kinhsamthatson.files.wordpress.com · phật di lạc giáng thế 2 bửu sơn kỳ hương m ục...

60
Phật Di Lạc Giáng Thế 1 Bửu Sơn Kỳ Hương Kinh Sấm Thất Sơn Phật Di Lạc giáng thế Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney tháng 12 năm 2016

Upload: others

Post on 30-Aug-2019

6 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Phật Di Lạc Giáng Thế 1 Bửu Sơn Kỳ Hương

Kinh Sấm Thất Sơn

Phật Di Lạc

giáng thế

Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney tháng 12 năm 2016

Phật Di Lạc Giáng Thế 2 Bửu Sơn Kỳ Hương

Mục lục

Thay Lời Tựa 3 Đức Huỳnh Giáo Chủ trở về 5 Tân Bình Ngô Đại Cáo 19 Báo Động Thiên Cơ 29 Thơ Gởi Cho Ai 31 Đại Bang Nam Việt 50 Nostradamus tiên tri Giặc Biển Đông và Đạo Phật Bửu Sơn 51 Chuyện Lạ Cái Răng Biết Nói 55 Lôtô Thượng Nguơn 57

Tới Đời đất hỡi trời ơi, Đông tây nam bắc ôi thôi tưng bừng.

Giặc giã lớn chưa từng ngó thấy, Chúng dùng nhiều khí giới kinh thiên.

Làm cho đất động trời nghiêng, Sanh linh chết chóc muôn thiên khó lường.

Thây lấp giáp BÌNH DƯƠNG biển lớn, Máu trôi đầy khắp chốn cùng nơi.

Còn chi mạng số người đời, Nếu không chưởng phước khó ngồi thế gian.

(Lời Vàng Trong Mộng, Bồ Tát Thanh Sĩ viết năm 1958)

Khắp thế giới cửa nhà tan nát, Cùng xóm làng thưa thớt quạnh hiu. Bấy lâu nay nuôi dưỡng chắt chiu, Nay tận diệt lập Đời trở lại. Khắp lê thứ biến vi thương hải, Dùng phép mầu lập lại Thượng Nguơn. Việc Thiên Cơ Khùng tỏ hết trơn, Cho trần hạ tường nơi lao lý. Lão nào có bày điều tà mị, Mà gạt lường bổn đạo chúng sanh. Đức Minh Vương ngự chốn Nam thành, Đặng phân xử những người bội nghĩa. Trung với hiếu ta nên trau trỉa, Hiền với lương bổn đạo rèn lòng… (Kệ Dân của Người Khùng, Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939)

Phật Di Lạc Giáng Thế 3 Bửu Sơn Kỳ Hương

Thay Lời Tựa

Tá bút đề thơ của Phật Ngài,

Của Ông Di Lạc chớ của ai. Phàm trần lầm tưởng còn chờ đợi, Chờ mãi rồi thôi luống ai hoài! Ngài đã giáng trần hỡi từ lâu, Dạy khuyên dân chúng lọc từng câu. Đặng sang trường lớp Ngài dạy đạo, Đủ căn trọn đức đắc đạo mầu. Muốn làm dân Phật nước Lạc bang, Cố gắng học tu bớ đạo tràng. Cực khổ quả nhồi ôi đừng kể, Mong cầu dứt nghiệp chốn trần gian. Đắm trần cõi Phật khó mà về, Học học tu hành vẫn còn mê. Mắt thấy tai nghe kề khó dứt, Trăm muôn sự khổ lãnh nặng nề. Phật hạ trần gian tự thuở nào, Tại người tưởng Phật ở ngôi cao. Có người có Phật nào ai rõ, Nay Bần chỉ đó ráng tu mau. Ai cũng muốn tu thấy Phật Vương, Ngài hạ trần gian để dọn đường. Khai mạc khởi đầu Long Hoa lập, Tam Tòa Thánh Chúa trị an khương.

Phật Di Lạc Giáng Thế 4 Bửu Sơn Kỳ Hương

Không dễ ai ơi khó mà nhìn, Trên trời dưới đất quá rộng thinh. Thần Tiên Phật Thánh đang lẩn lộn, Chỉ trông hiểu được lý văn kinh. Mênh mông biển thẳm quá rộng dài, TA đang tìm kiếm chẳng thấy ai. Người của Phật Trời đâu vắng bóng, Người Tiên của Phật chẳng thấy lai. Xúc động dòng châu lệ tuôn rơi, Chấp bút đề thơ dạ tơi bời. Gẫm trong lời lẽ TA mộc mạc, Người không hiểu lý tưởng nói chơi. Người ơi ráng sống hưởng Long Hoa, Hoa ở người ta chớ đâu xa. Hoa thơm lời lẽ ôi hiền đức, Nhụy ướp hương người tỏa gần xa. Tinh hoa người nở đó người ơi, Tinh tấn lo tu hưởng hoa trời. Mùa gần sắp đến hoa sẽ trổ, Người ráng vun hoa nhặt rồi ngơi !

Nam Mô A Di Đà Phật

Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh

(trích Phật Di Lạc Giáng Thế tr. 126-129, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 1998)

Phật Di Lạc Giáng Thế 5 Bửu Sơn Kỳ Hương

Đức Huỳnh Giáo Chủ trở về.

Bàn tay lật ngửa vậy mà, Chớ đừng lật sấp vì Thầy tái sanh.

Đi xa thì phải dặn rành… (Đức Huỳnh Giáo Chủ viết ở làng Nhơn Nghĩa {Xà No}, ngày rằm tháng 6 Canh Thìn 1940)

Trong cảnh Hạ Nguơn dầu sổi lửa bỏng, giặc giã khói lửa mịt mù, Bồ Tát giáng trần không có thì giờ nhàn rỗi ngồi uống trà run đùi ngâm thơ vịnh nguyệt. Mỗi hành động, mỗi lời nói của Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ đều khế hợp với thiên cơ đạo lý. Ngày 14-6- Canh Thìn (1940) tại làng Nhơn Nghĩa, Đức Thầy có làm thơ vịnh Hằng Nga dụng ý gởi một thông điệp quan trọng cho đệ tử hậu lai biết rằng Thầy sẽ mượn xác tái sanh thời cuối Hạ Nguơn như sau:

Thơ xướng.

Khen ai cắc cớ bấm trời tây, Từ cõi Niết Bàn Phật Tỉnh giấc HẰNG NGA khéo vẽ mày. Hằng Nga là mặt Trăng = Xác Nữ = xác Cô

Một phiến linh đinh trôi mặt biển, Tại sao xác Cô mà lại xưng Cậu?

Nửa vừng lửng đửng dán trên mây. và tại sao xưng Cậu mà lại là Cô?

Cá ngờ câu thả tơi bời lội, Người đạo thấy xác Nữ sợ đạo tà,

Chim tưởng cung trương sập sận bay. vội vã bỏ Thầy

Nên một nên hai còn bé tuổi, Mười lăm mười bảy bốn phương hay.

Thơ họa.

Mây hồng năm sắc ở phương Tây, Từ cõi Niết Bàn Phật

Sáng suốt Ô KIM bởi vẹn mày. Ô Kim nói lái là Kim Ô là mặt Trời = Hồn Nam = Đức Cậu

Miệng nhỏ tiếng to vang bốn biển, Trổi giọng đờn ngâm nga ca kệ

Lưỡi mềm lời lớn dậy rồng mây. truyền rao trầm bổng giọng Lôtô

Lòng trong Thánh Kệ tình bơi lội, Trò đừng sợ, chính Thầy trở về ứng khẩu thuyết

Dạ sạch Phật Kinh ý luyện bay. chánh pháp Kinh Phật

Dầu cho thân Mỗ thanh xuân tuổi, Thức giấc đời mê phải được hay.

Mở đầu bài thơ xướng bằng câu: Khen ai cắc cớ bấm trời tây, một chữ là một nhiệm mầu! Cụm từ cắc cớ có nghĩa là không thường,

Phật Di Lạc Giáng Thế 6 Bửu Sơn Kỳ Hương

lạ đời, dị kỳ, dị sự. Nhưng thật đó chính là dị pháp, diệu pháp huyền cơ. Chữ khen là điều tốt lành, ý nói điềm lành đến từ cõi Tây phương Cực Lạc {bấm trời Tây}. Chữ bấm nghĩa là bấm quẻ coi điềm lành cắc cớ đó là gì.

Câu thứ nhì giải đáp rõ: Tỉnh giấc Hằng Nga khéo vẽ mày, cụm từ Tỉnh giấc Hằng Nga, nghĩa là sau một thời gian vắng bóng, nay Đức Thầy tái thế mượn xác nữ {Cô = Hằng Nga}; cụm từ Tỉnh giấc ám chỉ sự tái sanh tái thế.

Cụm từ cắc cớ có cái lý đặc biệt là Đức Thầy tái thế thay vì như xưa nhiều lần mượn xác Nam, thì nay cắc cớ mượn xác Nữ, khiến phần đông bổn đạo không thể nào ngờ, không dè, mượn xác Cô mà tại sao xưng Cậu? {Kim Ô mà nói đảo ngược là Ô Kim}. Vì vậy họ lo sợ Ngài là tà ma và xa lánh, ví như cá sợ mắc lưỡi câu và chim sợ cung tên bắn.

Cá ngờ câu thả tơi bời lội, Chim tưởng cung trương sập sận bay.

Những chữ cá chim là những từ ám chỉ người trong bổn đạo. Vì nghịch cảnh, tà ma lộng hành, cắc cớ Đức Thầy về phải mượn xác nữ nhằm tạo điều kiện tiếp cận người đạo, nhưng lại khiến người đạo vô cùng bàng hoàng lo sợ, không những họ tránh xa Ngài, mà họ còn chê bai, khinh bỉ nhún trề…Chỉ có những ai đại căn mới hiểu được chuyện cắc cớ này! Đây là cơ sàng lọc tuyển chọn: Chấp tướng chấp danh là rớt!

Bài thơ họa cũng cho biết từ Tây phương Đức Thầy tái thế, khẳng định hồn linh Ngài là Ô Kim nói lái đảo ngược từ chữ Kim Ô nghĩa là Mặt Trời {Cậu}. Ngài tái thế mượn xác Người Thiện Nữ học hành chưa thông, ứng khẩu thuyết Phật pháp thiên cơ đạo lý thao thao bất tuyệt, ai muốn theo Ngài học đạo phải dùng tai nghe:

Miệng nhỏ tiếng to vang bốn biển, Lưỡi mềm lời lớn dậy rồng mây. Lòng trong Thánh kệ tình bơi lội, Dạ sạch Phật kinh ý luyện bay

Câu sấm: Sáng suốt Ô Kim bởi vẹn mày, tại sao không viết đúng là Kim Ô mà lại cố ý viết đảo ngược lại là Ô Kim? Đức Thầy dụng

Phật Di Lạc Giáng Thế 7 Bửu Sơn Kỳ Hương

ý là: Vì hoàn cảnh Hạ nguơn mạt pháp tà ma lộng hành, tùy cơ ứng biến Thầy về mượn xác Nữ {Cô} mà phải xưng là Cậu (Đức Cậu) để nhắc cho đệ tử nhớ rằng Thầy trở về, Cô Cậu, Cậu Cô; Ô Kim, Kim Ô. Phải chăng đây là trường hợp dị sự như Ông Ba Nguyễn văn Thới tiên tri:

Ai biết nước xuôi nuôi nước ngược, Bịnh căn vô dược được thọ trường. Dị thế dị thường tường dị lộ, Phật Trời cứu độ ngộ Phật Trời. Dị cư dị thời lời dị thuyết, Dị đoan dị tiếc kiết dị minh. Dị sự dị ninh linh dị pháp, Vô nhơn đối đáp pháp thinh không. Đức Thầy Đức Ông công Đức Cậu, * Hội Đồng cơ hậu đậu trào Minh. Phép phép linh linh ninh quốc sự, Nhơn dân vô lự tự an khương. An quốc an Vương khương thới nhạc, Di Đà Di Lạc đạt Vi Vô. (Kim Cổ Kỳ Quan, Cáo Thị 83: 85, Ông Ba Nguyễn văn Thới viết năm 1915)

Ông Ba Thới tiên tri gần ngày Tận Thế và Hội Long Hoa, sẽ có một đấng Bồ Tát xưng ĐỨC CẬU giáng trần với hành trạng nhiều đặc điểm: dị thế, dị thường, dị lộ, dị thuyết, dị pháp, dị cư, dị thời, dị sự, và hành đạo tưởng như dị đoan tà giáo, nhưng mà có phép mầu dị linh khiến người dân được an khương thời Di Lạc Phật Vương sắp tới. Thánh địa Di Lạc ở miền Nam VN.

Dị thế là Bồ Tát ra đời thuyết pháp nhằm thời ma chướng hoành hành; Dị thường là Bồ Tát có hành trạng kỳ lạ, ví như mượn xác Nữ mà xưng là Đức Cậu; Dị thuyết là thuyết pháp khác thường, khi ngâm nga ca hát, khi rao đờn, khi rao giọng lôtô; Dị pháp là pháp khác thường, kỳ lạ tưởng chừng như dị đoan nhưng có phép linh nhiệm mầu khó nghĩ bàn; Dị cư là Bồ Tát thuyết pháp mà mang hành trạng Cư Sĩ tại gia xưng khùng điên, không xuất gia ở chùa; Dị sự là Bồ Tát làm những chuyện kỳ cục khó hiểu, hư hư thực thực… Tất cả những điều dị kỳ đó của Đức Cậu kết hợp thành pháp linh rất mầu nhiệm.

Phật Di Lạc Giáng Thế 8 Bửu Sơn Kỳ Hương

Dị sự dị ninh linh dị pháp, Vô nhơn đối đáp pháp thinh không. Đức Thầy Đức Ông công Đức Cậu, * Hội Đồng cơ hậu đậu trào Minh.

***

Ý gì TIÊN TRƯỞNG muốn khuyên đời, * Mà đời lầm lạc lắm đời ôi! Đạo đức nhuốc nhơ mà sao đặng, Tỉnh giấc mau mau mới kịp thời! (Lộ Chút Cơ Huyền, Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939)

Say ngọc Bồ Đề đức hạnh cao, Say dân ngu muội tưởng điên nào. Say chừng nó biết TA TIÊN TRƯỞNG, * Say chén quỳnh tương chốn núi cao. (Say, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939) dè dè

Đêm dài dặn cạn dầu tiêm lụn, Chẳng thấy ai tìm kiếm Bóng TRĂNG.

Để làm cho mích bụng CHỊ Hằng, Nơi CUNG NGUYỆT chờ trông mõn dạ.

(Diệu Pháp Quang Minh, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1940)

Cuối Hạ Nguơn, Đức Thầy giáng trần mượn xác tái sanh với dáng Người Thiện Nữ ra đời truyền pháp, nhưng chẳng thấy ai tìm để học đạo, khiến Thầy buồn.

*** Thầy TIÊN môn đệ tục, Tiên Trưởng

Đạo chánh tín đồ tà; Cha hiền sanh con dữ, Tức bụng chị Hằng NGA.

Hằng NGA bóng vẫn sáng, Mặc dù nhiều mây áng; Khi ngọn gió thổi qua, Ánh TRĂNG huờn tỏ rạng.

Phật Di Lạc Giáng Thế 9 Bửu Sơn Kỳ Hương

Tỏ rạng là ánh TRĂNG, Mây không thể cản ngăn; Cản ngăn chỉ phí sức, Không thắng nổi CHỊ Hằng.

CHỊ Hằng soi thế gian, Cho kẻ tối thấy đàng; Không vì câu danh lợi, Vạn cổ vẫn minh quang.

Minh quang tánh của TRĂNG, Như minh quang đạo Hằng; Khoảng thế gian càng tối, Ánh quang minh càng tăng. (Lá Thơ Đông Kinh Q. 1, tr.132, Bồ Tát Thanh Sĩ viết ở Tokyo ngày 10-6-1964)

*** Phụ lục: Minh họa hành trạng Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ trở về.

Tưởng rằng CẬU ở lầu son, Con tìm gặp CẬU thon von châu mày.

