể còn lớn hơn, rõ hơn trong thơ.
Nếu thơ truyện hoặc truyện thơ đã tách ra thành một loại truyện riêng trong
sáng tác cho người lớn, thì thơ cho các em, theo tôi, nhất thiết lúc nào, dầu là
một bài thơ dài như Em hòa hay chỉ một mẩu nhỏ cũng cần có yếu tố kể, yếu
tố truyện. Có thể xem đó là đặc điểm chung ở những bài thơ được các em
yêu thích, từ một khổ nhỏ cho tuổi mẫu giáo kể chuyện chú Mèo con "trời
nắng chang chang", "đi học chẳng mang thứ gì" (sao lại không mang? Có đấy
chứ!) đến Chú bò tìm bạn, Xe chữa cháy của Phạm Hổ, Mời vào của Võ
Quảng, Đám ma bác giun, Mưa của Trần Đăng Khoa, Gạch đỏ của Định Hải,
Truyện cổ tích về loài người của Xuân Quỳnh…
Các chất thơ cho truyện và cần chất truyện cho thơ, để bổ sung vào cái
yêu cầu người viết phải viết với tư cách nghệ sĩ và cái yêu cầu giản dị, giản dị
đến tinh chất chung cho văn học thiếu nhi, đó là ý nhỏ tôi muốn dùng để kết
thúc bài này.
8. ĐẶT VẤN ĐỀ SO SÁNH THI PHÁP ĐỒNG DAO VỚI THI PHÁP THƠ CHO THIẾU NHI
CHU THỊ HÀ THANH
Đồng dao là tên gọi quen thuộc để chỉ những bài ca được trẻ em hát
trước kia. Có những bài đồng dao được hát, kể gắn với trò chơi. Đó là một
nhận xét chung về đồng dao. Thực ra, nếu đi sâu vào khái niệm này, có
không ít điều phải bàn. Chẳng hạn, vấn đề người sáng tác đồng dao. Các em
tự sáng tác, hay do người lớn đặt ra, hay do cả hai? Nếu người lớn sáng tác
thì đó là những quần chúng bình dân (Giáo sư Đinh Gia Khánh trên tạp chí
Văn học số 6/1997 từng đề nghị dùng khái niệm dân chúng để chỉ lực lượng
sáng tạo văn học dân gian cổ truyền), hay là những nhà nho uyên thâm chữ
nghĩa? Bởi vì người nông dân khó mà có thể sáng tác được loại tác phẩm
dưới đây:
"Chi chi chành chành
Cái đanh thổi lửa
Con ngựa chết trương
Ba phương ngụ đế
Cấp kế thượng hải
Ú tim ù ập "
Theo học giả Nguyễn Văn Tố, bài ca vừa dẫn "phản ánh một cách kín
đáo những sự kiện bi thảm xảy ra vào năm 1885, sau khi vua Tự Đức mất
(1883). Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Huyên hồi tưởng lại rằng hồi ông còn
thơ ấu, nhiều người xung quanh ông tin rằng bài ca vừa dẫn là "một lời sấm
cổ báo trước lương lai của nước ta sau khi triều đình nhà Lê sụp đổ".
Không chỉ ở Việt Nam, ở bên Trung Quốc thời Tam quốc xa xưa cũng
có những bài được trẻ con hát mà bản thân chúng không hiểu, chẳng hạn bài
sau:
Thiên lý thao
Hà thanh thanh
Thập nhất bốc
Bất đắc sinh"
(Cỏ ngàn dặm
Sao xanh xanh
Trên mười ngày
Chẳng sống được).
Theo PTS Trần Lê Bảo, đây là bài thơ đồng dao dùng ẩn ngữ để báo
trước cái chết của Đổng Trác, một Tướng quốc độc đoán chuyên quyền, kiêu
sa, tàn bạo, đang ngấp nghé cướp ngôi vua.
Chúng tôi cho rằng những bài thuộc loại như giáo sư Nguyễn Văn
Huyên, PTS Trần Lê Bảo đã phân tích, đã gọi là đồng dao, khác về chất so
với một bộ phận tác phẩm chiếm số lượng phong phú hơn nhiều, cũng được
gọi là đồng dao. Chúng tôi đề nghị gọi bộ phận sáng tác như kiểu bài đã được
Nguyễn Văn Huyên, Trần Lê Bảo đề cập là loại bài thuộc sấm ký. Trong bài
viết này, chúng tôi không xem đó là đối tượng khảo sát.
Thơ cho thiếu nhi là loại sáng tác xuất hiện có hệ thống từ sau cách
mạng tháng Tám (1945), bao gồm cả sáng tác do người lớn viết cho trẻ em
lẫn sáng tác trẻ em viết cho trẻ em (như trường hợp thơ Trần Đăng Khoa, thơ
Nguyễn Hồng Kiên...). Nếu đi sâu phân tích hai bộ phận sáng tác này sẽ có
những điểm khác nhau. Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ chú ý đến những
đặc điểm chung của thơ cho thiếu nhi. Những điểm chung đó thể hiện ở đề
tài, nội dung tác phẩm và thi pháp. Những bài thơ đó để đến được với các em
phải phù hợp với nhận thức và cảm thụ của trẻ thơ. Dù là thơ do trẻ em viết:
"Trăng ơi... từ đâu đến?
Hay từ một sân chơi
Trong bay như quả bóng
Đứa nào đá lên trời "
(Trích thơ Trần Đăng Khoa lúc 4 tuổi)
hay sáng tác của người lớn:
" Mỡ và Hành cãi nhau:
-"Mùi thơm là của tao!"
-" Không, của tao!"Hành hét
Củi cháy nổ lép bép
Chúng chẳng nghe thấy gì
Lát sau Hành đen sì
Mỡ bay mùi khét lẹt
Cuộc cãi nhau cũng hết”
(Nguyễn Hoàng Sơn, trong tập Lời chào đi trước)
Nhìn chung, chúng đều giống nhau ở tính chất ngộ nghĩnh, trẻ thơ, chơi
mà học, học mà chơi.
Xét về mặt thi pháp, đồng dao và thơ cho thiếu nhi có những đặc điểm
giống nhau.
Về cấp độ ngôn ngữ, hầu hết các bài đồng đao và thơ cho thiếu nhi đều
thuộc loại văn bản tạo thành. Trong loại văn bản này ý nghĩa của tác phẩm
bằng nghĩa đen của các từ cồng lại. Ví dụ, đây là một bài đồng dao:
"Con vỏi con voi
Cái vòi đi trước
Hai chân trước đi trước
Hai chân sau đi sau
Còn cái đuôi đi sau rốt
Tôi xin kể nốt
Cái chuyện con voi "
Bài này nhằm cung cấp một số kiến thức cơ bản về khoa học thường
thức cho trẻ em, cụ thể dạy cho các em nhận biết về hình thức con voi qua
cấu tạo của một số bộ phận. Có thể nó ngô nghê, buồn cười đối với người lớn
nhưng đối trẻ con, điều đó là rất cần thiết.
Trong bài thơ dưới đây, nhà thơ Phạm Hổ đã lật tẩy một chú ngỗng
lười học:
"Ngỗng không chịu học
Khoe biết chữ rồi
Vịt đưa sách ngược
Ngỗng cứ tưởng xuôi
Cứ giả đọc nhằm
Làm vịt phì cười
Và khuyên một hồi
Ngỗng ơi! học! học!
("Ngỗng và vịt")
Bài thơ thể hiện sự hồn nhiên trong sáng của tâm hồn trẻ thơ, những
điều mà bất kỳ đứa trẻ nào cũng có thể một lần mắc phải. Những lỗi lầm nhỏ
nhặt hàng ngày song lại thể hiện tính cách rất láu cá, thông minh và lém lĩnh
của hầu hết các trẻ em.
Nếu so sánh với ca dao tích yêu chúng ta sẽ thấy ở bộ phận này có
không ít văn bản biểu hiện. Nghĩa của những bài thuộc loại văn bản này
không phải là nghĩa đen của các từ cộng lại. Xin nêu hai ví dụ:
+ "Làm chi cho dạ ngập ngừng
Đã có cà cuống xin đừng hạt tiêu "
+ "Anh nói thơ em nghe anh
Bát cơm đã trót chan canh mật rồi
Nuốt thì đắng lắm anh ơi
Nhã ra thì để tội trời ai mang "
Ở bài đầu, người yêu khuyên người bạn tình của mình không nên đứng
núi này trông núi nọ. Ở bài sau, người phụ nữ muốn nói với chàng trai rằng cô
ta rất yêu và muốn lấy anh ta nhưng cô đã có chồng con, cuộc sống hiện tại
rất nặng nề, bỏ nhau thì không dám và cũng không nỡ.
Thơ Nguyễn Bính có một bài thơ rất tinh tế như sau:
" Nhà em cách bốn quả đồi
Cách ba qua núi cách đôi cánh rừng
Nhà em xa cách quá chừng
Em van anh đấy anh đừng yêu em ".
Đúng như nhà phê bình Hồng Diệu đã nhận xét, ngoài miệng thì cô gái
bảo chàng trai đừng yêu mình nhưng nếu chàng trai thông minh một chút thì
anh ta sẽ hiểu rằng đấy là tín hiệu thuận tình của cô gái. Bởi vì lý do cô ta bảo
chàng trai đừng yêu vì nhà cô ta xa, chỉ vì như thế thôi, ấy thế mà tại làm sao
cái khoảng cách ấy lại cứ được rút ngắn dần: 4,3,2.
Về thể thơ, chúng ta dễ dàng nhận thấy đồng dao và thơ cho thiếu nhi
sử dụng đa dạng: thể 3 tiếng, 4 tiếng, 5 tiếng, lục bát, thể hỗn hợp, trong đó
thể lục bát chiếm tỷ lệ đáng kể nhưng không áp đảo như thể lục bát trong ca
dao trữ tình. Chúng ta cũng thấy trong thơ viết cho thiếu nhi cũng tương đối
hiếm, nếu không muốn nói là không có, những bài mà câu thơ kéo dài 7, 8, 9
âm tiết, (tiếng) như trong thơ trữ tình hiện đại:
+ "Anh lớn lên vó ngựa cuốn về đâu
Gặp câu hát bền lòng rong ruổi mãi
Đường đánh giặc chảy xuôi về bến bãi
Lý ngựa ô em hát đợi bên cầu
Hóa vô tận bao điều mơ tưởng ấy
Bao câu hát cha ông mình gửi lại
Sao em thương câu lý ngựa ô này
Sao anh nghe đến lần nào cũng vậy
Sao chỉ thấy riêng mình em đứng đấy
Chỉ riêng mình em hát với anh đây"...
+ "Bảy năm về trước em mười bảy
Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng
Xuân Dục, Đoài Đông hai cánh lúa
Bữa thì anh tới bữa em sang "…
Nếu lần lượt phân tích các cấp độ khác như thời gian và không gian
nghệ thuật nghệ thuật xây dựng nhân vật,… người nghiên cứu sẽ thấy thêm
không ít điểm tương đồng giữa thi pháp đồng dao và thơ cho thiếu nhi.
Thi pháp đồng dao và thơ thiếu nhi có những điểm khác nhau. Điểm
khác nhau bao trùm nhất, quan trọng nhất, dễ thấy nhất là đồng dao không có
phong cách cá nhân tác giả. Trái lại ở thơ viết cho thiếu nhi, Phạm Hổ rất
khác Võ Quảng, Trần Đăng Khoa không giống Nguyễn Hồng Kiên. Dấu ấn tác
giả thể hiện ở cách lựa chọn đề tài, sử dụng ngôn ngữ và thể thơ, ở nghệ
thuật xây dựng nhân vật v.v...
Các tác giả đồng dao chủ yếu hướng tới hiện thực làng quê, cảnh vật
và con người của nông thôn trước Cách mạng tháng Tám, nhiều nhân vật của
đồng dao thuộc về thế giới động vật, trong khi những nhân vật thuộc về thế
giới đồ vật tương đối ít. Ở thơ viết cho thiếu nhi, mảng hiện thực nông thôn và
nông dân, loại nhân vật động vật không phải là hiếm, song bên cạnh đó đã
thấy xuất hiện những khung cảnh và nhân vật của đời sống đô thị, đời sống
công nghiệp.Đúng như Trần Hòa Bình đã nhận xét, "làm thơ về cái cần trục
giữa một công trường hiện đại rất khó. Nhưng nhà thơ Võ Quảng đã chọn
được cách viết cho các em":
"Riêng có một ông
Tên là Cần Trục
Lêu nghêu cao vút
Giống như tướng cò nhang
ông đứng ông ngắm
Đưa tay ông nắm
Cả khối bê tông
Nhắc lên nhẹ bong
Đã lên từng gác
Tế là rảnh ngạch!"
Nhà thơ thiếu nhi Trần Đăng Khoa miêu tả chiếc tàu hỏa như sau:
"Con tàu hỏa rất dài
Bánh không xăm không lốp
Chạy đều trên đường dây
Đêm ngày không bị trượt "
Con tàu này có từ trước Cách mạng tháng Tám nhưng hành khách ở
đây thì quả là những con người mới, con người của thời đại. Đố là chú bó đội
"túi sách có nhiều quà", chị thanh niên xung phong "áo bạc màu nắng gió", là
bạn thiếu nhi "đeo huy hiệu Bác Hồ".
Trong sáng tác thơ cho thiếu nhi, có không ít bài thành công. Bên cạnh
đó, có một số bài chưa thành công. Có nhiều nguyên nhân của sự hạn chế
này: đưa những vấn đề chính trị, thời sự vào chưa nhuần nhuyễn: sự "già
hóa" thế giới tuổi thơ. Để viết cho các em được thành công hơn, có nhiều việc
các nhà thơ cần phải làm, trong đó có việc vận dụng những kinh nghiệm về
nghệ thuật, tiếp thu thi pháp đồng dao./.
9. THƠ CHO THIẾU NHI HÔM QUA VÀ HÔM NAYĐỊNH HẢI
Vào những năm cuối của thập kỷ 70 trở về trước, thơ cho thiếu nhi nằm
trong một giai đoạn phát triển bình thường. Đó là chặng đường ban đầu, là
thời kỳ nhen nhóm và gây dựng. Chúng ta không quên công lao của những
người đã đặt những viên gạch đầu tiên thô mộc cho nền mống ấy. Những bài
thơ gần như sớm nhất đã ra đời dù sao cũng có những ý nghĩa nhất định. Đó
là những bài thơ của Nam Hương, Bảo Định Giang, Nguyễn Đình, Nguyễn
Xuân Sánh, Thanh Tịnh, Thái Hoàng Linh, Xuân Tửu, Hồ Thiện Ngôn, Thy
Ngọc, Nhược Thủy, Vũ Ngọc Bình...
Trong những năm đầu, sự xuất hiện của thơ Phạm Hổ và thơ của Võ
Quảng đã làm cho thơ thiếu nhi trở nên sinh động hẳn lên. Từ đó (từ những
năm cuối của thập kỷ 50) đến những năm cuối của thập kỷ 70, tuy chỉ trong
vòng 20 năm, thơ cho thiếu nhi cứ ngày càng cứng cáp hơn, hoàn thiện hơn,
bớt dần đi những non nớt vụng về thuở ban đầu.
Cứ mỗi năm, Nhà xuất bản Kim Đồng (lúc bấy giờ) cũng cố gắng in
hàng chục tập thơ. Phạm Hổ, Võ Quảng hầu như năm nào cũng có một tập
thơ nhiều nhà thơ chuyên viết cho người lớn cũng đã có tập thơ cho thiếu nhi
như Huy Cận, Tú Mỡ, Tế Hanh, Huyền Kiêu, Trinh Dường, phân Xuân Hạt,
Hoàng Minh châu, Ngô Quân Miền...
Cứ một vài năm sau, người ta lại thấy có thêm nhiều tác giả mới xuất
hiện, làm cho thơ thiếu nhi thêm phong phú, tươi vui, hấp dẫn. Lâu lắm rồi,
những người ta vẫn còn nhắc đến chùm thơ về mùa hè của Nguyễn Thanh
Toàn (Hải Phòng), bài thơ Mặt trời xanh của Nguyễn Viết Bình (Hà Nội), bài
Mẹ của Nguyễn Lê (Hà Tĩnh), bài Chiếc xe lu của Trần Nguyên Đào, bài
Hương cốm tới trường của Minh Chính... và rất nhiều bài thơ khác đã đi vào
lòng bạn đọc cả một thời.
Nhà xuất bản Kim Đồng hồi ấy không mấy ngần ngại khi in và phát
hành các tập thơ của các tác giá cũ và mới, già và trẻ và cả thơ của chính các
em viết nữa.
Những nhà thơ thường được nhắc đến lúc ấy bên cạnh và tiếp sau
Phạm Hổ, Võ Quảng là Xuân Quỳnh, Quang Huy, Thanh Hào, Ngô Viết Dinh,
Trần Mạnh Hào… Đó là những người có nhiều đóng góp nhất cho thơ thiếu
nhi, có nhiều tập thơ hay, bán chạy, được tặng thưởng, được tuyển chọn
nhiều bài vào sách giáo khoa, vào các tuyển tập...
Nhưng còn rất nhiều nhà thơ khác tuy không chuyên viết cho các em,
song, cũng có những bài thơ, chùm thơ, tập thơ được dư luận chú ý. Có thể
kể đến các tập thơ của Phan Thị Thanh Nhàn, Võ Văn Trực, Nguyễn Bao,
Nguyễn Bùi Vợi, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Vương Trọng, Diệp Minh
Tuyền, Bế Kiến quốc, Ngô Văn Phú, Lê Thị Mây, Tô Hà...
Nhìn chung, thơ của thời kỳ đầu cố nhiều nét đáng yêu của tuổi thơ, có
sự mộc mạc, chân thành, có cái trong trẻo, nhẹ nhàng; có sự chắt chiu ấp ủ
những tình cảm đẹp đẽ nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ. Nếu có hơi lộ liễu những
mong muốn khuyên răn và cả ý thức phục vụ kịp thời cũng là điều dễ hiểu,
không thể vin vào đó mà phủ nhận tất cả, phủ nhận cả những mặt tốt không
phải dễ gì mà có.
Thơ của các nhà thơ viết cho trẻ em thường là thơ đôn hậu, nhân ái,
đem cái đẹp đẽ và cái thiện đến cho trẻ em, với cả tấm lòng ưu ái của lớp
cha, anh mong muốn con em mình lớn lên thành những công dân tốt, thành
những chiến sĩ đi đầu trong cuộc đấu tranh, thành các thiên tài, vĩ nhân...
Gieo trồng thế nào, chăm bón thế nào thì có mùa màng như thế. Có nhân nào
thì có quả ấy.
Không có thể phủ nhận được những kết quả, những tác dụng của thơ
lúc bấy giờ. Dù sao thơ viết cho các em cũng đã được các em đọc, các em
thuộc và nhiều em còn nhớ rất lâu những bài thơ hay của các nhà thơ. Sau
30 năm, 40 năm, các độc giả bình thường nhất cũng còn nhớ những bài thơ
họ đã học thuộc lòng từ thuở thiếu thời. Có cái gì trong những bài thơ đó để
cho họ nhớ? Chắc không phải là những cái xấu, cũng không phải là cái vô bổ.
Người Việt Nam thích đọc thơ, thích làm thơ. Tuổi trẻ Việt Nam càng
thích thơ. Thơ là bầu bạn, là người tri âm, người đối thoại với mình. Thơ nói
giúp người ta rất nhiều điều, ở rất nhiều thời điểm cần thiết, trong cuộc sống
đời thường, trong những bước đi của đất nước, hoà đồng với thế giới và
khẳng ra khỏi số phận chung của sự sống trên trái đất.
Người Việt Nam ta có chất thơ trong tâm hồn to nhỏ. Ai cũng muốn làm
thơ để véo von. Ai cũng ngỡ mình sẽ thành nhà thơ và hơn thế nữa, các bậc
cha mẹ mừng rỡ thấy con mình làm thơ rất sớm và nắc nỏm hy vọng chúng
sẽ thành những nhà thơ trong tương lai. Song, cho dù là có những "khuyết tật
dễ thương" ấy người ta vẫn không quên có một thời đã xuất hiện một thần
đồng thơ là Trần Đăng Khoa mà cả thế giới biết đến với "những bài thơ nhỏ
mạnh hơn bom". Và bên cạnh Trần Đăng Khoa là Khánh Chi, Hoàng Hiếu
Nhân, Cẩm Thơ, Chu Hồng Quý, Nguyễn Hồng Kiên.
Thơ của các em lúc bấy giờ (nở rộ nhất vào những năm 60 - 70) làm
cho "nền" thơ thiếu nhi vừa được mở rộng vừa được nâng cao, góp thêm
nhiều màu sắc nhiều hương vị mới thật mời mọc.
Từ những năm cuối thập kỷ 70 đến những năm cuối thập kỷ 80, trong
khoảng chưa tròn chục năm, thơ thiếu nhi có chống lại bởi nhiều lý do. Vả
chăng, không nên xem đây là một giai đoạn, một chặng đường, vì cũng chỉ
trong vòng 7,8 năm, thơ cho thiếu nhi có phần giảm sút về cá số lượng và
chất lượng, nhưng chỉ nên xem như đó là một sự chuyển tiếp nằm trong sự
chuyển tiếp chung của cả xã hội, của nhiều lĩnh vực khác, của có văn học cho
người lớn...
Trong những năm tháng chuyển đổi ấy, không phải là thơ viết cho thiếu
nhi đã bị đứt đoạn, không phải là không có những thành tựu, không phải là
không có những nhân tố mới, tìm tòi mới, những đóng góp mới.
Những ngữ có công đưa thơ thiếu nhi chuyển động hòa nhập với cuộc
sống mới, cơ chế mới là những nhà thơ có tâm huyết đeo đuổi suốt cuộc đời
cho sự nghiệp này, song chính họ cũng phải nhận rằng người "đứng mũi chịu
sào" trong "khúc ngoặt" này phải là lực lượng trẻ sung sức (không phải là trẻ
tuổi). Đó là những nhà thơ đã xuất hiện từ lâu, đã nghiền ngẫm từ nhiều năm
rước, đã say mê tìm tòi từ những năm trước, đến một thời điểm mới, họ
khẳng định vị trí của mình một cách "dễ dàng". Đúng ra là họ đang cùng với
lớp đi trước hoặc có làm nòng cốt đi chăng nữa để đưa thơ viết cho thiếu nhi
bứt ra khỏi tình trạng khô cứng, mòn mỏi, trùng lặp, đơn điệu… Làm sao cho
thơ thiếu nhi thực sự hiện diện trong đời sống của trẻ thơ hôm nay như một
điều thiết yếu, một sự thiết thực một mong muốn thiết tha… Như vậy, nó
không thể chỉ là đôi nét ngây thơ, với vài ba sự ví von, với vài ba "cây", "con"
làm chất liệu...Trong khi cả nước bừng dậy, cả nước đang chuyển động,
chuyển động trong cả từng gia đình, từng ngõ xóm, từng góc phố, chuyển
động trong nhận thức, trong tình cảnh…thì thơ cho thiếu nhi không thể không
chuyển động theo và có sự bổ sung vào đội ngũ những cây bút mới. Tuy là ít
ỏi, nhưng chúng ta không thể không nhắc đến những tác giả đã đi đầu trong
những năm tháng khó khăn ấy. Đó là Nguyễn Hoàng Sơn, Mai Văn Hai,
Quang Khải, Đặng Hấn, Trần Quốc Toản, Dương Thuấn, Đỗ Xuân Thanh, Lê
Hồng Thiện, Trần Hồng Thắng, Nguyễn Ngọc Quế, Hoàng Tá, Nguyễn Châu,
Phùng Ngọc Hùng, Phạm Đình Ân, Xuân Hoài, Trương Vĩnh Tuấn, Thanh
Quế, Đồng Xuân Lan, Nguyễn Thanh Kim, Nguyễn Trác, Trương Xương,
Trần Tâm, Nguyễn Ngọc Ký, Nguyễn Khoa Đăng, Thái Thăng Long, Nguyễn
Vũ Tiềm, Lệ Bình, Dương Huy, Đông Trình... Đó là một đội ngũ đáng tin cậy.
Họ là tác giả đã có ít nhất một hoặc hai tập thơ được bạn đọc chú ý. Họ
có những giọng điệu riêng không "hao hao", "na ná" như nhau ở giai đoạn
trước. Họ đã được tặng thưởng nhiều giải thưởng trong các cuộc thi. Có khá
nhiều người trong số đó đã nhanh chóng trở thành hội viên Hội nhà văn Việt
Nam.
