phát triển robot kiểm tra và vệ sinh đường ống
DESCRIPTION
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011Phát triển robot kiểm tra và vệ sinh đường ống Development of robot for cleaning and inspecting the sewage1Trần Phương Nam, 2,*Nguyễn Trường Thịnh, 2Nguyễn Ngọc Phương1Khoa Đào tạo Chất lượng cao, Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM 2 Bộ môn Cơ điện tử, Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM Email: [email protected], [email protected], [email protected]óm tắt:Robot kiểm tra và vệ sinh đường ống thoát nước là một trong nhữngTRANSCRIPT
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
Phát triển robot kiểm tra và vệ sinh đường ống
Development of robot for cleaning and inspecting the sewage 1Trần Phương Nam,
2,*Nguyễn Trường Thịnh,
2Nguyễn Ngọc Phương
1Khoa Đào tạo Chất lượng cao, Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM
2Bộ môn Cơ điện tử, Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM
Email: [email protected], [email protected], [email protected]
Tóm tắt: Robot kiểm tra và vệ sinh đường ống thoát nước là
một trong những khái niệm mới về robot dịch vụ
chuyên nghiệp. Đường ống thoát nước thông thường
là những ống nhỏ, người không thể chui lọt (đường
kính nhỏ hơn 0.8m). Trong bài báo này, một mô hình
robot kiểm tra và vệ sinh đường ống được thiết kế phù
hợp cho nhiệm vụ được yêu cầu. Ngoài ra trong bài
báo này cũng đề cập phương pháp, thiết kế và phát
triển robot vệ sinh trong môi trường đường ống bị tắc
nghẹt. Để thực hiện tốt các nhiệm vụ đề ra, chúng tôi
cũng đã đề xuất phương pháp cắt gọt mới để vệ sinh
ống đồng thời kiểm tra ống dưới nước. Trong phần
sau của bài báo, chúng tôi thảo luận về cách thức giao
tiếp để điều khiển robot di chuyển trong ống cống.
Cuối cùng, chúng tôi đánh giá sự thực hiện của mục
tiêu kiểm tra và vệ sinh đường ống thông qua các thí
nghiệm và kiểm tra thực tế. Ngoài ra, chúng tôi còn
xác minh hiệu quả của các phương án đề xuất thông
qua mô phỏng máy tính.
Abstract: Pipe cleaning and inspection robots are one of the
new concepts of professional robots. Sewer pipes are
typically of non-man-entry classification (less than
0.8 m diameter). In this paper, a pipe-cleaning and
inspection robot specifically designed for this
function is proposed. This paper presents a new
approach for design and development of cleaning
robots in an unknown pipe workspace. To do so, we
propose a new cutting method for cleaning work as
well as an underwater inspection method. First, we
discuss a communication which makes the cleaning
robot navigate the sewer pipe. Finally, we evaluate
the performance of our proposed inspection and
cleaning processes via experiments and real tests.
Also, we verify the effectiveness of the proposed
methods through computer simulations.
1. Phần mở đầu
Hệ thống thoát nước công cộng ở Việt Nam hoạt động
trong những điều kiện không tốt: nước thải có thể bị
rò rỉ ra ngoài, có thể gây ô nhiễm đất và nước ngầm.
