quyền năng của sự cảm t chúa nag cu as… · nhƣng vô hiệu. cha anh không chịu...
TRANSCRIPT
Quyền Năng Của Sự Cảm Tạ Chúa
Tác giả: Merlin R.Carothers
CHƢƠNG MỘT : Quyền năng của tâm hồn biết ca ngợi
CHƢƠNG HAI : Một tin vui
CHƢƠNG BA : Một quyền năng vô giới hạn
CHƢƠNG BỐN : Hãy xem đó nhƣ là một nguồn vui trọn vẹn
CHƢƠNG NĂM : Khi chim sẻ rơi xuống đất
CHƢƠNG SÁU : Hết than vãn
CHƢƠNG BẢY : Niềm vui nơi Chúa
QUYỀN NĂNG CỦA TÂM HỒN BIẾT CA NGỢI
Jim có ngƣời cha uống rƣợu từ 30 năm nay. trong suốt những năm đó, mẹ của Jim
và sau này chính anh cùng với vợ anh ta đã cầu xin Chúa chữa lành cha mình,
nhƣng vô hiệu. Cha anh không chịu thú nhận mình say rƣợu chè, và vùng vẫy khi
nghe nói đến tôn giáo.
Một hôm Jim nghe nói về năng lực phóng thích khi chúng ta ca ngơi Chúa trƣớc
mỗi biến cố trong cuộc sống của mỗi chúng ta, thay vì năn nỉ xin Chúa thay đổi
những gì khó chịu cho mình.
Jim mang về nhà bản ghi âm cuộc họp và cho các bạn nghe lại. Rồi một ngày kia
nẩy ra một ý kiến: chƣa bao giờ anh thử ca ngợi Chúa vì hoàn cảnh cha anh đang
sống. Vui mừng quá anh chia xẻ với vợ anh.
Em à, chúng ta hãy ca ngợi Chúa cho ngƣời cha say rƣợu của chúng ta, vì đó cũng
ở trong chƣơng trình tuyệt diệu của Chúa đã hoạch định cho cuộc sống của cha.
Và ngày hôm đó, cả hai vợ chồng cảm tạ và ca ngợi Chúa về tất cả mọi mặt của
hoàn cảnh. Chiều đến cả hai cảm thấy một niềm vui và hy vọng mới.
Ngày hôm sau, Cha mẹ của Jim đến thăm các con nhƣ thƣờng lệ mỗi trƣa chủ nhật.
Thƣờng ngày cha của Jim không thích ở lâu và xong bữa là ra về. Nhƣng lần này,
trong khi uống cà phê, ông đột nhiên hỏi:
Con nghĩ sao về cái gọi là “Cách mạng của Jêsus”?
Quay về phía Jim ông tiếp:
Hôm qua trên truyền hình đã chiếu vài đoạn. Có phải đó là mốt mới không? Hay
thật sự những đứa trẻ hút ma túy đã đƣợc chinh phục và đƣợc đổi lòng?
Câu hỏi đó là khởi điểm cho cuộc tranh luận dài và chân thật về Cơ Đốc Giáo và
Cha mẹ Jim ở lại đến chiều.
Sau vài tuần, cha Jim chấp nhận là ông không uống rƣợu. Ông đã trở về với Chúa
Jêsus và ngừng hẳn rƣợu, cùng với gia đình, ông kể cho tất cả mọi ngƣời xung
quanh nghe về những điều Chúa có thể làm khi chúng ta biết ca ngợi. Jim nói với
tôi:
Thế mà chúng ta đã cầu xin Chúa trong 30 năm, xin ngài thay đổi cha chúng tôi,
trong khi chúng tôi ca ngợi Chúa vì hoàn cảnh của cha tôi trong vòng một ngày mà
đã thu hoạch biết bao nhiêu.
Chúng ta dễ dàng nói một cách máy móc: “Vinh danh Chúa” và “Tạ ơn Chúa” nên
chúng ta cũng dễ quên ý nghĩa thật của mỗi chữ đó.
Ca ngợi, theo tự điển có nghĩa là ca tụng một ngƣời nào đó, đề cao họ làm cho họ
vẻ vang, tuyên bố công trạng và hoan hô ngƣời đó. Vậy ca tụng là góp phần mình
để tán đồng về một điều nào đó. Tán đồng nghĩa là chấp nhận, là thỏa thuận về
điều đó. Vậy ca tụng Chúa trƣớc một hoàn cảnh khó khăn, một bệnh tật hay một tai
họa, có ý nghĩa là chúng ta chấp nhận, chúng ta đồng ý coi những trƣờng hợp đó
nhƣ ở trong chƣơng trình Chúa định cho mỗi cuộc sống của chúng ta.
Chúng ta không thể thực sự ca ngợi Chúa về một điểm nào mà không đồng thời
cảm tạ Chúa về điểm đó. Và chúng ta không thể thực sự cảm tạ mà không vui
sƣớng về điều mà chúng ta cảm tạ Chúa. Vậy ca ngợi đòi hỏi sự biết ơn và niềm
hoan lạc.
Khi chúng ta ca ngợi Chúa, chứ không phải ca ngợi một thần vô danh của định
mệnh có nghĩa là chúng ta chấp nhận rằng Chúa có trách nhiệm cho việc xảy đến
cho chúng ta, nếu không thì cảm tạ ngài nào có ý nghĩa gì.
“Hãy vui mừng mãi mãi, cầu nguyện không thôi, phàm việc gì cũng phải tạ ơn
Chúa; vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ đổi với anh em
là nhƣ vậy” (ITe1Tx 5:16-18).
Tôi biết nhiều ngƣời có thể ca ngợi Chúa vì tất cả những gì xảy đến cho họ, chỉ vì
họ chấp nhận cách đối nhân xử thế trong Kinh Thánh. Khi ca ngợi, họ thƣờng nhận
ra ngay kết quả của một thái độ cƣơng quyết tạ ơn và hoan hỉ. Đức tin của họ mạnh
hơn và họ bắt đầu sống một nếp sống mới.
Có ngƣời thì khó thuyết phục hơn. Họ nói: Tôi không thể hiểu đƣợc. Tôi cố gắng tạ
ơn Chúa, nhƣng tôi không thể hiểu đƣợc là Chúa đã nhúng tay trong những tai
ƣơng đến với tôi”.
Chúng ta nói chúng ta không thể hiểu đƣợc rồi chúng ta ngừng ở đó. Cách lý luận
của chúng ta làm cản trở sự tiếp xúc với Chúa. Nhƣng Chúa cũng có một chƣơng
trình tuyệt diệu cho khả năng lý luận của chúng ta, và khi chúng ta sử dụng khả
năng này theo nhƣ Chúa muốn, thì nó không còn là một cản trở mà là một điểm tựa
qúy báu cho đức tin.
“Vì Đức Chúa Trời là vua của cả trái đất, Hãy hát ngợi khen cách thông hiểu” (Thi
Tv 47:7)
Chúng ta không phải cắn răng rồi bắt ép trí tuệ chúng ta nói: “Điều này vô nghĩa
đối với tôi, nhƣng vì nó là lối thoát duy nhất, tôi sẽ ca ngợi Chúa với bất cứ giá
nào”
Nhƣ vậy không ca ngợi mà là mặc cả. Ai trong chúng ta cũng đã mặc cả với Chúa
và một điều tuyệt diệu là Chúa quá yêu chúng ta nên không chiều lòng chúng ta.
Chúng ta phải ca ngợi Chúa với tất cả trí thông minh của chúng ta chứ không phải
chỉ miễn cƣỡng mà thôi.
Chúng ta bắt đầu gặp khó khăn khi đặt câu hỏi: “Tại sao?” và “Làm thế nào đƣợc?”
Trƣớc những biến cố xảy đến cho cuộc sống mình. Chúng ta sẽ không hiểu lý do
cũng nhƣ không hiểu đƣợc cách của Chúa, nhƣng Chúa muốn lý trí của chúng ta
chấp nhận rằng Chúa là tác giả của các sự việc đó. Đây là nền tảng của sự ca ngợi.
Chúa muốn chúng ta hiểu rằng Chúa yêu chúng ta và có một kế hoạch cho chúng
ta.
“Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho những kẻ yêu mến Đức Chúa
Trời, tức là cho kẻ đƣợc gọi theo ý muốn Ngài đã định” (RoRm 8:28)
Bạn đang ở trong một hoàn cảnh khó khăn ƣ?
Bạn đang nặng óc để giải thích vì sao có điều đó. hãy cố gắng tìm hiểu rằng Chúa
thƣơng bạn, và Ngài cho phép những điều đó xảy ra vì Ngài biết nó có ích cho bạn.
Hãy ca ngợi Chúa vì những gì xảy ra trong đời bạn: Hãy cố làm điều đó và để cho
trí tuệ của bạn có phần trong đó.
Một hôm, một cặp vợ chống nghe tôi nói về sự ca ngợi Chúa trong mọi sự, họ trở
về nhà, lòng trí bối rối. Trong suốt mấy tháng họ đã khóc than vì đứa con gái của
họ phải vào bệnh viện tâm thần vì họ đã nghe tuyên bố bệnh thần kinh của con họ
vô phƣơng cứu chữa.
Nhiều nhóm đã cầu nguyện xin Chúa đoái thƣơng, và cha mẹ cô gái đó đã mỗi
ngày xin Chúa chữa con cho mình. Nhƣng bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Họ bị
thách thức khi phải ca ngợi Chúa vì bệnh tình con gái họ: điều này làm cho họ đau
lòng và ngỡ ngàng.
Bà mẹ phản ứng: “Thật là phạm thƣợng” Cảm tạ Chúa vì một điều bỉ ổi nhƣ vậy!
Phải chăng là kết án Chúa cố tình làm hại con mình! Điều này khác xa với những
điều tôi nghĩ về Đức Chúa Trời yêu thƣơng”
Và ngƣời cha cũng họa thêm:
Không, điều này không có vẻ hợp lý. Nhƣng giả sử giảng viên có lý.
Ngƣời vợ ngơ ngác nhìn chồng:
Tôi không hiểu đƣợc.
Dù sao đi nữa, chúng ta đâu có mất mát gì nếu chúng ta thử. Vậy chúng ta hãy thử
xem.
Và cả hai ngƣời quỳ xuống. Ngƣời chồng bắt đầu:
“Lạy Chúa chúng con biết rằng Chúa yêu thƣơng chúng con và Chúa yêu đứa con
này hơn cả chúng con yêu nó. Chúng con đặt niềm tin vào Chúa, và chúng con tin
rằng điều Cha cho phép xảy ra cho nó là điều tốt nhất. Chúng con cảm tạ Chúa vì
bệnh tình của nó, cảm ơn Chúa vì nay con gái của chúng con đang ở bệnh viện;
cảm ơn Chúa vì các bác sĩ đã chƣa tìm đƣợc cách trị bệnh. Chúng con ca ngợi
Chúa vì sự khôn ngoan và tình yêu Chúa đối với chúng con…”.
Trong khi cầu nguyện họ xác tín rằng điều đã xảy ra đó là điều tốt đẹp nhất cho họ.
Sáng hôm nay họ đƣợc cú điện thoại của bác sĩ bệnh viện tâm thần:
Thƣa ông, có một việc lạ lùng vừa xảy ra cho con gái ông. Mời ông đến chứng
kiến.
Chƣa đầy hai tuần sau, cô gái ra khỏi bệnh viện. Một năm sau, một thanh niên đến
gặp tôi trong một buổi nhóm, tự giới thiệu là anh của cô gái anh cho hay rằng cô đã
lập gia đình và đang mang thai, cô hiện nay là nguời phụ nữ hạnh phúc nhất đời…
Một bà mẹ đến xin tôi cầu nguyện cho con gái bà, là một vũ nữ trong một hộp
đêm. Tôi trả lời rằng tôi rất vui mừng và tạ ơn Chúa vì con bà đang sống nhƣ vậy.
Bà nhìn tôi kinh ngạc:
Thƣa ông, ông đừng nói rằng tôi phải cảm tạ Chúa, vì đứa con gái đã quên hết
thuần phong mỹ tục và chỉ còn biết nhạo báng tôn giáo. Phải cảm tạ ma quỷ thì có,
chứ không nên cảm tạ Đức Chúa Trời yêu thƣơng.
Ngƣời mẹ này bị đặt trƣớc một sự lựa chọn cam go. Suốt cả đời, bà chỉ biết cảm ơn
Chúa vì những điều tốt lành, còn bao nhiêu điều dữ bà cho là do ma quỷ đặt ra.
Chúng tôi cũng tìm lại trong Kinh Thánh những đoạn nói rằng Chúa có thể biến
mọi sự hiệp lại làm ích lợi cho ai tin cậy và yêu Chúa, và những đoạn nói rằng
chúng ta phải biết cảm ơn Chúa, dù gặp cảnh gian nan nào đi nữa. Tôi nói với bà:
Bà vẫn có thể nghỉ rằng con bà đang ở dƣới quyền kiểm soát của ma quỉ, nhƣng vì
bà thiếu tin vào uy quyền vô tận của Đức Chúa Trời, nên Ngài cũng khó thực hiện
kế hoạch tuyệt hảo của Ngài trên con bà.
Nhƣng trái lại bà cũng có thể tin rằng chính Chúa đang hoạt động và bà nên cảm tạ
Chúa về mọi sự. Nhờ vậy và để cho uy quyền của Chúa có dịp can thiệp và hoạt
động trong cuộc sống con gái bà.
Cuối cùng bà mẹ đau khổ thƣa tiếp:
Tôi không hiểu đƣợc, nhƣng tôi muốn tin rằng Chúa biết rõ điều Chúa làm và tôi
sẽ cám ơn Ngài.
Sau một lúc cầu nguyện chung, bà ra về với một sự bình an mới trong lòng. Bà thú
nhận với một nét mặt hân hoan:
Lần đầu tiên tôi không lo lắng cho con gái của tôi.
Về sau, bà kể cho tôi nghe điều gì đã xảy ra.
Ngay trong đêm chúng tôi cầu nguyện chung, thì con gái bà nhƣ thƣờng lệ vẫn
đang khiêu vũ hầu nhƣ khỏa thân trên cái bục nhỏ, có một chàng thanh niên bƣớc
vào vũ trƣờng. Anh lại gần cô, nhìn thẳng vào mặt cô và nói:
Chúa Jêsus yêu cô!
Cô gái này quên nghe đủ mọi thứ ngôn ngữ của đàn ông, nhƣng cô chƣa bao giờ
nghe một câu nhƣ vậy. Cô bƣớc xuống sân khấu và lại ngồi gần chàng trai, cô hỏi:
Tại sao anh lại nói vậy:
Anh ta thuật lại là đang khi đi ngoài đƣờng, anh đƣợc thúc giục đi vào nơi này để
nói cho cô vũ nữ biết rằng Chúa Jêsus muốn tặng cô ân huệ nhƣng không của cuộc
sống vĩnh cửu.
Nhƣ bị sét đánh ngang tai, cô ấy nhìn anh ta. và rƣng rƣng nƣớc mắt cô bình tĩnh
nói:
Tôi muốn đƣợc sự sống ấy!
Và ngay tại bàn ăn của họ đêm ấy, cô đã tiếp nhận sự sống.
Ca ngợi Chúa không phải là liều thuốc, một thần dƣợc để sử dụng luôn luôn hiệu
nghiệm hoặc là một phép lạ, là một cách thế sống đặt nền tảng vững chắc trên lời
Chúa.
Chúng ta ca ngợi Chúa vì hoàn cảnh đang có, chứ không phải ca ngợi Chúa khi
thấy kết quả.
Khi nào chúng ta chỉ ca ngợi Chúa với hy vọng, chúng ta tự lừa dối mình, và chúng
ta có thể chắc chắn rằng mình không đƣợc đổi mới cũng nhƣ hoàn cảnh không đổi
mới.
Nền tảng của sự ca ngợi là chấp nhận toàn diện hiện tại cách vui vẻ, coi nhƣ hiện
tại ở trong chƣơng trình, ý định hoàn hảo của Đức Chúa Trời yêu thƣơng. Ca ngợi
không căn cứ trên điều chúng ta suy nghĩ hay hy vọng sẽ xảy đến trong tƣơng lai.
Đó là một định luật cụ thể của ca ngợi.
Chúng ta ca ngợi Chúa, không phải vì chúng ta hy vọng sẽ xảy đến cho chúng ta và
chung quanh chúng ta, nhƣng vì Chúa là Chúa ở chỗ chúng ta đang đứng.
Một điều chắc chắn rằng khi chúng ta thật tình ca ngợi, thì sẽ có một chuyển biến
xảy ra. Uy quyền của Chúa xuất hiện trong hoàn cảnh chúng ta đang sống, và
chúng ta sẽ nhận ra, không chóng thì chầy, có một sự thay đổi trong ta và nơi
ngƣời khác. Sự thay đổi đó tạo nên niềm vui và hạnh phúc ngay chính giữa hoàn
cảnh bế tắc, hoặc là chính hoàn cảnh cũng sẽ đổi thay. Và sự thay đổi đó luôn luôn
sẽ là, hậu quả của sự ca ngợi, chứ không phải là lý do để ca ngợi. Ca ngợi không
phải là mặc cả. Chúng ta không nói: “Lạy Chúa, con ca ngợi Chúa, sau đó Chúa
chúc phƣớc cho con nhé!”
Ca ngợi Chúa là tìm hạnh phúc của chúng ta nơi Chúa nhƣ tác giả Thi Thiên đã
viết:
“Cũng hãy khoái lạc ở Đức Giêhôva, thì Ngài sẽ ban cho chúng ta điều mà lòng
mình ao ƣớc” (Thi Tv 37:4).
Hãy chú ý đến thứ tự trong câu này, chúng ta bắt đầu lập danh sách tất cả các ƣớc
muốn của chúng ta rồi mới tìm cách vui trong Chúa với mục đích đƣợc toại
nguyện. Nhƣng chúng ta bắt đầu tìm khoái lạc nơi một mình Chúa mà thôi, và một
khi chúng ta đã đƣợc sung mãn và hoan hỉ trong Chúa, chúng ta sẽ dần dần khám
phá rằng tất cả chỉ là thứ yếu. Nhƣng Chúa vẫn muốn ban cho chúng ta những gì
lòng ta ao ƣớc. Đó là tất cả ý định của Ngài và kế hoạch của Ngài trên chúng ta.
Mong sao chúng ta chỉ luôn tìm niềm vui trong Chúa, trƣớc hết và mọi nơi, mọi
lúc.
Một gia đình tín hữu có hai đƣa con. Một đứa là sự hãnh diện và niềm vui của gia
đình, nó sống trong nhà, chia xẻ đức tin sống động và nồng nhiệt của cha mẹ nó.
Một hôm trong bữa cơm tối, họ tâm sự với tôi rằng đức con trai đầu đã bất mãn và
bỏ nhà ra đi. Nó học hành rất giỏi, để phản đối cha mẹ và xã hội, nó trở thành hippi
chạy rong lang thang khắp xứ, hầu nhƣ không mục đích, không lý tƣởng. Cha mẹ
nó không biết phải làm sao, xin tôi giúp ý kiến. Tôi trả lời rằng ông bà phải tin
rằng Chúa đã ban cho một đức con nhƣ vậy, và Chúa đáp lời khẩn của ông bà để
đứa con đƣợc cứu rỗi, nếu ông bà chân thành cầu khẩn, ông bà nên chắc chắn rằng
cuộc sống của cháu đang sống hiện nay ở trong chƣơng trình Chúa đã hoạch định
cho cháu và ông bà.
Ông bố trả lời:
Tôi hiều lầm chứ, chúng tôi muốn điều thiện cho con tôi, và Chúa cũng chỉ muốn
điều tốt lành cho mỗi nguời chúng ta.
Sau khi ăn, chúng tôi cầu nguyện cảm tạ Chúa đã thực hiện chƣơng trình của Chúa
theo ý Ngài. Lúc đứng dậy hai bậc cha mẹ cảm thấy nhẹ nhõm và bình an hơn.
Cách ít lâu họ viết cho tôi.
Từ ngày chúng tôi gặp nhau, họ vẫn tiếp tục kiên trì ca ngợi Chúa vì cuộc sống của
họ, mặc dù họ không hiểu nổi. Nhƣng một ngày kia, đứa con trai đầu lòng đó bị tai
nạn xe hơi và bị thƣơng nặng ở chân, vì bị què quặt nên nó quyết định trở về nhà,
nó tuyên bố với cha mẹ là nó còn rất nhiều hóa đơn chƣa trả. Cha mẹ nó cầu
nguyện và kết luận rằng nếu Chúa hoạt đông trong cuộc sống con ông bà thì Chúa
cũng thấy trƣớc hóa đơn phải thanh toán đó. Hai ông bà cám ơn Chúa cho mỗi hóa
đơn và lần hồi trả hết.
Ngƣời con thấy vậy ngã ngữa! Anh ta nghĩ rằng thế nào cũng bị khiển trách và cha
mẹ sẽ từ chối trả thay cho anh. Nhƣng mọi sự lại trái ngƣợc: cha mẹ anh rất thoải
mái và âu yếm anh, ông bà có vẻ chấp nhận cách anh ăn mặc chải tóc mà không
phê bình chỉ trích.
Một tối nọ, có một nhóm nhỏ đến thăm ngƣời em. Anh cả tỏ vẻ bực bội, nhƣng vì
đau chân nên phải ngồi nhà.
Đám thanh niên này hăng hái nói lên rằng Đức Chúa Trời đã hoạt động thế nào
trên đời sống họ. Lúc đầu anh ngạo nghễ phê bình quan niệm này ngây thơ và
không thực tế của đám trẻ trƣớc cuộc sống, nhƣng ần dần anh lắng tai nghe họ và
đặt câu hỏi. Trƣớc khi trời tối, ngƣời anh đã dâng trọn cuộc đời cho Chúa Jêsus.
Trong một bức thƣ tràn đầy niềm vui, cha mẹ anh đã kể cho tôi nghe sự thay đổi
toàn diện của đứa con: anh đã nhất quyết bƣớc theo Chúa Jêsus và phục vụ Ngài,
anh say sƣa đọc Kinh Thánh và ngày hôm sau anh nhận lãnh báptêm bằng Thánh
Linh nhƣ các môn đồ đã nhận lãnh trong ngày lễ Ngũ Tuần đầu tiên, sau khi Chúa
Jêsus đã chết và phục sinh. Sau đó ít lâu, anh gặp một thiếu nữ tín hữu và hai tuần
kế đó anh đã đính hôn với cô ta.
Bao nhiêu tháng cầu nguyện trong lo âu và vất vả đã không mang lại thay đổi nào
nơi chàng trai này, nhƣng khi cha mẹ anh đã trở lại với Chúa, chấp nhận hiện trạng
của con mình, thì Chúa đã can thiệp và đã thực hiện dự án tuyệt diệu của Ngài trên
mỗi con ngƣời.
Chúa thật có một chƣơng trình tuyệt diệu trên đời sống bạn và tôi.
Nếu cứ xét về cảnh sống của mình, chúng ta càng thấy hoàn cảnh bi đát và khó gỡ.
Càng cầu nguyện, càng xin Chúa giúp mình chừng nào, thì những khó khăn đã
không thay đổi mà lại càng tăng thêm chừng ấy. Cuộc sống chỉ thay đổi khi chúng
ta ca ngợi Chúa vì hoàn cảnh đó thay vì xin Chúa cất hoàn cảnh đó đi.
Một thiếu phụ viết thƣ cho tôi nói rằng cô ta xuống tinh thần quá mức. Cô đã gặp
nhiều khó khăn và quên hết tự trọng, cô bắt đầu ăn mặc lôi thôi lếch thếch.
“Tôi đã tìm trong việc ăn uống một sự bù trừ và tôi lên cân đến nỗi giống nhƣ cái
thùng tônô. Chồng tôi đi tìm bạn bè khác, và một ngày kia bỏ nhà ra đi, làm đơn
xin ly dị.
Các hóa đơn dồn dập kéo đến, thiếu phụ này sống căng thẳng và lại càng suy nghĩ
đến việc tự tử.
Trong suốt thời gian này tôi không ngừng cầu nguyện, đọc Kinh Thánh, đi nhà thờ,
xin bạn bè cầu nguyện cho tôi. Các bạn trong nhóm thông công của tôi khuyên
nhủ: “Hãy vững đức tin đừng nản lòng, ngày mai sẽ khá hơn”. Nhƣng tình hình
càng ngày càng trầm trọng. Một hôm có một ngƣời bạn cho tôi một quyển sách
“Từ ngục tù đến ca ngợi”. Tôi đọc qua nhƣng không thể tin rằng những điều trong
đó đều đáng tin. Một ngƣời biết suy nghĩ thì không thể nào lại đi cám ơn Chúa khi
gặp tai họa, nhƣng càng đọc quyển sách ấy tôi càng khóc.
Dần dần tôi thấy những điều ghi chép trong ấy đều đúng. Những đoạn văn trích
trong Kinh Thánh đều nói là phải cảm tạ Chúa, tôi đọc đi đọc lại Kinh Thánh mà
không bao giờ hiểu cả.
Cô đã nhất định bắt đầu cảm ơn Chúa. Nghĩ cho cùng cô có mất mát gì đâu. Cô đã
mập đến nỗi cô biết rằng bệnh đau tim có thể phát ra bất cứ lúc nào. Với một niềm
hy vọng yếu ớt, cô quì xuống cầu nguyện:
“Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì cuộc sống của con hôm nay, Chúa đã để cho hoàn
cảnh đƣa đẩy con đến đây. Nếu không phải vì một lợi ích lớn nhất cho con chắc
Chúa đã không để mọi sự xảy ra nhƣ vậy. lạy Chúa, Chúa yêu con thật sự, con biết
rằng Chúa yêu con”.
Trong khi cô đang đọc Kinh Thánh thì có tiếng chó sủa ông phát thƣ. Mỗi khi có
khách đến, chó sủa inh ỏi, đó là một trong những nguyên nhân làm cô ta bực mình.
Cô đứng lên mắng chó nhƣ thƣờng lệ, nhƣng sực nhớ rằng mình nên tạ ơn Chúa
trong mọi sự. Vậy, lạy Chúa, con tạ ơn Ngài vì con chó của con sủa không ngừng .
Ông phát thƣ trao cho một lá thƣ: Cô nhận đƣợc tuồng chữ. Thật không thể tƣởng
tƣợng đƣợc. Đã mấy tháng nay chồng cô không viết thƣ cho cô. Chúa có thể trả lời
mau nhƣ vậy đƣợc chăng! Tay run lẩu bẩy cô bóc thƣ và đọc: “Nếu em muốn,
chúng ta có thể tìm đƣợc một giải pháp cho các nan đề của chúng ta”.
Chúa thật đã canh giờ một cách tuyệt diệu. Ngƣời phụ nữ này đã ý thức rằng tất cả
có thể đổi thành sự ích lợi. Cô xuống bớt cân, ngƣời cô gọn lại và các bạn khen cô:
“Lúc này trông chị khá lắm! Có chuyện gì vui vậy, chị khác hẳn lúc trƣớc”.
Cô còn giống nhƣ trƣớc không. Cô vẫn là ngƣời đó, nhƣng hiện nay đang sống
trong vũ trụ của đức tin, cô biết rằng mỗi chi tiết của cuộc sống cô đều có lợi ích
cho cô cả. Chồng cô đã trở về gia đình và họ sống hòa thuận. Cô viết cho tôi: “có
những buổi sáng tôi thức dậy và thấy mình đang thƣa với Chúa” “Lạy Chúa, con
cảm ơn Chúa cho ngày tốt đẹp này, con yêu Chúa”.
Sự thay đổi đã bắt đầu trong cuôïc sống khi cô chấp nhận với lòng tri ân về tất cả
những hoàn cảnh mà cô đã gặp. Nơi đấy đã đƣợc minh họa bởi thực tế nguyên tắc
thiêng liêng là Chúa có một kế hoạch tiêu diệt trên cuộc sống chúng ta nhƣng Ngài
chỉ có thể tiến hành các dự định của Ngài nếu chúng ta vui vẻ chấp nhận hoàn cảnh
hiện tại của chúng ta xem nhƣ nó đang nằm trong kế hoạch đó, rồi việc gì xảy ra
nữa? Đó là việc của Ngài chứ không phải việc của chúng ta.
Có những ngƣời không chấp nhận những nguyên tắc đó. Thấy có sự chuyển biến
trong cuộc đời của những ngƣời bắt đầu cảm tạ Chúa về mọi sự, thì họ cho rằng
cũng dễ hiểu thôi: họ chủ trƣơng rằng: Một thay đổi thái độ là nguyên nhân của
một thay đổi hoàn cảnh. Đó là tâm lý thô sơ nhất. Khi bạn không còn than vãn nữa,
bạn cảm thấy dễ chịu hơn, bạn vui cƣời và ngƣời xung quanh đối xử với bạn khác
với lúc trƣớc. Tất cả cuộc sống của bạn biến chuyển theo chiều tích cực. Tôi đồng
ý với câu: “Hãy cƣời lên và ngƣời ta sẽ cƣời với bạn; cứ khóc đi và bạn sẽ khóc
một mình”. Câu đó đúng đến một mức độ nào đó.
Ca ngơi Chúa đi xa hơn là thái độ thay đổi. Quyền năng của sự ca ngợi Chúa
không chỉ tệ hại trong những câu ngợi khen của chúng ta, cũng không chỉ tệ hại
trong những thái độ tri ân hay vui mừng của chúng ta. Tất cả quyền năng mà chúng
ta chứng kiến xuất phát từ Đức Chúa Trời. Phải luôn luôn nhớ rằng chúng ta dễ rơi
vào cạm bẫy để tin rằng nhờ đã đọc vài câu Kinh Thánh mà chúng ta có thể chế
ngự trong hoàn cảnh.
Khi chúng ta thật tình chấp nhận hoàn cảnh chúng ta đang phải sống, và khi chúng
ta chân thành cảm tạ trong sự xác tín rằng những điều đó là Chúa cho phép xảy tới,
thì sẽ có một sức mạnh thần tƣợng đến biến đổi các biến cố đó khác hẳn với cách
diễn tiến bình thƣờng và tự nhiên của chúng.
Lúc tôi còn làm tuyên úy ở Jort Benning bên Georgie, một anh lính trẻ và nguời vợ
đến gặp tôi, xin tôi giúp đỡ. Vợ anh trƣớc kia nghiện ma túy và hiện nay đang còn
chịu hậu quả của việc hút sách này. Các bác sĩ đã chuyên trị nhƣng không hiệu quả
mấy. Trƣớc kia cô ta xinh đẹp bao nhiêu, thì nay nét mặt bị dày vò bởi sự sợ hãi và
đau thƣơng bấy nhiêu.
Cô nói: “Tôi không ngủ đƣợc, mỗi khi nhắm mắt tôi toàn nhìn thấy những con thú
dữ khủng khiếp xuất hiện và nhảy chồm lên tôi”.
Chồng tôi cắt nghĩa cho tôi rằng vợ anh cứ la hét thất thanh mỗi khi vừa chợp mắt
sau khi đã mệt đừ.
“Tôi cố gắng đánh thức vợ tôi dây, nhƣng phải đến mƣời phút nhà tôi mới tỉnh và
trong suốt lúc đó cứ la hét khiếp đảm làm cho tôi cũng tuyệt vọng luôn”.
Tôi nghe hết câu chuyện bị đát và kết luận:
- Tôi chỉ có một điều khuyên anh chị, chúng ta cùng quì xuống và cảm tạ Chúa vì
hoàn cảnh anh chị đang sống.
Hai vợ chồng nhìn tôi bàng hoàng, nghĩ rằng chắc tôi không muốn nói điều đó. Tôi
cắt nghĩa cho họ một cách tỉ mỉ điều tôi đã hiểu rõ : Chúa muốn chúng ta ca ngợi
Ngài trong tất cả mọi sự.
- Tất cả những gì xảy ra đƣa đẩy anh chị có ngày hôm nay, tôi chắc rằng Chúa yêu
thƣơng anh chị, và Ngài sẽ làm một việc lạ lùng cho anh chị, bây giờ Ngài muốn
anh chị cám ơn Ngài về tất cả những biến cố đã đƣa anh chị đến với Ngài.
Tôi giở Kinh Thánh và cho họ xem những đoạn tôi đã gạch sẵn. Cả hai đều chấp
nhận, quì xuống và cảm tạ Chúa về tất cả những gì xảy đến cho họ, đặc biệt những
hậu quả của ma túy. Tôi cảm thấy sự hiện diện của Chúa trong căn phòng. Tôi nói
với họ:
- Chúa Thánh Linh hiện diện nơi đây và sẽ chữa lành cho chị.
Tôi đặt tay lên đầu chị và cầu nguyện:
- Lạy Chúa, con cảm tạ Ngài đang chữa lành ngay cho chị này lúc này.
Chị ấy ngạc nhiên mở mắt nhìn tôi:
- Thƣa ông, có chuyện lạ vừa xảy ra: lần đầu tiên tôi nhắm mắt đƣợc và tôi không
thấy gì.
- Chúa đã chữa lành cho chị, bây giờ Ngài muốn trở thành Đấng cứu độ cho chị.
Chị có muốn không?
Hai vợ chồng quỳ gối ngay và họ mời Chúa bƣớc vào cuộc sống của họ. Họ rời
văn phòng tôi lòng đầy hoan hỉ vui mừng.
Thiếu phụ này hoàn toàn khỏi bệnh. Cô không còn bị những hình ảnh quái gở ám
ảnh. Quyền năng của Đức Chúa Trời đã bẻ gãy uy lực của ma túy.
Các ngƣời có thẩm quyền trong giới y khoa đều công nhận họ bất lực không trục
xuất đƣợc các chất độc do ma túy để lại trong cơ thể. Nhƣng họ đã chứng kiến
những trƣờng hợp lành bệnh sau 10 năm, 20 năm và cả 30 năm hút ma túy. Điều
này đã xảy ra vì có một sự can thiệp linh thiêng của Đức Chúa Trời.
Không ai có thể tự mình thay đổi chỉ vì tự cho mình có một thái độ mới hoặc có
một quyết tâm cao. Đó chính là do sức mạnh của Thiên Chúa hoạt động trong cuộc
sống chúng ta.