Trong "khúc ngoặt" chưa đầy 10 năm, thơ cho thiếu nhi đã thực sự có
những dấu hiệu chuyển mình. Song, vì số lượng tập thơ xuất bản chưa nhiều,
số thơ đến tận tay các em chưa nhiều (tác giả thường phải bỏ tiền ra in dăm
trăm bản chỉ đủ để tặng bạn bè, người thân…), thơ viết cho các em cũng như
thơ cho người lớn đang còn đi tiếp trên đường dài, còn tìm tòi, thể nghiệm,
còn cần có thời gian để kiểm chứng, sàng lọc.
Các em có yêu thơ không? Các em có đọc thơ không? Đó không còn là
câu hỏi phải đặt ra nữa. Bây giờ có lẽ nên hỏi rằng: Các em cần gì ở thơ?
Các em muốn thường thức thơ loại như thế nào?
Từ những năm cuối thập kỷ 80 đến nay, trong vòng năm năm qua, tình
hình thơ Viết cho thiếu nhi; trong khung cảnh nền văn học chung của đất
nước có những bước tiến triển đáng mừng. Thơ lại được in nhiều hơn trước
đây. Nhà xuất bản Kim Đồng không những đã hỗ trợ cho hàng loạt nhà thơ tự
in sách, tự phát hành, mà còn chủ động xuất bản nhiều tập thơ có giá trị,
nhằm khẳng định bước phát triển mới của thơ thiếu nhi. Với số tiền lãi thu
được từ việc ấn hành bộ tranh luyện Đôrêmon, Nhà xuất bản Kim Đồng đã
trích ra một khoản tiền lớn dành cho việc hỗ trợ nâng đỡ các tác giả thơ trẻ và
khẳng định thành tựu thơ chung và riêng ở những tác giả tiêu biểu.
Những năm gần đây, thơ viết cho thiếu nhi đã có sự xông xáo hơn, có
phần trẻ hóa, có phần trăn trở, cố gắng đi vào cuộc sống, không chỉ đơn điệu
với một vẻ mặt ngây thơ, hiền lành. Thơ cho thiếu nhi giờ đây đang được chia
ra các loại lứa tuổi khác nhau, và thực sự các nhà thơ đang có ý thức đem
đến cho mọi lứa tuổi một món ăn thích hợp. Giờ đây, bên cạnh thơ cho nhi
đồng, ta thấy có những tập thơ dành riêng cho lứa tuổi thiếu niên lớn và
những tập thơ dành riêng cho các cháu mẫu giáo, nhà trẻ. Việc phân loại này,
thật sự là một nhu cầu thực tế, một việc làm khoa học nghiêm túc, song đây
mới chỉ là bước đầu. Làm sao để có một bài thơ hay cho nhi đồng, nhưng
thiếu niên cũng thấy thích và cả người lớn cũng muốn đọc. Đó là những bài
thơ có nhiều tầng, những bài thơ không cơ giới hạn về người đọc, người
thưởng thức, đó là tài sản chung của mọi thế hệ, mọi thời đại.
Tạp chí Tuổi xanh cùng với báo Mực Tím, Hoa Học Trò đang giới thiệu
khá nhiều thơ của chính các em viết. Hầu như trong mấy năm qua thơ của
chính các em viết (nhất là các em thiếu niên lớn) có nhiều nét gần với tâm
hồn các em, bởi đó chính các em nói về các em, nói với các em. Có thể ít
năm sau sẽ có thêm khá nhiều cây bút làm thơ cho thiếu nhi được bổ sung từ
trong số các em đang làm thơ hôm nay.
Như vậy chúng ta vẫn đang còn hy vọng chờ đợi những bước đi tiếp
theo của thơ thiếu nhi, bởi nó đã và đang chuyển động thực sự trong luồng
chuyển động chung của văn học nước nhà.
(Tạp chí Văn học số 5/1993)
10. XUÂN QUỲNH VỚI THƠ THIẾU NHIVÂN THANH
Thơ viết cho thiếu nhi, theo tôi là bộ phận quan trọng làm nên sự
nghiệp của nhà thơ nữ đặc sắc Xuân Quỳnh, một sự nghiệp thơ chỉ trên 25
năm. Trong tư cách ngựa phụ nữ, người yêu và người vợ, Xuân Quỳnh đã để
lại một di sản thơ tình yêu đầm thắm và da diết khắc khoải - tình yêu đích
thực nào mà chẳng đi đến cùng hai chiều ấy!
Trong tư cách người mẹ, Xuân Quỳnh cũng đã để lại một gia tài thơ
viết cho con, cũng là viết cho các thế hệ trẻ thơ, thật dồi dào và trong trẻo,
thật ngộ nghĩnh và dễ thương.
Xuân Quỳnh viết trước hết cho con; và tình mẹ con ở đây thật cụ thể.
Có thể nói chị không viết gì ra ngoài kinh nghiệm sống của mình như đã có
lần chị nói: Thơ - đó là "món quà của một bạn nhỏ ngày xưa tặng các bạn như
bây giờ"
Là cô bé mồ côi mẹ, chị sớm thiếu tình mẹ. Còn cha thì xa cách ngay
từ bé. Đứa trẻ thiếu tình thương trong suốt cả tuổi thơ ấy là Xuân Quỳnh, khi
làm mẹ, đã lại dồn biết bao nồng nàn của tình thương cho những đứa con,
tựa như để bù đắp cho những thiếu hụt và trống trải của chính đời mình.
Trong thơ Xuân Quỳnh, đứa con là thiên thần, là đối tượng che chở và cũng
là điểm tựa tinh thần cho người mẹ.
Cũng cần nói thêm! Xuân Quỳnh hai lần làm mẹ. Và là mẹ chung của
ba con - con riêng của mình, con riêng của Vũ và con chung của Vũ. Người
mẹ không thiên vị của cả ba con, trong thơ Chùm thơ Xuân cho ba con nhỏ,
viết vào năm 75. Ba con ở ba lứa tuổi. Đứa thứ nhất: Tuấn Anh, con riêng của
mình với chồng cũ ở tuổi học đường đã được học, được biết nhiều chuyện
nên rất ham "kể chuyện" - chị viết để "mừng con thêm một tuổi ":
Bài toán làm tuy khó
Con cũng giải được mà
Con biết nhân biết chia
Biết trừ và biết cộng
Con đóng sổ lao động
Ghi việc con giúp bà
Nào dọn cơm quét nhà
Nào nhặt rau, lấy muối
Con cười nhăn cả mũi
Hở cái rằng vừa thay
Đứa thứ hai: Minh Vũ, con riêng của chồng, ở tuổi "hay hỏi" để đòi "cắt
nghĩa" hoặc tự "cắt nghĩa" chứ đâu có nhiều "vốn sống" để "kể chuyện:" như
anh:
-Má ơi, ai sinh lá
Ai làm ra cái kem
Đêm sao lại màu đen
Ban ngày sao màu trắng?
- Ban ngày làm bằng nắng
Màu xanh làm bằng cây
Quả ớt làm bằng cay
Tiếng ồn sinh tàu điện
Gió trong con ốc biển
Ghé tai nghe mà xem
Và bé thứ ba, bé út, con chung với Vũ có tên là Quỳnh Thơ, được cắt
đặt từ khi mẹ mang thai trong Con chả biết đâu! Bé chẳng thể biết vì lúc này
bé còn trong bụng mẹ. Bé chưa chào đời, nhưng đã được mẹ làm thơ tặng,
cho sau này ra đời và lớn lên bé đọc. Bé chưa ra đời mà sự chuẩn bị cho bé
đã rộn ràng lắm:
Bố mới mua chiếc khăn
Dành riêng cho con đắp
Áo con bố đã giặt
Thơ con bố viết rồi
Các anh con hỏi hoài
Bao giờ sinh em bé?
Khó có thể nói bà mẹ Xuân Quỳnh yêu con nào hơn. Nhưng trong tình
yêu không thiên vị ấy, cố nhiên người mẹ Xuân Quỳnh có nhiều dịp để viết về
đứa con bé nhất, đứa con là kết quả của tình yêu Quỳnh - Vũ, của tổ ấm gia
đình Vũ - Quỳnh. Đó là Quỳnh Thơ, với tên ở nhà là Mí: Mí thích, Mí ngoan
hơn cái nấm, Cái ngoan của Mí, Mí trông nhà...
Có thể nói, viết cho thiếu nhi, Xuân Quỳnh đều xuất phát từ kinh
nghiệm riêng, cảm xúc riêng của chị. Nhưng trong khi đi thật sâu vào những
trải nghiệm của bạn thân, qua một lối cảm nghĩ và nhận xét tinh tế và thông
minh, Xuân Quỳnh đã gặp tất cả chúng ta, những bậc làm cha mẹ, đã biểu
đạt hộ cho chúng ta những chân lí thật thông thường mà không dễ ai cũng nói
được tỏ tường, với biết bao là rung động và xúc động.
Trên đời này có tình cảm nào thiêng liêng và ấm áp hơn tình mẹ con?
Trong thế giới hôm nay người ta đang thí nghiệm cho đứa trẻ sinh ra từ ống
nghiệm. Nhưng từ ngàn đời nay, nhân loại chỉ biết đến một nơi duy nhất tạo
ra hình hài cho mình: đó là người mẹ.
Từ chỗ đứng của người lớn, hoặc của người đời nói chung để nói về
tình mẹ, đó là cách nói quen thuộc của thơ:
Dẫu cho đến hết cuộc đời,
Vẫn chưa đi hết những lời mẹ ru.
Nhưng còn cách nói của con, của trẻ thơ? Trẻ chơi trò Đi trốn đi tìm.
Chúng chẳng biết trốn đi đâu cho kín, bởi chỗ nào cũng sợ lộ. Đã trốn rồi, lại
phải tìm nơi khác: gầm bàn, xó tủ, ngách cửa... Vẫn chẳng đâu an toàn! Chỉ
còn một nơi kín nhất: Trốn vào lòng mẹ chỉ ở đấy bé mới khỏi sợ lộ. Và nếu
có lộ thì mẹ bọc kín cho, mẹ bảo vệ cho!
Có gì đo được tình yêu mẹ? Ông Trời - quá rộng. Thành phố, trường
học vẫn còn rộng và xa. Phải tìm cái gì gần gũi và cụ thể hơn, bởi:
Tình mẹ cử là hay nhớ,
Lúc nào cũng muốn bên con.
Vậy là bỗng như một ánh chớp lóe sáng:
À ơi có con dế
Luôn trong bao diêm con đây
Mở ra con thấy ngay
Con yêu mẹ bằng con dế.
Tất nhiên đấy là một bé trai, mới có sự ví von theo cách ấy. Cả ba con
Xuân Quỳnh đều là trai - Giá là bé gái chắc sự ví von sẽ khác.
Thơ cho thiếu nhi không chỉ là phô bày, là diễn tả, là thể hiện. Mà còn là
gửi gắm, là giáo dục. Chữ "giáo dục", trong sáng tác cho người lớn nếu có
chút e ngại, thì với thiếu nhi lại chẳng có gì đáng e ngại. Có điều cần lưu ý là:
Giáo dục cho các em những gì, và giáo dục như thế nào?
Có biết bao điều cần được gửi gắm trên trang giấy trắng tâm hồn. Bao
đức tính mà người lớn muốn có, chúng ta đều mong cho trẻ có, và mong
chúng có từ trẻ. Nhồi tất cả vào thơ, sự chuyển tải sẽ trở nên quá nặng. Kết
cục chỉ còn trơ ra những chữ là chữ.
Xuân Quỳnh không làm thế. Thế giới thiếu nhi trong thơ chị trở nên rất
đáng yêu không phải ở sự góp nhặt mọi phẩm chất mà ta muốn có. Giản trị
như mọi bậc bố mẹ thương yêu con, Xuân Quỳnh chỉ mong có ở bé một
phẩm chất cần cho trẻ. Trẻ ngoan - Con ngoan. Chỉ một chữ NGOAN, đủ cho
sự hình thành nhân cách trẻ, đủ cho mọi chuẩn bị về tương lai của trẻ. Mí
ngoan hơn cái nấm là bài học vệ sinh, giữ gìn sức khỏe, không đi nắng, hoặc
đi nắng phải đội mũ, cũng là bài học luân lí, nghe lời bố mẹ. Sự so sánh bắt
đầu từ bé Kiên và cái Nấm:
Bé Kiên chẳng ngoan đâu
Không được bằng cái Nấm
Cái Nấm là ngoan lắm
Luôn ô mũ chỉnh tề
Lúc trời mưa trời nắng
Nấm khi nào cũng che
Nhưng cái Mí còn ngoan hơn:
Vì khi ngũ mỗi đêm
Là không cằn mũ nón
Thế mà các bạn Nấm
Khi ngũ vẫn che ô
Mọi hoạt động của trẻ, ở các lứa tuổi khác nhau đều được Xuân Quỳnh
khai thác xoay quanh phẩm chất ngoan này. Nó là chuyện bé tự làm lấy mọi
việc không phải nhờ cậy ai. Là chăm giúp đỡ bố mẹ, ông bà. Là biết nhường
nhịn em. Là nghe lời người lớn. Là vui khi được phần thưởng. Và càng vui khi
phần thưởng ấy bé lại đem cho... Cái triết lí Nhận và cho, đối với trẻ, phải
được người lớn giải thích như một chân lí hồn nhiên:
Cái ngon mà đem cho
Thì lại ngon hơn nữa.
Đọc thơ Xuân Quỳnh, cái tính ngoan thông thường bao trùm nhiều tính
tốt cụ thể bỗng được nâng cấp thành một quan niệm sống, một đạo lí sống
cho tất cả những ai thuộc lớp người nhân hậu và lương thiện.
Bởi lẽ vị kỉ và vị tha, đó là sự phân ranh giữa tốt - xấu, thiện - ác, là hai
cực đối lập trong đời người, và trong thế giới loài người.
Không thể bỏ qua một phẩm chất làm nên đặc trưng của trẻ - đó là sự
tò mò, là câu hỏi vì sao, là đòi hỏi cắt nghĩa về thế giới chung quanh. Theo
năm tháng thế giới này càng mở rộng dần biên độ, từ nhớ đến lớn, từ gần
đến xa, từ cụ thể đến trừu tượng.
Thơ Xuân Quỳnh có nhiều bài viết theo hướng này: Vì sao? Mùa đông
nắng ở đâu? Tại sao gà con sinh ra? Rồi Chuyện cổ tích về loài người,
Chuyện về những giòng nước...
Vì sao? Là dồn dập các câu hỏi, trong vô vàn câu hỏi:
Vì sao con cóc
Nó hay nghiến răng
Vì sao con còng
Nó không nhắm mắt
Không có chân có cánh
Mà lại gọi Con sông
Không có lá có cành
Lại gọi là Ngọn gió
Cái quạt bé như thế
Thì gió ở vào đâu
Biên ngày đêm thét gào
Sao lại không khản cổ?
Bài thơ cứ thế mà kéo dài, bởi thế giới tự nhiên là vô tận. Cả nhà thơ
và người lớn đều biết đến. Còn các em là người đọc lại không thể và không
nên kéo dài. Bài thơ phải đến lúc dừng.
Con vịt con bé tí
Không mẹ, nó không buồn
Mà mẹ mới ra đường
Vì sao con đã nhớ.
Từ thế giới tự nhiên Xuân Quỳnh đã hướng các em đã trở về với thế
giới người. Từ câu hỏi đã chuyển sang câu xác định. Lại vẫn là sự xác định
mà lần nữa: tình mẹ con.
Ở bài thơ Tại sao gà con sinh ra, nhà thơ cũng tiếp tục câu hỏi và câu
trả lời chung quanh tình mẹ:
Thấy gà mẹ khổ quá
Cử nằm liền ổ rơm
Thân xác xơ gầy mòn
Không đủ mà mãi thức
Thương mẹ đạp vỏ trứng
Thế là gà sinh ra.
Vì gà mẹ mong chờ
Nên có gà con đó.
Giải thích tự nhiên, qua cách nhìn trẻ thơ, rồi từ thế giới tự nhiên mà
chuyển sang thế giới người lớn, mà trở về đời sống xã hội, tôi ít thấy có ai
thành công như Xuân Quỳnh. Bằng xét đoán thông minh và trí tưởng tượng
phong phú, chị làm vui cho trẻ và làm kinh ngạc người lớn chúng ta.
Mí biết làm ra gió
Chỉ bằng một chiếc quạt con
Mí còn làm ra cả đêm
Chỉ cần nhằm hai con mắt
Đó quả là logic được đảo nhân thành quả, nhưng lại không có chút nào
phi lí.
Các logic ngược này đã được Xuân Quỳnh thực hiện một cách xuất sắc
trong bài Chuyện cổ tích về loài người. Chuyện bắt đầu bằng hai câu:
Trời sinh ra trước nhất
Chỉ toàn là trẻ con
Trong tư duy nhân gian: Trời sinh ra muôn loài. Còn với Xuân Quỳnh;
Sau Trời là trẻ con. Trẻ con sinh ra trước tiên. Trẻ được sinh ra như là khởi
nguyên của tất cả. Sau chúng, mới là sự hình thành của tất cả những gì làm
nên thế giới.
Và thế giới, trong cách dẫn dắt của người kể cổ tích Xuân Quỳnh là
gồm một trật tự các sự vật xuất hiện theo một logic chặt chẽ bên trong: do
nhu cầu của trẻ mà có, gồm Mặt trời, rồi cây cỏ, chim muông, sông ngòi, biển
mây, đường sá...
Rồi mới đến mẹ, vì trẻ con cần tình yêu và lời ru. Rồi đến bà, vì trẻcần
nghe chuyện. Sau bà mới đến bố, vì trẻ cần hiểu biết. Do nhu cầu hiểu biết
mà sinh ra chữ, thầy giáo, phấn bảng. Từ bảng mà có lớp học. Và ở buổi học
đầu tiên:
Thầy viết chữ thật to,
"Chuyện loài người " trước hết.
Bài thơ đến đây là kết thúc; có thể nói là kết thúc trong một trật tự
ngược.
Thế nhưng người đọc là tất cả chúng ta và các em lại không ai bất ngờ,
hoặc bất bình trước sự vô lí đó. Chỉ biết thích thú về sự có lí của một chuỗi
những điều phi lí. Và sự chấp nhận đó là ra đi ra ngoài logic thông thường. Vì
có một logic khác, lớn hơn, bao trùm hơn, làm nền. Đó là sự tồn tại của cuộc
sống bắt đầu từ sự chăm sóc trẻ thơ. Từ nhu cầu vì trẻ thơ. Sự tồn tại chung
của loài người là vậy. Và tính ưu việt mà chế độ ta muốn có cũng là vậy. Bài
thơ có nghịch lí nhưng không phi lí. Và như vậy cần được giải thích, được
hiểu theo logic khác. Hẳn không ai phản đối Xuân Quỳnh đã bất chấp trí thức
sinh học, nhân loại học, xã hội học mà đưa ra một lí thuyết duy tâm như vậy.
Bởi chị là nhà thơ.
Ngộ nghĩnh, hồn nhiên, thơ Xuân Quỳnh nói chính là lời trẻ thơ, nghĩ
cách nghĩ trẻ thơ. Rồi lại có thể tách ra khỏi trẻ thơ, để ngụ vào đấy một triết lí
hồn nhiên của sự sống, thứ triết lí mà ở mỗi lứa tuổi đời có thể hấp thụ một
cách riêng. Ở đây, không có sự cao đạo, lên giọng, truyền giải đã đành, mà
cũng không phải là lối nhại mượn, bất chước, cưa sừng làm nghé, khoác áo
hoặc đeo băng trẻ con.
Đọc Xuân Quỳnh, thấy chị làm thơ thật dễ dàng. Cứ như là nước ngọt
tuôn ra tù một mạch nguồn trong trẻo.
Hãy xem chị làm thơ Mí thích:
Chưa già má đã có râu
Cái con dế suốt đêm thâu hát gì
Không chân con rắn vốn đi
Con sên thích múa con ve thích gào
Con chim thích đậu cành cao
Con tàu biết gọi khi vào sân ga.
Mạch thơ cứ trôi chảy như thế cho đến câu Con tàu biết gọi... Từ câu
thơ này, thế giới tự nhiên với dế, rắn, chim muông... đã chuyển sang thế giới
người:
Con tàu biết gọi khi vào sân ga
Con đường thì lại thích xa
Con sông thích chảy, con phà thích sang.
Đây là thế giới người, vì sự xuất hiện những mối quan hệ mới - quan hệ
tình cảm giữa con người; vì sự xuất hiện những bâng khuâng và lưu luyến chỉ
có trong thế giới người. Bài thơ ấm dần lên trong khí hậu mới đó; và với
người lớn chúng ta, chúng ta còn tiếp tục tham gia để mở rộng thêm các biên
độ cho không gian và thời gian của thế giới đó. Con đường gắn với xa: "Hai
vai gánh nặng con đường thời xa", "Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh".
Sông với chảy - Chảy đi, Sông ơi! Và phà sang - Phà gắn nối với phía bên
kia. Phà không bao giờ là của một bên. Bài thơ kết thúc ở hai câu:
Mí thì Mí thích yêu thương,
Con chim, con dế, con đường, con sông.
Lưu luyến và nhân rộng là dành cho người lớn, còn con trẻ chỉ có yêu
thương. Từ con dế, con chim… đến con sông, con đường. Trong mỗi bài thơ
xuân Quỳnh viết cho các em, dường như đều có một khu vực cho nhận thức
người lớn.
Trong đời thơ không dài, nếu không nói là còn ngắn, Xuân Quỳnh vốn
để lại một gia tài thơ cho thiếu nhi như là sự kết tinh mọi trải nghiệm của đời
mình. Nếu mảng thơ về Tình yêu là lời nói của Trái tim: "Em trở về đúng
nghĩa trái tim em" thì trong thơ viết cho thiếu nhi Xuân Quỳnh đã, một lần nữa,
từ tuổi thơ của chính mình mà đến với tuổi thơ của các em, như chị đã từng
viết: "Là một người làm thơ cho các em, qua những đau khổ và khao khát
thuở nhỏ, qua những lần lầm lỡ của tôi khi cư xử với các con tôi, tôi luôn luôn
tự nhủ: Muốn viết cho các em, điều đầu tiên là sự cảm thông với các em chứ
không phải là sự áp đặt. Đừng bắt các em sống và nghĩ theo cách của mình.
Nếu muốn giáo dục các em thì phải nhìn bằng con mắt của các em mà nhận
xét đánh giá mọi việc. Cách giải quyết bắt đầu từ đấy".
Ngoài thơ, Xuân Quỳnh còn kể chuyện cho các em. Những mẫu
chuyện gọn ngắn và xinh xắn của đời thường hiện tại mà đẹp như cổ tích,
đầy những hứng thú và bất ngờ.
Những mẫu chuyện được viết với thứ ngôn ngữ giản dị mà trong suốt
như gương nếu được chọn cho các em học thuộc lòng tôi tin sẽ rất có ích cho
môn văn của các em - ở một số truyện Xuân Quỳnh viết, tôi gặp lại niềm vui
và sự xúc động trong Tâm hồn cao thượng của Edmond de Amicis. Để đi sâu
vào thế giới truyện cho thiếu nhi của Xuân Quỳnh là một câu chuyện còn
nhiều lí thú, xin để dành cho một dịp khác.
Trong nhiều dự định viết cho các em ở Xuân Quỳnh, cũng như trong
thơ tình yêu và thơ của chị nói chung, ta gặp lại tâm thức quen thuộc về hạnh
phúc là nhận và cho: "Đứng trước các em trên mặt đất này, các em sẽ giúp
đỡ tôi theo kịp được các em để những trang viết của tôi gần gũi và có ích cho
các em hơn".
Tiếc thay, tác động hai chiều như nhà thơ mong muốn và sự khơi
nguồn ở mạch viết này, với Xuân Quỳnh đã phải dừng lại đột ngột ở tuổi 46.
11. "LÀM SAO CÓ THỂ BƠI NGƯỢC VỀ CÁI DÒNG SÔNG THƠ ẤU"L T.S: Những năm 1966 - 1970, ở miền Bắc rộ lên mặt loạt tên tuổi các
nhà thơ nhí mà đầu đàn phải kể đến Trần Đăng Khoa. Nhân dịp Tết Trung
thu, KTGĐ đã tìm gặp Trần Đăng Khoa, mặc dù đã ở tuổi bốn mươi râu ria
rậm rịt vẫn được lũ trẻ nữ gọi là "cậu Khoa, thằng Khoa". Trần Đăng Khoa
cười tít mắt khi được gọi như thế, nhưng sẽ cười đến... mở mắt nếu ai gọi: "Ê
cậu bé nhà quê". KTGĐ xin giới thiệu một chút tâm sự của Trần Đăng Khoa
về cái thuở ấy của mình, và về cái thuở này của một số người một thời nổi
tiếng với Trần Đăng Khoa như Cẩm Thơ, Nguyễn Hồng Kiên, Chu Hồng Quý,
Hồng Hiếu Nhơn...
