qu¸ tr×nh §Êu tranh b¶o vÖ §éc lËp d¢n téc ë cuba tõ …hcma.vn/uploads/2018/5/8/luan...
TRANSCRIPT
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LỘC THỊ THUỶ
QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC
ë CUBA Tõ N¡M 1991 §ÕN N¡M 2016
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ PHONG TRÀO CỘNG SẢN,
CÔNG NHÂN QUỐC TẾ VÀ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
HÀ NỘI - 2018
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LỘC THỊ THUỶ
QU¸ TR×NH §ÊU TRANH B¶O VÖ §éC LËP D¢N TéC
ë CUBA Tõ N¡M 1991 §ÕN N¡M 2016
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ PHONG TRÀO CỘNG SẢN,
CÔNG NHÂN QUỐC TẾ VÀ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
Mã số: 62 22 03 12
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. NGUYỄN VIẾT THẢO
2. PGS.TS. TRẦN THỌ QUANG
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và có
nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Lộc Thị Thuỷ
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI 7
1.1. Công trình nghiên cứu của các tác giả liên quan đến luận án 7
1.2. Vấn đề chưa được giải quyết 24
1.3. Những vấn đề luận án tập trung làm rõ 24
Chương 2: QUAN NIỆM VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
Ở CUBA TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2016 26
2.1. Quan niệm về bảo vệ độc lập dân tộc 26
2.2. Những nhân tố tác động đến quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân
tộc ở Cuba 35
Chương 3: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC
LẬP DÂN TỘC Ở CUBA TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2016 60
3.1. Mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung của Đảng và Nhà nước Cuba về đấu
tranh bảo vệ độc lập dân tộc 60
3.2. Sự triển khai và kết quả thực hiện quá trình đấu tranh bảo vê ̣̣độc lập
dân tộc của Cuba 70
Chương 4: ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP
DÂN TỘC Ở CUBA TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2016, MỘT
SỐ ĐẶC ĐIỂM VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 119
4.1. Thành tựu và hạn chế 119
4.2. Một số đặc điểm của quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở
Cuba giai đoạn 1991-2016 129
4.3. Vấn đề đặt ra đối với Cuba trong thời gian tới và liên hệ với kinh
nghiệm của Việt Nam 135
KẾT LUẬN 149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 169
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Tên viết tắt Tên tiếng việt Tên gốc tiếng Tây Ban Nha/
tiếng Anh
ALADILAIA
Hiệp hội liên kết
Mỹ Latinh
- Asociación Latinoamericana de
Integración
- Latin American Integration
Association
ALBA
Liên minh Bolivar dành cho
các dân tộc Châu Mỹ chúng
ta
- Alianza Bolivariana para los Pueblos
de Nuestra America
- Bolivarian Alliance for the Peoples of
Our America
CANACN Cộng đồng các quốc gia
vùng Andes
- Comunidad Andina de Naciones
- Andean Community of Nations
APPA Liên minh Thái Bình Dương - Allianza del Pacifico
- Pacific Alliance
CACM Thị trường chung Trung Mỹ - Central American Common Market
CARICOM Cộng đồng Caribe - Caribbean Community
CELAC Cộng đồng các nước Mỹ
Latinh và Caribe
- Community of Latin American and
Caribbean States
- Comunidad de Estados
Latinoamericanos y Caribeños
CEPAL
Ủy ban Kinh tế Mỹ Latinh
và Caribe (của Liên Hợp
Quốc)
- Comisión Económica para América
Latina y el Caribe
EC Cộng đồng Châu Âu - European Community
EU Liên minh Châu Âu - European Union
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài - Foreign Direct Investment
ICAP Viện Cuba hữu nghị với các
dân tộc
- Instituto Cubano de Amistad con los
Pueblos
IS Tổ chức Nhà nước Hồi giáo
tự xưng
- Islamic State
GDP Tổng sản phẩm quốc nội - Gross Domestic Product
MERCOSUR Khối thị trường chung Nam - Mercado Común del Sur
SCM Mỹ - Southern Common Market
NAFTA Hiệp định Thương mại tự do
Bắc Mỹ
- North American Free Trade
Agreement
NAM Phong trào Không liên kết - Non-Aligned Movement
OAS Tổ chức các quốc gia Châu
Mỹ
- Organization of America States
RIO Nhóm RIO
- Grupo de Río
- Group of RIO
PAHO Tổ chức Y tế liên Mỹ - Pan American Health Organization
PDCA Thỏa thuận hợp tác và Đối
thoại chính trị song phương
- Political Dialogue and Cooperation
Agreement
SEV
CMEA
Cộng đồng kinh tế tương trợ
- Sovyet Ekonomičeskoy
Vzaimopomošči (tiếng Nga)
- Council of Mutual Economic
Assistance
TNC Tập đoàn xuyên quốc gia - Trans National Corporation
UNDP Chương trình Phát triển Liên
Hợp Quốc
- United Nations Development
Programme
UNESCO
Tổ chức giáo dục, khoa học
và văn hóa của Liên Hợp
Quốc
- United Nations Educational Scientific
and Cultural Organization
UN Liên Hợp quốc - Union Nation
USD Đồng đô la Mỹ - United States Dollars
WTO Tổ chức thương mại thế giới - World Trade Organization
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc (9/1945), trên thế giới đã chứng kiến
sự phát triển mạnh mẽ của 3 trào lưu cách mạng (cách mạng giải phóng dân tộc,
cách mạng xã hội chủ nghĩa và cách mạng khoa học kỹ thuật). Đặc biệt, là cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc đã tạo tiền đề quan trọng dẫn tới sự ra đời của
nước Cộng hòa Cuba vào ngày 1/1/1959, quốc gia sau đó đã lựa chọn con đường
đi lên xã hội chủ nghĩa (16/4/1961).
Thắng lợi của cuộc cách mạng Cuba trước chế độ độc tài Batista do Mỹ
hậu thuẫn được coi là minh chứng sống động về tinh thần đấu tranh kiên cường
của các dân tộc bị áp bức chống lại ách thống trị, cường quyền của chủ nghĩa
thực dân, đế quốc và khẳng định quan điểm đúng đắn của Lênin rằng: "Lịch sử
tiến theo những con đường rất lạ lùng và chính một nước lạc hậu lại có vinh dự
đi đầu một phong trào thế giới vĩ đại" [124, tr.431]. Trong suốt giai đoạn từ năm
1959-1991, nhân dân Cuba luôn phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược đó là:
vừa xây dựng đất nước, bảo vệ thành quả của cuộc cách mạng, vừa phải đương
đầu với sự chống phá của các thế lực phản động trong và ngoài nước được Mỹ
hậu thuẫn.
Sau khi chiến tranh Lạnh kết thúc (12/1991), dẫn tới sự sụp đổ của Liên
Xô (một đồng minh truyền thống), đã làm cho Cuba lâm vào khủng hoảng toàn
diện và sâu sắc khi mất đi 85% kim ngạch xuất nhập khẩu; 95% nguồn cung cấp
dầu; 57% sản lượng lương thực; GDP giảm 35%;mức lương thực tế giảm 25%;
nhập khẩu tới 70% lương thực, thực phẩm; tình trạng bất ổn định xã hội gia tăng;
niềm tin của nhân dân vào chế độ và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bị suy
giảm; trong nội bộ Đảng cộng sản Cuba cũng có nhiều ý kiến bất về con đường
phát triển của đất nước [92, tr.12]. Thêm vào đó, trong thời gian này, các chính
quyền Mỹ đã tăng cường các biện pháp chống phá Cuba thông qua Đạo luật
Torricelli (1992) và Helm-Burton (1996) nhằm bóp nghẹt nền kinh tế Cuba; tài trợ
cho các lực lượng đối lập trong nước nhằm mục tiêu lập ra các đảng đối lập chống
phá và gây ra các vụ bạo động nhằm làm bất ổn chính trị-xã hội; kích động lực
lượng người Mỹ gốc Cuba chống đối chính quyền và đẩy mạnh Đạo luật "Di trú"
2
(Chân ướt, chân giáo) nhằm lôi kéo những người Cuba vượt biên trái phép sang Mỹ
và một số nước Mỹ Latinh. Đứng trước bối cảnh trên, Đảng và Nhà nước Cuba đã
đề ra đường lối cải cách kinh tế tại Đại hội lần thứ IV (10/1991), với phương châm
"chọn lọc dần dần và có trật từ", nhằm mục tiêu đưa đất nước thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế-xã hội trong "Thời kỳ đặc biệt trong hòa bình".
Sau một thời gian thực hiện, nền kinh tế Cuba đã từng bước thoát khỏi
khủng hoảng; đời sống nhân dân dần được cải thiện; hệ thống chính trị-xã hội ổn
định; nền độc lập dân tộc được giữ vững; niềm tin của nhân dân vào chế độ được
củng cố...Đây chính là cơ sở để Đảng và nhà nước Cuba tuyên bố bước ra khỏi
"Thời kỳ đặc biệt trong hòa bình" vào năm 2004 và đưa đất nước bước vào giai
đoạn mới là đẩy mạnh cải cách kinh tế và thực hiện chủ trương "Cập nhật hóa
mô hình kinh tế-xã hội". Sau hơn một thập kỷ thực hiện chủ trương trên (2004-
2016), đến nay, nền kinh tế Cuba đã từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh
tế-xã hội; chế độ chính trị-xã hội được giữ vững; nền độc lập dân tộc và chủ
quyền quốc gia được đảm bảo; quan hệ quốc tế được mở rộng, nhất là việc Mỹ
đã tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Cuba sau gần 60 năm đối đầu, thù địch.
Những thành công nêu trên đã góp phần củng cố vào sự nghiệp đấu tranh bảo vệ
độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia trong bối cảnh mới.
Tuy nhiên, quá trình đấu tranh và bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba trong
giai đoạn này cũng vẫn phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức từ bên trong
và bên ngoài như: chính sách cấm vận kinh tế của Mỹ vẫn được duy trì và có
phần siết chặt hơn; sự điều hành nền kinh tế vĩ mô còn nhiều bất cập, hạn chế; sự
chống phá của các thế lực phản động vẫn tiếp tục gia tăng; những mặt trái của
chính sách bao cấp, miễn phí cũng tác động không nhỏ đến quá trình này...
Sở dĩ tác giả quyết định lựa chọn đề tài về quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập
dân tộc ở Cuba mà không chọn các quốc gia khác bởi cách mạng Cuba có những
nét đặc trưng riêng có, không chỉ ở Mỹ Latinh mà còn trên thế giới, đó là: Cuba là
quốc gia xã hội chủ nghĩa duy nhất ở Tây bán cầu, nằm ngay sát nách kẻ thù là đế
quốc Mỹ, nhưng vẫn tồn tại và đứng vững bất chấp sự chống phá quyết liệt. Mặt
khác, cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba luôn gắn liền với con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội, với nghĩa vụ quốc tế cao đẹp; các chính sách miễn phí về giáo
3
dục, y tế, an sinh xã hội được coi là vũ khí quan trọng, minh chứng rõ nét nhất về tính
ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân Cuba đang xây dựng.
Giai đoạn 1991-2016, cũng được coi là mốc son tiêu biểu nhất, thể hiện
sinh động, rõ nét nhất sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Cuba trong bối cảnh mới. Đây là giai đoạn có những nét khác
biệt cơ bản so với thời kỳ thực hiện Kế hoạch hóa 1961-1991, khi Cuba có sự
hậu thuẫn của Liên Xô trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nghiên cứu
quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba trong giai đoạn này thực sự
đã đem lại cho quốc đảo này những bài học kinh nghiệm quý báu không chỉ
trong giai đoạn hiện nay mà còn trong những năm tiếp theo bởi: những thành
công và thất bại từ quá trình cải cách và cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội
trong giai đoạn này sẽ được lãnh đạo đảng, nhà nước Cuba đúc rút và phát triển
nó tốt hơn trong giai đoạn kế tiếp; giúp Cuba có được những kinh nghiệm quý
báu trong quá trình hội nhập quốc tế và tham gia gia sâu rộng hơn vào sân chơi
kinh tế quốc tế; giúp Cuba từng bước kiện toàn, củng cố và cải cách đường lối
phát triển kinh tế-xã hội, qua đó củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản đối
với đất nước và nhân dân; những kinh nghiệm của Cuba trong việc duy trì các
chính sách an sinh xã hội, giáo dục, y tế tốt đẹp trong giai đoạn này sẽ tiếp tục
được coi là lợi thế so sánh giúp quốc đảo này phát triển kinh tế và bảo vệ vững
chắc chế độ xã hội chủ nghĩa trong thời gian tới.
Với tư cách là một học giả ở Việt Nam, một quốc gia có nhiều nét tương
đồng với Cuba: có cùng ý thức hệ; phải tiến hành các cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc chống lại ách xâm lược của Mỹ và tay sai; có cùng mục tiêu và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội và đều là những quốc gia bị Mỹ thực thi các chính
sách bao vây cấm vận...nhưng sau 30 năm thực hiện công cuộc "Đổi mới" Việt
Nam đã thu được nhiều thành tựu quan trọng đó là: giữ vững được sự ổn định
chính trị-xã hội; nền độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia được bảo đảm; đời
sống của nhân dân không ngừng được nâng cao; vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế được mở rộng... Đây chính là bài học tham chiếu có ý nghĩa quan trọng
đối với Cuba, nhất là trong bối cảnh quốc đảo này đang thúc đẩy công cuộc cải
cách kinh tế nhằm mục tiêu từng bước đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng;
4
cải thiện đời sống của nhân dân; tranh thủ sự ủng của cộng đồng quốc tế yêu cầu
Mỹ xóa bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận kinh tế.
Với những nhận thức nêu trên, tác giả đã quyết lựa chọn đề tài: "Quá
trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba từ năm 1991 đến năm 2016"
làm luận án tiến sỹ chuyên ngành Lịch sử Phong trào cộng sản, công nhân quốc
tế và giải phóng dân tộc.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích của luận án
Luận án tập trung phân tích và làm rõ thực trạng đấu tranh bảo vệ độc lập
dân tộc ở Cuba từ năm 1991 đến năm 2016 trên các lĩnh vực chính trị- ngoại
giao; kinh tế; an ninh- quốc phòng; văn hóa- xã hội. Sau đó, tác giả đi đưa ra
những đánh giá về thành tựu và hạn chế, một số đặc điểm, vấn đề đặt ra đối với
quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba và liên hệ với kinh nghiệm
của Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
- Đưa ra một số quan niệm về độc lập dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc,
sau đó đi sâu phân tích những nhân tố tác động đến quá trình đấu tranh bảo vệ
độc lập dân tộc ở Cuba từ năm 1991 đến năm 2016;
- Phân tích mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung và sự triển khai của quá trình
đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba từ năm 1991 đến năm 2016 qua 2 giai
đoạn: 1991-2004 và 2004-2016 trên các lĩnh vực: Chính trị- ngoại giao; kinh tế;
an ninh- quốc phòng; văn hóa-xã hội;
- Đánh giá những thành tựu, hạn chế và một số đặc điểm đặc trưng của
Cuba về quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc giai đoạn 1991-2016.
- Nêu lên một số vấn đề đặt ra đối với quá trình bảo vệ độc lập dân tộc ở
Cuba trong thời gian tới và liên hệ với kinh nghiệm của Việt Nam về đấu tranh
bảo vệ độc lập dân tộc trong giai đoạn 1991-2016.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu: những chủ trương, đường lối, chính sách
(mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung) và sự triển khai của quá trình đấu tranh bảo vệ
độc lập dân tộc ở Cuba từ năm 1991 đến năm 2016
5
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung của luận án: tập trung nghiên cứu về quá trình đấu tranh
bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba trên các lĩnh vực: Chính trị- ngoại giao; kinh tế;
an ninh- quốc phòng; văn hóa- xã hội.
- Về không gian: nước Cộng hòa Cuba trong bối cảnh đấu tranh bảo vệ
độc lập dân tộc
- Về thời gian: Thời gian nghiên cứu của đề tài được giới hạn từ năm 1991
đến năm 2016. Năm 1991 là thời điểm Cuba tiến hành Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IV, Đại hội đầu tiên của Công cuộc Cải cách kinh tế. Đây cũng là giai
đoạn rất khó khăn của đất nước Cuba vì sau khi Liên Xô sụp đổ, Cuba mất đi
một đồng minh chiến lược về chính trị và kinh tế. Mặt khác, đây cũng là thời
điểm chính quyền Mỹ thắt chặt hơn chính sách bao vây, cấm vận với Cuba thông
qua việc đề ra Đạo luật Torricelli (1992). Năm 2016, là mốc Cuba kỷ niệm 25
năm cải cách kinh tế và 55 năm Cuba tuyên bố tính chất xã hội chủ nghĩa của
cuộc Cách mạng. Đây cũng là năm đánh dấu 5 năm Cuba thực hiện chủ trương
“Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội” và tiến hành Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VII.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin về thời đại; vấn đề dân tộc và quyền tự quyết dân tộc; vấn đề giai
cấp và đấu tranh giai cấp; quan niệm của Đảng và Nhà nước Cuba về đấu tranh
bảo vệ độc lập dân tộc được đề cập trong các Văn kiện, Cương lĩnh chính trị tại
Đại hội Đảng lần thứ IV, V, VI, VII và nền tảng tư tưởng của Jose Marti, tư
tưởng lịch sử của lãnh tụ Fidel Castro.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tác giả còn sử dụng một
số phương pháp khác như: phương pháp lịch sử, phương pháp tổng hợp,
phương pháp so sánh, phương pháp phân tích và phương pháp quy nạp để
trình bày luận án.
6
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án có thể giúp cho người đọc tiếp cận một cách rõ nét hơn về quá
trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của một quốc gia xã hội chủ nghĩa nhỏ bé
đứng bên cạnh một đế quốc, một siêu cường tư bản chủ nghĩa. Đây cũng là cuộc
đấu tranh kéo dài nhất trong lịch sử (kéo dài gần 6 thập kỷ) trong việc phá thế
bao vây, cấm vận, cô lập của Mỹ.
- Đánh giá những thành tựu, hạn chế về mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung và
quá trình triển khai trên các lĩnh mà Đảng và Nhà nước Cuba đã thực hiện trong
giai đoạn 1991-2016 đối với quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc.
- Từ những thành tựu và đóng góp trong quá trình đấu tranh bảo vệ độc
lập dân tộc ở Cuba, có thể khái quát thành một số đặc điểm của quá trình đấu
tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba trong giai đoạn này.
- Luận án cũng góp phần làm phong phú thêm nguồn tài liệu tham khảo
cho việc nghiên cứu, giảng dạy về quan hệ quốc tế, lịch sử về phong trào cộng
sản công nhân quốc tế và giải phóng dân tộc của Việt Nam.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận án được kết cấu thành 04 chương, 10 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA CÁC TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
1.1.1. Các công trình nghiên cứu của các tác giả Việt Nam
* Nhóm các công trình liên quan đến quan niệm về bảo vệ độc lập dân tộc
Trong cuốn: "Độc lập dân tộc của các nước đang phát triển trong xu thế
toàn cầu hóa" của tác giả Thái Văn Long [48]. Tác giả đã tập trung đi sâu phân
tích 4 nội dung chính: thứ nhất, những nhân tố tác động đến độc lập dân tộc của
các nước đang phát triển như: chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội, lịch sử truyền
thống, trong đó yếu tố văn hóa-xã hội, lịch sử truyền thống được coi là yếu tố
quan trọng trong việc đề ra đường lối, chính sách của các nước đang phát triển;
thứ hai, nêu rõ những lực lượng tham gia cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc
hiện nay: phong trào Không liên kết (NAM), các nước xã hội chủ nghĩa và
phong trào cánh tả...; thứ ba, đưa ra những nội dung cơ bản trong cuộc đấu tranh
bảo vệ độc lập dân tộc của các nước đang phát triển; thứ tư, phân tích những vấn
đề cơ bản trong quá trình đấu tranh và bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam
trong xu thế toàn cầu hóa. Những tác động của quá trình toàn cầu hóa mà tác giả
nêu trên cũng chính là những vấn đề mà các nước đang phát triển đang phải đối
mặt khi hội nhập quốc tế, trong đó có Cuba.
Trong cuốn: "Chủ quyền quốc gia dân tộc trong xu thế toàn cầu hóa và
vấn đề đặt ra đối với Việt Nam" của tác giả Nguyễn Hoàng Giáp và Phan Văn
Rân [36]. Các tác giả tập trung đi sâu phân tích quá trình bảo vệ độc lập dân tộc
của các nước đang phát triển dựa trên các vấn đề lý luận, thực tiễn về chủ quyền
quốc gia dân tộc, toàn cầu hóa. Trong đó, chia làm 3 chương, chương 1, các tác
giả đã tập trung vào vấn đề chủ quyền quốc gia dân tộc trong quá trình toàn cầu
hóa; chương 2, phân tích quan điểm của Việt Nam về độc lập dân tộc, chủ quyền
quốc gia của Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, đồng
thời, đưa ra những thành tựu và hạn chế của Việt Nam trong quá trình này;
chương 3, tác giả đưa ra một số khuyến nghị đối với Việt Nam trong việc tăng
8
cường bảo vệ độc lập dân tộc trong hội nhập quốc tế. Thông qua những khuyến
nghị đối với Việt Nam trong việc tăng cường bảo vệ độc lập dân tộc có thể là kinh
nghiệm và bài học quý báu cho Cuba trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.
Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí trong nước cũng đã
đề cập đến quan niệm, tư tưởng bảo vệ độc lập dân tộc của Anh hùng giải phóng
dân tộc Jose Marti của Cuba. Tiêu biểu có một số bài viết như sau: Tác giả Phạm
Xuân Nam với các bài: "Hôxê Máctin người thầy của nền độc lập Cuba" của
Phạm Xuân Nam [55]; "Hôxê Mácti - Nhà văn hóa lớn, vị Thánh tông đồ của
nền độc lập Cuba" của Phạm Xuân Nam [57]; "Tư tưởng độc lập dân tộc và tiến
bộ xã hội của Hôxê Máctin và cách mạng CuBa" của tác giả Nguyễn Ngọc Mão
[53]. Trong đó, các tác giả đã ca ngợi tinh thần đấu tranh, tư tưởng tiến bộ của
Jose Marti về độc lập dân tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Đây chính
là nền tảng tư tưởng giúp cho Đảng và nhân dân Cuba đấu tranh không mệt mỏi
chống lại ách thống trị của thực dân Tây Ban Nha và đế quốc Mỹ nhằm bảo vệ
vững chắc thành quả cách mạng năm 1959.
* Nhóm các công trình liên quan đến lịch sử cách mạng Cuba và vai trò
của lãnh tụ Fidel Castro đối với cuộc cách mạng này
Cuốn sách: "Cuba đất nước tự do của Châu Mỹ" của tác giả Lê Thành
[75] đã ca ngợi sự kiên trì, bền bỉ của nhân dân Cuba trong cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc từ thực dân Tây Ban Nha và đế quốc Mỹ.
Tác giả cũng cho rằng, thắng lợi của nhân dân Cuba đã là niềm động viên, khích
lệ, là tấm gương để cho nhân dân các nước yêu chuộng hòa bình ở Mỹ Latinh
nói riêng, thế giới nói chung đứng lên giành độc lập dân tộc.
Cuốn sách: "Tìm hiểu lịch sử cách mạng Cuba - giai đoạn cách mạng giải
phóng dân tộc 1953-1959" của Phạm Xuân Nam [58]. Trong đó tác giả đã phân
tích một cách sâu sắc, rõ nét quá trình đấu tranh của các tầng lớp nhân dân Cuba
chống lại ách xâm lược của Mỹ (1902-1952) và cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc của Cuba dưới sự lãnh đạo của Fidel Castro và Phong trào 26/7 chống lại chế
độ độc tài Batista thân Mỹ (giai đoạn 1952-1959) và được kết thúc bằng cuộc
cách mạng Tháng Giêng lịch sử, dẫn tới sự ra đời nhà nước Cuba xã hội chủ
nghĩa đầu tiên ở Tây bán cầu vào ngày 1/1/1959.
9
Cuốn sách: "Nước Cộng hòa Cuba", của tác giả Phạm Xuân Nam [55].
Tác giả cũng đã giới thiệu rất rõ nét về đất nước và con người Cuba, với ý chí
quật cường và tinh thần đấu tranh không mệt mỏi, dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước Cuba đã giúp cho Cuba đứng vững và giành thắng lợi trong các cuộc
đấu tranh chống lại thực dân Tây Ban Nha và chế độ độc tài Batista thân Mỹ.
Cuốn sách: "Fidel Castro: con người huyền thoại" của tác giả Hoàng Đức
Nhận và Phạm Quốc Tuấn [63]. Các tác giả đã cho người đọc thấy được bức
chân dung về vai trò lãnh tụ cách mạng của Fidel Castro, một con người huyền
thoại, tài năng không chỉ ở Cuba mà còn cả trên toàn thế giới. Tên tuổi của Ông gắn
liền với sự kiện cách mạng quan trọng: giải phóng dân tộc Cuba, thành lập nước
Cộng Hòa Cuba, xây dựng và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc ở Cuba.
Cuốn sách: "Lịch sử thế giới hiện đại (1917-1995)" của tác giả Nguyễn
Anh Thái [74]. Trong cuốn sách này tác giả đã trình bày những vấn đề cơ bản
của lịch sử thế giới hiện đại bao gồm 2 phần. Phần một gồm tám chương, viết về
lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1917 - 1945. Bắt đầu từ cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917 đến Chiến tranh thế giới thứ hai. Phần hai
gồm 10 chương còn lại, bao gồm những hiểu biết về lịch sử thế giới hiện đại từ
1945 - 1995. Quan hệ quốc tế từ 1945, Liên xô và các nước Đông Âu, Phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế (1945 - 1995), trong đó có Cuba.
* Nhóm các công trình liên quan đến những nhân tố tác động đến quá
trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba
Luận án tiến sỹ: "Nguyên nhân và tác động của sự sụp đổ Chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô tới tiến trình cách mạng thế giới hiện nay" của tác giả Ngô Hoan
[39] đã nêu ra những tác động tiêu cực từ sự sụp đổ của Liên Xô tới tình hình đất
nước Cuba nhất là trên lĩnh vực chính trị và kinh tế. Cuba đã mất đi một nguồn viện
trợ lớn về kinh tế, thương mại, nhất là các mặt hàng có giá trị trao đổi lớn như: Xì
gà, lương thực- thực phẩm và dược phẩm...Những tổn thất trên đã làm cho tình hình
Cuba lâm vào khó khăn, khủng hoảng, đòi hỏi Cuba phải có sự cải cách trong kinh
tế để phát triển đất nước. Điều này, cũng đã tác động rất lớn đến sự phát triển
phong trào cộng sản ở Mỹ Latinh nói riêng và trên thế giới nói chung.
10
Trong cuốn: "Thế giới trong 50 năm qua (1945-1995) và thế giới trong 25
năm tới (1996-2020)", của tác giả Nguyễn Cơ Thạch [74] đã cho rằng động lực
chính cho sự phát triển của mỗi quốc gia trong giai đoạn hiện nay đó là sự phát
triển và bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, yếu tố này đang
làm thay đổi và sắp xếp lại lực lượng cũng như cục diện thế giới, trong đó có
Cuba. Đồng thời, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tổ chức giáo dục, đào tạo
con người để thích ứng với cuộc các mạng khoa học - công nghệ đó.
Cuốn sách: "Toàn cầu hóa-khu vực hóa, cơ hội và thách thức với các
nước đang phát triển" của Viện Thông tin Khoa học Xã hội [123]; "Toàn cầu
hóa với các nước đang phát triển" của Trường Đại học Quốc gia [33], đều đi sâu
phân tích những mặt tích cực và tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa đối với các
nước đang phát triển. Quá trình này ngoài việc đem lại những cơ hội, thuận lợi
cho các nước trong quá trình hội nhập với thế giới như: hội nhập kinh tế quốc tế,
trao đổi thương mại, giải quyết các vấn đề toàn cầu...bên cạnh đó, cũng chỉ ra
những mặt trái mà các nước phải đối mặt như: khoảng cách giàu nghèo, khủng
bố, mâu thuẫn, xung đột...điều này góp phần làm cho các nước đang phát triển
phải đối mặt với các nguy cơ mất tự chủ, phụ thuộc về kinh tế sau đó là phụ
thuộc về chính trị và Cuba cũng không nằm ngoài những nguy cơ trên.
Trong cuốn: "Một số vấn đề chính trị quốc tế trong giai đoạn hiện nay",
của nhóm tác giả Nguyễn Hoàng Giáp và cộng sự [35] và cuốn sách chuyên
khảo: "Giáo trình Quan hệ quốc tế" của Viện Quan hệ quốc tế - Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh [122]. Các tác giả cũng nêu rõ cuộc cách mạng khoa
học-công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ,
tác động sâu sắc đến sự phát triển của từng quốc gia, dân tộc. Xu thế hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế chung của thế giới ngày
nay, trật tự thế giới "đa cực" ngày càng được khẳng định cả về kinh tế và chính
trị; nhưng mâu thuẫn trong nội bộ đất nước, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động
can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp biên giới, lãnh thổ và tài nguyên... đang là
những vấn đề phức tạp mà các nước phải đối mặt. Bối cảnh trên của tình hình
quốc tế và khu vực Mỹ Latinh đang phải đối mặt đã tác động rất lớn đến Cuba.
Đòi hỏi, Đảng và Nhà nước Cuba phải có những chính sách phù hợp trong quan
hệ quốc tế và hợp tác khu vực, tiểu khu vực.
11
Cuốn sách: "Những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên đầu của thế kỷ
XXI", của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn [10] cũng đã chỉ rõ những vấn đề toàn
cầu lớn nhất hiện nay mà nhân loại đang phải đối mặt đó là: chống khủng bố,
chiến tranh cục bộ, thiên tai, biến đổi khí hậu, đói nghèo...Những vấn đề trên mà
tác giả nêu lên cũng chính là những vấn đề mà Cuba đang phải đối mặt. Đây
chính là những khó khăn ảnh hưởng đến quá trình bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba
trong hiện tại và tương lai.
Cuốn sách chuyên khảo: "Hòa bình - hợp tác và phát triển: xu thế lớn trên
thế giới hiện nay" của tác giả Lê Minh Quân [68]. Trong đó tác giả cho rằng xu thế
hòa bình là điều kiện cho sự hợp tác và liên kết giữa các nước vì mục tiêu phát triển;
hợp tác là phương thức tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, duy trì
hòa bình và thúc đẩy phát triển của các quốc gia; phát triển là phát triển bền vững, là
mục tiêu chung của toàn thế giới. Hòa bình, hợp tác và phát triển đang tác động đến
tất cả các nước trên thế giới, đây cũng là quan điểm phát triển của Cuba trong giai
đoạn hiện nay, nhất là trong bối cảnh Cuba và Mỹ đã tuyên bố bình thường hóa
quan hệ. Với xu thế này, Mỹ cũng không thể giữ chính sách bao vây, cấm vận và
thù địch với Cuba trong gần 6 thập kỷ qua. Tuy nhiên, xu thế này cũng đặt ra cho
Cuba những cơ hội và thách thức đan xen trong bối cảnh mới.
Ngoài những nhân tố cơ bản trên, công cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân
tộc ở Cuba trong thời gian này cũng chịu sự tác động bởi một khái niệm mới
trong quan hệ quốc tế đó là "An ninh phi truyền thống". Cuốn sách: "Sổ tay thuật
ngữ Quan hệ quốc tế" của tác giả Đào Minh Hồng và Lê Hồng Hiệp [40] đã cho
rằng: An ninh phi truyền thống là những mối đe dọa đối với an ninh quốc gia mà
không xảy ra những xung đột quân sự giữa các lực lượng quân đội. Các vấn đề
thuộc phạm vi của an ninh phi truyền thống là: khủng bố, tình trạng thiếu lương
thực, khủng hoảng kinh tế, môi trường, nhập cư bất hợp pháp...Những vấn đề
trên của thế giới cũng sẽ tác động không nhỏ đến Cuba, nhất là trong bối cảnh
quốc đảo này đang trong quá trình mở rộng quan hệ hợp tác với bên ngoài để
phát triển đất nước.
Bên cạnh những vấn đề quốc tế, những vấn đề của Mỹ Latinh cũng tác
động rất lớn đến Cuba.
12
Cuốn sách: "Mỹ Latinh một vùng năng động" của tác giả Đỗ Lộc Diệp
[15], không chỉ cho người đọc thấy được những hình ảnh đẹp về con người và
đất nước Cuba ở Mỹ Latinh mà còn là vai trò của Cuba đối với Mỹ Latinh. Bên
cạnh đó, sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, sự thay đổi của trật tự thế giới đã
làm cho khu vực Mỹ thay đổi. Mỹ trở thành siêu cường trên thế giới, là khu vực
vốn được coi là "sân sau" của Mỹ, các nước Mỹ Latinh dần đi vào phát triển
kinh tế và trở thành khu vực có nền kinh tế phát triển năng động, là điểm đến của
rất nhiều nước trên thế giới với ưu thế về nguồn năng lượng, nguyên liệu...Sự
phát triển của Mỹ Latinh trong đó có Cuba sẽ ngày càng thu hút hơn nữa sự quan
tâm của các nước trên thế giới, đặc biệt là những nước lớn như: Nga, Trung
Quốc, EU, Nhật Bản...
Bài viết: "Chính trị - ngoại giao của các nước Mỹ Latinh trong giai đoạn
hiện nay", của tác giả Hồ Châu [8]. Tác giả cũng phân tích một số thay đổi trong
chính sách của Mỹ Latinh với Mỹ và sự thay đổi nhận thức của một số chính phủ
Mỹ Latinh đối với chính sách của Mỹ ở khu vực được coi là Vùng ảnh hưởng
truyền thống của nước này. Do đó, trong thời gian qua khu vực Mỹ Latinh đang
có xu hướng liên kết nội khối mạnh mẽ và tăng cường thắt chặt quan hệ hơn giữa
các nước, từng bước tránh bị lệ thuộc vào Mỹ.
Tọa đàm khoa học: "ALBA - Liên minh vì các dân tộc Mỹ Latinh: triển
vọng và tiến bộ" của Nguyễn Ngọc Mạnh [50]. Hội thảo cũng khẳng định vai trò
của các Liên minh Bolivar dành cho các dân tộc Châu Mỹ chúng ta (ALBA) đối
với sự phát triển chung của khu vực với các thành tựu nổi bật như: thực hiện
chương trình xã hội nhân đạo điều trị miễn phí cho các bệnh nhân nghèo bị bệnh
mắt; chương trình đào tạo bác sĩ cộng đồng, điều trị bệnh tim bẩm sinh cho trẻ em,
chương trình xóa mù chữ giúp thanh niên và người lớn hòa nhập xã hội và phát
triển toàn diện con người, cải thiện trình độ giáo dục, xóa bỏ nạn mù chữ tại các
nước thuộc ALBA và đảm bảo nguyện vọng theo đuổi việc học hành...Những
chương trình nêu trên chủ yếu là của Cuba, hoạt động trên đã giúp nước này từng
bước nâng cao được vai trò, vị thế của mình ở khu vực và trên thế giới. Qua đó,
tranh thủ được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong việc yêu cầu Mỹ xóa bỏ lệnh
bao vây cấm vận kéo dài suốt hơn 6 thập kỷ qua. Bên cạnh đó, ALBA cũng đã mở
13
ra không gian tham vấn, phối hợp và thỏa thuận nhằm thiết lập liên minh chiến
lược, tạo dựng vị trí và vai trò cân bằng với các tổ chức quốc tế khác.
Cuốn sách: "Chính sách đối ngoại của các nước lớn trong giai đoạn hiện
nay" của tác giả Nguyễn Thị Quế [70] đã đề cập những nội dung khái quát nhất
về chính sách đối ngoại của một số nước lớn trên thế giới như: Mỹ, Trung Quốc,
Nga, EU...đối với Việt Nam, trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến
động phức tạp. Đồng thời, tác giả cũng cho rằng, ngoại giao không chỉ giúp phát
huy "sức mạnh mềm" của đất nước mà còn có vai trò góp phần nâng cao vị thế
trên trường quốc tế. Là một nước có cùng chế độ chính trị với Việt Nam, cũng
chịu chính sách bao vây cấm vận của Mỹ trong một thời gian dài, những kinh
nghiệm đối ngoại của Việt Nam sau 30 năm Đổi mới trong quan hệ với các nước
lớn, ít nhiều cũng sẽ giúp cho Cuba khắc phục được những hạn chế và tránh rơi
vào tình trạng bị lệ thuộc về kinh tế và chính trị.
Trong đề tài cấp Bộ: "Sự phục hồi của nền kinh tế ở khu vực Mỹ Latinh sau
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu 2008-2009" của tác giả Nguyễn
Ngọc Mạnh [51]. Tác giả nêu rõ những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng đối
với khu vực Mỹ Latinh như: việc làm giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, GDP toàn
khu vực đạt mức âm, quy mô kinh tế giảm, giá nguyên vật liệu giảm, tín dụng ngân
hàng khu vực Nhà nước không đáp ứng được yêu cầu, giá dầu thế giới giảm...Tất cả
những tác động trên đã làm ảnh hưởng đến các nền kinh tế lớn của khu vực và đẩy
một số nền kinh tế rơi vào khủng hoảng trầm trọng như: Brazil, Venezuela...điều
này, đã tác động và ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế của Cuba.
* Nhóm các công trình liên quan đến chính sách của Mỹ đối với Cuba
Cuốn sách: "Chiến lược đối ngoại của Mỹ trong những năm 1990", của
tác giả Phạm Văn Quế [71]. Trong cuốn sách này tác giả cũng đã đề cập đến
chính sách thắt chặt cấm vận kinh tế của Mỹ đối với Cuba thông qua Đạo luật
Torricelli năm 1992. Đây được coi là Đạo luật hà khắc của Mỹ đối với Cuba sau
khi nước này mất đi đồng minh chính trị, kinh tế là Liên Xô. Nền kinh tế Cuba
đã khó khăn, khủng hoảng nay còn khó khăn hơn.
Cuốn sách: "Hoa Kỳ cam kết và mở rộng" của tác giả Lê Bá Thuyên [114]
đã đề cập tới chính sách "Cam kết và Mở rộng" của Mỹ dưới thời Tổng thống
14
Bill Clinton. Trong đó, nhấn mạnh chính sách tự do trong kinh tế của Mỹ áp
dụng đối với khu vực Mỹ Latinh đã làm cho rất nhiều nền kinh tế rơi vào khủng
hoảng và suy thoái. Đối với Cuba, trong giai đoạn này Mỹ thực hiện thắt chặt
lệnh cấm vận thông qua đạo luật Helm-Burton nhằm siết chặt hơn nữa lệnh cấm
vận về kinh tế với Cuba. Đây được coi là chiến lược quan trọng trong việc hoạch
định chính sách của Mỹ sau Chiến tranh Lạnh.
Bài viết: "Chính sách của Mỹ đối với khu vực Mỹ Latinh" của tác giả Trần
Đình Vượng [127]. Tác giả đã khái quát lại chính sách của Mỹ đối với khu vực
Mỹ Latinh, đặc biệt là chính sách chủ nghĩa tự do mới trong kinh tế. Đồng thời,
cũng phân tích một số tác động từ chính sách bao vây cấm vận của Mỹ đối với
nền kinh tế và đời sống của người dân Cuba.
Cuốn sách: "Vấn đề trừng phạt kinh tế trong chính sách đối ngoại của
Hoa Kỳ" của tác giả Nguyễn Thái Yên Hương [45] cũng đã đề cập đến các chính
sách trừng phạt kinh tế, cấm vận của Mỹ đối với các nước đe dọa đến an ninh
của Mỹ, những nước bị Mỹ liệt vào danh sách các quốc gia tài trợ cho chủ nghĩa
khủng bố như: Iraq, Việt Nam, Nam Tư cũ trong đó có cả Cuba.
Báo cáo đề tài cấp Bộ (2012): "Sự điều chỉnh chiến lược của Hoa Kỳ đối
với các nước Mỹ Latinh sau khủng hoảng tài chính toàn cầu và tác động tới Việt
Nam" của tác giả Nguyễn Ngọc Mạnh [49], có đề cập đến những thay đổi trong
chính sách đối ngoại của Mỹ với các nước Mỹ Latinh sau khủng hoảng tài chính
toàn cầu 2008. Giai đoạn này cũng đánh dấu sự điều chỉnh chính sách của chính
quyền Tổng thống Obama với Cuba, trong bối cảnh các nước Mỹ Latinh đang
dần trở nên quan trọng hơn trong bản đồ chính trị quốc tế và thu hút sự quan tâm
của các cường quốc như: Nga, Trung Quốc, EU...
* Nhóm các công trình liên quan đến quá trình xây dựng và phát triển
kinh tế của Cuba
Những công trình nghiên cứu về thành tựu của Cuba trong việc phát triển
kinh tế, xã hội nhằm đấu tranh chống lại chính sách bao vây cấm vận của Mỹ và
xây dựng đất nước, tiêu biểu có một số bài viết đăng trong Kỷ yếu Hội thảo 50
năm Cách mạng Cuba tổ chức tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
ngày 31/12/2008: bài viết: "Những thành tựu nổi bật của Cuba trong xây dựng
15
và phát triển đất nước" của tác giả Nguyễn Thị Quế [69];"Cuba - Hòn đảo kiên
cường, bất khuất qua nửa thế kỷ bao vây, cấm vận của Mỹ" của tác giả Hà Mỹ
Hương [44]; "Cuba tăng cường đấu tranh trên mặt trận tư tưởng" của tác giả
Phan Văn Rân [72]; "Thành tựu trong việc thực hiện chính sách xã hội của Cuba
trong 50 xây dựng chủ nghĩa xã hội" của tác giả Ngô Chí Nguyện [61]; "50 năm
phát triển kinh tế xã hội của nước Cộng hòa Cuba dưới ngọn cờ độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội" của tác giả Phạm Xuân Nam [59]... Hầu hết các công trình
nói trên đều ca ngợi những thắng lợi của Cuba trên mặt trận kinh tế, chính trị và
xã hội. Đồng thời, cũng khẳng định với những đường lối, chủ trương đúng đắn
phù hợp với điều kiện đất nước; vai trò lãnh đạo sáng suốt của Đảng cộng sản
Cuba đã giúp nước này ngày càng nâng cao vai trò, vị thế của mình trong khu
vực và trên thế giới đặc biệt là tinh thần đoàn kết quốc tế trong việc giúp các
nước Mỹ Latinh xóa nạn mù chữ, chữa bệnh, phẫu thuật miễn phí...Ngoài ra,
những thành công trên của Đảng và Nhà nước cũng giúp cho Cuba bảo vệ vững
chắc nền độc lập dân tộc, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bất chấp lệnh bao
vây cấm vận của Mỹ và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trong và
ngoài nước.
Bài viết: "Cuộc cách mạng của Raúl Castro" của Thông tấn xã Việt Nam
[89] đã phân tích một số điểm khác biệt về đường lối, chính sách kinh tế - xã hội
giữa Raul và Fidel và cho rằng với đường lối mềm mỏng của Raul, Cuba sẽ có
những bước phát triển vượt bậc trong thời gian tới.
Bài viết "Nền kinh tế Cuba - Những thành tựu và cải cách dưới thời Chủ
tịch Fidel và Raul Castro - Phần 1, 2, 3" của Thông tấn xã Việt Nam [89]. Trong
3 phần này, tác giả cũng đã nêu rõ những thành tựu về kinh tế-xã hội mà Cuba đã
đạt được phần lớn là nhờ vào những nỗ lực của chính phủ trong việc cơ cấu lại
bộ máy kinh tế, sửa đổi và bổ sung luật kinh tế đặc biệt là mở rộng hợp tác quốc
tế nhằm thu hút đầu tư từ bên ngoài...
Bài viết: "Những thành tựu của cải cách kinh tế-xã hội ở Cộng hòa Cuba
từ 1993 đến nay" của tác giả Văn Ngọc Thành, Nguyễn Thanh Tuấn [77]. Trong
đó các tác giả cũng đã nêu rõ những thành quả mà Đảng và Nhân dân Cuba đã
đạt được trong việc thực hiện chủ trương, đường lối mà Đại hội Đảng lần IV đề
16
ra. Đồng thời, cho rằng những chủ trương trên là đúng đắn và Cuba cần phát huy
hơn nữa những ưu thế về y tế và giáo dục, đây chính là điểm sáng và là công cụ để
Cuba có thể bảo vệ độc lập dân tộc trước các thế lực thù địch trong và ngoài nước.
Trong Báo cáo đề dẫn tại Hội thảo Khoa học: "50 năm cách mạng Cuba
và quan hệ Việt Nam-Cuba" của tác giả Lê Hữu Nghĩa [62] đã khẳng định: Cách
mạng Cuba là biểu hiện sinh động và là thắng lợi vẻ vang của con đường độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; là biểu hiện không gì bác bỏ được về sức mạnh và
sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; là hiện thân sinh động của chủ nghĩa
quốc tế vô sản trong thời đại ngày nay. Đặc biệt, tác giả còn cho rằng: Thực tiễn
cách mạng Cuba làm sáng tỏ một sự thật là: trong thời đại ngày nay, sự phát
triển triệt để của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, vì các mục tiêu độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội hoàn toàn có thể chuyển hoá thành cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Sự gặp gỡ giữa giai cấp và dân tộc; giữa độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội là tự nhiên và là một trong những khuynh hướng lịch sử
không thể phủ nhận. Bên cạnh đó, còn nhấn mạnh mối quan hệ thủy chung,
trong sáng giữa Việt Nam và Cuba trong suốt hơn 50 qua, việc củng cố và phát
triển của mối quan hệ Việt Nam - Cuba là một trong những nhân tố góp phần
bảo vệ và phát triển chủ nghĩa xã hội ở hai nước trong những năm qua. Công
cuộc Đổi mới ở Việt Nam và công cuộc cải cách ở Cuba đã tạo tiền đề và bổ
sung cho nhau trên cả bình diện lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đặc biệt, trong chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam, Giáo sư Ruvislei
Gonza’lez Seaz, chuyên gia nghiên cứu về kinh tế, thuộc Trung tâm nghiên cứu
kinh tế, Bộ Ngoại giao Cuba đã có buổi tọa đàm về "Cập nhật hóa mô hình kinh tế
xã hội Cuba và những kịch bản mới" [73] tại Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt
Nam, ngày 24/3/2016. Trong buổi tọa đàm này tác giả tập trung vào 3 vấn đề chính:
thứ nhất, nêu khái quát về chủ trương "cập nhật về mô hình kinh tế-xã hội" ở Cuba;
thứ hai, tình hình Cuba trước viễn cảnh mới và cuối cùng, là thực trạng nền kinh tế
Cuba. Ngoài ra, tác giả cũng đánh giá về những thành tựu và hạn chế của Cập nhật
hóa mô hình kinh tế ở Cuba sau 5 năm thực hiện. Tuy nhiên, mức độ của những nội
dung trên mới chỉ được nêu một cách khái quát chứ chưa đi sâu vào phân tích cụ thể
về những nguyên nhân thành công hay hạn chế trong quá trình thực hiện.
17
1.1.2. Các công trình nghiên cứu của tác giả Cuba và nước ngoài
* Nhóm các công trình viết về lịch sử cách mạng Cuba
Cuốn sách: "Moncada" (Cương lĩnh Moncada) của tác giả Marta Rojos [168].
Trong đó, tác giả đã đi sâu phân tích tiến trình phát triển của cách mạng Cuba thông
qua Bản tuyên bố Moncada lịch sử. Đây được coi là bản cương lĩnh và chương trình
hành động dẫn dắt cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của Cuba đi đến thành công và
đưa Cuba vững bước tiến lên trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cuốn sách: "Fidel Castro: la Revolución Cubana 1953-1962" (Fidel
Castro: cách mạng Cuba 1953-1962) của tác giả Adolfo Sánchez Rebolledo
[129], thuộc tài liệu biên soạn những bài phát biểu của Fidel từ 1953-1962. Tài liệu
là những bài viết của Chủ tịch Fidel về cách mạng Cuba nói chung trong giai đoạn
1953-1962. Trong đó, tác giả cũng đã trích dẫn rất nhiều bài phát biểu mà Chủ tịch
Fidel nói về thắng lợi cách mạng Cuba năm 1959, những bài học, ý nghĩa lịch sử
của chiến thắng này đối với nhân dân, báo chí trong nước và quốc tế.
Cuốn sách: "Breve Historia de la Revolución Cubana" (Tóm tắt lịch sử
cách mạng Cuba) của tác giả Arnaldo Silva León [132]. Viết về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội mà Cuba đã lựa chọn sau cách mạng thành công năm 1959.
Đồng thời, tác giả cũng nêu rõ đây chính là mục tiêu và nhiệm vụ xuyên suốt của
cách mạng Cuba trong thời kỳ này. Bên cạnh đó, tác giả cũng đề cập đến sự phát
triển của chủ nghĩa xã hội ở Cuba từ 1961-1975; quá trình đổi mới và con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Cuba từ 1975-1990 và việc thực hiện "Thời kỳ đặc
biệt trong hòa bình" của Cuba từ 1993 đến nay.
Cuốn sách: "Documentos de la Revolución cubana - 1959" (Tài liệu về
cách mạng Cuba-1959) của các tác giả José Bell, Delia Luisa López, Tania
Caram [157]. Cuốn sách viết về sự nghiệp cách mạng của nhân dân Cuba sau
thắng lợi ngày 1/1/1959. Đồng thời, tác giả cũng cho người đọc thấy được những
bài học kinh nghiệm quý báu của cuộc cách mạng 1959 đối với lịch sử Cuba, đặc
biệt là chiến dịch ở Pháo đài Moncada và đây cũng chính là dấu mốc quan trọng
để Cuba bắt đầu xây dựng và đi theo con đường chủ nghĩa xã hội.
Cuốn sách: "Cuộc đời tôi- Một trăm giờ với Fidel Castro" của tác giả Đỗ
Tuấn Anh, Hoàng Mạnh (dịch) [1]. Trong cuốn sách Fidel miêu tả lại những thất
18
bại đầu tiên của cuộc cách mạng Cuba; tình đồng chí khăng khít của ông với Che
Guavara và thắng lợi rực rỡ của cách mạng trước chế độ độc tài Batista; quan
điểm của Cuba trong sự kiện Vịnh con Lợn và cuộc khủng hoảng tên lửa Caribe;
vai trò tích cực của Cuba trong các phong trào đấu tranh giành độc lập của nhân
Cuốn sách: "Historia de la revolucion Cubana" (Lịch sử cách mạng
Cuba) của tác giả Sergio Guerra [180]. Viết về chiến thắng ngày 1/1/1959 lịch sử
của Cuba và cho rằng đây chính là một dấu mốc quan trọng và có ý nghĩa lịch sử
về chính trị, kinh tế và xã hội đối với các nước Mỹ Latinh.
Cuốn sách: "Fidel: Cuộc đối đầu 10 đời Tổng thống Mỹ và những âm mưu
ám sát của CIA" của Nguyễn Văn Phước (dịch) [67]. Cuốn sách nói về cuộc đối
đầu giữa Fidel và 10 đời Tổng thống Mỹ thông qua các kế hoạch do CIA dựng
lên để ám sát Chủ tịch Fidel. Tuy nhiên, Cuba dưới sự lãnh đạo tài tình của Chủ
tịch Fidel vẫn vững vàng trên con đường xây dựng và phát triển đất nước. Thông
qua cuốn sách, tác giả còn muốn cho người đọc hiểu hơn về tính cách, tài năng,
bản lĩnh của Fidel, một người anh hùng, một nhân vật làm nên lịch sử, một người
đã cống hiến trọn đời cho cách mạng và nhân dân CuBa.
Cuốn sách: "The Cuban Revolution: Origins, Course, and Legacy" (Cách
mạng Cuba: nguồn gốc, hành động và di sản) của Oxford University Press [172].
Trong cuốn sách này tác giả khái quát lại các cuộc cách mạng của nhân dân
Cuba từ 1927-1959. Tác giả cũng nhấn mạnh những yếu tố giúp cho Cuba có thể
giành thắng lợi Cách mạng và những yếu tố làm cản trở sự phát triển của Cuba
đó là sự can thiệp của Mỹ trong các vấn đề của Cuba. Đồng thời, tác giả cũng đã
có những cái nhìn sâu sắc về xã hội Cuba và nêu rõ những vấn đề Cuba phải đối
mặt nhất là trong bối cảnh Cuba phụ thuộc nhiều vào Liên Xô trong những năm
1970. Bên cạnh đó, còn lên án các nhà lãnh đạo Cuba đã thất bại trong việc đa
dạng hóa nền kinh tế bao cấp quá lâu nhất là về giáo dục và y tế.
* Nhóm các công trình liên quan đến những nhân tố tác động đến quá
trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba
Cuốn sách: "Govbachev-Riot: August even from inside" (Govbachev và sự
kiện chính biến ngày 19/8) của tác giả tác giả Lukialov.A. Pavlov.V và
Cruiskov.V [162] đã đi sâu phân tích cuộc chính biến ngày 19/8/1991 của những
19
người muốn đảo chính lật đổ Tổng thống Govbachev nhằm cứu Liên Bang Xô
Viết khỏi sự sụp đổ. Cuộc chính biến này thất bại đã dẫn tới một sự thực là chủ
nghĩa xã hội không còn tồn tại ở Liên Xô nữa. Đây là một tổn thất to lớn đối với
phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào cách mạng thế giới trong
đó có Cuba, một đồng minh chính trị, quân sự, kinh tế quan trọng nhất của Liên
Xô ở Tây bán cầu.
Cuốn sách: "The Clash of civilizations" (Sự va chạm giữa các nền văn
minh) của tác giả Samuel Huttington [179] đã nêu ra sự va chạm, xung đột giữa
các nền văn minh, các khối ý thức hệ, các nền văn hóa ở các châu lục trên thế
giới, trong đó, Cuba với tư cách là quốc gia xã hội chủ nghĩa duy nhất ở Tây bán
cầu chắc chắn sẽ chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tác động này.
Cuốn sách: "US-Latin America ralations: A new direction for a new
reality" của tác giả Charlene Barshefsky, James T. Hill [137] đã viết về sự thay
đổi trong chính sách của Mỹ đối với khu vực Mỹ Latinh sau khi chiến tranh
Lạnh kết thúc trong bối cảnh quốc tế và tình hình của Mỹ latinh có nhiều biến
động và thay đổi lớn. Trong đó, tác giả nhấn mạnh sự thay đổi chính sách của
Mỹ đối với Cuba thông qua việc thắt chặt lệnh cấm vận bằng đạo luật Torricelli
(1992) và Helm-Burton (1996). Với 2 đạo luật này, Cuba đã bị cô lập hoàn toàn
với bên ngoài về ngoại giao và kinh tế.
Bài viết: "Xin shiji zhongguo dui lamei de diyuan zhanlue" (China’s Geo-
strategy towards Latin America in the New Century - Chiến lược địa chính trị
của Trung Quốc đối với Mỹ Latinh trong thế kỷ mới) của tác giả Zhu Hong Bo;
Liu Wen Long [191]. Tác giả cũng đi sâu phân tích những thay đổi trong chính
sách ngoại giao, kinh tế của Trung Quốc đối với khu vực Mỹ Latinh, nhất là đối
với Cuba, một nước từng là bạn bè truyền thống của Trung Quốc. Chính sách
của Trung Quốc thay đổi với Cuba trong bối cảnh Mỹ đang suy giảm vai trò ở
khu vực vốn được coi là "sân sau" của mình, đây cũng là thời điểm Cuba có sự
thay đổi nhà lãnh đạo mới và có chính sách ngoại giao mở hơn so với thời Fidel.
Cuốn sách: "Cuba: What Everyone Needs to Know" (Cuba: những gì mọi
người cần để biết) của tác giả Julia E. Sweig [158] đã khái quát về đất nước và
con người Cuba hiện nay bao gồm các tài liệu từ cuộc phỏng vấn của tác giả với
20
Cựu Chủ tịch Fidel Castro vào năm 2010. Các phiên bản mới bao gồm các sự
kiện quan trọng trong vài năm qua: giả định quyền lực từ người anh trai Fidel
chuyển sang cho Raul Castro; cải cách kinh tế và chính trị kể từ khi Raul lên
nắm quyền và những thay đổi trong quan hệ giữa Cuba-Mỹ sau cuộc bầu cử của
Tổng thống Barack Obama.
* Nhóm công trình viết về chính sách của Mỹ đối với Cuba và quan hệ
hai nước
Có thể nhận thấy, bản chất của quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc
của Cuba trong giai đoạn 1991-2016 chính là quá trình đấu tranh chống lại chính
sách bao vây cấm vận của Mỹ. Do đó, việc nghiên cứu về chính sách của Mỹ đối
với Cuba được tác giả tập trung khá nhiều.
Nhìn chung các tác giả nước ngoài đã phân tích và làm rõ chính sách cấm
vận của Mỹ đối với Cuba và những thiệt hại mà Cuba phải gánh chịu từ chính
sách trên. Tiêu biểu phải kể đến một số cuốn sách như: "The Cuban Embargo:
The Domestic Politics of an American Foreign Policy" (Lệnh cấm vận Cuba:
Chính trị nội bộ trong chính sách đối ngoại Mỹ) của tác giả Patrick Jude Haney
[173]; "US policy towards Cuba: Since the Cold War" (Chính sách của Mỹ đối
với Cuba: kể từ chiến tranh Lạnh) của tác giả Jessica Gibbs [153] và "The United
States and Cuba: Intimate Enemies" (Mỹ và Cuba: kẻ thù thân thiết) của tác giả
Marifeli Pérez-Stable [167]. Những công trình này phần lớn các tác giả viết về
chính sách bao vây cấm vận của Mỹ đối với Cuba thông qua đạo luật Helms-
Burton. Nhấn mạnh những chính sách bao vây cấm vận của Mỹ trong hai nhiệm
kỳ Tổng thống Bill Clinton và những nỗ lực thúc đẩy dân chủ dưới thời Tổng
thống George W.Bush (con). Đồng thời, còn hệ thống hóa mối quan hệ Mỹ-Cuba
sau Chiến tranh Lạnh và phân tích những căng thẳng kéo dài trong quan hệ hai
nước trong thế kỷ XXI. Mặt khác, tác giả cũng dự báo tác động của chính sách
đối nội đến chính sách đối ngoại của Mỹ đối với lệnh cấm vận của Cuba.
Bên cạnh đó cũng có những cuốn sách khác đề cập đến sự thay đổi trong
chính sách của Mỹ đối với Cuba. Mặc dù, chỉ là những nhận định ban đầu mang
tính dự báo nhưng có thể thấy cách tiếp cận của các học giả đã có sự thay đổi.
Tiêu biểu như:
21
Bài viết: "U.S-Cuba Relations: From the Cold World to the Colder War"
(Quan hệ Mỹ-Cuba: từ chiến tranh Lạnh thế giới đến chiến tranh Lạnh) của tác giả
Jorge L.Domíniguez [156] đã luận giải mối quan hệ giữa Mỹ và Cuba theo góc nhìn
của chủ nghĩa hiện thực. Trong đó, những lý thuyết của Thucydides về quan hệ
quốc tế được tác giả áp dụng vào lý giải trường hợp của Cuba. Ông Domíniguez
cũng đã đưa ra những yếu tố lớn ảnh hưởng tới quan hệ đang xấu dần giữa Cuba -
Mỹ ở thời điểm này như: sự khác biệt về ý thức hệ hay chính trị nội bộ Mỹ.
Bài viết:"The Helms-Burton law and its consequences for Cuba, the
United States and Europe" (Đạo luật Helm-Burton và hậu quả của nó đối với
Cuba, Mỹ và Châu Âu) của tác giả Bert Hoffmann [135]. Bài nghiên cứu này tập
trung phân tích nguyên nhân chính trị mà Mỹ quyết định ban hành Đạo luật
Helms-Burton đó chính là gây áp lực buộc chính quyền Castro phải thay đổi,
Cuba phải tiến lên theo con đường dân chủ. Ngoài ra bài viết cũng phân tích
những bất cập trong các đề mục của Đạo luật Helms- Burton và những hậu quả
của Đạo luật này đối với Cuba, Mỹ và Liên minh Châu Âu.
Cuốn sách: "United States-Cuban Relations: A Critical History" (Quan hệ
Mỹ-Cuba: Một câu chuyện lịch sử quan trọng) của tác giả Esteban Morales
Dominguez [146]. Viết về quan hệ Mỹ - Cuba, tác giả phân tích những biến động
trong mối quan hệ hai nước và dự báo về mối quan hệ này trong thời gian tới.
Cuốn sách: "That Infernal Little Cuban Republic: The United States and
the Cuban Revolution" (Đây là nước Cộng hòa Cuba nhỏ bé đáng gườm: Mỹ và
cách mạng Cuba) của tác giả Lars Schoultz [162]. Tác giả cung cấp một biên
niên sử ký toàn diện về chính sách của Mỹ đối với cuộc Cách mạng Cuba. Sử
dụng các tài liệu và phỏng vấn trực tiếp các nhà lãnh đạo Mỹ và Cuba về những
nỗ lực của chính quyền Mỹ trong việc xóa bỏ Cách mạng Cuba và nhà nước
Cuba xã hội chủ nghĩa.
Cuốn sách: "The immigrant divide: How Cuban Americans Changed the
U.S. and Their Homeland" (Sự chia rẽ người dân nhập cư: Làm thế nào để người
Mỹ gốc Cuba có thể thay đổi được nước Mỹ và quê hương của họ) của tác giả
Susan Eckstein [181]. Tác giả đã đưa ra 4 phương hướng để hoạch định chính
sách của Mỹ đối với Cuba mà không tính đến chế độ và thể chế của hai nước.
22
Bài viết của Ủy Ban Quan hệ Quốc tế Mỹ CFR: "State Sponsors: Cuba”
(Người tài trợ Cuba) của Council on Foreign Relations [138] đã đưa ra lời giải
đáp cho những câu hỏi xoay quanh việc Cuba bị Mỹ đưa vào danh sách các quốc
gia bảo trợ khủng bố từ năm 1982 và tới tận năm 2010 vẫn chưa được đưa ra
khỏi danh sách. CFR đã đưa ra những lí do mà Mỹ biện luận để đưa Cuba vào
danh sách các quốc gia tài trợ khủng bố. Đồng thời cũng đưa ra những bằng
chứng tích cực của Cuba đối với Mỹ sau sự kiện 11/9/2001.
