quan he ngon ngu lac viet

19
BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU QUAN HỆ NGÔN NGỮ, CHỮ VIẾT CỦA CÁC NHÓM TỘC LẠC VIỆT CỔ Phan Anh Dũng Trung tâm Công nghệ Thông tin Thừa Thiên Huế I. Đặt vấn đề : Trong loạt bài trước của người viết đã đề cập khả năng cương vực nhà nước Văn Lang của các vua Hùng phía Bắc tới tận hồ Động Đình ở TQ có thể là sự thực chứ không phải là một truyền thuyết hư cấu, xem mục tham khảo (1) và (2). Việc các nhóm người thuộc các ngữ hệ khác nhau Choang, Lê (ngữ hệ Thái-Kadai), Di (ngữ hệ Hán Tạng), Việt, Mường (ngữ hệ Môn-Khmer) đều được sử sách Trung Quốc gọi chung là Lạc Việt hẳn phải có một lý do nào đó. Về văn hóa thì các nhóm này có đặc điểm nổi bật và dễ thấy nhất là có sử dụng trống đồng, nhưng còn về ngôn ngữ, chữ viết thì sao ? bài viết này bước đầu sẽ chỉ ra một vài điểm chung trong ngôn ngữ và chữ viết của các nhóm tộc Lạc Việt đó. II. Một số tư liệu về quan hệ ngôn ngữ trong nhóm Lạc Việt: 1. Ngựa (mã ): Phần lớn các nhóm Tai-Kadai (trong đó tộc Choang là chính) đều gọi ngựa là "Mã", giống với tiếng Hán, nhưng vẫn có một số nhóm gọi khác ! Hình chụp trên cho thấy Ba Cáp và Lang Giá gọi ngựa là "nga", Hạn Lạp Cáp đọc là "ih ", người Lê gọi là ɛ "ka" (tạm không quan tâm tới dấu thanh). Tra trên bản đồ Google thì Ba Cáp ở vùng Tây Nam tỉnh Vân Nam, sát biên giới Miến Điện, còn Lang Giá ở Quý Châu, cả hai vùng này đều khá xa với vùng đồng bằng sông Hồng là đất bản bộ của người Việt, vậy mà lại gọi con ngựa là "nga" rất giống người Việt ! Ghi chú: Về "Ba Cáp 巴哈" còn có một địa danh nữa trùng tên, nhưng cũng ở phía bắc tỉnh Quảng Tây, sát gần địa giới tỉnh Quý Châu, chứ không gần Việt Nam. 2. Ngủ (thụy ): Tương tự từ "ngựa" là từ "ngủ". Các nhóm Tai-Kaidai chính là Choang và Đồng gọi là "nin", "nun" (đọc gần như "nân") người Tày đọc là "nòn" (theo Từ Điển nôm Tày, Hoàng Triều Ân chủ biên). Nhưng An Thuận gọi là "ngka", Lục Chi và Ba Cáp gọi là "ngu", Lang Giá là "?u". Thủy Lạp Cáp là "ngau", Hạn Lạp Cáp là "?ow", Lê là "kau"... Đều có liên hệ gần với tiếng Việt "ngủ", trong đó Lục Chi và Ba Cáp trùng hoàn toàn với tiếng Việt "ngu" (nếu không quan tâm thanh điệu).

Upload: vu-hung-nguyen

Post on 01-Jul-2015

593 views

Category:

Documents


1 download

TRANSCRIPT

Page 1: Quan he ngon ngu lac viet

BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU QUAN HỆ NGÔN NGỮ, CHỮ VIẾTCỦA CÁC NHÓM TỘC LẠC VIỆT CỔ

Phan Anh DũngTrung tâm Công nghệ Thông tin Thừa Thiên Huế

I. Đặt vấn đề :

Trong loạt bài trước của người viết đã đề cập khả năng cương vực nhà nước Văn Lang của các vua Hùng phía Bắc tới tận hồ Động Đình ở TQ có thể là sự thực chứ không phải là một truyền thuyết hư cấu, xem mục tham khảo (1) và (2). Việc các nhóm người thuộc các ngữ hệ khác nhau Choang, Lê (ngữ hệ Thái-Kadai), Di (ngữ hệ Hán Tạng), Việt, Mường (ngữ hệ Môn-Khmer) đều được sử sách Trung Quốc gọi chung là Lạc Việt hẳn phải có một lý do nào đó. Về văn hóa thì các nhóm này có đặc điểm nổi bật và dễ thấy nhất là có sử dụng trống đồng, nhưng còn về ngôn ngữ, chữ viết thì sao ? bài viết này bước đầu sẽ chỉ ra một vài điểm chung trong ngôn ngữ và chữ viết của các nhóm tộc Lạc Việt đó.