Nhớ về một thuở:
Phóng viên (PV): Tôi nhớ, nếu không nhằm, có một lần, trong quán
nước bên đường, giữa đám bạn bè, hầu hết là các phóng viên báo chí, anh
có nói đại ý: Trong thâm tâm, anh rất biết ơn Nhà xuất bản Kim Đồng. không
có Nhà xuất bản Kim Đồng, chắc chắn không có anh. Như thế nghĩa là thế
nào?
Trần Đăng Khoa (TĐK): Đó là một sự thật. ông thấy đấy, tôi là cậu bé
nhà quê bố mẹ tôi cũng ở quê. Làng tôi rất nghèo, lại hẻo lánh. Nhập nhoạng
tối, người ta đã lên giường rồi. Ấy là một cách tiết kiệm dầu, vì không lẽ ngồi
mò trong bóng tối. Thắp đèn sợ tốn nhưng lên giường đâu có ngủ được ngay.
Thế là mẹ tôi kể chuyện cổ tích, chuyện cô Kiều, chuyện Thạch Sanh, Lục
Vân Tiên. Rồi mẹ tôi đọc cho tôi nghe những câu ca dao, về những việc hàng
ngày, những cái hàng ngày tôi vẫn gặp:
Cám ơn cái cối, cái chày
Nửa đêm gà gáy có mày, có tao
Cám ơn cái cọc cầu ao
Nửa đêm gà gáy có tao, có mày…
Tôi thấy thương mẹ quá, thương cả cái cối, cái chày nữa. Sau này, khi
bà ngoại tôi mất, mẹ tôi xé tấm vải xô lớn ra hàng trăm mảnh nhỏ, đưa cho tôi
"Bà đi rồi. Con có thấy cây cối nó buồn không? Con ra đeo tang cho chúng nó
đi. Nếu không để tang cho chúng, chúng sẽ héo, sẽ lụi chết đấy " Thế là tôi lọ
mọ đi đeo tang cho cấy cối, cái chày, cái cọc cầu ao, rồi cây na, giàn trầu, cây
mía, cây bưởi. Cả khu vườn nhà tôi trắng xóa một màu tang. Trong mắt tôi,
những vật vô tri vô giác ấy đã hóa những con người, có những nỗi vui buồn
của con người. Sau này, khi anh chị tôi làm bố, làm mẹ, tôi mới hiểu bà mẹ tôi
khi bà cụ dặn anh chị: "Chúng mày phải dạy trẻ con nó yêu đồ vật, cây cỏ,
chim muông. Một đứa từ bẻ cây mới trồng, bắn chết con chim đang bay, thì
rồi sau này, nó cũng sẽ ác với con người đấy". Tôi đã thuộc làu truyện Kiều
và hàng trăm câu ca dao, tục ngữ do mẹ tôi truyền dạy vào những đêm tối mò
như thế. Nhưng tôi đâu dám nghĩ mình sẽ thành nhà thơ. Bởi làm thơ khó
lắm. Đó là một việc cao siêu, không thể sàm sỡ được. Thế rồi tình cờ tôi vớ
được cuốn Tấm lòng chúng em, một tập thơ viết về Bác Hồ, do Nhà xuất bản
Kim Đồng ấn hành năm 1964. Lúc ấy tôi thích lắm. Thích hơn nữa, dưới tên
các tác giả là dòng chú thích 13 tuổi, 15 tuổi. Hóa ra đó là thơ của trẻ con. Tôi
nghĩ các bạn viết được, không khéo mình cũng viết được. Thế là tôi viết viết
ào ào Cú hích đầu tiên, đẩy tôi mạnh dạn đến với thơ là cuốn sách của Nhà
xuất bản Kim Đồng. Không phải tôi là người đầu tiên cất lên tiếng gáy ò ó o...
Trước tôi, các bạn nhỏ đó đã gáy rồi. Tôi gáy theo. Rồi nhiều em bé khác
cũng lại gáy theo nữa. Thế là thành một dàn đồng ca tưng bừng, vui vẻ…
PV: Trong số các tác giỏ nhỏ tuổi thời ấy, dường như bây giờ, chỉ còn
có anh đeo đẳng với thơ, họ đâu cả rồi?
TĐK: Cẩm Thơ lấy chồng bên Pháp. Ông bạn tôi, nhà văn Nguyễn Chu
Nhạc ở Đài tiếng nói Việt Nam, vừa đi Pháp về, có gặp Cẩm thơ nói tiếng
Pháp rất chuẩn, nghe còn xịn hơn cả mấy mợ Pháp chính hiệu. Trông nàng
đẹp một cách quý phái. Rõ là một mệnh phụ phu nhân. Tết vừa rồi Cẩm Thơ
về Việt Nam ăn tết. Nửa đêm nàng gọi điện cho tôi: "Này, tôi mò mãi mới ra
số phôn của ông đấy" - "Bà đang ở đâu vậy?" - "Ở chỗ má. Ngày mai về Bác
Ninh. Mấy hôm nữa ra ta gặp nhau nhé. Để tôi nhắn Chu Hồng Quý với
Trương Nhuận nữa. Nhuận vẫn ở Nhà hát Tuổi Trẻ hả?" - "Thế có cần kéo
theo phiên dịch không? - "Khỉ gió nhà cái lão này! "
Đấy, Cẩm Thơ đấy? Nguyễn Hồng Kiên làm nhà sử học. Các nhà sử
học họ vốn im lặng, nghiêm túc, chứ đâu có tuếch toác như mình. Còn Hoàng
Hiếu Nhân thì tôi chưa từng được chiêm ngưỡng. Trong số các tác giả nhỏ
tuổi thời ấy, tôi rất quý Nhân, Nhân viết ít, nhưng rất có nghề. Sau này, tôi
được tin anh học Đại học Bách Khoa, ra làm giảng viên khoa Toán, rồi tôi lại
được tin anh đi xuất khẩu lao động ở Liên Xô, Hoàng Hiếu Nhân là đội trưởng
đội xây dựng ở thành phố Ma-ghi-nốp.Ở nước Nga, nghề xây dựng rất vất vả,
phải làm ở ngoài trời, cả ở trên những độ cao, trong nắng gió và giá tuyết.
Vùng Nhân ở lại là vùng bị nhiễm xạ, phải di chuyển. Tôi đã tìm gặp anh Đào
Khải Hoàn, Trưởng ban quản lý lao động, Đại sứ quán ra tại Liên Xô. Anh
Hoàn hứa sẽ tạo mọi điều kiện để giúp Nhân. Tôi thư cho Nhân, nhưng anh
không trả lời. Rồi tôi đáp tàu xuống Ma-ghi-nốp, Nhân đi vắng. Trước cửa
phòng anh cấm phập một con dao chọc tiết lợn. Đấy là "lời" đe doạ của một
tay đầu gấu nào đó. Sau này, Nhân lên Mátxcơva, nhưng anh cũng không
qua tôi, chỉ ghé vào Lốpnhia, một thành phố ngoại ô Mátxcơva. Chị Phan Thị
Duyên, đội trưởng công nhân dệt, nguyên là biên tập viên Nhà xuất ban
Thuận Hóa nhắn lại: "Vừa rồi, Hoàng Hiếu Nhân đến gặp em, Nhân bảo:
"Khoa qua miềng, không biết ơn định đánh quả chi hề? Miềng định ghé hắn
nhưng ngại qua. Gặp hắn bây chừ biết nói chuyện chi hề? Bàn chuyện văn
chương, thơ phú thì kỳ cục quá hề!"
PV: Còn những kỷ niệm của anh với các anh chị Nhà xuất bản Kim
Đồng? Anh có thể "bật mí"được không?
TĐK: Nhiều. Kỷ niệm thì rất nhiều. Người đầu tiên của Nhà xuất bản
Kim Đồng mà tôi được gặp là anh Định Hải. Rồi sau đó là chị Trần Thị Nhâm,
anh Bùi Hồng và chị Trần Tuyết Minh. Các anh, các chị ấy đều đạp xe đạp về
nhà tôi vượt một chặng đường 70km. Lúc bấy giờ, Đường 5 là đường chiến
lược, Mỹ ném bom liên miên suốt ngày đêm. Chiến tranh ác liệt như vậy,
nhưng nhà tôi rất đông khách. Ngày nào cũng nườm nượp khách. Có bác đáp
tàu từ Lạng Sơn xuống. Có ông cụ đạp xe từ Nghệ An ra. Tôi nhớ có một bác
tên là Trương Sẫm Tham ở Nghệ An, cái tên bác nghe như tên của một nhà
thơ biên tái đời Đường. Bác ở nhà tôi một tuẫn, khi đi cứ đòi được thanh toán
với gia đình bằng mấy cân tem gạo. Gia đình kiên quyết không lấy. Người
nhà quê đâu có thiếu gạo. Vả lại, tem gạo, bố mẹ tôi chẳng biết đong ở đâu.
Mà bác ấy thì lại cứ muốn phải thanh toán xong mới yên tâm đi. Khổ thế!
Nhùng nhằng mãi, cuối cùng, bác ấy kéo bố con tôi ra vườn để bác ấy dạy
cho một bài...Thái cực quyền. Thế là hai bên đều thấy nhẹ nhõm và vui vẽ.
Chỉ khổ nỗi là múa võ khó quá. Tôi cứ bò lồm cồm như cua, còn bố tôi thì
khua khoắng nghẽn ngoãn như ông xẩm chợ bị mất gậy. Anh Định Hải ở nhà
tôi cũng chừng nửa tháng. Khi đi, anh ấy cũng để tem gạo lại. Bố mẹ tôi
không nhận. Anh ấy ấn tiền vào tay bé Giang, cô em út của tôi. Không xong.
Thế là anh ấy lấy xe đạp thồ tôi lên thị trấn huyện Nam Sách. Bữa đó trời
mưa. Anh vừa gò lưng đạp, vừa phì phò thở như kéo bễ. Lên huyện, anh đưa
tôi vào mấy cái cửa hàng, để xem tôi thích cái gì, anh sẽ mua cho tôi coi đó.
Nhưng tôi lại chẳng thích gì cả. Cuối cùng, anh đưa tôi vào hiệu sách, mua
cho tôi ảnh Bác Hồ, ảnh Các Mác, Lê Nin, Stalin, cả bức tranh Lê Nin chia tay
với Stalm bên bến đò. Tất cả những bức tranh, ảnh này đều được dệt băng
lụa, nên rất đắt. Mẹ tôi cứ rên rẩm: "Mua nhiều thế này thì anh ấy hết mấy
tháng lương rồi. Vợ con anh ấy không biết ăn bằng gì, nhà anh ấy chắc chắn
có khoai sắn...". Sau đó anh Bùi Hồng về nhà tôi. Ấy là khi tập Em kể chuyện
này của tôi được in cùng Cẩm Thơ, Nguyễn Hồng Kiên. Bấy giờ, với các tác
giả nhỏ tuổi, Nhà xuất bản Kim Đồng không trả nhuận bút bằng tiền. Sợ trả
tiền, các em sẽ viết vì tiền, mất đi sự trong sáng. Nhà xuất bản biến tiền thành
hiện vật. Anh Bùi Hồng mang về nhà tôi một cái đài Nhật, có cả giấy đăng ký
sử dụng máy thu thanh nữa, giấy đề hẳn tên tôi. Sau đài là một dòng chữ
khắc màu vàng: "Thân tặng em Trần Đăng Khoa - Nhà xuất bản Kim Đồng".
Đó là một sự kiện lớn ở làng tôi sau đó tin này lan truyền khắp huyện. Bấy giờ
ở quê tôi, nhà nào giàu lắm mới có cái loa truyền thanh, chủ yếu để nghe tin
tức và nghe báo động: "Đồng bào chú ý! Đồng bào chú ý! Hiện nay có một tốp
máy bay địch đang bay vào không gian tỉnh ta... Các đơn vị phòng không, dân
quân chuẩn bi sẵn sàng chiến đấu... ". Không gia đình nào có đài bán dẫn.
Bởi thế, cái đài của Nhà xuất bản Kim Đồng cho tôi, quả là một món quà đặc
biệt sang trọng. Chả thế, trong làng lại có anh đến mượn, để đeo đi hỏi vợ.
Còn khi tập "Góc sân và khoảng trời" của tôi do chị Trần Thị Nhâm biên tập ra
đời, thì chị Trần Tuyết Minh (tên thật của nhà văn Trần Thiên Hương sau này)
về nhà tôi. Chị về vào lúc nhập nhoạng tối. Chị xách theo 20 cuốn Góc sân...
và đằng sau xe đạp, chị thồ theo một cái chăn len bằng lông cừu Mông Cổ.
Cái chăn vừa dày, vừa nặng, chằng buộc rất cồng kềnh. Vượt qua một chặng
đường 70 cây số bom đạn với đồ lề lỉnh kỉnh như thế, thật cảm động.
PV: Bây giờ, anh có còn làm thơ cho thiếu nhi nữa không?
TĐK: Chịu! Tôi không phải là nhà thơ viết cho thiếu nhi. Tôi chỉ viết cho
tôi thôi. Ngày xưa thế! Bây giờ cũng thế! Thuở bé, tôi là cậu bé, nỗi vui buồn
của tôi là nổi vui buồn của cậu bé. Bây giờ, tôi là người lính rồi, đâu còn là
cậu bé nữa. Có một nhà hiền triết bảo: "Chẳng ai có thể hai lần tắm cùng một
dòng sông!". Tài đến như các nhà hiền triết còn chẳng tắm được, huống hồ tôi
lại chẳng có phép màu gì. Làm sao có thể bơi ngược về cái dòng sông thơ ấu
trong vắt với tấm thân kềnh càng và bộ mặt già nua cũ rích thế này? Tôi chỉ
xin bái vọng về Nhà xuất bản Kim Đồng. Chúc nhà xuất bản luôn là bạn tâm
giao của khách hàng mình, là các đấng con trẻ, mà ngày nay, chúng ta vẫn
quen gọi là các ngài thượng đế!
HOÀNG XUÂN TUYỀN (ghi)
12. "KỂ CHUYỆN" ĐỐI VỚI TRẺ Ở TUỔI MĂNG NONĐỖ QUANG LƯU
Trẻ em rất thích nghe kể chuyện. Từ lứa tuổi lên ba, lên bốn, các em đã
ham được ông bà (hoặc cha mẹ) kể chuyện cổ tích cho các em nghe mỗi buổi
tối và từ câu chuyện các em đã đi vào giấc ngủ với những giấc mơ đẹp. Đến
lớp mẫu giáo, hàng ngày các em lại được có giáo kể cho nghe nhiều truyện
cò tích hoặc đồng thoại thú vị khác. Niềm thích thú, say mê bộc lộ, rõ trên nét
mặt ánh mắt của mỗi em đang chăm chú theo dõi từng lời kể truyền cảm, hấp
dẫn của cô giáo. Kể cả trẻ em ở lứa tuổi đã biết đọc biết viết, niềm thích thú
được nghe kể chuyện cũng mạnh mẽ không kém. Có thể nói: Nghe kể chuyện
là nhu cầu không thể thiếu được đối với trẻ em chẳng khác nào nhu cầu đọc
sách, báo hoặc thường thức văn nghệ.
Từ lứa tuổi mẫu giáo đến lứa tuổi tiểu học, nhu cầu nghe kể chuyện ở
các em ngày càng phát triển không ngừng với niềm thích được kể lại mọi
chuyện lạ, tai nghe mắt thấy cho người khác nghe, từ bạn bè ở trường ở lớp,
cho tới ông bà, cha mẹ, anh chị em ở nhà. Nhu cầu này đòi hói phải được giải
quyết một cách thoả đáng thông qua chương trình, giáng dạy môn Tiếng Việt
- tiếng mẹ đẻ - cho các em ở bậc tiểu học trong nhà trường phổ thông. Bởi
vậy KỂ CHUYỆN đã trở thành một môn học chính khóa đồng thời cũng có thể
coi như một hình thức hoạt động văn học rất lý thú và bổ ích đối với trẻ em ở
lứa tuổi măng non; lứa tuổi đang phát triển mạnh mẽ về tình cảm, nhận thức,
tư duy và ngôn ngữ...
Mỗi câu chuyện kể thú vị hợp với mỗi độ tuổi (từ thần thoại, truyền
quyết, truyện cổ tích, truyện lịch sử hoặc truyện danh nhân trong nước và
nước ngoài cho tới các loại hình đồng thoại ngụ ngôn, truyện khoa học viên
tường hoặc truyện nhân gian vui - niềm vui hồn nhiên, lành mạnh trong tâm
hồn thơ ngây, trong trắng của các em. Niềm vui đó sở dĩ đến được với các
em trước hết là do nhu cầu về cảm xúc thẩm mĩ ở lứa tuổi các em được thỏa
mãn - lứa tuổi dễ xúc cảm, giàu óc tưởng tượng, ưa cái đẹp, cái lạ kỳ, ham
hiểu biết và giàu ước mơ. Chính nhờ vậy mà yêu cầu về giáo dục tình cảm và
bồi dưỡng tâm hồn cho các em được giải quyết một cách nhẹ nhàng mà sâu
sắc.
Mỗi câu chuyện kể bổ ích hợp với trình độ của trẻ em còn góp phần mở
mang thế giới nhận thức, làm giàu thêm tri thức về cuộc sống cho các em:
cuộc sống của ông cha và của loài người xưa kia, cũng như cuộc sống của
chúng ta và của nhân loại ngày nay. Đặc biệt gây hứng thú mạnh mẽ và lâu
bền cho trẻ thường là những hình tượng nhân vật độc đáo, dị kỳ trong thần
thoại, truyền thuyết hoặc truyện lịch sử (Âu Cơ và Lạc Long Quân, Thánh
Gióng, Sơn Tinh và Thủy Tinh, An Dương Vương và chiếc nỏ thần...) những
hình tượng lần đầu tiên đem đến cho các em những rung động thẩm mĩ kỳ
thú, cũng như đã hé mở cho các em những nhận thức ban đầu trong sáng
như những tia nắng ban mai về cội nguồn và truyền thống đẹp đẽ của dân tộc
mà khó có thể có một bài học lịch sử nào có thể thay thế được.
Phần lớn truyện kể được dùng cho môn kể chuyện ở bậc tiểu học lại là
các truyện dân gian vốn có tính nghệ thuật cao và có một ngôn từ diễn đạt
nhuần nhị trong trẻo. Qua lời kể chuyện truyền cảm của mình, người kể
chuyện (thường là các cô giáo) sẽ truyền thụ cho trẻ một phong cách ngôn
ngữ nghệ thuật chân chất, đa dạng, đồng thời hình thành từng bước cho các
em một năng khiếu cảm thụ văn học nhạy bén.
Sau khi được nghe kể chuyện, các em lại được hướng dẫn tập thể kể
lại câu chuyện bằng ngôn ngữ của mình và với phong cách diễn cảm hồn
nhiên của bản thân các em, không rập khuôn theo người lớn một cách giả
tạo. Đây là một dịp rất thuận lợi để trẻ em phát huy được khá toàn diện các
năng khiếu tư duy và thẩm mĩ của trẻ: Trí nhớ, óc suy xét, phán đoán, trí
tưởng tượng, năng khiếu ngôn ngữ văn học, v.v...
Với những hình tượng thẩm mĩ phong phú, đặc sắc, được xây dựng
không qua mọi loại hình truyện kể (của dân tộc và của thế giới) như đã nói
trên và bằng một ngôn ngữ nghệ thuật sống động, vốn văn học ban đầu của
trẻ em sẽ được gây dựng, được vun đắp dần dần. Đây là nhân tố có tác dụng
khá quyết định đến sự hình thành tâm hồn, tính cách của trẻ em thông qua
con đường văn học. Nó không những tích cực góp phần phát triển ở trẻ nhiều
phẩm chất tốt đẹp mà còn phát huy được rõ nét cái bản sắc riêng, cái cá tính
độc đáo ở mỗi em.
Chính vì thế, môn kể chuyện luôn luôn là một trong những môn học có
khả năng gây nhiều hứng thú cho trẻ em nhất. Nhà trường chúng ta cần chăm
lo sao cho môn học có "chiến lược con người" ở "tầm xa" này đạt được ở
mức cao nhất hiệu quả tích cực của nó đối với việc bồi dưỡng tâm hồn và
năng khiếu cho các lứa tuổi măng non đang ở thời kỳ phát triển. Một điều
đáng mừng là môn học này cũng đã phát huy được tác dụng rộng lớn của nó
tới biết bao cuộc thi "kể chuyện" được tổ chức cho các em ở ngoài xã hội, và
từ các đơn vị quận, huyện, tới các đơn vị tỉnh, thành phố. Và những cuộc "Thi
kể chuyện" sôi nổi và hào hứng ấy lại được giới thiệu thường xuyên trên các
màn ảnh truyền hình từ địa phương tới Trung ương, đáp ứng với mong mỏi
của lứa tuổi "Măng non đất nước" đáng yêu này./.
(Tạp chí Văn học số 5/1993)
13. TRUYỆN CỔ TÍCH VỚI TRẺ EMTĂNG KIM NGÂN
Truyện cổ tích là một thể loại chiếm ưu thế về cả số lượng và vị trí độc
đáo của nó trong loại hình những sáng tác dân gian tự sự.
Ngay từ thế kỷ IX, bộ sách Nghìn lẽ một đêm của người Ả Rập đã hấp
dẫn nhiều thế hệ độc giản trên trái đất bởi những cốt truyện ly kỳ, những hình
tượng độc đáo hay nói cách khác là bởi trí tưởng tượng phong phú, nhiều mà
vẻ về hiện thực của chủ nhân sáng tạo - một hiện thực độc đáo chỉ có trong
truyện cổ tích. Về sau này, những tập truyện kể của Perôn (Pháp) của anh em
Grim (Đức), của Aphanaxêep (Nga), những tập truyện ly kỳ của người ân Độ
(Hai mươi đêm hỏi đáp, Chùm truyện về con vẹt, Những chuyện kể của
Vêtala...), v.v... đều đã xúc động trái tim của hàng triệu con người thuộc nhiều
lứa tuổi khác nhau trên hành tinh này, đặc biệt là lứa tuổi trẻ thơ.
Nếu các loại hình nghệ thuật khác như sử thi, bi kịch, hài kịch, truyện
ngắn, tiểu thuyết được người đọc tiếp nhận tuỳ thuộc vào trình độ hiểu biết về
lịch sử, xã hội, văn hóa của từng người về giai đoạn mà tác phẩm ra đời và
hiện thực mà nó phản ánh (và không bao giờ sự lĩnh hội đó tương xứng với
giá trị thực của tác phẩm); thì truyện cổ tích trái lại có thể phổ biến ở khắp nơi
và có khả năng thâm nhập sâu rộng vào tất cả mọi tầng lớp người trong xã
hội, ở những trình độ văn hóa khác nhau và ở tất cả các thời đại khác nhau.
Có thể tìm thấu cốt truyện kiểu Tấm Cám của ta ở khắp thế giới với trên dưới
600 dị bản mà từ người già đến trẻ thơ, từ kẻ thượng lưu có học đến những
người mù chữ sống trong cảnh đói nghèo, từ những người thuở xưa đến con
người của các thời đại văn minh.
Nhiều cốt truyện cổ tích đã được các nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch,
nhà soạn nhạc... chuyển thể thành những tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng thế
giới và cho đến nay vẫn không ngừng làm xúc động lòng người như nhạc kịch
Hồ thiên nga của Traicôpxki chẳng hạn.
Sự phổ biến rộng rãi và sức sống bất tử như vậy của truyện cổ tích
chứng tỏ rằng "trong truyện cổ tích" có một giá trị nào đó vĩnh cửu và bất diệt
mà cả bằng sự nhạy bén về cảm quan thẩm mĩ có tính chất trực giác, chúng
ta cũng có thể hé thấy được những giá trị đó ở vẻ đẹp phong phú, bất ngờ
của các câu chuyện kể, ở tính lạc quan yêu đời và chiều sâu chân lý ngày thơ
ấu trẻ em với tính thâm trầm sâu sắc của những trí tuệ khôn ngoan, tỉnh táo,
dày dạn kinh nghiệm sống. Những giá trị ấy khiến cho truyện cổ tích có ý
nghĩa to lớn đối với sự hình thành nhân cách con người. Và chính truyện cổ
tích nhiều khi đã để lại những dấu ấn không phai mờ trong sự hình thành tư
tưởng và tình cảm của trẻ từ tuổi ấu thơ.