Thông thường, nước thải bao gồm các hóa chất
thường được sử dụng hiện nay. Chúng chứa những
thành phần kim loại nặng ko có khả năng phân hủy
sinh học và có thể tích lũy trong cặn sông, thực vật,
côn trùng và cá. Chúng thường có nguồn gốc từ công
nghiệp và có thể gây độc hại cho con người và sinh
vật. Ở Việt Nam, đôi khi, chất thải công nghiệp chảy
vào cống hoặc các hộ gia đình luôn luôn xả tất cả mọi
thứ sản phẩm mà họ sử dụng vào nước thải.Trong khi
đó, hầu hết các đường ống nước thải tại Việt Nam có
kích thước cống mà người không thể chui qua được
với đường kính nhỏ hơn 0.8(m). Đó là nguyên nhân
đường cống thoát nước bị tắc nghẽn, nước cống bị ứ
đọng, không chảy được, gây ngập và ô nhiễm cho khu
vực. Do đó, rất khó khăn trong việc nạo vét, bảo trì và
vệ sinh vì đường kính cống nhỏ, công nhân vệ sinh
không thể chui lọt. Thông thường hiện nay, để bảo trì
và vệ sinh những hệ thống đường ống thoát nước như
vậy, người ta khảo sát bằng cách gắn một máy ảnh và
ánh sáng trên một tấm trượt, được kéo đi, hoặc trên
một máy kéo, chạy bên trong hệ thống thoát nước, sản
xuất một video ghi lại tình trạng của đường ống. Sau
đó, cũng như khảo sát, người ta vệ sinh cống bằng
cách gắn thiết bị nạo vét cống và dùng tời kéo (sức
người hoặc dùng máy kéo) chạy qua chạy lại bên
trong ống cống để lấy ra các chất bẩn gây tắc nghẽn.
Trong cả hai trường hợp những người làm việc dưới
mặt đất, điều khiển phương tiện, sử dụng cáp để được
dẫn hướng và thu thập dữ liệu. Quá trình trên là phức
tạp và tốn nhiều lao động trong thực tế. Đây là động
lực cơ bản để thiết kế một robot có thể di chuyển tự
chủ thông qua hệ thống cống rãnh, có khả năng ghi
video cống và thu hồi quan sát của máy ảnh ngay lập
tức để đánh giá sự biến dạng ống cống. Mục tiêu của
bài báo của chúng tôi là nhìn vào khả năng của một hệ
thống thị giác hoạt động, tức là làm thế nào để một
robot khảo sát có thể sử dụng máy ảnh của mình để
định hướng trong một đường ống trong khi di chuyển.
Công việc là một phần của một dự án nhằm phát triển
một robot để khảo sát hệ thống thoát nước một cách
độc lập. Dự án được tập trung vào ống cống bê tông
điển hình. Robot có kích thước khoảng một nửa kích
thước của đường kính thoát nước, phải có khả năng
liên kết chính nó với trục ống. Theo các thông tin thì
hình dạng hình học của cống hầu hết là hình trụ . Như
vậy, một ràng buộc hình học trên môi trường làm việc
của robot có thể mong đợi.
263
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
H.1 Mô hình của robot kiểm tra và vệ sinh đường ống thoát
nước Công việc làm sạch hệ thống thoát nước và kiểm tra
thường là một nhiệm vụ nguy hiểm, tẻ nhạt, nhàm
chán, lặp đi lặp lại. Do đó, việc sử dụng robot cho
công việc này khá phù hợp. Trong bài báo này, robot
được thiết kế cho công việc làm sạch đường ống nước
thải, trong điều kiện ngập nước (H.1). Có một số bài
báo có đề cập các robot làm việc trong ống dẫn nước
thải, tuy nhiên hầu hết là áp dụng đối với các vấn đề
kiểm tra đường ống. Chỉ một số nhỏ các bài báo bàn
cụ thể về các robot làm sạch đường ống tuy nhiên họ
chỉ mô tả các công trình làm sạch đơn giản, do đó khó
có thể áp dụng vào cống Việt Nam. Vì vậy trong bài
báo này chúng tôi chủ yếu tập trung vào việc kết hợp
nhiều chức năng cho robot để có thể di chuyển trong
đường ống nước thải, làm sạch và kiểm tra hoàn thiện,
như một robot dịch vụ hoạt động hiệu quả. Trong các
phần sau bao gồm: thiết kế cơ khí, nguyên lý và cơ
cấu làm sạch, kiểm soát và điều khiển robot, và một
số kết quả xét nghiệm được trình bày. Các xét nghiệm
được thực hiện trong phòng thí nghiệm và thực tế. Bài
viết này kết thúc với kết luận chính.
2. Thiết kế cơ khí
H.2 Tác động của các vấu xích trong việc bám và vượt
chướng ngại.