Tưởng rằng CẬU ở lầu đài, Ai dè CẬU tợ ăn mày tả tơi.

Tưởng rằng CẬU ở ngôi trời, Xác thân đẹp đẽ tuyệt vời xa xa.

Ai ngờ như quỷ như ma, Nói đây đồng đạo cả nhà mến thương.

Tưởng rằng CẬU ở tòa chương, Đâu ngờ CẬU lại phơi xương biển hồ.

Tưởng rằng má phấn đắp tô, Ai dè ngó CẬU trầm trồ biết bao !

Ăn xin thân phận ngạt ngào, Xin ân xin đức đồng bào ráng cho.

Xin Thầy độ bữa cơm no, Thân Này khổ sở biển gò sang qua.

Tưởng rằng CẬU ở cung nga, Dè đâu không cửa không nhà dân ơi.

Phật Di Lạc Giáng Thế 10 Bửu Sơn Kỳ Hương

Tưởng rằng CẬU đã ngao chơi, Dè đâu vâng lịnh ngôi Trời phải lâm.

Tưởng rằng đeo đẳng vàng râm, Ai dè CẬU lại giả câm giả khùng. Tưởng rằng CẬU lại anh hùng,

Dè đâu CẬU khổ Cậu khùng ngày nay. Bá gia bá tánh an bài,

Nhắc cho đồng đạo ngày nay đặng nhờ. Tưởng rằng CẬU hãy tôn thờ,

Ai dè trôi dạt bên bờ sông dương. Thôi thôi từ giã muôn đường,

CẬU cười ba tiếng dân nhường cùng nhau. Cười rằng cơm đói cháo rau,

Một ngày một bữa chùi lau vui vầy. Cười rằng mất chức mất thầy,

Mất nhà mất cửa giờ này tan hoang. Cười rằng dân chúng trần gian,

Thật là ngu muội giang san trôi rồi. Cười rằng dân chúng ôi thôi,

Tại đời bạc bẽo như vôi kia kìa. Cười rằng dân tộc rẽ chia,

Cười rằng không thức canh khuya sưu tầm. Cười rằng dân chúng còn lầm,

Lầm TA xuống thế tay cầm ngọc châu. Lầm TA ở chốn đảnh đầu,

Dè đâu mượn xác công hầu bày khai. Lầm TA lại hỡi con trai, *

Hay là con gái ngày mai rồi tường. Lầm TA phải chịu oan ương,

Nói đây cô bác đoạn trường biết bao ! Hằng Nga - Cô Thôi thôi kính chúc đồng bào, Ô Kim - Cậu

Buổi chiều CẬU nói ngạt ngào vô biên. Ở đây kính chúc đạo hiền,

Chúc cầu anh chị bốn miền âu lo. Thôi thôi đừng sợ đói no,

Ráng tu ráng sửa qua đò nay mai.

Phật Di Lạc Giáng Thế 11 Bửu Sơn Kỳ Hương

Biết rằng đời tục không lai, Đời Tiên gần đến nay mai rồi tường. Thôi nghe CẬU ráng nhẫn nhường,

Nhẫn người qua được đoạn đường thoát nguy. Nhường người mở lối ta đi,

Đừng sợ ai có khinh khi chi mình. Cứ tu CẬU lại cầu xin,

Cầu xin cho chúng rửa mình sạch trong. Đừng tưởng CẬU ở non bồng,

Cậu ở dưới thế toại lòng cùng nhau. Tu xin bá tánh ngạt ngào,

Gởi thơ thăm hết đồng bào bốn phương. Thôi thôi bút mục phô trương,

Khùng Điên tỏ hết đoạn trường canh thâu. Nói ra bút mực đôi câu,

Gởi cùng Bần Sĩ ngõ hầu tâm nao. Kính thưa anh chị Kinh Đào,

Buổi chiều CẬU viếng đồng bào CẬU thăm. Thấy người cũng được thâm tâm,

Vui mừng CẬU lại nhiều năm tuyệt vời. Nay mai CẬU sẽ xa vời,

Giã từ đồng đạo đôi lời cậu khuyên. Giã từ ĐỨC CẬU Khùng Điên,

Đặng mà CẬU lái con thuyền ra đi. Giã từ đôi khúc ai bi,

Chừng nào trở lại ra thi bớ trò. Thi rằng nơi chốn ráng lo,

Ráng lo cầu nguyện CẬU cho sau này. Ráng cầu nguyện Phật nguyện Thầy, Đặng CẬU về tới sửa xây cho mình.

CẬU đi bá tánh chúng sinh, Không cầu đi mãi rung rinh cửa trời.

Giã từ đồng đạo nơi mơi, Cậu đi nơi khác tuyệt vời kính khuyên.

Giã từ đồng đạo vô biên, Đến thăm một chút sĩ hiền rõ chưa ?

Phật Di Lạc Giáng Thế 12 Bửu Sơn Kỳ Hương

Rõ rồi sớm muối chiều dưa, Rõ rồi ĐỨC CẬU mới đưa thơ đề.

Rõ rồi ĐỨC CẬU mới về, Rõ rồi ĐỨC CẬU mới kề thi văn.

Giã từ sự khổ khó khăn, Lui thuyền trở lại sáng trăng trong lòng.

CẬU về nơi cõi rừng tòng, Hay là ven biển mênh mông đại ngàn.

Thuyền kia qua lại rước ngang, Thôi thôi từ giã đạo tràng bình yên.

Chúc cho bá tánh thị thiềng, Thật là vô lượng vô biên chỗ này.

(trích mặt B băng cassette ghi âm Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết pháp ở Kinh Đào, kết tập sách Phật Di Lạc Giáng Thế tr. 119-123, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 1998)

Trong những thập niên 80-90, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh âm thầm len lỏi qua những vùng như Cần Giờ, Cần Đước, Rạch Giá, Giồng Riềng, Kinh Đào, Phú Thuận, Vàm Cống… ; Đức Cậu đến nơi nào thuyết pháp, đồng đạo dùng máy cassette ghi âm. Nhờ vậy mà hàng trăm băng thuyết pháp của Đức Cậu được đồng đạo chuyển đi khắp nơi truyền bá từ trong nước ra hải ngoại.

Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh xuất thân không học, viết không rành văn tự, ứng khẩu thuyết pháp, đúng như lời tiên tri của Đức Phật Thầy Tây An :

Niên như điển, nguyệt như thoi, Vần xây thế giới luân hồi chẳng chơi.

Có Người Thiện Nữ truyền lời, Nhứt vân thiên lộ máy trời thinh thinh.

…………………………………………………………

Non đoài giữ dạ tín thành, Thầy cho CƯ SĨ học hành chưa thông.

Anh em ai có phục tòng, Theo TÔI học đạo phải dùng tai nghe.

(Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An tr. 103 & 109, lưu ở đình Tòng Sơn năm 1849, Nguyễn văn Hầu biên khảo ấn tống năm 1973)

Phật Di Lạc Giáng Thế 13 Bửu Sơn Kỳ Hương

Người chấp tướng không thể nhìn ra hành trạng Đức Thầy trở về. Vì họ nghĩ rằng Thầy trở về với tướng nam oai phong ngồi trên chín bệ cao sang, chớ đâu ngờ Thầy hóa thân Bồ Tát làm thân lươn chui dưới bùn sình để độ chúng sanh. Vì nghịch cảnh, tà ma lộng hành, Thầy thay hình đổi dạng biến hóa ẩn trong xác nữ dốt để dễ tiếp cận người đạo. Trong sấm giảng Thầy dặn rằng:

Ra đi dặn lại ít lời, Khuyên trong bổn đạo vậy thời ráng nghe.

Dầu ai tài phép bày khoe, Ham linh ham nghiệm sợ e mang nghèo.

Lựa cho phải cột phải kèo, Phải vai phải vế mà theo kẻo lầm.

Ngọc kia ẩn dạng khó tầm, * (1) Chọn nơi chơn chánh khỏi lâm khổ hình.

(Dặn Dò Bổn Đạo, Đức Thầy viết ở Hòa Hảo tháng 2 Canh Thìn 1940, chép theo bản chánh do ông Nguyễn Chí Diệp giữ, Giáo Hội PGHH ấn hành năm 1965)

Câu Ngọc kia ẩn dạng khó tầm, ám chỉ Thầy trở về để ra đề thi phá chấp tướng. Thầy trở về ẩn tướng, mượn xác nữ dốt, viết không rành văn tự. Ví như viên ngọc quý ẩn trong tảng đá thô sơ, chỉ có người thợ ngọc tài giỏi mới có thể biết được viên ngọc quý ẩn trong đá. Thầy trở về ẩn trong tướng nữ dốt thuyết pháp, chỉ có người đạo nào thuần thành mới có thể nghe và hiểu được lời vi diệu của Thầy, ví như chỉ có người tri âm như Tử Kỳ mới có thể nghe và thấu hiểu được tiếng đờn Bá Nha trên bến Hàm Dương. ____________________________________________

(1) Đời Chiến Quốc có người ở nước Sở họ Biện tên Hòa, lên núi Kim Sơn lấy được viên ngọc phác {tức là ngọc còn ẩn trong đá} đem về dâng lên vua Lệ Vương. Vua bảo thợ ngọc xem, thợ xem rồi tâu đó chỉ là đá. Vua khép tội khi quân, chặt chân bên trái của Biện Hòa. Đến đời Võ Vương, Hòa lại đem ngọc phác ấy dâng lên vua lần nữa. Vua Võ Vương cũng bảo thợ ngọc coi, và cũng lại khép Biện Hòa về tội dối gạt vua, và bị chặt nốt chân bên phải. Đến đời Sở Văn Vương, Hòa lại muốn đem ngọc phác dâng lên vua, nhưng vì 2 chân đều đã bị chặt cụt, không thể nào đi được, đành phải ôm ngọc mà khóc ròng rã 3 ngày đêm đến nỗi mắt chảy ra máu! Có người hỏi, thì Biện Hòa đáp không phải vì muốn được vua thưởng mà đem

dâng ngọc, nhưng quá đau khổ vì ngọc mà bảo là đá, ngay mà bị khép tội là gian đó

thôi! Vua Sở Văn Vương nghe chuyện, bảo thợ ngọc phá viên đá ra xem, thì trong đá

có viên ngọc rất quý, ngọc tốt không tì vết. Chừng đó nỗi oan của Biện Hòa mới được

giải tỏa.

Phật Di Lạc Giáng Thế 14 Bửu Sơn Kỳ Hương

Thân KHÙNG đêm vắng khóc thầm, Ông Đạo Khùng

Cựa mình cũng nhớ giấc nằm nào an. Từ nay cách biệt xa ngàn,

Ai người tâm đạo đừng toan phụ Thầy. Giữa chừng đờn nỡ dứt dây, (1)

Chưa vui buổi hiệp bỗng Thầy lại xa. Tỉnh say trong giấc mộng hoa,

Mơ màng cũng tưởng như TA bên mình. ……………………………………………………………..

Tới đây từ biệt khắp cùng, Thầy báo trước

Thầy lìa khỏi xác Thiên Cung phản hồi.* đêm 16-4-1947

(Từ Giã Bổn Đạo Khắp Nơi, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1940 tại Hòa Hảo)

* Câu sấm: Thầy lìa khỏi xác thiên cung phản hồi, ám chỉ sự cố súng nổ đêm 16-4-1947 ở Đốc Vàng thuộc tỉnh Long Xuyên.

(1) Cụm từ đờn nỡ dứt dây, chữ dứt nghĩa là tạm dừng khi Thầy vắng bóng một thời gian, khi nào Thầy trở về, Thầy sẽ tiếp tục khảy đờn tìm lại người đạo, ví như Bá Nha ước hẹn ngày trở lại bến Hàm Dương khảy đờn tìm lại bạn tri âm Tử Kỳ.

… Đờn kêu rụng rớt xóm làng, Đầy đường đầy đống tràn lan bớ trần.

Đờn kêu hao hớt bao phần, Vậy mà không biết rần rần làm chi.

TA đờn khúc hát lâm li, Đờn kêu thông báo dị kỳ ác ôn.

Đờn kêu đừng có bôn chôn, Tới đây lấp biển dời cồn biết không.

Đờn kêu rộ rộ rần rần, Đờn kêu sắp đến giặc Tần băng sang.

Đờn kêu kéo dọc kéo ngang, Rọi rồi thấy đó lân bang khóc ròng.

Đờn kêu TA quá não nồng, Nức nở tấm lòng mới vội đờn ra.

Đờn kêu quyết liệt vậy mà,

Phật Di Lạc Giáng Thế 15 Bửu Sơn Kỳ Hương

Tay chơn run rẩy Thân Già biết sao! Cậu đờn dân ráng mà trau, trau giồi

Đờn kêu tấc đất ngọn rau không còn. Đờn kêu núi nọ còn mòn,

Biển hồ sắp cạn người còn hay không? Đờn kêu ứng hiện Tây Đông,

Trời rơi lệ, Phật khóc ròng sầu bi! Cậu đờn lẳn tẳn lì ti,

Đờn kêu mọi việc sự gì cũng ra. Đờn kêu ơi hỡi từng nhà,

Khôn ngoan lập đức sau mà nhờ thân. Đờn kêu rộ rộ rần rần,

Đờn kêu sau cuối mới cần Phật Tiên. Đờn kêu đến sự không hiền,

Rồi đây sắp loạn tứ phiên ạt ào. Đờn kêu cung cấm sang giàu,

Khôn rồi ráng lánh ráng nào nhờ thân. Đờn kêu bảy nhựt tối tân,

TA ngồi tính lại giờ gần không xa. Đờn kêu ơi hỡi vậy mà,

Đờn Trời TA khảy thiết tha dạn dày. Đờn kêu chúng gấp tranh tài,

Trời đà định việc trong ngoài thí nhau. Đờn kêu Đức Cậu ráng rao,

Cuồng điên sắp tới ba đào bủa vây. Đờn kêu động tới cội Thầy,

Tiếng đờn đâu có sợi dây bớ trần. Đờn kêu xa lại kêu gần,

Kêu rằng sắp bị giặc Tần sang Nam…

(trích mặt B băng Mùa Hè năm Dê, do Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết năm 2002, Tiếng Đờn Đạo Khùng tr. 4-5, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống)

Phật Di Lạc Giáng Thế 16 Bửu Sơn Kỳ Hương

…Tình duyên gặp gỡ muôn thuở nào phai, Lô tô một bài tặng ban đồng đạo. Giờ này TA thảo bút nọ TA nghiên, Thương kẻ cuồng điên tới Đời không biết. Từ đây TA thuyết để lại một bài, Chúa Thánh lập Đài ra tay trừng trị. Ai người dũng sĩ có trí ráng tường, Phong cảnh thê lương dọn đường cho gấp. Chớ rồi Trời sắp thanh toán nợ nần, Tất cả hầu gần Các Lân cũng rụi. Thương thay Chú Cuội ngồi Gốc Đa Già, Gốc Đa Già= Đạo Phật vô vi

Khổ sở kia cà ôm mơ Hằng mộng. Bổn đạo ngóng trông Phật Thầy Thấy rồi nghiệp cộng sinh chúng liên miên, Tận thế cận kề

Chú Cuội như điên mơ màng TRĂNG sáng. Chờ Thầy về

Thấy rồi quý đáng không biết làm sao, Chú Cuội khóc gào CHỊ Hằng đâu mất. Chú Cuội= Bổn Đạo Thật là tin tấc {tức} những chuyện lạ kỳ, CHỊ Hằng = Đức Thầy Cậu nói vô vi trong bài mầu nhiệm. Hiểu rồi ráng kiếm có hiếm nghe dân, Rộ rộ rần rần Cậu phân rồi biết. Bài này Cậu thuyết đạm bạc buổi trưa, Phú Thuận nên chừa ngăn ngừa tất cả. Thì rồi hối hả xem đạo ra sao, Ngăn ngỏ đón rào từ đây mới thấy. Bài này mành giấy ký bút nên thơ, Sự tới bây giờ tràn bờ như thác. Mượn danh Bồ Tát Cậu tá hồng trần, Ở đây nhiều phần mau mau dẹp dọn. Từ rày cả bọn sắp tới kia kìa, Chắc ta phải lìa chia hai tất cả. Luận bài rồi đã lý nọ càng phân, Kêu bớ người dân Tân Dân gần đến. Thuyền cầu cặp bến Cậu gởi đến xem, Kêu chị kêu em đừng thèm nghĩ nữa. Binh trời khói lửa cháy giữa không gian, Thế Chiến Ba

Phật Di Lạc Giáng Thế 17 Bửu Sơn Kỳ Hương

Sự thế rõ ràng lan tràn sắp tới. Khắp miền thế giới bốn biển năm châu, Nó cũng luận hầu xây đầu hết trọi. Ngọc Hoàng đang gọi tụi nó bó tay, Ray rứt không hay nước nào cũng đánh. Có CHIM vổ cánh thì nó tung tăng, chim = Chiến đấu cơ và hỏa tiễn nguyên tử

Thấy khổ khó khăn lăng nhăng hết trọi. Chắc rằng không khỏi tôi mọi chúng sinh, Cậu nói thất kinh ráng nhìn cho kỹ. Từ đây anh chị chắc bị câu lưu, Cậu nói nó thù người tu quá sức. Ráng về lập tức triệu ức bỏ mau… từ bi bố thí giải nghiệp mới kịp thoát đại nạn sắp tới

(Hằng Nga Sấm Truyền tr. 26-27, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết ở Phú Thuận ngày 28-3-Tân Mùi 1991, kết tập băng Phú Thuận 3, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2007)

Sống để coi nếu ai nói đúng, Mùi Dậu Thân rơi rụng đầy đường. Con Gà bay chẳng qua mương, Chưa hết năm Dậu 2017

Tí te tiếng gáy vấn vương não sầu! Thế giới tan nát vì bom nguyên tử!