Theo bác sĩ Benjamin Spock - một chuyên gia Mỹ nổi tiếng thế giới và
nhi khoa thì tính cách của một đứa trẻ hầu như đã hình thành sau 3 năm đầu
tiên vào đời ở thời kỳ này, tùy theo bố mẹ mà đứa trẻ sẽ xuất hiện một niềm
tin sâu sắc là nó đẹp hay xấu, hiền lành hay dữ. Tùy theo từng trường hợp,
nó cũng sẽ trở thành lạc quan hay bi quan. Tóm lại, trong thời kỳ từ một đến
ba tuổi, trẻ em có ý thức rất cụ thể về nhân cách và những ý thích riêng của
chúng. Còn giai đoạn từ sáu đến mười hai tuổi, trẻ em có những tính cách
biểu lộ tính sẵn sàng phục vụ và lòng tốt của nó.
Bác sĩ Spock cho rằng đối với trẻ em, "sự bày đặt cũng thật dễ làm
chúng hồi hộp như hiện thực. Những bộ phim hoạt hình cũng có thể thật sự
góp phần vào sự phát huy trí tưởng tượng và trí tuệ của trẻ em". Trong thực
tế, trẻ em rất giàu trí tưởng tượng. Trẻ em chưa có điều kiện để hành động
nhưng nhìn người lớn làm việc gì, các em cũng muốn bắt chước nhưng chỉ
hành động trong tưởng tượng và bằng tưởng tượng.
Những trò chơi mẹ - con, trò chơi rồng - rắn, trò chơi phi ngựa trên các
chổi tre, trò bé gái bế búp bê ru ngủ, v.v... tất cả đều do trí tưởng tượng hồn
nhiên được nảy sinh ra từ sự mong muốn hành động theo thực tế. Truyện cổ
tích hấp dẫn bởi nó kích thích trí tưởng tượng hồn nhiên của trẻ em.
Với những đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi như vừa nêu, việc rèn luyện và
bồi dưỡng những phẩm chất tốt cho nhân cách trẻ thông qua việc kể và đọc
cho chúng nghe truyện cổ tích là vô cùng cần thiết bởi vì, tính nhân văn của
truyện cổ tích phù hợp với tâm hồn trong sáng của tuổi thơ.
Trẻ em rất công bằng, sòng phẳng. Trong suy nghĩ non trẻ của chúng,
người tốt, người có công phải được khen thưởng, phải được hưởng hạnh
phúc còn người xấu, người có tội phải bị xử phạt. Truyện cổ tích đã đáp ứng
được nguyện vọng ngây thơ ấy của các em. Lối kết thúc có hậu của truyện cổ
tích, đặc biệt là truyện cổ tích thần kỳ luôn để lại trong lòng người nghe một
sự bình yên thỏa mãn bởi sự chiến thắng của điều Thiện. Dù chàng dũng sĩ
có trải qua bao nhiêu thử thách gian truân, bao khó khăn vất vả, nhưng nhờ
sự giúp đỡ của những nhân vật thần kỳ, cuối cùng chàng đã cưới được công
chúa và được hưởng hạnh phúc suốt đời. Ở đây cái Thiện chiến thắng cái
xấu và chính điều này làm cho thuyền cổ tích trở nên rất hấp dẫn đối với tuổi
thơ.
Thế giới cổ tích là một thế giới đặc biệt, ở đó hiện thực và ước mơ, cõi
trần và cõi tiên, con người, vạn vật thần linh... không phân biệt ranh giới mà
hòa nhập với nhau. Đi vào thế giới cổ tích (đặc biệt là truyện cổ tích thần kỳ),
trí tưởng tượng của các em được chấp cánh bay cao, bay xa, vượt lên trên
thực tại tầm thường của cuộc sống hàng ngày để vươn tới một thực tại đầy
tính chất lý tưởng. Những nhân vật, những sự kiện được sáng tạo nên do trí
tưởng tượng nên thì trong sáng, bay bổng nhưng chất phác của nhân loại
trong truyện cổ tích vì thế rất phù hợp với tâm hồn trong trắng của lứa tuổi
thơ.
Thế giới cổ tích là một thế giới của những tưởng tượng không thể xảy
ra được; bởi vì trên đời này làm gì có những chàng Cuội đánh lừa được tất cả
mọi người mà không hề bị ai đánh bại? Có chăng những người vợ ngang
ngược bỗng trở nên thuần phục, dễ thương, đáng yêu? Có chăng những
chàng ngốc chuyên gặp may, cưới được vợ đẹp và đỗ trạng nguyên?... Trẻ
em không bao giờ tin rằng có những con chó, con mèo biết nói, con cáo lại
dại hơn con chim ác là, những chàng dũng sĩ đi qua hàm một con sư tử đang
nhai, đi qua chiếc cần bắt trên dòng sông lửa... mà không hề gặp rủi ro gì.
Các em không quan tâm đến việc câu chuyện có đúng thế hay không, mà
điều các em muốn tìm hiểu là ý nghĩa cao đẹp của những tình tiết được kể:
chàng dũng sĩ sau bao thử thách khó khăn có được gặp lại nàng công chúa
hay không, có được cưới nàng như lời hứa của vua và có được hạnh phúc
hay không; cái thiện đã chiến thắng cái ác ra sao và những người hiền lành
như cô Tấm, Thạch Sanh, Sọ Dừa... đã được hạnh phúc như thế nào; còn
những kẻ tàn ác như Lý Thông, mẹ con Cám... có bị trừng phạt? Những hình
tượng trong truyện cổ tích đều mang tính chất phi thực tại, không phù hợp với
hiện thực hiện hữu, nhưng chính truyện cổ tích hấp dẫn người nghe trước hết
do tính chất khác thường của câu chuyện kể (cái khác thường là cái trong đời
sống thực tế không thể xảy ra). Theo V.la.Prôp - một nhà folklore học Xô Viết
thì: "Sự không phù hợp với hiện thực, bản thân điều bịa đặt đã đem lại một
khoái cảm đặc biệt. Trong truyện cổ tích thần kỳ, hiện thực "bị lộn trái" ra một
cách có chữ tâm, và đối với nhân dân, toàn bộ vẻ đẹp của truyện cổ tích là ở
chỗ đó".
Một trong những đặc điểm quan trọng của truyện cổ tích thần kỳ là
những truyện không thể và không bao giờ có thể xảy ra được lại được kể
bằng một phong cách, một giọng điệu, y như có thể xảy ra thật trong thực tế,
tuy rằng cả người kể lẫn người nghe đều không tin vào câu chuyện. Điều này
góp phần tạo nên cái không khí vừa thực vừa hư ảo của truyện cổ tích, và
chính sự kỳ ảo đó rất phù hợp với tâm lý của tuổi ấu thơ.
Các nhà tâm lý học cho rằng, vừa phải khuyến khích trẻ em phát triển
trí tưởng tượng, vừa phải dạy cho các em ngày càng thực tế hơn và cho thấy
những mục tiêu và những khuyết tật của chúng là gì: bởi vì thiếu niên bao giờ
cũng hết lòng hưởng ứng những khát vọng lãng mạn và lý tưởng do tình yêu
đề ra.
Cũng theo các chuyên gia này, con người khác thường vì hai lẽ: trước
hết, những phẩm chất cao quý như trung thực, dũng cảm, yêu thương người
khác và tận tụy với mọi người cho phép nó làm được những điều lớn lao. Thứ
hai, phải ngợi ca những năng lực sáng tạo của nó - nguồn của những niềm
vui và cũng là nguồn đem lại sự thách đố vĩnh hằng trong cuộc sống. Cái đà
vươn lên hào hiệp và năng lực sáng tạo ấy thể hiện ở khả năng tuyệt vời của
trẻ em (nhất là thời kỳ từ ba đều sáu tuổi). Những đứa trẻ biết yêu thương bố
mẹ học và noi gương bố mẹ không phải như tồn tại trong thực tế mà dưới
một hình thức hoàn toàn lý tưởng hóa.
Để kích thích ở trẻ em óc tưởng tượng và sở thích học tập, theo các
nhà tâm lý - giáo dục không gì tốt hơn là đọc to lên cho đến lúc chúng tự mình
đọc lấy dễ dàng những câu chuyện kể. Cần đọc chậm rãi cho những đứa trẻ
còn nhỏ là để cho chúng muốn hỏi gì thì hỏi. Cần để cho chúng tiêu hóa và
hiểu mọi tình tiết của chuyện theo cá tính của chúng. Chẳng hạn, nếu một
đứa trẻ sợ chó, nó muốn nghe nhiều lần câu chuyện về một con chó hiền lành
đối với trẻ em. Đặc biệt ở góc độ này, người thân không nên để trẻ em xem
những chương trình truyền hình dữ dội và tàn bạo; bởi vì trẻ em bao giờ cũng
muốn đẩy những hiểu biết của chúng đi xa hơn những gì chúng quan tâm vào
đáp ứng với những xúc cảm mà một câu chuyện gây ra. Bằng những buổi
đọc truyện đều đặn, người thân sẽ đem đến cho các em nỗi khát khao học
đọc không cưỡng lại được. Nếu các câu chuyện tỏ ra lý thú, trẻ em cảm thấy
thích rèn luyện lý tưởng cho mình.
Quả thực, trí tưởng tượng giúp con người vươn lên trên thực tại và đạt
tới những điều kỳ diệu. Nhiều công trình nghiên cứu của các chuyên gia tâm
lý học và y học đã chứng minh rằng, để có được một năng lực sáng tạo kỳ
diệu trong khoa học tự nhiên và kỹ thuật, âm nhạc và thơ ca là những yếu tố
rất cần thiết hỗ trợ cho năng lực tư duy. Trí tưởng tượng của con người một
khi bắt rễ sâu từ thực tiễn hành động thì có thể vươn cao hơn thực tại tầm
thường và chính nó sẽ trở thành động lực của sự phát triển văn hóa và khoa
học.
Tóm lại, cùng với những phương thức giáo dục khác, truyện cổ tích có
khả năng góp phần làm hình thành nên những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của
tuổi thơ, lòng yêu thương con người, lòng hào hiệp, lòng trung thực,đức dũng
cảm, chiến đấu vì sự thắng lợi của điều thiện. Truyện cổ tích (đặc biệt là
truyện cổ tích thần kỳ) còn giúp các em phát triển sức tưởng tượng – một yếu
tố quan trọng đóng vai trò không nhỏ trong quá trình tư duy sáng tạo ở nhiều
lĩnh vực (âm nhạc, hội hoạ, toán học, vật lý học…), giúp các em có được lòng
say mê lý tưởng – một yêu cầu rất chính đáng có từ tuổi ấu thơ. Do đó, việc
kể cho các em nghe nhiều truyện cổ tích có yếu tố hư ảo thần kỳ bao giờ
cũng có lợi.
Có ý kiến cho rằng, trong thời đại khoa học, kỹ thuật phát triển như hiện
nay, cách giải thích thế giới theo kiểu hoang đường, huyễn hoặc của truyện
cổ trong truyện cổ tích đáp ứng những nhu cầu chính đáng về mặt tinh thần
của tuổi ấu thơ và nó hoàn toàn không trái ngược với tinh thẫn khoa học.
Truyện cổ tích phản ánh hiện thực theo một phong cách riêng, và ở đó, hiện
thực "bị lộn trái" ra một cách có chủ tâm, những không phải là đi ngược lại tư
duy khoa học. Truyện dân gian và truyện cổ tích nói riêng đã phản ánh một
cách sâu sắc, chân thực lịch sử và tiến trình văn hóa của mỗi dân tộc theo
đặc trưng riêng của floklore. Do đó, truyện cổ tích không phải là sự biểu hiện
ở trình độ thấp của tư duy nghệ thuật mà đó là giai đoạn "một đi không trở lại"
của lịch sử nhân loại. Truyện cổ tích với những đặc trưng riêng của nó đã thật
sự góp phần làm nảy sinh và nuôi dưỡng lòng nhân hậu, tính trung thực, lòng
say mê lý tưởng và óc tưởng tượng của trẻ em.
Đã là trẻ em, em nào cũng thích nghe truyện cổ tích, bởi vì truyện cổ
tích đáp ứng được những nhu cầu tinh thần chính đáng của tuổi thơ. Nếu
những nhu cầu chính đáng ấy không được đáp ứng thì đứa trẻ sẽ không phát
triển thuận lợi như chúng ta mong muốn. Nếu trẻ em thiếu ăn, thiếu ngủ
chúng ta dễ dàng phát hiện ra và khắc phục kịp thời. Nhưng những nhu cầu
chính đáng về mặt tinh thần nếu không được đáp ứng đầy đủ thì sẽ làm thui
chột ở trẻ những khả năng, những phẩm chất quí báu mà hậu quả tai hại của
nó chỉ có thể diễn ra sau hàng chục năm trời. Việc khắc phục những hậu quả
này sẽ trở nên khó khăn và tốn kém nhiều khi không lường hết được.
Một thời gian dài ở nước ta, trẻ em đã trở nên già trước tuổi. Có nhiều
nguyên nhân để cắt nghĩa hiện tượng này nhưng theo chúng tôi, sự giáo dục
đạo đức luân lý một cách khô khan đã góp phần làm cho trẻ trở thành người
lớn. Những người làm thơ, những nhà viết kịch, viết truyện cho thiếu nhi
thường lồng vào những tác phẩm của mình ý thức giai cấp một cách cứng
nhắc, lộ liễu khiến cho trẻ em không muốn đọc truyện mà thường tìm đến với
phim ảnh nước ngoài. Thực ra trong kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam
những truyện nhẹ nhàng nhưng mang tính chất giáo dục khá cao là không
thiếu, nhưng vẫn chưa được khai thác sử dụng.
(Tạp chí Văn Học số 7/1994)
*Phó tiến sĩ - Viện văn hóa dân gian
14. TRUYỆN ĐỒNG THOẠI VỚI GIÁO DỤC MẪU GIÁOLÃ THỊ BẮC LÝ
Truyện đồng thoại là một thể loại đặc biệt của văn học, có sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa hiện thực và yếu tố tưởng tượng. Nhân vật chính là động
vật, thực vật và những vật vô tri nhưng được mang tính cách "người". Nội
dung của. truyện đồng thoại thường ngắn gọn, vui tươi, dí dỏm, có nhiều yếu
tố bất ngờ, dễ thuộc dễ nhớ. Những đặc điểm đó làm cho đồng thoại gần gũi
với trẻ thơ. Ở đó tự tìm thấy những nét quen thuộc trong cuộc sống của mình
và thấy sự thân thương bầu bạn. Đồng thoại có khả năng đem đến cho trẻ
những ước mơ bay bổng, những xúc cảm thẩm mĩ về một thế giới thiên nhiên
huyền ảo, lý giải cho trẻ những lý tưởng trong sáng, góp phần tạo dựng môkt
thái độ đúng trong cuộc sống... Nhưng thực tế trong nhiều năm qua truyện
đồng thoại chưa được chú trọng nhiều trong giáo dục mẫu giáo. Ở bài viết
này, người viết không có định đưa ra những kết luận khoa học mà chỉ muốn
trình bày ý kiến có tính chất đề xuất: Truyện đồng thoại với giáo dục mẫu
giáo.
Ý nghĩa của truyện đồng thoại với giáo dục trẻ mẫu giáo thật phong phú
và toàn diện, nhưng xét đặc trưng của đồng thoại và đặc điểm giáo dục mẫu
giáo, có thể khai thác trên các bình diện:
- Truyện đồng thoại với giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo.
- Truyện đồng thoại với giáo dục lòng nhân ái cho trẻ mẫu giáo.
- Truyện đồng thoại với trò chơi đóng kịch của trẻ mẫu giáo.
Có thể nói, giáo dục thẩm mỹ giữ vị trí trung tâm trong hệ thống giáo
dục mẫu giáo, bởi lẽ, với lứa tuổi này, nhận thức thông thường thông qua con
đường cụ thể, trực tiếp, cảm tính gắn liền với những xúc cảm, tình cảm, hay
nói cách khác là thông qua con đường thẩm mỹ. Về phương diện này, văn
học, đặc biệt đồng thoại có khả năng chiếm ưu thế (riêng đối với trẻ mẫu
giáo), viết cho các em cần đẹp, vui mà truyện đồng thoại là loại truyện có cơ
hội tung hoành nhất về mặt đó. Một yếu tố không thể thiếu được trong đồng
thoại là trí tưởng tượng phong phú, bay bổng. "Đồng thoại cần thiết phải mơ
tưởng. Đồng thoại thiếu mê tưởng chẳng khác gì con chim rất xinh mà lại
không có cánh, không tài nào bay được. Nhưng chim lại phải từ cái trứng
thực lớn lên chứ không phải từ trên trời xuống". Trí tưởng tượng của trẻ linh
hoạt, kỳ ảo và bất ngờ nhưng đều hợp lý. Những sự bất ngờ trong đồng thoại
như sự trái ngược về hình ảnh (to - bé, béo - gầy); sự lạ lùng (kiến thắng voi,
ốc chạy nhanh hơn hổ...) hoặc sự vô lý mà công nhận được (cá thờn bơn hay
chế nhạo bạn mà bị méo mồm, ác quá hóa cọp, lươn sống không trung thực
nên phải lẫn dưới bùn đen, chuột hợm hĩnh nên bị chết...) đều được các em
thích thú. Có thể nói, sống với đồng thoại là các em được sống hết mình với
bản chất thật của mình, được phát huy trí tưởng tượng vô tận mà tự thân các
em đã có. Đó là cơ sở để trẻ có thể rung động và cảm nhận được mọi vẻ đẹp
trong cuộc sống. Mặt khác, bản chất của trẻ giàu xúc cảm, đặc biệt những xúc
cảm thẩm mỹ, nên trẻ dễ xúc động trước cảnh đẹp thiên nhiên hay trước
những việc làm tốt. Mảng đề tài thiên nhiên lộng lẫy, kỳ ảo trong đồng thoại
với những "con chim gáy hiền lành béo nục, đôi mắt nâu trầm ngâm ngơ ngác
nhìn xa", "những con chim chích hai chân bằng hai chiếc tăm ", "Những đàn
cá rô non nô nức lội ngược dưới mưa" v.v... Với những cây gạo sừng sững,
khi mùa xuân về trông như "những cây đèn khổng lồ" (Cây gạo - Vũ Tú Nam)
hoặc "thế giới huyền ảo như trong truyện đời xưa ở dưới biển san hô" v.v…
Có thể nói trong tâm hồn chưa bận bịu việc đời ấy, khoảng trời thiên nhiên ấy
thấm vào các em như một niềm say mê không bao giờ no chán. Sự tình
nguyện của thiên nhiên sẽ nhanh chóng hoà nhập với sự tình nguyện của các
em, làm phong phú tâm hồn, làm giàu thêm những xúc cảm thẩm mỹ và năng
lực cảm thụ cái đẹp cho các em.
Nếu như giáo dục thẩm mỹ giữ vị trí trung tâm trong giáo dục mẫu giáo
thì việc giáo dục lòng nhân ái cho trẻ là cơ sở hàng đầu giúp trẻ xác lập được
mối quan hệ tích cực với môi trường xung quanh và cuộc sống.Từ đó trẻ có
thể phát triển nhân cách một cách thuận lợi và tốt đẹp. Như trên đã nói, trẻ
thơ rất nhạy cảm và sống bằng tình cảm, dễ rung động, dễ đặt mình trong
những hoàn cảnh người khác để thông cảm và bộc lộ thái độ một cách rõ
ràng, dứt khoát giữa hai mặt: xấu - tốt, ghét - yêu, buồn - vui, chán - thích,
nhớ - quên v.v... Chính vì thế giáo dục lòng nhân ái cho con người phải được
bắt đầu từ lứa tuổi thơ - đây là thời điểm thuận lợi nhất và hiệu quả cao nhất.
Bao trùm lên các truyện đồng thoại là lòng nhân ái. Đối với trẻ thơ, lòng
nhân ái không phải là một cái gì cao siêu mà trước hết thể hiện ở tình yêu
thương đối với người thân thiết ruột thịt như: tình mẹ con, lòng yêu thương,
kính trọng, hiếu thảo của con đối với mẹ, tình cảm anh em, bè bạn, tình yêu
thiên nhiên... Truyện đồng thoại, trước hết giáo dục cho trẻ em tình yêu
thương, thái độ quan tâm đến mọi người, và lối sống có trách nhiệm. Trong
thế giới đồng thoại tất cả cỏ cây hoa lá, động vật và những vật vô tri đều có
một tâm linh. Cuộc sống thực mà hư, hư mà thực với những sự việc cảm
thông mà ai cũng như đã gặp đâu đó trong cuộc sống. Đó là tình yêu thương
sâu sắc vô bờ bến của cha mẹ đối với con cái (Chim cuốc - Đức Hậu...); tấm
lòng biết ơn và sự hiếu thảo của con đối với cha mẹ (Bồ nông có hiếu - Phong
Thu...); tình bạn đẹp đẽ và cảm động (Đôi bạn dưới biển san hô - Nguyễn
Như Mai, Có một bầy hươu - Vũ Hùng, Bác gấu đen và hai chú thó - Dương
Đình Hy...). Sự độ lượng bao dung, nghiêm khắc với mình, nhân hậu với
người; sự hy sinh, biết sống vì nhau... Đó là ngọn nguồn của những tình cảm
lớn lao như tình yêu thương đồng loại mà ngay từ bé trẻ đã được hấp thụ.
Mỗi câu chuyện với những nét độc đáo khác nhau giúp trẻ nhìn vào đó như
soi vào những chuẩn mực đạo đức. Mới đầu có thể chỉ là sự bắt chước theo
thói quen, nhưng rất có thể sau sẽ trở thành ý thức, thành phương châm ứng
xử, thành một cách sống của trẻ.
Bên cạnh việc định hình và hướng tới cho trẻ một cách sống đầy lòng
nhân ái với con người, truyện đồng thoại còn góp phần giáo dục tình yêu
thiên nhiên cho trẻ. Với mảng đề tài thiên nhiên sinh động và hấp dẫn, truyện
đồng thoại đã thức dậy trong các em những xúc cảm thẩm mỹ lành mạnh và
sự yêu thương tha thiết với đời. Trẻ dễ dàng hòa mình với những trang viết
nên thơ tươi mát ấy, hòa mình với thế giới thiên nhiên đồng thoại để nghe
tiếng rì rào của con suối, để bay lên bầu trời đi chơi cùng "giọt nước tí xíu"
nghe tiếng hót của chim hoàng yến hay đi xuống lòng biển, phiêu lưu trong
thế giới huyền diệu của san hô v.v... Một tình yêu thiên nhiên như thế thật
đáng quí trong việc nuôi dưỡng những giấc mơ, những khát khao vươn tới cái
đẹp, cái cao cả của cuộc đời.
Với đặc trưng và ưu thế riêng của thể loại, truyện đồng thoại dễ được
các em "nhập vai" nhanh chóng, các em dễ đặt mình trong những hoàn cảnh
có thể của các nhân vật, suy nghĩ và hành động theo các nhân vật. Chính vì
thế có thể tổ chức trò chơi đóng kịch cho từ mẫu giáo theo truyện đồng thoại.
Đây là loại trò chơi rất phù hợp cho trẻ mẫu giáo và bất cứ cháu nào cũng có
thể chơi dược. Việc tổ chức trò chơi đóng kịch cho trẻ mẫu giáo thông qua
đồng thoại vừa giúp các em khắc sâu nội dung truyện để nâng cao hiệu quả
giáo dục thẩm luỹ và giáo dục lòng nhân ái, vừa giúp trẻ có khả năng phát huy
một cách toàn diện, triệt để những năng lực sáng tạo của mình (về ngôn từ,
thơ ca, múa, nhạc tạo hình v.v...)
Mặt khác, thông qua trò chơi đóng kịch, trẻ có dịp giao tiếp với nhau,
không chỉ là sự giao tiếp bình thường mà là sự nhập vai với nhân vật, là đặt
mình vào hoàn cảnh nhân vật để cảm hiểu đến sâu sắc cuộc đời của chúng.
Từ việc cảm hiểu cuộc đời của những người trong cuộc sống xung quanh là
một khoảng cách, nhưng không thể nói là nó không chịu ảnh hưởng một cách
nghiêm túc. Do vậy, nếu tổ chức thành công những trò chơi ấy, truyện đồng
thoại sẽ càng có ý nghĩa tích cực trong việc giáo dục trẻ mẫu giáo.
Với tính chất đặc thù, với nội dung và ý nghĩa đòi hỏi phải có, truyện
đồng thoại giữ vị trí quan trọng của truyện viết cho thiếu nhi. Trong tình hình
giáo dục trẻ em hiện nay, đặc biệt giáo dục mẫu giáo, nên dạy đồng thoại và
sáng tác thêm nhiều đồng thoại cho các em.