II. Một số tư liệu về quan hệ ngôn ngữ trong nhóm Lạc Việt:

1. Ngựa (mã 馬):

Phần lớn các nhóm Tai-Kadai (trong đó tộc Choang là chính) đều gọi ngựa là "Mã", giống với tiếng Hán, nhưng vẫn có một số nhóm gọi khác ! Hình chụp trên cho thấy Ba Cáp và Lang Giá gọi ngựa là "nga", Hạn Lạp Cáp đọc là "ih ", người Lê gọi làɛ "ka" (tạm không quan tâm tới dấu thanh).Tra trên bản đồ Google thì Ba Cáp ở vùng Tây Nam tỉnh Vân Nam, sát biên giới Miến Điện, còn Lang Giá ở Quý Châu, cả hai vùng này đều khá xa với vùng đồng bằng sông Hồng là đất bản bộ của người Việt, vậy mà lại gọi con ngựa là "nga" rất giống người Việt !

Ghi chú: Về "Ba Cáp 巴哈" còn có một địa danh nữa trùng tên, nhưng cũng ở phía bắc tỉnh Quảng Tây, sát gần địa giới tỉnh Quý Châu, chứ không gần Việt Nam.

2. Ngủ (thụy 睡):

Tương tự từ "ngựa" là từ "ngủ". Các nhóm Tai-Kaidai chính là Choang và Đồng gọi là "nin", "nun" (đọc gần như "nân") người Tày đọc là "nòn" (theo Từ Điển nôm Tày, Hoàng Triều Ân chủ biên). Nhưng An Thuận gọi là "ngka", Lục Chi và Ba Cáp gọi là "ngu", Lang Giá là "?u". Thủy Lạp Cáp là "ngau", Hạn Lạp Cáp là "?ow", Lê là "kau"... Đều có liên hệ gần với tiếng Việt "ngủ", trong đó Lục Chi và Ba Cáp trùng hoàn toàn với tiếng Việt "ngu" (nếu không quan tâm thanh điệu).

Page 2: Quan he ngon ngu lac viet

Điều đáng quan tâm nữa là, An Thuận ở ngay gần Quý Dương thủ phủ tỉnh Quý Châu, còn đặc khu Lục Chi ở khoảng giữa tỉnh Quý Châu giáp với tỉnh Hồ Nam, cũng giống như An Thuận là rất xa biên giới Việt Nam hiện nay, còn Ba Cáp tuy ở Quảng Tây nhưng sát địa giới Quý Châu chứ không gần biên giới với VN (xem bản đồ) : http://www.guang.net/m/liuzhi.htm)

Trên diễn đàn Việt học (viethoc.org) người viết đã dẫn trang WEB của chính người TQ (http://www.12edu.cn/lunwen/wxlw/200902/246579.shtml ), trang đó đã gọi vùng lưu vực sông Tương ở Hồ Nam là "Cổ Lạc Việt Chi Địa", mà từ Lục Chi xuôi theo dòng Trường Giang không xa là tới vùng Tương Giang đổ vào Hồ Động Đình, là đất cổ của người Lạc Việt theo truyền thuyết.

Chú ý âm "ngka" của An Thuận có thể dùng làm trung gian giải thích âm "ka=ngựa" và "kau=ngủ" của người Lê ở Hải Nam, có thể âm cổ xưa là "ngka" và "ngkau", về sau tiếng Lê đã rụng tiền âm tiết "ng-".

3. Đầy (mãn 滿):

An Thuận gọi đầy là "tei" (tây), nếu để ý rằng phụ âm "đ-" của tiếng Việt vốn tương ứng "t-" của tiếng Mường, còn bảo lưu nhiều tiếng Việt cổ, tức là thời xưa tiếng việt đọc "đầy" là "tầy", thì có thể nói rằng tiếng "tây" của An Thuận hoàn toàn giống tiếng Việt Cổ.