(Thiên Lan Khảo Bút tr. 27, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh thuyết, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống)

Quân Tàu coi đông đảo hung hăng vậy mà ăn không hết một con Gà! Nghĩa là chưa hết năm Gà 2017, Mỹ và đồng minh đánh tan Trung Quốc dẫn đến Tận Thế. Ráng sống coi lời tiên tri đúng vậy hay không!

Lời bình: Muốn thấy Đức Thầy trở về, phải có cái tâm không chấp trước, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm! Bài thi này khá cao, không trách vì sao phần đông tín đồ của Đức Thầy không nhận ra Thầy trở về, mà cứ chờ mãi, và chờ mãi…. Nếu không có người lãnh sứ mạng giảng giải, sẽ bí cơ, bế tắt. Nhiều kẻ nói Đức Thầy bị gạt trong đêm 16-4-1947 ở Đốc Vàng, nhưng không ngờ Thầy đã biết trước tất cả. Ngay trong đêm 16-4-1947 ở Đốc Vàng, Đức Thầy đã ký thác cho Việt Minh đánh 3 cuộc chiến: chống Pháp, Mỹ và Tàu {chữ ký Bát Môn Đồ Trận}. Thầy biết sau cuộc chiến chống Pháp, còn cuộc chiến khốc liệt chống Mỹ, rồi chống Tàu càng khốc liệt hơn nữa! Dân tộc VN phải trả quả bằng 3 cuộc chiến; và riêng Đức Thầy {hậu kiếp Đức Trạng Trình}, phải bị Bửu Vinh chặt làm 3 khúc để trả cái quả vì ngày xưa Trạng Trình lập kế cho Nguyễn Hoàng trên đường Nam tiến với câu sấm bất hủ: Hoành Sơn nhất đái

Phật Di Lạc Giáng Thế 18 Bửu Sơn Kỳ Hương

vạn đại dung thân, Thầy trả cái quả 3 chủng tộc bị nhà Nguyễn diệt chủng gồm có dân tộc Chàm, Thủy Chân Lạp, và Tây Nguyên. Luật nhân quả thật là sòng phẳng. Đức Thầy thuyết trong quyển Khuyến Thiện:

Luật nhân quả thật là cao viễn, Suốt cổ kim chẳng lọt một ai. Thật vậy, Đức Thầy là Bồ Tát giáng trần cứu thế cũng phải trả quả vào Đốc Vàng cho Bửu Vinh chặt 3 khúc đêm 16-4-1947. Sau khi cả dân tộc VN trả quả bằng 3 cuộc chiến chống Pháp, Mỹ, và Tàu, thì giống Hồng Lạc mới thấy thái bình vĩnh cửu trong thời Di Lạc sắp tới. Đức Thầy thuyết:

Thiên cơ ai dám nói thừa, Mà trong bá tánh chẳng ưa Điên Khùng!

(Khuyên Người Đời Tu Niệm, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939)

Đừng ham làm chức nắc nia, Ngày sau như khóa không chìa dân ôi!

Tu hành như thể thả trôi, Nay lở mai bồi chẳng có thiền tâm.

Mưu sâu thì họa cũng thâm, Ngày sau sẽ biết thú cầm chỉn ghê.

Hùm beo tây tượng bộn bề, Lại thêm ác thú mãng xà rít to.

Bá gia ai biết thì lo, Gác tai dèm siểm đôi co ích gì.

Hết Tây rồi đến Huê Kỳ,* Sưu cao thuế nặng vậy thì thiết tha!

Dân nay như thể không cha, Chẳng ai dạy dỗ thiệt là thảm thương!

(Khuyên Người Đời Tu Niệm, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939)

Ghi chú: Câu sấm: Hết Tây rồi đến Huê Kỳ, bị chánh quyền Bảo Đại thời Pháp kiểm duyệt, bắt buộc phải sửa lại là: Hết Đây rồi đến Dị Kỳ. Sau khi sửa chữ Tây thành Đây, và chữ Huê Kỳ thành Dị Kỳ, giáo hội mới được phép ấn hành để phổ biến cho đồng đạo. Luật Thiên Điều là: Bôi sửa kinh sấm đáng tội đày địa ngục. Cụm từ khóa không chìa ám chỉ năm 1975, người bị nhốt vào tù {trại cải tạo} nhưng không biết thời hạn ngày ra tù.

Chữ ký Bát Môn Đồ Trận của Đức Huỳnh Giáo Chủ đêm 16-4-1947 ở Đốc Vàng.

Nét số 3 cắt ngang giữa chữ S tiên tri ám chỉ vĩ tuyến 17 chia hai đất nước năm 1954 ; nét 4 và 5 là chữ O mỏ dầu Biển Đông, và những nét 6,7,8 ám chỉ trận chiến Biển Đông sắp tới. Nét số 3 là hai cuộc chiến chống Pháp và Mỹ (Tây U) ; những nét còn lại là cuộc chiến chống giặc Tàu sắp tới. Chữ ký của Đức Thầy là biểu đồ gồm cả 3 cuộc chiến chống Pháp Mỹ Tàu.

Phật Di Lạc Giáng Thế 19 Bửu Sơn Kỳ Hương

Tân Bình Ngô Đại Cáo. (Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh thuyết thập niên 80)

Trong đêm Cậu giảng trút cạn đôi lời, Chúc hết mọi nơi vẹn bề thanh tịnh. Từ đây đừng dính bụi bám chi nhiều, Đất nước hoang liêu buổi chiều sương tuyết. Đời đà quá kiệt dân biết không dân, Nói xa nói gần nói tần nói tảo. Nói cho người đạo trí thức được nghe, Xuân hết tới Hè ra tre mà ở. Tam Giác Chiến Lược Trung Quốc ở Biển Đông

Về đi trả nợ ráng nhớ đừng buồn, Bần Sĩ điên cuồng đêm nay mới nói. Bạc mo bạc gói ỉa ói hết trơn, Ráng giữ đừng sờn keo sơn chặt chẽ. Tâm lòng mát mẻ vui vẻ mới tồn, Bao sự dập dồn từ đây sắp tới. Hoàn cầu thế giới bốn biển năm châu, Nó cũng đau N

Nó cũng đau sầu từ đây sẽ thấy. Sa vào cạm bẫy lại với chông gai, Thanh tịnh ra bài lô tô Cậu gởi. Cậu chờ Cậu đợi biết mấy đông xông, Chúc hết chị ông Mây Rồng Phật mở. Nếu ai thiếu nợ ráng trả cho rồi,

Nứt nắp bể nồi chạy dài hết ráo. * Cậu về Cậu cáo với lịnh Ngọc Hoàng, Mau xuống hạ san phạt đàn ma quỷ. Để chi thế kỷ báo quá hiền lương, Dày dạn gió sương trăm đường chi xiết. Từ đây ráo riết tát cạn biển khơi, Cậu nói mà chơi không lời không vốn. Không thua không tốn nguy khốn cận kề, Nói chút Cậu về Cậu đâu có ở. Lấy ai nâng đỡ dạy dỗ cho trò, Tu hành không lo bòn tro đãi trấu. Từ đây nguyện thấu ở lịnh Thiên Vương

Tam Giác Chiến Lược Trung

Quốc trên Biển Đông là vùng

biển rộng bao gồm ba quần đảo

Hoàng Sa, Trường Sa, và bãi cạn

Scarborough, hình tam giác nối

liền ba điểm quan trọng khống

chế toàn khu vực Biển Đông.

Vậy phải chăng Tam Giác Chiến

Lược ấy chính là đầu mối tai

họa chiến tranh sắp xảy ra trên

Biển Đông đưa đến Thế Chiến

Ba?

* Câu sấm quan trọng: Nứt

nắp bể nồi chạy dài hết ráo,

thiên cơ bất khả lộ, Bồ Tát phải

nói mẹo bóng gió, nói cái này

ám chỉ cái kia, dương đông

kích tây; cụm từ bể nồi ám chỉ

cái chết của người lãnh tụ

cường quốc gây chiến Biển

Đông. Khi thấy xảy ra sự cố bể

nồi, bá gia biết là ngày tận thế

đến. Nghĩa là cuộc chiến đưa

đến kết quả tất cả đều thua:

…chạy dài hết ráo. Câu sấm

viết: Nứt nắp bể nồi chạy dài

hết ráo!

Phật Di Lạc Giáng Thế 20 Bửu Sơn Kỳ Hương

Thấy khổ nhiều đường đau thương gấp mấy. Sang năm rồi thấy anh chị em ơi, Cậu chẳng nói chơi đôi lời nói thiệt. Nói ra đời kiệt rồi với đời tàn, Nói xóm nói làng nói sa nói ngã. Nợ kia phải trả đạm chớ có vay, Đêm vắng ngày dài từ đây rốt ráo. Ai người có đạo Phật chở Trời che, Cậu thấy sợ e đồng bào chết đói. Ba mo bảy gói Cậu thấy cũng tàn, Đổi xóm đổi làng đổi quan đổi chức. Đổi ơi cho khuất đừng có mà còn, Đổi núi đổi non bà con đổi hết. Chắc rằng phải chết cho hết Hạ Nguơn, Tu tịnh đừng sờn keo sơn ráng giữ. Bền lòng hai chữ thi cử đắc thân, Nói xa nói gần nói Tần mới đến. Gởi cùng cảm mến anh chị đông xông, Ráng nhớ mà trông một lòng mới được. Thuyền trời nước ngược đạo sĩ ráng bơi, Chẳng được lả lơi kêu Trời giậm đất. Từ đây sắp mất của cải vàng muôn, Mắt lệ sắp tuôn ngồi buồn thê thảm. Cậu đâu có dám bụi bám làm sao, Tiếng nói Cậu rao đồng bào xa lạ. Ráng tu đừng ngả trôi chả mất rồi, Đổi núi đổi đồi giang sơn biển hải. Nghe rồi đừng cãi van vái mau lên, Gặp Phật dựng nền gặp Vua gặp Chúa. Từ đây tài của sự sản cũng tan, Hết MỸ tới Nga hết Tàu tới Thổ. * Nó tìm đủ chỗ nó đến Việt Nam, Nó luận nó đàm nó đua nó lấn. Nếu ta tinh tấn chẳng sợ đâu đâu, Có Phật ngôi lầu chứng minh tất cả. Từ đây phải rã phải trả đất đai,

Phật Di Lạc Giáng Thế 21 Bửu Sơn Kỳ Hương

Hãy cố mà hay ra bài chặt chẽ. Chúc cầu mát mẻ cô bác chỗ này, Cậu chẳng phải Thầy ở đây luận giảng. Trút thơ thăm bạn biệt dạng bớ trò, Đói khổ đừng lo giàu to sợ lắm. Từ đây mua sắm Cậu thấy uổng công, Nó bắt cạo lông của đồng cũng giựt. Thấy rồi nồng nực các bực anh tài, Cố gắng một ngày mau mau sắp tới. Người tu vì bởi nghiệp quả oan khiên, Ráng nhớ Cậu điên Cậu buồn Cậu điếc. Cậu cho mà biết đời tiệt hoang vu, Kêu hết người tu từ đây sắp đến. Gởi cùng đạo mến ăn ở phương xa, Nói Cậu về nhà kính thăm đồng đạo. Tay thơ bút thảo Cậu nói lô tô,

Nước MỸ sắp vô nước Miên sắp đánh*

Nếu ai có tánh hãy hiểu cực kỳ, Khắc khổ ai bi li bì xiêu ngả. Giành thôi cha chả chẳng biết làm sao, Giựt Chúa giựt trào giựt nào bửu bối. Chắc rằng thắng thối sống mới tường tri, Cậu nói làm chi việc gì của đó. Nhưng mà sáng tỏ đặng biết thiên cơ, Nói ngu nói khờ nói bờ nói bụi. Đánh nhau hè hụi một buổi sẽ thành, Nó giựt nó giành đài châu bửu báu. Nhưng mà xốc xảo người đạo hưởng ân, Nói xa nói gần nói Tần gần bước. Nói thôi cho được mấy lượt đăng san, Giàu khổ cơ hàn đói cơm khát nước. Nghèo ta làm phước sau được ấm no, Trời Phật ban cho có đò qua biển. Đủ tài trình diện Phật hiện lưới trần, Đủ các toàn phần đua chen đấu pháp.

Phật Di Lạc Giáng Thế 22 Bửu Sơn Kỳ Hương

Mưa ngâu gió táp Cậu thấy rõ ràng, Các nước lân bang từ đây sắp tới. Hoàn cầu thế giới Cậu thấy đảo điên, Thấy rõ chẳng yên thấy hiền thấy dữ. Bảo trò thi cử hai chữ từ bi, Đừng nói nữa chi hãy đi tu sửa. Chắc rằng binh lửa thiêu đốt địa cầu, Bốn biển năm châu co đầu hết trọi. Cậu làm tôi mọi tất cả quần sinh, Nấu sử sôi kinh tâm tình cốt nhục. Đêm nay nói chút mai mốt Cậu hồi, Sự đến đây rồi sự tồi sự bại. Ai khôn ở trại ai dại ở nhà, Sự tới kia cà dân đâu có rõ. Người nào kheo mỏ rồi đến múa môi, Chắc lẽ phải trôi bẩn tồi thiêu hủy. Thấy rồi niên kỷ Cậu chỉ cho tường, Đốt phố cháy phường đoạn trường ghê gớm. Đánh làng đánh xóm ghê gớm thiết tha, Giết mẹ giết cha giết anh giết chị. Từ đây chắc bị trả quả lộn nhau, Tu tịnh một màu ôi thôi một sắc. Giờ này Cậu bắc cho được nhịp cầu, Cậu chứng canh thâu từng câu cầu nguyện. Ráng đi thực hiện cứu vớt người lành, Tâm dạ an thanh từ bi sẽ hiểu. Đôi lời Cậu biểu dân chúng tường tri, Nói rồi Cậu đi ở nơi chỗ khác. Tự tha tự giác mới thấy nhiệm mầu, Bốn biển năm châu co đầu hết ráo. Cậu về Cậu cáo với lịnh Phật Vương, Thấy vậy mà thương nhiều đường lắt léo. Có tròn có méo có khéo cũng tan, Có bạc có vàng từ đây cũng mất. Có tài có vật Cậu thấy cũng trôi, Có chức có ngôi từ đây cũng rã.