Ngoài những công trình nêu trên, đáng chú ý còn có các bài Báo cáo của
chính giới Mỹ, trong đó đưa ra những vấn đề và nhận định liên quan đến quan hệ
của Mỹ với Cuba như:
Bài báo cáo: "Changing Cuba Policy - in the United States National
Interest: Staff Trip Report to the Committee on Foreign Relations, United States
Senate" (Thay đổi chính sách của Cuba trong lợi ích quốc gia của Mỹ: Nhân viên
thực tế trình Báo cáo lên Ủy Ban Đối Ngoại- Thượng viện Mỹ) của tác giả Carl
Meacham Diane [136]. Báo cáo này cung cấp thông tin quan trọng và đưa ra một
số khuyến nghị để thúc đẩy lợi ích của Mỹ tại Cuba.
Bài báo cáo: "U.S-Cuban Relations in the 21st Century: A Follow-on
Chairman's Report of an Independent Task Force Sponsored" của tác giả
Bernard Aronson, William D. Rogers [134] thuộc Ủy ban Đối ngoại Quốc hội
Mỹ. Báo cáo này nêu rõ sự đồng thuận của cả hai Đảng trong chính sách của Mỹ
đối với Cuba và những vấn đề tồn tại trong quan hệ hai nước trước những yêu
cầu đòi gỡ bỏ lệnh cấm vận của Mỹ đối với Cuba của cộng đồng quốc tế.
* Nhóm các công trình liên quan đến chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng, Nhà nước Cuba và quá trình xây dựng, phát triển kinh tế, đất nước
của Cuba
Viết về những chủ trương, chính sách của Đảng cộng sản Cuba tại Đại hội
IV, V, có một số công trình, bài viết tiêu biểu như sau: bài viết liên quan đến Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đảng cộng sản Cuba như: "Congress documents
will be submitted to abroad discussion" [139]; "Raúl Castro,Central Report to
7th Congress of Communist Party of Cuba" [133]...
Viết về những nguyên nhân Cuba thực hiện "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã
hội" để xây dựng và phát triển kinh tế đất nước có một số công trình tiêu biểu sau:
23
Bài viết: "Cuba: actualización del modelo económico y social" của Julio
A. Díaz Vázquez [160]. Bài viết trên đã nêu ra một số nguyên nhân khách quan
và chủ quan dẫn đến việc Cuba quyết định thực hiện mô hình phát triển kinh tế-
xã hội như toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, khủng hoảng tài chính...và
những vấn đề trong nước như: lệnh cấm vận của Mỹ, kinh tế bao cấp quá
lâu...Ngoài ra, tác giả còn so sánh sự khác nhau giữa Cải cách kinh tế từ năm
1990 với "cập nhật" kinh tế trong thời gian này và đưa ra một số quan điểm về
mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Cuba.
Việc "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội" ở Cuba cho đến nay vẫn còn
có rất nhiều ý kiến trái chiều. Có những học giả cho rằng Cuba học tập theo mô
hình "Đổi mới" của Việt Nam, một số khác lại nghĩ theo mô hình "Cải cách, Mở
cửa" của Trung Quốc. Viết về vấn đề này, có một số công trình tiêu biểu như sau:
Bài viết "Actualizar el modelo económico en Cuba: ¿Patrón chino o
vietnamita?" (Cập nhật mô hinh kinh tế ở Cuba: hình mẫu Trung Quốc hay Việt
Nam) của tác giả Julio A. Díaz Vázquez [159]. Theo ông giữa Trung Quốc, Việt
Nam và Cuba có một số nét tương đồng: đều là những nước xã hội chủ nghĩa, xuất
phát từ nền kinh tế nông nghiệp nhưng có sự khác nhau về địa lý, văn hóa và sự
phát triển của xã hội nên việc đưa ra mô hình phát triển phải phù hợp với điều kiện
của từng nước chứ không phải là sự cóp nhặt sau đó áp dụng vào đất nước mình.
Bài viết: "Cuba defiende actualizar modelo económico con estabilidad
social y política" (Cuba bảo vệ cập nhật hóa mô hình kinh tế - xã hội để ổn định
chính trị và xã hội) [140] trong một buổi Hội thảo bàn về mô hình này, các học
giả và các nhà Ngoại giao Cuba cho rằng: Cuba đang thực hiện một mô hình
"cập nhật" chứ không phải là một cuộc "cải cách" và đang nghiên cứu một mô
hình chuyển đổi để phù hợp với điều kiện của Cuba và nhấn mạnh họ không sao
chép mô hình của Trung Quốc.
Viết về những thành tựu và hạn chế trong "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-
xã hội" ở Cuba, trong số các công trình nói về vấn đề này, đáng chú ý là bài viết:
"Raúl Castro Urges Cubans to Remain Alert to U.S. Efforts to Alter Communist
System" của tác giả Victoria Burnett [189]; bài viết: "These reforms will update
the Cuban model and spur economic growth" của tác giả Omar Everleny Perez
24
[170] lại cho rằng: Cải cách mô hình kinh tế ở Cuba không phải là hoàn toàn mới
mà cái mới ở đây chính là nhận thức mới về vai trò và tầm quan trọng của khu
vực kinh tế tư nhân (khu vực ngoài nhà nước) và điều này có nghĩa là thị trường
phải đóng một vai trò ngày càng cao trong nền kinh tế Cuba. Đây được coi là
thành công ban đầu của chính phủ Cuba.
1.2. VẤN ĐỀ CHƯA ĐƯỢC GIẢI QUYẾT
Trước khi tác giả lựa chọn đề tài này, đã có nhiều nhà nghiên cứu, phân
tích trong và ngoài nước viết về đề tài Cuba. Tuy nhiên, điểm chung của các
công trình đi trước chủ yếu tập trung phân tích một cách sơ lược về đất nước,
con người, lịch sử, văn hóa, chế độ chính trị, xã hội của Cuba giai đoạn trước
1991 hoặc nghiên cứu một cách thuần túy về con đường phát triển của cách
mạng Cuba mà không đi sâu phân tích, tìm hiểu về quá trình đấu tranh bảo vệ
độc lập dân tộc ở quốc đảo này thời kỳ sau chiến tranh Lạnh, về sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội, quá trình cải cách kinh tế, sửa sai và chủ trương "Cập
nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội" của Cuba trong giai đoạn mới. Những hạn chế
trên đã tạo nên một khoảng trống lớn về thông tin, tư liệu đối với các học giả
trong và ngoài nước, muốn quan tâm, tìm hiểu về tình hình Cuba, cũng như vai
trò, vị trí của đất nước ở Mỹ Latinh. Do đó, để khắc phục những hạn chế, thiếu
sót của các công trình đi trước, trong luận án này tác giả đã tập trung đi sâu phân
tích quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba giai đoạn 1991-2016 với
hai thời kỳ: "thời kỳ đặc biệt trong hòa bình" (1991-2004) và đẩy mạnh cải cách
kinh tế và thực hiện chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội" (2004-
2016). Mặc dù, luận án vẫn chưa thể làm rõ được hết những vấn đề mà các học
giả trước đây còn thiếu, chưa từng đề cập đến, nhưng đây được coi là một trong
những công trình nghiên cứu có quy mô lớn, đầu tiên ở Việt Nam về Quá trình
đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba từ sau chiến tranh Lạnh đến nay.
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TẬP TRUNG LÀM RÕ
Trên cơ sở tiếp thu những kết quả nghiên cứu của các công trình trước đó,
luận án sẽ tập trung giải quyết và làm sáng tỏ một số vấn đề sau:
Thứ nhất, luận án sẽ tổng thuật một số quan niệm về độc lập dân tộc và
bảo vệ độc lập dân tộc, sau đó, phân tích những nhân tố chủ quan và khách quan
25
tác động đến quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của nước Cộng hòa Cuba
từ năm 1991 đến năm 2016;
Thứ hai, phân tích các mục tiêu, nhiệm vụ và nội dung của Đảng, Nhà
nước Cuba về đấu tranh bảo vệ độc lập trên tộc trên các lĩnh vực: chính tri- ngoại
giao, an ninh -quốc phòng, kinh tế, văn hóa- xã hội thông qua hai giai đoạn: giai
đoạn "Thời kỳ đặc biệt trong hòa bình" (1991-2004) và giai đoạn đẩy mạnh cải
cách kinh tế và thực hiện chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội"
(2004-2016).
Thứ ba, đánh giá những thành tựu, hạn chế, một số đặc điểm của quá trình
đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba từ năm 1991 đến năm 2016 và những
vấn đề đặt ra đối với sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba trong
thời gian tới. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã liên hệ với sự nghiệp đấu tranh bảo vệ
độc lập dân tộc của Việt Nam giai đoạn 1991-2016.
Tóm lại, luận án đi sâu phân tích và làm rõ thực trạng của quá trình đấu
tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba giai đoạn 1991-2016. Đồng thời, cũng đưa
ra được một số luận điểm mới mang tính định hướng trên các lĩnh vực: chính trị-
ngoại giao; an ninh- quốc phòng; kinh tế; văn hóa- xã hội, đó là những khuyến
nghị mà cá nhân tác giả đã mạnh dạn nêu ra để Đảng và Nhà nước Cuba có thể
tham vấn và đề ra đường lối, chủ trương, chính sách phù hợp với điều kiện và
hoàn cảnh đất nước trong thời gian tới.
26
Chương 2
QUAN NIỆM VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC Ở CUBA
TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2016
2.1. QUAN NIỆM VỀ BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
2.1.1. Quan niệm về độc lập dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc
Quan niệm chung về độc lập dân tộc: Theo từ điểm tiếng việt thuật ngữ
"Độc lập" của một nước vừa là tính từ, vừa là danh từ. Trên phương diện tính từ,
"độc lập" được hiểu là không phụ thuộc vào nước khác hoặc dân tộc khác, còn
trên phương diện danh từ, "độc lập" là trạng thái của một nước hoặc một dân tộc
có chủ quyền về chính trị, không phụ thụ thuộc vào nước khác, hoặc dân tộc
khác [126, tr.444].
Quan niệm chung về bảo vệ độc lập dân tộc: Bảo vệ độc lập dân tộc được
hiểu là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
tổ quốc, bảo vệ đảng, nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ
công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ lợi ích quốc
gia dân tộc; bảo vệ văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định
chính trị, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội [126, tr.147-148].
Quan điểm của Mác và Anghen về độc lập dân tộc: Trong tác phẩm
"Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" (2/1848), Mác và Anghen đã chỉ rõ:
Giai cấp tư sản ngày càng xóa bỏ tình trạng phân tán về tư liệu sản
xuất. Nó tự tập dân cư, tập chung các tư liệu sản xuất và tích tụ tài sản
vào tay một số ít người. Kết quả tất nhiên của thay đổi ấy là sự tập
trung về chính trị. Những địa phương độc lập liên hệ với nhau hầu như
chỉ bởi những quan hệ liên minh và có những lợi ích, luật lệ, chính
phủ, thuế quan khác nhau thì đã được tập hợp lại thành một dân tộc
thống nhất, có một chính phủ thống nhất, một pháp luật thống nhất và
một lợi ích dân tộc thống nhất. Khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển cao,
bước vào giai đoạn độc quyền thì vấn đề dân tộc và độc lập dân tộc có
những sự vận động phức tạp. Đối với nội bộ dân tộc, bọn tư sản độc
27
quyền, nắm mọi quyền lực của dân tộc, lợi ích kinh tế, chính trị, văn
hóa, quân sự, ngoại giao của dân tộc bị chi phối bởi tư sản độc quyền.
Còn trong quan hệ với các nước khác, chúng liên minh với các thế lực
tư sản độc quyền của các cường quốc tiến hành xâm lược, nô dịch để
chia lại thị trường, thuộc địa, phá vỡ sự thống nhất dân tộc, làm mâu
thuẫn giữa thuộc địa với đế quốc ngày càng sâu sắc. Đây chính là
nguyên nhân làm cho phong trào dân tộc phát triển, chống lại sự nô
dịch, xâm lược, làm xác lập quyền độc lập dân tộc [7, tr.602-603].
Quan điểm của Lênin về độc lập dân tộc: Trong "Luận cương của Lênin
về vấn đề dân tộc và thuộc địa" (1916), Lênin đã nêu ra quan điểm sau:
Giai cấp tư sản đã giải quyết một cách trừu tượng và hình thức vấn đề
dân tộc và quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Đó là một sự dối trá, thủ
tiêu đấu tranh giai cấp nhằm bảo vệ lợi ích hẹp hòi, cá lớn nuốt cá bé.
Nó tạo ra những quốc gia độc lập về phương diện chính trị, nhưng
hoàn toàn phụ thuộc vào chủ nghĩa tư bản về phương diện kinh tế, tài
chính, quân sự [125, tr.204].
Lênin đã đặt ra một loạt vấn đề có tính nguyên lý và những phương hướng
giải quyết vấn đề dân tộc của chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng theo đó, mọi dân
tộc đều có quyền bình đẳng và quyền tự quyết về vận mệnh của dân tộc mình trên
tinh thần hợp tác và xích lại lẫn nhau giữa các dân tộc [125, tr.204]. Đây là sự hoàn
thiện, phát triển lý luận chủ nghĩa Mác về vấn đề dân tộc của Lênin.
Khi đề cập đến những yếu tố dân tộc của các dân tộc thuộc địa, một mặt
Lênin phê phán những biểu hiện khác nhau của chủ nghĩa dân tộc tiểu tư sản như:
"tinh thần ích kỷ dân tộc", "thành kiến dân tộc tiểu tư sản thâm căn cố đế", mặt khác,
ông đặc biệt lưu ý hai vấn đề: "sự nghi kỵ của quần chúng cần lao ở các nước thuộc
địa đối với các dân tộc bị áp bức nói chung, kể cả với giai cấp vô sản của các dân tộc
đó" và "tình trạng lạc hậu của nước tiểu tư sản nông nghiệp mang tính gia trưởng làm
cho những thành kiến tiểu tư sản thâm căn cố đế nhất như tinh thần dân tộc ích kỷ,
hẹp hòi dân tộc có một sức mạnh đặc biệt và có tính giai giẳng" [125, tr.205].
Lênin cũng khẳng định quyền bình đẳng giữa các dân tộc bao gồm tất cả
các lĩnh vực trong đời sống xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa. Đây chính là cơ sở
28
pháp lý chung để giải quyết các quan hệ quốc gia, dân tộc trên thế giới, trong các
khu vực vì nó được pháp luật của các quốc gia và công pháp quốc tế ghi nhận.
Bình đẳng giữa các dân tộc cũng có nghĩa là tôn trọng quyền của mỗi quốc gia
bởi vì nó đặt lên hàng đầu việc xóa bỏ ách nô dịch của dân tộc này đối với một
dân tộc khác và trở thành nguyên tắc hàng đầu trong hợp tác, giao lưu giữa các
dân tộc, quốc gia trên thế giới hiện nay.
Như vậy, những quan điểm về độc lập dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc
trên, đặc biệt là quan điểm của Mác, Anghen và Lênin được coi là cơ sở và tiền
đề lý luận quan trọng để nhà tư tưởng vĩ đại của cách mạng Cuba thế kỷ XIX,
Jose Marti chiêm nghiệm và được Đảng cộng sản Cuba, Chủ tịch Fidel kế thừa
và phát triển cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh lịch sử của cách mạng
Cuba trong quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc trong bối cảnh mới.
2.1.2. Quan niệm của Cuba về đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc
* Quan niệm về đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Jose Marti
Jose Marti đã thể hiện rõ quan điểm độc lập dân tộc của mình đó là: "coi
tư tưởng của thuyết thế giới cân bằng" và "tinh thần cách mạng triệt để" làm nền
tảng tư tưởng của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc ở
Cuba. Nội dung chính của luận thuyết này là: "xây dựng một nước Cuba Cộng
hòa dân chủ với một nền cộng hòa chân chính và tất cả mọi quyền và vì lợi ích
của mọi người" [130]. Trong nước cộng hòa này sẽ thủ tiêu hết mọi chế độ bóc
lột, xã hội không có kẻ giàu, người nghèo, không có kẻ thống trị và người bị trị
và chính quyền trong nước sẽ vì thành quả chung của nhân loại. Đây chính là
nước cộng hòa của người lao động. Jose Marti còn đề ra khẩu hiệu: "xây dựng
một nước cộng hòa với tất cả mọi người và vì quyền lợi của mọi người" [60,
tr.69]. Quan điểm này đã phản ánh được nguyện vọng của đông đảo quần chúng
nhân dân và tạo điều kiện để nhân dân Cuba đứng lên chống lại thực dân Tây
Ban Nha và giành lại nền độc lập dân tộc cho đất nước.
Jose Marti cũng luôn nhấn mạnh vào sự cần thiết của cuộc đấu tranh bằng
con đường bạo lực cách mạng để lật đổ thực dân Tây Ban Nha, kiên quyết vạch
trần và kịch liệt lên án các tư tưởng cải lương, thỏa hiệp, đầu hàng của những
người theo chủ nghĩa tự trị, cho dù là công khai hay dấu mặt trong cuộc chiến
29
chống lại một chế độ mà theo như Marti là gắn liền với tội ác và giá treo cổ,
đồng thời, khẳng định rõ quan điểm độc lập tự chủ của nhân dân Cuba trước thực
dân Tây Ban Nha và đế quốc Mỹ qua phát biểu đanh thép của mình: "Chúng ta
không đi tìm sự thay đổi hình thức thống trị, chúng ta không muốn thay ông chủ
Tây Ban Nha bằng một ông chủ mới mặc quân phục Mỹ" [60, tr.65].
Marti là một trong số rất ít những nhà cách mạng ở Mỹ Latinh và Châu
Mỹ đã nhìn thấu suốt mưu đồ bành trướng, bá quyền của đế quốc Mỹ ở Tây bán
cầu cũng như trên phạm vị toàn thế giới. Đặc biệt, do theo dõi sát sao mọi hành
vi, diễn biến đường lối đối nội, đối ngoại của nước Mỹ cuối thế kỷ XIX, nên
Marti đã gọi chính quyền Mỹ là "Tập đoàn ăn cướp" vì dưới sự lãnh đạo của tập
đoàn đó "Nước Mỹ...chỉ chăm chú đến việc đi xâm lược các nước láng giềng
nhỏ, yếu hơn và tiến hành các cuộc chiến tranh vô nhân đạo, chống lại các nước
trên thế giới với ý đồ thống trị toàn cầu" [154, tr.352]. Chính vì nhận thức được
một cách chính xác chủ nghĩa bành trướng của để quốc Mỹ nên Marti đã sớm
giác ngộ nhân dân Cuba khỏi các âm mưu thâm độc của Mỹ, định thế chân Tây
Ban Nha xâm lược Cuba và qua đó thực hiện chiến lược bành trướng các nước
Mỹ Latinh khác. Ông còn chủ trương phát động toàn dân Cuba đứng lên tiến
hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc để đánh đổ ách thống trị của thực dân
Tây Ban Nha, giành độc lập hoàn toàn cho Cuba, thúc đẩy và giúp đỡ cho nền độc
lập của các nước láng giềng như Puertorico, Mexico và ngăn chặn con đường bành
trướng của Mỹ qua quần đảo Angti và các nước Mỹ Latinh. Như vậy, tư tưởng đấu
tranh và bảo vệ độc lập dân tộc, chủ nghĩa yêu nước chân chính của Marti đã gắn
liền hữu cơ với tinh thần đoàn kết quốc tế, đoàn kết Mỹ Latinh chống kẻ thù chung
và ngay từ năm 1895, ông đã chỉ rõ được nguy cơ đang đe dọa trực tiếp đến cách
mạng Cuba và toàn Mỹ Latinh chính là đế quốc Mỹ.
Bên cạnh đó, Marti còn là một nhà tư tưởng dân chủ cách mạng kiệt xuất
và luôn mong muốn xây dựng ở Cuba một xã hội công bằng, hợp lý và đảm bảo
tự do hạnh phúc cho nhân dân. Nếu như vào cuối thế kỷ XIX, nhiều nhà tư tưởng
ở Mỹ Latinh vẫn còn lý tưởng hóa và ca ngợi chế độ cộng hòa tư sản thì Marti,
qua thực tiễn sinh sống ở Mỹ 15 năm đã nhận rõ rằng nền dân chủ Mỹ là nền dân
chủ trên hình thức, bởi thực tế nó đã biến thành một nền chuyên chế của thiểu số
30
bóc lột đại đa số quần chúng nhân dân lao động. Đồng thời, cho rằng nền cộng
hòa dân chủ của Mỹ không những không xóa bỏ được sự nghèo khổ mà còn làm
bần cùng hóa và gia tăng sự nghèo khổ lên một cách đáng sợ. Trong hoàn cảnh
cụ thể của Cuba cuối thể kỷ XIX, Jose Marti đã đưa ra được tư tưởng dân chủ
cách mạng rất tiến bộ tạo cơ sở để trở thành vũ khí tinh thần sắc bén giúp nhân
dân Cuba đứng lên đấu tranh chống áp bức bóc lột, giải phóng dân tộc, giai cấp
và xã hội.
* Quan điểm của Đảng cộng sản Cuba về đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc
Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Cuba, Đảng cộng sản là lực lượng lãnh
đạo tối cao của xã hội, Nhà nước, là thành quả chân chính của Cách mạng đấu tranh
và bảo vệ độc lập dân tộc, đồng thời là lực lượng tiên phong có tổ chức, cùng nhân
dân đảm bảo thành quả cách mạng và chế độ xã hội chủ nghĩa [17, tr.1].
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ nhất Đảng Cộng sản Cuba (12/1975), Bí thư
thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Cuba, Fidel Castro đã từng nói:
Đảng là sự tổng hợp của tất cả. Đảng là kết tinh những mơ ước của tất
cả những người cách mạng trong suốt chiều dài lịch sử; những tư
tưởng, những nguyên tắc và sức mạnh cách mạng đều được cụ thể hóa
trong Đảng; ...trong Đảng, chúng ta đoàn kết hơn, mỗi chúng ta trở
thành một người lính Spaktacud kiên cường và cùng nhau trở thành
một người khổng lồ bất khả chiến bại [22, tr.2].
Quan điểm trên là sự tổng hợp những tư tưởng và hành động của Đảng
cộng sản Cuba trong quá trình đấu tranh và bảo vệ tổ quốc không chỉ trong thời
kỳ cách mạng dân tộc dân chủ mà còn được áp dụng nhuần nhuyễn trong công
cuộc xây dựng và củng cố một xã hội hoàn toàn tự do và tự chủ như đã thể hiện
trong Hiến pháp của Cuba.
Đảng Cộng sản Cuba lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Jose Marti [34]
và tư tưởng lãnh tụ lịch sử Fidel Castro làm nền tảng tư tưởng đối với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay [91, tr.20].
Ngoài ra, Đảng cộng sản Cuba còn là Đảng cầm quyền duy nhất ở Cuba, có
nhiệm vụ đoàn kết tất cả những người yêu nước, đấu tranh vì những lợi ích tối
cao của dân tộc là xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ những thành quả của Cách
31
mạng và tiếp tục đấu tranh vì giấc mơ xây dựng một xã hội công bằng cho Cuba
và cho toàn nhân loại.
Đảng Cộng sản Cuba là nhân tố đảm bảo cho khối đoàn kết của tất cả
những người cách mạng và những người yêu nước, trong công cuộc đấu tranh
không mệt mỏi chống lại chính sách bao vây cấm vận của Mỹ và là nhân tố đảm
bảo cho nền độc lập, sự nghiệp bảo vệ tổ quốc, an ninh quốc gia. Chính vì vậy,
trong Điều lệ Đảng được coi là Đảng của dân tộc Cuba.
Mục tiêu của Đảng Cộng sản Cuba trong giai đoạn hiện nay và trong
tương lai là: “Duy trì khối thống nhất toàn dân, tăng cường đạo đức cách mạng,
phát huy tinh thần Cách mạng, củng cố tình đoàn kết, công bằng xã hội, sự tin
cậy lẫn nhau, kỷ luật, sự chân thành, khiêm tốn, tinh thần đấu tranh phê bình và
tự phê bình và an ninh quốc gia. Đảng đấu tranh chống lại chủ nghĩa cá nhân,
chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc dưới mọi hình thức, chủ nghĩa hoài
nghi, sự thiếu niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa bi quan, chủ nghĩa cơ
hội, chủ nghĩa theo đuôi, lá mặt lá trái, sự vô kỷ luật, tham nhũng và tất cả các
biểu hiện vô đạo đức, phản xã hội [23]. Đây cũng được coi là mục tiêu để Cuba
bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba được dựa trên
những đường lối và nội dung cụ thể của công tác tư tưởng, trên cơ sở chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Jose Marti và tư tưởng của lãnh tụ lịch sử Fidel Castro,
cùng truyền thống đấu tranh của nhân dân và kinh nghiệm lịch sử của Đảng và
của các dân tộc khác.
Kết quả của Đại hội VI, VII và Hội nghị toàn quốc của Đảng đã cho thấy
những quan điểm của Đảng cộng sản Cuba về đường lối đấu tranh bảo vệ độc
lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng trong giai đoạn hiện nay vẫn
còn nguyên giá trị. Các kỳ Đại hội Đảng và Hội nghị Trung Ương đã trở thành
nơi cung cấp vũ khí, công cụ và chỉ ra con đường để Cách mạng Cuba tiếp tục
tiến lên. Quan điểm này là sự tổng hòa giữa lịch sử trong thời kỳ đấu tranh giải
phóng dân tộc trước đây với quá trình "cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội"
hiện nay và tương lai cách mạng Cuba.
Bên cạnh đó, để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa,
Đảng cộng sản Cuba cũng quán triệt quan điểm về việc thống nhất, liên kết tất cả
32
các phương tiện, lực lượng để củng cố khối đoàn kết toàn dân; việc phát triển
những giá trị cách mạng; việc đáp ứng những đòi hỏi chính đáng của cá nhân và
tập thể; việc đấu tranh chống lại những thành kiến hiện vẫn đang tồn tại trong xã
hội cũng như thách thức to lớn mà cách mạng Cuba đang gặp phải.
Mặc dù, phải đối mặt với những khó khăn trên, nhưng với sự lãnh đạo
đúng đắn, sáng suốt của Đảng cộng sản, cách mạng Cuba vẫn tiếp tục đi lên và
thu được nhiều thành tựu quan trọng trong việc đấu tranh và bảo vệ nền độc lập
dân tộc, tiêu biểu là việc Mỹ phải tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Cuba,
đưa Cuba ra khỏi danh sách các nước tài trợ cho chủ nghĩa khủng bố...Đúng như
nhận định của Bí thư thứ nhất, Raul Castro:
Từ bỏ nguyên tắc một đảng cũng đồng nghĩa với việc hợp pháp hóa
các đảng của chủ nghĩa đế quốc ở ngay trên mảnh đất của mình; là
đồng nghĩa với việc hy sinh vũ khí chiến lược của chúng ta là khối
đoàn kết toàn dân, khối đoàn kết đã biến giấc mơ độc lập và công bằng
xã hội của biết bao thế hệ những người yêu nước từ Hatuey cho tới
Cespedes, Martí và Fidel, thành hiện thực [24].
* Quan niệm của Fidel Castro về bảo vệ độc lập dân tộc
Nói đến quan niệm bảo vệ độc lập dân tộc của lãnh tụ cách mạng Fidel
Castro không thể không nhắc đến tư tưởng "Cách mạng tiến công". Nội dung
chính của tư tưởng này là:
Muốn dành được độc lập thật sự cho tổ quốc, tự do cho nhân dân, người
cách mạng không thể do dự trước khó khăn, nguy hiểm, trái lại, phải có
tinh thần kiên quyết đấu tranh, kiên quyết phát động quần chúng nổi dậy,
từng bước tạo ra những điều kiện chủ quan, cần thiết, tích cực, chủ động
tạo ra thời cơ để giành thắng lợi cho cách mạng [58, tr.246].
Những thành quả của công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc (1953-
1959) dẫn tới sự ra đời của nhà nước Cộng hòa Cuba ngày 1/1/1959 đã khẳng
định tính đúng đắn của tư tưởng Cách mạng tiến công, đồng thời, làm rõ chân lý
cách mạng của ông:
Cách mạng là phải tiến công. Không tiến công, cách mạng không thể
giành được thắng lợi. Tiến công là tìm cách khắc phục mâu thuẫn,
33
vượt qua khó khăn, kiên trì xây dựng, phát triển thực lực của cách
mạng về mọi mặt, tích cực, chủ động, sáng tạo ra thời cơ để đưa cách
mạng từng bước tiến lên, đánh bại từng chính sách, đập tan từng âm
mưu, đánh đổ từng vị trí, đi đến đánh đổ hoàn toàn ách thống trị của
bọn bóc lột, giành chính quyền về tay nhân dân [58, tr.429].
Những thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng và bảo vệ độc lập dân tộc
của Cuba trong giai đoạn 1953-1959 đã thể hiện sự thấm nhuần tư tưởng Cách
mạng tiến công của Fidel và đường lối cách mạng dân tộc dân chủ triệt để của
Chủ nghĩa Mác-Lênin được áp dụng vào nước thuộc địa kiểu mới. Chính Fidel
đã khẳng định: "Quá trình cách mạng Cuba khẳng định sức mạnh kỳ lạ của tư
tưởng Mác, Anghen, Lênin" [149]. Do vậy, cho dù hình thức đấu tranh, bước đi
cụ thể của Phong trào cách mạng giải phóng và bảo vệ độc lập dân tộc ở Mỹ
Latinh có diễn ra như thế nào thì những thành công của Cuba đã góp phần làm
phong phú lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng dân tộc dân chủ trong
điều kiện các nước thuộc địa, nửa thuộc địa và nửa phong kiến.
Tư tưởng Cách mạng tiến công của Fidel không chỉ dừng lại ở thắng lợi
của cuộc cách mạng Tháng Giêng 1959, mà nó còn giúp Cuba thu được nhiều
thắng lợi quan trọng như: hoàn thành bản Cương lĩnh Moncada lịch sử với nội
dung: Khôi phục tự do cho nhân dân và nền dân chủ chính trị trong nước [148],
đồng thời dẫn dắt cách mạng Cuba vượt qua nhiều khó khăn thách thức.
Bên cạnh đó, quan niệm bảo vệ độc lập dân tộc của Fidel còn thấm nhuần
sâu sắc học thuyết xây dựng thế giới cân bằng và xóa bỏ bất công của Jose
Marti. Từ thực tiễn, Fidel đã vận dụng và phát triển tư tưởng này của Marti, kết
hợp với chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
độc lập dân tộc của Cuba và tạo nên sức mạnh đoàn kết, tập hợp lực lượng và
nhân dân Cuba tiến lên xây dựng Cuba công bằng, hợp lý và nhân văn.
Fidel cũng đã khẳng định: "Tư tưởng sẽ làm chuyển hóa thế giới" [65,
tr.33], từ tư tưởng đến hành động, Fidel luôn gắn liền với quyền lợi của nhân
dân, tạo lên sức mạnh đoàn kết toàn dân. Chính sức mạnh to lớn của nhân dân đã
giúp Cuba kiên cường gần 60 năm chống chọi được với những âm mưu chống
phá của Mỹ nhằm tiêu diệt và lật đổ cách mạng Cuba.
34
Để khẳng định những giá trị về tư tưởng cách mạng của Fidel, Chủ tịch
Raul Castro đã nói:
Fidel là không thể thay thế được và nhân dân Cuba sẽ tiếp tục theo
đuổi sự nghiệp của Người. Nhân dân Cuba sẽ mãi mãi coi Fidel và tư
tưởng của ông là biểu tượng và làm nền tảng cho tinh thần đấu tranh
chống đế quốc, giành độc lập và chủ quyền dân tộc. Fidel và tư tưởng
của ông chính là nguồn cổ vũ động viên to lớn đối với các thế hệ
người dân Cuba và là động lực dẫn dắt cách mạng vượt qua mọi khó
khăn, thử thách hiện nay và tiến lên đạt được nhiều thắng lợi to lớn
hơn nữa [2].
Từ những quan niệm về độc lập dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc của
Mác, Anghen, Lênin, Jose Marti, Fidel và Đảng cộng sản Cuba, theo quan điểm
của tác giả về đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba trong giai đoạn 1991-
2016 được hiểu như sau:
Thứ nhất, đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba trong giai đoạn này
chính là bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Đối với Cuba, bảo vệ lợi ích quốc gia
dân tộc cũng chính là bảo vệ các giá trị truyền thống về văn hóa, lịch sử và bản
sắc dân tộc. Không duy trì được lợi ích quốc gia dân tộc Cuba sẽ không thể giải
quyết được bất cứ vấn đề nào của đất nước mình vì hiện nay, mối quan hệ đồng
minh thân thiết giữa Cuba và Venezuela cũng có thể mất đi nếu lợi ích quốc gia
không được tôn trọng và đáp ứng thỏa đáng, trong khi, những kẻ thù lâu dài của
Cuba như Mỹ, cũng có thể trở lên thân thiết, nếu lợi ích quốc gia song trùng.
Đúng như câu châm ngôn bất hủ của Huân tước Anh Palmerston nói trong cuộc
chiến tranh Crimea giữa đế quốc Nga Sa Hoàng với đế chế Ottoman (1855-1856)
rằng: "Không có đồng minh vĩnh viễn và kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia
là vĩnh viễn" [105, tr.6].
Thứ hai, đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba cũng luôn gắn liền với
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và để bảo vệ những thành quả của cuộc cách
mạng Tháng Giêng năm 1959. Từ sau thành công của cuộc cách mạng này đến
nay, Cuba đã dứt khoát đi theo con đường chủ nghĩa xã hội và giành được nhiều
thành quả quan trọng trên các lĩnh vực như: giáo dục, y tế, công nghệ sinh học,
35
du lịch...đặc biệt, bất chấp những khó khăn về kinh tế, nhưng Cuba vẫn duy trì các
chính sách miễn phí về giáo dục, y tế, an sinh xã hội...Đây chính là nền tảng quan
trọng để đảm bảo sự ổn định chính trị-xã hội, cải thiện của đời sống nhân dân.
Thứ ba, bản chất của cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba trong
giai đoạn này chính là đấu tranh chống lại các chính sách bao vây cấm vận, cô
lập của Mỹ, những chính sách đã gây ra cho Cuba thiệt hại nặng nề về vật chất,
tinh thần.
Thứ tư, đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba cũng chính là đấu tranh bảo
vệ những nền tảng tư tưởng mà cuộc cách mạng này đang theo đuổi: chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Jose Marti và tư tưởng của lãnh tụ lịch sử Fidel Castro. Đây
chính là kim chỉ nam giúp cách mạng Cuba vượt qua mọi khó khăn, thách thức và
là nền tảng tư tưởng cho sự phát triển của quốc đảo này trong tương lai.
Thứ năm, bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba cũng chính là cuộc đấu tranh bảo
vệ những thành quả cách mạng mà nhân dân Cuba đã đạt được trên tất cả các lĩnh
vực, đặc biệt là kinh tế. Bởi lệ thuộc về kinh tế cũng có nghĩa là phụ thuộc về chính
trị, mất độc lập tự chủ và đưa Cuba trở lại chủ nghĩa tư bản một lần nữa.
Thứ sáu, bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba cũng chính là phát huy được
thành tựu, lợi thế so sánh mà cách mạng Cuba đã và đang đạt được trên các lĩnh
vực: giáo dục, y tế, công nghệ sinh học, biến các ngành này thành những ngành
kinh tế mũi nhọn, đảm bảo thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống nhân
dân và thực hiện công bằng xã hội. Đặc biệt, góp phần quan trọng giúp Cuba
chuyển đổi thành công cơ cấu kinh tế và từng bước hoàn thiện mô hình kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo "kiểu" Cuba. Đây cũng được coi là
ưu điểm và là giá trị quan trọng nhất mà sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân
tộc của Cuba cần tiếp tục phát huy trong hiện tại và tương lai.
2.2. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH
BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC Ở CUBA
2.2.1. Nhân tố chủ quan
2.2.1.1. Khái quát về nước Cộng hòa Cuba
Cuba (tên gọi chính thức là Cộng hòa Cuba, tiếng Tây Ban Nha:
Republica de Cuba) là một quốc gia nằm ở phía Bắc của quần đảo Angti lớn
36
thuộc biển Caribe và khu vực Trung Mỹ. Ngoài hòn đảo chính, Cuba còn có tới
1600 hòn đảo lớn nhỏ và các bãi đất nổi với tổng diện tích rộng 114,524 km2
[25, tr.1]. Với vị trị chiến lược hết sức quan trọng như trên nên Cuba từ lâu đã bị
các cường quốc thực dân ở Châu Âu và Bắc Mỹ nhòm ngó, thực hiện các mưu
đồ thôn tính và xâm chiếm làm thuộc địa. Các nước này cũng luôn coi Cuba là
chìa khóa để xâm nhập và mở rộng ảnh hưởng tại Mỹ Latinh.
Hiện nay, Cuba có khoảng 11,16 triệu dân, trong đó hơn 65% là người da
trắng gốc Âu (Tây Ban Nha), 25% là người lai, 10% là người gốc phi da đen. Ngoài
ra, còn có một nhóm nhỏ là người gốc Á (chủ yếu là người Hoa). Về tôn giáo, Cuba
có hơn 80% dân số theo Thiên chúa giáo, số còn lại là theo các tôn giáo khác như:
Tin lành, Do thái và Hồi giáo [25, tr.1]. Những đặc điểm dân cư nói trên đã tạo nên
sự gắn kết về văn hóa và tạo ra một nền văn hóa riêng có ở Mỹ Latinh.
Ngôn ngữ chính thức của Cuba là tiếng Tây Ban Nha, ngôn ngữ này có sự
pha trộn với một số ngôn ngữ gốc Idio, gốc Phi, cùng một số ít từ gốc Anh, Pháp
[58, tr.30]. Cuba là quốc gia có tốc độ đô thị hóa cao, với hơn 70% dân số sống ở
thành thị, trong đó, thủ đô La Habana là thành phố lớn nhất, có dân số khoảng
2,1 triệu người. Trên cả nước có 15 tỉnh và 1 quận đặc biệt trực thuộc Trung
ương (Pinot) và các thành phố lớn là: Santiago de Cuba, Camaguey [66, tr.1-2].
Nước Cộng hòa Cuba là quốc gia theo chế độ xã hội chủ nghĩa, do Đảng
cộng sản là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Vì vậy, chế độ chính
trị ở Cuba có sự khác biệt hoàn toàn so với các nước Mỹ Latinh và Châu Mỹ.
Hệ thống chính trị ở nước Cộng hòa Cuba bao gồm các cơ quan: Hành
pháp, lập pháp và tư pháp và hệ thống chính quyền địa phương. Từ sau khi giành
được độc lập đến nay, Cuba đã xác định con đường phát triển của đất nước là
xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình của Xô Viết với nền tảng tư tưởng là
chủ nghĩa Mác- Lênin. Bộ máy Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập
quyền, quyền lực nhà nước là thống nhất, không phân chia và thuộc về nhân dân.
Tuy nhiên, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan để thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Việc Cuba lựa chọn con đường xã hội
chủ nghĩa (chế độ chính trị xã hội khác biệt hoàn toàn với các nước ở Mỹ Latinh)
chính là căn nguyên dẫn tới việc chính quyền Mỹ liên tục thực hiện các chính
37
sách cô lập nhằm lật đổ chế độ ở Cuba. Do đó, đối với Cuba, sự nghiệp đấu tranh
bảo vệ độc lập dân tộc luôn gắn liền với quá trình bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, thành quả của cuộc cách mạng tháng Giêng năm 1959 và chống lại các
chính sách bao vây, cấm vận của Mỹ.
Cuba là quốc gia giàu tài nguyên khoáng sản (Nicken: trữ lượng đứng thứ
4 thế giới...), đất đai màu mỡ, thích hợp cho canh tác nhiều loại cây công nghiệp
và cây ăn quả có giá trị như: mía, cafe, thuốc lá, cam...và chăn nuôi đại gia súc,
có nhiều vùng sinh thái tự nhiên, đa dạng rất thích hợp cho việc phát triển các
loại hình du lịch tự nhiên.
Từ khi cách mạng thành công 1/1/1959, Cuba về cơ bản vẫn duy trì mô
hình kinh tế Kế hoạch hóa, tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay (2011-2016),
Cuba đã từng bước thực hiện chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội",
tuy nhiên đây là quá trình “cập nhật” chứ không phải “Cải cách” hay “Đổi mới”.
Nền văn hóa Cuba được hình thành từ trong quá trình sản xuất và trao đổi
của nhân dân. Mặc dù, là một đất nước đa chủng tộc, nhưng dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa mọi hành vi phân biệt chủng
tộc ở Cuba đều bị xóa bỏ.
Văn học nghệ thuật của Cuba được hình thành và phát triển cùng với quá
trình đấu tranh giải phóng dân tộc chống lại thực dân Tây Ban Nha, nó phản ánh
sự thức tỉnh dân tộc, dân chủ và truyền thống yêu nước của người Cuba qua
nhiều thế kỷ. Sự phát triển đó gắn liền với tên tuổi của nhiều nhà văn hóa nổi
tiếng: Nhà triết học F.Varela, Nhà thơ J.M.Hereria...
Với những đặc điểm trên, đã giúp cho Cuba có điều kiện để phát triển
kinh tế xã hội, xây dựng một nền văn hóa giàu bản sắc, mở rộng quan hệ hợp tác
quốc tế, qua đó, góp phần bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Tuy nhiên, nó
cũng đặt Cuba phải đối mặt với nhiều thách thức: vị trí địa lý thuận lợi của Cuba
cũng đã là nơi để các nước đế quốc tranh giành ảnh hưởng, thôn tính nhằm phục
vụ cho những tham vọng đế quốc của mình; sự đa dạng văn hóa, sắc tộc cũng là
nguy cơ để các thế lực lợi dụng, thúc đẩy các hoạt động diễn biến hòa bình thông
qua vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, gây chia rẽ nội bộ giữa Đảng
với Nhân dân từ đó chuyển hóa Cuba trở lại quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản, đe
dọa trực tiếp đến nền độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa ở quốc đảo này.
38
2.2.1.2. Kinh nghiệm đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba trước
năm 1991
* Xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa (1959-1991)
Ngay sau khi giành được độc lập, Cuba tiếp tục phải đối mặt với các chính
sách thù địch của Mỹ thông qua việc thúc đẩy sự can thiệp quân sự, bao vây,
cấm vận kinh tế, chính trị nhằm lật đổ chính quyền cách mạng vừa mới được thành
lập. Việc Cuba thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô (13/2/1960) [151] và quốc
hữu hóa tài sản của các công ty Mỹ, đặc biệt, Fidel còn công khai tuyên bố đi theo
Chủ nghĩa xã hội và trở thành đồng minh của Liên Xô (12/1961) đã buộc Mỹ phải
tiến hành các biện pháp trả đũa về tài chính và quân sự thông qua việc cấm nhập
khẩu hàng hóa từ Cuba vào Mỹ; ngăn chặn mọi nguồn tài chính tới Cuba; hỗ trợ
cho các phần tử Cuba sống lưu vong đổ bộ vào Vịnh Con Lợn (16/4/1961) nhằm
tiêu diệt cách mạng Cuba. Tuy nhiên, cuộc tấn công này bị thất bại và đã làm cho
hơn 1000 phần tử bị tiêu diệt và 1100 người bị bắt làm tù binh [182].
Sau hơn 3 thập kỷ tiến hành xây dựng nền kinh tế kế hoạch (1959-1991),
Cuba đã đạt được nhiều thành tựu có dấu mốc quan trọng:
Giai đoạn trước Đại hội lần thứ I (1959-1975)
Trong giai đoạn 1959-1975, Cuba đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng
trong việc phát triển giáo dục ở Mỹ Latinh. Nếu như trong năm 1958, Cuba có 1
triệu người mù chữ hoàn toàn, hơn 1 triệu người mù chữ một nửa, 600.000 trẻ
em thất học vì không có trường, ngân sách đầu tư cho giáo dục chỉ đạt 79,4 triệu
peso [65, tr.116], thì đến năm 1961, với việc cải cách giáo dục mạnh mẽ của
Đảng cộng sản Cuba và các chiến dịch xóa nạn mù chữ, Cuba đã thu được nhiều
thành quả quan trọng: có hơn 3,05 triệu học sinh được đi học; số học sinh tiểu
học tăng 2,7 lần; học sinh trung học tăng 6,1 lần, sinh viên đại học tăng 5,5 lần
lên con số 67.000 sinh viên; gần 100% trẻ em từ 6-12 tuổi được đi học. Ngoài ra,
Cuba còn có 21 trường Đại học Sư phạm đào tạo được 33.000 giáo viên tiểu học,
trung học [65, tr.120].
Cơ sở hạ tầng về y tế của Cuba trước cách mạng rất hạn chế và xuống cấp.
Hầu hết các bác sỹ giỏi đều tập trung ở La Habana, nơi chiếm 22% dân số và
61% giường bệnh. Các công ty sản xuất và phân phối dược phẩm đều nằm trong
39
tay 500 hãng và hiệu bào chế thuốc của nước ngoài đặc biệt là Mỹ. Nhưng sau
cách mạng, nhờ chính sách phát triển y tế đúng đắn của Đảng Cộng sản đã góp
phần cải thiện tình hình y tế ở Cuba. Cuba đã xây dựng được 10 trung tâm
nghiên cứu sinh hóa và y học; thành lập được 4 trường Đại học Y khoa, mỗi năm
đào tạo được 1000 thầy thuốc và 300 nha sỹ, nhiều loại dịch bệnh nguy hiểm đã
được Cuba loại trừ như: bệnh bại liệt (1963), sốt rét (1968), bạch hầu (1971)…tỷ
lệ tử vong ở trẻ sơ sinh đã giảm thiểu từ 60/1000 (1958) xuống còn 28,9/1000
(1975); tuổi thọ trung bình của người dân từ 55 tuổi (1958) lên 70 tuổi (1974).
Ngoài ra, Cuba còn đạt được tỷ lệ có 750 người/1 thầy thuốc, 3000 người/1 nha
sỹ, 10000 người/55 cán bộ kỹ thuật (1975). Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao
động chiếm 1/3 dân số (1958) (khoảng 70 vạn người, trong đó có 45% sống ở
nông thôn), nhưng với những nỗ lực của chính phủ Cuba tình trạng thất nghiệp
cơ bản đã được chấm dứt vào năm 1975 [65, tr.134].
Mặc dù, trong giai đoạn này, Cuba đều phải tập trung nguồn lực vào
nhiệm vụ sống còn là bảo vệ độc lập dân tộc,nhưng những thành tựu đã đạt được
như trên rất đáng khích lệ và được coi là nền tảng giúp Cuba bảo vệ vững chắc
nền độc lập dân tộc, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
* Xây dựng và phát triển thành quả của Chủ nghĩa xã hội
Giai đoạn từ Đại hội lần thứ I đến Đại hội lần thứ III (1975- 1991)
Từ năm 1976 đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX, Cuba lần lượt thực
hiện các kế hoạch 5 năm về phát triển kinh tế-xã hội theo phương hướng mà
Cương lĩnh của Đảng cộng sản Cuba lần thứ nhất đề ra là: "Tổ chức lại và phát
triển nền kinh tế quốc dân; xóa bỏ sự mất cân đối trong cơ cấu của nó; phát triển
nền công nghiệp dân tộc; cải tạo và đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp (bao gồm
trồng trọt và chăn nuôi); tăng các mặt hàng và khối lượng sản phẩm xuất khẩu,
thay thế các mặt hàng xuất khẩu, nâng cao mức sống của nhân dân" [17, tr.63].
Với đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự giúp đỡ có hiệu quả của
Liên Xô và các nước xã hội Chủ nghĩa trong Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV),
Cuba đã hoàn thành nhiều chỉ tiêu của các kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội.
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) giai đoạn 1981-1985 tăng 7,3% vượt xa con số
5% đề ra tại Đại hội lần thứ II (1980); nhiều công trình kinh tế lớn được xây
40
dựng: nhà máy lọc dầu và điện nguyên tử Cienfuegos, nhà máy luyện nicken ở
Camarioca, nhà máy nhiệt điện ở Matansas có công suất 30 vạn kw…; hàng hóa
xuất khẩu sang các nước xã hội chủ nghĩa chiếm 85,4% tổng số hàng xuất khẩu
của Cuba, trong khi đó hàng nhập khẩu chiếm 84%; hàng nhập khẩu từ các nước
Tư bản chủ nghĩa chiếm 26% tổng hàng nhập khẩu (giai đoạn 1976-1980) và
giảm xuống còn 16% (giai đoạn 1981-1985); thu nhập từ ngành du lịch tăng từ
39,6 triệu USD (1980) lên 87,3 triệu USD (1985) [18, tr.16].
Ngoài những thành tựu về kinh tế, Cuba cũng đã thu được nhiều thành
quả quan trọng trong lĩnh vực giáo dục và y tế. Về giáo dục, tính đến năm 1985,
Cuba có hơn 80% trẻ em 5 tuổi, 78% từ 13-16 tuổi đã được đến trường. Hơn
46.000 học sinh đang theo học các chương trình giáo dục đặc biệt tại 433 trường.
Ngoài ra, Cuba còn thành lập được 46 trung tâm giáo dục đại học với số sinh
viên lên tới 28 vạn người. Số sinh viên ở các trường Đại học sư phạm đạt con số
107.000 người trong giai đoạn 1985-1986, tăng 77% so với năm 1984 [18, tr.29].
Về y tế, công tác vệ sinh, dịch tễ trong toàn dân đã được tăng cường.
Cuba có 1354 nhà chuyên môn trong và ngoài ngành y tế; 3346 cán bộ kỹ thuật
ở trình độ trung cấp và hàng nghìn người khác đang hoạt động trong lĩnh vực
này. Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm xuống còn 15/1000 trẻ (1984); tuổi thọ
trung bình đạt 74,2 tuổi (1985); cứ 433 người dân/1 bác sỹ và 1864 người/1 bác
sỹ đa khoa (1985) [18, tr.26].
Với những thành tựu nêu trên đã giúp Cuba đứng vững trên con đường đã
chọn và tiến lên xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội bất chấp sự bao vây,
chống phá quyết liệt của Mỹ và các thế lực phản động trong và ngoài nước.
Bên cạnh những thành tựu trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã
hội, trong giai đoạn này, Cuba cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.
Thứ nhất, nền kinh tế Cuba mặc dù đã có sự phát triển nhưng mức phát
triển này vẫn chưa tương xứng và chưa đảm bảo được sự tăng trưởng ổn định
nhất là trong bối cảnh nền kinh tế Cuba còn phụ thuộc nhiều vào Liên Xô, các
nước xã hội chủ nghĩa và đang chịu sự bao vây, cấm vận kinh tế của Mỹ.
Thứ hai, ngành sản xuất mía đường (ngành công nghiệp quốc gia số 1 của
Cuba) tuy có nhiều tiến bộ nhưng vẫn chưa thu hút được vốn đầu tư từ bên
41
ngoài. Việc phát triển các sản phẩm phụ của mía còn thiếu phương hướng thích
hợp. Sản xuất đường không đạt kế hoạch vì không trồng hết diện tích dẫn tới
năng suất không cao. Ngoài ra, sự chậm chễ trong việc triển khai các loại giống
mới đã làm hạn chế khả năng phát triển của ngành công nghiệp này.
Thứ ba, việc áp dụng các nguyên tắc trả lương cào bằng trong lao động đã
là nguyên nhân dẫn tới chế độ khen thưởng trong sản xuất kinh doanh không
được đánh giá đúng mức, điều này cũng đã gây ra những khó khăn trong công
tác quản lý và điều hành nền kinh tế.
Thứ tư, chính sách bao cấp và trợ giá về giáo dục, y tế, nhà ở, phương tiện
giao thông…đã đưa Cuba trở thành điểm sáng của Mỹ Latinh và thế giới về bảo
vệ, chăm sóc sức khỏe và quan tâm đến sự phát triển toàn diện của con người.
Đồng thời giúp Cuba đứng vững trước các chính sách bao vây cấm vận của Mỹ
và các thế lực thù địch. Nhưng nếu bao cấp quá lâu trong điều kiện nền kinh tế
còn rất nhiều khó khăn, nhất là khi sự trợ giúp của Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa không còn đã làm thâm hụt ngân sách nặng nề, sinh ra thói ỷ lại, dựa
dẫm trong dân vào nhà nước và làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc.
Thứ năm, sự khủng hoảng và sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xô và Đông Âu cũng đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế và xã hội Cuba. Bởi
trong thời gian dài, nền kinh tế của quốc đảo này luôn có sự gắn bó chặt chẽ với các
nước xã hội chủ nghĩa. Việc không còn các đối tác truyền thống khiến Cuba mất đi
chỗ dựa lớn về kinh tế và là tác nhân trực tiếp đẩy Cuba lâm vào khủng hoảng kinh
tế -xã hội trầm trọng trong những năm cuối của thập niên 80 của thế kỷ XX.
Thứ sáu, ảnh hưởng của các trận bão lịch sử trong năm 1963, cùng với
tình trạng hạn hán, dịch bệnh cũng là những tác nhân ảnh hưởng đến sự phát
triển kinh tế của Cuba, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp và các loại cây trồng
chủ lực như: mía, thuốc lá.
Tóm lại, công cuộc bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Cuba trong giai đoạn 1959-1991 đã đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa quan
trọng về chính trị, kinh tế, giáo dục, y tế…Nền độc lập dân tộc và chế độ xã hội
chủ nghĩa được duy trì và củng cố; nạn thất nghiệp cao do chế độ cũ để lại đã
42
hoàn toàn bị xóa bỏ; trình độ học vấn và kỹ năng của công nhân viên chức được
chăm lo, bồi dưỡng và nâng cao…Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt
được, Cuba phải đối mặt với nhiều khó khăn khách quan do thiên tai, dịch bệnh
và do những "khiếm khuyết, sai lầm chủ quan trong quản lý kinh tế đã được Ban
lãnh đạo Đảng và Nhà nước phát hiện từ năm 1985" [18, tr.253-254]. Ngoài ra,
những diễn biến phức tạp trong quá trình cải tổ và cải cách ở Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu nửa cuối những năm 80 cũng có tác động và
ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình Cuba. Những kinh nghiệm về thành công và
thất bại nêu trên trong giai đoạn này sẽ là bài học quan trọng giúp cho Cuba thực
hiện thành công nhiệm vụ bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và chế độ
xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
2.2.1.3. Vai trò lãnh tụ ở Cuba
* Vai trò của Fidel Castro
Fidel Castro (1926-2016), lãnh tụ tối cao của cách mạng Cuba trong suốt
gần 5 thập kỷ (1959-2008). Fidel là người đã có những đóng góp đặc biệt to lớn
đối với cách mạng và sự phát triển của dân tộc Cuba trong thời kỳ cách mạng
giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội như sau:
Đầu tiên phải kể đến đó là tầm ảnh hưởng của lãnh tụ Fidel đã đem lại
nguồn sức mạnh to lớn đối với sự nghiệp đấu tranh, giải phóng và bảo vệ nền
độc lập dân tộc như: trong gần 5 thập kỷ lãnh đạo cách mạng Cuba, Fidel đã
kiêm nhiệm 6 chức vụ lãnh đạo cao nhất của đất nước; ông có thể đưa ra các
quyết định quan trọng của Đảng, Nhà nước và Chính phủ một cách nhanh chóng,
chính xác mà không gặp phải sự phản đối của bất cứ ai; sức làm việc của Fidel là
phi thường (mỗi ngày chỉ ngủ 3-4 giờ đồng hồ)...đây là những nhân tố quan
trọng giúp ông có thể lãnh đạo cách mạng Cuba tới 49 năm, đồng thời dẫn dắt
cách mạng Cuba vượt qua những giai đoạn khó khăn nhất của đất nước.
Fidel là người đã có công trong việc nâng cao vai trò và vị thế của Cuba
trên trường quốc tế đưa dân tộc Cuba từ một quốc gia không mấy người biết đến
trở thành "thành trì" của chủ nghĩa xã hội ở Mỹ Latinh và Tây Bán Cầu; thực
hiện tốt nghĩa vụ quốc tế cao đẹp; luôn đi đầu trong việc phát triển phong trào
cánh tả để tiến lên xây dựng một xã hội mới "chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ XXI"
43
ở Mỹ Latinh mà không có sự hiện diện của Mỹ. Sự ra đời và phát triển của
Nicaragua (1979-1989); các nước Thiên tả ALBA và các phong trào du kích cánh
tả: Lực lượng vũ trang cách mạng Colombia (FARC) và Mặt trận giải phóng dân
tộc Farabundo Marti (Elsalvador) đều có công lao đóng góp của Fidel.
Bên cạnh đó, các chương trình "sửa sai" trong kinh tế do chủ tịch Fidel
khởi xướng, lãnh đạo đã góp phần củng cố và bảo vệ vững chắc chế độ xã hội
chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc. Trong giai đoạn từ 1993-2003, Fidel đã thực
hiện một số chương trình cải cách kinh tế: chương trình lương thực thực phẩm,
du lịch, sản xuất dược liệu và công nghệ sinh học...đã góp phần làm cho Cuba
thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, tạo cơ sở và tiền đề để Raul đẩy mạnh cải cách
kinh tế trong giai đoạn sau.
Đặc biệt, thành tựu lớn nhất mà Fidel đem lại cho đất nước và nhân dân
Cuba trong gần 50 năm lãnh đạo đất nước chính là sự công bằng xã hội. Ở Cuba
ngoài một số ít các nhà lãnh đạo cấp cao như Fidel, Raul, còn các nhà lãnh đạo
khác đều không có lực lượng cảnh vệ. Một số Ủy viên Bộ chính trị trong đó có
Fidel sau khi hết giờ làm việc thường ra ngoài nói chuyện với hàng xóm. Các
nhà lãnh đạo ở Trung ương khi xuống địa phương làm việc đều ăn, ở cùng với
cán bộ địa phương mà không có chế độ ưu tiên...Ngoài ra, sự chênh lệch về
khoảng cách thu nhập giữa lãnh đạo với người dân là không lớn, các cán bộ liêm
khiết không có đặc quyền, đặc lợi và tham nhũng; chế độ phúc lợi xã hội giữa
lãnh đạo cấp cao với người dân là ngang nhau [93, tr.7].
Hơn nữa, thành tựu về giáo dục, y tế, công nghệ sinh học cùng chính sách
bao cấp miễn phí của Fidel đã giúp cho cách mạng Cuba trụ vững trước các
chính sách bao vây cấm vận hà khắc của Mỹ. Đồng thời, tạo cơ sở và niềm tin
của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, đứng đầu là Fidel.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, Fidel cũng đã mắc phải một số sai
lầm, khuyết điểm trong quá trình lãnh đạo đất nước và điều này cũng đã làm ảnh
hưởng đến sự nghiệp đấu tranh và bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã
hội cụ thể: tinh thần quốc tế cao cả của Fidel đôi khi không được hiểu đúng, đôi
lúc còn bị lợi dụng, do đó đã tạo ra những khó khăn đối với tình hình đất nước;
việc duy trì quá lâu chính sách bao cấp về an sinh xã hội, y tế và giáo dục trong
44
điều kiện nền kinh tế gặp nhiều khó khăn đã làm cho nền kinh tế Cuba đứng trên
bờ vực của sự sụp đổ và làm cho người dân có tâm lý ỷ lại vào nhà nước; các
chương trình cải cách, sửa sai về kinh tế do Fidel khởi xướng vẫn chưa thực sự
phát huy được hết hiệu quả và làm cho nền kinh tế Cuba phải đối mặt với nhiều
khó khăn; quan điểm cách mạng kiên định, tinh thần đấu tranh chống Mỹ quá
mạnh mẽ, đôi lúc rơi vào tả khuynh. Tất cả những hạn chế nêu trên đã làm cho
cách mạng Cuba gặp rất nhiều khó khăn và làm cản trở quá trình bảo vệ độc lập
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở quốc đảo này.
* Vai trò của Raul Castro
Sau khi lên thay Fidel, Chủ tịch Raul đã có những đóng góp quan trọng
đối với sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Cuba như sau:
Raul chính là người đã thúc đẩy quá trình cải cách kinh tế và đề ra chủ
trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội" ở Cuba đi đúng định hướng xã hội
chủ nghĩa. Ông cũng là người có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính
sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Giúp Cuba mở rộng quan hệ
ngoại giao với các nước Mỹ Latinh và thế giới. Đồng thời, phá được thế bao vây,
cô lập ngoại giao của Mỹ. Chủ tịch Raul cũng là nhân tố then chốt trong việc cải
thiện quan hệ với Mỹ bằng việc Mỹ đưa ra tuyên bố ngày 17/12/2014 và thiết lập
lại quan hệ ngoại giao giữa Cuba và Mỹ.
Bên cạnh đó, những cải cách trên của Raul vẫn còn nhiều bất cập, hạn
chế: quá trình chuyển giao thế hệ lãnh đạo cấp cao từ thế hệ lịch sử sang trẻ tuổi
còn diễn ra chậm chạp và khó khăn; hiệu quả của công cuộc cải cách kinh tế
không cao; cơ cấu kinh tế đất nước chưa có sự thay đổi rõ rệt; nhiều lĩnh vực sản
xuất có dấu hiệu đình trệ; nền kinh tế vẫn là kinh tế Kế hoạch hóa chưa chuyển
sang hoàn toàn nền kinh tế thị trường; sự phụ thuộc kinh tế của Cuba vào
Venezuela ngày càng lớn; chính sách đồng tiền kép vẫn còn tồn tại, đời sống
nhân dân gặp nhiều khó khăn...những tồn tại trên đã làm cản trợ sự phát triển của
nền kinh tế và tác động không tốt đến quá trình bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba
trong hiện tại và tương lai.
45
2.2.2. Nhân tố khách quan
2.2.2.1. Tình hình thế giới và khu vực
* Tình hình thế giới
Trong những năm cuối thập niên 80, đầu 90 của thế kỷ XX, hệ thống xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu lâm vào khủng hoảng và sụp đổ đã làm cho
cục diện thế giới, quan hệ quốc tế thay đổi sâu sắc và toàn diện khi nó làm chấm
dứt hoàn toàn chiến tranh Lạnh và đối đầu Xô-Mỹ và đưa thế giới từ "hai cực"
chuyển sang "nhất siêu đa cường". Đặc biệt, sự thay đổi này đã làm chấm dứt
cuộc đối đầu ý thế hệ và đấu tranh giai cấp vốn tồn tại không chỉ giữa hai khối
mà còn trong chính nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, nó đã đưa thế
giới bước sang một giai đoạn mới, nơi mà xu thế "hợp tác" thay cho "đối đầu"
nhưng dựa trên phương châm "vừa hợp tác, vừa cạnh tranh".