4. Về chữ "ngưu" là "bò" hay "trâu" ?Trích "Đồng-Thái ngôn ngữ dữ văn hóa", xem tài liệu tham khảo (3) :

Page 3: Quan he ngon ngu lac viet

Tư liệu sách của TQ ở hình trên thấy trình bày khá dài, viện dẫn tới cả âm thượng cổ (nguyên thủy Đồng Thái ngữ), xin tóm lược như sau:

Page 4: Quan he ngon ngu lac viet

- Thủy ngưu là con trâu được xác định là sản vật riêng của Lĩnh Nam, âm đọc khá thống nhất là "vai" (tiếng Choang) hay gần như "kuai". - Hoàng ngưu tức con bò thì tên gọi có nhiều sai biệt.Nhóm 1 : "po, pu, peu..." gần với "bò" của tiếng ViệtNhóm 2 : "mo, mua..." gần với âm "mò", là con bò trong tiếng Mường

Nhóm 6 : "ngu, ngiu..." chắc do ảnh hưởng của tiếng Hán (ngưu 牛, âm pinyin niu).Còn các nhóm kia khá lộn xộn, trong đó có nhóm Choang Liễu Giang gọi bò là "tsw" tức là gần với "tru" của tiếng Việt-Mường cổ, chính là con trâu, và một nhóm Choang nữa ở Vũ Minh gọi là "ɕ ", cả "ts " và "ɯ ɯ ɕɯ" đều có liên hệ ngữ âm gần với chữ "sửu" trong tên 12 con giáp. Các thông tin trên cho thấy quan hệ móc nối dây truyền : Sửu=>Tru=>Trâu=>Ngưu=>Bò mà tác giả Nguyễn Cung Thông từng đề cập trong thuyết về "nguồn gốc VN của 12 con giáp" không phải không có căn cứ.Vấn đề phải nhấn mạnh là các nhóm tộc ở Quý Châu rất xa VN mà lại gần với Hán Thủy, đất cổ của người Hán, Quý Châu vốn liền địa giới với Hồ Nam, thế mà cũng có nhóm tộc gọi "con mã" là "con nga (ngựa)" như người Việt.Xin xem thêm tư liệu về con trâu trong tiếng Di mục dưới

5. Tư liệu bổ sung: Về nhóm người Di (Bộc), vốn là nhóm tộc bản địa cổ xưa ở vùng trung lưu Trường Giang (Hồ Bắc và Hồ Nam), địa bàn cư trú khá gần nhóm Lạc Việt (có tài liệu TQ nói lưu vực Tương Giang "cổ Lạc Việt chi địa" cũng từng có người Di Bộc sinh sống). Ngôn ngữ nhóm này hiện được xếp vào họ Hán Tạng, nhưng có thể đã có nhiều tiếp xúc trao đổi với các nhóm Lạc Việt, ví dụ từ "ngưu" (trâu-bò) tiếng Di là "l " (đọcɯ gần như lu), khá gần với "t-lu", "tru", "trâu" trong ngôn ngữ Việt-Mường cổ, xin xem hình chụp lại từ cuốn "Trung Quốc thiểu số dân tộc ngôn ngữ":

Tên địa danh của các nhóm Di-Bộc cũng thường có tiền âm tiết "cổ", "cù", "kẻ" giống các nhóm Lạc Việt, xem phần dưới. 6. Thổi:

Page 5: Quan he ngon ngu lac viet

Liên Sơn và Phù Tuy gọi "xuy 吹" là "tshui" gần với "thổi" của tiếng Việt (xuy hỏa=thổi lửa) .

6. Hợi, Đồn = Cúi, Lợn.

Các nhóm tộc chính trong ngôn ngữ Tai-Kadai đều gọi con lợn (heo, dã trư) là "mu".Riêng nhóm Choang vùng Liễu Giang và Nghi Sơn gọi là "hjai" gần với "hợi", theo nhà nghiên cứu Nguyễn Cung Thông thì "hợi" có nguồn gốc từ "cúi" của người Việt. Ngoài ra có các nhóm Ung Bắc, Khâu Bắc còn gọi dã trư là "tun", "tu:n", cũng gần với âm "đồn" là tiếng gọi con lợn ở một số địa phương VN.Tra cứu địa đồ lần nữa thì Liễu Giang và Nghi Sơn đều ở phía bắc của Nam Ninh, thủ phủ Quảng Tây, chứ không phải ở vùng biên giới tiếp giáp VN.

7. Khâu Bắc gọi ba tiêu là "chuối" (cây chuối) :

Page 6: Quan he ngon ngu lac viet

8. Vũ Minh gọi "kỵ" là "cưỡi":

III. Quan hệ trong các tên địa danh Lạc Việt. Tư liệu từ sách “Đồng-Thái ngữ ngôn dữ văn hóa”, Lý Cẩm Phương, Dân tộc xuất bản xã, Bắc Kinh, 2002. Trang 289 -290 :

Lược dịch:Các từ chỉ địa danh Câu (cẩu ), Cô, Giao phân bố khắp cả đông tây của đất Bách Việt như: Câu chương, Câu dung, Câu ngô, Câu vô, Câu dịch, Câu dương, Câu Dũng đông, Câu dư chi, Câu đinh, Cô hùng di, Cô phát nhiếp phản, Cô mạc, Cô hạ, Cẩu lậu, Cô tô, Cô tăng, Cô miệt, Giao chỉ.