Phật Di Lạc Giáng Thế 23 Bửu Sơn Kỳ Hương

Nói cho cha chả không biết nói gì, Điên dại từ khi từ đây Cậu dặn. Nơi miền lội lặn thăm kính đồng bào, Cậu chẳng sợ hao thân tàn cốt hủy. Ở trong niên kỷ Cậu mới ra bài, Kính thăm quý Ngài chỗ này vĩnh viễn. Ráng cầu Phật hiện độ hết trần gia,

Là con số 3. (Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết thập niên 80, kết tập sách Sấm Giảng Đạo Khùng tr. 89-94, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2002) .

Phụ lục:

…Kỳ này thi cử đấu chiến thứ ba, Lấp biển giang hà đem ra tranh đấu. Ai gìn chốt mấu mới sẽ tồn lai, Tranh pháp tranh tài mấy ai có thấy. Từ rày lừng lẫy ơi hỡi đông phương, Cậu thấy tận tường dọn đường cho Phật. Chắc là không trật đấu phép tranh tài, Thử coi ai hay thắng không hay bại. Ai khôn ở trại ai dại ở nhà, Nó tới kia cà người đâu có rõ. Cứ xài múa mõ lại với khua môi, Chợ Lớn hết vôi Cậu rồi về trển. Bây giờ khổ sở Cậu ở khuyên lơn, Anh chị thua hơn có hờn cũng vậy. Người đâu có thấy cạm bẫy gai chông, Đánh bạc đánh đồng đánh trong chút nữa. Đánh cho khói lửa nghiêng ngửa địa cầu, Đánh cồn đánh dâu nó đâu có để. * * Đánh để giành giựt cồn đảo trên Biển Đông.

Kỳ này không dễ con số nào ra,

Là con số 3. (Trích băng ghi âm do Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết pháp thập niên 80, kết tập sách Thượng Đế Thưởng Phạt tr. 77-78, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2001)

…Ai ai nấy giữ xác sạch linh hồn, Bảy nhựt thiên môn tối tăm trời đất. Một còn một mất dân tộc trầm kha,

Phật Di Lạc Giáng Thế 24 Bửu Sơn Kỳ Hương

Cậu nói Cậu la Cậu gào Cậu thét. Từ đây trời quét dẹp dọn hồng trần, Tỉnh ngộ bớ dân rần rần rồi đó. Đừng nên la ó Cậu lại buồn hiu, Các chỗ Cậu kêu chắc tiêu hết ráo. Cậu về Cậu cáo với lịnh Phật Trời, Đặng gấp vậy thời lập đời cho sớm. Tiêu đi ghê gớm lũ quỷ tà yêu, Để cảnh để kêu mai chiều khốn khổ. Long Hoa gần trổ Cậu nói tiếp ra,

Là con số 3. (trích băng ghi âm do Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết năm 1989 ở Chợ Vườn Chuối Sài Gòn, kết tập sách Tinh Hoa Đàn Kinh tr. 142, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2000).

Con Số 3 thường thấy xuất hiện cuối những bài sấm Lô Tô do Đức Cậu Bần Sĩ ứng khẩu thuyết, chắc là có lý thiên cơ quan trọng. Vậy con số 3 ám chỉ đồ trận hay năm tháng gì đó, chưa ai hiểu được. Mong chư vị cao minh thử lượng thiên cơ nhắm coi chừng nào sự cố xảy ra liên hệ

đến con số 3. Kết quả cuộc chiến đưa đến Tận Thế, câu sấm viết: Nứt nắp bể nồi chạy dài hết ráo, nghĩa là tất cả đều thua! chạy dài hết ráo! Thiên Cơ bất khả lậu, Bồ Tát nói thiên cơ phải nói bóng gió quanh co, nói mẹo, nói cái này ám chỉ cái kia, dương đông kích tây.

Cụm từ bể nồi ám chỉ bể cái gì? Cụm từ bể nồi là thuật ngữ thiên cơ ám chỉ cái chết của người đứng đầu cường quốc gây ra cuộc chiến Biển Đông.

GÁNH HÁT BÌNH DƯƠNG.

Sách Thất Sơn Mầu Nhiệm có chuyện Sấu Thần (còn gọi là Ông Năm Chèo). Sau này khi thế giới phong ba biến chuyển, Sấu Thần nổi dậy gây cảnh chết chóc hãi hùng. Sấu Thần ám chỉ khi nước Tàu hùng mạnh tranh giành ngôi vị cường quốc độc tôn bá chủ hoàn cầu thay thế Mỹ. Cuộc đối đầu giữa Tàu và Mỹ gây ra trận chiến kinh hoàng, như Bồ Tát Thanh Sĩ từng diễn tả trong quyển Lời Vàng Trong Mộng.

Giặc giã lớn chưa từng ngó thấy, Chúng dùng nhiều khí giới kinh thiên. Làm cho đất động trời nghiêng, Sanh linh chết chóc muôn thiên khó lường. Thây lấp giáp Bình Dương biển lớn, Máu trôi đầy khắp chốn cùng nơi…

Phật Di Lạc Giáng Thế 25 Bửu Sơn Kỳ Hương

Gánh Hát Bình Dương.

…Không lo âu yếm tu tịnh cho rồi,

Nứt nắp bể nồi chè xôi trôi hết. * Từ đây tới tết kẻ lết người bò, Đói khổ xuôi cò chuyện trò ai nữa. Giờ mau tắm rửa đóng cửa từ bi, Cậu nói vân vi dị kỳ quá sá. Miền Nam quý giá cao cả biết bao, Bá tánh đồng bào rủ nhau cho lẹ. Đừng nên ganh hẹ sau sẽ nguy nàn, Ức triệu bạc vàng cũng trôi ra biển. Về nhà cầu nguyện Phật hiện cứu đời, Sau đẹp tuyệt vời xa xa trông thấy. Ai xài bạc giấy sau mất sạch trơn, Bảy núi Thất Sơn nghe đờn lừng lẫy. Trò đâu có thấy mây bạc chín từng, Đừng có vui mừng nửa lừng lửa cháy. Kêu trong đạo phái ráng hãy tường tri, Ráng sống mau đi đặng mình coi hát. Bình Dương ngào ngạt gánh hát đủ màu Đen trắng cùng nhau đủ đào đủ kép.* Ráng về mà khép coi hát nghe hôn, Ráng hãy bôn chôn dựng cồn dựng bãi. Coi đi trai gái Gánh Hát Bình Dương, Cậu đã phô trương đủ tài đủ phép…

(băng Lộ Huyền Cơ 7, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết thập niên 80, kết tập sách Hòa Đồng Tôn Giáo tr. 117-118, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm Tân Tị 2001)

Lời bình: Câu sấm: Nứt nắp bể nồi chè xôi trôi hết. Thiên cơ bất khả lộ, Bồ Tát nói thiên cơ không được nói thẳng, phải nói quanh co bóng gió, nói mẹo, dương đông kích tây, nói cái này để ám chỉ cái kia. Cụm từ bể nồi ám chỉ bể cái gì? Cụm từ bể nồi là thuật ngữ thiên cơ của Đức Cậu Bần Sĩ thuyết nhằm ám chỉ tên lãnh tụ cường quốc gây trận giặc Biển Đông bị tử vong trong Đệ Tam Thế Chiến. Khi người đứng đầu cường quốc chết {bể nồi}, đất nước tan hoang, chức tước quyền hành tài sản của cải cũng mất luôn {chè

Phật Di Lạc Giáng Thế 26 Bửu Sơn Kỳ Hương

xôi trôi hết}. Những cụm từ: Gánh hát đủ màu, Đen trắng, đủ đào đủ kép, Gánh Hát Bình Dương, ám chỉ trận giặc Biển Đông Thái Bình Dương có nhiều cường quốc tham chiến. Câu sấm: Ráng hãy bôn chôn dựng cồn dựng bãi, ám chỉ cường quốc lấn ranh lãnh hải gấp rút xây dựng cồn đảo nhân tạo làm sân bay bến tàu quân sự trên Biển Đông, âm mưu khống chế cả Biển Đông, gây ra trận chiến núi xương sông máu chết chóc hãi hùng! *** Phụ lục 1:

…Nay mai sụp đổ cù lao, Giáp vòng bi lụy máu đào tuôn rơi.

Nói thiệt không phải nói chơi, NGỌ MÙI THÂN DẬU lập Đời đó dân.

Lập rồi cái hội Tân Dân, Lập rồi cái đại Phong Thần kỳ ba.

Bây giờ TA mới nói ra, Sắp đây mở Hội Long Hoa bớ người.

Lọc ai phước đức cao dư, Đặng mà lập lại con người Thượng Nguơn.

Nói ra có kẻ buồn hờn, TA đâu có sợ keo sơn được rồi.

Nói đi nói đứng nói ngồi, Nói rằng nứt nắp bể nồi rã hai.*

Nói rằng cuồng loạn hăng say, Từ đây cháy hết được quay chỗ nào.

Bên Tây rồi lại bên Tàu, Bên Anh bên Nhựt cũng nhào tiêu diêu.

Không mai ắt cũng đến chiều, Mỹ Nga cũng vậy Mỹ miều cũng san!*

(trích băng Mùa Hè Năm Dê, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết, kết tập sách Thiền Tịnh Bửu Sơn tr. 105, Hội Cư Sĩ Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2002)

Lời bình: Thiên cơ bất khả lộ, Bồ Tát muốn hé lộ thiên cơ phải dụng cách nói mẹo, nói bóng gió quanh co, dương đông kích tây, nói cái này ám

chỉ cái kia. Câu sấm quan trọng: Nói rằng nứt nắp bể nồi rã hai,

cụm từ bể nồi ám chỉ lãnh tụ cường quốc gây trận giặc Biển Đông sẽ

Phật Di Lạc Giáng Thế 27 Bửu Sơn Kỳ Hương

chết trong chiến tranh, gieo gió phải gặt bão, nhân nào quả nấy; cụm từ

rã hai, ám chỉ sau khi vị lãnh tụ cường quốc gây chiến Biển Đông chết, thì hai ông trùm Nga Mỹ gấu ó giành giựt đánh bằng vũ khí nguyên tử,

biển bắc bán cầu nhiễm phóng xạ nguyên tử. Câu sấm: Mỹ Nga cũng vậy Mỹ miều cũng san. Chữ san nghĩa là san bằng tiêu tan, vì kể từ năm Gà Đinh Dậu 2017, các cường quốc đấu chiến hỏa tiễn nguyên tử bay rợp trời đông tây.

Lớp thì thác đổ phong ba, Lớp thì anh MỸ anh NGA giựt giành.

Hạt nhân xạ phóng tan tành, Khắp miền thế giới, Nam thành an bang.

……………………………………………………….

Hết MỸ rồi lại tới NGA, Từ đây sắp đến đem ra đấu tài.

Đờn kêu các nước ngoại lai, Sắp mưu sắp kế ai hoài biết đâu.

Làm cho rã quả địa cầu… Tận Thế (Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh thuyết, Sấm Giảng Đạo Khùng tr. 25 & 99 Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2002)

Mùi Thân tớ chẳng gặp Thầy, Dậu về gà gáy phút giây tận tường. 2017

Năm năm dày dạn gió sương, Tuất Hợi còn thấy đoạn trường xôn xao. 2018-2019

Năm đó mỗi người cầm dao, Tự quyền mổ xẻ mau mau cho rồi.

Ra thịt để bán con ơi, Năm châu cũng hưởng xa xôi cũng cầm.

Lão Ông bảo kiểm linh tâm, Đừng nói sai lầm quá rõ rồi kia.

Tới đây tập chẳng có bìa, Thế gian có khóa không chìa làm sao.

Đuổi theo bóng bẩy ngày nào, Nó sụp xuống bàu la hét rỉ rên.

Quỷ ma yêu thú đầy đàng,

Phật Di Lạc Giáng Thế 28 Bửu Sơn Kỳ Hương

Chết thôi nằm dọc nằm ngang Phật buồn. (Thiên Lan Khảo Bút tr. 40, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh thuyết, Thiền Tịnh Bửu Sơn ấn tống)

Phụ lục 2: Đàn Cơ Diệu Võ Chơn Quân tiên tri Nga Mỹ chia xẻ Trung Hoa.

Mượn bút mực đôi lời nhắn bạn, Máy huyền linh tỏ cạn đôi lời; Đường trần nay sắp đổi dời, Canh Tân ra mới lập đời Thượng Nguơn. Bảng phong Thánh dựng lên chọn lọc, Người hiền lương như ngọc còn nguyên; Căn xưa kiếp trước còn duyên, Nên nay được sự Hội Tiên dự bàn. Long Hoa Hội đến màn khai mở, Ớ người hiền chớ nỡ làm ngơ; Minh Vương xuất thế chớ ngờ, Trị đời thâu thủ phầt cờ Nhan Uyên. Đừng có tưởng là yên vui rảnh, Quả Địa Cầu từng mảnh tan ra; Rồi đây sẽ thấy không xa, Hơn tỉ người lẻ Trung Hoa giựt giành. Bom nguyên tử ra đời rồi biết, Quả Địa Cầu hủy diệt không xa; Mỹ Nga chia xẻ Trung Hoa, * Giựt giành chẳng ổn bất hòa choảng nhau. Cơ tự diệt đành rành trước mắt, Thảo đôi lời để nhắc người hiền; Tu mau kẻo trễ vô duyên, Ngừa thuyền đón khách Phật Tiên đang chờ. Sau khi Mỹ và đồng minh đánh tan Trung Quốc (bể nồi), xóa sổ Bắc Kinh, thì quân Nga đã chờ chực sẵn biên giới chiếm Tây Tạng, Tân Cương. Mỹ Nga giành giựt nước Trung Quốc, đánh nhau đưa nhơn loại đến ngày Tận Thế. Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh từng thuyết :

Nếu ai thiếu nợ ráng trả cho rồi, Nứt nắp bể nồi chạy dài hết ráo. * Khi thấy xảy ra sự kiện bể nồi,

Cậu về Cậu cáo với lịnh Ngọc Hoàng, bá tánh biết đó là điềm tận thế.

Phật Di Lạc Giáng Thế 29 Bửu Sơn Kỳ Hương

Mau xuống hạ san phạt đàn ma quỷ. Để chi thế kỷ báo quá hiền lương, Dày dạn gió sương trăm đường chi xiết. Từ đây ráo riết tát cạn biển khơi, Cậu nói mà chơi không lời không vốn. Không thua không tốn nguy khốn cận kề… (Sấm Giảng Đạo Khùng tr. 89-90, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh thuyết thập niên 80, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2002)

Câu sấm quan trọng : Nứt nắp bể nồi chạy dài hết ráo, cụm từ chạy dài hết ráo, nghĩa là không bên nào thắng, mà là tất cả đều thua. Đó là cuộc Tận Thế. Cụm từ bể nồi là điềm báo tận thế.

Báo Động Thiên Cơ

Bạn hỏi Thầy tôi là ai vậy?

Tôi đáp rằng Bần Sĩ Vô Danh. Tôi nói ra với cả tâm thành, Thầy tôi viết chẳng rành chánh tả. Nét bút viết chữ nghiêng chữ ngả, Nhưng tài Thầy ứng khẩu Mây Rồng. Thầy ứng khẩu kinh kệ lảu thông, Tùy trình độ đạo đồng Thầy thuyết. Thầy ngâm thơ hát ca thật tuyệt, Thầy hò lơ vọng cổ cũng mùi. Giúp người mê nghe pháp thêm vui, Lần từng bước dẫn vào đường đạo. Ai mới nghe tưởng Thầy hát dạo, Tưởng Thầy ca giả mạo kiếm cơm. Chớ đâu ngờ Thầy trổi giọng đờn, Ca kinh kệ khuyến đời thức tỉnh. Rằng nay tới Thiên Đình quyết định, Hội Long Hoa Phật Thánh mở màn. Tận Thế rồi tiêu diệt tà gian, Để tuyển rặc những người lương thiện. Hỡi khách trần đừng nên lưu luyến, Bã lợi danh sắp chuyển đổi rồi.

