những thách thức trong phát triển bền vững

73
1 VIỆN NGHIÊN CỨU XÃ HỘI, KINH TẾ VÀ MÔI TRƯỜNG CÂY CA CAO Ở ĐẮK LẮK VÀ LÂM ĐỒNG: Nhng thách thc trong phát trin bn vng Vit Nam Hà Nội, tháng 01 năm 2014

Upload: phungtuyen

Post on 28-Jan-2017

235 views

Category:

Documents


1 download

TRANSCRIPT

Page 1: Những thách thức trong phát triển bền vững

1

VIỆN NGHIÊN CỨU XÃ HỘI, KINH TẾ VÀ MÔI TRƯỜNG

CÂY CA CAO Ở ĐẮK LẮK VÀ LÂM ĐỒNG: Những thách thức trong phát triển bền vững ở Việt Nam

Hà Nội, tháng 01 năm 2014

Page 2: Những thách thức trong phát triển bền vững

2

Tập thể tác giả

Ths. Lê Quang Bình TS. Đào Thế Anh TS. Hoàng Cầm

Cn. Hoàng Anh Dũng Ths. Nguyễn Trung Dũng

TS. Đào Thế Đức Ths. Trần Hoài

KS. Niê Y Hoàng Ths. Phạm Công Nghiệp

TS. Vũ Hồng Phong TS. Phạm Quỳnh Phương

TS. Lê Kim Sa TS. Mai Thanh Sơn

Ths. Nguyễn Quang Thương

Page 3: Những thách thức trong phát triển bền vững

3

Danh mục các từ viết tắt ACDI/VOCA Tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận của Hoa Kỳ AusAID Cơ quan Phát triển quốc tế Australia BCHTW Ban chấp hành trung ương CASRAD Trung tâm nghiên cứu và phát triển hệ thống nông nghiệp CTMTQG Chương trình mục tiêu quốc gia DANIDA Cơ quan phát triển quốc tế Đan Mạch DFID Cơ quan phát triển quốc tế Anh GDP Tổng thu nhập kinh tế quốc nội GTZ Cơ quan phát triển quốc tế Cộng hòa liên bang Đức HĐND Hội đồng nhân dân ICS Viện Nghiên cứu Văn Hóa, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam iSEE Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường LHQ Liên hợp quốc Mars Inc. Nhà sản xuất Sô cô la lớn của Mỹ NGOs Các tổ chức phi chính phủ NN & PTNN Nông nghiệp và Phát triển nôn thôn NTM Nông thôn mới SA Liên minh vì sự thành công (SUCCESSAlliance) TN&MT Tài nguyên và Môi trường UBND Ủy ban nhân dân USAID Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ USDA Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ VASS Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam VCCC Ban Điều phối Ca cao Việt Nam VND Đồng Việt Nam WASI Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm Tây Nguyên WCF Quỹ Ca cao thế giới

Page 4: Những thách thức trong phát triển bền vững

4

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................................................6

A. GIỚI THIỆU CHUNG ................................................................................................................ 11 1. BỐI CẢNH NGHIÊN CỨU ....................................................................................................................... 11 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ...................................................................................................................... 13 3. KHUNG PHÂN TÍCH ............................................................................................................................. 13 4. ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU ......................................................................................................................... 14 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................................................................... 16

B. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................................................................... 20 PHẦN I: CÂY CA CAO Ở LĂK .................................................................................................... 20

1.1 Thực trạng cây cacao ở huyện Lăk .............................................................................. 20 1.2 Các rào cản tộc người thiểu số tại chỗ tham gia vào sản xuất ca cao ......................... 22

1.2.1 Cây cacao không có lợi thế so sánh ................................................................................. 22 1.2.2 “Cacao kén người trồng” - Kỹ thuật chăm sóc, chế biến khó và rủi ro cao .................... 26 1.2.3. Thiếu sự tương thích với văn hóa tộc người .................................................................. 29 1.2.4. Thiếu niềm tin bởi lợi ích chưa được kiểm chứng .......................................................... 33 1.2.5 Địa phương chưa thực sự đầu tư nguồn lực .................................................................... 37

PHẦN II: CÂY CA CAO Ở EA KAR VÀ ĐẠ HUOAI....................................................................... 39

2.1 Thực trạng cây ca cao ở Ea Kar và Đại Huoai ............................................................. 39 2.2 Các nguyên nhân dẫn đến việc suy giảm diện tích cacao ............................................ 47

2.2.1 Sự yếu thế về hiệu quả kinh tế .......................................................................................... 47 2.2.2 Là cây trồng mới và thứ yếu trong cơ cấu sản xuất và thu nhập của người dân .......... 49 2.2.3 Ca cao được phát cho các hộ không có đất phù hợp ...................................................... 50 2.2.4 Thiếu cơ chế hỗ trợ nông dân về giá và vốn .................................................................... 51 2.2.5. Chú trọng đến việc mở rộng diện tích và bỏ qua chất lượng chăm sóc ......................... 54 2.2.6 Là cây 'nhạy cảm', 'khó tính' và vượt qua tầm kiểm soát về kỹ thuật của người dân ... 55 2.2.7 Thiếu hiểu biết tâm lý nông dân trong sản xuất nông nghiệp ....................................... 60

PHẦN III. VAI TRÒ CỦA CÁC BÊN LIÊN QUAN ......................................................................... 63

1. Nhà nước và các chính sách phát triển cacao .......................................................................... 63 2. Vai trò của các tổ chức tư nhân ................................................................................................. 63 3. Sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ và nhà tài trợ quốc tế .............................................. 66 4. Vai trò của các cơ quan khoa học .............................................................................................. 66

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ....................................................................................................... 68

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................................ 71

Page 5: Những thách thức trong phát triển bền vững

5

Page 6: Những thách thức trong phát triển bền vững

6

Lời nói đầu

Nghiên cứu này do Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) tổ chức thực hiện hai đợt trong giai đoạn từ nửa cuối 2011 đến nửa đầu năm 2013. Đây là một nghiên cứu liên ngành, với sự tham gia của các nghiên cứu viên đến từ Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (Lê Quang Bình, Hoàng Anh Dũng, Vũ Hồng Phong, Nguyễn Quang Thương), Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Lắk (KS. Niê Y Hoàng), Trung tâm nghiên cứu và phát triển hệ thống nông nghiệp, thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Đào Thế Anh, Phạm Công Nghiệp), và các viện thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam như Viện Nghiên cứu Văn hóa (Đào Thế Đức, Phạm Quỳnh Phương, Hoàng Cầm, Trần Hoài, Nguyễn Trung Dũng), Trung tâm Thông tin - Dự báo (Lê Kim Sa), và viện Phát triển Bền vững vùng Trung Bộ (Mai Thanh Sơn). Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của UBND Tỉnh Đắk Lắk, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đắk Lắk, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Lâm Đồng, Ban Dân tộc, Trung tâm Khuyến nông và chính quyền huyện Lắk; Ủy Ban nhân dân huyện Ea Kar (Đắk Lắk), Ủy ban nhân dân huyện Đạ Huoai (Lâm Đồng), chính quyền và nhân dân các xã Yang Tao và Đắk Phơi (huyện Lắk, Đắk Lắk), Ủy Ban nhân dân các xã Cư Huê, Cư Ni và Ea Sar (Ea Kar, Đắk Lắk), Ủy ban nhân dân các xã Đoàn Kết, Phước Lộc và Đọa Ploa (Đạ Huoai, Lâm Đồng), các cán bộ dự án của ACDI/VOCA và Mars Inc tại các địa bàn nghiên cứu, những cán bộ địa phương và những người nông dân trồng ca cao thuộc các tộc người khác nhau vì đã nhiệt tình hợp tác và giúp đỡ chúng tôi trong quá trình thu thập thông tin. Kinh phí để thực hiện dự án nghiên cứu này do Oxfam Novbid (Văn phòng Hà Nội) tài trợ. Các kết quả của nghiên cứu có thể được xem như những đóng góp của iSEE và Oxfam Novbid vào việc tìm hiểu khả năng phát triển bền vững ngành ca cao ở Việt Nam. Nói cách khác, chúng tôi hy vọng rằng những phát hiện của nghiên cứu này sẽ góp phần đảm bảo rằng những người nông dân trồng ca cao ở Việt Nam, nhất là những người thuộc các tộc người thiểu số và những người nghèo, sẽ được hưởng lợi, và không phải chịu những hậu quả không mong muốn, từ các dự án thúc đẩy loại cây trồng này. Chúng tôi xem những phát hiện trình bày trong báo cáo là một phần của một cuộc thảo luận mở, liên tục, và có tính xây dựng về việc phát triển ca cao bền vững ở Việt Nam. Mặc dù chúng tôi đã có nhiều cố gắng nhưng báo cáo này không thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót nhất định. Do vậy, chúng tôi mong muốn nhận được những ý kiến góp ý, phản biện, của tất cả các tổ chức hữu quan và những người quan tâm đến đề tài thú vị này. Chúng tôi tiếp nhận các ý kiến phản hồi tại địa chỉ thư điện tử của Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường [email protected]. Tập thể tác giả

Page 7: Những thách thức trong phát triển bền vững

7

Danh mục các bảng và biểu đồ Bảng 1. Số người tham gia phỏng vấn sâu theo giới tính và tộc người ...................................... 17 Bảng 2. Số người sản xuất ca cao trả lời bảng hỏi phân theo giới tính và tộc người ............ 18 Bảng 3. Hiện trạng trồng cacao ở sáu thôn, buôn tại Đắc Lắc và Lâm Đồng ............................ 46 Bảng 4. Phân tích so sánh hiệu quả kinh tế của cacao, cà phê và tiêu ở Ea Kar, Đắk Lắk .... 48 Bảng 5. Đầu tư cho cacao ở giai đoạn thiết kế cơ bản (VND/ha) .................................................. 48 Bảng 6. Đầu tư cho cacao ở giai đoạn kinh doanh ở Ea Kar, Đắk Lắk (VND/ha) .................... 48 Bảng 7. Thu nhập từ một số cây trồng chính của các hộ nông dân ở Eakar, Đắk Lắk (triệu VND/năm) ......................................................................................................................................................... 49 Bảng 8. Tiêu chuẩn chất lượng ca cao Việt Nam (TCVN 7519) ..................................................... 59 Bảng 9. Diện tích trồng ca cao tại xã Ea Sar phân theo tộc người ................................................ 62 Bảng 10. Một số đặc điểm đất canh tác của nông dân Eakar, Đắk Lắk ....................................... 50 Biều đồ 1. Biến động giá ca cao thế giới từ 01/1995-11/2013 (USD/tấn hạt khô) .............. 52

Page 8: Những thách thức trong phát triển bền vững

8

Giá trị hiện tại thuần và tỷ lệ nội hoàn

Nghiên cứu này sử dụng giá trị hiện tại thuần (NPV) và tỷ lệ nội hoàn (IRR) để xác định hiệu quả kinh tế của các hệ thống sản xuất khác nhau. NPV và IRR càng lớn thì việc đầu tư vào sản xuất của hệ thống đó càng hiệu quả.

Trong đó:

Bt là thu nhập trên 1 ha trong năm thứ t

Ct là chi phí trên 1 ha trong năm thứ t

r là tỷ suất chiết khấu (12%)

n là vòng đời của cây trồng (20 năm)

t là năm thứ t trong vòng đời của cây trồng

Một số mặc định:

+ Giả thiết rằng, tới năm thứ 6 thì sản lượng, các dòng chi phí và doanh thu ở tình trạng ổn định của cây trồng nghiên cứu.

+ Giá công lao động trung bình là 120.000 đồng/công.

+ Giá ca cao lên men: 44.000 đồng/kg.

+ Giá hạt điều: 19.000 đồng/kg.

+ Giá café nhân: 40.000 đồng/kg.

+ Tỷ lệ chiết khấu là 12%.

0

n

NPV = ∑

Bt-Ct

(1+r)t

0

n

∑ =0

(Bt -Ct)

(1+IRR)t

Page 9: Những thách thức trong phát triển bền vững

9

Vài lưu ý về các thông số kỹ thuật 1 sào ở Tây Nguyên: 1000m2 1 ha (mẫu) ở Tây Nguyên: 10000m2 Mật độ trồng tiêu chuẩn: ~800 cây/ha Tỷ lệ che bóng cho cây đến 9 tháng tuổi: 75% Tỷ lệ che bóng cho cây từ 10 đến 18 tháng tuổi: 50% Tỷ lệ cho bóng cho cây từ 19 tháng tuổi trở lên: 25% Vận tốc gió cần phải chắn gió cho ca cao: >12 km/h (gió cấp 3) Các giống ca cao được công nhận: TD1, TD2, TD3, TD5, TD6, TD8, TD10,

TD14 Từ 0 đến 6 tháng tuổi, 1 cây cần được bón: 100 gram phân NPK, chia nhiều lần Từ 7 đến 18 tháng tuổi, 1 cây cần được bón: 400 gram phân NPK, chia nhiều lần Từ 19 đến 30 tháng tuổi, 1 cây cần được bón: 600 gram phân NPK, chia nhiều lần Từ tháng thứ 31, 1 cây cần được bón: 1920 gram NPK để thu 2,5kg hạt/năm

Page 10: Những thách thức trong phát triển bền vững

10

Page 11: Những thách thức trong phát triển bền vững

11

A. GIỚI THIỆU CHUNG

1. Bối cảnh nghiên cứu

Tại Việt Nam, cacao không phải là loại cây trồng mới. Trong khoảng hơn một thế kỷ qua, sự phát triển của cây trồng này đã trải qua nhiều thăng trầm. Ca cao đã được người Pháp đưa vào Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX, ngay sau khi họ nắm được quyền kiểm soát bán đảo Đông dương. Dường như do nhận thấy những khó khăn của việc phát triển ca cao ở Việt Nam, bắt đầu ngay từ năm 1890 chính quyền Pháp đã tổ chức một chương trình lớn nhằm trợ cấp cho nông dân trồng ca cao. Tuy nhiên, sau 17 năm, chương trình này đã bị hủy bỏ do người Pháp nhận thấy cây ca cao không đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt, và điều này có lẽ đã kéo theo sự đi xuống của ngành ca cao non trẻ của Việt Nam (Marou Chocolate Company, 2011). Cây ca cao không được quan tâm trở lại cho đến cuối những năm 1950 thế kỷ thứ XX, khi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tìm cách phát triển ngành nông nghiệp ở miền Nam Việt Nam. Với việc Nha Canh nông tổ chức biên soạn và ấn hành sách hướng dẫn nông dân trồng ca cao, dường như cây trồng này lại một lần nữa được xem là có tiềm năng phát triển (Nha Canh Nông, 1959). Cho dù chúng tôi không tìm thấy tài liệu nào khác nói về việc phát triển ca cao ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975, song hướng đi này của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa rất có thể đã không thể đạt đến một kết quả đáng kể nào do tình trạng xung đột kéo dài và khốc liệt với nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở miền Bắc. Sau khi Việt Nam trở thành một quốc gia thống nhất vào năm 1975, ca cao lại được khuyến khích trồng để xuất khẩu sang Liên Xô và các quốc gia Đông Âu thuộc khối xã hội chủ nghĩa vào những năm 1980. Sự sụp đổ nhanh chóng sau đó của Liên Xô và khối Đông Âu vào đầu những năm 1990 có thể đã là nguyên nhân cơ bản khiến cho ca cao thêm một lần nữa lỡ cơ hội trở thành một cây trồng chính trong cơ cấu của ngành trồng trọt Việt Nam (Marou Chocolate Company, 2011). Trong khoảng 10 năm gần đây, cây ca cao lại thu hút được sự chú ý mạnh mẽ ở Việt Nam. Sự suy giảm kéo dài trong giai đoạn 2000-2005 của giá cà phê, cây trồng chủ lực của Việt Nam với giá trị xuất khẩu đạt vài tỉ đô la Mỹ mỗi năm, có thể là lý do chính dẫn tới sự chú ý này (Dang Thanh Hà & Shively, 2005). Tuy nhiên, các đánh giá về triển vọng của ca cao ở Việt Nam bao gồm cả các ý kiến lạc quan lẫn thận trọng. Nhìn chung, đánh giá của các đại diện các công ty trong và ngoài nước có kinh doanh mặt hàng ca cao, hoặc các cán bộ trong ngành ca cao Việt Nam, thường là lạc quan. Với họ, cây ca cao thường được cho là một hướng thoát nghèo mới cho nông dân (Lê Tuấn, 2012), hay là một cây trồng mà Việt Nam sẽ thành công giống như đã thành công đối với cây lúa và cây cà phê trong quá khứ (Ái Vân, 2011). Bên cạnh những phát biểu lạc quan và những kế hoạch tham vọng, các ý kiến bày tỏ thái độ thận trọng đối với việc phát triển ca cao cũng đã xuất hiện không ít. Vào năm 2008, Agrifood Consulting International đã có một báo cáo trình bày những nhận định tích cực về triển vọng của cây ca cao ở Việt Nam nhưng cũng đồng thời cảnh báo về nguy cơ sâu bệnh làm ảnh hưởng đến sự phát triển cây ca cao. Theo báo cáo này, ‘mặc dù hiện nay sâu

Page 12: Những thách thức trong phát triển bền vững

12

bệnh vẫn chưa ở mức đáng báo động, sự bùng phát sâu bệnh là một rủi ro nghiêm trọng mà ngay bây giờ, trong thời kỳ vẫn còn sơ khai của ngành sản xuất ca cao, Việt Nam cần có sự chuẩn bị để đối phó’ (Agrifood Consulting International, 2008: 3). Trong một hội thảo quốc tế về ca cao ở Việt Nam, một Thứ trưởng Bộ NN&PTNT, sau khi lắng nghe nhiều báo cáo về thực trạng phát triển cây ca cao ở nhiều địa phương, đã không đề cập đến việc mở rộng diện tích, mà nhấn mạnh rằng “trong thời gian tới, việc phát triển cây ca cao cần phải theo hướng bền vững trên cơ sở thâm canh nhằm tăng khối lượng sản phẩm hàng hóa, tăng hiệu quả kinh tế trên đơn vị diện tích đất, nâng cao thu nhập cho người dân và bảo vệ môi trường” (Bộ NN&PTNT, 2011). Cũng đã có cảnh báo rằng sau gần mười năm tham gia vào thị trường ca cao thế giới, Việt Nam vẫn chưa phát triển được công nghiệp chế biến ca cao thành phẩm (bánh, kẹo làm từ cacao), vốn đem lại lợi ích lớn gấp nhiều lần so với việc bán ca cao thô (hạt lên men). Các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ thu được lợi nhuận khiêm tốn từ việc thu mua ca cao tươi từ nông dân rồi sơ chế, lên men, và bán lại cho các công ty lớn như Cargill (thu mua đến 80% sản lượng ca cao Việt Nam) và ED & Man (Phan Lê, 2012). Những khoản hỗ trợ có giá trị hàng triệu đô la của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ và Cơ quan Phát triển Hoa Kỳ, sự tăng liên tục của giá ca cao thế giới giai đoạn 2005-2007 và sự thành công ban đầu của các dự án do SUCCESS Alliance hỗ trợ từ năm 2003 ở một số tỉnh thuộc Tây Nam Bộ có thể được xem là những yếu tố thúc đẩy nhà nước Việt Nam ban hành các chính sách lớn về ca cao trong một thời gian tương đối ngắn. Cụ thể, Bộ NN&PTNN đã thành lập ra Ban điều phối Ca cao Việt Nam (VCCC) vào năm 2005 nhằm hỗ trợ việc xây dựng và thực hiện cách chính sách liên quan tới việc phát triển ngành ca cao. Cũng trong năm 2005, bộ tiêu chuẩn về chất lượng ca cao đã được xây dựng và ban hành (Bộ Khoa học và Công nghệ, 2005) với sự tư vấn, giúp đỡ của SUCCESS Alliance. Chỉ hai năm sau, khi những bằng chứng về sự thành công của cây ca cao mới chỉ dừng lại ở các dự án do SUCCESS Alliance hỗ trợ, Bộ NN&PTNN đã ban hành quyết định số 2678/2007/QĐ-BNN-KH, trong đó đặt ra mục tiêu đạt được 60,000 ha ca cao vào năm 2015 và 80,000 ha vào năm 2020.

Nếu những mục tiêu nói trên trở thành hiện thực, thì Việt Nam sẽ đứng vào hàng ngũ năm quốc gia xuất khẩu ca cao nhiều nhất thế giới, xếp sau Bờ Biển Ngà, Ghana, Brazil và Cameron. Tuy nhiên, cho đến nay, diện tích ca cao của Việt Nam mới chỉ đạt khoảng 25 ngàn ha (hơn 1/3 mục tiêu đặt ra), trải rộng trên 15 tỉnh, nhưng tập trung chủ yếu ở Tây Nam Bộ và Tây Nguyên. Trên phương diện lý thuyết, để chuẩn bị cho việc phát triển cây cacao, ở Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau. Những năm 1990, các nhóm cán bộ Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh và Đại học Cần Thơ đã tiến hành nhiều đợt đánh giá về triển vọng phát triển cây cacao tại các tỉnh miền Tây Nam bộ và Tây Nguyên. Sau khi thực hiện các mô hình thí điểm ở các tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông, nhóm cán bộ khoa học thuộc Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh đã có báo cáo khuyến nghị giải pháp mở rộng diện tích cacao ở các địa phương này. Trên phương diện thực tiễn, cây cacao được đánh giá là phát triển tương đối tốt ở các tỉnh miền Đông và nhất là ở miền Tây Nam bộ. Tuy nhiên, tại các tỉnh Tây Nguyên, tình hình không khả quan như dự tính ban đầu. Chẳng hạn như ở Đắc Lắk, UBND tỉnh Đắk Lắk (cũ) ban hành Quyết định số 821/QĐ-UB năm 2002 về việc phê duyệt dự án quy hoạch vùng phát triển cây cacao trên địa bàn tỉnh đến năm 2010 là 10,000ha (sau này, khi tách tỉnh, diện tích

Page 13: Những thách thức trong phát triển bền vững

13

cacao được quy hoạch nằm trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk là 6,000ha). Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, lại được sự hỗ trợ của nhiều tổ chức quốc tế cũng như các cơ sở khoa học trong nước, nhưng đến năm 2010, diện tích cacao toàn tỉnh chỉ đạt 1,935ha, xấp xỉ 1/3 kế hoạch đề ra trong Quyết định số 821/QĐ-UB.

Thực tế này tại Tây Nguyên đòi hỏi phải có những nghiên cứu lý giải. Đặc biệt, việc tìm hiểu khả năng tham gia chuỗi giá trị cacao của các tộc người thiểu số tại chỗ cũng như những tộc người di cư, cho đến nay vẫn còn là mảng trống.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu này do Viện Nghiên cứu Xã hội- Kinh tế và Môi trường (iSEE) khởi xướng với hai đợt nghiên cứu nhằm hai mục tiêu cụ thể:

Nghiên cứu đợt 1 (2011-2012) đặt mục tiêu tìm hiểu sự tham gia của người dân tộc thiểu số tại chỗ vào chuỗi sản xuất cacao; những nguyên nhân và rào cản (nếu có) cho sự tham gia của họ vào việc trồng một loại cây vốn đã được hậu thuẫn từ chính sách và các nhà tài trợ. Nghiên cứu này được tiến hành tại cộng đồng người M'nông ở huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk.

Nghiên cứu đợt 2 (2012-2013) đặt mục tiêu tìm hiểu thực trạng phát triển cây cacao ở các vùng được đánh giá là "thành công" tại Tây Nguyên. Với sự gợi ý giới thiệu của cán bộ ACDI/VOCA cũng như phòng nông nghiệp địa phương, nghiên cứu đợt 2 được chọn tiến hành ở huyện Ea Kar tỉnh Đắk Lắk và huyện Đạ Huoai tỉnh Lâm Đồng.

Như vậy, nếu như nghiên cứu tiến hành năm 2011 tập trung khảo sát ở các tộc người thiểu số tại chỗ, thì nghiên cứu năm 2012-2013 của chúng tôi tìm hiểu cả các tộc người thiểu số di cư từ phía Bắc và người Kinh di cư vào Tây Nguyên. Trên cơ sở này, chúng tôi mong muốn có cái nhìn so sánh để đưa ra một số đánh giá chung về việc phát triển cacao ở Tây Nguyên nói riêng, ở Việt Nam nói chung. Cuốn sách này là kết quả tổng hợp khái quát nghiên cứu của cả 2 đợt tại huyện Lăk, huyện Ea Kar (Đắk Lắk) và Đạ Huoai (Lâm Đồng).

3. Khung phân tích

Các nghiên cứu trước đây về cacao chủ yếu tập trung phân tích chuỗi giá trị ngành hàng cacao: dịch vụ cung ứng đầu vào (đất đai, lao động, vườn ươm và cây giống, các dòng tiền đầu tư, phân bón, thuốc trừ sâu hại dịch bệnh, sự hỗ trợ kỹ thuật của các nhà khoa học trong nước và ủng hộ tài chính của các tổ chức quốc tế); sản xuất cacao (trồng, chăm sóc và thu hái); dịch vụ đầu ra (thu mua trái tươi, lên men, phơi, sấy) và thị trường tiêu thụ. Cách tiếp cận này giúp hình dung rõ ràng các mắt xích trong chuỗi sản phẩm, cũng như sự tham gia của người dân trong các mắt xích đó. Tuy nhiên, việc tiếp cận theo chuỗi giá trị có thể bỏ qua yếu tố văn hóa bản địa và những rào cản về văn hóa đối với sự chấp nhận cây cacao trong đời sống của tộc người thiểu số. Là một cây trồng ngoại lai được du nhập từ bên ngoài, cây cacao có chỗ đứng trong đời sống của người dân tộc thiểu số hay không, không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố môi trường và kinh tế, mà còn phụ thuộc rất lớn vào bối cảnh văn hóa.

Page 14: Những thách thức trong phát triển bền vững

14

Từ góc độ lý thuyết, theo một số nhà nhân học văn hoá, việc tiếp nhận các thực hành và thành tố văn hoá (cây trồng, ý tưởng, tri thức, vật dụng, mẫu hành vi, v.v...) từ một nền văn hoá khác là một hiện tượng phổ biến trong hầu hết các xã hội của loài người từ trước đến nay. Linton (1936) cho rằng 90% thực hành văn hoá của các truyền thống văn hoá đều có nguồn gốc từ bên ngoài. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng bản chất của quá trình ‘cho - nhận’ văn hoá mang tính lựa chọn cao, tức là không phải thực hành hay thành tố văn hoá mới nào cũng được chủ nhân của các nền văn hoá khác tiếp nhận một cách nhanh chóng và dễ dàng. Quá trình tiếp biến văn hóa ở các tộc người là sự tiếp xúc, chọn lọc, tái tạo và bản địa hóa/bản tộc hóa các tri thức được đưa đến từ bên ngoài.

Theo Rogers trong tác phẩm Sự khuếch tán của đổi mới (Diffusion of Innovations) (1962), có bốn yếu tố tác động đến sự lan truyền của một ý tưởng hay thực hành mới: sự đổi mới, kênh thông tin/giao tiếp, thời gian, và hệ thống xã hội. Nói cách khác, một sự đổi mới hay thực hành mới được truyền bá/giao tiếp thông qua những kênh nhất định và trong khoảng thời gian nhất định để tác động đến các thành viên của một hệ thống xã hội. Quá trình để một cá nhân chấp nhận một sự đổi mới thường thông qua 5 giai đoạn: có kiến thức (knowledge), bị thuyết phục (persuasion), ra quyết định (decision), thực hành (implementation), và khẳng định (confirmation). Theo Roger (1962), một hay các thực hành và thành tố văn hoá mới chỉ thuyết phục được và có ảnh hưởng đến việc ra quyết định của một cá nhân trong việc chấp nhận hay từ chối thực hành đó khi được hội tụ 5 điều kiện: 1) được người dân coi là có giá trị vượt trội hơn so với những thực hành đã và đang tồn tại; 2) có sự tương thích với hệ thống văn hoá bản địa; 3) đủ đơn giản để hiểu và thực hành; 4) có khả năng kiểm chứng được thông qua thực hành; và 5) thành công có thể quan sát được.

Dựa vào cách tiếp cận này, chúng tôi sẽ phân tích thực trạng của cây cacao ở một số cộng đồng ở Đắk Lắk và Lâm Đồng, từ đó soi chiếu xem liệu cây cacao có điều kiện để phát triển bền vững tại các địa bàn nghiên cứu, cũng như những nguyên nhân của thực trạng đó. Những câu hỏi đặt ra trong nghiên cứu bao gồm việc tìm hiểu những khó khăn hay thuận lợi nào thúc đẩy người dân tộc thiểu số nói riêng và người dân tại các địa bàn nghiên cứu nói chung tham gia và hưởng lợi từ sản xuất cacao? Liệu cây cacao có lợi ích vượt trội hơn các cây trồng đang được canh tác? Cây cacao có sự tương thích với bối cảnh văn hóa và môi trường của địa bàn? Kỹ thuật canh tác có đủ dễ hiểu để người dân làm theo? Và sự "thành công" của việc trồng cacao có được những người khác thừa nhận, và là động lực cho họ cùng tham gia sản xuất?..vv Trả lời những câu hỏi này sẽ góp phần tìm ra lời giải phần nào cho vấn đề cây cacao ở vùng Tây Nguyên.

4. Địa bàn nghiên cứu

Huyện Lắk

Huyện Lắk nằm ở phía đông nam của tỉnh Đắk Lắk, cơ bản là một huyện thuần nông với phần lớn diện tích tự nhiên là đất nông - lâm nghiệp. Thổ nhưỡng, khí hậu của huyện Lắk thích hợp cho việc trồng lúa nước, các loại hoa màu (ngô, sắn) và các loại cây công nghiệp ngắn ngày (mía, lạc, đậu đỗ). Vì vậy, nông nghiệp huyện Lắk chủ yếu dựa vào hệ thống

Page 15: Những thách thức trong phát triển bền vững

15

canh tác các loại cây lương thực có hạt,1 diện tích trồng cây công nghiệp lâu năm (cà phê, tiêu, điều…) chỉ có 2.515ha.2 Là hai địa bàn được chọn trong nghiên cứu đợt 1, xã Yang Tao nằm ở khu vực phía Bắc và xã Đắk Phơi nằm ở phía Nam trung tâm huyện Lắk. Tính đến tháng 6 năm 2011, xã Yang Tao có 1.707 hộ gia đình với 7.779 nhân khẩu, hơn 92.5% dân số của cả xã là người M’nông, số còn lại là người Kinh, người Ê-đê và một bộ phận ,nhỏ người Thái mới di cư đến.3 Tính đến tháng 9 năm 2011, xã Đắk Phơi có 3.093 hộ gia đình với hơn 5.500 nhân khẩu; khoảng 61,7% dân số của cả xã là người M’nông, số còn lại là người Kinh và các tộc Tày, Nùng, Mường, Thái mới di cư đến trong những năm 1980 từ các tỉnh miền núi phía Bắc.4

Với quyết định số 821/QĐ-UB vào năm 2002, huyện Lắk là một trong những huyện nằm trong vùng dự án quy hoạch vùng phát triển cây cacao trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Nghiên cứu tại huyện Lắk chỉ tập trung vào việc canh tác cây cacao ở cộng đồng người M'nông ở hai xã kể trên.