Mấy năm qua, do ảnh hưởng của xã hội, ảnh hưởng của những tiêu
cực trong in ấn và phát hành sách, phong trào sáng tác cho các em phần nào
bị chững lại, tất nhiên trong đó có sáng tác đồng thoại. Hy vọng rằng tới đây,
các em sẽ được đọc, được học nhiều đồng thoại mới và hay. Đồng thoại sẽ
giữ được vị trí xứng đáng của mình trong chương trình chuyện thơ mẫu
giáo./.
(Tạp chí Văn Học số 5/1993)
15. TRUYỆN CHO TRẺ EMVÉRA C.BARCLAY
LND: Phương pháp hướng đạo là một phương pháp giáo dục, chủ yếu
nhằm giúp hình thành tính cách cho trẻ em ở lứa tuổi 13 - 15 (Hướng đạo
sinh, Xcut, hay là Thiếu sinh) và 8 - 12 (Sói con hay là Ấu sinh): Phương pháp
giáo dục này đã phổ biến hầu như khắp thế giới và đã có một thời phát triển ở
nước ta.
Véra C.Barclay, một nữ trưởng hướng đạo, chuyên về ngành Sói con,
trong cuốn sách Phương pháp Sói con và sự hình thành tính cách có một số ý
kiến liên quan đến văn học cho thiếu nhi, thông qua chuyện kể (hoặc đọc) đối
với lứa tuổi 8 -12. Xin trích giới thiệu bạn đọc tham khảo.
Chuyện (histoire) không phải là một sự xa xỉ cho trẻ nhỏ, đó là nhu cầu
thật sự của các em. Đã có bao giờ bạn nghe được cái giọng có thể nói là
thèm khát của một em như muốn được nghe một câu chuyện; hay là tiếng thở
dài hoàn toàn thỏa mãn khi nghe xong câu chuyện và trí tuệ cùng tưởng
tượng của em, sau khi đã có đầy đủ để mà rèn luyện, tự thấy dồi dào nhiều
những đề tài cho sự suy ngẫm bên trong và cuối cùng thì sung sướng với cái
phước lành bí ẩn mà sự hiện diện thật gần gũi của một thế giới tưởng tượng
ban cho.
I. NHU CẦU VỀ CHUYỆN KỂ Ở TRẺ EM
Trong trái tim mỗi trẻ em đều có cái mà ta có thể gọi là bản năng về sự
huyền diệu và về sự kỳ lạ. Em nhỏ đi xuyên cuộc sống để tìm những sự vật
và những sự việc, do một thứ bí mật nào đó gắn liền với chính bản chất mình
hay là do những sự liên ý mà chúng thức tỉnh trong trí em. Thường thường,
đó chỉ là những thứ có vẻ hoàn toàn bình thường đối với người lớn, nhưng
em nhỏ biết rõ hơn những người lớn những thứ đó là như thế nào.
Nhưng tất cả những sự vật và những sự việc huyền diệu đó lại chẳng
phải là thường gặp như là em nhỏ mong ước và chẳng bao giờ cũng dễ dàng
có một chuyến du lịch, thám hiểm để tìm chúng. Bởi vậy, tạm làm một sự so
sánh, đó thường chỉ là, xét trong trường hợp tốt nhất, những mẫu bài ca,
những nét rực rỡ, một bài thơ trữ tình ngắn, thế mà em nhỏ lại có một mong
ước bản năng là anh hùng ca, là sử thi, là tấn kịch. Chính là ở đây cần thiết
đến nghệ thuật kể lại những câu chuyện. Nó tập hợp lại (tóm thâu) tất cả
những việc nhỏ xảy ra trong cuộc sống hàng ngày, rút ra từ đó tất cả những
gì có thể chứa đựng chất huyền diệu và đem cho chúng một yếu tố để thống
nhất, dưới dạng một nhân vật và cái mà người ta gọi là cốt truyện. Người kể
chuyện, ngoài ra, có thể tưởng tượng và mô tả hằng hà sa số những biến
diễn thơ mộng mà em nhỏ chưa hề gặp trong đời sống thật; và như thế
những biến diễn ấy, do sự liên quan của chúng với nhân vật và do sự phát
triển theo mức độ trong suốt câu chuyện, chỉ có thể trở nên càng hấp dẫn
hơn. Câu chuyện, tuy là có quan hệ với những con người và những sự vật
thật nhưng đã biến dạng chúng qua việc chuyển chúng vào một miền vô cùng
thơ mộng hơn là cuộc sống bình thường, và người nghe, chính người nghe,
thấy mình cũng được chuyển vào trong cái không khí ấy. Như thế em nhỏ
cuối cùng thấy mình sống và hít thở trong cái không khí hoàn toàn tưởng
tượng ấy mà em thèm khát thật bản năng. Dĩ nhiên, có nhiều em có thể tự
mình xây dựng nên những câu chuyện, nhưng thông thường, đó chỉ là phần
nối theo những chuyện em đã nghe; hơn nữa, quả là tốt hơn nhiều nếu các
em được chuyển đến mảnh đất đầy quyến rũ ấy không cần phải gắng sức
bản thân, hơn là để tự các em đi đến đó. Tóm lại, chính là trong khi nghe
chuyện mà em nhỏ giải được cơn khát huyền diệu, bởi vì, nhờ câu chuyện ấy,
em có thể ngao du trong cái thế giới của truyền thuyết và hít đầy phổi bầu
không khí phấn khởi của nó (fortifiance).
Thức ăn tưởng tượng: Em nhỏ, ngay cả trong khi em đương bận vào
những công việc hoàn toàn bình thường, vẫn sống trong sự tưởng tượng của
mình.
Trí tưởng tượng của em là hòn đá tạo vàng, hóa ra vàng những thứ vô
vị nhất. Nhưng muốn cho trí tưởng tượng ấy đúng là tất cả cái gì là nó, muốn
của nó có thể thành công, như là Stervenson nói, chuyển "món thịt của nguội
hôm thứ tư thành thịt tươi", nhất thiết trí óc của em nhỏ phải được cung cấp
tốt chất liệu cho tưởng tượng. Ví dụ, nếu Robinson Cruoe đối với các em trở
thành một người bạn thân thì việc được thấy mình hoàn toàn một mình, nhiều
lúc sẽ là một sự quyến rũ thơ mộng, nhất là nếu quanh vùng đó lại có vài
cánh rừng và một số dụng cụ cùng cái gì đó có thể coi là một chiếc tàu. Đối
với những em đã biết Robin Hood, dăm bảy cây to cùng đám bảy cậu con trai
đã đủ để làm nên khu rừng Sherwood.
Vậy thì em nhỏ, khi nghe một câu chuyện, hấp thụ những ý nghĩ và tích
tụ chúng trong trí nhớ, một ngày mưa nào đó, chúng quay trở lại làm cho vui
lên và tô màu sắc cho cuộc sống âm u, cho tới khi lại có một câu chuyện
khác, đến lược nó, chiếu cái chùm ánh sáng của nó với một sắc thái khác
nữa vào cái cánh bé nhỏ âm u của lý trí em nhỏ.
Thỏa mãn óc tò mò và lòng khát khao hiểu biết:
Trí óc của trẻ như thường tò mò muốn biết về cái thế giới quyến rũ vây
quanh mình. Em biết mơ hồ một số lớn những thứ đó, nhưng chẳng có chút
thân tình nào đối với chúng, hoặc chẳng có được một hình ảnh nào của
chúng rõ ràng như em muốn. Hầu hết những thứ trong cuộc sống làm cho em
mê mẩn: đường hầm bí mật, hang đá, thòng lọng, cung tên súng hỏa mai,
máy bay, tầu buồm, ngựa hoang, nhập vào cuộc sống của em chỉ là nhờ qua
các câu chuyện. Đó chính là những thứ mà em đi tìm trong thế giới các câu
chuyện, để quen thuộc với chúng và biết việc sử dụng chúng. Em khao khát
muốn được biết: cái kiểu hiểu biết đặc biệt mà người ta đạt được do nhìn thấy
người khác sử dụng một thứ gì đó, hoặc ngay cả do chính tự mình sử dụng
nó, ở ngay chính bản thân nhân vật. Em nhớ trông chờ ở những câu chuyện
về những thứ mà theo cách nhất của em, là cái phần đích thị cốt thiết cho việc
dạy dỗ em.
Thỏa mãn năng lực tinh thần:
Một năng lực lớn của cơ thể và của trí tuệ, đó là đặc trưng của trẻ nhỏ
để cho tự hoạt động, hầu như chẳng có lấy được một lúc nào yên lặng và một
phần lớn trong hoạt động của em kéo theo một sức sống mãnh liệt thực sự.
Cũng như vậy trí não em cũng luôn luôn hoạt động: tuy rằng chưa hẳn là
bằng tư duy, nhưng bằng tưởng tượng. Nhu cầu hoạt động trí tưởng tượng
ấy cũng có thể sánh ngang với nhu cầu duỗi ra và tập luyện những cơ bắp
của cơ thể non trẻ của em. Vậy nên, điều mà tưởng tượng của em đòi hỏi ở
một câu chuyện, đó là cơ hội được bước đi có thể nói là những bước dài như
là những sự kiện trong cuộc phiêu lưu mạo hiểm, em rất sẵn sàng cùng với
bất kỳ nhân vật nào mạo hiểm trèo lên những đỉnh núi cao. Em khao khát tới
cái sự nối tiếp nhau thật nhanh những diễn biến cứ lôi kéo em luôn luôn lên
cao hơn, cho tới cái giây phút mà câu chuyện đổi chiều đâm bổ xuống như
một người nhào lặn, và đi tới cái kết thúc thú vị: "Và sau đó, họ luôn luôn sống
trong hạnh phúc, và họ có rất nhiều con". Mồ hôi khi nóng khi lạnh tuôn ra
theo sự hoạt động, nỗi lo âu, sự thất bại và sự thành công, những mệt nhọc
của một cuộc chiến đấu ác liệt, của một chặng đường rong ruổi ngựa dài
dằng dặc hoặc một chuyến leo núi hiểm nguy; sự rèn luyện trí tuệ của một
câu chuyện trinh thám, đó là những gì mà óc tưởng tượng nồng nhiệt, mãnh
liệt và uyển chuyển của em nhà lớn tiếng đòi hỏi. Chỉ có những câu chuyện là
có thể cung cấp cho em những thứ đó, bởi vì đã từ lâu, những sự việc lịch sử
thật sự đã bị tước hết những điều kỳ diệu ấy rồi. Sự thư giãn thật sự chỉ đến
sau một đợt tập luyện mạnh. Tinh thần của em nhỏ mà luôn luôn lo ngại và
dao động cũng chỉ là vì thiếu sự rèn luyện đó.
Bốn điều tôi nêu ra trên đây, theo tôi có thể giải thích đầy đủ điều mà tôi
gọi là nhu cầu về chuyện kể ở trẻ em.
II. CÁC LOẠI CHUYỆN
Trước hết và quan trọng hơn cả, nhân vật chính phải là một con người
thật. Tôi không thuốn nói tới một con người lịch sử, mà là một con người, dù
tưởng tượng nhưng mang một tính cách có thật, một người mà các hành
động có nối tiếp cũng lôgic và phù hợp với những lời nói đặt ra cho anh ta
cũng với sự miêu tả phác lên về anh ta, như là con người vào cỡ bình thường
trong những con người. Phải là một người mà quá khứ, mà thời thơ ấu có thể
xây dựng lại được, bằng tư duy khá giống (có vẻ thực), và cả tương lai cũng
được chỉ ra như thế, chúng ta chẳng có thể làm gì được với một con rối tô vẽ
và trang phục để đúng với những sự cần thiết do nguyên nhân câu chuyện đề
ra, và hẳn là chẳng có quá khứ cũng như tương lai. Như vậy thành ra sự thật
tâm lý của nhân vật chính trong chuyện là điều rất quan trọng bởi lẽ anh ta là,
hoặc ít ra thì cũng phải là tâm điểm của toàn bộ cốt truyện. Tất cả những sự
việc xảy ra của câu chuyện đều phải liên quan đến anh ta. Tất cả đều mang
cái ánh phản chiếu của tính cách anh, và tính cách anh ta đều ghi dấu ấn lên
tất cả mọi diễn biến. Hứng thú của câu chuyện là do ở cách anh ta ứng xử
trong mỗi hoàn cảnh, ở cách anh ta gỡ ra khỏi khó khăn hoặc đối xử với
những nhân vật khác, về những cách nhìn, những tai họa và những niềm vui
của anh. Bởi thế, nếu nhân vật chính của bạn chỉ là sự lắp ghép không chân
thật những đặc tính không thể dung hòa được, hoặc nên anh ta chỉ là một thứ
bù nhìn, tất cả câu chuyện của bạn như thế là chệch hướng, cốt truyện mở
đầu từ một cứ liệu sai, và lẽ dĩ nhiên nó sẽ kết thúc, hoặc phải kết thúc bằng
sự vô lý, và nếu nó không kết thúc như thế, đó lại là một sự vi phạm qui tắc.
Khuyết điểm của rất nhiều kiểu thuyết minh là ở chỗ những nhân vật
trong đó chỉ là những người gỗ thô lỗ, thành ra những hoàn cảnh trong đó họ
hoạt động thực ra chẳng chút nào quan trọng: chẳng có lấy một hành vi nào
của họ mang được sự hứng thú đặc biệt ở chỗ là chính họ, và không ai khác,
đã là tác giả của những hành vi đó.
Và điều đó đã dẫn đến điểm thứ hai mà tôi muốn nói. Trừ phi câu
chuyện đã rõ ràng là một truyện thần tiên, những sự kiện, cho dầu huyền diệu
đến mức cao nhất vẫn cứ phải là thật. Nếu nhân vật chính nào đó đã có thể
thực hiện được một công tích, không cần thiết phải chú ý là có thể bàn cải
xem đã đạt tới công tích gì; điều quan trọng là công tích ấy phải ăn khớp với
tính cách nhân vật chính ấy, nó thuộc về loại công tích mà rất có thể là anh ta
muốn thực hiện, và nó đã mang ngay ở chính nó các mầm mống của khả
năng (tài sức) anh ta là của sự giống như chân thật của nó. Mọi vật và mọi
diễn biến của câu chuyện phải là những vật và những diễn biến có thật - cho
dù nó là tự nhiên hay siêu phàm và không phải là những "của dởm" rời rạc.
Còn điều này nữa: đừng có để cho có hai ý nghĩa trong câu chuyện,
những diễn biến và những nhân vật đã khuấy động câu chuyện là phải được
sáng tạo và tồn tại chính ngay cho sự hứng thú gắn liền với câu chuyện, và
không phải là chúng mang theo mình một ý nghĩa tinh thần nào đó. Trong
trường hợp đó: chúng ta không còn sử dụng những câu chuyện đúng là
chuyện nữa, mà là những bài ngụ ngôn bóng gió hoặc bài phóng dụ. Hầu như
bao giờ cũng vậy, sự chú tâm thể hiện vào những nhân vật tưởng tượng một
tư tưởng, một lý thuyết hay một sự việc thuộc loại siêu phàm, dẫn đến một
câu chuyện không thể nào là sát thật được và câu chuyện, đứng về mặt
truyện mà nói, vì thế bị hỏng.
Hơn nữa, những nhân vật trong một truyện dành cho trẻ em nên là,
càng đậm càng tốt, những con người có nhân cách cao quý, hoan hỉ và thiện
chí. Một câu chuyện mà làm giảm đi lòng mến mộ của em nhỏ đối với bản
chất con người và hảo tâm đối với nhân loại, có thể có những hậu quả thật là
bi thảm cho tâm hồn em. Bạn rất có thể tán thành chủ nghĩa hiện thực trong
nghệ thuật, nhưng chẳng có gì buộc bạn phải thi thố chủ nghĩa hiện thực của
bạn về những chuyện đáng căm ghét. Cuộc đời cũng đầy rẫy những vật và
người kinh tởm, đê tiện, làm nản lòng: chúng đã rõ ràng là khá sâu xa ở ngay
bản thân chúng, chẳng cần phải nghệ thuật len vào mà tái hiện chúng lên
thêm nữa. Bạn cũng chẳng thể là non tay nghệ thuật bởi vì nhìn cuộc sống và
thấy được nó đầy đủ, bạn vui vẻ tái hiện những mặt đẹp của nó. Thế đấy, như
vậy bạn là nghệ sĩ chân chính bởi vì bạn đã biết vượt lên trên tất cả những
mặt xấu xa tầm thường của hiện thực một cách tinh tế, kỳ diệu.
Dĩ nhiên, những tình tiết thiếu "cái nền làm cho nổi bật" đều khó xây
dựng, và chúng thường dễ dàng nhạt nhẽo. Nhưng nếu bạn thấy cần phải có
cái nền ấy thì hoặc là cho nó thành hóa thân của một tư tưởng đê tiện, qua
một tên gián điệp hoặc một kẻ buôn bán nô lệ, cốt để cho bạn đọc ghê tởm
căm ghét đối với cái tư tưởng đó chứ không phải là với con người. Hoặc là để
chính những hành động hơn là tính cách của hắn, dấy lên ở bạn đọc sự sợ
hãi và căm hờn, như là trường hợp một tên buôn lậu, một tướng lục lâm, một
gã ăn trộm ngựa hoặc một thủ lĩnh da đỏ. Tôi hoàn toàn chống đối lại kiểu mà
những nhân vật trong tiểu thuyết lại đáng kinh tởm ngay trong bản thân
chúng, cho dù đó là kẻ "phản bội" hoặc chỉ là vài thứ yếu, gây nên quá nhiều
ác cảm cho người đọc và làm cho họ hết sức khinh bỉ chúng. Luận điểm của
tôi là điều đó tạo nên một nếp quen đối với những khuyết điểm về lòng nhân
ái (điều thiện) một thói quen khinh rẻ đồng loại. Những tội lỗi phạm đến lòng
nhân ái là những tội lỗi thường gặp nhất, và là những tội lỗi mà chúng ta phải
ân hận nhiều nhất. Dĩ nhiên, một tiểu thuyết gia có quyền mô tả cho chúng ta
một người chẳng có lấy một chút "mặt tốt" nào, nhưng như thế là không đúng
và không tự nhiên, bởi vì ở mỗi con người, dù có xấu xa đến đâu, bao giờ
cũng có một chút gì được đánh giá. "Ai ở trên đời này cũng có một người nào
đó yêu mến", như một bài dân ca nói. Câu nói có vẽ vô lý nhưng đó là sự thật.
Những nhân vật trong truyện cho trẻ nhỏ không cần thiết cứ phải là những
điển hình mẫu mực, thực ra, cũng cần có lúc để họ phạm hội và bị trừng phạt
hoặc là hối hận và được hưởng sự khoan hồng, điều ta cần nên tránh là đừng
để cho nó xuất hiện quá hấp dẫn. Một chú bé có thể chịu nhận thột hình phạt
vì cái thú được chơi một trò đòi hỏi phải táo bạo. Nhưng chú bé sẽ ngần ngại
trước khi phạm vào một hành vi mà chú coi là thấp hèn và đáng khinh bỉ. Tóm
lại, cái đáng khinh bỉ, đó là cái tội dưới tất cả mọi dạng./.
SƠN CA trích dịch từ tiếng Pháp
(Tạp chí Văn Học số 5/1993)
16. VĂN HỌC CHO THIẾU NHI HÔM NHI HÔM NAY
Với bất cứ thể loại văn học nghệ thuật nào, bạn đọc, người nghe, người
xem, chất lượng và số lượng những đối tượng trên, là thước đo sức lực, tư
tưởng nghệ thuật đã vào được tâm hồn con người đến như thế nào. Văn học
cho thiếu nhi cũng như vậy. Và thêm đặc điểm của các lứa tuổi thơ, bạn đọc
nhạy cảm và phản ứng càng sôi nổi hoặc ỉu sìu diễn ra mau chóng, tức khắc.
Cũng như ở một cái chợ, quan sát và tìm hiểu kẻ mua người bán có thế
thấy được sinh hoạt xã hội và con người vùng ấy. Còn văn học, văn học cho
thiếu nhi, chỉ việc xem ngắm và suy nghĩ về bạn đọc ra vào một quán sách
một hiệu cho thuê sách - hình ảnh thu nhỏ một cuộc điều tra xã hội và tâm lý
bạn đọc từng thời kỳ.
Hiện nay, những tuần lễ đến kỳ phát hành tập tranh truyện mới
Đôrêmon là một hiện tượng. Trước cửa các sạp báo, các quán sách ở Hà Nội
và cả ở các thị xã thị trấn đông đảo người lớn và trẻ em xúm xít, chờ đợi, hỏi
han, và khi sách về ai cũng cố chen vào mua trước. Món ăn tinh thần này
đương là một đặc sản ngon lành đối với yêu cầu đòi có tác phẩm hay, lôi
cuốn và thích thú.
Nhưng đấy chỉ là hình ảnh tốt đẹp đối với một tập tranh truyện thôi. Mà
các bạn đọc lứa tuổi ngốn sách như ăn cơm lúc đương đói, thoáng một cái đã
hết veo. Một tập tranh truyện hay, dẫu cho tập tranh nhiều kỳ, ra cả năm mới
hết như những bộ phim dài trên vô tuyến truyền hình, thì cũng không thể thay
cho những tranh truyện, những sách hay cho lứa tuổi của hàng loạt những tác
phẩm và những tác giả xuất sắc. Đấy chỉ là quang cảnh người đọc hoan
nghênh một, mà một ấy trong giá trị văn học cũng chỉ là thành tựu một mình,
không bao giờ đại diện cho những cái khác. Mà phong trào cần nhiều, cần
hàng loạt tác phẩm cho đủ các lứa tuổi trẻ em.
Trong khi đó, phải ghi nhận sự cố gắng của các nhà xuất bản chuyên
hoặc có bộ phận chuyên xuất bản sách cho thiếu nhi như nhà Kim Đồng ở Hà
hội và nhà Trẻ ở thành phố Hồ Chí Minh. Thời gian vừa qua, các nhà xuất
bản này đã in mới hoặc in lại hành loạt tác phẩm phục vụ bạn đọc các lứa
tuổi.
Việc làm thật tốt đẹp, đáng khuyến khích. Làm sao cho từ đấy phát triển
thành một phong trào và xuất hiện những lực lượng của các tác giả viết cho
thiếu nhi. Đấy là việc sẽ làm, có thể có, còn như trước mắt hoạt động đó chỉ
có thể coi như là một nghĩa cử, hoặc nói theo lối cổ, một việc làm phúc cho
bạn đọc cũng như cho người viết. Bởi vì hàng loạt sách vừa in, cả văn xuôi và
thơ, phát hành toàn quốc mà quyển nào số lượng in cao nhất cũng không
vượt nổi ba nghìn. Có những nơi còn đáng ngán hơn, chỉ năm trăm, ba trăm
quyển. Dù in hàng nghìn cũng chỉ như muối bỏ bể, điều không vui ấy không
phải ý muốn của nhà xuất bản, mà vì người mua chỉ đến thế là vừa, quá nữa
thì ế. Mà sách văn nghệ hiện nay phải trôi nổi trong cơ chế thị trường, sách ra
phải có lãi, không được cho sách tồn kho. Cái việc làm phúc, cái nghĩa cử
trên nghe lại càng thương tâm nữa, khi nhà Kim Đồng tâm sự rằng: Sở dĩ in
được một số sách tốt vừa qua là nhờ vào tiền lãi bán sách tranh truyện
Đôrêmon!
Một hiện tượng khác thường là không phải vì thế sách in ít ỏi mà các
nhà cho thuê sách vắng khách. Sổ ghi khách thuê sách dầy cộm và người
thuê sách tấp nập đông nhất là thiếu nhi trong dịp hè này. Mở xem các sổ cho
thuê sách ấy thấy những gì. Các em thuê đọc toàn sách chưởng, những bộ
sách chưởng hàng chục quyển liên tiếp, qua tay nhiều người quá, bìa và góc
sách đã mòn nhẵn và nhờn mồ hôi. Những bộ kiếm hiệp kích động bạo lực cũ
của các tác giả Đài Loan, Hồng Kông. Và một thời gian, sách này không được
phép in lại thì người ta xoay xỏa bịp bợm, lợi dụng mặt tiêu cực của " cơ chế
thị trường" vẫn in cóp nguyên những sách bậy bạ ấy, chỉ đổi tên nhân vật và
địa điểm, trước là hiệp sĩ Thiên Hùng nay là hiệp sĩ Bồ Đề, nương nương Bảo
Thoa có tên khác là cô gái sông Chu, và đáng lẽ chuyện đại náo ở Sơn Đông,
ở Quý Châu thì nay các trận đấu võ, các ngón trưởng được thi thố ở vùng
rừng núi Cao Bằng, Lạng Sơn! Một mình nhà xuất bản tỉnh Nghĩa Bình trước
khi bị giải thể đã in tới 80 bộ sách chưởng, đủ thấy tốc độ làm ăn kiếm "cây
chỉ" của tư nhân và của các cơ quan nhà nước trượt dài đến như thế nào.