Bước sang thế kỷ XXI, quá trình xác lập và hình thành trật tự thế giới mới
vẫn tiếp tục chứa đựng nhiều nhân tố phức tạp, bất chắc và khó đoán định: sự
phục hồi của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế thông qua sự phát triển
của Trung Quốc, Việt Nam, nhưng vẫn gặp phải sự chống phá mạnh mẽ của chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, muốn xóa bỏ toàn diện và triệt để những
thành quả của chủ nghĩa xã hội trong 100 năm qua.
Cơ cấu địa chính trị, phân bổ tiềm lực và cán cân so sánh lực lượng vẫn
nghiêng về có lợi cho chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, trật tự quốc tế từ đầu thế kỷ
XXI đến nay vẫn nổi lên hai khuynh hướng cơ bản và có sự đối đầu với nhau
gay gắt: nước Mỹ về cơ bản vẫn duy trì được trật tự thế giới "đơn cực", mặc dù,
trật tự này đang bị suy giảm mạnh do sự cạnh tranh mạnh mẽ của các cường
quốc: Trung Quốc, Nhật Bản, EU, Nga và không chấp nhận quan điểm thế giới
"đơn cực" do Mỹ chi phối. Bên cạnh đó, khái niệm "đa trung tâm" gồm Mỹ, Tây
Âu và Nhật Bản tồn tại trong giai đoạn 1970-1990 cũng đã chấm dứt và chuyển
sang "đa cực" với sự hiện diện của các nước đang phát triển, phát triển và mới
nổi như: Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản [37, tr.10]... Ngoài ra, quá trình đấu
tranh giữa hai khuynh hướng "đơn phương" với "đa phương"; "đơn cực" với "đa
cực" cũng diễn ra gay gắt, quyết liệt với ưu thế thuộc về "đa cực" và "đa
phương" trong quan hệ quốc tế.
46
Sau khi chiến tranh Lạnh kết thúc, những đặc điểm và xu thế của tình hình
quốc tế như: sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa; xu thế toàn cầu hóa; hòa
bình, hợp tác và phát triển; cách mạng khoa học công nghệ.. đã tác động trực tiếp
đến quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa hội theo
hai hướng thuận- nghịch như sau:
Thứ nhất, toàn cầu hóa (đặc biệt là toàn cầu hóa kinh tế) là xu hướng
khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia trong đó có Cuba. Xu thế
này đang bị một số nước phát triển, mới nổi và các tập đoàn tư bản xuyên quốc
gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực và tiêu cực, vừa có
hợp tác và đấu tranh.
Toàn cầu hóa đã trở thành một xu thế khách quan của thế giới. Nó được hình
thành từ đầu thế kỷ XX và phát triển mạnh trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI.
Đây là một quá trình mà thông qua việc sản xuất và mở cửa thị trường, các nước có
xu hướng phụ thuộc lẫn nhau. Quá trình này đã tác động trực tiếp đến nền độc lập
dân tộc của Cuba theo hai hướng thuận-nghịch đan xen cụ thể như sau:
Theo chiều thuận, quá trình toàn cầu hóa đã tạo cơ hội cho Cuba có khả
năng hội nhập sâu rộng với các quốc gia, tổ chức ở khu vực Mỹ Latinh và thế
giới trên các phương diện. Về kinh tế, toàn cầu hóa kinh tế đã thúc đẩy sự phát
triển, xã hội hóa lực lượng sản xuất và tạo điều kiện cho việc chuyển giao khoa
học, công nghệ của thế giới tới Cuba, giúp quốc đảo này từng bước hội nhập và
phát triển kinh tế [10, tr.15]; quá trình này cũng góp giúp Cuba có được những
thị trường, đối tác, bạn hàng và phương thức hoạt động mới, nhất là trong bối
cảnh quan hệ Cuba-Mỹ đã được cải thiện. Về chính trị, toàn cầu hóa còn giúp
Cuba tăng cường tình đoàn kết với các nước Mỹ Latinh, các nước xã hội chủ
nghĩa, các nước đang phát triển, cộng đồng thế giới và các lực lượng chính trị xã
hội khác nhau để chống lại những mặt trái của quá trình này. Về văn hóa-xã hội,
toàn cầu hóa giúp cho người dân Cuba có cơ hội tiếp cận, giao lưu, hợp tác với
nhiều nền văn minh tiên tiến trên thế giới để năng cao sự hiểu biết và nhận thức
của người dân với thế giới; các hoạt động giao lưu văn hóa của Cuba (vốn được
coi là thế mạnh) với thế giới sẽ thuận lợi hơn nhằm nâng cao vai trò và vị thế của
Cuba trên trường quốc tế.
47
Theo chiều nghịch, về kinh tế, (i) tham gia vào tiến trình toàn cầu hóa kinh
tế quốc tế sẽ làm cho Cuba không còn độc lập tuyệt đối trong việc đề ra các
chính sách kinh tế độc lập tự chủ và đẩy nền kinh tế Cuba có nguy cơ phụ thuộc
vào thương mại và đầu tư từ bên ngoài; sự an toàn của nền kinh tế Cuba, đặc biệt là
trong lĩnh vực tài chính sẽ không còn được đảm bảo, nhất là trong bối cảnh Cuba
đang từng bước hội nhập sâu rộng với thế giới; toàn cầu hóa kinh tế sẽ làm cho nền
kinh tế Cuba dễ bị các nhà tài phiệt, đầu cơ tài chính quốc tế, các thế lực đế quốc
thao túng, lũng đoạn, đưa Cuba quay trở lại chủ nghĩa tư bản tự do [115]. Về chính
trị, với sự phát triển mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hóa, nền độc lập dân tộc và
chế độ xã hội chủ nghĩa ở Cuba sẽ gặp phải những thách thức nghiêm trọng và có
thể sẽ bị rơi vào tay các thế lực phản động, tay sai, đế quốc; một số vấn đề như:
thông tin, mạng xã hội cũng sẽ vượt khỏi tầm kiểm soát và làm suy giảm quyền lực
truyền thống và tầm ảnh hưởng mạnh mẽ bấy lâu nay của Đảng và Nhà nước Cuba.
Về văn hóa-xã hội, toàn cầu hóa sẽ tác động tiêu cực đến đời sống xã hội của người
dân Cuba đặc biệt là đối với vấn đề việc làm. Bởi với một nền kinh tế đóng, tổ chức
quản lý sản xuất yếu kém, thói quen dựa dẫm, ỷ lại vào nhà nước của người dân quá
lâu dẫn tới tình trạng phá sản hàng loạt của các xí nghiệp quốc doanh, tình trạng lao
động thất nghiệp, không có việc làm. Điều này, sẽ nảy sinh hàng loạt các vấn đề xã
hội tiêu cực cho Cuba nhất là trong bối cảnh thực hiện "Cập nhật hóa mô hình kinh
tế-xã hội"; toàn cầu hóa còn tác động đến nền tảng tư tưởng, tinh thần của người
dân Cuba, làm xói mòn bản sắc văn hóa dân tộc và gây ảnh hưởng nghiêm trong
đến chủ quyền quốc gia của Cuba như: sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, xuống cấp
đạo đức xã hội, chủ nghĩa thực dụng, cơ hội, cá nhân...và làm biến đổi bản chất con
người và bản chất xã hội chủ nghĩa của dân tộc Cuba.
Thứ hai, cuộc cách mạng khoa học- công nghệ đang có bước phát triển
nhảy vọt và đạt được nhiều thành tựu to lớn
Từ thập niên 70 của thế kỷ XX đến nay, cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật và công nghệ hiện đại diễn ra mạnh mẽ và làm cho khoa học trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, nó tác động sâu sắc tới tất cả các lĩnh vực của đời sống
mỗi quốc gia và trong quan hệ quốc tế. Đặc điểm nổi bật của cuộc cách mạng
này là ở chỗ khoa học -công nghệ và sản xuất không còn là 3 lĩnh vực tách rời
48
nhau mà trái lại phát minh khoa học đã chuyển hóa thành công nghệ và được đưa
vào sản xuất đại trà ngày càng thống nhất trong một quá trình; khoảng cách giữa
nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu triển khai vào sản xuất
ngày càng được rút ngắn. Cuộc cách mạng này là động lực quan trọng thúc đẩy
sản xuất phát triển nhảy vọt, đồng thời tạo ra các lực lượng sản xuất mới hiện đại
và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các mối quan hệ kinh tế, xã hội, văn hóa...
Cuộc cách mạng khoa học-công nghệ cũng có những tác động tích cực và
tiêu cực đối với quá trình bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba.
Về mặt tích cực, thông qua quá trình này, Cuba có thể đi tắt đón đầu
những công nghệ hiện đại, nguồn tri thức tiến bộ của nhân loại nhằm phát triển
lực lượng sản xuất, đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, nâng cấp cơ sở hạ tầng. Đồng
thời, đưa những thành tựu đó vào trong quá trình “cập nhật hóa mô hình kinh tế-
xã hội” giúp Cuba có sự bứt phá ngoạn mục về kinh tế để từng bước thoát khỏi
tình trạng tụt hậu, kém phát triển so với các nước Mỹ Latinh và trên thế giới.
Về mặt tiêu cực, quá trình này cũng góp phần làm gia tăng khoảng cách
giàu nghèo giữa các tầng lớp nhân dân trong xã hội Cuba, tăng nguy cơ Cuba bị
lệ thuộc kinh tế và làm cho nền kinh tế thiếu khả năng cạnh tranh với bên ngoài.
Thứ ba, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn tiếp tục là xu thế chủ đạo của
thế giới lôi cuốn tất cả quốc gia, dân tộc tham gia trong đó có Cuba
Kể từ sau khi chiến tranh Lạnh kết thúc đến nay, giữa các quốc gia, đặc
biệt là các nước lớn về cơ bản không còn những mâu thuẫn tranh giành và phân
chia thuộc địa như trước, nhưng vẫn còn tồn tại những mâu thuẫn trong việc
phân chia các lợi ích quốc gia, dân tộc. Những mâu thuẫn này buộc các nước
phải hợp tác chặt chẽ với nhau và giải quyết bằng con đường hòa bình.
Hiện nay, hợp tác và phát triển diễn ra dưới rất nhiều hình thức: hợp tác
song và đa phương, khu vực, quốc tế...Các tổ chức kinh tế, chính trị quốc tế như:
Liên Hợp Quốc (UN), Tổ chức thương mại thế giới (WTO)...ngày càng tham gia
nhiều hơn vào đời sống chính trị thế giới. Sự tham gia của các tổ chức này đã
giúp cho lĩnh vực hợp tác giữa các nước trở lên đa dạng hơn.
Sự phát triển của xu thế này cũng đã tác động rất lớn đến quá trình đấu
tranh và bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba cụ thể:
49
Về điều kiện thuận lợi, xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển đã tạo ra môi
trường quốc tế thuận lợi giúp Cuba nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ trong việc
yêu cầu Mỹ bình thường hóa quan hệ và xóa bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận kinh tế;
tránh được sự tranh giành ảnh hưởng của các nước lớn và có thể chủ động đề ra
đường lối, chính sách độc lập, tự chủ nhằm phục vụ cho sự nghiệp phát triển
kinh tế, xây dựng và bảo vệ tổ quốc; thúc đẩy tình đoàn kết với các nước Mỹ
Latinh và thế giới nhằm chống lại các nguy cơ: chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ
nghĩa khủng bố và những nguy cơ tiềm tàng khác...; với xu thế chủ đạo này, mặc
dù là một siêu cường có tầm ảnh hưởng lớn trên toàn cầu, nhưng Mỹ đã phải có
sự điều chỉnh và thay đổi cách tiếp cận trong quan hệ với Cuba trước sức ép
trong nước, cộng đồng quốc tế bằng việc thông qua Tuyên bố bình thường hóa
quan hệ với quốc đảo này sau gần 6 thập kỷ đối đầu, thù địch.
Những hạn chế, xu thế hợp tác và phát triển chỉ được duy trì một cách
tương đối giữa các quốc gia với nhau. Đối với Cuba, là một nước nghèo, chậm
phát triển và vẫn chịu sự bao vây cấm vận kinh tế của Mỹ, chắc chắn sẽ không
thể đón nhận hết được những lợi thế mà xu thế này đem lại. Không những vậy,
một số quốc gia khi hợp tác với Cuba vẫn bị Mỹ trừng phạt về kinh tế. Điều này,
đã làm cản trở quá trình hợp tác giữa Cuba với thế giới và ảnh hưởng đến quyền
tự quyết của Cuba trong các mối quan hệ quốc tế.
* Tình hình khu vực
Mỹ Latinh là khu vực có địa lý trải dài từ Mexico đến đảo Đất lửa (cực
Nam của Châu Mỹ), có diện tích hơn 20 triệu km2, dân số hơn 626 triệu người,
bao gồm 33 quốc gia và 14 vùng lãnh thổ (các đảo nhỏ, vùng đất thuộc Anh, Mỹ,
Hà Lan), trừ Brazil nói tiếng Bồ Đào Nha, hầu hết các nước còn lại là nói tiếng
Tây Ban Nha [186]. Yếu tố văn hóa này đã hình thành nên khu vực Mỹ Latinh
có nền văn hóa riêng, đa dạng và giàu bản sắc.
Sau chiến tranh Lạnh, cùng với sự tan rã của trật tự thế giới hai cực Xô-
Mỹ, Mỹ Latinh đã nổi lên là một khu vực có quá trình hội nhập thông qua việc ra
đời của các thể chế mới. Quan hệ chính trị, kinh tế, thương mại nội khối đã được
củng cố nhờ vào việc thiết lập các mối quan hệ chính trị chặt chẽ giữa các quốc
gia cùng với đó là hàng rào thuế quan, phi thuế quan được cắt giảm. Cho đến
50
năm 1999, có 5 khối kinh tế trong khu vực đang nổi lên và trở thành những trụ
cột quan trọng của Mỹ Latinh như: Cộng đồng Caribe (CARICOM); Khối thị
trường chung Trung Mỹ (CACM); Cộng đồng các nước Andes (CAN); Khối thị
trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR); Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ
(NAFTA)...5 tổ chức khu vực này dựa trên những kinh nghiệm khác nhau để
hướng tới việc thúc đẩy các mối liên kết về chính trị, kinh tế bền chặt hơn.
Mặc dù, Mỹ Latinh đã thoát khỏi ách cai trị của các thế lực độc tài thân
Mỹ trong thập niên 80, nhưng bước sang thập niên 90, với sức mạnh kinh tế,
chính trị, quân sự và tiềm lực tài chính vượt trội, Mỹ vẫn tiếp tục gây những áp
lực buộc các nước Mỹ Latinh phải đi theo quỹ đạo về chính trị, kinh tế Mỹ thông
qua việc áp dụng mô hình "chủ nghĩa tự do mới trong kinh tế", hậu quả là khu
vực này lâm vào tình trạng khủng hoảng, đói nghèo, chậm phát triển, bất bình
đẳng xã hội gia tăng...Sự bần cùng hóa này chính là cơ sở để hình thành và phát
triển các cuộc cách mạng và phong trào cánh tả trong khu vực cuối những năm
90 của thế kỷ XX và thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, điển hình là cuộc cách
mạng Bolivar ở Venezuela của Hugo Chavez vào tháng 12/1998 [175].
Như vậy, bối cảnh khu vực trên đã tác động sâu sắc tới quá trình đấu tranh
bảo vệ độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Cuba theo hai hướng thuận-
nghịch đan xen và thể hiện thông qua các khía cạnh sau:
Thứ nhất, sự nổi lên của phong trào Cánh tả Mỹ Latinh và sự ra đời của
nhóm ALBA
Mỹ Latinh là khu vực có phong trào Cánh tả phát triển rất sớm, từ cuối thế
kỷ XIX. Từ cuối thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay, Phong trào Cánh tả ở khu
vực đã tiến lên một bước phát triển mới rất mạnh mẽ mà dấu ấn đầu tiên chính là
thắng lợi của Hugo Chavez trong cuộc bầu cử Tổng thống ở Venezuela năm
1998. Ngoài ra, trong giai đoạn 1998-2013, có hơn 10 nước Mỹ Latinh do các
Lực lượng cánh tả cầm quyền sau các cuộc bầu cử: Brazil, Argentina, Chile,
Paraguay...Đặc biệt, một trong những nét đặc sắc của Phong trào Cánh tả là sự ra
đời của nhóm Liên minh Bolivar dành cho các dân tộc Châu Mỹ (ALBA-
12/2004) trên cơ sở ý tưởng của cố Chủ tịch Fidel Castro và cố Tổng thống
Hugo Chavez. Tổ chức này bao gồm 9 thành viên và 3 quan sát viên với mục
51
tiêu hoạt động là bảo vệ quyền của nhân dân, xây dựng một mô hình phát triển
nhân đạo, xã hội công bằng, bình đẳng và tự do [50]. Các nước ALBA xác định
mục tiêu phát triển dựa trên cơ sở của chủ nghĩa xã hội kiểu mới trong thế kỷ
XXI là: về tư tưởng, lấy chủ nghĩa Mác, tư tưởng cách mạng và tiến bộ Simon
Bolivar và tinh tinh thần nhân văn Thiên chúa giáo làm nền tảng tư tưởng; về
chính trị, nhấn mạnh tư tưởng “dân chủ cách mạng và chính quyền nhân dân”,
theo đó nhân dân có trách nhiệm cùng tham gia quyết định vận mệnh của đất
nước; về kinh tế, chủ trương thực hiện kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế
nhà nước và hợp tác xã đóng vai trò chủ đạo, nhấn mạnh việc giành lại chủ
quyền quốc gia dân tộc đặc biệt là về dầu mỏ, nước sạch và môi trường; về xã
hội, chủ trương phân phối công bằng của cải xã hội để giải quyết vấn đề bất bình
đẳng và phân hóa xã hội; về đối ngoại, thúc đẩy khối đoàn kết Mỹ Latinh và
quan hệ hữu nghị với tất cả các nước, lấy hợp tác thay cho cạnh tranh, lấy hội
nhập thay cho bóc lột và đấu tranh cho một trật tự thế giới đa cực, dân chủ; về
cách làm và bước đi, kế thừa những mặt tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô
và Đông Âu trước đây, không dập khuôn sao chép mà phải thường xuyên đổi
mới và sáng tạo, bên cạnh phát triển kinh tế, coi trọng các giá trị đạo đức, tinh
thần đoàn kết dân tộc và chú trọng kinh nghiệm quốc tế của các nước xã hội chủ
nghĩa như Trung Quốc, Cuba, Việt Nam. ALBA xác định “chống chủ nghĩa đế
quốc” là ưu tiên hàng đầu cho sự phát triển của tổ chức này [50].
Sự ra đời của Phong trào cánh tả và nhóm ALBA đã tác động đến nền
độc lập dân tộc của Cuba theo hai hướng sau:
Theo chiều thuận, (i) nó giúp cho cách mạng Cuba có thêm chỗ dựa vững
chắc về kinh tế, bởi Cuba và các nước cánh tả đều coi nhau là những đồng minh
tự nhiên do có sự tương đồng về văn hóa, lịch sử, tôn giáo, ngôn ngữ...các nước
cánh tả coi Cuba là chỗ dựa về chính trị, tư tưởng, tinh thần giúp cho họ có thêm
kinh nghiệm để xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ XXI, điều mà họ chưa
làm được trong lịch sử. Trong khi các nước này, lại là chỗ dựa kinh tế quan trọng
giúp cho Cuba vượt qua những khó khăn từ chính sách bao vây cấm vận của Mỹ
để có thể bảo vệ vững chắc thành quả của chủ nghĩa xã hội, nền độc lập dân tộc.
Đây cũng chính là cơ sở để Cuba có thể duy trì sự ổn định xã hội bất chấp những
khó khăn kinh tế trong nước; (ii) Cuba luôn là quốc gia đi tiên phong trong cuộc
52
đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chống mặt trái của toàn cầu hóa nên được
các nước Mỹ Latinh rất coi trọng. Sự ra đời của nhiều tổ chức và Phong trào
cánh tả ở khu vực đều dựa trên ý tưởng và có dấu ấn của Cuba. Chính vì vậy,
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Cuba và ý tưởng xây dựng Chủ nghĩa xã hội trong
thế kỷ XXI của các nước cánh tả ALBA kết hợp với các nhà nước dân túy theo
khuynh hướng xã hội dân chủ sẽ là những cơ sở và động lực quan trọng giúp Cuba
củng cố vững chắc nền độc lập dân tộc theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Theo chiều nghịch, (i) sau hơn một thập kỷ phát triển mạnh mẽ với những
dấu ấn quan trọng đạt được trên các lĩnh vực, từ năm 2013 đến nay, do tác động
từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, giá dầu sụt giảm, sự chống phá của Mỹ và
các thế lực phản cách mạng, cùng chính sách quản lý yếu kém của các chính phủ
đã làm cho nhiều nước cánh tả lâm vào khủng hoảng chính trị, kinh tế sâu sắc,
các đảng cánh tả mất quyền lãnh đạo đất nước, Tổng thống bị phế truất...khiến
cho tương lai của Phong trào cánh tả Mỹ Latinh rơi vào tình trạng bất ổn và khó
đoán định. Những khó khăn này đã tác động trực tiếp đến Cuba, bởi trong thời
gian qua, các nước cánh tả đóng một vai trò quan trọng giúp cho Cuba phát triển
kinh tế, đặc biệt là Venezuela mỗi năm cung cấp cho Cuba từ 2-4 tỷ USD không
hoàn lại và 100.000 thùng dầu/ngày với giá bằng 1/3 giá thị trường [77, tr.13].
Tuy nhiên, khi Venezuela gặp khủng hoảng và cắt giảm nguồn viện trợ dầu mỏ
đã làm cho Cuba gặp nhiều khó khăn trong việc duy trì sự ổn định kinh tế trong
nước nhất là về năng lượng. Đồng thời, nó cũng làm ảnh hưởng xấu đến quá
trình bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba trước sự chống phá mạnh mẽ của các thế
lực trong và ngoài nước; (ii) hiện nay, một số nước cánh tả ở Mỹ Latinh đang rơi
vào tình trạng khủng hoảng chính trị do trong các cuộc bầu cử Tổng thống, Quốc
hội, các lực lượng cánh hữu, với sự hậu thuẫn của Mỹ và các thế lực phản động
đã lên nắm quyền lãnh đạo đất nước thay cho lực lượng cánh tả điển hình như ở
Brazil, Argentina..., điều này, sẽ gây khó khăn cho Cuba trong việc thiết lập mối
quan hệ với các chính phủ cánh hữu ở các nước Mỹ Latinh.
Thứ hai, tác động của quá trình liên kết nội khối ở Mỹ Latinh tới Cuba
Từ thập niên 90 đến nay, quá trình liên kết nội khối ở Mỹ Latinh phát
triển mạnh mẽ với sự ra đời của nhiều tổ chức khu vực, tiểu khu vực như: Hiệp
53
hội liên kết Mỹ Latinh (ALADI), Cộng đồng các nước Mỹ Latinh và Caribe
(CELAC), Nhóm RIO, Liên minh Thái Bình Dương (AP)...Bên cạnh đó, nhiều
tổ chức khu vực đã được hình thành từ trước đây, nay đã có sự mở rộng, phát
triển về quy mô và tính chất như: MERCOSUR từ 4 quốc gia sáng lập nay đã trở
thành 5 quốc gia (thêm Venezuela-2009), Cộng đồng các nước Andes (CAN) với
5 thành viên sáng lập nay đã mở rộng thành 6 thành viên (thêm Venezuela),
nhóm RIO, sau hơn 20 năm cản trở đã kết nạp Cuba trở lại khối (2008)...Sự liên
kết nội khối này đã giúp cho các nước Mỹ Latinh có sự phụ thuộc với nhau
nhiều hơn và tạo ra cho các nước những điều kiện thuận lợi để phát triển. Đối
với Cuba, thông qua các tổ chức khu vực này sẽ tranh thủ được sự ủng hộ, giúp
đỡ về vật chất và tinh thần nhằm phá thế bao vây, cô lập của Mỹ tiến tới yêu cầu
Mỹ xóa bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận về kinh tế trong gần 6 thập kỷ qua.
Tuy nhiên, quá trình liên kết nội khối diễn ra mạnh mẽ ở Mỹ Latinh trong
thời gian qua cũng đã tác động rất lớn đến Cuba cụ thể như sau:
Sự phát triển này giúp cho Cuba thu hút được nguồn vốn từ các nước
trong khu vực như: Brazil, Venezuela và các nước khác trên thế giới như: Mỹ,
Trung Quốc, Nhật Bản, EU đến đầu tư và có thể mở rộng hợp tác trên các lĩnh
vực có thế mạnh như: năng lượng, y tế, du lịch, công nghệ sinh học...Đây chính
là điều kiện thuận lợi giúp Cuba phát triển kinh tế, dần đưa đất nước thoát khỏi
khủng hoảng, làm cho đời sống nhân dân được cải thiện. Ngoài ra, việc tham gia
mạnh mẽ và sâu rộng vào các tổ chức khu vực trên sẽ giúp cho Cuba thúc đẩy
hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, qua đó giảm bớt sức ép từ chính sách bao
vây cấm vận của Mỹ.
Quá trình liên kết nội khối diễn ra mạnh mẽ ở Mỹ Latinh cũng tạo cho
Cuba không ít những thách thức đó là: Cuba phải làm thế nào để tiếp cận và hội
nhập với khu vực (bởi nước này trong một thời gian quá dài phải chịu sự cấm
vận, phong tỏa kinh tế của Mỹ); khi tham gia và hội nhập vào các tổ chức khu
vực, Cuba phải chấp nhận những quy định, luật lệ mà các tổ chức này đem lại,
nếu không có những bước đi thận trọng thì Cuba sẽ phải đối diện với nhiều bất
ổn về chính trị, xã hội. Điều này, ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ nền độc lập dân tộc mà Cuba đang theo đuổi.
54
Thứ ba, Mỹ Latinh trong đó có Cuba đang trở thành nơi thu hút sự quan
tâm của các cường quốc trên thế giới đặc biệt là Trung Quốc và Nga.
Mỹ Latinh vốn được coi là vùng ảnh hưởng truyền thống của Mỹ trong
nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, trong những năm đầu thế kỷ XXI, do bị sa lầy vào cuộc
chiến chống khủng bố ở Iraq và Afganistan nên Mỹ đã có phần sao nhãng đến
khu vực này. Còn Trung Quốc thông qua chính sách ngoại giao mở cửa "toàn
phương vị" đã tăng cường mở rộng mối quan hệ hợp tác toàn diện với các quốc
gia trên thế giới, đặc biệt là Mỹ Latinh, khu vực có vị trí địa chính trị, địa chiến
lược quan trọng.
Trung Quốc, với sự phát triển kinh tế nhanh chóng như: Tăng trưởng kinh
tế đạt 10% (1980-2012) và 6,7% (2012-2016), do đó, để đáp ứng được nhu cầu
phát triển các ngành công nghiệp trong nước, nước này rất cần có nguồn năng
lượng dồi dào từ Mỹ Latinh, trong đó có Cuba. Hàng năm, Trung Quốc phải
nhập khẩu lượng Nicken và đường từ Cuba chiếm hơn 90% giá trị trao đổi
thương mại và 95% tổng thương mại song phương [144, tr.19]. Ngoài ra, các
doanh nghiệp Trung Quốc cũng đã đẩy mạnh đầu tư vào Cuba với nhiều dự án
có giá trị lớn về kinh tế như: dự án hiện đại hóa cảng Santiago de Cuba trị giá
120 triệu [144, tr.20]...
Bên cạnh Trung Quốc, Nga cũng đã có những chính sách tập trung vào
khu vực này khi cam kết sẽ đưa mối quan hệ với Mỹ Latinh trở thành ưu tiên
hàng đầu trong chính sách đối ngoại của mình. Thủ tướng Nga Putin đã khẳng
định: "Mỹ Latinh đang trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi mắt xích
thế giới đa cực đang được hình thành. Chúng tôi sẽ dành nhiều sự quan tâm hơn
tới khu vực này trong chính sách kinh tế và đối ngoại của mình" [188].
Nga đã thúc đẩy quan hệ chiến lược với Cuba trên các lĩnh vực chính trị,
ngoại giao, kinh tế và đặc biệt là quân sự. Trong chuyến thăm Cuba của Tổng
thống Mevedev (2011), Nga cùng Cuba thống nhất đưa quan hệ song phương trở
thành "đối tác chiến lược", Cuba coi Nga là đối tác quan trọng trong các lĩnh vực
khai thác chế biến dầu khí, năng lượng nguyên tử, công nghiệp quốc phòng. Đặc
biệt trong chuyến công du tới Cuba (7/2014), Tổng thống Putin đã cam kết xóa
cho Cuba 90% số nợ (33,5 tỷ USD) vay từ thời Liên Xô và ngỏ ý muốn thuê lại
55
Cuba Căn cứ điện tử viễn thông Lourdes, được Liên Xô xây dựng từ năm 1967,
từng cung cấp cho Liên Xô cũ 75% tin tức tình báo về Mỹ [183].
Như vậy, có thể nhận thấy rằng, Mỹ Latinh, trong đó có Cuba ngày càng
có một vai trò và vị thế lớn trong mối quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ
nước lớn nói riêng. Sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn sẽ ngày càng
tăng khi lợi ích ở khu vực này ngày càng hiện hữu đặc biệt là sự cạnh tranh giữa
hai cường quốc lớn là Trung Quốc và Mỹ. Điều này, đã đặt ra cho Cuba những
cơ hội và thách thức lớn trong việc bảo vệ nền độc lập chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ trong bối cảnh mới.
2.2.2.2. Chính sách của một số nước lớn đối với Cuba
Sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba trong gần 3 thế kỷ
qua, bên cạnh những các yếu tố chủ quan, khách quan, chính sách của các nước
lớn cũng có tác động rất lớn đối với quốc đảo này theo chiều hướng thuận,
nghịch đan xen.
* Chính sách của Mỹ đối với Cuba
Các chính sách bao vây, cấm vận của các chính quyền Mỹ đối với Cuba
như: Bush (cha), Bill Clinton, Bush (Con), Obama và Donald Trump từ sau
chiến tranh Lạnh đến nay hầu như không có nhiều thay đổi về mục tiêu đó là lật
đổ chế độ và đưa Cuba quay trở lại quỹ đạo của Mỹ thông qua các biện pháp
như: gây ra tình trạng hỗn loạn trong xã hội Cuba, ngăn cản và gây áp lực lên các
nước thứ 3 để họ ngừng các hoạt động thương mại [187]. Đồng thời, cấm tuyệt
đối các tập đoàn, công ty của Mỹ ở nước ngoài được phép tiến hành các giao
dịch tài chính, thương mại, thực hiện các biện pháp trừng phạt các đối tác thương
mại, nhà đầu tư các nước tới Cuba, bất chấp sự lên án, phản đối của cộng đồng
quốc tế [94, tr.16].
Với những chiến lược trên, chính quyền Mỹ muốn đạt được một số mục
tiêu cụ thể như: chuyển hóa chế độ chính trị và đưa Cuba quay trở lại chủ nghĩa
tư bản một lần nữa; đe dọa đến sự ổn định chính trị, trật tự xã hội, toàn vẹn lãnh
thổ, chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc của Cuba; thông qua Cuba Mỹ có thể
kiềm chế sự phát triển của phong trào cánh tả Mỹ Latinh và xác lập lại ảnh
hưởng tại khu vực vốn từng được coi là vùng ảnh hưởng truyền thống của Mỹ.
56
Như vậy, có thể hiểu bản chất của quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân
tộc của Cuba trong giai đoạn 1991-2016 chính là chống lại các chính sách bao
vây cấm vận của Mỹ.
* Chính sách của EU đối với Cuba
Khác với Mỹ, cách tiếp cận của EU đối với Cuba có phần mềm mỏng hơn
bởi một số quốc gia trụ cột trong khối này như Pháp có mối quan hệ hữu nghị,
truyền thống với quốc đảo này. Chính sách của khối này đối với Cuba được chia
làm 2 giai đoạn rõ rệt.
Giai đoạn đầu từ 1991-2008, chính sách của EU với Cuba có sự chia rẽ
sâu sắc. Một số nước vẫn tiếp tục ủng hộ Mỹ siết chặt hơn nữa lệnh cấm vận
chống Cuba với lý do chính phủ Cuba vi phạm nhân quyền, đàn áp các phần tử
bất đồng chính kiến trong nước. Vì lý do này, vào năm 1996, EU đã quyết định
thiết lập các quy tắc giới hạn trong mối quan hệ với Cuba. Đề án này do Thủ
tướng Tây Ban Nha lúc đó là Jose Maria Aznar thúc đẩy và trình lên Hội đồng
Châu Âu nhằm gây áp lực với Cuba về chính trị, ngoại giao, kinh tế. Sau đó, vào
năm 2003, sau khi Cuba xét xử một số kẻ tội phạm đưa người Cuba vượt biên ra
nước ngoài, EU đã thi hành lệnh cấm vận ngoại giao toàn diện với Cuba. Nhiều
nước EU, đứng đầu là Đức và Anh còn ủng hộ Tổng thống Bush (con) thông qua
đạo luật Thay đổi dân chủ ở Cuba.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, một số nước khác trong EU lại có cách tiếp cận
mềm dẻo, chính sách hợp tác thực dụng hơn trong quan hệ với Cuba (đứng đầu
là Pháp) do trong quá khứ giữa Đảng cộng sản Cuba với Đảng xã hội Pháp có
mối quan hệ tốt đẹp với nhau, bất chấp sự khác biệt về chính trị và tư tưởng.
Ngoài ra, Pháp cũng là chủ nợ của Cuba trong nhóm Câu lạc bộ Paris.
Giai đoạn từ năm 2008 đến nay, dưới sự trung gian hòa giải của Tây Ban
Nha (7/2008), EU đã dỡ bỏ lệnh cấm vận chính trị, ngoại giao với Cuba nhưng
tiến trình bình thường hóa quan hệ song phương vẫn bị cản trở bởi vấn đề nhân
quyền và việc EU ủng hộ lệnh cấm vận kinh tế của Mỹ đối với Cuba.
Sự thay đổi chính sách của EU với Cuba được thể hiện thông qua chuyến
thăm của Ngoại trưởng Hà Lan, Frans Timmerrmans tới Cuba, tại đây ông đã
kêu gọi EU cải thiện quan hệ với Cuba. Đồng thời, nhấn mạnh Cuba hiện giữ vai
trò rất quan trọng trong việc kết nối EU với Mỹ Latinh.
57
Sau khi Mỹ điều chỉnh chính sách với Cuba bằng việc Tuyên bố bình
thường hóa quan hệ ngoại giao, EU đã có sự thay đổi lớn trong quan hệ với Cuba
thông qua các chuyến viếng thăm của lãnh đạo cấp cao các nước trong khối. Đặc
biệt, các nước thuộc nhóm Câu lạc bộ Paris (đa số thành viên là các nước EU) đã
nhất trí xóa 70% số nợ trị giá 18 tỷ USD cho Cuba [73]. Đặc biệt, EU đã cùng với
Cuba hoàn tất đàm phán Thỏa thuận Hợp tác và Đối thoại chính trị song phương
(PDCA) vào ngày 11/3/2016 và chính thức ký kết thỏa thuận Bình thường hóa hoàn
toàn quan hệ song phương vào ngày 12/12/2016 [16]. Hiệp định này dự kiến sẽ tạo
ra một bước chuyển biến mới giữa EU và Cuba trong tương lai.
Như vậy, chính sách trên của EU, một mặt giúp cho Cuba hội nhập sâu
hơn với cộng đồng quốc tế và khẳng định được vai trò của mình trên thế giới.
Nhưng mặt khác, nó cũng đặt ra cho Cuba những yêu cầu và nhiệm vụ mới, nhất
là trong bối cảnh Mỹ, Trung Quốc, Nga và một số nước lớn đang gia tăng sự
hiện diện ở Cuba và thông qua quốc đảo này để mở rộng ảnh hưởng của mình tại
Mỹ Latinh.
* Chính sách của Trung Quốc đối với Cuba
Sau khi Liên Xô sụp đổ, Cuba lâm vào khủng hoảng kinh tế-xã hội, Trung
Quốc đã đẩy mạnh chính sách xâm nhập Cuba thông qua đầu tư về kinh tế và
đóng vai trò quan trọng trong việc giúp nền kinh tế Cuba thoát khỏi sự phụ thuộc
vào Liên Xô cũ.
Ngoài ra, với sự phát triển nhanh chóng về kinh tế, chính trị, quân sự như
hiện nay Trung Quốc đã có sự điều chỉnh chính sách với các khu vực trên thế
giới đặc biệt là Mỹ Latinh trong đó có Cuba nhằm mục tiêu từng bước khẳng
định vị thế của mình trong việc tranh giành ảnh hưởng toàn cầu tại nơi được coi
là vùng ảnh hưởng truyền thống của Mỹ. Trung Quốc đã có những nỗ lực để mở
rộng ảnh hưởng của mình bằng việc các nhà lãnh đạo cấp cao của nước này thực
hiện hàng loạt các chuyến thăm tới Cuba: Chuyến thăm của Chủ tịch Hồ Cẩm
Đào (11/2008); Chủ tịch Tập Cận Bình (7/2014), đặc biệt, trong chuyến thăm
của Thủ tướng Lý Khắc Cường (9/2016), lãnh đạo hai nước đã ký 12 thỏa thuận
hợp tác song phương trên các lĩnh vực: năng lượng tái tạo, nghiên cứu y học, tin
học, chính sách công nghiệp, ngân hàng, tài chính [106, tr.23-24]...
58
Những chiến lược trên của Trung Quốc đã giúp Cuba có thêm một đối
trọng trong quan hệ với Mỹ, tuy nhiên, nó cũng đặt ra cho Cuba nhiều khó khăn,
bởi sự phụ thuộc quá nhiều vào kinh tế sẽ dẫn tới sự phụ thuộc về chính trị như
Cuba đã từng gặp phải với Liên Xô trong thời kỳ chiến tranh Lạnh. Đây chính là
nguy cơ đe dọa đến nền độc lập dân tộc của Cuba, nhất là trong bối cảnh Mỹ và
Trung Quốc đang ngày càng gia tăng ảnh hưởng và cạnh tranh trực tiếp tại khu
vực Mỹ Latinh.
* Chính sách của Nga đối với Cuba
Sau khi Liên Xô sụp đổ, nước Nga mới của Tổng thống Boris Yeltsin đã
cắt đứt hoàn toàn mối quan hệ chính trị, ngoại giao, kinh tế với Cuba bất chấp
việc quốc đảo này từng là đồng minh thân thiết trong thời kỳ chiến tranh Lạnh và
đang lâm vào khủng hoảng kinh tê, xã hội.
Trở thành Tổng thống nước Nga (3/2000), ông Putin đã có sự điều chỉnh
chính sách đối ngoại với Cuba theo hướng: từng bước lấy lại ảnh hưởng tại quốc
đảo này như Liên Xô cũ đã từng có được trong thời kỳ chiến tranh Lạnh. Chiến
lược này được thể hiện rõ trong sắc lệnh của Tổng thống Liên Bang Nga, số 605,
ngày 7/5/2012 về "Những biện pháp thực hiện chính sách đối ngoại của Liên
Bang Nga" [95, tr.2], theo đó: "Nga sẽ tiếp tục củng cố toàn diện quan hệ với các
quốc gia Mỹ Latinh và khu vực Caribe (trong đó có Cuba), chú ý tới vai trò đang
tăng lên của khu vực này trong các hồ sơ quốc tế. Nga sẽ hướng đến sự đoàn kết
các mối quan hệ với các liên minh đa phương và các cấu trúc hội nhập của Mỹ
Latinh và khu vực Caribe...." [96, tr.11]. Dựa trên cơ sở của chiến lược trên, các
nhà lãnh đạo Nga đã đẩy mạnh các chuyến thăm tới Cuba nhằm củng cố quan hệ
chiến lược với quốc đảo này: Phó Thủ tướng Nga Igor Sechin thăm Cuba 3 lần
trong năm 2008, ký 10 Hiệp định hợp tác trên nhiều lĩnh vực; Tổng thống
Medvedev thăm Cuba (11/2008).
Sau sự kiện Nga sát nhập bán đảo Crime (3/2014) và bị Mỹ và phương
Tây cô lập ngoại giao và trừng phạt về kinh tế. Tổng thống Putin đã có sự điều
chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng tiếp tục đẩy mạnh quan hệ với Cuba
nhằm thông qua nước này để mở rộng ảnh hưởng tại Mỹ Latinh, khu vực vốn
được coi là sân sau của Mỹ. Sư thay đổi này được thể hiện rõ trong các chuyến
59
thăm của Tổng thống Putin (7/2014) và Thủ tướng Medvedev (2/2015) với các
thỏa thuận: xóa 90% khoản nợ trị giá 33,5 tỷ USD của Cuba đã vay từ thời Liên
Xô cũ; hợp tác khai thác dầu khí có trữ lượng 20 tỷ thùng ở ngoài khơi Cuba và
ngỏ ý thuê lại căn cứ điện tử Loudes [97, tr.16].
Với việc Tổng thống Putin tiếp tục cầm quyền ở nước Nga và Cuba đang
đẩy mạnh chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội" và kế hoạch phát
triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2016-2030, nước Nga sẽ tiếp tục coi trong mối
quan hệ chiến lược với quốc đảo này để củng cố vị thế của mình ở Mỹ Latinh và
cạnh tranh ảnh hưởng với Mỹ và các cường quốc khác tại khu vực này. Tuy
nhiên, nó cũng tạo ra những thách thức đối với nền độc lập dân tộc của Cuba,
bởi các nước lớn sẽ gia tăng cạnh tranh và biến quốc đảo này thành địa bàn tranh
giành ảnh hưởng giữa các siêu cường, điều này, Cuba đã gặp phải trong thời kỳ
chiến tranh Lạnh.
Tiểu kết chương 2
Từ sau khi chiến tranh Lạnh kết thúc đến nay, quá trình đấu tranh bảo vệ
độc lập dân tộc ở Cuba cũng chịu sự tác động sâu sắc từ nhiều yếu tố như: những
quan niệm về độc lập dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc của thế giới (Mác,
Anghen, Lênin) và Cuba (Jose Marti, Fidel, Đảng cộng sản); cùng những nhân tố
chủ quan (đặc điểm của Cuba; kinh nghiệm đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc
trước năm 1991; vai trò lãnh tụ (Fidel, Raul) và những nhân tố khách quan (cuộc
cách mạng khoa học công nghệ, xu thế hòa bình hợp tác và phát triển); tình hình
khu vực (sự phát triển phong trào cánh tả Mỹ Latinh; quá trình liên kết nội khối
ở Mỹ Latinh); chính sách của một số nước lớn đối với Cuba (Mỹ, EU, Trung
Quốc, Nga)…Do đó, để có thể phát huy được tốt hơn nữa những cơ hội, hạn chế
những khó khan, thách thức từ những vấn đề nêu trên, đòi hỏi Đảng và Nhà nước
Cuba phải đề ra những đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn phù hợp với
điều kiện và hoàn cảnh của đất nước mình trong bối cảnh mới.
60
Chương 3
THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN
TỘC Ở CUBA TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2016
3.1. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ, NỘI DUNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC
CUBA VỀ ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
3.1.1. Mục tiêu
Mục tiêu chung: giữ vững nền độc lập dân tộc, đảm bảo sự liên tục và tính
chất không thể đảo ngược của chủ nghĩa xã hội, sự phát triển của nền kinh tế đất
nước và nâng cao đời sống nhân dân, kết hợp với sự hình thành những giá trị đạo
đức và chính trị cần thiết của nhân dân [20, tr.13]. Tiếp tục củng cố vững chắc
một nước Cuba xã hội chủ nghĩa có độc lập, chủ quyền, dân chủ, thịnh vượng và
bền vững [120, tr.2].
Mục tiêu cụ thể: Trong giai đoạn từ 1991 đến 2016, mục tiêu cụ thể của
Đảng và Nhà nước Cuba được điều chỉnh liên tục qua các kỳ Đại hội đảng nhằm
đảm bảo giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế, nâng cao đời
sống nhân dân và đấu tranh chống lại các chính sách bao vây cấm vận của Mỹ.
Tại Đại hội IV (10/1991) và Đại hội V (10/1997), Đảng cộng sản Cuba
xác định các mục tiêu cụ thể gồm các bước sau: "Điều chỉnh kinh tế bằng hệ
thống các biện pháp cải cách thận trọng" như: (i) giảm chi tiêu cho lực lượng vũ
trang và bộ máy hành chính để kiềm chế lạm phát và ổn định tiền tệ quốc gia; (ii)
thu hút đầu tư và hội nhập kinh tế quốc tế [141, tr.6].
Sang đến Đại hội VI (4/2011) và Đại hội VII (4/2016) Đảng cộng sản
Cuba, đã có sự điều chỉnh mục tiêu cụ thể với 6 bước đột phá đó là: (i) tăng
cường chiến lược tự túc về lương thực, thực phẩm và năng lượng; (ii) đảm bảo
tăng trưởng GDP; (iii) củng cố thế trận Quốc phòng và an ninh Quốc gia; (iv)
Đảm bảo môi trường chính trị ổn định và có trật tự thông qua các hoạt động đấu
tranh chống lại sự phá hoại của các thế lực thù địch, tham nhũng và các tội hình
sự khác; (v) Mở rộng và đa dạng hoá các nguồn đầu tư nước ngoài trong trung và
dài hạn. Coi đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là yếu tố quan trọng hàng đầu
trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Mở rộng và đa dạng hoá các hoạt
61
động hợp tác kinh tế quốc tế; (vi) Tiếp tục duy trì thành quả của Cuộc cách mạng
trong các lĩnh vực: y tế, an sinh xã hội, giáo dục, văn hoá. Đảm bảo mọi người
dân trong xã hội đều có việc làm [121, tr.6-7].
3.1.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện các mục tiêu đề ra, Đảng và Nhà nước Cuba đã xác định
những nhiệm vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất, kiên quyết đấu tranh yêu cầu Mỹ xóa bỏ hoàn toàn chính sách
bao vây, cấm vận thù địch chống Cuba, đây chính là điều kiện để Cuba tiếp tục
phát triển và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, tăng cường, chủ
động đưa đất nước hội nhập sâu rộng với khu vực và quốc tế
Nhận thức được những thay đổi của tình hình thế giới, khu vực và phù
hợp với quá trình phát triển kinh tế đất nước, Đảng và Nhà nước Cuba đã kiên
quyết đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại nhằm phá thế bao vây cấm vận của Mỹ,
bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, giữ vững môi trường hòa bình, tranh thủ
được sự ủng hộ của quốc tế, đồng thời tạo điều kiện cho Cuba phát triển đất nước.
Chiến lược đối ngoại của Cuba đã đặt ra những nhiệm vụ sau: ưu tiên
tham gia nhóm Sự lựa chọn Bolivar dành cho các dân tộc Châu Mỹ (ALBA) và
Cộng đồng các nước Mỹ Latinh và Caribe (CELAC). Coi việc tham gia hai tổ
chức này là trọng tâm trong chính sách đối ngoại. Tiếp tục duy trì sự tham gia
vào các cơ chế hội nhập thương mại khu vực mà Cuba đã là thành viên: nhóm
CARICOM; Hiệp hội ALADI [120, tr.2]... Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước
Cuba còn tiếp tục giữ vững đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ quốc tế, không phân biệt chế độ chính trị, xã hội, dựa trên
nguyên tắc bình đẳng, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, tôn trọng
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi quốc gia. Cuba cũng luôn ủng hộ và giữ
vững chủ trương cùng có lợi trong quan hệ quốc tế, coi đây là cơ sở vững chắc
để bảo đảm việc gìn giữ, củng cố hòa bình và an ninh ở Mỹ Latinh và trên thế
giới. Ngoài ra, Cuba còn tìm kiếm những sáng kiến để giải quyết các mâu thuẫn
trong khu vực thông qua giải pháp chính trị.
Cuba còn tiếp tục chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực nhằm đẩy
mạnh công cuộc phát triển kinh tế đất nước và nâng cao đời sống nhân dân; Giữ
62
vững hòa bình, tạo môi trường quốc tế thuận lợi, một mặt sẽ góp phần bảo vệ
độc lập chủ quyền và an ninh quốc gia, mặt khác, còn giúp Cuba nâng cao được
vị thế quốc tế. Đây chính là những điều kiện thuận lợi để Cuba có thể tranh thủ
được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, phá thế bao vây, cấm vận của Mỹ.
Thứ hai, từng bước thay đổi tư duy trong phát triển kinh tế, tiếp tục đẩy
mạnh quá trình cải cách kinh tế, đồng thời, vẫn duy trì các chính sách an sinh xã
hội tốt đẹp
Cuba đấu tranh yêu cầu Mỹ xóa bỏ chính sách bao vây cấm vận và duy trì
các chính sách phúc lợi xã hội tốt đẹp cho người dân vừa là mục tiêu và là
phương hướng trong quá trình đi lên của cách mạng Cuba. Trong bối cảnh nền
kinh tế Cuba phải trải qua "Cơn khủng hoảng "dữ dội" khi mất đi thị trường
truyền thống là Liên Xô cũ và Đông Âu cũng như mất đi 35% GDP và thâm hụt
ngân sách 30% trong giai đoạn 1989-1993" [141, tr.6], cùng những chính sách
bao vây cấm vận của Mỹ đã gây ra trong nhiều thập kỷ. Việc yêu cầu Mỹ xóa bỏ
chính sách cấm vận sẽ giúp cho quá trình "Sửa sai" và "hội nhập" của Cuba đẩy
mạnh các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân,
xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, đồng thời, giúp quốc đảo này mở
rộng quan hệ với khu vực với quốc tế. Để làm được điều này, Đảng và Nhà nước
Cuba đã đề ra những nhiệm vụ như sau:
Về phát triển kinh tế, xác định cơ chế thị trường, quan hệ hàng hóa-tiền tệ,
đa dạng hóa các thành phần kinh tế, đây được coi là những yếu tố mà Cuba buộc
phải vận dụng để chủ nghĩa xã hội có thể tồn tại được. Đồng thời, Cuba còn đề ra
3 chương trình kinh tế lớn: chương trình "lương thực-thực phẩm, du lịch, công
nghệ sinh học và sản xuất dược liệu" và tiến hành đường lối "sửa sai" theo
hướng "chọn lọc, dần dần và có trật tự" [19]. Trong quá trình "sửa sai" Đảng và
Nhà nước Cuba tiếp tục vận dụng, nghiên cứu lý luận bám sát với thực tiễn đời
sống của Nhân dân, tìm tòi, khái quát chỉ ra những vấn đề có tính quy luật, xây
dựng nền tảng tư tưởng lý luận cho sự phát triển của đất nước, phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh của mình. Mặt khác, vẫn đảm bảo giữ vững bốn nguyên tắc kinh
tế-xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa đó là: kiên quyết bảo vệ những thành
quả xã hội đã đạt được trên các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa và an sinh xã
63
hội; kiên trì tính chất xã hội chủ nghĩa ở mô hình phát triển kinh tế-xã hội; nâng
cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật cho nhân dân; xây dựng nguồn lực con
người đủ năng lực cạnh tranh.
Dưới sự lãnh đạo của Bí thư thứ nhất, Raul Castro, Đảng và Nhà nước
Cuba đã đưa ra những nhận thức mới trong tư duy kinh tế khi khẳng định rằng:
việc tăng năng suất lao động, tăng cường tiết kiệm là giải pháp hữu hiệu để thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, đề ra các chính sách tự chủ về sản xuất
lương thực thực phẩm nhằm đảm bảo nhu cầu trong nước và tiến tới xuất khẩu
hàng nông nghiệp có chất lượng cao ra thị trường thế giới.
Cuba còn đưa ra quan điểm mới trong sản xuất kinh doanh như: hỗ trợ
học nghề, vốn, giống và hướng dẫn kỹ thuật cho những người lao động bị thất
nghiệp trong chính sách đóng cửa hoặc giải tán các nông trường quốc doanh, đặc
biệt trong lĩnh vực mía đường.
Ngoài ra, còn thực hiện việc phi tập trung hóa các ngành dịch vụ và
thương mại không có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế đất nước mà trước
đây nhà nước giữ độc quyền. Bên cạnh đó, còn cho phép tư nhân mở các hệ
thống kinh doanh dịch vụ nhỏ nhưng thiết yếu với đời sống người dân như: xây
dựng, điện nước, cắt tóc, đóng giày, kế toán...và cho phép các cửa hàng có thể
tuyển nhân viên ngoài gia đình.
Cuba còn quy định mức lương tối thiểu chặt chẽ cho người làm công, điều
chỉnh mức lợi nhuận hợp lý cho những người kinh doanh bằng sắc thuế mới bao
gồm cả việc sửa đổi hệ thống thuế [28].
Để khắc phục khó khăn trong nước và phát triển kinh tế, Đảng và Nhà
nước Cuba đã đề ra một số biện pháp hướng tới việc điều chỉnh, thay đổi cơ chế
bao cấp dần chuyển mạnh sang cơ chế thị trường, thực hiện thí điểm trong việc
xây dựng đường lối, chính sách, cơ chế mới theo hướng thúc đẩy hội nhập kinh
tế quốc tế phù hợp với tình hình khu vực Mỹ Latinh và thế giới, góp phần nâng
cao tính hiệu quả của công cuộc bảo vệ độc lập dân tộc.
Những biện pháp này bao gồm: tăng thêm quyền hạn cho các doanh
nghiệp nhà nước gắn với việc nâng cao trách nhiệm trong việc kiểm soát các
nguồn lực vật chất và tài chính mà doanh nghiệp điều hành và tạo điều kiện cho
64
kinh tế tư nhân phát triển; các hợp tác xã được hình thành trên cơ sở tự nguyện
của người lao động; ngoài việc cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhà
nước, ngân hàng cũng sẽ cung cấp tín dụng cho khu vực kinh tế tư nhân để góp
phần thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế này; đẩy mạnh khuyến khích các
nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước; nền
nông nghiệp Cuba phải đảm bảo được sự tự túc về lương thực, thực phẩm tiến
tới ổn định an ninh lương thực trên cả nước; thực hiện việc đa dạng hóa các hình
thức quản lý nhà ở (nhà nước, tư nhân...) nhằm tìm ra các giải pháp hợp lý cho
vấn đề nhà ở của người dân; đa dạng hóa các hình thức quản lý sở hữu xã hội và
các chủ thể tham gia vào quá trình sản xuất và cung cấp dịch vụ thương mại.
Về xã hội, Đảng và Nhà nước Cuba xác định duy trì và bảo vệ thành quả
cách mạng trong các lĩnh vực: giáo dục, y tế, an sinh xã hội để bảo lưu tính định
hướng xã hội chủ nghĩa trong các chính sách. Bên cạnh đó, cũng từng bước điều
chỉnh lại các chính sách hiện hành cho phù hợp với khả năng nền kinh tế, giảm
bớt hoặc xóa bỏ chi phí thái quá trong lĩnh vực xã hội.
3.1.3. Nội dung
* Trong lĩnh vực chính trị, ngoại giao
Về chính trị: Đường lối lãnh đạo trong lĩnh vực chính trị của Đảng và Nhà
nước Cuba luôn có sự bổ sung, kế thừa, phát triển qua các kỳ Đại hội Đảng nhưng
mục tiêu bao trùm của đường lối cách mạng trong giai đoạn 1991-2016 vẫn là: "Giữ
vững nền độc lập dân tộc, bảo vệ và cải tiến chủ nghĩa xã hội, tạo ra những cơ sở
kinh tế xã hội để tiếp tục phát triển khi cuộc khủng hoảng qua đi" [143].
Để thực hiện mục tiêu này, Cuba từng bước thực hiện các biện pháp như: (i)
củng cố vững chắc Nhà nước Cuba xã hội chủ nghĩa, tăng cường xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa và các nguyên lý cơ bản của nền dân chủ này; (ii) xây dựng hệ
thống chính quyền các cấp linh hoạt, hiệu quả; (iii) tiếp tục hoàn thiện hệ thống các
cơ quan Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ. Quá trình cải cách thành công sẽ
giúp Cuba xây dựng một chính quyền Nhà nước các cấp dân chủ, hiện đại và mang
tính xã hội chủ nghĩa sâu sắc [143]. Đây chính là điều kiện cốt yếu để đảm bảo
được sự ổn định chính trị, là nền tảng quan trọng và cốt lõi, là yếu tố quyết định dẫn
đến sự thành công của sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba.
65
Đại hội VI Đảng cộng sản Cuba đã đánh dấu một bước chuyển mới trong
nhận thức chính trị là cần tách bạch vai trò lãnh đạo của đảng với vai trò quản lý
của nhà nước. Phải đổi mới phong cách lãnh đạo của đảng là trong công tác tư
tưởng, tổ chức, tránh quan liêu, hình thức. Đồng thời, đánh giá đúng và chọn lọc
được những cán bộ thực sự có phẩm chất cách mạng ở tất cả các cấp.
Để tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác chính trị, tư
tưởng trong thời kỳ mới, Cuba đưa ra biện pháp: tăng cường phát huy vai trò của
báo chí trong việc thông tin, giáo dục và phê phán những khuyết điểm, tiêu cực
trong quản lý kinh tế xã hội; phải thường xuyên trẻ hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo
đảng, chính phủ nhằm đảm bảo tính kế thừa và liên tục của cách mạng. Việc trẻ
hóa cán bộ cần phải làm từ cấp cơ sở đến Trung Ương kể cả những chức vụ cao
nhất như: Bí thư thứ nhất, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng,
những chức vụ này thời hạn nắm quyền tối đa 2 nhiệm kỳ, mỗi nhiệm kỳ là 5
năm. Đồng thời, xây dựng và củng cố hệ thống chính trị trong nước nhằm đối
phó với những âm mưu chia rẽ và lật đổ của chính quyền Mỹ; thực hiện việc cải
tổ bộ máy chính quyền các cấp cho phù hợp với điều kiện và tình hình của đất
nước (cải cách thủ tục hành chính để thực hiện việc hội nhập kinh tế quốc tế
nhằm phát triển kinh tế đất nước, nâng cao đời sống của nhân nhân) để từng
bước đưa đất nước thoát khỏi khó khăn.
Tiếp đó, tại Đại hội VII Đảng Cộng sản Cuba (4/2016) tập trung thảo luận
và thông qua 4 nội dung lớn đó là: đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội
VI (4/2011) và Chương trình phát triển kinh tế-xã hội tới năm 2030; Tầm nhìn
quốc gia, các trụ cột, mục tiêu và lĩnh vực chiến lược; đánh giá việc thực hiện
đường lối cập nhật hóa mô hình kinh tế và các mục tiêu của Hội nghị Đảng toàn
quốc lần thứ nhất (1/2012); xác định khái niệm về "mô hình phát triển kinh tế và
xã hội, xã hội chủ nghĩa của Cuba; xác định các lĩnh vực và các ngành chiến
lược cho phát triển kinh tế và xã hội của Cuba. Đồng thời, Đại hội VII cũng đã
bầu ra được các cơ quan lãnh đạo mới của Đảng (BCH TW, BCT, BBT) [133].
Cuba tiếp tục đẩy mạnh và đổi mới công tác xây dựng Đảng với mục tiêu
ưu tiên là tăng cường các tổ chức cơ sở Đảng nhằm nâng cao tính chiến đấu, tính
gương mẫu của đảng viên. Bên cạnh đó, Đảng cộng sản Cuba đã đưa ra một số
66
cải cách chính trị theo hướng thận trọng như: trao thêm quyền lực cho các địa
phương; cải cách về bầu cử ở Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; đưa ra
phương thức bầu các nhà lãnh đạo trong giai đoạn mới [98, tr.11].
Về đối ngoại: Đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Cuba trong hai
giai đoạn (1991-2004 và 2004-2016) luôn có sự điều chỉnh để phù hợp với
những biến đổi mau lẹ của tình hình trong nước và thế giới.
Tại Đại hội IV, Đảng và Nhà nước Cuba đã từng bước điều chỉnh chính
sách đối ngoại theo hướng: sẵn sàng bình thường hóa quan hệ với Mỹ trên cơ sở
nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và quyền tự quyết của các dân tộc; đề
cao tinh thần cảnh giác và đối phó với các âm mưu, thủ đoạn chống phá của các
thế lực phản cách mạng; đẩy mạnh quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa đặc
biệt là Liên Xô, các nước thuộc Phong trào Không liên kết và các nước Mỹ
Latinh [18, tr.202]; tích cực hoạt động trong các tổ chức quốc tế và diễn đàn đa
phương nhằm tập hợp lực lượng để phá thế bao vây cấm vận của Mỹ.
Đến Đại hội V, Cuba đã điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng đẩy
mạnh quan hệ đối ngoại với các nước đang phát triển, các nước xã hội chủ nghĩa
còn lại trên thế giới, các nước lớn như: Trung Quốc, Liên Bang Nga, Ấn Độ;
thúc đẩy ưu tiên trong quan hệ với các tổ chức khu vực ở Mỹ Latinh đặc biệt là
nhóm ALBA; chủ động tích cực tham gia vào các diễn đàn quốc tế, đa phương
như: Liên hợp quốc, CARICOM.
Đến Đại hội VI (4/2011) và đặc biệt là Đại hội VII (4/2016), Cuba đã thực
hiện sự điều chỉnh lớn trong chính sách đối ngoại với Mỹ bằng việc tái khẳng
định sẵn sàng phát triển quan hệ với siêu cường này theo hướng cùng có lợi và
dựa trên tinh thần "nghệ thuật chung sống văn minh, bất chấp khác biệt" và phủ
nhận khả năng tái ra nhập tổ chức OAS trong tương lai [91, tr.17]. Đồng thời,
tiếp tục kiên trì chính sách ngoại giao mở, tập trung vào việc mở rộng quan hệ
với các nước lớn, các nước trong khu vực như: Trung Quốc, Nga, EU, Brazil,
Venezuela...cùng các tổ chức quốc tế, khu vực: UN, ALBA, CELAC[91, tr.17]...