Huyện Eakar Ea Kar là huyện được đánh giá là có mô hình phát triển cây ca cao thành công nhất trong tỉnh Đắk Lắk, nơi có diện tích trồng ca cao lớn nhất (chiếm 47,9% tổng diện tích ca cao của tỉnh) với tốc độ mở rộng diện tích ca cao nhanh nhất (chiếm 50% diện tích trồng mới trong năm 2011 của tỉnh). Một số vườn ca cao tại Ea Kar đã được lựa chọn làm mô hình trình diễn và Trung tâm Phát triển Ca cao (CDC) đầu tiên cũng đã được xây dựng tại đây. Ea Kar còn là nơi định cư lâu đời của người Êđê, tộc người có dân số lớn nhất trong số các nhóm tộc người thiểu số tại chỗ của tỉnh. Trong huyện Ea Kar, ba xã được lựa chọn để nghiên cứu theo tiêu chí xã có diện tích trồng ca cao lớn nhất (xã Ea Sar, 126 hecta), xã có diện tích ca cao ở mức trung bình (xã Cư Ni, 88 hecta) và xã có diện tích ca cao ít nhất trong huyện (xã Cư Huê, 9 hecta). Huyện Đạ Huoai

Huyện Đạ Huoai, tỉnh Lâm Đồng có bốn câu lạc bộ trồng cacao phần lớn là người dân tộc tại chỗ (Châu Mạ, Cơ Ho). Nhờ có dự án “Phát triển sản xuất Ca cao bền vững tại các nông hộ tại huyện Đạ Huoai” do ACDI/VOCA thực hiện, diện tích ca cao ở Đạ Huoai đã tăng nhanh chóng từ 64,4 ha vào năm 2007 tới 522,9 ha vào năm 2012. Với diện tích cacao chiếm gần một nửa diện tích cacao của toàn tỉnh, Đạ Huoai cũng được các cán bộ khuyến nông địa phương coi là một nơi thành công trong việc trồng cacao. Hai xã mà chúng tôi là lựa chọn để làm khảo sát là Phước Lộc và Đoàn Kết. Đây là những địa bàn có diện tích ca cao lớn và đang có các câu lạc bộ ca cao hoạt động. Hơn nữa, tại các địa bàn này ca cao đã đến thời gian thu hoạch nên có thể bước đầu đánh giá được hiệu quả kinh tế.

1 Toàn huyện có khoảng 7,618ha ruộng nước 2 vụ; 5,796ha đất trồng mầu, các loại cây công nghiệp hàng năm và

rau đậu. 2 Phòng Thống kê huyện Lắk (2011) “Niên giám thống kê 2010”, tr.15. 3 UBND xã Yang Tao (2011): Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc

phòng – an ninh 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2011. 4 Chi cục Thống kê huyện Lắk (2011): Niên giám Thống kê huyện Lắk năm 2010.

Page 16: Những thách thức trong phát triển bền vững

16

5. Phương pháp nghiên cứu

Tại huyện Lăk

Nghiên cứu đợt 1 tại huyện Lắk được thực hiện theo phương pháp định tính, chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu nhân học (quan sát tham gia, thảo luận nhóm, phỏng vấn sâu), có sự kết hợp với việc tham khảo tài liệu thành văn (lưu trữ ở trung ương và địa phương). Trong quá trình viết báo cáo, nguồn tài liệu nghiên cứu thực địa được coi là chất liệu ưu tiên.

Các nguồn tài liệu thành văn được nhóm nghiên cứu tham khảo gồm có: i) Các báo cáo công tác thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội - đảm bảo an ninh quốc phòng của các cấp chính quyền địa phương từ tỉnh, huyện và xã; ii) Báo cáo Tình hình thực hiện đề án 6,000ha Cacao năm 2011 và văn kiện Đề án Phát triển cây Cacao tỉnh Đắk Lắk đến năm 2015 của Sở NN&PTNT tỉnh Đắk Lắk; iii) Báo cáo Tổng kết thực hiện dự án “Phát triển sản xuất Cacao bền vững tại các nông hộ” của Trung tâm Khuyến nông tỉnh Đắk Lắk; iv) Những nghiên cứu về cây cacao ở Việt Nam đã được thực hiện bởi các tổ chức trong và ngoài nước; và v) Các bài báo phản ánh những vấn đề xung quanh cây cacao tại tỉnh Đắk Lắk và các địa phương khác.

Nguồn tư liệu thực địa được thu thập thông qua phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm trong chuyến nghiên cứu tại địa bàn vào tháng 11/2011. Có hai nhóm đối tượng chính được lựa chọn để phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm.

Nhóm đối tượng thứ nhất là cán bộ của các cơ quan ban ngành và các tổ chức, doanh nghiệp (từ cấp tỉnh đến cấp xã) tham gia trực tiếp vào việc triển khai các hoạt động giới thiệu và phát triển cây cacao ở địa bàn như Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ban dân tộc, Hội Phụ nữ, UBND (tỉnh, huyện, xã), công ty Cargill, Cao Nguyên Xanh, Adivoca, v.v...

Nhóm đối tượng thứ hai được lựa chọn phỏng vấn là người dân ở hai xã Yang Tao và Đăk Phơi. Trong nhóm đối tượng này, nhóm nghiên cứu đã thực hiện các cuộc phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm (2 cuộc thảo luận ở xã Đắk Phơi và 2 cuộc ở Yang Tao) với chủ nhiệm và các thành viên của các câu lạc bộ cacao (được thành lập từ năm 2007) cũng như một số người dân đã từng tham gia nay đã bỏ hoặc chưa tham gia trồng cây cacao. Nội dung của các cuộc phỏng vấn và thảo luận tập trung xoay quanh các vấn đề như tập quán sinh kế và sinh hoạt văn hoá truyền thống của tộc người, trải nghiệm cá nhân và cộng đồng trong việc tiếp nhận và phát triển các loại cây công nghiệp phi bản địa như cà phê, điều và cacao, đặc biệt là các trải nghiệm về kỹ thuật, hiệu quả kinh tế, thị trường (đầu ra và đầu vào), tri thức địa phương về điều kiện tự nhiên và cây trồng ở địa bàn, v.v...

Các cuộc phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm chủ yếu được tiến hành bằng tiếng Kinh với sự trợ giúp của các phiên dịch là người địa phương. Riêng hai cuộc thảo luận nhóm với chủ nhiệm và các thành viên của các câu lạc bộ cacao ở xã Yang Tao được thực hiện bằng tiếng M’nông do một số thành viên của câu lạc bộ không nói được tiếng phổ thông. Sau đó, các phát hiện chính từ hai cuộc thảo luận nhóm này được các nhóm trưởng trình bày lại cho đoàn nghiên cứu bằng tiếng Kinh. Do đạo đức nghiên cứu, chúng tôi không đưa tên tuổi cụ thể những người trả lời phỏng vấn vào công trình này.

Page 17: Những thách thức trong phát triển bền vững

17

Nghiên cứu tại huyện Eaka và Đạ Huoai Chúng tôi bắt đầu nghiên cứu đợt 2 bằng việc xem xét một cách tổng quan những phát hiện nghiên cứu liên quan đến ca cao, các báo cáo, kế hoạch phát triển cacao của các cấp tỉnh, huyện, xã, và những số liệu thống kê của các tổ chức quốc tế có quan tâm đến cacao. Ngoài ra, nếu như nghiên cứu cộng đồng người M'nông ở huyện Lắk chỉ sử dụng phương pháp định tính, thì nghiên cứu đợt 2 ở huyện Ea Kar và Đạ Huoai đã sử dụng cả các phương pháp thu thập thông tin và phân tích dữ liệu định tính (thông qua các phỏng vấn sâu và các thảo luận nhóm tập trung) và định lượng (thông qua các bảng hỏi cấu trúc), như trình bày dưới đây. Về nghiên cứu định tính: Chúng tôi đã thực hiện 88 phỏng vấn sâu với người dân trồng ca cao và một số ít cán bộ địa phương và đại diện doanh nghiệp ở các xã thuộc huyện Đạ Huoai (Lâm Đồng) và Ea Kar (Đắk Lắk). Trong đó, 46 người là dân tộc thiểu số tại chỗ (Ê đê, Xơ đăng, Châu Mạ, K’ho), 16 người là dân tộc thiểu số di cư từ miền Bắc vào, và 26 người là dân tộc Kinh. Các thông tín viên này bao gồm những người trồng cacao ‘thành công’, người đã trồng nhưng thất bại, một số ít người không trồng, thuộc cả các cộng đồng tộc người tại chỗ và di cư từ Bắc vào. Sự khác biệt về giới (nam/nữ) và thế hệ (già/trẻ) cũng được lưu ý khi lựa chọn thông tín viên và được trình bày trong bảng 1 dưới đây.

Dân tộc Nữ Nam Tổng số

Châu Mạ 9 (29%) 13 (22.8%) 22

Cơ Ho 1 (3.2%) 1 (1.8%) 2

Ê đê 7 (22.6) 15 (26.3%) 22

Kinh 6 (19.4%) 20 (35.1%) 26

Nguồn (Mường) 2 (6.5%) 1 (1.8%) 3

Tày, Nùng 6 (19.4%) 7 (12.3%) 13

Tổng số 31

(100%) 57 (100%) 88 Bảng 1. Số người tham gia phỏng vấn sâu theo giới tính và tộc người

Phỏng vấn sâu cũng được tiến hành đối với các cán bộ địa phương (cán bộ của các phòng Nông nghiệp, Địa chính, Văn hoá và Dân tộc, cán bộ Trạm Khuyến nông, cán bộ Mặt trận Tổ quốc, và Hội Phụ nữ), các doanh nghiệp (đại diện của tập đoàn Mars, chủ các công ty cung cấp giống, phân hoá học, thuốc bảo vệ thực vật, thu mua và chế biến nông sản, chủ nhiệm hợp tác xã ca cao …), và thành viên các tổ chức phi chính phủ tại địa phương. Phương pháp này cung cấp những thông tin cụ thể về thực hành, trải nghiệm cũng như quan điểm của các tác nhân khác nhau và những ngôn thuyết hiện tại về phát triển ca cao. Trong khi phân tích các thông tin định tính, chúng tôi đã chú ý tới các ý kiến hay quan điểm xuất hiện lặp đi lặp lại qua các phỏng vấn sâu và đối chiếu chúng với những thông tin thu được từ các phương pháp khác để làm tăng mức độ tin cậy cho các giải thích trong báo cáo.

Page 18: Những thách thức trong phát triển bền vững

18

Bên cạnh các phỏng vấn sâu, chúng tôi đã tiến hành sáu thảo luận nhóm tại năm thôn/buôn của các xã Cư Ni và Ea Sar (Ea kar, Đắk Lắk) và một thôn của xã Đoàn Kết (Đạ Huoai, Lâm Đồng). Trung bình, mỗi thảo luận nhóm có khoảng 8 đến 10 người trồng cacao tham gia (nhóm ít nhất có 4 người, nhóm nhiều nhất có 15 người). Cùng với thông tin từ các phỏng vấn sâu, thông tin từ các cuộc thảo luận nhóm giúp chúng tôi xác định được nhận thức chung của người dân về thực trạng phát triển ca cao ở từng thôn, buôn. Người tham gia thảo luận nhóm được đề nghị vẽ bản đồ thôn, buôn, và xác định những hộ trồng cao cao và những hộ đã không còn trồng ca cao. Sau đó, họ được yêu cầu thảo luận về những lý do dẫn đến quyết định trồng cacao, những thành công, thách thức họ gặp phải và những giải pháp đối với những trở ngại đó. Về nghiên cứu định lượng: Chúng tôi đã sử dụng một bảng hỏi gồm nhiều câu hỏi được xây dựng nhằm mục đích đo lường hiệu quả kinh tế của hệ thống cây trồng có cacao. Bảng hỏi này gồm có bốn phần chính: thông tin chung của hộ (giới tính, tuổi, trình độ học vấn, thu nhập gia đình, số nhân khẩu trong gia đình); hệ thống sản xuất của hộ (gồm diện tích đất nông nghiệp, diện tích đất trồng lúa); chi phí và thu nhập của một số loại cây công nghiệp (ca cao, cà phê, điều, và tiêu); các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất ca cao (chính sách, đất đai, khí hậu, thị trường, tín dụng). Chúng tôi đã sử dụng bảng hỏi này để thu thập thông tin từ 50 tác nhân, bao gồm 44 người sản xuất ca cao (15 người Êđê, 13 người Tày, 16 người Kinh), hai nhân viên công ty và bốn nhà quản lý ở địa phương. Tuy nhiên, chỉ có thông tin từ 44 trường hợp sản xuất ca cao được đưa vào phân tích. Phân bố theo giới tính và tộc người của những người này được trình bày trong bảng 2 dưới đây.

Giới tính

Ê đê Tày Kinh Trung bình

Số người % Số người % Số người % Số

người % Nam 15 100 8 61,5 9 56,2 32 72,7 Nữ 0 0 5 38,5 7 43,8 12 27,3 Tổng 15 100 13 100 16 100 44 100

Bảng 2. Số người sản xuất ca cao trả lời bảng hỏi phân theo giới tính và tộc người

Việc chọn mẫu điều tra được tiến hành có chủ định: mẫu nghiên cứu được lựa chọn trong ba xã theo tiêu chí xã trồng nhiều ca cao, xã trồng vừa, và xã trồng ít (dựa theo số liệu thống kê của huyện). Trong mỗi xã, các hộ trồng ca cao được lựa chọn phỏng vấn theo cách thuận tiện do chúng tôi đã không thể có được một danh sách đầy đủ và cập nhật về các hộ hiện đang trồng ca cao ở các địa bàn nghiên cứu để có thể chọn một cách hoàn toàn ngẫu nhiên. Các số liệu thu được đã được dùng để tính toán giá trị hiện tại thuần (NPV) và tỷ lệ nội hoàn (IRR) để xác định hiệu quả kinh tế của các hệ thống sản xuất khác nhau (NPV và IRR càng lớn thì việc đầu tư vào sản xuất của hệ thống đó càng hiệu quả - xin xem chi tiết ở phần phụ lục). Các giá trị này, cùng với các phát hiện từ phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm và các quan sát thực địa, cho phép đánh giá hiệu quả kinh tế của hệ thống nông nghiệp có cacao và rộng hơn là vai trò của cây ca cao trong hoạt động kinh tế địa phương. Như nhiều nghiên cứu khác, nghiên cứu này cũng có một số điểm hạn chế, chủ yếu liên quan đến phần thu thập và phân tích số liệu định lượng. Thứ nhất, thời điểm tiến hành

Page 19: Những thách thức trong phát triển bền vững

19

nghiên cứu chưa thật phù hợp do cây ca cao hiện còn ở Đắk Lắk nói chung và huyện Ea Kar nói riêng chủ yếu trồng nhiều trong 2 năm: 2007 và 2008. Tuổi của cây ca cao ở thời điểm nghiên cứu là khoảng 5 – 6 tuổi nên mới cho thu hoạch được 2-3 năm và năng suất còn thấp, chưa ổn định. Thứ hai, mẫu nghiên cứu định lượng là nhỏ và không thực sự đại diện cho toàn bộ các hộ trồng ca cao trong khu vực nghiên cứu. Cụ thể, tổng số mẫu điều tra là 50 người, trong đó chỉ có 44 hộ sản xuất ca cao và được chọn lựa theo cách thuận tiện ở các xã được chọn. Thứ ba, số liệu thu thập được bằng phương pháp điều tra hồi cố (hỏi về các sự kiện đã xảy ra vài năm trước) thường có thể bao gồm cả những ước đoán sai hoặc nhầm lẫn của người trả lời. Mặc dù có những hạn chế này, các kết quả phân tích định lượng về hiệu quả kinh tế của cây cacao dựa trên mẫu này vẫn đáng tin cậy bởi hai lý do. Thứ nhất, các phát hiện từ phân tích định lượng là khá trùng hợp với các phát hiện từ phân tích thông tin thu được từ phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm, và các quan sát thực địa. Sự trùng hợp này cho thấy thông tin từ 44 hộ trồng cacao mà chúng tôi đã chọn ra một cách thuận tiện đã không bị sai lệch nhiều so với thực tế. Thứ hai, các mẫu nghiên cứu tuy đã không được chọn ra một cách ngẫu nhiên theo đúng quy tắc thống kê (do chúng tôi đã không có được một danh sách hoàn chỉnh các hộ sản xuất ca cao), nhưng chúng đều nằm trong các địa bàn được coi là ‘thành công’ về phát triển cây ca cao. Nhiều hộ trong số này đã được những cán bộ khuyến nông hay cán bộ dự án phát triển cacao ở địa phương giới thiệu cho chúng tôi như là mô hình thành công. Do vậy, thông tin từ mẫu nghiên cứu này là không quá sai lệch so với thực tế. Để đảm bảo rằng quyền lợi của những người tham gia nghiên cứu này không bị ảnh hưởng bởi những thông tin họ cung cấp, chúng tôi cũng đã đổi tên hoặc không đề cập đến tên của đa số người trả lời có ý kiến được trích dẫn trong công trình. Chúng tôi chỉ nêu tên thật của họ khi họ đã cho phép chúng tôi làm điều này, và khi chúng tôi biết chắc rằng việc tiết lộ tên thật không làm ảnh hưởng tới họ dưới bất kỳ hình thức nào.

Page 20: Những thách thức trong phát triển bền vững

20

B. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

PHẦN I: CÂY CA CAO Ở LĂK

1.1 Thực trạng cây cacao ở huyện Lăk

Tại Đắk Lắk (cũ), những cây cacao đầu tiên được người Pháp đưa vào trồng thử ở Buôn Hồ, nhưng vì nhiều lý do, cacao đã không thể phát triển. Giữa những năm 1980, hai kỹ thuật viên của tỉnh được gửi đến Cuba để tìm hiểu kỹ thuật trồng cacao. Năm 1987, phong trào trồng cacao được phát động và diện tích trồng cacao của tỉnh có lúc đã đạt khoảng 1.000 ha. Tuy nhiên, với những khó khăn trong việc tiếp cận thị trường thế giới, cây cacao đã dần dần bị chặt phá. Đến năm 1999, trong khuôn khổ của chương trình phát triển cacao của Quỹ Cacao thế giới và DANIDA (hợp tác với NLU), các mô hình cacao đã hình thành ở Đức Lập, Đăk Min, Krông Bông, Cư M'nga, Ma Drak, Krông Nô, Ea Kar và huyện Lắk. Giống cacao được trồng trong giai đoạn này chủ yếu là giống lai nhập khẩu từ Malaysia. Cacao được trồng độc canh với các loại cây che bóng tạm thời như muồng hoa vàng và chuối.

Được sự khuyến khích bởi chủ trương của tỉnh, năm 2002, Công ty ED&F Man thực hiện chương trình phát triển cacao ở huyện Đắk Min (lúc đó còn thuộc về tỉnh Đắk Lắk), trên những diện tích đất màu mỡ, phù hợp nhưng không thuận lợi cho việc phát triển cà phê (cây cacao cần ít nước hơn cà phê). Trong chương trình này, ED&F Man và NLU cung cấp cây giống vô tính cho nông dân và ký kết hợp đồng mua hạt cacao. Các giống cacao có năng suất cao đã được giới thiệu trên một quy mô lớn. Nhiều hộ nông dân bắt đầu phát triển cacao để thay thế cây cà phê cũ. Một số công ty cà phê đã chuyển những diện tích cà phê cũ sang trồng cacao5. Năm 2003, một Chương trình hợp tác Hà Lan với các thị trường gắn kết (PSOM) được thực hiện, có sự kết hợp giữa sự bảo trợ của chính phủ Hà Lan với NLU và tập đoàn Cargill. Trong chương trình này, các chuyên gia của NLU phụ trách đào tạo kỹ thuật cho nông dân trồng trọt, thu hoạch và lên men để đảm bảo chất lượng hạt cacao. Công ty Cargill đã thiết lập một hệ thống thu mua với mạng lưới ở nhiều huyện. Cargill cũng đã ký hợp đồng mua phân bón cung cấp cho các hộ nông dân trồng cacao.

Trong năm 2007, chương trình Success Alliance được tài trợ bởi chính phủ Hoa Kỳ bắt đầu hoạt động ở huyện Lắk, Ea Hleo và Ea Kar. Trong 2 giai đoạn của dự án, 84 câu lạc bộ nông dân trồng cacao đã được thành lập với 3.440 hộ tham gia. Mỗi hộ nông dân tham gia câu lạc bộ được cấp 150 cây giống cacao ghép, được đào tạo kỹ thuật về trồng và chế biến cacao. Các khóa đào tạo được thực hiện hàng tháng trong những năm mà dự án triển khai. Kết thúc dự án (tháng 9/2011), toàn tỉnh vẫn duy trì được 79 câu lạc bộ cacao, với sự tham gia của 2.577 hộ nông dân.6

5 Công ty Krông Ana 240ha; Công ty cà phê Buôn Hồ 144ha; Công ty cà phê Tháng Mười 150ha. 6 Trung tâm Khuyến nông tỉnh Đắk Lắk – Dự án Phát triển sản xuất Cacao bền vững tại các nông hộ (2011): Báo

cáo Tổng kết thực hiện “Dự án Phát triển sản xuất Cacao bền vững tại các nông hộ giai đoạn 2010-2011”.

Page 21: Những thách thức trong phát triển bền vững

21

Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, nhưng đến năm 2010, diện tích cacao toàn tỉnh chỉ đạt 1.935ha, xấp xỉ 1/3 kế hoạch đề ra trong Quyết định số 821/QĐ-UB, ngày 2/4/2002 về việc phê duyệt dự án “Quy hoạch vùng phát triển cây Cacao trên địa bàn tỉnh đến năm 2010” là 6.000ha (sau khi đã trừ diện tích do chia tách tỉnh Đắk Nông). Những trở ngại chính cho sự phát triển của cacao được chỉ ra là: i) Cacao là cây trồng mới, chưa thể hiện tính hiệu quả vượt trội so với các cây trồng khác; ii) Chưa có bộ giống đảm bảo chất lượng; iii) Dự án chỉ triển khai tại các huyện nghèo, nông dân thiếu vốn đầu tư; iv) Thiếu các chính sách cụ thể trong việc hỗ trợ nông dân, nhất là chính sách hỗ trợ vốn; và v) Chưa chú trọng tới việc lồng ghép kế hoạch phát triển cacao với các chương trình/dự án của Nhà nước như chương trình 134, chương trình 135 hoặc chương trình xóa đói giảm nghèo.7

Riêng tại huyện Lắk, hiện có 5 xã tham gia dự án “Phát triển sản xuất Cacao bền vững tại các nông hộ”: Đắk Phơi, Yang Tao, Bông Krang, Đắk Nuê và Đắk Liêng. Từ năm 2007 đến nay, Trung tâm Khuyến nông tỉnh đã xây dựng 3 mô hình trình diễn ở huyện Lắk, thành lập và duy trì 39 câu lạc bộ sản xuất cacao với 1.332 hộ nông dân tham gia. Một đội ngũ tập huấn viên là người dân tộc thiểu số được xây dựng với hơn 20 cán bộ nòng cốt. Các tập huấn viên được đào tạo bài bản, liên tục theo chu trình phát triển của cây trồng và những tình huống sâu bệnh phát sinh. Đặc biệt, trong khuôn khổ của dự án lần này, công tác liên kết thị trường và thông tin được coi là một trong những ưu tiên hàng đầu. NLU đã tổ chức nhiều lớp tập huấn lên men cho nông dân và hình thành mạng lưới thu mua cacao tươi tại chỗ. Với 8 điểm thu mua và lên men, đầu ra của nông dân sản xuất cacao huyện Lắk cơ bản được giải quyết. Tính đến năm 2011, huyện Lắk đã trồng được 205ha cacao thuần. Các vườn cacao trồng trong những năm 2007-2008 đã bắt đầu cho thu hoạch và sản lượng hạt cacao năm 2010 ở huyện Lắk đã đạt hơn 5.000kg.8

Mặc dù được Ban Quản lý Dự án đánh giá là thành công, câu chuyện về cây cacao ở huyện Lắk vẫn đang đặt ra nhiều vấn đề. Những kết quả khảo sát bước đầu này cho thấy tộc người tại chỗ ở huyện Lăk (cụ thể là hai địa bàn nghiên cứu ở xã Yang Tao và Đăk Phơi) không thực sự mặn mà với việc trồng cây cacao. Những hộ chưa trồng thì nghi ngờ về lợi ích kinh tế của loại cây trồng này. Các hộ đang trồng thì chủ yếu là vì được dự án tài trợ, và cũng không muốn đầu tư để mở rộng diện tích. Ban đầu, Ban Quản lý Dự án đã thành lập ở đây 40 câu lạc bộ sản xuất cacao với 2.106 hộ nông dân, chủ yếu là người dân tộc thiểu số tại chỗ; nhưng kết thúc dự án, chỉ còn 39 câu lạc bộ hoạt động với sự tham gia của 1.332 nông hộ (63,24%). Sức lan tỏa của cây cacao không lớn và nếu không có sự hỗ trợ của Dự án, không có hộ nông dân dân tộc thiểu số tại chỗ nào chủ động trong việc trồng cacao.

7 Sở NN&PTNT tỉnh Đắk Lắk (2011): “Báo cáo tình hình thực hiện dự án 6.000ha Cacao”. 8 Các số liệu trên được tổng hợp từ Báo cáo Tình hình công tác 9 tháng đầu năm và phương hướng nhiệm vụ 3

tháng cuối năm của Phòng NN&PTNT huyện Lắk và Báo cáo Tổng kết thực hiện dự án “Phát triển sản xuất

Cacao bền vững tại các nông hộ” của Trung tâm Khuyến nông Tỉnh.

Page 22: Những thách thức trong phát triển bền vững

22

1.2 Các rào cản tộc người thiểu số tại chỗ tham gia vào sản xuất ca cao

1.2.1 Cây cacao không có lợi thế so sánh

Yang Tao là một trong những xã không có điều kiện thuận lợi để phát triển các loại cây công nghiệp lâu năm. Người M'nông ở Yang Tao từ nhiều đời nay chỉ sống dựa vào trồng lúa và hoa màu. Các khu vườn tạp mà ngày nay một số hộ gia đình đã chuyển sang trồng cacao vốn không cho nhiều thu nhập kinh tế. Thực tế là hầu hết các vườn trồng cacao mới ra quả bói nên người dân cũng chưa hạch toán được hết các chi phí về kinh tế. Trong một cuộc thảo luận nhóm, khi xếp hạng ưu tiên, nhóm nam nông dân tham gia các câu lạc bộ của dự án SA đã coi cây cacao là loại cây ưu tiên số 2, sau cây lúa. Theo họ, cây cacao tuy không cho nhiều lợi nhuận, nhưng chí ít cũng cho các khoản thu nhập tiền mặt có ý nghĩa nào đó đối với đời sống gia đình.

Tuy nhiên, bộ phận người dân không tham gia câu lạc bộ, chưa trồng cây cacao, hoặc có trồng nhưng chưa nhiều lại tỏ ra nghi ngờ về lợi ích kinh tế của cây cacao so với các loại cây trồng khác. Một nông dân 28 tuổi, người Ê-đê đến ở rể tại buôn Yooc Đuôn đã được 5 năm thì đưa ra nhận xét rằng, người M'nông ở Yang Tao không thích trồng cây công nghiệp mà chỉ thích trồng lúa. Khi về làm rể, anh đã là người đầu tiên trồng sắn, thu hoạch được năng suất cao. Theo anh, trồng sắn (và cả lúa mỳ) dễ hơn cacao nhiều, mà sản phẩm lại nhìn thấy rõ. “Trồng sắn không cần bón phân, chỉ cần làm cỏ, làm dễ hơn cả trồng ngô. Mấy sào sắn nhà em có khi thu được đến 30-40 triệu”. Anh cũng cho biết nếu được chọn cũng thích trồng tiêu, vì dễ bán, bán tươi cũng được, khô cũng được, còn “thực ra cây cacao vì cho không nên dân mới trồng thử thôi”.