Phật Di Lạc Giáng Thế 30 Bửu Sơn Kỳ Hương

Biến biển sâu thành cảnh núi đồi, Biến đô thị thành nơi rừng thẳm. Thầy tiên báo thiên cơ chắc lắm, Đinh Dậu này say đắm đấu tranh. Qua Hợi kia trái đất tan tành, Còn đâu nữa mà quơ mà tởi. Hỡi bá tánh tu mau đừng đợi, Mậu Tuất sang Thánh Chúa ra đời. Tận thế gian gần kế chiều mơi, Lập Thượng Cổ cảnh đời Nghiêu Thuấn. Thầy dạy người chẳng nên tranh luận, Đạo của Trời chỉ một mà thôi. Tại chúng sanh hay nghĩ bẩn tồi, Chia chi ngánh tranh giành ngôi thứ. Chữ nhân ngã thật là quá bự, Chữ lợi danh xạo sự tâm cuồng. Rồi phân chia lắm đạo luôn tuồng, Tranh đấu chiến làm buồn Trời Phật. Thầy khuyên đạo ở ăn chân thật, Đừng đua đòi vật chất hư danh. Đừng tham lam của cải giựt giành, Đừng háo sắc gian manh ăn diện. Người tu hành phải cần tiết kiệm, Mở lòng nhân bố thí mới là. Đêm tịnh thiền quyết đoạt tinh ba, Quyết tinh tấn đến ngày giải thoát. Việc trường chay cũng nên thắng đoạt, Không sát sanh thương xót thú cầm. Giữ giới thiền diệt bỏ tà dâm, Đừng thấy sắc mà hăm mà hở. Thầy chỉ dạy người đời khai mở, Kinh huyệt thông bản sở tham thiền. Giữ thân tâm luôn đặng an nhiên, Nguyện tinh tấn đến ngày Long Hội.

Sydney, 26-11-2016, Kỳ Vân Cư Sĩ cảm tác & biên khảo

Trong Chuyện Bên Thầy,

Đức Huỳnh Giáo Chủ tiên

tri: Thế Chiến Ba khởi từ

Trung Đông, khi cuộc

chiến Trung Đông tạm

ngưng, sẽ đến Á Đông.

Phật Di Lạc Giáng Thế 31 Bửu Sơn Kỳ Hương

THƠ GỞI CHO AI

Chấp bút đề thơ gởi cho ai, Ở trong hay lại gởi ở ngoài. Gởi mãi gởi hoài ơi lâu quá, Biết bao bài bổn rạng ngày nay.

Ai người nhận được lá thơ Ta, Có nhận xem đi để làm quà. Buồn vui lẫn lộn đừng cầm nó, Bị áng mịt mù khó nhìn ra.

Ai nhận được thơ cuối mùa rồi, Ráng gìn ráng nhớ ráng săm soi. Nghiệm suy từ chữ cho chu đáo, Mới biết yêu thương cả giống nòi.

Ai người được nhận lá thơ này, Mắt mù tai điếc chẳng dở hay. Làm sao lượng biết ôi hỡi chúng, Trí sáng minh minh thức canh chầy.

Thông hiểu lời thơ Ta nói gì, Ai người còn hỡi vẫn hoài nghi. Mau lo sửa soạn hồi phục gấp, Học đạo siêu tầm lượng từ bi.

Ta gởi lá thơ được ai cầm, Hiểu về lý đạo tu nhiều năm. Truy ra thì biết cần gì hỏi, Bản chất tinh thần đoạt huệ tâm. *******

Lá thơ ai gởi kia cà, Không tên không tuổi quê nhà ở đâu.

Thân người có bận sồng nâu, Hay là quần vải áo bâu hằng ngày.

Gởi thơ không biết đưa ai, Làm sao dám nhận bổn bài thi văn.

Gởi xa hay đã gởi gần, Cuối mùa còn mãi chuyên cần làm thơ.

Phật Di Lạc Giáng Thế 32 Bửu Sơn Kỳ Hương

Nếu ai người nhận bất ngờ, Xem mau cho kỹ kịp giờ đông xông. Ta không ở tây rồi chẳng ở đông, Ở nơi trần hạ gió giông thổi đùa.

Thơ này không có bán mua, Xem thơ rồi biết tiết mùa đổi thay.

Đổi đêm tháng lụn canh dài, Thơ này Ta gởi trần ai lâu rồi.

Chúng sanh không chịu xem soi, Cho nên mất hết giống nòi cách xa.

Bây giờ Ta nói lời ra, Nếu ai bình luận dù xa hay gần.

Kính thưa tất cả toàn phần, Thơ khùng điên dại Dần lân đừng buồn.*

Mau đi quay lại cội nguồn, Chậm thì gió bão mưa tuôn trôi đùa.

Trời nay thay tiết đổi mùa, Dù cho ba thúng bảy vùa cũng xong.

Còn ai ngu muội não nồng, Cuộc đời tận mạt vàng đồng không buông.

Tới đây như kẻ điên cuồng, Lang thang vất vả hình tuồng ngu si.

Thơ rằng bảo chúng tu đi, Đừng vay mượn nữa làm chi của trần.

Tả thơ không biết bao lần, Lời này buổi cuối năm Thân loạn cuồng.

Đua chen tranh chấp triệu muôn, Quên thân bỏ phận như tuồng xác xơ.

Nếu ai nhận được đọc thơ, Nói rằng nước lộ tràn bờ gần bên.

Lời thơ Ta đã rỉ rên, Gởi thăm nhân loại đừng quên cội nguồn.

Quay về sự thật cho suông, Tạo gây tội lỗi Trời buồn đất lay.

Thơ này Ta gởi cho ai, Ai người trí thức hiểu ngay đôi lời.

Người đời than phiền rằng chư vị nói đời tới hoài mà sao chưa thấy tới! Sao cứ nói Dần lân hoài! Nhưng khi đời tới thình lình e con người trở tay không kịp! Đức Phật Thầy Tây An viết: Biến dời cuộc thế thình lình,

Thiện tồn ác thất thiên đình số phân.

Trong Chuyện Bên Thầy,

Đức Huỳnh Giáo Chủ tiên

tri: Thế Chiến Ba khởi từ

Trung Đông, khi cuộc

chiến Trung Đông tạm

ngưng, sẽ đến Á Đông.

Phật Di Lạc Giáng Thế 33 Bửu Sơn Kỳ Hương

Xa xa gió thổi diệu vời, Thơ buồn gởi tặng cái đời còn mê.

Nhà xưa quê cũ không về, Chăm lo thể xác trầm mê rã rời.

Trong thơ có dặn ai ơi, Mau mau sám hối Phật Trời mới tha.

Bằng không khó thoát nạn qua, Trận này tẩy sạch còn mà hiền lương.

Đặng sau nối hậu môn đường, Thượng Thiên tẩy sạch bất lương côn đồ.

Dù cho chạy trốn xứ mô, Làm sao chạy thoát côn đồ cưu mang.

Mau chơn lẹ bước trên đàng, Thơ Ta gởi tặng từ hàng xem coi.

Thân nay Khỉ đói trên đồi, Cây rừng cháy rụng vậy thời còn đâu.

Tới đây cỏ héo hoa sầu, Nếu ai hiểu được đừng rầu đừng lo.

Mau mau gấp gấp lần mò, Trở về bến Phật, Phật lo còn chờ.

Ngồi buồn tá bút vần thơ, Nói qua nói lại hiện giờ ai nghe.

Xuân nay rồi lại tới hè, Thấy trong bá tánh khó e thoát nào.

Kẻ sang người khổ héo sầu, Người lắm sang giàu cũng chịu chết chung.

Bây giờ còn thấy tứ tung, Sao không suy nghĩ ngày cùng gần bên.

Lời thơ Ta lại rỉ rên, Ai người nhận được kề bên thánh hiền.

Chúng sanh nay quá làm phiền, Lắm bạc nhiều tiền khinh bỉ người ngay.

Vô thường đâu sống được hoài, Lên doi xuống vịnh ngày mai cũng tàn.

Mau dời đổi hết bước sang, Đò Tiên còn đợi bạc vàng ở đâu.

Phật Di Lạc Giáng Thế 34 Bửu Sơn Kỳ Hương

Nhớ thương người gởi đôi câu, Tội gì gởi mãi thơ hầu mất tiêu.

Ngày nay do luật Thiên Điều, Ta gởi ít nhiều lời lẽ thiệt hơn.

Công dày tợ núi Thất Sơn, Nếu ai nhận được làm ơn tu liền.

Bậc nào say đắm của tiền, Chờ coi ngục thảm huỳnh tuyền đòi ngay.

Đầu thơ Ta gởi cho ai, Than thân trách phận trần ai không người.

Xem rồi người thật không dư, Tìm rồi tất cả hoại hư mấy phần.

Phật ghi còn chút hồng ân, Mau mau kíp kíp trọn ân tu người. Được một không sính chín mười,

Cũng làm được việc đại từ đại nhân. Lời thơ gởi khắp xa gần,

Nếu ai nhận được lần lần hồi quê. Ngộ tu cảnh tục chán chê,

Lẹ chơn kẻo trễ khó về cảnh tiên. Trong thơ không chút não phiền, Cầu xin Chư Phật hạ miền độ dân.

Khắp trong trần hạ xa gần, Từ nơi hải biển sơn Tần chung quy.

Tới đây tiếng khóc biệt ly, Sẽ gần phong tỏa xiết chi vang rền.

Thơ này Ta nhắc đừng quên, Nếu ai nhận được đúng tên con Trời.

Ta nào dám hỡi nói chơi, Chư Thần Chư Vị vậy thời hai bên.

Trong thơ nói gấp lập nền, Trời thay đất đổi tuổi tên nào còn.

Đêm về mắt lệ trào tuôn, Ai người nhận được đừng buồn hỉ hoan.

Lời thơ trong buổi đêm tàn, Gởi ai không biết lẹ làng chép biên.

Phật Di Lạc Giáng Thế 35 Bửu Sơn Kỳ Hương

Nói rằng THÂN DẬU không hiền, Nạn này chưa hết tới liền nạn kia.

Phong ba bão tố canh khuya,* Thế gian như khóa không chìa làm sao.

Cuộc cờ nay thấp mai cao, Nay chen mai lấn rủ nhau dữ dằn.

Thù hiềm còn lại hung hăng, Ô hô chưa được tròn trăng ăn cùi.

Thây phơi lẫm liệt đủ mùi, Lợi gì mà lại cười vui rộn ràng.

Chết nằm hàng dọc hàng ngang, Cháy rừng Khỉ quéo nghinh ngang trên cành.

Đêm khuya Gà gáy rộ nhanh, Thúc người ai bậc hùng anh cang cường.

Chưa đâu được gặp nhà Vương, Người còn gian ác trăm đường quanh co.

Vì thương Ta nói dùm cho, Gởi thơ lòng dạ đắn đo nhiều bề.

Chậm chơn xứ cũ khó về, Quê Tiên thất lạc bồ đề khó nương.

Nói dùm tai họa đa ương, Tuất Hợi còn rõ con đường như sau.*

Hết chiến cung búa tới xẻng dao, Xẻ ba xẻ bảy lẹ mau cho rồi. Ngồi buồn nói chút dân ơi,

Lá thơ Ta gởi khắp Trời bao la. Đi gần hay lại đi xa,

Nhờ Thần chuyển gấp vậy mà cho ai. Ráng tu tỉnh chớ tu say,

Mở ra cửa miệng có ngay Thánh Thần. Trong thơ hay nói Dần lân, *

Chịu qua đại khổ Tân dân gần về. Trong thơ có nói bộn bề,

Vì thương sợ chúng nặng nề cưu mang. Tới đây nằm dọc nằm ngang,

Trên rừng dưới biển lầm than khỉ chồn.

Gà gáy rộ nhanh, ám

chỉ năm Dậu 2017, bom

đạn bùng nổ dồn dập

khủng khiếp, chết chóc

thật là hãi hùng!

Phật Di Lạc Giáng Thế 36 Bửu Sơn Kỳ Hương

Tối đen như ánh hoàng hôn, Dữ hung ác độc dập dồn phong ba.

Nếu ai nhận được thơ Ta, Đừng hỏi tông tích vậy mà thấp cao.

Nhân danh như thể người nào, Chúc cầu bậc trí xem nào là thông.

Gởi ngoài rồi lại gởi trong, Cuối màn mới nói đại lòng thuyết ra.

Cuối lời lẽ thiệt của Ta, Nhớ rằng Phật dạy vậy mà hiền lương.

Cuối thơ Ta nguyện tận tường, Cho người hiền hậu làm gương sau này.

Tối tăm mặt nhựt đông tây, Hay là nam bắc cảnh này thảnh thơi.

Người tu ở góc chân trời, Nếu mà thiện trí còn thời không phai.

Lời thơ gởi khắp trần ai, Nếu nhận ráng đọc ngày mai rồi tường.

Nam Mô A Di Đà Phật (3 lần) *******

Xin kính thưa tất cả các hàng đạo Phật, dù chúng ta có nhận và thấy nhiều phái đi nữa, thì cũng là một gốc một cội, một nguồn.

Xin mong hết ông bà cô bác, anh em toàn thể đừng cố chấp, qua những lời lẽ của bậc Tiền Nhân xuất thế, mượn xác trần khuyên nhủ khắp mọi nơi, thúc hối những anh em nếu ai người hiểu đạo, phải có bước tiến đừng nhanh, mà cũng đừng quá chậm, vì ngày mạt hạ sắp quay chuyển đến Thượng Nguơn. Chính mình học Phật tu nhân, không cố gắng dồi mài và gội rửa thân tâm, cứ để mãi bỏ qua thời gian lấp mờ theo năm tháng, nếu làm người chẳng được thành người, còn tu theo Phật chẳng được về Phật, làm sao thành Phật? Xin kính thưa quý vị, anh em, toàn trong đạo phái Bửu Sơn Kỳ Hương phải cố gắng, không còn bao lâu nữa được kết quả mỹ mãn, và Trời Phật ban thưởng cho những bậc hiền ngoan Tu Sĩ hay là Cư Sĩ cũng thế, được hậu hưởng chung trong một ngày hoa Trời nở rộ khắp nhân gian; còn các vị anh hùng đại từ đại bi hi sinh cứu giúp nhân loại gìn

Mohamed Bouazizi tự thiêu châm ngòi lửa cho cuộc chiến Bắc Phi Trung Đông, khói lửa ầm ĩ chết chóc tang thương cho đến khi cuộc chiến Biển Đông bùng nổ, cả hoàn cầu lâm vào Thế Chiến Ba bom nguyên tử tàn phá khủng khiếp! Nhơn loại chết 7 còn 3. Thế Chiến Ba kéo dài dần dà trong mười năm từ Canh Dần 2010 đến Kỷ Hợi 2019. Thời gian dài đủ để loài người kịp ăn năn sám hối làm lành lánh dữ vơi nghiệp chướng sống sót ngõ hầu hưởng đời Thượng Nguơn Thánh Đức.

Phật Di Lạc Giáng Thế 37 Bửu Sơn Kỳ Hương

giữ nước nhà tổ quốc thân yêu của mình, giữ vẹn trung thành với non sông đất nước, thì sẽ được tân phong lên ngôi vị của các Ngài, từ đời trước tới bây giờ gương vẫn còn để lại.

Xin kính thưa ông bà cô bác cùng anh em khó mà được làm người đầu đội Trời chơn đi trên mặt đất; Trời sanh tạo chiết ra từng linh hồn cho chúng ta, cùng hiệp lại cha mẹ của ta sanh thành tạo dưỡng, ngày hôm nay được làm người mà ta không biết ân Trời Đất là bất hiếu với tông đường, bất trung bất chính với sơn hà xã tắc, thì đó không phải là con người. Ta không thể cho các vị biết Ta là ai, ở đâu. Mong cầu bá gia bá tánh anh em hiểu được câu văn thơ luận giải như thế thì cũng đủ rồi. Lo tu tập hằng ngày sôi kinh nấu sử, có nghĩa là rọi soi ở lòng mình, tâm linh của mình, thì chúng ta phải hằng đêm quan niệm đến Đức Phật, cùng phải lượng Phật để nhìn thấy trong ta.