Những lời cầu nguyện chân thành đã giải phóng và để cho uy quyền của Đức Chúa
Trời hoạt động trong đời sống chúng ta. Và lời tạ ơn hữu hiệu hơn mọi hình thức
khác cầu xin khác. Kinh Thánh cho chúng ta thấy nhiều ví dụ chứng minh điều
này.
Trong Thi Tv 22:3 “Còn Chúa là Thánh, Ngài là Đấng ngự giữa sự ngợi khen của
Ysơraên”. Vậy Chúa ở nơi đây và uy quyền của Ngài hoạt động khi chúng ta ca
ngợi Ngài. Ngài lƣu lại, Ngài ở giữa ngay lời ca ngợi của chúng ta.
Trong IISu 2Sb 20:1-37 chúng ta có một ví dụ nổi bật về những điều Chúa có thể
làm khi chúng ta ca ngợi Ngài.
Giôsaphát là vua xứ Giuđa, một ngày kia ông khám phá ra rằng vƣơng quốc bé nhỏ
của ông đang bị các thù địch liên minh bao vây: Đó là con cháu Môáp, con cháu
Ammôn. Biết rằng mình không có hy vọng nào thắng trận cả Giôsaphát cầu khẩn
cùng Chúa:
“Vì nơi chúng tôi chẳng có sức lực gì đối địch cùng đám quân đông đảo này đƣơng
đến hãm đánh chúng tôi, và chúng tôi cũng không biết điều gì mình phải làm,
nhƣng con mắt của chúng tôi ngữa trông Chúa” (20:12).
Khi chúng ta ngợi Chúa, điều tiên quyết là không nhìn vào tình hình và ngoại cảnh
mà chỉ chăm chú nhìn Chúa.
Hãy để ý riêng Giôsaphát không nhắm mắt trƣớc các nguy cơ bao vây Vƣơng
Quốc ông nhƣ thế là không có kẻ thù nào ngay bên cạnh, trái lại, ông thấy rõ tình
thế, nhận định đƣợc sự bất lực của mình và hƣớng về Chúa xin cứu giúp.
Chúng ta không thể cố ý làm ngơ trƣớc sự dữ đang tấn công xung quanh chúng ta,
và chúng ta phải đánh giá cho đúng. Điều này khiến chúng ta gia tăng lời ca ngợi
Chúa, cảm tạ Ngài can thiệp và hoàn toàn làm chủ sự dữ. Chúng ta không đƣợc để
cho nguy cơ đang rình mình trong bóng tối đánh bại chúng ta, nhƣng hãy nhìn
thẳng vào nó, đo lƣờng sự bất lực của chúng ta, và quay mặt về phía Chúa, Chúa
nói với Giôsaphát: “Chớ sợ, chớ kinh hãi bởi đám quân đông đảo này, vì trận giặc
chẳng phải bởi các ngƣơi đâu bèn là của Đức Chúa Trời” (20:15).
Đối với tôi, đây là lời tuyên bố kỳ diệu, chúng ta có khả năng kiềm chế hoàn cảnh
sống của chúng ta, vì thế cuộc tranh chiến này không phải là của chúng ta mà là
của Chúa: “Trong trận này các ngƣơi chẳng cần gì tranh chiến hãy dàn xa đứng
yên lặng mà xem có thấy sự giãi cứu của Đức Giêhôva ở cùng các ngƣơi. Hỡi
Giuđa và Giêrusalem, chớ sợ, chớ kinh hãi: ngày mai hãy đi ra đón chúng nó, vì
Đức Giêhôva ở cùng các ngƣơi”, (20:17).
Thật là một lời hứa lạ lùng! Nhƣng Chúa muốn Giôsaphát đứng ở tƣ thế nào trong
khi chờ đợi và quan sát Chúa hành động.
Sáng hôm sau, Giôsaphát ra lệnh cho quân đội ông. Ông sắp đặt các ca sĩ thay
phiên ca tụng Chúa, họ tiến bƣớc trƣớc quân đội hát vang lên “Hãy ngợi khen Đức
Giêhôva vì sự thƣơng xót Ngài hằng có đời đời” (20:21).
Giôsaphát dàn cảnh nhƣ thế đó, đối diện với đạo binh đối phƣơng sẵn sàng xông ra
trận để thanh toán quân địch khi thấy đám ca sĩ tiến về phía họ để giao chiến
không?
Tôi là tuyên úy đã chứng kiến nhiều lần ra trận, nhƣng tôi chƣa bao giờ thấy một
ông tƣớng ngồi yên chờ địch , trong khi sai một nhóm ca sĩ tấn công xông lên
chiến trƣờng.
Đó hẳn là một ý kiến kỳ quặc phải không? và trong một hoàn cảnh tƣơng tự, lý trí
của chúng ta phải đầu hàng có ngƣời sẽ nói: “Khi gặp đƣờng cùng thì cũng nên ca
ngợi Chúa vậy”. Nhƣng chúng ta cũng đừng lố bịch. Châm ngôn có câu: “Phải tự
giúp mình thì trời mới giúp cho”. Điều tối thiểu là phải chiến đấu trƣớc đã, phải
anh hùng chiến đấu rồi Chúa sẽ hoàn tất công việc.
Nhƣng còn Giôsaphát và đạo quân của ông thì sao?
“Đƣơng lúc chúng ta ca hát và ngơi khen, thì Đức Giêhôva đặt phục binh xông vào
Ammôn và dân Moáp dấy lên đánh dân ở núi Sêriơ, đặng diệt chúng đi; khi đã diệt
dân ở Sierơ rồi, thì chúng lại trở giết lẫn nhau”: (20:22-23).
Một điều hiển nhiên là nếu Giôsaphát đã nói: Mình phải cầu may, và nếu ông ra
lệnh tiến quân thì chắc chắn kết quả sẽ khác.
Nhiều ngƣời trong chúng ta dễ bị biến cố đánh bại vì họ không chịu để Chúa chiến
đấu và chỉ dùng sức họ mà thôi. Cả khi thấy mình bất lực trƣớc địch thù, chúng ta
còn sợ không dám trao tất cả cho Chúa, sợ dựa vào quyền uy của Ngài. Chúng ta
để cho lý trí mình cho ấn một chỗ rộng khi chúng ta tuyên bố: “Tôi không hiểu
đƣợc, vậy tôi không tin”.
Về điểm này, lời Chúa rất rõ ràng, chúng ta chỉ có thể giải quyết đƣợc vấn đề này
trong đức tin; nhận ra rằng lời Chúa hứa là đúng, chấp nhận chúng và dám tin rằng
lời lời ấy sẽ đƣa chúng ta đến sự hiểu biết đúng. Nguyên tắc mà Kinh Thánh đã
nhiều lần chứng minh: phải chấp nhận và vâng lời trƣớc khi hiểu biết tại sao.
Lý do cũng dễ hiểu thôi. Tầm hiểu biết của chúng ta hạn hẹp làm sao hiểu thấu
suốt đƣợc kế hoạch cao vời của Chúa dành cho mỗi thọ tạo của Ngài. Và nếu
chúng ta chỉ hiểu rồi chấp nhận thì chúng ta chẳng nhận đƣợc bao nhiêu.
Giôsaphát sẽ không bao giờ dám ra trận theo kiểu của Chúa nếu ông đã có ý muốn
hiểu rõ. Việc Chúa đề nghị và hứa hẹn quả không mấy hợp lý. Nhƣng ông đã tin và
ông phó thác cho Chúa. Lý trí của ông hạ mình, ông đã tin và trao phó tất cả cho
Chúa.
Giôsuê cũng là một vị lãnh đạo đã nhận chỉ thị của Chúa, ông đƣợc lệnh ra trận
theo cách Chúa chỉ cho ông giao chiến, chắc khác hẳn với những điều ông quan sát
suy nghĩ và sắp đặt, và có thể là một số đông ngƣời có mặt tại đấy đã nhạo cƣời
ông.
Chúng ta đều biết căn nguyên câu chuyện nhƣ sau: Giôsuê đã giao chiến với thành
Giêricô và thành lũy này đã sụp đổ.
Thành Giêricô là một pháo đài cổ thành lũy kiên cố bao quanh và dân Do Thái, sau
40 năm du hành trong sa mạc chắc đã không còn đủ sức lực và vũ khí để tấn công
thành này. Nhƣng ông Giôsuê đã tin vào Chúa khi Ngài hứa sẽ trao thành này vào
tay Ysơraên.
Chúa nói với Giôsuê đi quanh thành Giêricô trong sáu ngày, đến ngày thứ bảy họ
phải thổi kèn và ca hát, thì vách thành sẽ sập xuống, rồi dân sự sẽ leo lên, mỗi
ngƣời ngay trƣớc mặt mình” (Gios Gs 6:5).
Ông Giôsuê tin vào Chúa, nhƣng chúng tôi tự hỏi nếu bạn hoặc tôi là một quân lính
của ông, chúng ta sẽ nghĩ gì?
Có lẽ chúng ta đã phản đối và từ chối tuân theo một mệnh lệnh điên cuồng và phi
lý nhƣ vậy. Tôi tự hỏi dân thành Giêricô sẽ nghĩ gì khi đứng bên kia thành kiên cố
nhìn thấy dân Ysơraên rƣớc hòm giao ƣớc đi quanh thành của họ.
Trong một thời gian rất lâu, tôi vẫn nghĩ rằng câu chuyện ông Giôsuê và cuộc
chiến ở Giêricô không có thật. Nhƣng khi các nhà khảo cổ đã tìm thấy tàn tích của
một cổ thành và có nhiều dấu vết chứng minh rằng đá tƣờng quả thật có sụp đổ vào
một thời kỳ lịch sử ăn khớp với thời đại mà Kinh Thánh đã ghi chép.
Chúa ra tay uy quyền trong khi ngƣời Do Thái chứng minh đức tin và lòng trông
cậy của họ. Tƣờng thành Giêricô đã thật sự sụp đổ.
Câu chuyện của Giôsaphát và của Giôsuê chứng minh một cách hiển nhiên là Chúa
thắng trận nhờ những phƣơng tiện và dựa trên những nguyên tắc hầu nhƣ bất hợp
lý và ngƣợc hẳn với sự khôn ngoan và chiến lƣợc của chúng ta.
Chúng ta đƣợc kêu mời tin lời Chúa phán, ca ngợi Ngài và sau đó nhìn Ngài hành
động. Đó chính là điều Jêsus Christ đã làm trong suốt cuộc đời Ngài, Ngài đã nói
rõ ràng tự Ngài, Ngài không làm nên sự gì. Phần của Ngài là làm theo ý Cha Ngài
trong sự đầu phục, vững lòng cậy trông và tin yêu để cho quyền năng của Đức
Chúa Trời đáp ứng nguyện vọng của con ngƣời.
Chúng ta hãy đặt lại lời cầu nguyện của Chúa Jêsus trƣớc hoàn cảnh khó khăn:
Năm ngàn ngƣời đã theo Chúa nghe Ngài giảng dạy. Họ đói lã. Chỉ có một cậu bé
đã mang theo đồ ăn năm cái bánh và hai con cá.
Chúa Jêsus đã cầu nguyện nhƣ thế nào? Ngài có xin Đức Chúa Trời một phép lạ
không? Không
Đức Chúa Jêsus lấy năm cái bánh và hai con cá, ngƣớc mắt lên trời tạ ơn, rồi bẻ ra
mà trao cho môn đồ đặng phát cho đoàn dân; lại cũng chia hai con cá cho họ nữa.
Ai nấy no nê rồi, ngƣời ta lƣợm đƣợc mƣơi hai giỏ đầy những miếng bánh và cá
còn thừa lại (Mac Mc 6:41-43).
Có ngƣời trong chúng ta phản đối: Chúa Jêsus làm điều đó vì Chúa biết điều Chúa
làm, còn chúng ta thì khác.
Nhƣng Chúa Jêsus đã nói với các môn đồ của Ngài: “Quả thật, quả thật. Ta nói
cùng các ngƣơi, kẻ nào tin ta, cũng sẽ làm việc Ta làm lại cũng làm việc lớn hơn
nữa, vì Ta đi về cùng Cha. Các ngƣơi nhân danh Ta mà cầu xin điều chi mặc dầu,
Ta sẽ làm cho để Cha đƣợc sáng danh nơi Con” (GiGa 14:12-13).
Chúa Jêsus đã tuyên bố rằng chúng ta sẽ làm những điều lớn lao hơn nữa, thế có
phải là Chúa có một kế hoạch cho nạn đói của thế giới, giải quyết vấn đề thiếu
lƣơng thực mà các chuyên viên về môi trƣờng sống và các chuyên gia nông sản đã
nghiêm nghị tuyên báo sao?
Tôi nghĩ rằng có thể có. Tôi biết có những trƣờng hợp có những ngƣời đã đơn sơ
tin lời Chúa, họ đã cảm tạ Chúa ngợi khen Ngài trƣớc một chút lƣơng thực và họ
đã có thể cung cấp đủ cho một số ngƣời lớn hơn trù định.
Khi Chúa Jêsus đứng trƣớc mộ của Laxarơ, Ngài đã nói lời tạ ơn. Khi ngƣời ta mở
cửa huyệt mã đã chôn cất Laxarơ đƣợc 4 ngày rồi. Chúa Jêsus ngƣớc mắt lên trời
nói: “Thƣa Cha, con tạ ơn Cha vì đã nhậm lời con” (11:41).
Rồi Ngài ra lệnh cho Laxarơ hãy bƣớc ra khỏi mộ. Ngay khi ấy, Laxarơ đã chết 4
ngày rồi bƣớc ra khỏi mộ.
Kinh Thánh chép rằng Chúa Jesus đến thế gian để dạy chúng ta ca ngợi Chúa. Êsai,
vị tiên tri đã loan báo sự giáng sinh của Chúa Jesus : “Đặng giảng Tin Lành cho kẻ
khiêm nhƣờng ... đặng rịt những kẻ tan vỡ tấm lòng, đặng rao bán cho kẻ bị nô lệ
xiềng xích đƣợc tự do ... đặng yên ủi mọi kẻ buồn rầu, ban mão hoa cho kẻ than
khóc ở Siôn thay vì tro bụi, ban đầu vui mừng thay vì tang chế, ban áo ngợi khen
thay vì lòng năng nề” (EsIs 61:1-3).
Bạn có thấy tên mình trên danh sách đó không? lòng bạn có bị tan nát không? Bạn
có bị tê liệt, bệnh hoạn trong thân thể hay trong tâm linh không? Bạn có bị một
điều gì đó giam hãm bạn, nó khiến bạn nô lệ nó không, bạn có phải là nạn nhân của
một sự mù quáng không? Có phải bạn đang khóc lóc? Và không thể vui lên đƣợc
để tạ ơn hay ca ngợi Chúa? Tâm linh bạn có đang ủ dột nặng nề không?
Có lẽ bạn chƣa hiểu rõ Tin Mừng Chúa Jesus mang đến cho bạn đó.
Khi Chúa vén màn cho chúng ta thấy rõ điều Chúa đã làm và đang còn làm cho
chúng ta và cho ngƣời chung quanh ta, qua trung gian Chúa Jesus và trong Thánh
Linh. Chúng ta chỉ có thể ca ngợi Chúa mà thôi. Nhƣng nếu chúng ta nghi ngờ việc
Chúa làm thì chúng ta khó lòng mà ca ngợi Chúa.
Chúng ta sẽ luôn gặp cản trở khi ca ngợi Chúa nếu chúng ta nghi ngờ Tin Mừng
Chúa Jesus mang đến. Đừng nghi ngờ và đừng lƣỡng lự thì mới có thể hết lòng ca
ngợi Chúa trong mọi hoàn cảnh đƣợc.
MỘT TIN VUI
Nếu tôi tặng bạn một đồng, chắc bạn sẽ không mấy phấn khởi, bạn sẽ tự hỏi không
biết vì sao tôi lại tặng bạn một đồng này, và có thể bạn phát cƣời lên.
Nếu tôi lại tặng cho bạn một đồng nữa và nói: “Làm quà cho bạn đây”, chắc bạn
còn ngạc nhiên hơn. Và nếu tôi cứ tiếp tục đƣa từng đồng cho đến khi bạn đƣợc 20
đồng thì bạn càng khoái, nhƣng bạn vẫn chƣa hiểu tôi đang muốn làm trò gì.
Nhƣng nếu thay vì cho một đồng, tôi biếu bạn một ngân phiếu 1.000 đồng tôi chắc
bạn sẽ vui sƣớng ngay. Và nếu tôi tiếp tục đƣa thêm cho bạn 100.000 đồng, bạn sẽ
nhìn tôi ngây ngất: “Sao mình gặp may quá vậy!”. Bạn sẽ nhảy nhót vui mừng và
bạn sẽ muốn chạy đi kể lại những gì vừa xảy ra cho bạn. Thật là một tin vui! Và
còn sống ngày nào chắc bạn còn muốn kể lại câu chuyện ấy.
“Anh còn nhớ câu chuyện lạ lùng 100.000 đồng trên trời rơi xuống ngày hôm qua
đó mà !”.
Và Chúa đã gởi cho chúng ta biết bao nhiêu quà. Mỗi ngƣời vẫn có thể xin Chúa
hay không xin. Chúng ta có lẽ đã nhận nhiều món quà giá một đồng, nhƣng mấy ai
hí hửng trƣớc món quà một đồng? Vì vậy chúng ta cũng đâu sung sƣớng đến nổi
phải khóc lên hay phải cảm tạ Chúa đã rộng tay ban phát ơn lành? Lỗi tại ai? Có
phải lỗi ở Chúa không? Chắc chắn là không. Vũ trụ chúng ta sống chỉ phát hành
một đồng thôi.
Nhiều Cơ đốc nhân thuộc hạng có suy nghĩ vẫn coi cuộc sống ở cõi vĩnh cữu nhƣ
món quà chỉ đáng giá một đồng. Họ nghĩ rằng chỉ cần sống một cuộc đời đạo đức
cho đúng món quà đó thôi và họ cố gắng cho đúng mức nên họ mệt mỏi đến nổi họ
cần nghĩ có cần là một Cơ đốc Nhân không.
Vì vậy chúng ta không ngạc nhiên khi thấy họ đâu có hớn hở đi báo tin vui cho
ngƣời khác. Đối với họ đời sống Cơ đốc nhân là đi lễ ngày chủ nhật, từ khƣớc mọi
khoái lạc của trần gian và hơn thế nữa là sau tuần lễ lao tác khó nhọc lại phải góp
tiền dâng.
Nếu đó là “Sự cứu rỗi” thì quả nhiên tôi không lạ gì khi thấy tối nào bạn cũng xem
tivi và không bao giờ bạn muốn chạy sang bên cạnh hay mời khách lạ qua đƣờng
đứng lại nghe nói về tình yêu của Chúa cả. Bạn chỉ hiểu rằng món quà Chúa ban
cho chỉ đáng giá 1 đồng bạc, vậy đâu cần có thêm. Những thứ hàng rẻ tiền, không
có cũng chẳng sao. Nhƣng nếu món quà 1.000 đồng, bạn sẽ sẵn sàng đi lãnh một
món quà khác tƣơng tự nhƣ thế nữa. Và bạn sẽ chỉ dẫn cho những ngƣời khác đi
lãnh món quà của họ.
Ai cũng thích những món quà 1.000 đồng (dollar). Ngƣời ta tiêu bạc triệu mỗi năm
với hy vọng chỉ cần đặt ít mà lại đƣợc lợi nhiều. Và Chúa không chỉ tìm những
ngƣời có hạnh kiểm tốt để thƣởng đâu? Đức Chúa Jêsus đã trả tất cả những món
quà mà Chúa muốn ban cho chúng ta rồi.
Chúa phán: “Ta sẽ hủy phá sự khôn ngoan của ngƣời khôn ngoan, tiêu trừ sự thạo
biết của ngƣời thạo biết” (ICo1Cr 1:19). Đƣợc sự tha thứ các tội khiên, đƣợc sống
đời đời không giống nhƣ những điều chúng ta thƣờng gặp thấy hằng ngày. Sao
chúng ta lại nghĩ rằng mình chỉ nhận những gì mình đóng góp hay mình có thể
mua đƣợc? Chúa há không thể cho chúng ta một ân thƣởng nào sao? Điều này thật
khó nghĩ đến nỗi chúng ta phải tự bào chữa, mình chỉ có thể lãnh đƣợc nếu mình
có điểm này hay điểm khác.
Thánh Phaolô viết: “Vả, ấy là nhờ Ngài mà anh em ở trong Đức Chúa Jêsus Christ
là Đấng mà Đức Chúa Trời đã làm nên sự khôn ngoan, sự công bình và sự nên
Thánh và sự cứu chuộc cho chúng ta” (ICo1Cr 1:30).
Nghe tin vui đó vấn đề của bạn có thể chấp nhận đƣợc rằng Chúa Jêsus có thẩm
quyền và quyền năng ban cho chúng ta sự sống đời đời hay không, mặc dầu chúng
ta bất xứng. Và nếu ta nghĩ rằng Ngài không có quyền năng và không có thẩm
quyền vậy thì bạn phải tự làm một cái gì đó để dàn xếp với Đức Chúa Trời. Suốt
đời sẽ cố vƣơn lên cho xứng đáng với những đòi hỏi của Chúa. Nhƣng lời Chúa
quả quyết rằng cho dù bạn cố gắng tối đa, bạn sẽ không bao giờ sống đƣợc nhƣ
Chúa muốn bạn sống đâu. và càng chứng minh mình đúng, bạn càng kết án Chúa
về tội nói dối.
“Nhờ Ngài chúng ta nhận lãnh ân điển và chức nhiệm sứ đồ, để vì danh Ngài mà
dẫn ngƣời ta trong muôn dân đến sự vâng phục của Đức tin” (RoRm 1:5).
Phaolô đã đút túi vài ngân phiếu giá bạc ngàn và ông rất vui sƣớng nếu ông muốn
tuyên bố cho mọi ngƣời nghe.
“Vì trong Tin Lành này đã bày tỏ sự công bình của Đức Chúa Trời do đức tin đến
đức tin, nhƣ có chép rằng: Ngƣời công bình sẽ sống bởi đức tin” (1:17).
Phaolô quả quyết rằng Chúa chuẩn bị và cho chúng ta khả năng để nên công bình.
Nếu Chúa ra tay làm, chắc hẳn việc Chúa làm là tốt đẹp. Ai còn có thể làm khá hơn
nữa đâu? Bạn có sẵn sàng đối diện với Chúa cuối cuộc đời mình chăng? Bạn đã để
Chúa tạo hình bạn theo ý muốn Ngài chƣa?
Mặc dù bạn cố gắng một cách phi thƣờng đi nữa, bạn không thể tự mình làm cho
mình nên “tốt” đƣợc đâu. “Vì chẳng có một ngƣời nào nhờ công việc luật pháp mà
đƣợc xƣng công bình trƣớc mặt Đức Chúa Trời, vì do luật pháp mà ngƣời ta biết
tội” (3:29). Bạn càng biết điều thiện, bạn càng thấy mình xấu xa. Chỉ có một tâm
trí tự phụ mới dám nhận là lòng mình nhân hậu. Chúa Jêsus là quyền năng duy
nhất trên trần gian này mới có thể giải thoát tội lỗi và ích kỷ. Chính sự hiện diện
của Ngài mới biến đổi bạn thành con ngƣời hoàn hảo.
“Đã vậy thì sự khoe khoang ở đâu? Đã bị loại ra rồi. Bởi luật pháp nào? Luật pháp
của công việc chăng? Không phải, bèn là bởi luật pháp của đức tin. Vậy nên, chúng
ta kể rằng ngƣời đƣợc xƣng công bình đức tin chứ không phải bởi việc làm theo
luật pháp” (3:27-28).
Thánh Phaolô nhận xét điều này không có gì là mới cả, đâu phải vì làm việc thiện
mà Ápraham đƣợc Chúa chấp nhận, nhƣng vì đức tin của ông. So với tiêu chuẩn
luân lý thời đó Aùpraham chƣa phải là ngƣời “tốt”. Khi ông sống đời sống du mục,
tạm trú ở xứ ngƣời, ông biết rằng ngƣời ta có thể tƣớc đoạt tài sản, gia súc và ngay
cả ngƣời vợ đẹp của ông nữa. Và để có thể tránh đƣợc hiểm họa đó, ông tính toán,
bàn định với Sara, vợ ông, coi nàng là em gái mình. Ông nghĩ rằng nếu làm thế ông
không những thoát khỏi nguy hiểm mà còn đƣợc lợi. Việc xảy ra đúng nhƣ vậy.
Vua Abimelét thấy Sara và đòi cƣới. Bà đƣợc đƣa tới cung vua, và Ápraham đƣợc
lãnh nhiều quà tặng. Aùpraham đã làm gì ? có phải ông đang tìm cách cứu nguy
cho ngƣời vợ của ông không? Không, ông đã cầu may, và Chúa đã phải can thiệp
vào vụ này và vạch rõ cho vua Abimêlét thấy Ápraham đã lừa nhà vua.
Bạn có sẵn sàng nhận Ápraham làm một thành viên trong chi hội của bạn không?
Hãy suy nghĩ rồi trả lời.
Thật ra Chúa đã chọn Ápraham không phải vì ông đã là ngƣời tốt, nhƣng vì ông đã
tin vào Chúa. Đức tin của Ápraham đã đƣợc Chúa chấp nhận thay cho các việc
lành ông làm. Đối với chúng ta, Ápraham không phải tốt, nhƣng đối với Chúa,
Ápraham tốt lành vì ông đã tin.
Bạn có thể nghĩ trong lòng bạn khá hơn Aùpraham hay khá hơn ai đó mà bạn quen,
nhƣng đối với Chúa, chúng ta chỉ là một tội nhân mà thôi. đâu có phải vì tỷ lệ bách
phân của “điều thiện” hay “điều ác” mà chúng ta đƣợc cứu rỗi hay làm lợi cho
nƣớc trời. Ápraham không trả “vé” vào nƣớc trời bằng những việc thiện của ông.
Phaolô viết :” Còn kẻ chẳng làm việc chi hết, nhƣng tin Đấng xƣng ngƣời có tội là
công bình, thì đức tin kẻ ấy là công bình cho mình” (4:5)
Chúng ta đã trở lên tốt lành trƣớc mặt Chúa. Nếu bạn thực sự tin điều đó, bạn lại
không muốn nhảy mừng hay sao ? Bạn lại không tuyên bố rằng trở thành Cơ Đốc
Nhân dễ lắm sao ? Bạn có bao giờ nghĩ rằng có hàng triệu ngƣời đang tƣởng rằng
mình phải ráng lắm mới trở lên Cơ Đốc Nhân đƣợc. Và nếu biết rằng dù cố gắng
hết sức mà cũng không bao giờ đạt hạnh kiểm tốt, thì tƣơng lai sẽ đen tối và buồn
bã biết bao ! Chính những ngƣời đó cần đƣợc nghe tin mừng.
Đức Chúa Trời cho chúng ta miễn phí ơn cứu rỗi. Phaolô viết :”Nhƣng bởi ơn thì
chẳng phải bởi việc làm nữa, nếu vậy việc làm thì ơn không phải là ơn” (11:6) Tin
vui nhƣ thế lẽ ra phải đƣợc lan truyền khắp chốn, nhƣng lạ thay nhiều Cơ Đốc
Nhân lại cứng miệng khi phải rao truyền tin đó.
Đã có lần bạn đã chỉ dùm cho ngƣời khác trạm xe búyt hay tiệm bánh mỳ gần nhất.
Lúc đó bạn đâu có sợ tái mặt hay lo sợ hồi hộp, nhƣng tại sao bạn lại sợ sệt khi
phải nói cho một ngƣời lạ nghe về những gì Chúa Jesu có thể làm cho ngƣời đó.
Chúa muốn chúng ta kể lại Tin Vui cho anh em. Chính chúa Jesu đã dặn dò các
môn đồ của Ngài phải đi kể lại cho đến tận cùng quả đất những gì Chúa đã làm cho
chúng ta. Bạn hãy nghĩ xem, có ai muốn giữ kín điều đó không ?
Phải có một kẻ thù đang rảo quanh chúng ta, và thủ đoạn của nó là gây sự sợ hãi,
gây hoang mang khi phải chia sẽ của những ngƣời lãnh quà. Những nếu chúng ta
chắc chắn rằng Chúa đã làm việc lạ, nếu chúng ta biết rõ mình đã đƣợc lãnh nhiều
ngân phiếu trị giá bạc ngàn thì chúng ta sẽ tràn ngập niềm vui và đi kể cho mọi
ngƣời nghe.
Có một số ngƣời vẫn còn lo lắng, khi đƣợc Chúa tha thứ và Ngài ban cho cuộc
sống vĩnh cửu, thì cần phải thêm đức tính nào nữa không. Hãy lời sứ đồ Phaolô
:”Vậy phƣớc đó há chỉ chú cho kẻ chịu cắt bì mà thôi, hay là cũng chúc cho kẻ
không chịu cắt bì nữa? Vì chúng ta nói rằng đức tin của Áprarham đƣợc công
nghĩa cho mọi ngƣời” (4:9). Và Phaolô kết luận gọn gàng : Ápraham không theo
luật Do Thái vì lý do là lúc đó chƣa có luật.
“Vì chẳng phải do luật pháp mà có lời hứa cho Ápraham và dòng dõi ngƣời rằng,
ngƣời sẽ thừa thọ thế gian, bèn là sự công bình đức tin” (4:13).
Đối với chúng ta cũng vậy, Chúa hứa hẹn một phần gia sản không phải để thƣởng
cho việc ăn ở tốt lành của chúng ta, nhƣng để đáp lại lòng tin của chúng ta. Bạn có
thể không đồng ý với cách làm việc của Chúa, nhƣng đó là lời giải đáp cho nan đề
của bạn.
Ngƣời Do Thái nhất định không chịu chấp nhận rằng họ là kẻ có tội. Nhiều Cơ Đốc
Nhân cũng không hiểu đƣợc câu Chúa trả lời cho ngƣời Do Thái. Chúa quả quyết
rằng luật của Ngài tinh truyền hơn điều họ tƣởng tƣợng.Ví dụ họ cho rằng họ
không phạm tội ngoại tình, nhƣng Chúa Jêsus giải thích nếu một ngƣời đàn ông đã
cƣới vợ mà còn thèm muốn ngƣời đàn bà khác thì đã phạm tội ngoại tình. Chúa
Jêsus còn nói thêm thà rằng bị mù mắt còn hơn duy trì dịp phạm tội. Ngài biết rõ tƣ
tƣởng lòng ngƣời. Nếu ai quyết tâm không phạm tội. Ngài biết rõ tƣ tƣởng lòng
ngƣời. Nếu ai đã quyết tâm không phạm tội thì đã khám phá trong thâm tâm mình
có một con ngƣời thứ hai đang muốn phạm tội, và chúng ta cứ quanh quẩn đấu
tranh với chính mình.
Đức Chúa Jêsus muốn dạy bảo chúng ta điều gì? Ngài có dạy chúng ta phải cố
gắng thêm nữa để chu toàn luật pháp chăng? Chắc chắn là không Ngài chỉ muốn
cho chúng ta thấy chúng ta cần đến Ngài. Mỗi một lời phán, mỗi một sự dạy dỗ của
Ngài chứng minh rằng chúng ta cần một Đấng Cứu Thế. Tin vào Chúa Jêsus là
phƣơng thế duy nhất để thực hiện luật pháp, thánh Phaolô đã tuyên bố nhƣ vậy.
Bạn có thể hành xác bạn, bắt nó phải phục tùng luật này, luật nọ. Nhƣ vậy bạn đã
làm đƣợc việc gì? hãy coi chƣa làm việc gì cả. Chúa Jêsus đã cắt nghĩa rõ ràng nếu
bạn chỉ phạm một luật thì cũng giống nhƣ bạn đã vi phạm tất cả luật rồi.
Chúa Jêsus không tìm cách làm cho bạn nản lòng, nhƣng Ngài không muốn khích
lệ bạn đó, Ngài đã nói rằng chính Ngài sẽ giúp bạn giải quyết vấn đề.
“Vì Đấng Christ là sự cuối cùng của luật pháp, đặng xƣng mọi kẻ tin là công bình”
(10:4)
Khi Chúa Jêsus bƣớc vào cuộc sống bạn, xác thịt của bạn vẫn còn nhƣng ƣớc muốn
bất chính không còn nữa, có một sự khác biệt lớn: “Vậy nếu ai ở trong Đấng Christ
thì nấy dựng nên mới, những sự cũ qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới” (8:10).
Trong thâm tâm bạn có một hữu thể thiêng liêng hoàn toàn mới, vì Chúa Jêsus từ
nay cƣ ngụ trong bạn qua thân vị Thánh linh. Một ngày nào đó thân thể của bạn sẽ
chết, bạn sẽ sống mãi mãi với Chúa Jêsus.
Tôi có dịp nói chuyện với cả ngàn ngƣời đi nhà thờ, và tôi hỏi họ: “Theo ý bạn,
bạn phải làm gì để đƣợc lên thiên đàng?” “Tôi đã hỏi nhiều ngƣời Mỹ, toàn là
những ngƣời học Kinh Thánh và 90% đã khai ra những điều phải làm: Tuân theo
điều răn, đi nhóm đều đặn, dâng hiến tiền bạc, đừng làm gì hại ngƣời khác... một
danh sách vô tận về những điều họ phải làm.
Những ngƣời thƣờng hay lui tới nhà thờ đã nghe hay và tin thất thiệt này “Sự cứu
rỗi của chúng ta tùy thuộc vào những điều chúng ta làm”. Thế thì có lạ gì nếu tin
mừng đƣợc ít ngƣời đón tiếp? Ai lại muốn đi nhà thờ để lãnh đƣợc một đồng bạc,
và lại nếu chỉ có thể thì loan tin đó làm gì?
Bạn có cảm nghĩ rằng ân huệ của Chúa chỉ đáng một đồng nữa thôi? Bạn có còn
nghĩ rằng để đón nhận ơn lành của Chúa chỉ cần đức tin công thêm cái gì nữa
không?