Page 7: Quan he ngon ngu lac viet

Các chữ đầu địa danh có lúc có thể tỉnh lược, như Câu Dịch, Câu Dũng Đông cũng viết Dịch, Dũng Đông, điều này cho thấy chữ “câu” là chữ đặc trưng để chỉ tên. Các chữ chỉ tên này có âm thượng cổ Hán ngữ là : câu=ku9, cẩu=*kugx , cô=*kag, giao=*kragw. Các chữ đó đều thuộc Kiến mẫu (見), có vận bộ gần nhau, nên âm đọc rất gần, đều là chữ ghi âm tên chỉ làng xóm trong các nhóm Bách Việt. Nhóm ngữ tộc Đồng - Thái có nhiều thứ tiếng, mà đều gọi thôn trại là “bản”, Tráng tộc còn đọc là ka1baan3, âm đầu “ka1” (ke) chỉ dùng làm từ đứng đầu tên thôn trong Tráng ngữ (chứ không dùng đơn), hiện nay thường được viết là "gia": Gia vi, Gia đảng, Gia đồn, Gia phong, Gia hoà, Gia thị vân vân ...Các kiểu địa danh này số lượng không thật nhiều nhưng địa vực phân bố lại rộng, nhiều khả năng là di tích cổ ngữ. Tiếng Ngật Ương còn bảo lưu khá nhiều thành phần Đồng Thái ngữ cổ xưa, tiếng Ngật Lão trong địa danh cũng thêm tiền âm “qă”. Như An Thuận ở Quý Châu có “qɒ33ɳtçi 13" (Loan tử trại), ở Bình Bá có qɒ33mpau73 (Cẩu trường). Các âm câu, cô, giao với ka, qă khá gần nhau, chính là ghi âm của từ đầu chỉ địa danh vùng Bách Việt (chủ yếu là tên xóm làng). Giao Chỉ 阯 về sau viết Giao Chỉ 趾, người xưa nhìn chữ mà sinh nghĩa, nên nói “Người phương Nam, ngón chân cái cong vẹo, khi đứng thẳng thì các ngón chân này giao nhau, nên thành danh !”. Phạm Thành Đại đời Tống trong “Quế hải ngu hành chí” từ rất sớm đã phê phán, bác bỏ cách giải thích này. Sau đời Hán tại quận Giao Chỉ cũ từng lập các huyện Giao Hưng, Giao Cốc, chữ Giao đó vẫn là theo từ đầu địa danh trong tiếng Bách Việt mà ra. Câu còn dùng làm từ đầu trong tên người vùng Bách Việt, như: Câu Tiễn, Câu Dư. Các từ này với các từ chỉ địa danh vốn bất đồng. Đồng Thái ngữ có một số danh từ chỉ người mà chữ đầu có âm gần với “câu ”. Chẳng hạn như: Mao Nam có từ ka6laau4

(trượng phu ), Thuỷ có qa3man1 (tha môn ), Ngật Lão có qɒ3tau5 (nam nhân ), qɒ33ʐɒ13 (nữ nhân ). Chữ "câu" ở đầu các tiếng chỉ người này có khả năng liên quan với các từ chỉ tên người, chính là chữ thường đặt ở đầu tên người trong Bách Việt ngữ.Toàn bộ đoạn trên trích từ sách của TQ, cho thấy chính các nhà nghiên cứu người Trung Quốc cũng đã thẳng thừng bác bỏ lối giải thích mang tính miệt thị, rằng tên gọi Giao Chỉ nghĩa là “ngón chân giao nhau” ! Các địa danh bắt đầu bằng tiếng Kẻ (như Kẻ Chợ), Cổ (như Cổ loa) có mặt dày đặc trên vùng đồng bằng bắc Bộ và Thanh Hóa, đều có quan hệ với các âm cô, cẩu, giao, gia… của các nhóm tộc Choang, Di ở TQ.Sau đây phân tích kĩ hơn tên gọi Kẻ Chợ:

- Nhiều bài viết (như bài viết của GS Ngô Đức Thọ trên Văn hóa Nghệ An: http://vanhoanghean.vn/tap-chi/nhung-goc-nhin-van-hoa/1021-ke-cho-kattigara-xa-xam-than-yeu.html) đã

khẳng định Giao Chỉ 郊 阯 chính là phiên âm của Kẻ Chợ:Trên trang WEB : http://tool.httpcn.com/Html/Zi/38/KOMEAZTBTBRNAZCA.shtml cũng chú

chữ “giao 郊” có thượng cổ âm là “ke?” (Xem phần “Cơ bản giải thích”, mục “Âm vận tham khảo”), âm này trùng với âm Việt cổ “kẻ”, gián tiếp khẳng định “giao chỉ”= “kẻ chợ”.

