quần tiên gia ngôn lục

127

Upload: hoang-ly-quoc

Post on 08-Aug-2015

87 views

Category:

Education


2 download

TRANSCRIPT

2

3

Bạch Dương Hộ Pháp Chân Quân giáng lâm, có thơ rằng:

Bạch thuộc Tây phương bất nhiễm trần

Dương ô phổ chiếu chửng nguyên nhân

Hộ dân tiến đạo siêu sanh tử

Pháp vũ giáng thí mộc đức thân

Chân lý trực thông tam giới ngoại

Quân tâm bất muội tạo thiên nhân

Lâm đường hội hợp kiền thành tử

Thơ ý tàng cơ Ly Khảm thần.

Cho biết rằng :

“Quần Tiên Gia Ngôn Lục”, là một Thiên-kiều, tiếng chuông loan báo Thiên Đạo sắp được gõ vang, vì cứu vớt Tam kỳ hạo kiếp, Tiên Phật phải dốc hết tâm lực, lo lắng hết mức, nhằm cứu vớt chuyển hóa phong khí tồi bại, dẫn dắt chúng sanh thoát khỏi bể khổ, sớm bước lên bờ giác.

Đêm nay Mã Thiên Quân giáng lâm tới Đường, là muốn cho vài người thay đổi về nhân chức, việc như vậy là đã thông qua tấu trình và được phê chuẩn, mong chư sinh nhất thiết đừng làm trái ngược. Ta xin lui.

4

Giám Sát Thiên Quân Mã giáng lâm, có thơ rằng :

Giám Sát Loan đường trứ tác khai

Thiên Quân phụng chỉ hạ phàm lai

Thánh Thần nhiệm vụ vô canh biến

Nhân chức số danh tái hoán bài.

Thần đây đêm nay phụng chỉ đăng loan cho vài người thay đổi về nhân chức trong việc trứ tạo, còn về thần chức vẫn không biến đổi, sự thay đổi về nhân chức như sau:

- Nội vụ Đường chủ kiêm trợ lục, kiêm Đường trù kiến ủy viên, là Tiết Lương Đức, nay nhận chức khác nên cho miễn chức.

- Tài vụ Đường chủ kiêm “Phát hành”, kiêm “Đường trù kiến ủy viên”, là Lưu Chương Đức, cho miễn chức.

- Trướng vụ Đường chủ kiêm “Phó tuyên giảng sư” kiêm “Đường trù kiến ủy viên”, là Trần Thụ Căn, nay nhận chức khác, nên được miễn chức.

- Tài vụ Đường chủ kiêm “Trù kiến ủy viên” do Viên Hư Thông Cốc Tử kiêm chức.

- Trướng vụ Đường chủ kiêm trợ lục, kiêm “Trù kiến ủy viên” do Tiết Lương Đức đảm nhiệm.

- Nội vụ Đường chủ kiêm “Phó tuyên giảng sư” kiêm “Đường trù kiến ủy viên” do Trần Thụ Căn đảm nhiệm.

Chức vụ về trứ tạo thế này, mong tất cả hãy hết mình làm tròn chức trách, công đức vô lượng.

5

Còn về việc quản lý nhân sự trong Đường, đợi sau khi trứ tác hoàn tất, là có một phen giao phó cụ thể, tại vì Hộ Pháp Đường khác hẳn với Loan đường thông thường, chính là Bạch Dương Hộ Pháp Loan đường, không được làm bừa, ta xin lui.

6

Nam Bình Đạo Tế Thiên Tôn giáng lâm, có thơ rằng:

Nam Bình nhất lý quán Tiên-Thiên

Đạo Tế nhân gian tu tử kiền

MẪU giáng chân thuyên sanh tử quyết

Bảo Sanh Đại Đế phát tiên ngôn.

Cho biết rằng :

- “Quần Tiên Gia Ngôn Lục” là quyển sách Thiên-kiều, chính là quyển vấn đáp giải thích nghi vấn về Thiên Đạo, do Thần Thánh ở Miếu Tự hoặc chư Thiên Thần Thánh thay phiên đặt câu hỏi, do Phật ta giải đáp, quyển vấn đáp này gọi là “Quần Tiên Gia Ngôn Lục”.

- Quyển sách vấn đáp tựa đề “Quần Tiên Gia Ngôn Lục”, giúp cho nhân gian hiểu về chân lý Thiên Đạo, hết thắc mắc về Thiên Đạo, nên gọi là “Thiên-kiều”.

- Đêm nay do Bổn Đường Bảo Sanh Đại Đế đặt câu hỏi trước!

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- Thiên Tôn từ bi, nay có rất nhiều người tu đạo, ăn chay trường, nhưng thân thể nhiều bệnh tật, thường tới cầu tôi, tôi vốn là Tế Thế Thần Y, nên ban sức khỏe cho họ, lại biết rằng cái bệnh của họ là do oan nghiệt nhân quả, cho nên không dám cứu, lại không dám cho họ hay biết cái nhân quả thực tế, sợ họ tuyệt vọng về cuộc đời, không biết phải làm sao mới được?

- Hoặc là Bề Trên có thể từ bi chăng định ra cách cứu chữa,

7

để giải cứu họ, để cho những người không tu đạo trên nhân gian không cười nhạo họ là do ăn chay không có dinh dưỡng.

Đạo Tế Thiên Tôn giải đáp rằng :

- Đại Đế có lời hỏi như thế, chính là điểm từ bi chung của tất cả Tiên Phật, Tiên Phật vốn có tâm từ bi, đều muốn cứu người tu đạo đang chịu khổ, nhưng luật trời là chí công vô tư, tức là định luật nhân quả, làm như thế nào thì phải chịu như thế nào, là do mọi người chịu những nhân quả không giống nhau, vì thế những báo ứng do nhân quả - thiếu nợ là phải trả nợ, ai cũng không cách nào ngăn cản được, đừng nói là người đời, nếu Tiên Phật thiếu nợ người ta, vẫn phải hoàn trả, cho nên Tiên Phật gặp phải chuyện này, cũng là tuy có thương nhưng không thể giúp cho.

- Còn về cách cứu chữa tức là đi thành toàn người đó, để việc hành công tu đạo càng thêm lòng kiền thành mà thôi, cứ để oan nghiệt tới đòi nợ đi! trả nợ cho người ta đi! hoàn trả sạch rồi là không còn nợ nữa, không còn nợ mà có công đức, tức là Thiên đàng.

- Còn về chuyện chúng sanh cười nhạo người tu đạo, thậm chí làm nhục người tu đạo, thế này đều là tiêu bớt oan nghiệt cho người đó, càng như thế là càng tốt, Phật ta vào đời nhà Tống, chịu đủ mọi thứ nhồi dập và sỉ nhục, nếu không làm sao có Đạo-Tế ngày hôm nay?

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- Thiên Đạo là chân đạo, chính Lão Mẫu trực tiếp cho triển khai, tại sao để cho tà đạo nhiều như thế tới quấy nhiễu Đạo-bàn?

Đạo Tế Thiên Tôn giải đáp rằng :

8

- Như thế đều là ý trời cả, không có khảo làm sao có thể xem xét đạo chí, thử xem lại từ cổ xưa đến giờ người thành đạo đều có trải qua sóng to gió lớn, trải qua khảo nghiệm lớn rồi mới thành đạo, thiên hạ khi loạn là xuất thánh nhân, quốc gia khi loạn là xuất trung thần, Đạo bàn khi loạn là có thể phân rõ chân giả, cũng từ đấy mà xuất Thần Thánh Tiên Phật.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- Người tu đạo gặp phải mọi thứ khổ nạn, đều là khảo sao?

Đạo Tế Thiên Tôn giải đáp rằng :

- Tuy gọi là khảo, thực tế đều là cuộc hội ngộ về nhân quả, Tiên Phật chỉ là căn cứ vào những gì mỗi người gặp phải mà đánh số điểm cho, nhân quả của mỗi người, như là thiếu của người ta, người ta thiếu của mình, nói chung những oan trái lũy tích đều nên đi hoàn trả cho sạch, Tiên Phật là xúc tiến cuộc hội ngộ ấy, để oan trái được thanh lý sạch mà thôi.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- Mới nãy nghe nói cuộc hội ngộ về nhân quả của chúng sanh, người tu đạo gọi là khảo, Tiên Phật đánh số điểm cho, phải chăng khi gặp phải nhân quả thế này cũng là có công đức ư?

Đạo Tế Thiên Tôn giải đáp rằng :

- Không có công đức, là xem lòng tin của họ mà thôi, nếu là người không minh lý, sẽ oán trời hận người, nếu người minh lý là chỉ trách lấy mình, Tiên Phật đánh số điểm là theo lòng tin của họ.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- Người tu đạo ăn chay trường có công đức không?

9

Đạo Tế Thiên Tôn giải đáp rằng :

- Không có công đức, ăn chay là bổn phận của con người, con người vốn là động vật ăn chay, ăn chay là điều tất nhiên đúng phải thế, nào có công đức.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- Ăn chay không có công đức, vậy người tu đạo cần chi phải ăn chay?

Đạo Tế Thiên Tôn trả lời rằng :

- Mới nãy có nói đó là bổn phận của con người, là không tạo thêm cái nhân về sát sanh mà thôi, tu đạo là phải kết liễu cho hết nhân quả, nếu tiếp tục tạo cái nhân về sát sanh, oan thù càng kết càng sâu, không thể siêu sanh liễu tử.

Chúng sanh tạo tội, cái nhân trước còn chưa hết, cái tội kế tiếp lại dựng lên, sanh sanh tử tử, giết người thì bị người giết, luân hồi không ngừng, do trời có luật công bằng, ăn người ta một cân, nhất định hoàn trả người ta 16 lạng, tuyệt đối không bao giờ có nửa cân bằng 7 lạng rưỡi.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- Như thế thì công đức từ đâu mà có?

Đạo Tế Thiên Tôn đáp rằng :

- Từ đâu có công đức - chúng sanh hành công tu đạo, muốn được công đức, không thể tự nhiên trong vô hình mà có, tức là gieo hạt giống phước báo nhân thiên, tại Thiên đàng là Thiên Thần, tại nhân gian là được phú quý, vì có hữu vi, cho nên có phước báo theo số lượng, khi phước tận là bị trụy, như bắn mũi tên lên không trung, khi lực đưa mũi tên hết là mũi tên sẽ trụy

10

xuống.

- “Công Đức” hai chữ, vốn là miễn cưỡng đặt ra cho có danh từ gọi thế mà thôi, vốn là hành vi tự nhiên trong tự tính, với Thiên Lý đồng thể đồng dụng, miễn cưỡng đặt tên gọi là “công đức”, không màng tới mà lại đắc, không chấp chước mà được, thong thả hành theo trung đạo, mới gọi là công đức.

- Hễ trong tâm có nghĩ tới tác dụng về công đức, đều là tâm vọng tưởng, do có tâm vọng tưởng, cho nên cái tính chân-như, tức bổn lai diện mục không thể hiện lên.

- Chúng sanh có cái kiến về phàm thánh, cho nên có công đức, mà có cái tâm chấp về công đức, tức là hạt giống luân hồi.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- Lão Tử nói “Vô vi”, phải chăng là cái tâm không tồn ý niệm về công đức?

Đạo Tế Thiên Tôn giải đáp rằng :

- Thiện tai! Thiện tai! Lão Tử nói “Vô vi”, Thế Tôn nói “Diệu hành vô trụ”, cái tâm của người tu đạo, nếu có thể khớp với cái này, là cái đức của mình đã khớp với trời đất rồi.

- Cho nên người “Minh tâm kiến tính”, tức là trong tâm không có một tí vọng tưởng, một tí vật dục cũng không có, người tu đạo muốn làm Phật, chúng ta phải biết rằng, cái tính bổn lai của con người chính là Phật, còn muốn làm Phật gì đây?

- Do có chúng sanh mới có Phật, Phật với chúng sanh vốn là danh từ trái ngược nhau, mà nếu không còn chúng sanh, thì cũng không còn Phật để nói nữa rồi. Đêm nay xin dừng ở đây. Ta xin lui.

11

Tế Công Hoạt Phật, Bạch Phủ Thiên Tuế giáng lâm, có thơ rằng :

Tế thế vô tư hóa đại đồng

Bạch Dương ứng vận tam kỳ khuông

Công bình tự tại Thiên tâm hiện

Phủ nội huyền chân chánh pháp tàng

Hoạt bát linh lông mạt kiếp cứu

Thiên tân vạn khổ vãn tồi phong

Phật Thần từ mẫn nhân cai hiệu

Tuế áp trực xông hủy đạo cuồng.

Cho biết rằng :

Phật ta đêm nay giải đáp câu hỏi của Bạch Phủ Thiên Tuế của Dưỡng Tính Đường, là những vấn đề có liên quan đến Đại-Đạo, vấn đáp bắt đầu :

Bạch Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Xin hỏi Hoạt Phật, hôm qua có một vị tu đạo sĩ tới Dưỡng Tính Đường hỏi về vấn đề liên quan tới Kim Tuyến Thiên Đạo, bổn thần không dám trả lời, cứ cho keo dở lên, chưa biết Hoạt Phật giải đáp ra sao?

Tế Công Hoạt Phật giải đáp rằng :

- Thiên Đạo từ cổ xưa đến nay, Tổ Tổ tương truyền, không để đoạn tuyệt, người hữu đạo là thông, người vô tâm là đắc, tức là người đắc đạo, là người đã được Minh Sư mở khiếu, vứt bỏ vọng tưởng trong nội tâm, hành cái thiên đức mà bổn tính của mình đã nhận được, lợi ích cho mọi người, thay Trời tuyên đạo,

12

thì kim tuyến được nối liền.

- Nếu nội dục bất tịnh, ngoại hành vì riêng tư, dù có cùng Minh Sư ở đó, cũng không phải kim tuyến. Kim chính là Tây phương, trong ngũ hành thuộc về bạch, bạch chính là thanh thanh bạch bạch, tức là minh minh-đức, tức là được đạo rồi, minh minh cái đức trong tự tánh (minh minh tự tánh chi đức), rồi sau đó thân dân, tự nhiên đạt tới điểm chí thiện, chí thiện tức là Phật địa.

- Dùng đốn pháp để tu đạo, chú trọng về cái đạt được trong vô hình, không phải là hình thức trong hữu hình, vô vi là đạo siêu sanh, hữu hình là duyên phận phước báo, lý này phải hiểu cho rõ, cần chi hỏi về kim tuyến.

- Thể hệ bất loạn, thì kim tuyến nằm trong đó, 15 điều Phật quy, tại sao gọi là Phật quy tạm thời, sự việc gì cũng phải ngộ, ngộ ra tức là giác, ai giác là Phật đấy, bất ngộ bất giác là chúng sanh đấy, Phật và chúng sanh, chỉ khác biệt ở một cái tâm mà thôi.

Bạch Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Hiện nay người tu đạo có ăn chay trường, rồi sau lại phá giới, chưa biết Bề Trên xử lý ra sao?

Tế Công Hoạt Phật giải đáp rằng :

- Thiên có thiên lý, địa có địa lý, việc thưởng phạt tuyệt đối công bằng, nếu đã thanh khẩu trường chay sau lại phá giới, thứ nhất là công trước kia bị vứt đi hết, ngoài ra còn có cái tội hủy hoại danh dự Phật môn, kết quả là phải xuống địa ngục, chiếu theo tình hình nặng nhẹ về việc phá giới mà định tội.

Bạch Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

13

- Người tu đạo ở chùa miếu bái lạy, hoặc bái lạy quỷ thần ở trước cửa, có liên quan gì với đạo không?

Tế Công Hoạt Phật giải đáp rằng :

- Người tu đạo là tu tâm mà thôi, người đời chưa thấu đạt chân lý, dễ bị hoàn cảnh chi phối, cho nên có ý nghĩ như thế.

- Nếu thông đạt chân lý, tu đạo vẫn cứ tu đạo, bái lạy vẫn cứ bái lạy, đừng để hai cái lẫn lộn với nhau, tu đạo là tu tâm dưỡng tính, tẩy bỏ những vọng tưởng, còn bái lạy là tôn kính Tiên Phật, tu đạo là đệ tử Phật môn, ai nấy đều phải tuân theo phép tắc trong Phật môn, không được hai chân đạp lên hai thuyền, đừng có mê tín mà tới bái lạy Tiên Phật, đừng có kiểu hai loại quy y, tu tức là tu, bái lạy tức là bái lạy, tuân theo nguyên tắc của Đại-Đạo, tôn kính Tiên Phật mà bái lạy có gì đâu mà không được.

Bạch Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Người tu đạo có vận mệnh không?

Tế Công Hoạt Phật giải đáp rằng :

- Sao lại không có vận mệnh, vận mệnh được tạo thành trong kiếp này, chính là cái quả được kết thành từ cái nhân gieo trong cuộc đời tiền kiếp hoặc quá khứ, kiếp trước gieo nhân, kiếp này được sanh ra trên thế gian, thế gian này có tên gọi là thế giới ngũ hành, dựa vào Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ mà tương sanh, tương khắc, xoay chuyển vận mệnh của con người, đưa đến những kết quả của sự báo ứng, cho nên nhà bói toán dựa vào tám chữ trong tứ trụ mà quy ra ngũ hành, xem xét mọi sanh khắc của ngũ hành mà phán đoán, là biết được suốt đời người ấy bế tắc, thông đạt, đắc ý, thất ý ra sao.

Bạch Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

14

- Trong giới tu đạo, có những vị tu đạo bậc tiền bối, thậm chí có cả Điểm Truyền Sư, hễ có vị tu đạo bậc hậu học nào có ý kiến bất đồng với mình, thì tiền bối ấy làm cho hậu học bị cô lập lại, thậm chí muốn chặt đứt kim tuyến người ta, nếu gặp phải chuyện này, xin hỏi Hoạt Phật phải xử lý như thế nào?

Tế Công Hoạt Phật giải đáp rằng :

- Về việc tu đạo, đại tu chắc chắn có triển khai đạo vụ lớn, triển khai đạo vụ lớn chắc chắn có khảo lớn, không triển khai thì không có khảo, tiền bối khảo hậu học, hậu học khảo tiền bối, chính là cái nghiệt do mình tạo ra. Ôi! cái nghiệt do mình tạo ra không thể sống.

- Phật ta chấp chưởng đạo bàn, chỉ là phụ trách phổ độ tam tào, là có trách nhiệm độ nhân quỷ tiên, như là giáo sư Đại học, chính là phụ trách dạy dỗ học sinh, cho tới học sinh tốt nghiệp mới thôi, là không có quyền hành chấp chưởng pháp luật.

- Về vấn đề khảo đạo trong khi tu đạo, là có thần giám sát ghi chép việc thiện và việc ác, là có Pháp Luật Chủ lo việc phán xử.

- Tiền bối muốn chặt đứt kim tuyến của hậu học, cô lập việc hành đạo của hậu học, là có lỗi với Ông Trời, tội không dung tha.

- Trách nhiệm của Điểm Truyền Sư, chính là người đại diện hành sứ (sứ giả) của Thiên mệnh, nên có bụng dạ Bồ Tát, mới thật sự là Điểm Truyền Sư, nếu chuyên quyền ác bá, ỷ thế hiếp người, là Thiên mệnh tự đoạn tuyệt, chứ không phải kim tuyến của hậu học bị đoạn tuyệt.

Bạch Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

15

- Xin hỏi Hoạt Phật, về việc dùng tiền tài để khảo đạo, phải giải thích ra sao?

Tế Công Hoạt Phật giải đáp rằng :

- Nói tới việc khảo, là có sự phân biệt khảo lớn hoặc khảo nhỏ, khảo nhỏ là tiền công đức phí khi cầu đạo, khảo lớn là tài sản của đạo. Khi Thiên Đạo được hồng triển, là tài sản của đạo cũng lớn lên, có kẻ tham muốn chiếm làm của riêng, tranh quyền đoạt lợi, việc tranh chấp về tài sản của đạo tức là tài khảo.

- Còn về cuộc sống hằng ngày trong xã hội, có sự giao nhận về tiền bạc qua lại, có đàng hoàng hay không cũng có thể nói là tài khảo.

Bạch Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Xin hỏi Hoạt Phật từ bi, thế nào gọi là tà thành?

Tế Công Hoạt Phật giải đáp rằng :

- Tà là trái ngược với chánh, hễ không phải là thành tâm chính đáng xuất phát từ bổn tâm của mình, đều gọi là tà thành, là cái tâm vọng tưởng, ảo tưởng xuất hiện những quang cảnh kỳ diệu, với cái tâm là muốn tự mình được siêu sanh liễu tử, là cái thành tâm lúc bổn lai diện mục chưa được hiện lên, như thế đều là cái tâm tà thành.

Bạch Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Lại xin hỏi Hoạt Phật, thế nào gọi là ngu thành?

Tế Công Hoạt Phật giải đáp rằng :

- Ngu là không có trí tuệ, chỉ biết bái lạy Phật, bất cầu chân lý, bất minh lý lẽ, không biết ý nghĩa chân thật về tu đạo, mù

16

quáng mà theo, là tín ngưỡng hạ thừa đấy.

Bạch Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Lại xin Hoạt Phật từ bi, thế nào gọi là xảo thành?

Tế Công Hoạt Phật giải đáp rằng :

- Xảo, là dùng những mưu trí đặc biệt để đoạt lấy, bất hiện trí tuệ, chỉ nhờ vào thông minh, nhờ những mới lạ mà hơn mọi người, hành công đức ở hình thức bề ngoài, thậm chí có thể mượn hoa dâng lên Phật, nhờ vào mưu kế mà thắng người ta, mở miệng ra là lý luận, không thể hiện lên cái tánh chân như.

Bạch Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Lại hỏi Hoạt Phật, thế nào gọi là ngụy thành?

Tế Công Hoạt Phật giải đáp rằng :

- Ngụy, là không phải chân, bốn dạng thành vừa kể trên đây, là tác động từ cái tâm giả trong bát đại thành, không phải tác động từ Phật tâm, đều là tâm không tốt.

- Ngụy, là không phải chân tâm, không phải là chân tâm thì có tác dụng mượn danh nghĩa của Thần Phật, có mưu đồ riêng, nhờ vào tín ngưỡng Thần Phật làm lớp áo che chở, lừa bịp người đời, cười khóc như thật, là hành vi xấu nhất trong bát đại thành.

Bạch Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Lại hỏi Hoạt Phật, thế nào gọi là minh thành?

Tế Công Hoạt Phật giải đáp rằng :

- Minh là minh lý, không có cái tâm tà, ngu, xảo, ngụy, tuy chưa đạt chí thiện, nhưng là thông đạt sự lý, thanh thanh bạch

17

bạch, lý lẽ thanh minh, giữ luật an phận, không lừa người ta, mình không mê muội, chiếu lý mà hành theo.

Bạch Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Thế nào gọi là đạt thành?

Tế Công Hoạt Phật giải đáp rằng :

- Đạt, là nói sự việc đã đạt tới, tâm đã đạt tới, minh thành có thể nói là ở mức độ “minh minh-đức”, đạt thành có thể nói là ở mức độ “tân dân”.

- Không làm điều chi không phải đối với mọi người, không làm điều chi không phải đối với mọi việc, không làm điều chi không phải đối với Thiên, không làm điều chi không phải đối với mọi vật, không làm điều chi không phải đối với Địa, đã tới cái tâm lợi nhân, hy sinh tự mình, lợi ích cho người ta.

Bạch Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Thế nào gọi là đại thành?

Tế Công Hoạt Phật giải đáp rằng :

- Đại, là trái ngược với cái tiểu, là cái minh thành đạt thành được tiến thêm một bước, đã có sự cảm ứng đối với nhân, sự, thiên, vật, địa.

- Con người, là người và sự việc được viên mãn, lục thân vô oán, không lấn áp hàng xóm, trên dưới hòa mục, lời nói khắp thiên hạ mà không mắc phải lỗi lầm, đi khắp thiên hạ mà không nghe lời oán ghét.

- Cũng có sự cảm ứng đối với thiên địa vạn vật, ngẩng đầu lên không hổ thẹn với Trời, cúi đầu xuống không tủi thẹn với

18

Đất, như thế là đại thành đấy.

Bạch Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Thế nào gọi là chí thành?

Tế Công Hoạt Phật giải đáp rằng :

- Chí, là cảnh giới cao nhất, cái thành này có đức khớp với trời đất, có sự quang minh sánh cùng nhật nguyệt, có trình tự đúng khớp với tứ thời, có sự kiết sự hung chịu cùng với quỷ thần.

- Vạn sự tròn đầy, siêu việt cổ kim, như thế chính là đúng với câu nói trong quyển Đại Học - “Tại chỉ ư chí thiện” (Dừng lại

ở điểm chí thiện).