Sự lựa chọn cách robot di chuyển trên bề mặt bên
trong đường ống là rất phức tạp, đặc biệt là dưới nước
do môi trường phức tạp, có thể gặp phải các chướng
ngại vật không xác định được. Lựa chọn có sẵn
thường bao gồm bánh xe, xích, chân, và các kiểu kết
hợp. Vì vậy sự lựa chọn của phương pháp di chuyển
phụ thuộc hoàn toàn vào môi trường và các dạng điều
khiển. Trong đường ống nước thải, có rất nhiều
chướng ngại vật, nhưng không cao hơn 40% chiều cao
bánh xe hoặc 10% đường kính ống sau khi phá vỡ
chúng. Để tăng độ bám đường và ổn định, bánh xích
được sử dụng để tăng độ bám dính vào bề mặt ống
như H.2. Do đó, bộ ba nh xích được thiết kế cao hơn
so với những trở ngại trong đường ống. Robot có thể
vượt qua những trở ngại nhỏ hơn 40-50% đường kính
lớn nhất của bánh xích. Robot có thể hoạt động trong
cả trường hợp địa hình thô hay môi trường ngập nước,
độ bám đường kém và nhiều trở ngại bên trong các
đường ống nước thải. Để robot hoạt động hiệu quả
trong đường ống, ba tiêu chí quan trọng nhất là không
thấm nước, không lún xuống bùn và lực kéo phải đủ
để vượt qua chướng ngại vật. Tất cả các thông số trên
phụ thuộc nhiều vào các tính chất bùn như tính chất
hạt, độ cứng và dính, cũng như trọng lượng của robot
và diện tích bề mặt tiếp xúc của bánh xích. Một số
sách cung cấp cho chúng ta các kích thước theo một
hệ thống, kí hiệu đại diện cho một số thông số như
chiều rộng B, D chiều cao, l chiều dài, h chiều sâu
xích, và trọng lượng Robot W. Bên cạnh đó, các
thông số khác có thể được sử dụng như là góc ma sát
nội bộ , tỷ số công suất n, modul biến dạng kc and k,
hệ số gắn kết c, tỉ trọng và các thông số được suy ra
Nc, Nq and N. Trong robot, tỷ lệ chiều dài với chiều
rộng là khoảng 1,0 đến 1,8. Độ sâu gây lún z phụ
thuộc vào trọng lượng robot và các thông số bùn như
là:
n
c
Wbz
A k bk
(1)
Lực kéo của móc kéo được tính như sau:
111
' tan 2 1
nn
n
DP c
WF Ac H W n k bk
l
(2)
Bởi vì độ cao bùn đất, chất cặn trong cống sau khi bị
phá vỡ luôn luôn nhỏ hơn 40% chiều cao của xích, do
đó buồng lái của robot di chuyển trong môi trường
bình thường. Chiều rộng xích cũng nên được tăng tối
đa để giảm gây lún trong những hỗn hợp kết dính như
cặn, bùn đặc. Trong nghiên cứu này, để tăng độ bám
đường, giảm ngập lún, giảm độ nén và độ ủi, chiều
dài xích được thiết kế tối ưu. Và để có được lực kéo
tốt, kích thước và hình dạng của các vấu xích được
thiết kế sao cho không ảnh hưởng đến khả năng
chuyển của robot.
Để vượt những chướng ngại vật trong đường ống, vấu
xích của robot được thiết kế đặc biệt. Mô-men xoắn
w được xác định bởi hàm số phụ thuộc vào kích
thước bước xích h và bán kính R là:
22
cos tanw
R hMgR a
R R h
(3)
Các vấu xích có biên dạng hình học sao cho giúp ích
trong việc leo vượt chướng ngại vật thể hiện trong
hình H.2. Do đó, nó cho phép leo vượt trở ngại ngay
cả khi bán kính R = h (chiều cao chướng ngại vật).
Xích rất cứng vững, giúp cho robot leo vượt ngại vật
dễ dàng.
Các bánh xích được dẫn động bởi động cơ điện. Dựa
vào bán kính bánh xích R, cùng với một tỉ lệ truyền
TN và năng suất t, một động cơ M có mô-men xoắn
264
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
m điều khiển bởi một bộ khuếch đại (A) có hiệu suất
q. Lực đẩy FL cho phép robot di chuyển ở một tốc độ
nhất định trên địa hình theo phương trình tính toán
dưới đây.