- Âm thượng cổ của 郊 theo Karlgren phục nguyên là ko g , còn Vương Lực phục nguyên là keo, có lẽ dạng ko g đã đưa đế âm “cổ”, còn dạng keo có thể đưa đến cả âm “kẻ” và “cổ”, cả cai dạng này đều cực kì thông dụng trong các địa danh ở đồng bằng Bắc Bộ, như Cổ Loa, Kẻ Lũ .v.v. xem thêm tư liệu : http://vanhac.org/05/trich-cong-trinh-chu-viet-co-cua-giao-su-le-trong-khanh.html

Page 8: Quan he ngon ngu lac viet

- Chợ tức “thị” 市 Vương Lực khôi phục âm thượng cổ là iəʑ khá gần âm “chợ”

của tiếng Việt, “chỉ” “阯 hay 趾” cũng thế, Vương Lực khôi phục âm thượng cổ là t iəɕ , Baxter khôi phục là tjəʔ , cũng gần với âm “chợ” của người Việt.- Nảy ra câu hỏi vì sao người TQ khi lập chính quyền đô hộ lại đặt tên nước ta là

“Giao Chỉ 交趾”. Theo người viết phân tích thì tên Giao Chỉ= Kẻ Chợ là do người ở vùng đất Ngô-Sở-Việt đã dùng để gọi đất nước Văn Lang từ lâu trước thời Tần, dựa theo tên của vùng kinh đô Văn Lang mà người Văn Lang gọi là Kẻ Chợ, người vùng Ngô-Sở-Việt thời Tiên Tần đã ghi âm “chợ” bằng chữ Hán “chỉ”, đến thời Hán khi thôn tính Văn Lang và đặt thành quận huyện thì người Hán cũng chỉ dùng lại tên và chữ có sẵn thời tiên Tần đó thôi. Bảo rằng người Hán cố ý đặt tên thế để nhục mạ người Lạc Việt có lẽ có phần oan cho họ, thử so sánh tên các quận khác ở vùng đất Lạc Việt cổ như Tượng Quận, Cửu Chân, Nhật Nam… thì không thấy có ý miệt thị gì cả, nhưng các sách sử của người Hán về sau cố tình giải thích sai đi. Chú ý là Sử Ký của Tư Mã Thiên và sách Quế Hải Ngu Hành Chí của

Phạm Thành Đại đời Tống đều dùng chữ chỉ bộ phụ 阯, không phải chữ chỉ 趾 là

chân. Còn nghĩa “ngón chân” của 趾 thì tra Khang Hy tự điển cũng không hề có, không hiểu từ thời nào có cách giải thích tầm bậy “chỉ là ngón chân, nên giao chỉ

là ngón chân giao nhau”. Phải chăng vì đã có chữ chỉ bộ thủ 指 là ngón tay nên

người ta liên tưởng ra chỉ 趾 bộ túc phải là ngón chân? trong khi thực ra nó có nghĩa là chân chứ không phải riêng ngón chân.Chú ý câu "Mầy ở kẻ nào?" đã có trong Từ điển Việt Bồ La của A.D. Rhode, 1651 - nghĩa là "Quê bác ở đâu? ...", rõ ràng kẻ có nghĩa là “vùng”, “xứ”. Còn chợ thì Chỉ Nam Ngọc Âm có chú “Bang Kỳ - Kẻ Chợ khỏe bền muôn thu”, tức chợ là chỗ kinh đô, tương đương thị 市 trong chữ thành thị 城市, chứ không phải chỉ có nghĩa hẹp “chợ là chỗ mua bán”.

Bang kỳ: KẺ CHỢ khoẻ bền muôn thu

邦畿:几助劸卞門秋

Page 9: Quan he ngon ngu lac viet

(Ảnh từ các bản Chỉ Nam Ngọc Âm do GS Ngô Đức Thọ công bố)

IV. Quan hệ ngôn ngữ thể hiện qua chữ viết Choang và chữ Nôm ViệtTư liệu chính: "Cổ Tráng tự tự điển" , Quảng Tây Dân tộc xuất bản xã.1. Mo:t8 (Con mọt ăn gỗ) :

- Âm và nghĩa giống tiếng Việt

- Có một dạng viết với biểu âm là chữ một 沒 cũng hoàn toàn giống chữ Nôm Việt mọt V.

- Đây không phải từ địa phương.- Từ điển Nôm Tày không thấy ghi từ này (?)

