những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

49
Báo cáo Những giá trị của Nho giáo và ảnh hưởng nho giáo trong đời

Upload: phan-nghia-minh

Post on 15-Jan-2016

26 views

Category:

Documents


0 download

DESCRIPTION

Nho giáo

TRANSCRIPT

Page 1: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

Báo cáo

Những giá trị của

Nho giáo và ảnh hưởng

nho giáo trong đời

sống văn hóa xã hội

Page 2: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

MỤC LỤC

Trang

Lời mở đầu .................................................................................... 1

Chương 1 Sự du nhập, hình thành và phát triển của Nho giáo . ............................. 5

Chương 2 Những ảnh hưởng của Nho giáo đến đời sống vãn hóa xã hội ở Việt Nam hiện

nay……………………………………………………………………….…….8

I/ Đối với kinh tế……………………………………………………..8

1/ Những mặt tích cực.

2/ Những tiêu cực

II/ Đối với đạo đức……………………………………………………...14 1/ Những mặt tích cực.

2/ Những tiêu cựcIII/ Đối với gia đình và giáo dục……………………………………….191/ Đối với gia đình

1.1/ Những mặt tích cực.

1.2/ Những tiêu cực 2/ Đối với giáo dục

2.1/ Những mặt tích cực.

2.2/ Những tiêu cực Kết luân. ……………………………………………………………...31Tài liệu tham khảo………………………………………………………..32

LỜI MỞ ĐẦU

Page 3: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

1/ Lý do chọn đề tàiNho giáo hình thành ở Trung Quốc và du nhập vào Việt Nam cách đây hàng

ngàn năm. Từ khi hình thành chế độ phong kiến Việt Nam, đặc biệt từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX, các triều đại phong kiến Việt Nam đều sử dụng Nho giáo với tư cách là hệ tư tưởng và là công cụ để trị nước và quản lý xã hội. Với tư cách là một trong những hình thái ý thức xã hội, Nho giáo đã ảnh hưởng đến nhiều mặt nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và con người Việt Nam, là một trong những yếu tố góp phần hình thành và tác động sâu sắc đến văn hóa truyền thống Việt Nam.

Ngày nay, nhân loại đang bước vào nền văn minh công nghiệp với những biến đổi sâu sắc, xu thế toàn cầu hóa ngày càng mở rộng, .... Nước ta đang tiến hành xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của nhà nước. Ở nước ta hiện nay, tuy cơ sở kinh tế - xã hội của Nho giáo về cơ bản không còn tồn tại, nhưng Nho giáo không phải đã mất đi, mà nó còn tồn tại dai dẳng, lâu dài và tác động tích cực và cả tiêu cực đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và con người Việt Nam. Vì vậy, vấn đề có ý nghĩa lí luận và thực tiễn cấp thiết là, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đưa nước ta trở thành một nước “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thì không thể không giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa xã hội truyền thống và xã hội hiện đại, giữa con người truyền thống và con người hiện đại Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Muốn vậy thì trước hết cần phải có một cái nhìn khách quan, toàn diện và đúng đắn về Nho giáo để từ đó mà hiểu đúng về Nho giáo.Trong học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo, quan niệm về xã hội không chỉ là một trong những nội dung cơ bản nhất mà còn là sự biểu hiện tập trung nhất, sâu sắc nhất trong học thuyết này. Từ trước đến nay, trong nghiên cứu về Nho giáo nói chung và các giá trị của Nho giáo về đời sống xã hội nói riêng vẫn chưa đi đến thống nhất, mà còn có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái chiều nhau. Ngoài ra do các giá trị về đời sống xã hội của các nhà Nho được trình bày đan xen với nhiều nội dung khác, cho nên trong những nghiên cứu này, nội dung của quan niệm ấy chưa được nghiên cứu và trình bày một cách có hệ thống. Vì vậy theo tôi, nghiên cứu những giá trị của Nho giáo về đời sống văn hóa xã hội trong điều kiện hiện nay không chỉ đơn thuần là để hiểu biết thêm về Nho giáo mà điều quan trọng là có cái nhìn đúng về Nho giáo; không chỉ dừng lại ở việc chỉ ra những hạn chế của nó mà còn vạch ra để tiếp thu, phát triển và vận dụng những giá trị tích cực của Nho giáo trong việc thực hiện những nhiệm vụ và mục đích của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặt khác, dưới góc độ tiếp cận triết học, sự cần thiết phải nghiên cứu những giá trị của Nho giáo về đời sống văn hóa xã hội một cách có hệ thống và trên cơ sở đó mà chỉ ra và phân tích những giá trị của Nho giáo.

Xuất phát từ những vấn đề trên cần phải tiếp tục nghiên cứu những nội dung cơ bản cùng những giá trị và hạn chế trong quan niệm của Nho giáo trong đời sống văn hóa xã hội trong chuyên đề này. Vì vậy, tôi lựa chọn vấn đề: “ Những giá trị của Nho giáo và ảnh hưởng nho giáo trong đời sống văn hóa xã hội ” làm chuyên đề nghiên cứu với hy vọng làm sáng tỏ thêm những giá trị của nho giáo cũng như phát huy những mặt tích cực và loại bỏ những mặt hạn chế của Nho giáo

Page 4: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

trong đời sống văn hóa xã hội, qua đó có thể rút ra một số ý nghĩa của nó trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.

Nho giáo đã du nhập và phát triển ở Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử, nó đã trở thành hệ tư tưởng của giai cấp thống trị Việt Nam, là công cụ quan trọng trong việc cai trị, quản lý xã hội của nhiểu triều đại phong kiến Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu các giá trị của Nho giáo và những ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam là một vấn đề thu hút nhiều người quan tâm. Từ trước cho đến nay, việc nghiên cứu Nho giáo nói chung và các giá trị của Nho giáo trong đời sống văn hóa xã hội qua các giai đoạn. Nghiên cứu Nho giáo là để hiểu đúng về Nho giáo, thấy được những giá trị tích cực và những hạn chế tiêu cực của Nho giáo và nhất là vai trò, ảnh hưởng của nó đối với xã hội và con người Việt Nam. Hướng nghiên cứu này thu hút được nhiều người quan tâm và được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này là các công trình nghiên cứu của Phan Bội Châu, Trần Trọng Kim, Nguyễn Đăng Thục, Đào Duy Anh, Quang Đạm, Vũ Khiêu, Trần Văn Giàu, Phan Ngọc, Nguyễn Tài Thư, Lê Sỹ Thắng Trần Đình Hượu, Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn, Trần Ngọc Vương, Vũ Minh Tâm, Lê Văn Quán, Trần Nguyên Việt,…v.v.Trong các công trình nghiên cứu này, trước hết phải kể đến các công trình nghiên cứu của Phan Bội Châu, Trần Trọng Kim,..v.v. Các ông nghiên cứu Nho giáo qua lăng kính của nhà nho và với sự tôn sùng Nho giáo, cho nên họ đều nhìn thấy Nho giáo không chỉ là một học thuyết chính trị - xã hội mà còn là học thuyết đạo đức học, học thuyết triết học. Các ông đặc biệt đề cao vai trò của Nho giáo trong xây dựng và đạo đức của con người và xã hội; coi việc tu thân là cái gốc của tề gia trị quốc, bình thiên hạ…v.v. Sau khi chủ nghĩa Mác – Lênin được truyền bá vào Việt Nam, sự tiếp cận Nho giáo được nghiên cứu dưới lăng kính mới, với một thái độ khách quan, khoa học và biện chứng. Các công trình nghiên cứu của các tác giả này đã phân tích một cách khá toàn diện và sâu sắc tư tưởng Nho giáo. Chẳng hạn trong Nho giáo xưa và nay, tác giả Quang Đạm cho rằng, Nho giáo có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực. Việc vạch ra mặt hạn chế, phá hoại của Nho giáo, theo tác giả là cần thiết nhưng không phải là để “truy tố, bắt đền” nó mà để “Nhìn rõ và loại trừ tận gốc một cách khách quan và khoa học những hậu quả cụ thể của nó trong hệ tư tưởng và trong cuộc sống xã hội chúng ta ngày nay”, cũng không phải để “ truy tặng, khen thưởng” nó, mà là để “giữ gìn và phát huy nhằm thúc đẩy sự nghiệp chúng ta tiến lên”. Tập thể tác giả mà Vũ Khiêu là chủ biên của công trình Nho giáo xưa và nay đã tập trung nghiên cứu hàng loạt vấn đề như: Sự ra đời và phát triển của Nho giáo; Mối quan hệ giữa Nho giáo với kinh tế, xã hội, giáo dục, văn hóa; Hồ Chí Minh và Nho giáo; Tình hình Nho giáo ở một số nước châu Á; Những hạn chế cũng như những giá trị mà Nho giáo mang lại cho các nước châu Á. Tác giả Phan Ngọc, trong Bản sắc văn hóa Việt Nam, từ việc đề cập đến các vấn đề cơ bản của Nho giáo, Nho học và Đạo giáo đã đi đến khẳng định, Nho giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa truyền thống Việt Nam cũng như đời sống hiện thực của con người Việt Nam hiện nay.

Page 5: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

Không dừng lại ở đó một số công trình nghiên cứu của các tác giả như: Nguyễn Tài Thư, Trần Đình Hượu, Trần Văn Giàu, Vũ Minh Tâm, Trần Nguyên Việt, Đỗ Thị Hòa Hới, Nguyễn Thanh Bình,…v.v đều khẳng định ảnh hưởng của Nho giáo đến xã hội con người Việt Nam trong lịch sử và hiện nay là hết sức sâu sắc. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thì một trong những vấn đề được quan tâm sâu sắc chính là tiếp tục bổ sung và cụ thể hóa những căn nguyên, cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nói riêng: ví dụ như với bài viết Bước đầu tìn hiểu Bác Hồ với học thuyết của Nho gia, tác giả Lê Văn Quán đã đưa ra những dẫn chứng để chứng minh học thuyết Nho gia đã ảnh hưởng đến Bác Hồ như thế nào ? Bác đã khẳng định cần phải kế thừa và phát huy những điểm tích cực của Nho gia, Bác nhấn mạnh giáo dục cần phải kết hợp giữa học với hành; người cách mạng phải hội đủ 5 điều: trí – tín – nhân – dũng – liêm. Và tác giả cũng chỉ ra rằng, trên thực tế, Bác đã kết hợp nhuần nhuyễn yếu tố Nho giáo với truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc: nhân, nghĩa, trí, tín, dũng, trung, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Cũng tác giả Lê Văn Quán với bài viết Bác Hồ với học thuyết Nho giáo, đã khẳng định, Hồ Chí Minh là người rất am hiểu Nho giáo và vận dụng một cách tài tình những tinh hoa của Nho giáo vào điều kiện cách mạng nước ta. Người vận dụng Nho giáo trong việc rèn luyện đạo đức cách mạng, trong việc phê phán tư tưởng trọng nam khinh nữ đồng thời phản đối chế độ đẳng cấp Nho giáo. Hay như tác giả Nguyễn Văn Hồng với bài viết Ảnh hưởng của văn hóa Khổng giáo Trung Hoa qua sự tiếp nhận chọn lọc, sáng tạo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, qua phân tích đã đi đến khẳng định, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề giáo dục đạo đức, Người đã chọn lọc những tinh hoa từ những chuẩn mực đạo đức Nho giáo và vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam….vv.