W m NL t q
TF
R R
(4)
Vấn đề lớn nhất của hệ thống thoát nước công cộng là
đường ống quá nhỏ để có thể kiểm tra bằng con
người. Đường kính của các đường ống thay đổi từ 20
đến 80 cm. Để đối phó với loại cống này, một số giải
pháp đã được trình bày. Robot sẽ được điều khiển bởi
một bộ phận điều hành bên ngoài cống, người điều
khiển ngồi trong một xe ôtô gần một cửa cống, có
nhiệm vụ truyền thông tin và năng lượng qua một kết
nối cáp. Tuy nhiên robot không thể vượt qua đường
cong. Ngay cả những hốc chuyển vị rất nhỏ là những
trở ngại không thể xử lý được.Trong bài báo, một
robot có bánh xích đã được điều tra có thể làm việc
dưới nước trong đường ống cần làm sạch với đường
kính 300 mm.
Robot phải có nguồn cung cấp điện riêng của mình và
phải đáp ứng các khía cạnh an toàn mạnh mẽ. Các yêu
cầu của robot là: hoạt động từ xa, vượt qua những trở
ngại với chiều cao nhỏ hơn 300 mm. Các kích thước
của robot phụ thuộc chủ yếu vào cửa cống và đường
kính của ống dẫn nước thải. Vì vậy, trong bài báo này,
robot được thiết kế và phát triển giống như một xe
tăng có bánh xích phù hợp với các đường ống. Các dữ
liệu, điều khiển, nguồn điện và cảm biến được gắn
vào robot trong một không gian rất nhỏ. Hình thức
của nó được thể hiện trong H.3.
H.3 Mô hình hóa của robot kiểm tra và vệ sinh đường ống.
Hình trên cho thấy thiết kế robot được đề xuất. Việc
thực hiện thực tế của một robot làm sạch là một vấn
đề liên ngành nhưng trong bài báo này, sự chú ý được
tập trung vào thiết bị truyền động, cảm biến, các thiết
bị điện tử và khả năng sử dụng của chúng.Thiết kế cơ
khí của một robot kiểm tra và vệ sinh cho đường ống
nước thải phải được tính toán kĩ và đủ nhỏ để di
chuyển vào ống điển hình trong một mạng lưới thu
gom nước thải, cũng như trọng lượng đủ để di chuyển
dễ dàng và loại bỏ cặn bẩn trên bề mặt ống. Trong
thiết kế của nó, một số vấn đề khác nhau phải được
giải quyết: hiệu quả của thiết bị làm sạch, vị trí của
các bánh xe định vị, các cảm biến trên xe, và nguồn
cung cấp năng lượng cho robot.
3. Nguyên lý và cơ cấu làm sạch
H.4 Nguyên lý loại bỏ các điểm bùn trên bề mặt ống.
Hầu hết các robot làm sạch hệ thống thoát nước sử
dụng một tia nước như là thiết bị làm sạch nguyên tắc,
nhưng trong trường hợp của chúng tôi, có nhiều sự
khác biệt với những người khác. Ở Việt Nam, mạng
lưới thoát nước được sử dụng trong một thời gian dài,
những cặn bã trên các đường ống nước thải rắn, rác
thải, mùn hay đôi khi chúng còn là những đống đổ nát
hoặc xà bần. Vì vậy, một nguyên lý mới để làm sạch
các đường ống thu gom nước thải nên được đưa ra và
được sử dụng tại Việt Nam.
265
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
Hình 5. Nguyên lý loại bỏ các điểm bùn trên bề mặt ống
. Trong bài báo này, một nguyên lý về thiết bị làm sạch
được đề cập như H.4 và H.5. Nguyên lý làm sạch của
robot dựa trên một đĩa cắt chạy bằng điện, đó là lý
tưởng cho một ứng dụng robot. Tùy thuộc vào loại bề
mặt, đầu dao cắt có thể rất hiệu quả vì nó làm sạch
bằng cách cắt và xoay, tạo ra momen xoắn cuốn chất
bẩn đã bị cắt nhỏ ra xung quanh. Hơn nữa, thiết kế
của nó là rất đơn giản và rẻ tiền, chỉ có hai phần: một
đĩa chứa nhiều lưỡi dao cắt, và một tia nước. Trục
xoay của đĩa cắt trùng với đường tâm của ống. Do đó,
có thể cắt và nghiền nát các điểm cặn cứng.