Cơ chế thị trường, sách là món ăn tinh thần, là hàng hóa đặc biệt có
định hướng, nhưng một khi không có chế độ quản lý và quy chế làm rõ cũng
như kiểm tra và thưởng phạt nghiêm minh thì đã bị người ta lợi dụng bóc đến
tận xương tuỷ chính sách như vậy. Cái hại trước mắt và lâu dài cho những
lứa tuổi thơ không thể lường hết được. Rất nhiều việc phải làm để chỉnh đốn
lại, mà việc làm trước tiên là làm sao tăng được sức mua, bảo trợ cho các
ngành các cấp và nhà trường mở lại thư viện, thiếu nhi có nơi mượn sách
đọc, thi đọc và hướng dẫn. Sự giải độc cho bạn đọc lứa tuổi thơ đòi hỏi cấp
bách ở công tác mở rộng được cái " đầu ra" quan trọng này.
Chúng ta đều thừa nhận một tác phẩm hay cho tuổi thơ cũng có nghĩa
là một quyển sách hay đối với bạn đọc mọi lứa tuổi. Một tác phẩm hay mà
thiếu nhi ham đọc, trong nước và trên thế giới đã cho chúng ta vô vàn những
nhận xét xác đáng trên.
Ở mỗi thời kỳ, mỗi tình hình lại đặt ra cho người cầm bút những vấn đề
mới. Vậy tình hình sáng tác cho thiếu nhi hiện nay ra sao và làm thế nào để
có nhiều tác phẩm, để ra đời được một cao trào sáng tác cho thiếu nhi trong
giai đoạn đất nước đổi mới hiện nay?
Nội dung một tác phẩm cho thiếu nhi bao giờ cũng quán triệt vấn đề
xây dựng đức tính con người. Nói thì thừa, cần nhắc lại và thật giản dị, một
tác phẩm chân chính có giá trị đối với lứa tuổi thơ là một tác phẩm tham dự
mạnh mẽ vào sự nghiệp nên người của bạn đọc ấy, nhờ tinh thần tác phẩm,
bạn đọc ấy sẽ là người tốt (chứ không bao giờ học theo sách lại thành đứa trẻ
hư, thằng ăn cắp). Xây dựng con người, ấy là đòi hỏi trước nhất với người
cầm bút cho thiếu nhi.
Nhưng sáng tạo ấn muôn màu muôn vẽ, đòi hỏi không bao giờ lặp lại,
luôn luôn mới nhất, chưa bao giờ có, dẫu cho chức năng giáo dục hầu như cố
định. Cái khó và sức hấp dẫn cũng như sự quyến rũ lao vào sáng tạo, như là
một đòi hỏi tự nhiên của người viết.
Riêng sáng tác cho thiếu nhi, vấn đề thể loại lại được đặt ra với yêu cầu
cao của sáng tạo liên quan tới nội dung. Nói cho cùng, đấy không chỉ do sáng
kiến của người viết, do thể thức qui định mà chủ yếu do đối tượng. Lứa tuổi
thơ có sức tưởng tượng không bờ bến, không biết đến đâu là cùng. Hỏi có
bạn đọc nhỏ nào để ý và quan tâm đến các nhân vật trong bộ nhân vật
Đôrêmon là người nước Nhật. Không, trong trí tưởng tượng của lứa tuổi ấy
thì trái đất không có biên giới và chia từng nước, và có những dân tộc khác
nhau. Cho nên, để đáp ứng cái nhìn cái nghĩ phong phú của bạn đọc lứa tuổi
này, tha hồ mọi thể loại tung hoành: Đồng thoại, huyền thoại, viễn tưởng, lạ
đến thế nào cũng chưa hết và nhân vật trong sáng tác là người, là con mèo,
con nai, cái ghế, quả phật thủ, áng mây, ông trăng, cái hình, cái bóng... Sức
cuốn hút của trí tưởng tượng tuổi thơ tiếu hóa được tất, luôn luôn thèm
thuồng là khác. Cho nên, cả sự tìm tòi hình thức sáng tác cho thích ứng và
thỏa mãn bạn đọc cũng là một ham muốn và cần thiết với người cầm bút. Biết
bao giờ và khi nào đạt tới, nhưng cái sự không bao giờ tới ấy lại không đem
lại sự nản trí, mà càng kích thích hơn nữa.
Mấy năm gần đây, vấn đề nội dung và đề tài trong sáng tác cho thiếu
nhi đương đặt ra những vấn đề mới rất thời sự - thời sự nhưng tinh thần lại
nằm trong ý nghĩa chiến lược cho sáng tác. Công cuộc đổi mới biểu hiện
trong đời sống và xã hội cũng đương đặt ra những vấn đề mới trong nội dung
sáng tác đề tài thiếu nhi ở mảng đề tài phản ánh đời sống con người và xã
hội được con mắt tuổi thơ. Và với lứa tuổi thiếu niên ở quãng sấp là thành
niên, còn biết bao vấn đề mới mẻ và bỡ ngỡ.
Trước đây, các vấn đề nội dung đi liền với đời sống trong đề tài thông
thường chúng ta quan niệm và thể hiện đơn giản và cho ứng đó là giáo dục
trực tiếp, có nghĩa là như là một bài học được tô vẽ theo một hướng. Do vậy,
những sáng tác biểu hiện đời sống xã hội đã không mấy được bạn đọc tuổi
thơ ham thích.
Thế nhưng, những vấn đề nêu trên, thời gian qua, nhiều tác giả đã có
những cố gắng và đổi mới. Các bạn không né tránh, các bạn đã bỏ được thói
quen giải thích hoặc che chắn trước khi vào các vấn đề hóc búa. Các tác giả
đã mạnh dạn đưa bạn đọc vào bao nhiêu phức tạp đời thường, đã giúp bạn
đọc tuổi trẻ nhìn nhận thế nào, quan niệm thế nào trước những khó khăn và
đau khổ đời người.
Tuy mới là bước đầu và gợi mở, nhưng thật sự văn học cho thiếu nhi
dương bước vào những vấn đề lớn trong sáng tác trước tình hình hiện nay.
Tin rằng rồi có được thành tựu lớn. Nhưng trong vấn đề sáng tác hiện nay -
Nói riêng trong sáng tác cho thiếu nhi, đòi rất nhiều khâu về tổ chức cụ thể
mới có thể biến chuyển được. Về hình thức, nhiều mặt khuyến khích sáng tác
cho thiếu nhi dương được thể hiện; trên toàn quốc có nhiều giải thưởng, tặng
thưởng; các báo mở nhiều cuộc thi và ở trung ương cũng như địa phương,
các trại các lớp sáng tác cho cây bút, cho thiếu nhi và cho các mầm non thiếu
nhi được mở. Việc làm tuy nhiều, nhưng không cơ bản. Tiếng vang thì có,
nhưng đầu tư vật chất và những hoạt động lâu dài có tính cách nền móng
chưa có. Chưa có một cơ quan chịu trách nhiệm một kế hoạch tổng thể về
vấn đề sáng tác cho thiếu nhi mà sự lo liệu từ A tới Z phải được toàn diện,
chu đáo, vừa cho trước mắt, vừa có tầm cỡ chiến lược.
Chỉ có làm được như vậy, phong trào và lực lượng sáng tác cho thiếu
nhi mới có thể có được nhiều sáng tác hay cung cấp cho bạn đọc những tác
phẩm giá trị đánh bại những quyển sách độc hại, xuất hiện những tác phẩm
cho thiếu nhi xứng đáng với giai đoạn đổi mới của văn học./.
(Tạp chí Văn Học số 5/1993)
17. VĂN HỌC THIẾU NHI TRONG TIẾN TRÌNH ĐỐI MỚIVŨ NGỌC BÌNH
Trong những năm 60 - 80, tôi đã viết một số bài trên báo chí đánh giá
tình hình văn học thiếu nhi ta và đã từng khẳng định: Văn học thiếu nhi Việt
Nam đã hình thành và phát triển trong một hoàn cảnh lịch sử hiếm có. Giữa
những năm miền Bắc bắt tay xây dựng hòa bình và miền Nam tiến hành đấu
tranh vũ trang giành thống nhất đất nước thì văn học thiếu nhi ta có những
bước phát triển mới ngay trong cao trào thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược
của cả nước. Nó đã dần gom tụ một cơ ngơi với đủ các bộ môn, thể loại văn
học: truyện, thơ, kịch, ký, tranh... bao trùm các chủ đề lớn về truyền thống lịch
sử, cách mạng, kháng chiến; về sinh hoạt gia đình xã hội, của trẻ em và
người lớn, trong học tập lao động, chiến đấu... làm nên một sắc thái phản ánh
mới của văn học: trước có đêm nay đã có ngày, trước có rừng rú trung du,
nay có cả thành thị, đồng bằng trù phú. Điều quan trọng hơn là có đã tập hợp
được một đội ngũ đông đảo với hàng trăm nhà văn và họa sĩ thuộc nhiều lứa
tuổi và ngành nghề mà hứng thú viết và vẽ vì trẻ em đã gắn bó họ chung một
lý tưởng ngỡ như cao xa mà đã trong tầm tay...
Một ngành văn học thiếu nhi độc lập - mà nòng cốt là Nhà xuất bản kim
Đồng - vừa có nền, cái diện lại vừa có một số điểm, số đỉnh mà tên của
người, của sách đã có âm vang không chỉ trong phạm vi nước ta mà bước
đầu mở cửa giao lưu với bè bạn bên ngoài.
Cuộc sống của văn học thiếu nhi trong nền kinh tế bao cấp ấy như "con
sông êm đềm" cứ lặng lẽ trôi!
Ai ngờ cuối những năm 80, bước vào đổi mới kinh tế, vào cơ chế thị
trường, một cục diện khác đã xảy ra thật lạ tai, lạ mắt. Nền nếp xuất bản bị
đảo tên bất ngờ. Lượng cuốn ào ạt tăng lên đồng thời lượng bản mỗi cuốn
đột ngột giảm xuống. Thể loại sáng tác cho trẻ em (truyện, đặc biệt là thơ) teo
tóp lại rồi đến tạm ngừng. Các sách dầy tạm nghỉ, chỉ loại sách mỏng với giá
tương đối rẻ còn tồn tại. Và thể loại dường như "độc tôn" là tranh truyện với
các đề tài: dân gian, cổ tích, phiêu lưu, mạo hiểm với đủ các kích cỡ to nhỏ
màu sắc sặc sỡ. Tủ sách Tây đến sách Tàu (lược dịch, lược kể) với những
tôn Ngộ Không, Thủy hử, Tam quốc chí, Đông Chu liệt quốc, Phong thần...
Nhìn vào quay sách mà ngợp con mắt bởi những tít sách nét vẽ, hình chụp,
lòe loẹt như con bướm, ngỡ lạc bước vào một thị trường sách... phồn vinh!
Sách tranh cứ thế tuôn ra "nơi nơi nhà nhà cùng in" đến độ lạm phát, bão
hòa; khác nào loại bánh kẹo hộp "thời thượng" đua nhau mà "sản", mà "xuất"
đặng nhồi nhét cho trẻ…
Bằng cách ấy, các nhà làm sách tự xoay sở để mưu sinh, kiếm sống
trong khi những người viết sách bị thả nổi, vật vờ theo dòng "thời giá". Chỉ
còn một đội ngũ cộng tác viên trên... danh sách! Số đông nghỉ viết hoặc xoay
ra các dịch VII tạm thời. Về lý luận phê bình cũng tiêu điều như cánh chợ
chiều. Đâu còn những tiểu luận công phu nhằm động viên cổ vũ phong trào
nhân các lễ tết và kỷ niệm tròn năm. Chỉ lác đác dăm bài điểm sách với lối
viết cũ của một vài tên tuổi không đủ sức nhen nhóm lại cái bếp lửa đã sắp lụi
tàn. Về sinh hoạt đội ngũ cũng nghỉ luôn những hội họp, gặp gỡ, hội thảo,
luận bàn, làm tẻ lạnh cái không khí khẳng trảng giữa hàng ngũ các cộng tác
viên.
May thay vào cuối năm 1992, một ngọn gió lành từ phương Bắc thổi về.
Đó là cuốn truyện tranh nhiều tập của tác giả Nhật Bản Fujiko Fujio ra mắt trẻ
em ta như một "hiện tượng" đột xuất. Một bộ sách lớn hàng trăm cuốn với nội
dung đề cập nhiều mặt sinh hoạt đời thường của trẻ em, nhằm giáo dục
những điều hay lẽ phải và ngăn ngừa những thói hư tật xấu, thông qua những
tình tiết truyện sinh động, kỳ thú và cách vẽ bình dị (đen trắng) mà lôi cuốn,
gợi mở,...
Được trẻ em cả nước đặc biệt hoan nghênh, Đôrêmon đã đạt kỷ lục về
in ấn, với lượng hàng trăm ngàn bản mỗi cuốn. Lợi nhuận do đó cũng khá và
được chi kịp đúng lúc, đúng việc. Một khoản tiền lớn đã được dành để in một
loạt sáng tác trong nước gồm nhiều thể loại - cả sách mới và tái bản như một
bước "phục sinh" cho phong trào một thời tạm lắng. Những cuộc vận động
sáng tác, những cuộc hội thảo lần lược được tổ chức, đem lại sinh khí cho
văn học thiếu nhi ta. Nhờ vậy, vị trí đầu đàn của sách Kim Đồng trong ngành
xuất bản cho trẻ em cả nước lại được sáng lập.
Tuy nhiên, ở bước ngoặc lịch sử này văn học thiếu nhi cần được quan
tâm và thực thi ra sao? Trước một đối tượng trẻ em ngày càng đóng đảo với
tăng dân trí được nâng cao hơn, qua các phương tiện thông tin đại chúng,
một đặc điểm dễ thấy là trẻ em ta đã thông minh, tinh nhạy hơn - có khi vượt
cả lứa tuổi thì văn học thiếu nhi nên có "khuôn mặt" như thế nào? Về mục
đích, có lẽ vẫn không ngoài việc hướng sáng tác vào "chân, thiện, mỹ" nhằm
đào luyện trẻ thành những con người mới giàu tiềm năng, tiềm lực cho tương
lai, mà một cái đích gần gũi là năm 2000. Những tình cảm lớn đẹp, trong sáng
xoay quanh một hiện thực cuộc sống đa dạng, phức tạp đến xô bồ ngỡ như
một nghịch lý, làm e dè cả ngòi bút có thiện tâm. Song nếu quan niệm văn
học thiếu nhi như một thiên đường xanh, một ốc đảo tách biệt với xã hội bao
quanh với những phải trái, tốt xấu đan xen đến khó nhận diện thì lại là cách
nghĩ ngây thơ, ảo tưởng.
Phải chăng vừa có thể viết về cuộc sống trực tiếp của trẻ với những
đam mê thường nhật: vui, chơi, học hành, làm lụng với bao hăm hở, hồn
nhiên… Lại vừa viết về cuộc sống gia đình và xã hội với lắm khúc mắc, trăn
trở, phiền toái của cảnh đua tranh làm giàu, xóa đói, giảm nghèo…Vậy thì
dùng lối viết khách quan lạnh lùng như kiểu dọn sẵn các món ăn cho trẻ tùy
sức tùy thích mà lựa chọn? Không hẳn thế. Nếu túi tiền giúp bố mẹ biết tìm
sách mà mua cho trẻ thì cái "túi khôn" từng trải sẽ mách bảo họ hướng cho
con em kết bạn "tinh thần". Ở đây sự chỉ dẫn của người lớn với tư cách anh,
chị, bố mẹ, thầy cô giáo là tự nhiên và cần thiết trong việc đọc sách để biết
mình, biết người và biết đời của trẻ.
Mặt khác, nếu trẻ có lỡ trớn, đọc "thái quá" thì luật đời sẽ bật đèn hiệu
chỉ ra cái màu, cái hướng mà trẻ nên dấn bước. Là con người, trẻ cũng có
khả năng "tự điều chỉnh", tự tạo sự cân bằng tâm thái bởi lẽ không phải lúc
nào trẻ cũng cần ta cầm tay dẫn dắt, kể cả lúc qua đường...
Trong thời đại cách mạng khoa học và công nghệ này, văn học thiếu
nhi phải luôn gắn bó với sự thật cuộc sống, với cuộc sống thật nơi trần thế.
Từ những sự thật giản đơn tai nghe mắt thấy đến những vấn đề tưởng như
khó nói: Về hạnh phúc của bố mẹ, vế bất hạnh của gia đình, về tình yêu và
giới tính, về cái sống và cái chết… Lẽ nào văn học lại làm ngơ trước trăm
ngàn câu hỏi "vì sao" của cái lứa tuổi đang khát khao hiểu biết để làm người?
Bởi lẽ, nói như nhà tâm lý học Gerard Severin: "Trẻ có quyền biết sự
thật. Sự thật giúp cho trẻ lớn lên".
Vậy thì cái "bi kịch - lạc quan" của văn học thiếu nhi trong bối cảnh nền
văn học chung còn lắm yếu tố bi - hài hài, vẫn cho phép ta lạc quan thà nhìn
vào hiện trạng và tương lai của đất nước trên tiến trình đổi mới với gương
mặt văn hóa - tinh thần giàu hứa hẹn, bởi niềm tin ở quy luật tuần hoàn, rằng
"bĩ rồi lại thái"./.
(Tạp chí Văn Học số 5/1993)
18. VĂN HỌC THIẾU NHI HÔM NAYVÂN THANH
Tôi rất xúc động khi đọc những lời tâm sự của một số nhà văn viết cho
thiếu nhi trong cuốn Nhà văn Việt Nam hiện đại vừa được ấn hành nhân kỷ
niệm 40 năm Hội Nhà văn Việt Nam vừa qua. Nhà thơ Võ Quang tâm sự:
"Viết cho thiếu nhi, đó là niềm vui, là lẽ sống của tôi trong những năm qua".
Nhà thơ Phạm Hổ: "Nếu được sống thêm một lần nữa, tôi vẫn chọn nghề cũ
làm thơ, viết văn cho các em đọc, còn vẽ tranh cho các em xem nữa". Nhà
văn Phong Thu: "Riêng với tôi trọn đời tôi đi vào đề tài trẻ em". Nhà văn
Nguyễn Thị Vân Anh: "Niềm say mê suốt hơn ba mươi năm qua là làm báo,
viết văn và hoạt động xã hội từ thiện cho thiếu nhi". Nhà thơ Hoàng Tá: "Tôi
phấn đấu suốt đời để có thể viết được một bài thơ hay cho các em". Lê Cảnh
Nhạc: "Nếu không có những đầu tư, trân trọng đối với tác phẩm viết cho thiếu
nhi, không coi các sáng tác cho thiếu nhi là báu vật của đời mình thì không
thể có những tác phẩm thành công, được các em yêu thích". Nhà văn Hà Ân,
người chuyên viết về đề tài lịch sử cho trẻ em và cả người lớn: "ở tiểu thuyết
lịch sử viết cho các em, cái tâm của người viết càng quan trọng - Đưa các em
về thời quá vãng của dân tộc, của cha ông ta, để các em yêu quí cha ông ta,
yêu quí dân tộc ta chẳng lẽ không phải là vấn đề quan trọng hay sao? " Nhà
văn Viết Linh - người viết truyện khoa học, cũng có cùng suy nghĩ và mơ ước:
"Học sử, công tác văn, lại làm vì mảng sách khoa học cho trẻ em nên buộc
phải học, đọc nhiều - Cuộc đời đầy rủi ro nhập qua những tác phẩm đã thể
hiện (truyện danh nhân, lịch sử, viễn tưởng, kịch bản)... luôn nuôi mơ ước:
đưa thế hệ trẻ vào thế giới khoa học nắm bắt được tương lai".
Tất cả những tên tuổi trên. điều đã góp phần quan trọng làm nên diện
mạo Và tạo nên giá trị cho văn học thiếu nhi trên 40 năm qua.
Tôi cũng xin phép mượn lời nhà văn Thy Ngọc để nêu một câu hỏi cho
hôm nay - những năm cuối thế kỷ XX: "Một tác phẩm cho thiếu nhi của thế kỷ
XXI như thế nào? ".
Câu hỏi đòi hỏi phải suy nghĩ đến nhiều khía cạnh, những khía cạnh
quan trọng nhất, theo tôi nghĩ phải là khía cạnh về vốn người, về vốn đội ngũ
những người viết cho thiếu nhi.
Theo tôi, sau một quá trình dài phát triển, với nhiều gương mặt, đến
hôm nay, văn học thiếu nhi đã có thêm các gương mặt mới, trong đó Nguyễn
Nhật Ánh là một gương mặt tiêu biểu - một hiện tượng khá độc đáo về một
nhà văn trẻ với số lượng sách lớn. Trong mười năm anh đã cố hơn 24 đầu
sách, và bộ Kính vạn hoa là một truyện dài với rất nhiều tập. Báo tuổi trẻ đã
gọi anh - gương mặt nghệ thuật trẻ tiêu biểu năm 1995. Còn nhà văn Văn
Hồng thì ca ngợi anh - cây bút được mến mộ nhất của tuổi học trò.
Những truyện của Nguyễn Nhật Ánh chỉ xoay quanh cuộc sống hàng
ngày của các em, mở rộng kiến thức cho các em bằng lời văn dí dỏm, đem
đến cho các em những tiếng cười sảng khoái, mà tiếng cười khỏi phải nói,
quan trọng đối với các em biết bao! Văn Hồng đã có những đánh giá đúng về
Kính vạn hoa: "Về nghệ thuật dẫn truyện tác giả giảm đến mức tối đa các yếu
tố vốn được coi là hiện đại; những trữ tình ngoại cảnh đối thoại nội tâm, hồi
ức, đồng hiện - Kính vạn hoa theo lối chương hồi - mỗi tập là một sự tích. Sự
hấp dẫn của Kính vạn hoa còn ở chất hài với nhiều cung bậc…"
Để phát triển thêm đội ngũ viết cho các em, đã khơi dậy cảm hứng của
những người sáng tác, để có những tác phẩm hay nhà xuất bản Kim Đồng Uỷ
ban bảo vệ chăm sóc trẻ em, Hội nhà văn Việt Nam và UNICEF Việt Nam
phối hợp tổ chức những cuộc thi sáng tác cho thiếu nhi.
- Cuộc vận động sáng tác truyện và tranh truyện cho thiếu nhi 1993 -
1995 do nhà xuất bản Kim Đồng tổ chức, phát động vào trung thu 1993 và kết
thúc vào Trung thu 1995.
- Cuộc thi truyện ngắn và thơ cho trẻ em do ủy ban Bảo vệ và chăm sóc
trẻ em phối hợp với Hội Nhà văn và tổ chức UNICEF Hà Nội tổ chức từ 19-5 -
1996 đến 30- 11 – 1996.
- Cuộc thi sáng tác truyện ngắn và thơ cho trẻ em 1996 – 1997.
Hầu như trong tất cả các cuộc thi trên, ở khắp mọi miền đất nước điều
có nhiều người tham gia với sự đa dạng của các thành phần. Thiếu tướng
Lâm Phương tuổi chăn 70 với truyện Những ngày không quên bên cạnh tác
giả tròn 12 tuổi em Trần Thế Phương với Xứ sở mộng mơ. Đặc biệt tác giả
Nguyễn Văn Diệu bị mù cả hai mắt, đã gửi tác phẩm bằng chữ nổi tham dự
cuộc thi bên cạnh tác giả Chu Tá Nô - thuộc Đoàn Dân Chính Đảng tỉnh Lai
Châu với lời tâm sự "Tôi mạo muội lấy mấy vần thơ vụng về của tôi làm tặng
con gái và những trẻ em Hà Nhì của tôi, mong góp tiếng nói của một người
phụ nữ dân tộc Hà Nhì tâm huyết với trẻ em".
Kết quả của những cuộc thi là có những tác phẩm hay được xuất bản
và có thêm những cây bút mới.