Nghiên cứu nho giáo về ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội từ góc độ nghiên cứu triết học, bản thân nhận thấy rằng, cần phải nghiên cứu, làm rõ thêm về nội dung, dù chỉ là những nội dung cơ bản trong quan niệm này của Nho giáo một cách có hệ thống để từ đó có cơ sở chỉ ra những giá trị và hạn chế cũng như ý nghĩa của nó ở Việt Nam trong chế độ phong kiến và trong giai đoạn hiện nay3. Mục đích và nhiệm vụ của chuyên đề.

Mục đích của chuyên đề là: Xuất phát từ Lý do chọn chuyên đề và Tình hình nghiên cứu liên quan đến chuyên đề, thông qua nghiên cứu những tiền đề, điều kiện và những giá trị của Nho giáo đối với đời sống văn hóa xã hội chỉ để chỉ ra những giá trị, hạn chế chủ yếu của nó và từ đó rút ra ý nghĩa của nó trong việc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.Nhiệm vụ của chuyên đề là để đạt được mục đích trên. Chuyên đề tập trung làm rõ những nội dung chủ yếu sau:

- Những giá trị chủ yếu cho sự hình thành và phát triển quan điểm của Nho giáo về trong đời sống văn hóa xã hội

- Trình bày một cách có hệ thống những nội dung cơ bản trong quan niệm của Nho giáo về đời sống văn hóa xã hội trong chế độ phong kiến

Page 6: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

- Chỉ ra một số giá trị và hạn chế chủ yếu trong quan niệm trên của Nho giáo. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.

Cơ sở lý luận của chuyên đề được dựa trên cơ sở lý luận của triết học Mác - Lênin trong nghiên cứu về đời sống văn hóa xã hội.

Phương pháp nghiên cứu: Chuyên đề chủ yếu sử dụng phương pháp biện chứng duy vật của Triết học Mác – Lênin kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu khoa học khác như phương pháp lôgic và lịch sử; phương pháp phân tích - tổng hợp; phương pháp đối chiếu – so sánh. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của chuyên đề.

Đối tượng nghiên cứu: Các giá trị của Nho giáo về xã hội Phạm vi nghiên cứu: - Một số tác phẩm của Nho giáo, chủ yếu là Tứ thư, Ngũ Kinh;- Các tác phẩm và các công trình nghiên cứu về Nho giáo và Nho giáo Việt

Nam.6. Đóng góp của chuyên đề.

Chuyên đề trình bày có hệ thống những nội dung chủ yếu trong quan niệm của Nho giáo về đời sống văn hóa xã hội trong chế độ phong kiến và trong giai đoạn hiện nay.7. Ý nghĩa của chuyên đề.

Từ góc độ triết học, chuyên đề bước đầu làm sáng tỏ và trình bày có hệ thống những tiền đề, điều kiện ra đời và những giá trị cơ bản trong quan niệm của Nho giáo về đời sống văn hóa xã hội trong chế độ phong kiến và ảnh hưởng của nho giáo trong giai đoạn hiện nay.8. Kết cấu của chuyên đề:

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung của chuyên đề gồm 2 chương với 4 tiết.

Chương 1. Sự du nhập, hình thành và phát triển của Nho giáoChương 2: Những ảnh hưởng của Nho giáo đến đời sống xã hội ở Việt Nam

hiện nay

Page 7: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

Chương 1

SỰ DU NHẬP, HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA

NHO GIÁO Ở VIỆT NAM .

Nho giáo du nhập vào Việt Nam thời kì Bắc thuộc, đó là một quá trình lâu dài,

bằng con đường xâm lược và giao lưu văn hoá , kinh tế Việt Nam và Trung Quốc ,

trước hết đó là công cụ của Hán Đường tiến hành đồng hoá . Nho giáo du nhập vào

Việt Nam không còn là Nho giáo nguyên sơ mà đã được Hán nho trước nhất là

Đổng Trọng Thư cải tạo cho thích hợp với chế độ phong hiến trung ương tập

quyền. Cùng xâm nhập với Nho còn có Phật và Đạo. Cả ba học thuyết này đều có

ảnh hưởng đến tư tưởng Việt Nam, vào các phong tục tập quán của người Việt cho

đến nay .

Trên 1000 năm Bắc thuộc, bọn xâm lược ra sức truyền Nho, Phật, Đạo vào

nước ta. Nhưng số người học Nho không nhiều lắm; còn Phật và Đạo lại đi sâu vào

dân gian hoà lẫn trong tín ngỡng bản địa

Sau khi giành độc lập , nhân dân ta đã sử dụng Nho, Phật và Đạo để bắt tay

xây dựng đất nước, trước hết là để xây dựng một tổ chức Nhà nước độc lập để đủ

sức chống lại sự uy hiếp và xâm lược từ phương Bắc. Sở dĩ Nho giáo và Phật giáo

được chọn làm hệ tư tưởng chính trong xã hội Việt Nam là vì cả ha học thuyết này

ít nhiều ảnh hưởng trong xã hội Việt Nam . Sự truyền bá và tiếp nhận tư tưởng này

diễn ra khá thuận lợi và nhanh chóng. Chế độ phong kiến Việt Nam phát triển theo

xu hướng tập quyền thống nhất nên có nhu cầu sử dụng Nho học. Nhà nước Đại

Việt thời Lý đã đưa Nho giáo phát triển mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực ở Việt

Nam . Năm 1070 , nhà Lý lập Văn Miếu và Quốc Tử Giám , năm 1075 nhà Lý mở

khoa thi Nho học và năm 1195 mở khoa thi Tam giáo. Nho học du nhập vào nước

ta đến đây trở thành cái bản dịa được nhà nước Đại Việt sử dụng và trân trọng .

Vào thời Trần, Nho học lại phát triển nhanh chóng hơn. Cũng vào thời kì này

thi cử nho giáo đã vào quy củ, các khoa thi tiến sĩ cứ 7 năm được tổ chức một lần .

Tuy nhiên, ảnh hưởng của Nho giáo vào Việt Nam cho đến cuối dời Trần –

Hồ vẫn chưa thật đậm nét. Có thể những bộ phận quan chức cao cấp phần nào còn

Page 8: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

áp dụng những lễ giáo kiểu phương Bắc, còn trong dân gian thì vẫn theo phong tục

tập quán lâu đời .

Sang thời Hậu Lê , Nho giáo được đẩy lên cực thịnh. Lê Thánh Tông đưa Nho

học vào tổ chức nhà nước ở cả ba mặt :

+ Giáo dục và khoa cử : Thời Lê sơ giáo dục và khoa cử Nho học đạt đến mức

cực thịnh. Một tầng lớp sĩ đông đảo có mặt ở khắp nông thôn và thành thị. Ở Văn

Miếu được lập bia Tiến sĩ, Nho sĩ được đề cao đến mức cao nhất. Qua giáo dục và

khoa cử, Nho giáo thâm nhập vào xã hội ngày càng sâu sắc hơn .

Tổ chức chính quyền : có tham khảo các kiểu nhà nước TốngMinh

+ Pháp luật: luật Hồng Đức được xây dựng trên tinh thần Đại Việt nhưng

cũng tham khảo nhiều pháp luật Đường Minh .

Ở các lĩnh vực khác như triết học, tôn giáo, nghệ thuật thì cả ba đạo Nho ,Phật

, Lão đèu có ảnh hưởng , nhưng nặng nhẹ khác nhau . Phật , Dạo đi vào dân gian

làng xã khá sâu sắc

Vào các thế kỉ XVI, XVII, XVIII , Nho học và Nho giáo Việt Nam đều đi

xuống. Xu hướng tam giáo đồng tôn trong xã hội phát triển. Có thể nói , vào các

thế kỉ XVII, XVIII kiểu Nho thuần tuý không còn đáng kể , một nền học thuật và

tư tưởng đa thanh, đa sắc đã xuất hiện ngày càng nhiều, ngày càng sâu hơn . Nhà

Nho các thế kỉ này đều trên cơ sở Nho kết hợp với Phật, Đạo. Có thể nói, đến thế kỉ

XVIII, Nho học, Nho giáo không đáp ứng được yêu cầu của xã hội, đã bất lực

trước công việc giải quyết khủng hoảng xã hội. Trong lĩnh vực chính, trị tư tưởng

các nhà nước và các quan lại sĩ phu vẫn lấy tam cương làm lý tưởng. Nhưng sự lên

xuống của cuộc sống cá thể, của xã hội phải có Phật, Đạo bổ sung thành công cụ

tinh thần phong phú, đa dạng. Tam giáo đồng tôn hay đồng hành đồng tâm trên cơ

sở Nho là một hướng giải quyết về lý thuyết tư tưởng và xã hội .

Đến đầu thế kỉ XIX, nhà Nguyễn vẫn duy trì độc tôn Nho giáo trong khi các

nước khác ngay cả Trung Quốc cũng đã bắt đầu có những phản kháng. Khoa thi

Hương cuối cùng vào năm 1918 và thi hội cuối cùng vào năm 1919. Tác phẩm “

Khổng học đăng” của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu là sự bùng lên cuối cùng

của Nho giáo trước khi dập tắt .

Có thể nói, Nho giáo được duy trì lâu nhất ở Việt Nam. Có một học giả nước

ngoài khi sang Việt Nam đã có nhận xét như sau : “ dường như Nho giáo Việt Nam

từ thế kỉ XIX có vẻ nặng sâu hơn chính ở Trung Quốc . Nói như thế không phải là

Page 9: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

không có cơ sở. Một thực tế ở Việt Nam là , Nho giáo ở Việt Nam chưa một làn bị

phê phán gay gắt như các học giả ở Trung Quốc hay Nhật Bản. Sự phê phán Nho

giáo ở nước ta mới chỉ xuất hiện trong các tác phẩm văn học hay trong dân gian.