Có rất nhiều phương pháp để loại bỏ vật rắn bám vào
bề mặt của ống như tác động của vòi phun nước hoặc
cơ khí bằng cách cắt. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này
một dao cắt được chọn để làm sạch các đường ống
nước thải. Việc lựa chọn các công cụ cắt phụ thuộc
vào mức độ gắn bó giữa ống và cặn bám. Nếu các đối
tượng bám bụi và rác thải, vòi phun nước có thể được
sử dụng. Nhưng đôi khi có đất khô cứng và thanh
gạch vụn trên đường ống, rất khó để loại bỏ chúng,
đối với trường hợp này, hiệu ứng cơ học bằng cách
cắt phá nên được sử dụng. Công cụ được sử dụng
trong robot để cắt được biết đến như một đĩa cắt.
Trong quá trình làm sạch, công cụ cắt, xén hoặc kéo
rác thải, mùn ra khỏi bề mặt cống. Cặn bám dính
trong các đường ống nước thải, do đó rất khó để loại
bỏ nó. Cặn bị cạo phá bởi các lưỡi dao cắt và chuyển
động xoay quanh trục ống của đĩa. Khi đĩa cắt quay
quanh trục của nó, các lưỡi dao quay theo, tạo ra lực
cắt tác dụng lên các chất bẩn bám dính để cắt bỏ hay
nghiền nát chúng. Trong bài báo, một nguyên lý mới
về làm sạch đường ống nước thải cho thấy loại bỏ vật
bám với một con dao cắt dạng đĩa. Trong quá trình
cắt, có một mối quan hệ giữa tốc độ quay và bước tiến
của dao cắt. Mối quan hệ này là rất quan trọng nếu
chất lượng và hiệu quả được xem xét.
H.6 Mô phỏng sự biến dạng của dao cắt qua phần mềm
Abaqus.
4. Thiết kế điện
Phần lớn các đường ống nước thải có kích thước
người không thể chui lọt. Để xử lý các đường ống như
vậy, người ta sử dụng nền tảng con robot teleoperated.
Trong bài báo này, robot được kết nối với bên ngoài
bởi một dây cáp để cung cấp năng lượng, truyền các
lệnh từ người điều khiển thiết bị, đồng thời truyền dữ
liệu trở lại người điều khiển. Bên cạnh đó, dây cáp
còn có vai trò như một sợi dây sống còn trong trường
hợp robot bị mắc kẹt trong đường ống, và có thể là
dây đo cho khoảng cách đi được. Một thay thế cho hệ
thống điều khiển bằng dây cáp là một robot tự động
có thể từ xa không dây. Tuy nhiên, việc thực hiện liên
kết thông tin liên lạc và cung cấp điện trở nên khó
khăn hơn, đó là một bất lợi lớn so với tính di động đạt
được. Hệ thống thoát nước là một môi trường độc hại
đối với các robot để làm việc. Nó là một nơi hẹp, trơn,
bẩn và ẩm ướt. Nó có thể gặp tất cả các mức độ ngập
nước trong một đường ống thoát nước, từ khô đến
hoàn toàn bị ngập lụt. Nó có thể bao gồm các chướng
ngại vật như trầm tích và bị hư hại như các vết nứt, lỗ,
nút giao được xây dựng hoặc rễ cây phát triển đâm
xuyên thành đường ống. Để đi theo chính xác tuyến
đường đã vạch, để cung cấp thông tin hữu ích và kịp
thời cho người điều khiển, định vị chính xác là không
thể thiếu. Do đó, điều khiển bằng dây cáp là lựa chọn
tối ưu.