Những nhà văn như Hà Ân, Phong Thu, Lê Cận, Ngô Quân Miền, Viết
Linh, Lê Hồng Thiện, Trần Văn Tiến, Mai Văn Hai, Nguyễn Hoàng Sơn,
Dương Thuấn… vẫn đều đặn tham gia những cuộc thi viết cho các em, dẫu
có thể được vào giải hoặc có thể không. Họ đã viết với ý thức đóng góp sáng
tác của mình thúc đẩy phong trào và cũng để làm sáng giá của cuộc thi.
Góp phần giáo dục và làm phong phú tình cảm và trí tuệ của các em
sách cho thiếu nhi những năm gần đây, theo tôi, cũng đã có sự phát triển theo
hướng phong phú, đa dạng chứ không phải như một số ý mến cho rằng sách
viết cho các em chỉ toàn là tranh truyện.
Không phải ngẫu nhiên mà ông Lê Hoàng, Tổng biên tập Nhà xuất bản
Trẻ đã phát biểu: "Sách cho thiếu nhi tuổi mới lớn đáp ứng được sở thích hấp
dẫn và đủ để tin cậy đối với các em cũng được in nhiều. Sách văn học của
các nhà văn quen biết với các em cũng được in tới 5000 - 7000 bản. Đặc biệt
là sách của một số nhà văn không những in nhiều mà còn kéo dài nhiều tập
như sách của Nguyễn Nhật Ánh in tới 40 tập, sách của Nguyễn Mạnh Tuấn in
tới (10000) bản mỗi tập. Ở thành phố Hồ Chí Minh loại sách rẻ tiền, làng
nhàng, thị hiếu thấp đang mất dần chỗ đứng (Báo Văn nghệ, số 14. 6 - 4 -
1996).
Cuối năm 1995, Nhà xuất bản Kim Đồng cho ra đời Tủ sách vàng như
một sáng kiến có ý nghĩa.
Tủ sách vàng như một kho báu những tác phẩm xuất sắc trong và
ngoài nước đã được bao thế hệ thiếu nhi Việt Nam yêu mến.
Tủ Sách Vàng khẳng định một nhà văn với một tác phẩm ưu tú cũng có
thể sống mãi với thời gian.
Tủ sách vàng gồm những tác phẩm đã được tặng thưởng và những tác
phẩm được các em yêu thích qua thử thách của thời gian.
Tủ sách vàng gồm những cuốn sách có giá trị, in theo một cỡ giống
nhau, với màu sắc trang nhã đẹp mắt; các em có thể xếp gọn vào giá làm
thành một tủ sách bé nhỏ của mình
Hiện tượng cũng đặc biệt và đáng mừng là trong những năm 1995, một
loại tuyển tập được ra mắt bạn đọc như Tuyển tập Võ quảng (Nhà xuất bản
Đà Năng); Chuyện hoa, chuyện quả của Phạm Hổ (Nhà xuất bản Phụ nữ)
Tuyển tập truyện thiếu nhi của Xuân Quỳnh (Nhà xuất bản Phụ nữ), Trang
viết tuổi thơ của Thy Ngọc (Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh),
Văn học chó thiếu nhi (Nhà xuất bản Văn học), Thơ - Truyện chọn lọc (Nhà
xuất bản Văn học dân tộc, 1996), Nhạc đế (Nhà xuất bản Kim Đồng và ủy ban
bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam,1997). Điều đó khẳng định sự lớn mạnh
của văn học thiếu nhi Việt Nam. Những bộ tuyển như vậy vừa để khẳng định
lịch sử có bề dày của văn học. thiếu nhi Việt Nam, vừa tiếp tục xác nhận
những đóng góp riêng của mà nhà văn vào nền văn học thiếu nhi Việt Nam
hơn nửa thế kỷ phát triển đã có được không ít những chân dung - những
gương mặt tiêu biểu.
Bên cạnh các Tuyển tập, vẫn tiếp tục có những thiên tiểu thuyết gây
được sự chú ý của bạn đọc như Mái trường xưa của Viết Linh (Nhà xuất bản
Kim Đồng, 1992), Mầm đước của Trần Hoài Dương (Nhà xuất bản Trẻ, 1994),
Đồi sói hú của Nguyễn Quỳnh (Nhà xuất bản Kim Đồng, 1996), Chó Bi - đời
lưu lạc của Ma Văn Kháng (Nhà xuất bản Hà Nội, 1994), Đợi mặt trời của
Phạm Ngọc hiến (Nhà xuất bản Kim Đồng, 1996), Năm đêm của bé Su của
Nguyễn Thị Minh Ngọc (Nhà xuất bản Kim Đồng, 1996), Bỏ trốn của Phan Thị
Thanh Nhàn (Nhà xuất bản Kim Đồng, 1996)… Đây là những tiểu thuyết
hướng về cuộc sốn diễn ra quanh ta - những lo toan vui buồn, những phấn
khởi hoặc nghịch cảnh của đời thường. Trong Chó Bi đời lưu lạc có những
trang đầy đau khổ, oan khiên đè lên số phận của gia đình kỹ sư Thuần. Bỏ
trốn của Phan Thị Thanh Nhàn (giải A trong cuộc thi truyện ngắn và tranh
truyện 1993 - 1995) xoáy vào những oan ức, bất công trong cuộc sống riêng
của Thi một em gái mất mẹ và cha đi lấy vợ khác. Nếu không có tình thương
và sự cưu mang của một gia đình lao động nghèo, tốt bụng thì Thi sẽ không
tránh được những bất hạnh.
Cũng như vậy trong Hoa dại của Lê Phương Liên (Nhà xuất bản Kim
đồng, 1995) các nhân vật, mỗi người mỗi tâm trạng, điều ít nhiều tiêu biểu
cho lớp trí thức trẻ hôm nay, có băn khoăn, dằn vặt và cả đau khổ, nhưng
vượt lên tất của vẫn là lòng tin vào cuộc sống.
Cũng viết về sự bất hạnh của con người, có Lê Cảnh Nhạc - một nhà
văn trẻ, trong Mầm ác và hướng thiện (Nhà xuất bản Thanh niên, 1995). Cuốn
sách gồm nhiều bút ký xúc động về những em bé côi cút, biết cưỡng lại số
phận; bên cạnh các em không ít những người tốt lặng lẽ và khiêm nhường
giúp đỡ các em vươn lên. Mầm ác và hướng thiện- một thiên bút ký về người
thực việc thực, về tình người đằm thắm và nghị lực phi thường của con
người.
Những năm 90 là những năm lên ngôi của truyện ngắn viết cho các em.
Có nhiều truyện ngắn hay, phong phú về đề tài và đa dạng về cách thể hiện.
Truyện ngắn viết cho đủ mọi lứa tuổi làm nên diện mạo sống động của
văn học thiếu nhi hôm nay.
Hương đồng cỏ nội của Phạm Đức (Nhà xuất bản Kim Đồng, 1994 -
giải thưởng văn học thiếu nhi, 1994) có những đoạn văn ngắn giúp các em
quan sát cuộc sống xung quanh, và nâng cao lòng yêu mến thiên nhiên. Nổi
bật ở truyện ngắn vẫn là đề tài về sinh hoạt như trong Một cần câu của Trần
Thanh dịch (Nhà xuất bản Trẻ, 1993 - giải thường văn học thiếu nhi 1992 –
1993), Chú bé nhặt bông gạo của Ngô Quân Miện (Nhà xuất bản Kim Đồng,
1994), Nỗi oan của Đốm của Lê Cảnh Nhạc (Nhà xuất bản Kim Đồng, 1994).
Đấy là những truyện ngắn giản dị mà sâu sắc, nhiều chỗ thấm đượm triết lý,
không phải trong dạng của triết học mà trong dạng của đời thường. Giản dị
vốn không phải là nhu cầu riêng của trẻ em do tư duy còn đơn giản - giản dị
cũng là yêu cầu chung của người lớn. Nhưng có chỗ giống và chỗ khác. Chỗ
giống: khiến cho một sáng tác hay cho trẻ con, mọi người lớn đều đọc được.
Và chỗ khác: không phải bất cứ một sáng tác nào hay cho người lớn, trẻ con
cũng thích đọc
Trong truyện ngắn, nổỉ bật những cây bút nữ: Trần Thiên Hương với
Cỏ may ngày xưa (Nhà xuất bản Kim đồng, 1994), Võ Thị Xuân Hà với Cổ
tích cho tuổi học trò (Nhà xuất bản Kim Đồng,1994), Cù Thị Phương Dung với
Con gà quạ tha (Nhà xuất bản Kim Đồng, 1994) đã đem lại cho văn học thiếu
nhi sự tinh tế, sự tươi mát và trẻ trung.
Đáng chú ý là truyện của 4 nữ sinh viên đều được giải trong Cuộc vận
động sáng tác truyện và tranh truyện 1993 - 1995 của Nhà xuất bản Kim
Đồng. Đó là Hoàng Dạ Thi với Pêlê trắng, Lê Thị Thu Thủy với Quà của tuối,
Nguyễn Thị Châu Giang với Đám cưới sao, Tháng Giêng với Bức chân dung
không bán - các em vừa mới vào tuổi trưởng thành nên vẫn giữ được chất
hồn nhiên, trong sáng, nghịch ngợm và có sự thất thường trong buồn vui của
lứa tuổi.
Đề tài nông thôn chưa bao giờ vắng bóng trong văn học thiếu nhi. Về
thơ, nổi bật thơ của nhà thơ Hoàng Tá. Có thể nói thiên nhiên của một vùng
trung du đã đi vào thơ Hoàng Tá với bao nét gợi cám. Thơ anh giàu hình ảnh,
đậm tình người và chất thơ:
Chiều bên kênh mát xanh vờn
Lưng bê mát rượi từng cơn gió hè
Hai anh em sáo bay về
Ngồi chơi bên các lưng bê hiền lành
sáo em hì hì...kìa anh
Cái sân chơi của chúng mình biết đi.
Về văn có Đào Hữu Phương với hai tập truyện ngắn Thành hoàng quê
ngoại (Nhà xuất bản Kim Đồng, 1994) và Truyền thuyết trong mây (Nhà xuất
bản Kim Đồng, 1996) đưa các em về một vùng quê ven sông Chu còn nghèo
nàn và thiếu thốn Truyện Đào Hữu Phương đượm một nỗi buồn sâu sắc. Có
trang ứa nước mắt. Anh như muốn nhắc nhở các em: Cuộc sống quanh ta
còn biết bao đắng cay, nhưng có tình yêu và lòng nhân hậu, con người vẫn có
thể vượt lên.
Từ những năm 1990 lại đây, chúng ta đã có một số truyện viết về thiếu
như miền núi, về thơ miền núi, đề tài mà trong một thời gian khá dài là vắng
bóng. Truyện không còn sơ lược, nặng về kể lể như trước đây. Y Leng của
Đào Vũ (Nhà xuất bản Kim Đồng, 1992, in lần thứ hai, 1994) một thiên tiểu
thuyết dày dặn về một thiếu nữ người Khứa, mẹ mất sớm, sống với bố mẹ
nuôi, sau được công an biên phòng đem về dạy dỗ. Y Leng là nhân vật thiếu
nữ miền núi đầu tiên có một cá tính mạnh mẽ và được khắc hoạ rõ nét. Cô đã
trở thành thanh niên xung phong của đại đội thanh niên xung phong 761 trong
thời chiến tranh chống Mỹ ác liệt.
Cây nọi ước của Quách Liên (Nhà xuất bản Kim Đồng, 1995) khiến
người đọc yêu mến biết bao đời sống tâm hồn chất phác mà biết bao nghĩa
tình gắn bó với cách mạng, với chế độ của đồng bào vùng cao. Cách miêu tả
xen lẫn kể của Quách Liên đơn giản nhưng lại nhiều bất ngờ, ngộ nghĩnh mà
vui. Tác phẩm gần như giữ nguyên được vẻ hồn nhiên mộc mạc của đời
sống, trong troẻ, đằm thắm về tình người.
Nói đến sự trưởng thành và phát triển của đội ngũ viết cho thiếu nhi, ta
không thể không nhắc đến những nhà văn như Phùng Ngọc Hùng, Nguyễn
Quỳnh, Nguyễn Thị Vân Anh, Thi Ngọc, Định Hải, Lê Phương Liên, Lê Đình
Cánh, Lê Cảnh Nhạc, Nguyễn Quỳnh... những người luôn có ý thức bồi
dưỡng cho lớp trẻ như Phạm Hổ, Võ Quảng, Vũ Ngọc Bình, Hoàng Nguyên
Cát… và cả những ông giám đốc các nhà xuất bản như Nguyễn Thắng Vu, Lê
Hoàng, Hoàng Văn Bổn, là những người đã tạo điều kiện thuận lợi cho sáng
tác của những cây bút mới bước vào làng văn, và cả cho những nhà văn đã
trưởng thành.
Cuối cùng tôi muốn nói đôi điều về tranh truyện viết cho thiếu nhi.
Sau khi đất nước thống nhất và vào những năm 80 loại tranh truyện
theo kiểu liên hoàn của Trung Quốc rầm rộ phát triển. Tranh truyện Tâm Du là
lan tràn khắp nơi. Lác đác cũng có tranh truyện in và vẽ đẹp như Chuyện rùa
vàng của Vũ Tú Nam, Hồ Quảng (Nhà xuất bản Kim Đồng, 1986).
Tiếp đến, tranh truyện nhiều tập Đôrêmon được giới thiệu vào Việt Nam
làm say mê tuổi thơ; và cũng từ đó một loạt truyện tranh nhiều tập của nước
ngoài được đưa vào Việt Nam như Bảy viên ngọc rồng, Siêu quậy Tép-pi,
người máy siêu đẳng, thám tử lừng danh, Nhóc Marưkô, Tazan...
Có vẻ như sự "lạm phát" của tranh truyện khi trên các giá, các kíôt sách
thấy bầy đầy tranh truyện và các em hồ hởi đổ xô vào tranh truyện. Hiện
tượng đó qua có gây ít nhiều lo lắng cho một số phụ huynh: tranh truyện sẽ
làm các em lười sách đi? Điều đó đáng lo lắng hơn là sự xuất hiện loại tranh
truyện vẽ bôi bác, vẽ ẩu, nội dung nghèo nàn, câu cú sai ngữ pháp, in ấn lem
nhem, chữ li ti in trên giấy xấu… làm hư hóng không chỉ khiếu thẩm mỹ mà cả
tâm hồn các em.
Cũng phải thấy rằng những năm trước đây, do mục tiêu chạy theo kinh
doanh, có một số nhà xuất bản đã cho in ồ ạt nhiều tranh truyện với số lượng
lớn lấn át cả các loại hình khác. Chu Hồng Vân đã lên tiếng: "Hãy bớt chú ý
đến lợn nhuận, coi trọng hơn nữa đến trách nhiệm phục vụ các em".
Chúng tôi nghĩ đó là những lo lắng chính đáng và chúng ta cũng đã kịp
thời lưu tâm để ngăn chặn.
Từ lịch sử phát triển và những vấn đề đạt ra cho tranh truyện ở thời
điểm hôm nay, Nhà xuất bản Kim Đồng phát động cuộc Vận động sáng tác
truyện và tranh truyện cho thiếu nhi (1993-1995) với hy vọng sự có những
tranh truyện có giá trị của chính các tác giả Việt Nam. Và năm 1995 vừa qua,
lần đầu tiên, một số tranh truyện nhiều tập đã có thể ra mắt bạn đọc nhỏ tuổi.
Bị Bo và Kim Quy của hoạ sĩ trẻ Quang Toàn in tới 35000 bản; mỗi tập gồm
nhiều truyện; đã ra được nhiều tập các nhân vật Bi Bo và chú rùa Kim Quy có
tính tình cởi mở, tốt bụng. Bi Bo thì sống động còn rùa thì biến ảo, khi hư khi
thật… tiếp theo lá Mật lệnh mũi tên xanh của Đức Lâm, với cốt truyện là cuộc
điều tra một vụ khủng bố và tống tiền trong khung cảnh thành phố Hồ Chí
Mình hiện đại hoá vào năm 2020…
Trên các quầy sách báo thiếu nhi vào giữa những năm 90 lại thấy xuất
hiện lại các truyện tranh về cổ tích và truyền thuyết được tái bản như Tấm
Cám, Bánh chưng - Bánh giầy, cùng với một bộ truyện tranh mới, tiếp tục đề
tài truyền thuyết về ngọn nguồn dân tộc, Âu Cơ và Lạc Long Quân. Bên cạnh
tranh truyện Kpa - Klơng vào du kích được in lần thứ 3 là một số tranh truyện
về sinh hoạt đời thường cũng được các em đón nhận hào hứng: Tí và Tèo
của Đào Hải, Cái oai anh Chuột của Minh Hiếu, Trương Hiến...
Vậy là ở Việt Nam, tranh truyện cũng có một quá trình hơn nửa thế kỷ
hiện diện. Theo thời gian, khi đất nước chuẩn bị bước vào thế kỷ XXI, trên
các mối giao lưu với thế giới được mở rộng, thì, cũng như một loại hình sáng
tác khác, tranh truyện càng đứng trước nhu cầu bức xúc, càng phát triển.
Đối với các em ở lứa tuổi nhỏ, tranh truyện phải và có thể kết hợp trong
nó việc thoả mãn nhu cầu nhận thức, nhu cầu thông tin và nhu cầu giải trí.
Sự phát triển của tranh truyện ở Việt Nam cũng cần phải tham gia vào
sự phát triển chung của sự phát triển khu vực và thế giới. Tuy có muộn nhưng
nó vẫn đang có những cố gắng để không xa lạ với tình hình chung.
Vấn đề đặt ra cho sự phát triển của tranh truyện ở Việt Nam hôm nay,
theo tôi nghĩ, đó là sự khẩn thiết sớm hình thành những tác giả chuyên
nghiệp về tranh truyện. Để có đội ngũ đó, điều cần thiết trước kết là một ý
thức, một quan niệm sâu sắc về vai trò và đặc trưng của thể loại, và một tay
nghề cao. Những đòi hỏi như trên, theo tôi hiểu cũng chỉ mới đặt ra ở Việt
Nam trong ngót chuc năm gần đây.
Ở nhiều nước trên thế giới hiện nay có nhiều hoạ sĩ đồng thời là người
viết lời; nhưng ở Việt Nam, còn quá ít họa sĩ quen viết lời, cũng như càng ít
hơn nhà văn là hoạ sĩ, hoặc có cách nhận của người họa sĩ.
Họa sĩ Fujiki Fujio, tác giá Đôrêmon, trải 30 năm vẫn bền bỉ, chung thủy
sáng tác cho các em. Vừa là họa sĩ lại vừa là người viết truyện, ông kết hợp
được đến tối ưu sự hài hòa giữa tranh và truyện. Thành công của ông là nắm
chắc đối tượng: đối tượng miêu tả và đối tượng đọc của mình. Đáng tiếc ông
đã mất sau khi ở Việt Nam về năm 1996.
Trở lại tình hình viết và đọc truyện tranh của ngươi viết và vẽ Việt Nam,
tôi nghĩ vẫn cứ nên tiếp tục giới thiệu những tranh truyện hay của thế giới đến
từ Pháp, Mỹ, Nhật, Trung Quốc… để bổ sung vào vốn sách cho các em. Đồng
thời cần tạo điều kiện cho những người sáng tác Việt Nam được tiếp xúc với
tình hình chung về sách cho thiếu nhi của khu vực và thế giới, trong đó, theo
tôi biết đang có nhu cầu tăng vọt và những bước tiến bộ vượt bậc của loại
hình tranh truyện.
19. ĐÔI ĐIỀU VỀ SỰ KHỞI SẮC CỦA VĂN HỌC THIẾU NHI HÔM NAY
VÂN THANH
Từ những năm 90 trở lại đây, Văn học thiếu nhi đã khởi sắc sau một
thời gian lúng túng, bế tắc trong tình thế xóa bao cấp và trong cơ chế thị
trường.
Thật là vui và phấn chấn, nhất là đối với các lứa trẻ thơ khi lại được
thấy trên các giá, trong các quầy của các hàng sách hôm nay những tập thơ
truyện, những bộ tranh truyện viết cho thiếu nhi với bìa vẽ màu sắc sặc sỡ,
với tên tuổi của các nhà văn nổi tiếng, bên cạnh những cây bút trẻ đầy hứa
hẹn.
Không có gì đáng ngạc nhiên, cho đến nay dù đã ấn hành trên 50 tập
của bộ tranh truyện Đôrêmon của Fujikô F.Fujio, Đôrêmon vẫn đem lại sự
thích thú cho tuổi thơ. Điều đó khẳng định con đường đến và chiếm lĩnh thế
giới tâm hồn, trí tuệ và sự ham thích của thiếu nhi vẫn là con đường chung
của sáng tác ở bất cứ khu vực nào. Nó chứng tỏ sự tìm kiếm những cách viết
mới trên cơ sở các cốt truyện và chi tiết tâm lý, sự hóm hỉnh và thông minh
sức tưởng tượng bao giờ cũng là nhân tố cần được coi trọng trong sáng tác
cho thiếu nhi.
Bên cạnh bộ tranh truyện Đôrêmon, Nhà xuất bản Kim Đồng còn ấn
hành một số truyện hay được thiếu nhi thế giới ưa thích như những tập truyện
loại bỏ túi: Tứ quái TKKG của Stefan wolf. Truyện đầy chất mạo hiểm ly kỳ.
Truyện cũng làm nổi lên sự say mê hoạt động, sự dũng cảm và tinh thần
quyết tâm bảo vệ lẽ phải của lứa tuổi học trò.
Công viên khủng long kỷ Jura của Michael Crichton, một thiên truyện
mà báo Time đã đánh giá cao: " Bằng tài năng hiếm có Michael Crichton đã
sáng tạo ra "Công viên kỷ Jura" - một thiên truyện hoàn mỹ, ly kỳ và giật gân
nhất thời nay". Và báo Le Monde cũng khẳng định: đó là cuốn sách "bán chạy
nhất thế giới", "là loại truyện ly kỳ hoàn hảo". Cuốn sách nổi tiếng ấy đã được
giới thiệu với các lứa tuổi trẻ Việt Nam.
Sự xuất bản những loại sách trên cùng với loại cổ tích hay của thế giới
chứng tỏ sự năng nổ và biết cách làm ăn của một nhà xuất bản với đồng chí
giám đốc và đội ngũ biên tập viên cần cù và có khả năng luôn luôn tìm tòi mọi
hướng phát triển để có nhiều loại sách bổ ích và hay viết cho thiếu nhi.
Sách như một ô cửa sổ để các em nhìn ra thế giới bên ngoài.
Nhà xuất bản Kiêm Đồng cũng đã cho in lại một số tác phẩm xuất sắc
viết cho thiếu nhi trong hơn 30 năm qua. Điều đó trở thành một nguồn an ủi
và động viên rất lớn cho những cây bút tiêu biểu viết cho thiếu nhi, dường
như có phần thấm mệt và nản lòng qua mấy năm đất nước bước vào cơ chế
thị trường. Đáng chú ý là ở phía Nam, nhà xuất bản Trẻ, nhà xuất bản Đồng
Nai.v.v..
Cũng xuất bản sách cho thiếu nhi với các cây bút quen thuộc như: Võ
Hồng, Hoàng Văn Bổn, Cửu Thọ, Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Trí Công, Đặng
Hấn, Trương Nam Hương, Lý Lan…
Từ năm 1990 trở lại đây, bên cạnh Đất rừng phương Nam của Đoàn
Giỏi, Đội thiếu niên du kích Đình Bảng của Xuân Sách, các em ở lứa tuổi học
trò đã có nhiều sách mới, có giá trị về nội dung và nghệ thuật, ở đó người viết
không chỉ đơn thuần miêu tả cuộc sống trong chiến đấu mà còn đi sâu vào
nhiều khía cạnh khác của các em như học tập, lao động…
Mái trường xưa của Viết Linh (Nxb Kim Đồng, giải thưởng văn học
thiếu nhi năm 1992) dựng lại hình ảnh một thế hệ học sinh đầu tiên sau cách
mạng Tháng Tám thành công, bước vào những ngày đầu của cuộc kháng
chiến thống Pháp. Đây là lớp thiếu niên phải rời gia đình để vừa học vừa kiếm
sống, và trong đời sống xã hội các em sớm có ý thức và nghĩa vụ khi Tổ quốc
cần. Cả thiên truyện toát lên sự ấm áp của tình bạn, tình thầy trò và tình quân
dân.
Dũng trong Đồi sói hú của Nguyễn Quỳnh (Nxb. Kim Đồng; 1994) lại là
một học sinh sớm rời nhà trường làm liên lạc, luôn phải đối phó với những
tình huống khó khăn, phức tạp, vượt quá sức mình; nhưng chính qua đó, em
đã trưởng thành. Tác giả đặt em vào những hoàn cảnh khó khăn và những
mối quan hệ phức tạp để làm nổi bật tính cách thông minh, dũng cảm. Tình
cảm của Dũng với Hương Giang, với con sói lửa trong truyện có sức hấp dẫn
người đọc.