Cây cacao dường như không có lợi thế so sánh so với một số cây công nghiệp, đặc biệt là café. Tại Đắk Phơi, một nhóm nông dân người M’nông và người Tày đã giúp các nghiên cứu viên phân tích lợi nhuận của việc sản xuất cacao qua việc xem xét dòng doanh thu và chi phí theo thời gian, từ lúc đầu tư ban đầu cho việc hình thành vườn cacao tới chi phí cho cơ sở hạ tầng và trang thiết bị và chi phí sản xuất, bao gồm cả chi phí vật tư và nhân công. Phân tích được tiến hành theo giá cố định ở thời điểm điều tra và dựa trên kinh nghiệm trồng cà phê và tài liệu kỹ thuật trồng cacao để ước tính các chi phí và doanh thu trung bình trên một đơn vị diện tích là 1.000m2. Giả định rằng tới năm thứ 6 thì sản lượng Cacao ở trạng thái ổn định, các dòng chi phí và doanh thu cũng ở tình trạng ổn định. Kết quả phân tích như sau:

Bảng 1: So sánh giá trị kinh tế giữa hai cây café và cacao Năm Công việc

(đơn vị: 110 cây/1 sào – 1000 m2)

Chi phí cho cacao (đơn vị: nghìn

đồng)

Chi phí cho café (đơn vị: nghìn

đồng) 1 Đào hố 200.000 200.000 Xử lý hố, xục bồn 300.000 200.000 Cây giống 660.000 330.000 Cố định cây, trồng 300.000 100.000 Phân bón 132.000 324.000 Tưới nước 200.000 200.000 Làm cỏ 800.000 800.000 Thuốc mối, rầy, rệp 550.000 175.000

Page 23: Những thách thức trong phát triển bền vững

23

Làm túp 200.000 Tổng chi 3.342.000 2.329.000 2 Làm cỏ vườn 400.000 400.000 Trồng giặm 190.000 80.000 Thuốc rệp 500.000 250.000 Phân bón 265.000 650.000 Làm cỏ bồn 400.000 500.000 Tưới nước 600.000 800.000 Tỉa chồi 100.000 300.000 Tổng chi 2.455.000 2.980.000 3 Làm cỏ 400.000 400.000 Thuốc sâu 650.000 600.000 Tỉa chồi 100.000 400.000 Tưới nước 800.000 1.200.000 Phân bón 850.000 1.400.000

Tổng chi 2.800.000 4.000.000 Thu bói 350.000 840.000 4 Làm cỏ 200.000 300.000 Thuốc sâu 130.000 130.000 Tỉa chồi 100.000 400.000 Tưới nước 800.000 1.200.000 Phân bón 800.000 1.200.000 Thu hoạch 100.000 400 Phơi khô 200 Tổng chi 2.130.000 2.631.200 Bán 2.310.000 6.000.000 5 Làm cỏ 200.000 300.000 Thuốc sâu 130.000 130.000 Tỉa chồi 100.000 400.000 Tưới nước 800.000 1.200.000 Phân bón 800.000 1.200.000 Thu hoạch 100.000 400.000 Phơi khô 200.000 Tổng chi 2.130.000 2.631.200 Tổng thu 3.850.000 9.000.000 TỔNG CHI 5 NĂM 13.037.000 14.571.400 TỔNG THU 5 NĂM 6.510.000 15.480.000 (Nguồn: thảo luận nhóm của đại diện các hộ trồng cây cacao tại xã Đắc Phơi, huyện Lăk ngày 3/11/2011).

Bảng 1 cho thấy, nếu dựa trên phân tích chi phí – thu nhập giữa cà phê và cacao thì nhóm người dân trồng cacao tại Đăk Phơi sẽ lựa chọn cà phê để phát triển chứ không phải cacao. Trên cùng diện tích 1000m2, tổng chi phí trồng cà phê cao hơn so với chi phí trồng cacao tương ứng với 14.571.000 đồng và 13.037.000 đồng. Trong khi đó doanh thu thì

Page 24: Những thách thức trong phát triển bền vững

24

ngược lại, tổng doanh thu từ cà phê trong 5 năm là 15.480.000 đồng so với 6.510.000 đồng từ cacao. Đa. Dễ dàng nhận thấy là mặc dù chi phí lớn hơn, nhưng cây cà phê cũng mang lại lợi ích kinh tế cao hơn nhiều so với cacao.

Bản thân cán bộ trạm thu mua của công ty Cargill tại Buôn Ma Thuột cũng thẳng thắn thừa nhận rằng, trên cùng một đơn vị diện tích, cây cacao không thể so sánh được với cây cà phê về sản lượng và hiệu quả kinh tế. Thảo luận nhóm cán bộ xã Đăk Phơi cũng cho biết, hiện nay cây cacao không phải là cây mang tính chất hàng hóa ở đây, mà là điều và cà phê. Một cán bộ địa chính cho biết tính ra cây điều lãi hơn và ít rủi ro hơn cây cacao. Cây điều chịu được thời tiết, chỉ cần bón phân vừa phải, không cần che chắn, một hectar có thể thu được khoảng 60 triệu. Tuy nhiên cây điều phải trồng cách nhau 10m, nên có thể xen cây cacao vào trồng cùng được. Còn cây café được trồng tại các đồn điền từ thời Pháp thuộc, qua một thời gian dài đã trở thành một loại cây bản địa. Theo một cán bộ ở Sở Nông nghiệp tỉnh, người dân ở đây hiểu cây cà phê như người đồng bằng hiểu cây lúa. Cà phê đồng thời lại là loại cây đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất tại địa phương. Do đó cà phê luôn là loại cây được chọn trồng đầu tiên trong các loại cây công nghiệp. Theo đánh giá của Agrifood Consulting International (2008), những trở ngại cho việc người dân chuyển từ cây café sang cây cacao là rất rõ ràng:

Trong khi giá cacao cao và đang gia tăng thì tình hình cũng tương tự đối với cà phê. Đặc biệt là tại những khu vực sản xuất lớn như Tây Nguyên, động lực thúc đẩy nông dân bỏ cà phê để chuyển sang trồng cacao hay thậm chí chỉ trồng xen canh với cà phê là thấp. Với giá cả hiện nay thì cà phê mang lại thu nhập cao hơn; thời gian thu hoạch tập trung trong khi đó thời gian thu hoạch đối với cacao kéo dài trong vài tháng. Ngoài ra, hầu hết nông dân đều đã quen với cây cà phê trong khi đó cacao là một cây trồng khá mới mẻ. Cao su có thể là cây trồng thay thế cacao. Có một số điểm khiến mọi người ủng hộ cacao như cacao ít rủi ro, sử dụng ít phân hoá học và nước hơn, đòi hỏi ít công chăm sóc hơn, vốn đầu tư ban đầu ít hơn, mang lại lợi ích về đa dạng sinh học và linh hoạt hơn trong việc thích nghi với các điều kiện sinh thái nông nghiệp có phạm vi rộng hơn so với cà phê và cao su. Chính phủ có chương trình cho vay vốn ưu đãi để trồng cây cao su nhưng lại chưa có một chương trình như vậy đối với cây cacao. Ngoài cà phê và cao su, còn có những cây trồng khác cũng có thể thay thế cho cacao. Minh chứng về những lợi thế của cacao so với các cây trồng cạnh tranh khác cần được trình diễn, giới thiệu và phổ biến tới người nông dân. Sự phát triển của ngành sản xuất cacao có thể bị làm chậm lại trừ khi thực hiện một nỗ lực liên tục theo hướng này.

Do cacao không có những lợi thế ‘siêu việt’ hơn cây cafe, theo đánh giá của một số bên liên quan, nên chỉ có thể được trồng tại những vùng đất không thích hợp hoặc quá hẹp để trồng cà phê. Về điều này, một lãnh đạo của Trung tâm Khuyến nông tỉnh Đắk Lắk phân tích: nếu trên các khu vực thuận lợi cho việc trồng cà phê, cao su và hồ tiêu, cây cacao không thể cạnh tranh được. Nhưng ở các khu vực khác, cây cacao có thể là sự lựa chọn hợp lý hơn của người dân. Lý do được đưa ra là các nghiên cứu so sánh trước đó đã tính đến tất cả các yếu tố đầu vào và đầu ra của dòng sản phẩm cacao.

Cacao không phải là cây dành cho người nghèo vì nó không chỉ đòi hỏi phải có đất canh tác mà trong giai đoạn kiến thiết vườn (3-4 năm) nó đòi hỏi phải có nguồn vốn tài chính

Page 25: Những thách thức trong phát triển bền vững

25

lớn. Các yếu tố kỹ thuật thì người nông dân có thể học hỏi và khắc phục được, nhưng tiền vốn luôn là một thách thức không dễ vượt qua đối với người nghèo và người dân các tộc người thiểu số tại chỗ. Dưới góc độ này, cacao không thể cạnh tranh với lúa và hoa màu, những loại cây trồng có thể cho thu hoạch chỉ trong một thời gian ngắn.

Sản xuất cacao đòi hỏi phải có vốn lớn, đặc biệt là trong những năm đầu. Kết quả đánh giá tại thực địa, các tập huấn viên cho biết: Đối với cacao thì chi phí vật tư bao gồm phân bón (cả phân hữu cơ và hoá học) và việc xử lý đất (như vôi), thuốc diệt nấm, thuốc trừ sâu, điện cho tưới tiêu và đầu tư cho cây chắn gió và che bóng tạm thời và lâu dài. Trong các năm thứ 1, 2, và 3, mỗi cây cacao cần một lượng phân NPK 16-16-8 tương ứng là 200, 400, và 600 gram. Bắt đầu năm thứ 4, công thức bón phân thay đổi sang sử dụng NPK 16-16-26 với tỷ lệ 0,9 và 1,5 kg/cây tương ứng trong các năm thứ 5 và năm thứ 6 trở đi. Vôi cần được sử dụng với tỷ lệ 0,5kg/cây trong năm đầu và 0,3kg/cây từ năm 2 trở đi. Bên cạnh đó, phân chuồng cũng luôn cần được sử dụng nhằm duy trì chất hữu cơ cho đất với tỷ lệ là 10kg/cây trong năm đầu và 5kg/cây từ năm 2 trở đi. Đó sẽ là một chi phí rất lớn nếu người nông dân canh tác cacao trên diện rộng. Theo một chủ nhiệm câu lạc bộ, một trong những người đầu tư trồng cacao nhiều nhất Yang Tao với 1000 cây, cho biết giá phân NPK 16-16-8 hiện nay là 600 nghìn đồng/1 bao 50kg. Phân chuồng chỉ bón được trong mùa khô, còn mùa mưa bắt buộc phải dùng phân hóa học. Vườn cacao nhà bà còn một năm nữa mới bói quả, hiện đang bị thiếu phân nhưng bà không biết vay mượn ở đâu để mua.

Chi phí cho thuốc diệt nấm và thuốc trừ sâu cũng rất đáng kể. Theo một cán bộ khuyến nông huyện Lắk, cây cacao ở đây thường gặp khá nhiều loại sâu bệnh. Đối với sâu hại, trong năm đầu tiên mối là nguy cơ lớn nhất; trong giai đoạn cacao cho sản lượng, bọ xít muỗi là vấn nạn chính. Điều này cũng được tất cả các nông dân trồng cacao xác nhận. Để ngừa mối, bà con nông dân thường sử dụng thuốc Chlorpyrifos; để kiểm soát bọ xít muỗi, bà con nông dân thường dùng các loại thuốc Cypermethrin và Dimethoate. Các loại bệnh mà cacao ở huyện Lắk thường gặp là bệnh thối đen quả và bệnh gỉ nấm (agal rust). Các kỹ thuật viên thường khuyến cáo nông dân sử dụng các thuốc diệt nấm như Metalaxyl, Cuprous oxide, Phosphonate potassium và Fosetyl-Al có thể được sử dụng trong trường hợp có áp lực cao về dịch bệnh. Riêng với bệnh gỉ nấm, cần sử dụng ô xít đồng và thuốc diệt nấm phổ rộng (broad spectrum) để kiểm soát. Một người nông dân buôn Liêng Kéh, xã Đăk Phơi đang trồng 50 cây cacao do dự án cho giống cho biết cây bị sâu bệnh nhiều mà không có tiền mua thuốc sâu nên “kệ, cây nào sống thì sống, chết thì chết”.

Chi phí về nhân công cho sản xuất cacao bao gồm công đào hố và trồng (vào thời điểm thành lập vườn), sử dụng phân bón và chăm sóc cây, tưới, tỉa cành và làm cỏ, thu hoạch, lên men và sấy khô (trong giai đoạn chăm sóc và kinh doanh). So với các loại cây khác như cà phê hay cao su, chi phí nhân công cho cacao được đánh giá là thấp hơn. Nhưng do thời gian thiết kế vườn kéo dài (3-4 năm), cộng gộp chi phí nhân công cũng rất đáng kể. Ngoài ra, các cơ sở sản xuất cacao còn cần có các khoản chi để mua bình phun thuốc và máy bơm. Riêng các cơ sở lên men còn cần trang bị thêm các thùng lên men.

Chi phí ở khâu thu mua và chi phí cho những rủi ro về chất lượng cacao cũng là một yếu tố cần tính đến. Theo phỏng vấn cán bộ của Cargill, hiện nay Cargill không thu mua tại chỗ mà chỉ thu mua qua pháp nhân. Người có pháp nhân phải chở cacao đến trạm thu

Page 26: Những thách thức trong phát triển bền vững

26

mua. Trong khi đó, mạng lưới thu mua chưa phát triển. Hơn nữa, rủi ro trong khâu chế biến, bảo quản dẫn đến việc nếu bị trả lại vì thối hoặc có mùi thì cũng làm tăng chi phí cho người dân trong việc trồng, lên men và kinh doanh cacao.

Việc vay vốn để trồng cacao khó hơn so với vay vốn trồng café hay các loại cây ngắn ngày. Năng suất và chất lượng cacao phụ thuộc vào nhiều yếu tố: giống cây trồng, kỹ thuật chăm sóc (che nắng, chắn gió), sự kiểm soát sâu hại dịch bệnh và mức độ dinh dưỡng của đất. Trong các yếu tố kể trên, sự kiểm soát sâu hại dịch bệnh và mức độ tăng cường dinh dưỡng cho đất có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất. Cả 2 yếu tố này đều cần đến sự đầu tư mạnh về tài chính. Tuy nhiên các cuộc phỏng vấn sâu tại các điểm nghiên cứu cho thấy vay vốn cho cacao khá khó, đồng thời người dân cũng ngại ngần để vay. Điều này được lý giải rằng người cho vay lo ngại về lợi ích kinh tế thu được từ cacao, cũng như những rủi ro có thể xảy ra do qui trình kỹ thuật quá phức tạp:

“Ngân hàng không cho mình vay vốn trồng cacao như cách cho người Duôn vay để trồng cà phê đâu, mà vay bên ngoài thì không vay dài được. Vay vốn trồng ngô chỉ một năm là trả được rồi chứ vay trồng cacao thì hết hạn vay chưa được lời, sao trả nổi nợ. Người có tiền không dám cho vay mà mình cũng sợ không dám vay vì biết có trả được không mà vay.” (người dân, bon Tlông, xã Đắc Phơi).

Hiện chưa có các chương trình hỗ trợ tiếp cận nguồn tín dụng trung hạn cho cacao (tương tự như đã xảy ra trước đây trong việc phát triển cà phê hoặc cao su tiểu điền). Theo các cán bộ xã Đăk Phơi, người dân nếu muốn trồng ngô thì rất dễ vay vốn, cả của ngân hàng nhà nước và tư nhân vì vụ ngắn ngày, có thể trả được; và nếu vay của tư nhân, khi thu hoạch có thể bán luôn cho chủ nợ. Nhưng cây cacao trồng vài năm vẫn chưa thấy sản phẩm, nên việc vay được tiền sẽ khó. Theo Agrifood Consulting International (2008), các nông hộ sản xuất cacao chỉ đạt đến điểm hòa vốn vào năm thứ 4, từ năm thứ 5 trở đi mới bắt đầu kinh doanh. Như vậy, toàn bộ thời gian từ năm thứ 4 trở về trước, sản xuất cacao đồng nghĩa với việc chi phí không lợi nhuận. Đối với các nông hộ nghèo, các hộ dân tộc thiểu số tại chỗ - những người thuộc nhóm yếu, rất hạn chế về đất trồng và các dòng tín dụng - đó là một thách thức không dễ vượt qua. Với nguồn tín dụng trung hạn (2-4 năm) như hiện nay, cây cacao khó có thể phát triển. Thậm chí đối với những nông dân khá giả hơn thì những trở ngại về tài chính cũng sẽ là vấn đề khi họ áp dụng hình thức canh tác độc canh trên diện rộng.

1.2.2 “Cacao kén người trồng” - Kỹ thuật chăm sóc, chế biến khó và rủi ro cao

Nhận định phổ biến trước đây rằng có thể trồng cacao trên những vùng đất xấu, đất nghèo đã được chứng minh là không hoàn toàn chính xác. Các chuyên gia nông học cho rằng cây cacao thích ứng tốt với nhiều loại đất ở Việt Nam, đặc biệt phát triển tốt trên các loại đất pha cát, đất thịt, đất đỏ bazan, và vì thế Đắk Lắk được xem là một trong những tỉnh có tiềm năng đất đai cho việc trồng cacao. Các cán bộ ở tỉnh và địa phương cũng cho rằng cây cacao không kén đất, bởi có thể trồng ở những vùng đất xấu, đất trồng cà phê không được. Tuy nhiên, trong các cuộc thảo luận nhóm, người dân khẳng định ở nơi có đất cát thì không trồng được cacao. Tại vùng đất cát và gió mạnh không thể trồng cà phê như Yang Tao, cây cacao thường bị chết, bị bật gốc, rụng lá, đặc biệt là trong mùa mưa và khi có gió to. Theo lời kể một người trong hội nông dân Đăk Phơi, 3 sào cacao của ông chỉ

Page 27: Những thách thức trong phát triển bền vững

27

sống được 4-5 tháng mặc dù gia đình ông chăm sóc theo đúng quy trình kỹ thuật đã được tập huấn. Lý do là vườn cacao của gia đình ông trồng trên ‘đất nóng’ (teh doh), tức là đất pha cát. Để có được thu hoạch tốt, cây cacao vẫn đòi hỏi những điều kiện nhất định về đất và nước tương tự như cà phê. Một cán bộ địa chính xã Đắk Phơi khẳng định trồng đại trà cây cacao thì rất khó, vì đất tốt bà con đã trồng hết cà phê, mà đất xấu thì cacao cũng không tốt. Hơn nữa, những khu đất tốt, đất bazan phần lớn là khu của người “xâm canh”, đó là người Kinh ở nơi khác đến mua đất để trồng, còn người dân thiểu số ở những chỗ đất không tốt.

Kể cả khi trồng trên đất tốt cacao cũng cần liên tục bổ sung chất khoáng dinh dưỡng. Nhưng cho đến nay, công thức phân bón thích hợp cho từng vùng, trong từng giai đoạn phát triển của cây cacao chưa được nghiên cứu. Hiện nay, những khuyến cáo về phân bón chưa cụ thể và người trồng phải dựa trên khuyến cáo chung này để điều chỉnh cho phù hợp với vườn cacao của mình thông qua biểu hiện về sinh trưởng và phát triển cây.9

Nước ảnh hưởng rất lớn đối với năng suất và chất lượng hạt cacao. Theo tính toán của các nhà chuyên môn, mặc dù cacao không đòi hỏi nhiều nước như cà phê, nhưng đây vẫn là yếu tố quan trọng đối sự phát triển của cây trồng. Thiếu nước làm hạt cacao nhỏ nên năng suất và chất lượng kém. Hiện nay, cách tưới nước cho cacao thường dựa trên kỹ thuật tưới cho cà phê hoặc tùy theo cảm nhận của người trồng. Đối với người dân các tộc người thiểu số tại chỗ huyện Lắk, đây là một trở ngại lớn, bởi đa số nông dân thuộc nhóm đối tượng này chưa từng trồng cà phê. Kỹ thuật tưới nước hiện nay trong vùng cacao huyện Lắk có 2 hình thức chính: Đào giếng để khai thác nước ngầm hoặc tận dụng các nguồn nước sông suối, ao hồ. Nước được bơm và tưới bằng ống nhựa. Đây là cách tưới phổ biến nhất cho hầu hết các loại cây trồng và thông thường thì bà con nông dân tưới nhiều nước hơn so với nhu cầu của cây trồng. Chi phí cho việc tưới nước cũng được coi là quá đắt đối với hầu hết nông hộ kinh doanh nhỏ. Một phụ nữ xã Yang Tao cho biết: “cacao chăm sóc khó, tưới nước nhiều, tôi đi tập huấn về hướng dẫn cho cả chồng và đứa cháu để cùng làm cacao nhưng mãi không thuần thục”.

Tuy nhiên, lượng mưa quá cao cũng gây nên bệnh thối trái và hiện chưa có biện pháp phòng chống hữu hiệu. Theo một kỹ sư nông nghiệp huyện Lắk, mưa nhiều và gió lớn là hai điều kiện tự nhiên tại Lắk gây thiệt hại lớn cho cacao, tuy nhiên lại chưa có kỹ thuật nào được đề ra để giảm thiểu thiệt hại. Do vậy, mặc dù đã quyết tâm trồng cacao trên một diện tích lớn, tâm trạng “tim đập thình thịch”, lo lắng bất an về vụ thu hoạch đầu tiên trong năm tới như lời kể của người phụ nữ M’nông – chủ nhiệm câu lạc bộ cacao – là hoàn toàn dễ hiểu.

“Cacao là loại cây rất kén người trồng” bởi kỹ thuật khó và đòi hỏi sự quan tâm ngay từ đầu và thường xuyên trong suốt quá trình. Đó là một nhận định được nhiều chủ nhiệm câu lạc bộ cacao cũng như các ban ngành nói đến. Khác với các loại cây trồng bản địa và ngoại lai khác (cà phê, điều), quy trình và kỹ thuật trồng và chăm sóc cây cacao rất

9 Các khuyến cáo về phân bón dựa trên 2 giai đoạn phát triển của cacao là thời kỳ kiến thiết cơ bản và thời kỳ kinh

doanh. Trong thời kỳ đầu phân tổng hợp có thành phần đạm cao được khuyến cáo như 16-16-8 hay 20-20-10 với

liều lượng 200g/cây/năm và 400g/cây/năm cho năm thứ nhất và năm thứ 2 sau khi trồng. Trong giai đoạn kinh

doanh, phân tổng hợp có hàm lượng kali cao như 12-12-17 hay 18-40-30 được khuyến cáo với liều lượng từ 600

tới 1000g/cây/năm. Lượng phân cao 1800g/cây/năm đã sử dụng trong mô hình trồng thuần ở Tây Nguyên đã cho

kết quả về năng suất rất tốt (trên 3kg/cây) (Agrifood Consulting International 2008, tài liệu đã dẫn)

Page 28: Những thách thức trong phát triển bền vững

28

phức tạp. Cây cacao cần phải trồng xen ít nhất 4 loại giống (trên tổng số 8 loại), có cây che bóng, cây chắn gió, thường xuyên kiểm soát sâu hại/dịch bệnh, chăm sóc, lên men. Cây cacao không tự nhân giống được. Khi mới trồng, cacao sẽ chết nếu không có cây che bóng. Theo một cán bộ trạm khuyến nông thì cacao mới trồng mà sống được 80% đã là thành công. Một số hộ gia đình ở Đăk Phơi đã trồng nhưng cây đều bị chết, có những gia đình đã trồng 5 sào cacao nhưng rồi không chăm được nên cây bị chết hết phải bỏ. Trong các khu vườn chưa có cây che bóng, trước khi trồng cacao, người dân phải trồng cây muồng hoa vàng để lấy tán. Khi mới trồng, người dân phải làm “túp” (mỗi gốc một túp) để chắn gió và che nắng, và trong trường hợp vườn đã có cây che bóng và hàng rào, người dân phải tưới nước 4 lần trong một tháng. Để cho cây phát triển và cho nhiều trái đòi hỏi phải tỉa hết cành mọc thêm trên thân cây. Cacao là loại cây thường bị nhiều loại sâu bệnh tấn công: bọ xít, nấm làm thối trái (thuốc trừ sâu hiện chỉ có tại một số cửa hàng ở thị xã Buôn Ma Thuột)… Thường cứ 2 tháng lại có bọ xít, đặc biệt bị ảnh hưởng bởi mùa mưa. Bệnh thối trái cũng thường phát sinh trong điều kiện mùa mưa, còn bệnh gỉ nấm thường do bóng che chưa hợp lý và bị ảnh hưởng của gió mạnh. Trồng cacao cứ 20 ngày phải phun thuốc một lần. Nhiều loại bệnh thối trái do một loại nấm gây ra hiện chưa có thuốc chữa, mà chỉ phun để phòng chống. Chính vì vậy, nhiều người dân chưa trồng cacao đã trả lời rằng họ chưa sẵn sàng bởi người trồng cacao cần phải là người toàn tâm toàn ý và hết lòng chăm sóc cho cây trồng. Tại Yang Tao, có chủ nhiệm câu lạc bộ cacao được cử đi tập huấn để về dạy lại kỹ thuật trồng cacao cho các thành viên khác trong câu lạc bộ, tuy nhiên vườn cacao của chính người này thì trồng cây nào chết cây nấy do không được chăm sóc phù hợp.

Ảnh: Người nông dân huyện Lăk đang chăm sóc cây ca cao

Không phải ai muốn tham gia trồng cacao cũng được. Những tập huấn viên tổ chức các câu lạc bộ thông qua việc chủ động thông báo và chọn lựa, giới hạn số lượng 40 người một câu lạc bộ. Theo một chủ nhiệm câu lạc bộ, tiêu chí để chọn các hội viên là mời các gia đình muốn tham gia trồng cacao, nhà có giếng (để lấy nước), có bò (để lấy phân), có đất, có ống tưới, có lao động, và phải chăm chỉ lao động.

Page 29: Những thách thức trong phát triển bền vững

29

Quản lý chất lượng sản phẩm đầu ra là một thách thức kỹ thuật khác. Chất lượng lên men khó nhất. Hiện nay một số cơ sở tư nhân tự lên men, nhưng theo đánh giá, nếu không tập trung thì chất lượng không thể quản lý được. Hiện nay chưa có đơn vị nào kiểm soát được chất lượng lên men. Nhưng cacao chỉ có thể tiêu thụ được nếu sau khi lên men đáp ứng được các tiêu chuẩn chất lượng UTZ. Đây là hệ thống đánh giá chất lượng do UTZ Certificate (một tổ chức phi chính phủ của Hà Lan chuyên đánh giá chất lượng cacao) đề xuất. Tại Đắk Lắk, UTZ Certificate đã ban hành bộ tiêu chí chất lượng cacao hạt gồm 175 tiêu chí. VinaContro được UTZ Certificate ủy nhiệm là cơ quan thực hiện việc xây dựng bản hướng dẫn, cách thực hiện các tiêu chí. Bộ tiêu chuẩn chất lượng hạt cacao cho Việt Nam cũng đã được Trung tâm tiêu chuẩn Việt Nam (STAMEQ) phê duyệt trong tháng 2/2006.

Bảng 2: Chỉ số phân loại của hạt cacao

Các chỉ số phân loại 1A, 1B, và 1C của hạt cacao

Chỉ số 1A 1B 1C

Đếm hạt 10 < 110 < 120

Độ ẩm Ma 7,5 % M x 7,5 % Max 7,5 %

Hạt chai xám Max 3,0 % M x 3 0 % Ma 3,0 %

Hạt m c Max 3,0 % M x 3,0 % Max 3,0 %

Hạt vỡ/sâu/nảy mầm Max 0,5 % Max 2,5 % Max 2,5 %

Tạp c ất Max 1,0 % Max 1, % Max 1,0 %

Nguồn: Bảng thông báo dán tại Trạm thu mua Cacao Đắk Lắk

Theo cán bộ thu mua, có 2 loại mùi không được phép mua, đó là mùi thịt thối (thường sau khi lên men 5 ngày sẽ phải phơi nắng, và nếu gặp mưa tỉ lệ hạt thối sẽ cao) và mùi khói (thường do sấy không đúng kỹ thuật, khói từ lò ám vào hạt). Lên men là kỹ thuật mới và khó, do đó người lên men thường dễ gánh chịu rủi ro. Cũng do tác động của khí hậu như vậy nên chất lượng thu mua mùa mưa kém hơn hẳn so với mùa khô.

1.2.3. Thiếu sự tương thích với văn hóa tộc người

1.2.3.1 Hệ thống canh tác cacao thiếu sự tương thích với các tập quán sản xuất truyền thống

Là một loài cây mới và xa lạ, cây cacao vẫn chưa tìm được chỗ đứng thực sự trong đời sống và các thực hành sản xuất của người M’nông ở huyện Lắk. Việc thất bại hàng loạt trong việc trồng cacao ở Đắk Phơi được một cán bộ xã người Kinh cho là “bà con dân tộc thiểu số hiểu biết kém nên nghĩ ngắn, không nghĩ đến cây công nghiệp”, và cây cacao chết

Page 30: Những thách thức trong phát triển bền vững

30

nhiều là do bà con lười. Tuy nhiên, bản thân gia đình của cán bộ đó chưa hề trồng cacao và cũng không muốn thay thế các cây trồng hiện tại sang trồng cacao. Có thể thấy định kiến về người dân tộc thiểu số (lười và kém hiểu biết) ám ảnh các cán bộ người Kinh ở tại địa bàn, mà chưa hề có nỗ lực tìm hiểu tại sao cây cacao không thành công như mong đợi ở cộng đồng người M’nông huyện Lắk.

Theo một nhận xét của cán bộ huyện, người nông dân Đắk Lắk hiện nay có tình cảm gắn bó với cây cà phê giống như người đồng bằng Bắc Bộ chú trọng cây lúa. Cây cacao vẫn chưa tìm kiếm được thứ tình cảm đó. Đặc biệt, qui trình kỹ thuật, chăm sóc và thu hái của cây cacao chưa thực sự phù hợp với các tập quán sản xuất của người M’nông.

Người nông dân M'nông có tập quán vần công, đổi công trong những lúc nông vụ chí kỳ. Vần công (vào mùa vụ, một số hộ gia đình tập trung làm xong cho nhà này rồi làm sang nhà khác) và đổi công (nay tôi làm cho nhà anh, mai anh sẽ làm cho nhà tôi) là hình thức hợp tác dựa trên cả quan hệ huyết thống và láng giềng, thể hiện truyền thống tương trợ và gắn kết cộng đồng. Nhưng cây cacao với qui trình trồng và chăm sóc khó, đòi hỏi sự kiên nhẫn và tỉ mỉ, chăm chỉ hàng ngày, không thể nhờ nhân công hay đổi công được, trong khi đó cà phê và điều có thể thuê dễ dàng. Lịch mùa vụ hiện nay của người dân địa phương đã kín cả năm, trong đó việc trồng các loại cây lương thực như lúa, ngô là không thể thay thế. Cây cacao đòi hỏi một sự chăm sóc thường xuyên, từ tưới nước, bón phân tới rẫy cỏ, tỉa cành. Công việc dàn trải khiến cho không thể tiến hành đổi công như đối với trồng lúa hay ngô, sắn. Bởi vậy những gia đình neo người hoặc không đạt được sự đồng thuận giữa hai vợ chồng thì không thể trồng cây cacao được. Một phụ nữ M’nông cho biết đã đăng ký nhận cây giống rồi phải trả lại vì chồng không muốn tham gia; bà và con gái không thể thực hiện được việc tưới cây nếu không có chồng góp sức. Mặt khác, việc thay đổi từ tập quán sản xuất thu hoạch tập trung theo mùa vụ sang thu hoạch lặt vặt quanh năm cũng buộc người trồng cây bị trói buộc về mặt thời gian, không thể chủ động sản xuất hoặc làm thêm các công việc khác, cũng như không thể nhờ nhân công hay thậm chí thuê người. Việc thuê lao động nông nghiệp tại Tây Nguyên hiện nay đã khá phổ biến, tuy nhiên chủ yếu chỉ diễn ra tại các trang trại cà phê của người Kinh. Trong các buôn, người dân vẫn thực hành tập quán đổi công, một hoạt động theo một già làng 86 tuổi là “rất vui”, trong khi “làm thuê mất tình cảm”. Ông cho biết ngay cả việc thu hoạch cà phê ở trong buôn cũng thực hiện đổi công chứ không thể thuê người, vì người trong cùng buôn mà thuê nhau có thể bị coi là sự xúc phạm.