- Viên đà đà quang chước chước liễu (là tròn tới đầy, sáng tới

ngập), nên Phật Đà nói là “A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”, tức là Phật hạnh vô thượng.

- Đã hưởng được sự giáo hóa dưỡng dục của trời đất, là sự thể hiện sáng suốt nhất trong nhân-tính, cái tính ấy được dung hòa trong hư-không rồi.

- Bên trong không còn cái ngã để độ, bên ngoài cũng không còn con người để độ, Phật mà chúng ta thường gọi cũng là thế thôi.

- Thiên địa vạn vật, hiệp hòa nhất thể.

19

Linh Ẩn Thiền Sư giáng lâm, có thơ rằng :

Linh tính bổn lai Thiên Lý thông

Quảng thí Phật pháp độ nguyên lang

Ẩn ưu giai thị siêu sanh sự

Trạch nhuần vô tư khuông chánh tông

Thiền quyết huyền cơ tự tính khiếu

Tôn nghiêm cụ luật Chủ Nhân Ông

Sư đồ đạo kế tam dương vận

Vương thất đường trung hóa đại đồng.

Có lời rằng :

“Quần Tiên Gia Ngôn Lục”, đêm nay do Quảng-Trạch Tôn-Vương ở Trợ-Đạo Đường tại Như-Vương-Cung đưa ra câu hỏi, là những vấn đề có liên quan với Thiên-Đạo, vấn đáp bắt đầu.

Quảng Trạch Tôn Vương hỏi rằng :

- Xin hỏi Linh-Ẩn Thiền-Sư, tu đạo thanh khẩu ăn chay có hữu ích gì?

Linh-Ẩn Thiền-Sư giải đáp rằng :

- Có hữu ích rất nhiều, nhiều quá là nhiều, xin nói đơn giản dưới đây:

Thứ I:

Thanh khẩu có thể bớt đi bệnh tật, tuổi thọ được kéo dài, vì con người là động vật ăn chay, thể chất thích hợp với ăn chay, thử xem răng của con người, là bằng và ngay, là thuộc về động

20

vật ăn chay, răng của con dê con bò cũng là bằng và ngay, nên họ là động vật ăn chay.

- Còn con mèo con chó, răng là nhọn, cho nên họ là động vật ăn thịt, do vậy, có thể phân ra các loại động vật là ăn gì để sống, nên ăn gì mới đúng.

- Ví dụ : Cách dùng xăng dầu của một chiếc xe hơi, nếu phải dùng xăng dầu máy 4 thì, thì dùng xăng dầu theo máy 4 thì, nếu phải dùng xăng dầu máy 2 thì, thì dùng xăng dầu theo máy 2 thì, dùng xăng dầu thích hợp, tuổi thọ của xe chắc chắn lâu dài, thực phẩm và tuổi thọ của con người cũng như thế thôi.

Thứ II:

Khỏi chịu nhân quả về sát sanh, nhân gian là thế giới ngũ hành để báo ứng về nhân quả, có gieo nhân gì, ngũ hành thúc đẩy cho báo ứng với nhân ấy, gọi là quả, thế này là định luật báo ứng về nhân quả trong vũ trụ.

Thứ III:

Có thể sanh ra dương khí, vì thể chất cầm thú thuộc về âm, sau khi ăn rồi khí trong thân thể sẽ sanh ra khí âm, Vô-Cực Lý-Thiên là cõi tịnh giới, là thuần dương vô âm, người nào có khí âm là không thể tới được Vô-Cực Lý-Thiên.

Thứ IV:

Có thể dần dần được xử sự theo lý trí, vì thịt của động vật có khí âm, sau khi ăn vào tính tình trở nên hơi nóng nảy, ăn chay có thể bồi dưỡng khí chất trở nên khiêm cung ôn hòa.

Quảng Trạch Tôn Vương hỏi rằng :

- Trong Đạo bàn có người biến tâm, còn giục đạo thân bỏ

21

đạo, hoặc dụ đạo thân đi tìm bàng môn tả đạo khác, Bề Trên xử lý ra sao?

Linh Ẩn Thiền Sư giải đáp rằng :

- Cố gắng tìm cách cứu vãn, còn nếu vị nào đã là không biện pháp cứu vãn được thì “thầm lặng từ bỏ” vị ấy, tức là không còn lo tới vị ấy nữa, sau này cứ để vị ấy gánh lấy cái ác quả do mình gây ra, Tiên Phật cũng không còn biện pháp rồi.

- Còn nếu giục đạo thân rời bỏ đạo, hoặc dụ đạo thân đi vào bàng môn tả đạo, ác quả ấy không thể tưởng tượng, sau này bị rơi vào súc đạo vẫn khó đền tội.

Quảng Trạch Tôn Vương hỏi rằng :

- Các vị đường sinh ở Loan đường, so với các vị tu sĩ ở Phật đường Bạch Dương, có gì khác biệt về thành quả sau này, có gì khác nhau về lối tu?

Linh Ẩn Thiền Sư giải đáp rằng :

- Xét về thành quả giữa đường sinh ở Loan đường và tu sĩ ở Phật đường Bạch Dương, có điểm khác nhau là ở vấn đề “cái tâm”, Phật và chúng sanh cũng là khác nhau ở cái tâm, do khởi điểm của cái tâm có khác nhau, nên có phân ra tam thừa là thượng thừa, trung thừa và hạ thừa, và thành tựu ra những kết quả khác nhau.

- Loan đường là thiện đường do Khí Thiên tiến hành làm ra, chủ trương việc “hành thiện tế thế”, như thế gọi là cứu khổ cứu nạn, có thể chứng đắc Khí-Thiên Thần-Đạo, hoặc chứng lấy phước báo trong kiếp tới.

- Đó là nhờ vào sức mạnh của Thần Đạo để cảm ứng các vị

22

đường sinh tạo phước cho mọi người, như là một nhà trường trung học, chương trình dạy trong đó là những bài học của trung học.

- Còn về Đạo tràng của Bạch Dương tu sĩ, là do Lý Thiên tiến hành làm ra, chủ trương việc “nội ngoại song hành”, cái nội là tu tâm dưỡng tánh, cái ngoại là độ người, có điểm khác biệt lớn nhất với các tôn giáo khác nói chung, là được điểm khai Huyền Quan diệu khiếu, Huyền Quan Khiếu chính là chánh khiếu môn, cơ thể con người có 84 nghìn khiếu môn, trong đó duy nhất chỉ có Huyền Quan chánh khiếu môn là Phật khiếu, khi khiếu này được khai mở, linh tính có thể thông thẳng đến Lý Thiên, cho nên những tu đạo sĩ có nội ngoại song tu, được khai ngộ kiến tánh dễ dàng hơn, rồi chứng đắc quả vị ở Lý Thiên.

- Nhờ vào sức mạnh của Phật Thánh để cảm ứng các tu đạo sĩ, nội ngoại song hành, cho tới đạt cảnh giới đức hạnh khớp với trời đất, là chứng đắc Phật quả, cũng giống như viện nghiên cứu trong đại học vậy, chương trình dạy trong đó là những bài học cho lớp bác sĩ, là lớp từ đại học trở lên.

- Nói tóm lại, là có khác biệt giữa Đốn pháp và Tiệm pháp, Đốn pháp là từ trong ra ngoài, Tiệm pháp là từ ngoài vào trong, Đốn pháp là trực chỉ nhân tâm trong bản thể, chủ trương của pháp môn Đốn giáo là minh thể đạt dụng, Tiệm pháp là từ công phu ở bên ngoài, hành thiện từ từ, lãnh ngộ từ từ, cho tới khi hiểu rõ sự thể trọn vẹn, không biết phải trải qua bao nhiêu vạn niên, hoặc mấy ngàn năm, không thể biết được.

- Tiên Phật đã đem quá trình thành đạo của mình, trực chỉ tu đạo sĩ, như một món sản phẩm khoa học của nhà nước, đi bắt chước mà học lấy, nhờ vào sự chỉ đạo của người phát minh sáng

23

tạo trong quốc gia tiên tiến, rất nhanh chóng đạt được thành quả.

- Nếu như không y theo phương pháp này, chỉ nhờ vào sự nghiên cứu suy nghĩ của riêng mình, không biết phải tốn bao nhiêu thời gian mới có thể thành công.

Quảng Trạch Tôn Vương hỏi rằng :

- Hiện giờ tôn giáo ở cõi nhân gian rất nhiều, chưa biết loại nào là tôn giáo tối thượng thừa?

Linh Ẩn Thiền Sư giải đáp rằng :

- Nói tới “Tôn giáo” hai chữ, ý nghĩa thâm sâu, nói chung các loại giáo hóa là hữu giáo vô “Tôn”, “Tôn” tức là đạo, giáo là mang tới sự hiểu biết về cái đức, đức chắc chắn phải nhờ vào đạo mà được sanh ra, cho nên “Đại sanh” được gọi là “Đức”.

- Pháp môn Bạch Dương Thiên Đạo là truyền đạo, tại vì đạo không thể dùng lời để nói, vô hình vô tướng, phải tâm truyền tâm, mới có thể khai ngộ, cho nên việc truyền đạo của Khổng Phu Tử được Tử Tư gọi là “Bài này chính là Khổng môn tâm pháp”, tâm pháp tức là “Tôn”, hễ có thể truyền dạy tâm pháp thì mới có thể gọi là tôn giáo.

- Tâm pháp là bí truyền từ cổ xưa tới giờ, Tổ Tổ tương truyền đều không rời bỏ tôn này, được Đức Thích Ca gọi là “giáo ngoại biệt truyền”, không ở trong văn tự, không ở trong lời nói, diệu tại kỳ trung, trong pháp môn của Khổng Phu Tử được gọi là “Trung giả thiên hạ chi chánh đạo”.

- Hễ là hữu giáo vô tôn, đều là bàng môn, bàng môn tức chẳng phải chánh môn, cũng tức là Tiệm pháp.

Quảng Trạch Tôn Vương hỏi rằng :

24

- Làm sao phân biệt được đạo và giáo, chánh đạo và bàng môn khác biệt ở chỗ nào? Làm sao phân biệt được chánh giáo và tà giáo?

Linh Ẩn Thiền Sư giải đáp rằng :

- Cách phân biệt giữa đạo và giáo, tức là “Đạo” truyền tâm chánh pháp, “giáo” khuyến thiện hành công phu bên ngoài, đạo truyền tâm pháp, giáo khuyến hành thiện.

- Sự khác biệt giữa chánh đạo và bàng môn, tức là: Chánh đạo truyền tâm pháp, điểm khai Huyền Quan chánh khiếu, bàng môn không truyền chánh khiếu, không điểm Huyền Quan, bàng môn tuy không truyền chánh pháp, vẫn là chánh giáo.

- Cách phân biệt chánh giáo và tà giáo: Chánh giáo tuy không truyền Huyền Quan tâm pháp, vẫn là học theo hành vi thiện mỹ của Thánh Hiền cổ xưa để xử sự, còn tà giáo là nghịch lý trái đạo, chuyên dùng tà ngôn để mê hoặc mọi người, hễ là không dựa vào chân lý để lập giáo, đều là tà giáo.

Quảng Trạch Tôn Vương hỏi rằng :

- Phong thủy địa lý phải chăng có liên quan đến tu đạo?

Linh Ẩn Thiền Sư giải đáp rằng :

- Đương nhiên có liên quan, nếu nói tới hai chữ liên quan, thì cái gì cũng có liên quan, chỉ là chẳng có liên quan tới “thành đạo”, muốn thành Phật đạo, thì phải có Phật tâm, phải có Phật hành, thì có thể thành tựu Phật đạo.

- Nói có liên quan là nói về sự việc của hậu thiên, tại vì con người cư ngụ tại hậu thiên, cư ngụ trong thế giới ngũ hành, chắc chắn chịu sự ảnh hưởng bởi sanh khắc của ngũ hành, cho nên

25

phong thủy địa lý vẫn đóng một vai trò trong ngũ hành của hậu thiên, có thể xúc tiến về việc được mất của con người, cho nên nói là có liên quan,

- Trên thế gian cái gì cũng có lý của nó, thiên có thiên lý, nhân có nhân lý, địa có địa lý, thiên thời địa lợi nhân hòa, phải đủ cả đấy.

- Mỗi một hoàn cảnh trên địa cầu, đều có thể sanh ra khí ngũ hành, thí dụ nói sở dĩ có điện, là do ma sát mà có thể phát ra điện, điện trong ngũ hành tức là hỏa, cho nên mỗi một cái biến hóa, đều có thể nảy sinh biến hóa, cho nên nói là có liên quan.

- Nếu như con người tại thế gian, đã được sức mạnh của thiên thời địa lợi nhân hòa, nếu như không tu tâm hành công lập đức, được địa lý rồi cũng vẫn là không có bổ ích.

- Con người có trí tuệ, là phải kiến cơ, tạo cơ và chuyển cơ, dùng sức mạnh của hậu thiên trợ giúp cho Đại-Đạo của Tiên-Thiên.

- Kiến cơ tức là thấy được thời cơ, rồi theo lấy, tức là có thời cơ để theo, đó là cái “duyên”.

- Tạo cơ tức là tự mình đi sáng tạo cơ hội, thế này tức là tạo “nhân”.

- Chuyển cơ tức là thời cơ đã chín mùi, là lợi dụng thời cơ đi làm những gì có lợi nhất cho mình là việc tu đạo hành đạo.

- Người tu đạo nếu có thể để cho sự việc gì trên thế gian, đều chuyển đưa về phương diện tu đạo, thì phong thủy địa lý cũng có sự trợ giúp rất nhiều.

Quảng Trạch Tôn Vương hỏi rằng :

26

- Mạng số tử vi của con người có liên quan gì đến việc tu đạo?

Linh Ẩn Thiền Sư giải đáp rằng :

- Mạng số tử vi có liên quan tới việc tu đạo là lẽ dĩ nhiên, kiếp trước làm việc gì chính là cái nhân, kết quả ra sao có thể tìm thấy từ mạng số tử vi của kiếp này, cho nên Phật có nói: Dục tri tiền thế nhân, kim sanh thụ giả thị, dục tri hậu thế quả, kim sanh tác giả thị.

- Kiếp trước có gieo Phật duyên, thiện căn trong kiếp này đương nhiên thâm hậu, người nào mạng tốt mà thiện căn lại thâm hậu, lẽ dĩ nhiên là quá trình tu đạo trong kiếp này gặp trở ngại cũng ít, do sự nghiệp được phát triển hơn, nhân sự cũng được thuận lợi hơn, có thể trợ giúp cho việc tu đạo.

- Nhưng nếu chỉ dựa vào số mạng là vẫn không thể thành đạo, điều quan trọng nhất vẫn là ở nơi tâm mình có muốn tu hay không, nên thường nghe nói tu đạo là phải tu từ nơi tâm, Khưu-Trường-Xuân trong “Thất Chân Nhân” có số tử vi rất xấu, vẫn tu thành quả vị Thiên-Tiên Trạng-Nguyên trong “Thất Chân”, nhưng phải trải qua rất nhiều khổ sở, mới đạt tới cảnh giới thành đạo.

- Đã biết số tử vi của mình rồi, thì phải vận dụng trí tuệ, xoay chuyển số mạng của mình, thật tốt mà tu đạo, làm việc đạo, hành đạo.

Quảng Trạch Tôn Vương hỏi rằng :

- Phương pháp độ người tốt nhất là gì?

Linh Ẩn Thiền Sư giải đáp rằng :

27

- Phương pháp độ người tốt nhất là phải tự độ mình trước, tại vì đầu óc con người trên thế gian rất là thông minh, chỉ dùng tài miệng lưỡi hoặc nhân tình dụ dỗ để độ họ, đều không phải biện pháp thượng thừa, họ biết đánh giá hành vi của người đến độ, nên cách tốt nhất vẫn là tự mình tu lấy trước.

Quảng Trạch Tôn Vương hỏi rằng :

- Xin hỏi nguyên nhân tại sao Thiên Đạo giáng thế?

Linh Ẩn Thiền Sư giải đáp rằng :

- Cứu kiếp là cứu nhân tâm, để sớm ngày thế giới được đại đồng, để nhân gian được hóa thành thiên quốc, trở thành Thiên đàng tại thế.

Quảng Trạch Tôn Vương hỏi rằng :

- Đạo và kiếp cùng giáng là nguyên nhân ra sao?

Linh Ẩn Thiền Sư giải đáp rằng :

- Đạo là cứu thiện nhân, giúp con người khôi phục lại bổn lai diện mục, tai kiếp là cảnh tỉnh ác nhân, làm cho con người không dám làm ác.

Quảng Trạch Tôn Vương hỏi rằng :

- “Nhẫn” đối với tu đạo có hữu ích không?

Linh Ẩn Thiền Sư giải đáp rằng :

- Hữu ích không nhiều, nhẫn là công phu của người Hiền nhân, người nào chưa đạt chân đạo là cần phải nhẫn, người đã đạt chân đạo không cần phải nhẫn.

- Trong tâm không có thành kiến, không cần phải nhẫn, nếu

28

như tự nhiên, không dấy lên phàm-thánh kiến, tâm phẳng lặng, là không cần nhẫn rồi, là cái tự nhiên của Phật, không phải phàm phu có thể làm được.

- Chữ nhẫn (忍) là con dao (刀) cắm ở nơi tâm (心), đau

đớn thật, cho nên Phật Thánh không có cái công phu về nhẫn, vì tính Phật không có giận hờn, cũng không biết khó chịu, cho nên Phật Thánh mới không cần nhẫn.

- Tu đạo nếu tới lúc không cần nhẫn, lại không giận hờn thì tâm tự nhiên phẳng lặng.

Tây Hồ Điên Tăng giáng lâm, có thơ rằng :

Tây Phương Cực Lạc thiểu nhân hành

Trì nội Huyền Quan thấu thượng kinh

Hồ cảnh thiên nhiên Tiên đạo tán

Phủ trung chân chủ tự thành minh

Phong Điên bôn tẩu tàng chân lý

Thiên Lý dương phàm chỉ đạo hưng

Tăng bảo hữu tu quy giới thủ

Tuế lâm tam vận hóa sanh linh.

Có lời nói rằng :

Tam tào phổ độ, nhân quỷ tiên cùng được may mắn này, chúng sanh đắc đạo, tuy gọi là đắc đạo, thực tế là không đắc

29

được gì cả, hóa bỏ cái tên gọi chúng sanh, tức là đắc đạo, là khôi phục lại bổn lai diện mục mà thôi.

Vấn đáp đêm nay bắt đầu, do Trì Phủ Thiên Tuế đặt câu hỏi.

Trì Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Xin hỏi Thánh Tăng Hoạt Phật, pháp môn tu đạo thời Bạch Dương so với pháp môn tu đạo thời Hồng Dương có gì khác biệt?

Tây Hồ Điên Tăng giải đáp rằng :

- Pháp môn tu đạo thời Hồng Dương và pháp môn tu đạo thời Bạch Dương không có gì khác nhau, đạo cổ xưa và đạo ngày nay không có gì thay đổi cả, sao lại có chỗ khác nhau, đạo vốn không có khác biệt về không gian và thời gian, từ cổ xưa tu đạo là ở nơi tâm, thời nay tu đạo cũng là ở nơi tâm.

Trì Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Theo lời nói của Hoạt Phật, thời xưa và thời nay tu đạo giống nhau, vì sao Hồng Dương kỳ hòa thượng tụng kinh, Bạch Dương kỳ tu đạo không tụng kinh, vậy có khác biệt ở chỗ nào?

Tây Hồ Điên Tăng giải đáp rằng :

- Vào thời Thích Tôn truyền đạo, là dựa vào “chánh pháp nhãn tàng”, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, đem tâm pháp này phó chúc cho Ma-Ha-Ca-Diếp, rồi tới A-Nan là đời Tổ thứ hai được truyền, cứ Tổ Sư đời đời tương truyền mà không đoạn tuyệt, sao lại có tụng kinh?

- Thời thế diễn biến không ngừng, nhưng chân lý tuyệt đối không thay đổi, sau khi Thích Tôn nhập Niết Bàn, đạo thống cứ nhất mạch tương truyền, lý ấy cũng không hề thay đổi.

30

- Đạo vốn nhất mạch tương truyền, lý ấy cũng chỉ duy nhất, trải qua thời gian diễn biến suốt hai ngàn mấy năm, thậm chí xuất hiện các tông phái, tự cho là cái của mình đúng, điều thị phi từ đó mà ra, nên có cách tu khác nhau.

- Ngay cả trong Nhất Quán Thiên Đạo, Thiên Đạo vốn không có gì đổi thay, mà lý cũng chỉ duy nhất, nhưng giữa các nhánh phái vẫn cứ biến chất, thậm chí có người tịnh tọa, xếp bàng, đều không phải tôn chỉ vốn có của Thiên Đạo.

- Kinh vốn là bài thuyết pháp của Phật, do đệ tử ghi chép lưu lại, kinh là đường lối, là con đường cho chúng sanh ngộ mà hành, nào có thể miệng tụng mà không thực hành?

- Hành, vốn là xuất phát từ nơi tâm, bản thể của đạo là hồn nhiên nhất lý, cái dụng của đạo là nhất tâm tự nhiên, nếu có chấp tướng, là không phải đạo đấy.

- Lấy tâm truyền tâm, tâm ấn tâm, ngộ chân lý, hành chân đạo, là chánh pháp, nếu chánh pháp mất, tâm không có cái để ấn, là tướng pháp đấy.

- Người theo tướng pháp là chấp về kinh để tu đạo, là ngộ kinh tu đạo, còn người không ngộ kinh, là mạt pháp đấy, nếu mất đi chánh pháp tướng pháp trong chân tông, hoàn toàn mất đi tôn chỉ của Phật, chỉ bái lạy Phật thì cho là tu đạo, chỉ nhờ vào Phật thì gọi là tu đạo, vạn kiếp không thể siêu sinh, Phật có nói rất rõ ràng, các loại chúng sinh, ta đều cho vào “Vô dư Niết Bàn” mà cho diệt độ, nhưng thực tế không có chúng sanh được diệt độ, tại sao vậy? Nếu Bồ Tát có ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, tức không phải Bồ Tát.

Trì Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

31

- Tu đạo lấy tài khảo đạo là sao?

Tây Hồ Điên Tăng giải đáp rằng :

- Về việc khảo đạo, vốn là người tu đạo tự khảo lấy mình, Bề Trên chỉ nhằm vào cơ hội ấy mà đánh số điểm thôi, sao lại cứ trách Bề Trên khảo đạo?

- Nếu nói về công đức phí, số tiền nhỏ nhặt, không đáng bàn tới, Đại-Đạo đã hồng triển, tài sản của đạo cũng nhiều rồi, như thế là lấy tiền khảo đạo, chưa vứt bỏ chúng-sanh tâm, có khảo đạo ngay, khi thấy tiền là mất đi cái tâm thăng bằng, thế này là khảo đạo, sau này đại khảo là nhằm lúc đạo được hồng triển nhất, cũng là việc thành đạo đã tới lúc chín mùi rồi.

- Có câu nói: Rượu không làm người say, người tự say, sắc không làm người mê, người tự mê. Tu đạo thuần nhất trực tâm, mọi thứ khảo tự nhiên biến mất.

Trì Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Người đời có truyền thuyết rằng: Hoạt Phật tu hành trong thời ấy uống rượu ăn thịt chó, có việc này không?

Tây Hồ Điên Tăng giải đáp rằng :

- Tu hành trên thế gian có lắm điều thị phi, để mỉa mai người tu hành vào thời ấy không giữ phép tắc, làm ra vẻ uống rượu ăn thịt, nghĩ sơ cũng biết, uống rượu ăn thịt làm sao có thể thành đạo, truyền thuyết trong nhân gian, không có đúng hết cả.

Trì Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Xuất gia tu hành có phải tốt hơn tại gia tu hành?

Tây Hồ Điên Tăng giải đáp rằng :

32

- Người nào vì việc siêu sanh liễu tử của thiên hạ quần sanh mà đi xuất gia, người ấy không phải là Thánh nhân cũng là Hiền nhân, đương nhiên là rất tốt, nếu vì sự thanh tịnh của bản thân mình, vì sự giải thoát của bản thân mình mà đi xuất gia, đó là chúng sanh đấy, tuy rằng có xuất gia nhưng vô dụng.

- Thử nghĩ về quan hệ nhân quả, ăn của thí-chủ, thì làm sao hoàn trả cho thí-chủ, thí-chủ thí cho mình ăn, mình thành đạo rồi, còn chúng sanh thì đi về đâu, như thế là công bằng sao? Chúng ta hãy lấy tâm công bằng mà phán xử đi!