Nếu bạn quả quyết rằng những phƣớc lành của Đức Chúa Trời chỉ dành riêng cho
những ngƣời xứng đáng thì bạn coi thƣờng lời hứa của Chúa và đức tin đâu còn ý
nghĩa ?
“Vì nếu nhờ luật pháp mà hƣớng nghiệp, thì đức tin hóa ra vô ích, lời hứa cũng bỏ
rồi, vì luật pháp gây ra sự phẫn nộ, nhƣng đâu không có luật pháp, đó cũng không
có sự phạm luật” (4:14-15).
Nhƣ vậy có phải Chúa không thỏa lòng khi chúng ta cố làm theo điều tốt và giữ
luật pháp của Ngài chăng? Chắc chắn là không, nhƣng Ngài thấu rõ lý do khiến
chúng ta giữ luật lệ Ngài, nếu vì chúng ta sợ bị phạt, thì cố gắng của chúng ta
không có giá trị gì.
Nếu chúng ta cố gắng vâng lời để đƣợc chúc phƣớc thì cũng uổng công. Nhƣ vậy
cố gắng để làm gì? Thà cứ ở xấu xa vì thế nào cũng đƣợc sự cứu rỗi. Nói nhƣ vậy
là phi lý. Lý do duy nhất khiến chúng ta làm điều thiện là chúng ta muốn làm đẹp
lòng Chúa. nếu chúng ta hiểu rõ sự tuyệt diệu của món quà Chúa ban thì chúng ta
sẽ lấy hết lòng thành của mình mà đáp lại tình yêu của Ngài.
Nhƣng nếu bạn cứ nhất quyết nghĩ rằng phải làm điều tốt thì mới xứng đáng đƣợc
Chúa chúc phƣớc, thì bạn sẽ không bao giờ học cách yêu Chúa và thƣởng thức
những món quà của Chúa cả.
Bây giờ Chúa chỉ chúng ta một lối khác để lên trời không phải một lối sống trơn
tru với một hạnh kiểm tốt, nhƣng là một lối đi mới mẻ (tuy không mới mẻ lắm vì
Kinh Thánh đã nói đến vấn đề này từ lâu rồi). Chúa Jêsus khẳng định rằng Ngài
chấp nhận chúng ta và đã tha thứ cho chúng ta, chúng ta không còn là một tội nhân
nữa nếu chúng ta trao mình cho Chúa Jêsus để Ngài tẩy rửa tội lỗi chúng ta, dù tội
chúng ta nặng đến mức nào đi nữa, thì Ngài vẫn cứu vớt chúng ta (3:21-22). Điều
kiện là giao mình cho Chúa Jêsus. Còn nghĩ rằng mình xứng đáng hay đâu có tồi tệ
là làm trái ngƣợc lại.
Đấng Christ đã làm gì cho chúng ta?
“Đức Chúa Jêsus là Đấng đƣợc Đức Chúa Trời sử dụng làm của lễ chuộc tội, bởi
đức tin, tin vào huyết của Đấng ấy thì Ngài bỏ qua các tội phạm trƣớc kia và kể là
công bình (3:25).
Hai yếu tố này cần thiết, không thể thiếu một đƣợc. Đấng Christ hoàn tất phần của
Ngài, nhƣng điều đó không đi đến đâu nếu chúng ta không tin. Nếu chúng ta lúng
túng trong những “điều phải làm”, chúng ta sẽ không bao giờ đƣợc tự do để tin.
“ Ngài đã bị nộp (tuyên án) vì tội lỗi chúng ta, và sống lại vì sự công bình của
chúng ta” (4:25). “Hầu cho nhƣ tội lỗi đã nhơn sự chết mà làm vua thế nào, thì ơn
điển cũng phải nhơn sự công bình mà làm vua thể ấy, để dẫn đến sự sống đời đời
bởi Jêsus Christ, Chúa chúng ta” (5:21).
Một điều rõ ràng là chúng ta cần chọn giữa sự nhơn hậu của Chúa và sự phán xét
công bằng của. Một bên là quà tặng của đời sống vĩnh cữu, một bên là sự chết.
Tôi còn nhớ đến một cô nữ y tá quân đội, trẻ đẹp, hành nghề tại một bệnh viện
quân y nơi tôi làm tuyên úy. Lúc đầu mới đến thì cô tràn đầy sức sống và hy vọng,
nhƣng dần dần nụ cƣời tắt hẳn trên môi cô. Cô không thể chịu đƣợc cảnh tƣợng
những quân nhân trẻ tuổi bị trọng thƣơng mà ngƣời ta khiêng từ chiến trƣờng về.
Cô thƣờng đến văn phòng tôi tâm sự. Một hôm cô hỏi:
Làm sao có thể nghĩ rằng Chúa thƣơng con ngƣời khi thấy bao đau khổ nhƣ vậy?
Cô nên giãi bày cho Chúa tất cả những lo âu của cô về các bệnh nhân và tin rằng
Chúa lo cho họ. Chúa yêu thƣơng những ngƣời lính đó còn hơn cô và tôi có thể
thƣơng họ.
Cô y tá lắc đầu:
Thƣa ông, tôi không thể làm thế đƣợc. có lẽ một ngày nào đó tôi làm đƣợc, nhƣng
bây giờ chƣa đƣợc, lòng tôi bị xé tan trƣớc những đau khổ này. Tôi không thể cám
ơn Chúa đƣợc.
Cô ít lui tới văn phòng của tôi. Nét mặt vui vẻ của cô nhuộm vẻ âu sầu và tôi có thể
đoán là cô phải uống thuốc để chống cơn khủng hoảng tinh thần. Cô không còn
thiết tha gì với bên ngoài. Cô đƣợc đổi đi nơi khác và tôi mất liên lạc với cô. Gần
đây tôi đƣợc một bức thƣ của một ngƣời phụ nữ đang ở tù tại miền tây nƣớc Mỹ.
Sau khi tôi gặp lại ông lần chót, tôi đã lang thang trên nhiều nẻo đƣờng và trên
những quãng đƣờng đó tôi đã đánh mất những gì tốt đẹp nhất trong tôi. Tôi không
tìm đƣợc bình an trong tâm hồn, và tôi đã xuống dốc.
Câu chuyện bắt đầu khi ở bệnh viện, tôi đã phải chứng kiến những cái chết phi lý
hay những cuộc giải phẩu cắt xéo trên thân thể của những quân nhân trẻ tuổi. Tôi
lên án Chúa và bây giờ tôi hiểu rằng những oán trách của tôi chỉ làm cho tôi xa
cách Chúa và tự hủy diệt mà thôi. Hiện nay tôi không còn đủ nghị lực để tha thiết
với bất cứ ai và bất cứ điều gì tôi sống cuộc đời buồn bã, bất hạnh và rỗng tuyếch.
Tôi biết rằng Chúa là lời giải đáp.
Tôi không muốn chấp nhận điều này từ mấy hôm nay nhƣng bây giờ tôi thấy rõ.
Tôi đã muốn viết thơ cho ông từ lâu nhƣng tôi hổ thẹn. Tôi nhớ lại những lần đến
thăm ông từ phòng tuyên úy, lúc đó tôi không muốn chấp nhận giải đáp. Tôi hy
vọng rằng đã không quá muộn. Xin ông cầu nguyện cho tôi...
Nữ y tá trẻ tuổi này đã từ chối món quà Gởi cho cô. Bây giờ cô thấy hậu quả của
thái độ đó. Bạn đã có thể thấy cô đã khổ sở biết chừng nào !
Đón nhận món quà của cuộc sống vĩnh cửu, đó là một việc dễ nhất mà bạn có thể
làm trong đời bạn. Có khó gì đâu, đâu cần phải tốt lành hay thông minh, một em bé
cũng có thể làm đƣợc ?
Thánh Phaolô viết :”Nhƣng còn nói làm sao? Đạo ở gần ngƣơi, ở trong miệng
ngƣơi và trong lòng ngƣơi. Ấy là đạo đức tin mà chúng ta giảng dạy. Vậy nếu
miệng ngƣơi xƣng Đức Chúa Jesus ra và lòng ngƣơi tin rằng Đức Chúa Trời sẽ
khiến Ngài từ kẻ chết sống lại thì ngƣời sẽ đƣợc cứu” (10:8-9). Vậy tại sao vẫn có
những ngƣời ngần ngại ? Tại sao họ lại sợ ? Cô ý tá kinh sợ đặt niềm tin vào một
Đức Chúa Trời có thể để cho nhƣng ngƣời lính phải chết trên chiến trƣờng hoặc trở
thành phế binh. Cô không tin vào tình thƣơng của Chúa. “Quyết chẳng có điều sợ
hãi trong sự yêu thƣơng, nhƣng sự yêu thƣơng trọn vẹn thì cất bỏ sự sợ hãi, vì sự
sợ hãi có hình phạt, và kẻ sợ hãi thì không trọn vẹn trong tình yêu thƣơng”
(IGi1Ga 4:18) Đức Chúa Trời là tình yêu. Tất cả những gì Chúa làm là hoạt động
của tình yêu.
Vấn đề là chúng ta có một tầm nhìn rất hạn hẹp về tình yêu. Chúng ta đã bị phản
bội và mang thƣơng tích do những tình yêu của con ngƣời gây ra, một tình yêu biết
tán thƣởng khi chúng ta làm điều tốt, còn lại trừng phạt khi chúng ta làm điều
quấy. Nhƣng tình yêu của Chúa thì khác hẳn.
Trong bản thân văn Hylạp, Tân Ƣớc dùng hai từ khác nhau mà chúng ta đều dịch
bằng chữ “yêu”.
Philie : Tình yêu huynh đệ, nghĩa là lòng cảm mến, tình cảm sâu xa, riêng biệt và
tự nhiên.
Arape : Tình yêu của Đức Chúa trời.
Thánh Phaolô dùng từ Agpe khi ông diễn tả tình vợ chồng. Đó là một sự trao hiến
có ý thức, có quyết tâm, tự do và thiêng liêng không tùy thuộc vào cảm xúc nhất
thời. Đó là một tác động yêu thƣơng hữu ý, bắt nguồn trong ý chí. Tình yêu này
không đổi thay, ngƣời ta có thể tin đƣợc, ngƣời đƣợc yêu không lo mình đáng đƣợc
yêu hay không.
Đó là cách Chúa yêu chúng ta. Chúa yêu chúng ta khi chúng ta phụ tình Ngài, khi
chúng ta bất tuân, khi chúng ta nghèo khổ. Chúa yêu chúng ta khi chúng ta phí
phạm cuộc sống. Và Ngài luôn luôn sẵn sàng đón tiếp, tha thứ và cho chúng ta dƣ
dật niềm vui và sự bình an của Ngài.
Món quà vô giá của Đức Chúa Trời là sự sống vĩnh cửu trong Đức Chúa Jesus
Chris. Và cuộc sống này gần kề chúng ta nhƣ môi với miệng hay trái tim của
chúng ta. Chúng ta chỉ cần đón nhận những gì Chúa Jesus làm cho chúng ta, tin
trong lòng Chúa rằng Chúa đang sống và loan tin đó cho ngƣời khác. Có gì khó
đâu, nhƣng vẫn có ngƣời không làm đƣợc, cho dù họ biết giá trị của món quà.
Ông Nicôđem, một ngƣời Do Thái sùng đạo, đến gặp Chúa Jesus vào một buổi tối
để hỏi Ngài cách nào để vào nƣớc trời. Ông biết rằng Chúa Jesus phán :”Quả thật,
ta nói cùng các ngƣơi, nếu một ngƣời chẳng sanh lại, thì không thể thấy đƣợc nƣớc
Đức Chúa Trời !”
Ngƣời đã già thì sanh lại làm sao đƣợc ? Có thể nào trở vào lòng mẹ mà sanh lần
thứ hai sao?
“Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngƣơi, nếu một ngƣời chẳng nhờ nƣớc và
Thánh Linh mà sanh, thì không đƣợc vào nƣớc trời. hễ chi sanh bởi xác thịt là xác
thịt, kẻ chi sanh bởi Thánh linh là thần” (GiGa 3:1-6).
Ông Nicôđem biết Chúa là ai rồi, nhƣng điều này chƣa đủ, chúng ta phải hành
động theo điều chúng ta hiểu biết đón nhận Chúa Jêsus Christ là Đấng Cứu Thế
của cuộc đời mình. Đƣợc tái sinh, chúng ta mới biết đƣợc Đức Chúa Trời. Chƣa tái
sinh, chúng ta là những ngƣời chết về mặt thiêng liêng.
Phaolô viết: “Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ, mà tôi sống,
không phải tôi sống nữa nhƣng Đấng christ sống trong tôi nay tôi còn sống trong
xác thịt, là tôi sống trong đức tin của con Đức Chúa Trời là Đấng đã yêu tôi và phó
chính mình Ngài vì tôi” (GaGl 3:20).
Phaolô khuyên tín hữu thành Côrinhtô: “Chính anh em hãy tự xét, để xem mình có
đức tin chăng. Hãy tự thử mình: anh em há không nhận biết rằng có Đức Chúa
Jêsus Christ sống trong đức tin của con Đức Chúa Trời là Đấng đã yêu tôi và phó
chính mình Ngài vì tôi” (3:20).-
Phaolô khuyên tín hữu thành Côrinhtô: “Chính anh em hãy tự xét, để xem mình có
đức tin chăng. Hãy tự thử mình: anh em há không nhận biết rằng có Đức Chúa
Jêsus Christ ở trong anh em sao, miễn là anh em không đáng bị bỏ” (IICo 2Cr
13:5).
Bạn có thật là một Cơ đốc Nhân không?
Bạn đã tái sanh chƣa?
Trong các giáo đƣờng, nhà thờ có nhiều Nicôđem lắm. Họ học hỏi Kinh Thánh và
cầu nguyện hàng giờ. Họ tham gia các nhóm Kinh Thánh và các nhóm cầu nguyện.
Họ là ngƣời đã dạy Kinh Thánh, giáo lý, có ngƣời là giảng viên nữa. Nhiều ngƣời
đã đƣợc sinh ra , lớn lên trong giáo hội và tự xƣng là đạo gốc.
Họ biết rất rõ giáo lý. Họ biêt rằng Chúa Jêsus đã chết vì tội lỗi của họ. Họ biết
Chúa đã sống lại nhƣng họ chƣa bao giờ giao phó cuộc sống cho Chúa. xin Ngài
trở nên Đức Chúa Trời và Vị Cứu Thế của họ. Cả hàng nghìn ngƣời trung tín đi lễ,
tham dự các buổi thờ phƣợng, chu toàn tất cả các bổn phận bề ngoài của đạo,
nhƣng chƣa bao giờ kinh nghiệm sự sống của Chúa Jêsus ở trong đời sống của họ.
Món quà cứu rỗi là sống vĩnh cửu vì sự sống vĩnh cửa là món quà qúy giá. Bạn
không cần làm gì để xứng đáng món quà đó, nhƣng bạn chỉ cần ngửa tay ra đón
nhận và nó trở thành sở hữu của bạn. Trong tình yêu của Ngài, Chúa đã định trƣớc
và thu xếp mọi hoàn cảnh để chúng ta cảm thấy cần đến Ngài, và Ngài thu hút
chúng ta.
Có một anh binh nhì công giáo đi với một anh bạn cùng đơn vị đến gặp tôi. Anh
bạn này bị bỏ tù vì nghiện ma túy. Từ hồi trẻ anh đã hút xách nhƣng khi nhập ngũ
tình trạng còn tệ hơn.
Tôi đã phung phí tuổi xuân, bây giờ quá trễ chắc không thể thay đổi đƣợc.
Cặp mắt anh đầy thất vọng.
Tôi hỏi ngay:“ Vậy anh có Chúa chứ ? Ngài có thể thay đổi đƣợc anh”.
Anh lính nhún vai :
Tại sao Chúa lại làm điều đó ? Tôi có bao giờ làm gì cho Ngài đâu ?
Ngài yêu thƣơng anh, Ngài đã phái Chúa Jêsus đền những tội ác cho anh, Ngài có
thể chữa lành bệnh cho anh.
Anh lính vẫn tiếp tục buồn bã nhìn tôi :
Tôi đã nghe đến Jêsus. Tôi muốn xin Ngài cứu tôi nhƣng tôi nghĩ rằng bây giờ đã
quá trễ. Mặc dù cố gắng nhiều, tôi vẫn không thể ngừng hút xách đƣợc, tôi đã làm
mồi cho ma túy quá lâu.
Đức Chúa Trời có thể chữa lành bệnh. Anh không nghĩ rằng Chúa mạnh hơn Á
phiện sao ?
Anh lính suy nghĩ ... vị tuyên úy nói tiếp :
Anh muốn thử không ?
Anh lính gật đầu :
Tôi sẽ thử bất cứ cái gì miễn là tôi thoát khỏi cái địa ngục này.
Nhƣ vậy anh hãy cảm ơn Chúa vì những gì Chúa sẽ làm cho anh trong vài phút
nữa, và anh hãy cảm ơn Chúa vì những gì đã xảy ra trong cuộc đời anh dẫn đƣa
anh đến đây.
Anh lính có vẻ bàng hoàng:“Sao có chuyện đó? Ông muốn nói rằng tôi phải cảm
ơn Chúa vì tất cả những gì đã xảy đến cho tôi ngay cả tình trạng nghiện nghập này
ƣ ?
Chính mình anh nghiện Ma túy quá nên anh tìm đến Chúa phải không? Nếu Chúa
chữa lành cho anh, tha thứ cho anh và ban cho anh một đời sống mới đời sống vĩnh
cửu trong Chúa Jêsus, anh có nghĩ rằng anh phải cảm tạ Chúa đã khiến anh cảm
thấy cần ngài không ?
Anh lính ngần ngại, vị tuyên úy nói tiếp :
Anh có muốn tôi cầu nguyện cho anh không ? Và anh ta bằng lòng. Tôi đặt tay lên
đầu anh và cầu nguyện :
Lạy Cha trên trời, con cảm tạ Chúa đã yêu mến chàng trai này, và kéo chàng lại
gần Cha. Xin Ngài gởi Thánh Linh xuống để giúp anh tin rằng đang hành động
mỗi giây phút trong cuộc đời đen tối và cô đơn của anh để dẫn anh đến với Chúa
Jêsus .
Khi tôi dứt lời; ánh mắt anh sáng lên, anh nói:
Có một điều lạ lùng, tôi không hiểu vì sao nhƣng tôi tin rằng Chúa đang biến đổi
những tai vạ của đời tôi thành những điều hữu ích cho tôi.
Rƣng rƣng nƣớc mắt, anh cuối đầu và bộc phát cầu nguyện xin Chúa tha thứ cuộc
nổi loạn của anh và xin Chúa Jêsus hƣớng dẫn đời anh.
Tôi không thể diễn tả đƣợc dây phút sau đó. Tôi đặt tay lên đầu anh ta lần thứ hai.
Tôi cầu xin Chúa chữa lành anh, lấy ra khỏi anh sự thèm muốn hút ma túy và ban
cho anh đầy tình yêu thƣơng. Tôi cảm thấy có một sức mới nơi anh lính trẻ. Nét
mặt ánh sáng ngời lên, và anh khóc sƣớt mƣớt anh reo lên :
Tôi không cần Á phiện nữa. Chúa Jêsus sống trong tôi.
Đối với chàng thanh niên này, đó là lúc tái sanh. Anh không còn là ngƣời cũ nữa.
Anh tái sanh, không phải vì anh cảm nhận sự hiện diện của Chúa nhƣng vì anh đã
quyết tâm tin.
Nếu mối tƣơng quan của chúng ta lệ thuộc vào cảm xúc của chúng ta, có lẽ chúng
ta không chọn nhƣ thế, chúng ta đâu có làm chủ những cảm xúc của chúng ta
nhƣng chúng ta có thể trông cậy, quyết định tin và cầu xin. Kinh Thánh nói chúng
ta đƣợc cứu rỗi nhờ lòng tin. Nhƣng nhiều ngƣời trong chúng ta hiểu sai về lòng
tin. Họ nói “Tôi không có đức tin để tin” nhƣ thế có nghĩa là “Tôi không cảm thấy
tôi tin”
Đức tin và cảm xúc là hai bình diện hoàn toàn khác.
“Vả đức tin là sự biết chắc vững vàng của những điều mình đƣờng trông mong, là
bằng cớ của những điều mình chẳng xem thấy” (HeDt 11:1)
Đức tin không phải là sản phẩm của cảm xúc hay cảm giác. Đức tin là do ý chí.
Chúng ta nhất quyết nhận định điều nào đó là sự thật, cho dù giác quan không nhận
định đƣợc.
Đƣợc cứu nhờ đức tin, nghĩa là chấp nhận Chúa Jêsus làm Đấng Cứu Thế đó là
hành động của trí nhớ không phải của cảm xúc. Chúng ta đƣợc tái sinh trong đức
tin, đƣợc cứu rỗi nhờ đức tin, điều đó có nghĩa là lời Chúa trở thành sự thật khi
chúng ta tiếp nhận Chúa Jêsus vào lòng mình. Có thể chúng ta không cảm thấy
mình đƣợc tái sanh, nhƣng không phải vì vậy mà chúng ta đƣợc cứu rỗi thật sự.
Chúng ta đã nói nhiều lần rằng lý trí có thể cản trở đức tin. Nhƣng có một mối
nguy hại tƣơng đƣơng ấy là cảm xúc mà đo lƣờng lòng tin. Từ lâu chúng ta có thói
quen nghĩ rằng những điều mình cảm thấy đều là sự thật. Tôi cảm thấy ốm đau,
vậy tôi đau. Nhƣng cảm xúc của chúng ta thay đổi mau lắm, tùy khí trời, tùy thức
ăn, vì mất ngủ hay vì gặp ngƣời khó tánh. Cảm xúc của chúng ta là một hàn thử
biểu ít trung thực ki ta muốn biết rõ sự thật. Nhƣ vậy lấy nó làm thƣớc đo mà đo
lòng kính yêu của Chúa thì quá sai. Chúa Jêsus đã phán :”khi cầu nguyện, hãy tin
đã đƣợc chắc điều đó sẽ đƣợc ban cho! Làm sao cầu nguyện với lòng tin đƣợc khi
chúng ta lại muốn lấy cảm xúc mà đo lƣờng kết quả. Theo Kinh Thánh chân lý của
Đức Chúa Trời đôi khi thúc dục chúng ta đi ngƣợc lại cảm xúc mình.
Chúa Jêsus phán :”Hãy yêu kẻ thù nghịch” Sao Chúa lại không biết rõ tâm tình của
mình đối với kẻ thù ? Vậy mà Chúa nói với chúng ta đừng để cảm xúc làm chủ ra
lệnh cho chúng ta nói hay làm điều gì. Chúng ta tự do lựa chọn yêu mến, ngay cả
kẻ thù.
Chúng ta hoàn toàn tự do chấp nhận lời Chúa nhƣ là một thực tại đối với chúng ta,
gạt qua một bên nào là cảm xúc, nào là cảm giác, cả trí tuệ và tình cảm nữa! Cuộc
sống mới trong Chúa Jêsus là một cuộc sống đức tin nói cách khác là một cuộc
sống đƣợc tƣ do, thoát khỏi sự bạo ngƣợc của cảm xúc, của trí tuệ và cảm giác.
Chúng ta không cần để ý đến chúng.
Kinh Thánh ghi rằng chúng ta đƣợc cứu rỗi nhờ đức tin, chữa lành nhờ đức tin,
đƣợc xƣng công bình nhờ đức tin, bảo toàn và che trở đức tin chúng ta tiến bƣớc,
tăng trƣờng nhờ đức tin, đứng vững nhờ đức tin, sống nhờ đức tin, chúng ta giàu
sang nhờ đức tin, chúng ta cầu nguyện trong lòng tin, thắng thế gian nhờ đức tin và
ca tụng Chúa trong đức tin.
Kinh nghiệm sự cứu rỗi trở nên sự thật khi chúng ta chấp nhận trong lòng tin. Chúa
đâu có nhìn vào cảm xúc chúng ta, Chúa nhìn vào quyết tâm của chúng ta có thể bị
nghi ngờ sâu xé, cảm thấy mình khốn nạn, nhƣng khi chấp nhận Chúa Jêsus bằng
đức tin, công việc đã đƣợc thỏa thuận. Sau khi trao lại cuộc đời mình cho Chúa
Jêsus , bạn có cảm thấy gì hay không cảm thấy gì, điều đó không quan trọng. Chúa
đã chấp nhận sự đầu hàng của ý chí bạn, bạn đã đƣợc Thánh Linh tái sinh.
Tôi lo ngại khi có ngƣời nói với tôi : “Tôi biết rằng hôm nay Chúa chúc phƣớc cho
tôi, vì tôi cảm thấy điều đó” một vài ngày sau, cũng ngƣời đó trở lại buồn rầu nói
:”Tôi không chắc mình có đƣợc cứu rỗi không, vì tôi không còn cảm thấy Chúa
hiện diện nữa.
Tạ ơn Chúa nếu Ngài cho bạn cảm thấy Ngài ở gần bạn. Nhƣng đừng để đức tin
của bạn lệ thuộc vào tình cảm. Cơ Đốc Nhân nào lấy cảm xúc mình làm một bằng
chứng, chứng minh mình đƣợc cứu rỗi thì nó sẽ bị nghi ngờ hành hạ.
Một phụ nữ viết thƣ cho tôi :
“Tôi đã dâng cuộc đời mình cho Chúa Jesus cách đây nhiều năm, nhƣng không có
gì xảy ra cả. Tôi không cảm thấy gì hết, và sau một thời gian tôi mất hy vọng và
buông xuôi lời cam kết sống cho Jêsus . Từ đó cuộc sống tôi sụp đổ ... Tôi đã đọc
cuốn sách của ông tựa đề là “Từ ngục tù đến ca ngợi” và tôi thèm khát Chúa Jesus.
Tôi cầu xin tha thứ và tôi muốn trao phó cuộc đời tôi trong tay Chúa. Tôi đón nhận
Jêsus Christ là Đấng cứu tinh và tôi muốn gia nhập Vƣơng Quốc của Ngài...nhƣng
tôi vẫn không cảm thấy gì thay đổi. Xin ông cầu nguyện cho tôi vì tôi không thể
tiếp tục sống nhƣ thế này đƣợc nữa:.
Một thanh niên đang bị ở tù viết cho tôi :
“Tôi tin Jêsus Christ và cố gắng tin Ngài hết lòng. Cách đây hai năm tôi đón nhận
Ngài làm vị Cứu Thế của tôi. Lúc đó tôi chân thành và trong hai ngày đầu tôi cảm
thấy mọi sự đều tốt lành. Nhƣng sau đâu lại vào đó. Từ đó đến nay có những lúc
tôi sống ngây ngất nhƣng chỉ là những phút quá ngắn. Tôi muốn thờ phƣợng Chúa
nhƣng tôi không tìm đƣợc Chúa. Tôi đã đọc đƣợc cuốn sách “từ ngục tù đến ca
ngợi”, và biết rằng tôi thiếu những điều ông nói trong cuốn sách đó. Làm sao tìm
đƣợc Ngài? Ông nghĩ là tôi chƣa khao khát Ngài đủ phải không? Làm sao khao
khát hơn nữa ? Tôi đã phung phí cuộc sống của tôi và nay sống đối với tôi không
có ý nghĩa gì cả. Tôi đã học Kinh Thánh nhƣng cũng chẳng đi đến đâu tôi rât muốn
tìm đƣợc Chúa Jesus. Tôi sắp ra khỏi tù và tôi mong làmlại cuộc đời với tình yêu
của Ngài trong lòng tôi. Xin ông cầu nguyện cho tôi để tìm đƣợc Ngài, và kinh
nghiệm đƣợc niềm vui Ngài đã hứa trong Kinh Thánh...”
Tôi đã nhận hàng trăm bức thƣ tƣơng tự và bất cứ ở đâu tôi cũng gặp những ngƣời
nói với tôi là họ không biết đã gặp Chúa hay chƣa.
Và vì lý do nghi ngờ của họ luôn luôn giống nhau: “Tôi không cảm thấy”. Họ là tù
nhân của chính cảm xúc của họ, và họ tin vào họ hơn là tin vào Chúa.
Khi chúng ta phó mình cho Chúa Jesus , Ngài nói với chúng ta: “Ta ban cho nó tự
sống đời đời, nó chẳng chết bao giờ và chẳng ai cƣớp nó khỏi tay ta” (GiGa 10:28).
Vậy thì làm gì để thắng cảm xúc và nghi ngờ.
Phaolô viết: “Miễn là anh em tin Chúa cách vững vàng không núng, chẳng hề rời
khỏi sự trông cậy đã truyền ra bởi đạo Tin Lành mà anh em đã nghe là đạo đƣợc
giảng ra giữa mọi ngƣời mọi vật dựng nên ở dƣới và chính tôi, Phaolô là kẻ giúp
việc của đạo ấy” (CoCl 1:23)
Những nghi ngờ và cảm xúc tấn công đức tin chúng ta, chúng ta phải lập tức bám
vững vào tảng đá lời Chúa.
Tôi có quen biết một bà kia có một cách cụ thể làm điều đó. Khi nghi ngờ điều gì,
bà đi tìm một câu Kinh Thánh nói về chân lý liên quan đến điều đó. Bà ghi đoạn
Kinh Thánh ấy vào một tờ giấy, mỗi khi cảm thấy nghi ngờ, bà lấy ra đọc.
Mỗi khi bà thấy tuyệt vọng, bà thƣờng nghĩ : “Mà chắc gì Chúa đã nhận lời bà khi
bà tin Đấng Christ trở nên Đấng Cứu Thế cho bà”, rồi bà tìm ra đoạn sau:”Nầy là
điều chúng ta dạn dĩ trƣớc mặt Chúa, nếu chúng ta theo ý muốn Ngài mà cầu xin
việc gì, thì Ngài nghe chúng ta. Nếu chúng ta biết không cứ mình xin điều gì, Ngài
cũng nghe chúng ta, thì chúng ta biết mình đã nhận lãnh điều mình xin Ngài”
(IGi1Ga 5:14-15). Bà chép đoạn này và thêm “Hôm nay 14-1-1969 tôi đã xƣng tội
và xin Chúa Jêsus Christ đi vào cuộc đời tôi làm Đấng Cứu Thế và chủ lòng tôi.
Tôi làm điều đó vì lời cầu xin của tôi cũng ở trong kế hoạch và điều Chúa muốn
cho tôi”.
Bà đặt tấm giấy trên giƣờng phòng ngủ bà và mỗi khi bà cảm thấy nghi ngờ trong
lòng, bà tìm miếng giấy và đọc lớn tiếng: “Tôi biết rằng tôi đƣợc tái sanh tôi biết
Đức Chúa Trời đã đón nhận và ngày hôm đó tôi đã cầu xin Chúa Jesus trở nên
Đấng Cứu Thế của tôi. Và tôi không đặt câu hỏi để biết tôi đƣợc cứu rỗi hay
không”.
Một hôm bà cảm thấy mặc cảm tội lỗi sau khi đã xƣng tội và nghĩ rằng : Chúa
chƣa tha tội cho bà. Bà tìm lời giải đáp trong Kinh Thánh: “Còn nếu chúng ta xƣng
tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng
ta sạch mọi điều gian ác” (IGi1Ga 1:9)
Dƣới đoạn Kinh Thánh đó bà viết tội bà đã xƣng, ghi ngày tháng và hàng
chữ:”Halêlugia, tôi đã đƣợc tha tội”.
Dần dần bà bớt nghi ngờ và sau hết hẳn.
Bạn có thể chống lại các nghi nan và cảm xúc của bạn bằng cách lập danh sách các
quyết định bạn đã làm trong giờ cầu nguyện, ghi rõ ngày tháng và đoạn Kinh
Thánh dẫn chứng lời hứa của Chúa.
Nếu bạn là một Cơ Đốc Nhân lâu năm và đôi khi bạn còn nghi ngờ về sự cứu rỗi
hay về tình yêu của Chúa, đừng để cho những nghi nan hay cảm xúc của bạn lừa
dối nữa. Hãy tuyên xƣng lại những lời bạn đã hứa và viết trên một mảnh giấy,
đừng quên ghi ngày. Có nhiều ngƣời giữ trong túi Kinh Thánh của họ những bƣớc
tiến quan trọng trong cuộc hành trình thiêng liêng của họ.
Cuộc đời Cơ Đốc Nhân là một hành trình trong đức tin. Ghi chép lộ trình cũng là
một điều hay vì nó sẽ nhắc nhở chúng ta trong những ngày đen tối khi chúng ta
không thấy mình tiến bộ.
Khi nhìn lại quảng đƣờng đã qua, chúng ta có thể cảm tạ Chúa và ca ngợi Chúa vì
đã tiến tới đƣợc đó.
Đức tin của chúng ta dự trên lời Chúa hứa chứ không dựa trên tình cảm của chúng
ta. Và Chúa hứa cho chúng ta đƣợc kinh nghiệm sự bình an và niềm vui của Ngài
trên đƣờng đời chúng ta đi.
Hãy vui mừng khi lòng rạo rực niềm vui nhƣng cũng hãy tỏ ra vui mừng khi bạn
cảm thấy khô héo và rỗng tuyếch. Ơn cứu rỗi lúc đó cũng là một thực tại tuyệt
diệu. Lúc đó hãy lấy đi tất cả ý chí cƣơng quyết mà nói:”Lạy Chúa con muốn tin.
Con bám vào lời Chúa”.
Bạn hãy thử đi.
Bạn sẽ thấy ông bạo chúa “cảm xúc” sẽ không còn ghì bạn nữa. Bạn sẽ đƣợc tự do
để tin. Chúa Jesus đã hứa :”Các ngƣời sẽ biết lẽ thật, và lẽ thật sẽ buông tha các
ngƣời” (GiGa 8:32).
MỘT QUYỀN NĂNGVÔ GIỚI HẠN
Việc gì sẽ xảy ra khi chúng ta đặt niềm tin cậy nơi Cứu Chúa Jêsus Christ ?