Như vậy, với qui trình trồng và chăm sóc cacao, người dân dường như không tận dụng được những mạng lưới xã hội truyền thống của họ. Tập quán đổi công, vần công không chỉ là biểu hiện của sự tương trợ giúp đỡ lao động, mà còn chính là phương tiện xã hội giúp người dân tăng cường và củng cố sự gắn kết cộng đồng, yếu tố quan trọng trong đời sống sinh kế và văn hóa của họ. Mặt khác việc trồng cacao đôi khi cũng không phù hợp với lối sống và phương thức tổ chức buôn làng của người M’nông nên không hiệu quả. Nhiều buôn ở Đăk Phơi vẫn nuôi lợn thả rông, vì quả cacao mọc thấp nên bị lợn ăn hoặc phá hết (trong khi đó cây cà phê quả cao không ăn được).

Đối với người M’nông có truyền thống mẫu hệ, người phụ nữ có vai trò khá chủ động trong cuộc sống. Khi tập huấn về cây trồng ở thôn buôn, thường chỉ chị em phụ nữ đi tập

Page 31: Những thách thức trong phát triển bền vững

31

huấn10. Tuy nhiên, các thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu cho thấy chị em phụ nữ thích trồng cà phê, lúa và ngô hơn là trồng cacao, nên họ không mặn mà với việc hiểu sâu về kỹ thuật sản xuất cây cacao. Bởi vậy, theo số liệu của Ban Quản lý Dự án Phát triển sản xuất cacao tại các nông hộ cho biết, trong tổng số 3.024 lớp tập huấn cho nông dân, số lượng chị em phụ nữ tham gia chỉ chiếm 20,9%.11 Nam giới tham gia tập huấn nhưng phụ nữ lại là người tham gia làm việc nhiều trong quá trình chăm sóc. Như vậy, với cây cacao, dường như cả phụ nữ và đàn ông đều cảm thấy lúng túng và không tự tin trước các bước kỹ thuật và qui trình quá phức tạp đối với họ. Một người nông dân ở Đắk Phơi cho biết trồng cacao vì dự án cho thì nhận, và mặc dù “chán” cacao, nhưng vẫn phải chăm sóc vì sợ dự án thấy bỏ hoang thì sau này sẽ không cho hỗ trợ nữa: “trồng cacao chán lắm, nhưng vẫn phải chăm nó, vì dự án kiểm tra không được thì xấu hổ lắm”.

1.2.3.2 Thu nhập “lai rai” từ canh tác cacao không phù hợp với văn hóa tiêu dùng của người dân M'nông

Cây cacao có những đặc thù gây khó khăn cho người dân trong quá trình thu hái. Quả cacao chín không đều, nhưng khi quả chín rồi phải hái ngay không hỏng. Hái rồi cũng phải bán ngay chứ không thể chờ được nhiều rồi mới bán. Do thu hoạch “lai rai” kéo dài, thu nhập từ cacao cũng “lai rai”, chứ không dồn vào một lần như lúa, ngô hay cà phê (với 3 sào cacao, ngày nhiều nhất cũng chỉ bán được 100 nghìn đồng). Kiểu thu nhập như vậy chỉ có thể giúp cải thiện đời sống hàng ngày chứ không thể tiết kiệm được, nhất là đối với người dân huyện nghèo như Lắk. Một người dân ở buôn Liêng Kéh, xã Đắk Phơi phàn nàn rằng cây cacao mỗi ngày có vài quả chín, ngắt ra đi bán được vài nghìn, chẳng để làm gì, “thà rằng không trồng còn hơn”; và:

“Cây cà phê thu hoạch một lúc đỡ mệt, còn cacao dự án cho thì trồng thôi chứ thu hoạch cacao mệt lắm, lúc nào cũng rải rác, quả thì chín quả thì xanh, quả to quả nhỏ, lựa được vài quả bán có 3000 thì làm cái gì.”

Chính vì chứng kiến thu nhập từ cây cacao như vậy ở những nhà đã và đang trồng, những gia đình nông dân chưa trồng cảm thấy rất khó bị thuyết phục. Chủ tịch Hội Nông dân xã Đăk Phơi cho biết:

“khi cán bộ Hội nông dân đi tuyên truyền rằng cây cacao có lợi ích hơn cây cà phê, và dễ trồng hơn, thì bà con nói là không thích thu lai rai mất hết vốn. Người dân không mặn mà vì họ không nhìn thấy giá trị kinh tế thực sự. Nếu cây trồng nào mà thu theo vụ người dân sẽ được một cục tiền, có thể đầu tư vào cái khác.”

Việc thu hoạch một lúc có nghĩa là người dân sẽ có được một khoản tiền để mua cái gì lớn, đầu tư vào học hành cho con, và cũng có nghĩa là họ có thể trả được nợ. Chính vì thế, đối với họ, rất khó để vay vốn trồng cacao, và bản thân họ cũng không muốn vay nợ, vì khó có khả năng tiết kiệm trả nợ. Phó chủ tịch xã Đắk Phơi cũng bày tỏ: “đồng bào mình chỉ có thích trồng những cây cho thu hoạch ngay và cùng một lúc. Còn cacao thì thu lắt nhắt

10 Thảo luận nhóm tại Đăk Phơi ngày 3/11/2011. Một số phụ nữ ở Đăk Phơi cho biết thêm đàn ông không đi tập

huấn bởi sau khi tập huấn họ thường uống rượu, do đó sẽ quên hết những gì đã học.

11 Trung tâm Khuyến nông tỉnh Đắk Lắk (2011): Báo cáo Tổng kết thực hiện dự án “Phát triển sản xuất Cacao

bền vững tại các nông hộ”

Page 32: Những thách thức trong phát triển bền vững

32

quanh năm, khó tiết kiệm nên dân không thích”. Do đó, một quan điểm được nhiều cán bộ và người dân chia sẻ, đó là cacao chỉ là một loại cây phụ cho thu nhập phụ chứ không thể là loại cây chính như lúa, ngô và cà phê. Nói cách khác, cách thu hoạch cacao không thực sự tương thích với văn hóa tiêu dùng của người dân địa phương.

1.2.3.3. Ưu tiên trồng các loại cây có thể đảm bảo an ninh lương thực

Theo nhận định của ông trưởng ban Dân tộc tỉnh Đắk Lắk, thực tế mấy thập kỷ qua cho thấy rằng bà con các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hoàn toàn không có hạn chế gì trong việc học hỏi, tiếp nhận các giống cây trồng mới. Trái lại họ khá nhanh trong việc thích ứng, đặc biệt khi những loại giống này đưa đến các lợi ích thiết thực. Sự phát triển của cây cà phê ở Tây Nguyên cho thấy rằng tập quán văn hoá hay vấn đề kỹ thuật mới không hề là rào cản đối với việc tiếp nhận những yếu tố mới của người dân địa phương. Bởi vậy, ông cho rằng trở ngại lớn nhất hiện nay đối với đồng bào các dân tộc thiểu số trong việc mở rộng trồng cây cacao là thiếu đất, khi đất rẫy dùng để luân canh theo phương thức truyền thống của họ đã bị thu hẹp.

Khác với các tỉnh Tây Nam bộ và Bình Phước cacao được trồng xen với dừa hoặc điều, ở Đắk Lắk (và Đắk Nông) cacao chủ trương được trồng thuần (độc canh) trên các diện tích cà phê quá hạn kinh doanh và trồng xen trong các vườn nhà. Với mô hình trồng xen trong vườn nhà, một trong những trở ngại lớn nhất đối với người dân các tộc người thiểu số tại chỗ ở các điểm nghiên cứu là diện tích đất trồng của họ rất hạn chế. Tại xã Đắk Phơi, trung bình mỗi hộ nông dân chỉ có khoảng 0,63ha đất canh tác. Tại xã Yang Tao, trung bình mỗi nông hộ có khoảng 0,77ha đất sản xuất nông nghiệp, trong đó đất trồng lúa nước chiếm khoảng 30%. Đó là những số liệu tập hợp trên lý thuyết, trong thực tế tình hình phân bổ đất đai giữa các nông hộ phức tạp hơn rất nhiều. Những năm gần đây, hiện tượng tích tụ đất ở huyện Lắk đã diễn ra khá phổ biến, nhất là tại các xã có khả năng phát triển cây công nghiệp lâu năm mà Đắk Phơi là một ví dụ cụ thể: Phần lớn diện tích có thể phát triển cà phê đều thuộc sở hữu của những người từ nơi khác đến, diện tích đất sản xuất của các hộ nghèo luôn thấp hơn chỉ số trung bình của mỗi xã. Theo một già làng 86 tuổi, đất trồng cà phê tại Đắk Phơi trước đây vốn thuộc sự quản lý của nông trường. Đắk Phơi là một trong ba HTX từng nhận đất của nông trường để khai hoang trồng cà phê với sự trợ giúp về giống, phân bón và bơm tưới nước từ nông trường do con rể ông làm giám đốc. Tuy nhiên HTX Đắk Phơi đã trả lại đất cho nông trường do cây cà phê bị cháy hết trong mùa khô năm 1989. Sau khi nông trường giải thể, chỉ người ở nơi khác mới có tiền mua lại đất tại đây.

Mặt khác, đối với người M'nông ở Đắk Phơi và Yang Tao, nhu cầu an ninh lương thực luôn được đặt lên hàng đầu. Vì thế, đa số các hộ dân thường dành diện tích đất sản xuất nông nghiệp ít ỏi của mình cho việc trồng lúa, ngô, sắn và các loại rau đậu. Tất cả các hộ dân tham gia câu lạc bộ trong khuôn khổ dự án SA ở các xã được nghiên cứu đều chỉ dành một phần nhỏ diện tích đất canh tác - thường là vườn nhà, vốn là vườn tạp, trồng các loại cây ít giá trị kinh tế - để trồng cacao. Một cán bộ người M’nông cho biết: “cây cacao phải mất 2-3 năm mới bói quả, cho thu hoạch. Trong 2-3 năm ấy mà trồng hết cây cacao trên rẫy thì dân ăn gì”. Để đảm bảo lương thực thường xuyên cho gia đình, việc tập trung vào cây cacao không đem lại cho người dân cảm giác an toàn. Một cán bộ nông nghiệp xã Yang Tao thì nhận định rằng mặc dù hiện tại diện tích trồng cacao ở xã còn ít, nhưng tiềm năng phát triển loại cây này có thể đến 200-300ha là diện tích hiện tại đang trồng ngô. Nếu người dân bỏ trồng ngô sang trồng cacao thì 200-300 ha này sẽ có thể trở thành nơi trồng cacao.

Page 33: Những thách thức trong phát triển bền vững

33

Tuy nhiên, khả năng này rất khó xảy ra, bởi người M’nông luôn có xu hướng đề cao sự đa dạng trong cây trồng để đảm bảo nguồn lương thực.

1.2.4. Thiếu niềm tin bởi lợi ích chưa được kiểm chứng

1.2.4.1. Thất bại trong quá khứ và “phấp phỏng” về tương lai

Năm 1987, cây cacao đã được trồng ở huyện Lắk. Cho đến nay, nhiều người dân huyện Lắk vẫn nhắc đến ông Nguyễn Lương Bình, một chuyên gia nông nghiệp, cũng là một cán bộ lãnh đạo chủ chốt của huyện, như một người có vai trò dẫn dắt đối với câu chuyện về cacao. Sau chuyến đi học hỏi kinh nghiệm từ Cu Ba, trở về địa phương, Nguyễn Lương Bình đã cùng UBND huyện phát động phong trào trồng cacao. Cuối những năm 1980, diện tích cacao của huyện Lắk đã đạt xấp xỉ 1.000ha. Tuy nhiên, do không tìm được thị trường, những nỗ lực của địa phương đã không mang lại kết quả như mong đợi. Phần lớn cacao bị nông dân chặt phá, một số cây còn sót lại cho đến nay vẫn cho quả nhưng giá trị không cao vì giống cũ cho ít hạt và hạt nhỏ. Một người nông dân nhớ lại:

“Vào những năm 1990, ông bà chỉ trồng cây cacao làm bóng mát chứ chưa biết gì [hiệu quả kinh tế] của loại cây này. Hồi đó, trẻ con thấy trái đẹp thì bóc ra ăn chơi, hạt thì vứt đi”

Năm 2002, khi tỉnh Đắk Lắk (cũ) có chủ trương trồng cacao, huyện Lắk được coi là một trong những vùng quy hoạch. Mặc dù được các cán bộ nghiên cứu của Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh tận tình hướng dẫn kỹ thuật và đảm bảo thu mua hết sản phẩm, cây cacao vẫn không thể phát triển. Giải thích về điều này, nhiều lý do đã được viện dẫn, nhưng có 3 ý kiến khá tập trung: i) sự thất bại của cây cacao trong những năm 1980 khiến cho người nông dân nghi ngại; ii) cây cacao đòi hỏi nhiều vốn hơn sự dự liệu của tỉnh, trong khi khả năng của nông dân có hạn; và iii) kỹ thuật trồng, chăm sóc cacao phức tạp hơn so với các loại cây trồng khác nhà café hay điều.

Nhiều tin đồn về sự thất bại của cây cacao cũng khiến người dân mất lòng tin. Khi được hỏi tại sao từ chối khi dự án cho giống cacao miễn phí năm 2007, một người dân thôn Dốc Đuôn, xã Yang Tao kể rằng: “có nhiều tin đồn nên em ngại…Tin đồn rằng dự án cho không thì sau này sẽ đòi nợ, vì ở Buôn Ma Thuột trước cho người dân trồng cà phê đến mấy chục ha, sau này bị thu lại và người dân chỉ trở thành người làm thuê”, người khác cũng giải thích: “mặc dù cây cacao được dự án phát miễn phí, nhiều gia đình vẫn không dám nhận vì sợ phải trả nợ khi không bán được”.12 Một chủ tịch Hội Nông dân cũng xác nhận khi dự án cho giống cacao, một số bà con nói rằng sau này sợ bị truy thu nên không muốn nhận. Qua thảo luận nhóm tại xã Đăk Phơi, thực tế cho thấy các hộ người Tày mới di cư từ Cao Bằng vào dễ tiếp nhận cây cacao hơn do chưa phải trải qua những thất bại của các chương trình khuyến nông trước đây.

Những thất bại trong quá khứ trở thành bài học cho người nông dân hiện tại. Một phụ nữ M’nông xã Yang Tao đang trồng cacao cho biết năm 1998, gia đình bà đã phải đốt 3 sào mía, có số lượng khoảng 19 tấn, trồng theo dự án, vì không có ai thu mua. Bà giải thích lý do quyết định trồng cây cacao mà không trồng mía sau khi đã có những trải nghiệm cay

12 Phỏng vấn bà H’Jưn Kmăn tại Yang Tao ngày 2/11/2011.

Page 34: Những thách thức trong phát triển bền vững

34

đắng với cây mía: “Chị quyết định trồng cacao vì nếu sau này vườn cacao không có ai mua thì chị sẽ chặt làm củi đốt. Cacao làm củi được, còn cây mía thì không”.

1.2.4.2. Thiếu thông tin và nhiễu loạn thông tin

Đa số nông dân và cán bộ đều thiếu thông tin, nhất là thông tin về thị trường, chế biến, tiêu thụ sản phẩm và kỹ thuật chăm sóc cacao trong thời kỳ kinh doanh. Kết quả phỏng vấn cho thấy, không chỉ người dân mà ngay cả một số cán bộ cấp huyện và cấp xã đều rất mơ hồ về cây cacao. Một cán bộ Hội Phụ nữ trả lời rằng “không biết gì về cây cacao”, và “nghe nói rằng chỉ trồng để giữ đất thôi”, “nghe nói trồng xong không có người thu mua”.

Nhiều người dân đang trồng cacao không hiểu rõ cây cacao có thể sử dụng làm gì. Họ kể rằng cây cacao đã được trồng rải rác khá lâu, nhưng trẻ em thường chỉ ăn cái nhựa trắng rồi vứt hạt đi. Một người dân đang trồng 50 cây cacao do dự án giao cho đã được 2 năm, nói rằng “không ăn cacao được đâu, chỉ ăn được cái trắng trắng, còn nếu ăn hạt thì chết ngay, nó nở hoa trong bụng chết ngay”. Khi được hỏi vậy tại sao các công ty vẫn thu mua, anh nói “chắc mua làm thuốc men gì đó, không biết đâu”.

Một thanh niên ở Yang Tao kể rằng mặc dù nhìn thấy một số hàng xóm trồng cacao nhưng xã chưa bao giờ tổ chức thông báo chính thức và tập huấn chung, nên anh và các gia đình chưa trồng cacao không có thông tin gì về cây cacao, bán cho ai, như thế nào. Trong khi đó với các loại cây khác như cà phê, ngô, sắn… bà con biết rất rõ, và có xe vào tận nơi thu mua. Ở xã Yang Tao có 3 địa chỉ lên men, nơi bà con bán trái cacao tươi, nhưng nhiều người hàng xóm cũng không hề hay biết đó là chỗ “đầu ra” trực tiếp ở gần họ. Cũng chỉ những đầu mối lên men nắm được số điện thoại liên hệ của các đại lý thu mua, và là những người nắm rõ giá cả hàng ngày vì Công ty Cargill và Cao nguyên xanh hàng ngày nhắn tin báo giá. Tất cả các đại lý cấp 1 của Cargill đều có chính sách thưởng cho các cơ sở thu mua và lên men hạt cacao. Thông thường, Cargill đề ra mức thưởng tối thiểu 1.600 đ/kg đối với các sản phẩm có chất lượng tốt. Nhưng việc áp dụng chính sách thưởng trên thực tế vẫn có sự khác biệt nhất định ở mỗi đại lý. Điều này thì người dân hoàn toàn không biết.

Thông tin về cây cacao chủ yếu một chiều qua con đường dự án và câu lạc bộ do dự án cây cacao của Mỹ (Success Allience với sự hỗ trợ của USAIDS, Adivoca) có kết hợp với khuyến nông tỉnh tổ chức, nên những ban ngành không liên quan nhiều (hội phụ nữ, ban dân vận, hội nông dân…) thường không được mời để tham gia vào qui trình phổ biến thông tin. Công ty Cargill có kết hợp với đài truyền hình Đăk Lăk làm các chương trình vào bản tin 24h giới thiệu về cây cacao và kỹ thuật trồng cacao, tuy nhiên ngoài các đầu mối cacao ở địa bàn, số đông người dân không biết và không xem.

Rào cản lớn nhất là thông tin liên quan đến chính sách cụ thể đầu vào và đầu ra của cây cacao. Hiện tại mới chỉ có một số xã trồng cây cacao theo dự án, nhiều gia đình chưa có thu hoạch nên họ càng cảm thấy mù mờ về đầu ra của loại cây trồng này. Việc chưa yên tâm về đầu ra cũng được nhiều cán bộ huyện chia sẻ và vì vậy, sự thiếu hụt thông tin về đầu ra là một trong những yếu tố khiến cho cây cacao chưa tạo được niềm tin cho cả người dân lẫn cán bộ. Một cán bộ Phòng dân tộc bộc bạch: “Trở ngại lớn nhất để phát triển cây cacao ở đây là đầu ra. Phải tạo cho người dân niềm tin rõ ràng về đầu ra. Cây lúa, cây

Page 35: Những thách thức trong phát triển bền vững

35

ngô trồng ra không bán được còn có thể dùng để ăn. Trồng cacao mà không có ai mua thì chỉ có vứt”. Một cán bộ tỉnh Đắk Lắk nhận xét “người dân hiểu rất rõ về cây cà phê, giống nào thì tốt, cách thức trồng, chăm sóc ra sao, cây bị bệnh gì, xử lý như thế nào… nhưng cả cán bộ và người dân đều vẫn rất mơ hồ về cây cacao”. Có cán bộ khẳng định rằng các công ty chỉ thu mua thô chưa qua lên men để có thêm lợi nhuận. Thế nhưng trên thực tế, công ty Cargill thông báo rằng họ chỉ mua cacao đã lên men rồi. Công ty Cao Nguyên Xanh, đại lý cấp 1 của Cargill cũng chỉ mua một số ít trái tươi để lên men thử nghiệm, chứ không mua đại trà trái cacao chưa qua lên men.

1.2.4.3. Thị trường thiếu ổn định

Thị trường cây giống: Hiện tại, ở Đắk Lắk đang có 4 đơn vị cung ứng cây giống cacao: Công ty Giống cây trồng tỉnh Đắk Lắk, Công ty Cao Nguyên Xanh, Viện Khoa học kinh tế Nông-Lâm nghiệp Tây Nguyên và các hộ kinh doanh cây giống, với khả năng cung cấp 2.000.000 cây ghép/năm. Phần lớn cacao giống ở huyện Lắk hiện nay đều đã được cấp phát miễn phí trong khuôn khổ dự án SA, nhưng chi phí cho cây giống vẫn được hướng dẫn cho người dân tính vào hạch toán. Kết quả phỏng vấn sâu cho thấy giá cả cacao giống rất không ổn định, do lệ thuộc vào cung đường vận chuyển và khả năng cung cấp kịp thời của các tổng đại lý. Tại Yang Tao, có lúc người dân phải mua cacao giống với giá 9.000 đồng/cây. Nhưng ở Đắk Phơi, xã có cung đường vận chuyển xa hơn, giá cacao giống có lúc hạ xuống chỉ còn 6.500 đồng/cây. Điều này cũng lệ thuộc vào mức độ trồi sụt trong quan hệ cung cầu giữa người trồng cacao và các cơ sở cung cấp giống.

Theo đánh giá của ông Nguyễn Xuân Diệp, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh Đắk Lắk, nhiều cơ sở kinh doanh cây giống cacao trong tỉnh còn dè dặt vì thị trường chưa phát triển, chủ yếu dựa vào các dự án đã và đang được thực hiện bởi sự tài trợ từ bên ngoài, chưa có thị trường nội sinh. Trong bối cảnh hiện nay, Cao Nguyên Xanh đang chiếm tới 70% thị phần trên thị trường cây cacao giống. Chất lượng cây giống của các hộ kinh doanh cây giống nhỏ lẻ thường tốt, nhưng quy mô sản xuất của các hộ kinh doanh cây giống thường nhỏ, sản phẩm đầu ra không nhiều, và các hộ kinh doanh cây giống nhỏ lẻ không có các điều kiện hỗ trợ kỹ thuật tốt như các công ty lớn. Vì vậy, thị trường cacao khá nhỏ có thể dẫn đến sự độc quyền tự nhiên của công ty kinh doanh.

Cũng cần nói thêm rằng, các công ty cung cấp giống cacao hiện nay đều đang thực hiện theo đơn đặt hàng của dự án SA, với điều kiện họ phải hỗ trợ cho nông dân thông qua các chương trình tập huấn chuyển giao kỹ thuật. Nhưng trên thực tế, tất cả các hộ dân trồng cacao đều không nhận được bất cứ sự hỗ trợ nào của các đơn vị cung cấp giống. Kỹ thuật mà người dân có được chủ yếu thông qua hệ thống tập huấn viên của NLU. Đơn vị này nhận được sự bảo trợ trực tiếp của SA chứ không phải của các đơn vị cung cấp cây giống.

Thị trường sản phẩm: Về thị trường đầu ra, theo đánh giá của các nhà quản lý ở địa phương, giá cả cacao trên thế giới hiện nay là khá cao so với 10 năm qua nhưng cũng có sự dao động mạnh. Nghiên cứu của Agrifood Consulting International (2008) cho biết trong lịch sử giá cacao đã từng biến động rất mạnh. Sau thời kỳ bùng nổ của cacao vào cuối những năm 1970 tới giữa những năm 1980, giá cacao đã suy giảm trong suốt những

Page 36: Những thách thức trong phát triển bền vững

36

năm 1990 và ở mức thấp lịch sử (theo giá thực tế) vào tháng 12 năm 2000.13 Từ năm 2001 giá cả đã hồi phục và năm 2008 ở mức đỉnh mới là USD 2.690/tấn.

Tuy nhiên, bức tranh thị trường đầu ra sản phẩm cacao ở Đắk Lắk không hoàn toàn lạc quan. Người dân ở Yang Tao và Đắk Phơi cho biết, đối với các loại cây trồng khác như cà phê, điều, ngô, sắn, vào mùa thu hoạch, những người thu mua đến tận nhà chở đi. Trái lại, cacao do không chín cùng lúc nên người dân phải tự mang đến điểm thu mua. Khi điểm thu mua đóng cửa, cacao đã thu hoạch có thể phải bỏ đi. Hiện trạng này không chỉ gây lãng phí thời gian mà còn khiến nông dân bị thất thu. Việc thị trường cacao chưa hình thành rõ ràng, ổn định cũng là một trong những yếu tố khiến người dân chưa thể có niềm tin vào loại cây này.

Những hộ dân thu mua để lên men tưởng như là những người có lợi trong chuỗi cacao. Tuy nhiên các hộ lên men thường thu mua lại trái tươi với giá 3000-4000đ/kg, và cứ khoảng 12-14 kg tươi được 1 kg hạt khô. Với giá thu mua 45-47.000/kg hạt khô chất lượng tốt thì những người lên men không thể có lãi, mà chủ yếu dựa vào tiền thưởng của các công ty thu mua nếu cacao hạt đạt chất lượng tốt. Như vậy, các nhà doanh nghiệp xuất khẩu cacao đang đẩy hết rủi ro trong chuỗi cacao cho người trồng và người lên men bởi công ty chỉ thu mua hạt đã lên men và đạt đủ tiêu chí cần thiết.

Mặt khác, trong khuôn khổ thị trường đầu ra của cacao hạt cho đến thời điểm này, Cargill cũng là một tổ chức lớn nhất. Cargill Việt Nam bắt đầu kinh doanh (thu mua và xuất khẩu) cacao từ năm 2005 do hoạt động kinh doanh cà phê bị ảnh hưởng do chất lượng không đảm bảo. Tuy nhiên, đối với Cargill Việt Nam, kinh doanh cacao chỉ là phần kinh doanh phụ, kinh doanh thức ăn gia súc mới là chính.14 Năm 2005, Cargill Việt Nam có một số hoạt động nhằm tăng diện tích trồng cacao và tăng sản lượng thu mua như hỗ trợ làm vườn cacao thử nghiệm (demo farm). Theo đánh giá, sản lượng cacao tại Việt Nam hiện nay là 1.700 tấn mỗi năm, trong đó Cargill chiếm 70% thị trường, ngoài ra còn 2-3 doanh nghiệp khác.15 Từ tháng 5/2011 trở về trước, Cargill Việt Nam còn thu mua lẻ của người dân, nhưng từ tháng 6/2011, họ không mua lẻ nữa mà chỉ mua của các pháp nhân (các đơn vị bán hàng cho Cargill phải xuất hóa đơn đỏ). Chính sách thị trường của Cargill khá ngặt nghèo. Cargill chỉ mua hạt cacao sau khi sơ chế (lên men, phơi/sấy khô), khác với Indonesia là mua hạt tươi, không lên men. Khi được hỏi về sự vững chân lâu dài của công ty trong thị trường cacao, một cán bộ cho biết, với tiêu chí đặt chất lượng sản phẩm lên hàng đầu (theo yêu cầu của hệ thống đánh giá UTZ) quan điểm của Cargill đối với cacao Việt Nam là “Cargill chỉ còn có mặt trong thị trường chừng nào cacao còn đảm bảo chất lượng”. Điều đó cũng có nghĩa người nông dân trồng cacao sẽ vẫn tiếp tục lo lắng về sản phẩm đầu ra của mình.

13 Theo báo cáo của Agrifood Consulting International, tháng 12 năm 2000 giá danh nghĩa đạt USD 801/tấn (giá

thực tế là USD 462/tấn (đồng Đô la Mỹ giảm giá do Chỉ số giá tiêu dùng CPI của Mỹ). 14 Phỏng vấn cán bộ thu mua của Cargill cho biết sản lượng cacao hạt được Cargill Việt Nam thu mua tại Đắk Lắk

và Đăk Nông năm 2009 khoảng 650 tấn, năm 2010 khoảng 700 tấn, kế hoạch 2011-2012 là 1,000 tấn (trong tổng

số dự tính là 1,300 tấn). 15 Thực tế là sự cạnh tranh khốc liệt đã đẩy các công ty nhỏ trong kinh doanh thu mua cacao đến chỗ phá sản.

Page 37: Những thách thức trong phát triển bền vững

37

1.2.5 Địa phương chưa thực sự đầu tư nguồn lực

Năm 2002, đề án phát triển 10.000ha cacao đến năm 2010 được UBND tỉnh Đắk Lắk (cũ) phê duyệt. Sau 8 năm thực hiện, trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk mới (được quy hoạch 6.000ha), chỉ có khoảng 2.000ha cacao được trồng; hơn 30% diện tích trong số đó thuộc về các công ty cà phê, hơn 25% diện tích được phát triển trong khuôn khổ dự án SA. Riêng tại huyện Lắk, toàn bộ diện tích cacao được trồng trong những năm trước 2007 không còn giữ vai trò gì trong kinh tế nông hộ; toàn bộ diện tích 205 ha cacao được phát triển mới đây đều thuộc về dự án SA, không có bất kỳ diện tích cacao nào được phát triển trong khuôn khổ dự án 10.000ha của tỉnh.

Bài học để lại cho huyện Lắk những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ trước là vấn đề thị trường đầu ra. Lúc đó, huyện chỉ tính đến chuyện phát triển diện tích trồng cacao chứ không tính đến việc có bán được sản phẩm hay không. Giai đoạn đầu thời kỳ Đổi mới, Việt Nam chưa có các bạn hàng nước ngoài, hạt cacao không biết xuất khẩu đi đâu. Sự phá sản của cây cacao thế hệ này đã là điều không tránh khỏi. Đối với giai đoạn hiện nay, tình trạng trì trệ bắt nguồn từ chính sự thiếu đồng bộ trong hệ thống chính sách của tỉnh.16 Mặc dù đề án cacao được phê duyệt nhưng các chỉ tiêu liên quan đến cacao đã không được đưa vào kế hoạch hàng năm của tỉnh cũng như của các huyện/xã. Trong bộ chỉ số thống kê của tỉnh Đắk Lắk và các xã của huyện Lắk đều không có chỉ tiêu/chỉ số về diện tích, sản lượng và đóng góp của cây cacao trong nền kinh tế địa phương. Cacao là cây trồng mà giai đoạn đầu đòi hỏi phải có sự tập trung các nguồn lực, kể cả nhân lực, vật lực và tài lực. Nếu chủ trương của tỉnh không được cụ thể hóa trong các hình thức kế hoạch, đương nhiên không thể nói đến tính khả thi.