- Nếu có thể vì việc siêu sanh liễu tử của thiên hạ quần chúng, thì xuất gia hay tại gia cũng đều tốt cả.

- Chân xuất gia, là khai hoang phát triển đạo vụ, cứu vớt thiên hạ chúng sanh, hóa giúp chúng sanh rời khổ hải lên bờ bên kia, còn giả xuất gia, là tạo sự an lạc cho bản thân mình.

Trì Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Tại gia tu hành có điều chi hữu ích?

Tây Hồ Điên Tăng giải đáp rằng :

- Hữu ích rất nhiều, nhưng hơi vất vả mà thôi.

1/ Có thể tu hành lại có thể quan tâm lo lắng cho gia đình.

2/ Có thể tu hành lại không cần nhờ vào thí-chủ mà sinh sống.

3/ Có thể tu hành lại có thể thí xả lợi ích cho mọi người.

4/ Có thể tu hành lại không mất đi Hiếu đạo, có thể tề gia.

5/ Có thể tu hành lại có thể nộp thuế tận trung với quốc gia.

33

- Chúng ta phải biết rằng, đạo không phải ở nơi xa xôi, mà ở trong việc đối nhân xử thế hàng ngày, đạo ở trên thân của mình, ở trong gia đình của mình, ở trong xã hội của mọi người, và ở trong quốc gia, v.v...

Trì Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Tụng kinh có điều chi tốt?

Tây Hồ Điên Tăng giải đáp rằng :

- Vấn đề tụng kinh, có điều tốt là đương nhiên có, nhưng điều tốt thì có giới hạn, là dựa vào pháp môn tụng kinh để thân tâm được thanh tịnh, đối với pháp môn hạ thừa mà nói, người nào chịu tụng kinh, chắc chắn là đệ tử của Phật môn, khi người ấy biết tụng kinh, là không dám gây chuyện thị phi lung tung, hễ tự nhận là đệ tử Phật môn, là không dám làm bừa bãi, khi người ấy lễ Phật tụng kinh rất thành khẩn, trong tâm được an tịnh hơn, là biết đi làm việc thiện, cho nên là điều tốt.

- Nhưng đối với pháp tu đạo của thượng thừa, là không cần phải tụng kinh nữa, nên tụng kinh không bằng giảng kinh, giảng kinh không bằng thực hành.

- Thời gian tụng kinh nếu dùng để ngộ kinh giảng kinh là tốt hơn, có thể tu cho mình, lại có thể hóa độ mọi người.

- Người giảng kinh, do trong miệng nói ra chân lý của kinh, cũng phải lấy thân làm gương đi thực hành theo lý trong kinh, nên nói giảng kinh không bằng thực hành.

- Cho nên tụng kinh tuy có điều tốt, vẫn không phải pháp thượng thừa, Phật đạo thượng thừa, tức là cái ngộ và cái hành có thể phối hợp với thiên lý, nên pháp thượng thừa không cần tụng kinh.

34

Trì Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Hiện nay Loan đường cũng có điểm đạo, phải chăng cũng là Đại-Đạo thời Bạch Dương do Lão Mẫu trực tiếp lo liệu, phải chăng cũng là thiên bàn của Di Lặc Phật? Là đạo bàn của Thủy - Hỏa Tinh Tử?

Tây Hồ Điên Tăng giải đáp rằng :

- Di Lặc Phật chưởng Thiên bàn, Thủy-Hỏa Tinh Tử chưởng Đạo bàn, đạo này từ cổ chí kim, chân pháp bất biến, nay đạo vận ứng tại hỏa trạch, đã là ứng tại hỏa trạch, tuyệt đối không truyền đạo ở nơi miếu tự hoặc Loan đường, nếu như miếu tự hoặc Loan đường, mượn danh nghĩa của Thiên Đạo, phát triển đạo vụ, điểm đạo, đều không phải đạo của ta, cũng không phải đệ tử của ta.

- Trong Tam kỳ mạt kiếp, tà ma mượn danh nghĩa của ta phát triển đạo vụ giả, sau này rơi vào dòng dõi ma quyến hoặc xuống địa ngục.

Trì Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Loan đường trứ tác sách trợ giúp Thiên Đạo, sau này kết quả ra sao?

Tây Hồ Điên Tăng giải đáp rằng :

- Tam kỳ mạt kiếp Thiên Đạo ứng vận độ nhân quỷ tiên, hễ là Thần Thánh trợ đạo có công, đều có thể đưa vào hàng ngũ của Thiên Đạo, được tiếp nhận huấn luyện tại Thiên giới, sau này trong Long Hoa đại hội có thể được sắp xếp vào Tiên-Ban.

- Nhưng Loan đường có thể trợ đạo, tuyệt đối không được lo liệu đạo vụ, Thiên Đạo này ứng vận trong hỏa trạch, ai biết nghĩa ấy là có thể lo liệu Thiên Đạo.

35

Trì Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Các đệ tử Phật môn đi lạc đường, nếu muốn hồi đầu lại có được không?

Tây Hồ Điên Tăng giải đáp rằng :

- Đương nhiên là được, vì Bề Trên không giết những kẻ biết hồi đầu, hãy đem công chuộc tội, tu cho thật tốt, từ đầu làm lên, vẫn có thể thành tựu Đại-Đạo.

Trì Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Trong đạo bàn có Điểm Truyền Sư, chuyên quyền bá thế, sau này kết quả như thế nào?

Tây Hồ Điên Tăng giải đáp rằng :

- Ông Trời có luật công bằng, vĩnh viễn là công bằng, nếu có Điểm Truyền Sư chuyên quyền bá thế, phải biết tức thời phản tỉnh, lấy công chuộc tội, nếu không sau này sẽ tự chịu lấy ác quả, luật trời khó dung tha đấy.

Trì Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Tu đạo với tâm nghi ngờ đủ thứ, chuyên dùng mánh khóe mà đoạt lấy, sẽ có kết quả ra sao?

Tây Hồ Điên Tăng giải đáp rằng :

- Tu đạo với tâm nghi ngờ rồi lại dở trò mánh khóe, là không thể thành đạo, hãy mau mau sửa đổi lại.

Trì Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Tu đạo nếu thanh khẩu sẽ được thành đạo không?

Tây Hồ Điên Tăng giải đáp rằng :

36

- Việc thanh khẩu là không thể thành đạo, thanh khẩu chỉ là nguyên tắc cơ bản trong việc tu đạo, là không tiếp tục tạo tội mà thôi, ngoài việc thanh khẩu còn phải diệu hành vô trụ mà hành theo chân lý Thiên-Đạo, làm cái nào thì gặt hái cái đó.

Trì Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Người tu đạo có thể uống rượu không?

Tây Hồ Điên Tăng giải đáp rằng :

- Không thể uống rượu, rượu chính là một trong ngũ giới.

Trì Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Người tu đạo có thể cưới vợ lẽ không?

Tây Hồ Điên Tăng giải đáp rằng :

- Không thể có vợ lẽ, có vợ lẽ là vi phạm sắc giới trong ngũ giới.

Trì Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Người tu đạo trước tiên phải hiểu về cái gì?

Tây Hồ Điên Tăng giải đáp rằng :

- Người tu đạo trước tiên phải hiểu về cái tâm của mình, cái tâm của mình là tâm gì, phải thường xuyên kiểm soát, thấy có khuyết điểm là sửa đổi ngay, những cái tốt phải được cố gắng tiếp, những cái xấu phải vứt bỏ đi, làm như vậy gọi là hồi quang phản chiếu.

Trì Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Phật và chúng sanh có gì khác biệt?

37

Tây Hồ Điên Tăng giải đáp rằng :

- Vốn là không có Phật, cũng không có chúng sanh, vì chúng sanh ở đại địa đều có Phật-tính cả, do có chúng sanh nên mới có Phật, khớp với cái lý của Lão Tử nói về “trường đoản tương hình” (khi có cái dài và cái ngắn cùng xuất hiện thì mới thấy rõ sự

khác biệt).

- Phật là giác, là trong tư tưởng không có tà niệm, không có tham niệm, mỗi một động niệm trong tâm đều dựa lấy tâm của Thiên Địa làm tâm.

- Chúng sanh là mê, là trong tư tưởng có tà niệm, có tham niệm, mỗi một động niệm trong tâm đều dựa lấy tâm của riêng tư mình làm tâm.

- Phật không có sự phân biệt giữa Thiên đàng và địa ngục, là tâm Phật, dù tới nơi nào cũng đều là Phật cả, không bị đổi thay do hoàn cảnh.

- Chúng sanh là có sự phân biệt giữa Thiên đàng và địa ngục, là cảnh giới chưa đạt tới đích, dù tới nơi nào đều là chúng sanh cả, nên mới có sự phân biệt giữa Thiên đàng và địa ngục, tùy theo hoàn cảnh mà đổi thay.

38

Thiên Nhiên Cổ Phật giáng lâm, có thơ rằng :

Thiên tâm tế thế quán khôn càn

Lý lão chân thuyên ngộ tánh Thiên

Nhiên ý triệt thông Thập Tự quyết

Phủ trung thanh tịnh đạo vô biên

Cổ kim Nhất lý Huyền Quan thấu

Thiên vạn kinh thư bất ỷ thiên

Phật pháp tam thiên duy thỉ khiếu

Tuế an duy lại đại đồng niên.

Có lời nói rằng :

Đều là con người cả, có người chịu tu, có người không chịu tu, có người ỷ vào cái trí tuệ mà luôn bất trí, có người thiện căn thâm hậu, gặp phải việc thiện không đứng phía sau người ta, có người thiện căn mỏng manh, gặp phải việc thiện như thăm dò nước canh nóng.

Đại-Đạo giáng thế, là nhằm cứu kiếp nạn, trong việc cứu kiếp nạn trước tiên là cứu nhân tâm, nhân tâm thiện thì kiếp nạn tự tiêu tan.

Tuy nói kiếp nạn do trời giáng xuống, thật ra là do con người tự tạo lấy, nhân tâm không thiện như thời xưa, nạn giết chóc xảy ra khắp nơi, chỉ có cứu nhân tâm tức là cứu kiếp nạn đấy.

Trong “Quần Tiên Gia Ngôn Lục” đêm nay, do Lý Phủ Thiên Tuế đưa ra câu hỏi, vấn đáp bắt đầu.

Lý Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

39

- Lục Tổ vào thời ấy có nói câu “Bồ Đề bổn vô thụ, minh kính diệc phi đài” là hình dung ý nghĩa gì?

Thiên Nhiên Cổ Phật giải đáp rằng :

- Câu “Bồ đề bổn vô thụ, minh kính diệc phi đài”, là chỉ về “Phật được nói tới không phải là Phật, đạo được giảng tới không phải là đạo”, trong tư tưởng của chúng sanh, là Phật ở cõi tịnh giới, chúng sanh ở cõi trần giới, cõi tịnh giới của Phật sung sướng biết bao, cõi trần giới của chúng sanh khổ đau biết chừng nào, những cái này đều là do tác dụng từ tâm chúng sanh.

- Cõi tịnh giới của Phật nếu cho chúng sanh ở, chúng sanh cũng sẽ cảm thấy không sung sướng, ở lâu rồi cũng sẽ chán ngán, cái xu hướng trong tâm chúng sanh là tửu sắc tài khí tham sân si ái, do cõi Phật giới không có nơi nào là tửu sắc tài khí tham sân si ái để cho chúng sanh tham cầu, cho nên chúng sanh cũng không cách nào ở lại được, cho nên tâm chúng sanh là có phân biệt Thiên đàng và địa ngục.

- Còn Phật là không phân biệt giữa Thiên đàng và địa ngục, những cái này chỉ là một danh từ đối đãi, nơi sung sướng thì gọi là Thiên đàng, nơi đau khổ thì gọi là địa ngục, nơi có đau khổ có sung sướng thì gọi là nhân gian, tại vì Phật không có tham dục, cho nên cõi Phật giới là không có bụi trần, trần gian có nơi giải trí đủ kiểu là do ứng với nhu cầu của tâm chúng sanh mà được thiết lập ra, cho nên gọi là cõi trần giới.

- Phật không có tham cầu, cho nên khi tới cõi nhân gian vẫn không có tham cầu, không bị giả cảnh của nhân gian làm ảnh hưởng, bất luận đi tới nơi nào cũng đều một thứ, cho nên không có sự phân biệt về Thiên đàng địa ngục và nhân gian.

40

- Còn về câu “Bồ Đề bổn vô thụ, minh kính diệc phi đài”, là danh từ chỉ về vô tướng luận của Phật, tại vì vô tướng nên mới có thể phản phác (trở lại chất phác tốt đẹp như xưa), thật ra chữ “phác” cũng là danh từ, cũng là “đạo khả đạo phi thường đạo”.

- Có chúng sanh thì có Phật, không có chúng sanh thì không có Phật, cho nên có câu nói “Bồ Đề bổn vô thụ, minh kính diệc phi đài”.

Lý Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Chức trách của Bổn Vương đảm nhiệm là thay Trời tuần tra, có một ngày nọ, bất ngờ nghe được hai người tu đạo trò chuyện, bàn đến vấn đề đạo thống, thậm chí thắc mắc về Bạch Dương Tổ Sư đời Tổ thứ 18 với vấn đề kế tiếp sẽ ra sao, về vấn đề Phật Tổ trong việc chưởng quản đạo bàn, Cổ Phật có thể cho biết rõ ràng không?

Thiên Nhiên Cổ Phật giải đáp rằng :

- Bạch Dương thiên bàn là Di Lặc Cổ Phật, Bạch Dương đạo bàn là Thủy - Hỏa Tinh Tử, Thiên ý đã định là 10.800 năm, không thể thay đổi.

- Người tu đạo không muốn hành công lập đức cho nhiều, chỉ muốn gặp Tổ Sư, như vậy đều là cái tâm vọng tưởng, đến ngày Tổ Sư Thủy - Hỏa Tinh Tử tới gặp các vị, các vị gặp Tổ Sư bằng cái gì? Với những cái gì trình giao Tổ Sư?

- Trong tam kỳ mạt kiếp là nhật nguyệt vô quang, phương pháp tu đạo tốt nhất là bên trong lo tu lấy cái tánh, vứt bỏ cái tâm vọng tưởng, bên ngoài lo hành công, vun bồi công đức cho nhiều, ngoài ra không còn những cái khác nữa.

Lý Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

41

- Người tu đạo có thể vái lạy những thần thánh bên ngoài được không?

Thiên Nhiên Cổ Phật giải đáp rằng :

- Tu đạo là việc tu đạo, vái lạy thần thánh là việc vái lạy thần thánh, có gì là không được, trong 15 điều Phật Quy có 1 điều là “Tôn kính Tiên Phật”, nếu hiểu đạo lý đó là tự nhiên không còn thắc mắc gì nữa, còn trong lễ tiết cũng có một lễ là Chư Thiên Thần Thánh, vậy là có thể hiểu rõ được đấy.

- Chẳng lẽ ta đây là con em trong gia đình nọ, chỉ tôn kính phụ huynh của mình, ngoài ra không thể tôn kính phụ huynh người khác sao?

- Chỉ là quy y Bạch Dương Phật môn chánh pháp rồi, thì sau đó không thích hợp quy y những bàng môn khác mà thôi, nguyên nhân vì Phật môn chánh pháp là đốn pháp, còn bàng môn là tiệm pháp, nào có cái lý vứt bỏ chánh pháp đi theo mạt pháp?

Lý Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Trong Tam kỳ mạt kiếp, vạn giáo tề phát, làm cho chúng sanh không biết phải lựa chọn ra sao trong việc quy y chánh pháp môn, chưa biết phải làm sao để phân biệt chánh pháp và bàng môn?

Thiên Nhiên Cổ Phật giải đáp rằng :

- Cái định lý trong Thiên Địa, cái chân thì ẩn tàng, cái giả thì hiện ra đấy, những châu báu có giá trị thì nào có tùy tiện cho bày trước mắt? Thiên lý là phải như thế đấy.

- Địa lý và nhân lý cũng như thế, chân địa lý tức là địa lý về phong thủy huyệt sào, chắc chắn có hẳn hoi về rồng mạch tới lui

42

như là kim tuyến của Thiên Đạo vậy, không bị rối ren, lại nói tới việc huyệt sào được kết tụ thành địa lý tốt, chắc chắn là tàng ẩn không tùy tiện hiển lộ, không có thầy địa lý cao minh là không thể phát hiện ra, cho nên nói cái chân là được ẩn tàng.

- Còn về nhân lý cũng thế, con người tài ba, là không tùy tiện hiển lộ tài năng, người mà tùy tiện hiển lộ tài năng, chắc chắn không phải là người tài ba, cho nên Lão Tử có nói “Tri giả bất bác, bác giả bất tri”.

- Lại nói: “Đại trí nhược ngu”, về mặt Thiên Đạo là cái chơn ta không dễ thấy được, về mặt địa lý là cái chơn ta không thấy lộ ra, về tài trí con người là tài trí bác học cao thâm không tỏ ra bên ngoài cho thấy, sở dĩ vậy đều là chuyện đương nhiên phải như thế đấy.

Lý Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Người tu đạo chỉ có ngoại công, không có nội công, sau này kết quả ra sao?

Thiên Nhiên Cổ Phật giải đáp rằng :

- Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, cái lý này từ xưa đến nay không thay đổi, khi lên Thiên đàng rồi tu lại cái nội tánh, nhưng tu nội tánh tại Thiên đàng so với tu tại nhân gian là càng khó hơn, những ai không thể tu tiếp sẽ bị giáng xuống nhân gian tu lại, hoặc hưởng hết phước là công đức tiêu mất đi.

Lý Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Tại sao trong vòng tu đạo hiện nay, có những chuyện thị phi nhiều như thế, càng tu thì chuyện thị phi càng nhiều, thật ra là tại sao?

43

Thiên Nhiên Cổ Phật giải đáp rằng :

- Tu đạo là phải tu cái tâm loại này, còn về loại tâm “sát đạo dâm”, đừng nói là người tu đạo, cho dù người không phải trong đạo trường cũng ít có loại tâm này, cái tâm thị phi là sự cản trở trong việc phát triển đạo vụ, nhìn vào thì chuyện thị phi không có gì nghiêm trọng, trên thực tế đó là trở ngại rất lớn trong việc phát triển đạo vụ.

- Người nào bị gièm pha những chuyện thị phi, nếu tâm không dấy lên nỗi sân hận, thì những tội nghiệt kiếp trước chưa hết sẽ nhờ vậy mà tiêu tan.

- Người gièm pha chuyện thị phi thì tự phải gánh lấy cái tội ấy, nếu đến đỗi làm cho người ta thối chí trên đường đạo, là gây nên ác nghiệt vô lượng vô biên.

Lý Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Xin hỏi Cổ Phật, Nhất Quán Đạo là ý nghĩa gì?

Thiên Nhiên Cổ Phật giải đáp rằng :

- Khổng Phu Tử nói với Tăng Tử rằng: “Sâm hồ, ngô đạo nhất dĩ quán chi” (Này Sâm, đạo của ta là từ nơi Nhất mà quán thấu

được đấy), tư tưởng nhà Nho là chú trọng về thực tiễn, chính là nhờ vào cái Nhất để quán thông vạn sự, đều là thiết thực đi hành.

- Cái Nhất là nhất thiết (hết thảy), nhất thiết bao quát thiên địa nhân, trên thì từ thiên giới, dưới thì tới âm giới, chính giữa thì tới nhân gian, đều phải quán thông với nhau, để nỗ lực hành trì chân lý Đại-Đạo.

Lý Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Tu đạo nói tới “khảo”, có phải đều là do Trời giáng xuống?

44

Thiên Nhiên Cổ Phật giải đáp rằng :

- Không phải thế, nói “khảo” là người tu đạo tự mình đem tới một sự an ủi, đại khảo là do Trời giáng xuống, tiểu khảo là do người tự chuốc lấy, hoặc là người tu đạo có những nhân quả từ kiếp quá khứ đã chín mùi.

Lý Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Thiên là ý nghĩa ra sao?

Thiên Nhiên Cổ Phật giải đáp rằng :

- Thiên (天 ) trong chữ Hoa còn có một chữ khác là

( 靝 ) (là chữ thanh 青 và chữ khí 氣 hợp lại), cho nên những ai

không có khí trược là có thể lên Thiên đàng, mà trên cõi Trời vốn là nơi không ô trượt.

- Còn chữ Trời (天) chính là chữ nhân (人) được thêm nhất

(一) trở thành chữ đại (大), thực hành y theo nhất lý của Thiên

(天), tức là tôn chỉ của Thiên, cho nên trên chữ đại (大) có chữ

nhất (一).

Lý Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Vì sao hiện nay được gọi là Bạch Dương Kỳ?

Thiên Nhiên Cổ Phật giải đáp rằng :

- Bạch là mùa Thu, là thời kỳ thâu hoạch, mùa Xuân gieo giống, mùa Hạ sinh trưởng, mùa Thu thâu hoạch, mùa Đông tàng trữ đấy.

45

Vạn Quốc Giáo Chủ – Cung Trường Tổ Sư giáng lâm, có bài thơ rằng :

Vạn pháp tuy đa nhất Lý tiên

Hứa điền cổ địa tàng nguyên hiền

Quốc trung Thập Tự thiên cơ quyết

Phủ nội Huyền Quan trú Thánh Tiên

Giáo đạo thứ dân đăng bỉ ngạn

Thiên thu bí chỉ tam kỳ niên

Chủ trương hợp đạo Bạch Dương tử

Tuế kế hữu công Vô Cực Thiên.

Có lời nói rằng :

Nhân gian với khoa học ngày càng tân tiến, tự cho là xã hội văn minh, thực ra đó là xã hội lúc thì sung sướng lúc thì khổ đau, cái sướng cái khổ cứ tuần hoàn mãi, như vậy là nhận cái khổ mà cho là sung sướng, không biết cái sung sướng chân thật của nhà Phật, gọi là chân lạc, cũng gọi là cực lạc, thế giới cực lạc do tâm con người tự tạo, tâm người hiểm độc xảo trá là tự tạo ra địa ngục, tâm người lương thiện là tạo nên Thiên đàng.

Thần Thánh Tiên Phật ngày ngày bận rộn, đều vì nỗi khổ của nhân gian, người đời ai cũng đều biết Thiên đàng là tốt, nhưng không chịu tạo lấy con đường lên Thiên đàng, ai nấy đều biết địa ngục là khổ đau, nhưng tự đi mở cửa địa ngục, khà! làm cho người ta khó hiểu, đêm nay do Hứa Phủ Thiên Tuế đặt ra câu hỏi, vấn đáp bắt đầu.

Hứa Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

46

- Tu đạo sĩ hiện nay, bề ngoài trông rất thành khẩn, nịnh bợ với tiền bối, tự cho là tôn kính tiền bối, mà nói thị phi của người đồng đạo, thậm chí dựng lên những chuyện vốn không có, chưa biết như thế sau này kết quả ra sao?

Vạn Quốc Giáo Chủ giải đáp rằng :

- Tâm Thánh Hiền là lên Thiên đàng, tâm ma quỷ là xuống địa ngục, người tu đạo tự hỏi lại tâm của mình là biết được kết quả sau này sẽ ra sao, nếu là người thị phi hãy mau mau sửa đổi lại, còn những ai không có thì cố giữ lấy.

Hứa Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Người tu đạo nếu sử dụng tiền bạc trong đạo không rõ ràng, chưa biết kết quả sau này sẽ ra sao?

Vạn Quốc Giáo Chủ giải đáp rằng :

- Tiền bạc trong đạo tức là tiền bạc của Bề Trên, có câu nói rằng “Thượng Thiên nhất văn tiền, thắng đại Tu Di sơn” (Một

đồng tiền của Bề Trên lớn hơn núi Tu Di), suy nghĩ là tự biết sẽ có kết quả ra sao.

Hứa Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Người tu đạo bảo quản tiền bạc trong đạo, nếu chi dùng phung phí, chưa biết có tội hay không?

Vạn Quốc Giáo Chủ giải đáp rằng :

- Những đoàn thể trong nhân gian, hoặc những cơ quan nhà nước, nếu chi dùng phung phí khoản tiền trong ngân quỹ cũng có lỗi, huống hồ chi đồng tiền của Bề Trên làm sao có thể chi dùng bừa bãi, đương nhiên là có tội.

47

Hứa Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Người tu đạo quỵt tiền người ta, hoặc quỵt tiền hụi người ta, có tội hay không?

Vạn Quốc Giáo Chủ giải đáp rằng :

- Người tu đạo quỵt tiền người ta, hoặc quỵt tiền hụi, đương nhiên là có tội, thứ nhất là kết oán với chúng sanh về khoản nợ, thứ hai là hủy hoại danh dự trong đạo, phá hoại sự tiến triển của đạo vụ, cho nên có tội.