“Ngợi khen Đức Chúa Trời, Cha Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, Ngài đã xuống
phƣớc cho chúng ta trong Đấng Christ đủ mọi thứ phƣớc thiêng liêng ở các nơi
trên trời” (Eph Ep 1:3)
Do sự kết hợp với Đấng Christ, chúng ta là con cái của Đức Chúa Trời. Chúng ta
đã vào nƣớc Chúa. Tất cả mọi năng lực, ƣu đãi quyền lợi dành riêng cho con cái
Chúa đều thuộc về chúng ta:”Đủ mọi thứ phƣớc thiêng liêng ở các nơi trên trời”,
Chúa ban cho chúng ta không phải vì công việc của chúng ta, nhƣng vì chúng ta
kết hiệp cùng Đấng Christ, thuộc về Đấng Christ.
Một đứa bé không thể lớn lên vì ráng sức duỗi mình dài ra. Nó cũng không tìm đủ
mọi cách để xứng đáng nhận sự chăm sóc của những ngƣời chung quanh. Nó đƣợc
nuôi nấng đƣợc ăn mặc, đƣợc yêu thƣơng, cha mẹ nó bao bọc, chăm lo cho nó rất
chu đáo, chỉ vì nó là đứa con của họ. Họ đáp ứng mọi nhu cầu của nó. Nó lớn lên
một cách tự nhiên. Không một chút cố gắng ăn đầy đủ, ngủ và sinh hoạt đều đặn.
Hãy tƣởng tƣợng một đứa bé không chịu ăn, ngủ và nói với mẹ nó : “Mẹ ơi ! Con
chƣa sẵn sàng, con đang kéo ngƣời ra cho lớn lên, khi nào con lớn thêm đƣợc 10
phân thì con sẽ ăn”.
Nhƣng đó lại là một điều rất nhiều Cơ Đốc Nhân đã làm. Chúa đã chuẩn bị cho họ
đủ mọi thứ để lớn lên : Thức ăn giấc ngủ, tình thƣơng và sự săn sóc. Nhƣng họ
đừng ỳ ra một chỗ, để xứng đáng với ân huệ đó, họ cố tự mình lớn lên một cách vô
hiệu quả!
Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta từ rất lâu rồi, trƣớc cả khi các bạn và tôi ra đời
:”Trƣớc khi sáng tạo Ngài đã chúng ta trong Đấng Christ, đặng làm nên Thánh
không chỗ trách đƣợc trƣớc mặt Đức Chúa Trời” (Eph Ep 1:4)
Ai là ngƣời đƣợc Chúa Thánh hóa ?
Bạn có biết ngƣời nào đã đƣợc Thánh hóa hay chƣa? Nếu không thì có lẽ Chúa đã
trễ mãi trong chƣơng trình của Ngài ? Chúa đã bắt đầu Thánh hóa bản thân bạn hay
chƣa ?
Hãy đọc tiếp:”Không chỗ trách đƣợc”. Có lẽ nào Chúa đã quyết định làm cho các
Cơ Đốc Nhân trở lên trọn hảo, không ai trách cứ vào đâu đƣợc, và Ngài đã thất bại
nặng nề với tất cả những ngƣời mà chúng ta quen biết ?
Nhƣng chúng ta hãy đọc tiếp: “Trƣớc mặt Đức Chúa Trời”, Chúa đã cho chúng ta
nên Thánh không chỗ trách đƣợc trƣớc mặt Chúa. Chúa đã làm cho chúng ta một
điều lớn lao, Chúa biến đổi chúng ta “Trƣớc mặt Chúa”. Chính Chúa đang nhìn
chúng ta bây giờ, một cách khác, chỉ mới một mình Chúa có thể nhìn thấy con
ngƣời nơi chúng ta thôi. Ai có thể nhìn bằng con mắt của Chúa ? Không ai cả, trừ
một mình Chúa. Ngài đã dùng con ngƣời mới để ca ngợi vinh quang của Chúa.
Khi các ngƣời khác nhìn bạn, họ luôn luôn chỉ thấy một con ngƣời đó mà thôi.
Nhƣng họ không phải là Chúa. Chính bạn, bạn có thể nhìn vào một tấm gƣơng và
tự thuyết phục bạn chƣa nên Thánh, cũng chƣa trọn hảo, nhƣng bạn phải nhớ rằng
bạn không phải là Chúa.
Bạn dám nói rằng Chúa không thể nhìn thấy điều Chúa muốn nhìn sao ? Cái gì
quan trọng đối với bạn hơn: để Chúa nhìn thấy bạn thánh thiện hay là bạn tự nhịn
thấy bạn thánh thiện ?
Hàng ngàn ngƣời và có lẽ hàng triệu Cơ Đốc Nhân cố gắng uốn mình vào một cái
khuôn hòa hảo mà chính họ hoặc những ngƣời khác có thể chiêm ngƣỡng khi họ
thất bại và đó là điều không thể tránh đƣợc họ thấy chán nản và thất vọng ê chề.
Tôi đã nghe những câu tự thú về sự thất bại nhiều đến nỗi tôi có thể hiểu trƣớc cả
khi ngƣời ta kể lại cho tôi.
Nhƣng làm sao Chúa đã thực hiện kỳ diệu này là chúng ta nên thánh trƣớc mặt
Chúa. Thánh Phaolô nói :”Bởi sự yêu thƣơng Ngài đã định trƣớc cho chúng ta
(Eph Ep 1:5). Chúa đã ấp ủ chúng ta trong tình yêu của Ngài. Rồi sau đó ngài đã
lùi lại để nhìn và Chúa thấy ở nơi ta.
Bạn và những ngƣời sẽ nhìn thấy chính bạn, còn Chúa, Chúa nhìn thấy tình yêu
của Chúa. Bấy nhiêu chƣa đủ để dấy lên hồi chuông vui mừng trong tâm hồn bạn
và làm cho lòng bạn đầy lòng tri ân và ca ngợi sao ?
Và tại sao Chúa đã thực hiện cho chúng ta môt sự màu nhiệm nhƣ thế? Tại sao?
Phaolô tiết lộ ”...Cho chúng ta đƣợc trở lên con nuôi của Ngài bởi Đức Chúa Jêsus
Christ theo ý tốt của Ngài có quyền và khả năng để cho chúng ta tất cả những gì
Ngài muốn, tất cả phƣớc lộc trên trời và những món quà quí giá sao ?”
Tại sao Chúa đã chọn tự mình làm việc đó ? Tôi nghĩ rằng vì đối với Chúa đó là
điều duy nhất để chắc chắn rằng công việc ấy sẽ đƣợc hoàn thành tốt đẹp. Vì nếu
việc đó do bạn hay tôi thì Chúa sẽ không bao giờ có một chƣơng trình gì, sự vinh
hiển hoàn toàn thuộc về Chúa chứ không phải con ngƣời.
Thánh Phaolô viết :”Hầu cho sự vinh hiển của Ngài nhờ chúng ta là kẻ đã trông
cậy trong Đấng Christ trƣớc nhất mà ngợi khen” (1:12)
Kết quả sẽ vẻ vang khi ta đặt trọn niềm tin vào những gì Chúa làm cho chúng
ta!“Trong Ngài chúng ta nhờ đƣc tin mà đƣợc tự do đến gần Đức Chúa Trời cách
dạn dĩ” (3:12)
Có quá nhiều lời cầu nguyện xuất phát từ lời than thở và một sự khiêm nhƣờng nhƣ
giả dối, chúng ta không cần tự bào chữa trƣớc mặt Chúa, Chúa biết chúng ta quá
nhiều. Chúa đã quan sát hàng triệu con ngƣời và Chúa biết rõ tất cả những sự yếu
đuối của chúng ta.
Nhƣng bây giờ Chúa muốn chúng ta tin chắc rằng nhờ trung gian của Đấng Christ
chúng ta có quyền đến gần Chúa và xin những ơn chúng ta cần. Chúa muốn ban
cho chúng ta những sự tốt lành, Chúa muốn chúng ta sung sƣớng. Ít khi ngƣời tín
đồ của Christ ý thức rõ điều đó.
Gia đình chúng tôi không giàu, và chúng tôi thƣờng phải sống nhờ lòng bác ái của
ngƣời khác. tôi lớn lên mang trong lòng một mối uất hận với những ngƣời muốn
làm ơn cho tôi hoặc muốn cho tôi một cái gì, bởi vì tôi không tin đó là do lòng ƣớc
muốn chân thành của họ.
Tôi thích làm ra tiền hoặc xứng đáng với những gì tôi sắm đƣợc. Và tôi đã giữ thói
xấu này trong mối quan hệ với Chúa. Tôi có thể tin rằng Chúa muốn cho tôi nhiều
hơn là những điều tôi cần dùng. Và chăng tại sao Chúa lại làm nhƣ vậy. Tôi lý luận
nhƣ thế. Cái nhìn của tôi đối với Đức Chúa Trời đầy tình yêu và chỉ muốn điều tốt
lành nhất cho tôi rất giới hạn.
Rồi một hôm, lúc tôi làm tuyên úy ở Jort Benning, tôi đang ở một tiểu bang khá xa
Georie, tôi không thể trở về căn cứ đúng giờ làm việc chuyến bay mà tôi định đi đã
bị hủy bỏ vì thời tiết quá xấu, và chuyến bay sau thì quá trễ, không có cách nào đi
xe hơi, tôi đứng sững sờ, rất bực mình. trong suốt thời gian làm công tác tuyên úy,
tôi chƣa bao giờ nhận một công việc gì cản trở một công việc thƣờng xuyên của tôi
trong đơn vị, mà bây giờ tôi phải bỏ công việc bổn phận. Tôi cầu nguyện: ”Lạy
Chúa, Chúa biết trong suốt giai đoạn công tác của con, con không bao giờ đi trễ.
Vậy con xin đặt hoàn cảnh này vào tay Chúa. Con biết rằng Chúa có một chƣơng
trình hoàn hảo cho con. Con xin cám ơn Chúa và tin chắc rằng Chúa sẽ giúp con
giải quyết tình thế.”
Trong buổi họp mà tôi phải thuyết trình, tôi gặp một phi công quân đội. Anh ra ở
một căn cứ gần đó và khi nghe trƣờng hợp của tôi, anh nói :”Tôi đi điện thoại cho
ông đại tá của tôi để xem thử có thể giúp đƣợc gì cho tuyên úy không?”.
Ông đại tá trả lời ngay: ”Dĩ nhiên là đƣợc. Việc ấy cũng giúp tôi, chính tôi đang
cần bay. Tôi rất sung sƣớng đƣợc đƣa tuyên úy đến Jort Benning. Xin anh mời
tuyên úy đến đây, sáng mai lúc 6 giờ”.
Tôi đƣợc mời đến nghỉ đêm tại nhà anh phi công và sáng hôm sau lúc 6 giờ chúng
tôi cùng đi vào phi trƣờng. Tôi cảm thấy phấn khởi và rất vui vì Chúa trả lời tôi.
Nhƣng tôi chƣa thể ý thức đƣợc với cách nào và đến mức độ nào Chúa đã trả lời.
Tôi ngƣớc mắt tìm chiếc máy bay mà tôi sẽ ra đi. Ở đây có một dãy những bến
chiếc động cơ khổng lồ nhƣng tôi không thể nghĩ rằng một chiếc nào trong đó sẽ
bay một chuyến ngắn để chở tôi.
Tôi tƣởng tƣợng đến một chiếc máy bay nhỏ, ít tiện nghi, một chiếc vừa đủ để chở
tôi về đơn vị cho kịp giờ. Tôi tự nghĩ đó là tất cả những gì tôi cần.
Ông bạn phi công ngừng lại và nói với tôi: ”Thƣa ông. đây rồi, xin mời tuyên úy
lên !” Trƣớc mặt tôi là chiếc máy bay to nhất của sân bay, to gần bằng một cái nhà
đồ sộ. “Lạy Chúa, chiếc ấy không thể để con đi” lòng tôi kêu lên. Rồi nhƣ trong
giấc mộng, tôi bƣớc lên máy bay, theo sau một nhân viên của phi hành đoàn, ngƣời
ấy dẫn tôi đến một chiếc ghế bành êm ái, trong một phòng khác rộng lớn. Tôi là
ngƣời hành khách duy nhất và chiếc máy bay đƣợc trang bị đầy đủ tiện nghi. Ông
đại tá đến chào tôi và nói rằng ông mong tôi sẽ hài lòng về chuyến bay này. Tôi chỉ
có thể ấp úng mấy câu cám ơn mơ hồ. Tôi còn quá ngạc nhiên. Tôi đã biết rằng
Chúa đã chuẩn bị một chiếc máy để đƣa tôi đến Jort Benning đúng giờ đã định,
nhƣng tại sao lại có chiếc máy bay khổng lồ và sang trọng nhƣ thế này? Tại sao
Chúa không chọn một chiếc tầm thƣờng hơn? Quả thật tôi cảm thấy mình không
xứng đáng. Và bỗng trong trí tôi thoáng qua một ý nghĩ: Máy bay khổng lồ này
dành cho một mình tôi là một điều phí phạm. Tôi choáng váng hỏi:”Lạy Chúa, tại
sao vậy?”. Câu trả lời đến ngay rất ngắn gọn :”Chỉ vì Ta thƣơng con”, Ta chỉ muốn
cho con thấy đó là cách Ta ban tặng cho con cái Ta, và đáp lại lòng tin tƣởng của
chúng .
Thƣa Chúa, con bắt đầu hiểu.
Và niềm vui tỏa sáng trong tôi trong lúc cuộc đối thoại bên trong tiếp tục.
Ta muốn con nói với tất cả những ai muốn nghe rằng họ phải cảm tạ Ta về từng chi
tiết nhỏ trong đời sống của họ, và Ta sẽ mở cửa trời đổ xuống trên họ bao nhiêu ân
huệ quá sức cầu xin hay ao ƣớc.
Cám ơn Chúa, tôi suýt bật lên cƣời .
Và con hãy nhớ rằng, tiếng nói trong tôi tiếp tục, không bao giờ con có thể xứng
đáng với những ân huệ của Ta. Chính Ta ban cho con nhƣ một món quà do lòng
nhân ái của Ta, điều đó phải hiểu và chấp nhận.
Những lần trƣớc, mỗi lần phải đi đâu, tôi đều mƣợn máy bay quân đội và tôi đổ
xuống cách chỗ làm việc 15 cây số. Lần này chiếc máy bay khổng lồ 4 động cơ đổ
tôi xuống Jort Benning cách chỗ tôi phải đi đến chỉ vài trăm thƣớc. Khi đến nơi
nhìn đồng hồ :Tôi đến vừa đúng giờ, không sớm trƣớc một phút.
Chúa thật sự cung cấp cho chúng ta những điều chúng ta cần và Chúa ban cho một
cách rộng rãi.
Điều mà chúng ta phải làm là cầu xin mà thôi. và món quà đầu tiên Chúa muốn ban
cho con cái mình là baptem trong Thánh Linh. Thật vậy đƣợc baptem trong Thánh
Linh là bình sữa đầu tiên của những ngƣời mới sinh ra trong ơn Thánh. Họ cần
điều đó để lớn lên.
Đức Thánh Linh đến cƣ ngụ trong ngƣời mới có đức tin khi ngƣời này tiếp nhận
Christ làm Đấng Cứu Thế của mình. Đức Chúa Jêsus cũng đã truyền cho các môn
đồ hãy đợi cho đƣợc nhận lãnh Baptem bằng Thánh Linh trƣớc khi họ có thể ra đi
làm chứng nhận cho ngài và đi rao giảng Tin Lành với quyền năng và uy tín.
Các môn đồ chờ đợi tại thành Giêsusalem nhƣ Chúa Jesus đã dặn họ.Vào ngày Lễ
Ngũ Tuần: ”Thình lình có tiếng từ trời đến nhƣ tiếng gió thổi ào ào, đầy khắp nhà
môn đồ ngồi. Các môn đồ thấy lƣỡi rời rạc từng cái một, nhƣ lƣỡi bằng lửa hiện ra,
đâu trên mỗi ngƣời trong bọn mình. Hết thảy đều đƣợc đầy dẫy Đức Thánh Linh,
khởi sự nói các thứ tiếng khác theo nhƣ Đức Thánh Linh cho mình nói” (Cong Cv
2:2-4)
Và từ đó Hội Thánh hình thành. Vốn là những ngƣời nhút nhát, các môn đồ của
Đấng Christ bây giờ trở nên những chứng nhận dạn dĩ và can đảm. Lập tức họ bắt
đầu rao giảng Tin Lành với quyền năng và uy tín, và Chúa Jesus thực hiện những
phép lạ đi kèm lời giảng dạy của các môn đồ. Chúa Jêsus đã từng nói với họ: “Quả
thật, ta cùng các ngƣời, kẻ nào tin ta cũng sẽ làm việc ta làm, lại cũng làm việc lớn
hơn nữa, vì Ta về cùng Cha” (GiGa 14:12).
Hàng triệu ngƣời đã gia nhập Hội Thánh đầu tiên. Đọc sách Công Vụ Các Sứ Đồ,
chúng ta nhận thấy rằng thƣờng thƣờng những kinh nghiệm đƣợc Báp tem trong
Thánh Linh đi sau các cuộc trở lại đạo. Khi Phierơ ở Sêsarê giảng cho tất cả nhà
Cọtnây thì Đức Thánh Linh giáng trên mọi ngƣời nghe đạo” (Cong Cv 8:15). Lúc
Tin Lành đƣợc giảng ra ở Samari có rất nhiều ngƣời tin nhận Chúa Jesus là Đấng
Cứu Thế và chịu báp tem bằng nƣớc.
Ngƣời ta liền phái Phierơ và Giăng, khi ấy đang ở Giêrusalem đến “Hai ngƣời tới
nơi cầu nguyện cho các môn đồ mới, để cho đƣợc nhận lấy Đức Thánh Linh”
(8:15) Phierơ và Giăng không bảo họ chờ đợi hay học hỏi Kinh Thánh hoặc cầu
nguyện hay chuẩn bị. Các môn đồ ở Giêsusalem xuống chỉ lo một điều là Đức
Thánh Linh chƣa xuống trên các tân chiến hữu và lập tức “Phierơ và Giăng đặt tay
trên các môn đồ, thì đều đƣợc nhận lấy Đức Thánh Linh” (8:17).
Phép báp tem bằng Thánh Linh đã đƣợc hứa ban cho những nguời tin vào Chúa
Jêsus Christ. Chính Chúa Jesus đã phán :”Nếu ngƣời nào khát hãy đến cùng Ta mà
uống. Kẻ nào tin Ta thì sông nƣớc Hằng sống sẽ chảy từ trong lòng mình, y nhƣ
Kinh Thánh đã chép vậy. Ngài phán điều đó chỉ về Đức Thánh Linh mà ngƣời nào
tin Ngài sẽ nhận lấy” (GiGa 7:37-39).
Đƣợc báp tem (nhận chìm, dìm mình) trong Thánh Linh là một ân huệ miễn của
Chúa. Chúng ta không thể tự tạo ra. Chúa Jesus đã ban cho chúng ta ơn cứu rỗi và
Đức Thánh Linh: “Ta lại sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngƣơi đời đời, tức là
Thần Lẽ Thật, mà thế gian không thể nhận lãnh đƣợc, vì chẳng thấy và chẳng biết
Ngài, nhƣng các ngƣời biết rõ Ngài, vì Ngài vẫn ở với các ngƣời và sẽ ở trong các
ngƣời”. (14:16-17).
Chúa Jesus là Đấng sẽ gởi Đức Thánh Linh đến, chính Chúa Jesus làm baptem cho
chúng ta bằng Thánh Linh.
Đức Chúa Trời phán cùng Giăng Báptít khi ông làm Baptem trên sông Giô đanh:
“Đấng mà ngƣời sẽ lấy Thánh Linh ngự xuống đậu lên trên, ấy là Đấng làm phép
Baptem bằng Đức Thánh Linh” (1:33).
Tại sao có quá nhiều Cơ Đốc Nhân vẫn còn đấu tranh thất vọng? Tôi đã thấy ở
khắp mọi nơi những khuôn mặt buồn bã và thất vọng. Họ tự hỏi: ”có cái gì không
suôn sẻ nơi tôi ? Có phải tôi không xứng đáng hay quá yếu ớt ? Tôi rất cần quyền
năng của Đức Chúa Trời trong đời sống tôi kia mà?”.
Một giáo viên trƣờng Chúa Nhật viết cho tôi: ”Tôi cần đến quyền năng của Đức
Thánh Linh. Tôi cố gắng về mọi phƣơng diện để biết vâng và giống Chúa Jesus
hơn. Tôi nghĩ rằng tôi đã ít đọc Kinh Thánh nên tôi cố dậy sớm buổi sáng để đọc
một tiếng đồng hồ và cầu nguyện thêm nửa tiếng nữa. Nhƣng tôi vẫn không thấy
có thêm một sức mạnh mới nào trong đời tôi và tôi vẫn chƣa đƣợc nhận lãnh
baptem trong Thánh Linh. Tôi đã xƣng tất cả tội lỗi mà tôi nhớ. Tôi đã là Cơ Đốc
Nhân từ 20 năm nay nhƣng tôi bày tỏ rất ít phẩm chất tốt và tôi tự hỏi không biết
mình có đƣợc hay không ?
Những ngƣời này giống nhƣ những đứa bé muốn tự duỗi dài ngƣời ra để lớn lên
hầu có thể ăn bữa ngon lành mà ngƣời ta dọn sẵn cho họ từ lâu. Đói nhƣng lại từ
chối ăn uống ví họ muốn vƣợt qua mọi vấn đề riêng tƣ của họ trƣớc đã.
Một số tín hữu Hội Thánh đầu tiên cũng đã gặp những khó khăn đó: Họ nghĩ rằng
họ phải đạt đến mức độ thánh thiện nào đó để có thể nhận lãnh những ân huệ của
Đức Chúa Trời.
Phaolô viết: “Hỡi những ngƣời Galati ngu muội kia, ai đã ếm anh em là ngƣời mà
trƣớc mắt đã đƣợc phô bày ra Đức Chúa Jêsus Christ bị đóng đinh trên thập tự giá
? Tôi chỉ hỏi anh em câu này: Ấy là cậy các việc làm luật pháp hay là nghe và tin
mà anh em đã nhận đƣợc Đức Thánh Linh ? sao anh em ngu muội dƣờng ấy ? Sau
khi đã khởi sự nhờ Đức Thánh Linh nay sao lại cậy xác thịt mà làm cho trọn?”
(GaGl 3:1-3).
Những tín hữu Galati đã nhận Đức Thánh Linh bởi đã tin vào Chúa Jêsus Christ
nhƣng họ bị cám dỗ vì tƣởng rằng chính họ có trách nhiệm trong mức trƣởng thành
thuộc linh của mình, do đó họ đã đi đến chỗ không dựa trên đức tin mà sống.
Lòng kiêu ngạo và khuynh hƣớng tự cảm thấy chính mình là tác giả của những tiến
bộ thuộc linh rình rập ngƣời tín hữu trong mọi giai đoạn của cuộc đời. Satan cám
dỗ chúng ta qua hai cách: hoặc là nó đến nhỏ to bên tai chúng ta: :”Chà mày quá
tiến bộ trên con đƣờng thuộc linh hãy cố gắng thêm một chút nữa sẽ trở thành rất
mạnh” hoặc nó nói “Hãy nhìn xem mày yếu đuối và bất lực đến chừng nào. Tao
không ngạc nhiên gì khi thấy Chúa không tin ở mày và không ban ơn cho mày
nữa”.
Bạn có thể tự khen những tiến bộ thuộc linh của mình hoặc chế trách những thất
bại của mình, đàng nào cũng thế. Bạn hãy đặt trách nhiệm và công việc nơi Bạn
chứ không phải nơi Chúa mới có quyền lãnh trách nhiệm.
Một mục sƣ có một yếu đuối mà ông không thể thắng đƣợc mặc dù ông đã cố gắng
nhiều. Cuối cùng ông bị vào tù vì lầm lỗi đó và vì sử dụng của gian. Mục sƣ này là
ngƣời mới thi hành chức vụ. Bị thất bại vì sự sai lầm của mình, ông thành thật hỗi
lối. Ông tin rằng Chúa chắc sẽ không tiếp tục dùng ông để đƣa những ngƣời khác
đền ơn cứu rỗi.
Vào một ngày nọ có một ngƣời bạn của ông gởi tặng ông một quyển sách “Từ tù
ngục đến ca ngợi”. Trong sách ấy ông thấy Chúa dùng mọi sự để biến cải nên tốt
ngay cả những tội lỗi của chúng ta. Phấn khởi bởi một niềm hy vọng mới mẻ, ông
dám cám ơn Chúa vì những tội lỗi của chính mình và sự bị tù của mình. Tôi có thể
ca ngợi và cám ơn Chúa cho bất cứ một chi tiết nhỏ nào trong đời tôi. Tôi chƣa bao
giờ ý thức sự cao cả và thâm sâu trong lòng nhân từ Chúa. Tôi nghĩ rằng mình rất
tốt trong việc phục vụ Chúa. Bây giờ thật sung sƣớng biết bao khi con ngƣời cũ
đầy kiêu ngạo của tôi phải chết đi, nhƣờng chỗ cho Đấng Christ sống trong tôi, và
chỉ một mình Chúa thôi.
Phòng giam của ông Mục sƣ trở thành ngôi nhà chúc tạ hồng ân của Chúa, và
nhiều ngƣời khác đã đƣợc nghe giảng Tin Lành và họ tiếp nhận Chúa Jêsus.
Nếu chúng ta nghĩ rằng do chúng ta hoặc do ngƣời khác mà chúng ta “khá tốt” hay
“chƣa tốt đủ” để phụng sự Chúa thí chúng ta rơi vào một cạm bẫy rất nguy hiểm.
Chính Chúa Jêsus đã bảo trƣớc cho những ngƣời theo Chúa: “Các ngƣời đừng xét
đoán ai để mình khỏi bị xét đoán” (Mat Mt 7:1).
Chỉ có Chúa mới có thể xét đoán và Chúa nói rằng chúng ta thanh khiết và không
chỗ trách đƣợc trƣớc mắt Chúa, nếu chúng ta đƣợc bao bọc trong tình yêu của
Chúa.
Nhƣ thế làm sao ta còn dám đặt ra những tiêu chuẩn để phán đoán bản thân ta hoặc
phán đoán ngƣời khác ? Chỉ có Chúa mới có thể lên án những lỗi lầm của chúng ta
hay của ngƣời khác có ra sao đi nữa thì điều đó chỉ liên hệ đến một mình Chúa
thôi.
Khi chúng ta bắt đầu đoán xét nhau thì thƣờng là chúng ta nói: “Anh ấy hút thuốc,
chị kia đánh phấn môi son, họ uống rƣợu và đi xem phim nọ, phim kia…”
Bạn hãy nói cho tôi, bạn sẽ chọn một ngƣời dạy giáo lý hoặc một giáo viên trƣờng
Chúa Nhật nhƣ thế nào đây? Hãy tƣởng tƣởng bạn sẽ phải chọn giữa hai ngƣời:
Ngƣời thứ nhất cân nặng vừa phải, có một thân hình cân đối và bạn biết ông ấy hút
thuốc; Ngƣời thứ hai thật phì lũ, đó là một đống thịt, nhƣng ông ta có một nụ cƣời
hiền hậu, hay đi nhà thờ và đọc Kinh Thánh. Bây giờ giữ hai ngƣời, bạn sẽ chọn
ngƣời nào để giải thích về bài học, “Làm thế nào để phát triển đức tự chủ, tiết độ
trái của Thánh Linh”. Hút thuốc là một thói quen rất xấu, có hại cho sức khỏe và
đó là dấu hiệu của sự vô kỷ luật cá nhân. Nhƣng ra sẽ nghĩ gì về ngƣời ăn uống quá
độ với những ngƣời say sƣa vào cùng một loại và tuyên bố cả hai đều đáng chết.
Ngƣời tham ăn đi nhanh đến cái chết và ngƣời hút sách cũng vậy.
Tôi không khuyên bạn lên án những ngƣời hút thuốc và những ngƣời phát phì đâu,
không có trƣờng hợp nào để cho chúng ta xét đoán cả.
Khi hai ngƣời đƣa đến cho Chúa Jêsus ngƣời đàn bà bị bắt quả tang, ngƣời đàn bà
này bị bắt quả tang vê tội tà dâm, và trong luật pháp Môise có truyền cho chúng ta
rằng phải ném đá những hạng ngƣời nhƣ vậy còn Thầy thì nghĩ sao ?” (GiGa
8:4-5).
“Ai trong các ngƣời là ngƣời cô tội, hãy trƣớc nhất ném đá vào ngƣời” (8:7).
Ai trong chúng ta xứng đáng để ném viên đá phê bình phán đoán và buộc tội. Đo
lƣờng độ “tốt” và độ “xấu” của chúng ta, đó là một cách bào chữa trƣớc mặt Chúa
dựa trên những việc lành chứ không phải do đức tin. Khi ta nói đến đức tin và việc
lành, ta thƣờng trích dẫn câu: Vì chúng ta là việc Ngài làm ra, đã đƣợc dựng nên
trong Đức Chúa Trời đã sắm sẵn trƣớc cho chúng ta làm theo” (Eph Ep 2:10).
Điều đó không chứng tỏ rõ ràng rằng chúng ta đƣợc tái sanh để làm việc lành cho
Chúa sao ?
Nhƣng hãy nhìn những dòng trƣớc :”Vả ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin mà anh em
đƣợc cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa
Trời” (2:8) “Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu hết cho ai không khoe mình”
(2:8).
Sứ đồ Phaolô muốn nói rằng chúng ta đƣợc cứu rỗi cứu rỗi nhờ đức tin, rồi sau đó
chúng ta phải tự lo liệu một mình sao? Điều đó không có nghĩa gì cả phải không ?
Phần trên bức thƣ, sứ đồ Phaolô đã nói chúng ta đã đƣợc Thánh hóa và không ít tì
vít trƣớc mắt Chúa đã ban cho chúng ta mọi phƣớc lộc trên trời.
Hay đọc thƣ của sứ đồ Gia cơ: Nếu có ai nói mình có đức tin, nhƣng không có việc
làm thì có ích lợi gì chăng? đức tin đó cứu ngƣời ấy đƣợc chăng Ápraham tổ phụ
chúng ta, khi dâng con tim mình và Ysác trên bàn thờ, há chẳng từng cậy việc làm
đƣợc xƣng công bình hay sao?” (Gia Gc 2:4, 21).
Việc ấy thuộc loại việc lành nào ? Tại sao lên núi đem đứa con đặt trên bàn thờ làm
của tế lễ theo lệnh truyền của Đức Chúa Trời , và đó chính là đứa con mà Chúa đã
hứa cho Aùpraham để ban phƣớc cho ông và làm cho dòng dõi đông đảo.
Gia cơ tiếp:”Thế thì ngƣơi thấy đức tin đồng công với việc làm, và nhờ việc làm
mà đức tin đƣợc trọn vẹn”. Vậy đƣợc ứng nghiệm lời Kinh Thánh rằng:”
Aùpraham tin Đức Chúa Trời, và điều đó kể là công bình cho ngƣời, và ngƣời
đƣợc gọi là bạn hữu của Đức Chúa Trời” (2:22-23).
Vậy thì chúng ta phải làm những việc lành nào? Một ngày nọ các môn đồ cũng đặt
cho Chúa Jêsus một câu hỏi tƣơng tự: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện sự công
bình của Đức Chúa Trời”. Chúa Jêsus trả lời rằng việc mà Đức Chúa Trời đòi hỏi
là chúng ta phải tin vào Đấng mà Đức Chúa Trời đã sai đến, chúng ta phải gắn bó
với chức vụ của Ngài và đặt niềm tin tƣởng và trông vậy vào Ngài.
Đó chính là điều Aùpraham đã làm. Việc lành của Aùpraham là gì? Chính là tin
rằng Đức Chúa Trời sẽ giữ lời hứa, không bao giờ Aùpraham yếu lòng tin nơi
Chúa. Vì vậy Đức Chúa Trời đã quyết định đặt Aùpraham làm tổ phụ của Ysơraên.
Chúa Jêsus đã hứa với những kẻ theo Ngài rằng họ sẽ làm nhiều việc lớn hơn cả
Ngài làm, và chúng ta biết rằng sau khi đã nhận lãnh phép baptem bằng Đức Thánh
Linh các môn đồ đã rao giảng Tin Lành với quyền năng và nhiều phép lạ.
Trong các việc này phần đóng góp của các môn đồ là đức tin, quyền làm phép lạ
không thuộc về họ. Quyền đó từ Đức Chúa Trời mà đến và diễn ra bên ngoài đời
sống của họ vì họ đã tin.
Chúng ta sẽ tự lùa gạt mình hoàn toàn khi nghĩ rằng phép baptem trong Thánh
Linh cho chúng ta một quyền năng, nó làm chúng ta mạnh thêm tăng khả năng và
khuynh hƣớng làm việc lành cho Chúa; và chịu baptem này khiến chúng ta trở
thành ngƣời hoàn hảo về mặt thuộc linh. Nghĩ nhƣ thế là điều sai lầm trầm trọng.
Vậy thì tại sao có phép baptem trong Thánh Linh? Do phép baptem này con ngƣời
riêng của chúng ta bị hạ xuống để cho sự quyền năng của Đức Chúa Trời có thể cai
trị chúng ta và bày tỏ ra bên ngoài qua đời sống chúng ta.
Chính Đức Chúa Trời hành động trong chúng ta, Sứ đồ Phaolô viết:“Vả Đức Chúa
Trời, bởi quyền lực cảm động trong chúng ta, có thể làm trổi hơn vô cùng mọi việc
chúng ta cầu xin và suy tƣởng” (Eph Ep 3:20). Rõ ràng là nếu chúng ta càng tin
cậy vào Chúa và càng ít lệ thuộc vào chúng ta thì Chúa càng hoạt động dễ dàng.
Vập phép baptem trong Thánh Linh là gì? Chúa Jêsus thƣờng nói đến Đức Thánh
Linh và Thần Lẽ Thật đến thì ngài dẫn các ngƣơi vào lẽ thật: (GiGa 16:13).
Thần Lẽ Thật sống trong mỗi tín hữu và dìu dắt họ. Nhƣng đƣợc baptem trong
Thần Lẽ Thật còn có nhiều nghĩa khác nữa. Chữ mà chúng ta dịch là “baptem”
trong kinh thánh có nghĩa là “nhận chìm” vào nƣớc hoặc bảo hòa (no ứ). Trong
ngôn ngữ Hy lạp, ngƣời ta dùng chữ ấy diễn tả ý “thấm ƣớt”.