Monitor
Center panel
Manhole
Sewer pipe Robot
H.7 Sơ đồ làm việc của robot. Robot vệ sinh đường ống có thể xác định vị trí của nó
dựa vào 1 bánh xe quay có gắn encoder, để tính được
đoạn đường mà robot di chuyển được. Nhận gửi dữ
liệu thô đến máy chủ định vị mỗi giây. Các máy chủ
định vị nhận được các dữ liệu thô và cũng có thể nhận
được dữ liệu từ một trạm tham chiếu được cài đặt gần
đó. Các máy chủ tính toán vị trí chính xác tất cả các
máy thu trong thời gian thực và gửi dữ liệu định vị
cho robot. Robot này có hai động cơ. Robot chuyển
động bằng một động cơ AC với hộp số được đặt ở
thân sau của robot. Các động cơ kết nối trực tiếp vào
bánh xe theo dõi để tránh những chậm trễ. Robot hoạt
động bằng cách sử dụng một đơn vị kiểm soát, cho
phép nó được điều khiển bằng dây cáp. Các tín hiệu
từ điều khiển và bảng điều khiển kiểm soát vi điều
khiển để chuyển đổi tín hiệu thích hợp cho các thiết bị
truyền động Robot. Sơ đồ điều khiển của robot được
thể hiện trong H.7.
5. Kết quả và thảo luận
Trong bài báo, một robot đã được nghiên cứu có khả
năng làm việc dưới nước trong đường ống cống với
đường kính 300 mm. Khó khăn chính trong việc thiết
kế là tìm ra một mô hình đáp ứng các nhu cầu như:
chi phí thấp, độ tin cậy và dễ dàng sử dụng cũng như
có thể làm việc trong môi trường ẩm ướt. Sau một
thời gian ngắn của nguyên mẫu xây dựng, robot có thể
làm sạch và kiểm tra các đường ống nước thải. Một
loại mới của robot đã được thiết kế và chế tạo để làm
266
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
sạch và kiểm tra các đường ống nước thải của các
mạng lưới nước thải thành phố Hồ Chí Minh thể hiện
trong H.3. Những lợi thế và đặc điểm của bộ phận cơ
khí được phân tích ở phần trên. Robot này cũng có thể
được sử dụng vào các mục tiêu khác nhau với đường
kính cống khác nhau bằng các vấu xích có biên dạng
cong phù hợp. Hầu hết các đặc tính của robot được
xác định bởi khả năng hoạt động tự động và di động
trong hệ thống cống rãnh. Các yêu cầu của robot là:
hoạt động từ xa, vượt qua những trở ngại với chiều
cao nhỏ hơn 300 mm. Các kích thước của robot phụ
thuộc chủ yếu vào cửa cống và đường kính của ống
dẫn nước thải. Vì vậy, trong phần này, khái niệm của
robot giám sát và làm sạch hệ thống thoát nước được
thử nghiệm, đó là một robot được thiết kế và phát
triển giống như một chiếc xe tăng nhỏ phù hợp với
các đường ống nước thải tại Việt Nam. Các hệ thống
điều khiển, kiểm soát, cung cấp năng lượng và cảm
biến được gắn vào robot trong không gian rất nhỏ. Từ
quan điểm công nghệ, một trong những giải pháp cho
vấn đề này là sử dụng một robot được mô tả trong
phần trên. Hệ thống này được điều khiển bởi một
người điều hành bên ngoài, những người đang ngồi
trong một chiếc xe ôtô gần một cửa cống. Thông tin
và nguồn năng lượng được cung cấp bởi một kết nối
cáp. Để có được những hình ảnh bên trong đường ống
khi kiểm tra hoặc làm sạch, một máy ảnh CCD được
sử dụng và gắn liền với robot. Trọng lượng của máy
ảnh phải nhẹ. H.3 cho thấy việc thiết kế robot đề xuất
và phát triển. Việc thực hiện thực tế của một robot
kiểm tra và làm sạch là một vấn đề liên ngành nhưng
trong bài báo này, sự chú ý được tập trung vào các bộ
phận cơ khí và khả năng sử dụng của chúng.