Vùng đồng bằng Bắc Bộ là vùng có lẽ chịu ảng hưởng sâu sắc nhất và lâu đời nhất

ở Việt Nam .

Chương IINHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG

VĂN HÓA XÃ HỘI VIỆT NAM

I/ Đối với kinh tế

1/ Ảnh hưởng tích cực

Con người với tư cách là nhân tố thúc đẩy kinh tế

Mục đích của Nho giáo là nhằm giáo hóa, đào tạo con người, hoàn thiện

con người và hoàn thiện xã hội, làm cho xã hội luôn ổn định, thái bình, thịnh trị.

Theo Nho giáo, sự hoàn thiện con người vừa là kết quả, vừa là điều kiện, nguyên

nhân của sự hoàn thiện xã hội. Nếu gạt sang một bên những điều kiện lịch sử, xã

hội thì phải chăng Nho giáo đã sớm nhận ra vai trò của con người đối với sự ổn

định và phát triển xã hội. Kinh tế, văn hóa ổn định phát triển xét cho cùng là do con

người, vì con người.

Ở nước ta, thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế thị trường đã đẩy nhanh

sự tăng trưởng về kinh tế nhưng cũng đồng thời tạo ra nhiều xáo trộn trong quan hệ

xã hội, sinh hoạt gia đình và phẩm chất cá nhân. Để ngăn ngừa những hiệu quả tiêu

cực của nền kinh tế thị trường, bảo đảm cho sự phát triển vật chất không kéo theo

sự suy thoái tinh thần, chúng ta cần phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân

tộc, nâng cao những phẩm chất đạo đức vốn có trong lịch sử đấu tranh dựng nước

và giữ nước của dân tộc. Những phẩm danh đạo đức tối thượng của con người như:

Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí - Tín trong xã hội Nho giáo trước kia cho đến nay vẫn còn ý

nghĩa, nếu chúng ta biết kế thừa, chắt lọc.

Điều đáng chú ý là đề cao Nhân, Nghĩa trong cuộc sống của con người;

nhưng Nho giáo cũng không bỏ qua vấn đề cơm ăn, áo mặc của nhân dân. Bởi

nhân dân có đủ ăn đủ mặc thì mới thực hiện được đạo nghĩa đạo Nhân. Chính vì

Page 10: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

thế Nho giáo khuyên giới cầm quyền tìm mọi cách để giúp dân sản xuất, phải chăm

lo đến việc sản xuất của dân. Mạnh Tử từng nói:

Nếu vua chẳng làm trái nghịch thời tiết của kẻ làm ruộng, đừng bắt họ làm

xâu trong mùa cấy gặt thì thóc lúa ăn chẳng biết. Nếu đừng để cho người ta bủa

lưới nhặt trong các bưng hồ thì cá rùa ăn chẳng hết. Nếu đừng để cho lưỡi rìu, cạnh

búa đốn phá rừng núi sau lúc sai mùa thì cây cối dùng chẳng hết. Lúa thóc và rùa cá

dự ăn, cây cối dư xài, nhân dân nhờ đó mà nuôi dưỡng người sống, mai táng kẻ chết,

họ chẳng sầu oán gì nữa. Trong nước mà dân chúng chẳng oán sầu vì họ nuôi

người sống được no ấm, chôn người chết được đủ lễ, đó là bước đầu của một nền

cai trị thịnh vượng vậy.

Nho giáo còn đòi hỏi giai cấp thống trị phải để cho nhân dân có tài sản

riêng. Có như vậy dân mới yên tâm làm ăn, đời sống mới no ấm, nhà nước mới có

dư thừa. Mạnh Tử nhấn mạnh trách nhiệm của người cầm quyền đối với cuộc sống

của nhân dân. Theo ông, người cầm quyền phải đồng cam cộng khổ với nhân dân,

không nên có cuộc sống quá chênh lệch so với cuộc sống của dân thường. Đó là

điều đáng để các nhà lãnh đạo trong xã hội hiện đại suy ngẫm.

Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Để đạt được các mục

tiêu sau khi kết thúc thời kỳ quá độ, chúng ta không thể không coi trọng ưu tiền

phát triển kinh tế. Chúng ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng để làm

cho "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh..." Đó cũng là tiền

đề bảo đảm cho sự ổn định chính trị xã hội. Muốn vậy, một trong những điều kiện

cần thiết là Đảng và Nhà nước ta phải đề ra những chính sách, biện pháp kinh tế -

xã hội phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi để khai thác trí tuệ, năng lực sáng tạo của

con người. Những biện pháp, chính sách của Đảng, Nhà nước cần phải xuất phát từ

con người và vì con người. Bởi con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của

toàn bộ sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta.

Sản xuất đi đôi với tiết kiệm

Nho giáo nhấn mạnh sản xuất đi đôi với tiết kiệm, sớm đặt ra vấn đề tiết

kiệm: "Đạo lớn làm ra của cải là: số người làm việc sinh lợi ngày càng nhiều, số

Page 11: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

người ăn tiêu phung phí ngày càng ít số người làm ra của cải phải mau mắn, siêng

năng, những người tiêu dùng phải thư thả, từ từ. Như vậy của cải luôn luôn đủ".

Khổng Tử còn khuyên vua "tiết dụng nhi ái dân", nghĩa là phải tiêu dùng tiết kiệm

mà thương yêu dân.

Tuân Tử cho rằng nếu như hết sức làm việc nông, lại tiết kiệm tiêu dùng thì

trời chẳng bao giờ làm mình đói.

Với lời răn dạy về tiết kiệm ấy của Nho giáo, những người làm quan thanh

liêm ngày xưa thường ăn uống đơn sơ, trang phục giản dị, coi vẻ đẹp của con người

là sự thanh cao của tâm hồn chứ không phải ở sự xa xỉ trong nhà cửa, áo quần, vật

liệu tiêu dùng.

Xã hội Việt Nam ngày nay đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại

hóa. Để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần có nhiều yếu tố: tài

nguyên, vốn, kỹ thuật, công nghệ mới và con người. Trong khi đó đối với nước ta,

nguồn tài chính, nguồn lực vật chất còn rất hạn hẹp, thế nhưng "chúng ta lại chưa

thực hiện tốt cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, dồn vốn cho đầu tư

phát triển". Hiện nay, Việt Nam vẫn còn là nước nông nghiệp, lao động nông

nghiệp chiếm hơn 70%, đời sống nhân dân ở nhiều vùng nông thôn, các vùng dân

tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa còn rất thấp, GDP bình quân đầu người chưa đến 300

USD/năm nhưng tình trạng tiêu dùng xa hoa, lãng phí diễn ra khá phổ biến cả ở

nông thôn và thành thị, trong một số khá đông cán bộ và nhân dân. Đó là điều đáng

lo ngại. Vì vậy, "chúng ta nhất thiết phải cần kiệm để công nghiệp hóa, khắc phục

xu hướng chạy theo xã hội tiêu dùng, lối sống xa hoa, lãng phí. Đó là một trong

những nhân tố thành công của chúng ta.

Tiết kiệm trong điều kiện hiện nay không phải là khuyến khích giảm nhu cầu

tối thiểu mà chính là nâng cao khả năng thỏa mãn nhu cầu hợp lý của con người

như là tiền đề để phát huy nguồn lực con người - nhân tố quyết định sự phát triển

kinh tế - xã hội của đất nước.

Như vậy, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, tư tưởng

về sản xuất đi đôi với tiết kiệm của Nho giáo cũng như đức tính cần kiệm truyền

Page 12: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

thống của dân tộc cần phải được kế thừa và đổi mới. Cần kiệm đi đôi với chống

tham nhũng và lãng phí, dồn sức đầu tư cho sự phát triển của đất nước trong hiện

tại và tương lai.

Tóm lại, với cách nhìn biện chứng, chúng ta có thể khai thác giá trị tích cực

của Nho giáo đối với sự phát triển kinh tế. Chúng có thể đồng tình với các nhà

khoa học Nhật Bản, Triều Tiên, Đài Loan... khi họ nêu lên khả năng hòa đồng giữa

Phú và Nhân, giữa Nghĩa và Lợi, giữa đạo đức và kinh doanh trong sự phát triển

đất nước. Nho giáo gợi mở cho ta suy nghĩ có thể đưa văn hóa vào kinh doanh,

hướng kinh doanh không chỉ vào việc tăng trưởng kinh tế mà còn xây dựng một xã

hội hội có văn hóa, xứng đáng với truyền thống dân tộc, đáp ứng được những đòi

hỏi của thời đại.

2/ Ảnh hưởng tiêu cực

Nho giáo - hệ tư tưởng của một xã hội được xây dựng chủ yếu trên cơ sở

chế độ ruộng công với chính sách cống nạp từ bên dưới và phân phối từ bên trên

giờ đây vẫn ảnh hưởng tiêu cực tới suy nghĩ, quan niệm của nhiều người. Với tư

tưởng "Trọng nông ức thương", Nho giáo từng kìm hãm công nghiệp và kinh tế

hàng hóa phát triển, về mặt sản xuất, Nho giáo coi thường khoa học kỹ thuật; về

mặt phân phối nó khuyến khích chủ nghĩa bình quân. Kinh tế Việt Nam không thể

đổi mới và phát triển nếu không gạt bỏ được sự cản trở đó của Nho giáo.

Dưới chế độ phong kiến, ở nước ta đã có quan hệ tiền tệ và trao đổi hàng

hóa ở mức độ nhất định. Nhưng với đặc điểm bảo trì lâu dài của các làng xã, quan

hệ hàng hóa tiền tệ đã không phát triển được. Thêm vào đó, các quan điểm bảo thủ,

khép kín "trọng nông ức thương" đã kìm hãm sự phát triển có tính chất tự nhiên

của sản xuất xã hội.

Sau cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nước ta vẫn chưa có nền sản xuất

hàng hóa, nền kinh tế vẫn trong tình trạng tự cấp tự túc là chủ yếu. Đó chính là

thách thức cơ bản đối với dân tộc ta khi bước vào con đường phát triển hiện đại

văn minh.

Page 13: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

Do những sai lầm chủ quan mang tính giáo điều, kinh nghiệm duy

ý chí cùng với ảnh hưởng của tư tưởng "trọng nông ức thương", trước thời

kỳ đổi mới nền kinh tế hàng hóa ở nước ta không phát triển. Nền kinh tế kế hoạch

hóa tập trung, bao cấp cùng những chính sách xã hội kèm theo nó

đã là một trong những nguyên nhân cơ bản đưa nước ta tới khủng hoảng trầm

trọng.