Nhƣ thế là xin Chúa Jêsus làm phép baptem chúng ta có nghĩa là chúng ta đƣợc
nhận chìm, đƣợc hoàn toàn thấm ƣớt bởi chân lý.
Chúa Jêsus cầu xin Cha Ngài cho chúng ta: “Xin Cha lấy lẽ thật khiến họ nên
Thánh: lời cha là lẽ thật” (GiGa 17:17).
Phép baptem bằng Thánh Linh là gột rửa,lau sạch tất cả. Đó là cuộc triển làm mọi
góc cạnh, xó xỉnh của đời ta ra dƣới ánh sáng thấu suốt của chân lý Đức Chúa
Trời. Đó là sự tẩy rửa hoàn toàn để chúng ta thoát khỏi sự tự mãn, kiêu ngạo,
những bóng mờ của sự dối trá mà ta cứ bám vào tất cả những gì cản trở đức tin,
luồng sinh khí của sự hiện diện đầy quyền năng của Đức Chúa Trời trong đời sống
chúng ta.
Việc thanh tẩy của Thánh Linh hay trong Thánh Linh có hai mục đích thanh lọc và
chuẩn bị cho cái bình, nghĩa là đời sống chúng ta, chứa đựng quyền năng của Đức
Chúa Trời, và đổ đầy tràn sức mạnh của Chúa vào. Hai việc này cùng xảy ra một
lúc: Khi Thần Lẽ Thật bắt đầu thấm nhuần bản thân ta, thì cũng cho ta thấy sự già
cỗi và cặn bã trong con ngƣời chúng ta để tống ra ngoài. “Nhƣng khi Đức Thánh
Linh giáng trên các ngƣời, thì các ngƣời sẽ nhận lấy quyền phép…) (Cong Cv 1:8)
Chúa không có ý nói rằng quyền năng này thuộc về chúng ta, nhƣng nó sẽ xuống
đầy tràn trên chúng ta và hoạt động qua chúng ta. Mỗi ngƣời chúng ta là một cái
bình chứa đựng, là con sông cho dòng nƣớc chảy. Dù chúng ta có cố gắng đến mức
độ nào đi nữa, thì chúng ta không thể là sức mạnh đó. Chúng ta giống nhƣ cái ly
đựng nƣớc mát, nƣớc có thể làm xoa dịu cổ họng rát bỏng vì khát, nhƣng cái ly
không thì không thể làm ai bớt khát đƣợc cả.
Sứ đồ Phaolô viết :”Nhƣng chúng tôi đựng của quí này trong chậu bằng đất, hầu
cho tổ quyền phép lớn dƣờng ấy là bởi Đức Chúa Trời mà ra, chớ chẳng phải bởi
chúng tôi” (IICo 2Cr 4:7)
Nếu chúng ta nói rằng chúng ta không cần chịu bap tem trong Thánh Linh thì cũng
nhƣ nói rằng chúng ta không cần đƣợc rửa sạch để nhận lãnh ánh sáng chân lý của
Chúa. Và chúng ta cũng không cần quyền năng nơi Chúa hoạt động dồi dào nơi
chúng ta qua và qua chúng ta.
Chúa Jêsus phán với các môn đồ :” Trong các ngƣời có ai làm Cha, khi con mình
xin bánh mà cho đá chăng? hay là xin cá mà cho rắn thay vì cá chăng? Hay là xin
trứng mà cho bò cạp chăng? Vậy, nếu các ngƣời vốn là xấu mà biết cho con cái
mình vật tốt thay, huống chi cha các ngƣơi ở trên trời lại chẳng ban Thánh Linh
cho ngƣời xin ngài sao? (LuLc 11:11-13)
Vì thế chúng ta có thể xin Chúa Jêsus làm phép Baptem cho chúng ta bằng Đức
Thánh Linh và biết chắc chắn rằng Chúa sẽ nhận lời.
Mỗi tuần lễ tôi nhận đƣợc nhiều thƣ kể cho tôi biết rõ những ngƣời đã xin Chúa
Jêsus làm báp tem cho họ bằng Thánh Linh nhƣng chẳng có gì xảy ra cả. Tại sao
có sự trục trặc đó? Điểm sai lầm của những ngƣời này là họ chỉ chú ý đến cảm giác
của họ, thay vì chăm chú lắng nghe những gì Chúa phán ra. Trở ngại luôn luôn do
cảm xúc.
Nhƣng thật ra cũng có một số ngƣời có những cảm xúc lạ lùng họ nhận lãnh báp
tem trong Thánh Linh, cũng nhƣ có những ngƣời khác gặp Chúa Jêsus với xúc
động mạnh mẽ, khi lần đầu tiên trong đời họ tiếp nhận Ngài làm vị cứu tinh của
cuộc đời mình.
Nhƣng chúng ta không đƣợc cứu rỗi do cảm xúc, cũng vậy, chúng ta nhận Thánh
Linh cũng không do cảm xúc. Những cảm xúc, những cảm giác không tạo nên sự
biến đổi trong cuộc sống. Phép báp tem trong Thánh Linh là sự biến đổi trong
Thánh Linh là sự biến đổi từ trong.
Và sau đó Thánh Linh mới cho thấy những dấu hiệu bên ngoài làm chứng của kết
qua bên ngoài làm chứng của kết quả của sự biến đổi bên trong: Một quyền năng
mạnh mẽ, một uy tín mới để làm chứng cho Đấng Christ, sự biểu hiện của những
ân tứ Thánh Linh và sự phát triển của những ơn đó là tình thƣơng, sự vui mừng và
sự bình an...
Những điều này giác quan của chúng ta cảm nghiệm đƣợc, nhƣng thật ra đó là chỉ
là kết quả của sự chấp nhận để Chúa làm việc nơi ta. Và điều đó không thể đo
lƣờng bằng cảm xúc đƣợc.
Chính ta phải quyết định chấp nhận lời Chúa bằng đức tin và nhất quyết không chú
ý đến cảm giác nữa. Nếu không, chẳng bao giờ chúng ta đƣa đức tin mình đến
hành động đƣợc.
Hãy nói với Chúa rằng bạn muốn nắm chắc lời Chúa, và muốn tin rằng Chúa Jêsus
làm báp tem cho bạn trong Thánh Linh ngay từ khi bạn tin Chúa. Hãy vững vàng
trong đức tin và tin chắc mọi sự sẽ hoàn thành.
Một thanh niên viết cho tôi : “Tôi định xin vô học ở trƣờng thần đạo nhƣng đời
sống thuộc linh tôi còn yếu ớt quá. Tôi có liên hệ với những tín đồ chịu báp tem
trongThánh Linh. Họ cầu nguyện mạnh mẽ và nói nhiều thứ tiếng và cũng có kinh
nghiệm trong việc đặt tay chữa bệnh và làm phép lạ. Tôi tin rằng tất cả những điều
đó hợp với Kinh Thánh, tôi cầu nguyện xin nhận lãnh Thánh Linh. Nhƣng không
hiểu vì lý do gì nào mà tôi vẫn chƣa nhận lãnh gì cả. Tôi nghĩ rằng Thánh Linh
không ban ân tứ cho ai để thỏa mãn nhu cầu cá nhân của họ, nhƣng là để cho ngƣời
đó chuẩn bị để làm công việc mà Chúa sẽ giao phó cho. Nhƣng Chúa cũng chƣa
cho tôi các kinh nghiệm đó, tại sao? Tôi tự hỏi còn thiếu gì nữa. Tôi tin Chúa Jêsus
là Đấng Cứu rỗi tôi và với hết cả lòng tôi, tôi muốn theo Ngài. Tôi đã nói với Chúa
nhƣ thế nhiều lần. Tôi xƣng tội tại nhà thờ và trong lúc tôi cầu nguyện riêng, tôi
biết rằng tôi đã đƣợc tha thứ và thanh tẩy. Tôi muốn phục vụ Chúa Jêsus và tôi cần
đƣợc báp tem trong Thánh Linh để có thể phục vụ hữu hiệu hơn. Vậy thì tại sao
không có gì xảy ra cả? Tôi đã làm điều gì sai đến nỗi Chúa không nhận lời ?
Hôm qua trong lúc chúng tôi học Kinh Thánh, tôi đã quỳ xuống và xin đƣợc báp
tem trong Thánh Linh. Các bạn tôi đã đặt tay lên đầu tôi và cầu nguyện cho tôi.
Nhƣng tôi chẳng thấy gì cả. Mục sƣ có vui lòng cầu nguyện cho tôi không ?
Điều quan trọng nhất không phải do nơi bạn ở, hay là lời bạn dùng để xin đƣợc báp
tem trong Thánh Linh, cũng không phải do bạn cầu nguyện một mình hay có nhiều
ngƣời đặt tay trên đầu bạn. Việc đƣợc báp tem trong Thánh Linh và ngƣời báp tem
cho bạn là Đấng Christ mà thôi.
Bạn chỉ cầu xin một lần là đủ rồi, rồi cảm ơn Chúa đã nghe lời bạn cầu xin và nhận
lời bạn. Nếu bạn đã cầu nguyện tuần trƣớc và theo bạn hình dung không có gì xảy
ra thì bạn hãy trút bỏ những cảm giác lừa dối đó đi. Chúa Jêsus đã hoàn tất công
việc của Ngài, còn bạn, bạn phải tin rằng mọi sự sẽ đƣợc thực hiện.
Bạn có thể không cảm thấy gì cả nhƣng có một dấu hiệu rõ ràng mà bạn có thể xin
ngay để rút kinh nghiệm đó là ơn ngôn ngữ. Trong sách Công vụ các sứ đồ, ơn nói
tiếng lạ là một hậu quả của việc đƣợc báp tem trong Thánh Linh. Vào ngày lễ Ngũ
Tuần, đó là dấu hiệu thứ nhất của những ân đức thuộc linh nơi ngƣời có đức tin.
Khi tôi xin Chúa Jêsus làm báp tem cho tôi trong Thánh Linh thì tôi không cảm
thấy gì cả. Có một bà đã đặt tay lên đầu tôi và cầu nguyện bằng một ngôn ngữ
khác. Tôi không có một cảm giác nào cả và tôi nghĩ rằng có lẽ không có gì xảy ra.
Nhƣng bà ấy bảo tôi phải tin rằng mình đã đƣợc báp tem trong Thánh Linh và
đừng dựa vào giác quan và suy đoán hãy cảm tạ Chúa về điều đã nhận đƣợc. Tôi
không làm theo lời bà, nhƣng tôi cảm thấy mình không đƣợc tự nhiên. Bà ta còn
nói rằng tôi có thể nói tiếng lạ nếu tôi chỉ mở miệng ra cho ngôn ngữ có thể phát
âm ra ngoài. Tôi ngần ngại nghĩ rằng tôi trở thành ngớ ngẩn. Nhƣng tôi biết Kinh
Thánh đã xác quyết rằng ơn nói tiếng lạ là ơn tứ Thánh Linh, và vì hiện nay tôi đầy
rẫy Thánh Linh, dù tôi có cảm thấy hay không, cho nên tôi phải chờ đợi ơn Chúa
sẽ biểu hiện ra bên ngoài qua tôi và bởi tôi. Quả nhiên tôi thấy có những hình lạ
trong đầu tôi. Tôi mở miệng và nói to lên, những tiếng ấy không có nghĩa gì cả và
phản ứng đầu tiên của tôi là nghĩ rằng:”Đó là một sự lừa bịp chính mày đã tạo ra
những tiếng líu lo đó”. Nhƣng tôi cũng ý thức đƣợc rằng ta không thể đƣa vào
những cảm giác để phê phán việc gì đã xảy ra khi ta nói bởi đức tin. Tôi quyết định
chấp nhận lời Chúa và không để ý đến những điều mà tôi đã nghĩ lúc nãy.
Tôi vẫn không cảm thấy gì cả nhƣng tôi quyết định tin. Dấu hiệu đầu tiên rõ ràng,
mà tình cảm tôi có thể nhận ra đó là một ý thức rất chắc chắn rằng chính Chúa
Jêsus là Đấng Cứu Chuộc tôi và Ngài là Chúa tôi.
Qua lời Chúa, tôi biết rằng Chúa Thánh Linh đƣợc ban cho chúng ta là để làm
chứng về Chúa Jêsus; và bỗng nhiên tôi ý thức rõ ràng chƣa bao giờ tôi ý thức nhƣ
vậy Chúa Jêsus và ai là Chúa Jêsus có ý nghĩa gì cho đời sống tôi.
Dấu hiệu thứ hai tôi cảm thấy một cách rõ ràng nữa là tình thƣơng sâu sắc đối với
ngƣời khác. Điều đó cũng đƣợc lời Chúa nói đến: trái Thánh Linh là yêu thƣơng.
Từ đó tôi cảm nhận một số ơn tứ Thánh Linh nơi tôi và Ngài hành động qua tôi, tôi
tin giản dị rằng Chúa Jêsus đã hành động qua tôi bởi quyền năng của Thánh Linh,
khi tôi tin và chờ đợi sự can thiệp của Ngài.
Nếu có ngƣời nào đƣợc lành bệnh vì tôi đã cầu nguyện và đặt tay lên đầu thì đó
không phải là tôi đã trở thành siêu thánh (thánh đồ bậc thƣợng thặng). Tôi chỉ là
một con sông để cho dòng sông ân điển chảy qua. Kho cầu nguyện, tôi cảm
nghiệm rằng năng lực chữa trị đến từ Đức Chúa Trời, đôi khi tôi không còn cảm
thấy gì cả.
Thành quả hoàn toàn không do những cảm quan của chúng ta, nhƣng chỉ do đức tin
mà thôi, một khi chúng ta xác quyết rằng chính Đức Chúa Trời hành động.
Khi do đức tin bạn mở miệng để nói tiếng lạ, có lẽ bạn sẽ bị cám dỗ mà nghĩ nhƣ
tôi đã nghĩ là chính mình đã đặt những tiếng đó ra.
Bạn đừng để cho những ý tƣởng ấy lừa dối mình và ngăn trở bạn tiếp tục. Nếu bạn
đã thành thật giao phó trọn vẹn đời sống mình cho Đức Chúa Trời, kể cả tiếng nói,
môi miệng, nếu bạn đã tin Đức Thánh Linh cho bạn những lời cần thiết để cầu
nguyện thì bạn có thể xác tín rằng Chúa nhận lời bạn dù bạn chẳng hiểu những lời
líu lo bạn thốt ra. Dù sao những tiếng ấy không quan trọng bằng sự kiện là qua con
ngƣời bạn, bạn đang cầu nguyện với Đức Chúa Trời.
Có ngƣời hỏi: Tại sao phải cầu nguyện trong ngôn ngữ mẹ đẻ hay một ngôn ngữ
cảm hứng nếu Chúa đã biết trƣớc những gì chúng ta cần trƣớc khi chúng ta cầu xin
?
Chúng ta cầu vì cầu nguyện nằm trong chƣơng trình của Chúa dành cho chúng ta
và các con Ngài. Và đó cũng là huấn lệnh của Chúa:“hãy cầu nguyện không thôi”
(ITe1Tx 5:17).
Hãy để thì giờ mỗi ngày cầu nguyện bằng ngôn ngữ cảm hứng, tiếng lạ đó là điều
quan trọng. Vì nó có nghĩa là Thần Lẽ Thật đang nói qua môi miệng chúng ta.
Chúa Jesus đã hứa? “Kẻ nào tin ta thì sông nƣớc Hằng sống sẽ chảy từ trong lòng
mình, y nhƣ kinh thánh đã chép vậy” (GiGa 7:38). Chúa nói về mặt nƣớc chân lý
sẽ chảy từ chúng ta nếu tất cả con ngƣời chúng ta đƣợc chìm ngập trong Thánh
Linh và thấm nhuần bởi Thánh Linh.
Chúng ta thƣờng nghĩ rằng chân lý thƣờng đến từ chúng ta đến từ những ngƣời
khác. Nhƣng bây giờ hãy nghĩ đến những ngƣời khác. Nhƣng bây giờ hãy nghĩ đến
những gì chân lý đó phải thể hiện trong chúng ta. Nó sẽ đem ánh sáng những dối
trá che đậy tội lỗi và sợ hãi, tất cả những xó xỉnh tối tăm của quá khứ chìm trong
những kỷ niệm hoặc tiềm thức của chúng ta. Chúng ta không thể nói ngay với
Chúa bằng trí khôn ngoan của chúng ta. Đó là một trong những lý do khiến Chúa
đã chuẩn bị khía cạnh này trong lời cầu nguyện. Khi chúng ta nói tiếng lạ, trí khôn
chúng ta trực tiếp liên hệ với Đức Chúa Trời. Thánh Linh cầu nguyện thay cho
chúng ta và óc phán đoán của chúng ta không thể kiểm nghiệm đƣợc. Chúng ta nói
những chữ mà chúng ta không hiểu. Thần lẽ thật dò tận đáy sâu thẳm con ngƣời
chúng ta. Vì thế nói tiếng lạ là khí cụ để chữa bệnh rất kỳ diệu trong đời ta. Sau đó
chúng ta khám phá rằng khi chúng ta cầu nguyện trực tiếp cho những nhu cầu của
họ, mà nếu chỉ với trí khôn chúng ta, chúng ta không thể hiểu đƣợc, và rất nhiều
khi, những ngƣời mà ta cầu nguyện không hề ý thức về gốc rễ của những việc đó.
Một bà mẹ bị chứng bệnh thần kinh và tâm lý từ lúc còn là thiếu nữ, bà nhận Đấng
Christ và Đấng Cứu Thế của bà, nhƣng bà không thoát khỏi căng thẳng sâu kín
trong con ngƣời bà. Bà bèn đọc Kinh Thánh về vấn đề báp tem trong Thánh Linh,
bà quả quyết rằng Chúa muốn ƣu đãi và ban cho bà kinh nghiệm đó.
Một ngày nọ bà quỳ xuống trong nhà mình và cầu nguyện: “lạy Chúa Jesus, con
xin dâng trọn con con ngƣời con cho Chúa xin hãy rửa con sạch tất cả những gì
không thuộc con cho Chúa và thanh tẩy con trong Thánh Linh. Con xin cảm tạ
Chúa và con tin rằng Chúa làm điều đó cho con”.
Lúc ấy bà không cảm thấy gì đặc biệt, bà trỗi dậy và tiếp tục công việc nội trợ.
Nhƣng trong suốt ba tuần sau bà cảm thấy có một cái gì bất thƣờng xảy ra trong bà.
Bà khóc thƣờng xuyên và bà cảm thấy sống lại những năm đau khổ thời thơ ấu.
Những việc xảy ra từ xƣa đã quên từ lâu, nay trở lại trong trí nhớ, nỗi khổ cực mà
bà phải chịu đựng và đã để lại nơi bà một dấu vết của một vết thƣơng lòng và sự sợ
hãi; những đau khổ mà đến phiên bà, bà đã gây cho ngƣời khác. Mỗi kỷ niệm lại
làm bà khóc nức nở vì hối hận và đã xin Chúa tha thứ cho bà và cho những ngƣời
đã làm bà đau khổ, và xin Chúa xoa dịu, chữa lành những nỗi đau khổ này nhờ tình
thƣơng của Chúa. Bà chỉ có thể cắt nghĩa những giọt nƣớc mắt mình bằng lời Kinh
Thánh:” Cũng một lẽ ấy, đức Thánh Linh giúp cho sự yếu đuối chúng ta, vì chúng
ta chẳng biết sự mình phải xin đặng cầu nguyện cho xứng đáng; nhƣng chính Đức
Thánh Linh lấy sự thở than không thể nói ra đƣợc mà cầu khẩn thay cho chúng ta”.
(RoRm 8:26). Khi bà ngừng khóc bà cảm thấy nhẹ nhõm. Và một chiều nọ, vào
cuối tuần lễ thứ ba bà lại khóc nức nở thảm thiết. Về sau bà kể :”Tiếng nức nở phát
xuất từ đáy lòng tôi. Rồi bỗng tôi trở lại bình tĩnh giống nhƣ một cơn giông tố
nhƣờng chỗ cho một sự bình an tuyệt hảo. Tôi chìm ngập trong sự an bình này, rồi
bỗng nhiên tôi hiểu rằng có một luồng ánh sáng đang chiếu dịu dàng ở trên tôi. Tôi
cảm nghiệm hơn là tôi thấy và tôi biết đó là tình yêu của Chúa Jesus đang ấp ủ tôi”.
Mọi căng thẳng của bà hầu nhƣ đã biến mất, tuy cũng còn chút đỉnh. Những ngày
sau đó bà cảm thấy nhẹ nhõm nhƣ chƣa từng có. Dù đang làm việc trong nhà hay
ra ngoài phố bà lẩm bẩm hát câu giản dị này :”Chúa Jesus con yêu Ngài quá”. Câu
hát mang ý nghĩa mới mà bà sung sƣớng vô cùng. Một buổi chiều, đang ngồi trên
xe ra phố, bà sực nhớ mình đang tìm chữ để phổ vào một bản nhạc.
Sau đó bà thú nhận rằng: “Lúc ấy tôi chẳng hiểu gì cả. Tôi không chú ý tới những
đoạn Kinh Thánh bàn về việc nói tiếng lạ, nhƣng tôi đang hát trong một tiếng khác
và tôi bỗng ý thức rằng những chữ không phải tôi đặt ra mà có liên hệ đến việc báp
tem trong Thánh Linh”.
Bà tiếp tục hát bằng tiếng là trong mỗi ngày và dần dà qua nhiều tuần, nhiều tháng,
chứng bệnh tâm lý của bà biến hẳn. Bà nói:” Bác sĩ bảo tôi chỉ còn cách là chấp
nhận sự suy nhƣợc về thần kinh. Nhƣng tạ ơn Chúa, Chúa đã chữa lành bệnh. Tôi
đƣợc chữa bằng các bài hát, hát trong tiếng lạ”.
Nếu bạn đã cầu nguyện xin đƣợc báp tem trong Thánh Linh, bạn có thể mở miệng
ra ngay bây giờ để nói ra từng chữ, những âm vừa xuất hiện ra trong trí nhớ bạn
với niền tin rằng những chữ âm đó là do Thánh Linh Chúa ban cho bạn khả năng
để nói tiếng lạ với điều kiện là bạn muốn. Nếu bạn không thấy một tác động hay
một cảm giác gì thì bạn hãy cảm ơn Chúa mà thôi. Một ngày kia sẽ cảm giác đƣợc
điều đó, nhƣng bây giờ Chúa ban cho bạn một ơn đặc biệt để lớn lên trong đức tin.
Hãy đọc Kinh Thánh tất cả những gì Chúa Jesus nói về Thánh Linh. Hãy đọc sách
công vụ các sứ đồ và các bức thƣ gửi cho các Hội Thánh đầu tiên nói về Thánh
Linh và những ân tứ của Thánh Linh. Tât cả những điều đó bây giờ đều có liên hệ
với bạn.
Hãy chờ đợi những việc này xảy ra trong chính cuộc đời bạn. Hãy nói với Đức
Chúa Trời rằng bạn muốn đƣợc dùng nhƣ một dòng sông để tình yêu của Chúa
chảy đến những ngƣời khác, và bạn sẵn sàng chấp nhận mọi yêu sách của đức tin.
Hãy cảm tạ Chúa trong mọi trƣờng hợp, dù thuận lợi hay không. Và hãy tin rằng
Chúa dùng mọi hoàn cảnh để thực hiện chƣơng trình tuyệt diệu của Chúa trên cuộc
đời của bạn.
HÃY XEM ĐÓ NHƢ LÀMỘT NIỀM VUI TRỌN VẸN
“Hỡi anh em hãy coi sự thử thách trăm bề thoạt đến cho anh em nhƣ là điều vui
mừng trọn vẹn, vì biết rằng sự thử thách nhịn nhục phải làm trọn việc nó, hầu cho
chính mình anh em cũng trọn lành toàn vẹn không thiếu thốn chút nào” (Gia Gc
1:2-4)
Chúa đã có một chƣơng trình đặc biệt cho bạn từ lâu rồi, trƣớc khi cả bạn chƣa
sinh ra. Chúa đã tạo dựng bạn với nhiều tình yêu và chăm nom săn sóc bạn. Mỗi
chi tiết cụ thể, mỗi đặc điểm đã đƣợc lựa chọn theo dự tính và ý muốn của
Chúa,hình dáng của bạn, khả năng, quê quán, gia đình bạn... không có gì liên hệ
đến bạn mà do tình cờ hay ngẫu nhiên. Chúa đã tìm kiếm bạn và lôi kéo bạn về với
Ngài vì tình thƣơng của Chúa thông qua những hoàn cảnh chuẩn bị cho mục đích
duy nhất đó.Chúa đã tái sinh bạn, cho bạn cuộc sống mới nhờ Thánh Linh khi bạn
tiếp nhận Đấng christ là Đấng Cứu Tinh của mình, và khi bạn đƣợc báp tem, chìm
ngập trong Thánh Linh. Và chƣơng trình của Chúa bây giờ là làm bạn toàn hảo
trọn vẹn.
Vậy chúng ta đã đƣợc xƣng công bình bởi đức tin, thì đƣợc hòa thuận với Đức
Chúa Trời, bởi Đức Chúa Jesus Christ chúng ta (RoRm 5:1), là Đấng đã làm cho
chúng ta cậy đức tin vào trong ơn này là ơn chúng ta hiện đƣơng đứng vững, và
chúng ta khoe mình trong sự trông cậy về vinh hiển Đức Chúa Trời (5:2). Chúa
muốn chúng ta kiện toàn. Dĩ nhiên chúng ta biết điều đó. Chúa muốn chúng ta có
thêm tình thƣơng, lòng nhân ái, lòng kiên nhẫn, đức tin, sự bình an, dịu hiền,
khiêm nhu, tự chủ để chúng ta trở thành những chứng nhân đích thực khắp mọi
nơi. Có phải vậy không ?
Chính thế, nhƣng phần đông chúng ta nghĩ rằng điều ấy có nghĩa là phải có một
chƣơng trình hành động chặt chẽ để có thể thánh hóa mình bằng cách trở nên thân
mật hơn, kiên nhẫn hơn, khiêm nhu và tự chủ hơn. Và càng cố gắng ngƣời ta càng
thất vọng.
Chính Chúa thay đổi chúng ta chứ không phải chúng ta tự thay đổi mình. Chúa
muốn chúng ta tin tƣởng vào Chúa để Chúa làm mọi sự.
“Vậy hỡi anh em tôi lấy sự thƣơng sót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng
thân thể mình làm lễ sống và thánh đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là thờ phƣợng phải
lẽ của anh em. Đừng làm theo đời này, nhƣng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm
thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa
Trời là thể nào” (12:1-2)
Chúa thay đổi chúng ta nhƣ thế nào ? Làm sao Chúa có thể xóa bỏ những suy nghĩ
và những hành động xƣa cũ mà chúng ta có từ nhiều năm qua, tất cả những tính
tình, nhân cách, thiện cảm, và ác cảm tự nhiên nhƣng ƣa thích, những chống đối...
dƣới ánh sáng của Thần Lẽ Thật những điểm đó lộ ra rõ ràng thuộc bản năng vị kỷ,
hung hăng, ích kỷ mà từ bao nhiêu năm đã làm chúng ta xa cách Chúa và xa cách
anh em.
Chúa dùng phƣơng pháp nào để đổi thay chúng ta?
“Anh em vui mừng về điều đó, dầu hiện nay anh bị sự thử thách trăm bề buộc phải
buồn bã ít lâu, hầu cho sự thử thách đức tin anh em quý hơn vàng hay hƣ nát, dầu
bị thử lửa, sanh ra ngợi khen, tôn trọng vinh hiển cho anh em khi Đức Chúa Jêsus
Christ hiện ra” (IPhi 1Pr 1:6-7)
Nhƣ thế đức tin của chúng ta lớn lên và chúng ta đã thấy ở trên rằng kiên nhẫn, bền
bỉ dẻo dai tăng trƣởng khi cuộc đời chúng ta đầy những khó khăn, thử thách và rắc
rối.
Một vài ngƣời nói: “Nếu đó là phƣơng tiện duy nhất để tăng thêm tính kiên nhẫn
và đức tin, thì tôi muốn có loại đức tin yếu hơn một chút”. Nếu đó là tƣ tƣởng của
bạn thì chƣa chắc tin cậy Chúa. Trong đáy lòng bạn, bạn nghi ngờ chƣơng trình
của Chúa và tình yêu của Chúa đối với bạn.
Khi Chúa sai tiên tri Giêrêmi nói với dân Do Thái bị lƣu đày ở Baybilôn rằng cuộc
lƣu đày sẽ lâu dài (70 năm) và dân Do Thái phải biết thích nghi với hoàn cảnh, thì
Chúa nói thêm:”vì ta biết ý tƣởng ta nghĩ đối cùng các ngƣời là ý tƣởng bình an
không phải tai họa, để cho các ngƣơi đƣợc trông cậy trong lúc cuối cùng của mình”
(Gie Gr 29:11). Những đau khổ ở Babylôn cũng nằm trong chƣơng trình hoàn hảo
nhất đƣa đến tƣơng lai và hy vọng.
Chƣơng trình của Chúa đối với bạn và tôi là chƣơng trình dễ dàng và sung sƣớng
sao? Có chứ, nhƣng nó còn tuỳ thuộc theo mức độ của đức tin và của lòng trông
cậy của chúng ta đối với những lời hứa của Chúa. Nhƣng sự thanh lọc và những
thử thách của đức tin phải đƣợc thể hiện qua những biến cố và đó là sự thách đố
đối với ý chí để chúng ta tin vào lời Chúa để chỉ dựa vào lời Chúa mặc dầu tất cả
những gì mà cảm quan của chúng ta có thể xúi dục gợi lên cho ta.
Từ lâu chúng ta quen cho những cảm giác, những xúc động hay lý trí hƣớng dẫn
chúng ta. Ta phải dứt bỏ thói quen này để có thể tin vào đức tin, hãy nhớ kỹ rằng
đức tin chính là ý chí quả quyết muốn đặt niềm tin trông cậy vào một cái gì mà
chúng ta không thể thấy cũng không thể cảm thụ đƣợc.
Nhƣ thế đức tin tăng trƣởng Chúa đã nói rằng Ngài hƣớng mọi sự vào điều tốt lành
cho chúng ta, cả khi mọi sự có vẻ đi ngƣợc lại khi chúng ta tin chắc vào lời Chúa
và biết cảm ơn Chúa vì tất cả mọi sự xảy ra.
Theo ý bạn, đức tin của Ápraham đã lớn lên nhƣ thế nào ?
Bạn có thể tin đến độ đƣa đứa con trai duy nhất của bạn lên núi để làm của lễ dâng
lên Đức Chúa Trời chỉ vì lời phán của Ngài và cứ tiếp tục tin rằng do đứa con trai
duy nhất đó Chúa sẽ chúc phƣớc và gia tăng dòng dõi của bạn ?
Nếu bạn là ngƣời của Ápraham, bạn có thể nhìn hành động điên rồ của ông trong
niềm tin và ca tụng, nghĩ rằng dù ông có sai lầm gì Chúa cũng hƣớng mọi sự vào
điều tốt lành cho ngƣời bạn của bạn không ?
Chỉ có Chúa mới tái tạo chúng ta, uốn nắn chúng ta từ bên trong phần chúng ta thì
hãy theo lời dạy của sứ đồ Phaolô khi ông nói với các tín hữu tại La mã:”Hãy dâng
chính mình cho Đức Chúa Trời nhƣ ngƣời từ kẻ chết sống lại, và chi thể mình làm
đồ dùng của sự công bình” ... hãy vui mừng trong sự trông cậy, nhẫn nại trong sự
hoạn nạn ... hãy chúc phƣớc chớ nguyền rủa ... Vả, mọi sự hiệp lại là ích cho kẻ
thƣơng yêu Đức Chúa Trời.
Chắc bạn cũng đã đƣợc nghe câu chuyện của một mục sƣ nọ. Ông cầu nguyện xin
Chúa cho ông kiên nhẫn hơn: Sáng hôm sau, ông bỗng nghe tin ngƣời thƣ ký rất
giỏi, tận tâm, có trách nhiệm, từ lâu với ông đã ngã bệnh. Ngƣời đến thay thế là
một cô gái rất chậm chạp. Ông tức bực và giận dữ nhiều lần, mãi đến khi ông nhận
thấy rằng cô thứ ký này là lời đáp của Chúa cho lời cầu xin của ông. Nếu không có
ngƣời này làm sao ông có thể thêm kiên nhẫn đƣợc! Ông lập tức cảm tạ Chúa và ca
ngợi Ngài đã chọn cho ông một ngƣời thƣ ký mới đó, và cô này sau khi biết việc
thì trở lên nhanh nhẹn.
Đức tin và lòng kiên nhẫn là những nét căn bản của chứng nhân Cơ Đốc. Nhƣng ta
không lên quên một điểm khác mà nếu không có nó thì ta không thể hiểu Tin Lành.
Phaolô viết cho các tín hữu thành Côrinhtô :”Hãy nôn nả tìm kiếm tình yêu
thƣơng” (ICo1Cr 14:1)
“Nếu các ngƣơi yêu nhau thì ấy là tại điều đó mà thiên hạ sẽ nhận biết các ngƣơi là
môn đồ ta” (GiGa 13:35).
“Ta nói cùng các ngƣơi những điều đó, hầu cho sự vui mừng của ta ở trong các
ngƣơi đƣợc trọn vẹn. Điều răn của ta đây này: Các ngƣơi hãy yêu nhau cũng nhƣ ta
đã yêu các ngƣơi (15:11-12).
Tình yêu đối với chúng ta có một giá trị cao hơn mọi sự ở trên đời chúng ta đƣợc
tạo dựng nên để kính yêu Chúa và yêu thƣơng nhau. Khi chúng ta không biết
thƣơng yêu thì đã xảy ra bao điều kinh khủng. Chúng ta phải gặp lại nhau đầy dẫy
hận thù, căm tức, đầy mặc cảm tội lỗi và chúng ta nợ nhau.