Cũng cần nói thêm rằng, định hướng quy hoạch vùng để phát triển cây cacao của tỉnh Đắk Lắk hầu hết nằm ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, trên các nền đất không phù hợp cho việc trồng cà phê. Điều này cho thấy, về mặt quy hoạch, cacao được xếp hạng thấp, không có tính ưu tiên. Đây cũng chính là vùng có tỷ lệ nghèo đói cao và vì thế, việc huy động sự tham gia của người dân gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, phát triển cây cacao đòi hỏi phải có quỹ đất nhất định. Nhiều diện tích đất có thể trồng được cacao hiện vẫn nằm trong sự quản lý của các nông-lâm trường quốc doanh. Nhiều đơn vị trong số đó làm ăn thua lỗ kéo dài, nhưng việc giải thể gặp khó khăn. Điều đó cũng đồng nghĩa tình trạng khó huy động nguồn lực đất đai cho sản xuất cacao. Bên cạnh đó, còn có những vấn đề trong nguồn nhân lực phát triển cacao. Theo một cán bộ Trung tâm Khuyến nông tỉnh, mạng lưới khuyến nông và bảo vệ thực vật của tỉnh Đắk Lắk hiện có số lượng hạn chế nhưng lại phải phụ trách trên địa bàn rộng với nhiều đối tượng cây trồng khác nhau. Về mặt chuyên môn, đội ngũ nhân lực đó lại thuộc nhiều phân ngành nông nghiệp khác nhau. Cacao là cây trồng mới, hầu hết các các bộ khuyến nông đều thiếu kiến thức về kỹ thuật canh tác.

16 Về nguyên tắc, sau khi phê duyệt đề án phát triển cacao, tỉnh sẽ chỉ đạo các Sở/Ban/Ngành và các địa phương

cấp dưới trong tỉnh lập kế hoạch định hướng và kế hoạch hành động, với các chỉ tiêu/chỉ số cụ thể. Gắn với các kế

hoạch đó là kế hoạch phân bổ ngân sách thực hiện. Ngay cả khi đã có kế hoạch hành động, cũng cần có sự cải

cách trong chính sách tín dụng theo hướng tăng lượng vốn vay và thời hạn vay vốn. Với quy định về tín dụng

trung hạn như hiện nay, người dân - nhất là các hộ nghèo và người dân tộc thiểu số tại chỗ - khó có thể tham gia

vào sản xuất cacao.

Page 38: Những thách thức trong phát triển bền vững

38

Chính vì có những mâu thuẫn trong chính sách định hướng, các cơ quan ban ngành Đắk Lắk cũng không thực sự hào hứng lắm với cây cacao. Mặc khác kết quả phỏng vấn sâu các cán bộ ở xã, huyện và tỉnh cho thấy, bản thân nhiều cán bộ cũng chưa thấy bị thuyết phục bởi tiềm năng giá trị kinh tế của cây cacao nên sự dè dặt trong triển khai dự án, cũng như sự thiếu mặn mà của người dân tộc tại chỗ cũng là điều dễ hiểu. Hiện nay chưa có hiệp hội nào chuyên về cacao (chỉ có hiệp hội Cà phê - Cacao). Tại địa bàn nghiên cứu, các xã Yang Tao và Đắk Phơi cũng chưa có sự quan tâm nhiều đến cacao. Báo cáo chiến lược của xã vẫn đặt trọng tâm vào các cây ngắn ngày như ngô, lúa.., đảm bảo an toàn về lương thực cho người dân.

*

* *

Cách tiếp cận phổ biến trước đây về phân tích chuỗi giá trị cacao, mặc dù giúp hình dung rõ ràng các mắt xích trong chuỗi sản phẩm, cũng như sự tham gia của người dân trong các mắt xích đó, có thể bỏ qua yếu tố văn hóa bản địa và những rào cản về văn hóa đối với sự chấp nhận cây cacao trong đời sống của tộc người thiểu số. Kết quả nghiên cứu ban đầu tại huyện Lắk đã chỉ ra một số rào cản chính đối với sự phát triển của cây ca cao trong cộng đồng người Mnông tại đây. Phương thức canh tác của cacao chưa hoàn toàn tương thích với cách sống và canh tác của người dân. Cây cacao bị xem như cây “con mọn”, đòi hỏi nhiều công đoạn chăm sóc tỉ mẩn mang tính cá nhân, khác với phương thức canh tác đổi công vốn phổ biến trong đời sống sinh kế của người dân M’nông. Người dân không tận dụng được mạng xã hội trong việc chia sẻ lao động cũng như củng cố mối quan hệ cộng đồng. Mặt khác, việc thu hoạch “lai rai” và do đó thu nhập cũng “lai rai” khiến người dân không thể tích lũy và trả nợ vốn vay, do đó cũng không đủ hấp dẫn và trở thành động lực để người dân gắn bó với cây cacao. Với những lợi ích kinh tế không rõ ràng và ưu việt hơn các loại cây trồng sẵn có, với chi phí khá lớn để trồng, chăm sóc và chế biến, và đồng thời với tính rủi ro cao về sâu bệnh và thời tiết, cây cacao không phải loại cây dành cho người nghèo.

Page 39: Những thách thức trong phát triển bền vững

39

PHẦN II: CÂY CA CAO Ở EA KAR VÀ ĐẠ HUOAI

2.1 Thực trạng cây ca cao ở Ea Kar và Đại Huoai

Mặc dù được giới thiệu như những địa điểm thành công của cây cacao, thông tin chúng tôi thu được từ các phỏng vấn sâu, các thảo luận nhóm và quan sát trực tiếp tại các vườn trồng ca cao đều cho thấy rằng đa số người trồng ca cao ở Ea Sar và Đạ Huoai cũng không muốn tiếp tục đầu tư vào loại cây này. Vì vậy, nhiều hộ đã không chăm sóc vườn ca cao của mình theo như kỹ thuật được học, và nhiều hộ khác đã nghĩ đến chuyện chặt bỏ hoặc thực tế đã chặt bỏ ca cao để thay thế bằng cây trồng khác. Kết quả là, trong hầu như tất cả các phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm, người trồng cacao đều nói với chúng tôi rằng số lượng cây ca cao của họ đã giảm đi đáng kể.

Ảnh: Nhiều vườn cacao ở Easa không được chăm sóc

Để giúp người đọc hiểu hơn về việc suy giảm này, chúng tôi xin được trình bày các sơ đồ miêu tả biến động của số cây ca cao ở các hộ gia đình tại một số thôn, buôn (theo ước tính của các gia đình trồng ca cao tham gia vào thảo luận nhóm). Lưu ý là trong các sơ đồ này, mỗi cây “có lá” là biểu tượng cho một hộ gia đình đang còn giữ ca cao; mỗi cây “trọc lá” là biểu tượng cho gia đình đã bỏ ca cao. Dưới mỗi biểu tượng cây là các con số lần lượt có ý nghĩa là số hộ gia đình, số cây ca cao lúc mới trồng, và số cây ca cao còn lại tại thời điểm nghiên cứu (tháng 4/2013). Ví dụ, ký hiệu 1:200->150 trên sơ đồ trồng ca cao thôn 1 (xã Ea Sar, huyện Ea Kar) nghĩa là hộ gia đình số một, ban đầu trồng 200 cây, và hiện nay còn 150 cây cacao. Chúng tôi cũng muốn lưu ý rằng trong số những hộ còn giữ lại ca cao, thì rất nhiều hộ đang lưỡng lự về việc chặt bỏ hoặc không còn chăm sóc cây trồng này nữa.

Page 40: Những thách thức trong phát triển bền vững

40

Sơ đồ 1. Hiện trạng trồng cacao tại thôn 1, Easar, Eakar, Đắk Lắk Sơ đồ 1 mô tả thực trạng trồng cacao tại thôn 1, xã Easar, huyện Eakar, Daklak. Các hộ dân sống trong thôn này chủ yếu là người dân tộc Tày, di cư từ phía Bắc vào từ những năm 1970s và 1980s. Tại thôn này, có 31 hộ đã từng trồng ca cao. Theo những người tham gia thảo luận nhóm, mỗi hộ được phát miễn phí 100 cây giống và phân bón vào năm 2007 và 100 cây nữa cùng với phân bón vào năm tiếp theo. Vào thời điểm đó, họ chọn trồng ca cao vì cà phê thì mất giá còn điều thì mất mùa, trong khi đó cây ca cao lại được ‘cho không’ và được ‘dự án hỗ trợ’. Lúc đó, người dân trong thôn được tuyên truyền rằng ca cao hạt khô có giá trên 60,000/kg trong khi đó cà phê chỉ có chưa đến 30,000/kg. Một số hộ đã rất tin tưởng vào hiệu quả kinh tế của cacao và đã tự bỏ tiền ra để mua thêm cây về trồng, ngoài số 200 cây được nhận miễn phí. Những người tham gia thảo luận nhóm cho biết đất ở thôn là phù hợp với việc trồng cacao. Những người nông dân này đã được tham gia và các câu lạc bộ ca cao và được dự các lớp tập huấn kỹ thuật trồng cây này. Theo mô tả của các cán bộ khuyến nông ở xã Ea Kar, thì thôn này là đã từng là nơi ‘thành công nhất’ trong việc trồng ca cao trong xã. Tuy nhiên, tại thời điểm nghiên cứu, trong tổng số 31 hộ trồng thì 14 hộ đã chặt, 17 hộ vẫn còn đang giữ lại cây trồng này. Các lý do được đưa ra để lý giải cho việc bỏ ca cao là sâu bệnh nhiều, chi phí cho phân bón cao trong khi đó giá ca cao quá thấp. Tại thời điểm nghiên cứu, giá ca cao là 36,000 đến 37,000 một cân hạt lên men trong khi đó giá cà phê đã tăng trở lại, lên tới 65,000/kg.

Page 41: Những thách thức trong phát triển bền vững

41

Sơ đồ 2. Hiện trạng trồng cacao tại thôn 8, Easar, Eakar, Đắk Lắk

Sơ đồ 2 mô tả tình trạng trồng ca cao tại thôn 8, xã Ea Sar, huyện Ea Kar, Đắc Lắc. Cư dân của thôn chủ yếu là người Kinh ở Nghệ An di cư lên địa bàn này từ giữa những năm 1990s. Theo ước tích của các hộ dân đại diện cho các hộ trồng ca cao trong thôn thì toàn thôn có 19 hộ đã từng trồng cacao. Các hộ này cũng được phát miễn phí 200 cây kèm theo phân bón vào các năm 2007 và 2008. Ngoài ra các hộ dân này còn được hỗ trợ đào hố để trồng ca cao. Cũng giống như các hộ dân ở thôn 1, lý do khiến họ trồng ca cao là do sản lượng điều giảm đáng kể. Bốn trong số các hộ này đã mua thêm cây về trồng trong những năm đầu. Hiện nay, chỉ có ba hộ còn nguyên 200 cây như khi được phát. Bốn hộ đã chặt bỏ hoàn toàn. Ba hộ khác cho biết ‘sẽ chặt’. Trong các hộ còn lại thì số lượng cây đang giảm dần. Ngoài những lo ngại về giá thấp, đại diện các hộ dân tham gia phỏng vấn cho biết cây ca cao ‘dễ nhiễm bệnh hơn các cây khác’. Khi đã mắc bệnh thì ‘không có thuốc gì trị cả’. Họ thậm chí còn ví bệnh của cây ca cao ‘như ung thư’, tức là không thể chữa được.

Page 42: Những thách thức trong phát triển bền vững

42

Sơ đồ 3. Hiện trạng trồng cacao tại thôn 4, Đoàn Kết, Đạ Huoai, Lâm Đồng Sơ đồ 3 mô tả thực trạng trồng cacao tại thôn 4, xã Đoàn Kết, Đạ Huoai, Lâm Đồng. Không giống như hai thôn trên đây, thôn này có nhiều dân tộc khác nhau cùng sinh sống. Trong đó người Kinh di cư từ phía Bắc vào và người Cơ Ho chiếm đa số. Từ năm 2010, có 125 hộ gia đình trên địa bàn bắt đầu trồng ca cao sau khi được cán bộ địa phương ‘phổ biến’ rằng ca cao đang có giá trên 60,000/kg hạt khô. Mỗi gia đình đã được nhận miễn phí 150 cây, được tham gia các lớp tập huấn về kỹ thuật. Niềm tin của họ được củng cố thêm khi được nghe về triển vọng tốt đẹp của cây ca cao trên ‘tivi, đài’ do họ cho rằng thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng ‘của nhà nước’ là đáng tin cậy. Tại thời điểm nghiên cứu, nhiều hộ dân thông báo rằng mình bị ‘thua lỗ’. Chỉ còn 40 hộ trong thôn được xác định là vẫn đang trồng ca cao. Đa số người dân tham gia và thảo luận nhóm nói rằng tình trạng thường xuyên phải đối phó với sâu bệnh và giá ca cao thấp khiến cho nhiều hộ dân không muốn trồng cây này nữa. Nhiều hộ đã chặt ca cao trong khi đó nhiều hộ khác, bao gồm cả chủ nhiệm câu lạc bộ ca cao, đã bỏ không chăm sóc nữa.

Page 43: Những thách thức trong phát triển bền vững

43

Sơ đồ 4. Hiện trạng trồng cacao tại buôn Xê đăng, Easar, Eakar, Đắk Lắk Sơ đồ 4 mô tả thực trạng trồng ca cao ở buôn Xê Đăng, xã Easar, huyện Eakar, Đắc Lắk. Đại đa số người dân trong buôn là người Xê Đăng. So với những người Tày và người Kinh sống cùng xã, những người Xê Đăng này nghèo hơn nhiều và nói tiếng Kinh không sõi. Họ sống tập trung ở một buôn duy nhất, tương đối cách biệt so với các thôn buôn khác của xã Easar. Trong khi thực hiện thảo luận nhóm tại đây, chúng tôi đã phải nhiều lần tạm dừng để nhờ trưởng buôn thông dịch. Buôn Xê Đăng là một nơi đất cao, bạc màu và thiếu nước. Nhiều khi người dân còn thiếu nước để dùng cho sinh hoạt, chứ chưa nói đến tưới cho cây trồng. Vào năm 2007, có 18 hộ trong buôn bắt đầu trồng cacao do mỗi hộ được hỗ trợ 100 cây giống và phân bón. Họ giải thích rằng họ trồng cacao vì được dự án ‘A Đi Mô Ka’ (ACDI/VOCA) ‘hỗ trợ’ và vì nghe nói rằng ‘trồng cacao dễ hơn trồng cà phê’. Tại thời điểm nghiên cứu, một nửa số hộ này đã chặt bỏ, và một nửa còn lại đang còn duy trì nhưng số lượng cũng đã suy giảm. Những người tham gia thảo luận nhóm cho biết cho biết ngoài lý do giá thấp và sâu bệnh nhiều, lý do chính khiến họ không thể tiếp tục chăm sóc cây ca cao là thiếu nước. Để có thể tưới nước cho cây ca cao, họ phải dùng máy bơm để lấy nước từ những cái giếng sâu hàng chục mét. Chi phí liên quan đến việc vận hành máy bơm là quá cao đối với họ.

Page 44: Những thách thức trong phát triển bền vững

44

Sơ đồ 5. Hiện trạng trồng cacao tại buôn Easar, Easar, Eakar, Đắk Lắk Sơ đồ 5 mô tả thực trạng trồng cacao tại buôn Easar, xã Easar, huyện Eakar, Đắc Lắc. Đa số người dân trong buôn là người Êđê, là tộc người bản địa ở Tây Nguyên. Cũng giống như buôn của người Xê Đăng, buôn của người Ê đê tương đối tách biệt với các thôn của người Kinh và người Tày, Nùng di cư từ phía Bắc vào. Đất canh tác trong buôn của người Ê đê cũng kém màu mỡ và xa nguồn nước hơn so với đất canh tác của người Kinh, Tày, Nùng. Yếu tố nào đã khiến cho những người dân tộc thiểu số bản địa phải cư trú và sản xuất nông nghiệp ở những nơi kém thuận lợi hơn rõ ràng là một chủ đề nghiên cứu quan trọng trong tương lai. Chúng tôi chỉ muốn nhấn mạnh ở đây rằng nhiều hộ dân ở buôn Easar cũng đã tham gia trồng cacao từ năm 2007 và cũng gặp phải những khó khăn liên quan đến nước tưới. Nhiều người tham gia thảo luận nhóm kể rằng cán bộ địa phương đã phát miễn phí cây giống cacao cho họ với mục đích xóa đói giảm nghèo. Có 21 hộ gia đình trong thôn được xác định là đã tham gia trồng cacao, với số lượng là 200 cây mỗi hộ. Trong số này, có 10 hộ đã chặt bỏ. Trong số 11 nhà còn lại, chỉ có 3 nhà còn giữ nguyên được số cây ban đầu. Tình trạng sâu bệnh, giá thấp, và thiếu nước tưới được cho là các nguyên nhân chính khiến nhiều hộ không muốn tiếp tục trồng cây cacao.

Page 45: Những thách thức trong phát triển bền vững

45

Sơ đồ 6. Hiện trạng trồng cacao tại buôn Eapal, Cư Ni, Eakar, Đắk Lắk Sơ đồ 6 mô tả thực trạng trồng ca cao buôn Eapal, xã Cư Ni, huyện Eakar, Đắc Lắc. Eapla cũng là một buôn có nhiều người dân tộc thiểu số tại chỗ Êđê sinh sống. Các hộ dân ở đây đang sống dựa vào việc nuôi bò và trồng các loại cây ăn quả quen thuộc như sầu riêng, mít, chôm chôm, điều. Đây là buôn có ít hộ trồng cacao nhất trong số các buôn, thôn mà chúng tôi thực hiện thảo luận nhóm. Buôn này chỉ có ba hộ trồng ca cao, và cũng bắt đầu từ năm 2007. Theo giải thích của ông trưởng buôn, là người đã tham gia thảo luận nhóm, thì đại diện của dự án chỉ nhờ ông giới thiệu cho ‘năm, sáu’ hộ có thể trồng cacao. Để có thể tham gia trồng cây này, những hộ này phải có ít nhất là năm sào đất (5000 mét vuông). Điều kiện này đã loại ra đa số hộ dân trong buôn, những người chỉ có khoảng từ 1500 đến 2000 mét vuông đất, bao gồm cả nhà ở và các công trình phụ. Tại thời điểm chúng tôi thực hiện nghiên cứu, một hộ đã phá bỏ cacao. Số cây ở hai hộ còn lại cũng đã giảm khá nhiều. Có vẻ như việc lựa chọn các hộ trồng cacao ở các buôn có nhiều người dân tộc thiểu số bản địa sinh sống khác nhau trên địa bàn huyện Eakar đã không được thực hiện một cách nhất quán. Ở buôn Xê Đăng và Easar (xã Easar), việc lựa chọn các hộ trồng cacao dường như được gắn với công việc xóa đói giảm nghèo. Trong khi đó, việc lựa chọn này ở buôn Eapal dường như đã tuân theo các tính toán kinh tế kỹ lưỡng hơn và chỉ những hộ có khả năng hơn thì mới được chọn.

Như vậy trong tất cả các thôn, buôn mà chúng tôi đã tiến hành khảo sát, hầu như tất cả các hộ có trồng ca cao đã bắt đầu việc này do họ được nhận miễn phí cây giống, phân bón, và các hỗ trợ khác từ các nguồn khác nhau. Chỉ cần đăng ký với ‘dự án’, một hộ dân có thể

Page 46: Những thách thức trong phát triển bền vững

46

nhận miễn phí tới 200 cây giống, thậm chí là 600 hay 1000 cây. Tuy nhiên, tại thời điểm chúng tôi tiến hành nghiên cứu, tình trạng phá bỏ, hoặc không chăm sóc, hoặc suy giảm về số lượng cây ca cao là phổ biến. Dựa trên các thông tin thu được từ các thảo luận nhóm, chúng tôi đã xây dựng một bảng tổng hợp số liệu về hiện trạng trồng cacao ở các thôn, buôn mà chúng tôi đã khảo sát như trình bày dưới đây.

Thôn 4- xã Đoàn

Kết

Thôn 8 xã Easar

Thôn 1 xã Easar

Buôn Xê Đăng -

xã Easar

Buôn Easar -

xã Easar

Buôn EaPal - xã Cư

Ni

Tổng số

Tổng số hộ trồng

125 19 31 18 21 3 217

Số hộ còn trồng đến 4/2013

40 15 14 9 11 2 91

Số cây ước tính được phát/hộ

150 200 200 100 200 100 -

Tổng số cây ước tính được trồng 18750 3800 6200 1800 4200 400 35150 Tổng số cây ước tính còn lại 2500 2350 3705 1405 1573

200 11533 Bảng 3. Hiện trạng trồng cacao ở sáu thôn, buôn tại Đắc Lắc và Lâm Đồng

Bảng số liệu trên được xây dựng dựa trên các ước đoán của những người tham gia thảo luận nhóm về số hộ đã từng trồng cao cao, số hộ hiện vẫn đang trồng ca cao, số cây ca cao đã được trồng, và số cây ca cao còn lại cho đến thời điểm nghiên cứu (tháng 4/2013) ở mỗi thôn, buôn. Bảng số liệu này cho thấy tổng số hộ trồng cacao còn lại ở tất cả các thôn buôn được khảo sát có thể chỉ còn bằng chưa tới một nửa số hộ đã từng trồng ca cao ở các địa bàn này ở những năm đầu tiên (91/217=42%). Tương tự, số cây cacao còn lại tại thời điểm nghiên cứu có thể chỉ bằng khoảng 1/3 số cây cacao đã từng được trồng (11.733/35.150=32%). Tình trạng suy giảm số hộ trồng cacao và số cây cacao ở các thôn, buôn nêu trên là khá phù hợp với thực trạng biến động diện tích ca cao tại trong những năm vừa qua tại các huyện Đạ Huoai (Lâm Đồng) và Eakar (Đắk Lắk) nói riêng, và trong cả nước nói chung. Các báo cáo tại ‘Diễn đàn lần thứ 2 về phát triển ca cao bền vững ở Việt Nam: Cơ hội, thách thức và giải pháp’ được tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 28 tháng 11 năm 2013 đã khẳng định thực tế này. Thực vậy, diện tích cacao ở Đạ Huoai đã giảm từ 721.24 vào năm 2011 xuống còn 522.89 ha vào cuối năm 2012. Trong sáu tháng đầu năm 2013, do nhiều hộ gia đình đã chặt bỏ ca cao, tổng diện tích cacao trên toàn tỉnh Lâm Đồng chỉ đạt 1100 ha, trong khi mục tiêu tỉnh này đặt ra cho năm 2015 là 4000 ha (Nguyễn Trúc Bồng Sơn, 2013: 128). Tại Eakar, diện tích ca cao cũng đã giảm từ 902 ha vào năm 2011 xuống

Page 47: Những thách thức trong phát triển bền vững

47

còn 610 ha vào cuối năm 2013 (Huỳnh Quốc Thích, 2013: 118). Tính đến tháng 11 năm 2013, diện tích cacao trên toàn tỉnh Đắk Lắk chỉ đạt 2,554 ha, trong khi đó mục tiêu mà tỉnh đặt ra cho năm 2015 là 6,000 ha. Trên phạm vi toàn quốc, diện tích ca cao đã giảm từ 25,700 ha vào năm 2012 xuống còn 22,110.3 ha vào cuối năm 2013 do có 3,135.1 ha đã bị nông chặt bỏ (Phan Huy Thông, 2013: 5).

2.2 Các nguyên nhân dẫn đến việc suy giảm diện tích cacao

Các kết quả nghiên cứu định tính và định lượng trong nghiên cứu này đều cho thấy hiện trạng 'trồng xong rồi chặt', 'có trồng, không chặt nhưng bỏ bê' hay việc nhiều người dân không quan tâm đến loại cây trồng mới này ngay cả khi họ được hỗ trợ rất lớn từ bên ngoài là hiện tượng khá phổ biến, cần nghiên cứu thấu đáo để hiểu rõ nguyên nhân, từ đó đưa ra giải pháp phù hợp có lợi cho người nông dân cũng như ngành ca cao non trẻ ở Việt Nam. Qua khảo sát nghiên cứu, chúng tôi thấy có một số nguyên nhân chủ yếu: 1) Ca cao không đem lại giá trị kinh tế vượt trội so với các cây trồng khác; 2) Kỹ thuật trồng và chăm sóc ca cao phức tạp, vượt qua khả năng kiểm soát của người dân; 3) Chưa có các nghiên cứu kỹ lưỡng và chuẩn bị thấu đáo trước khi đưa cacao vào trồng. Ngoài ra còn có các nguyên nhân khác nữa, xin được bàn luận kỹ sau đây.

2.2.1 Sự yếu thế về hiệu quả kinh tế

Với nhiều người dân và cán bộ ở Ea Kar (Đắk Lắc) và Đạ Huoai (Lâm Đồng), cây ca cao khó có thể cạnh tranh được với cà phê, tiêu, điều hay thậm chí là mì và ngô. Ở Ea Kar, những khu đất tốt nhất được ưu tiên để trồng tiêu hoặc cà phê, còn đất bạc màu dùng để trồng điều. Trong vài năm gần đây, khi giá cà phê xuống thấp hay cây cà phê bị cỗi, nhiều người dân thường dùng phần đất trồng cà phê trước đây để trồng tiêu, hay trồng những cây ngắn ngày (như sắn, mía, ngô,…vv), chứ không ưu tiên trồng ca cao. Điều này cũng diễn ra tương tự tại Đạ Huoai (Lâm Đồng). Giống như trường hợp người Mnong ở huyện Lắk, việc người dân ở Ea Kar (Đắk Lăk) và Đạ Huoai (Lâm Đồng) không lựa chọn ca cao làm cây trồng ưu tiên so với các loại cây trồng khác xuất phát trước hết từ sự yếu thế về lợi ích kinh tế trong so sánh với các cây trồng khác người dân đã canh tác nhiều năm, kể cả cây trồng ngắn hay dài ngày. Trong so sánh với sắn, một người Ê Đê đã có kinh nghiệm trồng ca cao cho biết, tuy trên một khoảng diện tích canh tác, thu nhập từ cây cao cao lớn hơn sắn song nếu tính chi phí đầu tư thì thu nhập từ sắn cao hơn gấp nhiều lần:

Như chú trồng ca cao là 700 cây thì cho là 7 sào thì trồng mì thu 20 triệu thôi, nhưng mà nó lại không mất cái gì, mà trồng ca cao nó mất công nhiều mà chỉ được 27 triệu thôi thì trừ ra 7 triệu đó là tiền thuốc với tiền phân nên chung qui là người ta trồng mì còn hơn là trồng cây ca cao. Đấy là so cái diện tích với cái thu hoạch. Tuy rằng giá mì nó giảm nhưng chả mất gì vào đó, chẳng qua là năm nào cũng trồng mì thì nó hư đất đi thôi, nhưng mà người ta chữa cháy là người ta trồng mì đấy chứ không trồng ca cao đâu.

Page 48: Những thách thức trong phát triển bền vững

48

Tương tự như vậy, phân tích hiệu quả kinh tế của cây ca cao ở huyện Ea Kar (Đắk Lắk) so với hai loại cây trồng dài ngày là cà phê và tiêu như trình bày ở bảng sau đây cũng cho thấy sự yếu thế về mặt kinh tế rất rõ của cây ca cao. Theo khảo sát định lượng của nhóm nghiên cứu, ở thời điểm 2013 trong khi giá trị hiện tại thuần (NPV) của hệ thống sản xuất cây tiêu đạt 1.385,27 triệu đồng/ha và cây cà phê đạt 120,16 triệu đồng/ha thì hệ thống canh tác cacao đạt thấp nhất, chỉ là 96,03 triệu đồng/ha. Thêm vào đó, trong ba loại cây trồng này, tỷ suất hoàn vốn nội bộ của cây tiêu cao nhất, đạt 40% và thấp nhất là của hệ thống ca cao với 31%. Như vậy, so sánh 3 hệ thống sản xuất cho thấy, đầu tư trồng tiêu mang lại lợi nhuận cao nhất, tiếp theo là hệ thống cây café và đứng cuối bảng là hệ thống canh tác ca cao.

Chỉ tiêu Hệ thống canh tác có ca cao Cafe Tiêu NPV (triệu/ha) 96,03 120,16 1.385,27 IRR (%) 31 33 40

Bảng 4. Phân tích so sánh hiệu quả kinh tế của cacao, cà phê và tiêu ở Ea Kar, Đắk Lắk

Ngoài ra, nếu so sánh với các cây trồng ngắn ngày, trồng cacao cần phải có một nguồn vốn lớn, không chỉ trong những năm đầu mà còn cả khi cây ca cao đã cho thu hoạch. Bảng sau đây cho thấy, trong giai đoạn thiết kế cơ bản và chưa tính công lao động của hộ gia đình, bình quân một hecta cacao được người sản xuất đầu tư khoảng 25,377,000 đồng. Đầu tư cho năm thứ nhất là cao nhất do người dân phải trồng mới, chiếm khoảng 44,98%. Đầu tư cho năm thứ hai chiếm 24,15% tổng số tiền đầu tư cho thiết kế cơ bản. Con số này ở năm thứ ba là 30,87%. Trong ba nhóm dân tộc mà chúng tôi khảo sát, người Kinh có mức đầu tư cao nhất với 29,822,000 đồng/ha trong ba năm kiến thiết cơ bản, trong khi đó người Êđê đầu tư thấp nhất với 18,167,000 đồng/ha, dưới mức trung bình của các hộ được phỏng vấn.