Thực tiễn đã giúp Đảng ta nhận thức sâu hơn về CNXH, về con đường đi

lên CNXH, vai trò tác dụng của sự phát triển và sử dụng các yếu tố, các khâu trung

gian quá độ lên CNXH theo kiểu quá độ gián tiếp mà Lênin đã vạch ra. Nhận thức

mới đưa đến chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận

hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.

Đó cũng chính là nội dung cơ bản của đổi mới kinh tế - nhiệm vụ trọng tâm của

công cuộc đổi mới hiện nay.

Sản xuất hàng hóa đòi hỏi phải khắc phục tình trạng chia cắt, khép kín, trì

trệ của sản xuất và lưu thông, nhưng do ảnh hưởng của tư tưởng cũ - tư tưởng

"trọng nông ức thương" cùng với tư tưởng cục bộ bản vị (địa phương chủ nghĩa),

nhiều địa phương vẫn còn xu hướng biệt lập khép kín trong quá trình thực hiện các

mục tiêu kinh tế, không chú ý đến tính chỉnh thể thống nhất, đến yêu cầu phát triển

chung của đất nước. Thực hiện nhiệm vụ tự cân đối các mặt của sản xuất và sinh

hoạt của địa phương không có nghĩa là thực hiện tự cung tự cấp, từ bỏ giao lưu

kinh tế giữa các vùng, các địa phương. Do không nhận thức đúng yêu cầu trên, do

ảnh hưởng của tư tưởng cũ, cộng với những khó khăn về giao thông, về nguồn vốn,

một số địa phương không đưa hàng hóa ra khỏi địa phương mình. Cách làm đó về

thực chất là tự cung tự cấp trên bình diện rộng. Vô hình chung dẫn đến hạn chế sự

phát triển của sản xuất hàng hóa, làm nghèo nàn nhu cầu của đời sống

xã hội.

Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN

đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng "Trọng nông ức thương" còn tồn tại trong một bộ

phận cán bộ và nhân dân, xây dựng các chương trình kinh tế - xã hội mang tính

thống nhất, xóa bỏ tình trạng phân tán, tự cung, tự cấp.

Page 14: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta còn chịu phục những ảnh hưởng

tiêu cực của Nho giáo trong lĩnh vực phân phối. Chúng ta biết rằng đặc điểm kinh

tế nổi bật của xã hội Việt Nam truyền thống là sản xuất nhỏ, đặc biệt là sản xuất

nhỏ trong nông nghiệp. Tính chất sản xuất nhỏ và tâm lý người tiểu nông in dấu ấn

sâu sắc lên mọi mặt của xã hội Việt Nam cổ truyền và còn ảnh hưởng đến ngày

nay. Nói đến sản xuất nhỏ ở Việt Nam chủ yếu là nói đến sản xuất nhỏ trong nông

nghiệp với đặc trưng phổ biến là: quyền tư hữu của người tiểu nông với ruộng đất

là cơ sở của nền sản xuất xã hội, ruộng đất bị phân chia manh mún, nông cụ ít và

thô sơ thiếu sự hợp tác và phân công lao động; nền sản xuất có tính bảo thủ cao, tổ

chức sản xuất hàng hóa thấp kém, đời sống vật chất và tinh thần của người dân

gựp nhiều khó khăn và chậm được cải thiện.

Nền sản xuất nhỏ tồn tại lâu đời trong xã hội Việt Nam cùng với ảnh của tư

tưởng Nho giáo đã tạo nên tâm lý cục bộ, bản vị, địa phương. Chế độ ruộng công

trong điều kiện làng xã Việt Nam đã làm nảy sinh tư tưởng bình quân về nghĩa vụ

và quyền lợi.

Khi nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, tư tưởng bình quân đã trở

thành lực cản lớn trong quá trình phát triển kinh tế cũng như các mặt khác của đời

sống xã hội.

Cách làm kinh tế theo giờ hành chính một cách máy móc ở các hợp tác xã

nông nghiệp, các nông trường quốc doanh của miền Bắc trước đây với hình thức

phân phối bình quân đã dẫn đến tình trạng người lao động thờ ơ với công việc và

kết quả lao động của mình. Tâm lý ỷ lại vào tập thể, dựa dẫm, cung cách lao động

"được chăng hay chớ", "cơm vua ngày trời", "đi làm theo kẻng, ăn chia theo định

xuất", "chân ngoài dài hơn chân trong" trở thành căn bệnh ngày càng trầm trọng.

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất

quán lâu dài chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Các hình

thức phân phối trong thời kỳ này cũng rất đa dạng: phân phối theo lao động, phân

phối theo vốn đầu tư, phân phối thông qua phúc lợi tập thể... Tuy nhiên, tình trạng

bình quân trong phân phối vẫn còn tồn tại, biểu hiện rõ nét nhất ở khối hành chính

Page 15: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

sự nghiệp. Tiền lương nhìn chung chưa đảm bảo tái sản xuất sức lao động, chưa

thực sự trở thành đòn bẩy kích thích người lao động làm việc với sự nhiệt tình và

sức sáng tạo cao.

Sự phát triển nền kinh tế trong thời kỳ đổi mới ở nước ta đòi hỏi phải khắc

phục những ảnh hưởng tiêu cực đó của Nho giáo.

II/ ĐỐI VỚI ĐẠO ĐỨC

1. Ảnh hưởng tích cực

Tu thân và vấn đề rèn luyện đạo đức cách mạng

Nho giáo là một học thuyết chính trị - xã hội, đạo đức cho nên vấn đề tu

thân được đặt lên hàng đầu: Từ Thiên tử ở địa vị cao nhất cho đến người dân bình

thường đều phải lấy việc tu thân làm gốc. Đó cũng là bài học mà chúng ta không

thể bỏ qua.

Trên thực tế, nhiều nước châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc... đã khai thác

triết lý tu thân của Nho giáo nhằm bảo đảm ổn định chính trị xã hội, nhất là trong

thời kỳ chuyển biến mạnh mẽ của đất nước. Các nước này không chỉ đòi hỏi sự nỗ

lực của bản thân mỗi người trong việc tu thân mà còn quy định trách nhiệm của

mỗi gia đình, trường học, xã hội đối với việc tu thân. Tại những nước này, những

nét đẹp truyền thống đã được duy trì, những mối quan hệ giữa người với người

trong gia đình và xã hội đã được củng cố.

Ở nước ta, công cuộc đổi mới đang đi vào chiều sâu của nó. Sau

16 năm nhìn lại, chúng ta có quyền tự hào về những chuyển biến đáng kể trên tất

cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Tuy nhiên những thành tựu của sự nghiệp đổi mới

chỉ là bước đầu. Vẫn còn muôn ngàn khó khăn, thử thách đòi hỏi mỗi chúng ta phải

nâng cao thêm niềm tin, ý chí cách mạng, không ngừng tu dưỡng trau dồi đạo đức

cách mạng. Chúng ta thừa nhận rằng nền kinh tế thị trường phát triển đã góp phần

thúc đẩy sản xuất phát triển, đem lại bộ mặt mới cho xã hội, nhưng cũng phải thừa

nhận mặt trái của kinh tế thị trường đang tạo ra những xáo trộn về mặt đạo đức xã

hội. Chúng ta đã bắt đầu chứng kiến những suy thoái đạo đức trong cả quan hệ gia

Page 16: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

đình và quan hệ xã hội. Điều đáng lo ngại là sự suy thoái phẩm chất đạo đức ở một

số cán bộ đảng viên đang làm giảm uy tín của Đảng, suy giảm lòng tin của nhân

dân đối với chế độ. Trong điều kiện đó, thiết nghĩ chúng ta nên lấy triết lý tu thân

của Nho giáo làm bài học, để rồi từ đó chắt lọc, kế thừa giá trị tích cực của nó.

Chúng ta tiếp thu tư tưởng Nho giáo về tu thân, đặt nhiệm vụ tu thân lên

hàng đầu, huy động các lực lượng gia đình, xã hội và cá nhân đẩy mạnh tu thân,

nhưng không phải tu thân theo tinh thần đạo đức cũ - Đạo đức Khổng giáo - mà tu

thân theo tinh thần đạo đức mới - đạo đức cách mạng như Hồ Chí Minh đã chỉ ra:

Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm. Đây là những khái niệm mang nội dung mới với

những giá trị đạo đức cơ bản nhất của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của

Đảng. Những Đức, Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín của Nho giáo đã được Hồ Chí Minh

tiếp thu và cải biến thành "Ngũ thường" của Việt Nam như thế. Người giải nghĩa:

Nhân: là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí, đồng bào. Vì thế mà

kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân.Vì

thế mà sẵn lòng cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà

không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền. Những người không

ham, không e, không sợ gì thì việc gì làm việc phải họ đều làm được.

Nghĩa: là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có việc gì

phải dấu Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng không có lợi ích riêng phải lo toan. Lúc

Đảng giao việc thì dù bất kỳ to nhỏ, đều ra sức làm cẩn thận. Thấy việc phải thì

làm, thấy việc phải thì nói. Không sợ người ta phê bình mình, mà phê bình người

khác cũng luôn luôn đúng đắn.

Trí: Vì không có việc tư túi nó làm mù quáng cho nên đầu óc sáng suốt. Dễ

hiểu lý luận, dễ tìm phương hướng. Biết xem người, biết xét việc. Vì vậy mà biết

làm việc có lợi, tránh việc hại cho Đảng, biết vì Đảng mà cất nhắc người tốt, đề

phòng người gian.

Dũng: là dũng cảm gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết điểm có

gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn có gan chịu đựng. Có gan chống lại những sự

Page 17: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

vinh hoa phú quý, không chính đáng. Nếu cần, có gan hy sinh cả tính mệnh cho

Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát.

Liêm: là không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng.

Không tham người ta tâng bốc mình.Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao

giờ hủ hóa.

Chỉ có một thứ ham là ham đọc, ham làm, ham tiến bộ.

Đó là đạo đức cách mạng.

Hồ Chí Minh còn chỉ ra cốt lõi của đạo đức cách mạng gồm bốn đức: Cần,

Kiệm, Liêm, Chính. Người giải thích như sau:

Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai

Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí...

Liêm là trong sạch, không tham lam... Tham tiền, tham địa vị, tham ăn ngon,

sống yên đều là bất liêm.

Chính là không tà, nghĩa là thẳng thắn đứng đắn. Điều gì không đứng đắn,

thẳng thắn tức là tà.