* Trên lĩnh vực kinh tế
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, đứng đầu là Chủ tịch Fidel và Raul
Castro, Cuba liên tục có sự điều chỉnh đường lối kinh tế trong hai giai đoạn phát
67
triển đất nước: 1991-2004 và 2004-2016 thông qua các kỳ Đại hội nhằm từng bước
khắc phục những khó khăn nội tại của đất nước và đẩy mạnh phát triển kinh tế.
Tại Đại hội V, Cuba đã từng bước điều chỉnh chính sách kinh tế bằng các
biện pháp cải cách thận trọng theo hướng hợp pháp hóa việc sử dụng ngoại tệ
trong nhân dân; thu hút đầu tư nước ngoài và hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng
thời, xác định cơ chế thị trường, quan hệ hàng hóa-tiền tệ; đa dạng hóa các thành
phần kinh tế và đề ra 3 chương trình kinh tế lớn với mục tiêu đưa Cuba từng
bước thoát khỏi khủng hoảng. Song song với đó là việc xác định được 4 nội
dung chính là: không nêu chỉ tiêu cụ thể; sử dụng nội lực kinh tế trong nước là
chính; nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh được coi là nội dung trọng tâm;
đảm bảo tính chất xã hội chủ nghĩa trong quá trình sửa sai [5, tr.14]. Đây chính
là những nhiệm vụ hàng đầu giúp cho Cuba thoát khỏi tình trạng khủng hoảng
kinh tế trong "thời kỳ đặc biệt trong hòa bình".
Sau khi đề ra chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội" tại Đại
hội VI, Chủ tịch Raul và Đảng cộng sản Cuba đã đưa ra quan điểm cần phải đổi
mới sửa chữa tất cả những "sai lầm" trong quản lý kinh tế và trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội bằng việc đổi mới về "tư duy" nếu không nó chính là rào cản lớn
nhất đối với tiến trình cải cách kinh tế. Thông qua các biện pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, hệ thống kinh tế của Cuba dựa trên sở hữu của toàn dân theo nguyên
tắc phân phối xã hội chủ nghĩa "làm theo năng lực, hưởng theo lao động"; thứ
hai, Cuba xác định kinh tế "Kế hoạch hóa" sẽ vẫn được ưu tiên chứ không phải
kinh tế "thị trường". Kế hoạch hóa để nhà nước kiểm soát nền kinh tế một cách
có hệ thống và đảm hoạt động có hiệu quả cho nền kinh tế quốc dân [20]; thứ ba,
thực hiện chính sách thu hút đầu tư nước ngoài nhằm đảm bảo các mục tiêu: tiếp
cận được công nghệ tiên tiến, các phương pháp quản lý, đa dạng hóa và mở rộng
thị trường xuất khẩu, thay thế nhập khẩu, đóng góp nguồn tài chính nước ngoài
trong trung và dài hạn để xây dựng các mục tiêu sản xuất cũng như tạo việc làm
mới; thứ tư, tạo thuận lợi cho việc đa dạng hóa sự tham gia của các doanh nghiệp
nước ngoài trong quá trình khuyến khích đầu tư: xúc tiến thành lập các đặc khu
phát triển kinh tế để tăng xuất khẩu, giảm nhập khẩu; tăng cường phát triển các
dự án công nghệ cao để phục vụ cho sự phát triển của các địa phương và góp
phần tạo ra việc làm mới [20].
68
Tại Đại hội Đảng lần thứ VII, Cuba tiếp tục có những nhận thức mới về tư
duy kinh tế khi xác định sẽ không sử dụng "Những liệu pháp sốc" (shock-
therapie) của các nước tư bản để kích thích nền kinh tế, cũng như không được bỏ
mặc bất cứ người dân nào trong xã hội, dù họ thuộc tầng lớp nào" [133] và
những công thức theo kiểu "tự do kinh tế mới" khuyến khích tư nhân hóa tài sản
Nhà nước và khẳng định con đường phát triển kinh tế đất nước sẽ phải thực hiện
được các mục tiêu đó là: đưa ra định nghĩa về "cập nhật hóa mô hình kinh tế - xã
hội" xã hội chủ nghĩa; tiến hành thống nhất hai đồng tiền và hai tỷ giá hiện tại
của Cuba; khẳng định lại nguyên tắc xã hội chủ nghĩa về sở hữu toàn dân đối với
các phương tiện sản xuất cốt lõi.
* Trên lĩnh vực an ninh, quốc phòng
Để bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, chế độ xã hội chủ nghĩa và an
ninh quốc gia, Đảng và Nhà nước Cuba trong giai đoạn 1991-2016, đã xác định
rõ các biện pháp sau:
Thứ nhất, luôn coi trọng và đề cao vai trò của Bộ các Lực lượng vũ trang
cách mạng (quân đội) trong quá trình đấu tranh và bảo vệ độc lập dân tộc. Trong
đó, Cuba tập trung vào một số vấn đề như: xây dựng thế trận quốc phòng toàn
dân và chiến tranh nhân dân;
Thứ hai, để ngăn chặn các âm mưu can thiệp quân sự và tiến hành chiến
tranh xâm lược lật đổ chính quyền cách mạng Cuba của Mỹ, Cuba tiếp tục duy
trì lực lượng vũ trang 3 thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân
du kích);
Thứ ba, tiếp tục cuộc đấu tranh yêu cầu Mỹ trao trả căn cứ Guantanamo vô
điều kiện cho Cuba; củng cố năng lực bảo vệ biên giới, lãnh thổ (nhất là các khu
vực giáp với căn cứ Guantanamo của Mỹ chiếm đóng ở khu vực miền Đông Cuba);
Thứ tư, hoàn thiện, củng cố hệ thống an ninh quốc gia cho phù hợp với
những chuyển biến về chính trị, kinh tế, xã hội trong nước và thế giới trong bối
cảnh mới; ngăn chặn các hoạt động xâm nhập qua biên giới của các tổ chức phản
cách mạng;
Thứ năm, tăng cường hợp tác quân sự và trao đổi kỹ thuật quân sự với
Nga, Trung Quốc, Việt Nam và một số nước Mỹ Latinh: Venezuela, Nicaragua;
69
Thứ sáu, giảm biên chế và thúc đẩy cải cách quân đội để Lực lượng này hoạt
động có hiệu quả, gọn nhẹ, cơ động và có tính tác chiến cao; đào tạo các cán bộ
quân sự phục vụ cho việc tham gia hợp tác khu vực, quốc tế, đặc biệt là tham gia
vào Chương trình hợp tác và gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc [121, tr.6-7].
Những chủ trương về an ninh, quốc phòng trên của Cuba sẽ giúp nước này
có điều kiện thuận lợi để xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc chủ
quyền quốc gia, độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ trước âm mưu diễn biến
hòa bình và chống phá của Mỹ, các thế lực thù địch.
* Trên lĩnh vực văn hóa, xã hội
Trong giai đoạn 1991-2004 và 2004-2016, đặc biệt là tại Đại hội VI, Đảng
và Nhà nước Cuba đã đưa ra nhiều nội dung trong hoạt động văn hóa-xã hội đó
là: tăng cường bảo vệ bản sắc văn hóa; tiếp tục nâng cao chất lượng và tính
nghiêm túc trong công tác giảng dạy ở các cấp học nhằm nâng cao hiệu quả của nền
giáo dục Cuba; từng bước sắp xếp lại mạng lưới các trường học, nâng cao năng lực
của giáo viên trước học sinh, sinh viên thông qua việc trang bị các trang thiết bị
giảng dạy; cải thiện chất lượng dịch vụ và chăm sóc y tế cho toàn dân, đồng thời có
chính sách đãi ngộ tốt cho nhân viên làm trong ngành này; phát triển các hoạt động
y tế cộng đồng nhằm nâng cao sức khỏe, cải thiện đời sống của nhân dân; tiếp tục
đào tạo đội ngũ chuyên gia y tế, bác sỹ để đáp ứng nhu cầu trong nước và coi
"ngoại giao y tế" là kênh đối ngoại quan trọng để phát triển kinh tế đất nước và
nâng cao vai trò vị thế của Cuba trên trường quốc tế [20, tr.13].
Tiếp đó, tại Đại hội VII, Cuba cũng đã đưa ra nhiều nội dung quan trọng
để tiếp tục phát triển con người toàn diện, giữ vững và phát huy những thành quả
cách mạng đã đạt được về y tế, giáo dục, văn hoá. Đồng thời, tạo các nguồn thu
mới ngoài ngân sách nhà nước từ các doanh nghiệp dành cho y tế, giáo dục, văn
hoá [120, tr.2].
Tóm lại, các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
Cuba trong 2 giai đoạn 1991-2004 và 2004-2016 được thông qua tại các Đại hội
Đảng cộng sản Cuba lần thứ IV, V, VI, VII, đã làm rõ mục tiêu, nhiệm vụ và nội
dung trên các lĩnh vực: chính trị, ngoại giao; kinh tế; an ninh, quốc phòng; văn
hóa,xã hội mà cách mạng Cuba phải thực hiện qua từng giai đoạn. Đây chính là
70
cơ sở và nền tảng để cho Cuba thực hiện thành công công cuộc đấu tranh bảo vệ
độc lập dân tộc trong thời kỳ mới.
3.2. SỰ TRIỂN KHAI VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN QUÁ TRÌNH ĐẤU
TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA CUBA
3.2.1. Giai đoạn Cuba thực hiện "Thời kỳ đặc biệt trong hòa bình"
(1991-2004)
Sở dĩ Cuba thực hiện "Thời kỳ đặc biệt trong hòa bình" là do từ Đại hội
III (2/1986), Đảng và Nhà nước đã nhìn nhận ra những yếu kém của cơ chế quản
lý cũ và bước đầu đưa ra các biện pháp điều chỉnh cơ chế quản lý kinh tế mới,
nhưng tiến trình chuyển đổi đó bị ảnh hưởng nặng nề từ sự sụp đổ Liên Xô vào
tháng 12/1991. Đây là một "cú sốc" lớn đối với tình hình kinh tế và chính trị của
Cuba, bởi trong một thời gian dài, khoảng 85% tổng lượng xuất nhập khẩu (chủ
yếu là thiết bị, nguyên liệu); 95% nguồn cung cấp dầu; 57% nguồn cung cấp
lương thực, 51% sản lượng thịt và phần lớn phương tiện giao thông, máy móc,
giấy, hàng tiêu dùng thiết yếu…của Cuba gắn liền với nước này [143, tr.2]. Vì
vậy, nền kinh tế Cuba đã phải đối mặt với những thách thức lớn khi quan hệ
thương mại, kinh tế với Liên Xô hoàn toàn bị cắt đứt. Hơn thế nữa, sự sụp đổ
của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới đã làm tổn thương niềm tin của nhân
dân Cuba vào chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ngoài những khó khăn trên, chính quyền Mỹ còn lợi dụng sự sụp đổ của
Liên Xô, đồng minh chiến lược của Cuba trong thời kỳ chiến tranh Lạnh để siết
chặt lệnh trừng phạt về kinh tế đối với quốc đảo này. Biểu hiện rõ nhất là hai đạo
luật Torriceli (1992) và Helm-Burton (1996) nhằm bóp nghẹt kinh tế Cuba. Mỹ
còn giật dây EU gây sức ép chính trị, cấu kết với các lực lượng phản động trong
và ngoài nước để gia tăng các hoạt động phá hoại, can thiệp gây mất ổn định tình
hình, bạo loạn và khủng bố với nhiều thủ đoạn để tiêu diệt cách mạng Cuba.
Điển hình là vụ đánh bom ở Habana vào tháng 10/1994, do CIA tổ chức…Điều
này, đã gây ra cho Cuba những khó khăn to lớn trong việc gìn giữ sự ổn định đất
nước, phát triển và mở rộng quan hệ quốc tế. Do tác động từ những yếu tố trên,
Cuba đã rơi vào khủng hoảng kinh tế toàn diện và sâu sắc. Trong giai đoạn
1989-1993, lạm phát lên tới 121%, thâm hụt ngân sách 158%, tổng sản phẩm
71
quốc nội (GDP) giảm 35% [143]. Để đối phó với tình trạng trên, Cuba đã buộc
phải tuyên bố đưa đất nước bước vào "Thời kỳ đặc biệt trong hòa bình" tại Hội
nghị TW 5 khóa IV, tháng 7/1993.
Bối cảnh trên của Cuba đã đặt ra cho sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập
dân tộc giai đoạn 1991-2004 những cơ hội và thách thức đan xen, điều này, được
thể hiện thông qua các lĩnh vực sau:
3.2.1.1. Trên lĩnh vực chính trị- ngoại giao
Để đối phó với những âm mưu can thiệp và lật đổ của Mỹ và các thế lực
bên trong, bên ngoài, Đảng và Nhà nước Cuba đã triển khai các biện pháp đồng
bộ trên lĩnh vực chính trị và đối ngoại nhằm bảo vệ thành quả cách mạng năm
1959, bảo vệ nền độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và chế độ xã hội chủ
nghĩa. Những biện pháp đó bao gồm:
Thứ nhất, Cuba đã ban hành Hiến pháp mới vào năm 1992 và tiến hành
sửa đổi Hiến pháp vào năm 2002. Đây được coi là những biện pháp mang tính
chất bản lề để giữ vững sự ổn định chính trị trong nước, trong bối cảnh nền kinh
tế-xã hội đang lâm vào khủng hoảng trầm trọng
Để đáp ứng được với những đòi hỏi của công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ
quốc trong điều kiện mới, Cuba đã 2 lần tiến hành sửa đổi và thông qua Hiến pháp
mới vào các năm 1992, 2002 [98, tr.1]. Sự thay đổi này đã phản ánh đúng đắn quá
trình đổi mới tư duy chính trị và thực tiễn cải cách đất nước của Đảng cộng sản Cuba.
Bên cạnh đó, Quốc hội cũng đã ban hành, thông qua và sửa đổi nhiều Văn
bản pháp luật quan trọng liên quan đến việc tổ chức và hoạt động của các cơ
quan quyền lực Nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội, các hoạt động kinh tế,
thu hút đầu tư nước ngoài...Đồng thời, xóa bỏ những quy định, văn bản không
phù hợp đối với việc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Những thay đổi
nêu trên, đã tạo ra những khuôn khổ pháp lý quan trọng để Đảng và Nhà nước
Cuba tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật trên tất cả các lĩnh vực nhằm tạo
ra sự ổn định chính trị-xã hội trong bối cảnh Cuba đang lâm vào khủng hoảng
kinh tế, sự chống phá quyết liệt của Mỹ và các lực lượng phản động.
Việc sửa đổi thành công Hiếp pháp này đã đáp ứng được nguyện vọng của
nhân dân và yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước trong "Thời kỳ đặc biệt trong
72
hòa bình". Đồng thời, phản ánh tính đúng đắn trong việc đổi mới tư duy, nhận
thức về chính trị. Đây chính là cơ sở giúp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước diễn ra thuận lợi.
Thứ hai, Đảng và nhà nước Cuba đã đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị,
tư tưởng nhằm tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong đảng, giữa đảng với
nhân dân để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và chống lại các âm mưu gây bất ổn
chính trị xã hội của Mỹ và các thế lực thù địch.
Tư tưởng luôn được coi là lĩnh vực nhạy cảm mà các thế lực thù địch
thường xuyên lợi dụng, chống phá. Để đẩy mạnh cuộc đấu tranh trên mặt trận tư
tưởng nhằm bảo vệ nền độc lập dân tộc và thành quả cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Tại Đại hội Đảng lần thứ IV (10/1991) và V (10/1997), Đảng cộng sản
Cuba đã xác định nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng là:
Công tác chính trị, tư tưởng nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng là bảo
vệ độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội do Đảng
cộng sản lãnh đạo. Công tác chính trị tư tưởng sẽ giúp cho mọi tầng
lớp, nhân dân Cuba nhận thức được rằng, Đảng cộng sản là lực lượng
lãnh đạo cao nhất trong toàn xã hội, của nhân dân, hướng dẫn và phối
hợp các nỗ lực chung của toàn thể dân tộc Cuba trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và góp phần củng cố hệ tư tưởng cách mạng
của Cuba trong xã hội. Hệ tư tưởng được Cuba xác định đó là sự kết
tinh toàn diện giữa tư tưởng cách mạng triệt để của Jose Martin và
truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc độc đáo của nhân dân, với
những đặc thù cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Theo đó, tư tưởng và
hành động của Fidel là biểu hiện cao nhất trong nền tảng chính trị, tư
tưởng của cách mạng Cuba [82, tr.13].
Công tác chính trị tư tưởng được Cuba đẩy mạnh trong nội bộ đảng thông
qua việc cơ cấu tổ chức theo 3 cấp: trung ương, tỉnh/thành phố, quận/huyện. Hệ
thống thông tin tuyên truyền của nhà nước, các tổ chức quần chúng, các cơ quan
ngôn luận của Đảng bao gồm: báo Granma, Tạp chí xã hội chủ nghĩa, trang web
của Đảng và nhà xuất bản Chính trị. Thông qua các cơ quan truyền thông này,
nhiều chủ trương, đường lối, chỉ thị, hướng dẫn của các cơ quan và tổ chức
73
Đảng, cũng như ý kiến và định hướng của chủ tịch Fidel được phổ biến sâu rộng
trong toàn dân.
Trong những năm cuối của thập niên 90, Đảng cộng sản Cuba còn tiến
hành trên phạm vi rộng lớn các diễn đàn chính trị tư tưởng công khai với sự
tham gia của nhiều nhà lãnh đạo cấp cao trong đó có chủ tịch Fidel, Phó Chủ tịch
Raul để yêu cầu Mỹ xóa bỏ chính sách cấm vận với Cuba. Thực hiện nghị quyết
của Đại hội V, Đảng đã phát động đợt sinh hoạt chính trị thông qua việc phát
động quần chúng tiến hành các cuộc biểu tình, tuần hành yêu cầu Mỹ trả tự do
cho bé Elian trong suốt 7 tháng (năm 2000), đấu tranh yêu cầu Mỹ trao trả 5
công dân Cuba bị Mỹ bắt giam làm gián điệp. Các hoạt động này đã buộc Mỹ
phải trao trả bé Elian vào tháng 7/2001. Cuba đã khánh thành Viện bảo tàng Đấu
tranh tư tưởng (7/2001), đây là viện Bảo tàng đầu tiên ở Cuba và trên thế giới
nhằm khơi dậy cuộc đấu tranh của Nhân dân Cuba chống chủ nghĩa đế quốc.
Những hoạt động đấu tranh tư tưởng trên của Đảng cộng sản Cuba đã góp
phần củng cố mối quan hệ giữa Đảng cộng sản với nhân dân, tạo cho người dân
luôn có ý thức cảnh giác trước các hành động chống phá và can thiệp của Mỹ
cũng như các thế lực thù địch vào quốc đảo này.
3.2.1.2. Trên lĩnh vực kinh tế
Sự tan rã của Liên Xô đã làm cho nền kinh tế Cuba đứng trước nguy cơ của
sự sụp đổ. Tình hình này, đã đặt ra cho Đảng và Nhà nước Cuba nhu cầu cấp bách
là phải thay đổi để có thể tồn tại và tiếp tục tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Thứ nhất, sự thay đổi trong chính sách phát triển kinh tế đã giúp Cuba thu
được kết quả khả quan và từng bước thoát khỏi khủng hoảng; duy trì sự ổn định
chính trị- xã hội trong nước; giữ vững nền độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ
nghĩa trong bối cảnh Mỹ siết chặt hơn nữa lệnh cấm vận.
Nhờ việc thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn: lương thực -thực phẩm; du
lịch; công nghệ sinh học theo phương châm "chọn lọc dần dần và có trật tự",
trong giai đoạn từ 1991-2004, Cuba đã thu được nhiều kết quả quan trọng.
Sau nhiều năm liên tiếp tăng trưởng kinh tế ở mức âm như: -10,7%
(1991), -11,5%(1992) và -14,9% (1993), GDP giảm 35% (1989-1993) [93, tr.16]
thì đến năm 1994, Cuba đã chặn đứng được đà suy thoái, đạt mức tăng trưởng
74
0,7% ; 2,5% (1995) và 7,8% (1996) [82, tr.10]. Kim ngạch xuất khẩu đạt 2,4 tỷ
USD (1994) bằng với mức bình quân năm 1992. Tài chính của đất nước bắt đầu
được củng cố, mức thâm hụt ngân sách giảm 40% so với dự kiến. Nguồn vốn
đầu tư nước ngoài đạt 1,5 tỷ USD. Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc
(UNDP) đã giúp Cuba triển khai 10 dự án phát triển kinh tế và một số dự án về
đào tạo cán bộ quản lý kinh doanh với tổng số vốn là 7 triệu USD [117, tr.158].
Thâm hụt ngân sách từ 35% (1993) xuống còn 5% (1996). Những thành tựu kinh
tế trên đã góp phần quan trọng nâng cao thu nhập thực tế, cải thiện đời sống
nhân dân, hạ tỷ lệ thất nghiệp từ mức 10% (1992) xuống còn 5% (2002). Tỷ lệ
lạm phát từ 179% (1989) xuống còn 5% (2002) [82, tr.11]. Tốc độ tăng trưởng
kinh tế của Cuba đạt 1,2% (1998), con số này tuy còn khiêm tốn nhưng là một
minh chứng cho thấy nền kinh tế Cuba vẫn giữ được khả năng phục hồi trong
điều kiện bất lợi do hậu quả của chính sách cấm vận kinh tế của Mỹ và ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính giai đoạn 1997-1998.
Trong các năm từ 1999-2001, khi nền kinh tế thế giới suy giảm, kinh tế
Mỹ Latinh suy thoái nặng nề do hậu quả của chính sách tự do mới trong kinh tế
của chính quyền Bill Clinton và tác động từ thảm họa khủng bố ngày 11/9/2001
ở Mỹ, nhưng Cuba lại là nước duy nhất trong khu vực duy trì được sự ổn định
trong điều kiện bị bao vây cấm vận và đạt được mức tăng trưởng bình quân
4%/năm [86]; thâm hụt ngân sách từ 5% (1996) xuống 3% (2001); năng suất lao
động thời kỳ 1993-2001 tăng gần 20% [86].
Những thành công bước đầu nêu trên, một mặt, giúp Cuba thoát khỏi tình
trạng khủng hoảng kinh tế trong bối cảnh mất đi một thị trường lớn là Liên Xô
và lệnh cấm vận của Mỹ về kinh tế đang bị siết chặt. Nhưng mặt khác, nó cũng
giúp cho Cuba củng cố vững chắc hơn nữa nền độc lập dân tộc và chế độ xã hội
chủ nghĩa.
Bên cạnh những kết quả đạt được trong tăng trưởng kinh tế, tiến trình cải
cách kinh tế còn giúp Cuba đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
Trước thập niên 90, sở hữu công bao trùm toàn bộ nền kinh tế, nhưng sau 7 năm
cải cách kinh tế của Đại hội V, các hình thức sở hữu đã có những thay đổi sâu
sắc. Nền kinh tế Cuba đã có sự kết hợp ở mức độ khác nhau giữa sở hữu tư nhân
75
với sở hữu có vốn đầu tư nước ngoài, với công hữu làm chủ đạo: năm 1999,
Cuba đã thành lập hơn 4000 Ủy Ban phân chia, trên cơ sở phân chia lại đất đai
của gần 400 Nông trường quốc doanh và Nhà nước chỉ quản lý 33% đất đai nông
nghiệp so với 70% trước đây [46]. Khu vực kinh tế tư nhân bắt đầu xuất hiện từ
năm 1993 đã nhanh chóng trở thành động lực của nền kinh tế Cuba. Năm 1997,
khu vực kinh tế nhà nước chiếm 15,8% số việc làm mới, trong khi đó khu vực
kinh tế hỗn hợp chiếm tới 32% số việc làm mới [83].
Chính phủ Cuba đã mở cửa cho đầu tư nước ngoài ở hầu hết các khu vực
kinh tế trừ giáo dục, y tế và quốc phòng. Tính đến năm 1998, Cuba có khoảng
332 Hiệp hội kinh tế đang hoạt động bằng nguồn vốn nước ngoài, khu vực kinh
tế tư nhân đã sử dụng trên 200.000 lao động Theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch Đầu
tư Cuba, tính đến năm 2003, Cuba đã thu hút được 700 dự án đầu tư nước ngoài
với tổng số vốn 250 triệu USD [83].
Cơ cấu kinh tế của Cuba có sự chuyển đổi quan trọng từ "nhất dạng" sang
"đa dạng" với một số ngành nghề mới xuất hiện như: công nghệ sinh học, khai
thác nicken và du lịch, đặc biệt, ngành du lịch đã phát triển nhanh chóng và thể
hiện tính vượt trội hơn hẳn so với các ngành nghề truyền thống. Cuba đã đón gần
1,8 triệu khách du lịch, với doanh thu đạt hơn 1,8 tỷ USD (năm 2002) và trở
thành một động lực tăng trưởng kinh tế của đất nước [77, tr.3].
Trong nông nghiệp, sản xuất đỗ, ngô, mía đường, bò sữa đều có sự phát
triển và có tốc độ tăng trưởng khá nhanh. Trong công nghiệp, ngành sản xuất
đường, lĩnh vực kinh tế chủ lực của Cuba trong những năm trước đây nay chỉ
đóng vai trò thứ yếu. Trong khi đó, ngành khai thác và sản xuất nicken vươn lên
và trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Cùng với việc phát triển ngành du lịch,
xuất khẩu dịch vụ cũng có giá trị gia tăng cao (chủ yếu là dịch vụ chăm sóc y tế
và cấp phát bằng phát minh, sáng chế về công nghệ sinh học) đã đưa lại nguồn
thu ngoại tệ lớn cho đất nước. Xuất khẩu dịch vụ đã đem lại 10% giá trị xuất
khẩu (1990) và tăng lên 60% (2003). Khai thác dầu khí từ chỗ không đáng kể
trước đây đến năm 2002 đã đảm bảo được 50% nhu cầu của đất nước và triển
vọng có thể trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong tương lai gần [82, tr.11].
Tỷ trọng xuất nhập khẩu hàng hóa cũng giảm đi nhanh chóng, từ 90% (1989)
76
xuống 36% (2003). Trong khi ngành ngoại thương có nhiều khởi sắc: trong giai
đoạn 1990-1993, thị trường xuất khẩu số 1 của Cuba là Liên Xô đã không còn
làm cho giá trị trao đổi thương mại giảm ở mức -77%. Đến năm 2002, con số
này đã tăng lên 5 tỷ USD (mức cao nhất kể từ năm 1991, trước khi Cuba bước
vào "thời kỳ đặc biệt trong hòa bình" [85].
Như vậy, sự thay đổi cơ cấu kinh tế trong giai đoạn này đã giúp cho nền
kinh tế Cuba chuyển từ trạng thái "đơn nhất" sang "đa dạng", làm cho nền kinh
tế có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Qua đó, thúc đẩy nền kinh
tế phát triển, tạo tiền đề vững chắc cho Công cuộc cải cách kinh tế và tiến lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, du lịch và công nghệ sinh học đã trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn của Cuba. Đây chính là "cứu cánh" giúp Cuba giải quyết được những khó
khăn kinh tế trước mắt và tạo cơ sở, tiền đề cho các ngành kinh tế khác có điều
kiện phát triển. Đồng thời, giúp Cuba có thể tự chủ hơn về kinh tế và giảm sự
phụ thuộc vào bên ngoài.
Về du lịch:
Để phát triển tiềm năng du lịch quốc gia, từ đầu thập niên 90, chính phủ
Cuba đã thực hiện các kế hoạch thúc đẩy các hoạt động du lịch: du lịch tắm
nắng, bãi biển, du lịch sinh thái...nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch của du khách
trong và ngoài nước, tăng lượng khách quốc tế đến quốc đảo này. Lượng khách
quốc tế đến Cuba trong giai đoạn này chủ yếu đến từ Mexico, Mỹ, Đức,
Pháp...và chiếm 90% lượng khách du lịch quốc tế [77, tr.4]. Từ năm 1994, tổng
doanh thu của ngành du lịch đã vượt ngành mía đường trở thành nguồn cung cấp
ngoại tệ quan trọng hàng đầu cho Cuba cùng với sản xuất niken. Trong giai đoạn
1990-2000, số khách du lịch tới Cuba tăng 6 lần, từ vị trí 25 lên vị trí thứ 9 của
khu vực. Thu nhập từ ngành này tăng hơn 11 lần, từ 4% tăng lên 45% tổng thu
ngân sách [41].
Chính phủ Cuba còn đặc biệt chú trọng đến việc khai thác thị trường du
lịch của các quốc gia Châu Á-Thái Bình Dương, nhất là Trung Quốc. Vào tháng
1/2004, Cuba và Trung Quốc đã ký biên bản ghi nhớ về du lịch trong đó, chính
phủ Trung Quốc đã công nhận Cuba là nước đầu tiên ở Tây Bán Cầu được
77
hưởng quy chế "Điểm đến du lịch" của du khách Trung Quốc và điều này sẽ giúp
tăng lượng khách Trung Quốc đến Cuba [77, tr.4].
Theo thăm dò của Hãng Lữ hành du lịch của Mỹ năm 2004, Cuba xếp vị
trí thứ 7 trong tổng số 57 nước có nền công nghiệp không khói tốt nhất thế giới;
đứng đầu thế giới về đảo và khách sạn; thứ ba về bãi biển; thứ 8 về thành phố.
Thủ đô La Habana đứng vị trí thứ 8 về thành phố du lịch tốt nhất thế giới và
đứng thứ 2 Châu Mỹ, ngang với Buenos Aires (Argentina) [77, tr.4].
Về công nghệ sinh học
Chính phủ Cuba đã ưu tiên phát triển ngành công nghệ sinh học bằng việc
đầu tư, xây dựng các cơ sở nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm công nghệ sinh
học, trong đó một số cơ sở có tầm cỡ quốc tế như: Trung tâm Kỹ nghệ di truyền
và công nghệ sinh học (CIGB); Viện vác xin Finlay; Trung tâm khoa học quốc
gia (CENIN)...các trung tâm này đã đưa ra thị trường hàng trăm sản phẩm nhằm
nâng cao sức khỏe của con người và phục vụ cho chăn nuôi, trồng trọt.
Chính phủ Cuba cũng đã áp dụng công nghệ gen và nghiên cứu sản xuất
thành một số loại dược phẩm có giá trị cao: vác xin phòng chống viêm não Nhật
Bản; vác xin phòng chống siêu vị B, C...Ngoài ra, Cuba còn chế tạo thành công
các loại thuốc thú y như: vác xin phòng chống bọ ve ở bò (GAVAC). Hơn nữa,
còn sử dụng công nghệ biến đổi gen để cho ra thị trường các sản phẩm đạt năng
suất cao: cá rô phi, mía, khoai tây...
Cuba còn có hàng chục các sản phẩm công nghệ sinh học được cấp bằng
sáng chế và có bản quyền trong và ngoài nước: vác xin chống ung thư. Các sản
phẩm công nghệ di truyền của Cuba được ưa chuộng tại 60 nước, với giá trị xuất
khẩu 1 tỷ USD/năm. Trong giai đoạn từ 2000-2004, xuất khẩu công nghệ sinh
học mang lại cho Cuba mỗi năm khoảng 350 triệu USD [77, tr.7].
Bên cạnh đó, Cuba cũng thực hiện chuyển giao công nghệ sinh học tới
một số nước như: Ấn Độ, Trung Quốc, Brazil, Việt Nam...
3.2.1.2. Trên lĩnh vực an ninh- quốc phòng
Trong bối cảnh cách mạng Cuba liên tục chịu sự bao vây, cấm vận, can
thiệp, lật đổ của Mỹ và các thế lực phản động bên trong và bên ngoài. Để đối
phó thành công những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, Đảng và Nhà nước Cuba đã
78
đề ra các biện pháp để từng bước phát triển lực lượng vũ trang cách mạng nhằm
bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia và chế độ xã hội chủ nghĩa. Chiến lược này
của Cuba được thể hiện thông qua một số biện pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục duy trì và củng cố các lực lượng bảo vệ cách mạng
nhằm góp phần ổn định trật tự trong nước, bảo vệ Đảng, nhà nước và nhân dân
trước sự chống phá quyết liệt của kẻ thù
Đảng và Nhà nước Cuba coi việc bảo vệ tổ quốc, củng cố quốc phòng, giữ
vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ của toàn thể nhân dân, của mọi lực lượng
trong xã hội. Trong đó, sức mạnh của lực lượng vũ trang được coi là nòng cốt,
chú trọng phát huy nội lực là chính; kết hợp sức mạnh kinh tế, chính trị với ngoại
giao; sẵn sàng đối phó với mọi tình huống chiến tranh, nguy cơ xâm lược của Mỹ
cùng các thế lực thù địch và kiên quyết giành thắng lợi. Ngoài ra, Cuba còn chú
trọng xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng 3 thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương, dân quân du kích. Quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, tích cực, chủ
động, sãn sàng đánh bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù
địch. Đồng thời, tiếp tục khẳng định: "Học thuyết Quốc phòng của Cuba vẫn tiếp
tục là học thuyết chiến tranh Nhân dân" [91, tr.17]. Tính đến năm 2003, Cuba có
60.000 quân chính quy thuộc các binh chủng hải, lục, không quân, với hơn 3,5 triệu
quân dự bị, bộ đội và công nhân quốc phòng vào làm việc trong hơn 60.000 cơ sở
kinh tế quốc phòng thuộc các đơn vị vũ trang trên cả nước [174].
Nhờ xây dựng được lực lượng vũ trang vững mạnh, có mối liên hệ mật
thiết với nhân dân nên Cuba đã kịp thời ngăn chặn và dập tắt các vụ gây rối, bạo
loạn chính trị (Sự kiện bạo loạn chính trị vào tháng 10/1994 tại thủ đô La
Habana do một số phần tử Cuba lưu vong được Mỹ hậu thuẫn gây ra); các âm
mưu ám sát nhằm vào lãnh tụ Fidel; vô hiệu hóa hoạt động của các đối tượng
phản động trong và ngoài nước lợi dụng các vấn đề tôn giáo, dân chủ, nhân
quyền để gây mất ổn định chính trị và không để bên ngoài lấy cớ can thiệp vào
công việc nội bộ của Cuba; đấu tranh ngăn chặn các hoạt động của một số phần
tử cơ hội chính trị trong nước, không để chúng hình thành các tổ chức chính trị
đối lập để chống lại Đảng và phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; góp phần
giữ vững sự ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội trên phạm vi cả nước;
79
nâng cao và giác ngộ trình độ hiểu biết về quốc phòng- an ninh cho toàn dân, các
cấp, bộ và ngành; đề cao tinh thần cảnh giác, ý thức cách mạng và trách nhiệm,
nghĩa vụ của Nhân dân trong công cuộc xây dưng và bảo vệ tổ quốc; bố trí lại
các Lực lượng quốc phòng theo quân khu, vùng miền, khu vực phòng thủ phù
hợp với ý đồ chiến lược, phát huy cao độ sức mạnh quốc phòng để bảo vệ vững
chắc tổ quốc Cuba xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, ngăn chặn chiến tranh xâm lược
và sẵn sàng đánh trả các cuộc tấn công của kẻ thù.
Như vậy, trong giai đoạn 1991- 2004, quân đội Cuba, dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản đã luôn đề cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu nhằm
tăng cường bảo vệ vững chắc độc lâp chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng và Nhân dân, chủ động ngăn chặn, đẩy lùi các hoạt
động phá hoại của kẻ thù, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội của
đất nước trong điều kiện và hoàn cảnh mới.
Thứ hai, Cuba chủ trương cải cách các Lực lượng vũ trang để bảo vệ vững
chắc thành quả cách mạng góp phần giữ vững ổn định trật tự xã hội, chủ quyền
quốc gia.
Cuba đã xác định rõ mục tiêu là xây dựng quân đội cách mạng dựa trên cơ
sở "kinh nghiệm lịch sử của quân đội giải phóng Rebel chống thực dân Tây Ban
Nha trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc lần 1 (1868-1878) và lần 2 (1895-
1898)" [142, tr.2], thành một lực lượng vũ trang cách mạng tinh nhuệ, chính quy,
có đủ năng lực để bảo vệ tổ quốc và giúp đỡ nhân dân khi gặp thiên tai, địch họa.
Đồng thời, đẩy mạnh phát triển các lực lượng quân dự bị, dân cảnh nội địa (dân
quân tự vệ) nhằm phát huy hết năng lực và vai trò của các lực lượng trên trong
sự nghiệp phát triển kinh tế và bảo vệ tổ quốc khi cần thiết.
Bên cạnh đó, tiếp tục thực hiện việc củng cố mối quan hệ giữa Bộ các Lực
lượng vũ trang cách mạng, Bộ Nội vụ với các Bộ ngành khác nhằm củng cố
vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân. Thông qua hoạt động này, Cuba còn
muốn củng cố mối quan hệ chặt chẽ và gắn bó truyền thống giữa các lực lượng
vũ trang cách mạng với các Bộ để ngoài mục tiêu bảo vệ độc lập dân tộc còn có
thể giúp người dân trong các hoạt động phòng chống thiên tai, dịch bệnh, cứu
hộ, cứu nạn [80].
80
Cuba còn xây dựng thế trận quốc phòng, kết hợp với kinh tế và đối ngoại.
Điều chỉnh lại thế chiến lược với các Lực lượng Vũ trang, đặc biệt là khu vực
giáp với căn cứ Guantanamo để chống lại các âm mưu xâm lược, chống phá cách
mạng Cuba của Mỹ. Sự hiện diện quân sự của Mỹ tại căn cứ Guantenama vẫn
được coi là nguy cơ đe dọa trực tiếp đến an ninh quốc gia của Cuba. Từ tháng
1/2002, dưới thời Tổng Bush (con), Mỹ đã sử dụng căn cứ này để giam giữ
những nghi phạm khủng bố bị bắt giữ trong cuộc chiến chống khủng bố ở Iraq
và Afganistan [128]. Điều này, làm cho Cuba rất lo ngại, một mặt, thông qua căn
cứ này Mỹ có thể tiến hành chống phá Cuba về tư tưởng, chính trị, quân sự. Mặt
khác, có thể dễ dàng thực hiện các kế hoạch xâm nhập, đổ bộ vào Cuba sau đó
tiến tới thiết lập một chính quyền thân Mỹ tại đây.
Thành tựu cách mạng Cuba đã đạt được nêu trên đã góp phần to lớn trong
việc củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, chế độ xã hội chủ
nghĩa. Đồng thời, làm cho trật tự xã hội được giữ vững và ổn định, bất chấp sự
chống phá quyết liệt của các lực lượng phản động bên trong và bên ngoài.
3.2.1.2. Trên lĩnh vực văn hóa- xã hội
Nhắc đến những thành tựu của cách mạng của Cuba trong giai đoạn này
không thể không nói đến các thành quả về giáo dục, ý tế, an sinh xã hội. Mặc dù,
đất nước phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhưng Đảng và Nhà nước
Cuba luôn giành ưu tiên đặc biệt đến việc chăm lo sức khỏe, đời sống của người
dân. Đây chính là cơ sở quan trọng để đem lại sự công bằng trong xã hội, đồng
thời, củng cố niềm tin của nhân dân vào đường lối lãnh đạo của Đảng cộng sản
và chế độ xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, những thành tựu trong các lĩnh vực nói
trên đã trở thành vũ khí quan trọng giúp Cuba đứng vững và vượt qua thời khắc
hiểm nghèo của "thời kỳ đặc biệt trong hòa bình".
Thứ nhất, việc duy trì tư tưởng yêu nước của Jose Marti trong lĩnh vực
văn hóa được coi là nhiệm vụ quan trọng để Cuba bảo vệ thành quả cách mạng
Một trong những giá trị về văn hóa mà cách mạng Cuba luôn lưu giữ và
phát triển chính là những quan điểm yêu nước của Jose Marti về văn hóa thông
qua các tác phẩm văn học, thơ ca, hài kịch, cùng những tác phẩm lý luận chính
trị của ông. Những quan điểm này được hình thành trên cơ sở của cuộc đấu tranh
81
chống lại ách thống trị của thực dân Tây Ban Nha qua tác phẩm "Nhật ký tuổi
thơ" với câu nói nổi tiếng "Tôi sẽ quyết trả thù cho những người phải sống lay
lắt, vật vờ trong kiếp nô lệ" [57, tr.59]. Toàn bộ các sáng tác nghệ thuật cùng
hoạt động thực tiễn của ông đều hướng về mục tiêu duy nhất là đấu tranh giành
độc lập cho tổ quốc và đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Ông cũng đã
khẳng định: "Không thể có con người mà không có tổ quốc...Không thể có tổ
quốc mà không có tự do" [154, tr.459].
Chủ nghĩa yêu nước của Jose Marti đã được nâng lên thành quan điểm
văn hóa và những giá trị của nó không chỉ có ý nghĩa thực tiễn trong thế kỷ XIX
mà còn có ý nghĩa đối với Cuba trong giai đoạn này. Bởi nhờ hệ tư tưởng này
mà Đảng cộng sản Cuba đã tiếp thu, trân trọng và phát triển nó thành một nền
văn hóa cách mạng có một không hai ở Mỹ Latinh với nền giáo dục, y tế miễn
phí; quyền bình đẳng giữa các màu da, sắc tộc, tôn giáo và quyền con người luôn
được tôn trọng một cách triệt để; tình đoàn kết của chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa quốc tế trong sáng luôn được đề cao; mối quan hệ giữa mọi giai cấp, tầng
lớp trong xã hội luôn gắn bó chặt chẽ; quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong nội
bộ đảng luôn được củng cố bền chặt và không thể chia căt; đặc biệt, hệ tư tưởng
Jose Marti đã luôn được Đảng cộng sản Cuba coi là một trong những nền tảng,
kim chỉ nam cho sư nghiệp đâu tranh bảo vệ tổ quốc ở quốc đảo tự do này. Đây
chính là thứ vũ khí vô cùng mạnh mẽ giúp Cuba đối phó thành công với các
chính sách bao vây, cấm vận của Mỹ và các thế lực thù địch.
Thứ hai, những thành tựu về giáo dục, y tế không chỉ giúp Cuba đứng
vững trước khó khăn về kinh tế mà còn nâng cao được vai trò, vị thế trên trường
quốc tế, qua đó, tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình của cộng đồng quốc tế trong việc
chống lại chính sách bao vây, cấm vận hà khắc của Mỹ
Về giáo dục:
Hiến pháp Cuba năm 1992 đã nêu rõ: "…Tất cả mọi người đều được phép
tiếp cận như nhau với giáo dục ở tất cả các trường học của đất nước (từ tiểu học
đến đại học) và giáo dục không mất tiền" [19, tr.4] nhờ chính sách ưu việt về
giáo dục, Cuba đã đạt được những thành quả: trong giai đoạn 1991-2000, Cuba
chỉ còn 0,5% dân số mù chữ (so với 13% ở toàn khu vực Mỹ Latinh); 100% số
82
trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường; đã phổ cập giáo dục lớp 9 cho toàn
dân; có 47 trường đại học (trong đó có 14 trường Đại học Sư phạm); giáo dục đại
học đã được triển khai đến toàn bộ các cấp, quận, huyện trong cả nước với 67%
thanh niên ở độ tuổi 18-24 đến giảng đường đại học. Cuba có 130 trung tâm
nghiên cứu khoa học với số lượng cán bộ lên tới hàng chục nghìn người và thực
hiện các biện pháp giảng dạy, học tập như học qua đài phát thanh, truyền hình
[85]...Ngay những thời điểm cam go nhất của nền kinh tế, Đảng và Nhà nước
Cuba vẫn luôn quan tâm đến sự phát triển giáo dục và trở thành điểm sáng ở Mỹ
Latinh cũng như trên thế giới. Tính đến năm 2001, Cuba có 100% dân số được
phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; hơn 700 nghìn người tốt nghiệp
đại học; 310 nghìn giáo viên và 70 nghìn bác sỹ…Cuba còn dẫn đầu thế giới về
số giáo viên tính theo đầu người và tiếp tục duy trì chính sách giáo dục miễn phí
cho toàn dân [150, tr.20].
Với mục tiêu tất cả các học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học có nguyện
vọng đều có thể học đại học, Cuba đã mở rộng mô hình đại học về các
quận/huyện, tạo điều kiện để 100% số trẻ em trong độ tuổi đi học đều được đến
trường, cung cấp miễn phí sách, vở cho toàn bộ học sinh và đảm bảo nội trú
miễn phí hoàn toàn cho gần 428 nghìn học sinh và bán trú cho trên 725 nghìn
học sinh. Ngoài ra, 525 nghìn trẻ em khuyết tật đã được đi học, 272 trẻ em
khuyết tật nặng đã được tổ chức học tập ngay tại giường bệnh. Cuba còn xây
dựng một nhà in chữ nổi dành riêng cho người mù và trang bị máy tính cho
người khuyết tật [61].
Bắt đầu từ năm 2002-2003, Cuba đã phát động một cuộc cách mạng giáo
dục với nội dung quan trọng là đưa giáo dục đại học đến 169 quận huyện trên cả
nước, đồng thời tiến tới phổ cập giáo dục đại học cho toàn dân. Bộ Giáo dục
Cuba cũng đã tổ chức lại các lớp học ở cấp phổ thông để mỗi một lớp học cấp 1
không quá 20 học sinh, cấp 2 và đại học là không quá 15 học sinh.
Với những thành công trên, Tổ chức Văn hóa, giáo dục và Khoa học kỹ
thuật của Liên Hợp quốc (UNESCO) đã công nhận Cuba là nước đầu tiên ở Mỹ
Latinh hoàn thành chỉ tiêu "Chương trình giáo dục cho mọi người" được Liên
Hợp quốc đề ra tại Diễn đàn thế giới tổ chức tại Dhaka (Bangladesh, 2000),
83
Cuba đứng thứ 23 thế giới về thành tích giáo dục [150, tr.20] và đạt giải thưởng
"Vua Xê Đông" năm 2002 [77, tr.7].
Về y tế:
Đảng và nhà nước Cuba luôn coi y tế là trọng điểm trong chính sách an
ninh-xã hội. Cuba thực hiện các nguyên tắc trong y tế như: phổ biến, miễn phí,
dễ dàng, được trang bị với những thiết bị, vật chất cần thiết, đội ngũ bác sĩ được
đánh giá cao, dựa trên cơ sở phòng bệnh là chính. Tất cả mọi người dân Cuba đều
có quyền được tiếp cận bình đẳng các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe chất lượng
cao, hoàn toàn miễn phí mọi nơi, mọi lúc. Ngân sách dành cho các lĩnh vực y tế
chiếm từ 17-18%. Với những chính sách và sự đầu tư đó, Cuba đã thu được những
thành quả rất đáng khâm phục và trình độ y tế của nước này đã đạt mức ngang hàng
với các nước phát triển trên thế giới. Cuba đã có mạng lưới cơ sở y tế phủ khắp mọi
vùng miền trên cả nước với 400 bệnh viện đa khoa, hơn 200 bệnh viện chuyên
khoa, 10 viện y học chuyên ngành (1997). Cả nước có 20 cơ sở đào tạo y khoa và
đào tạo được 90.000 bác sĩ. Trong giai đoạn 1990-1999, Cuba đã đào tạo được
37.842 bác sỹ. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em từ giảm từ 10% (1994) xuống còn 6% (2001).
Tuổi thọ trung bình của người dân là 78 tuổi, ngang hàng với tuổi thọ của các nước
tư bản phát triển nhất. Tỷ lệ người bị nhiễm HIV/AIDS là 0,03% so với 0,6% của
Mỹ (tỷ lệ thấp nhất Châu Mỹ). Tất cả các trẻ em đều được tiêm phòng chống lại 13
căn bệnh cơ bản. Cuba có trên 70.000 bác sĩ, trung bình trên 100.000 dân/500 bác sĩ
so với mức bình quân của Mỹ Latinh là 100.000 dân/160 bác sĩ. Tỷ lệ này của Cuba
đã vươn lên đứng đầu thế giới về tỷ lệ bác sỹ tính theo đầu người. Cuba không chỉ
chú trọng đạo tạo bồi dưỡng các bác sỹ, nhân viên y tế từ cấp trên tới cấp cơ sở mà
còn chú ý đầu tư nghiên cứu các trang thiết bị y tế, các sản phẩm dược và công nghệ
mới hiện đại trong lĩnh vực y tế hiện đại. Cuba cũng đã tự chế đạo được 90% dược
phẩm phục vụ cho nhu trong nước, trong đó có một số loại dược phẩm có chất
lượng rất cao và được thế giới ghi nhận [84].
Không chỉ đạt được những thành tựu trong nghiên cứu, khám chữa bệnh,
xây dựng và phát triển hạ tầng y tế, Cuba còn sử dụng y tế như một kênh ngoại
giao quan trọng nhằm mở rộng nhằm mở rộng ảnh hưởng chính trị và đem lại
nguồn thu cho nước này. Ngoại giao y tế đã góp phần tạo ra những lợi ích về sức
84
khỏe, giúp cải thiện quan hệ giữa Cuba với các quốc gia và trở thành nền tảng
trong chính sách đối ngoại của Cuba kể từ khi cách mạng Cuba thành công năm
1959. Vào năm 2000, Chủ tịch Fidel Castro và Tổng thống Chaves đã đề ra
Chương trình "Đổi bác sỹ lấy dầu", theo đó, Cuba cung cấp cho nước này 31.000
bác sỹ, nha sỹ và đào tạo 40.000 nhân viên y tế. Tiếp đó, đến năm 2004, thông
qua Chương trình "Phẫu thuật diệu kỳ", Cuba đã phẫu thuật mắt miễn phí cho
2,8 triệu người ở 35 quốc gia trên thế giới [78].
Với chính sách miễn phí về y tế và giáo dục, cùng với những thành tựu
nêu trên đã giúp Cuba thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế, nâng cao được
vai trò, vị thế ở khu vực và trên thế giới, qua đó tranh thủ được sự ủng hộ, đồng
tình của cộng đồng quốc tế trong việc yêu cầu Mỹ xóa bỏ chính sách bao vây,
cấm vận trong suốt hơn 4 thập kỷ.
Thứ ba, những thành tựu về an sinh xã hội đã tạo nền tảng cho sự ổn định
đất nước của Cuba
Giống như giáo dục và y tế, an sinh xã hội cũng là yếu tố được Đảng và
Nhà nước Cuba luôn coi trọng và đầu tư. Bởi sự thành công của chính sách này
sẽ giúp củng cố niềm tin của nhân dân vào chế độ. Chiến lược an sinh xã hội của
Cuba được phát triển đồng bộ với các biện pháp như: giải quyết việc làm, vấn đề
nhà ở, dịch vụ công cộng, phòng chống tệ nạn xã hội trong thanh thiếu niên. Nhờ
có chính sách trên mà người dân Cuba đã được hưởng rất nhiều lợi ích tốt đệp.
Trong giai đoạn này có tới 90% người dân (trong tổng số 11,2 triệu người) được
sử dụng điện; hơn 90% dân số được sử dụng nước sạch và 80% số hộ gia đình
trong toàn quốc có sở hữu nhà hợp pháp (1999). Tỷ lệ thất nghiệp liên tục giảm
từ 10% (1992) xuống còn 5% (2001) và 1,9 % (2002), đây là mức thấp nhất thế
giới [61]. Đất nước Cuba hầu như không có trẻ xin ăn trên đường phố và không
có người nghiện ma túy. Cuba cũng đứng đầu danh sách các nước đảm bảo an
ninh quốc gia và an ninh cho người dân tốt. Mặc dù, đời sống người dân còn
nhiều khó khăn nhưng tỷ lệ tội phạm ở Cuba thấp hơn nhiều so với mức trung
bình ở toàn Châu Mỹ. Theo đánh giá của Tổ chức Nông lương thế giới (FAO) về
công tác xóa đói giảm nghèo, Cuba là một trong số ít nước trên thế giới thực
hiện nghiêm túc công tác này ở tất cả các cấp, các vùng, miền.
85
Ngoài ra, Đảng và Nhà nước Cuba còn đề ra và triển khai nhiều chính
sách nhằm tiêu diệt tận gốc những tàn dư, định kiến của chủ nghĩa phân biệt
chủng tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, màu da giúp cho người dân có thể tham gia sâu
rộng vào đời sống xã hội đất nước. Tính đến năm 2003, Cuba có tới 42% lực
lượng lao động là phụ nữ. Trong đó, 66% (trong tổng số 42% ) là các chuyên gia
trong lĩnh vực kinh tế [150, tr.20]. Cuba đã ký kết 87/184 công ước do Tổ chức
Lao động quốc tế (ILO) ban hành đó là những nội dung liên quan đến tự do công
đoàn, quản lý lao động, an toàn vệ sinh lao động…những chính sách xã hội ưu
việt nêu trên đã làm cho nhân dân Cuba thêm tin tưởng vào sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc do Đảng cộng sản lãnh đạo và tạo cơ sở vững chắc cho sự
nghiệp cách mạng Cuba vượt qua mọi thử thách.
Như vậy, những thành quả mà cách mạng Cuba đạt được trong giai đoạn
"Thời kỳ đặc biệt trong hòa bình" (1991-2004) không chỉ mang lại cho người
dân ở đất nước này một cuộc sống tự do, hạnh phúc, khiến họ có ý thức tự giác,
quyết tâm bảo vệ những lợi ích mà cách mạng đã đem lại. Mà còn góp phần
quan trọng vào việc củng cố nền độc lập dân tộc, chế độ xã hội chủ nghĩa và tạo
cơ sở vững chắc để cách mạng Cuba vượt qua mọi thử thách, tiếp tục đứng vững
và đi lên trong mọi hoàn cảnh.
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, quá trình đấu tranh bảo vệ độc
lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn 1991-2004 của Cuba
còn gặp phải một số khó khăn, hạn chế như sau:
Thứ nhất, việc Mỹ duy trì chính sách bao vây cấm vận quá lâu đối với
Cuba đã làm cho quốc đảo này bị cô lập về chính trị -ngoại giao, kinh tế và lâm
vào khủng hoảng toàn diện, sâu sắc
Sau khi chiến tranh Lạnh kết thúc, chính quyền Mỹ, dưới thời Tổng thống
Bush (cha), Bill Clinton, Bush (con), đã tăng cường siết chặt các lệnh cấm vận
về chính trị, ngoại giao, kinh tế với Cuba, hậu quả là Cuba bị lâm vào thế cô lập
ngoại giao toàn diện. Bên cạnh đó, nhiều quốc gia ở Châu Phi, vốn từng được
Cuba giúp đỡ trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc như: Angola,
Mozambic, Etiopia...sau khi chuyển đổi chế độ, dưới sức ép của Mỹ đã thực hiện
chính sách chống Cuba. Còn ở Mỹ Latinh, Mỹ cũng đã gây sức ép để nhiều quốc
gia và tổ chức trong khu vực như: OAS, Ngân hàng phát triển Liên Mỹ, và các
86
nước: El Sanvador, Nicaragua, Panama...cô lập và cắt đứt quan hệ ngoại giao với
quốc đảo này. Bên cạnh đó, chính quyền Mỹ còn muốn gây ra tình trạng hỗn
loạn trong xã hội Cuba bằng việc: ngăn cản và gây sức ép lên các nước thứ 3 để
họ ngừng các hoạt động thương mại [187]; cấm tuyệt đối các tập đoàn, công ty
của Mỹ ở nước ngoài không được phép tiến hành các giao dịch tài chính, thương
mại với quốc đảo này [171]... Các lệnh cấm vận trên của Mỹ đã làm cho Cuba
thiệt hại rất lớn trên tất cả các lĩnh vực, nhất là về y tế và sức khỏe của người
dân: trong thời gian này, tuổi thọ của người dân Cuba tăng chậm, chỉ khoảng
0,54% mỗi năm, so với mức 15,5% (giai đoạn 1960 -1989), đây là giai đoạn
Cuba được Liên Xô hỗ trợ rất nhiều về trang thiết bị y tế và thuốc men. Trong
giai đoạn 1991-2004, tuổi thọ trung bình của người dân Cuba chỉ tăng khoảng
6%, tương đương với 0,26% mỗi năm [175]. Ngoài ra, nó cũng ảnh hưởng đến
việc tiếp cận thuốc của người dân Cuba do Mỹ cấm các công ty của nước này có
hoạt động thương mại, mua bán thuốc với Cuba. Trước khi Mỹ siết chặt lệnh
cấm vận, tổng giá trị trao đổi hàng hóa giữa Mỹ và Cuba đạt khoảng 719 triệu
USD/năm, trong đó, lương thực và thuốc chiếm tới 90% giá trị. Sau khi Mỹ siết
chặt lệnh cấm vận, con số này đã giảm xuống còn 0,3 triệu USD/năm (giai đoạn
1992-1995). Đặc biệt, vào năm 1994, do thiếu lương thực, thực phẩm, Cuba đã phải
đổi mặt với đại dịch lớn về các bệnh như: thần kinh, giảm thị lực, suy dinh dưỡng
và tiêu chảy. Các hội chứng này còn tăng lên trong những năm tiếp theo do nguồn
nước bị ô nhiễm vì thiếu hóa chất để xử lý chất thải và thiếu dược phẩm.
Ngoài ra, với điều khoản trừng phạt các nước thứ 3 có quan hệ thương
mại với Cuba, nên trong thời gian này, việc hợp tác giữa Cuba với Mỹ và các
nước khác đã giảm đáng kể. Trong đó, ngành công nghiệp của Cuba bị thiệt hại
nặng nề nhất do thiếu đầu vào là máy móc, phụ tùng, trang thiết bị phụ vụ cho
sản xuất. Điều này, dẫn tới sản lượng công nghiệp của Cuba bị sụt giảm mạnh,
từ mức 7,5 triệu tấn/năm trong giai đoạn 1987-1991 xuống còn 4 triệu tấn/năm
trong các năm 1993, 1994 và và 3,3 triệu tấn/năm vào năm 1995. Tiếp đó, là
ngành nông nghiệp cũng lâm vào tình trạng thiếu phân bón, thuốc trừ sâu, máy
móc cơ giới phục vụ cho sản xuất lương thực, thực phẩm. Ngành lâm nghiệp,
xây dựng, vận tải cũng phải chịu cảnh tương tự: lâm nghiệp và thủy sản, đã giảm
xuống còn 55%; xây dựng: 72%; vận tải hành khách:79,3%; vận chuyển hàng hoá:
87
60%; khí đốt và nước: 23% trong giai đoạn 1990-1994. Hệ lụy của nó là làm cho xã
hội Cuba trở lên bất ổn, tình trạng thiếu việc làm trở lên phổ biến, đời sống nhân
dân gặp nhiều khó khăn do thiếu điện, nước sinh hoạt, thuốc men [185]...
Như vậy, những chính sách cấm vận của chính quyền Mỹ từ năm 1991-
2004 đã làm cho nền kinh tế Cuba rơi vào tình trạng khủng hoảng, kiệt quệ, đời
sống nhân dân gặp nhiều khó khăn...Điều này, đã tác động trực tiếp đến phát
triển kinh tế, đe dọa đến sự ổn định chính trị, chủ quyền quốc gia và sự tồn vong
của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Cuba.
Thứ hai, Cuba gặp khó khăn từ sự chống phá của Mỹ và các thế lực thù địch
Lợi dụng sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu,
chính quyền Mỹ đã đẩy mạnh các hoạt động chống phá Cuba về tư tưởng nhằm
thúc đẩy sự chia rẽ giữa Đảng cộng sản với nhân dân, xóa bó nguyên tắc tập
trung dân chủ trong Đảng để biến Đảng thành câu lạc bộ từ đó làm tan rã Đảng
cộng sản Cuba; kích động các lực lượng đối lập bên trong kết hợp với các phần
tử người Cuba sống lưu vong ở Mỹ gây bạo loạn để lật đổ chế độ Xã hội Chủ
nghĩa ở Cuba khi có thời cơ.
Chính quyền Mỹ đã cho xây dựng Đài phát thanh Marti ở Florida, phát
thanh 2200 giờ/tuần với 24 tần số khác nhau để chống phá cách mạng Cuba; sử
dụng máy bay vận tải C130 phát sóng truyền hình nhiều tần số để phát trực tiếp
vào Cuba; cung cấp tài chính, đào tạo các lực lượng phản động tại Cuba: tài trợ
670 nghìn USD cho một số tổ chức phản động người Cuba ở Mỹ để lập hệ thống
báo chí đối lập ngay trên đất nước Cuba; chi 1,6 triệu USD cho việc thành lập
các tổ chức Phi chính phủ và 2,1 triệu USD cho các kế hoạch chuyển giao quyền
lực ở Cuba [72] …Những hoạt động chống phá trên của Mỹ và các thế lực phản
động đã gây nhiều khó khăn cho cách mạng Cuba.
Thứ ba, do Cuba phụ thuộc rất lớn vào nguồn viện trợ của Liên Xô, nên
sau khi Liên Xô sụp đổ, quốc đảo này đã không đủ sức chống chọi với những tác
động từ bên ngoài
Trong thời kỳ kinh tế Kế hoạch (trước 1991), nền kinh tế Cuba phụ thuộc
rất lớn vào Liên Xô: với nguồn viện trợ từ 4-5 tỷ USD/năm [93, tr.16], ¾ nguồn
năng lượng (dầu khí), thiết bị máy móc, phân bón và tốc độ tăng trưởng kinh tế của
88
Cuba đều phụ thuộc vào viện trợ của Liên Xô [84, tr.1]. Ngoài ra, hầu hết các nhà
kinh tế của Cuba đều được đào tạo ở Liên Xô nên lực lượng này chịu ảnh hưởng
sâu sắc bởi tư duy kinh tế Kế hoạch hóa của mô hình Xô Viết. Các nhà lãnh đạo
Cuba (kể cả Fidel) luôn tin tưởng tuyệt đối và không nhận ra được những khiếm
khuyết, hạn chế mà mô hình này đem lại. Chỉ sau khi Govbachev thực hiện chuyến
thăm Cuba (4/1989), yêu cầu quốc đảo này cải cách theo mô hình tự do, lúc đó các
nhà lãnh đạo Cuba mới nhận thấy sự yếu kém của nền kinh tế đất nước.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, nguồn viện trợ bị cắt giảm hoàn toàn, nền kinh tế
Cuba ngay lập tức lâm vào khủng hoảng toàn diện: Trong giai đoạn 1991-1993,
tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức -0% trong 3 năm liên tiếp; tổng sản phẩm quốc
nội GDP giảm 35%; thâm hụt ngân sách 33%; mức lương thực tế của người lao
động giảm 25%; Cuba phải nhập khẩu 70% lương thực từ bên ngoài [92, tr.12].