Những năm gần đây xuất hiện khá dồn dập một số truyện viết về thiếu
nhi miền núi cũng cho lứa tuổi học trò như: Giành lại cao nguyên của Lưu Văn
Khuê (Nxb. Kim Đồng, 1986; in lại lần thứ hai, 1994), Kỷ vật cuối cùng của Hà
Lâm Kỳ (Nxb. Kim Đồng, 1991 - tác giả người dân tộc Tày); Chú bé thổi khèn
của Quách Lưu (Nxb. Kim Đồng, giải thưởng văn học thiếu nhi 1991),Yleng
của Đào Vũ (Nxb. Kim Đồng, 1992, in lần thứ hai, 1994). Yleng trong truyện
cùng tên của Đào Vũ là một em bé người Khùa, mẹ mất sớm, sống với bố mẹ
nuôi, sau được công an biên phòng đem về dạy dỗ. Em đã trở thành thành
viên của đại đội thanh niên xung phong 761 trong thời kỳ chiến tranh chống
Mỹ ác liệt. Với thành công của Đào Vũ, Yleng là nhân vật thiếu nữ miền núi
đầu tiên có một cá tính mạnh mẽ, được miêu tả trong văn học thiếu nhi.
Khác với những truyện trên, đánh dấu sự trưởng thành của thiếu nhi
miền núi đi đến với cách mạng, Người làm mồi bẫy hổ của Vi Hồng (Nxb. Kim
Đồng, 1990, in lại lần thứ hai 1994, tác giả là người dân tộc Tày) lại đưa các
tìm về quá khứ đen tối của người dân Mường Cốc Nặm. Tên Tạo bản Xấn
Xáng đã dùng trẻ em để làm mồi bắt hổ. Chính sự đùm bọc lẫn nhau của
người dân Cốc Nặm đã cứu các em thoát khỏi hoạn nạn. Với giọng điệu riêng
Vi Hồng giúp các em hiểu thêm về cuộc sống tăm tối của xã hội miền núi hẻo
lánh trước kia.
Mảng văn xuôi viết về đề tài sinh hoạt có những thành công đáng kể.
Hình ảnh thiếu nhi đã có dáng nét khá đậm trong các truyện dài như Côi cút
giữa cảnh đời của Ma Văn Kháng (Nxb. Kim Đồng, 1988; in lại lần thứ hai,
1993; Giải thưởng "Văn học và tâm lý trẻ em, 1991), Tuổi thơ khát vọng của
Vũ Đức Nguyên (Nxb. Hà Nội, 1990; Nxb. Kim Đồng; in lại lần thứ hai, 1993;
Giải văn học thiếu nhi 1990 - 1991), Dũng Sài Gòn của Nguyễn Trí Công
(Nxb, Trẻ; Giải thưởng văn học thiếu nhi, 1992), Mầm đước của Trần Hoài
Dương (Nxb. Trẻ 1994)…
Tuổi thơ khát vọng mang dấu ấn nhiều kỷ niệm của tác giả, viết về khát
vọng được sống làm người, được tự mình nuôi nổi mình bằng chính bàn tay
mình của một thiếu niên tàn tật. Truyện đã truyền cho người đọc lòng khâm
phục nghị lực và sự bền bỉ vượt qua mọi bất hạnh của một em bé tật nguyền.
Chính tác giả, một nhà văn tàn tật mà chỉ trong khoảng 10 năm (1982 -1993)
đã xuất bản được 7 tiểu thuyết, cho ta hiểu thêm về ý chí và sức mạnh của
con người Việt Nam.
Côi cút giữa cảnh đời thu hút ngay người đọc sự thể hiện cuộc sống
thực đầy cay đắng và cũng không thiếu chất thơ diễn ra quanh ta. "Cuốn sách
mạnh mẽ đẩy ta vào giữa dòng sống hôm nay với cảm hứng lớn là cảm hứng
sự thật, với sự bất bình, và khát vọng bao trùm là khát vọng dân chủ, cũng
đồng thời cho ta một sự gắn nối với văn mạch truyền thống là chủ nghĩa nhân
văn và tình thương yêu con người" (Phong Lê). Cuốn sách "Thể hiện cuộc
sống như thột sự toàn vẹn". "Không một cuộc phiêu lưu, không một pha đuổi
bắt, như bất chỉ văn học đích thực nào. Ở đây cái hấp dẫn là do tính cách và
số phận những con người" (Văn Hồng). "Đọc Côi cút giữa cuộc đời, có trang
ứa nước mắt, có đoạn muốn gào lên" (Vũ Quẩn Phương)… Trên đây là một
số ý kiến của một số nhà phê bình đối với thiên truyện này.
Viết về sinh hoạt thiếu nhi ở miền Nam có Mầm đước của Trần Hoài
Dương. Đây là quyển truyện dài đầu tiên của tác giả sau một thời gian anh
ngừng viết. Khác với phong cách trước đây, hướng về phía trữ tình, ngòi bút
Trần Hoài Dương lần này lại rất hiện thực với những khắc hoạ nhân vật có
góc cạnh.
Truyện ngắn viết cho đủ mọi lứa tuổi làm nên diện mạo sống động của
văn học thiếu nhi hôm nay. Tập văn, với những đoạn văn ngắn giúp các em
quan sát cuộc sống xung quanh, yêu mến thiên nhiên, chim muông, cây cỏ,
hoa lá. Hương đồng cỏ nội của Phạm Đức (Nxb. Kim Đồng, 1994) - Giải
thưởng văn học 1994). Quả trời của Ngô Văn Phú (Nxb. Kim Đồng, 1994 …)
sống động biết bao hình ảnh mới mẻ và quen thuộc.
Có những thiên đồng thoại kết hợp một cách nhuận nhuyễn giữa hiện
thực, và hư cấu. Những con thú bị săn đuổi của nhiều tác giả (Nxb. Kim
Đồng, 1993), Hội mèo của Nguyễn Khắc Viện (Nxb. Kim Đồng, 1994), Mẹ gà
con vịt của Nguyễn Đình Quảng (Nxb. Kim Đồng, 1993), Câu chuyện buồn
nhỏ của Anh Chi (Nxb. Kim Đồng, in lại lần thứ hai,1994) đưa các em vào thế
giới hòa trộm giữa hư và thực.
Câu chuyện Buồm nhỏ là một thiên đồng thoại đẹp. Nhân vật chính là
chú mèo có cái tên rất dễ thương Buồm nhỏ, đã anh dũng săn chuột và bảo
vệ kho và các giẻ lau nòng súng cho các chiến sĩ ở Đảo Mê. Với lối kể chuyện
có duyên, người viết đã giới thiệu sinh động về thành tích không nhỏ của
Buồm nhỏ vào chiến thắng chung của chiến sĩ Đảo Mê.
Những tập truyện ngắn viết về sinh hoạt cho các em, rất đa dạng với
những cách viết khác nhau như Một cần câu của Trần Thanh Địch (Nxb. Trẻ,
l993; Giải thưởng văn học thiếu nhi 1992 - 1993), Chú bé nhặt bông gạo của
Ngô Quân Miện (Nxb. Kim Đồng, 1994; Giải thưởng văn học thiếu nhi 1994),
Nỗi oan của Đốm (Nxb. Kim Đồng, 1994), Rùa đá đi chơi của Vân Long (Nxb.
Kim Đồng, 1994). Đấy là những truyện ngắn viết nhẹ nhàng và trong sáng về
thế hệ thiếu nhi hôm nay với cuộc sống mới, với những nét mới in dấu ấn của
thời đại. Thành Hoàng quê ngoại của Đào Hữu Phương (Nxb. Kiêm Đồng,
1994; Giải thưởng văn học thiếu nhi 1994) lại là một tập truyện ngắn với âm
điệu buồn thắm đượm trong mỗi truyện làm người đọc càng thêm có ấn
tượng sâu và một vùng quê ven sông Chu một vùng quê còn nghèo nàn và
thiếu thốn. Tập truyện giúp các em hiểu thêm về cuộc sống hôm nay đâu phải
chỉ có ấm no và hạnh phúc.
Một số cây bút như Trần Thiên Hương với Cỏ mây ngày xưa (Nxb. Kim
Đồng, 1994), Võ Thị Xuân Hà với Cổ tích cho tuổi thọc trò, Hoàng Dạ Thi với
Pêlê trắng (Nxb. Kim Đồng, 1994) đã đem lại cho văn học thiếu nhi hôm nay
chất trẻ trung và tươi mát. Các chị không nghiêng về miêu tả nhân vật mà lại
khơi sâu vào các tâm trạng. Các chị đã nói lên được những suy nghĩ, những
ước mơ và cả những day dứt, những mâu thuẫn, những trăn trở của lớp
người mới bước vào tuổi trưởng thành. Với chút bâng khuâng, và chút giận
hờn, với sự mơ màng, với những buồn vui bất thường và vô cớ, với ước mơ
và khát vọng cháy bỏng, với tình yêu e ấp ban đầu, các nhân vật của nhưng
thiên truyện trên đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng khó quên.
Nếu văn xuôi đã ghi nhận được nhiều thành tựu như đã kể trên thì ở thơ,
ngoài Nụ hôn học trò của Định Hải (Nxb. Kim Đồng 1992) còn quá ít tập thơ
viết cho lứa tuổi vào đời. Mà chính ở lứa tuổi này, các em lại rất thích đọc thơ,
chép thơ, thuộc thơ. Các em thường qua thơ để nói hộ lòng mình. Mới chỉ có
những bài thơ viết cho lứa tuổi này đăng rải rác trên các báo Hoa học trò, báo
ruổi Xanh. Và điều đáng suy nghĩ là thơ của các em viết thường buồn nhiều
hơn là vui.
Các nhà thơ thường chỉ viết cho lứa tuổi nhỏ hoặc là lứa tuổi thiếu niên.
Nhà thơ Phạm Hổ vẫn là cây bút viết sung sức. Tập Đỗ trắng, đỗ đen của anh
(Nxb. Kim Đồng, 1991) là một tập thơ hay nhuần nhị trọng ý hướng giáo dục
và giá trị thẩm mỹ.
Từ những năm 90 lại đây thơ viết cho các em thật sôi nổi. Trong đó nổi
lên những tác giả sớm có phong cách riêng như Nguyễn Hoàng Sơn với Dắt
mùa thu vào phố (Nxb. Kim Đồng, 1992. Giải thưởng văn học thiếu nhi 1993),
Bờ ve ran của Mai Văn Hai (Nxb. Kim Đồng, 1990. Giải thưởng văn học thiếu
nhi 1992), Cưỡi ngựa đi săn của Dương Thuần (Nxb. Kim Đồng, 1990. Giải
thưởng văn học thiếu nhi 1992), May áo cho mèo của Phùng Ngọc Hùng
(Nxb. Kim Đồng, l991), Cái sân chơi biết đi của Hoàng Tá (Nxb. Kim Đồng,
1994, Giải thưởng văn học thiếu nhi 1994), Trứng treo trứng nằm của Lê
Hồng thiện (Nxb. Văn học nghệ thuật Hải Hưng, 1994)…Các nhà thơ trên đã
làm sống động hẳn vùng thơ cho các em.
Phải khẳng định rằng trong sự phát triển của văn học thiếu nhi, Hội
đồng văn học thiếu nhi của Hội nhà văn đã có công đóng góp không nhỏ. Với
sự tài trợ của Nhà xuất bản Kim Đồng, Ủy ban bảo vệ và chăm sóc thiếu nhi,
Hội đồng văn học thiếu nhi đã có thể tổ chức nhiều hội thảo, nhiều trại viết,
nhiều cuộc thi viết cho các em.
Từ các hoạt động trên đã xuất hiện một số cây bút trẻ làm đông thêm
và mạnh thêm đội ngũ viết cho các em.
Bên cạnh lớp người viết đông đảo trên lại có thêm một số cây bút đến
gần cuối đời mình mới dành tâm lực viết cho các em như bác sĩ Nguyễn Khắc
Viện trong những đồng thoại với vẻ đẹp giản dị và đầy trí tuệ. Có những nhà
văn vì lý do này nọ dừng viết trong một khoảng thời gian khá dài nay lại viết
trở lại với sự sung sức hiếm có như Đặng Minh Lương với Lâu đài dưới nước
(Nxb. Kim đồng, 1993. Giải thưởng văn học thiếu nhi 1994), Trần Hoài Dương
với Mầm đước...
Tất cả các hiện tượng trên - theo tôi báo hiệu một chặng đường phát
triển mới của nền văn học cho các em của chúng ta.
(Tạp chí Văn Học số 6/1995)
20. HƯỚNG DẪN THỊ HIẾU LÀNH MẠNH ĐÚNG ĐẮN CHO CÁC EM TRONG VIỆC THƯỞNG THỨC VĂN HỌC
HÀ ÂN
Đã là kinh tế thị trường thị hiếu bạn đọc là vua phải chiều vua! Nhá xuất
bản hoạch toán lỗ lãi, muốn có lãi, muốn nuôi được cán bộ, nhân viên thì phải
đua nhau làm loại sách bạn đọc đang thích. Cho nên có dạo trên thị trường
sách nhan nhản các loại truyện trinh thám, chưởng, tình ái ướt át dầm dề.
Cho nên ở các nhà xuất bản, sách cho thiếu nhi không in được sách
cần cho thiếu nhi, mà phải lo làm sao tìm được loại sách gì in cho các em mà
có lãi để còn nuôi nhau.
Thế nhưng các em không phải là bạn đọc có thị hiếu gì là ta phải chiều
thêm thị hiếu đó. Các em là thiếu nhi chưa đủ 18 tuổi, là tương lai mà chúng
ta phải chăm sóc, cầm tay dẫn dắt, cho tới khi nào các em vững vàng, đủ tư
cách làm người lớn. Trong lĩnh vực thưởng thức văn học nghệ thuật, chúng ta
cần hướng dẫn thị hiếu lành mạnh, nâng cao trình độ thẩm mỹ cho các em.
Cho nên trong việc giáo dục các em bằng chính sách báo, ta mới cần
có loại sách này, loại sách kia và đặc biệt là các loại sách các em cần có, phải
đọc.
Tôi viết truyện lịch sử, loại sách không phải là không hấp dẫn. Tôi là
người viết cũng khỏe, nhưng từ 5 năm nay tôi viết báo, và viết những sáng
tác rất ngắn, truyện tranh v.v… vì có viết những bản thảo dày dặn mất công
hàng năm trời thì cũng chưa chắc đã được in, mà có in thì nhuận bút được trả
cũng không xứng với công lao bỏ ra. Cho nên tốt nhất là viết báo, 10 bài báo
bằng nhuận bút một cuốn sách. Tôi có để ý một số anh em viết cho các em
cũng tâm trạng như tôi. Cho nên muốn trở lại được niềm hưng phấn của
người viết, phải có nơi in, và nên có giải thưởng cho một số loại sách.
Có nghĩa là:
1- Có khoản bù giá cho một số loại sách cần cho các em, như thế nhà
xuất bản mới mạnh dạn in và nhà văn yên tâm viết.
2 - Đặt giải thưởng cho một số loại cần công sức đầu tư nhiều như tiểu
thuyết tập thơ…
3 - Định mức số lượng các loại sách, nhất là các loại nên có nhưng
không cần quá nhiều như tranh truyện, Tam Quốc, Tây Du.
(Tạp chí Văn Học số 5/1993)
21. CẦN CÓ NHIỀU SÁCH HAY CHO TRẺ EM ĐỂ ĐÁNH BẠT CÁC LOẠI SÁCH THƯƠNG MẠI ĐANG LÀM VẨN ĐỤC TÂM HỒN TRẺ EM
LÊ PHƯƠNG LIÊN
Là một người viết cho thiếu nhi, tôi thực sự băn khoăn rằng mình sẽ
tiếp tục viết như thế nào đây? Phải chăng sách văn học giờ đây không vào
được lớp bạn đọc nhỏ tuổi, sách đã chậm chạp, lạc hậu với đời sống của các
em, sách nói những câu chuyện các em không hiểu và không quan tâm. Là
một người viết về đề tài nhà trường và sinh hoạt của các em thiếu nhi gắn với
nhà trường, hơn mười năm nay tôi hầu như không viết được quyển sách nào.
Tôi có thể quên điều đó nhưng bạn đọc đã không quên. Tôi luôn bị chạm trán
với các câu hỏi:"Thế nào? Dạo này Liên viết cái gì? Có in được quyển sách
nào không? "
Là một cán bộ biên tập sách tranh, tôi thật sự không thất nghiệp, việc
làm sách tranh và sự phát triển của sách tranh đang là vấn đề chúng ta phải
quan tâm chú ý. Tuy nhiên, còn những điều nhức nhối, những đòi hỏi của lớp
tuổi 14,15, lớp tuổi không thể chỉ thỏa mãn với Hoa Học trò, Mực tím, áo
trắng... nhà các em cần sách nói đến tâm tư tình cảm của các em sâu sắc
hơn. Nếu không có sách hay cho lứa tuổi này thì tất nhiên các em sẽ đọc
sách "thương mại" với thị hiếu tầm thường và rẻ tiền đang bày bán nhan nhản
trên các quầy sách, sạp sách.
Tôi thấy rằng, ngày nay các bậc cha mẹ đã quan tâm đến con cái rất
nhiều. chăm chút cho con rất nhiều, chi phí học tập, ăn mặc, ở, đi lại cho con
cái càng ngày càng theo kịp các tiện nghi hiện đại. Một bé ra đời hôm nay
không những được chụp ảnh màu những cảnh biết lẫy, biết bò… mà những
gia đình có điều kiện, còn được quay video cả một băng đầy đủ những động
tác ngây thơ... ấy thế nhưng một tủ sách văn học cho trẻ em trong nhà, tôi lại
thấy rất ít gia đình có. Việc này không chỉ trách người mua (khách hàng) mà
có lẽ trước hết trách nơi "sản xuất" chưa làm được những cuốn sách khiến
khách hàng hài lòng ưa thích, lôi cuốn được họ.
Các nhà làm sách cho thiếu nhi nên lưu ý rằng lứa tuổi 14,15,16 đang
rất cần được quan tâm để có sách hay. Đấy là lứa tuổi giao thời đầy biến
động; Còn lứa tuổi nhỏ hơn thì đã có sách tranh, truyện cổ tích để đọc.
Những năm tháng trước đây, thế hệ các nhà văn Tô loài, Phạm Hổ, Võ
Quảng, Xuân Quỳnh, Định Hải đã thành công khi viết cho lứa tuổi thiếu nhi,
nhi đồng và thiếu niên nhỏ.
Ngày nay lớp tuổi Hoa Học trò đang cần những tác phẩm văn học
mang một màu sắc thẩm mỹ mới, một cách thể hiện tâm tư tình cảm theo kiểu
mới, phù hợp với thế hệ trẻ hiện đại.
(Tạp chí Văn Học số 5/1 993)
22. CẦN ĐẦU TƯ THÍCH ĐÁNG CHO CÁC NHÀ VĂN ĐỂ HỌ CÓ NHỮNG TÁC PHẨM HAY CHO CÁC EM
NGUYỄN ĐỨC MẬU
Mấy năm gần đây, mảng sách hay viết cho trẻ em ngày một thưa dần,
và có những loại sách tạp nham khác tăng lên theo chiều hướng đáng lo ngại.
Những cuốn sách các em cần đọc thì hiếm và những cuốn sách chạy theo thị
hiếu thấp kém thì nhiều. Các nhà viết sách (tôi không nói là nhà văn) đã tung
ra những cuốn sách đánh vào thị hiếu bản năng của con trẻ, để miễn sao cho
sách bán được nhiều, thu nhập được khá. Trẻ em ở nước mình đông và với
những người viết sách, làm sách, trẻ em cũng là loại khách hàng đáng kể. Ở
hiệu sách, giữa các loại sách ngổn ngang bầy bán, các bậc cha mẹ băn
khoăn không biết nên chọ mua cuốn nào cho con em mình. Mảng sách vô bổ,
tai hại tràn ngập che lấp những cuốn sách có ích. Thì ra cũng như mảng sách
người lớn, mảng sách của các em cũng bị cuốn theo cơ chế thị trường.
Mảng sách viết cho các em thiếu, buộc các em phải tìm đọc những
cuốn sách chưởng, sách tình. Thật đáng buồn khi thấy các cháu gái mới
mười ba, mười bốn tuổi đã cập kè trên tay những cuốn sách nói về cuộc tình
cay đắng, oan trái và các cháu trai tuổi còn chơi khăng, chơi đáo đã rủ nhau
ra hiệu sách để sản tìm thuê mua bằng được những cuốn sách giang hồ, thù
hận. Lẽ nào, loại sách ấy lại trở thành món ăn tinh thần thường nhật của các
em? một khi tâm hồn của các em bị huỷ hoại, ai biết sự tác động ấy sẽ dẫn
đến đâu, sẽ xảy ra điều gì. Ai tính được nguyên nhân và hậu quả của những
vụ hành hung, cướp giật xảy ra ở lứa tuổi mới bước vào đời hiện nay, có bao
nhiêu phần trăm do những cuốn sách đen gieo mầm, đồng lõa?
Làm thế nào để có những cuốn sách hay cho các em đọc và ngăn ngừa
những loại sách tai hại? Câu hỏi tưởng như đơn giản nhưng không dễ trả lời.
Trong cơ chế thị trường hiện nay, các nhà xuất bản gặp không ít khó khăn và
các nhà văn thì không ai có thể sống được bằng công việc viết sách. Riêng
những nhà văn chuyên tâm viết cho các em đời sống còn gay go hơn vì viết
cho các em đã khó, việc in ấn còn khó khăn hơn. Không ít nhà xuất bản lấy
tiêu chuẩn bán chạy sách làm đầu. Vậy, chả lẽ những nhà văn cũng lại phải
chạy theo thị hiếu tầm thường để làm hại tâm hồn trẻ thơ?
Các nhà xuất bản vẫn gặp khó khăn, các nhà viết cho thiếu nhi không
được đầu tư thích đáng, hẳn khó có được những tác phẩm hay xứng đáng
với niềm hy vọng của bạn đọc nhỏ tuổi. Vậy nên chăng, cần có sự đầu tư và
bù lỗ cho mảnh sách viết về đề tài này? Đầu tư thích hợp cho những tác giả
tâm huyết và kịp thời chặn đứng những loại sách tạp nham bừa bãi trên thị
trường. Thiết nghĩ các em nhỏ rất cần sách đọc nhưng không phải là bất cứ
loại sách nào. Đừng để cho tâm hồn trong trắng của em bị vẩn đục vì những
trang sách yếu kém, độc hại.
(Tạp chí Văn Học số 5/1993)
MỤC LỤC1. Văn học và tâm hồn trẻ thơ
2. Đi tìm đặc trưng của văn học cho thiếu nhi
3. Ngôn ngữ và thơ một đề tài mênh mông
4. Những bí quyết làm thơ hay cho trẻ
5. Làm thơ cho thiếu nhi
6. Thêm mấy suy nghĩ về việc làm thơ cho nhi đồng
7. Bàn về câu chuyện làm thơ cho thiếu nhi
8. Đặt vấn đề so sánh thi pháp đồng giao với thi pháp thơ cho thiếu nhi
9. Thơ cho thiếu nhi hôm qua và hôm nay
10. Xuân Quỳnh với thơ cho thiếu nhi
11. Làm sao có thể bơi ngược về cái dòng sông thơ ấu
12. Kể chuyện đối với trẻ em ở lứa tuổi măng non
13. Truyện cổ tích với trẻ em
14. Truyện đồng thoại với giáo dục Mẫu giáo
15. Truyện cho trẻ em
16. Văn học cho thiếu nhi hôm nay
17. Văn học thiếu nhi trong tiến trình đổi mới
18. Văn học thiếu nhi hôm nay
19. Đôi điều về sự khởi sắc của văn học thiếu nhi hôm nay
20. Hướng dẫn thị hiếu lành mạnh đúng đắn cho các em trong việc
thưởng thức văn học
21. Cần có nhiều sách hay cho trẻ em để đánh bại các loại sách
thương mại đang làm vẩn đục tâm hồn trẻ thơ
22. Cần đầu tư thích đáng cho các nhà văn để họ có những tác phẩm
hay cho các em
---//---
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM MẪU GIÁO TW3
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
NHỮNG BÀI VIẾT VỀ VĂN HỌC DÀNH CHO TRẺ THƠ
Sưu tầm và giới thiệu
NGÔ THỊ THÁI SƠN
TP.HCM 2004