Như vậy, cũng là tu thân nhưng chúng ta tu thân theo nội dung của đạo đức

cách mạng đã được Hồ Chí Minh đề cập. Trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam, chịu

ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng đạo đức Nho giáo, việc sử dụng những từ ngữ vốn

quen thuộc của Nho giáo để đưa vào nội dung đạo đức mới là một biện pháp sáng

tạo của Hồ Chí Minh. Những chuẩn mực đạo đức mà người nêu ra không bao giờ

xưa cũ. Để đẩy mạnh tăng trưởng về kinh tế với sự phát triển về mọi mặt của xã

hội, để thống nhất văn hóa với kinh doanh, đạo đức con người với sự giàu mạnh

của đất nước, hơn lúc nào chúng ta càng phải chú trọng rèn luyện đạo đức cách

mạng.

Hồ Chí Minh từng nói: Đạo đức là gốc, là nền tảng của cách mạng. Trong

giai đoạn hiện nay, khi đất nước vẫn đang đứng trước bốn nguy cơ như Đảng ta

từng chỉ rõ (nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế

giới, chệch hướng XHCN, nạn tham nhũng và tệ quan liêu, "diễn biến hòa bình" do

Page 18: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

các thế lực thù địch gây ra) thì việc trau dồi, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách

mạng là hết sức cần thiết.

Đối với đảng viên, trước hết cần thực hiện tốt cuộc vận động phê bình tự

phê bình theo tinh thần Hội nghị Trung ương VI - khóa VIII làm cho Đảng trong

sạch vững mạnh. Đó là biểu hiện của "tu thân".

Đối với quần chúng, cũng cần phải "tu thân". Tu thân để làm ăn lương

thiện, để không bị tha hóa bởi sức mạnh của đồng tiền, không bị mặt trái của cơ

chế thị trường làm mất đi lương tâm, nhân phẩm để góp phần xây dựng nước nhà

vững mạnh, phồn vinh.

2/ Ảnh hưởng tiêu cực

Thói đạo đức giả

Nếu nhấn mạnh sự tu thân, chú trọng giáo dục đạo đức là những giá trị tích

cực của Nho giáo mà chúng ta cần khai thác, kế thừa thì thói đạo đức giả trong tư

tưởng Nho giáo lại là điều cần phê phán, loại bỏ.

Đạo đức Nho giáo xưa kia nêu ra cần, kiệm, liêm, chính thực chất nhằm

phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị. Ngày nay, chúng ta đề ra cần kiệm, liêm,

chính để làm lợi cho nước cho dân. Nhưng nếu cán bộ thực hiện không nghiêm túc,

để đầu óc tư lợi chi phối thì cũng rơi vào tình trạng đạo đức giả.

Đạo đức giả là hiện tượng phổ biến trong nhiều chế độ xã hội và gắn với

chủ nghĩa cá nhân, nhưng gốc gác nảy sinh của nó bắt nguồn từ Nho giáo. Chế độ

Đức trị đã sản sinh ra đông đảo phân từ đạo đức giả, những kẻ kiếm ăn trong "nghề

đạo đức", những kẻ bề ngoài nói điều nhân nghĩa nhưng bên trong đầy rẫy tật xấu.

Hối lộ, tham ô ... vẫn có thể là "đạo đức" nếu biết khéo léo che giấu, khéo giả vờ,

khéo nói những lời bịp bợm. Đạo đức trong những trường hợp ấy trở thành thủ

đoạn để lừa trên, dối dưới, trở thành một loại tiền tệ, có thể dùng để mua được giàu

sang và danh vọng.

Xét ảnh hưởng của thói đạo đức giả đối với con người Việt Nam hiện đại

có thể thấy.

Page 19: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

- Về lý thuyết, đội ngũ cán bộ bao gồm những người tiên tiến nhất, giác ngộ

nhất, nhưng trên thực tế vẫn có người nhiễm phải thói đạo đức giả. Đó là những

người lời nói không đi đôi với việc làm, lợi dụng chức quyền để mưu lợi ích riêng.

Trong công tác và sinh hoạt, họ thường che đậy bản chất thực sự của mình bằng

những lời lẽ hoa mỹ, sách vở đúng với đường lối chính sách của Đảng và Nhà

nước. Khi không thực hiện được lời nói của mình, họ đổ lỗi cho khách quan, cho

cơ chế, cho người khác.

Người mắc thói đạo đức giả là người, không trung thực trong công tác. Họ

thường trình lên cấp trên những báo cáo không trung thực: thổi phồng thành tích,

che đậy khuyết điểm. Nếu dùng những báo cáo này làm cơ sở cho việc hoạch định

đường lối, chính sách của Đảng Nhà nước sẽ làm cho đường lối, chính sách không

phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Hậu quả do những người nhiễm thói đạo đức giả

gây ra không đơn thuần là những hậu quả kinh tế trực tiếp, mà còn là những hậu

quả kinh tế xã hội lâu dài. Bởi vì khi đã xâm nhập vào đường lối, chính sách của

Đảng, Nhà nước, nó sẽ ảnh hưởng rộng lớn, thậm chí ở tầm vĩ mô, chiến lược.

Một biểu hiện trực tiếp của đạo đức giả hiện nay là: lợi dụng chức quyền để

tham nhũng, buôn lậu, tiếp tay cho bọn làm ăn phi pháp; lấy các từ như "công bằng

xã hội", "lợi ích cộng đồng", "chấp hành luật pháp".... làm cái vỏ che đậy khuyết

tật và việc làm sai trái.

Thói đạo đức giả cũng là thói cơ hội chủ nghĩa. Nó có khả năng tìm ra

phương thức hoạt động mềm dẻo mà người trung thực lẫn pháp luật khó có thể

lường hết được. Người nhiễm thói này thực chất là kẻ cơ hội chủ nghĩa. Dưới

quyền của những người như vậy, người trung thực sẽ không tránh khỏi bị trù dập,

vô hiệu hóa. Nguy hại hơn nữa, để đạt được mục đích cá nhân, những người mắc

thói đạo đức giả không chỉ tìm cách khai thác những điểm còn cơ sở trong chính

sách, luật pháp, mà còn tìm cách vô hiệu hóa pháp luật và thi hành pháp luật.

Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: không có đạo đức cách mạng thì dù tài giỏi mấy

cũng không lãnh đạo được nhân dân, không hoàn thành nhiệm vụ cách mạng vẻ

vang. Suy thoái về đạo đức thường là khởi đầu suy thoái về bản lĩnh chính trị, phai

Page 20: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

nhạt và phản bội lý tưởng cách mạng. Vì vậy ngăn chặn loại trừ thói đạo đức giả

đang là một yêu cầu bức xúc của xã hội ta hiện nay.

III/ ĐỐI VỚI GIA ĐÌNH VÀ GIÁO DỤC

1. Đối với gia đình

Sẽ là thiếu sót nếu chỉ đề cập tới ảnh hưởng của Nho giáo đối với xã hội

Việt Nam hiện nay ở các lĩnh vực chính trị, kinh tế, đạo đức mà không đề cập tới

lĩnh vực gia đình.

Trong học thuyết Nho giáo, gia đình là một phạm trù lớn, chứa đựng nhiều

nội dung thâm thúy, ý nghĩa sâu xa, liên quan tới những phạm trù khác về đạo đức

và cuộc sống con người.

Xung quanh vấn đề gia đình, Nho giáo đã có những kiến giải thích hợp, góp

phần xây dựng và duy trì những quan hệ xã hội ổn định, đồng thời cũng có không ít

những tiêu cực, gây tác hại không nhỏ cho xã hội trước đây và hiện nay.

Coi gia đình là cơ sở xã hội; xây dựng những mối quan hệ bền chặt trong

gia đình, phát triển chúng thành những quan hệ trong toàn xã hội, vun đắp chúng

trở thành những tình cảm đạo đức tốt đẹp trong đạo thờ vua trị nước; khẳng định

vai trò giáo dục của gia đình... đó là những giá trị tích cực của Nho giáo mà giờ

đây chúng ta vẫn có thể kế thừa. Tuy nhiên, chủ nghĩa gia đình với những tác hại

của nó lại là điều cần phê phán và loại bỏ.

1.1/ Ảnh hưởng tích cực

Cách đây mấy ngàn năm trước, Nho giáo đã coi gia đình là cơ sở của xã

hội: "gốc của nước là nhà". Chính vì vậy, Nho giáo đã chú trọng xây dựng những

mối quan hệ chặt chẽ trong gia đình. "Cha ra cha, con ra con, anh ra anh, em ra em,

chồng ra chồng, vợ ra vợ, thế là gia đình đạo chính". Trong những mối quan hệ ấy,

quan hệ cha con, anh em được Nho giáo tôn rất cao bằng chữ Hiếu và chữ Đễ. Hiếu

là "nết đầu trong trăm nết". Người con hiếu có ý thức đầy đủ về tình cảm và bổn

phận của mình đối với cha mẹ. Đó là sự biết ơn, là ý nguyện thường xuyên làm sao

Page 21: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

để cha mẹ được vui sướng, là sự giữ mình không làm điều gì phiền lụy đến cha mẹ,

là quyết chí lập thân hành đạo, nêu cao thanh danh, làm vinh hiển cha mẹ.

Đễ là đạo nghĩa đối với đàn anh trong thế hệ của mình. Hiếu đễ lại là cái

gốc đạo đức của con người, cho nên đã hiếu và đễ thì các đức tốt khác đều có được,

không những trong quan hệ gia đình mà trong cả quan hệ xã hội. Mục đích của

Nho giáo khi nêu cao ý nghĩa của Hiếu - Đễ là để phụng sự vua, phụng sự bề trên.

Từ đó Nho giáo đi đến chỗ coi trọng giáo dục trong gia đình. Đó là trường học đầu

tiên để giáo dục con người đi vào xã hội. Nho giáo dạy rằng - thân yêu cha mẹ

mình, kế đó mà cư xử có nhân với người đời; kính cha anh của mình, từ đó kính

cha anh của người, yêu con trẻ của mình từ đó yêu con trẻ của người. Muốn đánh

giá phẩm chất của một người ở ngoài xã hội, muốn xem có nên cất nhắc và sử dụng

họ không, trước hết phải xem người ấy sống trong gia đình ra sao. Một người có

đối xử tốt trong gia đình mới có thể đối xử tốt ngoài xã hội.

Nho giáo khẳng định rằng sự giáo dục từ trong gia đình có tác động mạnh

mẽ, thậm chí quyết định sự thành công trong việc trị nước. Chỉ cần mọi người đều

yêu thương cha mẹ mình, bà con mình, kính trọng bậc trưởng thượng của mình, tự

nhiên thiên hạ sẽ được thái bình.