Do đó, Cuba đã không đủ sức chống lại những tác động từ bên ngoài, nhất là
chính sách cấm vận của Mỹ.
Như vậy, sự phụ thuộc vào Liên Xô cũng là một trong những nguyên nhân
làm cho Cuba mất độc lập tự chủ và đe dọa đến sự tồn vong của chế độ xã hội
chủ nghĩa.
Tóm lại, những hạn chế, yếu kém của cách mạng Cuba trong giai đoạn
này đã cản trở quá trình xây dựng và phát triển đất nước, điều này cũng đã tác
động trực tiếp đến bảo vệ nền độc lập dân tộc và chế độ chủ nghĩa xã hội của
quốc đảo này trong bối cảnh mới.
3.2.2. Giai đoạn Cuba tiếp tục thực hiện cải cách kinh tế và chủ
trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội" (2004-2016)
Sau hơn một thập kỷ thực hiện "Thời kỳ đặc biệt trong hòa bình" (1991-
2004), bên cạnh những thành tựu đạt được, cách mạng Cuba vẫn còn phải đối
mặt với nhiều thách thức mới nảy sinh và có nguy cơ đe dọa đến nền độc lập dân
tộc, chủ quyền quốc gia và chế độ xã hội chủ nghĩa. Để giải quyết những khó
khăn trong nước và đưa đất nước phát triển. Đảng và Nhà nước Cuba đã xác
định phải kế thừa và phát triển những thành quả của thời kỳ trước. Đồng thời,
khắc phục những hạn chế, yếu kém để đưa đất nước từng bước thoát khỏi khủng
hoảng và vững bước tiến lên trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
89
Trở thành nhà lãnh đạo mới của Cuba (7/2006), Chủ tịch Raul đã đề ra
một số biện phát nhằm khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong kinh tế của
thời kỳ trước bằng việc đề ra chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội"
tại Đại hội VI (4/2011) và "Đường lối phát triển kinh tế-xã hội của Đảng và cách
mạng" tại Hội nghị Trung ương II, khóa 6, tháng 9/2011. Bên cạnh đó, Cuba còn
xác định khái niệm về "Mô hình phát triển kinh tế và xã hội, xã hội chủ nghĩa"
được đề ra tại Đại hội lần thứ VII (4/2016) với mục tiêu phát triển nền kinh tế
đất nước theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những mục tiêu này của Đảng và Nhà nước Cuba được thể hiện thông
qua một số biện pháp trên các lĩnh vực như sau:
3.2.2.1. Trên lĩnh vực chính trị, ngoại giao
Thứ nhất, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân nhằm
tạo sự đoàn kết, thống nhất trong toàn xã hội
Để đảm bảo sự nghiệp cách mạng Cuba luôn là của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân, Đảng cộng sản Cuba thường xuyên chăm lo, duy trì, củng cố và
phát triển mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Cuba luôn đề cao vai
trò lãnh đạo của Đảng cộng sản và mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với quần
chúng bằng việc: tăng cường giáo dục chính trị, văn hóa, nghiệp vụ cho quần
chúng nhân dân; xúc tiến đối thoại với quần chúng; quan tâm đến nguyện vọng
của quần chúng; tuyên truyền đường lối, nghị quyết của Đảng; duy trì và nâng
cao tính chiến đấu của đảng viên và quần chúng, rèn luyện và nâng cao khả năng
sãn sàng chiến đấu của đảng viên và người lao động trong việc bảo vệ tổ quốc.
Điều này, làm cho quần chúng nhân dân hiểu hơn về Đảng và vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trước chính sách bao
vây và chống phá của Mỹ.
Việc xây dựng và củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng mà chính phủ Cuba
đề ra đã tăng cường được tình đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Đặc biệt là trong
đội ngũ lãnh đạo cấp cao đã có sự thống nhất về mục tiêu, lý tưởng và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước trong tình hình mới nhằm chống lại các âm
mưu chia rẽ trong nội bộ Đảng, làm phân hóa đội ngũ cán bộ Đảng viên, tiến tới
là sụp đổ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản với cách mạng ngay từ bên trong.
90
Thông qua Đảng bộ và các tổ chức cơ sở Đảng để giữ mối liên hệ chặt chẽ
với nhân dân, vừa lắng nghe những thắc mắc, ý kiến đóng góp của quần chúng,
vừa giải thích, giáo dục và động viên họ thực hiện chủ trương, chính sách của
nhà nước. Đặc biệt, Đảng còn chú trọng xây dựng các tổ chức quần chúng: như
Đoàn thành niên cộng sản, Đội thiếu niên Jose Marti, Ủy ban Bảo vệ cách
mạng...thông qua các tổ chức quần chúng này, Đảng tiếp tục duy trì mối quan hệ
với nhân dân tạo ra sự đồng thuận trong xã hội về việc triển khai, thực hiện
đường lối chính sách của nhà nước [76].
Dưới sự lãnh đạo của Bí thư thứ nhất Raul, Cuba vẫn thường xuyên tổ
chức các diễn đàn mở, hội nghị bàn tròn trên truyền hình được tiến hành hàng
ngày với những chủ đề khác nhau nhằm nâng cao sự hiểu biết của quần chúng,
động viên và cổ vũ các thế hệ tích cực hưởng ứng các phong trào đấu tranh vì
độc lập và chủ quyền dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Các hoạt động cụ thể trên là biểu hiện của sự đồng tâm, nhất chí của Đảng
và nhân dân Cuba trên con đường xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đồng thời, để cho kẻ
thù thấy rằng chúng không thể khuất phục được ý chí của một dân tộc biết đoàn kết,
có tổ chức và buộc chúng phải từ bỏ ý đồ khôi phục chủ nghĩa tư bản và áp đặt trở
lại ách thống trị của chủ nghĩa thực dân mới ở quốc đảo này một lần nữa.
Nhờ làm tốt công tác chính trị tư tưởng, Đảng và nhân dân Cuba đã nhận
thức đầy đủ hơn về tính ưu việt của chế độ xã hộ chủ nghĩa, nhờ đó, ý thức của
nhân dân về bảo vệ độc lập dân tộc, quyền tự do, bình đẳng và bác ái đã được
nâng cao, trên cơ sở đó hình thành nên khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thống nhất
tập trung quanh Đảng để chống lại mọi mưu đồ chia rẽ của Mỹ và các thế lực
phản động.
Trong quá tình xây dựng chủ nghĩa xã hội và phát triển đất nước, Đảng
cộng sản Cuba đã luôn quán triệt nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân, tăng cường thực hành dân chủ và phát huy tính sáng tạo của nhân dân, biết
tham khảo và vận dụng có chọn lọc về xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân
loại vào điều kiện cụ thể là xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Cuba, phù hợp với dân tộc, thời đại và hoàn cảnh thực tiễn của
đất nước.
91
Thứ hai, kiện toàn lại hệ thống chính trị để đáp ứng nhu cầu phát triển của
đất nước trong điều kiện mới
Để đáp ứng được với sự đòi hỏi của công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước trong thời kỳ mới, Cuba đã tiến hành sửa đổi Hiến pháp vào năm 2011.
Quốc hội Cuba đã thông qua sửa đổi và ban hành nhiều văn bản pháp luật quan
trọng liên quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước,
các tổ chức chính trị xã hội và các hoạt động kinh tế, đầu tư như: Ban hành luật
đầu tư mới (6/2014), loại bỏ các quy định kinh tế lỗi thời, cụ thể hóa và thể chế
hóa quyền công dân và quyền con người...Những văn bản pháp luật đó đã tạo
khuôn khổ pháp lý quan trọng để Cuba tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật
trên tất cả các lĩnh vực.
Quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao cũng đã có những bước cải cách quan
trọng thông qua việc học tập mô hình xây dựng Quốc hội của Việt Nam. Bên cạnh
đó, Quốc hội cũng từng bước hoàn thiện cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động
như việc: tăng cường các đại biểu chuyên trách; làm tốt công tác giám sát, chức
năng lập pháp và quyền quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước. Sự thay đổi
trên đã giúp cho Quốc hội Cuba từng bước dân chủ hóa trong các cuộc thảo luận,
tranh luận, các diễn đàn, buổi chất vấn trên truyền hình và đài phát thanh; các đại
biểu cũng tăng cường tiếp xúc cử tri ở dưới cơ sở và lắng nghe người dân trình bày
ý kiến của mình về những vấn đề quan trọng của đất nước để truyền đạt những ý
kiến này trên các diễn đàn Quốc hội, Đảng và chính phủ [98, tr.12]. Nhờ vậy hiệu
quả và hiệu lực của Quốc hội được nâng cao và thu hút được sự quan tâm của các
tầng lớp nhân dân đối với các kỳ họp của Quốc hội.
Cuba cũng đã từng bước kiện toàn lại bộ máy các cơ quan nhà nước từ
Trung ương đến địa phương: sắp xếp lại các cơ quan bộ và ngang bộ để hình
thành các bộ quản lý nhà nước theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực; tách dần chức
năng nhà nước với sản xuất, kinh doanh và doanh nghiệp; phân biệt chức năng
của cơ quan hành chính và công quyền với các đơn vị hành chính sự nghiệp.
Với việc cải tổ bộ máy cơ quan nhà nước trên sẽ làm cho hệ thống chính trị
của Cuba từ Trung ương đến địa phương được tinh gọn, hoạt động có hiệu quả, qua
đó có thể thực hiện được những mục tiêu mà Đảng và nhà nước đã đề ra. Ngoài ra,
92
nó còn giúp Cuba cải cách được các thủ tục hành chính để thu hút đầu tư, được các
nguồn vốn nước ngoài vào Cuba đầu nhằm thúc đẩy và phát triển kinh tế, tạo công
ăn việc làm, cải thiện đời sống của nhân dân, góp phần nâng cao vai trò, vị thế của
Cuba trên trường quốc tế nhằm tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong
việc yêu cầu Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận kinh tế hoàn toàn đối với Cuba.
Thứ ba, với phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ quốc
tế, Đảng và Nhà nước Cuba đã thực hiện mở rộng quan hệ ngoại giao với nhiều
nước trong khu vực và trên thế giới
Cuba luôn theo đuổi đường lối ngoại hòa bình, hữu nghị và đoàn kết với
các dân tộc, đi tiên phong trong việc bảo vệ lợi ích của các nước đang phát triển,
góp phần xây dựng một trật tự quốc tế công bằng, bình đẳng, nhờ vậy mà ngoại
giao Cuba đã thu được nhiều thành tựu ngoại giao quan trọng, bất chấp chính
sách bao vây cấm vận của Mỹ.
Hiện nay, Cuba đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 175/220 quốc gia và
vùng lãnh thổ, có cơ quan đại diện ngoại giao ở 135 nước trên thế giới. Đảng
cộng sản Cuba phát triển quan hệ với gần 300 Đảng phái, tổ chức và phong trào
chính trị trên thế giới. Viện Cuba hữu nghị với các dân tộc (ICAP) có quan hệ
với gần 3000 tổ chức hòa bình, đoàn thể hữu nghị quốc tế. Các tổ chức quần
chúng Cuba (Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Công đoàn) có quan hệ với hàng
trăm đoàn thể quần chúng trên thế giới [25, tr.5].
Cuba cũng đã cải thiện, bình thường hóa quan hệ với nhiều quốc gia và
tham gia trở lại nhiều tổ chức khu vực sau một thời gian bị Mỹ ngăn cản: trở
thành thành viên chính thức của nhóm RIO (2008), sau 22 năm bị Mỹ cản trở;
Cuba được phép tái gia nhập OAS sau 53 năm bị ngăn cấm, đặc biệt Cuba đã
bình thường hóa quan hệ hoàn toàn với EU (2016), với các nước El Salvador
(2012), Panama (2015)...sau một giai đoạn đối đầu và căng thẳng trong quan hệ
với các nước và tổ chức này [25, tr.6].
Thành tựu quan trọng của ngoại giao Cuba trong giai đoạn này chính là
việc đã tham gia sáng lập nhóm ALBA (12/2004) và CELAC (2012), những tổ
chức này đã giúp cho Cuba phát triển, duy trì sự ổn định chính trị và nâng cao
địa vị quốc tế ở khu vực, bất chấp các chính sách bao vây cấm vận của Mỹ.
93
Cuba cũng đã củng cố quan hệ chiến lược với các nước lớn và các nước
đang phát triển: Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Nam Phi...;các nước xã hội chủ
nghĩa: Việt Nam, Bắc Triều Tiên và các nước phát triển: Nhật Bản, Pháp, Tây
Ban Nha...Những thành tựu trên của Cuba đã chứng tỏ đường lối đối ngoại đa
dạng hóa, đa phương hóa của Cuba trong thời gian qua là đúng đắn.
Sau khi Cuba đẩy mạnh cải cách kinh tế và bình thường hóa quan hệ với
Mỹ, đã có rất nhiều nhà lãnh đạo các nước trên thế giới, trong đó có các nước
lớn tới thăm Cuba: Tổng thống Nga Putin (7/2014); Chủ tịch Trung Quốc Tập
Cận Bình (7/2014) và Thủ tướng Lý Khắc Cường (9/2016); Tổng thống Pháp
Hollande (5/2015); Thủ tướng Italia Matteo Renzi (7/2015); Giáo hoàng Francis
I (9/2015); Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe (9/2016)....
Thành tựu đối ngoại quan trọng nhất của Cuba trong giai đoạn này là
thiết lập quan hệ đồng minh chiến lược với Venezuela. Quan hệ hai nước được
hình thành dựa trên cơ sở sự tương đồng về nhận thức trong đấu tranh giải phóng
dân tộc, chống bá quyền Mỹ và có chung mục tiêu xây dựng một xã hội dân chủ,
bình đẳng ở Mỹ Latinh. Sau khi trở thành Tổng thống của Venezuela (12/1998),
Hugo Chaves đã đưa đất nước đi theo đường lối Cánh tả và đề ra đường lối đối
ngoại mới với mục tiêu thúc đẩy khối đoàn kết Mỹ Latinh, mở rộng quan hệ hữu
nghị với tất cả các nước trong khu vực, đặc biệt là Cuba. Lấy hợp tác thay thế
cho cạnh tranh, lấy hội nhập thay cho bóc lột và đấu tranh cho một thế giới đa
cực, dân chủ. Đường lối đối ngoại mới này của Venezuela đã tạo cơ sở quan
trọng để Chủ tịch Cuba, Fidel Castro có chuyến thăm lịch sử tới nước này (vào
tháng 10/2000). Chuyến thăm này đã đưa quan hệ hai nước lên thành "đối tác
hợp tác toàn diện" [46]. Trong chuyến thăm này hai nước đã ký Hiệp định hợp
tác năng lượng và tài chính, theo đó, mỗi ngày Venezuela cung cấp cho Cuba
53.000 thùng dầu thô với giá bằng 1/3 giá thị trường thế giới, một nửa trong số
đó sẽ được trả chậm trong vòng 25 năm. Ngoài ra, các hoạt động cung cấp dầu,
giá cả, bảo hiểm và cước phí vận chuyển dầu từ Venezuela sang Cuba sẽ do Tập
đoàn Dầu khí quốc gia Venezuela (PDVSA) đảm nhiệm. Ngoài ra, Venezuela
còn cam kết viện trợ cho Cuba 3-5 tỷ USD/năm [46]. Tiếp đó, trong chuyến
thăm của Tổng thống Chavez tới Cuba (10/2004), lãnh đạo hai nước đã nâng
94
quan hệ hai nước lên "đồng minh chiến lược", đồng thời, thống nhất xây dựng
một thỏa thuận trao đổi dầu lấy thiết bị y tế-giáo dục. Cuba sẽ cung cấp cho
Venezuela các dịch vụ chuyên môn về y tế (đặc biệt là các thiết bị y tế và dược
phẩm), chịu trách nhiệm xóa mù chữ cho các khu vực nông thôn hẻo lánh. Trong
khi, Venezuela cam kết duy trì cung cấp dầu mỏ và các sản phẩm từ dầu cho
Cuba. Các sản phẩm dịch vụ về y tế, giáo dục của Cuba sẽ được Venezuela
thanh toán bằng đồng Bolivar và các đồng tiền khác, có thời hạn đến năm 2020.
Thông qua sự giúp đỡ, hỗ trợ đắc lực của Venezuela về năng lượng, tài
chính đã giúp cho Cuba từng bước thoát khỏi những khó khăn về kinh tế-xã hội
trong "thời kỳ đặc biệt trong hòa bình" và đất nước Cuba có thể trụ vững trước
những chính sách bao vây cấm vận hà khắc của Mỹ. Đây chính là cơ sở góp
phần giúp Cuba bảo vệ thành công nền độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.
Thứ tư, Cuba cũng đã từng bước cải thiện quan hệ ngoại giao với Mỹ
nhằm phá thế bao vây, cô lập, thù địch kéo dài trong gần 6 thập kỷ
Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Raul, Cuba đã có rất nhiều nỗ lực để cải
thiện quan hệ với Mỹ và yêu cầu Mỹ chấm dứt hoàn toàn chính sách bao vây
cấm vận phi lý với đất nước này. Những nỗ lực của Cuba đã có hiệu quả khi vào
tháng 6/2013, Tổng thống Mỹ Obama đã đồng ý khởi động vòng đám phán bí
mật kéo dài 18 tháng nhằm cải thiện quan hệ song phương. Sau nhiều vòng đàm
phán ở các kênh, cấp độ liên lạc khác nhau, với sự trung gian hòa giải của
Canada và Vantican và đặc biệt là cuộc nói chuyện kéo dài 45 phút của lãnh đạo
hai nước, Cuba và Mỹ đã chính thức Tuyên bố bình thường hóa quan hệ vào
ngày 17/12/2014. Sự kiện Cuba và Mỹ bình thường hóa quan hệ đánh dấu sự
chấm dứt gần 6 thập kỷ đối đầu giữa hai bên và mở ra một chương mới trong
quan hệ đối đầu giữa hai nước. Nó chứng minh chính sách cấm vận của Mỹ với
Cuba đã lỗi thời. Sau bình thường hóa, Cuba và Mỹ đã tiến hành 3 vòng đàm
phán quan hệ với nội dung chính là các vấn đề: Căn cứ Guantanamo, chính sách
Di trú, bản danh sách Cuba nằm trong nhóm các nước tài trợ cho chủ nghĩa
khủng bố và lệnh cấm vận kinh tế với nước này.
Mặc dù, giữa hai nước còn tồn tại nhiều bất đồng trong các vấn đề do sự
khác biệt về nhận thức và quan điểm nhưng nó đã tạo cơ sở và tiền đề để Tổng
95
thống Obama và Chủ tịch Raul có cuộc gặp tại Panama vào tháng 4/2015 dẫn tới
việc Mỹ đưa Cuba trở lại tổ chức này sau 53 năm ngăn cản và loại Cuba ra khỏi
danh sách các nước tài trợ cho chủ nghĩa khủng bố (29/5/2015). Lãnh đạo hai nước
cũng đã đồng ý mở lại đại sứ quán tại mỗi nước và tăng cường các cuộc tiếp xúc bộ,
ngành và ngoại giao nhân dân để làm sâu sắc hơn mối quan hệ hai bên.
Đặc biệt, vào ngày 16/3/2016, Tổng thống Obama đã thông qua gói giải
pháp cuối cùng trong việc thúc đẩy quan hệ chính trị với Cuba. Nỗ lực này đã tạo
thuận lợi cho chuyến thăm của ông tới Cuba (20-21/3/2016). Chuyến công du Cuba
đầu tiên của một vị Tổng thống Mỹ sau 88 năm [43]. Mặc dù, hai nước còn tồn tại
sự khác biệt lớn về tư tưởng và ý thức hệ, nhưng chuyến thăm này đã góp phần rất
lớn trong việc cải thiện quan hệ chính trị, kinh tế song phương và trong 2 năm
(2015-2016), hai nước đã ký được 22 thỏa thuận trên các lĩnh vực: hợp tác chống
tràn dầu; chống tội phạm tin học; chống khủng bố và buôn bán ma túy; hợp tác an
ninh, hàng hải; chia sẻ kinh nghiệm trong việc điều trị bệnh ung thư [107, tr.17].
Việc Cuba nỗ lực cải thiện quan hệ với Mỹ xuất phát từ lý do Cuba trong
một thời gian dài bị cô lập hoàn toàn với thế giới trên tất cả các lĩnh vực. Điều
này làm cho nền kinh tế của Cuba lâm vào khủng hoảng trầm trọng, đời sống
nhân dân khó khăn, bần cùng. Ngoài ra, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu làm nhiều đồng minh của Cuba tại Mỹ Latinh rơi vào tình trạng
suy thoái. Cuba không còn chỗ dựa vững chắc trong việc chống lại chính sách
của Mỹ. Hơn lúc nào hết, Cuba cần phải thay đổi để đáp ứng được yêu cầu thực
tiễn của đất nước trong bối cảnh mới. Do đó, lãnh đạo Cuba đã quyết định từng
bước cải thiện quan hệ với Mỹ để khắc phục tình trạng trên của đất nước. Còn
đối với Mỹ, việc duy trì lệnh cấm vận quá lâu với Cuba đã làm cho Mỹ bị suy
giảm hình ảnh, uy tín trên thế giới cũng như khu vực Mỹ Latinh. Mặt khác, việc
cấm vận kinh tế với Cuba cũng khiến cho các doanh nghiệp không thể tiếp cận
vào thị trường tiềm năng của Cuba và để thị trường này rơi vào tay các đối thủ
lớn của Mỹ, còn cộng đồng người Mỹ gốc Cuba thì oán thán chính quyền Mỹ đã
làm li gián họ với người thân quê nha. Trước những sức ép trong nước và quốc
tế trên, chính quyền Obama đã phải đi đến quyết định bình thường hóa quan hệ
với Cuba.
96
3.2.2.2. Trên lĩnh vực kinh tế
Thứ nhất, dấu ấn lớn nhất trong thực hiện cải cách kinh tế chính là đã đề
ra chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội". Biện pháp này đã giúp
Cuba từng bước thoát khỏi những khó khăn kinh tế trong nước; xây dựng được
một nền kinh tế đa dạng; mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế và là điểm đến đến của
nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Những thành tựu này đã góp phần tạo ra "nội lực"
giúp Cuba bảo vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc
Thông qua việc đề ra chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội"
tại Đại hội VI (4/2011) và tiếp tục đẩy mạnh tại Đại hội VII (4/2016), sau 5 năm
thực hiện, Cuba đã thu được nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế cụ thể là:
* Khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân phát triển
Chính phủ Cuba lần đầu tiên cho phép chính quyền các thành phố trên cả
nước đưa ra kế hoạch phát triển kinh tế bao gồm các hình thức hợp tác xã và
doanh nghiệp vừa, nhỏ. Đồng thời, còn cho thí điểm dự án tài xế taxi ở thủ đô La
Habana được phép thuê xe thay vì phải nhận lương của Nhà nước (vào tháng
1/2010). Đến tháng 4/2010, Cuba đã cho phép áp dụng hệ thống cho thuê đối với
các cửa hàng cắt tóc và tiệm làm đẹp. Đây là lần đầu tiên các cơ sở bán lẻ của
Nhà nước được giao cho người lao động kể từ khi Cuba tiến hành quốc hữu hóa
toàn diện nền kinh tế đất nước vào năm 1968.
Chính phủ Cuba còn thông báo kế hoạch mở rộng thành phần kinh tế tư
nhân với việc thông qua danh sách 178 ngành kinh doanh và dịch vụ mà tư nhân
có thể đăng ký tham gia, cho phép 18 nhóm ngành nghề mới được phép sử dụng
lao động độc lập theo chính sách cải cách kinh tế của nước này.
Trong giai đoạn 2008-2014, Cuba đã thực hiện chính sách cải cách theo
hướng khuyến khích hơn 500.000 doanh nghiệp tư nhân phát triển. Theo thống
kê chính thức của Bộ Lao Động Cuba, trong giai đoạn 2012 đến giữa 2013, Cuba
đã cấp phép cho hơn 50.000 hộ kinh doanh cá thể và nâng tổng số người tham
gia kinh tế tư doanh trên 40 vạn. Trong đó, trên 70% đối tượng được cấp phép
kinh doanh cá thể là những người trước đây không có việc làm, người về hưu
hoặc trong diện tinh giảm biên chế [190]. Tạo việc làm mới cho 1,8 triệu người
trong năm này. Những hoạt động cải cách trên được hy vọng sẽ đóng góp từ 40-
45% GDP trong thời gian tới [190].
97
Những cải cách mạnh mẽ trên được Đảng và Chính phủ Cuba khẳng định
là nỗ lực "cải tiến" chứ không phải là "từ bỏ" mô hinh kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Cuba đã đặt mục tiêu đưa 40% lực lượng lao động tới làm việc trong khu vực
không phải của Nhà nước, vượt 10% chỉ tiêu đề ra trước đó. Những hạn chế
trong khu vực kinh tế tư nhân đã được nới lỏng. Một số lượng lớn công nhân
viên Nhà nước đã bị sa thải và hàng chục nghìn người đã xin được giấy phép để
tự kinh doanh. Lần đầu tiên trong nhiều năm người dân Cuba đã được phép mua
bán nhà, xe hơi, đi du lịch ở nước ngoài và có thể vay vốn kinh doanh từ ngân
hàng. Ngoài ra, họ còn có thể truy cập internet với giá 4,5 USD/giờ, bằng ¼
lương trung bình của viên chức Nhà nước [190]. Trong hơn hai thập kỷ qua,
chính quyền Cuba luôn hạn chế việc truy cập internet của các viên chức Nhà
nước, việc Cuba nới nỏng chính sách này đã cho thấy chính sách mở cửa trong
lĩnh vực viễn thông của Cuba đã có sự thay đổi.
Trong giai đoạn 2015-2017 có khoảng 250.000 người tham gia vào kinh tế
tư nhân và mô hình kinh doanh của họ sẽ chỉ ở quy mô nhỏ [190] Cuba khó có
thể kỳ vọng ngay vào những loại hình kinh tế quy mô lớn khi hạ tầng cơ sở đang
bị xuống cấp và lực lượng lao động đã quen với mô hình kinh tế Kế hoạch hóa từ
nhiều năm qua. Từ năm 2011-2016, Cuba đã cấp phép cho 201 ngành nghề mới,
chủ yếu là lao động giản đơn như: thợ nề, sửa nhà cũ, bán hàng dong, mở nhà
hàng...số lao động tự do ở Cuba đã tăng từ 150.000 người (2010) lên hơn
500.000 người (2016). Lực lượng lao động ở khu vực kinh tế tư nhân đã đạt 5
triệu người chiếm hơn 30% lao động trên cả nước [108, tr.17].
* Cải tổ doanh nghiệp Nhà nước
Trong giai đoạn 2010-2013, Cuba đã cắt giảm hơn 1 triệu lao động làm
việc tại các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước, tương đương với 30% biên chế
công chức và giảm gánh nặng bao cấp lên tới 2 tỷ USD mỗi năm [118].
Chính phủ Cuba cũng cấp mới 250.000 giấy phép cho các hộ kinh doanh
gia đình trong vòng 6 tháng cuối năm 2011 để thúc đẩy sự phát triển của các
thành phần kinh tế phi Nhà nước [73]. Ngoài ra, còn cho phép người dân tham
gia một số dịch vụ nhỏ như: giao thực phẩm, cho thuê phòng trọ, mở quán ăn gia
đình với điều kiện không được thuê người làm công. Đồng thời, tiến hành mạnh
98
tay loại bỏ các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thiếu hiệu quả bằng việc thành
lập Hợp tác xã, tư nhân hóa hay liên doanh với nước ngoài.
* Thúc đẩy chính sách cải cách đất đai và nông phẩm
Để tăng cường hiệu quả của sản xuất nông nghiệp trong nước, giảm sự
phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu lương thực từ bên ngoài (mỗi năm khoảng 2 tỷ
USD), Cuba đã trao 1,5 triệu ha đất cho người nông dân, trong đó, 79% đã được
đưa vào trồng các loại cây ăn quả và lúa nước. Đồng thời, có 163.000 hộ nông
dân đã được sở hữu ruộng đất. Trong giai đoạn 2011-2016, Cuba tiếp tục giao
900.000 ha đất hoang cho nông dân canh tác và chăn thả các loại gia súc, tùy
theo khả năng kinh doanh và sở thích của họ [169, tr.53-72].
Chính phủ Cuba còn chủ trương phát triển các dự án nghiên cứu, đầu tư
để đảm bảo thực hiện thành công các chương trình sản xuất nông nghiệp, trong
đó canh tác lúa, đậu tương và các loại lương thực sẽ được coi là hướng ưu tiên
và là trọng tâm. Trong giai đoạn 2011-2016, Cuba đã đầu tư 450 triệu USD để
thúc đẩy sản xuất lúa gạo và đáp ứng được 80% nhu cầu tiêu thụ trong nước.
Chính phủ còn giải ngân 108 triệu USD để mua sắm trang thiết bị, máy móc
phục vụ cho sản xuất nông nghiệp tại 152 quận, huyện trên cả nước [169, tr.56].
Tính đến năm 2014, Cuba đã thông qua hơn 300 chủ trương để phát triển mô
hình kinh tế với mục tiêu ổn định nền kinh tế vĩ mô, phát triển đất nước và đảm
bảo an ninh lương thực cho người dân.
* Ban hành Luật đầu tư nước ngoài mới
Thành tựu đặc biệt quan trọng của Cuba là Quốc hội Cuba đã thông qua
"Luật đầu tư mới" vào ngày 28/3/2014 và có hiệu lực vào ngày 28/6/2014. Bộ
luật này được thông qua để thay thế cho Luật đầu tư được ban hành vào tháng
5/1995. Đây được coi là một trong những chính sách chủ chốt của Kế hoạch Cải
cách kinh tế của Cuba nhằm mục tiêu hiện đại hóa nền kinh tế [144]. Bộ luật này
được thông qua với nhiều nội dung quan trọng như: Sắc lệnh số 118/2014 quy
định các loại hình doanh nghiệp có thể sử dụng và thu hút nguồn vốn đầu tư
nước ngoài bao gồm: liên doanh; các thỏa thuận đối tác kinh tế quốc tế: hợp
đồng quản lý khách sạn, dịch vụ, hợp đồng về thăm dò và khai thác tài nguyên
thiên nhiên, xây dựng và sản xuất nông nghiệp [73].
99
Với Bộ luật trên, mỗi năm Cuba đã thu hút được hơn 2 tỷ USD và tiếp cận
được với nhiều công nghệ tiên tiến, phương pháp quản lý của nước ngoài để thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, giúp cho kinh tế Cuba tăng từ 5-
7% mỗi năm [14] và đảm bảo sự ổn định của công cuộc Cải cách.
Một điểm đáng chú ý nữa của Luật đầu tư nước ngoài mới là các nhà đầu
tư được khuyến khích tham gia vào các liên doanh với các công ty Nhà nước hay
tư nhân của Cuba. Trong các mô hình hợp tác đầu tư nước ngoài, lần đầu tiên
xuất hiện hình thức hợp đồng liên kết kinh tế quốc tế và công ty 100% vốn nước
ngoài. Bên cạnh đó, luật đầu tư mới sẽ cho phép triển khai và áp dụng một số hệ
thống thuế ưu đãi cho một số trường hợp. Theo đó, các nhà đầu tư sẽ được miễn
thuế thu nhập trong 8 năm đầu hoạt động và sau đó sẽ phải đóng 15% thuế, giảm
một nửa so với quy định 30% trước đây. Tuy nhiên, trong ngành khai thác tài
nguyên thiên nhiên Niken hay nhiên liệu hóa thạch sẽ bị đánh thuế 50% [2].
Ngoài ra, Cuba đã ký kết được nhiều thỏa thuận hợp tác song phương về tránh
đánh thuế hai lần với Tây Ban Nha, Barbados, Italia, Việt Nam, Trung Quốc...và
duy trì được 42 thỏa thuận đầu tư song phương với các nước này [73].
Với những thành tựu trên của Luật đầu tư mới, đã giúp Cuba thay đổi và
phát triển đất nước. Đúng như đánh giá của Bộ trưởng Ngoại thương Cuba,
Rodrigo Malmierca: "Luật đầu tư mới được thông qua sẽ giúp kinh tế Cuba tăng
trưởng từ 6-8%/năm, nguồn vốn đầu tư nước ngoài sẽ đạt từ 2-2,5 tỷ USD và tạo
động lực để ngành dầu khí có bước phát triển" [177].
* Xây dựng Đặc khu kinh tế Mariel
Một trong những thành tựu nổi bật của chính sách thu hút đầu tư nước
ngoài của Cuba là sự ra đời của Đặc khu kinh tế Mariel vào ngày 19/9/2013. Một
trong những lý do quan trọng dẫn tới sự ra đời của Đặc khu này là Cuba đã nhận
rõ được lợi thế về địa lý, địa kinh tế của mình trong việc thúc đẩy Cải cách kinh
tế và coi đây là điểm trung chuyển hàng hóa trong khu vực.
Đặc khu kinh tế Mariel là dự án đưa ra nhằm khuyến khích sự phát triển
kinh tế bền vững của Cuba thông qua việc thu hút đầu tư nước ngoài nhằm đổi
mới công nghệ, tập trung phát triển công nghiệp và bảo vệ môi trường.
Xây dựng Mariel cũng phù hợp với chiến lược mở rộng quan hệ hợp tác
kinh tế quốc tế mà Cuba đang đẩy mạnh. Thông qua cảng nước sâu này, Cuba có
100
thể cải thiện quan hệ với Mỹ và hợp tác kinh tế với nhiều quốc gia khác tránh sự
lệ thuộc vào một nền kinh tế nhất định. Đồng thời, giúp Cuba phát triển các
ngành công nghiệp, mạng lưới giao thông vận tải nhằm phát triển kinh tế theo
hướng hiện đại hóa.
Như vậy, những cải cách trong nước trên đã cho thấy đây là một biện
pháp đúng đắn của Đảng và Nhà nước Cuba nhằm phản ứng lại chính sách cấm
vận kinh tế của Mỹ và làm cho chính quyền Obama phải có sự thay đổi trong
chính sách với Cuba. Mặt khác, nó còn giúp cho nền kinh tế Cuba từng bước
thoát khỏi khó khăn; cải thiện đời sống của nhân dân; nâng cao được vai trò và
vị thế trong khu vực; mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế với bên ngoài.
Thứ hai, Đảng và Nhà nước Cuba chủ trương mở rộng quan hệ kinh tế quốc
tế với nhiều nước trong khu vực và thế giới nhằm thúc đẩy nền kinh tế đất nước
Trao đổi thương mại của Cuba với các nước trên thế giới phát triển mạnh, các
mặt hàng xuất khẩu chính gồm: đường và Nicken, tăng 15%, sản phẩm công nghiệp
và thuốc chữa bệnh tăng 23%. Trao đổi thương mại giữa Cuba với các nước Bắc,
Trung và Nam Mỹ chiếm 45% tổng giá trị thương mại; Châu Âu:31% và Trung
Đông: 21%. Giá trị thương mại năm 2006 tăng 27% so với năm 2005 [42]. Tính đến
năm 2008, Trung Quốc và Venezuela chiếm 35% cán cân thương mại của Cuba.
Theo số liệu của Bộ Đầu tư nước ngoài và hợp tác kinh tế quốc tế của
Cuba, nguồn đầu tư nước ngoài vào Cuba tăng liên tục trong giai đoạn 2008-
2015, mỗi năm tăng khoảng 25-30% với khoảng 1,5-2 tỷ USD/năm, trong đó có
nhiều dự án lớn: Dự án cải tạo Cảng nước sâu Mariel do Tập đoàn Odebrecht
của Brazil làm chủ đầu tư với số vốn 2 tỷ USD, Tập đoàn này được sự hậu thuẫn
của Ngân hàng Phát triển quốc gia Brazil (BNDES) đầu tư (2/2010). Ngân hàng
này còn dành cho Cuba khoản vay trị giá 682 triệu USD (2015) [98, tr.10].
Tính đến tháng 3/2016, Cuba có hơn 1000 dự án đầu tư nước ngoài thuộc
340 tổ chức, trong đó, các nước Châu Âu đứng đầu danh sách các nhà đầu tư vào
Cuba, chiếm 71% số dự án, tiếp đó, là Châu Mỹ: 23%; Châu Á-Thái Bình
Dương: 5% và Trung Đông và Châu Phi: 1%. Các nhà đầu tư hàng đầu vẫn là:
Venezuela, Trung Quốc, Tây Ban Nha, Pháp, Brazil, Canada [73]. Lĩnh vực thu
hút đầu tư nước ngoài nhiều nhất của Cuba là du lịch, chiếm 52%; tiếp theo là
khai khoáng và năng lượng: 11%; công nghiệp:10% và mía đường: 5%. Lĩnh
101
vực liên doanh hiện phổ biến nhất trong các hình thức đầu tư nước ngoài vào
Cuba, chiếm 50% tổng số các dự án [73].
Thứ ba, sự hỗ trợ đắc lực của Venezuela về kinh tế, năng lượng đã giúp
Cuba từng bước thoát khỏi khó khăn kinh tế trong nước trước chính sách bao
vây, cô lập về kinh tế của Mỹ
Venezuela là một trong những đối tác kinh tế, thương mại và đầu tư hàng
đầu của Cuba. Kim ngạch thương mại song phương của hai nước đạt 3 tỷ USD
(2010) và 2,5 tỷ USD (2015) [73]. Ngoài ra, nước này cũng triển khai nhiều dự
án đầu tư lớn vào Cuba như: dự án nâng cấp nhà máy lọc dầu Fuciagos từ 72.000
thùng/ngày lên 100.000 thùng/ngày; dự án đường ống dẫn dầu dài 189 km nối
Venezuela với Cuba; dự án xây dựng tổ hợp hóa dầu gồm các nhà máy sản xuất
phân bón, sơn, polyetilen trị giá 5 tỷ USD [87]. Bên cạnh đó, Venezuela cũng là
đối tác lớn trong việc nhập khẩu thuốc chữa bệnh, dịch vụ y tế và lao động kỹ
thuật. Trong khi Cuba, là bạn hàng quan trọng của nước này trong các sản phẩm
xăng dầu, các mặt hàng tổng hợp và khí đốt. Mặc dù, từ năm 2013 đến nay, kinh
tế Venezuela lâm vào khủng hoảng những Cuba vẫn duy trì mối quan hệ thương
mại, đầu tư với nước này nhằm đảm bảo sự ổn định năng lượng trong nước tránh
cú sốc kinh tế như thời Liên Xô trước đây.
Sở dĩ Cuba vẫn tiếp tục duy trì quan hệ với Venezuela xuất phát từ các yếu tố
sau: quốc gia Nam Mỹ này là nhà cung cấp năng lượng số 1 cho Cuba trong một
thời gian dài và từng giúp Cuba duy trì sự ổn định trong nước bất chấp những chính
sách cấm vận kinh tế ngặt nghèo của Mỹ. Sự hậu thuẫn, ủng hộ kinh tế của
Venezuela cũng giúp Cuba đa dạng hóa các đối tác kinh tế và giảm bớt sự thiếu hụt
nguồn cung do sự sụp đổ của đối tác Liên Xô trước đây. Nhưng hơn hết, Cuba vẫn
coi Venezuela là một đối tác tin cậy tuyệt đối mà nước này có thể hợp tác thuận lợi
nhằm đảm bảo cho sự nghiệp xây dựng đất nước của Cuba được ổn định.
3.2.2.3. Trên lĩnh vực an ninh- quốc phòng
Thứ nhất, Cuba từng bước hiện đại hóa các lực lượng vũ trang cách mạng
theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất
nước. Quá đó, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia
Để đối phó tốt những âm mưu lật đổ chế độ của Mỹ và các thế lực thù
địch bên trong và bên ngoài, mặc dù nền kinh tế khó khăn nhưng chính phủ
102
Cuba vẫn luôn dành ưu tiên ngân sách cho an ninh-quốc phòng nhằm hiện đại
hóa lực lượng chiến đấu để bảo vệ an ninh tổ quốc.
Hiện nay, Cuba là quốc gia có Lực lượng quân sự hùng mạnh nhất Vùng
Caribe và Trung Mỹ. Lực lượng vũ trang cách mạng Cuba bao gồm: Bộ Các Lực
lượng vũ trang cách mạng (Bộ Quốc Phòng) và Bộ Nội vụ. Hiện nay, hệ thống
vũ khí được coi là hiện đại nhất của Cuba là tên lửa SS-2, đây là loại tên lửa đất
đối không đã được Cuba nâng cấp để bắn hạ máy bay chiến đấu của đối phương
ở tầm cao trên 12 Km [80].
Lực lượng quân đội được chia làm 3 binh chủng: hải quân, lục quân và
không quân, trong đó, lực lượng lục quân có số quân thường trực và tại ngũ là
4,5 vạn quân với 1500 xe tăng và 400 xe bọc thép; không quân: 10.000 quân và
hải quân: 5000 quân. Ngoài ra, Bộ Nội vụ cũng có 20 tiểu đoàn đặc chủng với
15.000 quân và Lực lượng bộ đội biên phòng là 4.000 người. Ngân sách chi cho
quốc phòng đạt 390 triệu USD, chiếm 1,7% ngân sách chính phủ Cuba (số liệu
năm 2013) [80].
Để đối phó có hiệu quả các hoạt động chống phá của Mỹ và các thế lực
thù địch trong thời gian qua, Bộ các Lực lượng vũ trang cách mạng Cuba đã
thường xuyên tiến hành các cuộc tập trận nhằm tăng cường khả năng sãn sàng
chiến đấu của quân đội. Kể từ tháng 11/2009, Cuba đã bắt đầu cuộc tập trận quân
sự có quy mô lớn nhằm mục tiêu bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa và chống lại
chính sách bao vây, cấm vận của Mỹ. Đây là cuộc tập trận đầu tiên kể từ khi Chủ
tịch Raul lên nắm quyền và quan hệ Mỹ-Cuba bắt đầu có dậu hiện "tan băng"
dưới thời Tổng thống Obama. Cuộc tập trận này có sự tham gia của hàng trăm
nghìn người, bao gồm lực lượng quân sự và dân sự, với nhiều loại vũ khí hiện
đại: xe tăng T72, máy bay ném bóm IL62 và trực thăng tiến công KA28 [81]...
Tiếp đó, vào ngày 2/2/2013, quân đội Cuba cũng đã tổ chức cuộc tập trận
giả định với kịch bản "bị quân đội Mỹ đánh chiếm lãnh thổ". Theo đó, các đơn vị
quân đội trên toàn quốc đã bắt đầu cuộc tập trận với sự tham gia của quân đội và
nhân dân, cùng với các Lực lượng vũ trang ở tỉnh Camaguay ở miền Đông;
thành phố Matanzas ở miền Trung và một số đơn vị vũ trang nhỏ ở Artemisa ở
ngoại ô La Habana. Đây là hoạt động quân sự rất cần thiết để Cuba kiểm chứng
103
lại sức mạnh của các Lực lượng vũ trang và sẵn sàng đáp trả lại các hành vi quấy
rối, xâm phạm lãnh thổ, khiêu khích của Mỹ. Cũng trong năm này, quân đội
Cuba còn tiến hành cuộc tập trận mang tên "Passion 13" (từ ngày 23-
24/11/2013), với sự tham gia của tất cả các Lực lượng vũ trang trên cả nước, Lực
lượng dự bị động viên và người dân. Cuộc tập trận quy mô này được điều hành
và chỉ đạo bởi các cơ quan quyền lực cao nhất của Cuba: Bộ Chính Trị, Hội đồng
Quốc Phòng và chính quyền địa phương. Theo Tổng tư lệnh các Lực lượng vũ trang
Raul Castro, mục đích chính của cuộc tập trận này là "Nâng cao cấp độ huấn luyện,
liên kết giữa các Lực lượng vũ trang và kiểm soát tất cả các tình huống khi xây ra
chiến tranh. Quân đội và người dân Cuba sẵn sàng đối mặt với tất cả các hành động
chống phá của kẻ thù với cách mạng" [13]. Đây được coi là cuộc tập trận với quy
mô lớn nhất kể từ năm 1980, khi Cuba phải đối mặt với áp lực quân sự, chính trị,
kinh tế từ chính quyền Tổng thống Ronald Regan trước đó.
Thứ hai, Cuba tiếp tục duy trì các hoạt động hợp tác quân sự với các nước
trên thế giới nhằm ứng phó có hiệu quả với các âm mưu chống phá Mỹ và các
thế lực phản động
Ngoài việc hiện đại hóa lực lượng quốc phòng trong nước, Cuba còn chủ
trương thiết lập quan hệ quốc phòng với các nước khác nhằm nâng cao chất
lượng quân sự, khí tài để đảm bảo cho an ninh quốc gia.
* Hợp tác quốc phòng với Nga
Trong chuyến thăm của Tổng thông Putin tới Cuba (16/7/2014), hai nước
đã đạt được thỏa thuận mở lại một phần căn cứ điện tử Loudes mà Nga đã đóng
cửa vào năm 2001, với lý do giá thành thuê quá đắt (khoảng 200 triệu Rup,
tương đương với 117 triệu USD/năm). Nguyên Giám đốc cơ quan tình báo hải
ngoại Nga, Vyacheslav Trublikov đã cho rằng: "Loudes đã đưa con mắt của Liên
Xô sang toàn bộ Tây bán cầu...đối với Nga, nước đang đấu tranh cho những
quyền lợi hợp pháp của mình trên thế giới thì dự án này này không kém so với
Liên Xô trước đây" [178]. Đây được coi là một phần trong sự điều chỉnh chiến
lược của Nga đối với Mỹ Latinh, nơi được coi là "sân sau" của Mỹ để đối phó
với các lệnh cấm vận về chính trị và kinh tế của Mỹ, phương Tây sau sự kiện
Nga sát nhập bán đảo Crime.
104
Trong chuyến thăm Cuba và một số quốc gia Mỹ Latinh khác như:
Argentina, Brazil, Nicaragua của Ngoại trưởng Nga, Sergei Lavrov (6/2014),
Nga đã ký Hiệp ước về việc xây dựng các hệ thống định vị toàn cầu Glonass ở
các nước này nhằm tăng cường sự kết nối về chính trị, quân sự, kinh tế của Nga
với khu vực [178]. Trước đó, trong chuyến thăm của Tổng tham mưu trưởng các
Lực lượng vũ trang của Nga, Nikolai Makarov (9/2009), quan hệ quân sự của
Cuba và Nga đã được kết nối trở lại sau một thời gian dài bị gián đoạn dưới thời
Yeltsin. Hai nước cũng đã thúc đẩy các hoạt động hợp tác song phương về quân
sự, hiện đại hóa các lực lượng vũ trang và tăng cường các hoạt động đào tạo,
huấn luyện quân nhân của Nga cho Cuba. Bên cạnh đó, Nga còn giúp Cuba hiện
đại hóa và nâng cấp kho vũ khí vốn đã bị lạc hậu. Thông qua chuyến thăm này,
Nga đã tuyên bố sẽ viện trợ quân sự trở lại cho Cuba.
* Hợp tác với Việt Nam
Tiếp nối truyền thống hợp tác quân sự tốt đẹp vốn có giữa hai nước từ
trong quá khứ, trong những năm gần đây quan hệ Quốc phòng Cuba-Việt Nam
vẫn được duy trì và phát triển. Trong chuyến thăm của Bí thư thứ hai, kiêm Bộ
trưởng Quốc Phòng Cuba, Raul Castro tới Việt Nam (4/2005), hai nước đã thúc
đẩy các hoạt động hợp tác quân sự: nâng cấp kho vũ khí, đào tạo quân nhân, chia
sẻ tin tức tình báo cùng các hoạt động hỗ trợ nhân đạo trong quốc phòng.
Bên cạnh đó, chuyến thăm Cuba (20-24/4/2016) của Phó Chủ nhiệm-
Kiêm tham mưu trưởng Tổng Cục Hậu cần, Thiếu tướng Ngô Huy Hồng, hai
nước đã thúc đẩy các hoạt động hợp tác trong lĩnh vực hậu cần, phòng chống
thiên tai, đào tạo các sỹ quan tham gia Lực lượng gìn giữa Hòa bình của Liên
Hợp Quốc và tiếp tục duy trì các chuyến thăm cấp cao của lãnh đạo Bộ Quốc
Phòng hai nước để thắt chặt quan hệ hai bên [4].
Vào tháng 3/2015, trong cuộc gặp Đại tá Otto Danlcourt Cesar, Cục
trưởng Cục Cơ yếu, Bộ Nội vụ nước Cộng hòa Cuba thăm Việt Nam, Đại tướng
Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã khẳng định: "hợp tác quốc
phòng Việt Nam-Cuba là hỗ trợ nhau nhằm đảm bảo độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ mỗi nước; bảo vệ, ổn định hệ thống chính trị, cuộc sống bình yên
của nhân dân và sự phát triển phồn vinh của hai nước" [64]. Không chỉ dừng lại
105
ở đó, vào ngày 21/7/2016, trong cuộc đối thoại chính sách quốc phòng Việt
Nam-Cuba được tổ chức tại La Habana, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ
trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam và Thượng tướng Leopoldo Cintra Frias Bộ
trưởng Bộ các LLVTCM Cuba đã khẳng định: hai nước sẽ tiếp tục thúc đẩy hợp
tác quốc phòng ngày càng thực chất, hiệu quả nhằm nâng cao tiềm lực quốc
phòng của mỗi nước để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững
thành quả cách mạng. Đồng thời, thống nhất phương hướng hợp tác trên các lĩnh
vực mà hai bên có thế mạnh, tiềm năng và nhu cầu để tiến tới ký Kế hoạch hợp
tác trong thời gian tới và khẳng định sẽ đưa hợp tác quốc phòng trở thành một
nhân tố quan trọng của mối quan hệ gắn bó mật thiết, lâu dài giữa Việt Nam và
Cuba [104].
* Hợp tác với Mỹ
Cũng như chính trị và kinh tế, an ninh quốc phòng cũng là lĩnh vực mà
Cuba muốn hợp tác với Mỹ. Mặc dù, đây chỉ là hoạt động mang tính ngoại giao
nhưng qua đây có thể thấy những thiện chí của Cuba trong việc giải quyết các
vấn đề mà hai nước có liên quan và cũng là trở ngại trong quan hệ hai bên đặc
biệt là vấn đề Guantanamo.
Sau gần 6 thập kỷ trong tình trạng "đóng băng", Cuba lần đầu tiên đã tham
gia Hội nghị an ninh quân sự với Mỹ tại Thủ đô Kingston (Jamaica) với tiêu đề
"Hội nghị an ninh các nước Vùng Caribe" (27-29/1/2016). Với nội dung chính là
tăng cường hợp tác và chia sẻ các tin tức về quốc phòng, chống khủng bố, buôn
bán ma túy, tình trạng buôn người trong khu vực. Sự tham gia của Cuba tại Hội
nghị này có ý nghĩa rất lớn góp phần thúc đẩy quá trình hợp tác trong khu vực và
cho thấy quan hệ Cuba-Mỹ đã cải thiện đáng kể. Phát biểu tại Hội nghị, Tư lệnh
Bộ chỉ huy phương Nam của Mỹ, tướng John F.Kelly cho rằng: "Mỹ sẽ không
thảo luận vấn đề Guantanamo trong Hội nghị này với Cuba vì Guantanamo là
căn cứ hải quân chiến lược của Mỹ tại Caribe" [99], tuy nhiên, Mỹ cũng không
phản đối việc Cuba đưa ra vấn đề này để thảo luận trong Hội nghị.
Trước đó, tàu cứu thương USS Comfort của hải quân Mỹ đã đón tiếp một
đoàn bác sỹ quân y của Cuba, tại Cảng Port au Prince của Haitti (9/2015), nhằm
thúc đẩy và hợp tác y tế giữa lực lượng quân đội của hai nước.
106
Thông qua các hoạt động hợp tác trên, Cuba đã từng bước củng cố, xây
dựng và phát triển Lực lượng quốc phòng theo xu hướng mở, nhằm tranh thủ sự
ủng hộ, hợp tác với bạn bè quốc tế trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước. Đồng thời, giảm sức ép và chính sách can thiệp lật đổ của Mỹ.
3.2.2.4. Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội
Phát huy thành quả về giáo dục, y tế, an sinh xã hội của giai đoạn trước,
trong giai đoạn này, Cuba tiếp tục duy trì và củng cố chính sách ưu việt trên các
lĩnh vực này nhằm đảm bảo phúc lợi xã hội cho người dân và ổn định tình hình
trong nước để đối phó thành công các âm mưu của kẻ thù nhằm lật đổ chế độ và
chính quyền cách mạng ở Cuba một lần nữa.
Thứ nhất, Cuba tiếp tục duy trì vị thế hàng đầu ở Mỹ Latinh và thế giới về
giáo dục và y tế. Đây cũng được coi là nền tảng giúp Cuba ổn định xã hội, phát
triển kinh tế đất nước, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khó khăn, tạo động lực
giúp cho các ngành kinh tế khác phát triển, góp phần bảo vệ vững chắc thành
quả cách mạng.
Trong giáo dục:
Từ năm 2004 tới nay, Cuba đã thực hiện việc tăng cường trang thiết bị vật
chất và hiện đại hóa thiết bị dạy học cho nhà trường đảm bảo ngày học 2 buổi,
100% phòng học trên cả nước có điện, mỗi phòng học có 1 tivi, cứ 100 học sinh
có 1 đầu Video, 1 máy ghi âm và tiến tới trang bị phổ cập máy vi tính cho các
trường học.
Từ một quốc gia có 60% dân số mù chữ (1959), đến năm 2007-2008,
Cuba có tới trên 98% dân số biết chữ, hơn 3,3 triệu học sinh, trong đó có
700.000 sinh viên [61]. Tỷ lệ này đã tăng lên khoảng 3,8 triệu học sinh (trong
tổng số 11,2 triệu dân), trong đó, có 800.000 người là sinh viên (2014). Theo
đánh giá của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), tính đến năm
2008, tỷ lệ người lớn biết chữ ở Cuba gần 100%; tỷ lệ nhập học gộp của các bậc
giáo dục trung học và đại học là 87,6% [11, tr.235].
Trong giai đoạn 2004-2016, Cuba đã đưa ra nhiều biện pháp để cải cách
mạnh mẽ ngành giáo dục trong nước, giúp cho lĩnh vực này bắt kịp với xu thế
phát triển của thế giới: Cuba đã giảm thời gian đào tạo của chương trình giáo dục
107
đại học từ 5 năm xuống còn 4 năm để tiết kiệm chi phí và thời gian đào tạo; tăng
cường chú trọng đào tạo ngoại ngữ (chủ yếu là tiếng Anh) cho sinh viên, giáo
viên và nguồn nhân lực để giúp cho Cuba không bị lạc hậu, thiếu hụt nhân lực
khi hội nhập sâu rộng vào xu thế toàn cầu hóa kinh tế quốc tế; có chính sách ưu
đãi thu hút sinh viên tham gia vào ngành y tế, sư phạm, những lĩnh vực hiện nay
đang có ít người theo học do lương thấp vì lĩnh vực này được nhà nước trả lương
theo bao cấp; chính phủ Cuba đã thông qua quyết định tăng lương cho người lao
động làm việc trong lĩnh vực giáo dục (2015) để khuyến khích họ gắn bó lâu dài
với nghề, mặc dù, điều kiện kinh tế Cuba vẫn còn khó khăn [73].
Chính phủ Cuba cũng đang tiến tới việc cắt giảm chi phí trong ngành giáo
dục như: chuyển dần học sinh nội trú ở cấp dự bị đại học từ nông thôn vào thành
phố để tiết kiệm kinh phí 139 triệu USD/năm (2013) cho ngân sách giáo dục [52].
Hiện nay, trên cả nước Cuba có khoảng trên 50 trường đại học, trong đó
có 15 trường sư phạm: Cuba có hơn 10.000 sinh viên theo học tại các trường đại
học kỹ thuật; 133 trung tâm nghiên cứu khoa học; hơn 250.000 giáo viên chuyên
môn; 34.000 giáo viên thể dục thể chất; trung bình 20 học sinh/1 giáo viên [73].
Những con số trên đã đưa Cuba trở thành một trong những nước có trình độ dân
trí và tỷ lệ giáo dục theo dân số đứng đầu thế giới.
Về y tế:
Từ chỗ chỉ có 6000 bác sỹ (1959) được phân bố không đều trên cả nước,
đến nay, con số tăng lên 78.000 bác sỹ (2013), trong đó có 60.000 bác sỹ có
bằng thạc sỹ; 96.000 nhân viên y tế [52]. Cuba tiếp tục phát triển hệ thống chăm
sóc sức khỏe miễn phí cho toàn dân thông qua Chương trình "Tân trang và mở
rộng" tất cả các bệnh viện, trạm xá trên toàn quốc.
Ngân sách dành cho ngành y tế đã tăng 1,5 lần trong giai đoạn 2000-2013.
Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh từ 5,3/1000 trẻ (2007) xuống còn 4,1/1000 (2013).
Tuổi thọ trung bình của người dân Cuba từ 78 tuổi (2007) lên 80 tuổi (2013) và
tỷ lệ bác sỹ bình quân trong người dân là 1/150 người, tỷ lệ cao nhất trên thế giới
hiện nay [73].
Cuba cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong công tác chăm sóc
sức khỏe cho nhân dân như: tổ chức phòng ngừa thành công sự lây truyền vi rút
108
cúm A/H1N1 với 57.000 người có triệu chứng đáng ngờ được nhập viện và
11.000 người khác được theo dõi tại nhà, nhưng chỉ có 41 người bị tử vong,
trong tổng số 973 trường hợp bị nhiễm bệnh. Đặc biệt, năm 2012, các nhà khoa
học Cuba đã công bố và chế tạo thành công Vidatox, một sản phẩm chữa trị ung
thư được điều chế từ nọc độc bọ cạp xanh, một loại bọ cạp đặc chủng của Cuba.
Đây là một thành tựu mới của nền y học Cuba với cơ chế cô lập tế bào ung thư,
cô lập khối u không cho mạch máu đến nuôi dưỡng và làm cho nó teo đi.
Không chỉ đạt được những thành tựu về nghiên cứu, khám chữa bệnh, xây
dựng cơ sở hạ tầng trong y tế, Cuba còn sử dụng y tế như một kênh ngoại giao
để mở rộng ảnh hưởng và đem lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Chính sách
ngoại giao y tế đã giúp Cuba thu về khoảng 10 tỷ USD mỗi năm, đưa y tế trở
thành ngành kinh tế có thu nhập lớn, vượt xa so với số tiền kiều hối gửi về nước
và xuất khẩu Nicken. Theo Thông báo của Bộ Y tế Brazil (21/8/2013), Tổng
thống Rouseff đã ký Hợp đồng thuê 40.000 bác sỹ Cuba tới làm việc tại nước
này trong chương trình hợp tác "Nhiều bác sỹ hơn nữa" nhằm giải quyết tình
trạng khan hiếm bác sỹ tại các bệnh viện công ở Brazil. Thỏa thuận hợp tác này
được ký kết thông qua Tổ chức Y tế liên Mỹ (PAHO), Brazil sẽ trả lương cho
các bác sỹ Cuba với mức lương 10.000 Real (khoảng 4.098 USD/người/tháng).
Bên cạnh đó, đội ngũ bác sỹ của Cuba còn có mặt ở các nước: Ai Cập,
Mexico, Pakistan...Cuba cũng đã cử 165 bác sỹ, y tá tới Sierra Leone để giúp
quốc gia Tây Phi này đối phó với đại dịch vi rút Ebola (2014, 2015). Đồng
thời, Cuba cũng là một trong những nước có số lượng cán bộ y tế tham gia
vào các chương trình hợp tác với nước ngoài về y tế nhiều nhất: 39.000 người,
trong đó, có 15.000 bác sỹ. Các nhân viên y tế của Cuba đang làm việc ở 66
nước trên thế giới, 40 nước là theo các chương trình hợp tác miễn phí và 26
nước trả dịch vụ theo hợp đồng, qua đó hàng năm Cuba thu khoảng 6 tỷ USD.
Đánh giá về sự hỗ trợ của Cuba đối phó với đại dịch Ebola của các quốc gia
Tây Phi, Tổng Giám đốc Tổ chức y tế thế giới, Margaret Chan đã ca ngợi:
"Tiền và các thiết bị là rất quan trọng, nhưng cả hai điều này không thể ngăn
chặn được sự lây truyền của vi rút Ebola. Nguồn nhân lực rõ ràng là nhu cầu
quan trọng nhất với chúng tôi" [104].
109
Thứ hai, Cuba vẫn tiếp tục duy trì các chính sách an sinh xã hội tốt đẹp
Trong giai đoạn 2004-2016, Đảng và Nhà nước Cuba cũng đã triển khai
hơn 150 chương trình xã hội để khẳng định sự ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong
đó có công tác văn hóa, xã hội và nâng cao đời sống của cán bộ công chức cũng
như người dân.
Cuba còn ban hành chế độ tiền lương mới, tăng lương bình quân 27,9%.
Chương trình xây dựng 70.000 ngôi nhà mới và sửa chữa 150.000 ngôi nhà cũ
mỗi năm. Trong năm 2006, Cuba đã xây dựng được 110.000 ngôi nhà, tăng gấp
3 lần so với 2005. Đặc biệt, vào tháng 6/2007, Cuba đã thảo luận trên toàn quốc
về cơ chế, chính sách tiếp tục thúc đẩy phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề
xã hội cấp bách của người dân. Tiếp đó, Hội đồng Nhà nước Cuba do Chủ tịch
Raul đứng đầu đã quyết định bổ xung thêm 837 triệu Peso (2008) cho quỹ phúc
lợi xã hội, và tăng khoảng 13% so với năm 2007 để thực hiện việc tăng lương,
tiền hưu trí, trợ cấp xã hội cho nhân dân [152].
Tính đến năm 2014, Cuba đã có 85% hộ gia đình có sở hữu riêng về nhà
ở; 97% lãnh thổ đã được sử dụng điện; 95,3% dân số được dùng nước sạch; tỷ lệ
người bị nhiễm HIV/AIDS là 0,03%, một tỷ lệ [152] thấp nhất trên thế giới. Đặc
biệt, tỷ lệ người thất nghiệp ở Cuba đã hạ từ mức 10% (1992) xuống còn 2,7%
(2015), tỷ lệ thấp nhất ở Mỹ Latinh. Đánh giá về thành tựu phát triển con người
ở Cuba, Chương trình phát triển của Liên Hợp quốc (UNDP), đã xếp Cuba đứng
thứ 67/177 (2014) quốc gia và 44/185 (2015) [164]. Đây được coi là những
thành tựu to lớn đối với một đất nước nhỏ bé và điều kiện kinh tế xã hội còn
nhiều khó khăn như Cuba.