Những nỗi xúc động của chúng ta, những nỗi lo sợ và thất vọng, bản năng tự vệ và
hung hăng ... tất cả đều do thiếu tình thƣơng.
Những nhà giáo dục, những nhà tâm lý học, những nhà xã hội học và các nhà
chuyên môn khác đều nói đến cái ảnh hƣởng đầy hiệu lực của tình yêu trong việc
phát triển nhân cách của con ngƣời.
Tình yêu thƣơng đó biết chấp nhận ngƣời khác, tin cậy ngƣời khác, tốt bụng và
kiên nhẫn, không bao giờ ích kỷ hay ghen ghét, kiêu ngạo, một tình yêu thƣơng vô
vị lợi và không tìm cách khuất phục ngƣời khác, không hờn giận cũng không gắt
gỏng, không để tâm thù oán cũng không nghiêm khắc đối với những sai lầm của
ngƣời khác; một tình thƣơng chân thành biết tin tƣởng và chờ đợi cái tốt nơi ngƣời
khác và không vui mừng vì cái xấu của ngƣời ta, nhƣng luôn sung sƣớng vì chân lý
đã thắng. Một tình thƣơng nhƣ thế sẽ chấp nhận tất cả để vƣợt lên trên hoàn cảnh
mà không bị sa ngã.
Đó chính là tình yêu thƣơng mà Chúa đã yêu thƣơng chúng ta và muốn chúng ta
cùng yêu nhau. Đó là thứ tình yêu có thể chữa lành những vết thƣơng cũ xóa bỏ
những sự sợ hãi và làm tan biến những nỗi chua chát giận ghét. Đó là những thứ
tình yêu cứu chữa chúng ta và làm cho chúng ta có khả năng yêu thƣơng trở lại mà
không sợ bị xúc phạm hay bị xua đuổi.
Đó là tình yêu thƣơng mà ngƣời Hy lạp gọi là bác ái (agape). Một sự thân ái huyền
diệu, tự do, có ý thức và chủ đích. Chính tình yêu thƣơng này là trái của Thánh
Linh và khi đạt đến độ viên mãn (trọn vẹn) thì trở thành ánh sáng lôi cuốn ngƣời ta
về nguồn. Nguồn đây là tình yêu của Đức Chúa Trời đối với chúng ta qua Đấng
Christ.
Mỗi ân huệ và mỗi sự biểu hiện cho chúng ta chỉ có một mục đích mà thôi, đó là
cho chúng ta thấy tình yêu của Đức Chúa Trời với sự ƣu ái của Chúa đối với mỗi
nhu cầu chúng ta. Chúa chữa lành vì Chúa yêu thƣơng. Chúa là tình yêu và năng
lực của Chúa trong chúng ta và qua chúng ta là tình yêu một tình yêu riêng biệt,
thắm thiết thiêng liêng và huyền diệu cho mỗi loài thọ tạo.
Điều Chúa đến thông báo cho nhân loại là mọi bức thông điệp cho tình yêu, và
chúng ta phải trở lên sứ giả cho tình yêu đó, trở lên những kẻ mang tình yêu của
Chúa đến cho ngƣời khác. Nhƣng để chúng ta hoàn thiện nhiệm vụ này, Chúa
muốn làm cho chúng ta trở thành những ngƣời biết yêu.
Nhƣng nếu tình yêu chỉ từ Đức Chúa Trời đến, nếu nó là trái của Thánh Linh, thì
tại sao Chúa Jêsus lại truyền cho chúng ta phải biết yêu thƣơng. Ở đây chúng ta
đứng trƣớc lời hứa của Đức Chúa Trời mà chúng ta phải biết chấp nhận trong đức
tin.
Tình yêu là trái của Thánh Linh và Kinh Thánh nói rằng Thánh Linh sống trong
chúng ta. Vì thế chúng ta phải biết tìm thấy tình yêu nơi chúng ta. Chúng ta nhận
đƣợc khả năng để yêu nhƣng chúng ta phải biết tin tƣởng và khi muốn yêu phải đi
vào con đƣờng tình yêu.
Hãy nhớ rằng bác ái là một tình yêu có ý chí và có ý thức. Chúng ta phải yêu ngay
cả khi mình không còn cảm thấy một chút tình yêu nào cả.
Việc gì xảy ra khi chúng ta quyết định hành động theo lời Chúa ? Chúng ta hiểu
rằng thái độ tin cậy này sẽ giải phóng năng lực huyền diệu của tình yêu thiêng
liêng, chính năng lực này sẽ bắt đầu biến đổi chúng ta, làm cho chúng ta ngày càng
trở nên biết yêu thƣơng mà chúng ta chấp nhận yêu thƣơng một cách tự do.
Dù việc này đã xảy ra trong thực tế nhƣ thế nào?
Tôi xin Chúa cho tôi có khả năng yêu thƣơng mỗi ngày nhiều hơn và tôi đã đến
chỗ hiểu rằng, về phƣơng diện này, những thành quả tôi đạt đƣợc cũng khả quan.
Trong khi đi đây đi đó để làm việc và trò chuyện với nhiều ngƣời đã đƣợc “Phƣớc
qua chức vụ của tôi”, tôi sung sƣớng cảm thấy luôn luôn yêu thƣơng ngƣời khác
nhiều hơn.
Cho tới một ngày nọ, tôi chạm trán với một nhân vật kinh tởm và khốn nạn chƣa
từng thấy! Trƣớc cảnh tƣợng của sự truy lạc đó tôi ý thức một cách hãi hùng rằng
tôi không có một chút tình thƣơng nào cho cô ta mà trái lại chỉ có một sự ghê tởm
tự nhiên. Tất cả điều tôi ao ƣớc là mong cho cô ta đi khuất mắt tôi.
Đó là một cô gái tội nghiệp đến bàn giấy của tôi với một ngƣời lính, bạn cô ta.
Khuôn mặt cô đã ẩn dƣới một lớp sáp cũ và đầy những ghét bẩn. Tóc cô ta buông
lòng thòng, cứng nhƣ những sợi kẽm gai. Aùo quần dơ bẩn rách rƣới. Đôi chân đầy
vết sẹo và dính đầy bùn. Ngƣời cô ta toát ra mùi hôi tanh khó chịu tràn ngập căn
phòng. Mặt cô cau có, cái nhìn đầy hận thù và cặp mắt sƣng lên vì đã khóc quá
nhiều.
Cô gái đau khổ này đến Jort Bening để báo cho ngƣời lính này biết cô đang mang
thai. Ngƣời lính này nhận lãnh trách nhiệm nhƣng anh ta không muốn cƣới cô. Cô
ta nổi giận đến nỗi cô dọa sẽ giết anh ta. Cô từng có một đứa con hoang rồi, nên
lần này cô nhất quyết phải lấy chồng nếu không cô sẽ tự tử.
Tôi nhìn cô ta và nghĩ rằng tôi chƣa bao giờ gặp một ngƣời khắc khoải, bị bỏ rơi và
ít gây thiện cảm với ngƣời khác nhƣ thế. Ngay cả ý muốn cầu nguyện cho cô ta
cũng làm tôi kinh hãi. Tôi không chạm tới cô ta.
“Lạy Chúa , tôi cầu nguyện thầm, tại sao Chúa đƣa cô này đến với con”?
Đó là một trong những đứa con của ta. Câu trả lời đến ngay. Cô ta bị bỏ rơi. Cô
cần tình thƣơng của Ta và Ta chữa lành. Ta đƣa cô ấy đến đây để con yêu thƣơng
và nói về tình thƣơng yêu của Ta đối với cô.
Bỗng nhiên tôi xác nhận một cách đau đớn rằng tôi đã quá kiêu căng khi nghĩ mình
có khả năng biết yêu thƣơng, bây giờ tôi chỉ cảm thấy kinh tởm khi đứng trƣớc một
ngƣời tuyệt vọng cần đƣợc yêu thƣơng.
“Lạy Chúa, xin tha lỗi cho con. Con cảm ơn Chúa đã cho con thấy rằng tình yêu
của con có thể hời hợt và ích kỷ biết chừng nào. Xin Chúa hãy lấy đi sự bất lực của
con và ban cho con tình yêu mà Chúa muốn con trao cho ngƣời đàn bà này”.
Cô gái khóc nức nở, cặp mắt đen tối và thất vọng dƣới hai mí mắt sƣng mọng và
nhòe nhoẹt dƣới phấn sáp.
Thƣa ông, cô ta nói xin ông làm một cái gì cho tôi.
Cô có tin Đức Chúa Trời không?
Có, cô gật đầu lẩm bẩm.
Cô có tin rằng Chúa có thể giúp cô không?
Cô ngập ngừng và chậm rãi nói.
Tôi biết rằng Chúa có thể giúp tôi, nhƣng tôi không tin rằng Chúa muốn giúp. Tôi
là một Cơ Đốc Nhân, nhƣng bây giờ hãy nhìn tôi! dù Chúa có muốn giúp tôi, thì
làm sao Chúa có thể kéo tôi ra khỏi hoàn cảnh éo le này?
Chúa có thể và muốn giúp chị, tôi trả lời quả quyết nhƣng không cảm thấy vững
dạ.
Cô lắc đầu hai vai sụp xuống với một thái độ thất vọng hoàn toàn. Tôi nói :
Tôi xin cô, cô hãy cố gắng hiểu rằng Chúa thƣơng cô. Chúa muốn ban cho cô tràn
đầy niềm vui và sự bình an của Chúa, và giải quyết mọi vấn đề của cô ngay ngày
hôm nay trƣớc khi cô rời bàn giấy của tôi. Cô gái mở to cặp mắt, há hốc miệng
nhìn tôi. Còn ngƣời lính thì có vẻ tƣởng rằng tôi sẽ buộc anh ta cƣới cô ấy.
Tôi tiếp :
Chính Chúa đã đƣa cô đến đây ngày hôm nay, Chúa đã cho phép cô chịu đựng tất
cả những sự khó khăn này để cô ý thức rằng Chúa thƣơng cô vô cùng. Chúa có một
chƣơng trình rất kỳ diệu cho đời cô. Nếu cô biết tin cậy vào Chúa và cám ơn Chúa
vì tất cả những gì xảy đến cho cô, thì bây giờ cô đã khám phá rằng Chúa đang giúp
cô.
Cám ơn Chúa? Cặp mắt cô ta lại ánh lên một sự giận dự. Tất các điều tôi xin là
đƣợc ông này cƣới tôi để cho đứa con tôi ít ra cũng có đƣợc một cái tên.
Hãy nhìn đây. Tôi chỉ cho cô ta một câu trong Kinh Thánh:”Phàm việc gì cũng
phải tạ ơn Chúa, vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Chúa Jêsus Christ đối với anh
em là nhƣ vậy“ (ITe1Tx 5:18). Rồi lật tiếp các trang và đọc câu này:”Vả, chúng ta
biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời” (RoRm 8:28).
Cô ta nhìn tôi, không tin, và tôi nhận thấy rằng không thể nói về tình yêu của Chúa
hoặc một tình thƣơng nào khác cho một ngƣời đã bị cuộc đời hành hạ đến thế. Cô
ta không hiểu ý nghĩa của hai chữ yêu thƣơng. Chỉ có Chúa mới có thể làm nảy ra
trong trí nhớ cô tia sáng giúp cô hiểu ý nghĩa đó thôi.
Tôi có thể cầu nguyện cho cô đƣợc không?
Đƣợc chứ, tại sao lại không. Cô trả lời mệt mỏi.
Sắp sửa đặt tay trên đầu cô ta để cầu nguyện, tôi để ý rằng cô rất bẩn và cần phải
đƣợc tắm rửa. Tôi rùng mình ghê tởm.
“Lạy Chúa, tôi thì thầm, tình yêu của Chúa đối với chúng con thật vô biên, nó to
lớn cao cả biết bao so với tình yêu nhỏ bé mà chúng con có thể trao đổi cho nhau.
Lạy Chúa, con xin Chúa hãy chạm đến cô ta bằng tình yêu và cho con biết yêu
thƣơng cô ta”.
Với một cử chỉ quả quyết tôi đặt tay lên đầu cô và bắt đầu cầu nguyện lớn tiếng:
“Lạy Chúa, con biết rằng thánh ý Chúa muốn chúng con ca tụng Chúa trong mọi
sự. Không có gì xảy ra ở đời này mà Chúa không muốn và không cho phép. Đứa
con yêu quý của Chúa đã bị đau khổ vì cuộc đời. Nó đau đớn, bị thƣơng và bị bỏ
rơi. Ngƣời ta xua đuổi nó. Xin cám ơn Chúa vì tất cả mọi biến cố đã đƣa cô ta đến
điểm này. Xin Chúa hãy giúp con thực hiện tình yêu của Chúa và giúp cô ca ngợi
Chúa ngay từ bây giờ”.
Dƣới bàn tay tôi, tôi cảm thấy cô ta run rẩy, Chúa đang chạm đến bởi tình yêu của
Chúa .
Cô có thể cảm tạ Chúa vì tất cả mọi sự ngay từ bây giờ không?
Cô nức nở :
Vâng lạy Chúa, con cảm tạ Chúa. Con thành thật cảm ơn Chúa vì mọi sự .
Tôi tiếp tục cầu nguyện.
Lạy Chúa, con tin rằng bây giờ Chúa chữa lành trái tim đau khổ của cô, Chúa đặt
trong cô một đời sống mới, Chúa ban cho cô niềm vui thay vì tiếng khóc, sự đắc
thắng thay vì sự thất bại.
Khi tôi vừa dứt lời, nét mặt cô rạng rỡ qua màn lệ.
Có việc gì vừa xảy ra! Cô kêu lên, tôi cảm thấy rất khá. Tôi không còn giận dữ
nữa. Tôi cảm thấy rất bình an. Đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy đƣợc sung sƣớng,
thật sự sung sƣớng.
Cô ta rất đỗi kinh ngạc.
Tại sao thế nhỉ ?
Chính Chúa đã làm cho cô đấy, vì chúng ta đã tin vào Chúa và đã ca tụng Ngài.
Tôi trả lời cho cô và bỗng nhiên ý thức một phép lạ cũng vừa xảy ra trong tôi.
Tôi nhìn cô. Cô trở thành một ngƣời khác. Tôi muốn ôm lấy cô ta. Cô có vẻ rất
trong sạch, rất thánh thiện và rất đẹp !
“Cám ơn Chúa“, tôi cảm thấy vui vô cùng.
“Thƣa Chúa con đã thƣơng đƣợc cô gái tội nghiệp này. Cảm ơn Chúa thay đổi lòng
con”.
Tôi sẽ không bao giờ thành công để thƣơng cô ta một chút nào nếu tôi cố gắng thay
đổi thái độ của mình. Chính Chúa đã thay đổi tôi. Phần tôi, tôi phải chấp nhận là
mình yêu thƣơng và xƣng tội đó ra sau đó đặt mình dƣới quyền năng của Chúa và
tin tƣởng vào sự biến cải hiệu nghiệm của Ngài.
Chúng ta càng cố gắng để sửa trị chúng ta, thì chúng ta càng thất vọng và đau khổ
vì những thất bại của mình.
Chúa chỉ cần cho chúng ta vài ngƣời để cho chúng ta thấy rằng chúng ta không có
khả năng tự mình yêu thƣơng kẻ khác. Chúa làm nhƣ thế không phải để cho chúng
ta bối rối, nhƣng để chúng ta có dịp kinh nghiệm tình yêu của Chúa vì nó có thể
làm xáo trộn cả cuộc đời chúng ta và cuộc đời của con ngƣời mà Chúa muốn chúng
ta yêu thƣơng.
Bạn có cảm tạ Chúa vì những ngƣời rất khó yêu ở xung quanh bạn không. Bạn có
một ngƣời láng giềng rất khó tính không? Có một ngƣời chỉ huy khó chịu không?
Nếu có, thì hãy cảm tạ Chúa vì Chúa yêu thƣơng bạn và muốn niềm vui của bạn
đƣợc hoàn toàn khi bạn có khả năng yêu thƣơng những ngƣời khác.
Phải, Chúa yêu thƣơng họ và muốn nhờ bạn đƣa tình yêu của Chúa đến với họ.
Chính tại trong gia đình chúng ta mà ta có một dịp rất tốt để yêu thƣơng, và ai đó
cũng là chỗ khó khăn nhất.
Có thể rằng đức lang quân hoặc phu nhân của bạn chỉ biết làm cho bạn nổi giận.
Hoặc là tính tình của cha mẹ rất khó khăn. Hoặc con cái bạn cứng đầu không chịu
vâng lời !
“Các ngƣơi hãy yêu thƣơng nhau”, Chúa Jêsus phán vậy. Hãy chấp nhận nhau.
Hãy cảm tạ Chúa vì ngƣời này ngƣời nọ.
Cám ơn Chúa vì một ngƣời sau rƣợu, hoặc một đứa con vô ơn, chống thì thật khó
khăn. Không dễ thƣơng một ngƣời từ chối tình yêu của mình.
Cũng không dễ nhìn thấy “cái đã trong mắt mình” hay cái “công bình của riêng
mình”, “lòng tự ái”, và “cái vài trò tử đạo” mà mình đã gánh từ mấy năm nay.
Chúng ta có can đảm để xin Chúa của mình những con ngƣời có thể giúp chúng ta
nhìn thấy “Cái đà trong mắt mình” không?
Chúng ta có thể cảm ơn Chúa vì những ngƣời này chỉ vì họ khó tính không. Chúng
ta có thể đem đến cho Chúa ý chí chúng ta muốn yêu thƣơng rồi phó thác mình
trong tay Chúa để Chúa nhào luyện, tái tạo chúng ta để chúng ta có thể yêu thƣơng
họ một cách hoàn hảo và hợp với chƣơng trình cùng ý thánh của Chúa trên chúng
ta sao?
Nếu có, thì chúng ta có thể đợi chờ một phép lạ của Chúa nơi chúng ta cái ấy có
thể đến tức khắc; chẳng hạn ngƣời ta đang cảm nhận tình yêu nóng bỏng của mình
đang nguội dần, rồi xin Chúa làm nóng lại; nhƣng cũng có ngƣời ngồi đó chờ nó
nóng lại mà không cố gắng gì cả.
Để có thể yêu thƣơng một cách chủ động và tự do nhƣ Đấng Christ đã yêu chúng
ta, thì phải luôn luôn dùng đến lý trí của mình. Lúc ban đầu, chúng ta cảm thấy yêu
hay không yêu thì điều ấy không thay đổi gì vào việc chúng ta yêu thƣơng. Chúa sẽ
chỉ cho chúng ta phƣơng thức rõ ràng và đặc biệt để cho chúng ta bày tỏ tình yêu
cho ngƣời mà Chúa đã chỉ trên con đƣờng đời của chúng ta. Không bao lâu chúng
ta sẽ cảm thấy một tình yêu sâu sắc hơn trƣớc nhiều. Đó là một thứ tình yêu chân
thành và bền vững, vì nó bắt đầu từ nơi nơi cao xa hơn giới hạn bình thƣờng của
chúng ta. Đó là tình yêu của Chúa tràn ngập lòng chúng ta và chảy lai láng qua
những ngƣời sống xung quanh chúng ta.
Đây là sự đâm rễ vào trong tình yêu của Chúa. trong mảnh đất màu mỡ này, khả
năng yêu thƣơng của chúng ta mỗi ngày mỗi phát triển.
Đó chính là kết quả của Thánh Linh hành động trong chúng ta.
Một Cơ Đốc Nhân có ngƣời chồng nghiện rƣợu từ nhiều năm qua. Một hôm ngƣời
đàn ông này bị phạm pháp và bị ở tù. Ngƣời vợ cố gắng tranh đấu để có thể nuôi
mấy đứa con bằng số tiền trợ cấp xã hội ít ỏi. Bà ta siêng năng đƣa con gái đi thờ
phƣợng, và đƣợc nhiều ngƣời yêu mến, quí trọng. Các bạn của bà nói:”Tội nghiệp
chị E, chị nuôi con một mình mà không bỏ ngày chủ nhật nào, cũng không than
thở, còn ông chồng thì vô tài, không làm việc gì cả mà lại say sƣa suốt ngày. Anh
ấy làm gia đình mất thể diện và xấu hổ”.
Bây giờ chồng chị bị tù, chị E nghĩ rằng mình có đủ lý do để xin lý dị. Nhƣ thế chị
có thể nuôi con xa ảnh hƣởng của cha nó.
Một hôm chị nhận đƣợc món quà, đó là quyển sách:”Từ địa ngục đến ca ngợi”.
Đối với chị E. Thật khó lòng mà cám ơn Chúa vì những năm tháng nghèo túng, đói
rách vừa qua. Nhƣng khi đọc lại, chị thấy sự ca ngợi đã thay đổi nhiều cuộc sống,
và chị quyết định thử.
Chị bắt đầu cầu nguyện:”Xin cảm tạ Chúa vì những Ai đã nghiện rƣợu. Xin cảm tạ
vì những năm tháng nghèo túng, đau khổ và cô đơn đã trải qua”. Chẳng bao lâu chị
nghe tin chồng chị đã đƣợc ra tù và trở lại uống rƣợu. Nhƣng chị vẫn tiếp tục cảm
ơn Chúa.
Dần dần chị khám phá ra một số sự kiện trong đời chị mà chị không hề ý thức.
Trong khi tiếp tục cảm tạ Chúa cho chồng chị, xin Chúa giúp chị chấp nhận và yêu
thƣơng chồng, chị bỗng nhận thấy rằng mình phạm một tội lỗi rất nặng, nặng hơn
cả tật nghiện rƣợu: Ấy là chị đã quen nhìn thấy “Cọng rác” trong mắt anh mà
không thấy “cái đà” trong mắt mình. Chị đã phê phán anh ấy vì anh ấy nghiện
rƣợu. Chị tự xem mình tốt hơn và xứng đáng hơn chồng, rồi chị cảm thấy thƣơng
mình, tự cho mình là ngƣời chịu bao đau thƣơng để rồi đi đến sầu muộn và thất
vọng trong nhiều năm. Cuối cùng chị quỳ xuống và kêu: “Lạy Chúa, con ý thức
rằng tội con còn nặng hơn tội chồng con, Chúa đã dạy chúng con phải biết yêu
thƣơng nhau và biết vui mừng khi bị thử thách. Con đã không yêu con cũng thấy
niềm vui, xin Chúa tha thứ cho con. Con cảm tạ Chúa cho anh A làm chồng con để
con có thể nhìn thấy con ngƣời thật của mình. Xin Chúa cũng tha tội cho anh A.
Xin Chúa chữa lành cho những nỗi khổ đau của anh ấy và xin Chúa hãy lấy tình
yêu của Con Độc Sanh của Chúa mà chạm đến anh ấy”.
Từ ngày ấy chị cảm thấy vui vẻ dễ dàng trong mọi hoàn cảnh. Chị đã biết rằng
Chúa đã cho phép tất cả mọi hoàn cảnh này xảy ra để cuộc đời chị tràn đầy tình
thƣơng và niềm vui. Dần dần trong lúc chị cầu nguyện và ca tụng Chúa những cảm
giác thƣơng hại mình và những nỗi chán chƣờng tan biến mất.
Mỗi ngày chị lại có một kinh nghiệm mới mẻ và rất vui. Chị ý thức sâu sắc sự hiện
diện của Chúa Jêsus trong đời chị.
Sau đó ít lâu, chồng chị, không hiểu tại sao, lại đến dự buổi thờ phƣợng tại nhà thờ
nọ. Anh tiếp nhận Chúa Jêsus làm Cứu Chúa của mình và anh đƣợc giải thoát khỏi
sợi dây ràng buộc đã trói chặt anh từ 15 năm nay. E và A trở lại chung sống, xây
dựng lại tổ ấm gia đình. Và anh A ghi tên học Kinh Thánh để bắt đầu cuộc sống
mới phục vụ Chúa.
Vì tình yêu, Đức Chúa Trời có thể cùng một mối liên hệ khó khăn giữa hai ngƣời,
hoặc nhiều hơn hoàn cảnh cực khổ để cho chúng ta có dịp lớn lên và bày tỏ sự
sống thuộc linh, hoặc cho chúng ta thấy một số nhƣợc điểm tính tình của mình
hoặc một lỗi lầm về hạnh kiểm.
Dù vì lý do nào, chúng ta đều có cớ để vui mừng. Mỗi một lỗi lầm, nhỏ hoặc lớn,
ẩn kín đến mức độ nào cũng là một khe hở có thể làm sụp độ một tòa nhà.
“Bởi cớ đó, tội các ngƣơi nhƣ tƣờng nẻ sắp vỡ, lồi ra trên cao, chỉ trong giây phút
sẽ thình lình đổ xuống” (EsIs 30:13).
Không bao lâu khe hở này sẽ làm cho cả tòa nhà sụp đổ hết. Ta có thể sửa chữa
những khe hở mà ta nhìn thấy. Ta có thể xƣng tât cả những yếu đuối và những tội
lỗi mà ta ý thức đƣợc, và một khi đã xƣng ra thì biết chắc nó đã đƣợc tha thứ và
tình yêu của Chúa sẽ xoa dịu mọi đau khổ và chữa lành mọi vết thƣơng. Nhƣng
làm sao chữa những khe hở quá ẩn kín, những lỗi lầm mà chúng ta ý thức một cách
mơ hồ bởi một tình cảm e ngại, khắc khoải, bất ổn, giận hờn hoặc những triệu
chứng khác, mà chúng ta đều biết qua kinh nghiệm.
Tội lỗi đặc biệt mà Êsai đã nói trong đoạn trích ở trên là sự từ chối bƣớng bỉnh của
dân Do Thái. Họ không vâng theo những chỉ thị của Đức Chúa Trời. Họ chỉ tìm
kiếm lời khuyên của loài ngƣời. Họ muốn đặt sự tin cậy nơi chính con ngƣời của
mình, chứ không phải vào Đức Chúa Trời.
Sự tin tƣởng vững trãi vào mình, sự tự mãn bao giờ cũng là những khe hở nguy
hiểm cho công cuộc xây dựng. Nếu Chúa cho phép trong đời sống ta có những
hoàn cảnh, những lãnh vực chúng ta tin và mình thì tại sao chúng ta không cảm ơn
Chúa đã đặt ngón tay lên điều đó. Tại sao ta không vui mừng vì Chúa ban cho sức
lực để chiến thắng tội ác.
Một sĩ quan trẻ tuổi đang tập huấn tại Jort Benning bị rơi vào một hoàn cảnh rất
khó khăn. Anh thú thật với tôi :”Tôi cần đƣợc giúp đỡ, nếu không tôi sẽ điên mất”.
Trƣớc kia anh tƣởng mình có thể đƣơng đầu với mọi hoàn cảnh dễ dàng. Sự tin cậy
này khiến anh rất kiêu ngạo. Nhƣng từ khi anh đến học tại trƣờng sĩ quan, anh
không có khả năng phản ứng nhƣ trƣớc và những ý tƣởng anh nghĩ về mình cũng
nhƣ về cuộc đời nói chung đã bị sụp đổ.
Việc luyện tập nghiêm ngặt của những sinh viên sĩ quan trẻ này không phải chỉ
mục đích dạy cho họ những yếu đuối, sơ sót mà một ngày kia khi ra trận họ có thể
làm hại đến tính mạng những ngƣời dƣới quyền họ. Họ phải chịu những điều căng
thẳng, mệt nhọc cả thể xác lẫn tinh thần để thử thách sự dẻo dai và lòng can đảm
của họ. Nếu họ không chịu nổi thì tốt hơn là thấy điều đó trƣớc khi trao cho họ một
đạo quân.
Những ngƣời huấn luyện viên cảm thấy nơi ngƣời học trò này, dƣới mặt nạ tự mãn
và kiêu ngạo, ẩn dấu lòng thiếu tự tin.
Bài trắc nghiệm đầu. Từ sáng đến chiều anh ta bị theo dõi. Không một thái độ cử
chỉ nào bị bỏ sót.
Chuẩn úy, anh không đi nhanh đƣợc hơn sao?
Anh không thể làm những gì ngƣời ta bảo sao?
Bao giờ anh cũng ăn nhƣ heo vậy?
Anh thật là một con ốc sên!
Anh muốn tôi gọi mẹ anh đến giúp anh à.
Hãy chạy quanh nhà mấy vòng đi để tập giơ chân lên.
Lòng tự tin của anh tan biến rất nhanh. Bị sỉ nhục, thât bại, đuối sức, anh ta muốn
đào ngũ và muốn trốn ra nƣớc ngoài để tránh những nỗi khổ tâm đó.
Anh kể cho tôi nghe rằng anh chƣa bao giờ tin thật sự vào Đức Chúa Trời và cũng
chẳng hiểu gì về Kinh Thánh. Nhƣng nếu tôi có một Đức Chúa Trời để giúp đỡ thì
anh sẵn sàng tin ngay.
Tôi đọc cho anh nghe những gì Kinh Thánh nói về trƣờng hợp của anh, và những
thử thách anh chịu đựng cũng nằm trong chƣơng trình đó và Chúa phải giải phóng
anh khỏi những căng thẳng nội tâm nếu anh trao đời anh cho Chúa hƣớng dẫn và
nếu biết cảm tạ Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Viên chuẩn úy cau có, Khuôn mặt và cặp mắt để lộ sự mệt mỏi thần kinh căng
thẳng vì thiếu ngủ.
Đây là lần đầu tiên mà tôi bị đẩy vào tình thế này (anh lắc đầu). Thật tôi chịu
không nổi nữa. Và Mục Sƣ vừa bảo rằng Đức Chúa Trời đã đặt tôi vào ngõ cụt này
sao?
Ta nên hiểu rằng Chúa đã cho phép những việc ấy xảy ra. Tôi trả lời. Tôi chắc
chắn rằng Chúa muốn anh quay về với Chúa và chấp nhận tất cả những gì Chúa
dành sẵn cho anh, không cần phải trải qua những đau khổ này. Nhƣng anh luôn
luôn tự cho rằng có thể thành công một mình ở đời, nên vì tình yêu Chúa đã chọn
phƣơng tiện trực tiếp nhất để chỉ cho anh thấy tỏ tƣờng rằng anh cần đến Chúa biết
bao. Tôi đọc cho anh nghe đoạn thơ của sứ đồ Phaolô gửi các tín hữu Côrinhtô!
“vả hỡi anh em, chúng tôi không muốn để anh em chẳng biết những sự khốn khó
đã xảy đến cho chúng tôi trong sứ Asi, và chúng tôi đã bị đè nén quá chừng, quá
sức mình, đến nỗi mất lòng trông cậy vào sự sống. Chúng tôi lại hình nhƣ đã nhận
xử tử, hầu cho chúng tôi không trông cậy mình, nhƣng Đức Chúa Trời là Đấng
khiến kẻ chết sống lại” (IICo 2Cr 1:8-9)
Ngƣời thanh niên có vẻ suy nghĩ ... rồi anh bằng lòng để tôi cầu nguyện cho anh,
tuy không tin tƣởng và lợi ích của việc này.
Tôi đặt niềm đặt tay trên đầu anh và bắt đầu cảm tạ Chúa vì hoàn cảnh này. Xin
Chúa cho viên chuẩn úy đó nhận ra tình yêu của Chúa và lòng nhân từ của Chúa
đối với từng chi tiết trong cuộc đời anh. Trong lúc tôi cầu nguyện ngƣời thanh niên
bắt đầu run rẩy, nƣớc mắt tuôn tràn trên má anh. Một lúc sau anh nổi lên cƣời.
Cảm ơn Chúa, anh ta kêu lên, ngợi khen Đức Chúa Trời. Con thấy rằng Chúa chăm
sóc con và con tin rằng Chúa yêu thƣơng con.
Tôi ngắm anh, một niềm vui sƣớng chiếu tỏa trên anh.
Chính Chúa đã đƣa tôi vào trƣờng võ bị sĩ quan này phải không? Chúa đã biết
chính nơi đây tôi sẽ tìm ra lời giải đáp. Bây giờ tôi cảm thấy trở thành ngƣời khác.
Quả vậy, anh đã tiếp nhận Đấng Christ làm Cứu Chúa của mình và ít lâu sau đó
anh đã thành công rực rỡ trong các kỳ thi.
Cuộc khủng hoảng mà anh đã trải qua chứng tỏ có khe hở trong cuộc đời anh. Từ
lúc anh có thể nhìn thấy và nhận ra bàn tay của Chúa trong hoàn cảnh của anh và
cảm tạ Chúa thì anh đã đƣợc chữa lành.
Những biến cố làm lung lay nền móng của sự tự mãn thực ra đều là những phƣớc
lành ẩn kín chúng ta có thể chân thành chúc tụng Chúa và cảm tạ Chúa vì những
lời châm chọc nó đánh tan mọi ảo tƣởng mà chúng ta có về mình. Càng cảm tạ
Chúa thì sự chuyển biến trong chúng ta càng dễ dàng niềm vui gia tăng và nỗi khổ
đau bớt dần đi. Rồi chúng ta lại khám phá ra việc này nữa. Càng bị thử thách thì
chúng ta càng ý thức sự hiện diện của Chúa và sức mạnh của Đấng Christ trong
chúng ta.
Tất cả những thử thách, những khó khăn là những cơ hội để chúng ta tăng trƣởng,
làm cho chúng ta có đủ điều kiện để trở thành dòng sông chuyên chở tình yêu và
mục đích thiết thực của Đức Chúa Trời.
Một cô gái nọ gặp nhiều khó khăn, mẹ và hai anh của cô đều qua đời Cha cô tục
huyền, rồi li dị, rồi lại tái hôn. Còn cô thì không thành công trong việc học hành và
cô bắt đầu uống rƣợu. Một ngày nọ cô nghe nói về Chúa Jêsus cô tiếp nhận Ngài
làm Cứu Chúa đời mình. Thời gian đầu cô rất vui và nhờ lời làm chứng của cô,
nhiều ngƣời trở lạ cùng Chúa, mọi việc đều tốt đẹp và cô tƣởng rằng những nỗi
khổ của cô hoàn toàn bay đi.