Nếu quay về đường Phật phải rốt ráo, phải hy sinh, phải giải quyết cho gấp trong kiếp này. Dù cho vướng bận thế nào, chúng ta cũng tìm cách để thoát khỏi màn lưới vô minh đang trói ta quăng vụt dưới biển đời trôi lăn khôn xiết. Đâu có cao cả gì, tốt đẹp gì, mà uổng công khoe phê cho tất cả mọi người khen tặng nhìn thấy, thật rất oan uổng một kiếp đời mình, bao đời lãnh lấy nặng nhọc đau khổ tiều tụy, bị hất hủi trên bước đường lầm lạc mà chính chúng ta không biết. Như vậy là ai biết cho mình, có phải là chỉ mình tự biết mình không? Tại sao mà cứ nô đùa mây mưa gió tạt? Xin thưa người cư sĩ và tu sĩ không khác đâu, khác là ở chùa và xuất gia, còn người cư sĩ tại gia cũng thế, mỗi ai ai cũng đều có tâm linh, cũng đều có Phật tánh, xin thiết tha mong cầu quý vị anh em trong hàng Phật đạo, nếu ai được nhận lá thơ này, mau gấp quay về nơi ngôi vị của chính mình, mình đừng bỏ rơi mình quá lâu, mình không hổ thẹn và hối hận sao? Quay lại sau lưng của mình vừa qua rồi thấy trong cuộc thăng trầm biến đổi, kẻ giàu người nghèo lượng phân rõ đi, có ai được gì không? Cho nên trong lời lẽ của Ta cũng là người như quý vị, cũng như anh em làm ăn hằng ngày kiếm sống, tìm lối thoát như một người cư sĩ tại gia, cho vẹn toàn tứ ân hiếu nghĩa. Đây là lời thật thà của Một Người mà quý vị đừng hỏi, đừng nhìn, đừng thấy, đừng tìm hiểu Người Ấy ở đâu, như thế nào. Mong sao anh em cảm nhận và nhìn nhận được chơn lý mà Ta đã học của Phật, Ta đã nghe

Phật Di Lạc Giáng Thế 38 Bửu Sơn Kỳ Hương

văng vẳng Tiền Bối, Ta thương nhớ người xưa, Ta đã quay về với một tinh tiết rất diệu mầu sâu xa, Ta là người thấy được, nhận được, cảm mến vô cùng, đón tiếp những lời lẽ ấy mà trao lại cho tất cả anh em đoàn thể. Nếu ai nhận được cố gắng truy rồi biết. Nam Mô A Di Đà Phật. Tiếp theo đôi lời phụ giảng cho tròn một lá thơ. Ta đang ngồi xuất khẩu thành thơ, noi theo Thầy Tổ và Tiền Bối, cúi đầu xin lỗi tất cả các tông giáo cùng là trong Phật giáo từ bi hỉ xả.

Đời đừng vội bôn chôn chi nữa, Mau dừng chơn rồi tựa bồ đề. Giác mau đừng có si mê, Rọi lòng từng phút sớm kề Phật Tiên. Đừng cố tập chiêu hiền đãi sĩ, Nô đùa chi nhìn kỹ lại mình. Mau tu giữ trọn đức tin, Nếu không, tiếng nổ âm thinh tan hồn. Đừng có vội bôn chôn mộng ảo, Nếu ai người hiểu đạo sửa liền. Đường dài còn quá chinh nghiêng, Sửa thân sửa phận lưỡng biên được gì. Thẳng một lối thì đi sẽ tới, Thấp đừng đòi hỏi với trên cao. Hỏi ta chọn lọc đường nào, Đường trần nhiều sự lao đao lâu rồi. Người đạo sĩ bồi hồi không được, Vừa tu thân tạo phước cho đầy. Tinh thần cao cả mới hay, Đặng chịu nhiều sự tới đây khôn lường. Mau đừng có vấn vương trần nữa, Sắp bị rơi biển lửa khổ sầu. Nếu còn mê nhiễm thấy đâu, Cơ này sắp tới dãi dầu gấp trăm. Đường về Phật thậm thâm vi diệu, Ngộ tu ngoan chút xíu tới liền. Mong người tu đạo thường xuyên,

Phật Di Lạc Giáng Thế 39 Bửu Sơn Kỳ Hương

Lau tâm rửa tánh bình nguyên nhẹ nhàng. Có Phật trí trên đàng mới thấy, Chỗ nào gai hay bẫy trần đời. Thấy liền đặng tránh xa nơi, Đó là sự thật đôi lời của Ta. Mong quý chúng gần xa cũng thế, Hiểu rộng sâu kinh kệ sớm chiều. Cuộc đời còn được bao nhiêu, Tu hành để đó khó tiêu nghiệp đời. Ráng thanh tịnh vì đời quá rộng, Còn tung bay hư hỏng đạo Thầy. Ngày tàn ma quái bủa vây, Người tu phải có đủ đầy đức ân. Mau tu luyện hồn thần cho vẹn, Trọn niềm tin mài bén gươm lòng. Diệt tà trừ quỷ cho xong, Ở ăn chơn thật thoát vòng trần lao. Vững tinh thần sóng trào không sợ, Cúng dâng thân tâm nhớ Phật Trời. Thiên cơ thay đổi khắp nơi, Hy sinh bình lặng góc Trời ngồi yên. Phải sáng suốt nối liền với Phật, Ráng hy sinh đánh mất của phàm. Tiền tài vật chất đừng ham, Tiền tài vật chất quá nhàm lánh xa. Làm tôi Phật là ta không khác, Học hạnh tu Bồ Tát tại trần. Ngày làm việc phước tối tu nhân, Nuôi mầm gốc thiện toàn thân đắc thành. Thơ xin gởi người lành ai biết, Vâng lịnh trên mới viết thơ này. Có người tỉnh có kẻ chưa hay, Sợ chìm dưới biển phút giây uổng đời. Thức, thức lẹ ai ơi không kịp, Mấy ngàn năm có dịp hội Trời. Tảo thanh lập lại khắp nơi,

Phật Di Lạc Giáng Thế 40 Bửu Sơn Kỳ Hương

Toàn cầu chọn lựa con Trời tồn lai. Nếu đạo sĩ có ai chưa tỉnh, Hay đang tu lâm bịnh hồng trần. Bịnh còn sân nộ cân phân, Chấp ta cột buộc đầy thân, đầy người. Bịnh vui thích biếng lười không chuyển, Ngồi chờ trông mồi miếng bên ngoài. Đừng nên thọ giới mà sai, Tới đây kết thúc hồn bay không còn. Ta nói thiệt bà con đừng chấp, Tỉnh cơn mê thì gặp chớ gì. Lo tu đừng có sầu bi, Hiến thân cúng Phật còn gì mà trông. Muốn theo Phật ngược dòng biển ái, Muốn theo Thầy trai gái làm gì. Cỏ lòng nhổ sạch mau đi, Đặng gieo hạt giống từ bi kịp mùa. Đừng đuổi rượt đến Chùa chơi giỡn, Sư Thầy khen mơn trớn vượt mầm. Nào đâu có biết rừng tâm, Tu hành không lắng bao năm được thành. Nếu tu đạo lợi danh phải bỏ, Danh hay quyền không ngó không nhìn. Đừng nên đắm đuối mê linh, Giỏi thì tiếp đón hành tinh gần kề. Có đôi lời giác mê tự chúng, Kêu anh em ngày cũng tàn rồi. Đừng nên thả nổi thả trôi, Ẩn mình tu đạo săm soi niết bàn. Ai cũng có muôn ngàn tài phép, Tại không lo đóng khép cửa lòng. Để lo tinh luyện cho trong, Lao chao đục hết nước lòng thúi hôi. Ta nhắc lại ai soi thì thấy, Đất điền trong ai cấy thì nhờ. Đừng để hoang phế trơ trơ,

Phật Di Lạc Giáng Thế 41 Bửu Sơn Kỳ Hương

Ruộng nhiều bị đói hiện giờ ngộ thay. Đừng có trách chi ai phiền muộn, Hỡi con người có ruộng phước điền.* Dọn cho sạch sẽ rồi yên, Đặng gieo hạt giống lương hiền có ăn. Ta xuất khẩu bút văn đạm gởi, Khắp trong ngoài thế giới được tường. Gởi ai chưa có tình thương, Mau xem rồi hiểu tận tường đặng thông. Ô Kim nói lái từ chữ Kim Ô = Mặt Trời Đừng có hỏi Thầy Ông Cô Cậu, Đừng hỏi Ô Kim hay Kim Ô ; Cô Cậu hay Cậu Cô

Bậc tiền xưa ấn dấu rõ ràng. Vô minh nên bị áng ngang, Tu hành đi dọc đi ngang nô đùa. Phật đâu có ở Chùa tìm kiếm, Phật ở trong tâm niệm của người. Lúc nào cũng vẫn vui tươi, Mau mau nhìn kỹ bớ người gần xa. Nam Mô lục tự Di Đà, Hộ người tỉnh giấc nhìn mà thơ nay. Nam Mô A Di Đà Phật

Lắng nghe gió thổi non Tần, Mây chiều tuyết phủ đám gần đám xa.

Ngồi buồn kinh kệ ngâm nga, Biên thơ nước mắt châu sa chảy dài.

Đoạn này kết thúc trần ai, Ta nay điên mãi điếc hoài không nghe.

Ngồi tu lo sợ rồi e, Mới tạm thơ vè lý phú thi văn. Ngồi nhìn trên cõi sao băng,

Dưới trần nay gặp khó khăn mọi điều. Non đoài gió thổi hắt hiu,

Nhớ thương nhân loại thân yêu hằng ngày. Yêu thương thơ phú không phai, Bút ngòi tuy lợt giấy nay rất dày. Thương ai đau nhức canh chày,

Mây hồng năm sắc ở phương Tây, Sáng suốt Ô KIM bởi vẹn mày; Miệng nhỏ tiếng to vang bốn biển, Lưỡi mềm lời lớn dậy rồng mây. Lòng trong Thánh Kệ tình bơi lội, Dạ sạch Phật Kinh ý luyện bay; Dầu cho thân Mỗ thanh xuân tuổi, Thức giấc đời mê phải được hay. (Thơ xướng họa Hằng Nga, Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ viết ngày 14-6-Canh Thìn 1940)

Phật Di Lạc Giáng Thế 42 Bửu Sơn Kỳ Hương

Gần rồi tớ lại gặp Thầy không lo. Mãi trông danh lợi bì so,

Của vàng ba thúng bảy mo không còn. Thơ này dặn hết bà con,

Đừng vì của cải món ngon bên ngoài. Xem thơ mau ráng về ngay,

Ta ngồi tảng đá liên đài biên thơ. Thương cho dân chúng hiện giờ,

Sắp sẽ mịt mờ như kẻ mù đui. Bớt đi đùa giỡn ham vui,

Bao nhiêu trăm kiếp ngửi mùi trần nhơ. Ráng tu quay lại Phật chờ,

Rửa mình trong sạch tôn thờ Phật Tiên. Nếu còn dữ, sửa thành hiền,

Soi đi rồi thấy muôn thiên tội đời. Ngày cùng cộng nghiệp dân ơi,

Đừng trông hưởng cảnh thảnh thơi ngày nào. Người giờ như cá dưới ao,

Chủ nhân tát cạn bắt nào đem lên. Đập đìa vét hết thành nền,

Cá khôn chui trốn, bập bềnh thì ngu. Chui sâu bùn thẳm mặc dù,

Đừng khoe vi vảy ở tù rọ nôm. Làm người tâm tánh không dòm, Cứ lo đuổi rượt tóm gom của tài. Nguyện cầu Đức Phật Đức Ngài,

Hộ cho thơ của Người Này không tên. Nếu ai xem được đừng quên,

Mồ Cha mả Mẹ tuổi tên của mình. Biển đời cạn nước còn nghinh,

Chút nữa lọt sình mất kiếp đừng than. Tu hành chịu khổ gian nan,

Ngày làm sinh sống đêm càng tu Tiên. Tâm can lý đạo bình quyền,

Quán xét cho kỹ nhập thiền Phật môn. Mất thân còn được linh hồn,

Phật Di Lạc Giáng Thế 43 Bửu Sơn Kỳ Hương

Si mê tạo tội dập dồn quá cao. Lạy Trời Phật độ thơ mau,

Gởi ai không biết tới đâu lạ lùng. Từ đây nạn ách bao trùm,

Khuyên người chớ có xưng hùng la to. Giàu nghèo cũng chỉ lên gò,

Chui vào lòng đất xét cho kỹ càng.* Ngồi buồn Ta lại thở than,

Lâm miền trần hạ gian nan lâu rồi. Một mình lặng lẽ than ôi,

Nguyện đi một kiếp làm tôi Phật Trời. Thơ này gởi khắp mọi nơi,

Đừng quên mình nữa dân ôi ráng tường. Do mình tạo dựng chủ trương,

Mọi điều tội lỗi tận tường rõ chưa? Oang oang một mảy không chừa,

Tội trời gần sửa sao chưa tỉnh tuồng. Bớ ai ức triệu vàng muôn,

Kiểm coi tiền bạc có buồn hay không. Âm mưu của cải vàng đồng,

Tiền không cực khổ đừng trông ngày này. Rủ nhau đi hết cả dây,

Căn đền quả trả giờ này rõ chưa? Khuyên đừng ăn nói bãi bừa,

Thành tâm quay lại sớm trưa giựt mình. Chính mình, mình chẳng tin mình,

Sáng vầy chiều khác linh đinh sóng cuồn. Chiều vui tối lại gây buồn,

Nói năng như thể điên cuồng làm sao. Viết thơ Ta quá âm hao,

Kể chuyện khào khào cho chúng xem chơi. Sửa mau bớ bớ con Trời,

Thuận thiên được sống nghịch thời phải vong. Tội trần gần nhốt củi đồng,

Tắt hơi rồi biết hồn trông chỗ nào. Sống còn cái miệng bào hao,

Phật Di Lạc Giáng Thế 44 Bửu Sơn Kỳ Hương

Lo sự sang giàu Phật nói không tin. Không lo dẹp dọn chính mình,

Ngồi đâu tưởng đó tận tình thì ra. Khuyên gần rồi lại khuyên xa,

Anh chị chú bà ráng đọc thơ ngay. Sửa đi sửa mãi sửa hoài,

Nên thân thành phận cung đoài được lên. Làm người hiếu nghĩa đừng quên, Đứng đi cũng xét kề bên cũng tìm.

Trao thân gởi phận hằng đêm, Quán truy cho kỹ kiếm kề Như Lai.

Chưa nên ta sửa hằng ngày, Thuyền Na một chiếc đạm quay trở về.

Rứt rời bến trược trần mê, Tiên Ông ngồi đợi Bồ Đề quá lâu.

Sửa tâm khỏi mặc sồng nâu, Hy sinh chịu khổ dãi dầu gian cơ.

Tâm linh chùa lớn đền thờ, Ngồi nằm đi đứng vẫn thờ vẫn tôn.

Làm người chớ nói dại khôn, Đáo đầu cũng phải dập dồn vô rương. (rương hòm quách) Than ôi vạch vẽ canh trường, Có ai biết được Ta thương muôn loài.

Mau đi thơ gởi ráng coi, Coi qua coi lại săm soi nhiều lần.

Ta khi trước ở non Tần, Bây giờ đời mạt xuống lần thế gian.

Tìm ôi cho được bạn vàng, Kết làm huynh đệ cơ hàn như Ta.