Hứa Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Thiên Đạo giáng thế trong thời kỳ Bạch Dương, là truyền chân đạo, vì sao người đời phần đông không tin? Là nguyên nhân gì?

Vạn Quốc Giáo Chủ giải đáp rằng :

- Hiện nay lòng người không theo phép tắc cổ xưa, những ai có thể tin vững vàng về Tiên-Thiên Đại-Đạo, phải có thiện căn thâm hậu, nếu không khó có thể tin lấy, tại vì Đại-Đạo không chấp hình tướng, chỉ chú trọng về Lý không chú trọng về Khí và Chất, phàm phu chỉ biết tới Chất không biết tới Khí, Hiền nhân biết tới Khí nhưng không đạt tới Lý, Thánh nhân thông Khí Chất mà đạt tới Lý.

- Người đời bị che lấp bởi khí-bỉnh và vật-dục, không đạt tới Lý nên không tin.

Hứa Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Điểm khác biệt nhất giữa Thiên Đạo và những giáo hóa thông thường là ở chỗ nào?

48

Vạn Quốc Giáo Chủ giải đáp rằng :

- Điểm khác biệt nhất giữa Thiên Đạo và giáo hóa thông thường, là Thiên Đạo có thể siêu sanh liễu tử, không bị chuyển biến bởi tứ sanh lục đạo luân hồi.

- Còn những giáo hóa, được thành tựu cao nhất cũng chẳng qua là thiên-đạo trong lục-đạo mà thôi, vẫn là cái phước báo trong luân hồi mà thôi.

Hứa Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Hiện nay có nhiều dòng chi nhánh như thế, không biết dòng chi nhánh nào là chân?

Vạn Quốc Giáo Chủ giải đáp rằng :

- Những ai gắn liền với Tiền nhân Đạo trưởng, được điểm truyền từ Tiền nhân thuộc dòng trực hệ của Sư Tôn Sư Mẫu, là chân.

- Do tự mình mượn danh nghĩa của Đại-Đạo, hoặc là những Loan đường tự phong danh nghĩa Vô Cực để triển khai đạo vụ, đều là giả cả.

Hứa Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Hiện nay vạn giáo tề phát, đối với đạo có ảnh hưởng chăng?

Vạn Quốc Giáo Chủ giải đáp rằng :

- Sự việc thế gian đều là đối nghịch với nhau, không có giả thì làm sao thể hiện cái chơn, vạn giáo tuy nhiều nhưng chỉ có hai chữ “chánh” với “tà” mà thôi.

- Bên chánh thì phò đạo, bên tà thì bại đạo, khi nhân tâm tà

49

thì những sùng bái của họ đều rước tà thần tới, chánh thần không để cho họ thờ phụng.

Hứa Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Học vấn của tu đạo không biết cao thâm tới đâu?

Vạn Quốc Giáo Chủ giải đáp rằng :

- Trong lúc chưa đạt tới, việc học không có điểm giới hạn, những ai đạt tới thì không có cao thâm hay thiển cận, chỉ là những hành vi bình thường trong tự tánh mà thôi, Thế Tôn có nói qua, đại địa chúng sanh giai hữu Phật tánh, chính là những lưu hành của tự tánh mà thôi.

Hứa Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Kinh Phật năm ngàn quyển, chưa biết quyển nào là áo diệu nhất trong Phật lý?

Vạn Quốc Giáo Chủ giải đáp rằng :

- Nay mượn một câu nói của nhà Nho, đó là: “Nhất ngôn tế chi, viết tư vô tà” (Một lời nói bao quát hết, đó là trong tư tưởng

không có tà).

- Nếu như tư tưởng trong tâm không dấy lên tà niệm, không có quyển nào là áo diệu cả, nếu có thể cho liều thuốc đúng chứng bệnh, thì liều thuốc ấy chính là liều thuốc áo diệu.

Hứa Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Người tu đạo làm sự nghiệp nào tốt nhất?

Vạn Quốc Giáo Chủ giải đáp rằng :

- Nói tới sự nghiệp, tại vì vô phàm bất dưỡng Thánh, tốt nhất

50

là những sự nghiệp hữu ích đối với quốc gia, hữu ích đối với đạo bàn, hữu ích đối với xã hội loài người, hoặc hữu ích đối với chúng sanh, là thích hợp nhất, ít ra không được trở ngại tới sự nghiệp của Đại-Đạo.

Hứa Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Đắc trước rồi tu sau, với việc tu trước rồi đắc sau, đạo lý này làm sao phân biệt?

Vạn Quốc Giáo Chủ giải đáp rằng :

- Nói tới hàm nghĩa của chữ “tu”, tức là tu sửa khuyết điểm, “đắc” tức là được nhận lấy, đắc là mục tiêu sau cùng.

- Sự việc tại nhân gian hiện nay, như là một người muốn mua một món hàng, chủ hàng nhận thấy rằng hàng hóa họ sản xuất ra là hàng thật, lại không sợ khảo nghiệm, nên đem hàng giao trước tới nhà của chủ mua, rồi cho chủ mua ký phiếu trả chậm, hoặc là tới cuối tháng mới thâu tiền, hoặc là cách một thời gian sau mới thâu tiền, như vậy là giống như đắc trước rồi tu sau trong Đạo-bàn.

- Tức là bên mua nhận được hàng hóa trước (đắc), rồi mới trả chậm dần dần trong nhiều lần thanh toán, như vậy là có đạo lý giống với việc “đắc trước rồi tu sau”.

- Còn ý nghĩa của “tu trước rồi đắc sau”, đó là bên mua phải trả tiền trước rồi nhận lấy hàng sau (đắc), tức là phải bỏ ra trước cái giá tương đương rồi sau đó mới nhận lấy hàng hóa, đạt tới mục đích sau cùng là nhận lấy (đắc).

- Như thế là giống như người mua bán, có người là thu tiền trước rồi sau đó mới giao hàng, có người là giao hàng trước rồi mới thu tiền sau, hai việc cũng không có gì khác nhau.

51

- Cũng như chúng ta vào quán ăn, có ăn trước rồi trả tiền sau, cũng có trả tiền trước rồi ăn sau, như thế đều là cách làm ăn của mỗi người, cũng không phải là chuyện lạ kỳ.

- Cách triển khai đạo vụ cũng vậy, pháp môn thời kỳ Hồng Dương là dùng việc trả tiền trước rồi ăn sau, tức là “tu trước đắc sau”, còn pháp môn thời kỳ Bạch Dương là dùng việc ăn trước rồi trả tiền sau, tức là “đắc trước tu sau”, nhận xét rõ lý này, là không còn thắc mắc mới phải.

- Hỡi các chúng sanh, hỡi các tu sĩ, hỡi các Hiền sĩ, phải hết lòng đi lo việc liễu thoát của bản thân mình, không được không tu, chuyên ở đó lo kiếm chuyện moi móc, chuyên nói chuyện thị phi, hại mình hại người, vạn kiếp khó mà siêu sanh.

Hứa Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- In sách thiện có công đức lớn cỡ nào? In sách hủy báng đạo cái tội lớn cỡ nào?

Vạn Quốc Giáo Chủ giải đáp rằng :

- Những sách thiện hỗ trợ cho Đại-Đạo, có công đức lớn nhất, những sách hủy báng Đại-Đạo, không những không có công đức, ngược lại còn có tội, người nào đó đúng ra được thành đạo lại bị hủy mất do cuốn sách hủy báng kia, cho nên in tặng sách hủy báng đạo có tội nặng nhất.

Hứa Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Điểm Truyền Sư phải có tâm như thế nào? Công và lỗi của họ được phán xét như thế nào?

Vạn Quốc Giáo Chủ giải đáp rằng :

- Điểm Truyền Sư là người thay thế Thiên mệnh, thay thế vị

52

chưởng đạo bàn đi truyền đạo, cho nên tâm là phải có tâm Bồ Tát, nếu không thì không hợp với Thiên ý.

- Bề Trên ban cho Thiên mệnh, là để đi độ chúng sanh, chiếu cố tu đạo sĩ hướng theo phương hướng Đại-Đạo, để đạt tới cảnh giới siêu sanh liễu tử, không phải phó cho họ quyền thế để đè nén lăng mạ người ta, cho nên những Điểm Truyền Sư chuyên quyền bá thế, không những không có công, mà lại còn có tội rất nặng đấy.

Hứa Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Đồng bóng có thể cầu đạo không?

Vạn Quốc Giáo Chủ giải đáp rằng :

- Đồng bóng là thuộc bàng môn tả đạo, nên rời bỏ bàng môn tả đạo rồi sau cầu đạo mới là phù hợp chánh pháp, với lại đồng bóng nếu như cầu đạo rồi thường hay lợi dụng Đại-Đạo, mà tự dựng lên một môn phái, thậm chí nói là có pháp môn ngang hàng với Đại-Đạo, cho nên không thích hợp.

Hứa Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Người hành nghề hớt tóc, vì sao không thích hợp cầu đạo?

Vạn Quốc Giáo Chủ giải đáp rằng :

- Người hành nghề hớt tóc, suy nghĩ là biết rồi, vì sao không được, Phật ta không cần lắm lời, nghề này tuyệt nhiên là không thích hợp.

Hứa Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Hiện nay có người tự dựng lập môn phái, giống y như Tiên-Thiên Đại-Đạo, tự xưng là Tiên-Thiên Đại-Đạo, thậm chí

53

có điểm đạo, dùng đồng bóng sắc phong Điểm Truyền Sư, thậm chí những chức trách gọi là Tiền Nhân Đạo Trưởng, dùng “Vô Cực” làm đàn hiệu, chưa biết đạo này có chân hay không?

Vạn Quốc Giáo Chủ giải đáp rằng :

- Mới nãy nói đồng bóng không thích hợp cầu đạo chính là như thế, những trình tự phép tắc và mọi thứ của Đại-Đạo đồng bóng đều biết rồi, vì mưu cầu lợi ích cho nên đồng bóng cũng biết nhái theo Tiên-Thiên Đại-Đạo, làm cho những người tu đạo thành tâm không phân biệt được chân giả.

- Dùng đồng bóng mượn cớ là Bề Trên sắc phong Điểm Truyền Sư hoặc Đạo Trưởng, v.v..., đều không phải chân Thiên mệnh, cũng không phải chân Điểm Truyền Sư.

Tam Kỳ Đạo Sư Trương giáng lâm, có bài thơ rằng:

Tam thiên Đại-Đạo thế nhân hoằng

Phạm chức vương gia tục vị công

Kỳ nguyệt trung dung phàm tử bất

Phủ trung Phật tổ Huyền Quan thông

Đạo dân thượng tấn siêu sanh tử

54

Thiên vạn pháp môn duy thử tông

Sư tử hống truyền Nhất Quán quyết

Tuế niên vạn bát Bạch Dương phong.

Có lời nói rằng :

Đạo là nguồn gốc của con người, nhất bổn tán vạn thù, cho nên nói con người là vạn vật chi linh.

Linh này chính là Phật tánh, do có Phật tánh này, nên khởi tâm phải là thiện, là sự thật không thể phủ nhận, nhân tâm vốn là thiện, chỉ vì khi xuống tới hậu thiên bị che lấp bởi khí-bỉnh vật-dục, cho nên có cái tâm tham niệm, cái tâm tham niệm này không phải cái tâm bổn lai của con người.

Tu đạo là phải tu cái tâm này, nếu không có tâm này, đạo cũng khỏi cần tu nữa.

Vấn đáp đêm nay bắt đầu, do Phạm Phủ Thiên Tuế đặt câu hỏi.

Phạm Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Pháp môn tu đạo, có đốn pháp và tiệm pháp, làm sao để phân biệt?

Tam Kỳ Đạo Sư giải đáp rằng :

- Đốn pháp là dựa vào trực chỉ bổn tính, làm cho chúng sanh hiểu rõ bổn lai diện mục của con người, rồi là khôi phục lại những hành vi bổn lai, từ nơi tận cùng bên trong, phát dương tới những hành vi bên ngoài.

- Tiệm pháp là giáo hóa chúng sanh hành thiện, làm cho dần dần cảm nhận tới điểm chót trong bổn tánh con người, từ công

55

phu phía bên ngoài tìm tới điểm chót phía bên trong.

Phạm Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Hôm trước có một vị gia chủ tới miếu của tôi trình bày khổ sở của mình, ông ta nói bị vợ la tới không được yên, tại vì ông ta có cầu đạo, mới đây lại thanh khẩu trường chay, nhưng vợ ngày nào cũng la rối, nói việc cầu đạo và thanh khẩu, Phật cũng không có phù hộ che chở cho gia đình họ chuyển vận tốt kiếm tiền nhiều, vợ ông ta cũng không chịu nấu chay cho ông ta ăn, ông ta tới miếu của tôi xin trợ lực, phải chăng có thể nhờ sức mạnh của Thần Phật giúp đỡ, làm cho vợ không còn la rối, chưa biết Đạo Sư có bàn tính gì?

Tam Kỳ Đạo Sư giải đáp rằng :

- Phật là từ bi, nhưng đôi lúc giống như không từ bi, mỗi người đều có nhân quả của mình, mỗi người cần phải tự mình đi liễu, nếu dùng Phật lực đi giúp đỡ ông ta, ông ta làm thế nào liễu được nhân quả đây?

- Nếu dùng Phật lực giúp đỡ ông ta, như vậy tức là tà ma ngoại đạo, Phật chỉ có thể dùng đạo lý để giáo hóa ông ta, như vậy mới là Phật pháp, nếu dùng Phật lực giúp đỡ ông ta, thì cũng như thầy trong trường học sau khi ra đề thi rồi, thầy lại tự mình đi giải đề thi, chuyện đương nhiên là mỗi học sinh đều được 100 điểm, làm như vậy là không được.

- Người tu đạo, bất luận có chuyện gì, đều phải tự mình đi giải quyết, nếu không thì người tu đạo còn có đạo gì để tu nữa? Mỗi lần gặp phải chuyện gì đều phải chờ đợi Phật đi giúp đỡ, thì không còn đạo để tu đấy, nhân quả cũng không thể liễu được. Pháp môn tu đạo trong thời kỳ Bạch Dương, Phật là vì việc siêu

56

sanh liễu tử của chúng sanh mà thôi, còn chuyện nhân quả phải tự mình đi liễu đấy! Như thế mới là con đường tắt đi tới siêu sanh liễu tử.

Phạm Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Hiện nay có rất nhiều người tu đạo, một mặt hành công lập đức, một mặt tạo tội ác, người tu đạo như thế này, sau này kết quả ra sao?

Tam Kỳ Đạo Sư giải đáp rằng :

- Tu đạo tức là muốn liễu đi nhân quả, một mặt hành công, một mặt tạo tội, là Thiên đàng sẽ xa xôi đấy, cũng như một cái hồ chứa nước, nếu có lổ xì, một mặt thêm nước vào, một mặt xì nước ra, là vĩnh viễn không cách nào chứa đầy nước trong hồ.

- Luật trời có quy định, thiện có thiện báo, ác có ác báo, không một chút sai lệch, hạt giống luân hồi từ đấy mà ra thôi.

- Thử xem người đời, có người phú quý trước rồi sau này bần tiện, có người phú quý trước rồi bị tai họa đột ngột, đều là do nhân quả thiện ác trong kiếp trước tới hội ngộ đấy.

Phạm Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Hiện nay có rất nhiều người tu đạo, đều oán trách bậc tiền bối không có những đạo lý mới mẻ, mỗi lần giảng cũng là vài điều đạo lý kia, cũng là mấy câu đạo lý như vậy, nào là tam-cương ngũ-thường, ngũ-luân bát-đức, bỏ đi thói hư tật xấu, sửa đổi tánh tình, hành công lập đức, thật là nghe nhàm chán, xin hỏi Đạo Sư, như vậy có đúng không?

Tam Kỳ Đạo Sư giải đáp rằng :

- Đạo lý không có mới hay cũ, đạo đức cũng không có mới

57

hay cũ, những cái có trong tự tánh chúng ta được gọi là cổ-đạo, cổ-đạo tức là bổn lai diện mục vốn đã có.

- Nghe đạo không phải là nghe kể chuyện, không phải là xem điện ảnh, phải đòi hỏi cái mới cái lạ mới có thể kích thích thỏa mãn trong tâm thức, những người như vậy đều là không có lương tâm.

- Vài câu giảng ấy, như là tam-cương ngũ-thường, ngũ-luân bát-đức, bỏ đi thói hư tật xấu, sửa đổi tánh tình, hành công lập đức v.v..., nếu như có thể vô vi mà diệu hành, đạt được siêu sanh liễu tử, dư sức đủ để thành đạo, vậy còn đạo lý mới lạ gì nữa.

Phạm Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Người đời trong kiếp này được những cái phước, đều do kiếp trước để lại hay sao?

Tam Kỳ Đạo Sư giải đáp rằng :

- Cũng có một số là do kiếp trước để lại, kiếp trước gieo trồng thiện nhân, kiếp này đắc lấy phước báo, như vậy gọi là “thực cựu đức” (hưởng cái đức cũ).

- Cũng có một số là do sự cố gắng trong kiếp này, nói chung là không có nhân thì không thể nào kết được quả, nhân quả báo ứng, kéo dài tới mấy kiếp, thậm chí tới sáu vạn mấy năm cũng có thể báo ứng, còn những cái gần đây và hiện tại làm cũng có thể được hiện báo đấy.

Phạm Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Rất nhiều chúng sanh nghi vấn về việc Đại-Đạo truyền vào hỏa-trạch, phải chăng có thể mời Đạo Sư nói sơ lược sự thật về đạo truyền hỏa-trạch? (nhà của thường-dân)

58

Tam Kỳ Đạo Sư giải đáp rằng :

- Về việc đạo truyền hỏa-trạch, bắt đầu từ Lục-Tổ Tuệ-Năng Đại-sư trở đi là đạo giáng hỏa-trạch rồi, Hoài-Nhượng Thiền-Sư bái Lục-Tổ, Lục-Tổ nói rằng: “Tây Thiên bát nhã đa la sấm nhĩ túc hạ, xuất nhất mã câu, đạp sát thiên hạ nhân, ứng tại nhĩ tâm, bất tu tốc thuyết, Nhượng khoát nhiên Khê Hội, toại chấp tỳ tả hữu nhất thập ngũ tải, nhật trăn huyền áo, hậu vãng Nam Ngục”.

- Trong lúc Hoài-Nhượng từ giã Lục-Tổ, Lục-Tổ giao cho một cẩm nang, dặn dò Nhượng đi tới Nam-Ngục truyền hóa, những ý nói trong cẩm nang, toàn là dặn dò việc nhà Nho truyền hóa tại hỏa-trạch, sau đó Mã-Đạo-Nhất Tổ tại tỉnh Giang Tây nhận được cẩm nang có ý chỉ Tào Khê với nội dung có bài kệ rằng:

“Thích-Ca tòng ngã tuyệt tông phong

Nho gia đắc ngã chánh pháp thông

Tam kỳ mạt hậu thâu viên sự

Chánh tâm thành ý hạp trung dung.”

- Mã-Đạo-Nhất nhận chỉ trở thành đệ thất Tổ, nối truyền trong hỏa-trạch không có lệnh đoạn tuyệt, cho tới nay là đời tổ thứ mười tám, còn việc nối truyền chánh pháp nhãn tàng trong đời sau, chính là các vị tinh tú, tiếp vận đến nay, đồng trợ tam Phật, phổ thâu uẩn số, mạt hậu đại sự minh bạch, đồng báo MẪU tình.

Phạm Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Học Phật, tin Phật, bái Phật có gì khác nhau?

Tam Kỳ Đạo Sư giải đáp rằng :

59

- Học Phật tức là đi theo bước chân của Phật, noi theo hành tích vĩ đại của Phật, cho tới đạt được không khác gì với Phật, là ý nói thành Phật.

- Tin Phật là tín ngưỡng sự vĩ đại của Phật, tín ngưỡng về linh cảm của Phật, muốn nhận được cảm ứng của Phật, tín phụng về từ bi của Phật, là sự gởi gắm về tinh thần.

- Bái Phật là tôn kính năng lực của Phật, sự vĩ đại của Phật, nhờ vào từ bi của Phật, cầu Phật phù hộ bình an phát tài.

Phạm Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Chân đạo và ngoại đạo có sự phân biệt gì?

Tam Kỳ Đạo Sư giải đáp rằng :

- Chân đạo là nhận được chánh pháp của Phật rồi sau đó hành theo chánh pháp, phải là tự nhiên không có dục niệm để đặng quan sát sự áo diệu, tự nhiên hữu dục để đặng quan sát cái khiếu, cái động cái tĩnh tự nhiên hợp với đạo, không tạo dựng cũng khỏi dùng công phu mà hợp đức với Thiên Địa.

- Ngoại đạo là dựa vào công phu thuật lưu, như vẽ bùa niệm chú, tĩnh tọa, quán không, v.v..., những thứ này đều là ngoại đạo.

Phạm Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Tu đạo sĩ nên chọn lựa ngành nghề nào là tốt nhất?

Tam Kỳ Đạo Sư giải đáp rằng :

- Nghề nghiệp của tu đạo sĩ, tốt nhất là lựa chọn những nghề nghiệp có trợ giúp cho sự phát triển Đại-Đạo, nếu không thì cũng là những nghề nghiệp không trái nghịch với Đại-Đạo là thích hợp nhất.

60

Phạm Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Nghề nghiệp nào là nghề nghiệp trợ giúp cho Đại-Đạo, nghề nghiệp nào là nghề nghiệp không trái nghịch với Đại-Đạo?

Tam Kỳ Đạo Sư giải đáp rằng :

- Về nghề nghiệp thì rất nhiều, khó mà nói hết, nói sơ vài cái, như là mở quán ăn chay, hoặc là in sách thiện, hoặc là bán sách thiện, những thứ này đều là ngành nghề trợ giúp cho Đại-Đạo.

- Nghề nghiệp không trái nghịch với Đại-Đạo, như việc buôn bán bình thường, như làm ruộng, hoặc mở cơ sở sản xuất v.v..., có rất nhiều thứ.

- Nghề nghiệp trái nghịch với Đại-Đạo, như là sát sanh, mở sòng bài v.v..., đều là những ngành nghề trái nghịch với Đại-Đạo.

Phạm Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Người đời ai ai nuôi dưỡng con cái đều mong muốn con trai có thể thành rồng, con gái có thể thành phượng, nhưng hiện nay số thanh thiếu niên làm chuyện xấu xa vẫn rất nhiều, chưa biết phải dùng phương pháp nào để dạy dỗ con cái tốt nhất?

Tam Kỳ Đạo Sư giải đáp rằng :

- Chân lý trong Thiên Địa, nguyên tắc trong tự nhiên, cứ mãi chi phối cho sức mạnh vô hình của ngũ hành, thúc đẩy việc sanh khắc của ngũ hành, để cho nhân duyên được hội ngộ, nẩy sanh ra báo ứng.

- Nhưng Tiên Phật cứ muốn cứu vãn hạo kiếp do nhân quả báo ứng tại nhân gian, dùng sức mạnh của tôn giáo để khuyến

61

hóa nhân gian, để cho mọi người đều hướng thiện, chúng thiện phụng hành (gặp những việc thiện đều làm cả), tự nhiên hạo kiếp dần dần tiêu đi.

- Cho nên cách tốt nhất để dạy dỗ con cái, là động viên con cái tín ngưỡng tôn giáo, để cho người người đều có đạo, thiên hạ thái bình đấy.

Phạm Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Hiện nay vạn giáo tề phát, vì sao số người thật sự được thành đạo trong các tôn giáo lại ít ỏi như thế?

Tam Kỳ Đạo Sư giải đáp rằng :

- Có câu nói: Tu đạo như lông trâu, thành đạo như sừng trâu.

- Những người chưa đắc đạo làm sao thành đạo được? Những người đắc đạo rồi, nếu như không liễu đạo thì làm sao thành đạo được?

Phạm Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Con người và cầm thú có cái gì khác biệt?

Tam Kỳ Đạo Sư giải đáp rằng :

- Con người chính là vạn vật chi năng, có trí tuệ cao hơn cầm thú, con người có trí tuệ thượng đẳng, cũng có đạo đức thượng đẳng, cho nên khác với cầm thú.

Phạm Phủ Thiên Tuế hỏi rằng :

- Xin hỏi Đạo Sư, đồ đệ của Ngài khắp thiên hạ, có thể nói thử về tâm của người tu đạo, đều tồn cái tâm như thế nào?

Tam Kỳ Đạo Sư giải đáp rằng :

62

- Nói tới tâm của người tu đạo, là quá nhiều kể không xiết, làm sao có thể dùng lời nói hình dung số tâm tu đạo nhiều như thế, nói sơ vài cái mà thôi.