Thứ ba, Cuba vẫn duy trì được nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, đồng
thời đã đạt được một số thành tựu trong việc hợp tác văn hóa với thế giới, nhất là
với Mỹ
Nền văn hóa Cuba được hình thành từ trong chính quá trình đấu tranh, xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Quá trình này đã hình thành ở Cuba một nền văn hóa
chung với nhiều sắc thái đa dạng, độc đáo đúng như nhận xét của nhà văn hóa,
địa lý học Cuba thế kỷ XX, Antonio Nunez Jiminez:
110
Mỗi nhóm thuộc các chủng tộc ấy vượt biển mang đến Cuba văn hóa,
phong tục và các tài sản của mình. Tất cả các nhóm đó đã đến đất
nước của chúng ta an cư lạc nghiệp và kết hợp các yếu tố khác nhau lại
tạo lên một đặc điểm của Cuba. Nhịp điệu của những bài hát Tây Ban
Nha đã xuất hiện trong những ca khúc đặc sắc của người nông dân
Cuba. Từ những cái trống của người nguyên thủy Châu Phi, kết hợp
với ảnh hưởng của âm nhạc Châu Âu đã nảy sinh ra những bài hát,
điệu nhảy của người Cuba gốc phi. Người Trung Quốc đóng góp một
số yếu tố văn hóa và tập tục dân gian. Còn người Mỹ thì đưa đến chủ
nghĩa thực dụng và cách tổ chức công nghiệp của họ [130, tr.310].
Trong suốt gần 5 thế kỷ, mặc dù chủ nghĩa thực dân, đế quốc trong quá
trình cai trị Cuba không ngừng reo dắt chủ nghĩa phân biệt chủng tộc trong các
tầng lớp nhân dân, nhất là giữa người da đen với da trắng nhằm thực hiện chính
sách chia để trị, gây hằn thù giữa các màu da, chủng tộc, nhưng nhân dân Cuba
đã biết khắc phục có hiệu quả những thành kiến chủng tộc do kẻ thù gây ra để
đứng lên đấu tranh giành độc lập cho tổ quốc. Mặc dù là đất nước đa chủng tộc,
nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Cuba, đứng đầu là Chủ tịch Fidel và
Raul, mọi sự phân biệt chủng tộc đều bị xóa bỏ và bình đẳng như nhau.
Nền văn học, nghệ thuật của Cuba cũng được phát triển song song với quá
trình đấu tranh giải phóng dân tộc chống thực dân Tây Ban Nha và đế quốc Mỹ.
Trong giai đoạn hiện nay, bên cạnh việc phát huy những giá trị văn hóa nghệ
thuật, tư tưởng yêu nước của Jose Marti và các nhà văn hóa lỗi lạc của Cuba
như: các công trình nghiên cứu lịch sử tiến bộ của A.Suco; các yêu sách về cải
cách kinh tế của Luis Caballero [58, tr.40]...Cuba còn tập trung khai thác nhiều
thế mạnh văn hóa vật thể và phi vật thể như: các sản phẩm rượu rum, điệu nhảy
chachacha, các hệ hội Canavan cùng hệ thống các di sản văn hóa như: thành cổ
Habana, pháo đài Moncada và các hệ thống bãi biển, điểm du lịch đã được
UNESCO xếp hạng...
Kể từ sau khi bình thường hóa quan hệ với Mỹ (12/2014), Cuba đã thúc
đẩy hợp tác văn hóa với các nước trên thế giới theo mục tiêu: Đẩy mạnh quảng
bá các giá trị văn hóa của Cuba ra thế giới. Đồng thời, thúc đẩy việc xuất khẩu
111
các sản phẩm văn hóa mà nước này có thế mạnh như: Rượu rum, xì gà...Chiến lược
này đã đạt được một số kết quả quan trọng khi sản phẩm rượu rum (Habana club)
đã được ra hạn đăng ký tại thị trường EU (Pháp, Đức) vào năm 2015 [100, tr.21].
Trong hợp tác văn hóa với Mỹ, Cuba đã ký kết được một số Hiệp định
hợp tác và giao lưu, trao đổi văn hóa với Mỹ, nhờ đó ban nhạc Rock Rolling
stone đã sang biểu diễn tại Cuba lần đầu tiên vào tháng 7/2015; bộ phim Bom
tấn của Hollywood: Fast and Furios 8 lần đầu tiên được quay tại Cuba; show
diễn thời trang quốc tế đầu tiên của 2 nhà đồng tổ chức là Chanel và Karl
Lagerfeld đã được tổ chức tại Cuba vào tháng 6/2015; tàu du lịch cỡ lớn của Mỹ
lần đầu tiên cập bến tại Cảng Havana (3/2015); sản phẩm rượu rum Habana club
đã được gia hạn đăng ký tại Mỹ [108, tr.19].
Hợp tác giao lưu văn hóa được coi là kênh ngoại giao quan trong giúp
Cuba mở cửa và hợp tác sâu rộng với bên ngoài, nhất là với Mỹ qua đó, dần hạn
chế các chính sách thù địch của Mỹ đối với Cuba. Đồng thời, giúp cho quốc đảo
này nâng cao được vai trò trên trường quốc tế.
Như vậy, với những thành tựu thu được trên tất cả các lĩnh vực trong giai
đoạn 2004-2016, là một minh chứng để khẳng định rõ đường lối cải cách kinh tế
và chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội" mà Đảng và Nhà nước
Cuba đề ra là đúng đắn và phù hợp với thực tiễn, điều kiện, hoàn cảnh của đất
nước Cuba. Đây cũng chính là nguồn nội lực quan trong giúp Cuba từng bước
phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, mở rộng quan hệ quốc tế, qua đó
bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, đủ sức đối phó với
các âm mưu chống phá của Mỹ và các thế lực phản động bên trong và bên ngoài.
Bên cạnh những thành công nêu trên, quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân
tộc ở Cuba trong giai đoạn này vẫn còn gặp một số khó khăn, hạn chế như sau:
Thứ nhất, sự già hóa thế hệ lãnh đạo ở Cuba
Vấn đề già hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo (đặc biệt là cán bộ cấp cao) luôn
là một mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước Cuba trong các kỳ Đại hội
Đảng. Điều này, lại càng trở lên cấp thiết khi "thế hệ lịch sử" gắn với cuộc cách
mạng Tháng giêng 1959 dần rút lui khỏi vũ đài chính trị. Tại kỳ Đại hội đảng lần
thứ VI, VII, Cuba đã đưa ra một số quyết sách quan trọng nhằm trẻ hóa đội ngũ
112
cán bộ cấp chiến lược như: đến Đại hội VIII (4/2021), số độ tuổi của Ủy viên
Trung ương mới được bầu không quá 60 tuổi; ủy viên Bộ chính trị không quá 70
tuổi...Đặc biệt, trong danh sách 142 Ủy viên Trung ương Đảng khóa VII có 55
người mới với độ tuổi là 54,5 (trẻ nhất trong gần 30 năm qua), 5 trong số 17 Ủy
viên Bộ Chính trị được bầu mới. Tuy nhiên, có một thực tế là các vị trí lãnh đạo
chủ chốt của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội vẫn do các lãnh đạo thuộc
thế hệ lịch sử nắm giữ như: Bí thư thứ nhất Raul (85 tuổi); Bí thư thứ hai Jose
Ramon Machado Ventura (86 tuổi)...Mặc dù, Cuba đã liên tục có sự đào tạo và
chỉ định các cán bộ trẻ, có năng lực là người thừa kế thế hệ lịch sử nhưng các
nhân vật này đều gặp phải những vấn đề cá nhân và bị cắt chức do liên quan đến
tham nhũng như: Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Carlos Lage đã bị cắt chức
năm 2009; Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng phụ trách về chủ trương "Cập nhật
hóa mô hình kinh tế-xã hội", Marino Murillo, có con gái chạy sang Mỹ sống lưu
vong (2012) nên uy tín bị giảm sút [101, tr.16].
Tất cả những bất cập trên đã cho thấy, quá trình trẻ hóa đội ngũ cán bộ ở
Cuba gặp rất nhiều khó khăn và vẫn không hoàn toàn tách rời được thế hệ lịch
sử. Vào năm 2018, nếu Cuba có sự thay đổi thế hệ lãnh đạo (Chủ tịch Raul thôi
giữ chức Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Hội đồng Bộ trưởng) cũng là một
trong nguy cơ đe dọa đến sự ổn định chính trị, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh
đạo của Đảng và Nhà nước và sẽ là cơ hội để cho Mỹ và các thế lực thù địch có
thể lợi dụng, chống phá hoặc lập ra một chính phủ đối lập thân Mỹ.
Thứ hai, nền kinh tế Cuba bị phụ thuộc quá nhiều vào Venezuela, nhất là
năng lượng, do đó, khi nền kinh tế nước này rơi vào khủng hoảng, Cuba ngay lập
tức rơi vào khủng hoảng năng lượng. Điều này, sẽ làm cho Cuba mất độc lập tự
chủ về kinh tế.
Sau chuyến thăm của Tổng thống Chavez tới Cuba (vào tháng 10/2004),
Venezuela đã cam kết cung cấp dầu mỏ và các sản phẩm từ dầu cho Cuba. Theo
Thỏa thuận này, Venezuela sẽ cung cấp cho Cuba sản lượng dầu tăng dần theo
số năm, cụ thể: 98.000 thùng/ngày (năm 2009) và 105.000 thùng (năm 2010) [6,
tr.2] (bao gồm cả các sản phẩm từ dầu mỏ). Trong đó, Cuba đã dành 92.000
thùng dầu để tiêu dùng trong nước và 13.000 thùng còn lại được lọc lại và xuất
113
khẩu ra bên ngoài. Không chỉ vậy, việc nhập khẩu dầu thô Cuba cũng nhận được
sự ưu đãi đặc biệt từ Venezuela: 50% sản lượng dầu nhập khẩu được thanh toán
trong vòng 90 ngày với giá bằng 1/3 giá thị trường, 50 % còn lại được thanh toán
trong vòng 25 năm với lãi suất 1% và viện trợ dầu sẽ tiếp tục tăng nếu giá dầu
thô trên thị trường thế giới tăng [6, tr.3]. Bên cạnh đó, Chính phủ Venezuela còn
đầu tư 1,4 tỷ USD để nâng gấp đôi công suất nhà máy lọc dầu Cienfuegos cho
Cuba; xây dựng đường ống dẫn khí dài 320 km qua biển Caribe nối liền hai
nước; 1 nhà máy lọc dầu mới ở tỉnh Matanzas và 1 nhà máy khí hóa lọc ở tỉnh
Santiago de Cuba [6, tr.3].
Tuy nhiên, kể từ năm 2013 đến nay, do sự sụt giảm giá dầu trên thị
trường thế giới và tình hình kinh tế-xã hội ở Venezuela lâm vào tình trạng khủng
hoảng đã tác động nặng nề đến ngành công nghiệp dầu khí của Cuba. Chính phủ
Maduro đã tuyên bố cắt giảm nguồn cung dầu cho Cuba xuống còn 80.000
thùng/ngày (vào tháng 12/2014) và 30.000 thùng/ngày (vào tháng 12/2015) và
40.000 thùng/ngày vào tháng 7/2016 [110, tr.21]. Hậu quả của những đợt cắt
giảm năng lượng của Venezuela đã làm cho Cuba lần đâu tiên phải tuyên bố tình
trạng tiết kiệm năng lượng trên cả nước [108, tr.21] kể từ năm 1993 đến nay.
Một khó khăn nữa mà Cuba phải đối mặt từ sự cắt giảm năng lượng của
Venezuela đó là số nợ của chính phủ Cuba thông qua các hoạt động nhập khẩu
dầu ngày càng lớn. Theo thống kê của nhà nghiên cứu, nhà phân tích chính trị
người Mỹ gốc Cuba, Romero, trong giai đoạn 2001-2009, Cuba đã nợ Venezuela
4,975 tỷ USD, trong đó 24% số tiền là nợ Tập đoàn Dầu khi quốc gia Venezuela
(PVDSA); còn tờ El Nacional (của Colombia ra ngày 14/11/2010) đã xác nhận
khoản nợ của Cuba đối với Venezuela là 13,8 tỷ USD [6, tr.2-3]. Đây chính là
thách thức rất lớn đối với Cuba trong bối cảnh nền kinh tế gặp nhiều khó khăn và
nguồn dầu khí bị cắt giảm mạnh trong thời gian qua.
Kể từ năm 2013 đến nay, do quá phụ vào sự hỗ trợ về tài chính và năng
lượng của Venezuela, nên nền kinh tế Cuba đã rơi vào tình trạng tăng trưởng
không bền vững và một lần nữa Cuba lại tái hiện lại tình trạng lệ thuộc kinh tế
như với Liên Xô trong thời kỳ chiến tranh Lạnh. Đây là một nguy cơ đe dọa trực
tiếp đến độc lập tự chủ về kinh tế, về lâu dài nó sẽ tác động lớn đến sự ổn định
114
chính trị của Cuba nếu nước này không có sự đa dạng hóa các đối tác kinh tế,
thương mại của mình.
Thứ ba, vấn đề Guantanamo giữa Cuba với Mỹ vẫn chưa được giải quyết
nên đã đe dọa đến độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Cuba
Vấn đề Guantanamo luôn là một rào cản trong quan hệ của Cuba với Mỹ,
bất chấp việc Mỹ đã dỡ bỏ lệnh cấm vận chính trị với Cuba thông qua tuyên bố
bình thường hóa quan hệ song phương.
Guantanamo, phần lãnh thổ Mỹ chiếm đóng trái phép của Cuba nằm cách
bờ biển phía Đông Bang Florida Mỹ (1300 km). Căn cứ này có diện tích 117,6
km2, trong đó, chỉ có 49km2 của khu căn cứ là khô ráo, 38,8 km2 là trên mặt
biển và 29,8 km2 đầm lầy. Đây là một Hải cảng nước sâu tự nhiên quan trọng
nhất ở Vùng Caribe. Vào năm 1903, chính phủ Cuba của Tổng thống Panma và
chính phủ Mỹ của Tổng thống Theodore Roosevelt đã ký Hiệp định "của các bến
than và hải quân", theo đó, Mỹ được quyền xây dựng căn cứ quân sự tại
Guantanamo. Đến năm 1934, Mỹ và Cuba tái ký điều ước cho phép căn cứ
Guantanamo của Mỹ tồn tại vô thời hạn theo hình thức thuê đất. Theo đó, nếu
Cuba muốn thu hồi phần lãnh thổ này của mình phải đàm phán trực tiếp với Mỹ.
Cũng theo Hiệp ước này, hàng năm Mỹ trả cho Cuba 2.000 USD tượng trưng
tiền thuê đất và số tiền này sẽ được trả bằng séc. Sau khi cách mạng Cuba thành
công 1959, chính quyền cách mạng của Chủ tịch Fidel đã không chấp nhận Hiệp
định trên và quyết định không tiếp nhận số tiền mang tính tượng trưng đó. Chủ
tịch Fidel đã ví căn cứ này là "một con dao găm của Mỹ cắm trên thân thể Cuba"
và trước sau như một đòi Mỹ phải rút khỏi căn cứ này. Cuba cũng không thừa
nhận Hiệp định năm 1903 và điều ước năm 1934, không tiếp nhận tiền thuê đất
của Mỹ, không đàm phán với Mỹ nhưng cũng đảm bảo sẽ không dùng vũ lực để
thu hồi lại Guantanamo. Trong khi đó, Mỹ lại cho rằng, Điều ước năm 1934 là
do hai bên tự nguyện thỏa thuận và ký kết, Mỹ không hề gây sức ép và bắt buộc
chính phủ Cuba phải ký. Cuba muốn thu hồi Guantanamo phải đàm phán trực
tiếp với Mỹ chứ không được đơn phương đòi Mỹ tự rút quân [164].
Trong suốt thời kỳ chiến tranh Lạnh, căn cứ Guantanamo đã được Mỹ sử
dụng vào mục đích chống Cuba cũng như các nước xã hội chủn nghĩa khác ở
115
Vùng Caribe và Mỹ Latinh. Từ tháng 1/2002, dưới thời Tổng thống Bush (con),
Mỹ dùng căn cứ này để giam giữ những nghi phạm bị bắt ở Afganistan, Pakistan
và nhiều nơi khác trong cuộc chiến chống khủng bố do Mỹ phát động. Theo báo
cáo của Tổ chức ân xá quốc tế (AI), các điều kiện giành cho tù nhân tại nhà tù
của quân đội Mỹ ở Guantanamo rất khắc nghiệt và phi nhân đạo, khiến các tù
nhân suy sụp về tinh thần và thể chất. Cũng chính vì điều đó mà đến nay nhà tù
Guantanamo đã trở thành tâm điểm để chỉ trích về tình trạng vi phạm nhân
quyền và ngược đãi tù nhân của quốc tế với Mỹ.
Từ năm 2009 tới nay, Tổng thống Obama đã có nhiều nỗ lực cải thiện
hình ảnh của nước Mỹ với thế giới thông qua: Tyên bố đóng cửa nhà tù này
(2017) bằng việc giảm số tù nhân từ 799 xuống còn 105 và đưa 5 phạm nhân đặc
biệt nguy hiểm sang giam giữ tại các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE),
cùng đề xuất xây dựng 13 nhà tù ở Mỹ để giam 56 trong tổng số 91 tù nhân còn
lại ở nhà tù này, 35 tù nhân sẽ được chuyển sang giam giữ tại các nước đồng
minh [30], trong đó, 9/35 tù nhân sẽ được chuyển sang giam giữ tại Ả Rập Xê Út
[30]. Tuy nhiên, những quyết định trên của chính quyền Obama đã gặp phải sự
phản đối của Quốc hội Mỹ, nơi đảng Cộng hòa chiếm đa số do lo ngại các tù
nhân này có thể gây ra sự bất ổn cho an ninh quốc gia cũng như các nước đồng
minh. Đồng thời, kiên quyết ngăn chặn kế hoạch này của Tổng thống Obama.
Những bất đồng giữa Tổng thống và Quốc hội Mỹ đã làm cho vấn đề
đóng cửa nhà Guantanamo trở lên bế tắc và làm cho quan hệ hai nước căng
thẳng, đây cũng là một trong những vấn đề làm cản trở tiến trình bình thường
hóa hoàn toàn quan hệ song phương giữa hai nước. Chủ tịch Cuba, Raul đã đưa
ra yêu cầu Mỹ phải trao trả căn cứ quân sự này cho Cuba như là một điều kiện
tiên quyết cho việc nối lại đầy đủ quan hệ ngoại giao giữa hai nước tại các Hội
nghị quốc tế như: Hội nghị Thượng đỉnh cộng đồng các nước Mỹ Latinh và
Caribe CELAC ở Costa Rica (28/1/2015), tiếp đó trong cuộc gặp với Tổng thống
Obama tại Cuba (21/3/2016), Chủ tịch Raul một lần nữa nhấn mạnh: "Mỹ và Cuba
không thể xích lại gần nhau nếu Washington không bàn giao Guantanamo lại cho
La Habana" [116], nhưng lại không nhận được phản hồi từ Mỹ. Bên cạnh đó, một
số Nghị sỹ thuộc đảng Cộng hòa như: Ted Cruz, Marco Rubio đều phản đối Tổng
116
thống Obama trao trả Vịnh Guantanamo cho Cuba với bất cứ giá nào vì coi đây là
tài sản quan trọng có tính chiến lược đối với an ninh quốc gia của Mỹ [54].
Điều làm cho Cuba lo ngại trong vấn đề này là sự tồn tại của Căn cứ
Guantanamo sẽ đe dọa tới an ninh quốc gia của Cuba. Thông qua căn cứ này Mỹ
có thể tiến hành chống phá Cuba về tư tưởng, chính trị, quân sự, đồng thời, dễ
dàng thực hiện các kế hoạch xâm nhập, đổ bộ và xâm lược Cuba sau đó tiến tới
thiết lập một chính quyền thân Mỹ tại đây. Mặt khác, Guantanamo là mảnh đất
cuối cùng của Cuba bị nước ngoài chiếm đóng, vấn đề này không chỉ liên quan
đến độc lập chủ quyền mà còn là sự tự tôn của dân tộc Cuba. Sự có mặt của Mỹ
tại căn cứ này cũng đồng nghĩa với việc sự nghiệp đấu tranh và giải phóng dân
tộc của Cuba vẫn chưa hoàn thành. Do đó, đây chính là chủ đề để Cuba phải đấu
tranh, lên án và đòi Mỹ trao trả hoàn toàn, vô điều kiện Guantanamo cho mình.
Nếu vấn đề Guantanamo không được giải quyết thì sự nghiệp đấu tranh bảo vệ
độc lập dân tộc và xây dựng đất nước vẫn bị đe dọa.
Thứ tư, cái chết của Fidel đã tác động không tốt đến sự nghiệp đấu tranh
bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba
Sự nghiệp cách mạng của Cuba luôn gắn liền với tên tuổi của lãnh tụ Fidel
Castro. Ông là nhà lãnh đạo có thời gian tại vị cao nhất là 49 năm, kiêm nhiệm 6
chức vụ quan trọng, đồng thời là người định hướng tư tưởng và dẫn dắt cách
mạng Cuba vượt qua nhiều khó khăn, thách thức. Sự ra đi của cố Chủ tịch Fidel
(11/2016), đã khiến cách mạng Cuba mất đi một người có khả năng dẫn dắt, định
hướng tư tưởng, duy trì khả năng ổn định trong nội bộ Đảng. Bởi Fidel là người
có tầm ảnh hưởng rất lớn đối với xã hội Cuba điều này được thể hiện qua sự
kiện: trong chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Obama tới Cuba (3/2016), Tổng
thống Mỹ đã có các cuộc tiếp xúc với các phần tử đối lập tại nhà hát Habana,
nhằm thúc đẩy quá trình chuyển hóa dân chủ ở Cuba, kích động các phần tử này
chống đối chính phủ. Trước diễn biến này, nguyên Chủ tịch Fidel đã có bài viết
"Suy ngẫm về người anh em Obama" đăng trên báo Granma, cơ quan ngôn luận
của Đảng cộng sản Cuba, nhằm cảnh tĩnh lãnh đạo và người dân Cuba tránh khỏi
âm mưu tự diễn biến, tự chuyển hóa [102, tr.20]. Bài viết này đã có tiếng vang
lớn đối với dư luận Cuba và các nước cánh tả Mỹ Latinh. Do đó, sự ra đi của ông
117
đã khiến quốc đảo này mất đi một chỗ dựa về tinh thần, tư tưởng quan trọng.
Đúng như nhận định của Chủ tịch Raul trong lễ nhậm chức (2/2008), "...Fidel là
không thể thay thế được".
Tóm lại, trong giai đoạn từ 2004-2016, với việc thực hiện chủ trương
"Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội" đã làm cho tình hình kinh tế-xã hội Cuba
về cơ bản đã thay đổi sâu sắc và toàn diện, đây chính là cơ sở và nền tảng giúp
quốc đảo này phát triển kinh tế, đảm bảo các quyền lợi do nhân dân. Tuy nhiên,
trong quá trình đấu tranh bảo vệ tổ quốc, Cuba vẫn không tránh khỏi những khó
khăn, thiếu sót đến từ các nguyên nhân bên trong, bên ngoài, nhất là chính sách
bao vây, cấm vận của Mỹ.
Tiểu kết chương 3
Nhận thức rõ được những trọng trách lịch sử của mình với cách mạng
Cuba trong bối cảnh mới, trong giai đoạn 1991-2016 với việc triển khai và thực
hiện các mục tiêu, nhiệm vụ và nội dung trong hai thời kỳ: "Thời kỳ đặc biệt
trong hòa bình" (1991-2004) và "Thời kỳ đẩy mạnh cải cách kinh tế và chủ
trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội" (2004-2016), Đảng và Nhà nước
Cuba đã vững bước trèo lái con thuyền cách mạng và đạt được một số kết quả
quan trọng trên các lĩnh vực. Về chính trị, ngoại giao, duy trì sự ổn định chính
trị- xã hội; kiện toàn lại hệ thống chính trị trong nước; mở rộng quan hệ ngoại
giao với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là với Mỹ nhằm phá
thế bao vây, cô lập, thù địch kéo dài trong gần 6 thập kỷ. Về kinh tế, du lịch và
công nghệ sinh học đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; đề ra chủ trương "Cập
nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội"; mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, và có sự hỗ
trợ đắc lực từ Venezuela về kinh tế, năng lượng. Về an ninh, quốc phòng, củng
cố và cải cách các Lực lượng vũ trang; duy trì các hoạt động hợp tác quân sự với
các nước trong khu vực và thế giới. Về văn hóa, xã hội, duy trì tư tưởng yêu
nước của Jose Marti; tiếp tục duy trì vị thế hàng đầu ở Mỹ Latinh và thế giới về
giáo dục, y tế, an sinh xã hội; đẩy mạnh hợp tác văn hóa của Cuba với trên thế
giới, nhất là Mỹ. Tuy nhiên, sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của
Cuba cũng gặp phải rất nhiều khó khăn, thách thức như: Mỹ vẫn duy trì chính
sách bao vây cấm vận, nhất là về kinh tế; khó khăn từ sự chống phá của Mỹ và
118
các thế lực thù địch; sự phụ thuộc rất lớn của Cuba vào nguồn viện trợ của Liên
Xô, Venezuela; sự già hóa thế hệ lãnh đạo; vấn đề Quantenama giữa Cuba với
Mỹ vẫn chưa được giải quyết; cái chết của lãnh tụ Fidel...
Như vậy, với việc thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ thông qua quá
trình thực hiện sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc trong giai đoạn 1991-
2016, về cơ bản Cuba vẫn duy trì được sự ổn định chính trị, xã hội trong nước,
giữ vững nền độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa trước sự chống phá
quyết liệt của Mỹ và các thế lực thù địch trong gần 30 năm qua.
119
Chương 4
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
Ở CUBA TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2016, MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM
VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
4.1. THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ
Trong 26 năm qua, mặc dù, phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thách
thức, song những trở ngại trên không thể ngăn cản được tiến trình phát triển của
dân tộc Cuba. Nhờ có đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước, dựa
vào sức mạnh đại đoàn kết toàn toàn dân tộc (đoàn kết giữa Đảng với Nhân dân,
đoàn kết toàn dân, đoàn kết trong nội bộ Đảng...) và sự giúp đỡ, ủng hộ lớn lao
của các lực lượng yêu chuộng hòa bình, dân chủ, tiến bộ xã hội trên thế giới (đặc
biệt là các nước xã hội chủ nghĩa, cánh tả Mỹ Latinh và nhóm ALBA), Đảng cộng
sản Cuba đã lãnh đạo đất nước vượt qua mọi thử thách hiêm nghèo "tưởng chừng
không thể vượt qua nổi của "thời kỳ đặc biệt trong hòa bình" (1991-2004)", thúc
đẩy cải cách kinh tế và chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội" (2004-
2016) và giành được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, ngoại
giao; kinh tế; an ninh, quốc phòng; văn hóa, xã hội. Đây được coi là những nhân tố
quan trọng quyết định những thành công của quá trình đấu tranh, bảo vệ độc lập dân
tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Cuba trong giai đoạn này.
4.1.1. Những thành tựu
Sau 26 năm tiến hành Cải cách kinh tế, với những cố gắng, nỗ lực không
mệt mỏi của Đảng và Nhà nước Cuba, công cuộc đấu tranh và bảo vệ độc lập
dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội đã thu được nhiều thành tựu to lớn, tập trung
ở một số lĩnh vực chủ yếu sau đây:
* Trên lĩnh vực chính trị- ngoại giao
Thứ nhất, duy trì sự ổn định chính trị, xã hội trong nước, tạo cơ sở bảo vệ
vững chắc nền độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thành công lớn nhất mà Đảng và Nhà nước Cuba đã đạt được trong lĩnh
vực này là duy trì sự ổn định chính trị, xã hội trong nước, đảm bảo vai trò lãnh
đạo của Đảng cộng sản với đất nước trên tất cả các mặt, củng cố niềm tin của
120
tuyệt đại đa số nhân dân Cuba về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội, đồng thời nhận được sự ủng hộ lớn lao của các quốc gia, dân tộc, các bạn
bè trong khu vực và thế giới, từ đó, tạo ra những tiền đề cho phát triển kinh tế,
phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Cuba.
Theo quan điểm của Đảng cộng sản Cuba, chỉ có sự ổn định chính trị, xã
hội, Cuba mới có điều kiện và thời gian để triển khai đồng bộ các chiến lược
phát triển kinh tế- xã hội, mở rộng quan hệ quốc tế, đồng thời, có thể tập hợp
toàn bộ sức mạnh trong xã hội để thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ chiến
lược mà Đảng và Nhà nước đề ra nhằm bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc và
chủ quyền quốc gia như: để đưa ra được chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh
tế-xã hội" tại Đại hội VI (4/2011), Đảng cộng sản Cuba phải lấy ý kiến đóng góp
của hàng triệu quần chúng trong một thời gian dài (từ tháng 12/2010 đến tháng
2/3/2011) [29]. Điều này, không chỉ tạo ra sự đồng thuận trong xã hội đối với
Văn kiện Đảng quan trọng này mà còn chứng minh được sự ổn định về chính trị-
xã hội của nước Cộng hòa Cuba.
Thứ hai, quá trình đổi mới tư duy chính trị ở Cuba đã đem lại những thành
tựu quan trong đối với sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc.
Thành công trong đổi mới tư duy chính trị cũng đóng một vai trò quan
trọng đến sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba. Đây là một cuộc
đấu tranh lâu dài, gian khổ và đòi hỏi sự cố gắng, nỗ lực rất lớn của toàn Đảng,
toàn dân trong đó có cả các lãnh đạo cấp cao. Bởi ngay trước giai đoạn Cuba tiến
hành cải cách và khi tiến hành sự nghiệp này, hầu hết các nhà lãnh đạo đều
khẳng định Cuba có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội theo mô hình của
Xô Viết (kinh tế kế hoạch) mà không cần phải có sự thay đổi, thậm chí một số ý
kiến trong đảng còn cho rằng Cuba đang ở thời kỳ "Chủ nghĩa xã hội" và chuẩn
bị tiến lên giai đoạn "Chủ nghĩa cộng sản". Ngay bản thân lãnh tụ cách mạng
Fidel cũng rơi vào quan điểm "tả khuynh" khi nghi ngờ đường lối "Đổi mới" của
Việt Nam và coi đây là mô hình "kinh tế thị trường tự do" kiểu phương Tây mà
Liên Xô và các nước Đông Âu đã gặp phải. Thậm chí, Chủ tịch Fidel còn cách
chức Đại sứ Cuba tại Việt Nam, là người bạn chiến đấu trong trận chiến
121
Moncada của mình, Menba Heznandez với lý do không nắm bắt được tình hình
của Việt Nam. Đặc biệt, trong chuyến thăm Việt Nam vào tháng 9/1993, Fidel đã
nói: "Cuba không cần ai dạy khôn nước mình về xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cuba đủ hiểu về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội của mình", đồng thời,
"Biết rõ cần phải làm gì để xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoài nghi về nền kinh
tế thị trường" [88]. Tuy nhiên, cùng với thời gian, Fidel đã nhận ra những sai lầm
phạm phải trong quá trình cải cách và nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội. Trong bài phát biểu tại Đại học Habana (11/2005), ông đã khẳng định:
"Sai lầm nghiêm trọng nhất chính là trong một thời gian dài, ông đã lầm tưởng
rằng có một người nào đó hiểu rõ về chủ nghĩa xã hội và người ấy biết rõ cần
phải làm gì để xây dựng chủ nghĩa xã hội" [88]. Sự thay đổi tư duy của Fidel
được coi là một bước đột phá và từ đây lãnh đạo đảng, nhà nước Cuba đã bắt đầu
chịu nghe về đổi mới tư duy chính trị.
Những đổi mới chính trị lớn lao dưới thời Raul như: giới hạn độ tuổi của
các nhà lãnh đạo cấp cao; giới hạn nhiệm kỳ lãnh đạo; trẻ hóa đội ngũ cán bộ;
phát huy vai trò của báo chí, đặc biệt là việc đề ra chủ trương "Cập nhật hóa mô
hình kinh tế-xã hội" đã góp phần đưa Cuba từng bước thoát khỏi những khó
khăn kinh tế-xã hội, qua đó góp phần phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc chủ
quyền quốc gia, dân tộc trong bối cảnh mới.
Thứ ba, Đảng cộng sản Cuba luôn nhất quán nền tảng tư tưởng của chủ
nghĩa Mác-Lênin và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn cách mạng Cuba trong gần 6 thập kỷ qua đã chứng minh một
thực tiễn sinh động rằng chỉ có đặt dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng cộng
sản với nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Jose Marti và tư tưởng
của lãnh tụ lịch sử Fidel Castro Cuba mới bảo vệ vững chắc được nền độc lập
dân tộc. Trong giai đoạn trước năm 1991, nhờ những nền tảng tư tưởng này mà
cách mạng Cuba đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng như: chiến thắng
Hiron, cuộc khủng hoảng tên lửa...Từ năm 1991 đến nay, với sự dẫn dắt của các
nền tảng tư tưởng này, cách mạng Cuba tiếp tục vượt qua nhiều thử thách hiểm
nghèo: sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa của Liên Xô; chính sách bao
vây, cấm vận, cô lập của Mỹ...không những vậy, Cuba còn từng bước thực hiện
122
thành công công cuộc cải cách kinh tế và củng cố được khối đại đoàn kết thống
nhất trong đảng, giữa đảng với nhân dân và tiếp tục đặt nó dưới sự lãnh đạo của
một đảng Mác xít Lêninnit chân chính.
Trong hoàn cảnh đất nước hiện nay, Đảng cộng sản Cuba vẫn luôn coi hệ tư
tưởng trên là kim chỉ nam, điều kiện, tiền đề quan trọng để đưa Cuba thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu, đối phó thành công với những chính sách của Mỹ và các thế lực
phản động bên trong và bên ngoài. Đồng thời, đảng đã thực sự trở thành hạt nhân
lãnh đạo, bộ tham mưu chiến đấu của cách mạng Cuba, nhờ đó mà sự chuyển giao
thế hệ lãnh đạo từ Fidel đến Raul diễn ra suôn sẻ. Sự trụ vững của cách mạng Cuba
trong giai đoạn 1991-2016, một lần nữa chứng tỏ sự kiên định của đảng với những
hệ tư tưởng trên là hoàn toàn đúng đắn và đây tiếp tục được coi là kim chỉ nam soi
sáng cách mạng Cuba giành được nhiều thắng lợi trong thời gian tới.
Thứ tư, Cuba đã thúc đẩy việc mở rộng quan hệ hợp tác với khu vực và
thế giới.
Một thành tựu nữa của cách mạng Cuba trong giai đoạn này chính là việc
đẩy mạnh hợp tác quốc tế với các nước trên thế giới đặc biệt là các nước Mỹ
Latinh. Nếu như, trong thời kỳ chiến tranh Lạnh, quan hệ đối ngoại của Cuba với
các nước trong khu vực và thế giới chủ yếu là mối quan hệ mang đậm màu sắc ý
thức hệ với các nước xã hội chủ nghĩa. Điều này, đã làm hạn chế quan hệ ngoại
giao của Cuba với bên ngoài. Thì sau chiến tranh Lạnh, với sự sụp đổ của Liên
Xô và chính sách cô lập ngoại giao của Mỹ, Cuba đã từng bước có thay đổi
chính sách đối ngoại theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa quạn hệ quốc tế,
theo đó, ưu tiên thúc đẩy và phát triển quan hệ với các nước láng giềng ở Mỹ
Latinh như: Venezuela, Nicaragua, Brazil, Bolivia...và các nước đang phát triển,
các nước lớn trên thế giới như: Mỹ, Nga, Trung Quốc, EU, Việt Nam...Nhờ sự
thay đổi trên mà Cuba đã đạt được nhiều thành tựu như: bình thường hóa quan
hệ với Mỹ; cải thiện quan hệ với EU; nâng cao được vai trò, vị trí trong khu vực
và thế giới, qua đó, giúp quốc đảo này có thể mở rộng hợp tác quốc tế với bên
ngoài trong bối cảnh chính sách cấm vận kinh tế của Mỹ vẫn được duy trì.
* Trên lĩnh vực kinh tế
Thứ nhất, sự thay đổi trong tư duy kinh tế của Đảng và Nhà nước Cuba.
123
Cũng giống như sự đổi mới về tư duy chính trị, quá trình đổi mới tư duy
kinh tế cũng diễn biến rất phức tạp. Trong giai đoạn trước 1991, do chịu ảnh
hưởng sâu sắc của mô hình "Kinh tế Kế hoạch" kiểu Xô Viết nên các nhà lãnh
đạo Cuba không thừa nhận bất cứ mô hình kinh tế nào khác. Cuba xem "Kinh tế
kế hoạch" là đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân, không thừa
nhận sự tồn tại của kinh tế nhiều thành phần, tư nhân, cá thể tiểu chủ do lo ngại
các mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa có thể xuất hiện trở lại ở Cuba. Đồng
thời, xây dựng quan hệ kinh tế khép kín với các đối tác truyền thống như Liên
Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Lãnh đạo Cuba, kể cả chủ tịch
Fidel không thích nói về kinh tế thị trường. Điều này, đã làm hạn chế sự phát
triển nền kinh tế đất nước, mối quan hệ hợp tác quốc tế với bên ngoài. Hậu quả
của những nhận thức sai lầm trên là Cuba đã rơi vào khủng hoảng kinh tế trầm
trọng khi Liên Xô sụp đổ. Còn trong giai đoạn từ 1991 đến nay, với việc thực
hiện cải cách kinh tế và sự đổi mới tư duy kinh tế tại Đại hội VI (4/2011) thông
qua chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội", Đảng và Nhà nước Cuba
đã thu được nhiều thành tựu quan trọng trong kinh tế như: xây dựng nền kinh tế
nhiều thành phần; khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân phát triển; ban
hành luật đầu tư mới; từng bước xóa bỏ hệ thống đồng tiền kép...Điều này, cũng
đã từng bước giúp nền kinh tế Cuba duy trì được sự tăng trưởng kinh tế liên tục
trong 22 năm (từ 1994-2016); đời sống nhân dân từng bước được cải thiện; chế
độ an sinh xã hội, miễn phí về giáo dục, y tế tiếp tục được duy trì...Đây chính là
cơ sở và nền tảng quan trọng giúp Cuba bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc,
chủ quyền quốc gia, bởi nếu Cuba phụ thuộc quá nhiều vào kinh tế bên ngoài thì
nguy cơ bị mất độc lập tự chủ sẽ khó tránh khỏi và kịch bản sẽ bị lập lại như sự
phụ thuộc của Cuba vào Liên Xô trước đây.
Thứ hai, quá trình hội nhật kinh tế quốc tế thu được nhiều thành tựu khả
quan, đã giúp Cuba từng bước phát triển kinh tế đất nước, nâng cao vai trò, vị
thế trong khu vực và thế giới.
Nếu như trong thời kỳ chiến tranh Lạnh, quan hệ kinh tế của Cuba với bên
ngoài chỉ dừng lại ở hình thức viện trợ, cho và nhận từ Liên Xô và hậu quả của
nó là Cuba bị lệ thuộc quá nhiều vào thị trường này, nên khi Liên Xô lâm vào
124
khủng hoảng và sụp đổ, Cuba đã không đủ sức để chống đỡ với những tác động
kinh tế đem lại. Hậu quả là đời sống của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn, nền
độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Cuba rơi vào thế ngàn cân treo sợi
tóc. Từ mất độc lập về kinh tế, nguy cơ mất độc lập tự chủ về chính trị và chế độ
đã dần hiện hữu ở Cuba trong giai đoạn này. Để khắc phục những sai lầm trên,
từ năm 1991 đến nay, với đường lối cải cách kinh tế, Đảng và Nhà nước đã từng
điều chỉnh đường lối kinh tế đối ngoại, nhất là từ Đại hội VI, theo phương châm
đa dạng hóa các đối tác kinh tế. Nhờ sự thay đổi này, đến nay Cuba đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng: cải thiện quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp Mỹ,
EU; tăng cường hợp tác kinh tế với Trung Quốc, Brazil; tham gia sáng lập các tổ
chức kinh tế khu vực: CELAC, ALBA...Đặc biệt, việc tham gia hội nhập kinh tế
quốc tế còn giúp quốc đảo này có thêm nhiều kinh nghiệm về kinh tế thị trường
để có thể xây dựng và phát triển mô hình kinh tế thị trường theo "kiểu Cuba",
nhằm thức đẩy nền kinh tế đất nước phát triển và tránh phụ thuộc vào các đối tác
truyền thống như Venezuela và hạn chế đến mức thấp nhất những tổn thất về
kinh tế do chính sách cấm vận kinh tế hà khắc của Mỹ đem lại.
* Trên lĩnh vực an ninh- quốc phòng
Lực lượng vũ trang cách mạng Cuba là nhân tố quan trọng giúp bảo vệ
vững chắc nền độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia trong bối cảnh chính sách
bao vây cấm vận của Mỹ vẫn được duy trì và siết chặt hơn kể từ sau chiến tranh
Lạnh đến nay.
Với một lực lượng vũ trang gồm 3 thứ quân (hải quân, lục quân và không
quân), có tính chính quy, kỷ luật và tinh thần chiến đấu cao, các lực lượng vũ
trang Cuba đã bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng thông qua việc đập tan các
mưu đồ can thiệp quân sự, tấn công mạng, cài cắm điệp viên và tập hợp các lực
lượng đối lập để đòi tự do chính trị. Đặc biệt, bất chấp việc chính quyền Mỹ biến
Quantenamo thành nơi giam giữ các phần tử khủng bố và tăng cường các hoạt
động quân sự, coi đây là bàn đạp để tấn công quân sự để lật đổ chế độ Castro khi
cần thiết. Nhưng với một tinh thần đoàn kết, có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng
và Nhà nước, lực lượng vũ trang cách mạng Cuba vẫn duy trì và giữ vững được
nền độc lập dân tộc.
125
Ngoài ra, với tư cách là một lực lượng chủ chốt bảo vệ độc lập dân tộc,
các lực lượng vũ trang cách mạng Cuba đã thu được nhiều thành công trong việc
mở rộng, hợp tác giao lưu trao đổi quân sự đối với các nước trong khu vực và
trên thế giới, qua đó, nhằm hiện đại hóa và nâng cao tiềm lực quốc phòng.
* Trên lĩnh vực văn hóa- xã hội
Với chính sách miễn phí về giáo dục, y tế và an sinh xã hội tốt đẹp đã
giúp củng cố niềm tin của nhân dân vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà
Đảng và Nhà nước Cuba đã lựa trọn trong gần 3 thập kỷ qua.
Mặc dù, trong giai đoạn này nền kinh tế -xã hội Cuba còn khó khăn, thách
thức, nhưng xuất phát từ quan điểm mọi chính sách của Đảng và Nhà nước đều
phải đảm bảo mục tiêu phúc lợi xã hội miễn phí cho toàn dân nên Cuba vẫn duy
trì nhất quán mục tiêu miễn phí trong giáo dục, y tế và an sinh xã hội, đồng thời,
đảm bảo mức sống tối thiểu cho các đối tượng chính sách. Đây được coi là điểm
mạnh, tính ưu việt của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Cuba. Nó đã thực sự chứng tỏ
tính nhân văn, nhân đạo của chế độ mới và là sự khác biệt hoàn toàn so với các
chế độ chính trị xã hội ở Mỹ Latinh và chủ nghĩa xã hội ở các nước trên thế giới.
Ngoài việc duy trì tính ưu việt này, Cuba còn sáng tạo ra chính sách "ngoại giao
y tế", chính sách này không những giúp Cuba nâng cao hình ảnh trên trường
quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong việc yêu cầu Mỹ xóa
bỏ chính sách cấm vận, mà còn trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đem lại nguồn
thu ngoại tệ lớn nhất, giúp Cuba từng bước thoát khỏi khó khăn kinh tế, cải thiện
đời sống của nhân dân. Những kết quả thu được từ các chính sách trên, đã một
lần nữa góp phần giúp Cuba củng cố hơn nữa niềm tin của nhân dân vào sự lãnh
đạo của Đảng, bất chấp sự chống phá quyết liệt của các thế lực phản động trong
và ngoài nước. Đây chính là nền tảng quan trọng giúp Cuba bảo vệ độc lập dân
tộc và chế độ xã hội nghĩa trong bối cảnh mới.
4.1.2. Những hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập
dân tộc của Cuba còn tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém và tác động xấu đến quá
trình này cụ thể như sau:
126
Thứ nhất, Cuba chưa xây dựng được mô hình chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh
theo "kiểu Cuba"
Một trong những hạn chế lớn nhất của cách mạng Cuba trong giai đoạn
hiện nay là chưa xây dựng được môt mô hình chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh theo
kiểu Cuba. Trong giai đoạn trước 1991, hệ thống chính trị Cuba về cơ bản là "bệ
nguyên" mô hình của Xô Viết để xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước mình như:
chức danh của các nhà lãnh đạo; quá trình ban hành quyế định của các cơ quan
Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ giống như nhau và đặc biệt là chủ quan,
duy ý chí và đốt cháy giai đoạn trong quá trình xây dựng nền kinh tế-xã hội đất
nước. Lãnh đạo Cuba đã tin tưởng tuyệt đối vào mô hình phát triển đất nước của
Liên Xô mà không nhận rõ được những hạn chế, khiếm khuyết của nó. Từ sau
chiến tranh Lạnh đến nay, Cuba đã tiến hành thử nghiệm nhiều kế hoạch cải
cách, sửa sai, đề ra các chiến lược phát triển kinh tế đất nước...cùng với đó, là
việc tham khảo kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Trung
Quốc, nhưng vẫn chưa đưa ra được một mô hình chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh mà
chỉ dừng lại ở "cập nhật" chứ không phải là "Đổi mới" hay "Cải cách". Thậm chí
các nhà lãnh đạo Cuba như Chủ tịch Raul, phó Chủ tịch Miguel Diaz -Canel còn
nghi ngờ chính đường lối cập nhật hóa khi khẳng định: “Một số doanh nghiệp tư
nhân muốn xây dựng lại hình ảnh lý tưởng của Cuba trước cách mạng” và cho
chấm dứt việc mở rộng mô hình kinh tế tư nhân bất chấp một thực tế là mô hình
này tạo ra tới 72% việc làm mới cho người dân Cuba trong giai đoạn từ 2010 đến
tháng 6/2017 [113].
Đây chính là cơ sở để Mỹ và các thế lực phản động lợi dụng tuyên truyền,
chống phá và cho rằng Đảng cộng sản Cuba đã bế tắc về đường lối và đi theo
quỹ đạo dân chủ phương Tây, Cuba mới có thể đi thoát khỏi tình trạng bế tắc này
[187]. Sự khó khăn này diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế Cuba đang phải đối
mặt với tình trạng thiếu năng lượng; chính sách cấm vận kinh tế của Mỹ vẫn
được duy trì, có phần siết chặt hơn; lãnh tụ Fidel đã mất; trong khi Raul và các
nhà lãnh đạo thuộc thế hệ lịch sử sẽ dần rút khỏi chính trường. Đây chính là
nguy cơ tác động trực tiếp đến quá trình bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc
gia của Cuba trong hiện tại và tương lai.
127
Thứ hai, những bất cập trọng điều hành và quản lý nền kinh tế đất nước
Bên cạnh những thành tựu thu được trong quá trình cải cách kinh tế, Cuba
hiện đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là trong việc
điều hành và quản lý nền kinh tế vĩ mô. Điều này, được thể hiện rõ qua chương
trình hợp nhất hai đồng tiền được khởi xướng từ năm 2013 những đến nay đã bị
trì hoãn và lùi tới một thời điểm không xác định do những lo ngại về bất ổn
chính trị có thể xảy ra; Đặc khu Mariel ra đời từ năm 2013 nhưng đến nay mới
thu hút được một số vốn đầu tư rất hạn chế; kế hoạch tăng trưởng kinh tế từ 5-
7% do Đại hội VI, VII đề ra nhưng đến nay vẫn không hoàn thành mục tiêu, khi
Tổng GDP giảm 0,9% (2016) [109, tr.16]. Bên cạnh những hạn chế nêu trên,
việc Cuba liên tục thực hiện các đợt cải cách, sửa sai kinh tế; không chấp nhận
quá trình cải cách kinh tế nhanh mạnh theo hướng thị trường mà chỉ theo hướng
"Tiến lên trong ổn định" [101, tr.16] cũng làm cho quá trình vận hành, điều hành
kinh tế vĩ mô của Cuba gặp khó khăn.
Ngoài ra, việc Cuba chưa có một mô hình kinh tế -xã hội, xã hội chủ
nghĩa mà chỉ mới đưa ra khái niệm chung, nên trong quá trình vận hành và quản
lý kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Mặt khác, đội ngũ cán bộ, đặc biệt là
đội ngũ cán bộ cấp cao còn thiếu kinh nghiệm quản lý về kinh tế thị trường,
trong khi tư duy kinh tế kiểu bao cấp, thói quen ỷ lại, dựa dẫm vào nhà nước vẫn
còn tồn tại trong một bộ phận không nhỏ các nhà quản lý kinh tế của Cuba. Một
trong những nguyên nhân quan trọng làm cản trợ sự phát triển kinh tế của Cuba
trong nhiều thập niên chính là thói quen dựa vào sự trợ giúp về kinh tế từ bên
ngoài như Liên Xô, Venezuela, mà không tạo ra nội lực bên trong, nên khi các
nước này lâm vào khủng hoảng, khó khăn về kinh tế, ngay lập tức nền kinh tế
Cuba bị tác động mạnh mẽ và khó có khả năng chống đỡ được với những tác
động này, điển hình là cuộc khủng hoảng năng lượng vừa qua do Venezuela cắt
giảm mạnh nguồn viện trợ về năng lượng. Tất cả những hạn chế, yếu kém nêu
trên đã trở thành nguy cơ, trở lực ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, ổn định
chính trị-xã hội của đất nước và điều này, cũng đã góp phần tác động đến độc lập
tự chủ của Cuba.
128
Thứ ba, Cuba là quốc gia có nền văn hóa đa dạng với nhiều sắc tộc, tôn
giáo khác nhau, nên đây chính là cơ hội để Mỹ và các thế lực phản động lợi dụng
chống phá
Quá trình hình thành, phát triển và đấu tranh giải phóng dân tộc đã hình
thành lên ở Cuba một nền văn hóa đa dạng, đa sắc tộc, chủng tộc. Sự đa dạng
này đã hình lên ở Cuba một nền văn hóa riêng có và khác biệt so với các nước
Mỹ Latinh khác. Đây cũng chính là nguồn sức mạnh tạo ra nền văn hóa yêu
nước ở quốc đảo tự do này. Tuy nhiên, sự đa dạng này cũng đặt ra cho Cuba
nhiều thách thức, nhất là trong bối cảnh Mỹ và các lực lượng phản cách mạng
luôn lợi dụng yếu tố này để chống phá Đảng và Nhà nước Cuba. Với đặc thù có
tới 80% dân số theo đạo Thiên chúa và một bộ phận theo Do thái giáo, Mỹ đã và
đang thực hiện chiêu bài diễn biến hòa bình; dân chủ , nhân quyền, dân tộc và
tôn giáo để kích động, chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng cộng sản với các tầng lớp
nhân dân, giữa các tôn giáo với nhau. Đồng thời, thông qua các lực lượng này
tiến hành tập hợp lực lượng, thu thập các tin tức tình báo để phá hoại Cuba từ
bên trong. Đặc biệt, sự kiện các Đức giáo hoàng Jean Paul II, Benedict XVI,
Francis I đều có các chuyến thăm Cuba trong thời gian làm lãnh đạo ở Vantican
vào các năm 1998, 2012, 2015, bên cạnh việc thúc đẩy quan hệ tôn giáo, văn hóa
giữa quốc gia Công giáo này với giáo Hội Thiên chúa giáo Cuba, còn có một
mục tiêu khác là thăm dò, cổ xúy cho các phần tử đội lốt tôn giáo gây diễn biến
hòa bình trong nội bộ Cuba.
Sau khi Mỹ và Cuba bình thường hóa quan hệ (2014), chính quyền Mỹ đã
tăng cường các hoạt động chống Cuba bằng việc cho các công ty truyền thông
của Mỹ vào đầu tư và làm ăn ở Cuba nhằm thu thập tin tức tình báo, gây mất ổn
định xã hội, chính trị thông qua các trang mạng internet...Đồng thời, tăng cường
truyền bá văn hóa phương Tây vào trong xã hội Cuba, nhất là giới trẻ nhằm mục
tiêu làm phai nhạt nền văn hóa cách mạng của Jose Marti, thực hiện chiến lược
tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ Cuba. Điều này, đã tác động trực tiếp
đến một số bộ phận người dân khi vào tháng 12/2016, Cuba đã bắt giam nghệ sỹ
đàn Graffiti, Danilo Maldonado (biệt danh Elsexto), một phần tử chống đối cách
mạng được Mỹ hậu thuẫn (nhân vật này từng bị tòa án Cuba bắt giam năm 2014
129
khi viết tên 2 lãnh tụ cách mạng Fidel và Raul trên lưng 2 con lợn sống trong
một buổi biểu diễn nghệ thuật và được trả tự do vào tháng 8/2015). Sau khi Lãnh
tụ Fidel qua đời, phần tử cách mạng này đã viết lên trên mặt tiền của nhiều tòa
nhà công cộng dòng chữ "Sue Fue" (Ông ta đã ra đi) [110, tr.12-13] và tạo thành
nguy cơ đe dọa đến độc lập tự chủ ở Cuba nhất là trong bối cảnh người định
hướng nền văn hóa cách mạng Cuba lãnh tụ Fidel Castro đã mất.
4.2. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH BẢO VỆ
ĐỘC LẬP DÂN TỘC Ở CUBA GIAI ĐOẠN 1991-2016
Từ việc phân tích những nhân tố tác động, mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung,
sự triển khai bảo vệ độc lập dân tộc trong hai giai đoạn 1991-2004, 2004-2016
và đánh giá những thành tựu, hạn chế của quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân
tộc ở Cuba giai đoạn từ sau chiến tranh Lạnh đến nay, tác giả đã đưa ra một số
đặc điểm chủ yếu về quá trình này như sau:
Thứ nhất, sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc luôn gắn liền với quá
trình xây dựng và đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện và hoàn cảnh của Cuba.
Cách mạng Cuba thành công (1/1/1959), với sự giúp đỡ của Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa, Cuba đã quyết định lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội hiện thực theo mô hình Xô Viết, tập trung quan liêu bao cấp. Mô hình này,
ngoài việc đem lại cho Cuba một số thành quả quan trọng về giáo dục, y tế, an sinh
xã hội, nhưng cũng đã tạo ra không ít thách thức, hệ lụy, nhất là việc Cuba lại nằm
ngay sát nách một siêu cường tư bản chủ nghĩa là Mỹ, luôn có quan điểm thù địch
chống Cuba và muốn lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở quốc đảo này.
Trong suốt gần 6 thập kỷ qua, đặc biệt từ sau khi chiến tranh Lạnh kết
thúc, với sự sụp đổ của Liên Xô, Cuba luôn phải chịu sự chống phá, bao vây, cô
lập toàn diện từ Mỹ, nhưng mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh bảo
vệ nền độc lập dân tộc ở Cuba vẫn không thay đổi. Bởi độc lập dân tộc chính là
mục tiêu trước mắt, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc (mục tiêu
trước mắt) và tiến lên chủ nghĩa xã hội (mục tiêu lâu dài) có mối quan hệ biện
chứng với nhau, không thể đi đến mục tiêu lâu dài nếu không thực hiện được mục
tiêu trước mắt. Nền độc lập dân tộc chính là tiền đề để Cuba đi lên chủ nghĩa xã hội,
là con đường tốt nhất để bảo vệ thành quả của độc lập dân tộc. Đây cũng chính là
130
đặc điểm tiêu biểu nhất của cách mạng Cuba trong giai đoạn này về đấu tranh bảo
vệ độc lập dân tộc trước sự bao vây, chống phá, cô lập của Mỹ và các thế lực phản
động nhằm mục tiêu lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở quốc đảo này.
Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước Cuba cũng xác định quá trình này là sự
nghiệp lâu dài, gian khổ và phức tạp vì nó phải bảo vệ được thành quả của cách
mạng năm 1959, đồng thời, phải tạo ra sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các
mặt của đời sống xã hội. Chính nhờ hiểu và nắm vững được yếu tố này mà cách
mạng Cuba đã vượt qua được mọi khó khăn, thử thách trong "thời kỳ đặc biệt
trong hòa bình", đồng thời thực hiện thắng lợi nhiều mục tiêu trong công cuộc
cải cách kinh tế và chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội". Trong
những năm tới đây, sự nghiệp cách mạng của Cuba chắc chắn vẫn luôn gắn chặt
với đặc điểm và mục tiêu này vì nếu xa rời nó Cuba sẽ mất phương hướng và có
thể một lần nữa quay trở lại quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản như trước năm 1959
và thành quả trong quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng chủ
nghĩa xã hội sẽ không còn tồn tại nữa.
Thứ hai, một đặc điểm làm hạn chế đối với quá trình bảo vệ độc lập dân
tộc ở Cuba trong giai đoạn này chính là sự chống phá quyết liệt của cộng đồng
người Mỹ gốc Cuba (khác so với cộng đồng người Hoa kiều của Trung Quốc)
Cộng đồng người Mỹ gốc Cuba, Hoa Kiều đều có chung một đặc điểm là
những người rời bỏ "đất mẹ" đến Mỹ sau sự thất bại của các chính quyền thân
Mỹ trong các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Cuba (1959) và nội chiến
cách mạng ở Trung Quốc (1949). Tuy nhiên, sau thành công của các cuộc cách
mạng này, quan điểm của các cộng đồng người trên về quê hương của mình có
sự khác biệt.
Nếu như cộng đồng người Hoa kiều (chiếm khoảng 15 triệu người và sinh
sống đông đảo thứ 2 tại Mỹ), được đánh giá là cộng đồng người có đầu óc dân tộc
chủ nghĩa. Thì cộng đồng người Mỹ gốc Cuba lại luôn có tư tưởng đối nghịch với
chế độ chính trị ở quê hương mình. Hiện nay, cộng đồng người Mỹ gốc Cuba có
khoảng 2 triệu người, là lực lượng có tiềm lực về kinh tế, ảnh hưởng về chính trị
trong xã hội Mỹ. Do những mâu thuẫn từ trong lịch sử với chính quyền Fidel về vấn
đề quốc hữu hóa tài sản nên họ luôn ủng hộ chính sách bao vây cấm vận của chính
131
quyền Mỹ; phản đối những nỗ lực cải thiện quan hệ song phương của hai nước như:
Sau sự kiện "tấn công sóng âm" (tháng 2/2017), các Thượng Nghị sỹ Mỹ gốc Cuba
như: Marco Rubio, Ileana Ross, Diaz Balarl đã gửi thư cho Ngoại trưởng Mỹ Rex
Tillerson yêu cầu chính phủ Mỹ đáp trả cứng rắn với Cuba bằng việc trục xuất tất cả
các nhà ngoại giao và đóng cửa đại sứ quán Cuba tại Mỹ [111]. Đây chính là minh
chứng cho sự thù địch của người Mỹ gốc Cuba với tổ quốc, bất chấp một thực tế là
hai nước đã bình thường hóa quan hệ song phương. Không những vậy, các lực
lượng này còn kết hợp với những phần tử chống đối trong nước tiến hành các hoạt
động đánh bom, tấn công mạng gây mất trật tự an ninh xã hội, tạo ra mâu thuẫn
giữa Đảng với nhân dân và cho người dân mất niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng.
Điều này, đã ảnh hưởng rất lớn đến sự ổn định chính trị trong nước của Cuba trong
giai đoạn này và tạo ra sự khác biệt lớn về quan điểm chính trị đối với tổ quốc giữa
người Mỹ gốc Cuba và cộng đồng Hoa kiều.
Thứ ba, sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba luốn gắn liền
với sự phát triển của phong trào cánh tả Mỹ Latinh, nhất là nhóm thiên tả ALBA
Một đặc điểm của quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba
trong giai đoạn này là sự gắn kết của cách mạng Cuba với phong trào cánh tả ở
Mỹ Latinh, đặc biệt là nhóm ALBA về lý luận và thực tiễn. Về lý luận, Cuba và
các nước ALBA đã đưa ra đề án xây dựng "Chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ XXI"
ở Mỹ Latinh với nội dung chính là lấy chủ nghĩa Mác, tư tưởng cách mạng tiến
bộ Simon Bolivar và tư tưởng nhân đạo Thiên chúa giáo làm nền tảng tư tưởng
để xậy một xã hội mới ở Mỹ Latinh trong thế kỷ XXI. Về thực tiễn, Cuba chính
là trụ cột về chính trị, còn Venezuela là trụ cột về kinh tế của ALBA.
Quá trình bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba trong giai đoạn này không thể
không kể đến sự giúp đỡ đắc lực của các nước cánh tả Mỹ Latinh về kinh tế, tài
chính, năng lượng như: Venezuela, Nicaragua, Bolivia, Ecuador...sự giúp đỡ to
lớn trên đã giúp nền kinh tế Cuba từng bước thoát khỏi khó khăn; chế độ xã hội
chủ nghĩa được giữ vững trước chính sách bao vây cấm vận của Mỹ.
Thông qua ALBA, Cuba cũng từng bước mở rông quan hệ đối ngoại; thúc
đẩy hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư góp phần đưa nền kinh tế đất nước dần
phục hồi, từng bước nâng cao vai trò, vị thế ở khu vực.
132
Thứ tư, việc đề ra chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội, được
coi là chủ trương lớn giúp Cuba phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân
dân và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Việc Cuba sử dụng "Cập nhật"
không phải là "Cải cách" theo Trung Quốc hay "Đổi mới" theo Việt Nam được
coi là đặc điểm riêng biệt của cách mạng Cuba trong giai đoạn này.