2. Mu:ng6 (mongtrông, trông đợi) :- Nghĩa giống tiếng Việt, âm khá gần.- Không phải từ địa phương.

- Từ điển Nôm Tày giống Nôm Việt là dùng chữ "mông" 蒙.

3. Nei4 (từ chỉ định) :- Âm và nghĩa giống tiếng Việt (nếu đọc giọng Nam "nầy")

- Dạng viết với chữ "ni 尼" thì hoàn toàn giống chữ Nôm Việt- Không phải từ địa phương.

- Từ điển Nôm Tày cũng có từ này nhưng viết với chữ nãi 乃.

4. No:n2 (Nòn = ngủ) :- Có dạng viết với chữ non (núi non) mượn chữ Nôm Việt, vì bộ phận biểu

nghĩa là chữ "sơn" rõ ràng chẳng liên quan gì đến "ngủ".

Page 10: Quan he ngon ngu lac viet

- Từ điển Nôm Tày có từ này, cũng viết bằng chữ "non" T tức cũng mượn từ Nôm Việt

5. ri:u2 (rều, rêu) :- Nghĩa giống tiếng Việt, âm đọc rất gần.- Không phải từ địa phương.- Từ điển Nôm Tày không ghi từ này.

6. Ri:u2 (rao truyền) :- Âm gần với " rêu, rao" của tiếng Việt- Không phải từ địa phương.- Từ điển Nôm Tày không ghi từ này.

7. Tha:i (con trai)- Âm gần với "trai" của tiếng Việt- Không phải từ địa phương.- Từ điển Nôm Tày không ghi từ này (?)

Page 11: Quan he ngon ngu lac viet

8. Tha:u4 (cái sào)- Âm và nghĩa gần với "sào" của tiếng Việt, chú ý âm Việt cổ khoảng đời Trần

về trước thì "s-" đọc giống "th-".- Không phải từ địa phương.

- Từ điển Nôm Tày cũng có từ này, viết là 巢, chú âm là "sảo".

9. Thi:m (tim)- Âm và nghĩa giống với "tim" của tiếng Việt.- Từ điển Nôm Tày có từ này, đọc âm "sim"

10. Thi:ng (tanh hôi)- Âm và nghĩa gần giống với "tanh" của tiếng Việt- Không phải từ địa phương.

Page 12: Quan he ngon ngu lac viet

11. uk7 (Óc)- Âm gần với "óc" của tiếng Việt. Nghĩa giống nhau.- Viết hoàn toàn trùng với chữ Nôm "óc". - Không phải từ địa phương.- Từ điển Nôm Tày không có từ này.

12. Wut1 (Vứt)- Âm gần với "vất, vứt" của tiếng Việt. Nghĩa giống nhau.- Có dạng viết (C) giống chữ Nôm Việt. - Không phải từ địa phương.- Từ điển Nôm Tày không có từ này.

13. Ak7 (Ngực, Ức)- Âm gần với "ức" của tiếng Việt. Nghĩa gần giống nhau.

- Có một dạng viết (臆) giống chữ Nôm Việt. - Không phải từ địa phương.- Từ điển Nôm Tày không có từ này.

Page 13: Quan he ngon ngu lac viet

Ghi chú thêm: ngực và ức có thể chuyển hóa cho nhau, theo sách Giáo trình ngữ âm Tiếng Việt của Nguyễn Tài Cẩn thì phụ âm ng- khi đi sau là bán nguyên âm w giọng Nam Bộ thường đọc lướt thành w-, nhiều từ có "ng-" trong tiếng Mường cũng đọc với "w-" như:wãi quốc: ngoại quốc wy cơ: nguy cơ wiền: nguyền wãm: ngoạm we wáy: ngoe ngoẩy wénh kel: ngoảnh cổ ... xem thêm bài viết trên viethoc.org: http://www.viethoc.org/phorum/read.php?11,30972,page=9

14. Pi:u (biêu=cưỡi ngựa hay trâu)Từ cổ tiếng Việt cũng có chữ "biêu", tuồng Kim Thạch Kỳ Duyên : "Tiên té lừa đặng chữ vui mừng, sĩ biêu ngựa đường mây hớn hở".

15. Pu:n- Âm nghĩa giống "buôn" của tiếng Việt.- Không phải từ địa phương.

- Từ điển Nôm Tày có chữ (亻+奔), đọc "puôn", nghĩa cũng như "buôn" của tiếng Việt và pu:n của tiếng Choang.

16. Pwt (Bụt, Phật) - Âm đọc gần giống "Bụt" tiếng Việt.- Dạng viết đặc biệt này chỉ thấy có trong chữ Choang, chữ Nôm Việt và chữ

Nôm Tày.