Năm thứ Êđê Tày Kinh Trung bình 1 8,468,000 12,748,000 12,969,000 11,414,000 2 4,426,000 5,997,000 7,692,000 6,128,000 3 5,273,000 8,144,000 9,161,000 7,835,000 Tổng 18,167,000 26,889,000 29,822,000 25,377,000

Bảng 5. Đầu tư cho cacao ở giai đoạn thiết kế cơ bản (VND/ha)

Năm thứ Ê đê Tày Kinh Trung bình 4 4,918,000 10,219,000 12,802,000 9,351,000 5 6,865,000 15,104,000 15,285,000 12,361,000 6 8,250,000 16,790.000 17,791,000 14,243,000 Tổng 20,033,000 42,113,000 45,878,000 35,955,000

Bảng 6. Đầu tư cho cacao ở giai đoạn kinh doanh ở Ea Kar, Đắk Lắk (VND/ha)

Đối với cây ca cao, ngoài cần vốn đầu tư ban đầu ở giai đoạn kiến thiết cơ bản rất lớn, các chủ hộ còn phải bỏ ra chi phí hàng năm để chăm sóc trong giai đoạn cây đã cho thu hoạch. Với vườn cây ca cao ở Ea Kar khoảng 5-6 năm tuổi (chủ yếu được trồng từ năm 2007), kết quả khảo sát mức đầu tư cho ca cao trong giai đoạn kinh doanh từ năm thứ tư đến năm

Page 49: Những thách thức trong phát triển bền vững

49

thứ sáu, tức là mức đầu tư cho ba năm cho thu hoạch đầu tiên là 35,955,000 đồng/ha. Trong đó, đầu tư cho năm thứ 4 chiếm 26,0%, năm thứ 5 chiếm 34,4% và năm thứ 6 chiếm 39,6%. Chi phí đầu tư này chưa tính công lao động mà người dân phải bỏ ra. Ngoài ra, việc ca cao bị rớt giá cũng ảnh hưởng đến lợi thế so sánh của cây ca cao so với các cây trồng khác. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến việc người dân bỏ trồng cây ca cao cho dù đã đầu tư công sức và hy sinh lợi ích cơ hội trong vài năm qua.

2.2.2 Là cây trồng mới và thứ yếu trong cơ cấu sản xuất và thu nhập của người dân

Sự yếu thế về mặt lợi thế so sánh của cây ca cao so với các cây trồng khác đã làm cho người dân không thực sự mặn mà với nó. Các số liệu ở bảng dưới đây diễn tả mức độ đóng góp vào tổng thu nhập của hộ gia đình của một số loại cây trồng chính. Nhìn chung, sau thu nhập từ cà phê, thu nhập từ lúa vẫn giữ vị trí quan trọng, chiếm 21,77% tổng thu nhập của các hộ được khảo sát. Cây ca cao hiện nay mới đóng góp khoảng 12,51% cho thu nhập của hộ, tương đương 13,75 triệu đồng/năm. Người Kinh thu từ ca cao nhiều nhất với 23,08 triệu đồng/năm, đóng góp 16,52% vào thu nhập của hộ. Người Tày thu được 10,61 triệu/năm từ ca cao, đóng góp 10,41% vào thu nhập của hộ. Người Êđê chỉ thu được từ ca cao 6,94 triệu đồng/năm, chiếm 8,61% tổng thu nhập của hộ.

Nguồn thu từ

Êđê Tày Kinh Trung bình Số

lượng (tr/nă

m) %

Số lượng (tr/nă

m) %

Số lượng (tr/nă

m) %

Số lượng (tr/nă

m) %

Lúa 16,64 20,65 15,09

14,80 19,09

13,66 23,92

21,77

Cà phê 11,80 14,64 36,31

35,61 39,42

28,21 36,33

33,06

Ca cao 6,94 8,61 10,61 10,41 23,08

16,52 13,75

12,51

Điều 0 0 6,01 5,89 10,49 7,51 9,39 8,54 Tổng thu nhập của hộ 80,59 101,97 139,75 109,90 Bảng 7. Thu nhập từ một số cây trồng chính của các hộ nông dân ở Eakar, Đắk Lắk (triệu

VND/năm)

Do thiếu vốn đầu tư, cộng với ca cao chỉ là cây “thứ yếu” trong cơ cấu cây trồng và thu nhập của nhiều hộ gia đình nên họ không thể chăm sóc cây theo đúng quy trình kỹ thuật đảm bảo cho cây phát triển và cho thu hoạch, như chia sẻ của một người dân ở xã Cư Ni, huyện Ea Kar ở đoạn trích dưới đây:

Tôi cũng lắm việc quá, nào là bò, nào là cá, nào là ruộng. Thêm nữa vốn liếng có phải là dồi dào đâu. Ví dụ trong giai đoạn ca cao bị sâu, mình không có vốn nên bỏ qua giai đoạn đó thì nó cũng ảnh hưởng đến năng suất rồi. Đó là riêng cá nhân tôi là thế, còn cái hộ ông bên kia cũng thế thôi, coi cây ca cao không giá trị mấy nên bỏ nó như

Page 50: Những thách thức trong phát triển bền vững

50

kiểu cây rừng. Lúa thì thuộc loại ngắn ngày, trong vòng sinh trưởng của nó anh chăm sóc ba tháng thôi, những tháng còn lại anh có chăm sóc thì cũng không có hiệu lực nữa. Nên từ khi anh sạ xuống, ví dụ bảy ngày thì nhất định anh phải bón phân, phải phun thuốc. Nếu anh để hai mươi ngày anh mới bón phân, mới xịt thuốc thì nó mất hiệu quả ngay nên anh phải đầu tư cái đó. Đầu tư bên đó thì bên đây anh lại thiếu vốn rồi.

Như vậy, việc thiếu vốn ảnh hưởng rất lớn đến việc chăm sóc và duy trì cây ca cao. Hơn nữa, thiếu vốn hay không vay được vốn cũng chưa hẳn là toàn bộ lý do vì bản chất ca cao là thu “lai rai” nên không tiết kiệm được, đặc biệt cho các hộ dân tộc có diện tích nhỏ, nên khả năng trả được nợ ngân hàng rất thấp nên họ không dám vay. Cộng chung lại, những yếu tố này làm cho cây cacao có một ví trí thấp so với các cây trồng khác trong cơ cấu trồng trọt của các hộ gia đình.

2.2.3 Ca cao được phát cho các hộ không có đất phù hợp

Điều kiện trước tiên để người nông dân có thể trồng cacao là có đất phù hợp với công việc này. Hiện nay, quy hoạch vùng trồng ca cao có thể chưa thực sự tính đến điều kiện đất sản xuất của người dân. Như chúng tôi đã đề cập ở phần trên, vùng đất phù hợp với việc trồng ca cao là đất đỏ bazan, nhưng ở Tây Nguyên không phải chỗ nào cũng có thứ đất này. Đất ở trong khu vực sinh sống của người dân thường là đất pha cát, khô và không phù hợp với việc trồng cây ca cao. Tuy nhiên, các dự án khuyến nông ‘đã làm hỏng’ dự tính của các doanh nghiệp như chia sẻ của một cán bộ giàu kinh nghiệm về ca cao, khi họ phát miễn phí cây ca cao cho nông dân mà không có nghiên cứu kỹ càng.

Đặc điểm đất canh tác Tộc người

Trung bình Êđê Tày Kinh

Số mảnh ruộng, rẫy (mảnh) 3,7 3,3 3,9 3,6 Tổng diện tích đất (hecta) 1,9 1,6 2,3 1,96 Khoảng cách trung bình từ nhà tới ruộng, rẫy (km)

5,89 0,50 0,55 2,36

Bảng 8. Một số đặc điểm đất canh tác của nông dân Eakar, Đắk Lắk

Ở phần trên, chúng tôi đã đề cập đến tình trạng phát miễn phí cây giống cacao cho những hộ nông dân ở buôn Xê Đăng và buôn Easar ở Easar, Eakar, Đắk Lắk, nơi thường xuyên thiếu nước. Tình trạng tương tự cũng diễn ra ở Đạ Huoai. Cụ thể, ở xã Phước Lộc, những người nông dân Châu Mạ được phát miễn phí cây này để trồng nhưng rất nhanh sau đó họ đã nhận ra sự không phù hợp của đất. Già làng người Châu Mạ than phiền rằng ‘đất không hợp để’ trồng ca cao, mà sâu bệnh cũng nhiều. Những người dân Châu Mạ khác thì có thể nêu rõ ràng rằng cây ca cao thích hợp hơn ở vùng khác, còn vùng đất của họ thì tốt hơn là trồng sầu riêng. Thế nhưng khi một số người đề nghị cán bộ khuyến nông cấp cho cây khác để trồng, thì cán bộ khuyến nông nói là ‘chỉ có ca cao thôi’. Trong trường hợp này, người dân gần như là bị ‘buộc’ phải trồng cây ca cao trong khi chưa thực sự tin vào lợi ích kinh tế của nó. Ngoài sự phù hợp của đất, khoảng cách từ nhà đến mảnh đất trồng ca cao cũng có thể là một yếu tố ảnh hưởng đến quyết định duy trì hay từ bỏ cacao. Về mặt kỹ thuật, cây cacao

Page 51: Những thách thức trong phát triển bền vững

51

cần phải được chăm sóc thường xuyên. Do vậy, việc có vườn cacao gần nhà sẽ khiến cho việc tỉa cành, bón phân, phun thuốc trừ sâu, và phòng ngừa nạn trộm quả cacao trở nên dễ dàng hơn. Theo ông Đặng Văn Dũng, một nông dân trồng cacao người Kinh ở xã Easar (Eakar, Đắk Lắk), thì nạn hái trộm quả cacao là khá phổ biến. Điều này xảy ra chủ yếu với những hộ gia đình có vườn cacao ở xa nhà.

“Ở nương rẫy thì lâu lâu mình mới vào. Đúng mùa, đúng thời điểm mình mới vào thu vào hái thì trẻ con đi trâu đi bò vào nó phá, cho nên cũng không dám trồng. Thậm chí ở đây có mấy nhà như thế này, nhà ở đây nhưng mà rẫy thì cách phía bên kia, cũng chưa đến cây số đâu, khổ cái là cứ sáng thì đi làm nhưng mà năm giờ thì cũng phải về để lo cơm nước rồi heo bò ở nhà. Nhưng mà khi mình về thì trẻ con nó mới bắt đầu rủ nhau đi, khổ thế đấy, có nhiều nhà cây cũng tốt đẹp, trái thì nhiều mà cũng phải chặt bỏ là vì như vậy.”

Số liệu ở bảng 10 cho biết khoảng cách trung bình từ nhà đến các mảnh ruộng, rẫy của 44 hộ dân ở Eakar, Đắk Lắk. Tính trung bình, người nông dân Êđê phải đi gần 6 kilomet mới tới nơi canh tác của họ. Khoảng cách này dài gấp 10 lần khoảng cách mà người nông dân Kinh và Tày phải đi. Do quả cacao bị trộm và bị sóc ăn, nhiều hộ trồng cacao người Ê đê đã phải chặt bỏ cacao vì không bảo vệ được.

2.2.4 Thiếu cơ chế hỗ trợ nông dân về giá và vốn

2.2.4.1 Mất niềm tin khi giá cacao trên thị trường quốc tế giảm Sau nhiều năm không được chú ý, cây ca cao đã được thúc đẩy phát triển ở Việt Nam trong vòng mười năm qua dựa trên niềm tin rằng nhu cầu ca cao thế giới sẽ tiếp tục tăng, giá ca cao thế giới sẽ tiếp tục tăng, trong khi đó sản lượng xuất khẩu cacao từ các nước trồng ca cao truyền thống có vẻ như đang giảm. Đây cũng là một trong những lý do quan trọng để các tập đoàn công ty, các tổ chức phi chính phủ và chính quyền thuyết phục người dân tham gia trồng ca cao. Vì là một sản phẩm có chuỗi giá trị toàn cầu, nên ca cao thường được định giá bởi thị trường quốc tế. Biểu đồ dưới đây minh họa biến động của giá ca cao trên thị trường quốc tế từ tháng giêng năm 2005 cho tới tháng 11 năm 2013 (International Cocoa Organization, 2013).

Page 52: Những thách thức trong phát triển bền vững

52

Biều đồ 1. Biến động giá ca cao thế giới từ 01/1995-11/2013 (USD/tấn hạt khô)

Nhìn vào biểu đồ biến động giá ca cao thế giới, chúng ta có thể nhận ra những mối liên hệ nhất định giữa giá ca cao và sự mở rộng hay thu hẹp diện tích ca cao ở Việt Nam trong những năm vừa qua. Cụ thể, vào năm 2007, khi giá bắt đầu tăng mạnh thì cũng là lúc ca cao được tuyên truyền rộng rãi để trồng ở Việt Nam. Từ 7320 ha vào năm 2006, chỉ trong vòng vài năm, diện tích ca cao ở Việt Nam đã tăng lên tới 25700 ha vào năm 2012. Đây là giai đoạn diện tích ca cao tăng mạnh nhất. Đến năm 2011, khi người dân bắt đầu thu hoạch ca cao thương phẩm thì cũng là lúc giá ca cao hạt bắt đầu giảm mạnh, từ 3525 USD/tấn vào tháng giêng năm 2010 xuống còn 2197 USD/tấn vào tháng 11 năm 2011. Đến tháng 11 năm 2013, giá ca cao chỉ nhích lên một chút, đạt 2478 USD/tấn.

Ảnh: Trụ sở HTX nông nghiệp thu mua cacao ở huyện Eaka

Sự sụt giảm đáng kể của giá cacao chính là một lý do gây ra sự thất vọng trong những người trồng ca cao ở Việt Nam – những người bị tác động trực tiếp và tức thì của sự biến

01/2005: 154911/2006: 1581

11/2008: 2068

01/2010: 3525

11/2010: 2910

02/2011: 3472

11/2011: 219711/2012: 2478

11/2013: 2755

0

500

1000

1500

2000

2500

3000

3500

4000

Jan

-05

May

-05

Sep

-05

Jan

-06

May

-06

Sep

-06

Jan

-07

May

-07

Sep

-07

Jan

-08

May

-08

Sep

-08

Jan

-09

May

-09

Sep

-09

Jan

-10

May

-10

Sep

-10

Jan

-11

May

-11

Sep

-11

Jan

-12

May

-12

Sep

-12

Jan

-13

May

-13

Sep

-13

Page 53: Những thách thức trong phát triển bền vững

53

động giá này do sự thiếu vắng của các cơ chế hỗ trợ cho sản phẩm ca cao của họ. Ví dụ, ông Đặng Văn Hùng và nhiều hộ trồng cacao khác ở xã Ea Sa (Ea Kar, Đắk Lắk) cho biết do không nhận được sự hỗ trợ nào khi phải đối mặt với sự sụt giảm lớn của giá cacao nên họ đã ‘bỏ rơi’ cây trồng này. Đây cũng là tâm trạng chung của nhiều người trồng ca cao ở các xã khác trên địa bàn Đắk Lắk và Lâm Đồng mà chúng tôi đã phỏng vấn. Hệ quả là, so với năm 2012, diện tích cacao cả nước vào cuối năm 2013 đã giảm hơn 3000 ha do có nhiều người chặt bỏ cây trồng này.

2.2.4.2 Nông dân gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn để đầu tư cho cacao Rõ ràng là để trồng ca cao thành công, các hộ gia đình cần có một số vốn đáng kể. Tuy nhiên, đối với đa số nông dân trồng cacao, việc tiếp cận với tín dụng ngân hàng để trồng và chăm sóc loại cây này là không hề dễ dàng. Theo một cán bộ lãnh đạo Sở Nông nghiệp Đắk Lắk, các chính sách hỗ trợ vay vốn ưu đãi với lãi suất thấp để phát triển ca cao đã được tỉnh Đắk Lắk thông qua. Tuy nhiên, vị cán bộ này cho biết, hoạt động của các ngân hàng lại nằm ngoài sự điều chỉnh của các chính sách này.17 Đối với các ngân hàng ở địa phương, cây ca cao chưa tạo được "uy tín", do vậy cũng chưa được đưa vào danh mục tín chấp cho các hộ nông dân vay để phát triển giống cây này. Theo giải thích của ông, việc cây cacao chưa tạo được 'uy tín' xuất phát từ hai nguyên nhân. Thứ nhất, thu hoạch ca cao ‘lai rai’ nên người dân sẽ không tiết kiệm được tiền để trả nợ nếu vay từ ngân hàng. Thứ hai, bởi sản xuất ca cao chưa ổn định nên các ngân hàng tại địa phương có tâm lý sợ 'nợ xấu' nếu vật thế chấp là cacao. Chính vì sự khó khăn này nên một cán bộ lãnh đạo hợp tác xã ca cao ở Ea Kar cho biết, để vay vốn đầu tư cho ca cao, ông phải ‘lách luật’ bằng cách làm hồ sơ xin vay tiền để phát triển cây cà phê, nhưng sử dụng số tiền đó cho cây ca cao.18 Các tộc người khác nhau dường như có những cách đối phó khác nhau với tình trạng thiếu vốn. Trong khi các hộ người Tày, Kinh có thể dồn vốn vào vườn ca cao xen điều, các hộ người Êđê phải phân tán vốn tiết kiệm của mình vào nhiều hoạt động sản xuất khác nhau, trong đó đặc biệt phải ưu tiên cho các loại cây ngắn ngày để đảm bảo nguồn lương thực hàng ngày của gia đình. Nhiều hộ người Êđê phải khắc phục tình trạng thiếu vốn bằng cách vay từ các cửa hàng bán phân bón để đầu tư sản xuất, nhưng thường bị lấy lãi cao, trong khi thực tế thu nhập của hộ gia đình khá thấp.

Cái đau khổ nhất hiện nay là cái “lúa non”, tức là đi vay trước ấy. Người ta hay gọi cái từ "lúa non" có nghĩa là ứng tiền trước ở một cái đại lý. Ví dụ đầu mùa anh làm ruộng không có tiền nhé thì anh ra ngoài quán ký, thì họ tính rẻ lắm. Họ chỉ tính nghìn rưỡi một ký lúa là cao nhất, anh lấy tạ lúa thì một trăm hai mươi nghìn. Nhưng mà giá phân giá công nó cao thì trong vụ đó anh gần như hết một tấn lúa rồi. Khi gặt về anh chỉ còn một hai tạ mang về nhà thôi, còn đâu là anh phải trả chỗ đó. Chính vì thế cái buôn này nó nghèo suốt đời là vì vậy. Cả cây bắp cũng vậy, cây đậu

17 Phỏng vấn ngày 11/12/2012 tại Buôn Ma Thuột. 18 Phỏng vấn ngày 8/12/2012 tại xã Cư Ni, huyện Ea Kar.

Page 54: Những thách thức trong phát triển bền vững

54

cũng vậy, lệ thuộc vào nguồn đi vay hết, vay ký ngoài ấy, còn vay tiền thì một triệu là mất ba mươi nghìn một tháng.19

Quy định phức tạp kèm theo điều kiện phải thế chấp sổ đỏ khi vay vốn ngân hàng khiến các hộ người Êđê hầu như không muốn vay để đầu tư vào cacao, đặc biệt khi việc thu hoạch ca cao kéo dài khiến việc tiết kiệm để trả nợ trở nên khá khó khăn. Sự thiếu vốn đầu tư, theo một lãnh đạo Trạm Khuyến nông huyện Ea Kar, đã làm cho khá nhiều hộ người Êđê hiện nay tham gia trồng ca cao với quan điểm “cây cho không thì trồng”, nếu có mua thêm cũng chỉ là để bù vào số cây bị chết. Theo vị cán bộ này, số người mua thêm cây giống với số lượng lớn để trồng thêm cũng chủ yếu là giáo viên, cán bộ về hưu, có lương hưu, hoặc những hộ khá giả, có nguồn vốn tiết kiệm lớn.20 Số hộ dân tham gia trồng nhưng không đủ vốn đầu tư cho cacao còn có cả những hộ được coi là có mức sống khá, điển hình là trường hợp ông Y Wok Niê, người Ê đê, sinh năm 1944, hiện sống tại buôn M’Rông, thị trấn Ea Kar. Ông là chủ vườn ca cao từng được coi là ‘thành công nhất’ và được chọn làm một trong những mô hình để cho những người trồng cacao khác học tập.21 Ông hiện sở hữu ba mảnh rẫy, tổng cộng 5,5 hecta (và 3000 m2 ruộng nước trồng lúa), trong đó có 5 hecta cà phê và 0,5 hecta trồng ngô. Năm 2007, ông nhận được 200 cây ca cao giống từ dự án. Sau đó ông mua thêm 400 cây để trồng xen với cà phê. Mặc dù là một hộ có mức sống khá, hộ ông Y Wok Niê, cũng như nhiều hộ Êđê khác, không đủ nguồn tài chính để bón phân hóa học hay phun thuốc bảo vệ thực vật riêng cho gần 600 cây cacao trong vườn của mình theo đúng thời điểm theo quy trình kỹ thuật. Trái lại, sự đầu tư này thường được áp dụng cho cả vườn để tiết kiệm chi phí. Chúng tôi muốn lưu ý rằng rào cản về vốn là phổ biến hơn ở các hộ trồng cacao là người dân tộc thiểu số và có diện tích cacao nhỏ (phần lớn các hộ người Ê Đê, Xơ Đăng, Châu Mạ và một số hộ Tày, Nùng), chứ không hoàn toàn đúng với mọi hộ trồng cacao mà chúng tôi đã gặp. Một số hộ gia đình ở Ea Sar và Đạ Huoai (đa số là người Kinh) đang duy trì một diện tích cacao khá lớn và chăm sóc cây tốt do có khả năng tài chính. Đối với họ, việc thu hoạch ‘lai rai’ không phải là một trở ngại trong việc trả vốn vay ngân hàng, mà đem đến cho gia đình họ một nguồn thu nhập đều đặn. Tuy nhiên, ở cả Ea Sar và Đạ Huoai, những hộ gia đình như thế là không nhiều.

2.2.5. Chú trọng đến việc mở rộng diện tích và bỏ qua chất lượng chăm sóc

Nhằm hiện thực hóa nghị quyết của UBND các tỉnh Đắk Lắk và Lâm Đồng về phát triển cacao như một cách để thoát nghèo, nhiều biện pháp khác nhau đã được các cơ quan nhà nước tiến hành song song với các chương trình hỗ trợ nông dân trồng cacao của các doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên, dường như các biện pháp này đang tập trung nhiều hơn vào việc mở rộng diện tích cacao chứ không phải là nâng cao chất lượng chăm sóc.

19 Phỏng vấn ông Y Đơk Niê ngày 5/12/2012 tại buôn Ea Pal, xã Cư Ni, huyện Ea Kar. 20 Phỏng vấn ngày 11/12/2012 tại thị trấn Ea Kar, huyện Ea Kar. 21 Phỏng vấn ngày 6/12/2012 tại buôn M’Rông, thị trấn Ea Kar, huyện Ea Kar.

Page 55: Những thách thức trong phát triển bền vững

55

Ở cả Easar và Đạ Huoai, các chính quyền địa phương đã phát cây giống và phân bón miễn phí cho các hộ nghèo để khuyến khích họ trồng cacao. Một già làng ở Đạ Huoai nhận xét rằng việc lựa chọn người trồng đã không dựa trên khả năng chăm sóc cây ca cao mà dựa trên ‘nghèo là được”. Theo ông, nhiều người có diện tích canh tác nhỏ cũng được phát ca cao. Người dân tộc thiểu số nghèo cũng được phát ca cao giống mà không cần biết họ có thể trồng được không. Ở Đạ Huoai, có lâm trường đã thực hiện việc mở rộng diện tích cacao bằng cách giao đất cho một số hộ dân để sản xuất, nhưng đặt ra điều kiện là các hộ này phải trồng ca cao mà không được đổi sang cây khác. Một số diện tích rừng ‘nghèo kiệt’ ở đây đã được chuyển đổi sang trồng ca cao, với mục đích vừa có cacao, vừa bảo vệ rừng. Tuy nhiên, rừng thì càng nghèo đi, còn ca cao thì không trụ nổi. Do thiếu nghiên cứu kỹ lưỡng điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội của người dân, và do tập trung quá nhiều vào việc mở rộng diện tích, nên nhiều khi việc phát cây giống “nhầm” địa chỉ. Việc lựa chọn không đúng đối tượng để hỗ trợ phát triển cacao có thể có ảnh hưởng đến tinh thần tự nguyện và tính sở hữu của người trồng, như chia sẻ sau đây của một cán bộ khuyến nông ở Đạ Huoai:

“Anh chưa nghe thấy câu nói thật của họ đâu, bọn em đến bọn em khảo sát đấy, bọn em hỏi bảo bác ơi vì sao lại làm ca cao, vườn nhà mình sao nó lại phát triển nó không được đạt lắm như thế, song họ bảo mình làm cho dự án mà, nói thẳng luôn là mình làm cho dự án mà, họ có đâu xác định cái câu chuyện họ làm. Làm đấy là làm cho họ đâu, họ vẫn nghĩ rằng là dự án cho đấy thì làm, chẳng qua làm cho dự án thì cái câu chuyện được hay không thì đấy lại là câu chuyện khác, cho nên là nó có nhiều cái cần phải, cần phải tìm hiểu, cần phải phân tích, cần phải nghiên cứu nhiều, đặc biệt đấy là đối với là người nghèo và người đồng bào dân tộc tại chỗ.”

Như vậy, có thể nói người dân chưa được tiếp nhận đầy đủ thông tin về cây ca cao như kỹ thuật, lợi ích kinh tế, rủi ro sâu bệnh và thị trường để ra một quyết định sâu sắc về việc trồng và đầu tư vào ca cao. Chính vì vậy, nhiều hộ gia đình nhận ca cao giống nhưng không có đủ năng lực, hoặc không được hỗ trợ đủ năng lực để chăm sóc. Hệ quả là, nhiều hộ nông dân đã phải tốn nhiều công sức và vốn để chăm sóc, bón phân và phòng bệnh cho cây ca cao hơn là họ tưởng. Với tình trạng như vậy, khi giá ca cao xuống thấp, nhiều người trồng cacao đã “bỏ rơi” cây trồng này và chấp nhận thiệt hại về kinh tế sau khi đã trồng cacao nhiều năm.

2.2.6 Là cây 'nhạy cảm', 'khó tính' và vượt qua tầm kiểm soát về kỹ thuật của người dân

2.2.6.1 Kén chọn đất và khí hậu Sự 'nhạy cảm', 'khó tính' của cây ca cao trước hết là sự kén chọn đất và khí hậu của loại cây trồng này so với các loại cây trồng khác. Cũng giống như nhiều loại cây trồng khác, cây ca cao chỉ phù hợp với một số điều kiện về khí hậu và thổ nhưỡng. Tài liệu hướng dẫn kỹ thuật trồng cacao của SUCCESS Alliance chỉ rõ cây ca cao thích hợp với khí hậu nhiệt đới, nhất là những nơi có lượng mưa hàng năm từ 1500 tới 2500 mm và không có thời gian khô hạn kéo dài hơn hai tháng. Vùng trồng ca cao cần có khí hậu không quá nóng (tối đa

Page 56: Những thách thức trong phát triển bền vững

56

30 đến 35 độ C), không quá lạnh (tối thiểu 18 đến 21 độ C), không quá cao (tối đa 800 m), không có gió mạnh (vận tốc gió tối đa 12 km/h), và phải có đủ nước để tưới cho cây, nhất là trong hai năm đầu. Đất trồng cây ca cao vừa phải có khả năng thoát nước tốt và vừa có khả năng giữ được độ ẩm. Do vậy đất phù sa và đất đỏ Bazalt là hai loại đất được xem là thích hợp nhất cho sự phát triển của cây trồng này (SuccessAlliance, 2010: 2, 37). Trong khi đó, đất nông nghiệp ở cả Ea Kar và Đạ Huoai không hoàn toàn bao gồm đất đỏ bazan. Ví dụ, đất ở Ea Kar được chia làm hai vùng khác nhau rõ rệt. Phía tây là vùng đất đỏ bazan, rất thích hợp với các loại cây công nghiệp dài ngày, bao gồm cacao. Phía đông giáp cao nguyên M’Đrắk là vùng đất xám pha cát, sỏi, đá granit, nơi việc trồng cacao có thể không hiệu quả. Phần lớn vùng đất đỏ ba zan hiện đang được các nông trường nhà nước quản lý và sử dụng. Đa số cư dân vùng này, gồm cả những tộc người thiểu số tại chỗ và di dân từ phía Bắc vào trong những năm 1980s-90s, đang ở những vùng đất ít màu mỡ hơn:

Chỗ nào đất đỏ thì nông trường đã có quy hoạch từ xưa. Các đơn vị đã cắm chốt trồng lúa từ thời chiến tranh chống Mỹ. Những chỗ có cát, không hợp cà phê, hồi đó để hoang hết.. Dân di cư tự do, chỗ nào trống thì mới được làm.22

Ea Kar cũng là huyện có lượng mưa trung bình hàng năm thấp nhất tỉnh Đắk Lắk, từ 1.400 đến 1.800 mm, tuy nhiên tùy thuộc vào địa hình mà lượng mưa cục bộ của một số xã có khác nhau (vùng Tây Bắc và Đông Bắc Ea Kar có lượng mưa thấp nhất huyện, trung bình từ 1.400 – 1.550mm/năm). Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 11, các tháng có lượng mưa lớn nhất là tháng 9, 10 và 11 (các xã phía đông huyện như Ea Týh, Ea Sô, Cư Bông và một phần thị trấn Ea Knốp chịu ảnh hưởng gió mùa đông bắc của vùng duyên hải Nam Trung Bộ nên mùa mưa kéo dài đến tháng 12, do đó lượng mưa thường cao hơn các vùng còn lại). Các tháng có lượng mưa thấp nhất là tháng 1, 2 và 3. Vào thời điểm này có nơi, có năm hầu như không mưa. Cây điều, theo một lãnh đạo của Phòng Nông nghiệp huyện, là “cây năm không” trong số các cây công nghiệp lâu năm. Năm không đó là: “không bón phân, không tạo hình, không phun thuốc, không nhổ cỏ, và không tưới nước”. Do vậy, cây điều đã từng là lựa chọn tối ưu trong điều kiện khô hạn và đất xấu. Cũng theo ông cán bộ Phòng Nông nghiệp này, trong thời gian gần đây, mùa mưa kéo dài đã khiến cây điều mất mùa liên tục mấy năm liền. Do vậy, nhiều hộ dân đã trồng cacao, được cho không, như một giải pháp để thay thế điều. Những lý do tương tự cũng khiến cho nhiều hộ dân ở Đạ Huoai trồng ca cao. Tuy nhiên, hầu hết những người tham gia các buổi thảo luận nhóm tại Ea Kar và Đạ Huoai đều nói về sự "không phù hợp" của cacao với điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu nơi họ sinh sống. Trong so sánh với tất cả các loại cây trồng khác tại địa phương, một người đàn ông có kinh nghiệm khá lâu năm cho biết:

Cây ca cao so với các loại cây trồng là cây khó tính nhất, khí hậu vùng này, rồi đất đai vùng này thì báo cáo với các anh không phải đất đỏ, đất này là cái đất pha cát, mùa khô thì nó khô cứng, còn mùa mưa thì nó ngập nước, nên đối với cây ca cao người nào mà không chăm tử tế thì rủi ro là nguyên nhân ở đó. Mùa khô mà thiếu

22 Phỏng vấn chị Nông Thị Thương ngày 5/12/2012 tại thôn Quảng Cư, xã Cư Ni, huyện Ea Kar.

Page 57: Những thách thức trong phát triển bền vững

57

nước là cây ca cao không bao giờ chịu đựng được, nên cây ca cao là cây khó tính nhất trong các loại cây ở vùng này, tôi chỉ biết vậy thôi.