1. Phần đông tu đạo có cái tâm đều vì việc siêu sanh liễu tử của mình, với cái tâm muốn lên Thiên đàng mà đang hành công lập đức.

2. Cũng có rất nhiều người tu đạo, trong quá trình tu đạo muốn nhìn thấy Phật sống với xác phàm tại thế gian, mà tới khi Phật sống với xác phàm cho họ nhìn thấy rồi, họ lại cảm thấy không có khác gì với người ta, cho nên lại nẩy sanh cái tâm nghi ngờ.

- Thần Thánh trong vô hình, không thể nhìn thấy được, mới dùng tam-tài tung hoành cây viết trên mâm cát, nhờ văn tự để giáo huấn, họ lại cảm thấy không đủ hấp dẫn, dùng giảng sư thành toàn họ, họ lại cảm thấy đó là người giảng, không có gì mới lạ, nghi ngờ hết này tới kia, không biết là tu đạo gì đây.

- Người tu đạo cần phải hiểu thấu đạo thể, mối quan hệ giữa Phật với chúng sanh, phải biết Phật là gì, nơi nào là Tây Phương của Phật, nơi nào là dục-giới của chúng sanh, nếu là Phật, thì bất luận ở nơi nào cũng là Phật, những ai có tâm chúng sanh thì cho tới nơi nào cũng là chúng sanh, “tư vô tà hà xứ phi Nam Hải, chí ư đạo ngô gia tắc Tây Phương”, đừng chấp về hình tướng.

63

Hồ Ẩn Hòa Thượng giáng lâm, có bài thơ rằng :

Hồ thông tứ hải tự nhiên lưu

Quảng độ hữu duyên thượng Phật chu

Ẩn trắc thiên tâm thứ tử bạt

Trạch thí trần giới Thánh Thần hưu

Hòa dung Huyền-Tẫn trung-dung đắc

Tôn Thánh pháp Hiền bả đạo tu

Thượng đức vô vi mạc chước tướng

Vương Trung đạt Lý lạc du du.

Có lời nói rằng :

Đạo bàn vào lúc tam kỳ, mặt trăng mặt trời đều hết sáng, chỉ có chớp sáng của tinh tú, có Nhất Quán lo cứu kiếp nạn, trước tiên cứu nhân tâm đấy.

Sự diễn biến của đạo bàn, quyến thuộc ma vương phân bố khắp nhân gian, thậm chí có trong vòng đạo, cho nên khi người chân tu phóng ra khỏi vòng ma, tức là con đường Thiên đàng.

Đêm nay do Quảng Trạch Tôn Vương lâm đàn, đặt câu hỏi có liên quan tới sự việc trong đạo bàn, vấn đáp bắt đầu.

Quảng Trạch Tôn Vương hỏi rằng :

- Có một Nhất Quán Thiên Đạo kia, lấy danh nghĩa là Trung-Hoa Thánh-giáo, xin cho dựng lập giáo phái, có phù hợp với Thiên thời Thiên ý?

Hồ Ẩn Hòa Thượng giải đáp rằng :

64

- Cái Nhất Quán Thiên Đạo kia xem ra lờ mờ mà ngày càng hiện rõ, đạo tức là đạo, giáo tức là giáo đấy, họ vốn là xin phép dựng lập Trung-Hoa Thánh-giáo, không phải xin phép dựng lập Nhất-Quán-Đạo.

- Thiên thời là cứu kiếp nạn cứu nhân tâm, Thiên ý là phổ độ quần sanh, siêu sanh liễu tử, khôi phục lại bổn lai diện mục đấy.

Quảng Trạch Tôn Vương hỏi rằng :

- Người đời tu như thế nào mới gọi là tịnh?

Hồ Ẩn Hòa Thượng giải đáp rằng :

- Con người có 5 thứ không tịnh, chủng tử không tịnh, chỗ ở không tịnh, lúc sống không tịnh, sau khi chết không tịnh, cứu cánh cũng không tịnh.

- Chỉ có Tính và Thiên là cùng một thể, thanh tịnh mà không ô trượt, vứt bỏ cái phàm tâm, khôi phục lại bổn lai diện mục gọi là tịnh.

Quảng Trạch Tôn Vương hỏi rằng :

- Hòa Thượng từ bi, đồ đệ của Ngài khắp thiên hạ, mỗi ngày sẽ gặp phải rất nhiều kiếp nạn, sao ngài không cứu hết tất cả họ?

Hồ Ẩn Hòa Thượng giải đáp rằng :

- Phật ta mỗi ngày đều bận rộn việc cứu đồ đệ, không bỏ xót đồ đệ nào cả, với sức mạnh là hóa thân ra hàng ngàn hàng vạn tỷ để cứu đồ đệ.

Quảng Trạch Tôn Vương hỏi rằng :

- Đã là bận rộn việc cứu đồ đệ, tại sao vẫn còn có nhiều người tu đạo bị kiếp nạn?

65

Hồ Ẩn Hòa Thượng giải đáp rằng :

- Khà! những cái báo ứng nhân quả là luật Trời đã định, khi oan nghiệt bám lấy mình, nếu có liên quan tới nhân quả, mà oán nghiệt ấy không chịu tiếp nhận sự khuyến giải, thì Phật ta cũng không cách nào đấy, đồ đệ thiếu nợ của người ta, Phật ta sao có thể vì thương đồ đệ mà không hoàn trả món nợ?

- Cũng nên để cho đồ đệ ngoan ngoãn tiếp nhận oán nghiệt tới đòi nợ, trả sạch nợ rồi là con đường tốt nhất để lên Thiên đàng, Phật ta bàn đạo với mục đích duy nhất là để cho đồ đệ được siêu sanh liễu tử, nếu như hiểu đạo lý này rồi, là tự nhiên không còn oán trách Phật ta, và cũng không còn oán trời trách người nữa.

Quảng Trạch Tôn Vương hỏi rằng :

- Có rất nhiều Điểm Truyền Sư, sợ hậu học của mình lạc vào tà đạo, cấm hậu học đọc những sách ngoài chỉ định, nay xin hỏi Hòa Thượng, như vậy có đúng không?

Hồ Ẩn Hòa Thượng giải đáp rằng :

- Như thế là có cái được có cái mất, hiện nay nhân tâm rất kỳ khôi, những sách càng cấm coi, họ lại càng muốn coi, thế này là do tâm lý hiếu kỳ trong xã hội hiện nay.

- Nẻo đường tốt nhất để củng cố đạo bàn, không gì hơn là người lãnh đạo tự mình tăng thêm cho vững về đạo lý, lấy chân lý và sự tu dưỡng để cảm hóa hậu học, “trong hồ có nước, tự nhiên nuôi cá được”, trong hồ nước cạn, cá chắc chắn phải chết, là nguyên tắc tự nhiên của Trời Đất, còn về con đường siêu sanh liễu tử, là ở chỗ biết về chân lý, giữ lấy chân lý, hành theo chân lý là đi tới cảnh giới vô-vi, buông xuống mọi vọng tưởng đang

66

che lấp ở nơi tâm mình.

Quảng Trạch Tôn Vương hỏi rằng :

- Có Điểm Truyền Sư tự cho ông ta là Trời, ông ta là đại diện cho Trời, mệnh lệnh phát ra là Thiên mệnh, nếu hậu học nào không tuân theo mệnh lệnh tức là nghịch với Thiên, như vậy có đúng không?

Hồ Ẩn Hòa Thượng giải đáp rằng :

- Điểm Truyền Sư thay thế minh mệnh của Bề Trên đi truyền đạo là đúng rồi, ông ta có minh mệnh của Trời, cho nên hành vi của ông ta phải có đạo đức của Trời, những cái ông ta làm phải khớp với chân lý của Trời, nếu như là phát ra từ nhân tâm hậu thiên, thì không còn là minh mệnh của Trời nữa đấy.

- Phật ta nay lấy câu vấn đáp giữa Khổng Phu Tử và Tăng Tử để diễn giải:

Tăng tử nói: “Dám hỏi về điều con tuân theo lệnh của cha, được gọi là hiếu không?” Khổng Phu Tử nói: “Là ai nói vậy, là ai nói vậy”.

Thử suy nghĩ về lệnh của cha, nếu là đúng, người làm con phải tuân theo, mới không mất hiếu đạo; còn lệnh của cha nếu là sai, người làm con đúng ra không được tuân theo, mới không mất thiên lý, tuy rằng không tuân theo, cũng không được thất kính, mới là khớp với chân lý của Trời.

- Nếu đúng chân thật là Thiên mệnh, thì nên tuân theo, nếu cái mệnh ấy không phải, đúng ra không thể tuân theo, nhưng lại cung kính không để khó chịu.

Quảng Trạch Tôn Vương hỏi rằng :

67

- Con người có phải là động vật không? Loài cầm thú có phải là động vật không?

Hồ Ẩn Hòa Thượng giải đáp rằng :

- Phải, con người đương nhiên là động vật, loài cầm thú cũng là động vật.

Quảng Trạch Tôn Vương hỏi rằng :

- Người thượng đẳng có thể ăn hiếp người hạ đẳng không?

Hồ Ẩn Hòa Thượng giải đáp rằng :

- Con người vốn là bình đẳng, sao lại phân ra người thượng đẳng người hạ đẳng? Phải chăng nói người thượng đẳng là người có tiền tài có quyền thế, người hạ đẳng là người không tiền tài không quyền thế? Con người nếu như giữ được cái Thiên tính, sẽ không phân biệt người thượng đẳng người hạ đẳng.

Quảng Trạch Tôn Vương hỏi rằng :

- Người và cầm thú đều là động vật, đúng ra con người không được ăn hiếp cầm thú mới phải, có đúng không?

Hồ Ẩn Hòa Thượng giải đáp rằng :

- Con người là động vật cao cấp, cầm thú là động vật hạ cấp, là vì trí thông minh của con người hơn cầm thú, để cho phân biệt dễ dàng mới gọi là động vật cao cấp và động vật hạ cấp, thật ra đều là phân linh của LÃO MẪU, sao có thể ăn hiếp tới tàn sát lẫn nhau? Cho nên con người không nên ăn hiếp cầm thú.

- Có tàn sát lẫn nhau, ăn hiếp nhau thì bị nói là mất đi Thiên tánh, thật ra Thiên tánh không bị mất, chỉ là bị che lấp thôi.

Quảng Trạch Tôn Vương hỏi rằng :

68

- Cũng là người tu đạo, về đạo lý, có người nghe lọt vào tâm, có người nghe sao cũng không lọt vào tâm, có người được khai ngộ, có người không được khai ngộ, là nguyên nhân thế nào?

Hồ Ẩn Hòa Thượng giải đáp rằng :

- Đó đều là do cái Thiên tánh bị che lấp bởi cái nhân tâm, cho nên về đạo lý là nghe không lọt vào tâm, người tu đạo có thể vứt bỏ cái tâm vọng tưởng, về đạo lý tuy rằng không biết gì, nhưng hành động cũng sẽ khớp với chân lý.

Quảng Trạch Tôn Vương hỏi rằng :

- Thế nào gọi là bàng môn tả đạo?

Hồ Ẩn Hòa Thượng giải đáp rằng :

- Những ai không theo chánh pháp, đều gọi là bàng môn tả đạo, tu đạo là ở nơi tâm, rời khỏi cái tâm thì không còn Phật nào khác nữa, không chịu đi hiểu về cái tâm, như là lo ngồi thiền hầu mong được vẹn tròn, đều gọi là tả đạo bàng môn, người tu đạo làm trái nghịch với chánh lý, đều là tả đạo bàng môn.

Quảng Trạch Tôn Vương hỏi rằng :

- Làm sao phân biệt Thiên đàng và địa ngục?

Hồ Ẩn Hòa Thượng giải đáp rằng :

- Cái tâm có thể trở thành Thiên đàng, cái tâm có thể trở thành địa ngục, tâm thiện là Thiên đàng, tâm ác là địa ngục, cho nên vạn pháp là do tâm đấy.

Quảng Trạch Tôn Vương hỏi rằng :

- Thiên đàng ở đâu, địa ngục ở đâu?

69

Hồ Ẩn Hòa Thượng giải đáp rằng :

- Trong nhân gian hữu hình hữu tướng là có Thiên đàng địa ngục, người không lo âu là Thiên đàng, người bị khổ đau là địa ngục.

- Trong thế giới vô hình tướng cũng có Thiên đàng địa ngục, ai không có lo âu là Thiên đàng, ai bị khổ đau là địa ngục.

- Cho nên người có thiện tâm, hiện tại là Thiên đàng, sau khi chết cũng là Thiên đàng, người có ác tâm hiện tại là địa ngục, sau khi chết cũng là địa ngục.

- Phật muốn nhân gian trở thành Thiên đàng, để đi đến thế giới đại đồng, trở thành Thiên đàng tại thế.

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giáng lâm, có bài thơ rằng :

Nguyệt trầm tây hề tinh tinh quang

Thiên ý vận hành Thánh đạo khuông

Tuệ giác diệu tâm ban nhược trí

Đạo thông hoàn vũ tam kỳ dương

Bồ Tát bổn thị tự gia vật

Chung đỉnh hưởng minh động Thập phương

70

Tát thùy nguyên lai bình đẳng Tính

Thanh danh bất thị tế tam dương.

Có lời nói rằng :

“Quần Tiên Gia Ngôn Lục” là tiếng chuông của Thiên Đạo, đêm nay bắt đầu trứ tác, nội dung của Thiên-kiều là những việc xảy ra trong đạo bàn, làm ra những câu vấn đáp, còn về tiếng chuông của Thiên Đạo là dựa vào nội dung trong kinh sách làm ra những câu vấn đáp.

Đêm nay do Bổn đường Bảo Sanh Đại Đế đặt câu hỏi, do Bổn Phật giải đáp, vấn đáp bắt đầu.

Bảo Sanh Đại Đế tại Hộ Pháp đường hỏi rằng :

- Thế nào gọi là tu đạo?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

- Tánh của con người vốn thanh tịnh, thì động tĩnh tự nhiên khớp với đạo, không có đạo để tu, cũng không cần phải tu, bổn lai tự nhiên, không có tên gọi, Lão-Tử miễn cưỡng gọi là “Đạo”.

- Bản tánh thanh tịnh tự nhiên, bị dục niệm trong nhân-tâm che lấp, bị vọng tưởng che lấp, để khôi phục lại bổn lai diện mục thanh tịnh cho nên phải tu đạo, sở dĩ tu đạo tức là vứt bỏ vọng tưởng, khôi phục lại bổn lai diện mục, gọi là tu đạo.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- Thế nào gọi là minh tâm kiến tánh?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

- Tánh vốn là tự nhiên, cho nên tâm vô hữu bất tịnh, minh tâm kiến tánh là một danh từ của quá trình tu đạo.

71

- Tánh đã là tự nhiên, tâm vốn là thanh tịnh thì minh tâm ở chỗ nào, kiến tánh ở chỗ nào? Khi những vọng tưởng vật dục không còn ở trong tâm, thì gọi là minh tâm kiến tánh.

- Tâm bị che lấp bởi vật dục vọng tưởng, thì tâm không được sáng, tâm không được sáng thì tánh không thể hiện ra, mọi xử sự tất không thể lộ ra cái bổn tánh tự nhiên, trong sách Đại-Học nói về “minh Minh-đức”, là bước chuẩn bị cho minh tâm kiến tánh, chữ “minh” đầu là quang minh, “Minh-đức” là Thiên tánh, quang minh cái Thiên tánh của mình, tức là làm cho minh tâm kiến tánh.

- Khi đạt tới cảnh giới minh tâm kiến tánh, tức là “chỉ ư chí thiện” trong sách Đại-Học, cũng như câu nói “kiến tánh thành Phật”, tự tánh được hiện ra tức là minh tâm kiến tánh.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- Phải làm như thế nào mới có thể minh tâm kiến tánh?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

- Xem nhẹ đi những vật bên ngoài thân, như là tiền tài, danh dự, địa vị, khi xem nhẹ đi rồi, có thể dần dần đi vào cảnh giới ấy.

- Lão Tử có nói: “Bất quý nan đắc chi hóa, bất thượng hiền, bất kiến khả dục đẳng đẳng giá đô thị khán đạm thế tình chi nhất chủng phương pháp” (Không quý những hàng hóa khó có được,

không ca ngợi là đạt hiền đức tới đâu, không có hễ thấy là muốn, v.v...

như thế đều là một cách xem nhẹ đi mọi thứ trên đời.)

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- Cái gì gọi là “Cửu lục nguyên linh”?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

72

- Cửu là số lẻ của dương, số lẻ là Càn, được hình dung trong hình bát quái do Phục Hy vẽ. ( — ) là số lẻ, cho nên vạch bát

quái ( ≡ ) là Càn, phía dưới Càn là nội-quái, phía trên Càn là

ngoại-quái, trên dưới gồm 6 vạch đều là số lẻ, gọi là quẻ Càn, còn gọi là “Cửu”. Cách vẽ quẻ này là từ dưới lên trên, dưới cùng là sơ cửu, thứ 2 là cửu nhị, thứ 3 là cửu tam, thứ 4 là cửu tứ, thứ 5 là cửu ngũ, thứ 6 là thượng cửu, cho nên Cửu là đại diện cho số dương.

- Lục là số chẵn của âm, số chẵn là Khôn, được hình dung trong hình bát quát do Phục Hy vẽ. ( ― ― ) là số chẵn, cho nên

vạch bát quái (≡≡) là Khôn, phía dưới Khôn là nội-khôn, phía

trên Khôn là ngoại-khôn, trên dưới gồm 6 vạch đều là số chẵn, gọi là quẻ Khôn, còn gọi là “Lục”. Cách vẽ quẻ này là từ dưới lên trên, dưới cùng là sơ lục, thứ 2 là lục nhị, thứ 3 là lục tam, thứ 4 là lục tứ, thứ 5 là lục ngũ, thứ 6 là thượng lục, cho nên Lục là đại diện cho số âm, là Khôn.

- “Cửu Lục nguyên nhân” là ý nói âm và dương, trong Kinh- Dịch có nói: “Đạo tức là âm và dương, âm và dương tức là Đạo”.

- Nên nói “Một âm một dương được gọi là Đạo”, vì thế con người chính là được âm dương của Thiên Địa mà sinh ra, cho nên nói “cửu lục nguyên nhân”, không phải là chỉ 96 tỷ người.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- Cái gì gọi là “Cửu nhị tàn linh”?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

- Trong Dịch-Kinh có nói: “Sơ cửu tiềm long vật dụng, cửu nhị kiến long tại điền”, “tiềm long vật dụng” chính là phía dưới của Dương, như là cái tâm chưa động. Khổng Tử có nói: “Long

73

đức có ở chỗ người ẩn dật” (Long đức nhi ẩn giả dã). Tâm được tịnh tức là được rồi.

- Cửu Nhị được nói là “Kiến long tại điền, lợi kiến đại nhân”, là nói sao đây? Khổng Tử có nói: “Long đức nhi chánh trung giả dã, dung ngôn chi tín, dung hành chi cẩn, nhàn bang tồn kỳ thần, thiện thế nhi bất phạ, đức bác nhi hóa, Dịch viết, kiến long tại điền, lợi kiến đại nhân, Quân đức dã”.

(Long đức là ở chỗ người trung-chính, lời nói thông thường cũng

phải có chữ tín, hành vi thông thường cũng phải cẩn thận, gìn giữ đất

nước với tâm trung thành, làm cho thế giới tốt đẹp mà không có xuất

binh chinh chiến, lấy đức độ rộng dầy để hóa độ chúng sanh, trong

Kinh-Dịch có nói: “Kiến long tại điền, lợi kiến đại nhân, Quân đức

dã”.)

- “Tiềm long vật dụng, dương khí tiềm tàng, Kiến long tại điền, thiên hạ văn minh”. Câu nói “Hiền kiếp chúng sanh, độ cửu nhị tàn linh”, là ý nói vào thời đại văn minh có tam kỳ hiền kiếp chúng sanh phải được độ cho hết, không phải chỉ 92 ức tàn linh.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- Bồ Tát có nhận xét gì về Loan đường hiện nay? Giữa Loan đường và Thiên Đạo có liên quan gì?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

- Loan đường là do Quan Thánh Đế Quân triển khai, cho nên Loan đường xưng hô Quan Thánh Đế Quân là Ân-Chủ, vào thời tam kỳ Bạch Dương, Quan Thánh Đế Quân được gọi là Hiệp Thiên Đại Đế, có hàm nghĩa là Đại Đế Quân hỗ trợ cho Thiên Đạo, đương nhiên những Loan đường như thế được dựng ra, là dùng để trợ đạo và cứu thế, cho nên Loan đường không thể điểm

74

đạo, chỉ có thể trợ đạo, bất kỳ Loan đường nào nếu có dựng lên danh nghĩa Vô-Cực đều đã không khớp với nguyên tắc của Loan đường, tối đa cũng chỉ là Loan đường dưới sự cai quản trực tiếp của Nam-Thiên, Loan đường tuyệt đối không phải dưới sự cai quản trực tiếp của Vô-Cực, chỉ có Tiên-Thiên Đại-Đạo là dưới sự cai quản trực tiếp của Vô-Cực, những thứ khác đều không thể dưới sự cai quản của Vô-Cực, có một số Loan-đường tự xưng là dưới sự cai quản của Vô-Cực, mượn danh nghĩa của Tế Công Hoạt Phật, mượn danh nghĩa của Tam Thiên Chủ Khảo mà tiến hành khai triển đạo vụ, những thứ này đều không phải là Tiên-Thiên Đại-Đạo, đều là tà ma ngoại đạo cả, cho nên trong tín ngưỡng có người là tà tín, thậm chí có người là ngu tín, sau này không những không có công đức, mà địa ngục có phần đấy. Tiên-Thiên Đại-Đạo ứng vận tại hỏa trạch, nếu là tại Loan-đường hoặc tại chùa miếu, đều không phải Tiên-Thiên Đại-Đạo, như thế chính là những đặc sắc của Bạch Dương Tiên-Thiên Đại-Đạo, nếu như hòa-thượng ni-cô muốn cầu đắc Tiên-Thiên Đại-Đạo, cũng phải trở về nơi hỏa trạch, nếu không thì không thể cầu đắc Tiên-Thiên Đại-Đạo, như thế là do Thiên thời ứng vận. Cho nên Loan đường tức là Loan đường, không thể làm đạo tràng của Tiên-Thiên Đại-Đạo, nếu không sẽ nghịch với Thiên ý, Tế Phật, Tam Thiên Chủ Khảo cũng không có lý do nào để tới Loan đường triển khai đạo vụ.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- Thế nào gọi là “Như thị ngã văn”?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

- “Như thị ngã văn” là từ ngữ nhà Phật, “Như thị” hình dung Đại-Đạo, là cái đạo sanh thiên sanh địa sanh ra vạn vật, tại Thiên

75

được gọi là Đạo, tại nhân được gọi là Tánh, là Thiên mệnh chi vị tánh.

- “Ngã” là chân-ngã, “văn” là đã nghe đã thấy, đã minh bạch hiểu rõ.

- Là hình dung rằng đã nghe được chân đạo của Thiên Địa, đã thấy tánh chân-như của mình, cũng tức là đã thấy bổn tánh, đã thấy Đại-Đạo, nay tam kỳ bàn đạo, Minh Sư nhất chỉ Huyền Quan diệu khiếu, nếu như có thể hiểu được chân lý trong đó, tức là “Như thị ngã văn”, đã được minh tâm, đã được kiến tánh rồi.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- “Nhất thời” có nghĩa là gì?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

- “Nhất thời” là trong lúc Phật truyền đạo, cũng là trong lúc đệ tử của Phật văn đạo, cũng là trong lúc Phật với đệ tử tâm ấn tâm.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- “Phật tại Xá Vệ Thành” có nghĩa là gì?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

- “Phật tại Xá Vệ Thành” là một địa danh, địa danh này là nơi Phật trụ, nơi Phật giảng đạo, hình dung là Huyền Quan Khiếu trong bản thân con người, chúng sanh khắp nơi đều có Phật tánh, tự tánh Phật nơi Huyền Quan Khiếu, được hình dung là “Phật tại Xá Vệ Thành”.

- Nhà Nho hình dung nơi tự tánh ngự là “Lục trúc y y hữu phỉ Quân tử”.

76

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- “Chi thụ cấp cô độc viên” mấy chữ này có phải ẩn tàng chân lý áo diệu riêng trong đó?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

- Lúc Phật truyền đạo, muốn cho chúng sanh được khai ngộ, nói tới chỗ “ngưng” ( ) đều với phương pháp là lời nói ở đây ý chỉ đằng kia, để cho người tu đạo tự đi tìm tòi, cho nên “Chi thụ cấp cô độc viên”, tuy là cái do cô độc trưởng giả hiến ra, nhưng đó là hình dung hoàn cảnh trạng thái tứ phía “Huyền Quan Khiếu” ra sao.