Giờ đây đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, gia đình từ đó cũng có

nhiều đổi thay. Sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp trước kia chủ yếu mang

tính chất tập thể thì giờ đây lại chuyển sang tính chất gia đình. Lợi ích của gia đình

không phụ thuộc một cách giản đơn vào lợi ích xã hội. Nó đang được phát triển

mạnh mẽ trong mối quan hệ hài hòa và hợp lý với lợi ích xã hội. Lợi ích chính

đáng của gia đình và cá nhân được tự do phát triển, đang là động cơ thúc đẩy trí tuệ

và tài năng, phát huy truyền thống dũng cảm và sáng tạo của cả dân tộc.

Kinh tế thị trường phát triển, cuộc sống của mỗi gia đình được đổi mới...

Đó cũng là một trong những tiền đề tốt đẹp để gia đình Việt Nam hoàn thành tốt

chức năng đối với xã hội. Nhưng cũng cần nhận thức rằng mặt trái của kinh tế thị

trường đang làm nảy sinh rất nhiều hiện tượng thiêu cực không chỉ trong quan hệ

giữa người với người ở ngoài xã hội mà ngay cả trong quan hệ gia đình. Ở Việt

Page 22: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

Nam, từ trước đến nay vẫn đề cao việc chăm sóc con cái và con cái có hiếu với ông

bà, cha mẹ. Đó là nét đặc sắc của văn hóa gia đình Việt Nam và văn hóa gia đình

phương Đông. Song, trong những năm gần đây, đã có một số gia đình quá yêu

chiều con cái; lại có những gia đình không quan tâm, săn sóc ông bà cha mẹ, không

thực hiện nghĩa vụ phụng dưỡng cha mẹ. Từ chỗ đặt "lợi ích" lên trên hết, họ đã

thúc đẩy các thành viên trong gia đình đối xử với người già theo nguyên tắc trao

đổi sòng phẳng. Họ lấy mức độ giàu nghèo làm tiêu chuẩn xác định quan hệ thân,

sơ trong họ hàng. Cách đối xử đó đã làm cho mối quan hệ vốn có giữa các thế hệ

trong gia đình (họ hàng) bị mất thăng bằng. Nhiều chuyện con cái ngược đãi cha

mẹ già, anh chị em xung đột với nhau chỉ vì đất đai, nhà cửa làm đau lòng nhiều

người.

Hiện tượng coi thường giáo dục gia đình đang xảy ra ngày càng nhiều đã

góp phần đáng kể phá vỡ nền tảng đạo đức gia đình. Có gia đình chỉ chú trọng việc

nuôi cho ăn học, chú ý đến thành tích học tập mà bỏ qua việc giáo dục phẩm chất

đạo đức cá nhân, bỏ qua việc giáo dục cách ứng xử trong mối quan hệ với người

khác. nhiều gia đình đã dung túng cho tính tham lam, ích kỷ, ngang ngược của con

cái. Nhiều gia đình, bố mẹ sống buông thả, có những hành vi thất đức mà không hề

ý thức được rằng đó là những bài học tự nhiên đối với con cái. Sự lúng túng, bất

lực trong việc giáo dục đạo đức gia đình của cha mẹ, sự coi thường, phủ định sạch

trơn những nội dung và hình thức giáo dục đạo đức truyền thống cho con cái đã

dẫn đến phá vỡ mối liên kết tinh thần của tổ ấm gia đình.

Sự biến đổi phức tạp trong quan hệ gia đình đặt ra vấn đề: cần phải quan

tâm hơn nữa đến việc xây dựng gia đình và giáo dục con cái. Đây cũng chính là

điều mà mấy chục thế kỷ trước Nho giáo đã đặc biệt quan tâm. Nho giáo đã từng

đòi hỏi sự gắn bó chặt chẽ giữa các thành viên trong cùng một gia đình, một dòng

họ; kêu gọi sự yêu thương đùm bọc lẫn nhau; khuyến khích việc giữ gìn danh dự

và phát huy truyền thống gia đình, dòng họ; những ghi thức ứng xử hàng ngày,

những lời răn dạy của cha ông lưu truyền đến các đời con cháu; việc thờ cúng ông

bà cha mẹ gắn với việc thờ cúng tổ tiên... góp phần làm khăng khít các mối quan hệ

Page 23: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

gia đình, gia tộc. Đó là những giá trị truyền thống tốt đẹp mà chúng ta cần kế thừa,

phát huy. Nhưng thật đáng tiếc đã có thời kỳ chúng ta coi nhẹ và gạt bỏ những

nhân tố tích cực, hợp lý đó của Nho giáo.

Trong khi đó, những nước có truyền thống Nho giáo trên con đường công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đã tìm cách duy trì và khuyến khích những quan hệ gia

đình cũ để khai thác những nhân tố gọi là hợp lý đối với yêu cầu phát triển của chủ

nghĩa tư bản và lợi ích của giai cấp tư sản. Quan hệ gia đình được mở rộng ra ngoài

xã hội. Nó cũng có thêm mối quan hệ có tính chất gia đình giữa nhà nước và công

dân, giữa chủ và thợ. Người chủ vì lợi ích của bản thân đã nhân danh gia đình

chăm lo đến lợi ích của công nhân. Người công nhân cũng với tình cảm gia đình.

Họ chăm lo đến lợi ích của xí nghiệp và lợi ích của họ phụ thuộc vào mức độ họ

đóng góp với xí nghiệp. Truyền thống Nho giáo trong gia đình ở các nước này có

tác dụng tích cực trong việc ổn định và phát triển xã hội.

Để phục vụ cho sự nghiệp đổi mới, chúng ta cũng khai thác những yếu tố

tích cực của gia đình truyền thống. Nhưng kế thừa, khai thác không có nghĩa là

quay lại hoàn toàn với gia đình kiểu cũ.

Trước kia, gia đình bao gồm nhiều thế hệ sống chung với nhau. Tình cảm

giữa cha mẹ và con cái mở rộng ra ngoài xã hội, là cơ sở của quan hệ vua - tôi, là

điểm xuất phát để xây dựng quan hệ bạn bè. Ngày nay, chúng ta đặt lên hàng đầu

tình cảm đối với Tổ quốc và nhân dân, nhưng tình cảm ấy trước hết phải được xây

dựng và vun trồng từ những tình cảm đầu tiên giữa người với người trong gia đình.

Chúng ta thừa nhận rằng, những người có đạo dức ngoài xã hội không thể là những

người mất đạo đức, trong gia đình. Chúng ta có thể tiếp thu tinh thần của Nho giáo

là muốn đào tạo những con người có đạo đức ngoài xã hội, trước hết phải đào tạo

những con người có đạo đức trong gia đình. Trên cơ sở chữ "Hiếu" của Nho giáo,

chúng ta mở rộng thành tình cảm đối với Tổ quốc và nhân dân; "Trung" không phải

là "Trung" với vua, với ông chủ bóc lột mà là "Trung" với Tổ quốc là góp phần xây

dựng Tổ quốc ngày một đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.

1.2/ Ảnh hưởng tiêu cực

Page 24: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

Gia đình Việt Nam ngày nay được xây dựng trên những quy tắc mới nhằm

bảo đảm những quan hệ lành mạnh và có kỹ năng giữa các thành viên trong gia

đình. Cùng với việc kế thừa những giá trị tốt đẹp của truyền thống, chúng ta còn

phê phán và loại bỏ những yếu tố tiêu cực đang ảnh hưởng tới việc xây dựng gia

đình văn hóa mới, đang cản trở công cuộc đổi mới ở nước ta.

Chủ nghĩa gia đình, căn bệnh từng bán rễ, ăn sâu trong xã hội cũ giờ đây

vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ và hành động của nhiều người.

Do ảnh hưởng của Nho giáo, trên thực tế việc giải quyết các vấn đề trong

đời sống xã hội thường bị phụ thuộc vào tình cảm cha con, mẹ con, vợ chồng, anh

em... Thói chiếu cố, cưu mang rộng rãi đến bà con, họ hàng vẫn còn. Ở nhiều nơi

vẫn còn tình trạng cán bộ lợi dụng chức quyền đưa người thân vào cơ quan nắm

giữ những chức vụ quyền lực quan trọng, né tránh không dùng những người chính

trực để mưu lợi cá nhân. Mặt khác, họ biến các quan hệ cơ quan thành quan hệ kiểu

gia đình. Nhìn bề ngoài, kiểu quan hệ này có vẻ ấm cúng, nhưng nó lại chứa đựng

mầm mống mất dân chủ, mất đoàn kết, bè phái và nhiều hành vi tiêu cực khác. Đây

là tiền đề đi tới những vụ tham nhũng tập thể có hệ thống, có tính toán chặt chẽ.

Các vụ tham nhũng tập thể có khả năng vô hiệu hóa các hoạt động kiểm tra, thanh

tra của các cơ quan chức năng.

Quan niệm "nhà trước, nước sau" hầu như đã trở thành đạo lý khống chế tư

duy và hành động của một bộ phận xã hội.

Chúng ta lên án chủ nghĩa cá nhân của hệ tư tưởng tư sản, đồng thời cũng

cần lên án thứ chủ nghĩa cá nhân của những con người; còn mang nặng hệ tư tưởng

phong kiến trói chặt mình vào gia đình, một thứ chủ nghĩa cá nhân mà thực chất là

chủ nghĩa vị kỷ gia đình. Tình cảm gia đình là tình cảm sâu sắc và thiêng liêng của

con người. CNXH không xóa bỏ gia đình mà tạo điều kiện để xây dựng và củng cố

gia đình bền vững. Nhưng tình cảm của con người phải vượt qua ngưỡng cửa gia

đình, vươn tới tình cảm lớn lao, đó là tình yêu Tổ quốc. Quá nặng tình cảm gia

đình, quá tính toán vì danh lợi riêng của gia đình, thiên vị, che đậy cho bà con anh

em, kéo bè kéo cánh trong dòng họ để đối lập với lợi ích công cộng của địa phương

và xã hội là điều cần lên án và loại bỏ.

Page 25: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

Sinh thời, Hồ Chí Minh đã từng phê phán những quan điểm và hành vi lệch

lạc trong quan hệ gia đình. Người đã nêu rõ tình trạng kéo bè kéo cánh, đưa bà con

bạn hữu không có tài năng gì vào chức này chức nọ mà quên mất rằng việc là việc

công chứ không phải việc riêng gì của dòng họ ai.

Người còn căn dặn phải cân nhắc, lựa chọn giữa gia đình to (cả nước) với gia

đình nhỏ. Người cách mạng bao giờ cũng chọn gia đình to. Đến CNXH hay CNCS,

gia đình chung đã có hạnh phúc thì gia đình riêng cũng có hạnh phúc. Vì vậy trong

lúc cách mạng gay go phải chọn cái lớn. Nếu phải hy sinh gia đình nhỏ cho gia

đình lớn cũng phải làm.