Thông tin mà chúng tôi thu được từ các phỏng vấn sâu với những người dân đã và đang trồng ca cao ở cả Eakar và Đạ Huoai, kể cả người dân tộc thiểu số và người Kinh, cũng có cùng nội dung như vậy. Theo trải nghiệm của họ, cho dù "cũng bón phân các thứ nó bày vẽ hết rồi, làm theo cán bộ nó nói rồi" nhưng "nó không hợp, nó không lên...Vì cái đất này nó không phù hợp nên phải thua cây điều. Bên kia nhà nước người ta làm cái gì ba bốn chục gì đó, họ làm 8-9 năm rồi mà cũng chẳng có thu bao nhiêu".

2.2.6.2 Kỹ thuật trồng và chăm sóc ca cao vượt qua tầm kiểm soát của nhiều người dân Thất bại của những người dân tộc thiểu số tại chỗ trong việc trồng và chăm sóc cây ca cao những năm gần đây thường được người ngoài giải thích là do họ không nắm được quy trình kỹ thuật và không chăm chỉ. Quan điểm này được thể hiện phần nào trong lời phát biểu của một lãnh đạo doanh nghiệp cung cấp cây giống: "Cây ca cao không chọn tộc người, Kinh cũng được, thiểu số cũng được, miễn là phải chăm chỉ". Tuy nhiên, đối với cây ca cao, yếu tố chăm chỉ và nắm vững kỹ thuật không đảm bảo 100% sự thành công, do nó là một loại cây trồng, theo trải nghiệm của người dân, rất 'nhạy cảm', "khó tính". Giống như kết quả nghiên cứu ở Lắk trong nhóm người Mnông, hầu hết những người được phỏng vấn ở Ea Kar và Đạ Huoai đều có một nhận xét chung là kỹ thuật trồng và chăm sóc ca cao khó và phức tạp hơn rất nhiều so với các loại cây trồng ngắn ngày và dài ngày khác. Chính vì vậy, theo một nam giới người Kinh, cho dù "từ trước đến nay, kể cả ở ngoài quê cũng vậy, chưa có cây nào mà người ta giới thiệu kỹ thuật kỹ càng cho người dân như cây ca cao này", song tất cả những người trồng ca cao hiện nay đều không đảm bảo một cách chắc chắn là vườn ca cao của họ sẽ phát triển tốt hoặc quả không bị sâu bệnh. Cây ca cao đòi hỏi sự quan tâm ngay từ đầu và thường xuyên chăm sóc trong suốt quá trình, quy trình kỹ thuật được một người dân mô tả bằng từ "chặt chẽ". Sự phức tạp trong kỹ thuật trồng và chăm sóc không chỉ là nhận định của người dân tộc tại chỗ mà cả người Kinh và dân tộc di cư từ phía bắc vào. Theo chia sẻ của người dân ở Đạ Huoai và Ea Kar, muốn cây ca cao phát triển tốt và ra quả, cần phải trồng xen ít nhất 4 loại giống cây ca cao khác nhau (trên tổng số 8 loại). Do ca cao rất nhạy cảm với nắng, khi mới trồng, một điều kiện rất quan trọng để cây có thể sống được là có cây che bóng và chắn gió. Vì vậy, khi trồng ở những khu đất không có tán cây to, người dân phải đầu tư tạo tán che nắng cho từng gốc cây bằng cách dựng những 'túp' bằng cỏ tranh hay vầu nứa, le, vừa làm vật che nắng vừa có chức năng chắn gió, như mô tả của một anh nông dân người Kinh ở Ea Kar:

Cái cây này có rễ cọc nhỏ, gió mà cứ lay lay thế này thì nó đứt toàn bộ rễ cám thì nó nghiêng xuống thì nó thế thôi. Cho nên khi mình trồng cây nhỏ đấy là mình phải chặt một ít cây le nhỏ nhỏ thế này, mình phải cắm vào một bên, mình cột cái dây một bên vào để nó nó trụ đỡ lay. Nói chung thì trồng ca cao thì cũng đòi hỏi kỹ thuật hơn cây cà phê, trồng cây cà phê thì nói chung cứ trồng xuống đấy rồi sau là

Page 58: Những thách thức trong phát triển bền vững

58

nó sống, cây nào chết thì chết, còn cây nào không chết thì nó sống lên là cứ vậy nó bén, cứ phân tro đều đặn vào là nó bén thôi.

Khác với nhiều loại cây trồng ngắn ngày và dài ngày khác, ca cao là loại cây rất "nhạy cảm" với sâu bệnh, đặc biệt là bọ xít, sùng trắng và bệnh thối trái. Như thể hiện rõ trong chia sẻ của anh Hùng, một nông dân người Kinh tại Ea Kar trong đoạn trích dưới đây, khác với cà phê và các loại cây trồng khác, nhiều loại sâu bệnh của ca cao vượt qua tầm kiểm soát của người dân, kể cả cán bộ bảo vệ thực vật được đào tạo bài bản.

Ở cà phê có khi là năm một lần có khi là không, còn có năm là không phun nữa đấy, mà cây cà phê cái bệnh của nó dễ, cái bệnh của nó chẳng có gì là khó khăn cả, khó là một cái là nó là gỉ sắt thôi, gỉ sắt thì nó cũng về theo mùa chứ không phải là khi nào cũng có, hai nữa là về cái mọt cành mọt ấy thì nó cũng ít thôi, mọt quả thì nó cũng ít, mà có cái rệp sáp, rệp sáp thì về mùa nắng có nhiều lắm, thì một vài tháng cái rệp sáp thì mình xịt cái nó cũng chết được, còn cây ca cao này nó cứ triền miên. Ca cao này là trời nó cứ mưa nắng là lại phát bệnh, mà phát bệnh rồi thì chịu không diệt được, thì chỉ có phòng thôi, chỉ có phòng thôi chứ nó chưa có, kể cả mấy ông bên bảo vệ thực vật ông cũng nói thế, nó chưa có cái thuốc gì mà đặc trị để trị được cái bệnh thối quả cả, mà tốt nhất là nông dân phải biết cách phòng tránh trước, phòng bệnh trước.

Sâu bệnh, đặc biệt là loại sùng trắng, cũng là được ông K'dui, người Châu Mạ ở Đại Huoai, mô tả là loại bệnh đã làm chết 200 cây trong tổng số 600 cây cao cao mà ông trồng từ năm 2010: "sùng trắng nó ăn nên rễ nó đứt, thuốc cũng không được...không có cách nào, thuốc bao nhiêu nó cũng chết". Trong khi đó, ở Việt Nam nói chung và ở Tây Nguyên nói riêng, ca cao là cây trồng mới nên hiện chưa có quy trình kỹ thuật chuẩn để khuyến cáo (Bộ NN và PTNT chưa công bố quy trình kỹ thuật chuẩn cho cây ca cao). Các quy trình được các dự án, chương trình, tổ chức tập huấn cho người sản xuất chủ yếu được tổng hợp dựa trên những tài liệu của nước ngoài kết hợp với kinh nghiệm của một số nhà khoa học trong nước. Theo người sản xuất ca cao ở huyện Ea Kar hiện có hai bộ quy trình kỹ thuật trồng và chăm sóc cây cao có những điểm khác nhau (một tài liệu của Viện Khoa học KTNLN Tây Nguyên (WASI) và một tài liệu của trường Đại học Nông lâm thành phố HCM). Ở huyện Ea Kar, các mô hình trình diễn và tập huấn chủ yếu về quy trình canh tác ca cao xen điều (rất phù hợp với hộ người Kinh và người Tày) mà chưa có các nghiên cứu, mô hình, tài liệu tập huấn về canh tác ca cao không xen điều (xen với cây ăn quả) để phổ biến cho các đối tượng nông dân không có vườn điều (chủ yếu là người dân tộc tại chỗ). Việc chăm sóc vườn ca cao xen cây ăn quả của người Êđê phụ thuộc nhiều vào sự năng động của hộ. Như vậy, rõ ràng là những yêu cầu phức tạp về khí hậu, thổ nhưỡng và kỹ thuật chăm sóc kể trên là một trong những yếu tố quan trọng nhất làm nản lòng những người nông dân, kể cả những người hào hứng nhất với việc trồng ca cao. Kỹ thuật đã khó nhưng việc tập huấn chuyển giao cũng gặp nhiều trở ngại. Theo một phụ nữ ở xã Cư Ni, các thông tin kỹ thuật được trao truyền theo kiểu “phân cấp”: các công ty phát triển ca cao (như Mars, Cargill) chỉ chọn đào tạo một số người chính (như trường

Page 59: Những thách thức trong phát triển bền vững

59

hợp ông Quang ở xã Cư Ni), rồi dựa vào những người này truyền lại thông tin cho các gia đình trồng ca cao khác ở địa phương nhưng bản thân người này không truyền lại đầy đủ thông tin cho người trồng ca cao ở địa phương họ phụ trách, thậm chí đổ lỗi cho họ trong việc trồng ca cao không hiệu quả. Bên cạnh đó, một cán bộ khuyến nông cũng cho biết dự án nào vào cũng muốn là người nghèo, chỉ để ý đến người đồng bào dân tộc tại chỗ song lại không xây dựng riêng cho họ một quy trình. Do chỉ có một mô hình, một quy trình cho tất cả các nhóm người nên nhiều hộ gia đình tộc người thiểu số không theo được. Cộng với việc người dân tham gia học không thường xuyên dẫn đến không hiệu quả vì không theo dõi đầy đủ, cẩn thận các thông tin kỹ thuật được hướng dẫn, dẫn đến việc dễ bỏ cuộc với cây ca cao.

2.2.6.3 Kỹ thuật lên men cacao phức tạp, tạo ra nhiều rủi ro về chất lượng Cây ca cao cần phải được chăm sóc tốt thì mới có thể tạo ra hạt ca cao có chất lượng được thị trường chấp nhận. Hạt ca cao đạt chất lượng mà các nhà chế biến mong muốn là: 1) Hạt có mùi sô cô la đặc trưng sau khi chế biến, 2) Hạt không có mùi vị lạ như mùi mốc, khói và không có vị quá chua và đắng, 3) Hạt có trọng lượng lớn, độ đồng đều cao, khoảng 1 gram/hạt, 4) Hạt được lên men đầy đủ, được phơi nắng để có độ ẩm từ 7,5 đến 8%, 5) Hạt không có dư lượng thuốc trừ sâu, vi khuẩn, côn trùng và tạp chất, 6) Hàm lượng axit béo tự do nhỏ hơn 1%, 7) Hàm lượng bơ từ 50 đến 58%, bơ có độ cứng cao, và hàm lượng vỏ từ 11 đến 12% ( Phạm Hồng Đức Phước, 2011: 181). Cụ thể, để tạo ra được 2.5 kg hạt trên mỗi cây một năm, người trồng phải có đủ tiền để mua phân bón và bón khoảng 2 kg cho mỗi cây một năm. Đây là những yêu cầu kỹ thuật khá khó do nhiều yếu tố đã được thảo luận ở các phần trên. Ngoài việc trồng, chăm sóc và thu hoạch thì nắm vững kỹ thuật lên men và làm khô hạt là quy trình kỹ thuật quan trọng nhất để sản phẩm được thị trường chấp nhận (Phạm Hồng Đức Phước, 2011: 89, 126). Tuy nhiên, đây là một kỹ thuật khó đối với nhiều người dân. Để đạt tiêu chuẩn và bán được giá, người dân người dân phải tuân thủ các tiêu chuẩn được quy định trong bảng sau.

Chỉ tiêu Loại 1A 1B 1C

Số hạt trong 100g không lớn hơn 100 110 120 Độ ẩm, %, không lớn hơn 7.5 7.5 7.5 Hạt chai xám, %, không lớn hơn 3.0 3.0 3.0 Hạt mốc, %, không lớn hơn 3.0 3.0 3.0 Hạt hư hại do côn trùng, %, không lớn hơn 2.5 2.5 2.5 Tạp chất (rác thải ca cao), % không lớn hơn 1.0 1.0 1.0

Bảng 9. Tiêu chuẩn chất lượng ca cao Việt Nam (TCVN 7519)

Tất cả những người tham gia các phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm, kể cả những hộ nông dân người Kinh đã tham gia tập huấn bài bản và thường xuyên hơn, đều chỉ ra rằng, lên men và làm khô hạt là quy trình kỹ thuật khó nhất đối với người nông dân. Một cán bộ

Page 60: Những thách thức trong phát triển bền vững

60

phòng nông nghiệp huyện Ea Kar cho biết: "Gia đình người Kinh khá tự hào về việc thông thạo kỹ thuật trồng và chăm sóc cây. Nhưng vấn đề lớn nhất với họ hiện nay là các công đoạn chế biến sau thu hoạch, như tách hạt, lên men... Họ cũng mong muốn có thể sản xuất ra trực tiếp sản phẩm (như chocolate) cũng như chế biến được các sản phẩm phụ từ cây cacao." Trên thực tế, đa số hộ sản xuất ca cao cũng không được tập huấn về kỹ thuật lên men, chỉ một số ít là tập huấn viên được tập huấn về kỹ thuật lên men từ dự án Success – Alliance. Quan điểm của dự án Success – Alliance là muốn xây dựng hệ thống lên men tập trung để đảm bảo chất lượng nên dự án chỉ tập huấn kỹ thuật lên men cho tập huấn viên và hộ là điểm sơ chế lên men hạt ca cao. Tuy nhiên, mục tiêu này của dự án Success – Alliance khó thành công do lợi nhuận của hoạt động lên men mang lại khá lớn (1kg hạt ca cao lên men lãi khoảng 7.000 – 10.000 đồng so với không lên men). Chính vì vậy, có 79,5% hộ sản xuất ca cao (trong số 44 hộ trả lời phỏng vấn phần bảng hỏi định lượng) tự lên men ở cấp hộ gia đình và điều này ảnh hưởng tới chất lượng lên men ca cao. Hơn nữa sản lượng ca cao của một hộ gia đình ít và thu rải rác nên khối lượng một lần lên men ít (khoảng 10-20 kg hạt lên men). Theo một số người Ê Đê, sau vài lần các điểm thu mua từ chối mua hạt khô họ tự lên men với lý do không đảm bảo chất lượng, nhiều hộ gia đình nhiều người tỏ ra chán nản, không chú trọng đầu tư vì bán trái tươi không được giá so với công và vốn đầu tư mà gia đình bỏ ra. Khi đó, các hộ gia đình này xoay sang trồng ca cao theo kiểu “lai rai”, không chú trọng đầu tư nữa.

2.2.7 Thiếu hiểu biết tâm lý nông dân trong sản xuất nông nghiệp

Có thể nói, việc đưa ca cao vào Đak Lak và Lâm Đồng chưa thật sự dựa trên các nghiên cứu kỹ lưỡng về các đặc điểm văn hóa của các tộc người bản địa và di cư. Trên thực tế, có vẻ như các quyết định về việc phát triển cacao ở hai tỉnh này và các vùng khác trên toàn quốc đã sử dụng những dự báo có phần lạc quan do các doanh nghiệp thu mua và chế biến cacao nước ngoài cung cấp. Trong ‘Diễn đàn lần thứ 2 về Phát triển ca cao bền vững ở Việt Nam: Cơ hội – Thách thức – Giải pháp’ diễn ra tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 28 tháng 11 năm 2013, hai trong số ba báo cáo về triển vọng phát triển ca cao ở Việt Nam là do các chuyên gia kinh tế của Mars và Cargill thực hiện và trình bày. Như nghiên cứu đợt 1 ở huyện Lak đã chỉ ra, việc tiếp thu một thực hành văn hóa sản xuất mới (như ca cao), ngoài lợi ích kinh tế theo tính toán của các nhà hoạch định chính sách hoặc doanh nghiệp, người dân còn dựa vào nhiều yếu tố khác để đánh giá xem thực hành mới này có tương thích với nền tảng sẵn có của họ hay không. Trong công trình nghiên cứu nổi tiếng về nguyên nhân của sự 'phản kháng' của của người nông dân Đông Nam Á đối với sự can thiệp từ bên ngoài xuất bản năm 1976- "The Moral Economy of the Peasants: Rebellion and Subsistence in Southeast Asia" [Nền kinh tế đạo đức của người nông dân: Sự phản kháng và tự cấp tự túc) - Jame Scott, dựa trên tư liệu điền dã tại Việt Nam và Malaysia, lập luận một cách thuyết phục rằng, trong bối cảnh tự nhiên khắc nghiệt 'nước ngập đến cổ' nơi họ đang sinh sống, nỗi sợ hãi về sự thiếu thốn nguồn lương thực hay khát vọng có được sự đảm bảo về an ninh lương thực cho cuộc sống hàng ngày là vấn đề được người nông dân quan tâm nhất. Để vượt qua được sự thiếu

Page 61: Những thách thức trong phát triển bền vững

61

thốn và đảm bảo an ninh lương thực cho cuộc sống tự cấp tự túc, họ đã xây dựng và phát triển "đạo lý tự cấp tự túc" [the subsistence ethnic], một nền tảng triết lý đi kèm với hàng loạt các 'dàn xếp' mang tính văn hoá, xã hội và kỹ thuật để có thể tồn tại được một cách bền vững trong bối cảnh đa dạng và khắc nghiệt của tự nhiên xung quanh. Các 'dàn xếp' mang tính văn hoá và xã hội quan trọng được ông nhấn mạnh là 'tương hỗ, tương trợ giữa những người là hàng xóm láng giềng (tương hỗ về tài chính, nguồn lao động, tương hỗ về tình cảm, vv) và sở hữu cộng đồng về đất đai. Các 'dàn xếp' mang tính kỹ thuật được Scott nhấn mạnh là "hệ thống giống cây trồng bản địa và kỹ thuật trồng trỉa được thực hành và kiểm nghiệm sự hiệu quả và bền vững hàng trăm năm thông qua phương thức thử-sai trong các bối cảnh tự nhiên khác nhau'. Người nông dân, dù là nhóm dân tộc nào, sinh sống ở miền núi hai đồng bằng, theo phân tích của Jame Scott, đều có xu hướng chống lại hay có thái độ dè dặt với bất cứ sự thay đổi có thể làm tan vỡ 'triết lý' tự cấp tự túc mà họ đã xây dựng, thực hành và giúp họ sinh sống và phát triển một cách bền vững hàng trăm năm. Chính vì vậy, việc đầu tư trồng ca cao có thể dẫn đến sự phá vỡ các nền tảng hay sự 'dàn xếp' văn hoá - xã hội và kỹ thuật mà Scott đã chỉ ra, đặc biệt là sự tương hỗ về nguồn lực có sẵn trong cộng đồng, vấn đề đa dạng cây trồng và kỹ thuật canh tác, mà người dân đã tích luỹ, xây dựng và thực hành qua hàng chục thế hệ để có được một cuộc sống kinh tế tự cấp tự túc ổn định và bền vững. Việc nhiều hộ dân không tham gia trồng ca cao, tham gia 'trồng rồi chặt', hay 'trồng, không chặt nhưng bỏ hoang' của người nông dân ở cả Đắk Lắc và Lâm Đồng hiện nay, cho dù họ là người Kinh, dân tộc tại chỗ, hay dân tộc di cư, có thể xuất phát từ tâm lý muốn lưu giữ những dàn xếp truyền thống để bảo đảm an ninh lương thực một cách bền vững, hoặc do họ chưa thấy sự tương thích và vượt trội của cây cacao trong hệ thống sinh kế của họ. Trong các kỹ thuật người nông dân xây dựng để tránh rủi ro, đảm bảo an ninh lương thực, thì đa dạng sinh kế là một trong những 'dàn xếp' quan trọng nhất, được người nông dân ở khu vực Đông Nam Á ưu tiên. Dựa vào những kinh nghiệm và tri thức được tích luỹ qua nhiều thế hệ, các tộc người đang sinh sống ở Đắk Lắc và Lâm Đồng, đặc biệt là các nhóm dân tộc thiểu số tại chỗ đã tích luỹ và xây dựng những chiến lược nông nghiệp phù hợp với hoàn cảnh môi trường tự nhiên, khí hậu và thổ nhưỡng để sinh tồn và phát triển một cách bền vững. Một trong những chiến lược quan trọng của họ là đa canh. Theo một cán bộ có kinh nghiệm trong ngành nông nghiệp ở Ea Kar thì:

Theo thổ nhưỡng và khí hậu, người Êđê ở Ea Kar có các loại cây chủ lực là cà phê, lúa, ngô, đậu. Vì đặc điểm đất ở đây là triền đồi, ở trên trồng cây công nghiệp, dưới thấp hơn là cây hoa màu, dưới nữa là lúa. Hệ thống nông nghiệp của họ là đa dạng. Đã có một thời kỳ, hình ảnh cái vườn của tộc người thiểu số bị coi là vườn tạp, nhưng đôi khi tính an toàn của nó rất cao vì nó có cái lý ở trong đó. Ví dụ có lạm phát cái thì mất xơi mà cái này thì bàn tay của chính phủ không kịp xử lý, những năm cà phê mà những vùng trồng nhiều đùng phát chết luôn, chính phủ cũng chỉ can thiệp đến mức nào thôi. Nên rõ ràng là trong điều kiện khí hậu, địa hình thì rõ ràng là nó có cái lý của nó, có thể đối phó dần, còn chuyên canh bị một phát thì chết luôn. Nên cái việc chúng ta bảo phải thay đổi nhận thức của người dân nó không phải là một sớm một chiều, bởi vì các hệ thống chính sách của ta nó chưa đồng bộ.

Page 62: Những thách thức trong phát triển bền vững

62

Đối với những người thiểu số tại chỗ, đa dạng cây trồng chính là phương thức đầu tư có khả năng tránh rủi ro trong điều kiện nguồn vốn có hạn của họ. Điều này phần nào giải thích sự khác biệt lớn về diện tích ca cao của các hộ gia đình trong các cộng đồng tộc người khác nhau. Ví dụ, số liệu trong bảng sau đây cho thấy diện tích trồng cacao trung bình của các hộ dân tộc thiểu số tại chỗ Ê đê ở xã Easar (Ea Kar, Đắk Lắk) chỉ là 0.14 ha/hộ, thấp hơn nhiều so với mức trung bình của các hộ dân tộc thiểu số (Tày, Nùng, Thái) và hộ dân tộc Kinh di cư từ phía bắc vào (lần lượt là 1.76 ha/hộ và 1.65 ha/hộ).

Tộc người Số hộ trồng ca cao Diện tích trồng ca cao (hecta) Trung bình ha/hộ Êđê 70 10 0.14 Tày, Nùng, Thái 125 220 1.76

Kinh 85 140 1.65 Bảng 10. Diện tích trồng ca cao tại xã Ea Sar phân theo tộc người

Chính vì vậy, việc khuyến khích trồng ca cao phải gắn với tâm lý và văn hóa coi trọng sự đa dạng và an toàn lương thực của người nông dân. Thực tế đã cho thấy, việc khuyến khích phát triển ca cao bằng cách đơn thuần sử dụng các thông điệp liên quan đến hiệu quả kinh tế và bằng phương pháp cung cấp miễn phí cây giống, phân bón, và các bài học kỹ thuật đã không đem lại hiệu quả như mong đợi. Hiện tại, chiến lược phát triển ca cao của cả hai huyện Ea Kar và Đạ Huoai đều đã có những điều chỉnh rõ nét, hướng đến việc trồng xen ca cao với các cây trồng khác để tăng thêm thu nhập hộ gia đình, sử dụng đất có hiệu quả, chứ không ủng hộ việc thay thế cây trồng và trồng thuần ca cao.

Page 63: Những thách thức trong phát triển bền vững

63

PHẦN III. VAI TRÒ CỦA CÁC BÊN LIÊN QUAN

1. Nhà nước và các chính sách phát triển cacao

Ở cấp quốc gia, chủ trương phát triển cacao trên cả nước được nêu ra từ năm 1998, nhưng trên thực tế, đến năm 2005 Ban Điều phối cacao Việt Nam (VCCC) mới được thành lập. Theo quy định về cơ cấu tổ chức, Ban Điều phối không có vai trò chỉ đạo mà chỉ là đầu mối quan hệ của các bên liên quan đến cây cacao. Một trong những nhiệm vụ quan trọng và rất có ý nghĩa của VCCC là tư vấn cho Bộ NN&PTNT để ban hành các quyết định về cây cacao. Với quy định về chức năng và nhiệm vụ như hiện nay, VCCC chưa đủ mạnh để có thể đóng vai trò thúc đẩy một ngành sản xuất phát triển. Sự chậm trễ trong việc hình thành một bộ máy điều hành khiến cho những kế hoạch phát triển cacao không thể thực hiện.23 Đến cuối năm 2007, chỉ có khoảng 10% chỉ tiêu về diện tích canh tác cacao đạt được, và chủ yếu là do những đóng góp của dự án do nước ngoài tài trợ (Dự án Success Alliance), chứ chưa phải là kết quả từ những chương trình và đầu tư từ phía Nhà nước.

Trong Quyết định số 2678/2007/QĐ-BNN-KH (2007), có 2 mốc được vạch ra cho ngành cacao Việt Nam: i) Tới năm 2015, diện tích canh tác cacao sẽ đạt 60.000 ha, trong đó 35.000 ha cho thu hoạch với năng suất trung bình đạt 1.5 tấn/ha và tổng sản lượng là 52,000 tấn hạt cacao khô, tương ứng với giá trị xuất khẩu từ 50-60 triệu USD; ii) Tới năm 2020, diện tích canh tác cacao sẽ đạt 80.000 ha, trong đó 60.000 ha cho thu hoạch với năng suất trung bình đạt 1,8 tấn/ha và tổng sản lượng đạt 108.000 tấn hạt, tương đương với giá trị xuất khẩu từ 100-120 triệu USD. Tuy nhiên, các chuyên gia tất cả đều đồng ý với kết luận rằng: hiện còn thiếu những chính sách rõ ràng cho việc phát triển cacao.

Những thất bại của cây cacao tại Việt Nam trong quá khứ được giải thích theo nhiều cách khác nhau, một phần là do thiếu sự liên kết với thị trường thế giới, một phần là do thiếu những điều kiện ổn định (ví dụ như thời kỳ chiến tranh chống Mỹ), và một phần là do việc quản lý yếu kém (như là thiếu kinh nghiệm trong việc xây dựng nhà máy chế biến tại Quảng Ngãi trong những năm 1990). Nhưng điều quan trọng hơn, những bài học trong quá khứ cho thấy rằng việc đề ra các chỉ tiêu mà không có sự chuẩn bị những kế hoạch đầu tư cụ thể, việc ban hành các chính sách và xây dựng các kế hoạch cấp tỉnh, nâng cao năng lực và phân bổ nguồn nhân lực, cơ sở dữ liệu/thông tin vững chắc (thống kê, theo dõi giám sát, nghiên cứu), và thiếu sự hiểu biết về động cơ của người nông dân và thị trường thì có xu hướng dẫn đến sự thất bại và không đạt được các chỉ tiêu đề ra.24

2. Vai trò của các tổ chức tư nhân

Các tổ chức tư nhân (đặc biệt là các tổ chức tư nhân quốc tế) có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển sản xuất cacao tại Việt Nam. Sự quan tâm của các đối tác chủ chốt thuộc khu vực tư nhân trong ngành sản xuất cacao quốc tế đối với thị trường nước ta có thể được tính từ thời điểm các chuyên gia của Mars Incorporated có chuyến công tác đầu

23 Năm 1998, chỉ tiêu được đề ra cho năm 2010 là 80,000 ha diện tích canh tác tại 4 khu vực (duyên hải Nam

Trung bộ: 13,000ha, Tây Nguyên: 28,500 ha, miền Đông Nam bộ: 20,500 ha và đồng bằng sông Cửu Long:

18,000 ha). 24 Agrifood Consulting International (2008), tài liệu đã dẫn.

Page 64: Những thách thức trong phát triển bền vững

64

tiên tới Việt Nam vào năm 1993.25 Trong chuyến công tác này, các chuyên gia của Mars Incorporated đã chỉ ra cho Bộ NN&PTNT thấy rằng, ngành sản xuất cacao có tiềm năng tương đối lớn tại Việt Nam. Từ đó tới nay, Mars Incorporated đã có một số đóng góp cho sự phát triển cacao tại Việt nam: Công ty đã hỗ trợ đưa các dòng vô tính mới từ Costa Rica vào Việt nam; hỗ trợ nghiên cứu (đặc biệt là hỗ trợ trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh) và thành lập các mô hình trạm nghiên cứu tại hiện trường trong thời gian từ năm 1997 tới năm 2003 ở nhiều địa phương, trong đó có tỉnh Đắk Nông và Đắk Lắk hiện nay.

Trong những năm qua, nhiều hoạt động liên quan đến cacao vẫn được tiếp tục triển khai bởi các đối tác tư nhân đến từ bên ngoài: hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu và khuyến nông, nâng cao năng lực thông qua tập huấn, hội thảo và các hoạt động nghiên cứu cho các nhà khoa học, hỗ trợ đầu vào (như cây giống), hỗ trợ mô hình nông lâm kết hợp (như SCAS và HFA), và phối kết hợp giữa các nhà khoa học và chuyên gia quốc tế với các đồng nghiệp đối tác Việt Nam. Những đối tượng chính theo thứ tự quan trọng (đánh giá dựa trên sự đóng góp) là Mars Incorporated, Cargill, EDF Man, Touton và Nestle. Dự kiến, trong tương lại sẽ có sự tham gia của một số cộng đồng khác như Ritter Sport và Mitshubishi Foods. Việc hình thành và duy trì một chương trình đối tác giữa khu vực nhà nước - khu vực tư nhân là một trong những cơ sở cơ bản để chính phủ Hà Lan tài trợ nguồn vốn và thực hiện đợt nghiên cứu hiện nay. Ban điều phối cacao hiện nay cũng bao gồm các thành viên từ khu vực tư nhân như Mars Incorporated, WCF, Cargill, và EDF Man.