- Cái này có ý nghĩa tương đương với câu đối :

“Tử trúc lâm trung quan Tự Tại

Bạch liên tọa thượng hiện Như Lai”.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- “Nhất thiên nhị bách ngũ thập nhân câu” có phải cũng ẩn tàng áo diệu trong đó?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

- Câu này tuy là chỉ con số thành phần đệ tử của Phật trong các giáo đoàn, nhưng trong lúc Phật giảng kinh, đệ tử của Phật nghe giảng đúng ra không dưới một ngàn hai trăm năm mươi người, với lại mỗi lần pháp hội đúng ra không thể có số người giống nhau, mà mỗi bộ Phật kinh nào cũng hình dung bằng “Nhất thiên nhị bách ngũ thập nhân”, đại khái không thể khớp như thế, cho nên phải có hàm ý khác.

- “Nhất” là nhất lý, là nguồn cội tạo hóa ra thiên địa nhân

77

vạn vật, “nhị bách” có thể hình dung là nhất lý hóa ra nhị khí, nhị khí là âm dương, “ngũ thập” là ngũ hành, có thể nói rằng tạo hóa trong Thiên Địa là nhất lý hóa nhị khí, nhị khí hóa ngũ hành, thiên địa âm dương vạn vật được tạo thành đấy.

- Cũng là hình dung pháp hội được thành lập, từ thiên tới địa tới vạn vật vạn sự được viên mãn, rồi là tứ-nhân được chín mùi đấy.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- “Khất thực” trong kinh Kim-Cang có huyền ý gì?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

- “Khất thực” chính là “thân dân”, Thích Phật sanh tại nhà Quốc-Vương, khi xuất gia là Phật-Tôn vô thượng, nhờ vào khất thực để thân dân độ chúng, dân bố thí mà kết duyên với Phật, cho nên khất thực là giúp cho dân gieo phúc đức.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- “Thứ đệ khất kỷ” là cái gì?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

- Phương pháp này là bình đẳng đấy, Phật không phân bần tiện, đều phải bố thí hỷ xả.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- “Tẩy túc kỷ” mấy chữ này có phải tàng ẩn Phật ý trong đó?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

- Vứt bỏ những hành vi xấu gọi là “tẩy túc”, có người lấy câu “thu cước tẩy thủ” (rút chân rửa tay) để hình dung, có nghĩa

78

là không làm việc xấu xa nữa, người tu đạo không được làm việc xấu đấy. Cũng như câu “tại minh minh-đức” của nhà Nho, phải quang minh tự tánh, không làm việc xấu xa tức là đã làm cho tự tánh được sáng lên.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- “Phu tọa nhi tọa” mấy chữ này có phải tàng ẩn Phật chỉ trong đó?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

- Trong nhất cử nhất động của Phật đương nhiên có ẩn tàng diệu chỉ vô cùng, bề ngoài là yên tịnh thủ huyền, thật ra là Phật khai thị về Huyền Quan diệu khiếu, muốn cho đệ tử hiểu được mật ý về Huyền Quan, truyền đạo vào thời cổ xưa, là hễ ai biết tới chỗ dừng lại nơi Huyền Quan, thì Phật truyền đạo cho người đó được, cho nên có ý khai thị các đệ tử phải tìm về Huyền Quan, tìm về Chủ Nhân Ông, Huyền Quan khiếu là Chí Thiện Địa, cũng giống như câu “tại chỉ ư Chí Thiện” của nhà Nho.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- Còn về câu “Hoàn chí bổn xứ” có nghĩa là gì?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

- Đương nhiên là con người xuống tới hậu-thiên, phải trở về Tiên-Thiên, chính là ý nghĩa phản bổn hoàn nguyên, muốn phản bổn hoàn nguyên, cần phải thu dọn y bát, vất bỏ chuyện xấu xa không làm nữa, tìm về chủ nhân Huyền Quan mới có thể trở về cố hương bổn xứ.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- Cớ sao Tu-Bồ-Đề có thêm danh từ gọi khác là “Thiện

79

Hiện”?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

- Nói về giải “Không”, Tu-Bồ-Đề là đệ nhất, dụng ý của Phật luôn là lời nói ở đây ý ở đằng kia, Tu-Bồ-Đề cũng có thể tìm tòi mà phát hiện ra, cho nên gọi là “Thiện Hiện”, là ý nói giỏi về phát hiện.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- Trong Kim-Cang kinh có hai chữ “hy hữu”, thật ra là hy hữu cái gì?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

- Là Tu-Bồ-Đề đã theo Phật hơn hai mươi năm mới phát hiện được chỗ dừng lại của tự tánh, nên gọi là “hy hữu”.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- Vì sao Thế-Tôn xưng chúng sanh là Bồ Tát?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

- Chúng sanh trong đại địa đều có Phật tính, cho nên người có Phật tính, tức là Bồ Tát.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- Thế nào gọi là “A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm”?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

- Tức là “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác chi Phật tâm”, là Phật tâm tối thượng đấy.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

80

- “Thiện tai, thiện tai” là hình dung về cái gì?

Nguyệt Tuệ Bồ Đề giải đáp rằng :

- Là tâm của Phật và tâm của Tu-Bồ-Đề đã ăn khớp với nhau rồi.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- Trong Kim-Cang kinh có hai chữ “Duy nhiên” là có ý gì?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

- Là âm thanh phát ra khi tâm lĩnh hội được trong lúc Tu-Bồ-Đề được Phật tới chỉ điểm.

- Cũng như lúc Tăng Tử đắc đạo khi nghe câu nói “Sâm hồ, ngô đạo nhất dĩ quán chi” (Này Sâm, đạo của ta vốn là từ Nhất mà

quán thấu lấy), Tăng Tử nói “Duy” (Vâng), hai trường hợp này lý lẽ như nhau đấy.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- “Vô Dư Niết Bàn” là gì?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

- Là đã ngưng độ rồi, không cần phải độ nữa, đã không còn chúng sanh tâm, đã tới cảnh giới tối thượng, được siêu sanh liễu tử, đã khôi phục bổn lai diện mục rồi, đã tới lúc không còn gì để độ, được siêu phàm nhập thánh, đã không còn phân biệt giữa thánh và phàm, đạt tới cứu cánh chi địa, là đã đạt tới tầng giới chí cực không cần tăng thêm thứ gì nữa, đã đạt tới thuần thanh mà không còn ô nhiễm, đạt tới bất sanh bất diệt, đã không còn sanh tử rồi.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

81

- Bốn câu kệ là gì?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

- Hễ là bốn câu mà khi đọc thấy thuận câu được gọi là câu kệ, trong Kim-Cang kinh có “Ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng”, tức là bốn câu kệ, Phật nhấn mạnh rằng: “Nhược Bồ Tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, tức phi Bồ Tát”.

- Vậy ngược lại nếu không có tứ tướng này tức là Bồ Tát rồi.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- “Diệu hành vô trụ” là gì?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

- “Đại-Đạo chi hành dã, thiên hạ vi công”, có thể gọi là “diệu hành vô trụ”, là mọi thứ động tĩnh được phát ra từ thiên lý trong tự nhiên mà không chấp chước.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- “Bất trụ sắc bố-thí, bất trụ thanh hương vị xúc pháp bố-thí” là gì?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

- Là làm theo vô vi, “Bất miễn nhi trung, bất tư nhi đắc, tòng dung trung đạo”.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- Trong Kim-Cang Kinh có câu: “Pha hữu chúng sanh đắc văn như thị ngôn thuyết chương cú” là nói chương cú gì?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

82

- Là “Tam Bảo” chương cú.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- Sau khi Như-Lai nhập diệt, hậu hậu ngũ bách tuế là bao nhiêu năm?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

- Hậu hậu ngũ bách tuế, là 5 cái 500 tuổi, tức là 2.500 tuổi.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- Trong Kim-Cang kinh có câu: “Ư thử chương cú năng sanh tín tâm”, là ý nói gì?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

- Là trong Tam-Bảo đã nhận đắc sẽ nảy sinh ra lòng tin.

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- Trong Kim-Cang kinh có câu “Như phiệt dụ giả, pháp thượng ứng xá”, là ý nói gì?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

- Như-Lai thuyết pháp, cái này không phải là pháp, cũng giống như qua đò vậy, sau khi qua sông, cánh bè tre này cũng nên xá bỏ đi, là nói đã thành đạo rồi, còn chấp cái pháp hữu vi làm chi?

Bảo Sanh Đại Đế hỏi rằng :

- Trong Kim-Cang kinh có câu “Nhược phục hữu nhân ư thử kinh trung thụ trì”, là thụ trì cái gì?

Nguyệt Tuệ Bồ Tát giải đáp rằng :

83

- Là thụ trì Tam-Bảo mà không chấp chước tứ-tướng.

Trung Hoa Thánh Mẫu giáng lâm, có bài thơ rằng :

Trung tâm nhất điểm Thánh Huyền Quan

Đệ trạch chỉ khai minh sự đoan

Hoa lệ tánh thành Quan Tự Tại

Thất trùng la võng nhiêu điền viên

Thánh Thần tắc đắc chân thiên quyết

Thái Cực khuyên trung chửng mạt nguyên

Mẫu tử đoàn viên duy thử hội

Bảo toàn Phật tánh bộ kim loan.

Có lời nói rằng :

Tam kỳ mạt kiếp, Thiên giáng chân đạo, chính là để phối hợp với nền văn minh trong nhân gian và bước phát triển của khoa học, nếu không để cho phối hợp với đạo đức là không thể văn minh, cũng như người ta thường nói: “Có thông minh thượng đẳng, có học vấn thượng đẳng, cũng phải có đạo đức thượng đẳng”. Nếu như ở cõi nhân gian khoa học phát triển, đạo

84

đức không đầy đủ, tại cõi nhân gian chắc chắn sẽ loạn đấy.

Nếu thông minh phối hợp với đạo đức, tức là văn minh; xã hội văn minh thì trí tuệ tự nhiên sẽ được bộc phát, là Thiên Đàng tại thế được hình thành.

Đêm nay do Đệ Thất Thái Bảo đặt ra câu hỏi, vấn đáp bắt đầu.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- A-La-Hán mà Phật thường nói tới, đem so với Đạo gia và Nho gia là thuộc quả vị gì, xin nói cho nghe.

Trung-Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- A-La-Hán là Phạn-ngữ, là “Đệ-Nhất Ly-Dục A-La-Hán”, khi mọi động tĩnh trong tâm có thể ly dục một cách tự nhiên, mới có thể gọi là ly-dục, nếu nhờ công phu tĩnh tọa mà được tĩnh, không phải là ly-dục một cách tự nhiên, thì không phải là A-La-Hán, khi chấp chước về ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, thì không phải là A-La-Hán. Về bên Nho gia mà nói, “Hiền Nhân” tức là A-La-Hán mà Phật thường nói tới.

- Danh từ gọi “Đại Tiên” bên Đạo gia, cũng tương đương với A-La-Hán mà Phật thường nói tới.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- Trung Hoa Thánh Mẫu là gì?

Trung Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Là một danh từ gọi, tại cõi nhân gian hữu hình không có tên gọi là không thể phân biệt được, là sanh tại Trung-Hoa, là sư

85

dìu dắt ở Trung-Hoa.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- Cớ sao đạo giáng ở Trung Hoa?

Trung Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Trung Hoa là trung tâm của thế giới, do Bề Trên không có thiên lệch, nên đạo giáng ở Trung Hoa, trong cuốn sách Trung Dung có nói: “Bất thiên chi vị trung, bất dịch chi vị dung, trung giả thiên hạ chi chánh đạo, dung giả thiên hạ chi định lý”, cho nên nói đạo giáng ở Trung Quốc.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- Trong Kim-Cang kinh, Thế-Tôn nói với Tu-Bồ-Đề: “Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, ư thử kinh trung, nãi chí thụ trì tứ cú kệ đẳng, vi tha nhân thuyết, nhi thử phúc đức thắng tiền phúc đức”, thực ra là chỉ “kinh trung” gì? Thụ trì “tứ cú kệ” gì? Còn câu “Thử phúc đức thắng tiền phúc đức” là nói về phúc đức gì?

Trung-Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- “Ư thử kinh trung” là Huyền Quan Khiếu, là hai chữ “Hoàng Trung” của câu “Hoàng Trung thông Lý” trong cuốn Dịch-Kinh có ý nghĩa giống nhau.

- “Thụ trì tứ cú kệ” là không có tứ tướng, tức là nói Huyền Quan tuy có thể thông Lý, nhưng không được chấp chước.

- “Nhi thử phúc đức, thắng tiền phúc đức” chính là nói động tĩnh của con người do động tĩnh tự nhiên của Chủ-Nhân-Ông ở Huyền Quan, so với “thất bảo bố thí” nhiều bằng hằng hà sa số, là có phúc đức lớn hơn.

86

- Nói tóm lại, mọi động tĩnh của “Tính hải” chính là mọi động tĩnh của thiên lý đấy.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- Ở tiết thứ 12 trong Kinh Kim-Cang có nói: “Đương tri thử xứ” là biết về xứ nào?

Trung-Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Biết về “Chí Thiện Địa” đấy, là Huyền Quan Khiếu đấy.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- “Nhược thị kinh điển sở tại chi xứ, tức vi hữu Phật” là ý nói gì?

Trung-Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Kinh điển ấy có tên gọi là “Kim-Cang Bát-Nhã Ba-La Mật Kinh”, dịch sang tiếng Hoa là “Bổn Tánh Diệu Trí Tuệ Đáo Bỉ Ngạn”, hình dung cho dễ hiểu là Thiên Đạo bổn tánh đấy.

- “Sở tại chi xứ” là chỗ dừng lại của bổn tánh, cũng là Huyền Quan Khiếu đấy.

- “Tức vi hữu Phật” là nói trong Huyền Quan Khiếu có Phật, tức là tự tánh, mà tự tánh tức là Phật tánh.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- “Tam thiên đại thiên thế giới” là ý nghĩa gì?

Trung-Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Ba nhân với ba là chín, chín có hàm nghĩa là bất tận, hình dung cái hư-không chẳng có nội ngoại.

87

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- “Nhĩ thời Tu-Bồ-Đề văn thuyết thị kinh”, là ý nói gì?

Trung Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Là lúc Tu-Bồ-Đề đắc đạo, là trong lúc được Phật chỉ điểm Huyền Quan Khiếu.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- “Ư thử kinh trung thụ trì đọc tụng”, là ý nói gì?

Trung Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Thị do tự tánh chi sanh phát, quảng vi nhân thuyết chi ý nghĩa.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- Trong Kim-Cang kinh có câu: “Như-Lai sở đắc pháp”, là đắc pháp gì?

Trung Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Là “Chánh pháp nhãn tàng” của chư vị đồng thể, là đạo thể cộng đồng của chư Phật Bồ Tát, “Huyền Quan chánh khiếu môn”.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- Cớ sao “Pháp này vô thật vô hư”?

Trung Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Nếu nói Như Lai có pháp để đắc tức là phỉ báng Phật, là vì để khôi phục lại cái bổn lai tự nhiên mà thôi, cho nên không phải là pháp, nếu nói không có pháp, Phật từ pháp này mà được khai

88

ngộ, cho nên nói thật ra là không có, nói không có lại là có, cho nên có câu “vô thật vô hư”.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- Chúng sanh bố thí có công đức chăng?

Trung Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Nếu nói có công đức tức là phỉ báng Phật, công đức chính là hành vi tự nhiên trong tự tánh, về chân lý của trời đất, có đắc thì có mất, có đắc công đức thì có mất công đức; tự tánh bất sanh bất diệt, công đức từ đâu mà có?

- Chữ “đức” trong hai chữ “công đức”, cũng là “trụ tướng bố thí”, trụ tướng bố thí là hạt giống luân hồi, những thứ này đều là đắc lấy phước báo trong luân hồi.

- Vì thế, Phật là không có công đức, nên được gọi là Phật, còn chúng sanh có công đức, nên mới gọi là chúng sanh, mọi hành vi xử sự hợp với tự nhiên của trời đất được gọi là công đức.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- “Quang minh” là gì?

Trung Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Là đối nghịch với “hắc ám”, cũng như “thiện” đối nghịch với “ác”.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- “Bách thiên vạn ức kiếp” là thời gian bao lâu?

Trung Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Mô tả thời gian lâu thật lâu, là vĩnh viễn và vĩnh viễn, thời

89

gian vô cùng tận.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- Trong tiết 15 của Kim-Cang Kinh cho biết “trì kinh công đức” có công đức rất lớn, thật ra là thế nào?

Trung Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Trì kinh có công đức lớn như thế, đó là trì “Tánh kinh” của bản thân mình, những gì làm ra từ chân kinh trong cái tánh của Thiên mệnh mới có công đức lớn như thế, nói tóm lại, những cái do tự tánh bộc phát mà dẫn tới mới có công đức vô lượng vô biên.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- Trong Kim-Cang kinh có đoạn: “Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhân, thụ trì đọc tụng thử kinh, nhược vi nhân khinh tiện, thị nhân tiên thế tội nghiệp, ứng đọa ác đạo, dĩ kim thế nhân khinh tiện cố”, là ý nói gì?

Trung Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Là nói nếu có thiện nam nhân, thiện nữ nhân, sau khi đắc Tiên-Thiên Đại-Đạo, thành tâm bảo thủ, thật tâm sám hối, rồi tuyên dương Tiên-Thiên Đại-Đạo, nếu bị người ta khinh tiện, là người ấy do nghiệt chướng kiếp trước sâu dầy, đúng ra bị đọa xuống ác đạo, nay bị người kia khinh khi, là người kia đang giúp người ấy tiêu đi nghiệt chướng, nên mới khinh khi người ấy.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- Kim-Cang kinh có nói: “Nhược phục hữu nhân, ư hậu mạt thế, năng thụ trì đọc tụng thử kinh, sở đắc công đức, ư ngã sở cung dưỡng chư Phật công đức, bách phân bất cập nhất, thiên

90

vạn ức phân, nại chí toán số thí dụ, sở bất năng cập”, là ý nghĩa gì?

Trung-Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Là Phật Thích Ca nói với Tu-Bồ-Đề rằng, vào lúc mạt thế “Tam kỳ mạt kiếp”, nếu như có người nào đắc Tiên-Thiên Đại-Đạo, có thể bảo thủ Đại-Đạo, có thể độ thêm người khác, có thể tuyên hóa Đại-Đạo, khai hoang độ chúng v.v..., công đức ấy lớn thật là lớn, công đức đó không thể dùng lời nói để diễn tả, còn lớn hơn nếu đem so với cái công đức cúng dường chư Phật của Phật Thích Ca trong kiếp quá khứ.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- “Phật yếu diệt độ sở hữu chúng sanh dĩ, nhi vô hữu nhất chúng sanh đắc diệt độ giả, hà dĩ cố”, như vậy là ý nghĩa gì?

Trung Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Tuy rằng Phật muốn độ hết thảy chúng sanh, nhưng chúng sanh đều phải nhờ vào tự tánh để tự độ, cho nên Phật nói không có chúng sanh được diệt độ.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- Trong Kim-Cang kinh có đoạn: “Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc”, vậy người nên dùng tâm gì?

Trung Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Con người không có tam tâm là giống như gỗ hoặc đá, con người không có quá khứ tâm, thì làm sao có thể nhớ ơn mà lo trả, con người không có hiện tại tâm, thì làm sao có thể phân biệt được chuyện thị phi, con người không có vị lai tâm, thì làm sao

91

có thể lo lâu dài về việc khai triển đạo vụ.

- Phật Thích Ca trong quá khứ 500 năm, bị Ca-Lợi-Vương xẻ chặt thân xác, lại nói ra cho các đệ tử nghe, là quá khứ tâm chăng? Là quá khứ tâm không được hờn giận không được oán trách.

- Chúng sanh khắp nơi đều có Phật tánh, vô Phật tánh là vô sanh tâm, vô sanh tâm là tự nhiên khớp với đạo, không cố muốn mà được ngay giữa, không suy nghĩ mà được đắc lấy, thong thả theo con đường trung đạo đấy.

- Tâm tu đạo, là những sự việc đến thì ứng phó, những sự việc qua đi thì không lưu lại, ứng phó những việc hiện tại mà thôi.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- “Nhược nhân ngôn Như Lai hữu sở thuyết pháp, tức vi báng Phật”, là ý nói gì?

Trung Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Đúng ra Phật không có pháp để nói, Phật chính là lấy cái pháp để đối đãi với “chúng sanh tâm”, khi chúng sanh không có chúng sanh tâm tức là không phải chúng sanh, không có chúng sanh tâm thì cũng không có phật tâm, không có chúng sanh tâm thì cũng không có chúng sanh, không có chúng sanh cũng không có Phật; không có chúng sanh mà cũng chẳng có Phật, thì nào có Phật pháp, nên Phật không có pháp để nói, có pháp tức là phỉ báng Phật.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- Trong Kim-Cang kinh có câu: “Tu Bồ Đề bạch Phật ngôn,

92

Thế Tôn, Phật đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, vi vô sở đắc da”, là ý nói gì?

Trung Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Phật chính là đạo thể được khôi phục lại tự nhiên, nào có đạo để đắc lấy.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- Trong Kim-Cang kinh có nói: “Thị pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ, thị danh A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”, là ý nói gì?

Trung Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Cho tới khi không có chúng sanh không có Phật, đó được gọi là “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- Trong tiết 15 của Kim-Cang kinh có câu “Hóa vô sở hóa” là ý nói gì?

Trung Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Thánh và phàm cùng Tánh, nào có hóa được cái gì, Phật chẳng phải là Phật, được gọi danh từ là Phật, phàm phu chẳng phải là phàm phu, được gọi danh từ là phàm phu.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- “Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai” là ý nói gì?

Trung Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Với mọi hình sắc cõi nhân gian, hoặc với tướng sắc trong

93

tâm, để đặng thấy được Như Lai Phật tánh, hoặc với hình tướng danh tiếng, hoặc dùng ngôn ngữ để đặng thấy được Phật tánh, hoặc với tà pháp để đặng thấy được Phật tánh, hoặc với tả đạo tịnh tọa bàng môn để đặng thấy được Phật tánh, đều không thể thấy được Như Lai.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- “Chư pháp đoạn diệt” là ý nói gì?

Trung Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Phật vốn không có pháp, nếu như có pháp hình tướng là đoạn tuyệt Phật pháp, Phật chính là cái Tính của Thiên mệnh hết sức tự nhiên, chúng sanh khởi lên cái tâm không tự nhiên, là đưa tới “đoạn diệt”.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- Trong Kim-Cang kinh có nói: “Như Lai giả, vô sở tòng lai, diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai”, là ý nói gì?

Trung Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- “Vô sở tòng lai, cũng vô sở tòng khứ”, với câu “bất sanh bất diệt”, thử nghĩ xem có khác biệt tới đâu? Nếu có lý luận trong đó, tức chẳng phải Như Lai. Nếu không thể minh tâm, là không thể kiến tánh, không thể thấy được tánh thì cũng chẳng thấy được Như Lai.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng ảo bào ảnh, như lộ diệc như điện, ứng tác như thị quan” là ý nói gì?

Trung Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

94

- Hễ có hình tướng chấp chước trong tâm, đều là pháp hữu vi, pháp này chẳng phải pháp siêu sanh liễu tử, cho nên giống như giấc mộng, ảo ảnh, bọt nước, hình bóng, như hạt sương, cũng như điện chớp tiêu mất rất nhanh, cho nên phải có tầm quan sát như thế, với những động tĩnh hoàn toàn từ trong tự tánh mà thể hiện ra cái tự nhiên của tự tánh.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- Thế giới cực lạc của Phật, vui chơi rất sướng phải không?

Trung Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Mọi chuyện vui chơi là phát từ trong tâm của chúng sanh, nếu là người ham vui chơi chắc chắn có tâm chán cũ thích mới, mà đã có cái tâm này rồi chơi lâu sẽ thấy chán; cực lạc chính là không tham, không chán, cho nên cõi cực lạc không có những cái khổ này của chúng sanh.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- Cớ sao Thiên Đàng cõi dục-giới nhìn thấy đẹp đẽ?

Trung Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Thiên Đàng cõi dục-giới chính là đáp ứng cho những người tích thiện nhiều và theo lối hữu vi, được chuyển sanh cõi trời này để hưởng thụ thiên phước, khi phước hết chắc chắn là bị đọa xuống, cho nên có luân hồi.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- Phật đã là không hưởng thụ, vậy làm Phật để chi?