Trong quá trình phát triển đất nước, Cuba thường không sử dụng cụm từ
"cải tổ" hay "cải cách" mà thường sử dụng "hoàn thiện" hay "cập nhật", để vạch
rõ ranh giới với "cải tổ", "cải cách" theo chủ nghĩa tự do mới ở Liên Xô và Đông
Âu, nhưng trên thực tế, đây cũng là một hình thức của "cải cách". Từ những năm
80 của thế kỷ XX đến nay, Cuba đã 3 lần tiến hành cải cách kinh tế và 2 lần sửa
sai nhưng để đảm bảo tính định hương xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế, Đảng và
Nhà nước Cuba vẫn tiếp tục khẳng định mô hình phát triển kinh tế của Cuba
trong hiện tại và tương lai vẫn là "cập nhật" vì trước hết đây là quá trình "cập
nhật" chứ không phải là "cải cách", vì Cuba không áp dụng "Cải cách" nền kinh
tế theo mô hình của Trung Quốc hay Việt Nam, mà muốn đưa một số yếu tố "thị
trường" vào việc phát triển kinh tế để phù hợp với điều kiện và tình hình đất
nước của Cuba. Mặt khác, Đảng và Nhà nước Cuba cũng cho rằng: đây là quá
trình diễn ra lâu dài, từ từ và có chọn lọc nên trong quá trình thực hiện, một số
yếu tố cũ như chế độ bao cấp về y tế, giáo dục, chính sách quản lý, điều tiết của
Nhà nước và vai trò của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân vẫn được
duy trì để đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Cuba còn giải thích tiếp
những biện pháp trên sẽ giúp Cuba dần tiếp cận với định hướng "thị trường" sau
đó mới tiến tới nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây được coi
là sáng tạo về mặt lý luận và thực tiễn mà Đảng cộng sản Cuba đã đúc rút được
từ kinh nghiệm thực tiễn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc
không chỉ ở nước mình mà còn từ những bài học thành công, thất bại của những
nước xã hội chủ nghĩa còn lại trên thế giới hiện nay.
Thứ năm, quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và chống lại các
chính sách bao vây cấm vận của Cuba kéo dài nhất trong lịch sử (gần 60 năm) so
với Việt Nam và 20 quốc gia khác đã từng bị Mỹ thi hành chính sách bao vây,
cấm vận. Nó, đã tạo ra điểm khác biệt, riêng có của quốc đảo này.
133
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Cuba có những khác biệt
cơ bản so với Việt Nam và các nước đã từng bị Mỹ thực thi chính sách cấm vận
như: Cuba chỉ nằm cách Mỹ 150 km; là một đất nước xã hội chủ nghĩa duy nhất
ở Tây bán cầu, nhỏ bé về diện tích, dân số; kinh tế lạc hậu; lệnh cấm vận của Mỹ
đối với Cuba kéo dài nhất so với 20 lệnh cấm vận trên (gần 60 năm). Còn các
nước khác như Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Iran, nằm cách xa Mỹ, có tiềm lực
nhất định về quốc phòng, thời gian cấm vận ngắn hơn nhiều: Việt Nam (20
năm); Triều Tiên (24 năm); Iran (36) năm...Những đặc điểm này đã tạo ra cho
Cuba một tâm thế cảnh giác cao độ với Mỹ thông qua việc luôn thực hiện các
biện pháp sửa sai trong kinh tế nhằm đưa đất nước thoát khỏi khó khăn do lệnh
cấm vận của Mỹ gây nên và tiếp tục duy trì chính sách bao cấp, miễn phí trong
giáo dục, y tế, an sinh xã hội để tạo ra sự công bằng trong xã hội, làm cho người
dân tin tưởng vào chế độ và sự lãnh đao của Đảng.
Thứ sáu, việc duy trì tốt các chính sách ưu việt về giáo dục, y tế, an sinh
xã hội được coi là vũ khí giúp Cuba chống lại mọi âm mưu chống phá của Mỹ và
các thế lực phản cách mạng trong quá trỉnh bảo vệ nền độc lập dân tộc
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Cuba mang tính định hướng xã
hội chủ nghĩa sâu sắc. Mọi chính sách của Đảng và Nhà nước Cuba đều hướng
đến mục tiêu là đảm bảo phúc lợi xã hội cho nhân dân. Trong khi nền kinh tế gặp
khó khăn, Cuba vẫn nhất quán thực hiện chế độ giáo dục, chăm sóc sức khỏe
miễn phí cho toàn dân và đảm bảo mức sống tối thiểu cho các đối tượng chính
sách. Đây chính là điểm mạnh, là sự ưu việt của mô hình xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Cuba.
Cuba tiếp tục thực hiện chính sách bao cấp về y tế và giáo dục cho toàn
dân, quan tâm tới những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (những tầng lớp
yếu thế trong xã hội). Điều này, cũng đã được Chủ tịch Raul Castro khẳng định
rất rõ trong Đại hội VI, đó là: "Việc củng cố thể chế chính trị, kinh tế, xã hội sẽ
đảm bảo cho chính sách "Cập nhật hóa", không gây nguy hại đến tính kế thừa
của chủ nghĩa xã hội ở Cuba. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có khả năng chiến
thắng khó khăn, bảo tồn được thành quả cách mạng, phát triển kinh tế, nâng cao
134
đời sống của Nhân dân và không bao giờ cho phép chủ nghĩa tư bản được quay
lại Cuba một lần nữa" (Cuba thông qua lộ trình Cập nhật hóa mô hình kinh tế).
Ngoài ra, Cuba còn đưa ra một số chủ trương về cải cách giáo dục để
hoàn thiện hơn nữa hệ thống giáo dục ở bậc đại học và sau đại học nhằm tạo ra
những thế hệ nối tiếp có trình độ cao để phục vụ cho sự phát triển của đất nước.
Trong y tế, Cuba đã coi "ngoại giao y tế" là kênh đối ngoại quan trọng để mở
rộng ảnh hưởng chính trị, nâng cao vai trò của Cuba trong khu vực và quốc tế.
Đồng thời, chủ trương này cũng đã đem lại cho Cuba nguồn thu ngoại tế quan
trọng để phát triển kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân. Nếu không thực hiện
tốt các chính sách ưu việt trên, Cuba khó có thể vượt qua khó khăn, thách thức
trong nước và đứng vững được trước chính sách cô lập của Mỹ. Đây là đặc điểm
lớn nhất mà Cuba đã tạo ra được trong quá trình bảo vệ vững chắc nền độc lập
dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thứ bảy, đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba luốn gắn liền với nghĩa
vụ quốc tế cao đẹp, đây là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước nhằm
tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế để phát triển kinh tế và nâng cao vị thế đất nước
Đây được coi là mục tiêu xuyên suốt, một chiến lược lớn của Cuba ngay
sau khi nhà nước xã hội chủ nghĩa này ra đời, được thể hiện thông qua việc Đảng
cộng sản Cuba, đứng đầu là Fidel đã có sự giúp đỡ to lớn về vật chất, tinh thần
và cả máu đối với nhiều cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc ở các
nước thế giới thứ 3 như: Việt Nam, Angola, Etiopia...
Trong giai đoạn từ 1991 đến nay, cùng với những biến đổi của tình hình
quốc tế, Cuba đã có sự điều chỉnh chính sách và nghĩa vụ quốc tế theo hướng
tăng cường phát huy các thế mạnh về giáo dục, y tế để giúp đỡ các nước, nhất là
các nước khu vực Mỹ Latinh và đang phát triển nhằm khắc phục những hậu quả
của thiên tai, dịch bệnh, xóa mù chữ...đồng thời, biến các thế mạnh thành lợi thế
cạnh tranh để mở rộng hợp tác quốc tế, đem lại nguồn thu ngoại tệ để phát triển
kinh tế đất nước, nâng cao vị thế, uy tín của Cuba trên thế giới. Chính việc phát
huy tốt tinh thần quốc tế trong giai đoạn này đã giúp Cuba từng bước phá thế bao
vây cấm vận của Mỹ, tạo động lực quan trọng để đẩy mạnh công cuộc cải cách
kinh tế nhằm phát triển đất nước.
135
4.3. VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CUBA TRONG THỜI GIAN TỚI VÀ
LIÊN HỆ VỚI KINH NGHIỆM CỦA VIỆT NAM
4.3.1. Vấn đề đặt ra đối với Cuba
Quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba trong những năm tới
được dự báo sẽ bị tác động sâu sắc bởi một số nhân tố quốc tế, khu vực cùng các
đặc điểm và xu thế trong quan hệ quốc tế như: toàn cần hóa; chống khủng bố;
hòa bình, hợp tác và phát triển; các vấn đề toàn cầu: nghèo đói, dịch bệnh, biến
đổi khí hậu, an ninh lương thực; xung đột sắc tộc tôn giáo, dân tộc cực đoan;
cách mạng công nghiệp 4.0; liên kết khu vực, tiểu khu vực; sự phát triển của
phong trào cánh tả Mỹ Latinh...đặc biệt là chính sách bao vây cấm vận kinh tế
của Mỹ vẫn được duy trì và ngày càng thắt chặt hơn dưới thời Tổng thống
Donald Trump...Bên cạnh đó, các vấn đề trong nước của Cuba như: việc thực
hiện chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế, xã hội"; xây dựng và hoàn thiện
khung lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo "kiểu"
Cuba; sự thay đổi nhà lãnh đạo trong tương lai; quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh
tế; xóa bỏ hệ thống đồng tiền kép...Với những đặc điểm, xu hướng vận động nêu
trên, sẽ đặt ra những cơ hội và thách thức đan xen đối với quá trình đấu tranh
bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba trong thời gian tới như sau:
Một là, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, ngoài việc đem lại cho
Cuba những thời cơ lớn như: phát triển kinh tế, mở rộng hợp tác, nâng cao vị thế
trên trường quốc tế, thì nó cũng đặt ra cho Cuba một nhiệm vụ quan trọng là phải
luôn đảm bảo mục tiêu bảo vệ độc lập dân tộc gắn liền với hội nhập quốc tế
Trong thời gian tới, chính sách cấm vận của Mỹ đối với Cuba sẽ vẫn
không có nhiều thay đổi lớn, thậm chí còn có thể được siết chặt hơn, do đó, để
phát triển kinh tế đất nước, hội nhập sâu rộng với bên ngoài, Cuba cần phải đa
dạng hóa, đa phương hóa mối quan hệ quốc tế, tiếp tục tăng cường mối quan hệ với
các đối tác là bạn bè truyền thống: Nga, Trung Quốc, Việt Nam, Venezuela và các
nước phát triển khác như: EU, Nhật Bản, Ấn Độ nhằm tạo ra động lực để thu hút
đầu tư, vốn, kỹ thuật, quản lý, công nghệ để phát triển nền kinh tế đất nước.
Trong quan hệ với Mỹ, bên cạnh việc cảnh giác với những mưu đồ khó
lường của chính quyền Mỹ thì Cuba cũng nên tạo ra các cơ hội hợp tác trong các
136
diễn đàn song phương và đa phương để từng bước cải thiện, xây dựng lại quan
hệ với siêu cường này dựa trên nguyên tắc "Nghệ thuật chung sống giữa các nền
văn minh", bởi Mỹ vẫn có ảnh hưởng và tác động rất lớn đối với Cuba, nếu duy
trì mối quan hệ thù địch quá lâu, Cuba sẽ là nước bị thiệt hại và ảnh hưởng nhiều
nhất, chứ không phải là Mỹ.
Hai là, công nghệ sinh học, du lịch, giáo dục, y tế luôn được coi là nội lực
quan trọng, nền tảng kinh tế vững chắc để đảm bảo lợi ích quốc gia, dân tộc của
Cuba trong bối cảnh Mỹ siết chặt lệnh cấm vận về kinh tế
Trong thời gian tới, chính sách bao vay cấm vận của Mỹ đối với Cuba về
cơ bản sẽ vẫn được giữ nguyên, cụ thể: thắt chặt chính sách về đi lại, thương
mại; cấm các công ty của Mỹ làm ăn và giao dịch với các tập đoàn thuộc quyền
quản lý của quân đội, lực lượng an ninh Cuba; các hoạt động giao lưu nhân dân
giữa hai nước bị hạn chế...do đó, nền kinh tế Cuba sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều
khó khăn như: kinh tế tăng trưởng không ổn định; thiếu lương thực, thực phẩm;
thiếu nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất; thiếu năng lượng; đời sống
nhân dân gặp khó khăn...Để khắc phục những hạn chế do chính sách cấm vận
của Mỹ đem lại, chính phủ Cuba cần có một chiến lược phát triển kinh tế mới,
theo hướng ưu tiên phát triển những ngành, lĩnh vực kinh tế mà Cuba có thế
mạnh như: công nghệ sinh học, du lịch, y tế, giáo dục trở thành những nghành
kinh tế mũi nhọn, đem lại giá trị xuất khẩu cao, nguồn thu ngoại tệ lớn.
Đối với ngành công nghệ sinh học và dược phẩm, bên cạnh việc tiếp tục
duy trì và đẩy mạnh những thành quả đã đạt được, thì Cuba cần tạo ra nhiều
chiến lược phát triển cho ngành này như: mở các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực
về ngành này cho các nước ở Cuba; trao đổi nguồn nhân lực và mở các trung tâm
nghiên cứu ở nước ngoài; chuyển giao bản quyền công nghệ, kỹ thuật; sản xuất
dược phẩm đặc trị các bệnh ung thư như: ung thư da, ung thư phổi, gan, da dày
(Căn bệnh phổ biến ở các hiện nay)...Với những chiến lược này, Cuba sẽ mở ra
nhiều cơ hội hợp tác mới với các nước, phát triển nền kinh tế đất nước, củng cố
vai trò, vị trí của mình trong khu vực và trên trường quốc tế.
Còn trong lĩnh vực du lịch, đầu tiên Cuba cần phải đầu tư vào cơ sở hạ
tầng, trang thiết bị phục vụ cho ngành du lịch để nâng cao chất lượng dịch vụ,
137
đáp ứng được yêu cầu của tất cả các đối tượng du khác; khai thác những lợi thế
du lịch tự nhiên, nhân văn mà nước này có thế mạnh để tạo ra nét riêng biệt của
quốc đảo này; mở các trường, khoa du lịch để đào tào đội ngũ sinh viên có chất
lượng cao (nhất là về ngoại ngữ) để đáp ứng được yêu cầu hội nhập của đất
nước; liên kết với một số nước ở Mỹ Latinh để xây dựng các tour, điểm du lịch
phù hơp với du khách nước ngoài. Đặc biệt, cần phải xây dựng bài bản và có hệ
thống trong việc quảng bá, xây dựng hình ảnh du lịch của Cuba với thế giới, qua
đó, giúp du khách hiểu rõ về đất nước và con người quốc đảo này.
Trong lĩnh vực giáo dục, Cuba cần thúc đẩy việc nghiên cứu, giảng dạy
các ngành, lĩnh vực có thế mạnh; xây dựng chương trình học bổng miễn phí để
thu hút sinh viên, học viên các nước đến theo học ở Cuba; liên kết đào tạo với
các trường Đại học trên thế giới về y tế: với trường Đại học Y-Dược của Việt
Nam, Ấn Độ, Trung Quốc...
Về y tế, đẩy mạnh hơn nữa chương trình "ngoại giao y tế"; trao đổi bác sỹ;
tổ chức các chương trình phòng chống dịch bệnh với WHO, PAHO...
Với những chiến lược phát triển đồng bộ các lĩnh vực mũi nhọn nêu trên,
chắc chắn, trong tương lai nền kinh tế của Cuba sẽ phát triển nhanh chóng, đời sống
nhân dân được cải thiện, vai trò, vị thế của Cuba được nâng cao trên trường quốc tế.
Ba là, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vừa được coi là cơ hội nhưng
cũng tạo ra những thách thức không nhỏ đối với quá trình bảo vệ độc lập dân
tộc, chủ quyền quốc gia của Cuba trong thời gian tới
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 được khởi nguồn từ Báo cáo tại Hội chợ
Hanover (Đức) năm 2011 và sau đó được Thủ tướng Đức Algena Merkel đề cập
tới trong Diễn đàn kinh tế thế giới ở Davos, Thụy Sỹ (1/2015) với tên gọi là
Công nghiệp IP [12]. Đây là cuộc cách mạng đang được manh nha hình thành và
dự báo sẽ có nhiều bước phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới lên cơ hội và
thách thức của nó đặt ra cho các quốc gia dân tộc trên thế giới, trong đó có Cuba.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 được dự báo sẽ đem lại cho Cuba những
cơ hội và thách thức như sau:
Cuộc cách mạng này cũng sẽ đặt ra yêu cầu đối với Đảng và Nhà nước
Cuba là phải có những nhận thức mới, cụ thể trên nhiều lĩnh vực như: hội nhập
138
kinh tế quốc tế; phát triển khoa học công nghệ trong thời kỳ cách mạng
số...Đồng thời, có khả năng nâng cao khả năng quản lý, điều hành, vận hành của
chính phủ và các doanh nghiệp trước yêu cầu ngày càng tăng của cuộc cách
mạng công nghệ với trí tuệ nhân tạo và rô bốt đóng vai trò chi phối.
Cuộc cách cách mạng này cũng tạo ra cho Cuba phát triển, nâng cao trình
độ của lực lượng sản xuất và hoàn thiện phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời, giúp Cuba có cơ hội quảng bá các kinh nghiệm trong những lĩnh vực
mà nước này có thế mạnh như: giáo dục, y tế, công nghệ sinh học ra thế giới.
Đồng thời, nó còn giúp Cuba nâng cao trình độ quản lý công nghệ, năng lực sản
xuất, tăng khả năng cạnh tranh và tạo ra cơ hội cho các ngành công nghiệp của
Cuba có khẳ năng bắt kịp với trình độ khoa học tiên tiến của thế giới.
Mặc dù, Cuba chưa phải là quốc gia có trình độ điện tử và internet phát
triển, nhưng về lâu dài cuộc cách mạng 4.0 cũng tạo ra cơ hội thuận lợi xây dựng
một chính phủ điện tử, liêm chính có khả năng quản lý xã hội tốt. Đồng thời,
giúp Đảng Cộng sản thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng Cuba trở thành một
quốc gia xã hội chủ nghĩa hiện đại vào năm 2030.
Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội, cuộc cách mạng này cũng đặt ra cho
Cuba những thách thức rất lớn trong việc bảo vệ độc lập dân tộc.
Cuộc cách mạng 4.0 đã làm cho thế giới thực và ảo bị xóa nhòa ranh giới, đặt
ra cho Cuba những mối đe dọa về an ninh mạng, an ninh văn hóa, chính trị, đồng thời
là cơ hội để cho các lực lượng phản động, tội phạm lợi dụng chống phá Cuba thông
qua các hoạt động khủng bố mạng, tin tặc, thu thập tin tức tình báo và làm gia tăng
nguy cơ phân hóa giàu nghèo trong xã hội, xóa nhòa bản sắc văn hóa dân tộc...
Cuộc cách mạng này có thể làm cho phương thức sản xuất và lực lượng
sản xuất bị tụt hậu hơn so với thế giới bởi cơ sở hạ tầng của Cuba đang bị xuống
cấp nghiêm trọng; năng suất lao động thấp, trong khi khả năng tiếp tận với công
nghệ tiên tiến còn hạn chế cho chính sách cấm vận của Mỹ đem lại. Do đó, đặt ra
yêu cầu đối với Đảng và Nhà nước Cuba là nâng cao kỹ năng quản lý, điều hành
của đội ngũ cán bộ; nâng cao trình độ tay nghề của lao động; đẩy mạnh hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực khoa học công nghệ nhằm đi tắt đón đầu và thu hẹp dần
khoảng cách với thế giới.
139
Nền giáo dục Cuba trong thời gian qua đã đạt được một số thành tựu quan
trọng. Tuy nhiên, về cơ bản giáo dục Cuba vẫn là khép kín, chưa hội nhập sâu
rộng với thế giới, do đó, với tác động tiêu cực của cuộc cách mạng này, nền giáo
dục Cuba có thế đứng trước nguy cơ tụt hậu nếu Cuba không có sự cải cách và
hội nhập đúng đắn.
Trong bối cảnh Cuba vẫn chưa bắt kịp được cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ 3, thì những thách thức đến từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ rất
lớn. Do đó, nó đòi hỏi Đảng và Nhà nước Cuba phải đổi mới tư duy mạnh mẽ, có
đường lối, chính sách đúng đắn, có quyết tâm chính trị cao, cùng sự phấn đấu
của mọi tầng lớp nhân dân thì mới có thể đưa đất nước vượt qua mọi thách thức
do cuộc cách mạng này đem lại. Có như vậy, Cuba mới có thể bảo vệ vững chắc
độc lập chủ quyền và chế độ xa hội chủ nghĩa.
Bốn là, chính sách cấm vận kinh tế của chính quyền Tổng thống Trump
đối với Cuba có thể siết chặt hơn trong thời gian tới, điều này sẽ tạo ra những
nguy cơ và thách thức mới đối với quá trình bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba
trong thời gian tới.
Sau khi trở thành ông chủ mới của Nhà Trắng (1/2017), chính quyền của
Tổng thống Trump đã có hàng loạt các điều chỉnh trong chính sách với Cuba
theo hướng cứng rắn hơn khi đề nghị xem xét lại hoàn toàn thỏa thuận bình
thường hóa quan hệ ngoại giao với Cuba của chính quyền Obama.
Trong chuyến thăm tới thành phố Miami thuộc tiểu bang Florida ngày
16/6/2017, Tổng thống Trump đã tuyên bố sẽ hủy bỏ "chính sách một chiều"
với Cuba của cựu Tổng thống Obama và quyết định này sẽ có hiệu lực ngay lập
tức [184] thông qua một số chính sách cụ thể như sau: Thứ nhất, Mỹ sẽ thắt chặt
hơn một số quy định về đi lại và thương mại với Cuba nhưng không đảo ngược
hoàn toàn quan hệ với quốc đảo này; thứ hai, người dân Mỹ phải cung cấp toàn
bộ lịch trình hoạt động của mình khi tới Cuba và lưu giữ trong vòng 5 năm mọi
giấy tờ liên quan đến các giao dịch về tài chính vì có thể bị kiểm tra bất cứ lúc
nào; thứ ba, cấm các công ty của Mỹ làm ăn và giao dịch với các tập đoàn thuộc
quyền quản lý của quân đội, lực lượng an ninh Cuba như: Tập đoàn doanh
nghiệp Quân đội (GAESA) (thuộc quyền quản lý của quân đội Cuba)...và cấm
140
các quan chức làm trong quân đội, an ninh Cuba không được mở tài khoản tại
các ngân hàng của Mỹ với lý do là việc nới lỏng các hoạt động đi lại và thương
mại đều không đem lại lợi ích cho người dân Cuba mà chủ yếu là đem lại lợi
nhuận cho các lực lượng quốc phòng, an ninh [184]; thứ tư, yêu cầu chấm dứt
mọi hoạt động giao lưu nhân dân giữa hai nước và công dân người Mỹ gốc Cuba
chỉ được về nước với mục đích thăm thân nhân; thứ năm, chính quyền Trump
còn đưa ra Văn bản cụ thể về chính sách với Cuba bao gồm 5 điểm, trong đó,
nêu rõ chính quyền Mỹ quyết định điều chỉnh chính sách với Cuba là vì lợi ích
then chốt liên quan đến an ninh quốc gia và cam kết sẽ không quay lưng lại với
người dân Cuba.
Như vậy, có thể thấy tất cả những tuyên bố, thay đổi trong chính sách của
chính quyền Trump đối với Cuba chỉ là nhằm vào chính quyền Castro và cho
rằng người dân Cuba đang bị chế độ cộng sản đàn áp [161].
Bên cạnh đó, việc chính quyền Trump tiến hành trục xuất 15 nhà ngoại giao
Cuba tại Mỹ về nước (3/10/2017) với lý do để trả đũa cho việc các nhân viên ngoại
giao Mỹ bị tấn công ở Cuba trong giai đoạn từ tháng 11/2016-8/2017 đã đẩy quan
hệ Mỹ-Cuba rơi vào trạng thái chiến tranh Lạnh và một lần nữa chứng tỏ chính sách
bao vây, cấm vận của Mỹ đối với Cuba vẫn không thay đổi [111, tr.25] cho dù nước
Mỹ có Tổng thống là người của Đảng Cộng hòa hay Dân chủ.
Thông qua các chính sách chống phá của chính quyền Trump nêu trên,
được coi là những trở lực lớn đối với Cuba và đặt ra cho sự nghiệp đấu tranh và bảo
vệ độc lập dân tộc những thách thức mới. Điều này, cũng đồng nghĩa với việc quá
trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba còn lâu dài và gian khổ, đòi hỏi
Đảng và Nhà nước Cuba phải có những đối sách phù hợp để thực hiện thắng lợi
những mục tiêu, nhiệm vụ đề ra đối với quá trình này trong thời gian tới.
Năm là, một số vấn đề đặt ra đối với Cuba dưới sự lãnh đạo của tân Chủ
tịch Miguel Diaz- Canel
Sau hơn 2 thập kỷ, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Fidel và Raul, nền độc
lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Cuba vẫn được duy trì, giữ vững bất
chấp những khó khăn về kinh tế, chính sách bao vây cấm vận của Mỹ và sự
chống phá quyết liệt của các thế lực phản động trong và ngoài nước.
141
Vào ngày 19/4//2018 vừa qua, Chủ tịch Raul đã quyết định thôi giữ chức
vụ Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Hội đồng Bộ trưởng và nhường vị trí này cho
Miguel Diaz-Canel. Ông là nhà lãnh đạo trẻ tuổi (58 tuổi), người đầu tiên không
thuộc dòng họ Castro giữ chức Chủ tịch Hội đồng nhà nước và Hội đồng Bộ
trưởng ở Cuba; Ông không phải là người trưởng thành qua các cuộc đấu tranh
cách mạng giải phóng dân tộc. Để tiếp tục duy trì những thành quả cách mạng
mà thế hệ đi trước đã đạt được, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, chủ quyền
quốc gia trong bối cảnh và điều kiện mới, Cuba dưới sự lãnh đạo của tân Chủ
tịch Canel cần tránh việc Mỹ và các thế lực phản động lợi dụng sự khác biệt
trong nhận thức về chính trị, tư tưởng giữa hai thế hệ lãnh đạo: thế hệ của Fidel,
Raul đã từng chiến đấu chống Mỹ, hiểu Mỹ nên luôn cải cách kinh tế theo hướng
thận trọng, trong khi đó, Canel thuộc thế hệ lãnh đạo mới, không qua thực tiễn
đấu tranh cách mạng và luôn muốn đẩy mạnh quá trình cải cách kinh tế để lập ra
các đảng phái đối lập, chống phá chính quyền và đưa Cuba quay trở lại quỹ đạo
của chủ nghĩa tư bản.
4.3.2. Liên hệ với kinh nghiệm của Việt Nam
Từ thực tiễn kinh nghiệm bảo vệ nền độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia
của Việt Nam từ sau chiến tranh Lạnh đến nay, có thể đưa ra một số kinh nghiệm
tham chiếu đối với Cuba như sau:
Thứ nhất, kinh nghiệm của Việt Nam trong công tác xây dựng đảng để
chống nguy cơ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ đảng
Một trong những thành tựu của Việt Nam trong giai đoạn 1991-2017
chính là những kinh nghiệm trong công tác xây dựng đảng và đấu tranh chống
lại các nguy cơ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ đảng. Điều này,
được thể hiện thông qua các Nghị quyết của đảng như: Nghị quyết TW5, khóa
VIII (3/1998) về xây dựng chỉnh đốn đảng; Nghị quyết TW4, khóa XI (1/2011)
và Nghị quyết TW4, khóa XII (1/2016) về tăng cường xây dựng và chỉnh đốn
đảng [9]...Thông qua các Nghị quyết này, Đảng cộng sản Việt Nam đã xử lý kỷ
luật và đưa ra khỏi đảng nhiều cán bộ cấp cao: Lần đầu tiên sau 87 năm ra đời,
Đảng cộng sản Việt Nam đã bắt tạm giam Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư thành ủy
thành phố Hồ Chí Minh, Đinh La Thăng. Đặc biệt, Bộ chính trị khóa X (2006-
142
2011) đã phát động cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh để chống lại tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị trong một bộ
phận không nhỏ các cán bộ đảng viên, kể cả các cán bộ cấp cao.
Từ những kinh nghiệm của Việt Nam, Cuba cần phải tiếp tục trú trọng
việc xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố nội bộ đảng;
mối quan hệ giữa đảng với nhân dân; kiên quyết loại ra khỏi đảng những phần tử
thoái hóa, biến chất. Đồng thời, cần xây dựng những đội ngũ cán bộ có tinh thần
cách mạng, có tính chiến đấu cao, liêm khiết và luôn kiên định nền tảng tư tưởng
của chủ nghĩa Mác-Lênin, Jose Marti và tư tưởng của lãnh tụ lịch sử Fidel. Đảng
cũng cần phải lấy sự gương mẫu của các cán bộ cấp cao làm tấm gương để các
đảng viên cấp dưới và nhân dân noi theo. Đảng cộng sản Cuba cũng phải thấm
nhuần quan điểm "Ý đảng lòng dân" của cố Lãnh tụ Fidel và đưa nó vào thực
tiễn cuộc sống một cách thành công, bởi đây chính là nền tảng quan trọng giúp
cho công tác giáo dục chính trị tư tưởng của đảng với nhân dân được hiệu quả,
qua đó có thể giúp Cuba tránh được những nguy cơ "tự diễn biến", "tự chuyển
hóa", vi phạm kỷ luật đảng của các cán bộ lãnh đạo cấp cao, của các đảng viên
như: một số cán bố cấp cao của đảng đã từng mắc phải trong quá khứ là Ủy Viên
Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Roberto Robaina (1999) vì tội tham
nhũng; Ủy Viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng nhà nước Carlos Lage bị
cắt chức năm 2009 do vi phạm kỷ luật đảng...
Thứ hai, Cuba có thể tham chiếu những kinh nghiệm trong công tác xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc của Việt Nam
Trong giai đoạn từ 1991-2017, Việt Nam đã đề ra một số chủ trương,
đường lối về công tác xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc như: Bộ Chính trị
Đảng cộng sản Việt Nam khóa X đã ban hành nghị quyết số 36 (4/2006) về việc
coi bộ phận Việt kiều là một lực lượng quan trọng và không thể tách rời của dân
tộc Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc; thành lập các ban chỉ
đạo Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ của Bộ Chính trị khóa IX (8/2003) để
giải quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo: vấn đề Khome Crom, Tin lành Đề Ga,
Vương quốc Mèo (H’Mông) (và việc ban hành quy chế dân chủ ở cơ sở của Bộ
Chính trị khóa VIII (8/1998) với phương châm: "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
143
kiểm tra". Với những chủ trương trên, đến nay, đã thu được nhiều kết quả tích
cực: Lượng kiều hối do Việt kiều gửi về nước đạt 11 tỷ USD (2016); thu hút 36
tỷ USD đầu tư trực tiếp nước ngoài (FĐI) vào Việt Nam (2017) [32]; các hoạt
động "Diễn biến hòa bình", "Bạo loạn lật đổ" đã được khống chế, đặc biệt việc
ban hành quy chế dân chủ ở cơ sở đã giúp tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc,
giữa Đảng với nhân dân, đấu tranh các âm mưu gây chia rẽ, lật đổ chính quyền,
phá hoại Đảng và nhà nước thông qua việc bắt giữ được các tổ chức phản động
như: Khối 8406 (lập ra ngày 8/4/2006 của Lê Công Định); thành lập Vương
quốc Mèo độc lập (22/5/2011)...
Từ kinh nghiệm của Việt Nam nêu trên, Đảng và nhà nước Cuba có thể
tham chiếu và áp dụng vào việc củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ở nước mình.
Bởi trong giai đoạn 1991-2017, mặc dù Cuba đã có nhiều cố gắng để xây dựng
và củng cố Ủy Ban bảo vệ cách mạng (giống như Mặt trận Tổ quốc của Việt
Nam) khi đối phó thành công với các hoạt động phá hoại về tư tưởng, can thiệp,
lật đổ của các lực lượng phản động. Tuy nhiên, công tác này, vẫn bộc lộ nhiều
hạn chế, yếu kém, minh chứng là: từ tháng 11/2016-8/2017, Cục Tình báo Trung
ương Mỹ (CIA), kết hợp với các phần tử phản động trong và ngoài nước đã tiến
hành nhiều đợt tấn công các nhà ngoại giao Mỹ và gia định họ ở Habana bằng
sóng âm, nhưng Ủy Ban bảo vệ cách mạng cấp cơ sở không nắm bắt được các
hoạt động trên và hậu quả là làm cho quan hệ ngoại giao giữa hai nước trở lên
căng thẳng [112, tr.20]. Từ vụ việc nêu trên, đòi hỏi Đảng và Nhà nước Cuba
phải củng cố hơn nữa khối đại đoàn kết cấp cơ sở để nâng cao tinh thần cảnh
giác trong nhân dân, qua đó, đối phó hữu hiệu với các âm mưu chống phá của
Mỹ và các thế lực phản động. Việc thực hiện tốt công tác này sẽ góp phần giúp
Cuba bảo vệ được nền độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.
Thứ ba, tăng cường hiện đại hóa các lực lượng vũ trang
Mục tiêu xây dựng kinh tế đất nước và bảo vệ tổ quốc luôn được coi là hai
nhiệm vụ chiến lược của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Nhờ thực hiện tốt mục
tiêu trên, trong giai đoạn 1991-2017, nhờ đường lối "Đổi mới", Việt Nam đã thu
được nhiều thành tựu kinh tế quan trọng như: Kim ngạch xuất nhập khẩu từ 100
tỷ USD (2007) tăng 400 tỷ USD (2017); GDP đạt 198 tỷ USD (2016) và khoảng
144
220 tỷ USD (2017)...Với tiềm lực kinh tế sau 30 năm thực hiện đường lối "Đổi
mới" nêu trên, Việt Nam đã trú trọng đến việc tăng cường tiềm lực quốc phòng
như: tăng chi tiêu trong ngân sách quốc phòng. Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội
khóa XIV (5/2016), Quốc hội Việt Nam đã phê chuẩn ngân sách chi tiêu Quốc
phòng năm 2016 trị giá 6,3 tỷ USD tăng 12% so với năm 2015 [103, tr.6]; hiện
đại hóa các lực lượng vũ trang, mở rộng các hoạt động hợp tác quốc phòng với
các nước trong khu vực ASEAN và trên thế giới; chống khủng bố...để có thể bảo
vệ vững chắc chủ quyền gia và chế độ xã hội chủ nghĩa, trong bối cảnh những
nguy cơ đe dọa đến nền độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia vẫn đang hiện
hữu, nhất là vấn đề tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông.
Từ những kinh nghiệm nêu trên, Đảng và Nhà nước Cuba cần phải đẩy
mạnh hơn nữa quá trình cải cách kinh tế thông qua chủ trương "Cập nhật hóa mô
hình kinh tế-xã hội", tìm ra được mô hình phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện
và hoàn cảnh của đất nước, nhằm phát triển nền kinh tế bền vững, ổn định chính trị
-xã hội, có được nguồn tài chính vững mạnh để hiện đại hóa các lực lượng vũ trang,
nhất là trong bối cảnh cơ sở hạ tầng quân sự, vũ khí, khí tài của quân đội Cuba hiện
đã bị xuống cấp nghiêm trọng (chủ yếu vũ khí, khí tài quân sự của Cuba là do Liên
Xô viện trợ trong thời kỳ chiến tranh Lạnh). Do đó, việc phát triển kinh tế kết hợp
với hiện đại hóa quốc phòng là điều rất cấp thiết đối với Cuba trong giai đoạn hiện
nay và cũng phù hợp với hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ vững chắc
tổ quốc Cuba xã hội chủ nghĩa, phù hợp với học thuyết "Chiến tranh Nhân dân" mà
Đại hội VII [91, tr.20] (4/2016) Đảng cộng sản Cuba đã đề ra. Thực hiện tốt mục
tiêu này cũng giúp Cuba bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
Thứ tư, kinh nghiệm của Việt Nam trong việc xác định rõ "Đối tác" và
"Đối tượng" trong quan hệ quốc tế
Hội nghị Trung ương 8 khóa IX (2003), Đảng cộng sản Việt Nam đã đưa
ra chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới, trong đó, đưa ra những diễn
giải quan trọng cho khái niệm: "Đối tác" hợp tác" và "đối tượng" đấu tranh"
trong quan hệ quốc tế của Việt Nam. Theo đó: "Bất cứ lực lượng nào lên kế
hoạch và hành động chống lại các mục tiêu của chúng ta theo đuổi trên con
đường xây dựng và bảo vệ tổ quốc đều là "đối tượng" đấu tranh" và "bất cứ ai
145
tôn trọng nền độc lập dân tộc và chủ quyền của chúng ta, thiết lập và mở rộng
các quan hệ hữu nghị, bình đẳng và cùng có lợi với Việt Nam là "đối tác" của
chúng ta". Đồng thời, đưa ra các phép phân tích biện chứng rằng: "Với các "đối
tượng" đấu tranh chúng ta có thể tìm ra các lĩnh vực hợp tác; với các "đối tác"
tồn tại các mâu thuẫn, lợi ích và khác biệt với lợi ích của chúng ta thì chúng ta
nên nhận thức được điều này, qua đó thoát khỏi hai xu hướng, cụ thể là thiếu
cảnh giác và tỏ ra cứng nhắc trong nhận thức" [27, tr.121]. Nghị quyết cũng xác
định thúc đẩy quan hệ với các nước và các trung tâm lớn trên nguyên tắc bình đẳng,
cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, tạo thế đan xen lợi ích
giữa các nước với nước ta, tránh bị rơi vào thế đối đầu, cô lập hay lệ thuộc. Đây là
bước phát triển mới trong chính sách của Việt Nam với các nước lớn.
Đúc rút những kinh nghiệm từ Việt Nam, trong quan hệ với Mỹ và các
nước lớn khác như: Trung Quốc, EU, Nga, Cuba cần phải xây dựng chính sách
đối ngoại theo hướng giữ vững độc lập tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa và
coi lợi ích quốc gia là tiêu chí hàng đầu trong quan hệ hợp tác quốc tế. Lợi ích
quốc gia được coi là yếu tố bất biến trong quan hệ với bất cứ nước nào, đây được
coi là nhân tố quyết định đảm bảo sự thành công đối với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới. Cuba cũng cần phải xác định rõ "đối tác",
"đối tượng" trong quan hệ quốc tế, để tranh thủ được những mặt tích cực, hạn
chế đến mức thấp nhất những mặt tiêu cực, có thể đe dọa đến sự tồn vong của
chế độ và đất nước, nhất là trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc, tránh sự lệ
thuộc quá mức vào một quốc gia nào đó, nhất là về kinh tế.
Đồng thời, cần phải phát huy được tính chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong
hoạt động đối ngoại, kịp thời nắm bắt những cơ hội, không được tạo cớ để Mỹ
đe dọa và tấn công quân sự; không liên minh, liên kết với bất cứ quốc gia nào để
chống lại nước thứ 3, đặc biệt là với Mỹ và Trung Quốc. Xác định được rõ "đối
tác" và "đối tượng" trong quan hệ quốc tế sẽ góp phần thúc đẩy sự nghiệp đấu
tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia đi đúng hương và thành công.
Thứ năm, Cuba tránh nguy cơ phụ thuộc kinh tế, thương mại vào bên ngoài
Quá trình 30 năm "Đổi mới" của Việt Nam, bên cạnh những thành tựu
kinh tế to lớn như: tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6% (2012-2017); dự trữ
ngoại tệ đạt gần 48 tỷ USD; GDP đạt 220 tỷ USD; kim ngạch thương mại
146
khoảng 400 tỷ USD...thì cũng đặt ra cho Việt Nam nhiều thách thức đó là sự phụ
thuộc về thương mại, kinh tế từ bên ngoài, đặc biệt là Trung Quốc. Quan hệ
thương mại, kinh tế của Việt Nam với Trung Quốc đạt khoảng 88 tỷ USD (2016)
và khoảng 100 tỷ USD (2017), trong đó, Việt Nam nhập siêu là chủ yếu với
khoảng 50 tỷ USD (2016). Các dự án đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam
thường trong tình trạng chậm tiến độ, đội vốn, thua lỗ như: dự án đường sắt cao
tốc Cát Linh-Hà Đông, đội vốn hơn 1,3 tỷ USD... Sự phụ thuộc về thương mại
của Việt Nam vào Trung Quốc sẽ dẫn tới nguy cơ gia tăng sự phụ thuộc về chính
trị, nhất là trong bối cảnh các tranh chấp chủ quyền giữa hai bên ở Biển Đông
vẫn diễn biến phúc tạp và gợi nhớ đến những ảnh hưởng của Liên Xô cũ với Việt
Nam trong giai đoạn 1978-1986 khi Liên Xô cắt giảm nguồn viện trợ 7 tỷ
rúp/năm, nền kinh tế Việt Nam ngay lập tức bị khủng hoảng [103].
Từ bài học này của Việt Nam, trong quá trình cải kinh nền kinh tế và thực
hiện chủ trương "Cập nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội" trong bối cảnh Cuba
đang từng bước mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế với bên ngoài; việc
Trung Quốc đang gia tăng ảnh hưởng kinh tế thông qua các gói viện trợ kinh tế,
các dự án đầu tư...tại khu vực Mỹ Latinh trong đó có Cuba. Bởi hiện nay, Trung
Quốc là đối tác thương mại lớn thứ 2, nhà đầu tư quan trọng hàng đầu của Cuba,
là đối tác nhập khẩu Nicken, đường lớn nhất của Cuba...Do đó, để hạn chế
những ảnh hưởng về kinh tế từ Trung Quốc và nguy cơ bị lôi kéo vào vòng cạnh
tranh ảnh hưởng với Mỹ tại khu vực Mỹ Latinh, Cuba cần phải đa dạng hóa các
mối quan hệ kinh tế, thương mại quốc tế; giảm sự phụ thuộc vào một thị trường
nhất định; tìm ra mô hình phát triển kinh tế mới phù hợp với điều kiện và hoàn
cảnh của đất nước; xây dựng một nền kinh tế đa dạng, bền vững, hiện đại. Điều
này, có thể giúp Cuba giảm đến mức thấp nhất sự phụ thuộc vào kinh tế bên
ngoài, đây chính là cơ sở quan trọng giúp Cuba đảm bảo nền độc lập tự chủ.
Thứ sáu, Cuba cần tránh được nguy cơ đến từ "chủ nghĩa tư bản thân
hữu", "lợi ích nhóm" và "sân sau gia đình" trong quá trình xây dựng nền kinh tế
thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế
Trong quá trình thực hiện "Đổi mới" kinh tế, Việt Nam cũng đang phải
đối mặt với nhiều thách thức đó là: tiến trình cổ phần hóa, cải cách các doanh
147
nghiệp nhà nước đang rơi vào tình trạng chậm tiến độ, nhiều doanh nghiệp sau
khi được cổ phần do những bất cập trong khâu định giá tài sản (giá trị về đất đai và
tài sản của nhà nước trước khi cổ phần hóa) dẫn tới một thức tế là rất nhiều doanh
nghiệp sau khi thực hiện cổ phần, tài sản và quyền sở hữu doanh nghiệp ngay lập
tức rơi vào một nhóm người, hoặc những người có quyền lực trong các công ty và
xí nghiệp đó, như trường hợp cổ phần hóa Công ty Cổ phần bóng đèn Điện Quang
của nguyên Thứ tưởng Bộ Công thương, Hồ Thị Kim Thoa là một ví dụ điển hình.
Ngoài ra, do tình trạng buông lỏng quản lý kinh tế và kỷ luật đảng dẫn tới tình trạng
các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đều bị thua lỗ sau cổ phần hóa, hình thành lên
12 dự án lớn làm thất thoát ngân sách nhà nước, gây giảm sút niềm tin của nhân dân
vào tiến trình cải cách và phát triển đất nước. Đặc biệt, nhiều dự án sau khi cổ phần
hóa bị thua lỗ cực lớn như: Vinashine lỗ 86.000 tỷ USD và hình thành lên các
"nhóm lợi ích", "tư bản thân hữu" và "sân sau gia đình" [119].
Từ những bài học của Việt Nam, trong thời gian vừa qua, Cuba đã tiến
hành cải tổ các doanh nghiệp nhà nước và bước đầu đã thu được một số kết quả
nhất định. Tuy nhiên, trong thời gian tới, để giảm thiểu những tổn thất có thể xảy
ra như Việt Nam, Đảng và Nhà nước Cuba cần thực hiện các biện pháp như: tăng
cường củng cố công tác cán bộ, đặc biệt là các cán bộ nắm giữ trọng trách quan
trọng trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp; tiến hành kiểm kê, định giá sát
thực tài sản của nhà nước trước khi thực hiện cổ phần; hoàn thiện khung pháp lý,
thể chế về cổ phần hóa và gắn trách nhiệm của những cán bộ chủ chốt với quá
trình này; cần tuyệt đối hóa những nguy cơ hình thành "nhóm lợi ích", "tư bản
thân hữu", "sân sau gia đình" và "đầu sỏ chính trị" trong quá trình cổ phần hóa.
Bởi đây chính là những phần tử cơ hội, thoái hóa biến chất, tham nhũng về
quyền lực chính trị, khi có thời cơ chúng sẽ kết hợp với các lực lượng phản động
và đế quốc để phá hoại các thành quả của cải cách kinh tế và đưa Cuba quay trở
lại quỹ đạo kinh tế thị trường tự do theo kiểu phương Tây.
Như vậy, những bài học thành công và thất bại của Việt Nam trong 30
năm qua sẽ được coi là kinh nghiệm quý báu để Cuba có thể tham khảo và học
tập, qua đó, có thể giúp cho quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba
đạt được nhiều thành tựu trong thời gian tới.
148
Tiểu kết chương 4
Với việc Đảng cộng sản Cuba luôn nhất quán nền tảng tư tưởng của chủ
nghĩa Mác-Lênin và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, trong quá trình đấu tranh
bảo vệ độc lập dân tộc giai đoạn 1991-2016, Cuba đã thu được được rất nhiều
thành quả quan trọng trên các lĩnh vực như: duy trì sự ổn định chính trị, xã hội
trong nước; đổi mới tư duy chính trị, kinh tế; mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế;
Lực lượng vũ trang cách mạng Cuba đã bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc và
chủ quyền quốc gia; chính sách miễn phí về giáo dục, y tế và an sinh xã hội tốt
đẹp đã giúp củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh đó, quá trình bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba cũng còn phải đối
mặt với nhiều hạn chế như: Cuba chưa xây dựng được mô hình chủ nghĩa xã hội
hoàn chỉnh; những bất cập trọng điều hành và quản lý nền kinh tế đất nước; nền
văn hóa đa dạng của Cuba đã tạo cơ hội để Mỹ và các thế lực phản động lợi
dụng chống phá.
Như vậy, những thành tựu và hạn chế nêu trên, đã tạo ra những cơ hội,
thách thức và đặt ra một số vấn đề đối với sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập
dân tộc ở Cuba trong thời tới. Do đó, đòi hỏi đảng và nhà nước Cuba cần phải có
sự thay đổi về tư duy, nhận thức để có thể bảo vệ vững chắc những thành quả đã
đạt được trong quá trình bảo vệ độc lập dân tộc trong giai đoạn này và hạn chế
đến mức thấp nhất những nguy cơ, đồng thời, phải có sự trao đổi kinh nghiệm từ
những bài học về thành công, thất bại trong việc bảo vệ độc lập dân tộc và chủ
quyền quốc gia, trong đó có Việt Nam.
149
KẾT LUẬN
Chiến tranh Lạnh kết thúc, tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến đổi
sâu sắc đã tác động mạnh mẽ đến các quốc gia dân tộc nói chung và Cuba nói
riêng. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã làm đảo lộn cục
diện chính trị, an ninh thế giới. Toàn cầu hóa (cụ thể là toàn cầu hóa kinh tế và
hội nhập kinh tế quốc tế) trở thành xu thế chủ đạo, lôi cuốn và tác động sâu sắc
đến mọi quốc gia, dân tộc trong đó có Cuba. Các nước lớn cũng luôn tìm cách
lôi kéo, chi phối và gây ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách của Cuba,
thậm chí đe dọa đến độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ...đòi hỏi Cuba phải
tìm ra con đường phát triển phù hợp để có thể tranh thủ tối đa thời cơ và giảm
thiểu những nguy cơ, tác động tiêu cực của nó.
Nhờ có đường lối lãnh đạo đúng đắn, dựa vào sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc, đoàn kết trong Đảng, giữa Đảng với Nhân dân, cùng sự giúp đỡ vô tư,
trong sáng của các nước xã hội chủ nghĩa, cánh tả Mỹ Latinh, các lực lượng yêu
chuộng hòa bình, dân chủ trên toàn thế giới. Đảng và Nhà nước Cuba đã lãnh
đạo đất nước vượt qua những giai đoạn khó khăn của "thời kỳ đặc biệt trong hòa
bình" (1991-2004) và đẩy mạnh công cuộc cải cách kinh tế và chủ trương "Cập
nhật hóa mô hình kinh tế-xã hội" (2004-2016) để từng bước tiến lên xây dựng và
bảo vệ tổ quốc trong điều kiện và hoàn cảnh mới.
Trong gần 30 năm qua (1991-2016), quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập
dân tộc của Cuba đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng như: bảo vệ vững chắc
nền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đập tan các hoạt động chống phá của
các lực lượng chống phá của lực lượng phản cách mạng và chính sách bao vây
cấm vận của Mỹ; duy trì sự ổn định chính trị-xã hội trong nước; thúc đẩy sự
nghiệp cải cách kinh tế; ban hành nhiều chính sách cải cách quan trong; duy trì
chính sách miễn phí về giáo dục, y tế và an sinh xã hội tốt đẹp, bằng việc: Cuba
đã xây dựng được một thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân
một cách vững chắc, thúc đẩy cải cách các Lực lượng Vũ trang cách mạng theo
hướng chính quy, tinh nhuệ. Đồng thời, mở rộng quan hệ quốc tế với nhiều tổ
chức khu vực, tiểu khu vực, quốc tế quan trọng như: CELAC, ALBA...Cuba
cũng đã thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước lớn như: Mỹ, Nga, Trung
Quốc, EU...Những thành tựu này đã khẳng định vai trò lãnh đạo đúng đắn của
150
Đảng cộng sản và Nhà nước Cuba, đứng đầu của Chủ tịch Fidel, Raul, góp phần
quan trong xây dựng một nước Cuba xã hội chủ nghĩa phát triển năng động,
mạnh mẽ, tự làm chủ vận mệnh của mình và tạo cơ sở bảo vệ vững chắc nền độc
lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thành quả từ quá trình đấu tranh, xây dựng và bảo vệ độc lập dân tộc mà
Đảng cộng sản và Nhân dân Cuba đạt được là rất đáng tự hào, được bạn bè quốc
tế thừa nhận. Nhưng trong quá trình này, Cuba vẫn còn nhiều hạn chế và đứng
trước những nguy cơ, thách thức đe dọa trực tiếp đến nền độc lập dân tộc đó là:
sự chống phá mạnh mẽ của các thế lực thù địch, chính sách bao vây, cấm vận
kinh tế của Mỹ đối với Cuba vẫn được duy trì; những bất cập trọng điều hành và
quản lý nền kinh tế đất nước; căn cứ quân sự Guantenamo vẫn bị Mỹ chiếm
đóng...Điều đó, đã tạo ra những thách thức với Cuba.
Để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ, đòi hỏi Đảng và
Nhà nước Cuba trong thời gian tới phải đề ra các chính sách phát triển đất nước
(đặc biệt phát triển kinh tế); phải luôn đảm bảo mục tiêu bảo vệ độc lập dân tộc gắn
liền với hội nhập quốc tế; công nghệ sinh học, du lịch, giáo dục, y tế sẽ được coi là
nội lực quan trọng, nền tảng kinh tế vững chắc để đảm bảo lợi ích quốc gia, dân tộc
của Cuba trong bối cảnh Mỹ siết chặt lệnh cấm vận về kinh tế; cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0; và sự thay đổi thế hệ lãnh đạo (từ thế hệ lịch sử là Raul sang thế hệ
trẻ là Diaz Canel)… vừa được coi là cơ hội những cũng tạo ra những thách thức
không nhỏ đối với quá trình bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia của Cuba
trong thời gian tới; chính sách cấm vận kinh tế của chính quyền Tổng thống Trump
đối với Cuba có thể siết chặt hơn, điều này sẽ tạo ra những nguy cơ và thách thức
mới đối với quá trình bảo vệ độc lập dân tộc của Cuba trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, Cuba cũng cần phải có sự học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với
các nước khác, nhất là với Việt Nam. Bởi Việt Nam và Cuba có sự tương đồng
về ý thức hệ; từng bị Mỹ thực hiện chính sách bao vây cấm vận và hiện nay cũng
đang gặp phải một số vấn đề như: chống phá của các thế lực phản động thông
qua các chiêu bài dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo...Do đó, kinh nghiệm
thành công và thất bại của Việt Nam chính là những bài học tham chiếu quý báu
cho Đảng cộng sản Cuba về đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở nước mình trong
hiện tại và tương lai.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Lộc Thị Thủy (2015), "Tác động của Tuyên bố bình thường hóa đến quan
hệ Mỹ-Cuba", Tạp chí Châu Mỹ Ngày nay, (4), tr.12.
2. Lộc Thị Thủy (2015), "Công cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc ở Cuba
dưới thời Chủ tịch Raul Castro trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng", Tạp
chí Châu Mỹ Ngày nay, (11), tr.16.
3. Lộc Thị Thủy (2016), "Chính sách của Mỹ đối với Cuba dưới thời Tổng thống
Obama từ năm 2009 đến nay", Tạp chí Châu Mỹ Ngày nay, (01), tr.15.
4. Lộc Thị Thủy (2016), "Đánh giá những thành tựu về kinh tế-xã hội" của
Cuba giai đoạn 2011-2016", Tạp chí Châu Mỹ Ngày nay, (8), tr.9.
5. Lộc Thị Thủy (2016), "Chuyến thăm lịch sử của Tổng thống Mỹ tới Cuba",
Tạp chí Châu Mỹ Ngày Nay, (3), tr.66.
6. Lộc Thị Thủy (2016), "Đại hội lần thứ VII Đảng Cộng sản Cuba", Tạp chí
Châu Mỹ Ngày nay, (4), tr.66.
7. Lộc Thị Thủy (2017), "Những thành tựu ấn tượng của Cuba về giáo dục và
y tế", Tạp chí Châu Mỹ Ngày nay, (2), tr.59.
8. Lộc Thị Thủy (2017), "Một số nhận định ban đầu về chính sách của Mỹ đối
với Cuba dưới thời Tổng thống Donald Trump", Tạp chí Châu Mỹ
Ngày nay, (7), tr.61.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Đỗ Tuấn Anh, Hoàng Mạnh (Dịch) (2008), Cuộc đời tôi - Một trăm giờ với
Fidel Castro, Nxb Thông tấn, Hà Nội.
2. Vân Anh (2013), "Kinh tế Cuba sắp đón luồng gió mới", tại trang:
http://laodong.com.vn/the-gioi/kinh-te-cuba-sap-don-luong-gio-moi-
191479.bld, [truy cập ngày 7/4/2016].
3. Lại Thái Bình (2015), "Một dấu ấn lịch sử trong quan hệ Mỹ - Cuba", tại
trang: http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/The-gioi-van-de-su-
kien/2015/31322/Mot-dau-an-lich-su-trong-quan-he-My-Cuba.aspx,
[truy cập ngày 9/1/2017].
4. Bộ Ngoại giao Việt Nam (2016), "Quân đội Việt Nam-Cuba tăng cường
hợp tác về hậu cần", tại trang: http://www.mofahcm.gov.vn/vi/ mofa/nr
040807104143/nr040807105001/ns050426095026, [truy cập ngày
24/4/2017].
5. Bộ Quốc phòng, Viện 70 - Tổng cục 2 (2016), Quan điểm lý luận cơ bản về
chủ nghĩa xã hội của Cuba: những giá trị cần tham khảo, Tài liệu lưu
hành nội bộ, Hà Nội.
6. Carmelo Mesa - Lago (Dịch), "Mối quan hệ kinh tế giữa Cuba và
Venezuela: Thực trạng và triển vọng", Tạp chí Văn hóa xã hội, (19).
7. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Hồ Châu (1999), "Chính trị - ngoại giao của các nước Mỹ Latinh trong giai
đoạn hiện nay", Tạp chí Châu Mỹ Ngày nay, (01).
9. Chính phủ (2016), Nghị quyết Trung ương lần thứ tư khóa XII về tăng
cường xây dựng và chỉnh đốn đảng, Hà Nội.
10. Nguyễn Trọng Chuẩn (2006), Những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên
đầu của thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc UNDP (2008), Báo cáo phát triển
con người 2007-2008, (Dịch và xuất bản bằng tiếng Việt với sự chấp
thuận của UNDP), Hà Nội.
153
12. Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia (2016), Cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư, Trung tâm Phân tích thông tin, Hà Nội.
13. Lê Cường (2013), "Quân đội Cuba tiến hành cuộc tập trận chiến lược quy
mô lớn Passion 13", tại trang http://giaoduc.net.vn/Quoc-te/Giao-duc-
Quoc-phong/Quan-doi-Cuba-tien-hanh-tap-tran-chien-luoc-quy-mo-
lon-Bastion-2013-post132210.gd, [truy cập ngày 20/11/2017].
14. Diễn đàn đầu tư kinh doanh (2014), "Cuba áp dụng luật đầu tư nước ngoài
mới", tại trang: http://m.baocongthuong.com.vn/cuba-ap-dung-luat-
dau-tu-nuoc-ngoai-moi.html, [truy cập ngày 30/6/2017].
15. Đỗ Lộc Diệp (1998), Mỹ Latinh một vùng năng động, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
16. Phúc Duy (2016), "EU - Cuba ký kết hiệp định bình thường hóa quan hệ",
tại trang http://thanhnien.vn/the-gioi/eu-cuba-ky-ket-hiep-dinh-binh-
thuong-hoa-quan-he-773544.html, [truy cập ngày 12/12/2017].
17. Đảng Cộng sản Cuba (Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam dịch) (1976), Cương lĩnh Đảng cộng sản Cuba, La Habana.
18. Đảng Cộng sản Cuba (1987), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Cuba (Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam dịch) (1997), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV của
Đảng cộng sản Cuba, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Cuba (Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam dịch) (2011), Đường lối chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và
cách mạng - Đại hội VI Đảng Cộng sản Cuba, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Cuba (Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam dịch) (2012), Văn kiện cơ sở, Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất,
khóa VI, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Cuba (Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
dịch) (2012), Điều lệ Đảng cộng sản Cuba (PCC), được sửa đổi, bổ sung và
thông qua tại Hội nghị Đảng Toàn quốc lần thứ Nhất, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Cuba (Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam 2012 dịch), Diễn văn khai mặc của đồng chí Jose Ramon
154
Balaguer, Bí thư Trung ương Đảng, trưởng ban Đối ngoại Trung
ương Đảng cộng sản Cuba, Hội thảo Lý luận lần thứ nhất giữa Đảng
Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Cuba, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Cuba (Ban Đối Ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam dịch) (2012), Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Cuba lần thứ
nhất, khóa VI, Phát biểu của Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Đảng Cộng sản Cuba Raul Castro, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Cuba (Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam dịch) (2015), Tài liệu cơ bản về Cộng hòa Cuba và Đảng cộng
sản Cuba, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Cuba (Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam dịch) (2016), Kế hoạch quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội
đến năm 2030: Đề xuất mang tầm nhìn quốc gia, các trụ cột và lĩnh
vực chiến lược, Cuba.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Nền tảng cải cách kinh tế ở Cuba, tại
trang: http://dangcongsan.vn/quoc-te/tin-tuc/nen-tang-cai-cach-kinh-
te-o-cuba-51274.html, [truy cập ngày 8/10/2016].
29. Đài Tiếng nói Việt Nam (2011), "Cuba: cải cách kinh tế để phát triển đất
nước", tại trang: http://vov.vn/the-gioi/quan-sat/cuba-cai-cach-kinh-te-
de-phat-trien-dat-nuoc-172695.vov, [truy cập ngày 20/4/2017].
30. Đài Truyền hình Thông tấn xã (2016), Mỹ điều chuyển tù nhân
Guantenamo sang Ả Rập Xê Út, ngày 16/4/2016, Hà Nội.
31. Đài Truyền hình Việt Nam (2015), Tổng thống Mỹ cam kết sẽ đóng cửa nhà
tù Guantenamo trong năm 2017, ngày 4/1/2015, Hà Nội.
32. Đài Truyền hình Việt Nam (2017), Nguồn kiều hối của Việt Nam trong năm
2017 đạt mức cao kỷ lục, ngày 24/12/2017, Hà Nội.
33. Đại học Quốc gia (2002), Toàn cầu hóa với các nước đang phát triển, Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
34. Đại sứ quán Cuba tại Việt Nam (2010), Khái quát lịch sử cách mạng Cuba,
tại trang: http://www.cubadiplomatica.cu/vietnam/EN/Learna bout
Cuba/History.aspx, [truy cập ngày 17/2/2017].
155
35. Nguyễn Hoàng Giáp và cộng sự (2005), Một số vấn đề chính trị quốc tế
trong giai đoạn hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
36. Nguyễn Hoàng Giáp, Phan Văn Rân (2010), Chủ quyền quốc gia dân tộc
trong xu thế toàn cầu hóa và vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Thị Quế (2014), Phong trào cộng sản quốc
tế: hiện tại và triển vọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Hiệp định Hợp tác Toàn diện giữa nước Cộng hòa Cuba và nước Cộng hòa
Bolivariana Venezuela (2000), Tài liệu dịch, (người dịch Caracas).
39. Ngô Hoan (1995), Nguyên nhân và tác động của sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội
ở Liên Xô tới tiến trình cách mạng thế giới hiện nay, Luận án tiến sĩ
Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
40. Đào Minh Hồng, Lê Hồng Hiệp (2013), Sổ tay thuật ngữ Quan hệ quốc tế,
Khoa Quan hệ quốc tế, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Thành phố Hồ Chí Minh.
41. Nguyễn Anh Hồng (2002), "Cuba khai thác thế mạnh dầu mỏ, du lịch, mở
rộng quan hệ kinh tế trong khu vực Mỹ Latinh", Thời báo Kinh tế Việt
Nam, (30), tr.3.
42. Nguyễn Anh Hồng (2016), "Cuba phát huy thế mạnh kinh tế", Thời báo
kinh tế Việt Nam, (01), tr.7.