Doanh nghiệp cung ứng đầu vào: Các doanh nghiệp cung ứng đầu vào cho sản xuất cây cacao còn ít và chưa thực sự có chiến lược thị trường (do chưa nhận được các tín hiệu tin cậy từ chính sách nhà nước). Các công ty về cây giống ở Đắk Lắk đều có chủ trương chỉ mở các lớp tập huấn cho các khách hàng lớn. Các khách hàng này trồng nhiều cây trên diện tích lớn nên phải tập huấn thường xuyên vì họ thuê lao động, nếu không tham gia ngay từ đầu, bỏ qua một số kỹ thuật thì cây trồng sẽ chết. Hầu hết các nhà cung cấp giống cacao đều không hướng đến các khách hàng lẻ và không có chính sách hỗ trợ kỹ thuật cho đối tượng này. Một cán bộ doanh nghiệp giải thích: “vì họ là người bỏ tiền ra đầu tư mua cây giống, họ sẽ cố chăm sóc để hái quả, doanh nghiệp không cần phải có chính sách hỗ trợ kỹ thuật”.

Đối với khách hàng là các chương trình/dự án, các doanh nghiệp áp dụng quy trình bán giống: i) làm việc với thôn hoặc hội nông dân; ii) tổ chức hội thảo, hướng dẫn kỹ thuật; iii) hướng dẫn nông dân đăng ký mua giống và nhận tiền đặt cọc 50%; iv) tiếp tục tập huấn kỹ thuật; v) yêu cầu người dân phải đóng 100% tiền cây giống; vi) chở giống xuống giao cho nông dân. Đây là một cách doanh nghiệp đối phó với rủi ro trước nỗi lo rằng sẽ không đòi được nợ của nông dân. Tuy nhiên cách thu tiền trước này lại có thể làm tăng rủi ro và chi phí cho người dân. Điều đáng nói là các công ty hầu như không có chính sách hậu mãi. Khi cây giống đã được giao cho người dân, công ty hầu như hết trách nhiệm. Trong điều kiện khí hậu Đắk Lắk (nắng/gió nhiều), tỷ lệ cacao mới trồng bị chết khá cao. Rủi ro này khiến người nông dân càng thêm nghi ngại.

Mặt khác, trao đổi với cán bộ và người dân địa phương, nhóm nghiên cứu còn ghi nhận được những tâm trạng băn khoăn:

25 www.mars.com/global/home.htm

Page 65: Những thách thức trong phát triển bền vững

65

“Ngại nhất là các chương trình hỗ trợ giảm nghèo như 135, 30A, chương trình cây con, vì đó thường là các hoạt động giải ngân. Một mặt họ mua các cây giống chất lượng thấp vì họ muốn mua nhiều với giá rẻ. Mặt khác, họ mua vào thời điểm phải giải ngân, như cuối năm chẳng hạn, thì đấy lại không phải là thời điểm tốt để trồng cây nên dù có tập huấn kỹ thuật thì cây trồng cũng sẽ vẫn chết nhiều. Đành rằng, cây chết là do ngoại cảnh chứ không phải do cấp giống, nhưng nếu bên doanh nghiệp có chính sách khuyến khích thì chắc bà con tham gia cũng nhiệt tình hơn.”

Về vấn đề này, các doanh nghiệp cho rằng: “Không nên phát không cây giống vì làm méo mó thị trường, tâm lý được cho không nên không chăm sóc, mọc được thì mọc, không thì thôi, lại đợi lần sau được cho.” Cho dù đó là lập luận có sức thuyết phục trong bối cảnh kinh tế thị trường, điều đó cũng không có nghĩa rằng, việc xây dựng chính sách hậu mãi để khuyến khích người mua là không cần thiết. Lợi ích từ các tri thức kỹ thuật là cần thiết, nhưng vô hình; còn lợi ích từ chính sách hậu mãi lại hữu hình và dễ thuyết phục người dân hơn.

Doanh nghiệp thu mua đầu ra: Trong thời gian 2004-2006, Cargill và Mars Incorporated đã phối hợp trong chương trình hợp tác với các thị trường gắn kết (PSOM) nhằm chuyên nghiệp hoá thương mại trong chuỗi giá trị cacao, đưa ra các phương pháp giao dịch, thông số/chỉ số chất lượng, các thiết bị và kỹ năng kiểm tra phù hợp. Từ năm 2003 tới năm 2004, ED&F MAN đã bắt đầu phân phối cây giống cho nông dân và trở thành nhà thu mua quốc tế đầu tiên cung cấp thị trường cho cacao do người nông dân sản xuất. Các công ty khác cũng đã làm theo cách này. Công ty Cargill đã đầu tư vào các trạm thu mua tại Bến Tre và Đăk Lăk từ năm 2005 và hiện nay là nhà thu mua hạt cacao lớn nhất tại Việt Nam. Các nhà thu mua quốc tế khác bao gồm Olam, Amajaro, và Mitsubishi cũng đang mua hạt cacao hoặc có kế hoạch thu mua trong thời gian sớm. Công ty Cargill và Mars Incorporated (thông qua công ty Masterfoods) đã có sự hỗ trợ trong các hoạt động khuyến nông, nghiên cứu và phổ biến thông tin/kỹ thuật.

Tuy nhiên, với các quy định thu mua như hiện nay, các doanh nghiệp đảm bảo đầu ra cho hạt cacao đang đặt người nông dân vào tâm trạng chung là lo lắng phấp phỏng bởi họ còn chưa thực sự có niềm tin vào đầu ra của sản phẩm. Việc không thể bán hàng trực tiếp của người dân cho doanh nghiệp, mà phải qua các đại lý thu mua, càng khiến người dân mơ hồ về đầu ra. Tiêu chí về chất lượng trong đầu ra của sản phẩm đặt người dân vào tâm trạng nơm nớp về chất lượng sản phẩm. Có cảm giác qui trình và “chuỗi giá trị cacao” hiện nay mang dáng dấp của một mạng lưới bán hàng đa cấp, trong đó người dân trực tiếp trồng cây cacao là người hứng chịu rủi ro nhiều nhất, bởi phụ thuộc nhiều vào thời tiết, sâu bệnh, bệnh thối trái, kỹ thuật chăm sóc và lên men. Các đại lý thu mua và các công ty thu mua xuất khẩu có mức độ rủi ro thấp nhất.

Trên thực tế, có vẻ như các công ty thu mua là người thúc đẩy chương trình cacao đầu tiên, và các doanh nghiệp cung cấp đầu vào phát triển theo như một hệ quả. Thế nhưng chính sách của các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ đầu vào và đảm bảo thị trường đầu ra của cây cacao chưa thực sự khuyến khích được sự tham gia đông đảo của các nông hộ dân tộc thiểu số tại chỗ vào chuỗi giá trị cacao.

Page 66: Những thách thức trong phát triển bền vững

66

3. Sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ và nhà tài trợ quốc tế

Bên cạnh các tổ chức thuộc khu vực tư nhân, việc phát triển cây cacao tại Việt Nam cũng được một số tổ chức phi chính phủ (phi lợi nhuận) quan tâm (như ACDI/VOCA, WWF, Helvetas và Winrock). Trong hơn chục năm qua, các tổ chức này đã tham gia vào các dự án, nghiên cứu, tập huấn và những hoạt động dã ngoại (outreach) nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành sản xuất cacao của Việt Nam, áp dụng các mô hình canh tác nông lâm kết hợp và bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển việc sản xuất cacao hữu cơ và thương mại công bằng. Những tổ chức này có kinh nghiệm đáng kể trong việc quản lý dự án và làm việc với những nông hộ nhỏ. Một số các tổ chức này là thành viên của Ban điều phối cacao (như WWF). Gần đây, Oxfam Novib và iSEE cũng đang cân nhắc khả năng tham gia VCCC.26

Những đóng góp chủ yếu về mặt tài chính cho ngành sản xuất cacao Việt Nam trước đây là từ các nhà tài trợ như quốc tế GTZ, DANIDA và USDA. Hiện tại, các nhà tài trợ chính cho việc phát triển cacao tại Việt Nam gồm có USAID (thông qua SA), AusAID (thông qua MARD), Bộ nông nghiệp Hà Lan và JICA. Vì cây cacao được đánh giá là có vai trò cải thiện đời sống của các nông hộ, tăng cường đa dạng sinh học, áp dụng những hoạt động bền vững và thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ nên trong tương lai, có thể sẽ có thêm sự quan tâm của những nhà tài trợ khác. Đồng thời, tổ chức CECO có thể quan tâm tới việc tài trợ phát triển cacao hữu cơ và thương mại công bằng. Các tổ chức tài chính quốc tế (như WB và ADB) cũng có những đóng góp cho cây cacao thông qua nguồn vốn chọn lựa bên vay (challenge funds) sẽ thực hiện trong những dự án tới về tăng cường khả năng cạnh tranh trong nông nghiệp và dự án Thị trường cho người nghèo Giai đoạn II. Tổ chức IFAD thông qua chiến lược quốc gia mới của mình tập trung vào việc hợp nhất người nghèo vào chuỗi giá trị cũng có thể quan tâm tới sự phát triển của ngành.

Đáng tiếc, trong định hướng phát triển cacao của các tổ chức phi chính phủ và các nhà tài trợ quốc tế, sự tham gia của các tộc người thiểu số tại chỗ chưa được coi là vấn đề trọng tâm, cũng như tâm lý của người nông dân nói chung chưa được tìm hiểu kỹ. Cũng chưa có đánh giá nào về hiệu quả của các mô hình thử nghiệm, dự án, tập huấn…của các tổ chức NGOs. Đối với người dân nói chung, các câu lạc bộ cacao, các tổ nhóm trồng cacao vẫn như các tổ chức kín dành cho một nhóm nông dân.

4. Vai trò của các cơ quan khoa học

Mặc dù việc nghiên cứu và chuyển giao kỹ thuật có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển cacao nhưng hiện nay đội ngũ cán bộ nghiên cứu và khuyến nông tham gia hoạt động này không nhiều. Các cán bộ thuộc Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Cần Thơ hoặc Viện Khoa học kỹ thuật Nông Lâm Tây Nguyên chỉ tham gia theo từng dự án cụ thể. Chính vì vậy thời gian họ dành cho cacao chỉ là phần nhỏ.

Tại Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh chỉ một nhóm nhỏ cán bộ và kỹ thuật viên thuộc chương trình cacao của trường phải tham gia vào tất cả các lãnh vực thuộc về cây

26 Nguyễn Việt Khoa, Lê Quang Bình, Lê Bách, Nguyễn Quang Thương (2008): Report Assessment of

opportunity and challenge to join Vietnam Cacao Committee and Public Private Partnership for Oxfam Novib

and iSEE.

Page 67: Những thách thức trong phát triển bền vững

67

trồng này, mà người được biết đến nhiều nhất ở huyện Lắk là TS Phạm Hồng Đức Phước. Nhóm cán bộ của TS Phạm Hồng Đức Phước tham gia vào kỹ thuật nhân giống, tuyển chọn giống, kỹ thuật tưới, xây dựng mô hình, thành lập vườn tập đoàn, du nhập và phát triển các dòng cacao mới, quản ly sâu bệnh, thí nghiệm so sánh giống, thí nghiệm lên men, sọan tài liệu giảng dạy, v.v… Cũng trong NLU, Khoa Cơ khí nông nghiệp đã nghiên cứu chế tạo hệ thống máy để chế biến cacao ở quy mô nhỏ; khoa Công nghệ thực phẩm tham gia vào chương trình đánh giá chất lượng cacao bằng cảm quan và chế biến sô cô la. Công ty Mars Incorporated đã giúp trường xây dựng phòng thí nghiệm cảm quan và đào tạo hội đồng thử nếm để hổ trợ các nghiên cứu về chất lượng hạt. Bộ môn Bảo vệ thực vật nghiên cứu để tìm kiếm phương pháp kiểm soát Tricoderma. Do thiếu chuyên ngành cacao nên trường chưa có cán bộ làm việc hoàn toàn cho công việc này.

Ở Viện Khoa học Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên, các họat động nghiên cứu lâu nay đều tập trung vào cây cà phê và cũng chỉ có một nhóm nhỏ phụ trách cây cacao nghiên cứu về giống, lên men, quản lý sâu bệnh. Tất cả các cán bộ và kỹ thuật viên này trước đây làm việc trên cây cà phê và gần đây chuyển sang cacao; do đó kiến thức về cacao vẫn còn hạn chế và đây là thiếu sót rất nghiêm trọng để phát triển tiềm năng về cacao ở Tây Nguyên nói chung, Đắk Lắk và huyện Lắk nói riêng. Giới hạn này đã được nhìn nhận từ chính quyền địa phương và cả bản thân người nghiên cứu.

Ngoài 2 cơ sở khoa học trên đây, một vài tổ chức khoa học khác cũng tham gia vào quá trình nghiên cứu phát triển cây cacao. Trong thời gian từ 2007 đến 2009, trường Đại học Cần Thơ cũng tham gia vào chương trình/dự án “Lên men, phơi và đánh giá chất lượng cacao ở Việt Nam” được tài trợ bởi chính phủ Úc. Phân viện Nghiên cứu Lâm nghiệp đang quản lý mô hình canh tác cacao bền vững trong hệ thống nông lâm kết hợp tài trợ bởi công ty Mars Incorporated.

Trong việc phát triển cây cacao ở Việt Nam, hiện nay đã nhìn thấy nguy cơ của sự mất cân đối giữa nguồn nhân lực và kinh phí nghiên cứu. Dự án SA - vốn được đánh giá là thành công ở đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên - đã kết thúc trong khi chưa có một chương trình nghiên cứu cụ thể nào cho cacao. Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên là cơ quan được bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chính thức giao nhiệm vụ nghiên cứu và hàng năm nhận kinh phí từ bộ cho nhiệm vụ này, tuy nhiên kinh phí cho nghiên cứu này cũng rất khiêm tốn. Ngoài ra, Ban Điều phối Chương trình Phát triển Cacao Việt Nam giao nhiệm vụ nghiên cứu và huấn luyện kỹ thuật cho ĐHNL và WASI nhưng hòan toàn không có kinh phí hoặc chương trình cụ thể. Với mục tiêu tham vọng phát triển cacao lên 80,000ha vào năm 2020, đây sẽ là một thách thức rất lớn.

Mặt khác, hầu hết các nghiên cứu đã được thực hiện liên quan đến cây cacao đều chủ yếu tập trung vào các vấn đề kỹ thuật, hiệu quả kinh tế, tính khả thi, tính phù hợp và các yếu tố xã hội chung. Cho đến nay, chưa có bất cứ nhóm nghiên cứu nào đề cập đến câu chuyện phát triển cây cacao ở khu vực đồng bào thiểu số tại chỗ. Tây Nguyên và Tây Nam bộ đều là những khu vực nhạy cảm tộc người. Việc nghiên cứu tác động của cây cacao dưới góc độ nhân học văn hóa - xã hội là điều hết sức cần thiết.

Page 68: Những thách thức trong phát triển bền vững

68

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Cây ca cao dù đã du nhập vào Việt Nam từ lâu, nhưng chưa bao giờ được phát triển ở quy mô như hiện tại. Chính vì vậy, nó vẫn là một cây trồng tương đối mới với nhiều người nông dân, kể cả ở Đắk Lắk và Lâm Đồng. Hơn nữa, là một cây trồng thuộc chuỗi giá trị toàn cầu, nên việc bị ảnh hưởng bởi thị trường quốc tế là không tránh khỏi. Việc thường xuyên giám sát, đánh giá và điều chỉnh chiến lược trồng và phát triển cây ca cao là cần thiết, tránh rủi ro thiệt hại cho người nông dân, nhất là những nông dân nghèo, thuộc các tộc người thiểu số. Nhìn lại khung phân tích với 5 tiêu chí được đưa ra ở phần đầu báo cáo: i) Có được người dân coi là có giá trị vượt trội hơn so với những thực hành đã và đang tồn tại; ii) có sự tương thích với hệ thống văn hoá bản địa; iii) đủ đơn giản để hiểu và thực hành; iv) có khả năng kiểm chứng được thông qua thực hành; và v) có lợi ích rõ ràng, có thể thấy việc trồng cây cacao ở Đắk Lắk và Lâm Đồng đang đặt ra nhiều vấn đề cần suy ngẫm. Do phần lớn cacao ở Việt Nam được bắt đầu trồng từ năm 2007, diện tích ca cao cho sản phẩm thương mại mới dần hình thành trong khoảng hai đến ba năm gần đây. Chính vì vậy, trước mắt thì thu nhập của hộ từ ca cao thấp hơn các cây khác như cà phê và tiêu. Cộng với những biến động về giá cả theo chiều hướng thuyên giảm từ cuối năm 2011, năng lực sản xuất và quản lý hạn chế, cũng như vai trò thứ yếu của ca cao trong kinh tế hộ, hiện tượng nhiều hộ gia đình đốn bỏ, hoặc không đầu tư chăm sóc đã được ghi nhận ở nhiều tỉnh, đặc biệt ở các hộ gia đình không có sẵn những điều kiện cần thiết để trồng và phát triển ca cao. Cây ca cao có yêu cầu kỹ thuật canh tác cao và phức tạp hơn một số cây trồng khác. Chính vì vậy việc đầu tư vào nghiên cứu, thử nghiệm, và chuyển giao kỹ thuật cho người dân là rất quan trọng. Tuy nhiên, hiện tại việc nghiên cứu và chuyển giao mới dừng lại ở những hộ nòng cốt. Những hộ gia đình khác, đặc biệt là các hộ gia đình dân tộc thiểu số tại chỗ, còn chưa nhận được các chuyển giao kỹ thuật phù hợp và đầy đủ. Đây chính là một điều kiện tiên quyết, vì nếu muốn thành công trong việc trồng ca cao không thể không nắm vững được kỹ thuật. Một vấn đề kỹ thuật khác cần giải quyết, đó là việc quản lý chất lượng ca cao và đặc biệt tại khâu chế biến. Vì hiện tại lợi nhuận thu được ở khâu này khá lớn so với lợi nhuận bán quả tươi nên nhiều người dân muốn tham gia vào khâu này. Do các dự án khuyến khích lên men tập trung và không chuyển giao kỹ thuật công nghệ, cho nên nhiều người dân đã tự lên men cacao dù đây là một kỹ thuật khó. Điều này dẫn đến chất lượng sản phẩm không đạt, người dân không bán được nên có tâm lý chán nản. Như vậy, ngoài vấn đề kỹ thuật, vấn đề cấu trúc thị trường, đặc biệt ở thị trường lên men cần có những điều chỉnh phù hợp. Ở huyện Lắc, trong tộc người M'nông, việc trồng cây cacao chỉ giới hạn trong một số hộ được phát cây, và có nhiều rào cản khiến các hộ gia đình khác không muốn chủ động tham gia vào quá trình sản xuất cây cacao. Phương thức canh tác của cacao chưa hoàn toàn

Page 69: Những thách thức trong phát triển bền vững

69

tương thích với cách sống và canh tác của người dân ở đây. Cây cacao bị xem như cây “con mọn”, đòi hỏi nhiều công đoạn chăm sóc tỉ mẩn mang tính cá nhân, khác với phương thức canh tác đổi công vốn phổ biến trong đời sống sinh kế của người dân M’nông. Người dân không tận dụng được mạng xã hội trong việc chia sẻ lao động cũng như củng cố mối quan hệ cộng đồng. Mặt khác, việc thu hoạch “lai rai” và do đó thu nhập cũng “lai rai” khiến người dân không thể tích lũy và trả nợ vốn vay, do đó cũng không đủ hấp dẫn và trở thành động lực để người dân gắn bó với cây cacao. Ở huyện Eaka và Đạ Huoai, quá trình phát triển sản xuất ca cao ở các hộ tộc người tại chỗ cũng gặp khó khăn hơn so với hộ người Kinh và người Tày. Hộ người thiểu số tại chỗ có ít ruộng/nương phù hợp cho canh tác cây ca cao, họ có chiến lược tự cấp lương thực hơn và khả năng tiếp cận dịch vụ khuyến nông, vốn hạn chế hơn so với người Kinh và người Tày. Do những khác biệt, nhưng các cơ quan liên quan chưa nghiên cứu thấu đáo điều kiện văn hóa, xã hội và kinh tế của người dân tộc tại chỗ, nên chưa có can thiệp và hỗ trợ đầy đủ. Sau cùng, việc khuyến khích trồng ca cao dường như chưa được chuẩn bị kỹ lưỡng về quy hoạch, dịch vụ hỗ trợ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, cũng như các cơ chế cung cấp thông tin đa chiều cho người dân. Điều này dẫn đến việc nhiều người dân chưa đủ điều kiện trồng và chăm sóc và chưa được tham gia các cơ chế hỗ trợ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cacao nhưng vẫn được khuyến khích trồng. Tình trạng phá bỏ, hoặc ngừng không chăm sóc ca cao của nhiều hộ nông dân trong năm vừa qua đã gây lãng phí lớn cho chính họ và cho những cơ quan nhà nước và doanh nghiệp đang thúc đẩy sự phát triển của cacao ở Việt Nam. Để khắc phục những hạn chế trong việc phát triển cacao thời gian vừa qua, và để tránh những thiệt thòi cho nông dân Việt Nam, chúng tôi đưa ra một số khuyến nghị như sau: Thứ nhất, ca cao là cây khá kén chọn điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu. Do vậy, việc quy hoạch các vùng trồng cacao, cũng như việc phát động người dân trồng cacao, cần phải được thực hiện một cách cẩn trọng. Chúng tôi khuyến nghị các cơ quan hữu quan không nên vì thành tích trong việc phát triển diện tích mà phát cây giống tràn lan vì điều đó có thể gây lãng phí tài nguyên của đất nước và gây thiệt hại nhiều mặt cho người nông dân (vì mất công lao động, đầu tư, cơ hội sử dụng đất cho cây trồng khác). Thứ hai, thông tin về cây cacao cần phải được cung cấp một cách kịp thời, đầy đủ và đa chiều cho người nông dân và những người quan tâm khác. Những thông tin về lợi ích kinh tế tiềm năng của cây trồng này cần phải được cung cấp cùng với những thông tin liên quan đến các rủi ro về kỹ thuật và thị trường. Trên cơ sở đó, người nông dân có thể ra quyết định cho chính mình về việc trồng hay không trồng, tiếp tục đầu tư hay không tiếp tục đầu tư vào cây cacao. Thứ ba, hệ thống sinh kế và văn hóa của người dân tộc tại chỗ rất coi trọng sự đa dạng sinh kế bền vững và an toàn lương thực. Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng việc vận động người dân trong các cộng đồng này trồng cacao cần phải tính đến những đặc điểm kể trên, bên cạnh các hỗ trợ cơ bản về kỹ thuật, giống và tài chính. Cụ thể, chúng tôi cho rằng cần tiếp tục khuyến khích người dân tộc thiểu số tại chỗ trồng xen cacao như cây là một cây

Page 70: Những thách thức trong phát triển bền vững

70

trồng bổ trợ trong cơ cấu trồng trọt đa canh của họ, hơn là trồng thuần và mang tính nền kinh tế hàng hóa. Thứ tư, cần hướng dẫn và đa dạng các sản phẩm sản xuất từ ca cao như làm rượu cacao, nước uống giải khát, làm bơ cacao… để người dân biết thêm cơ hội đầu ra, chứ không chỉ hạt ca cao lên men để xuất khẩu. Đây cũng là cách đa dạng hóa sản phẩm để giảm rủi ro và tìm lối thoát cho người dân. Thứ năm, hiện tượng người dân chặt ca cao sau khi được khuyến khích trồng và đầu tư cần được nghiên cứu thấu đáo. Nó giống với các câu chuyện “trồng rồi chặt” trước đây của nền nông nghiệp Việt Nam. Dường như, có sự bất đối xứng về thông tin, sự tham gia của các lực lượng phi thị trường như hệ thống chính trị làm nhiễu tín hiệu thị trường, dẫn đến người nông dân ra quyết định sai, lĩnh hậu quả thiệt hại. Vì thế, cần có nghiên cứu về quá trình ra quyết định của người nông dân, các bên đã ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến quyết định của người nông dân như thế nào, từ đó rút kinh nghiệm không chỉ cho ca cao mà cho ngành nông nghiệp Việt Nam. Thứ sáu, cấu trúc thị trường ca cao đang được hình thành ở Việt Nam. Chính vì vậy, cần có một nghiên cứu tổng thể để biết “nút thắt và nút mở” của thị trường ở đâu, từ đó gợi ý những chính sách cho nhà nước định hình một thị trường công bằng hơn. Một ví dụ đơn giản là thị trường xuất khẩu đang được quyết định bởi các nhà xuất khẩu nào, giá cả ra sao; thị trường đầu vào sản xuất đang được quyết định bởi các nhà cung cấp nào, giá cả ra sao; và giữa các mắt trong chuỗi, ví dụ như người trồng và người chế biến/lên men, lợi nhuận đang được chia như thế nào. Nghiên cứu này là cần thiết để hướng đến một thị ngành ca cao công bằng và bền vững.

Page 71: Những thách thức trong phát triển bền vững

71

Tài liệu tham khảo

Agrifood Consulting International. (2008). Nghiên cứu tính phù hợp, khả thi, và lợi ích

kinh tế xã hội trong sản xuất cacao tại Việt Nam. Báo cáo dự thảo cuối cùng. Xây dựng cho Cục trồng trọt, tháng 11/2008. Bethesda, Maryland, US.

Ái Vân. (2011, 29/11). Ca cao Việt Nam: Tiềm năng lớn, Diễn Đàn Doanh Nghiệp. Retrieved from http://www.thuongmai.vn/ca-cao-viet-nam/81894-cacao-viet-nam-tiem-nang-lon.html

Bộ Khoa học và Công nghệ. (2005). Tiêu chuẩn Việt Nam 7519: Hạt ca cao. Hà Nội: Bộ Khoa học và Công nghệ.

Bộ NN&PTNT. (2011). Thông báo số 6351/TB-BNN-VP ngày 19/12/2011: Ý kiến kết luận của Thứ trưởng Lê Phương tại Hội nghị quốc tế về ca cao Việt Nam.

Bộ Tài nguyên và Môi trường (2011): Thống kê, kiểm kê diện tích đất đai xã Đắk Phơi, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk – Biểu số 08-TKĐĐ.

Chi cục Thống kê huyện Lắk (2011): Niên giám Thống kê huyện Lắk năm 2010. Dang Thanh Hà, & Shively, G. (2005). Coffee vs. cacao: A case study from the Vietnamese

central highlands. Journal of Natural Resources and Life Sciences Education, 34, 107-111.

Helvetas (2008): Nghiên cứu khả thi Cacao hữu cơ và Thương mại công bằng tại Việt Nam. Huỳnh Quốc Thích. (2013). Phát triển cacao của tỉnh Đắk Lắk - thực trạng và giải pháp.

Phiên họp lần thứ 2 -2013 của Ban Điều phối Ca cao Việt Nam. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 11, 118-122.

International Cocoa Organization. (2013). ICCO monthly averages of daily prices Retrieved 2 July, 2013, from http://www.icco.org/statistics/cocoa-prices/monthly-averages.html

Lê Tuấn. (2012, 27/9). Cây ca cao: Hướng thoát nghèo mới cho nông dân, Cổng thông tin điện tử tỉnh Lâm Đồng.

Marou Chocolate Company. (2011). Cacao and Chocolate in Vietnam, a brief history Retrieved 28/06, 2013, from http://www.marouchocolate.com/?page_id=493

Nguyễn Trúc Bồng Sơn. (2013). Tình hình phát triển ca cao trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng. Phiên họp lần thứ 2 -2013 của Ban Điều phối Ca cao Việt Nam. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 11, 127-130.

Nha Canh Nông. (1959). Cây ca-cao. Sai Gon: Nha Khuyến Nông. Nguyễn Việt Khoa, Lê Quang Bình, Lê Bách, Nguyễn Quang Thương (2008): Report

Assessment of opportunity and challenge to join Vietnam Cacao Committee and Public Private Partnership for Oxfam Novib and iSEE

Phạm Hồng Đức Phước. (2011). Kỹ thuật trồng ca cao ở Việt Nam. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Lao động.

Phan Huy Thông. (2013). Báo cáo tóm tắt hoạt động của Ban điều phối Cacao Việt Nam năm 2013 và dự kiến kế hoạch hoạt động năm 2014. Phiên họp lần thứ 2 -2013 của Ban Điều phối Ca cao Việt Nam. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 11, 1-9.

Page 72: Những thách thức trong phát triển bền vững

72

Phan Lê. (2012, 12/06). Ca cao Việt Nam: Nhọc nhằn "hớt bọt", Doanh nhân Sài Gòn Online. Retrieved from http://m.doanhnhansaigon.vn/online/kinh-doanh/chuyen-lam-an/2012/06/1065365/cacao-viet-nam-nhoc-nhan-hot-bot/

Rogers, E. M. (1962). Diffusion of innovations. New York: Free Press of Glencoe. Sở NN&PTNT tỉnh Đắk Lắk (2011): “Báo cáo tình hình thực hiện dự án 6,000ha Cacao”. Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đắk Lắk: Quy hoạch sử dụng đất tỉnh Đắk Lắk đến năm

2010 và định hướng đến năm 2020. SuccessAlliance. (2010). Cẩm nang dành cho tập huấn viên khu vực Tây Nguyên, Việt Nam.

Hà Nội: SuccessAlliance & ACDI/VOCA. UBND huyện Lắk (2010): Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,

đảm bảo quốc phòng – an ninh năm 2010 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011.

UBND tỉnh Đắk Lắk - Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) 2011: Nghiên cứu chiến lược phát triển tỉnh Đắk Lắk và thành phố Buôn Ma Thuột (DaBuDeSS).

UBND tỉnh Đắk Lắk - Sở NN&PTNT (2011), Báo cáo tóm tắt Quy hoạch cây công nghiệp và cây ăn quả chủ yếu trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020

UBND tỉnh Đắk Lắk: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020.

UBND xã Đắk Phơi (2010): Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội - an ninh quốc phòng năm 2010 và phương hướng năm 2011

UBND xã Yang Tao (2011): Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng – an ninh 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2011.

Page 73: Những thách thức trong phát triển bền vững

73