17. cha:k (Chạc):

Page 14: Quan he ngon ngu lac viet

- Âm nghĩa giống "chạc" (dây thừng) của tiếng Việt.- Không phải từ địa phương.

18. che:t (Sinh thực khí của giống cái)Chữ Nôm Việt nghĩa là "đĩ".Dạng viết biểu ý đặc biệt này chỉ thấy có trong chữ Nôm Việt và chữ Choang.

19. Cho:i - Âm nghĩa gần như "chói", "chiếu" của tiếng Việt- Viết bằng chữ Nôm Việt "chói V" gia thêm nháy cá.- Cách thêm nháy cá vào một chữ có sẵn để tạo chữ mới có âm đọc gần giống là

cách tạo chữ khá đặc trưng của chữ Nôm Việt và chữ Choang. Vấn đề là cần phải có trước con chữ định thêm nháy cá (p), mà trong từ điển Choang người viết chưa tìm ra chữ v, vậy người Choang lấy nó ở đâu ra ?

20. Ta:p8 (đắp) - Âm nghĩa gần như "đắp" (lũy) của tiếng Việt- Không phải chữ địa phương.

21. Tai3 (đáy)- Âm, nghĩa, chữ viết giống "đáy" của tiếng Việt- Không phải từ địa phương.- Chưa tìm thấy trong TĐ chữ Nôm Tày.

Page 15: Quan he ngon ngu lac viet

22. Ta:ng4 Gần giống tiếng Việt đứng/dừngKhông phải phương ngữ.

23. Ta:ng4 Gần giống tiếng Việt: trừng mắtKhông phải phương ngữ.

24. Tat7Gần giống tiếng Việt : đứt (từng đoạn)

Page 16: Quan he ngon ngu lac viet

25. Ta:t7 (cắt)

- Điều đáng chú ý là chữ Choang có dạng viết (刀+吉) dùng âm phù cát="cắt" của tiếng Việt, khác hẳn âm Choang Ta:t7.

- Chữ Nôm Tày cũng có từ "cắt" viết dạng (吉+刂)

26. Ta:n3 (tãn=chặt nhỏ)Gần giống từ "đẵn" tiếng Việt

27. Rum (bóng râm)

28. tam1 (giã gạo)- Giống từ "đâm" của người Việt trong cách nói "đâm gạo" (giã gạo)

Page 17: Quan he ngon ngu lac viet

29. ngei4 (Ngậy = nghĩ)- Âm gần giống "nghĩ" tiếng Việt- Không phải từ địa phương

- Âm "ngậy" và nghĩa giống hệt tiếng Tày (議 )

Nhận xét :- Choang và Việt có nhiều từ âm nghĩa khá giống nhau, đi sâu tìm hiểu còn thấy

nhiều trường hợp khác, có khả năng người Choang cũng là một trong các nhóm tộc Lạc Việc đã tham gia xây dựng nhà nước Văn Lang, hai dân tộc từng có mối quan hệ bà con, giao thoa khá chặt chẽ về ngôn ngữ và văn hóa chứ không chỉ là mối quan hệ "hàng xóm" gần gũi về địa lý mà thôi. Sự giống nhau này không chỉ là những đặc điểm bề ngoài "điêu đề, giao chỉ" mà người Hán hay nhắc đi nhắc lại...

- Về địa bàn cư trú hiện tại thì giữa Choang và Việt có một khoảng cách mà ở giữa có vùng đệm dân tộc Tày-Nùng và một số dân tộc miền núi khác chen vào. Nhưng có hiện tượng lạ là một số từ có trong tiếng Choang và Việt lại không thấy có trong cuốn từ điển Nôm Tày, vậy chúng lan truyền theo đường nào? Có thể nghĩ rằng vùng Lưỡng Quảng trước thời Bắc Thuộc cũng có khá đông người Việt (Kinh) nên có mối giao lưu Choang-Việt trực tiếp chứ không phải gián tiếp qua nhóm Tày-Nùng. Sau này khi người Hán thiên di từ phía Bắc xuống có lẽ người Việt phải chạy về vùng đồng bằng sông Hồng (ví dụ gia tộc Tể tướng Lữ Gia của nước Nam Việt), số còn lại thì bị đồng hóa thành người Hán hay nhập vào với người Choang, nên dân số người Kinh ở vùng Lưỡng Quảng hiện tại rất ít …

- Nhiều từ giống nhau liệt kê ở trên có ghi rõ là "không phải tiếng địa phương", đó là ý người viết muốn nhấn mạnh là không phải chúng lan truyền gián tiếp

Page 18: Quan he ngon ngu lac viet

qua các nhóm tộc Tày-Nùng ở biên giới Việt Trung (nếu coi tiếng Tày-Nùng như phương ngôn của tiếng Choang).