Trung Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Phật lấy làm sung sướng trong việc độ chúng sanh, lấy làm

95

sung sướng trong khi chúng sanh lên bờ bể khổ, không cầu an lạc cho tự mình, mà lo cho chúng sanh được thoát bể khổ, cho nên làm Phật.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- Xin thỉnh vấn Thánh Mẫu cho biết nguyện vọng của Thánh Mẫu là gì?

Trung-Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Hóa cõi nhân gian thành lạc viên, trở thành Thiên Đàng tại thế, thế giới đại đồng, là nguyện vọng của chư Phật Bồ Tát đấy.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- Hộ-Pháp-đường trong Tụ-Tinh-Cung là sảnh đường gì?

Trung-Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Là Thần Hộ pháp của Đạo-bàn Bạch Dương, tuy là Loan đường, nhưng là Hộ-đạo đường, sau này tới ngày hội Long-Hoa, Hộ Pháp Thần cũng là một vai trò quan trọng.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- Hộ Pháp Chân Quân là thuộc quả vị gì?

Trung-Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Hộ Pháp Chân Quân là đầu Thần đuôi Phật, tương đương với tên gọi Bồ Tát trong Phật giáo, Chân Quân là tên gọi của Đạo gia.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- Chức trách của Tụ-Tinh-Cung sau này là gì?

96

Trung Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Tụ-Tinh-Cung sau này có tên gọi là Thập-Tinh-Cung, thập-tinh hội tụ, đều là Thần Hộ Pháp cả, sau này mạt hậu đại sự minh bạch, đều là Hộ-Pháp Bồ-Tát, ít nhất cũng là Sơ-Địa Bồ-Tát, cao nhất có thể là Thập-Địa Bồ-Tát.

Đệ Thất Thái Bảo hỏi rằng :

- Thập-Địa Bồ-Tát là quả vị gì?

Trung Hoa Thánh Mẫu giải đáp rằng :

- Thập-Địa Bồ-Tát là dự bị lên ngôi vị Phật, họ không chỉ hộ đạo trong kiếp này, mà đã hộ đạo hơn hai ngàn năm cho tới ngày hôm nay. Mười ngôi sao trong họ là thừa nguyện mà đến, sức lực của họ có ở trên Thiên đàng, có ở tại nhân gian, cho nên không bị trụy lạc, cũng không yếu kém lắm, nhưng cần phải liễu nguyện cho nhiều, việc trứ tác quyển sách này cũng là một phần trong hộ pháp.

97

Tam Thiên Chủ Khảo giáng lâm, có bài thơ rằng :

Tam kỳ mạt kiếp hảo tu thân

Thiên giới nhân gian bàn mạt chân

Thiên Đạo chung thanh xao hưởng lượng

Thượng hành hạ hiệu phục nguyên căn

Chủ tâm bất loạn thủ Trung Thứ

Thánh đức vô khuy hóa thế nhân

Khảo nghiệm bổn lai tuyển tứ bát

Mẫu nghi vi bạt chửng phàm trần.

Có lời nói rằng :

Đêm nay giáng đàn dùng vấn đáp giải những nghi hoặc về đạo lý cho chúng sanh, để chỉnh cho ngay chánh lý tu đạo, đừng áp dụng lầm những tà lý, để cho người học đạo áp dụng lý được chính xác.

Người tu đạo trong tam kỳ mạt kiếp, tuy đắc chân đạo, cũng phải chân thật học đạo, phải chân thật tu đạo, phải chân thật giảng đạo, cũng phải chân thật hành đạo, ngộ đạo chân, liễu đạo chân, nhất chân là mọi thứ đều chân, đắc được cái chân thì thành tựu cũng chân luôn.

Vấn đáp bắt đầu, xin mời Thiên Thượng Thánh Mẫu đặt ra câu hỏi.

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Xin thỉnh vấn Tam Thiên Chủ Khảo, mới nãy nghe nói tu đạo phải chân, vậy Bạch Dương tu đạo sĩ có bao nhiêu người là

98

chân tu?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Người cầu đạo thì nhiều, người chân tu ít ỏi như ngôi sao thưa thớt trên bầu trời, nếu là tu đạo sĩ ai ai đều chân tu cả, thì ta đây cũng khỏi cần nhắc tới cái chân nữa.

- Lão Tử có nói: “Đại-Đạo phế, hữu nhơn nghĩa”.

- Tại vì mất đi nhân nghĩa, nên mới phải đề xướng nhân nghĩa, có ác rồi mới có danh từ về thiện, trên thế gian không có ác thì nhắc tới thiện làm chi!

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Hiện nay tu đạo sĩ có bất chân, nguyên nhân là gì?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Nguyên nhân thì rất nhiều, nói tóm lại một câu, là do có tâm vọng tưởng, cho nên chân lương tâm không được thực hiện.

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Do tu đạo sĩ có tâm vọng tưởng, vậy tâm vọng tưởng từ đâu mà có?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Tâm vọng tưởng chưa được vứt bỏ, đó là có ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, là nguyên do không thể khử trừ cái vọng tưởng.

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Là do tứ tướng chưa được vứt bỏ, vậy có cách nào phá đi tứ tướng này?

99

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Có thể đi vào cảnh giới vô ngã là tứ tướng được phá, có thể diệt đi ngã tướng, thì ba tướng kia tự nhiên biến mất.

- Chúng sanh chuyện gì cũng vì mình, tức là ích kỷ, có cái ta ích kỷ, là có nhân tướng, có nhân tướng là có chúng sanh tướng, rồi thọ giả tướng cũng có luôn, cho nên phá chấp chước về cái ta, chính là việc làm trước mắt của người tu đạo.

- Lão Tử có nói: “Ta sở dĩ có hoạn nạn lớn, là do ta có cái thân, nếu ta không có cái thân, thì ta nào có hoạn nạn”.

- Do cái thân của ta, nên mới có cái ta, tu đạo sĩ nếu quý trọng cái ta, chắc chắn xem người khác thấp hèn, đưa mình lên cao thì chắc chắn đưa người khác xuống thấp, nâng cao mình thì chắc chắn hạ thấp người ta, nếu có thể vô ngã, tức là pháp bình đẳng, không có cao thấp là thế gian không còn tranh giành.

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Có cách nào để phá chấp chước về cái ta, để diệt đi tứ tướng?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Lão Tử có nói: “Không xem trọng kẻ hiền sĩ, là để cho dân không có tranh giành; không quý trọng hàng khó nhận được, là để cho dân không làm cướp giật; không có “hễ thấy là ham muốn”, là để cho tâm bất loạn.

- Có sự nhận thức rằng Thiên Đạo là Thiên Đạo, nhận thức rằng khổ đau của nhân gian là khổ đau của mình, nhận thức khổ đau của người khác là khổ đau của mình.

- Ở trong ta cũng như ở trong Thiên Đạo mà không lo cho ta,

100

ở trong mình cũng như ở trong nhân gian mà không lo cho mình. Cái ngã của Thiên Địa, là sở hữu của vô ngã, cái vô ngã của Thiên Địa, là cái ngã của đại chúng, Ngài tức là Tôi, Tôi tức là Ngài, Ngài dở là Tôi dở, Ngài và Tôi và người kia là một thể, là không không, mọi thứ người khác vui là mình vui, người khác khổ là mình khổ, là tự nhiên được “vô ngã”.

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Cớ sao vô ngã có thể hiện chân?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Thiên mệnh chính là Đạo của Ông Trời, Thiên Đạo vốn là chí công, công tức là cái đức của Thiên Đạo, được hành trong vũ trụ vốn là nguyên tắc vô tư và tự nhiên, thế này tức là cái hành của Thiên Đạo, cho nên Thiên Địa vô ngã là được lâu dài, con người vô ngã là hợp với Thiên Địa.

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Chúng sanh tạo tội, nhờ hành công lập đức có thể triệt tiêu không?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Thế này là chưa chắc, định luật của Ông Trời, là thiện có thiện báo, ác có ác báo, không một chút sai lệch, nếu như tạo tội có thể nhờ công đức để triệt tiêu, vậy những người giàu có là có thể được vô tội hết, một mặt tạo tội, một mặt dùng tài thí để triệt tiêu tội lỗi, thế này là không thể được.

- Đối với những lỗi lầm không cố ý, nếu được bên oán chủ đồng ý có thể dùng công đức để triệt tiêu, nhưng trước tiên phải có tu đạo thanh khẩu sám hối, được Phật làm chủ thì có thể triệt

101

tiêu lấy; nếu là chúng sanh không có tu đạo, chắc chắn bị trả báo theo thiện ác báo ứng của luật trời. Nếu người nào có tạo tội trước khi tu đạo, sau đó cầu đạo tu đạo thanh khẩu, lại có sám hối, và là chân sám hối, được oán chủ đồng ý, có Phật làm chủ là có thể dùng công đức để triệt tiêu.

- Nếu như oán chủ không đồng ý, Phật cũng đành chịu, thiếu nợ là phải trả nợ, giết người là phải đền mạng, thế này là đạo lý nhất định.

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Nếu người nào có giết người ta, đã bị trừng trị bởi pháp luật tại nhân gian, đã đền mạng rồi, theo luật trời có phải còn bồi thường nữa chăng?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Thế này là phải xem sự trừng trị tại nhân gian nặng hay nhẹ mới nói được, thật ra luật trời không giống như tại nhân gian, đi tìm bắt người về xử tội, khi con người tạo tội, thì Tam-Thi Thần trong thân thể con người sẽ tự động ghi chép lại như máy vi tính tại nhân gian vậy, sau đó tự động phối hợp với mọi sanh khắc của ngũ hành tại nhân gian, mà có những báo ứng về nhân quả.

- Do là được tính toán tự động hoàn toàn, cho nên không một chút sai lệch, đúng như người ta thường nói: “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” đấy.

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Nghe nói như thế, vậy trong quá trình tu đạo, cách tốt nhất là cho được liễu đi nhân quả, có đúng không?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

102

- Đúng rồi, hãy liễu nhân quả đi thôi, liễu tới chừng nào hết sạch rồi, tức là con người vô tội. Cho nên người tu đạo, muốn siêu sanh liễu tử, một mặt là phải đi liễu quả, một mặt là không được tạo ra cái nhân tội ác, vậy cũng là một cách tốt.

- Nhưng chúng sanh đa số không biết phải làm như vậy, chỉ sợ quả không biết sợ nhân, cho nên tới sau cùng vẫn là có một đống tội lỗi chồng chất không thể liễu được.

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Người tu đạo có kết hôn được không?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Về việc kết hôn trong nhân gian, vốn là đại sự hoàn toàn đúng với lẽ phải của trời đất, nếu như ai nấy đều tu đạo, mà không chịu kết hôn, vậy 50 năm sau loài người đã bị mất tích rồi. Trên thế gian không còn người nữa rồi, thì Bề Trên sáng tạo ra trái đất còn có ý nghĩa gì!

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Vậy người tu đạo không kết hôn là nghịch với ý Trời sao?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Không phải vậy, nếu vì lo cho mình được siêu sanh liễu tử mà không kết hôn, là vẫn không được siêu sanh liễu tử; tuy rằng thân đã thoát khỏi trần tục, nhưng tâm không thoát khỏi trần tục, vẫn là phàm phu.

- Hễ vì lo cho chúng sanh được siêu sanh liễu tử, mà không kết hôn là Hiền là Thánh đấy!

- Không kết hôn là để được dễ dàng trong việc tu đạo, làm

103

việc đạo và hành đạo mà thôi, chứ không phải là không kết hôn thì được thành đạo.

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Cớ sao người tu đạo phải hành công lập đức?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Hành công lập đức chính là giúp ích cho quần sanh, Ông Trời vốn có đức hiếu sanh, người tu đạo muốn được lên Thiên đàng, không giữ được cái đức hiếu sanh của Thiên tánh, mà lo hành công lập đức lợi ích chúng sanh, là đương nhiên không thể lên Thiên đàng, chính là để khảo nghiệm cái chí về đạo đấy!

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Như thế thì khi tâm người hợp với Thiên-tâm là được lên Thiên đàng chăng?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Đúng vậy, nhân tâm hợp với Thiên tâm, tức là thông Thiên-lý, Thiên đàng thoáng chớp là đi tới, tuy là xa cách muôn ngàn dặm, nhưng cũng cận kề ở trước mắt rồi.

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Nói là cận kề trước mắt, có phải tàng ẩn thiên cơ trong đó?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Tìm gặp Minh Sư là biết ngay thôi.

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Minh Sư ở chỗ nào?

104

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Người hữu duyên tự có Dẫn Sư tới trước cửa, người vô duyên tuy đứng trước mặt cũng chẳng biết nhau.

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Hiện nay tôn giáo có rất nhiều, phải nói là “vạn giáo tề phát”, thật ra tôn giáo nào là tốt nhất, là được nhất giúp con người siêu sanh liễu tử?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Giáo là giáo hóa, dạy người làm việc thiện; Đạo là dẫn dắt con người lên Thiên đàng, có giáo mà không có đạo là khó được siêu sanh, con người vốn là thông minh, nếu là tôn giáo tốt, có cản trở người ta không cho tin theo, thì người ta vẫn tin theo, nếu là tôn giáo không tốt, có khích lệ người ta đi tin theo, là người ta vẫn không chịu tin theo, để cho trí tuệ con người tự đi lựa chọn lấy! Hàng tốt nào sợ bán không được? Khổng Tử có nói: “Cứ chấm hàng đi, cứ chấm hàng đi, tôi đợi người mua đấy”.

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Có cách nào tốt nhất để giúp phong khí trào lưu trong xã hội được lành mạnh?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Ngoài việc dùng đức để giữ nước, tôn giáo có thể giúp ích rất nhiều, như thế chính là phương pháp tốt đấy!

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Vọng tử thành long, phương pháp tốt nhất là gì?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

105

- Để cho con cái mình tín ngưỡng tôn giáo, đừng để lạc vào loại tôn giáo mê tín.

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Trong quyển Đại-Học có nói “Tri sở tiên hậu, tắc cận đạo hĩ” là có ý gì?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- “Tiên” là hiểu về bản thể, về nơi dừng lại của tự tánh, có thể bộc phát từ bổn tâm mà xử sự, “Hậu” là nói về thân thể giả, về thân xác tứ đại giả hợp.

- Tiên là việc Thánh, hậu là việc phàm, biết phân ra việc Thánh và việc phàm cho khớp với đạo, là cận kề với Thiên Đạo rồi.

- Cận kề với Thiên Đạo là sao? Cận kề với Đạo không phải là đạt Đạo, đạt Đạo là đạt tới Chí-Thiện, biết tới đâu làm tới đâu, viên mãn mà chẳng thiếu sót gì mới có thể đạt Đạo.

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- “Cách vật” là gì?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Một là nói về “Khảo cứu vật thể sự việc”, hai là nói về “Loại bỏ vật trong tâm”.

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Giữa “khảo cứu vật thể sự việc” và “loại bỏ vật trong tâm”, phải hành cái nào trước trong khi tu đạo?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

106

- Cho hành cả hai cái cùng một lúc là tốt, tu đạo không khảo cứu sự lý sự vật, là không được minh bạch về lý, tu đạo không loại bỏ vật trong tâm, là tâm bị vọng tưởng che lấp, không đi được tới vô-vi. Cho hành hai cái cùng một lúc, tới lúc nào đó đột nhiên được quán thông, thì cái tinh vi, cái thô sơ ở bên trong bên ngoài vật thể đều được thông suốt cả, rồi toàn thể đại dụng trong tâm của mình không có điều chi bất minh cả.

- Lý thông là hành đạt, nội ngoại viên mãn, là Thánh là Phật đấy, cho nên khảo cứu sự vật, loại bỏ vật trong tâm, cả hai cái đều quan trọng cả.

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Bậc tiền bối trong đạo bàn, phải dùng phương pháp nào để giúp cho hậu học đi theo?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Đế Nghiêu, Đế Thuấn lấy cái “nhân” làm gương cho thiên hạ, rồi dân làm theo, Vua Kiệt, Vua Trụ lấy “tàn bạo” làm gương cho thiên hạ, rồi dân làm theo, nếu những mệnh lệnh trái với sở thích của mình, là dân không làm theo, cho nên quân tử là tự mình làm trước, sau đó yêu cầu người ta làm theo, nếu không tự mình làm trước, thì sau đó chẳng có ai chịu làm theo, những cái bản thân mình không chịu mà cứ trốn tránh, lại có thể bảo người khác đi nhận lấy, là xưa nay chưa từng có đấy.

- Thật ra là không có phương pháp, để tự mình làm gương mà thôi, nếu muốn áp dụng phương pháp thì tiến hành “bất ngôn chi giáo” là tốt hơn, để cho hậu học đi hành theo!

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Làm thế nào để giúp tu đạo sĩ trong đạo bàn đoàn kết lại,

107

làm thế nào để tình hữu nghị được trường tồn, để cho đạo vụ được tiến triển?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- “Ẩn ác dương thiện” tức là giấu kín khuyết điểm của người khác, biểu dương ưu điểm của người khác, như thế là cách tốt nhất trong việc đoàn kết và tình hữu nghị.

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Trong sách Trung-Dung có nói: “Khổng Tử nói rằng: Con người của Nhan Hồi, chọn con đường trung-dung, khi đắc Nhất thiện, là quyền quyền phục ưng, cứ sợ bị mất đi vậy”, là nói về ý gì?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Đó là Khổng Phu Tử khen đệ tử của mình là Nhan-Hồi về tình hình sau khi đắc đạo. Chọn con đường trung dung - chính là nói Nhan-Hồi giữ lấy trung đạo mà hành, đắc Nhất thiện – chính là nói Nhan-Hồi đắc đạo, đắc Nhất chỉ, quyền quyền phục ưng - chính là nói Nhan-Hồi thành tâm bảo thủ.

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- “Trung-thứ vi đạo bất viễn” là gì?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Trung-thứ là tư tưởng trung tâm của nhà Nho, là khoan hồng cho người khác, tha thứ người khác với Thiên tâm khoan hồng bất thiên bất lệch, là rời đạo không xa.

- Cái tâm được bộc phát từ Thiên tâm tự tánh, gọi là trung-thứ, cho nên nói “vi đạo bất viễn”.

108

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Thế nào gọi là “Tố kỳ vị nhi hành”?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Tố vị chính là nói Thánh địa giản dị tự nhiên của tự tánh, là những thể hiện của tự tánh, với những gì quân tử làm được để làm giản dị cho mình, là do cái hành của thiên tâm, không phải do xử sự của nhân tâm.

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Thế nào gọi là “Thượng bất oán thiên, hạ bất vưu nhân”?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Chấp nhận số mệnh, chỉ trách lại tự mình.

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Lời nói tốt nhất để làm người ta vui vẻ là gì?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Nói những lời lẽ tốt đẹp.

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Thế nào là “Thanh sắc chi ư dĩ hóa dân mạt dã”?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Là bố thí bất trụ sắc, bố thí bất trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp.

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Thế nào gọi là “Thượng thiên chi tải”? Thế nào gọi là “Vô thanh vô xú chí hĩ”?

109

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Là vận hành của Thiên Đạo, không có một chút “sắc, thanh”, là vô vi đấy.

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Thế nào gọi là “Học nhi đệ nhất”?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Học Thiên Đạo là phải học cho tới minh bạch Nhất lý, khi thông suốt Nhất lý là thông suốt vạn lý đấy.

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Thế nào gọi là “Lễ-Tiết”?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Lễ là biểu hiện cho sự tôn kính, như là “cúc cung” chẳng hạn; hành Lễ phải hợp Lý, nên gọi là “Tiết”, chẳng hạn như hành lễ cho Thượng Đế là Cửu Ngũ Đại Lễ, bao gồm ba cái “tam khấu thủ”, một cái “ngũ khấu thủ”, là lễ chí tôn đấy, khấu đầu nhiều thêm cũng không phải là lễ, bớt lại cũng không phải là lễ, không nhanh không chậm, cho đúng theo trung-đạo, là lễ đấy.

- Chẳng hạn như phụng sự Phật, kính dâng trái cây 5 dĩa, là lễ đấy, phụng sự quỷ thần thì kính dâng trái cây 4 dĩa, là lễ đấy, phụng sự Phật kính dâng trái cây 4 dĩa, là vô lễ đấy, phụng sự quỷ thần kính dâng trái cây 5 dĩa là vô lễ đấy. Hợp với trung-đạo là lễ đấy.

Thiên Thượng Thánh Mẫu hỏi rằng :

- Cớ sao gọi Lễ Tiết Thiên Đạo thời Bạch Dương là Phật quy tạm định?

110

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Khổng Tử có nói “Tuy rằng có cái ngôi vị kia, nếu như không có cái đức kia, là không dám hành Lễ Lạc, tuy rằng có đức kia, nếu như không có cái ngôi vị kia, là cũng không dám hành Lễ Lạc”.

- Trên cây có phát diệu quả, Di Lặc hạ sanh, là Lễ Lạc được thành.

Nam Hải Cổ Phật giáng lâm, có bài thơ rằng :

Nam ly phương vị Tiên-Thiên càn

Trung đạo quyền quyền tu tử kiền

Hải tiếp thiên nhai pháp cổ chấn

Đàn trang vi trợ Bạch Dương tiên

Cổ kim Nhất Quán thâu viên quyết

Nguyên diệu Huyền chân tại nhãn tiền

Phật tánh ngộ xuyên tâm bất loạn

Soái chư lê thứ hiệu Tế Điên.

111

Có lời nói rằng :

Đêm nay Phật ta được thỉnh tới lâm đàn, tham dự một bài trong cuốn sách “Thiên Đạo Chung Thanh”, hổ thẹn không hành văn tốt, nay do Trung-Đàn Nguyên-Soái đặt ra câu hỏi về chân lý Đại-Đạo trong tam kỳ Bạch Dương, để đánh thức lữ khách bị đắm mê.

Làm phiền Trung Đàn Nguyên Soái vất vả, vấn đáp bắt đầu.

Trung Đàn Nguyên Soái hỏi rằng :

- Làm thế nào để hoằng dương văn hóa Trung Hoa, đề xướng đạo đức xưa nay vốn có?

Nam Hải Cổ Phật giải đáp rằng :

- Nghiên cứu tư tưởng nhà Nho, hành theo chân lý Nhất Quán, tuyên dương Thánh Đạo của Khổng Tử và Mạnh Tử.

Trung Đàn Nguyên Soái hỏi rằng :

- Thế nào gọi là “nghiên cứu tư tưởng nhà Nho”?

Nam Hải Cổ Phật giải đáp rằng :

- Học thuyết của Khổng Phu Tử, trên là từ Vô Cực - “Thượng thiên chi tải, vô thanh vô xú, chí hĩ”, dưới là tới “học nhi đệ nhất” làm khởi điểm, thậm chí có công năng về tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.

- Lại được viết bằng văn tự đẹp nhất dưới gầm trời, là văn tự hay nhất trong việc thể hiện chân lý, từ Thiên-tử cho tới thứ-dân, đều là lấy tu thân làm nền tảng.

Trung Đàn Nguyên Soái hỏi rằng :

112

- Thế nào gọi là “Chư ban tinh túc, đáo thử vận tế, đồng trợ tam Phật, phổ thâu uẩn số, mạt hậu đại sự minh bạch, đồng báo MẪU tình”?

Nam Hải Cổ Phật giải đáp rằng :

- Hỏa Tinh Tử được gọi là Nhật, Thủy Tinh Tử được gọi là

Nguyệt, Nhật ( 日 ) Nguyệt ( 月 ) hợp nhất, đó là Minh

( 明 ) đấy.

- Chư ban tinh túc - được ví là những người có đạo, do có ánh sáng nhật nguyệt chiếu rọi mà có ánh sáng của những vì sao.

- Tam Phật - là có Di Lặc Phật, Tế Công Hoạt Phật, Nguyệt Tuệ Cổ Phật.

- Mạt hậu đại sự minh bạch - Bạch Dương kỳ trong Tam kỳ là 10.800 năm, đại sự thâu viên được minh bạch.

- Đồng báo MẪU tình - đồng thời chính là hồi báo lại tình thương của LÃO-MẪU.

Trung Đàn Nguyên Soái hỏi rằng :

- Thập bát Tổ Sư quy ẩn, đạo được chuyển về đâu? Nơi nào là quy y thật sự?

Nam Hải Cổ Phật giải đáp rằng :

- Bạch Dương thánh sự, có ẩn có hiện, ẩn là tu tâm dưỡng tánh, hiện là tế thế độ nhân, hiện nay tại nhân gian có chuyện lạ khắp nơi, nào là ba mươi sáu Tổ Sư giả, bảy mươi hai Cung Trường giả, chỉ xuất hiện có một vài cái là đạo bàn đã loạn, huống hồ chi tới lúc cả thảy đều xuất hiện hết, không thể tưởng tượng đấy.