Trong bài báo, các robot ống cống đã được sử dụng
để tương tác giữa hiện thực và ảo trong các thí
nghiệm. Các giao diện làm việc chung của hệ thống
ảo được đề xuất cho con robot như trong H.8. Nó cho
phép người dùng thực hiện hệ thống, xác định, vận
tốc, và kiểm soát vị trí của robot.
H.8 Giao diện đồ họa của mô hình ảo và thực tế.
H.9 Robot di chuyển trong đường ống nước thải thực tế.
267
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
H.10. Ảnh chụp trong ống cống từ camera của robot
Một mô hình thiết kế 3D của robot được thực hiện bởi
phần mềm Solidworks và chuyển đổi thành VRML
(Virtual Reality Modeling Language), để phổ biến
hơn về các ứng dụng ảo. Giao diện người dùng được
phát triển bằng ngôn ngữ Visual Basic. Giao diện đồ
họa (Graphic User Interface) của VRML thường trình
bày một cảnh trên một màn hình máy tính cùng với
các công cụ xem cho phép người sử dụng xoay, di
chuyển, hoặc tác động các đối tượng như là con robot
thật sự.
Trong bài báo này, các quy trình kiểm tra và làm sạch
đã được thử nghiệm trong thực tế. Robot được thử
nghiệm bên trong các đường ống nước thải có đường
kính 300 mm và kiểm soát để di chuyển thẳng về phía
trước như là H.9.Các robot đã được thử nghiệm cho
tất cả các loại này. Các xét nghiệm trong ống thẳng
của đường kính 300 mm đã được thực hiện để kiểm
tra các tình trạng trong đường ống. Trong một tình
huống điển hình, đối với ống dài không hơn 100m có
thể được kiểm tra trong một lần di chuyển. Robot đã
được thử nghiệm dựa trên phương pháp đề xuất và
một hình ảnh thoát nước được chụp bởi máy ảnh CCD
trên robot. Chúng tôi thực hiện một số thí nghiệm để
kiểm tra máy quét tùy chỉnh trong ống cống ướt.
Robot di chuyển trong ống nhựa có đường kính khác
nhau (300 mm và 400 mm). H.10 cho thấy một hình
ảnh từ máy ảnh CCD được thực hiện bên trong đường
ống. Các thí nghiệm trong hệ thống cống rãnh thực sự
ẩm ướt vẫn được thực hiện để kiểm tra.
Kết luận Bài viết này đề cập đến một loại mới của robot kiểm
tra và làm sạch ống nước thải phù hợp với môi trường
làm việc dưới cống dẫn nước thải. Có thể tóm tắt
những gì đã làm được trong dự án này như sau:
- Một robot được thiết kế để sử dụng làm sạch và
kiểm tra các đường ống nước thải của mạng lưới nước
thải thành phố Hồ Chí Minh. Robot này cũng có thể
được sử dụng vào các đường ống khác nhau với
đường kính khác nhau bằng cách thay bánh xích ôm
theo đường cong của ống.
- Một hệ thống điều khiển đơn giản được thiết kế để
điều khiển robot.
- Kết quả thử nghiệm cho thấy các bộ điều khiển có
hiệu quả có thể cải thiện kiểm soát chất lượng. Điều
này có nghĩa rằng phương pháp này có thể được thực
hiện và đáp ứng nhu cầu hiện tại.
Tài liệu tham khảo
[1] K.-U. Scholl, V. Kepplin, K. Berns, R. Dillmann, “An Articulated Service Robot for Autonomous
Sewer Inspection Tasks,” IEEE/RSJ International Conference on Intelligent Robots and Systems, pp. 1075-1080.
[2] Frank kirchner, Joachim Hertzerg, “A Prototype Study of an Autonomous Robot Plaform for Sewage System Maintenance,” Autonomous Robots, Kluwer Academic Publishers, pp. 1-12, 2000.
[3] Erich Rome, Joachim Hertzberg, Frank Kirchner, Ulrich Licht, Thomas Christaller, “Towards autonomous sewer robots: the MAKRO project,” Urban Water, pp. 57-70, 1999.
[4] Shimon Y. Nof, Handbook of Industrial Robotics, 2nd Edition, Wiley, 1999.
268