Trong thơ không có hơ hà, Nói thiệt kia cà cô bác nhìn coi. Không tu phải chịu thiệt thòi,

Chết như con cá mắm mòi ngoài sông. Sinh tiền không chịu lập công,

Hiền thân diện tướng hòa đồng tánh tâm. Đường ngay cứ bước nào lầm,

Phật Di Lạc Giáng Thế 45 Bửu Sơn Kỳ Hương

Quẹo quanh chi vậy gai đâm kẽm quào. Người Tây, người Nhật, người Tàu,

Cao Miên Ấn Độ khác nào ở đâu. Nước nào đây tới cũng rầu,

Thượng Đế xây chầu phải chịu bó tay. Lá thư Ta gởi cho ai,

Trông mãi trông hoài không thấy hồi âm. Bao năm trăm kiếp kiếm tầm,

Mắt mờ tai điếc chơn dầm tay run. Chiến tranh bùng dậy ngày cùng,

Giựt giành sang cả trùng trùng do ta. Cái tâm như biển giang hà,

Sóng chiều cuồn cuộn gần xa dẫy đầy. Si mê quên chú quên Thầy,

Mong sao giành giựt chức đầy tiền muôn. Mau mau quay lại cội nguồn,

Tỉnh đi cho sớm chiều buồn dở dang. Trời nay gần đổi lớp màn,

Lẹ chơn được bước lên đàng về quê. Chậm chơn khó nổi mà về,

Mấy ngày rung chuyển lê mê khốn cùng. Đừng ai xưng bá xưng hùng,

Mau quỳ sám hối phục tùng Bề Trên. Ngàn đời lịch sử nào quên,

Sau bậc hiền triết kề bên Thánh hiền. Ô hô ba tiếng tan liền,*

Còn gì không việc não phiền gay go. Hiền lành hiếu thảo Trời cho,

Cũng còn người tốt đặng lo tu hành. Thương đời thức trắng thâu canh,

Ngồi suy nghĩ lại người lành còn đông. Mau mau lập đức bồi công,

Hy sinh thân thể gió giông không lường. Phật Ngài dẫn dắt qua mương,

Lên non xuống vịnh tìm đường cứu nguy. Cúi đầu lạy Đấng Từ Bi,

Phật Di Lạc Giáng Thế 46 Bửu Sơn Kỳ Hương

Năm Non Bảy Núi chứng tri lòng thành. Chư Thần Chư Vị quá rành,

Chứng lòng người thảo hiền lành tồn lai.

Ngồi để ra thơ dạ ai hoài, Thật là hiền đạo chịu đắng cay. Mùa thu sắp tới đâu còn nữa,* Thơ gởi làm chi hỡi trong ngoài.

Hiền đạo là Ta chấp bút nghiên, Gởi thăm bá tánh ở mọi miền. Có ai nhỏ giọt lòng thương xót, Hay là chê chán vụt thơ miêng.

Ta chẳng màng chi ở chỗ này, Bùn sình lấp mãi quỷ ma vây. Trông mau mãn hạn về yên chỗ, Chỗ ở của Ta tựa bóng cầy.

Rời rạc hết trơn chẳng còn đâu, Đờn vang đôi khúc Ta thêm sầu. Não nuột cho đời thêm tê tái, Cuộc đời mê mãi có tường đâu.

Ta gởi lá thơ nếu ai cầm, Xin đừng vội bỏ khổ lụy tâm. Cầm xem ít chữ ôi cũng được, Nếu thông nếu hiểu sẽ siêu tầm.

Năn nỉ chúng sanh chớ vội vàng, Bình tịnh đợi chờ lịnh trên ban. Còn còn hay mất do Thượng Đế, Nếu bậc hiền tu tắm suối vàng.

__________________________________

Ta không nói quẩn quơ nhàm đảm, Vì mến thương thông cảm nhân quần. Sợ Lập Đời mất hết con dân, Ai nối hậu Đời tân sắp tới. Thơ nay gởi khắp miền thế giới, Nói dừng đi dừng khỏi giặc lòng. Trọng của tài chút nữa là xong,

Phật Di Lạc Giáng Thế 47 Bửu Sơn Kỳ Hương

Quay trở lại chúa ông đừng nghĩ. Ăn năn sớm Phật Trời hoan hỷ, Kẻ dữ hung xem kỹ loạn cuồng. Mau dừng đi ngựa chớ vội tuôn, Nài thúc chạy điên cuồng xối xả. Thân không giữ chắc thân phải rã, Nghĩa không giao đạo quả nào thành. Gởi thơ này kêu bớ hùng anh, Đừng gây loạn tan tành trái đất. Tạo ác độc một còn một mất, Để làm chi bị tật bị nguyền. Dữ hung tàn như thể người điên, Tới đây loạn Hoàng Thiên nào kể. Tài phép giỏi dời non lấp bể, Tội khinh khi không kể Phật Trời. Nền văn minh tạo lập cái đời, Sao dân chịu tả tơi quá khổ. Nhiều vật chất tâm phàm hiện lộ, Cuồng si mê quên chỗ của mình. Sáng tới chiều khuya sớm chống kình, Không biết sửa thân mình hiền hậu. Trong trái đất con Trời ấn dấu, Một mảy lông không lọt ráng nhìn. Tới việc rồi tàn tật mới tin, Bị phế thải ai mà nhìn nhận. Thơ biểu đọc nói tôi lắm bận, Sự làm ăn hoài vẫn hằng ngày. Gom cho nhiều để có mà nhai, Nhai đi nhé có ngày mòn mỏi. Đây sắp tới mây chiều lửa khói, Cộng với trừ ai khỏi mới thành. Kêu mỗi ai bỏ lợi cùng danh, Trời chọn lựa người lành còn lại.* Ráng tu niệm bớ trai cùng gái, Đừng lập phe lập phái làm gì. Nước cam lồ học Phật tu đi,

* Nhà nghiên cứu sấm ký Tây phương Moira Timms cũng dẫn chứng sau ngày Tận Thế, đến thời Hoàng Kim, nhơn loại còn sống sót một phần ba {a third} tương đương tỉ số chết 7 còn 3, tức còn ba phần mười: We are told again that only a third of the world’s population will survive, but that Satan will be bound for one thousand years. (Beyond Prophecies and Predictions, p. 202)

Phật Di Lạc Giáng Thế 48 Bửu Sơn Kỳ Hương

Có ánh đuốc từ bi Bồ Tát. Mau tìm gốc cây lành đụt mát, Chậm khổ sầu tan nát cả hồn. Kể từ đây bao chuyện dập dồn, Trời xây chuyển biển cồn còn sụp. Sao bá tánh tỉnh chưa lặn hụp, Sắp chìm sâu kết thúc đừng ngờ. Lá thơ này chẳng có nói chơi, Nếu ai được xin mời đọc kỹ. Ta không nói nếu ai người trí, Mau tầm về Đức Phật Di Đà. Cuối thơ buồn chúc đạo miền xa, Đời cũng vậy thiết tha bình đẳng. Tu cực khổ trải qua mới đặng, Làm người hiền tốt hẵn được còn. Trời lựa tuyển về chốn đoài non,*** Sau toại hưởng lầu son Phật thưởng. Kẻ tham lạm vất va vất vưởng, Trước âm mưu nghĩ tưởng sang giàu. Đã phụ ân quên hết đồng bào, Tình nhân loại khát khao không tưởng. Giờ còn thời nay ca mai xướng, Một phút giây bị vướng nạn Trời. Chúc quý người tu được thảnh thơi, Ráng trọn đạo cái đời gương để. Tu thành người ôi thôi đâu dễ, Thành người đi lên Phật mấy hồi. Tâm niệm hoài trí hỡi săm soi, Rồi sẽ biết sẽ coi sẽ thấy. Ta chỉ rõ bạc tiền là bẫy, Giác ngộ mau rồi thấy liên đài. Phật bây giờ đổ lệ trần ai, Vì bá tánh tới đây đọa khổ. Ngài đã nói hoa kia gần trổ, Ai hiền lương giác ngộ sau nhìn. Có một giờ võ trụ lặng thinh,

Phật Di Lạc Giáng Thế 49 Bửu Sơn Kỳ Hương

Nằm bất tỉnh cầu xin ai nữa. Đó là giờ Trời trên đóng cửa, Sau mở ra rồi tựa huy hoàng. Người sau còn chẳng có dở dang, Nước Nam Việt thênh thang rộng mở.* Chịu một lúc vừa tu trả nợ, Được hái hoa gặt trái đẹp ngần. TA cúi đầu cầu nguyện Phật ân, Ngàn muôn lạy Thánh Thần thương xót. Thơ thi phú nhỏ thôi từng giọt, Như mưa rơi ai mót đặng nhờ. Đem lời lành tả hết trong thơ, Mong cô bác bên bờ biển khổ. Lòng tha thiết mỗi ai giác ngộ, Quay về mau bờ giác có Đò. Được Tiên Ông sớm hát chiều hò, (*) Mong bá tánh ráng lo về sớm.

Nam Mô A Di Đà Phật.

Bần Sĩ Vô Danh

(Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh thuyết bài Thơ Gởi Cho Ai, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống xuân năm 2016) (*)

Ý gì TIÊN TRƯỞNG muốn khuyên đời, * Mà đời lầm lạc lắm đời ôi! Đạo đức nhuốc nhơ mà sao đặng, Tỉnh giấc mau mau mới kịp thời! (Lộ Chút Cơ Huyền, Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939)

Say ngọc Bồ Đề đức hạnh cao, Say dân ngu muội tưởng điên nào. Say chừng nó biết TA TIÊN TRƯỞNG, * Say chén quỳnh tương chốn núi cao. (Say, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939)

* Ông Lão chèo đò nguyên là Tiên Trưởng Giáo Chủ Nguyệt Cầu kỳ này giáng trần cứu thế. Ngài chính là Bồ Tát Di Lạc.

Sydney, 9-12- 2016, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo

Phật Di Lạc Giáng Thế 50 Bửu Sơn Kỳ Hương

Đại Bang Nam Việt.

Nước Nam Việt sau ngày tận thế,

Thời Thượng Nguơn thừa kế an bang. Lãnh lịnh Thượng Phụ Thiên Hoàng, Dắt dìu thế giới cứu an nhơn loài. Dậu Tuất Hợi nghiêng trời lở đất, * Tận Thế rồi kẻ mất người còn. Biên cương thay đổi núi non, Chỉ mười tám nước hậu tồn mà thôi. Nước Nam Việt nối ngôi tồn tại, Đầu chín rồng tựa đại dương đông. Đuôi rồng vùng vẫy mênh mông, Tận miền Hy Mã Lạp Sơn bên Tàu. Nước Nam Việt lớn lao tợ biển, Gồm Miên Lào Miến Điện Thái Lan. Miền Nam Trung Quốc hiệp đàng, Quy thành Nam Việt trong màn Thượng Nguơn. Vua Nam Việt Minh Hoàng Thánh đức, Nguyễn Chúa tài sáng rực non sông. Trạng Trình tái thế Mây Rồng, Quân Sư Nguyễn Chúa Tây Đông phục tùng. Khắp thế giới hiệp cùng Nam Việt, Về Thất Sơn thánh triết nghe kinh. Di Lạc giáng thế hữu hình, Thuyết kinh giảng kệ dân tình giác tâm. Mười tám nước xa xăm đều tới, Chầu phục Vua ca ngợi Minh Hoàng. Nghe kinh Di Lạc bình an, Rồng chầu phụng múa thiên đàng là đây!

Nam Mô A Di Đà Phật

Sydney, 12-11-2016, Kỳ Vân Cư Sĩ cảm tác

(facebook Mõ Tre & Kinh Sam That Son) https://kinhsamthatson.wordpress.com/

Phật Di Lạc Giáng Thế 51 Bửu Sơn Kỳ Hương

Tiên Tri của Nostradamus: Trận giặc Biển Đông và tương lai Đạo Phật Bửu Sơn.

Nostradamus nhà tiên tri người Pháp (1503-1566) viết Sấm Ký cho biết trước trận giặc Biển Đông Thái Bình Dương như sau : Mer par solaires seur passera,

Ceux de Venus tiendront toute l’Afrique :

Leur Règne plus Saturne n’occupera,

Et changera la part Asiatique. (CV, Q11)

Câu đầu có nghĩa Trung Quốc xua quân trên mặt biển Đông (Mer par) ; chữ Solaires đặc biệt được Nostradamus dùng ở dạng số nhiều có

chữ S đứng phía sau ám chỉ nước Nhựt (Solaire là mặt trời là Nhựt) ;

ghép hai chữ Solaires seur nhằm ám chỉ nước Trung Quốc.

Câu thứ nhì tiên tri Trung Quốc muốn nắm quyền thống trị cả châu

Phi : Ceux de Venus tiendront toute l’ Afrique, chữ tiendront là động

từ được tác giả dùng ở thời tương lai ám chỉ sau này (thế kỷ 21) Trung

Quốc mưu đồ vươn ra bằng đường biển {mer par} thống trị cả Phi châu

xa xôi (toute l’Afrique).

Câu thứ ba ám chỉ mưu đồ thống trị thế giới của Trung Quốc bị thất

bại : Leur règne plus Saturne n’occupera, sự thống trị ấy của Trung

Quốc sẽ không tồn tại lâu dài (n’occupera). Động từ n’occupera được

dùng ở thể tương lai ám chỉ sự cố xảy ra trong thế kỷ 21.

Và kết quả chung cuộc là sau cuộc biến thiên long trời lở đất, châu Á

sẽ thay đổi (Et changera la part Asiatique). Động từ changera cũng ở

thể tương lai ám chỉ sự cố xảy ra ở thế kỷ 21.

Nhà tiên tri Pháp Nostradamus cũng tiên tri về tông phái Đạo Phật Bửu Sơn Kỳ Hương do Đức Phật Thầy Tây An Giáo Tổ. Contre les Rouges sectes se banderont, Feu, eau, fer, corde, par paix se minera. Au point mourir ceux qui machineront, Fors un que monde sur tout ruynera. (C.IX, Q.51)

Lời giải: Để âm mưu chống lại giáo phái thờ màu đỏ {Contre les Rouges}, các thế lực tôn giáo kết hợp lại thành khối hùng mạnh {sectes se banderont, sects shall gather themselves} nhằm phỉ báng và tiêu diệt giáo phái thờ màu đỏ. Nhưng đến giờ phán xét chung kết, tất cả

Phật Di Lạc Giáng Thế 52 Bửu Sơn Kỳ Hương

những thứ vũ khí tân tiến độc hại bị tiêu hủy {Feu, eau, fer, corde, par paix se minera}, những kẻ âm mưu đen tối đều bị tử vong {Au point mourir ceux qui machineront} bởi phép mầu từ bi. Thời hoàng kim Thượng Nguơn Thánh Đức nhiều tôn giáo tan rã ngoại trừ một tôn giáo

duy nhứt tồn tại {Fors un, except one}. Động từ ruynera cũng ở thể tương lai ám chỉ sự cố xảy ra vào thế kỷ 21.

Đạo Thờ Màu Đỏ {Les Rouges}

Ở Tây phương chư Phật ngóng trông, Chờ bá tánh rủ nhau niệm Phật. Làm nhơn ái ắt tiêu bịnh tật, Vậy hãy mau tầm đạo Thích Ca. Phật tại tâm chớ có đâu xa, Mà tìm kiếm ở trên non núi. Chúng đục đẻo những cây với củi, Đắp xi măng sơn phết đặt tên. Ngục A Tỳ dựa kế một bên, Chờ những kẻ tu hành giả dối. Khuyên sư vãi mau mau cải hối, Đức Phật Thầy Tây An Làm vô vi chánh đạo mới mầu. Đạo Thích Ca nhiều nẻo cao sâu, Hãy tìm kiếm cái Không mới Có. Ngôi Tam Bảo hãy thờ Trần Đỏ, * Tạo làm chi những cốt với hình. Khùng nói cho già trẻ làm tin, Theo Lục Tổ chớ theo Thần Tú. Khuyên bổn đạo chớ nên mê ngủ, Thức dậy tìm đạo chánh của Khùng. Đặng sau xem liệt quốc tranh hùng, Bàn thờ chùa Thới Sơn Được sanh sống nhờ ơn Chín Bệ. Hóa phép lạ biết bao mà kể, Chín từng mây nhạc trổi tiêu thiều. Kẻ tà gian sau bị lửa thiêu, Người tu niệm sống đời Thượng Cổ. Khùng vưng lịnh Tây phương Phật Tổ, Nên giáo truyền khắp cả Nam kỳ.