113

- Hiện nay người tu đạo trong đạo bàn đã bước vào vòng khảo nghiệm về trí tuệ, là tới lúc phải để người tu đạo tự đi phân biệt, đừng để Thánh nghiệp hành công lập đức mấy chục năm nay mình đã gầy dựng được, tự cho hủy trong một đêm, thật tiếc thay!

- Kỳ mở khoa Bạch Dương là 10.800 năm, hiện nay còn là Bạch Dương sơ kỳ, có ít ỏi tà ma tới loạn đạo, đã làm người tu tay chân bủn rủn chẳng biết làm gì, chưa biết sau này phải làm thế nào mới được?

- Lão Tử có nói: “Gió thổi không hết buổi sáng, mưa rào không hết cả ngày”, màn đêm tối là bắt đầu của thời gian rạng sáng; cũng có đồng bóng tự cho là được Tế Công nhập xác, đặc biệt được Bề Trên ban cho một dòng đạo mạch, làm hỗn loạn không phân biệt được, quấy nhiễu đạo bàn, phá hoại đạo thể, tự cho là một dòng đạo mạch của Lão Tử, làm thiệt hại vô số huệ mạng của người tu.

- Cũng có tự xưng là dòng chánh thống của Sư Mẫu, cũng có tự xưng là người do Sư Tôn chuyển sanh mà chỉ điểm vào thái dương thái âm, cũng có tự lập một môn phái, tự cho là người thâu viên, lần lượt đều sẽ xuất hiện ở kế bên tu đạo sĩ, trong tương lai gần đây sẽ được rạng sáng chiếu rọi, nhưng trước đó đương nhiên sẽ có đạo khảo từ muôn ngàn ma quái, nắm vững lập trường kiên trì đạo căn để tu đạo, theo sau gót những tiền nhân hữu đạo, phải đạo là tiến tới.

- Người tu đạo hãy nhớ kỹ rằng trời sắp mưa chắc chắn sẽ có mây gió tới tấp, nếu đạo tâm được đứng vững không thay đổi, mới không bị mê hoặc bởi vòng ma quái.

- Nơi nào là quy y thật sự - giữ lấy thiên căn là tam bảo,

114

phục vụ cho quần chúng, bôn ba vì chân lý dưới gầm trời.

Trung Đàn Nguyên Soái hỏi rằng :

- Thế nào gọi là “thâu viên”?

Nam Hải Cổ Phật giải đáp rằng :

- Thâu viên chính là vạn pháp quy Nhất, để những mê tâm vọng tưởng đã bị phóng ra ngoài, độ hóa trở lại bổn lai diện mục, để cho được viên mãn không thiếu sót.

- Bản thân : không có cái tâm phóng đãng, không có cái thân phóng đãng, cái tâm chánh khí, cái thân chánh khí, mọi thứ đều lấy chân lý làm tâm, lấy chân lý mà hành.

- Gia đình : phải bản thân mình làm gương, gia đình viên mãn.

- Làm cha phải nhân từ, làm con phải hiếu thảo, làm chồng trọn trách nhiệm đối với vợ, làm vợ phải trọn trách nhiệm với chồng, trong gia đình mọi thứ viên mãn là tề gia đấy.

- Quốc gia : không có loạn thần đạo tặc, nước nhà không có tranh chấp, trên không có đàn áp dưới, dưới cũng không uy hiếp trên là pháp bình đẳng đấy.

- Thiên hạ : Đại-Đạo chi hành dã, thiên hạ vi công, tuyển hiền dĩ năng, giảng tín tu mục, cố nhân bất độc thân kỳ thân, bất độc tử kỳ tử, sứ lão hữu sở chung, tráng hữu sở dụng, ấu hữu sở trưởng, căng quả cô độc phế tật giả, giai hữu sở dưỡng, nam hữu phân, nữ hữu quy, hóa ác kỳ khí ư địa dã, bất tất tàng ư kỷ, lực ác kỳ bất xuất ư thân dã, bất tất vi kỷ, thị cố mưu bế nhi bất hưng, đạo thiết loạn tặc nhi bất tác, cố ngoại hộ nhi bất bế, thị vị đại đồng.

115

- Trên đây là hàm nghĩa của thế giới đại đồng, là hàm nghĩa về thâu viên, nhận thức rõ ràng chân lý là “nhập đạo” được.

- Được như thế gọi là tự bản thân vô khuyết, gia đình vô khuyết, quốc gia vô khuyết, thiên hạ vô khuyết, việc thâu viên được viên mãn đấy.

Trung Đàn Nguyên Soái hỏi rằng :

- Việc thâu viên, là thâu hồi bản thân mình và xung quanh bản thân mình cho được viên mãn, đã minh bạch rồi, còn “phổ độ” là gì?

Nam Hải Cổ Phật giải đáp rằng :

- Thâu viên là làm cho không có khuyết điểm, phổ độ là làm cho quần sanh dưới gầm trời ai nấy đều cầu đạo, ai nấy đều nghe đạo, ai nấy đều minh bạch về tự tánh, ai nấy đều minh bạch về chân lý.

- Nói tóm lại, phổ là phổ biến, phổ cập mọi thứ, như là những nơi tàu xe đi tới được, như mặt trăng mặt trời chiếu rọi tới được, hễ là có khí huyết trong mình, dù là hữu sắc hoặc vô sắc, hữu tưởng hoặc vô tưởng, tất cả các loài chúng sanh đều phổ biến cho nghe được đạo.

- Độ là hóa, là cảm hóa họ, có hàm nghĩa là phổ độ, mục tiêu sau cùng là cho khôi phục lại bổn lai diện mục, như thế được gọi là viên mãn, cho tới lúc không còn chúng sanh, cho nên nói “phổ độ thâu viên”.

Trung Đàn Nguyên Soái hỏi rằng :

- Khoảng thời gian nào là thời kỳ phổ độ thâu viên?

Nam Hải Cổ Phật giải đáp rằng :

116

- Bạch Dương kỳ là thời kỳ phổ độ thâu viên, không giới hạn ở khoảng thời gian nào, phổ độ trong mọi lúc mọi khi, thâu viên trong mọi lúc mọi khi, phổ độ không tách rời với thâu viên, thâu viên không tách rời với phổ độ.

- Không có phân biệt là “phổ độ bàn” và “thâu viên bàn”, chỉ do nhân tâm mới phân biệt là thâu viên và phổ độ, nhân tâm cho là có hai, thật ra chỉ là một.

Trung Đàn Nguyên Soái hỏi rằng :

- Thế nào gọi là độ nhân, quỷ, tiên.

Nam Hải Cổ Phật giải đáp rằng :

- Nhân là chúng sanh ở phàm trần, Quỷ là quỷ hồn ở địa phủ, Tiên là chư thần ở Khí Thiên, là những vị thần chưa vô cõi Lý Thiên, tất cả đều được độ hết để vào được Thánh-Vực.

Trung Đàn Nguyên Soái hỏi rằng :

- Thế nào gọi là “Công hồ dị đoan, tư hại dã dĩ”?

Nam Hải Cổ Phật giải đáp rằng :

- Người nào không theo chánh đạo mà tin về tà giáo là hại tự mình.

Trung Đàn Nguyên Soái hỏi rằng :

- Thế nào gọi là tà giáo, thế nào gọi là chánh đạo, làm sao phân biệt?

Nam Hải Cổ Phật giải đáp rằng :

- Dựa vào phép thuật, hoặc bùa chú, hoặc tĩnh tọa, v.v... để tu hành, đều là dị đoan, không phải chánh đạo.

117

- Chánh đạo chỉ dựa vào cái tâm, tâm tà tức là tà, tâm chánh tức là chánh, vứt bỏ cái tâm bất chánh tức là chánh đạo.

Trung Đàn Nguyên Soái hỏi rằng :

- Thế nào là quân tử, thế nào là tiểu nhân?

Nam Hải Cổ Phật giải đáp rằng :

- Từ động niệm mà ra, có thể giữ gìn quan niệm đạo đức, đi làm những việc có đạo đức, gọi là quân tử.

- Từ động niệm mà ra, mọi thứ đều là vì sự an lạc cho mình, lợi ích cho mình, gọi là tiểu nhân.

Trung Đàn Nguyên Soái hỏi rằng :

- Khổng Phu Tử được gọi là Thánh nhân, nhưng không tự cho là Thánh nhân, là sao vậy?

Nam Hải Cổ Phật giải đáp rằng :

- Thái Thượng bất tri hữu chi dã, giá thị tự nhiên chi sự, nếu có cái tâm muốn là Thánh nhân, thì là phàm phu đấy, cho nên Phu Tử không muốn làm Thánh nhân.

Trung Đàn Nguyên Soái hỏi rằng :

- Con người tu đạo phải tới trình độ nào mới được thành đạo?

Nam Hải Cổ Phật giải đáp rằng :

- Khổng Phu Tử đã từng nói qua: “Quan kỳ sở do, sát kỳ sở an, nhân yên tẩu tai? Nhân yên tẩu tai?”

- Hành vi của con người giống như Phật, tức là thành Phật rồi, thành Phật là được thành tại nhân gian, không phải được

118

thành sau khi chết, giống Phật rồi tức là Phật, giống quỷ rồi tức là quỷ, con người lúc ở trên thế gian không phải là Phật sống, thì sau khi chết cũng không phải là Phật, lúc ở trên thế gian là vị Phật sống tại nhân gian, thì sau khi chết tức là Tiên Phật trên cõi Trời.

Trung Đàn Nguyên Soái hỏi rằng :

- Thế nào gọi là Kim-Tuyến?

Nam Hải Cổ Phật giải đáp rằng :

- Kim là kim “Canh”, “Tân” ở Tây phương, thuộc về màu trắng (bạch), là thanh thanh bạch bạch tới Tây phương.

- Tuyến là gắn liền nhau, là cái tâm không tách rời với đạo, đạo là không thể tách rời trong giây lát, những người tu đạo không biết, tưởng là gắn liền với tiền nhân tức là đường kim tuyến không bị đứt đoạn, chẳng hay rằng kim tuyến được gắn liền chính là ở đạo đấy.

- Đạo trong tâm là kim tuyến, còn đạo rời khỏi tâm là kim tuyến bị đứt, do đó người tu đạo phải thành tâm để tu đạo, ngẩng đầu lên không hổ thẹn với Bề Trên, làm một người chánh nhân quân tử trong đạo thì đạo mới được chân, là kim tuyến được thông tới cõi Trời.

Trung Đàn Nguyên Soái hỏi rằng :

- Người tu đạo nên lấy cái gì để làm tâm?

Nam Hải Cổ Phật giải đáp rằng :

- Nên lấy từ bi làm tâm, có từ bi là có thể thương xót người khác, có từ bi là có thể trợ giúp người, có từ bi là có thể cứu người, có từ bi là có thể độ người, có từ bi là có nhân, có từ bi là

119

có nghĩa, có từ bi là có lễ, có từ bi là có trí, có từ bi là có tín. Vì thế trong ngũ thường là lấy nhân làm căn bản, do đó người tu đạo nên lấy từ bi để làm tâm.

Trung Đàn Nguyên Soái hỏi rằng :

- Cớ sao nói ngũ-thường có liên quan với từ bi?

Nam Hải Cổ Phật giải đáp rằng :

- Con người không có ngũ-thường thì có sát, đạo, dâm, vọng, tửu, cho nên Phật có ngũ giới.

Trung Đàn Nguyên Soái hỏi rằng :

- Trong Bạch Dương pháp môn cớ sao phải thiết lập Thiên Phật Viện, và lại có bộ môn nhiều như thế, không biết là nguyên do gì vậy?

Nam Hải Cổ Phật giải đáp rằng :

- Tổ-Sư chưởng bàn có nguyện vọng muốn những ai có cầu đạo đều thoát khỏi bể khổ hết, nếu có ai chưa đạt tới chỗ chí-thiện, được tiếp tục tới tu luyện ở Thiên Phật Viện, hầu mong ai nấy đều thành đạo cả.

- Bạch Dương kỳ là kỳ chót trong việc thâu viên, có hàm nghĩa như mùa Xuân gieo giống, mùa Hạ sanh trưởng, mùa Thu thâu hoạch, mùa Đông tàng trữ trong một năm, và nay là thời kỳ mùa Thu lúc thâu hoạch, mong rằng cả thảy đều được phản bổn hoàn nguyên, do đó có thiết lập Thiên Phật Viện.

120

Tam Thiên Chủ Khảo giáng lâm, có bài thơ rằng :

Tam kỳ ứng vận hảo tu thân

Huyền diệu Hoàng trung Thánh khiếu chân

Thiên Đạo hiếu sanh kim tuyến giáng

Thiên tâm tỉnh hóa thế hoàn nhân

Chủ trì công lý Trung Hoa giáo

Thượng hạ liên kết chửng tục trần

Khảo thí nguyên vi tuyển Phật Thánh

Đế ân quyền phục ngộ Tiên căn.

Có lời nói rằng :

- Bắc-Cực Huyền-Thiên Thượng-Đế, buông dao đồ tể lập tức thành Phật, ngài là đầu Thần đuôi Phật, tương đương với quả vị là Sơ-Địa Bồ-Tát.

- Tu đạo là tu tâm, nhất tâm khai ngộ, vừa ngộ vừa hành, ngộ trong tích tắc, là tức thì trở về ngôi Phật.

Đêm nay do Bắc Cực Huyền Thiên Thượng Đế đặt ra câu hỏi, là những vấn đáp có liên quan tới việc tu chân trong Đại-Đạo tam dương, vấn đáp bắt đầu!

Huyền Thiên Thượng Đế hỏi rằng :

- Tam kỳ Bạch Dương pháp môn cớ sao nhờ có nhất chỉ pháp môn mà đắc trước?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Từ xưa tới nay, hễ là người được khai ngộ, biết tới Thiên là

121

biết tới Đại-Đạo, biết tới Địa là biết tới Lý, biết tới mình là biết tới Tính, Tính còn là người còn, Tính rời khỏi là người chết, Khiếu-tính là ở trong Huyền-trung của con người, đắc Nhất chỉ là biết tới diệu-khiếu trong con người.

- Còn về chuyện “Vô dục dĩ quan kỳ diệu, hữu dục dĩ quan kỳ khiếu”, diệu-khiếu chính là linh căn trong Thiên Địa, là nguồn gốc của tạo hóa, biết tới “Nhất” là tu nhất, hành nhất, liễu nhất, là đắc đạo.

- Tiên Phật trong tam giáo đều đắc đạo này rồi là thành đạo. Chuyện “Nhiên-Đăng thụ ký” của Phật, chuyện “Trụ hạ văn Lễ” của Khổng Tử, đều đồng lý này, lúc xưa là tu trước, sau cùng là đắc nhất chỉ này, hiện nay là đắc trước, rồi cũng phải tu về Lý này, chỉ không giống nhau về trước và sau mà thôi.

Huyền Thiên Thượng Đế hỏi rằng :

- Chúng sanh có phú quý bần tiện, và bị chuyện này chuyện kia, có liên quan tới vấn đề nhân quả chăng?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Do Bề Trên có công bằng, cho nên những cái nhân mọi người gieo ra và sau đó kết thành những cái quả không một chút sai lệch.

Huyền Thiên Thượng Đế hỏi rằng :

- Hôm trước trên báo có đăng rằng: Ở miền trung có người nuôi một con chó, theo người chủ đi ra ngoài, trong bụi cỏ táp được một cái bao giấy màu da bò, trong đó có tiền Đài-Loan ba chục ngàn đồng. Người chủ thấy có tiền rất mừng, bỏ vào túi riêng, cho là do Ông Trời ban cho, ra ngoài uống rượu thoải mái rồi say quá, chạy xe gắn máy về, trên đường về do say rượu bị

122

vấp ngã, kết quả bị hao tốn tiền thuốc men hơn năm mươi ngàn đồng, bực bội lên cho là những chuyện xui xẻo do con chó mang đến, về sau giết con chó rồi ăn luôn, như thế cũng là nhân quả chăng?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Đương nhiên những cái này là do hội ngộ của nhân quả, nếu nói tới nhân quả này là rất dài dòng, có nhân quả như thế này:

- Trong thời kỳ niên hiệu Hàm-Phong nhà Thanh, người chủ nuôi con chó tên là Huỳnh Thiên Trợ, ông ta buôn bán châu báu, có một lần đi ra ngoài, mang rất nhiều tiền bạc ở khách sạn qua đêm, ông ta ở lầm khách sạn này là chuyên giết người cướp của, là khách sạn lấy thịt người làm bánh bao.

- Con chó kia là ông chủ của khách sạn giết người có tên gọi là Hồ Hợp Chấn, khách sạn của ông ta mở ra có cho ăn và ngủ, nếu gặp được khách nào mang tiền tài nhiều thì ông ta dùng thuốc mê làm người ta bất tỉnh rồi giựt tiền của, sau đó giết luôn làm nhân thịt bánh bao bán cho khách ở trọ ăn, Huỳnh Thiên Trợ là một trong những người bị hại.

- Hồ Hợp Chấn tội nghiệt nặng nề, sau khi chết cứ bị chuyển sanh làm các loài súc sanh như trâu, bò, chó, heo cho tới bây giờ, trong kiếp này ông ta được chuyển sanh làm con chó, gặp được oán chủ kiếp trước, cho nên ông ta táp tiền về cho người chủ, ngược lại bị chủ nợ giết đi, và bị ăn luôn, như thế này đều là sự báo ứng của nhân quả.

- Còn về Huỳnh Thiên Trợ trong kiếp quá khứ được chuyển sanh trong kiếp này làm người chủ nuôi chó, ông ta trong kiếp

123

trước kia, khi buôn bán có nâng cao giá hàng một cách không hợp lý, cho nên trong kiếp này tuy rằng nhận được ba chục ngàn đồng, lại phải mất đi năm chục ngàn đồng, thật ra khoảng nhận được không đủ bù đắp khoảng mất đi, như thế này cũng là sự báo ứng của nhân quả.

- Kiếp trước giết người cướp của, trong kiếp này táp tiền về hoàn trả lại cho người bị giết, một trả báo hoàn một trả báo, một chút cũng không trốn tránh được.

- Cho nên người tu đạo phải nhận rõ về nhân quả, làm nhiều chút những việc có lợi cho người khác, không tham lam không lấy của người ta, giữ lấy thiên lý trong tâm, là được nhiều báo ứng tốt.

Huyền Thiên Thượng Đế hỏi rằng :

- Trong hoàn cảnh nào đắc đạo được?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Đạo là trong bản thân mình mà mọi người lại đi tìm ở nơi xa, có được trong những giao tế rất tầm thường, nếu không thể hướng về bên trong quan sát tự soi xét lấy, thì sẽ càng bị xa cách với đạo, chỉ có trong hoàn cảnh cuộc sống hàng ngày, làm tròn trách nhiệm trong cương vị của mình, thì tự nhiên hợp với ngũ-luân bát-đức, có thể đem cái mình đạt được đem đến cho người khác, cứ như thế không thay đổi, vĩnh cửu không thay đổi, cho tới được khớp với những thể hiện trong Thiên tính tự nhiên, tức là đắc đạo.

Huyền Thiên Thượng Đế hỏi rằng :

- Bảo thứ nhất là Huyền-Quan, có hàm nghĩa sơ lược như thế nào?

124

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- “Thập mục nhi thị, thập thủ sở chỉ”, thật nghiêm trang, nhãn thức bất loạn, là “Thần” về ngay giữa, tâm tư bất loạn, thì mắt được nhìn ngay, trong đó hữu đạo.

Huyền Thiên Thượng Đế hỏi rằng :

- Bảo thứ hai có hàm nghĩa sơ lược như thế nào?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Là Khẩu-quyết đấy, tuy có tên gọi là “Vô tự chân kinh”, đó là tu dưỡng của khẩu, khẩu thanh là có “nhân”, la mắng người ta tức là khẩu bất thanh, ăn đồ trượt là khẩu bất thanh, cái ăn cái nói đều chánh, thì trong đó hữu đạo.

Huyền Thiên Thượng Đế hỏi rằng :

- Bảo thứ ba có hàm nghĩa sơ lược là gì?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

- Là Tý-Hợi ấn, khi quyền quyền phục ưng là tỏ lòng thành, Tý-Hợi là trụ cột của Trời, hai tay nắm nhau thành quyền quyền hữu đạo, nếu tách hai tay ra là đánh người ta hoặc lấy những cái phi nghĩa, đều là hành vi rời xa đạo, chỉnh lại cho ngay, là hữu đạo.

- Bảo thứ nhất là mắt, bảo thứ hai bảo là miệng, bảo thứ ba là thân, người nào được thanh tịnh là có thể nhập đạo.

Huyền Thiên Thượng Đế hỏi rằng :

- Lúc nào là Long Hoa Hội?

Tam Thiên Chủ Khảo giải đáp rằng :

125

- Là lúc mạt hậu đại sự minh bạch đồng báo MẪU tình. Ta lui đây!

126

Hộ Pháp Chân Quân giáng lâm, có bài thơ rằng :

Ngọc chỉ hạ nam chiêm

Thiện thư hảo nghiên tiềm

Quần Tiên Gia Ngôn Lục

Cáo tất loan trang nghiêm.

Tức khắc Khâm Sai Đại Thần mang chiếu-chỉ đến đường, Thần nhân quỳ xuống nghênh đón! Ta lui.

Mã Thiên Quân đến, có thơ rằng :

Mã câu thôi động hạ thiên giai

Hộ Pháp Đường trung Thánh bút khai

Cáo tất thiện thư chửng mạt vận

Quần Tiên Gia Ngôn lợi Bồng-Lai.

Mở Ngọc-chiếu ra đọc: (Thần nhân nhất đồng quỳ xuống)

Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn Huyền Linh Cao Thượng Đế,chiếu viết :

Trẫm phụng ý chỉ :

Vô Cực chấp chưởng chức quyền tại Trung-Thiên, khai mở Loan-vụ, hỗ trợ Thiên-Đạo, trực tiếp cai quản Loan-đường là Hộ Pháp đường trong Tụ-Tinh-Cung, thỉnh chỉ trứ tác quyển sách “Quần Tiên Gia Ngôn Lục”, “Đạo Thuyền”, “Thiên-kiều”, “Thiên Đạo Chung Thanh”, tất cả đã làm xong, thế chính là sự may mắn cho người tu đạo Bạch Dương kỳ.

127

Sách này là cuốn sách hỗ trợ cho đạo bàn, nếu như có thể phát hành cho nhiều lên, công đức vô lượng, để phổ cập cho xã hội loài người được vào đạo, nhằm khích lệ tinh thần nên mỗi ấn tống một cuốn là được ba công lớn, cổ vũ việc ấn loát và luận theo công mà được ban thưởng, có thể triệt tiêu oan nghiệt, chính là một cơ hội lớn cho quần sanh tiêu nghiệt.

- Trẫm Long-tâm rất vui mừng, nay ban sắc lệnh thưởng cho những vị tham gia trứ tác “Đạo Thuyền”, “Thiên-kiều”, “Thiên Đạo Chung Thanh”, Tổng đường chủ, Phó tổng đường chủ, các vị đường chủ, tổng lý, mỗi vị được ban thưởng ba ngàn công lớn, những ai trong ban quản trị được ban thưởng hai ngàn công lớn, những ai đảm nhiệm việc đính chính được ban thưởng ba ngàn công lớn, các vị chánh-loan được ban thưởng ba ngàn công lớn, các vị đường sinh được ban thưởng một ngàn công lớn, mỗi lần góp sức được cộng thêm sáu công lớn, được cộng sổ theo sự ghi chép của Công-Quá Thần, khi cuốn sách này hoàn thành trình lên phục chỉ, được ghi vào sổ công quá ở Thiên đàng, và nay sắc phong “Dương”, “Lý”, “Thái”, “Huỳnh” là Hộ Pháp Chân Quân, là Dương Tam Chân Quân, Lý Tứ Chân Quân, Thái Thất Chân Quân, Huỳnh Bát Chân Quân, sau khi cuốn sách ra đời để phục chỉ, là tức thì được bổ nhiệm, đừng làm trái ý, nay ban chiếu, đừng chậm trễ, khâm thử.

- Thiên vận - Canh Thân nhật, Kỷ Mùi nguyệt, Quý Hợi niên, khấu đầu tạ ơn.

- Ta đây là bổn đường Quan Âm Phật Tổ giáng lâm, cho biết rằng: Hộ Pháp Chân Quân cùng chư Thần Thánh, hãy tiễn đưa Thiên Quân về Trời, thiện nam tín nữ nhất đồng hướng ngoài tiễn giá, cho nổ pháo ba tiếng, ta xin cáo lui.