Nhân dân ta đã từng đổ mồ hôi, xương máu để giành lại độc lập; tự do, xây

dựng một cuộc sống bình đẳng và dân chủ. Gia đình phải là nền tảng của xã hội

mới, phải góp phần bảo vệ những thành quả đã đạt được. Sự quan tâm của Đảng,

Nhà nước đối với vấn đề gia đình sẽ vừa đáp ứng được nhu cầu đổi mới của đất

nước, vừa khai thác những truyền thống tốt đẹp của gia đình cũ, trong đó có những

nhân tố tích cực của Nho giáo.

2/ Đối với giáo dục

2.1/ Ảnh hưởng tích cực

Đề cao việc học tập và giáo dục, Nho giáo đã góp phần quan trọng trong

việc hình thành truyền thống hiếu học, coi trọng sự học tập, coi trọng trí tuệ của

dân tộc ta.

Nho giáo quan niệm điều quan trọng nhất của việc tu thân là học tập. Nho

giáo chỉ ra rằng:

Muốn làm cho cái đức tính mình tỏa sáng ra trong thiên hạ, trước phải lo trị

sửa nước mình. Muốn trị sửa nước mình, trước phải sắp đặt nhà cửa cho chỉnh tề.

Muốn sắp đặt nhà nước mình, trước phải tu tập lấy mình. Muốn tu tập lấy mình,

trước phải giữ lòng dạ cho ngay thẳng. Muốn giữ lòng dạ cho ngay thẳng, trước

phải làm cho cái ý mình thành thật. Muốn làm cho cái ý của mình thành thật trước

phải có tri thức chu đáo. Muốn có tri thức chu đáo, ắt phải nghiên cứu sự vật.

Page 26: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

Việc học tập phải tiến hành trong suốt cuộc đời mỗi con người: Muốn thi

hành những đức nhân, trí, trực, dũng, cương cho đúng đạo, con người trước hết đều

phải học. Đã học học thì phải luôn ghi nhớ "học cho rộng, hỏi cho cùng, nghĩ cho

kỹ, biện cho rành, làm cho siêng".

Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới, việc kế thừa truyền thống ham học, tinh

thần học không biết chán, dạy không biết mỏi của Nho giáo là việc làm hết sức cần

thiết. Hồ Chí Minh từng nói: Muốn xây dựng CNXH trước hết phải có những con

người XHCN. Con người mới XHCN không phải tự nhiên mà có, phải trải qua quá

trình học tập, rèn luyện. Học ở đây không phải là học tập những sách vở thánh hiền

mà là học tập những tri thức khoa học tiên tiến của thời đại. Có nắm vững những

thành tựu của khoa học hiện đại, có kế thừa được những di sản văn hóa của dân tộc

và nhân loại, chúng ta mới có khả năng hội nhập với xu thế, chung của thế giới,

tránh được nguy cơ tụt hậu về kinh tế, đồng thời không bị hòa tan, đánh mất bản

sắc dân tộc và xa rời định hướng XHCN.

Đáng tiếc là hiện nay trong xã hội ta, động cơ học tập vì địa vị, vì danh lợi riêng

của cá nhân mình theo những quan niệm lạc hậu còn khá phổ biến.

Tri thức là thành quả cụ thể và tất yếu của việc học tập. Phải học tập mới có

tri thức. Nếu học tập vì một sự bắt bộc, và những động cơ mưu cầu danh lợi riêng

hay học và những mục đích thực dụng nào đó thì khó có thể đạt kết quả tốt, khó

bảo đảm ý nghĩa và giá trị của tri thức. Quan niệm học vì đỗ đạt, và bằng cấp...

không những không nâng được trình độ văn hóa chung của xã hội mà còn gây tác

hại cho đất nước trong sự nghiệp giáo dục- đào tạo.

Trong thời đại ngày nay, khi trí tuệ trở thành nhân tố quyết định của sự phát

triển thì truyền thống coi trọng giáo dục, học tập của Nho giáo càng có giá trị, nếu

chúng ta biết khai thác, kế thừa.

Nhìn ra các nước ở khu vực - châu Á, có thể thấy rằng tinh hoa của Nho

giáo trong lĩnh vực học tập đã được các nước này khéo léo khai thác và đạt hiệu

quả cao.

Page 27: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

Hàn Quốc trong một thời gian ngắn (vài ba thập kỷ) đã đào tạo được nhiều

chuyên gia có trình độ cao trong các ngành khoa học vào loại tối tân nhất thế giới

như ngành điện tử, tin học, đặc biệt là một lớp người có tài năng quản lý kinh tế hữu

hiệu. Với truyền thống hiếu học của Nho giáo, Hàn Quốc đã đưa một nội dung mới

vào niềm say mê học tập của nhân dân. Nếu trước kia họ tích cực đọc các sách của

Nho giáo từ Khổng Tử, Mạnh Tử đến Chu Hy và Vương Dương Minh thì giờ đây

họ cũng bền bỉ đọc các sách về khoa học kỹ thuật, khoa học quản lý của châu Âu,

của Hoa Kỳ. Chủ động khai thác Nho giáo, Hàn Quốc đã sớm dùng văn hóa giáo

dục làm động lực cho sự phát triển kinh tế. Nhờ đó Hàn Quốc sớm vươn lên tháng

một trong những "con Rồng châu Á" trong vài thập kỷ gần đây. Có thể thấy rõ hơn

điều này qua số liệu sau: Năm 1983 nước này dành cho giáo dục 20,9% tổng ngân

sách, đến năm 1990 lên tới, 22,3% tổng ngân sách quốc gia; Trong khi đó đầu tư

cho kinh tế chỉ chiếm 14,4% và cho phát triển xã hội chỉ chiếm 10,4% tổng ngân

sách quốc gia. Nhờ đó năm 1990 thu nhập bình quân đầu người của Hàn Quốc lên

tới 5.340 USD, đứng thứ 10 trên thế giới.

Ở Nhật Bản, việc áp dụng khoa học hiện đại vào phát triển kinh tế đã bắt

đầu ngay từ thời Minh trị và mỗi ngày mỗi được phát huy. Đây cũng là sự khai thác

khéo léo tinh hoa của Nho giáo trong lĩnh vực học tập. Khác với Trung Quốc, Nhật

Bản coi trọng khoa học để ứng dụng hơn là coi trọng các tri thức để theo đòi khoa

cử. Phải chăng đó cũng là nguyên nhân khiến Nhật Bản có nền công nghiệp phát

triển mạnh mẽ đến vậy?

Với quan điểm coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, văn hóa vừa là

mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội; coi giáo dục đào tạo

là quốc sách hàng đầu, Đảng ta chủ trương: "Tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng

giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung phương pháp dạy và học", "đẩy mạnh phong

trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức chính quy và không chính quy,

thực hiện giáo dục cho mọi người, cả nước trở thành một xã hội học tập".

Một ảnh hưởng tích cực nữa của Nho giáo cần phải nhắc tới là tinh thần

"tôn sư trọng đạo". Coi trọng sự học tập, coi trọng người thầy giờ đây đã trở thành

truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

Page 28: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

Là cây phải có gốc, là sông phải có nguồn. Để trở thành một con người

đúng nghĩa phải có thầy. Nhớ công ơn thầy cũng là đạo lý làm người của người dân

nước Việt.

2.2/ Ảnh hưởng tiêu cực

Kế thừa, vận dụng tinh hoa của Nho giáo trong lĩnh vực học tập, chúng ta

cũng cần chú ý phê phán tư tưởng "hiếu cổ" với ý nghĩa quá cao, cực đoan một

chiều. Tư tưởng này dễ gieo vào lòng người sự "sùng cổ", "nệ cổ". Đây là sự ngăn

trở rất lớn đối với trí tuệ xã hội, kìm hãm sự phát hiện, sự sáng tạo trên lĩnh vực học

thuật nói riêng đến các lĩnh vực hoạt động nói chung.

Sự nghiệp đổi mới ở nước ta bắt đầu trước hết từ việc đổi mới tư duy. Trong

khi đó lối tư duy mang nặng tính giáo điều, kinh nghiệm, bảo thủ của Nho giáo vẫn

còn tồn tại ảnh hưởng không nhớ tới tư duy của đội ngũ cán bộ nước ta. Điều đó đã

gây trở ngại cho sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.

- Trước hết là ảnh hưởng của bệnh giáo điều

Trước thời kỳ đổi mới, ở nước ta đã có tình trạng tất cả phải nói theo kinh

điển, giống với kinh điển. Nhưng các nguyên lý lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin

là những nguyên lý có tính khái quát cao, có giá trị phổ biến. Muốn vận dụng thành

công lý luận đó vào thực tiễn, chủ thể phải khắc phục được khoảng cách giữa lý

luận và thực tiễn, thực hiện nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong

hoàn cảnh cụ thể, lĩnh vực cụ thể. Thực tế cho thấy, không ít trường hợp khi giải

quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn của đất nước đặt ra, chúng ta phải dựa vào

uy tín của các nhà kinh điển để khỏa lấp chỗ non kém, hiểu biết chưa đầy đủ của

mình. Phong cách tư duy đó mang đậm tính kinh nghiệm giáo điều của Nho giáo.

Nếu như trước kia Nho giáo luôn gò ép tư duy và hành động theo lời dạy của

"thánh hiền", bắt lý luận phải theo khuôn mẫu nhà Chu thì trong những năm xây

dựng CNXH trước đổi mới, ở cán bộ ta cũng có hiện tượng bắt suy nghĩ và hành

động nhất theo đúng câu chữ trong kinh điển Mác-Lênin. Các nhà kinh điển của

chủ nghĩa Mác-Lênin đã từng nhắc nhở rằng chủ nghĩa cộng sản không phải là một

trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng hiện thực phải khuôn

Page 29: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

theo, mà là một phong trào hiện thực Việc tuyệt đối hóa các nguyên lý của chủ

nghĩa Mác-Lênin, coi đó là những nguyên lý bất di bất dịch, là khuôn thước cho tư

duy và hành động thực chất là rơi vào chủ nghĩa giáo điều một cách không tự giác,

trái với bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã nghiêm khắc kiểm điểm và chỉ ra

rằng, sự lạc hậu về lý luận của cán bộ ta xảy ra trên một loạt vấn đề như quan niệm

về CNXH, về thời kỳ quá độ lên CNXH, về cách thức và con đường xây dựng

CNXH, về cải tạo XHCN, về cơ chế quản lý kinh tế, phân phối lưu thông, về các

quy luật trong thời kỳ quá độ...