- Về cấu tạo, chữ khối vuông Choang có nhiều điểm gần gũi với chữ Nôm Việt, như sử dụng biện pháp thêm dấu nháy cá (điểm đặc trưng này khôngchưa thấy trong các nhóm chữ viết biểu ý khác như Hán, Hàn, Nhật, còn chữ Dao chúng tôi chưa có điều kiện tiếp xúc), các quy ước viết tắt khá giống nhau (như chữ

làm 爫), có một số dạng viết biểu ý khá đặc thù như các chữ trên , dưới , , trời t , đĩ .v.v.

V. Một số kết luận sơ bộ.- Trong tất cả các ví dụ về sự quan hệ ngữ âm của các nhóm Lạc Việt đã dẫn ở trên thì không có địa phương TQ được đề cập nào nằm sát biên giới VN hiện tại. - Các chứng cứ quan hệ ngữ âm cùng với các thông tin địa lý, địa danh, chữ viết ở trên chỉ ra rằng truyền thuyết nói cương vực nhà nước Văn Lang của người Lạc Việt cổ từng vươn tới vùng hồ Động Đình là có căn cứ, không thể vội vã khẳng định đó là "ngụy tác", "ngụy thư"…

Tài liệu tham khảo:1. "Về niên đại ra đời chữ Nôm Choang và chữ Nôm Việt" [Discussing about the

history arising of Zhuang script and Nôm script], Tạp chí Hán Nôm [Han Nom Research Quartely], No. 1 (104)/2011.

2. “Đi tìm lý giải khoa học về con số hơn bốn ngàn năm lịch sử Việt Nam” [In search for a scientific evidence for the 4,000 year history of Vietnam], Tạp chí Nghiên Cứu và Phát Triển [Journal of Research and Development], No. 5(82)/2010

3. "Đồng-Thái ngôn ngữ dữ văn hóa", Lý Cẩm Phương, Dân tộc xuất bản xã, Bắc Kinh - 2002.

4. 中国音韵学研究( 高本汉 法语原著)Bernhard Karlgren Etudes Sur La Phonologie Chinoise (Stockholm 1915 - Gotembourg 1926). Bản PDF.

5. 汉文典 、 高本汉、 上海辭書出本社。 1997。

6. 中上古汉语音的纲要、 高本汉、 齐鲁书社、 济南。 1987

7. The Austroasiatics in Ancient South China, 梅祖麟言语学论文集。 商务印

书馆出本。2000。 8. Trung nguyên âm vận (Chu Đức Thanh, 1324, bản scan không có thông tin

năm in lại)9. "A Handbook of Old Chinese Phonology" GS William Baxter (1992, New

York, Berlin).

10. 王力:《漢語詩律學》,(上海:中國上海世紀出版集團,上海教育出版

社,2005 年

11. 王 力 古 漢 語 字典,Vương Lực “Cổ Hán ngữ tự điển”.

12. “從原始漢藏語到上古漢語-以及原始藏緬語的韻母演變” . 龔煌城 Cung

Hoàng Thành 中央研究院 , 第㆔屆國際漢學會議論文集語言組 2003.

Page 19: Quan he ngon ngu lac viet

13. 中国少数民族语言 Trung Quốc thiểu số dân tộc ngữ ngôn, Tứ Xuyên Dân tộc Xuất bản xã. 1987. Bản điện tử (PDF).

14. 中国少数民族语言 Trung Quốc thiểu số dân tộc văn tự. 1991, không có thông tin NXB và tác giả vì không có trang bìa. Bản điện tử (PDF).

15. Giáo trình Lịch sử ngữ âm tiếng Việt. Nguyễn Tài Cẩn, NXB Giáo Dục, Hà Nội. 1995

16. Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt. Nguyễn Tài Cẩn. NXB Đại học Quốc gia , Hà Nội. 2000

Các trang mạng :1. http://www.guang.net/m/liuzhi.htm bản đồ tỉnh Quý Châu2. http://vanhoanghean.vn/tap-chi/nhung-goc-nhin-van-hoa/1021-ke-cho-

kattigara-xa-xam-than-yeu.html3. http://vanhac.org/05/trich-cong-trinh-chu-viet-co-cua-giao-su-le-trong-

khanh.html4. http://www.viethoc.org/phorum/read.php?11,30972,page=9 5. http://baike.baidu.com/view/118983.htm trang nghiên cứu về chữ Choang6. http://www.12edu.cn/lunwen/wxlw/200902/246579.shtml