Ghi chú: Tông phái Đạo Phật Bửu Sơn Kỳ Hương do Đức Phật Thầy Tây An khai sáng từ năm Kỷ dậu 1849, chủ trương ngôi Tam Bảo thờ tấm trần đỏ {trần điều}. Màu đỏ {màu điều} tượng trưng sự thăng hoa tinh thần của người tu.

Phật Di Lạc Giáng Thế 53 Bửu Sơn Kỳ Hương

Hội Long Hoa chọn kẻ tu mi, Người hiền đức đặng phò chơn Chúa. (Kệ Dân của Người Khùng, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939)

Ai có đến Tây An Cổ Tự, Mong ai có để lòng suy nghĩ, Cũng lấy làm lạ mắt mọi điều; Nhắc người không quên chữ Trần Điều. Sự phượng thờ hay cách biểu nêu, Tuy vật khinh mà giá cao siêu, Đều có chỗ Vô Vi huyền bí. Hãy thành kính chớ lời khinh bội! (Thơ ứng khẩu của Bồ Tát Thanh Sĩ năm 1952, kết tập sách Đức Phật Thầy Tây An tr. 37, Vương Kim biên khảo ấn tống năm 1953)

Văn Minh Nguyên Tử

Văn minh nguyên tử hạt nhân, Tự hào vật chất chẳng cần huyền vi.

Coi Trời nhỏ tợ hòn bi, Tự hào khoa học vậy thì mẹ cha. Vệ tinh phóng ghẹo Hằng Nga,

Tưởng rằng như vậy giỏi đà hơn ai. Mỹ Nga Tàu Pháp…đua tài,

Tự hào khoa học có ngày tiêu vong. Vũ khí sản xuất chất chồng,

Lớp thủ lớp bán đèo bồng ác gian. Vậy còn vỗ ngực khoe khoan,

Văn minh vật chất thiên đàng là đây. Văn minh Âu Mỹ phương tây,

Đào non rồi lấp biển này mỏ kia. Thải ra chất độc đầm đìa,

Dưới biển mặt đất làm bia tử thần. Địa cầu bị phá mòn lần,

Thử nghiệm nguyên tử dần dần nát tan. Quân bình vũ trụ sắp tàn,

Rối loạn dương hệ mở màn bão giông. Dây chuyền ảnh hưởng chẳng không.

Tâm người điên đảo bưởi bòng chanh chua. Đem tài khoa học hơn thua,

Đánh nhau một trận như cua gãy càng. Thế chiến Đinh Dậu mở màn,*

Khuyên người thức tỉnh tìm đàng tu thân.

Phật Di Lạc Giáng Thế 54 Bửu Sơn Kỳ Hương

Đêm ngày niệm Phật chuyên cần, Đừng mê khoa học vong ân Phật Trời.

Tận thế có thật người ơi, Nếu không Tiên Phật đâu rời Tây Phương.

Tà Bà chan nắng dầm sương, Thuyết bao kinh sấm vấn vương khuyên đời.

Hỡi người thức tỉnh kịp giờ, Tu hành ứng thí kịp thời Long Hoa.

Sydney, 12-11-2016, Kỳ Vân Cư Sĩ cảm tác & biên khảo

Phương Tiện Giới Sát

Chay bốn bữa ấy là quy tắc, Lời Đức Thầy dìu dắt chúng sanh. Đức Thầy dạy rõ ngọn ngành, Người mới quy Phật chưa rành ăn chay. Mới ăn tương rứt ray trong bụng, Mới ăn chao kinh khủng lắm thay! Cồn cào bao tử đêm ngày, Bốn bữa chay ấy thấy dài muôn thu! Rồi từng bước âm u biến mất, Nguyện y hành cõi Phật hiện dần. Chao tương bốn bữa ân cần, Lâu ngày tập tểnh lần lần tiến lên. Từ bốn bữa tiến bền sáu bữa, Sáu bữa rồi tiến nữa không thôi. Chay kỳ tiến mãi được rồi, Thì là tiến tới được ngôi chay trường! Việc tu tịnh chao tương là quý, Lời Đức Thầy dạy kỹ trong kinh. Giới răn nhà Phật giữ gìn, Tu hành đừng có sát sinh thú cầm. Người tu hành luyện tâm thanh tịnh, Dốc một lòng an định như như. Dù ai bảo dại cũng ừ, Chao tương đạm bạc ta cười vui tươi !

Sydney, 10-11-2016, Kỳ Vân Cư Sĩ

Pháp Phật chỉ có một là giải thoát, không hai mà cũng không ba…Nhưng căn cơ chúng sanh sâu dày khác nhau, nên Bồ Tát phương tiện nói vô, nói hữu, nói chay kỳ, chay trường…Nếu chấp duy nhứt một phương tiện ắt là bế tắt. Phải phương tiện uyển chuyển dĩ huyễn độ chơn mới mong cứu độ tất cả chúng sanh, không chấp cao hay thấp. Nay đệ tử xin cảm tác những dòng thơ sau đây minh họa pháp phương tiện: Phương Tiện Giới Sát.

Phật Di Lạc Giáng Thế 55 Bửu Sơn Kỳ Hương

Chuyện Lạ Cái Răng Biết Nói.

Đêm khuya thời khắc canh ba, Mọi người an giấc Lão Già trở trăn.

Đêm nằm thao thức nhức răng, Lung lay mấy lượt chắc rằng nhổ đi.

Lão Ông rên rỉ sầu bi, Cái răng thỏ thẻ thầm thì: Lão ơi!

Thương nhau cũng phải xa rời, Luật Trời thành trụ nay thời hoại không.

Tới kỳ tôi phải xa Ông, Luật trời định vậy đau lòng mãi chi.

Lão Ông thương tiếc vân vi: Nhổ răng chẳng có còn gì nhai ăn. Răng rằng: Mấy chục năm hằng,

Vì Ông tôi tạo nghiệp bằng núi non. Khiến Ông tội lỗi vẫn còn,

Thôi nay xa cách véo von thêm sầu. Lão rằng: Tội lỗi gì đâu?

Răng rằng: Tội lỗi sánh hầu trời mây. Kể sơ cho Lão như vầy,

Lão nhậu thịt cầy bắt buộc răng nhai. Bò trâu heo chó gà nai,

Lão ăn đủ thứ thịt say mặn nồng. Ôi thôi thầy chú mấy ông,

Bạn bè rủ nhậu dài dòng thâu đêm. Phận răng tôi phải nhai thêm,

Nhai giò nhai cẳng chẳng êm chút nào. Giò cẳng xương xốc biết bao,

Lại thêm đồ biển cua nào càng to. Bắt răng rôm rốp nhai cho,

Lắm khi răng nứt gay go vô cùng. Kiếp làm răng phải phục tùng,

Cắn nhai nhai cắn thung dung bao giờ. Nay tôi đang đợi đang chờ,

Phật Di Lạc Giáng Thế 56 Bửu Sơn Kỳ Hương

Ông đến nha sĩ nhổ thời bỏ đi. Ông nay tuổi quá thất kỳ,

Bỏ rượu bỏ thịt vậy thì tốt thôi. Lão Ông thổn thức bồi hồi:

Nhổ răng móm xọm thì rồi vô duyên. Khi cười khi nói luân phiên,

Móm ma móm mém ngửa nghiêng ai nhìn. Răng rằng: Ông muốn đẹp xinh, Thì ra nha sĩ trồng tình răng tơ. Khi cười thêm mộng thêm mơ,

Gái trinh nó tưởng trai hờ tìm hoa. Thế là tai họa đâu xa,

Động lòng Ông khó vậy mà đoan trang. Khuyên Ông nên bỏ mơ màng,

Cuộc đời thành trụ tới tàn hoại không. Ông ơi hãy biết toại lòng,

Vòng trời luân chuyển Có Không chu kỳ. Tuổi Ông bảy chục còn gì,

Khuyên Ông tu tịnh tâm thì yên thôi. Ăn uống chay lạt được rồi,

Coi ai nghèo bố thí bồi tình thương. Năm Thân thời tiết bất thường.

Chỗ lụt chỗ hạn tang thương hải hà. Khuyên Ông sắp tới năm Gà, Đinh Dậu 2017

Giặc Tàu nổi dậy can qua máu đào. Ông ơi gieo giống thiện mau,

Giống nào quả nấy làu làu không sai. Mấy lời tôi nói thày lay,

Khuyên bỏ rượu thịt kéo dài phước căn. Mong Ông giữ được đạo hằng,

Qua năm Đinh Dậu phước tăng công bồi. Vì thương tôi có lỡ lời,

Xin Ông thứ lỗi tôi thời đội ơn.

Nam Mô A Di Đà Phật Sydney, 10-12-2016 {Bính Thân}, Kỳ Vân Cư Sĩ cảm tác & biên khảo

Phật Di Lạc Giáng Thế 57 Bửu Sơn Kỳ Hương

Lôtô Thượng Nguơn

Thương nhân mến vật là bậc Thánh Hiền, Cửa Thánh nhà Tiên về miền xưa ấy. Sửa sai sửa quấy mới thấy Thượng Nguơn, Không có gì hơn hết cơn đau khổ. Hoa rừng đua trổ hoa súng dưới ao, Sen ở dưới bàu mùi thơm bát ngát. Trái cây không chát mà chẳng có chua, Đổi tiết thay mùa tàn cây thảo mộc. Không còn bẻ chọc trồng cực như nay, Trái cây có hoài ăn không có hết. Thật là mê mết cái cảnh Thượng nguơn, Cây lá như đờn lá reo lên tiếng. Không còn ao giếng bàu vũng như nay, Đất chẳng có cày gieo ngay hạt giống. Tự nhiên có mộng nẩy nở phát sinh, Chẳng phải có sình đất xinh tuyệt đẹp. Không còn giày dép đi hỡi giẫm bừa, Đất đổi buổi trưa chiều thời thấy khác. Trời mưa man mát ánh nắng hồng soi, Các thú các loài sống chung hớn hở. Người không trêu trớ giết bắn thú lang, Nó ở dưới làng người dân thương mến. Ngày kia tại bến nước chẳng xuống ghe, Cá thu cá mè làm ghe nó chở. Người ơi ráng nhớ sung sướng vô cùng, Ngủ chẳng giăng mùng không ruồi không muỗi. Ráng đi cho giỏi thay lớp đổi màn, Dân chúng cả làng cơ quan bản thể. Không còn kinh kệ kêu réo như nay, Không có hằng ngày cuốc đai còn khổ. Đất thì không lỗ không chỗ lố gò, Trời đất ban cho san bằng lập lại. Không còn đạo phái đạo nọ đạo kia, Không sớm không khuya không chiều không sáng.

Phật Di Lạc Giáng Thế 58 Bửu Sơn Kỳ Hương

Người đi thấy dạng giống hệt tiên nga, Không còn ơ à cô bà ỉ lại. Ngày sau trai gái ơi hỡi rất hiền, Không có lụy phiền lời qua tiếng lại. Nhắc cho người hãy ráng sống tới đời, Thương nhau không rời khít bên năm tháng. Bây giờ quá chán cái cảnh chát chua, Trời đổi tiết mùa sau chùa biến mất. Tiền không có cất sau có xài hoài, Bạc tiền ngày nay sương mai mục nát. Sau này đồng bạc giá trị vô cùng, Sống cảnh ung dung trùng phùng vĩnh cửu. Nước nhà quy tụ nhựt nguyệt thay nhau, Trăng sáng đủ màu trời hồng thanh đạm. Bụi đâu có bám gió thổi vi vu, Không có lao tù, nhà thương cũng dẹp. Không giày không dép đất cát pha lê, Cây mọc hướng về mùa nào cũng có. Nói về mưa gió mưa dạng như kim, Mưa rất êm đềm hạt mưa nhỏ rít. Gió dông không dịch thổi tấp ạt ào, Ngọn gió ngạt ngào ngày nào cũng có. Nói về cây cỏ mọc ven bên đường, Cỏ còn biết thương người đi trong sạch. Nó còn biết lách mọc cách thức nào, Nói về cải rau thiên nhiên gieo giống. Thấy không có mộng mọc thật ngộ đời, Non nõn vậy thời tuyết sương vun tưới. Lòng từ khấp khởi nhắc đến thú cầm, Mình quá giết đâm thù thâm cấu xé. Giết đâm thú nhé nó hận oán mình, Đời nay ráng nhìn quả căn phải trả. Bây giờ tập xóa thương vật mến nhơn, Sau đời Thượng Nguơn chập chờn thấy nó. Keo sơn gắn bó nó sẽ gần mình, Kết bạn thâm tình với loài thú dã.

Phật Di Lạc Giáng Thế 59 Bửu Sơn Kỳ Hương

Nói về bầy cá bơi lội dưới sông, Nước trời lọc trong vi mang thấy rõ. Mắt cá rất tỏ nó thấy người đi, Khoe vảy khoe vi nó đùa lấp lánh. Còn chim xòe cánh bay sát bên mình, Như muốn kết tình líu lo kêu hót. Không còn đau xót ghê gớm như nay, Cọp beo rừng dài làm mền làm gối. Nếu đi mệt mỏi nó tới ngả lăn, Làm chiếu làm chăn ngả lưng đôi phút. Như tình cốt nhục kết nghĩa thâm giao, Ngày ấy ngày nào Thầy cho người biết. Đời nay đã tiệt mới đến nghe chưa, Thượng Nguơn Trời chừa Tân dân Phật đợi. Cứ tu đừng sợ vui vẻ bình an, Đừng có tính toan lụa vàng tài chất. Một mai đã mất không thấy Thượng Nguơn, Thánh Đức nghe đờn Tiên Ông đã khảy.* Nhắc cho trai gái đạo phái cùng chung, Lão đã điên khùng ngày cùng cho biết. Bài này Thầy viết trước nhắc người xưa, Ngày nay quá thừa thôi Thầy yên nghỉ.

Nam Mô Đức Phật Tổ Phật Thầy Bửu Sơn Kỳ Hương.

(Đường Về Tà Lơn tr. 132-134, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh thuyết, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2013)

Phật Di Lạc Giáng Thế 60 Bửu Sơn Kỳ Hương

Ai khôn sau được nằm sàng, Còn mê vật chất kinh hoàng lọt sâu.

Ai khôn sau được cỡi TRÂU, Tân Sửu 2021 Còn ai cãi Phật mất Trâu buồn lòng.

Ai khôn còn gặp CHUỘT đồng, Canh Tí 2020

HEO về cũng biết no lòng nhờ tu. Kỷ Hợi 2019

Đức dày mặc kệ CHÓ tru, Mậu Tuất 2018

CHÓ tru mặc Chó, cố tu được rồi. (Bài Càn Khôn Dĩ Định trích trong quyển Mê Ngộ, Tu sĩ Thiện Đạo Nhân thuyết tại Tam Bảo Tự suối Lồ Ồ, đêm 16-1-Canh Tuất 1970)

Sau cuộc biến thiên long trời lở đất, sàng lọc hiền còn dữ mất chết 7 còn 3, người hiền sống sót lên đời Thượng Nguơn Thánh Đức. Kể từ năm con chuột Canh Tí 2020, năm con trâu Tân Sửu 2021 trở đi, Trời Phật dùng phép huyền linh biến đổi ngũ hành, thời kỳ Canh Tân thời tiết điều hòa, đất thạnh phù sa, cây lành trái ngọt, đời người trường thọ hàng trăm tuổi, hòa bình vĩnh cửu, nhà ngủ khỏi đóng cửa, của rơi ngoài đường không ai lượm, bồng lai tại trần. Thánh địa Phật Di Lạc ở Nam VN.

Chuột nhỏ đào ổ quá sâu, Nằm hang ca hát ai đâu biết gì.

Trâu tôi rất giỏi ai bì, Chờ cho nước cạn bắt thì cày chơi.

Mặc tình đúng buổi nghỉ ngơi, Thượng nguơn ăn tết chiều mơi đã gần.

(Kinh Giảng Xưa của Tứ Thánh)

Sydney, 10-12-2016, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo

(facebook Mõ Tre & Blog Kinh Sam That Son) https://kinhsamthatson.wordpress.com/