Chỉ khi phải trả giá đắt trong thực tiễn, chúng ta mới nhận ra sai lầm của

mình. Đó là thứ sai lầm giáo điều, máy móc sách vở. Cùng với bệnh giáo điều,

bệnh kinh nghiệm, cũng gây ra những tác hại không nhỏ trong nhận thức và hoạt

động thực tiễn kinh nghiệm là những tri thức quý báu thu được trên cơ sở hoạt

động thực tiễn. Nhưng kinh nghiệm lại là những tri thức còn mang đậm tính cảm

tính, không có khả năng phản ánh toàn diện, sâu sắc bản chất của sự vật. Vì vậy,

khi học tập vận dụng kinh nghiệm của các nước vào quá trình xây dựng CNXH ở

nước ta, đòi hỏi phải có sự sáng tạo, phải khắc phục tính phiến diện, phải tính đến

đặc điểm của Việt Nam. Nhưng trên thực tế chúng ta đã không làm được như vậy.

Chúng ta đã áp dụng nguyên xi kinh nghiệm của các nước, không nhận thức đầy đủ

hoàn cảnh cụ thể của nước nhà. Do đó, chúng ta đã mắc phải những sai lầm nghiêm

trọng. Đúng như Lênin đã từng cảnh báo: "nếu chỉ vì bắt chước, không có tinh thần

phê phán mà đem dập khuôn những kinh nghiệm đó một cách mù quáng vào những

điều kiện khác, vào những hoàn cảnh khác, như thế là phạm sai lầm nghiêm trọng

nhất.... Hồ Chí Minh cũng từng căn dặn: "Không chú ý đến đặc điểm của dân tộc

mình trong khi học tập kinh nghiệm các nước anh em là phạm sai lầm nghiêm trọng".

Học tập theo kiểu tuyệt đối hóa kinh nghiệm của người khác bệ nguyên xi

kinh nghiệm của người khác cũng như kinh nghiệm của bản thân vào một hoàn

cảnh khác là biểu hiện của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, đồng thời cũng là biểu

hiện của bệnh giáo điều.

Page 30: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

- Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đối với đội ngũ cán bộ còn biểu hiện ở

tính bảo thủ.

Trong tư duy của cán bộ lãnh đạo, quản lý nước ta, tính bảo thủ gắn liền với

bệnh kinh nghiệm, giáo điều. Tính bảo thủ sinh ra từ sự cường điệu cái đã có, thậm

chí tuyệt đối hóa nó, coi đó là "khuôn vàng thước ngọc" của tư duy và hành động,

là bất biến.Trước đây, Nho giáo coi xã hội nhà Chu là xã hội lý tưởng, coi vua

Nghiêu, Thuấn là mẫu mực của nhà cầm quyền và mong muốn xã hội đương thời

đi theo các tấm gương đó. Cũng vì hoài cổ, nệ cổ mà giai cấp phong kiến Việt Nam

không chấp nhận bất cứ cái gì khác với các đang hiện tồn. Không phải ngẫu nhiên

mà Nguyễn Trãi đặt nguyện vọng lớn nhất của đời mình vào việc chế độ nhà Lê

theo khuôn mẫu nhà Chu. Không phải ngẫu nhiên nhà Nguyễn khước từ những đề

nghị, cải cách của Nguyễn Trường Tộ, Phạm Phú Thứ... Tất cả là do họ tuyệt đối

hóa đạo "thánh hiền". Trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam, do tuyệt đối

hóa kinh điển, tuyệt đối hóa kinh nghiệm của một số nước cũng như của bản thân

mình, do bắt thực tiễn tuân theo lý luận kinh điển mà một bộ phận cán bộ ta đã làm

mất đi khả năng sáng tạo của mình, bóp nghẹt quy luật vốn có của nó. Tính bảo thủ

làm cho cán bộ ta chậm nhận ra những khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn, chậm

nhận thức được sự không phù hợp của đường lối xây dựng CNXH với yêu cầu thực

tiễn khách quan của đất nước. Tính bảo thủ còn dẫn đến tình trạng cán bộ ta dè dặt

với cái mới, không mạnh dạn ủng hộ cái mới. Ngay cả khi đường lối đổi mới của

Đảng đã hình thành, phát huy tác dụng trong hiện thực, một bộ phận cán bộ vẫn

chưa nhận thức được, chưa ủng hộ đường lối đó.

Như vậy có thể thấy rằng,về thực chất bệnh giáo điều, kinh nghiệm trong

đội ngũ cán bộ nước ta là căn bệnh trong nhận thức, tiếp thu và vận dụng tri thức

vào thực tiễn. Bên cạnh nguyên nhân do trình độ lý luận, tư duy lý luận, tri thức

khoa học còn hạn chế, còn có nguyên nhân do ảnh hưởng tiêu cực của phong cách

tư duy một chiều, lệ thuộc vào sách vở kiểu Nho giáo. Đường lối đổi mới và những

thành quả bước đầu của nó cho thấy bệnh giáo điều, kinh nghiệm đang được từng

bước khắc phục. Tuy vậy những căn bệnh này không dễ dàng mất đi bởi nó đã từng

tồn tại hàng ngàn năm trong tư duy của người Việt Nam. Vì vậy, việc khắc phục

Page 31: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

bệnh giáo điều, kinh nghiệm, bảo thủ là đòi hỏi bức thiết gắn liền với sự nghiệp đổi

mới ở nước ta hiện nay.

Tóm lại, qua sự phân tích trên, có thể thấy rằng, Nho giáo đã từng ảnh

hưởng sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội Việt Nam và cho đến ngày nay -

khi công cuộc đổi mới đang đi vào chiều sâu - thì những ảnh hưởng đó vẫn còn.

Ảnh hưởng đó có phạm vi rộng khắp từ cá nhân cho đến xã hội, từ sinh hoạt cho

đến học tập, công tác. Đối với cá nhân là trong nếp cảm, nếp nghĩ, trong tác phong

và lối sống. Đối với gia đình là trong gia phong, gia pháp. Đối với xã hội là trong

tinh thần và thái độ của con người trước nhiệm vụ và việc làm. Những ảnh hưởng

này cần phải được nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, tránh thái độ phủ

nhận sạch trơn hoặc phục hồi nguyên vẹn. Một mặt, cần khắc phục triệt để những

hạn chế của nó, mặt khác, cần chắt lọc những hạt nhân hợp lý để kế thừa và phát

huy trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Đó cũng là cách đến với hiện đại

bằng sức mạnh của truyền thống để tiếp tục khai thác có hiệu quả những tinh hoa

trong tư tưởng chính trị Nho giáo và loại bỏ những tàn dư của nó đòi hỏi phải có

những giải pháp mang tính khả thi.

KẾT LUẬN

Nho giáo đã tồn tại ở nước ta hơn 2000 năm và đã có những ảnh hưởng sâu

sắc đời sống xã hội của nước ta. Đó là một nền tảng vững chắc cho xã hội phong

kiến Việt Nam trong suốt thời gian dài. Chính vì thế, ngày nay với sự tiếp thu hệ tư

Page 32: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

tưởng mới – hệ tư tưởng Mac - Lênin với tính đúng đắn khoa học và sự tiến bộ

vượt bậc của nó nhưng những tàn dư của hệ tư tưởng cũ vẫn chưa mất đi hoàn toàn.

Nó vẫn còn tồn tại dai dẳng và còn có nhiều yếu tố làm cản trở sự phát triển của xã

hội. Những tư tưởng cũ bao giờ cũng có tính bảo thủ. Nó tồn tại ngay cả khi cơ sở

xã hội của nó đã bị thủ tiêu, chính vì thế mà ngày nay tư tưởng Nho giáo còn gây

trở ngại không ít cho sự nghiệp đổi mới của chúng ta trong giai đoạn hiện nay.

Ngày nay, để xây dựng chủ nghĩa xã hội mau chóng thắng lợi cần phải quét sạch

những tư tưởng không còn phù hợp với giai đoạn hiện nay như tư tưởng đức trị,

nhân trị gây trở ngại cho đường lối pháp trị xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa gia đình,

chủ nghĩa đồng tộc gây trở ngại cho sự động viên tài năng, tư tưởng trọng quan

khinh dân .....Tuy mhiên, Nho giáo vẫn cần thiết được kế thừa có chọn lọc, chẳng

hạn tinh thần củng cố gia đình và liên gia đình, giữ gìn hiếu lễ, lễ nghĩa, kỉ cương

trong gia đình và trong xã hội, giữ gìn sự cân bằng hài hoà trong quan hệ giữa

người với người, sống và làm việc có cộng đồng và đặc biệt phát huy tinh thần hiếu

học, ý thức trách nhiệm .....là rất cần thiết. Kế thừa tinh hoa chọn lọc không có

nghĩa là quay trở lại với Nho học. Chúng ta nghiên cứu Nho giáo nhằm cải tạo hiện

tại và xây dựng tương lai. Chúng ta nghiên cứu Nho giáo khi Nho giáo đã tồn tại

hơn 2000 năm, luôn được cải biến bổ sung và mang các bộ mặt khác nhau qua các

thời kì. Khi chúng ta nghiên cứu về Nho giáo, không thể bỏ qua ý kiến của những

người đi trước, nhưng phải đặt lại toàn bộ dưới ánh sáng khách quan khoa học, gạt

bỏ những sai lầm mà người trước đã sa vào. Chúng ta phải mạnh dạn gạt bỏ những

sai lầm của Nho giáo để tạo điều kiện cho sự thay phát triển của hệ tư tưởng tiến bộ

hơn hệ tư tưởng Mac-Lênin .

Page 33: Những giá trị nho giáo và ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1/ Đại cương triết học Trung Quốc .

- PTS . Doãn Chính - NxB Chính Trị Quốc Gia , 1997

2/ Lịch sử triết học phương Đông .

- Nguyễn Đăng Thục - NxB Thành Phố Hồ Chí Minh , 1991

3/ Nho giáo

- Trần Trọng Kim - NxB Văn Hoá Thông Tin

4/ Một số vấn đề Nho giáo Việt Nam

- Phan Đại Doãn - NxB Chính Trị Quốc Gia , 1998

5/ Nho giáo và văn học Việt Nam

- Trung tâm nghiên cứu triết học khoa học xã hội và nhân văn

6/ Đại cương triết học Việt Nam

- Nguyễn Hùng Hậu

7/ Giáo trình triết học Mac-Lênin

- Bộ giáo dục và đào tạo

- NxB Chính Trị Quốc Gia