Chính lúc đó là những nỗi bực dọc của cô trở lại rất nhiều. Cô bị tai nạn xe hơi hai
lần liên tiếp và cô đã bị thƣơng. Rồi cô có một cái nhọt ở cổ, phải bị mổ rất đau
đớn. Một ngày nọ cô ngã bệnh nặng vì uống một chai sôđa ngƣời ta bỏ thuốc độc
vào đó. Khi cô đi học, lại bị một kẻ dơ dao ra dọa. Một lần khác có kẻ giơ súng
muốn bắn cô. Một đêm kẻ gian lén vào nhà cô, cạy cửa và định hãm hiếp cô. Và
đau khổ hơn nữa, ông của chủ lại cho cô nghỉ việc vì cho rằng cô phạm tội ác ghê
gớm lắm nên mới bị nhiều thử thách khó khăn nhƣ vậy.
Trải qua tất cả những thử thách đó, cô gái tranh đấu để giữ vững đức tin. Điều gay
cấn nhất phải chịu đựng là những sự nghi ngờ của các Cơ Đốc Nhân trong cộng
đồng sinh hoạt của cô.
Sau khi cô nhận đƣợc quyển sách “Từ ngục tù đến ca ngợi”. Cô đọc và nảy sinh ra
niềm hy vọng mới. Đức Chúa Trời chắc phải có lý do nào đó để cho phép tất cả sự
gian truân này xảy ra. Cô bắt đầu cảm tạ Chúa vì mỗi một nỗi khổ mà cô phải chịu
đựng vừa qua. Không bao lâu niềm vui thay thế sự sợ hãi cứ ám ảnh cô. Cô kể rằng
:”Tôi bỗng nhiên hiểu rằng Chúa là tất cả những gì tôi có đƣợc. Những ngƣời khác
có thể có đƣợc sự yên ổn, còn tôi, tôi chỉ có Chúa là tất cả những gì xảy ra làm tôi
ý thức điều đó rất rõ ràng”.
Bây giờ cô gái có một năng lực mới để làm chứng về Đấng Cứu Chuộc mình. Cô
có khả năng thông cảm và thƣơng yêu sâu sắc những ngƣời bị đau khổ nhƣ cô.
Cô đã hiểu và tin rằng tất cả những hoàn cảnh trong quá khứ của cô đều đƣợc bàn
tay của Đức Chúa Trời yêu thƣơng kiểm soát và có có thể bình tĩnh nhìn những thử
thách mới mà nói rằng: “Tôi biết rằng chính Chúa đã cho phép, điều đó chỉ làm lợi
ích cho tôi thôi”.
Một ngƣời đàn bà trẻ tuổi khác vừa bị mất chồng. Vì hai ngƣời không có con nên
bà bổng trở thành trơ trọi. Lúc bà trở về thăm gia đình để tìm sự an ủi và thiện cảm
thì mọi ngƣời trong nhà tỏ vẻ lãnh đạm, không nói chuyện với bà và làm nhƣ
không có bà ở đó. Bà không thể nào hiểu nổi những phản ứng này. Trƣớc kia gia
đình bà không bao giờ đối xử với bà nhƣ vậy. Sự khắc khoải vì bị bỏ rơi và bị lẻ
loi làm cho bà không thể chịu đựng nổi. Bà đau khổ trong tâm hồn lẫn thể xác, và
bà bị mất ngủ bà gầy tóp đi.
Ngày đêm bà chỉ biết khóc đến nỗi quên cả giờ giấc. Bà ý thức rằng mình đang đi
dần đến chỗ loạn tâm trí.
Một ngày kia, bà thấy trong biên sách ở khu vực bà ở có quyển “Từ tù ngục đến ca
ngợi”. Cầm quyển sách lên bà đọc phía sau bìa, tác giả là một tuyên úy quân đội,
và vội đặt quyển sách trở lên kệ. Chồng bà cũng ở trong quân đội lúc ông ta qua
đời và bây giờ bà sợ phải nhớ lại những kỷ niệm ấy. Bà trở về nhà tay không,
nhƣng suốt ngày bà nhớ đến tự quyển sách. Một ý tƣởng cứ trở đi trở lại :”Mình
phải đọc quyển sách đó”.
Chƣa bao giờ bà cảm thấy cần phải đọc một quyển sách nào rõ rệt nhƣ lúc bây giờ.
Vì vậy bà trở lại hiệu sách và mua cuốn sách ấy.
Vừa về đến nhà, bà vội mở sách ra đọc, và bà không thể cầm đƣợc nƣớc mắt. Đôi
khi bà khóc nhiều nhiều đến nỗi không còn phân biệt các hàng chữ nữa. Có lúc bà
bỗng nhận thấy mình đang quỳ dƣới đất và tiếp tục đọc sách.
Bà chắc rằng Chúa nói trực tiếp với bà qua cuốn sách đó. Nhƣng bà không hiểu rõ:
Có thật Chúa bảo bà phải cám ơn Chúa bảo bà phải cám ơn Chúa vì chồng bà đã
chết không? Làm sao Chúa có thể tàn ác nhƣ thế? Tất cả mọi phần trong cơ thể bà
đều dƣờng nhƣ chống đối ý tƣởng này. Nhƣng dần dần càng đọc bà càng cảm thấy
một nỗi bình an mới xâm nhập trong tâm hồn và bà không khóc nữa. Từ từ tƣ
tƣởng bà chuyển biến.
Bà nghĩ :”Chúa cho phép tất cả những việc đó xảy ra để giúp đỡ tôi Chúa biết rằng
không bao giờ tôi tìm kiếm Chúa nếu chồng tôi còn sống. Nếu anh tôi và gia đình
tôi đã khuyên giải yêu thƣơng tôi thì chắc tôi đã bám vào họ. Bây giờ tôi đã hoàn
toàn trơ trọi lên tôi mới quay về với Chúa. Lạy Chúa Jêsus, con cảm nghiệm đƣợc
sự hiện diện của Chúa. Chúa ở đây với con và con ca tụng cảm ơn Đức Chúa Trời
vì ngài đã đẩy con đến với Chúa”.
Sự bình an mà bà cảm thấy bây giờ rất êm dịu hơn tất cả mọi sự mà bà cảm nghiệm
đƣợc từ trƣớc đến nay. Những ngày sau đó bà càng rạng rỡ một niềm vui làm cho
bạn bè và hàng xóm của bà ngạc nhiên quá đỗi, vì họ đã theo dõi bà và lo ngại khi
thấy sự đau khổ làm bà suy kiệt dữ dội.
Ít lâu sau, ngƣời anh của bà đến thăm bà và cặp mắt đầy lệ, anh thú thật em có thể
tha lỗi cho anh không? Vì đã có một sự hiểu lầm. Có ngƣời nói với gia đình anh
rằng em đã nói anh từ chối không giúp đỡ khi chồng em hấp hối. Và cả nhà đã
nghe lời nói ấy và bị tổn thƣơng, nên hôm nọ không ai muốn nhìn em hay nói với
em cả.
Ngƣời anh của bà rất xấu hổ và hối hận.
Bây giờ thì anh biết điều đó là câu chuyện của một bà góa khác, và anh đã nhận ra
rằng anh đã bỏ rơi em trong lúc em cần đến anh.
Rất bình tĩnh, bà trả lời.
Anh đừng hối tiếc gì cả. Trái lại anh hãy sung sƣớng vì đã làm điều sai lầm đó, và
cám ơn Chúa vì nó xảy ra.
Anh bà không hiểu giáp ất gì cả.
Anh đã bỏ rơi em khi em cần đến anh, thế mà em lại bảo anh cám ơn Chúa vì điều
đó sao?
Bà cƣời trả lời :
Phải chính thế! Vì nếu anh không bỏ em một mình thì không bao giờ em hiểu đƣợc
Chúa yêu thƣơng em đến mức độ nào. Câu chuyện này không có mục đích tha thứ
cho việc nghe ngƣời ta nói xấu kẻ khác, hoặc không giúp đỡ ngƣời cần đến ta đâu.
Nhƣng Đức Chúa Trời muốn chúng ta hiểu rằng nếu chúng ta trao phó cho Chúa
tất cả cuộc đời chúng ta thì không ai có thể đối xử với chúng ta một cách bất công
cả, trừ phi Đức Chúa Trời cho phép vì lợi ích của chúng ta. Chúng ta có thể cám ơn
Chúa về từng lời khó chịu, từng nhận xét xảo trá, nham hiểm đụng đến chúng ta.
“Vì nhơn có lƣơng tâm đối với Đức Chúa Trời, mà chịu khốn nạn khi chịu oan ức,
ấy là một phƣớc lành. Vả, mình làm điều ác, bị đánh mà nhịn chịu thì có đáng khoe
gì? Nhƣng nếu anh em lành mà nhịn chịu sự khốn khó, ấy là một ơn phƣớc trƣớc
mặt Đức Chúa Trời” (IPhi 1Pr 2:19-20).
Một cây bông hồng phải đƣợc chiếc cành mới trổ hoa.
“Ta là gốc nho thật, Cha ta là ngƣời trồng nho. Hễ nhánh nào trong ta mà không
kết quả thì ngài chặt hết; và Ngài tỉa sửa những nhánh nào kết quả đƣợc sai trái
hơn. Các ngƣời đã đƣợc trong sạch vì lời ta đã bảo cho” (GiGa 15:1-3).
Vì Chúa Jêsus đã truyền:”Ngƣơi hãy hết lòng, hết linh hồn, hết trí nhớ mà yêu mến
Chúa, là Đức Chúa Trời ngƣơi. Ấy là điều răn thứ nhất và lớn hơn hết. Còn điều
răn thứ hai đây cũng vậy:”Ngƣơi hãy yêu kẻ lân cận nhƣ mình” (Mat Mt
22:37-39).
Tình yêu mà Chúa Jêsus đã đề cập ở đây là một tình yêu có ý thức và tự do, một
tình yêu đòi hỏi sự can thiệp của ý chí và hành động trong đức tin và. Đó chính là
tình yêu của Chúa Jêsus đã nói: ”Các ngƣơi hãy yêu nhau nhƣ ta đã yêu các ngƣơi”
(GiGa 15:12).
Tất cả những gì ngăn cản chúng ta vâng theo điều răn này đều phải đƣợc trù diệt
khỏi con đƣờng của chúng ta. Chúng ta chỉ làm trì hoãn và ngăn chặn công việc
của Chúa trong chúng ta nếu chúng ta cằn nhằn và than thở vì những hoàn cảnh
khó khăn mà Chúa dùng để Thánh Hóa chúng ta. Những hoàn cảnh không đến với
chúng ta một cách may rủi hay do một định mệnh tàn ác, nhƣng vì Cha chúng ta
cũng là chủ vƣờn nho, đã yêu thƣơng và chăm sóc đến chúng ta. Chúng ta có thể
vui mừng và cảm tạ Chúa vì Chúa biết cái gì đẹp nhất và lợi ích nhất cho ta.
Một chuẩn úy ở Jort benning, một Cơ Đốc Nhân, vừa hay tin vợ anh ta bị đƣa vào
bệnh viện vì một cơn thần kinh nặng. Các bác sĩ đều bi quan về trƣờng hợp này.
Cô ta phải ở bệnh viện một thời gian vô định. Khi J. đến tìm tôi tại phòng làm việc,
anh ta không thốt đƣợc một tiếng. Tôi nhìn đôi vai to lớn của anh khi khóc nức nở.
Tại sao những việc ấy xảy ra?
Anh cố gắng nói một cách khó khăn:
Vợ tôi và tôi luôn cố gắng sống theo những Cơ Đốc Nhân tốt, tại sao Chúa lại bỏ
rơi chúng tôi.
Tôi trả lời :
Chúa không bỏ rơi anh đâu. Chúa có một lý do rõ rệt bắt vợ anh phải nằm nhà
thƣơng. Tại sao chúng ta không quì xuống bây giờ để cảm ơn Ngài?
J. mở to cặp mắt :”Tôi theo đạo Tin Lành, và tôi chƣa bao giờ thấy điều đó trong
Kinh Thánh”.
Thế còn câu này:”hãy thƣờng thƣờng nhơn danh Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta.
Vì mọi sự ta ơn Đức Chúa Trời là Cha chúng ta” (Eph Ep 3:20) thì sao?
j. lắc đầu : “ Vâng tôi biết đoạn đó, nhƣng tôi cứ nghĩ là phải cảm tạ Chúa vì những
ơn lành. Tôi không nghĩ rằng Kinh Thánh bảo chúng ta cảm tạ về sự giữ. Tôi đã
nhớ rằng sứ đồ Phaolô đã bị quá trớn khi ông nói rằng ông sung sƣớng trƣớc sự tàn
tật yếu đuối của ông”.
Tôi cũng đã từng nghĩ nhƣ thế, nhƣng bây giờ tôi thấy sứ đồ Phaolô nói rằng các
thánh đồ vui mừng trong sự hoạn nạn của mình, điều đó không có nghĩa là chúng
ta cảm thấy dễ chịu trong chính những nỗi khổ đó, nhƣng chúng ta phải nhìn sự
đau khổ một viễn tƣợng mới. Các Thánh Đồ khám phá ra rằng sự đau khổ có thể
phục vụ một mục đích cao cả và nó ở trong chƣơng trình yêu thƣơng của Chúa đối
với anh”.
J. có vẻ suy nghĩ, anh nói chậm chạp:”Tôi không biết, điều đó với tôi có vẻ vô lý
lắm”.
Phaolô cũng đã học kinh nghiệm, và cũng không phải dễ dàng đâu. Anh hãy nhớ
đến câu cái giằm xóc vào thịt ông”.
J. gạt đầu. Tôi nói:”ba lần Phaolô đã xin Chúa lấy cái đó đi. Lúc bấy giờ ông
không có vẻ gì sung sƣớng vì sự đau khổ cả. Mỗi lần Chúa đều trả lời: Không, ta ở
với con, đó là tất cả những gì con cần. “Ân điển ta đủ cho ngƣơi rồi, vì sức mạnh
của ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối của con. Vậy, tôi sẽ rất vui mừng khoe mình
vì sự yếu đuối của tôi, hầu cho sức mạnh của Đấng Christ ở trong tôi” (IICo 2Cr
12:9). Tôi nói tiếp :”Phaolô không hãnh diện trong chính sự tàn tật đó, đó là điều
ông cắt nghĩa cho tính hữu Côrinhtô” Cho nên tôi vì Đấng Christ mà đành chịu
trong sự yếu đuối nhuốc nha, túng ngặt, bắt bớ, khốn khó, vì khi tôi yếu đuối, ấy là
lúc tôi mạnh mẽ (IICo 2Cr 12:10).
J. chậm chạp dỡ từng trang Kinh Thánh, suy nghĩ và cuối cùng kết luận. Tôi tin
rằng Chúa hoạt động trong mọi sự, nhƣng điều khó khăn nhất đối với tôi là phải
vui mừng vì mọi sự.
Nếu chúng ta nói rằng chúng ta tin mà không hề vui mừng, thì điều đó có nghĩa là
chúng ta chƣa quyết tin rằng Chúa hành động vì lợi ích cao nhất của chúng ta.
J. im lặng, rồi anh gật đầu quả quyết :
Mục sƣ nói có lý, tôi muốn làm thử. Chúng tôi quì xuống. J. lại nức nở trong khi
cầu nguyện.
Lạy Chúa, con biết Chúa thƣơng vợ con hơn là con có thể yêu nàng. Con tin rằng
Chúa đang thực hiện cho chúng con một chƣơng trình tuyệt diệu.
Những dòng nƣớc mắt vẫn tiếp tục chảy trên má, nhƣng cái nhìn của anh đã ánh
lên một tia hy vọng mới.
Thƣa tuyên úy, Chúa biết việc Chúa làm tôi biết chắc nhƣ vậy.
Vài ngày sau J. đƣợc thuyên chuyển đến gần bệnh viện mà vợ anh đƣơng dƣỡng
bệnh. Đơn xin của anh đƣợc chấp nhận và anh đến chào tôi. Anh nói có vẻ phấn
khích :”Hãy đợi những điều sắp xảy ra”. Điều tốt nhất vẫn chƣa đến. Chúa đã hứa
sẽ chƣa bệnh cho vợ tôi, lúc tôi gặp lại nàng và đặt tay lên đầu nàng mà nói :”Hãy
lành bệnh, nhơn danh Chúa Jêsus Christ”.
Mọi sự nghi ngỡ thoáng qua trí tôi:”Nếu J. quá hăng say thì anh ta sẽ đi trƣớc điều
Chúa muốn thật sự”. Nhƣng tôi cũng nhận đƣợc sự xác nhận của Đức Thánh Linh.
Tôi đặt hai tay trên anh và cầu nguyện cho anh.
Lạy Chúa, Chúa đã phán rằng nếu có hai ngƣời đồng ý cầu nguyện xin một ơn gì
Chúa sẽ nhận lời. Bây giờ, J. và con, chúng con xin Chúa chữa bệnh cho vợ J. Khi
anh đặt tay lên nàng.
Hai tuần lễ sau J. anh viết cho tôi :
Mọi sự xảy ra giống y nhƣ Chúa đã hứa với chúng ta. Vợ tôi ở trong phòng bác sĩ
khi tôi đến gặp nàng. Thật kinh khủng, sắc diện của nàng và sự sợ hãi khiến tôi
nghĩ không còn có hy vọng gì nữa. Nhƣng tôi biết rằng tôi phải làm điều Chúa dạy.
Tôi đến gần nàng và đặt tay lên đầu nàng. Lúc tôi đụng đến nàng, nàng rùng mình
chấn động và tôi biết nàng đã đƣợc chữa lành. Tôi nói với bác sĩ rằng vợ tôi đã
khỏe và ông ta nhìn tôi nhƣ thể tôi cũng cần đƣợc đƣa vào bệnh viện để điều trị.
Hôm sau bác sĩ gọi tôi đến và nói :”Tôi không hiểu gì cả”, “nhƣng vợ anh có vẻ
lành mạnh rồi”. Và nàng trở về nhà sung sƣớng hơn bao giờ hết. Những thử thách
mà nàng đã chịu đựng đã giúp nàng lớn mạnh và cả hai chúng tôi bây giờ cảm tạ
Chúa vì mọi sự. Chúng tôi đã hiểu lời cảm tạ Chúa làm phát xuất quyền năng chữa
trị của Đấng Christ”.
Chúa thay thế sự yếu đuối của chúng ta bằng sức mạnh của Chúa khi chúng ta
nhận sự thất bại của mình. Nhƣng rất nhiều khi chúng ta xấu hổ vì phải thú nhận
rằng mình yếu đuối, vì sợ Chúa và ngƣời khác chấp nhận những nhƣợc điểm đó.
Cách suy nghĩ bắt nguồn từ nhận định sai lầm là chúng ta phải làm sao cho xứng
đáng với tình yêu của Chúa.
Một đại tƣớng là Cơ Đốc Nhân, ngày nọ đến tìm tôi và thú thật rằng cố gắng mà
ông buộc mình phải tuân theo để có hình ảnh toàn hảo trƣớc mặt binh lính của ông
đi đến chỗ có thể sát hại ông. Trong lúc nói chuyện tôi ý thức đƣợc rằng ngƣời đàn
ông này, mà tôi vẫn khâm phục vì vẻ quân bình và chững chạc bên ngoài, thật ra
chƣa bao giờ biết chấp nhận mình. Ông bị ám ảnh bởi ý tƣởng là ông sẽ làm cho
gia đình và sƣ đoàn của ông thât vọng vô cùng nếu ông buông xuôi tất cả.
Tôi gợi ý rằng sự căng thẳng này sẽ mất nếu ông cảm tạ Chúa đã tạo dựng ông nhƣ
thế. Ông kêu lên:”Tuyên úy muốn nói nhƣ vậy bây giờ sao?â Bây giờ tôi đây rất
căng thẳng và sợ hãi”. Tôi gật đầu.
Ông tƣởng rằng Đức Chúa Trời tạo dựng vũ trụ và đặt các ngôi sao trên trời lại
không chú ý khi tạo dựng ông sao? Không, dĩ nhiên. Và tất cả mọi hoàn cảnh trong
đời ông cũng vậy. Chúa đã chọn để cho ông thấy Chúa yêu ông dƣờng nào!
Ông đại tƣớng trở lại phòng tôi nhiều lần. Ông đọc Kinh Thánh và đọc quyển “Từ
ngục tù đến ca ngợi”, rât say mê. Ông đi đến chỗ nhận thức rằng Chúa có chƣơng
trình tuyệt hảo cho đời sống và sự căng thẳng mà ông chịu đựng thƣờng xuyên chỉ
có mục đích là đƣa ông đến chỗ tin cậy Chúa mà thôi.
Ông bắt đầu cảm tạ Chúa vì những sự lo âu khắc khoải của mình, và 1 cảm giác
bình an dần dần thay thế những lo ngại. Lần đầu tiên trong đời ông, ông sung
sƣớng sống bằng con ngƣời thật của mình. Ông tâm sự :
Bao lâu tôi còn nghĩ rằng Chúa không thể yêu tôi với những yếu đuối này thì tôi cố
gắng dấu kín và do đó tôi từ từ đi xa sự thật. Khi tôi biết nhìn nhận mình yếu đuối
và cảm tạ Chúa đã tạo dựng lên tôi nhƣ thế thì tình yêu của Chúa đã biến đổi tôi và
cho tôi sự bình an.
Vua Đavit viết : “Hỡi các dân, hãy chúc tụng Đức Chúa Trời chúng ta, và làm cho
vang tiếng ngợi khen Ngài. Chính Ngài bảo tồn mạng sống chúng ta, Trời ơi, Chúa
đã thử thách chúng tôi, rèn luyện chúng tôi y nhƣ luyện bạc. Chúa đã đem chúng
tôi vào lƣới, chất gánh nặng quá trên lƣng chúng tôi. Chúa khiến ngƣời ta cƣỡi lên
đầu chúng tôi, chúng tôi đi qua lửa qua nƣớc, nhƣng Chúa đem chúng tôi ra nơi
giàu có ... Tôi lấy miệng tôi kêu cầu Ngài và lƣỡi tôi tôn cao Ngài. Nếu lòng tôi có
chú về điều ác, ắt Chúa chẳng nghe lời tôi. Nhƣng Đức Chúa Trời thật có nghe,
Ngài đã lắng tai nghe tiếng cầu nguyện của tôi... Hỡi cả trái đất, khá cất tiếng reo
mừng Đức Chúa Trời, hãy hát ra sự vinh hiển của danh Ngài, hãy ngợi khen và tôn
vinh Ngài!” (Thi Tv 66:8-12, 17-19; 67:1-2).
Đavít muốn trở thành một Chúa. Đavit biết tất cả những gì không trong sạch nơi
ông sẽ ngăn chặn không cho tình yêu của Chúa tràn đến ông và chảy qua Ông. Vì
thế Đavít đã vui vẻ chấp nhận phƣơng thế đau khổ và thanh lọc mà Chúa đã bắt
ông chịu đựng. Đavit vui mừng khi những thử thách làm tỏ hiện, phô bày ra những
lỗi lầm ẩn kín của ông. Ông xƣng tội và đƣợc chữa lành. Chính Chúa đã chỉ cho
ông con đƣờng đi.
“Ta há ăn thịt bò đực, hay uống huyết dê đực sao? Hãy dâng sự cảm tạ làm của lễ
cho Đức Chúa Trời, và trả sự hứa nguyện ngƣơi cho Đấng chí cao. Trong ngày
gian truân, hãy kêu cầu ta, ta sẽ giải cứu ngƣơi và ngƣơi sẽ ca ngợi ta”.
“Nhƣng Đức Chúa Trời phán cùng kẻ ác rằng: Nhơn sao ngƣơi thuật lại các luật lệ
ta? Vì cớ gì miệng các ngƣơi nói về các lời giao ƣớc ta? Thật các ngƣơi ghét sự sửa
dạy, bỏ sau lƣng các lời phán ta”.
“Vậy hỡi các ngƣời quên Đức Chúa Trời, khá suy xét điều đó, kẻo ta xé nát ngƣơi,
không ai giải cứu chăng? Kẻ nào dâng sự cảm ta làm của lễ, tôn vinh ta, còn ngƣời
nào đi theo con đƣờng ngay thẳng, ta sẽ cho thấy sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời”
(50:13-17, 22-23).
Con đƣờng của Chúa là con đƣờng chúc tạ ngợi khen .
KHI CHIM SẺ RƠI XUỐNG ĐẤT
“Hai con chim sẻ há chẳng bị bán một đồng tiền sao? Và ví không theo ý muốn cha
các ngƣơi, thì chẳng hề có một con nào rơi xuống. Tóc trên đầu các ngƣơi cũng đã
đếm hết rồi. Vậy đừng sợ chi hết, vì các ngƣơi quí trọng hơn nhiều chim sẻ” (Mat
Mt 10:29-30).
Chúa Jêsus nói với các môn đồ của Ngài rằng Cha các ngƣơi trên trời chăm sóc
đến nỗi con chim sẻ và Ngài biết số tóc trên đầu chúng ta. Vậy mà nhiều khi chim
sẻ rơi xuống đất ... và ta viết những bi kịch. Những đứa trẻ vô tội chết dƣới bánh xe
do tài xế say rƣợu lái; một ngƣời thân của chúng ta bị ung thƣ và chết mặc dù
chúng ta đã sốt sắng cầu nguyện. Đức Chúa Trời chẳng có thể làm cho chim sẻ
đừng rơi đƣợc không? Chúa há không thể ngăn cản đứa trẻ khỏi bị tai nạn và sự
ngăn ngừa sự tàn phá của bệnh ung thƣ sao ?
Phần đông chúng ta tin rằng Đức Chúa Trời có thể ngăn ngừa sự dữ nếu Ngài
muốn. Và chúng ta tự hỏi ngăn ngừa sự dữ nếu Ngài muốn. Và chúng ta hỏi: Tại
sao Chúa cho phép điều mà ta cho là sự toàn thắng của sự ác sự thiện?
Đôi khi chúng ta suy ra rằng Đức Chúa Trời nhẫn tâm dửng dƣng hoặc bât công.
Hoặc chúng ta nghĩ rằng những nạn nhân của sự ác đó đau khổ vì tội lỗi của chính
họ hoặc của kẻ khác. Trong cả hai trƣờng hợp, các kết luận của chúng ta ngƣợc hẳn
với sứ điệp của Kinh Thánh dạy cho chúng ta rằng Đức Chúa Trời là tình yêu và
chúng ta không cần phải tốt lành để xứng đáng với sự chăm sóc ân cần của Chúa.
Không thể ca tụng Chúa về mọi sự mà bạn nghĩ Chúa không thực sự có trách
nhiệm về tất cả những gì xảy ra, hoặc Chúa dửng dƣng với những khốn khổ của
chúng ta.
Tôi thƣờng nhận đƣợc thƣ của những ngƣời hỏi tôi cảm tạ Chúa vì sự dữ có đúng
không, trong lúc Kinh Thánh dạy chúng ta ghét sự dữ. Học trích dẫn:”Hỡi những
kẻ yêu mến Đức Giêhôva hãy ghét sự ác”. (Thi Tv 97:10) và “hãy ghét điều dữ mà
ƣa điều lành” (AmAm 5:15). Nhƣng các câu Kinh Thánh đó dạy chúng ta đừng tán
thành sự dữ và cũng đừng thực hành, đừng theo cũng nhƣ đừng cam chịu nó”.
Ngợi khen Đức Chúa Trời trong mọi hoàn cảnh không có nghĩa là chúng ta tán
thành hoặc chấp nhận sự dữ nơi bản chất của nó. Khi Phaolô nói đến việc vui
mừng không phải vì sự đau thƣơng nhƣng vì chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời
hành động bởi và qua sự đau thƣơng đó.
Đức Chúa Trời không tạo dựng nên sự dữ. Ngài là tình yêu. Nhƣng Đức Chúa Trời
tạo dựng nên những con ngƣời có ý chí tự do và có thể làm điều ác. Sự dữ là một
hậu quả của việc con ngƣời chống lại Đức Chúa Trời, có Chúa cho phép nó mới
tồn tại đƣợc trên thế gian này. Nhƣng nó luôn luôn lệ thuộc ý Chúa. Không có sự
dữ nào xảy đến cho chúng ta mà Đức Chúa Trời không cho phép.
Và vì có sự dữ, nên Đức Chúa Trời đã sai một Ngài chịu trên thập tự giá để bẻ tan
quyền lực của sự dữ đó trong đời sống của tất cả những ai tin nơi Ngài.
“Ngƣời ác phục trƣớc mặt ngƣời thiện, và kẻ dữ cúi lạy ở cửa của ngƣời công
bình” (ChCn 14:19). Chúng ta, những kẻ tin, chúng ta nhận lãnh quyền chiến thắng
thế gian.
“Ai tin Chúa Jêsus là Đấng Christ thì sanh bởi Đức Chúa Trời... vì hễ sự gì sanh
bởi Đức Chúa Trời thì thắng hơn thế gian; và sự thắng hơn thế gian ấy là đức tin
của chúng ta” (IGi1Ga 5:1, 4).
Mà đức tin chúng ta phải đặt nền tảng trên cái gì? Ta phải tin gì để chiến thắng? Ta
tin ở Chúa Jêsus Christ, nhƣng còn điều khác nữa: Tin hoàn toàn nơi Chúa Jêsus
cũng có nghĩa là chấp nhận Đức Chúa Trời là Đấng toàn năng và cũng chấp nhận
rằng không điều gì xảy đến mà Ngài không cho phép hoặc không biết.
Nếu chúng ta quyết định tin vững vàng điều ấy và ngợi khen Đức Chúa Trời về
mọi hậu quả bên ngoài của sự dữ xung quanh ta, tôi tin chắc rằng mọi hoàn cảnh
khó khăn, mọi thảm trạng sẽ đƣợc biến đổi do bàn tay Đức Chúa Trời.
Khi xác quyết điều này tôi biết rằng phần lớn trong các bạn sẽ kết luận ngay rằng
Đức Chúa Trời sẽ khiến mọi hoàn cảnh nhƣ chúng ta sẽ làm trong địa vị của Ngài.
Nhƣng đó không phải là điều tôi muốn nó chút nào cả.
Khi chúng ta tin tƣởng hoàn toàn nơi Đức Chúa Trời trong một hoàn cảnh khó
khăn bằng cách ngợi khen và cảm tạ Ngài vì hoàn cảnh đó thì, quyền năng của
Chúa sẽ biến đổi đảo ngƣợc, hoặc thắng vƣợt ý tƣởng và chƣơng trình của sự dữ
đang hoành hành bằng cách biến đổi hoàn toàn cảnh đó cho phù hợp với mục đích
cao cả sơ khởi và hoàn hảo của Đức Chúa Trời trên đời sống chúng ta.
Chúng ta có thể không hiểu đƣợc chƣơng trình của Đức Chúa Trời và cũng không
thấy khía cạnh tích cực của chƣơng trình đó, nhƣng hễ chúng ta bắt đầu khen ngợi
Chúa, chúng ta làm cho quyền năng của Chúa hiển lộ để làm lợi ích cho chúng ta
trong hoàn cảnh hiện tại.
Quan niệm lành dữ của chúng ta thƣờng sai lầm. Thí dụ một đứa bé đƣợc hƣởng
gia tài bạc triệu, ngƣời ta liền kêu lên “tuyệt quá !” nhƣng nếu đứa trẻ ấy chết và
lên thiên đàng, thì ngƣời ta sẽ than “tai họa thật”. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng
một gia tài lớn có thể gây thảm trạng, còn lên thiên đàng là điều rất phƣớc hạnh.
Nếu chúng ta ngợi khen Chúa trong mọi hoàn cảnh, tôi chắc rằng có những con
chim sẻ sẽ không rơi xuống đất, có những đứa trẻ không chết, và bệnh ung thƣ sẽ
đƣợc chữa trị. Nhƣng không nên để cho điều này là động cơ thúc đẩy chúng ta ngợi
khen Chúa, vì sẽ luôn có những chim sẻ rơi xuống đất, những trẻ con chết yểu, và
những ngƣời bị bệnh ung thƣ. Chúng ta vẫn phải ca tụng Đức Chúa Trời vì những
trƣờng hợp đó nữa.
Nhƣ vậy, ca tụng Chúa vì sự dữ Ngài cho phép xảy ra trong đời sống chúng ta vì
tin rằng Chúa có một mục đích rõ ràng trong trƣờng hợp đó. Rồi còn phải làm gì
nữa? Phải phản ứng thế nào trƣớc sự đó khi ta đối diện với nó? tại chỗ này, có rất
nhiều tƣ tƣởng.
Chúa Jêsus đã nói với những kẻ theo Ngài: “Song ta bảo các ngƣơi, đừng chống cự
kẻ dữ” (Mat Mt 5:19). Tuy nhiên ta đọc thấy rằng, khi Chúa Jêsus trông thấy
phƣờng buôn bò, chiên, bồ câu và quân đổi bạc ngồi trên sân đền thờ, “Ngài bện
một cái roi bằng dây, bèn đuổi hết thảy khỏi đền thờ, chiên và bò nữa, vãi tiền
ngƣời đổi bạc và đổ bàn của họ” (GiGa 2:15). Nơi đây chúng ta thấy Chúa Jêsus
hành động công khai chống lại sự dữ. Tuy vậy Ngài đã không kháng cự chút nào
khi ngƣời ta đến bắt Ngài tại vƣờn Ghếtsêmanê, và Ngài đã quở môn đồ muốn
dùng gƣơm mà bảo vệ Ngài.
Nhƣ vậy có những trƣờng hợp Chúa muốn đƣa ta đến hành động rõ rệt chống lại sự
dữ và những trƣờng hợp khác Ngài bảo chúng ta đừng kháng cự. Nhƣng làm sao
biết đƣợc khi nào phải hành động, khi nào không?
Tôi thiết tƣởng điều duy nhất ta có thể làm đƣợc là nhìn nhận rằng sức mình,
chúng ta không thể nào thắng sự dữ đƣợc, sức mạnh để chiến thắng là chính Đức
Chúa Trời. Ngài dạy chúng ta phải tập ngƣớc mắt lên nhìn Ngài, nguồn mạch của
mọi chiến thắng, chứ không đăm đăm nhìn vào sự dữ mà ta phải đƣơng đầu. Nhƣ
vậy, từng bƣớc một, Đức Chúa Trời sẽ hƣớng dẫn hành động chúng ta. Phaolô đã
viết cho tín hữu Rôma:”Đừng để điều ác thắng mình, nhƣng phải lấy điều thiện
thắng điều ác” (RoRm 12:21).