43. Quang Huy (2016), "Mỹ-Cuba bước sang trang mới: Di sản đối ngoại để
đời của ông Obama", tại trang: http://dantri.com.vn/the-gioi/my-cuba-
buoc-sang-trang-moi-di-san-doi-ngoai-de-doi-cua-ong-obama-
20160324080705976.htm, [truy cập cập ngày 24/3/2016].
44. Hà Mỹ Hương (2008), "Cuba - Hòn đảo kiên cường, bất khuất qua nửa thế
kỷ bao vây, cấm vận của Mỹ", Kỷ yếu Hội thảo 50 năm Cách mạng
Cuba, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
45. Nguyễn Thái Yên Hương (2003), Vấn đề trừng phạt kinh tế trong chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Lưu Vạn Kha (1999), "Cuba vượt lên sóng cả", Báo Nhân dân, (30), tr.2.
156
47. Liên Hiệp các Tổ chức Hữu Nghị Việt Nam (2013), "ALBA - Liên minh vì
các dân tộc Mỹ Latinh: triển vọng và tiến bộ", Kỷ yếu tọa đàm khoa
học, Hà Nội.
48. Thái Văn Long (2006), Độc lập dân tộc của các nước đang phát triển trong
xu thế toàn cầu hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Nguyễn Ngọc Mạnh (2012), Sự điều chỉnh chiến lược của Hoa Kỳ đối với
các nước Mỹ Latinh sau khủng hoảng tài chính toàn cầu và tác động
tới Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội,
Hà Nội.
50. Nguyễn Ngọc Mạnh (2013), "ALBA - Liên minh vì các dân tộc Mỹ Latinh:
triển vọng và tiến bộ", Kỷ yếu tọa đàm khoa học, Liên Hiệp các Tổ
chức Hữu Nghị Việt Nam phối hợp với Đại sứ quán Cuba, Venezuela,
Hà Nội.
51. Nguyễn Ngọc Mạnh (2015), Sự phục hồi của nền kinh tế ở khu vực Mỹ
Latinh sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu 2008-
2009, Đề tài khoa học cấp bộ, Viện Nghiên cứu Châu Mỹ - Viện Hàn
lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
52. Phương Mai (2014), "Y tế Cuba: Những thành tựu khó tin", tại trang:
http://anninhthudo.vn/doi-song/y-te-cuba-nhung-thanh-tuu-kho
tin/545843.antd, [truy cập ngày 11/4/2017].
53. Nguyễn Ngọc Mão (2003), "Tư tưởng độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội của
Hôxê Máctin và cách mạng Cu Ba", Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, (4).
54. Thuỵ Miên (2015), "Cuba đòi Mỹ trả Vịnh Guantenamo", tại trang:
https://thanhnien.vn/ the-gioi/cuba-doi-my-tra-vinh-guantanamo-5300
05.html, [cập nhật ngày: 30/1/2015].
55. Phạm Xuân Nam (1978), "Hôxê Máctin người thầy của nền độc lập Cuba",
Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, (178).
56. Phạm Xuân Nam (1982), Nước Cộng hòa Cuba, Nxb Sự thật, Hà Nội.
57. Phạm Xuân Nam (1995), "Hôxê Mácti - Nhà văn hóa lớn, vị Thánh tông đồ
của nền độc lập Cuba", Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (2).
157
58. Phạm Xuân Nam (2002), Tìm hiểu lịch sử cách mạng Cuba - giai đoạn cách
mạng giải phóng dân tộc 1953-1959, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
59. Phạm Xuân Nam (2008), 50 năm phát triển kinh tế xã hội của nước Cộng
hòa Cuba dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Kỷ yếu
Hội thảo 50 năm Cách mạng Cuba, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
60. Phạm Xuân Nam (2009), Tìm hiểu lịch sử cách mạng Cuba, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
61. Ngô Chí Nguyện (2008), "Thành tựu trong việc thực hiên chính sách xã hội
của Cuba trong 50 xây dựng chủ nghĩa xã hội", Kỷ yếu Hội thảo 50 năm
Cách mạng Cuba, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
62. Lê Hữu Nghĩa (2009), 50 năm cách mạng Cuba và quan hệ Việt Nam-Cu
ba, Báo cáo đề dẫn tại Hội thảo Khoa học, Học Viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
63. Hoàng Đức Nhận, Phạm Quốc Tuấn (Dịch) (2003), Fidel Castro: con
người huyền thoại, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
64. Nguyễn Hồng Pha (2015), "Đại tướng Phùng Quang Thanh tiếp Cục trưởng
Cục cơ yếu-Bội nội vụ Cuba", tại trang http://vov.vn/chinh-tri/dai-
tuong-phung-quang-thanh-tiep-cuc-truong-cuc-co-yeubo-noi-vu-cuba-
386225.vov, [truy cập ngày 4/3/2016].
65. Phi-Đen Ca-Xtơ-Ro Ru-Dơ (1978), Cuba trên con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
66. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) (2015), Hồ sơ thị
trường Cuba, Ban Quan hệ quốc tế, Hà Nội.
67. Nguyễn Văn Phước (Dịch) (2008), Fidel: Cuộc đối đầu 10 đời Tổng thống
Mỹ và những âm mưu ám sát của CIA, Nxb Trẻ, Hà Nội.
68. Lê Minh Quân (2010), Hòa bình - hợp tác và phát triển: xu thế lớn trên thế
giới hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. Nguyễn Thị Quế (2008), "Những thành tựu nổi bật của Cuba trong xây
dựng và phát triển đất nước", Kỷ yếu Hội thảo 50 năm Cách mạng
Cuba, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
158
70. Nguyễn Thị Quế (2015), Chính sách đối ngoại của các nước lớn trong giai
đoạn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
71. Phạm Văn Quế (1995), Chiến lược đối ngoại của Mỹ trong những năm
1990, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Ngoại giao, Hà Nội.
72. Phan Văn Rân (2008), "Cuba tăng cường đấu tranh trên mặt trận tư tưởng",
Kỷ yếu Hội thảo 50 năm Cách mạng Cuba, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
73. Ruvislei Gonza’lez Seaz (2016), "Cập nhật hóa mô hình kinh tế xã hội
Cuba và những kịch bản mới", Kỷ yếu tọa đàm khoa học, Viện Hàn
lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.
74. Nguyễn Cơ Thạch (1997), Thế giới trong 50 năm qua (1945-1995) và thế
giới trong 25 năm tới (1996-2020), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. Lê Thành (1961), Cuba đất nước tự do của Châu Mỹ, Nxb Sự thật, Hà Nội.
76. Trần Thành (2013), Quan điểm lý luận cơ bản về chủ nghĩa xã hội của
Cuba: Những giá trị cần tham khảo, Đề tài khoa học cấp bộ trọng
điểm, Bộ Ngoại giao, Hà Nội.
77. Văn Ngọc Thành, Nguyễn Thanh Tuấn (2009), "Những thành tựu của cải
cách kinh tế - xã hội ở Cộng hòa Cuba từ 1993 đến nay", Tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, (5).
78. Mai Thảo (2014), "Ngoại giao y tế Cuba "được mùa"", tại trang:
http://baoquocte.vn/ngoai-giao-y-te-cuba-duoc-mua-1129.html, [truy
cập ngày 30/12/2016].
79. Nguyễn Anh Thái (2013), Lịch sử thế giới hiện đại (1917-1995), Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
80. Theo Infonet (2013), "Tìm hiểu về quân đội vũ trang cách mạng Cuba", tại
trang http://www.bienphongvietnam.vn/nghien-cuu-trao-doi/bien-phon
g-quoc-te/1035-dd.html, [truy cập ngày 11/10/2016].
81. Theo Infonet (2013), "Quân đội Cuba tập trận chống Mỹ", tại trang:
https://www.tienphong.vn/hanh-trang-nguoi-linh/quan-doi-cuba-tap-
tran-chong-my-tan-cong-613064.tpo, [truy cập ngày 3/2/2017].
159
82. Thông tấn xã Việt Nam (1997), Đại hội V Đảng cộng sản Cuba, Tài liệu
tham khảo đặc biệt, số 211, số tháng 12/1997, tr.18, Hà Nội.
83. Thông tấn xã Việt Nam (1998), Cuba - Khu vực kinh tế tư nhân tạo nhiều
công ăn việc làm, Tin kinh tế, số 90, ngày 20/2/1998, tr.19, Hà Nội.
84. Thông tấn xã Việt Nam (1999), Cuba tiếp tục đi theo con đường Xã hội Chủ
nghĩa, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 320, ngày 2/7/1999, tr.20, Hà Nội.
85. Thông tấn xã Việt Nam (2005), Cuba-giá trị trao đổi thương mại tăng, Tài
liệu tham khảo đặc biệt, số 25, ngày 26/1/2005, tr.36, Hà Nội.
86. Thông tấn xã Việt Nam (2006), Cuba vững vàng nơi đầu sóng, Tài liệu
tham khảo đặc biệt, số 329, ngày 12/12/2006, tr.18, Hà Nội.
87. Thông tấn xã Việt Nam (2009), Quan hệ Venezuela-Cuba dưới thời Raul
Castro, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 205, ngày 31/7/2009, tr.15, Hà Nội.
88. Thông tấn xã Việt Nam (2011), Cuba mở rộng kinh tế để cứu vãn mô hình
chủ nghĩa xã hội, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 193, ngày 19/4/2011,
tr.21, Hà Nội.
89. Thông tấn xã Việt Nam (2013), Nền kinh tế Cuba - Những thành tựu và cải
cách dưới thời Chủ tịch Fidel và Raul Castro, Phần 1, 2, Tin tham
khảo, số 194, ngày 15/6/2013, tr.11, Hà Nội.
90. Thông tấn xã Việt Nam (2014), Cuộc cách mạng của Raul Castro, Tin
tham khảo thế giới, số 93, ngày 24/3/2014, tr.22, Hà Nội.
91. Thông tấn xã Việt Nam (2016), Nội dung chính Báo cáo trọng tâm của Đại
hội toàn quốc Đảng cộng sản Cuba lần thứ VII, Tài liệu tham khảo
đặc biệt, số 94, ngày 18/4/2016, tr.2, Hà Nội.
92. Thông tấn xã Việt Nam (2016), Cuba:điều gì sẽ xảy ra đằng sau sự ra đi
của lãnh tụ Fidel Castro?, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 320, ngày
2/12/2016, tr.13, Hà Nội.
93. Thông tấn xã Việt Nam (2016), Những di sản của cố Chủ tịch Fidel Castro,
Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 315, ngày 2/12/2016, tr.7, Hà Nội.
94. Thông tấn xã Việt Nam (2016), Mỹ - Cuba: Lại câu chuyện về cây gậy và
củ cà rốt, tài liệu tham khảo đặc biệt, số 172, ngày 20/2/2016, tr.16,
Hà Nội.
160
95. Thông tấn xã Việt Nam (2016), Khái niệm chính sách đối ngoại của Liên
Bang Nga (phần 1), Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 321, ngày
8/12/2016, tr.12, Hà Nội.
96. Thông tấn xã Việt Nam (2016), Khái niệm chính sách đối ngoại của Liên
Bang Nga (phần cuối), Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 323, ngày
10/12, tr.11, Hà Nội.
97. Thông tấn xã Việt Nam (2016),Cấm vận Cuba, Mỹ đã bỏ lỡ điểm chiến lược,
Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 332, ngày 19/12/2016, tr.16, Hà Nội.
98. Thông tấn xã Việt Nam (2016), Con đường của Cuba có thể đi được bao
xa?, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 95, ngày 19/4/2016, tr.11, Hà Nội.
99. Thông tấn xã Việt Nam (2016), "Cuba lần đầu tham gia Hội nghị an ninh
quân sự với Mỹ", tại trang: https://www.vietnamplus.vn/cuba-khang-
dinh-my-can-cham-dut-chinh-tri-hoa-chinh-sach-di-cu/363452.vnp,
[truy cập ngày 29/1/2017].
100. Thông tấn xã Việt Nam (2016), Cuba được gì trong quan hệ với Mỹ?, Tài
liệu tham khảo đặc biệt, số 201, ngày 7/8/2016, tr.21, Hà Nội.
101. Thông tấn xã Việt Nam (2016), Về một nước Cuba đang ở ngã ba đường,
Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 323, ngày 10/12/2016, tr.16, Hà Nội.
102. Thông tấn xã Việt Nam (2016), Suy ngẫm của Fidel về "người anh em" Obama,
Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 82,ngày 3/4/2016, tr.20, Hà Nội.
103. Thông tấn xã Việt Nam (2016), Ý nghĩa của việc Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ
khí đối với Việt Nam, Tài liệu tham khảo, số 128, ngày 26/5/2016,
tr.6, Hà Nội.
104. Thông tấn xã Việt Nam (2016), "Đối thoại chính sách quốc phòng Việt
Nam-Cuba", tại trang: http://baoquocte.vn/doi-thoai-chinh-sach-quoc-
phong-vie-t-nam-cuba-33133.html, [truy cập ngày 22/7/2017].
105. Thông tấn xã Việt Nam (2017), Tại sao Triều Tiên không tin tưởng Trung
Quốc?, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 287, ngày 31/10/2017, tr.6, Hà Nội.
106. Thông tấn xã Việt Nam (2017), Mọi thứ vẫn khác ở Cuba (phần đầu), Tài
liệu tham khảo đặc biệt, số 89, ngày 9/4/2017, tr.23-23, Hà Nội.
161
107. Thông tấn xã Việt Nam (2017), Nhận định của Cuba về các chính sách của
Tổng thống Donald Trump, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 172, ngày
5/7/2017, tr.17, Hà Nội.
108. Thông tấn xã Việt Nam (2017), Cuba không muốn một thị trường tư bản
chủ nghĩa, Tài liệu tham khảo, số 306, ngày 19/11/2017, tr.17, Hà Nội.
109. Thông tấn xã Việt Nam (2017), Cuba: đã tới lúc phải vận động, Tài liệu
tham khảo, số 134, ngày 28/5/2017, tr.16, Hà Nội.
110. Thông tấn xã Việt Nam (2017), Mọi thứ vẫn khác ở Cuba (phần cuối), Tài
liệu tham khảo, số 90, tr.12-13, Hà Nội.
111. Thông tấn xã Việt Nam (2017), Chính sách của Mỹ đối với Cuba quay về
trạng thái chiến tranh Lạnh?, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 290,
ngày 10/4/2017, ngày 3/11/2017, tr.25, Hà Nội.
112. Thông tấn xã Việt Nam (2017), Các nhà ngoại giao Mỹ tại Cuba bị tấn
công: Một chiến dịch mạo danh của CIA?, Tài liệu tham khảo, số 226,
ngày 28/8/2017, tr.20, Hà Nội.
113. Thông tấn xã Việt Nam (2018), Bầu cử Quốc hội Cuba: Sự nhất trí giả
tạo?, Tài liệu tham khảo, số 72, ngày 21/3, tr.19.
114. Lê Bá Thuyên (1997), Hoa Kỳ Cam kết và Mở rộng, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
115. Nguyễn Ngọc Toàn (Dịch) (2008), Toàn cầu hóa và những mặt trái, Nxb
Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
116. Trang điện tử Thông tin trong tầm tay (2016), "Người Cuba "bất nhất" với
căn cứ quân sự của Mỹ", tại trang: http://motthegioi.vn/the-gioi-c-
79/nguoi-cuba-bat-nhat-voi-can-cu-quan-su-cua-my--5049.html [truy
cập ngày: 21/3/2017].
117. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia (1998), Mỹ Latinh- Một
vùng năng động, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
118. Nguyễn Thị Ánh Tuyết (2014), Những cải cách kinh tế đột phá của Cuba từ
2000 tới nay, Đại học Văn hóa, Hà Nội.
119. Quang Vinh, Ngọc Tú (2018), Xung quanh khoản nợ 86.000 tỷ đồng của
Vinashin, tại trang http://ndh.vn/xung-quanh-khoan-no-86-000-ty-
dong-cua-vinashin-420290p4c147.news, truy cập ngày 2/5/2018.
162
120. Viện Nghiên cứu Châu Mỹ, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
(Dịch) (2016), Cập nhật đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế-xã
hội của Đảng và của cuộc cách mạng trong giai đoạn 2016-2021 đã
được phê duyêt tại Đại hội Đảng lần thứ VII (4/2016) và được thông
qua tại Quốc hội (7/2016), Hà Nội.
121. Viện Nghiên cứu Châu Mỹ, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
(Dịch) (2016), Định nghĩa về mô hình kinh tế - xã hội, phát triển xã
hội chủ nghĩa của Cuba, Mục tiêu cụ thể của Đại hội VII về phát triển
kinh tế - xã hội, Hà Nội.
122. Viện Quan hệ Quốc tế (2005), Giáo trình Quan hệ quốc tế, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội.
123. Viện Thông tin Khoa học Xã hội (2000), Toàn cầu hóa - khu vực hóa, cơ
hội và thách thức với các nước đang phát triển, Nxb Viện Thông tin
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
124. V.I. Lênin (1974), Toàn tập, tập 28, Nxb Sự thật, Hà Nội.
125. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
126. Vietlex (Trung tâm từ điển học) (2013), Từ điển tiếng việt, Nxb Đà Nẵng,
Đà Nẵng.
127. Trần Đình Vượng (2002), "Chính sách của Mỹ đối với khu vực Mỹ Latinh",
Tạp chí Châu Mỹ Ngày nay, (3).
128. Hoàng Yến (Tổng hợp) (2015), "Căn cứ Quantenamo: "Con dao găm của
Mỹ gắn trên thân thể Cuba", tại trang: https://thethaovanhoa. vn/the-
gioi/can-cu-guantanamo-con-dao-gam-cua-my-cam-tren-than-the-
cuba-n201507 23192136487.htm, [truy cập ngày 23/7/2016].
II. TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI
129. Adolfo Sánchez Rebolledo (1972), Fidel Castro: la Revolución Cubana
1953-1962, Mexico.
130. Alfred J. López (2014), José Martí: A Revolutionary Life, University of
Texas Press.
131. Antonio Nunez Jiminez (1973), Geografia de Cuba, La Havana.
163
132. Arnaldo Silva León (2003), Breve Historia de la Revolución Cubana, La
Habana.
133. 7th PCC Congress Central Report, presented by First Secretary Raúl Castro
Ruz (2016), at page http://en.cubadebate.cu/news/2016/04/18/7th-
pcc-congress-central-report-presented-by-first-secretary-raul-castro-
ruz/, [date 18/4/2016].
134. Bernard Aronson, William D. Rogers (2001), "U.S-Cuban Relations in the
21st Century: A Follow-on Chairman's Report of an Independent Task
Force Sponsored", at page https://www.foreignaffairs.com
/reviews/capsule-review/2001-03-01/us-cuban-relations-21st-century-
follow-chairmans-report, [date 25/4/2006].
135. Bert Hoffmann (1998), "The Helms-Burton law and its consequences for
Cuba, the United States and Europe, Prepared for delivery at the 1998
meeting of the Latin American Studies Association", at page
http://citeseerx.ist.psu.edu/viewdoc/download;jsessionid=93EC49A4C
351683B19B46EC54545B200?doi=10.1.1.691.5188&rep=rep1&type
=pdf, [date 15/12/2016].
136. Carl Meacham Diane (2009), "Changing Cuba Policy - in the United States
National Interest: Staff Trip Report to the Committee on Foreign Relations,
United States Senate", at page https://www.gpo.gov/fdsys/ pkg/CPRT-
111SPRT47260/html/CPRT-111SPRT47260.htm, [date 19/12/2016].
137. Charlene Barshefsky , James T. Hill (2008), US-Latin America ralations: A
new direction for a new reality, Council on forgein relation, 28th, June.
138. Council on Foreign Relations (2010), "Sates Sponsors: Cuba", at page
https://www.cfr.org/backgrounder/state-sponsors-cuba, [date 15/9/2016].
139. Congress documents will be submitted to a broad discussion (2016), at page
http://en.granma.cu/cuba/2016-04-16/congress-documents-will-be-
submitted-to-a-broad-discussion, [date 16/4/2016].
140. Cuba defiende actualizar modelo económico con estabilidad social y
política, at page http://www.elnuevoherald.com/noticias/mundo/
america-latina/cuba-es/article19855956.html, [date 29/4/2016].
164
141. Discurso pronunciado por el comandante en jefe Fidel Castro ruz (1991),
Primer secretario del comite central del partido comunista de Cuba y
presedente de los consejos de estado y de ministros, en la
inauguracion del IV congreso del partido comunista de Cuba,
efectuada en el teatro " Heredia", Santiago de Cuba.
142. Doctrina militar cubana, at page http://www.cubagob.cu/otras_info/minfar/
doctrina/doctrina_militar.htm, page 2, [date 22/9/2016].
143. Elda Moline Diaz (2007), "Cuba-Economic restructuring, recent trends and
main challenges", at page: http://www.networkideas.org/ ideasact/jun
07/Beijing_Conference_07/Elda_Molina.pdf, [date 7/6/2016].
144. Enrique Dussel Peters (2015), "China evolving role in Latin America: Cant
it be a win-win", at page http://www.atlanticcouncil.org/images/publi
cations/AC_CHINA_0916_web.pdf, [date 16/9/2016], page 19.
145. Entra en vigor la nueva Ley de Inversión Extranjera de Cuba, at page
http://w.elmundo.es/internacional/2014/06/28/53aeecca22601df22a8b
4575.html, [date 28/06/2016].
146. Esteban Morales Dominguez (2008), United States-Cuban Relations: A
Critical History, in the United States of America Enrique Dussel
Peters, China evolving role in Latin America: Cant it be a win-win, at
page http://www.atlanticcouncil.org/images/publications/ AC_CHIN
A_0916_web.pdf, [date 16/9/2016].
147. Flag of Cuba, at page: https://commons.wikimedia.org/wiki/File:
Flag_of_Cuba.svg, date 26/12/2017].
148. Fidel Castro (1967), Siete documentos de nuetra historia, La Habana.
149. Fidel Castro (1972), Le processus revolutionaise de Cuba confirme la force
extraochinare des idees de Mars, Engels et Lenine, Granma.
150. Fidel Castro (2005) (không rõ nguồn), Speed at the first graduation of
student from Latinh American shool of Medicine, August.
151. Historia del Partido Comunista de Cuba (2009), at page
http://www.pcc.cu/i_historia.php, [date 15/12/2016].
152. Infome dela CEPAL robre la’ economia’ Cubana (2008), at page
http://www.nodo50.org/ceprid/spip.php?article241, [date 10/9/2016].
165
153. Jessica Gibbs (2011), US policy towards Cuba: Since the Cold War,
published in the USA and Canada.
154. Jose Marti (1964), Obras Completas, Lahabana.
155. Jose Marti (2016), Obras completas José Martí, La Habana.
156. Jorge L.Domíniguez (1997), U.S-Cuba Relations: From the Cold World to
the Colder War, Center for Latin American Studies at the University
of Miami.
157. José Bell, Delia Luisa López y Tania Caram (2006), Documentos de la
Revolución cubana - 1959, Ciencias Sociales, La Habana.
158. Julia E. Sweig (2013), Cuba: What Everyone Needs to Know, Oxford
University Press.
159. Julio A. Díaz Vázquez (2012), "Actualizar el modelo económico en Cuba:
¿Patrón chino o vietnamita?", at page http://www.igadi.org/web/
analiseopinion/actualizar-el-modelo-economico-en-cuba-patron-
chino-o-vietnamita, [date 15/6/2016].
160. Julio A. Díaz Vázquez (2015), "Cuba: actualización del modelo económico
y social", at page http://www.igadi.org/web/analiseopinion/cuba-
actualizacion-del-modelo-economico-y-social, [date 17/3/2016].
161. John Wagner and Karen DeYoung (2017), "Trump announces revisions to
parts of Obama’s Cuba policy", at page https://www.washingtonpost.
com/politics/trump-announces-revisions-to-parts-of-obamas-cuba-
policy/2017/06/16/dee8671c-52ab-11e7-91eb-9611861a988f_story.
html?utm_term=.bd2905931ee3, [date 15/10/2017].
162. Lars Schoultz (2009), That Infernal Little Cuban Republic: The United States
and the Cuban Revolution, The University of North Carolina Press.
163. Lukialov.A. Pavlov.V và Cruiskov.V (1994), Govbachev-Riot: August even from
inside (Govbachev và sự kiện chính biến ngày 19/8), Moscow, Russia.
164. Lily Rothman (2015), "Why the United States Controls Guantanamo Bay",
at page http://time.com/3672066/guantanamo-bay-history/, [date
22/10/2016].
165. Los avances médicos de Cuba (2016), at page http://www.elnuevodia
rio.com.ni/opinion/327306-avances-medicos-cuba/, [date 14/4/2016].
166
166. Map of Cuba, at page: https://www.google.ca/search?q=cuba+beaches
&espv=2&biw=1070&bih=669&source=lnms&tbm=isch&sa=X&ved
=0ahUKEwj6o4b-0ezRAhVj6IMKHTyGC74Q_AUIBigB#tbm=isch
&q=cuba+map&imgrc=1ACEwUJlyfPaVM%3A, date 15/12/2017.
167. Marifeli Pérez-Stable (2011), The United States and Cuba: Intimate
Enemies, Published byLatin American and Caribbean Center.
168. Marta Rojos (1960), Moncada, Public La Habana, La Habana.
169. Novoa, Armando (2012), Reforma en la agricultura: lineamientos y
resultados recientes, En Pavel y Pérez, P.53 - 72.
170. Omar Everleny Perez (2011), "These reforms will update the Cuban model
and spur economic growth", at page http://www.americasquarterly.
org/node/2450, [date 15/12/2016].
171. One hundred fourth congress of The United States of America, Cuban
liberity and democractic solidarity (Libertad) (1996), at page
http://cuba-embargo.procon.org/sourcefiles/1996-Cuban-Liberty-and-
Democratic-Solidarity-Act.pdf, [date 27/12/2016].
172. Oxford University Press (2011), The Cuban Revolution: Origins, Course,
and Legacy 3rd Edition, 3 edition, December 7, 240pp.
173. Patrick Jude Haney (2005), The Cuban Embargo: The Domestic Politics of
an American Foreign Policy, Published by The university of
pittsburgh press.
174. Poli’tica militar del partido comunista de Cuba, at page http://www.cuba
gob.cu/otras_info/minfar/politica_pcc.htm, [date 13/11/2016].
175. Richard Garfield, DrPH, RN and Sarah Santana (2007), The Impact of the
Economic Crisis and the US Embargo on Health in Cuba, at page
https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC1380757/pdf/amjph00
500-0017.pdf, [date 9/9/2016].
176. Roger A. Kittleson, David Bushnell and James Lockhart (2017), "History of
Latin America", at page https://www.britannica.com/place/Latin-
America, [date 28/12/2017].
177. Rodrigo Malmierca (2015), "El mundo empresarial está respondiendo a
esfuerzos de Cuba por atraer negocios", at page http://www.
167
cubadebate.cu/noticias/2015/12/11/rodrigo-malmierca-el-mundo-
empresarial-esta-respondiendo-a-esfuerzos-de-cuba-por-atraer-
negocios/#.WLzOGZyg_IU, [date 11/12//2016].
178. Russia to reopen spy base in Cuba "as relation with US continue to sour", at
page https://www.theguardian.com/world/2014/jul/16/russia-reopeni
ng-spy-base-cuba-us-relations-sour, [date 16/7/2016].
179. Samuel Huttington (1996), The Clash of civilizations, Ottawa, Canada.
180. Sergio Guerra (2009), Historia de la revolucion Cubana, Maldonado Alejo,
Txalaparta.
181. Susan Eckstein (2009), The immigrant divide: How Cuban Americans Changed
the U.S. and Their Homeland, Published in the United Kingdom.
182. This day in History (2015), "The Bay of Pigs invasion begins", at page
http://www.history.com/this-day-in-history/the-bay-of-pigs-invasion-
begins, [date 15/4/2016].
183. The Moscow Times, part of the New East network (2014), "Russia writes
off $32bn Cuban debt in show of brotherly love", at page
http://www.theguardian.com/world/2014/jul/10/russia-writes-off-
cuban-debt, [date 10/6/2016].
184. The White House Office of the Press Secretary (2017), Remarks by
President Trump on the Policy of the United States Towards Cuba, at
Manuel Artime Theater Miami, Florida.
185. The impact of The US embargo on health and nutrition in Cuba, at page
http://medicc.org/ns/documents/The_impact_of_the_U.S._Embargo_o
n_Health_&_Nutrition_in_Cuba.pdf, [date 8/12/2016].
186. United Nations Department of Economic and Social Affairs (2016), World
Population Prospects, The 2015 Revision: Key Findings and Advance
Tables, Population Division.
187. United States code, Foreign relations and intercouse chapter 69, "Cuban
democracy act ("CDA")", at page https://www.treasury.gov/resource-
center/sanctions/Documents/cda.pdf, [date 12/12/2016].
188. Vladimir Sudarev (2012), "Is Russia returning to Latin America?", at page
http://russiancouncil.ru/en/inner/?id_4=252#top, [date 20/2/2016].
168
189. Victoria Burnett (2016), "Raúl Castro Urges Cubans to Remain Alert to
U.S. Efforts to Alter Communist System", at page https://www.
nytimes.com/2016/04/17/world/americas/raul-castro-urges-cubans-to-
remain-alert-to-us-efforts-to-alter-communist-system.html, [date 16/4/2016].
190. Voz Digital, "Reformas económicas en Cuba: La doble moneda no va más",
at page http://semanariovoz.com/?s=Reformas+econ%C3%B3micas+en
+Cuba%3A+La+doble+moneda+no+va+m%C3%A1s, [date 20/11/2016].
191. Zhu, Hongbo; Liu Wenlong (2008), "Xin shiji zhongguo dui lamei de
diyuan zhanlue" (China’s Geo-strategy towards Latin America in the
New Century)", Xiandai guoji guanxi (Contemporary International
Relations), (3), p.38-42.
169
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: BẢN ĐỒ NƯỚC CỘNG HOÀ CUBA
Nguồn: [166].
170
Phụ lục 2: QUỐC KỲ, QUỐC HUY NƯỚC CỘNG HÒA CUBA
Nguồn:[147].
171
Phụ lục 3 KẾ HOẠCH QUỐC GIA VỀ PHÁT TRIỂN KINH TỄ- XÃ HỘI ĐẾN
NĂM 2030: ĐỀ XUẤT MANG TẦM NHÌN QUỐC GIA, CÁC TRỤ CỘT VÀ LĨNH VỰC CHIẾN LƯỢC
I. GIỚI THIỆU Kể từ những năm đầu cuộc cách mạng thắng lợi, lãnh đạo đất nước
luôn rất quan tâm đến việc tạo ra được một công cụ hoạch định dài hạn hỗ trợ cho việc định hướng chiến lược cho nền kinh tế và cụ thể hoá các mục tiêu của Chương trình. Với mục đích này và để đương đầu với các thách thức mới kèo lùi sự tiến bộ của cuộc cách mạng Công tác kế hoạch hoá đã được thực hiện và giữ vai trò cơ bản trong hệ thống chỉ đạo KTXH đồng thời nhiều kế hoạch ngắn và trung hạn cũng được thiết lập.
Những diễn biến từ những năm cuối thập niên 80 cùng với cấm vận kinh tế của Mỹ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế Cuba. Trong bối cảnh đó, với mục tiêu giải quyết mất cân bằng trong cấu trúc kinh tế, theo Đường lối Chính sách KTXH của Đảng và của cuộc Cách Mạng đã được thông qua tại ĐHĐ VI, Kế hoạch quốc gia về phát triển KTXH đến năm 2030 (KHQG) đã được đưa ra.
Việc xây dựng KHQG được chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn 1: đang được tiến hành và dự kiến sẽ cho ra đời văn kiện Đại
hội đảng VII trong đó xác định các yếu tố khái niệm cơ bản- cơ sở cho KHQG- như đánh giá tình hình hiện tại, chuẩn đoán định tính, các nguyên tắc hướng dẫn soạn thảo chiến lược phát triển, tầm nhìn quốc gia, các trụ cột và lĩnh vực chiến lược;
Giai đoạn 2: đánh giá và đưa vào các chương trình và hướng hành động khác, chú trọng vào thực hiện theo lĩnh vực chứ không phải trên cả nước.
Cuối cùng là thiết lập và củng cố các cơ chế theo dõi, kiểm soát và đánh giá theo hướng xây dựng mô hình quản lý hướng đến kết quả.
II. CÁC NGUYÊN TẮC HƯỚNG DẪN VÀ TRỤC NỘI DUNG CỦA VIỆC SOẠN THẢO KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KTXH QUỐC GIA
Các nguyên tắc hướng dẫn và trục nội dung đã được được đề cập đến trong tài liệu “Các phương diện chính của Cơ sở Soạn thảo Kế hoạch phát triển KTXH Quốc gia”. Đó là kết quả của quá trình phân tích cẩn thận kỹ lưỡng tình hình hiện tại và kết luận được đưa ra tại văn kiện này. Với mục tiêu củng cố vững chắc một nước có chủ quyền, độc lập, xã hội chủ nghĩa, dân chủ, thịnh vượng và bền vững, phải xác định rõ các nguyên lý sau:
1. Đảm bảo tăng trưởng GDP, yếu tố cho phép phát triển bền vững và kéo theo đó là cải thiện phúc lợi xã hội cho người dân, công bằng và bình đẳng XH.
172
2. Đảm bảo sở hữu toàn dân đối với các tư liệu sản xuất cơ bản và củng cố một mô hình phát triển KTXH thúc đẩy hoạt động hiệu quả của các cơ quan Nhà nước và Chính phủ, của hệ thống doanh nghiệp cũng như cho việc tham gia ngày càng nhiều và hiệu quả của xã hội đối với việc ra chính sách.
3. Tăng mức hiệu quả và khả năng cạnh tranh trong mọi lĩnh vực kinh tế. 4. Hoàn thiện Hệ thống An ninh và Quốc phòng Quốc gia. 5. Đảm bảo môi trường an toàn, trật tự trong nước thông qua đấu
tranh phòng chống hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, tham nhũng và các tội hình sự khác cũng như các hành vi chống lại xã hội.
6. Tạo điều kiện và thúc đẩy nghiên cứu khoa học và áp dụng KH-CN và đổi mới trong mọi mặt của đời sống.
7. Chuyển dịch ngành năng lượng, tăng đóng góp của năng lượng tái tạo và các nguồn năng lượng quốc gia khác.
8. Phục hồi, bảo tồn, hiện đại hoá và mở rộng cơ sở hạ tầng. 9. Đảm bảo ổn định dân số. 10. Phát triển các hoạt động sản xuất và cung cấp dịch vụ tận dụng tối
đa thế mạnh của đất nước. 11. Đảm bảo và ưu tiên phát triển tổng thể các ngành công nghiệp
chiến lược. 12. Phát triển sản xuất và thương mại hoá nông- thuỷ sản đảm bảo tự
cung tự cấp về lương thực thực phẩm. 13. Đảm bảo sự gắn kết trong các chính sách tiền tệ, tín dụng, giá cả,
tỷ giá và thuế. 14. Tăng nguồn tiền tiết kiệm quốc gia và đảm bảo cho các quỹ đầu tư
tài chính. 15. Mở rộng và đa dạng hoá các nguồn đầu tư nước ngoài về trung và
dài hạn. 16. Coi FDI là yếu tố quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước. 17. Mở rộng và đa dạng hoá hoạt động ngoại thương và hợp tác quốc tế. 18. Tạo điều kiện hoàn thiện và mở rộng thị trường trong nước. 19. Củng cố thành quả của cuộc cách mạng về y tế, an sinh và hỗ trợ
xã hội, giáo dục, văn hoá, thể thao, giải trí, an ninh và bảo vệ công dân. 20. Đảm bảo nguồn việc làm cần thiết. 21. Đảm bảo công việc là nhu cầu và mục tiêu trong nhận thức cá nhân
của từng người dân. 22. Các nguồn lực sản xuất phải được phân bố đồng đều về địa lý. 23. Đảm bảo bảo tồn và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên
nhiên và bảo vệ môi trường. Tóm lại, các trục nội dung là: Xã hội, Lãnh thổ, dân số, hạ tầng, đối
ngoại, tiền tệ-tài chính, năng lực sản xuất, quốc phòng và anh ninh trong nước, và tài nguyên thiên nhiên- môi trường.
173
III. TẦM NHÌN QUỐC GIA ĐẾN NĂM 2030 Tầm nhìn quốc gia được xác định là: chủ quyền, độc lập, CNXH, dân
chủ, thịnh vượng và bền vững. Trong tầm nhìn quốc gia cần phải đạt được một sự phát triển có đủ khả
năng đương đầu với các vấn đề và khó khăn chính mà XH đang đối mặt trên mọi lĩnh vực cũng như vượt qua các thách thức trong tương lai liên quan đến tình hình quốc tế như chính trị, tài chính và thương mại.
IV. CÁC TRỤC CHIẾN LƯỢC Dựa trên tầm nhìn quốc gia, người ta xác định 6 trục chiến lược và 26
mục tiêu chung cũng như 106 mục tiêu cụ thể. Sáu trục này là hạt nhân cho việc xác định các đề xuất KTXH.
Trục chiến lược: Nhà nước XHCN hiệu quả và liên kết xã hội. Việc xây dựng Tầm nhìn quốc gia đến năm 2030 đòi hỏi phải có sự hoàn
thiện và củng cố Nhà nước XHCN, các cơ quan hành pháp, lập pháp và tư pháp và hành pháp, bộ máy nhà nước… và đỏi hỏi phải hoàn thiện tổ chức hành chính. Các cơ quan Nhà nước và hoạt động của các đơn vị này đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với việc soạn thảo và thực hiện các chính sách công. Phải đảm bảo các cơ quan này không được vượt qua các giới hạn mà Hiến pháp và pháp luật đã quy định. Sự phát triển của các cơ quan hành chính công hiện đại là các yếu tố mang tính quyết định đối với việc thực hiện các chính sách công.
Để đạt được những điều trên, người ta đã thiết lập 4 mục tiêu chung và 17 mục tiêu cụ thể.
Mục tiêu chung: 1. Củng cố Nhà nước XHCN dân chủ, thúc đẩy sự tham gia của người
dân trong mọi mặt. 2. Củng cố khung thể chế trên mọi phương diện và việc tuân thủ pháp
luật của toàn bộ các cơ quan nhà nước, Chính phủ, các tác nhân kinh tế và người dân.
3. Củng cố quốc phòng và an ninh quốc gia. 4. Thúc đẩy hội nhập quốc tế của Cuba vào các tiến trình kinh tế vùng
và thế giới. Mục tiêu cụ thể: 1. Tăng cường dân chủ XHCN, các nguyên lý cơ bản, các thể chế và
các thủ tục của nền dân chủ XHCN. 2. Củng cố một hệ thống hành chính công linh hoạt, hiệu quả. 3. Tăng cường hệ thống kiểm soát trong và ngoài nước cũng như
kiểm soát xã hội. 4. Đảm bảo thực hiện đúng các chính sách thông tin xã hội của chính phủ. 5. Thúc đẩy phát triển vùng dựa trên việc tăng cường quyền hạn và
khả năng hoạch định và quản lý lãnh thổ, sự tham gia của các tác nhân trong xã hội và sự hợp tác với các cơ quan khác của Nhà nước.
174
6. Củng cố hệ thống điều hành nền kinh tế. 7. Đảm bảo một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và bền vững. 8. Củng cố hệ thống tài chính hiệu quả để đảm bảo ổn định tài chính. 9. Củng cố khung pháp lý cho phép thúc đẩy sự vận hành hiệu quả và
quy củ các tác nhân và thị trường. 10. Tạo điều kiện tăng mức đầu tư cả trong nước và nước ngoài trong
các hoạt động mang lại giá trị gia tăng cao và tạo ra nhiều việc làm. 11. Đẩy mạnh tuân thủ pháp luật, giám sát việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ công dân thông qua một hệ thống luật pháp hiệu quả. 12. Hoàn thiện hệ thống an ninh quốc phòng quốc gia phù hợp với
những biến chuyển về chính trị, kinh tế, xã hội trong và ngoài nước. 13. Tăng cường khả năng an ninh phòng thủ trong nước dựa trên ứng dụng
ngày càng nhiều công nghệ và sự chuẩn bị của tất cả các thành tố của hệ thống. 14. Khuyến khích một môi trường chính trị trong nước và khu vực có
lợi cho sự phát triển của quốc gia thông qua hoạt động đóng góp vào tiến trình gìn giữ hoà bình, thực hiện Luật pháp quốc tế và việc tạo ra môt trật tự kinh tế quốc tế mới.
15. Tăng cường kêu gọi quốc tế yêu cầu dỡ bỏ cấm cận kinh tế, thương mại và tài chính.
16. Tiếp tục lên tiếng kêu gọi quốc tế về vấn đề trao trả lại vùng lãnh thổ Guantanamo bị Hải quân Mỹ chiếm đóng trái phép.
17. Quảng bá hình ảnh đất nước Cuba là một điểm đến hấp dẫn và an toàn, tăng tín nhiệm của Cuba trong các mối quan hệ kinh tế quốc tế.
Trục chiến lược: Chuyển dịch sản xuất và hội nhập quốc tế Chuyển dịch sản xuất với tư cách là một yếu tố của chiến lược phát triển
cần phải bao hàm được ba lĩnh vực cơ bản: hướng các nguồn lực chính của hoạt động kinh tế tới các hoạt động có kiến thức và công nghệ cao hơn, thực hiện chuyển dịch và sửa đổi cần thiết trong từng lĩnh vực, nhất là các lĩnh vực chiến lược, sửa đổi mô hình chuyên môn hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
Tạo điều kiện cho lực lượng lao động được chuyển đổi sang các ngành và lĩnh vực có năng xuất cao hơn, tạo dây chuyền sản xuất, xác định, khuyến khích và tạo ra các ngành mới dựa trên nguồn lực và khả năng của đất nước và sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Cần nới lỏng các quy định tài chính cho phép Cuba có được mối quan hệ có lợi hơn với thị trường tài chính quốc tế.
Để đạt được điều này, người ta đã đặt ra 5 mục tiêu chung và 14 mục tiêu cụ thể.
Mục tiêu chung: 1. Đạt tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. 2. Thúc đẩy cơ cấu sản xuất đa dạng hoá, hiệu quả và bền vững 3. Tăng cường sự tham gia tích thực, hiệu quả và đa dạng vào thị
trường quốc tế.
175
4. Sự tham gia nhiều hơn của các tác nhân kinh tế của đất nước. 5. Tạo đủ việc làm. Mục tiêu cụ thể: 1. Phát triển ngành công nghiệp chế tạo các thiết bị sản xuất quốc gia. 2. Đạt năng suất cao nhất trong mọi lĩnh vực kinh tế thông qua đa
dạng hoá, hiện đại hoá công nghệ và đổi mới. 3. Hỗ trợ dây chuyền sản xuất hướng tới hoạt động trong nước. 4. Tăng FDI. 5. Tăng sản lượng, năng suất, khả năng cạnh tranh và tính bền vững
về môi trường và tài chính cho các dây chuyền sản xuất nông lương thực, đảm bảo an ninh lương thực, thay thế nhập khẩu.
6. Thúc đẩy mối quan hệ giữa nông nghiệp với sản xuất, đặc biệt là công nghiệp thực phẩm và giữa ngành dịch vụ với sản xuất.
7. Thúc đẩy hiện đại hoá và phát triển bền vững ngành công nghiệp xây dựng.
8. Tăng cường cạnh tranh, đa dạng hoá và phát triển bền vững ngành du lịch để tăng nguồn thu cho đất nước, tạo công ăn việc làm, quảng bá văn hoá đất nước.
9. Tăng cường ngành công nghiệp hướng tới thị trường trong nước và khuyến khích tham gia vào thị trường nước ngoài.
10. Tăng hiệu quả, chất lương, khả năng đầu tư và năng suất của các hình thức quản lý phi nhà nước.
11. Thúc đẩy phát triển xuất khẩu dựa trên nền tảng là sự tham gia cạnh tranh trên thị trường quốc tế và sự liên kết giữa các doanh nghiệp xuất khẩu với ngành công nghiệp sản xuất và dịch vụ.
12. Tận dụng tiềm năng mà các vùng cũng như tiểu vùng mang lại để đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế.
13. Tham gia hiệu quả hơn vào thị trường tài chính quốc tế với mục tiêu mở rộng và đa dạng hoá các nguồn tài chính nước ngoài về trung và dài hạn.
14. Thúc đẩy tạo công ăn việc làm đặc biệt trong các ngành có công nghệ và kiến thức phức tạp, đảm bảo mức lương bình đẳng.
Trục chiến lược: Cơ sở hạ tầng Đầu tư vào cơ sở hạ tầng là chìa khoá để duy trì tăng trưởng KTXH dài
hạn vì nó mang lại các tác động trực tiếp rất lớn đến tăng khả năng cạnh tranh và hiệu quả như: tăng hiệu xuất và năng suất sản xuất của doanh nghiệp, giảm chi phí chuyển giao và hậu cần, thu hút đầu tư, hỗ trợ liên kết dây chuyền sản xuất, tạo công ăn việc làm và tăng cả số lượng và chất lượng dịch vụ cung cấp cho người dân.
Mục tiêu chung: 1. Tối ưu hoá đóng góp của cơ sở hạ tầng trong tiến trình phát triển.
176
2. Hoàn thiện vai trò của Nhà nước là người quản lý đồng thời là nhà đầu tư vào cơ sở hạ tầng.
3. Tăng cường đóng góp của đầu tư trong nước và quốc tế vào phát triển và duy trì cơ sở hạ tầng quốc gia.
Mục tiêu cụ thể: 1. Tạo môi trường kinh tế vĩ mô và khung thể chế hướng tới thúc
đẩy đầu tư và đóng góp vào hạ tầng. 2. Tái cơ cấu sự tham gia của nhà nước và các hình thức quản lý
khác trong chuỗi giá trị của lĩnh vực cơ sở hạ tầng. 3. Tăng mức đầu tư vào cơ sở hạ tầng thông qua hiện đại hoá, đổi
mới và/hoặc bổ sung thêm vào khả năng đã có. 4. Tăng năng suất xã hội của các nguồn lực dành cho cơ sở hạ tầng. 5. Cho phép đầu tư nước ngoài tại các khu vực đánh giá là thuận tiện
về mặt xã hội và có tính khả thi, trong cung cấp tài chính và thực hiện đầu tư cơ sở hạ tầng.
6. Tăng cường và duy trì cơ sở hạ tầng ngành công nghiệp xây dựng bằng cách đưa vào sử dụng các công nghệ tiên tiến.
7. Đảm bảo nguồn cung năng lượng đáng tin cậy, đa dạng, hiện đại, giá cả cạnh tranh và trong điều kiện mội trường bền vững; tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo.
8. Phát triển và duy trì cơ sở hạ tầng viễn thông để mọi người dân có thể được tiếp cận và sử dụng năng suất công nghệ thông tin và truyền thông.
9. Phát triển và duy trì cơ sở hạ tầng thuỷ điện và văn hoá tiết kiệm. 10. Mở rộng độ bao phủ và cải thiện chất lượng và tính cạnh tranh của
cơ sở hạ tầng và dịch vụ vận tải và hậu cần. 11. Biến Cuba thành một trung tâm hậu cần của khu vực dựa trên thế
mạnh về vị trí địa lý. 12. Tạo cơ sở hạ tầng tiêu chuẩn, đo lường và kiểm soát chất lượng,
quy chuẩn kỹ thuật và công nhận. 13. Đảm bảo phát triển bền vững các khu vực thành thị, nông thôn,
khu vực ven biển và vùng núi. 14. Tạo chiến lược linh động cho đầu tư hướng đến phát triển hạ tầng
đất nước bằng cách đa dạng hoá và mở rộng các nguồn đầu tư cả trong và ngoài nước.
Trục chiến lược: Tiềm lực con người, khoa học, công nghệ và đổi mới Một trong những nguồn lực cho tăng trưởng cấp quốc tế chính là đào
tạo và huy động tiềm lực con người. Để làm được điều này cần hoàn thiện khung pháp lý, trong đó có phát
triển KHCN và đổi mới, tạo ra được môi trường mà ở đó đổi mới đóng vai trò then chốt giúp tăng cường tác động của tri thức và trình độ đối với phát triển KTXH của quốc gia.
177
Mục tiêu chung: 1. Phát triển tiềm lực con người có trình độ cao và đảm bảo điều kiện
để bảo vệ và ổn định tiềm lực này. 2. Tăng tác động của KHCN và Đổi mới (KHCN&ĐM) trong phát
triển KTXH và hoàn thiện khung pháp lý 3. Khuyến khích phát triển, tiếp thu và học hỏi công nghệ tiên tiến
đồng thời tạo điều kiện cho tự chủ công nghệ. Mục tiêu cụ thể: 1. Ưu tiên các lĩnh vực và hoạt động trong đó KHCN&ĐM có tác
động mạnh hơn và nhanh hơn đến tăng trưởng kinh tế. 2. Đẩy mạnh hội nhập của hệ thống KHCN&ĐM cũng như phát triển
nguồn nhân lực và hạ tầng. 3. Thúc đẩy quy trình khoa học-sản xuất khép kín. 4. Điều chỉnh khung pháp lý và quy định về KHCN&ĐM cho phù
hợp với tiến trình cập nhật mô hình kinh tế. 5. Đẩy mạnh văn hoá cống hiến cho khoa học và đổi mới trong mọi
thành phần xã hội, nhất là tầng lớp thanh thiếu niên. 6. Đẩy mạnh đổi mới và phổ biển nó trong lĩnh vực sản xuất. 7. Tăng cường vại trò của FDI trong việc đưa các công nghệ tiên tiến
cấp quốc tế vào nước ta và trong việc thành lập các khu nghiên cứu. 8. Tăng cường và đẩy mạnh vai trò của công nghệ trong tăng hiệu quả
kinh tế và năng suất của các ngành chiến lược. 9. Phát triển tiến trình và công nghệ bản địa, sử dụng hiệu quả các
nguồn lực quốc gia. 10. Tăng tiền dành cho KHCN&ĐM theo mức tăng GDP. 11. Nâng cao và tăng cường tự chủ công nghệ trong phát triển viễn
thông, công nghệ thông tin và kết nối 12. Tăng cường khả năng khảo sát và anh ninh công nghệ và bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ. 13. Đảm bảo sự phát triển của các trường đại học, nguồn nhân lực và
hạ tầng cho các đơn vị đào tạo này. 14. Tạo điều kiện cho sinh viên được tham gia nhiều hơn vào các
ngành khoa học tự nhiên, KH chính xác, kỹ thuật và giáo dục tương ứng với các trọng tâm sản xuất của quốc gia và từng địa phương.
15. Xây dựng các chương trình đào tạo và tăng học bổng đào tạo nghiên cứu chuyên sâu cho các tài năng trẻ các trường đại học và viện công nghệ.
16. Đưa ra đãi ngộ để bảo vệ và ổn định nguồn nhân lực có chất lượng cao, nhiều kinh nghiệm, các tài năng trẻ và đội ngũ lao động khó thay thế được.
17. Tiếp tục thúc đẩy phát triển nghiên cứu trong lĩnh vực KHXH và Nhân văn.
18. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong KHCN&ĐM.
178
Trục chiến lược: Tài nguyên thiên nhiên và môi trường Cuba được ban tặng nguồn tài nguyên thiên nhiên vốn đóng vai trò
tiềm lực đối với phúc lợi xã hội và phát triển KT-XH bền vững, nhưng do nhiều thiếu sót trong quản lý và khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên đã bị sụt giảm cả về chất lượng và số lượng. Thêm vào đó là tình trạng ô nhiễm môi trường đòi hỏi phải có nỗ lực để giải quyết tình trạng này, nhất là khi Cuba đang đứng trước những thay đổi trong kinh tế. Chính phủ đang tiếp tục thúc đẩy những nỗ lực bảo vệ môi trường, đưa ra các sáng kiến mới, các mức phạt hành chính và giáo dục về môi trường, v.v. để giải quyết vấn đề này. Đồng thời thúc đẩy việc thiết lập các chính sách quản lý hiệu quả nguy cơ và thích ứng với biến đổi khí hậu, hiệu quả năng lượng và phát triển các nguồn năng lượng tái tạo… Để làm được điều này, người ta đã đưa ra các mục tiêu sau:
Mục tiêu chung: 1. Đảm bảo sử dụng hợp lý các nguồn TNTN, bảo tồn hệ sinh thái và
bảo vệ mội trường cũng như các di sản quốc gia. 2. Nâng cao chất lượng môi trường. 3. Tăng cường năng lực quốc gia để thích ứng với biến đổi khí hậu. Mục tiêu cụ thể: 1. Thực hiện một cách có hiệu quả, cập nhật thường xuyên và tăng
cường khung thể chể đối với việc áp dụng chiến lược môi trường quốc gia, làm cơ sở cho chiến lược mội trường của Cuba.
2. Thực hiện mô hình quản lý địa phương và cộng đồng với trọng tâm là môi trường.
3. Bảo vệ và sử dụng bền vững tài sản và dịch vụ từ hệ sinh thái và các di sản tự nhiên và văn hoá quốc gia.
4. Thực hiện hiệu quả việc sản xuất và tiêu thụ bền vững, áp dụng chiến lược Sản xuất an toàn hơn.
5. Ngăn ngừa, giảm thiểu và kiểm soát ô nhiễm. 6. Phát triển hệ thống quản lý tổng thể rác thải, chất độc hại và các
nguồn gây ô nhiễm ở khu vực đô thị và nông thôn. 7. Cải thiện dẫn chất lượng sống tại các khu định cư. 8. Ngăn chặn thoái hoá đất nhờ nền nông nghiệp bền vững. 9. Ngăn chặn và xử lý sụt giảm chất lượng nước và tăng cường
nguồn cung cấp nước thông qua việc bảo vệ và quản lý hợp lý các nguồn nước, tiết kiệm và tái sử dụng nước.
10. Đẩy mạnh hiệu quả năng lượng và phát triển các nguồn năng lượng tái tạo.
11. Thực hiện một cách hiệu quả các chương trình và hành động chống biến đối khí hậu.
12. Áp dụng sáng kiến kinh tế nhằm đạt được nguồn tài chính bền vững trong sử dụng và bảo tồn nguồn TNTN.
179
13. Cân nhắc các hình thức quản lý kinh tế trong các chính sách môi trường và trong khung pháp lý hiện có.
14. Thúc đẩy, hệ thống hoá và tối ưu hoá tác động của khoa học và đổi mới công nghệ trong giải quyết vấn đề môi trường.
15. Tái định hướng và đẩy mạnh giáo dục đào tạo về môi trường hướng đến phát triển bền vững ở mọi cấp.
16. Hoàn thiện Hệ thống Tự vệ Dân sự để giảm thiệt hại trước những hiểm nguy từ thiên nhiên, công nghệ và sức khoẻ, phát triển hoạt động quản lý nguy cơ một cách tổng thể và hiệu quả với sự tham gia tích cực của cả cộng đồng và chính quyền địa phương.
17. Tăng cường hợp tác quốc tế . Trục chiến lược: Phát triển con người, bình đẳng và công bằng Tăng phúc lợi xã hội và chất lượng cuộc sống luôn là mục tiêu ưu tiên
của xã hội XHCN Cuba kể từ khi Cách mạng thành công. Việc làm sao để người dân có thể được tham gia vào mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội luôn là một nguyên tắc cơ bản để đạt được tiến bộ trong tiến trình xây dựng xã hội XHCN.
Mục tiêu chung: 1. Thúc đẩy phát triển con người một cách đầy đủ và toàn diện. 2. Củng cố các thành quả của cuộc cách mạng về Chính sách xã hội
và đảm bảo nâng cao không ngừng và bền vững mức sống cũng như chất lượng sống của người dân.
3. Đảm bảo hiệu lực pháp luật cũng như việc tuân thủ các quyền và nghĩa vụ cơ bản được quy định trong Hiến pháp.
4. Giảm dần sự chênh lệch kinh tế xã hội giữa các vùng trong nước. Mục tiêu cụ thể: 1. Duy trì chính sách tiếp cận miễn phí với các chế độ phúc lợi xã hội,
tăng cường tính hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực cho mục đích này cũng như tăng chất lượng phục vụ.
2. Tăng chất lượng và hiệu lực của hệ thống giáo dục phổ thông, chú trọng đến đào tạo nghề và kỹ thuật.
3. Tăng chất lượng y tế. 4. Đẩy mạnh nghiên cứu lịch sử Cuba đặc biệt và tư tưởng của José
Martín và tư tưởng chiến lược của cuộc Cách mạng. 5. Đẩy mạnh sức mua từ nguồn thu nhập từ công việc. 6. Thúc đẩy và tái khẳng định việc nhận thức các giá trị, hành động
và cách ứng xử quy định xã hội của chúng ta. 7. Tạo các điều kiện thúc đẩy sự gắn kết và liên kết giữa kế hoạch của
cá nhân và gia đình với tập thể và xã hội. 8. Tiếp tục đẩy mạnh các giải pháp giải quyết những nhu cầu thiết
yếu chưa được đáp ứng của người dân.
180
9. Đảm bảo tăng tiêu thụ trong dân, đa dạng hoá sản phẩm và cải thiện chất lượng.
10. Đảm bảo nguồn việc làm theo yêu cầu của mục tiêu phát triển, chú trọng đến các việc làm có chất lượng, trình độ và lương cao hơn.
11. Đảm bảo cho việc làm trở thành nhu cầu và động lực cá nhân của mỗi công dân; lương và các khoản thu nhập khác là nguồn động lực cho người lao động.
12. Đảm bảo việc khôi phục và giữ gìn nguồn nhà ở hiện có cũng như xây dựng hệ thống nhà ở mới từ nguồn của nhà nước lẫn ngoài nhà nước.
13. Tăng cường vai trò hạt nhân của cộng đồng và gia đình trong xã hội. 14. Cải thiện tháp dân số, tạo điều kiện tăng tỷ lệ sinh. 15. Đảm bảo một hệ thống an sinh và hỗ trợ XH bền vững, phổ cập và
duy nhất. 16. Đưa ra các chính sách đặc biệt để hỗ trợ cho nhóm người cần sự hỗ
trợ đặc biệt, nhất là nhóm người dễ bị tổn thương. 17. Tăng cường bảo vệ người cao tuổi nhất là người cao tuổi trong
nhóm dễ bị tổn thương. 18. Đảm bảo bình đẳng về cơ hội cho người tàn tật, cho họ tham gia
vào hoạt động KTXH. 19. Đảm bảo việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với mọi công
dân một cách bình đảng, công bằng xã hội và cho phép họ được tham gia vào xã hội.
20. Hoàn thiện khung pháp lý và thể chế để mọi người dân đều tham gia hiệu quả vào mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội.
21. Đưa thêm lợi ích của các địa phương vào trong công tác thiết lập và quản lý chính sách công.
22. Giảm bất bình đẳng giữa khu vực thành thị và nông thôn, và giữa các vùng, trong tiếp cận dịch vụ và cơ hội.
23. Thúc đẩy và phát triển các tiến trình và biểu hiện văn hoá khác nhau giúp tái khẳng định và bảo tồn bản sắc và các giá trị nghệ thuật khác của dân tộc.
24. Tạo điều kiện cho toàn dân được tiếp cận với hình thức giải trí lành mạnh, tạo thêm không gian mới và hoàn thiện các không gian đã có.
25. Chuẩn bị cho người dân nhất là giới trẻ có cái nhìn phê phán trước những thông tin độc hại, ủng hộ chủ nghĩa đế quốc, phân biệt đối xử, bạo lực…
26.Đẩy mạnh các hoạt động thể chất và thể thao. V. CÁC LĨNH VỰC KINH TẾ CHIẾN LƯỢC Xác định được các tiêu chí về phương pháp luận phù hợp nhằm xác
định các lĩnh vực hay hoạt động chiến lược đối với phát triển đóng vai trò rất quan trọng. Các tiêu chí chính là:
181
1. Các lĩnh vực hay hoạt động này phải có tỷ trọng cao trong các hoạt động kinh tế, có công nghệ và đòi hỏi kiến thức và phải thể hiện được khả năng thích ứng với nhiều điều kiện trong và ngoài nước.
2. Có khả năng sản xuất và xuất khẩu từ nguồn TNTN phong phú và có tính cạnh tranh cao.
3. Có tác động tích cực và lớn đến cán cân thanh toán. 4. Cho phép phát triển mạng lưới sản xuất trên cả nước. 5. Có tác động lớn đến thị trường trong nước về tạo việc làm, đáp ứng
được như cầu cũng như có khả năng cung cấp được cho các nền kinh tế của vùng và địa phương.
6. Tác động trực tiếp và gián tiếp tới tạo việc làm trong hoạt động sản xuất. 7. Thúc đẩy các mối liên kết với các mô hình công nghệ cấp quốc tế và
đưa các công nghệ tiên tiến vào trong nước. 8. Cho phép vượt qua các hạn chế về hậu cần và hạ tầng. 9. Đóng góp quan trọng vào chủ quyền và an ninh quốc gia. 10. Tác động có lợi và không gây các tác động tiêu cực đến bền vững môi trường. 11. Trong quá trình xác định các lĩnh vực chiến lược cần tính đến việc
tiềm lực kinh tế của mỗi ngành phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố và cả vào việc củng cố khung pháp lý vì khung pháp lý đảm bảo thị trường hoạt động có hiệu quả và có sự quản lý.
12. Các lĩnh vực kinh tế chiến lược của Cuba là: Xây dựng, năng lượng điện, viễn thông- công nghệ thông tin-kết nối, hậu cần (logistics) giao thông vận tải, hậu cần của mạng lưới và nhà máy nước, du lịch và đa dạng hoá du lịch, dịch vụ chuyên môn nhất là y tế, công-nông liên hiệp không bao gồm ngành công nghiệp mía đường và công nghiệp thực phẩm, dược phẩm-công nghệ sinh học-sản xuất y sinh, mía đường và các ngành có liên quan và công nghiệp nhẹ.
13. Thêm vào đó, cần đẩy mạnh phát triển các hoạt động sản xuất, thương mại và dịch vụ có đặc điểm không cần nhiều vốn và dựa trên các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bằng cách ưu tiên cho các hoạt động kinh tế hỗ trợ tăng khả năng cạnh trạnh và góp phần giảm chi phí cố định.
14. Để làm được những điều trên cần có những thay đổi đáng kể trong kế hoạch tổ chức của ngành công nghiệp, trong cơ cấu doanh nghiệp và thay đổi chung trong quản lý.
Nguồn: [26].