Trong trƣờng hợp ngƣời ta bắt và đóng đinh Chúa Jêsus, chính hành vi không
kháng cự của Chúa đã đập tan quyền lực của sự dữ trong thế gian.
Qua hành vi trên, Chúa Jêsus đã cho chúng ta thấy có một cách tốt đẹp hơn nhiều
ngƣời để giải quyết vấn đề sự dữ, tốt đẹp hơn là bảo vệ chống lại sự dữ theo nghĩa
thông thƣờng của chúng ta, tức là dùng vũ khí, ăn miếng trả miếng, dùng vũ lực
chống vũ lực. Làm nhƣ vậy chúng ta phản ứng lại với các nghịch cảnh thay vì đón
nhận sự hiện diện và chỉ thị của Đức Chúa Trời trong hoàn cảnh đó.
Mỗi lần chúng ta hành động theo các biến cố bên ngoài thay vì bởi đức tin của
chúng ta nơi sự can thiệp của Đức Chúa Trời và sự kiểm soát hoàn hảo của Ngài
trên hoàn cảnh, thì chúng ta để cho sự chiến thắng chúng ta thay vì thắng vƣợt
đƣợc trƣớc nó nhờ quyền năng của Đức Chúa Trời.
Chúa Jêsus không chủ hòa (theo nghĩa chúng ta hiểu ngày nay) khi Chúa phán:
“Đừng chống cự kẻ dữ”. Chúa muốn nói chúng ta phải nhìn nhận một cách chủ
động quyền năng của Chúa trên sự dữ và nhìn nhận rằng đôi khi Chúa chọn hoàn
cảnh đó để thực hiện ý muốn của Ngài.
Trong trƣờng hợp đó cƣỡng lại sự dữ là đi ngƣợc lại chƣơng trình hoàn hảo của
Chúa. Nếu các môn đệ ngăn cản sự bắt Chúa trong vƣờn Ghếtsêmanê, họ đã làm
hỏng kế hoạch của Chúa mặc dù họ tƣởng mình đã thắng đƣợc sự dữ.
Chúa Jêsus đã đến để chiến thắng chứ không phải để dạy ta biết thua và không than
vãn đâu.
Các sứ đồ Gia cơ và Phierơ đều bảo chúng ta chống lại Satan nếu chúng ta xem nội
dung sứ điệp của các ông, ta thấy rõ ràng các ông đều hoàn toàn nhất trí với Chúa
Jêsus và sứ đồ Phaolô.
“Vậy, hãy phục Đức Chúa Trời, hãy chống trả ma quỷ thì nó sẽ lánh xa anh em”
(Gia Gc 4:7). “Hãy tiết độ và tỉnh thức kẻ thù nghịch anh em là ma quỷ nhƣ sƣ tử
rống đi rình mò xung quanh anh em, tìm kiếm ngƣời nào nó có thể nuốt đƣợc. Hãy
đứng vững trong đức tin mà chống cự nó” (IPhi 1Pr 5:8-9).
Chống lại Satan sự bảo vệ độc nhất của chúng ta là quyền năng của Đức Chúa
Trời. và quyền năng đó đƣợc phát lộ khi chúng ta tin quyết rằng Đức Chúa Trời âu
yếm điều khiển hoàn toàn mỗi chi tiết của hoàn cảnh. Và chúng ta diễn tả lòng tin
đó bằng cách ca tụng và cảm tạ Chúa vì những hoàn cảnh cụ thể đó.
Kinh Thánh dạy ta phải tỉnh thức và coi chừng sự tấn công của kẻ thù nhƣng tất cả
sự chú ý của chúng ta phải hƣớng về Chúa, chứ không phải hƣớng về Satan. Vẫn
biết chúng ta ý thức sự đe dọa của kẻ thù, nhƣng chúng ta đƣợc bảo vệ, không phải
bằng cách rình mò kẻ thù mà là một cách đắc lực hơn qua sự nhìn nhận quyền năng
của Đức Chúa Trời.
Nếu chúng ta để cho sự sợ hãi và sự nghi ngờ cùng lo lắng về kẻ thù tràn ngập
trong lòng chúng ta, chúng ta ngăn cản sự phát lộ của quyền năng của Đức Chúa
Trời. Chúng ta phải học cách xem sự dữ dƣới một cách nhìn đúng đắn, nó ở dƣới
sức mạnh toàn năng của Chúa, và quyền năng của Chúa điều khiển nó để đem lại
lợi ích cho chúng ta theo chƣơng trình hoàn hảo của Chúa.
Phần việc của chúng ta là vững tin bằng cách vâng theo sự điều khiển dẫn dắt của
Thánh Linh trong hoàn cảnh đó; chúng ta phải luôn luôn để cặp mắt nội tâm mình
đăm đăm nhìn Chúa, bằng cách ca ngợi Chúa và cảm tạ Ngài trong mọi sự vì lòng
nhơn từ, yêu thƣơng vô biên của Ngài.
Vững tin là dùng ý chí của chúng ta mà quyết tâm chấp nhận rằng Chúa làm chủ
tình thế nhƣ Kinh Thánh dạy ta bất chấp cảm giác của chúng ta và hoàn cảnh bên
ngoài.
Kinh Thánh khẳng định với chúng ta rằng Đức Chúa Trời kiểm soát mọi bão táp,
động đất, cuồng phong, chiến tranh, đói kém, dịch lệ, chết chóc, sinh nở. Ngài
kiểm soát mỗi cánh hoa đồng nội, mỗi con chim sẻ và mỗi sợi tóc trên đầu chúng
ta.
Chúng ta tin tƣởng những điều đó hay không là tùy chúng ta quyết định.
Có ngƣời nói :”Tôi muốn chấp nhận rằng Chúa chịu trách nhiệm về một số sự việc,
nhƣng tôi không thể chấp nhận rằng Ngài chịu trách nhiệm về mọi sự đƣợc.
Quan niệm này không khiến ta ngợi khen Chúa và khi ta từ chối không chịu thấy
bàn tay Đức Chúa Trời trên lãnh vực rõ rệt, ta không thể hy vọng một sự đáp lời
cầu nguyện của chúng ta là sự chứng thực quyền năng biến đổi của Ngài đƣợc.
Hãy xem Kinh Thánh nói gì về các lãnh vực riêng biệt đó, và ta khó nhìn nhận bàn
tay Chúa.
Habacúc là một tiên tri đã phàn nàn về tình hình quê hƣơng ông nhƣ trong số
chúng ta đã phàn nàn về tình hình thế giới hiện nay.
“Hỡi Đức Giêhôva, tôi kêu van, mà Ngài không nghe tôi đến chừng nào ?”
Habacúc than vãn, ông ta không thèm nghĩ rằng Chúa đang lắng nghe ông, và ở
điểm này nhiều Cơ Đốc Nhân ngày nay đông ý với ông ta :”Tôi sợ sự bạo ngƣợc
kêu van cùng ngài, mà ngài chẳng muốn giải muốn cứu ? Nhơn sao Chúa khiến tôi
thấy sự gian ác, và ngài nhìm xem sự ngang trái? Sự tàn hại bạo ngƣợc ở trƣớc mắt
tôi; sự tranh đấu cãi lẫy dấy lên. Vậy nên pháp luật không quyền, sự chánh trực
không hề tỏ ra. Kẻ hung ác vây xung quanh ngƣời công bình,vì cớ đó sự xét đoán
ra trái ngƣợc” (HaKb 1:2-4).
Có khi nào bạn đã miêu tả thế giới Âu Tây ngày nay bằng những lời lẽ giống nhƣ
vậy chăng ? Đối với tôi thì có!
Và Đức Chúa Trời đã trả lời với Habacúc: ”Hãy nhìn trong các nƣớc và xem, hãy
lấy làm lạ và sững sờ. Vì ta đang làm ra trong ngày các ngƣơi một việc, mà dầu có
ai thuật lại cho các ngƣơi, các ngƣơi cũng không tin. Nầy ta khiến ngƣời Canh đê
dấy lên, nó là một dận dữ tợn hung hăng, hay đi khắp đất chiếm lấy chỗ ở không
thuộc về mình. (HaKb 1:5-6)
Chúa sẽ nói rằng Chúa sẽ khiến một quốc gia hung tàn lật độ thế giới. Bạn có thấy
khác gì với đạo binh ta đã thấy nói lên từ hồi đó hay không ?
Đức Chúa Trời không những đã cho phép ngƣời xứ Canh đê thống trị, mà chính
Chúa đã dấy họ lên, Còn Nã Phá Luân, Hít le? Chúng ta có thể cảm tạ Chúa đã dấy
họ lên không? chúng ta có thể chấp nhận lời Chúa phán rằng mọi sự hiệp lại làm
ích lợi cho chúng ta không? Habacúc đã phẫn uất khi biết điều Chúa sắp làm: ”Hỡi
Đức Giêhôva, Đức Chúa Trời tôi, Đấng Thánh tôi! Ngài há chẳng phải là đời đời
vô cùng sao? Vậy chúng tôi sẽ không chết! Hỡi Đức Giêhôva Ngài đã lập dân này
lên đặng làm sự xét đoán của Ngài. Hỡi vầng đá, Ngài đã đặt nó làm sự sửa phạt!
mắt Chúa Thánh sạch chẳng nhìn xem kẻ làm sự dối trá, khi kẻ dữ nuốt ngƣời công
bình hơn nó, sao Ngài nín lặng đi?” (1:12-13)
Có khi nào bạn tự hỏi vì sao Chúa lại cho phép những ngƣời gian ác độc dữ làm
hại kẻ vô tội không? Tôi đã tự hỏi? Và Habacúc nói tiếp :”Sao Ngài khiến loài
ngƣời nhƣ cá biển và nhƣ loài côn trùng vô chủ? Nó đã dùng lƣỡi móc lấy cả, thâu
góp trong chài mình và nhóm lại trong lƣới mình, vậy nên nó vui mừng và lấy làm
thích” (1:14-15).
Đức Chúa Trời không làm ngơ giả điếc trƣớc tất cả câu hỏi đó, Chúa đã ra lệnh cho
Habacúc viết lên câu trả lời để cho mọi ngƣời biết và nhớ lấy.
“Vì sự hiện thấy còn phải ứng nghiệm trong kỳ nhất định, sau cùng nó sẽ kíp đến,
không phỉnh dối đâu: Nếu nó chậm trễ, ngƣơi hãy đợi, bởi nó chắc sẽ đến, không
chậm trễ” (2:3).
Đức Chúa Trời không bao giờ chậm trễ. Lịch Ngài lúc nào cũng đúng. Chúng ta
đây mới là ngƣời luôn luôn lo lắng vì chúng ta dự tính sai. Chúa còn phán: “Này,
lòng ngƣời kiêu ngạo, không có sự ngay thẳng không bờ bến, làm họ thất bại nặng
nề và vinh quang giả tạo của họ chẳng bao lâu đã biến thành tủi hổ. Trong khi hậu
quả tội ác của họ đổ lại lên đầu họ cho tới lúc khắp trái đất đầy rẫy sự hiểu biết
vinh quang Đức Chúa Trời.
Bây giờ Habacúc mới có thể trông thấy tất cả sự uy nghi cao cả của kế hoạch Đức
Chúa Trời. Vì vậy, ông đã hát mừng và reo mừng chiến thắng:
“Hỡi Đức Giêhôva tôi đã nghe danh Ngài thì sợ hãi... Đức Chúa Trời đến từ Thê
man, Đấng Thánh đến từ núi Pharan, vinh hiển Ngài bao phủ các từng trời, đầy đất
sự khen ngợi Ngài” (3:2-3).
“Sự chói rạng của Ngài nhƣ ánh sáng, những tia sáng ra từ tay Ngài, quyền năng
Ngài dấu trong nơi đó. Ôn dịch đi trƣớc mặt Ngài, tên lửa ra nơi chân Ngài. Ngài
đứng và đo đất. Ngài nhìn xem làm tan tác các dân tộc, các núi hằng còn đều tan
nát, các đồi đời đời đều quỳ xuống: Các đƣờng lối Ngài giống nhƣ thuở xƣa”
(3:4-6).
Habacúc kinh hãi bởi khải tƣợng ngƣời mới trông thấy. Ông không còn đặt câu hỏi
tại sao có hoả hoạn, động đất, đói kém dịch lệ và giặc dã nữa. Môi ông run rẩy vì
khiếp sợ, toàn thể con ngƣời ông đều kinh hoàng nhƣng ông hát lên cùng Chúa :
“Vì dầu cây vả sẽ không nứt lộc nữa, và sẽ không có trái trên những cây nho, cây
ôlive không sinh sản và chẳng có ruộng nào sinh ra đồ ăn, bầy chiên sẽ bị dứt khỏi
sàn, và không có bầy bò trong chuồng nữa. Dầu vậy tôi sẽ vui mừng trong Đức
Giêhôva, tôi sẽ hớn hở trong Đức Chúa Trời của sự cứu rỗi tôi. Đức Giêhôva là
Chúa, là sức mạnh của tôi, Ngài làm chơn tôi giống nhƣ chơn con hƣơu. Khiến tôi
đi trên các nơi cao của mình (3:17-19).
Habacúc bị khủng khiếp bởi cảnh tƣợng tƣơng lai mà Đức Chúa Trời vừa mới cho
ông thấy. Nhƣng ông cũng ý thức đƣợc rằng Đức Chúa Trời là Đấng thƣơng yêu,
công bình và nhân từ. Habacúc không ngần ngại tân hiến đời sống mình trong tay
Ngài bằng cách ca ngợi Ngài vì kế hoạch hoàn hảo Ngài đã vạch ra cho Ysơraên.
Điều mà Chúa cũng đã truyền cho chúng ta là ca tụng ngài, cho dù môi chúng ta
run lên vì sợ và dù chúng ta bị khủng khiếp bởi những hoàn cảnh bên ngoài của kế
hoạch của Ngài đối với chúng ta.
Bởi tiên tri Êsai. Chúa đã cho đã cho dân Ngài biết ý định của Ngài ấy là Ngài vừa
dấy vua Siru lên Siru là vua nƣớc Batƣ, ông đứng lên chinh phục và lật đổ nhiều
quốc gia. Vua Siru không biết Đức Chúa Trời, nhƣng Ngài quyết định dùng ông ta
để đƣa ngƣời Do thái bị lƣu đày từ Babylôn về để xây dựng lại Giêsusalem và đền
thờ.
Tại sao Chúa lại dùng Siru, một vua ngoại bang để thực hiện ý của Ngài? Chúa đã
trả lời cho những ai hỏi Ngài:
“Ấy chính là Đấng gây nên sự sáng và dựng nên sự tối tăm, làm ra bình an và dựng
nên tai vạ chính là đức Giêhôva làm moị sự đó” (EsIs 45:7).
“Khốn thay cho kẻ cãi lại với Đấng tạo nên mình, một bình trong các bình bằng
đất, đất sét há nói cùng thợ gốm là ngƣời nhối mình mà rằng: Nó không có tay
(c9).
“Đức Giêhova, Đấng thánh của Ysơraên, tức là Đấng đã làm ra Ysơraên phán nhƣ
vậy: Các ngƣơi hãy hỏi về những sự sẽ đến, hãy bảo ta về các con trai ta và về việc
làm bởi tay ta. Ấy chính ta làm ra đất, dựng lên loài ngƣời ở trên đất, chính ta, tức
là tay ta, đã giƣơng ra các từng trời, và đã truyền bảo các cơ binh nó” (c11,12).
“Ấy chính là ta đã dấy lên trong sự công bình, và sẽ ban bằng mọi đƣờng lối ngƣời.
Ngƣời sẽ lập lại thành ta, và thả kẻ bị đày của ta, không cần gia chuộc, cũng không
cần phần thƣởng. Đức Giêhôva vạn quân phán vậy” (c.13).
Khi chúng ta từ chối không chịu công nhận bàn tay Đức Chúa Trời trong mọi hoàn
cảnh, thì chúng ta khác gì đất sét cãi lại với thợ gốm. Ta nói:”nếu tôi là Chúa, tôi
sẽ làm cách khác kia. Tôi sẽ khiến cho động đất ở Pêru, không cho em bé này chết
vì bệnh ung thƣ máu, tôi sẽ không cho phép những ngƣời này giảng về tà thuyết
làm mê hoặc kẽ dễ tin... và chắc chắn tôi sẽ không cho phép những ngƣời buôn
Matúy đến cám dỗ trẻ con!”
Chúa biết rõ chúng ta nghĩ gì về tất cả những điều đó, và Chúa cũng biết sự hiểu
biết của chúng ta hạn hẹp biết bao. Ngài dùng tôi tới Ngài để phán:
“Ý tƣởng ta chẳng phải ý tƣởng các ngƣơi, đƣờng lối các ngƣơi chẳng phải đƣờng
lối ta cao hơn đƣờng lối các ngƣơi, ý tƣởng ta cao hơn ý tƣởng các ngƣơi bấy
nhiêu. Vả nhƣ mƣa và tuyết xuống từ trên trời và không trở lại nữa, mà đƣợm
nhuần đất đai, làm cho sanh ra và kết nụ, đặng có giống kẻ gieo, có bánh cho kẻ ăn,
thì lời nói của ta cũng vậy, đã ra từ miệng ta thì chẳng trở về vô ích, mà chắc sẽ
làm trọng điều ta muốn, thuận lợi công việc đã sai khiến nó (55:8-11).
Sự nghi ngờ và tuyệt vọng của chúng ta do sự thiếu tin cậy nơi Chúa mà ra. Chúng
ta không hoàn toàn xác tín rằng Chúa muốn làm điều tốt cho chúng ta.
Chúng ta hỏi vì sao một trẻ con vô tội lại phải chết dƣới bánh xe của một tài xế say
rƣợu lái để cho ngƣời này cần đến Đức Chúa Trời. Vậy Chúa lo cho linh hồn của
ông tài xế say rƣợu hơn là mạng sống của một đứa trẻ hoặc nỗi tang tóc của cha mẹ
nó sao?
Hết thảy chúng ta đều đặt vô số câu hỏi nhƣ thế, nhẩm đi nhẩm lại trong trí nhớ
chúng ta. Bị xâu xé bởi vấn đề đó, chúng ta không có sự bình an. Và thêm nữa nỗi
khắc khoải của chúng ta chẳng phải giải quyết gì đƣợc cho hoàn cảnh.
Phƣơng thế độc nhất để ra khỏi khó khăn của chúng ta là chấp nhận Chúa trong
đức tin, nghĩa là bất chấp tất cả những gì có thể nghĩ, thấy hoặc cảm thấy. Lời
Chúa nói rằng Chúa thƣơng yêu chúng ta và cái chết của môt đứa trẻ vô tội nằm
trong kế hoạch tình yêu của Chúa đối với mỗi ngƣời bị tang tóc.
Tình yêu của Đức Chúa Trời đối với chúng ta cũng nhƣ các lời khác của Kinh
Thánh chỉ có thể chấp nhận trong đức tin mà thôi. Chúng ta phải quyết định tin
rằng tình yêu đó là sự mặc khải của Đức Chúa Trời về chính mình ngài, dù chúng
ta cảm thấy mình đƣơc yêu thƣơng hay không.
Tin Lành của Kinh Thánh là Đức Chúa Trời yêu thƣơng chúng ta bằng tình yêu tha
thiết, kiên nhẫn, tế nhị và lo lắng cho hạnh phúc và sự thoải mái của chúng ta hơn
bất cứ tình yêu nhân loại nào khác. Đức Chúa Trời yêu thƣơng chúng ta và Ngài có
một kế hoạch hoàn hảo cho mỗi cuộc đời của chúng ta. Ngài đã sai Con Một Ngài
chết thế cho chúng ta để ban cho chúng ta một cuộc sống mới sung mãn, bình an
và hoan hỉ trong một thế giới đầy đau khổ.
Với trí hiểu phàm trần quá hạn của chúng ta, chúng ta không thể nào hiểu đƣợc tất
cả sự tuyệt vời của kế hoạch của Chúa đối với thế giới này và đối với chúng ta.
Cũng nhƣ Habacúc, chúng ta phẫn uất trƣớc hành động của Chúa trong việc dùng
những trận động đất và chiến tranh, dùng sự chết để thực hiện ý muốn của Ngài.
Những kế hoạch của Đức Chúa Trời là kế hoạch hoàn hảo. Đó là kế hoạch duy
nhất đã thành công trong thế giới bị sự dữ và sự bội nghịch của con ngƣời cai trị.
Bạn hãy nhìn xem sự đổ vỡ mà loài ngƣời chúng ta đã gây qua các thế kỷ khi
chúng ta muốn tự mình lo liệu lấy. Chúa phán với Ê sai rằng kế hoạch cũ của Chúa
không ăn khớp điều chúng ta làm vì tƣ tƣởng của ngài vƣợt trên tƣ tƣởng của
chúng ta, mênh mông vô tận biết chừng nào.
Đức Chúa Trời chỉ muốn điều tôt nhất cho chúng ta mà thôi.
“Vì các ngƣơi sẽ đi ra vui vẻ, đƣợc đƣa đi trong sự bình an. Trƣớc mặt ngƣơi, núi
đồi sẽ trổi tiếng ca hát, mọi cây cối ngoài đồng sẽ vỗ tay. Cây tùng sẽ mọc thay cho
bụi gai, và cây sim sẽ lớn lên thay cho gai gốc, điều đó sẽ làm cho biết danh
Giêhôva, và là một dấu đời đời không hề tuyệt diệt.” (EsIs 55:12-13).
Đức Chúa Trời muốn ban đầy rẫy phƣớc lộc của Ngài cho chúng ta. Ngài muốn
săn sóc chúng ta bằng mọi cách và ngay cả trong những chi tiết nhỏ nhặt nhất trong
đời sống hằng ngày của chúng ta. Còn chúng ta thì cứ ngừng các hoàn cảnh và biểu
hiện bên ngoài của kế hoạch của Chúa rồi tự hỏi vì sao và cách nào để Chúa làm
điều này điều nọ, trong lúc Chúa truyền dạy chúng ta cứ nhìn vào Chúa và tin
tƣởng Ngài.
Ở giai đoạn này chúng ta cũng nhƣ lúc chúng ta mới trở thành lại tin Chúa, ta phải
nhất quyết gạt sang một bên ý muốn của chúng ta là hiểu biết và hiểu rõ điều Chúa
đang thực hiện, và ta phải đặt tất cả ý chí của mình vào sự nhất quyết tin nơi lời
Chúa. Kế hoạch của Chúa nơi chúng ta luôn luôn tốt đẹp, lời Chúa khẳng định nhƣ
thế, vậy chúng ta có tin không?
Kế hoạch của Chúa đối với Gióp cũng tốt đẹp nữa. Nhƣng đó là một kế hoạch đã
thử thách đức tin ông một cách khốc liệt và làm trí khôn của ông không biết đằng
nào mà lý luận đƣợc.
Gióp là một ngƣời liêm chính, Chính Chúa nói về ông ”Ngƣời có nhìn thấy Gióp,
tôi tớ của ta chăng, nơi thế gian chẳng có ngƣời nào giống nhƣ nó, vốn trọn vẹn
ngay thẳng Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác” (Giop G 1:8). Việc gì xảy đến cho
Gióp vậy? Ông đã mất hết tài sản, chiên cừu của ông, bò lạc đà... Và một hôm, ông
mất cả con cái khi mái nhà sụp đổ.
Nếu việc ấy xảy đến cho bạn hoặc một trong những ngƣời láng giềng của bạn, bạn
có thể nói việc ấy do Đức Chúa Trời hay do Satan mà đến?
Trong trƣờng hợp của Gióp; đúng là Satan. Nhƣng việc ấy xảy đến nhƣ thế nào?
Satan đến gặp Chúa và xin phép Chúa làm khổ Gióp.
Satan có đóng một vai trò trong thảm kịch của cuộc sống chúng ta, nhƣng nó chỉ là
diễn viên mà thôi. Chính Chúa mới là đạo diễn và giám đốc.
Ông Gióp đã phản ứng thế nào? Ông xé áo, sấp mình thờ lạy Chúa.
“Tôi trần truồng lọt ra khỏi lòng mẹ, và tôi cũng sẽ trần truồng mà về; Đức
Giêhôva đã ban cho, Đức Giêhôva cất đi, đáng khen Đức Giêhôva” (1:21).
Thế vẫn chƣa xong, Satan trở lại xin phép thử Gióp thêm nữa và Chúa đã cho phép
Satan.
Lần này thân hình ông Gióp đầy lở loét. Ông trông dị dạng ghê tởm đến nỗi không
ai dám nhìn ông cả. Ngay cả vợ ông cũng bảo ông nguyền rủa Chúa chết đi. Những
ngƣời bà con láng giềng trƣớc kia vẫn kính trọng ông đâm ra chế nhạo ông và
tránh xa ông. Ba ngƣời bạn tốt nhất của ông đến nói với ông rằng nỗi đau khổ của
ông là do tội lỗi của ông và khuyên ông ăn năn hối cải.
Ông Gióp không nghi ngờ là chính Đức Chúa Trời đã gây nên tai họa cho ông.
Ông xin Chúa tha tội cho ông nhƣng với niềm xác tín rằng không phải vì tội lỗi của
ông mà ông đau khổ. Trong thâm tâm ông biết rằng ông ngay thẳng và tin tƣởng ở
Chúa “Dẫu Chúa giết ta, ta cũng còn nhờ cạy nơi Ngài, nhƣng ta sẽ binh vực tánh
hạnh ta trƣớc mặt Ngài”. (13:15). Ông Gióp tin chắc rằng Đức Chúa Trời chịu
trách nhiệm về các sự thử thách của ông, nhƣng lý trí của ông chất vấn ông tại sao
ông phải khổ sở. Những câu hỏi đó chúng ta chẳng có lúc nào đặt vấn đề sao?
“Lạy Chúa, tại sao Chúa cho phép ngƣời này ngƣời kia phải nghèo khổ? Tại sao
Chúa cho phép kẻ vô tội đau khổ? Tại sao những kẻ làm điều dữ lại sống sung
sƣớng và không có vấn đề gì? Tại sao Chúa không để con chết đi cho con rồi để
con khỏi khổ và con đƣợc ở bên Chúa?
Lời đáp của Chúa cho Gióp là lời quở trách nghiêm khắc của một ngƣời cha đối
với ngƣời con mình (38:1-38).
“Khi ta đặt nền trái đất thì ngƣơi ở đâu? Nếu ngƣơi không thông sáng tỏ bày đi” (C
4).
“Ánh sáng phân ra bởi đƣờng nào, và gió đông theo lối nào mà thổi ra trên đất “ (C
24).
“Từ khi ngƣời sanh, ngƣơi há có sai khiến buổi sáng, và phán định chỗ cho hừng
đông” (C.12).
“Ngƣơi có thể biết các dây chằng sao rua lại, và tách các siềng cầy ra sao chăng?
Ngƣơi có thể làm cho các cung huynh đạo ra theo thì, và dẫn đƣờng cho Bắc đẩu
với các sao theo nó chăng? (C31-32).
“Ai đặt sự khôn ngoan trong lòng, và ban sự thông sáng cho trí não” (C.36).
“Ai để cho con lừa rừng chạy long đong? Ai đã mở trói cho con lừa lẹ làng kia”
(Giop G 39:8).
“Có phải ngƣơi ban sức lực cho ngựa, và phủ cổ nó lông gáy rung rung chăng?”
(C.22).
“Có phải theo lịnh ngƣời mà chim ƣng cất lên và đóng ổ nó tại nơi cao ?” (C.30).
“Kẻ bắt bẻ Đấng Toàn Năng há sẽ tranh luận cùng Ngài sao? Kẻ cải luận cùng Đức
Chúa Trời. hãy đáp điều đó đi ! (C.35).
Và Gióp đã thƣa: “Tôi vốn là vật không ra gì, sẽ đáp cho với Chúa? Tôi đặt tay lên
che miệng tôi. Tôi đã nói một lần, song sẽ chẳng còn đáp lại; Phải tôi đã nói hai
lần, nhƣng không nói gì thêm nữa” (C37-38).
Chúa kể tiếp các vật kỳ diệu Ngài đã dựng nên, các loài thú, sức mạnh, tập quán
của chúng, quyền uy cao cả của Ngài.
“Chẳng ai đủ gan dám trêu chọc nó. Vậy ai sẽ đứng trƣớc mặt ta cho nổi? Ai ban
cho ta trƣớc đã, mà ta phải trả lại cho? Phàm vật chi ở dƣới trời đều thuộc về ta”
(41:1-2).
Gióp đáp lời Chúa rằng: “Tôi biết rằng Chúa có thể làm đƣợc mọi sự, chẳng có ý
chỉ nào Chúa lấy làm khó lắm. Kẻ này là ai, không hiểu biết gì, lại dám che ý của
Chúa? Phải, tôi đã nói những điều tôi không hiểu đến, tức các sự lạ lùng quá cho
tôi, mà tôi chẳng thông biết ... Trƣớc lỗ tai tôi có nghe đồn về Chúa, nhƣng bây giờ
mắt tôi đã thấy Ngài: Vì vậy, tôi lấy làm gớm ghê tội, và ăn năn trong tro bụi :
(42:2-3, 5-6).
Chúa đã nghiêm nghị quở trách ba ngƣời bạn của Gióp, vì họ hiểu sai lý do tại sao
Gióp chịu đau khổ. Chúa đã cho họ thấy việc phán đoán sai lầm của họ và ra lệnh
cho họ dâng một của lễ thiêu Chúa bảo ông Gióp cầu nguyện cho họ.
Ba ngƣời bạn đã làm theo lời Chúa, và “khi Gióp đã cầu nguyện cho bạn hữu mình
rồi, Đức Giêhôva bèn đem ngƣời ra khỏi cảnh khốn ngƣời, và ban lại cho Gióp gấp
bằng hai các tài sản mà ngƣời đã có trƣớc” (42:10).
Ta nên ghi nhận rằng Đức Chúa Trời đã chúc phƣớc cho ông Gióp khi ông ta chúc
lành cho những kẻ đã tố cáo ông một cách bất công. Gióp đã học đƣợc một bài
học; không bao giờ ông dám chất vấn Chúa về cách Ngài cai quản vũ trụ nữa. Ông
sẽ không bao giờ nhìn hoặc nghe điều gì với khả năng tự nhiên, từ nay ông sẽ sử
dụng cái nhìn mới của ông, cái nhìn thuộc linh.
Đức Chúa Trời đã có môt kế hoạch tuyệt hảo đối với ông Gióp. Các thử thách của
ông đƣợc Satan thực hiện nhƣng Chúa đã cho phép nhƣ vậy để tăng cƣờng đức tin
và sự khôn ngoan của ông, và chứng tỏ cho ông thấy uy quyền và tình yêu của
Chúa.
Đức Chúa Trời có một kế hoạch tuyệt hảo đối với ông Gióp. Cách thử thách của
ông đƣợc Satan thực hiện nhƣng Chúa đã cho phép nhƣ vậy để tăng cƣờng đức tin
và sự khôn ngoan của ông, và chứng tỏ cho ông thấy uy quyền và tình yêu của
Chúa.
Đức Chúa Trời có một kế hoạch tuyệt diệu cho bà Rutơ, ngƣời xứ Môáp. Nhƣng
ngƣời ta có cảm tƣởng rằng tai ƣơng đuổi theo bà. Bà góa chồng, sau đó bà trở về
nhà mẹ chồng ở Bếtlêhem. Cả hai đều nghèo đến nỗi Rutơ phải đi mót lúa trong
đồng ruộng của những nhà phú hộ. Sự việc xảy ra trong không có vẻ sáng sủa và
đẹp đẽ phải không? Nhƣng Rutơ tin tƣởng nơi Chúa. Ngoài đồng bà gặp Bôô yêu
Rutơ và họ cƣới nhau. Chƣơng trình của Chúa đã thành công. Rutơ trở thành mẫu
tổ của Đavít.
Ta phải nó thế nào về chƣơng trình tuyệt hảo của Chúa đối với Giôsép? Chúa đã
định cho Giôsép trở thành phụ tá của vua xứ Aicập, vì Ngài dự tính dùng ông đúng
lúc về sau này để cứu dân Ysơraên khỏi nạn đói kém.
Giôsép bị các anh em bán cho đoàn nói buôn đi Ai cập làm nô lệ. Đó là màn đầu
tiên của kế hoạch của Đức Chúa Trời trong lúc các anh em của Giôsép không hề
ngờ rằng họ đã phục vụ ý định của Ngài. Họ ghét ngƣời em của họ và chỉ muốn
một điều là tống cổ nó đi cho xong. Về sau Giôsép trở thành ngƣời tin cậy của một
ngƣời Ai cập giàu có và quyền thế. Dƣờng nhƣ ông đã đƣợc lên cao về mặt xã hội
nhƣng ông bị tố cáo oan là mƣu hãm hiếp vợ của vị quan Ai cập kia, và ông đã bị
tống giam. Nếu việc xảy ra cho bạn có nghĩ rằng kẻ thù vừa thắng thế không? Hay
là bạn đã chấp nhận việc này nhƣ là một điều nằm trong chƣơng trình hoàn hảo của
Đức Chúa Trời !
Trong ngục tù Chúa cho Giôsép tiếp xúc với quan tửu chánh của vua Ai cập và ông
ấy để cho Giôsép giải thích giấc mộng của mình. Giôsép nhờ quan biện hộ giải
thích giấc mộng của mình. Giôsép nhờ quan biện hộ cho ông. Viên quan đã hứa,
nhƣng một khi ông đƣợc tha ông lại quên mất. Giôsép còn ở tù hai năm nữa. Tất cả
câu chuyện này xem nhƣ đổ dồn trên đầu ông, nhƣng Chúa có ngày giờ của
Ngài.Vua Ai cập có hai giấc mộng mà không ai giải thích đƣợc. Bỗng nhiên, quan
tửu chánh sực nhớ đến ngƣời mà ông đã gặp trong tù mấy năm về trƣớc. Giôsép
đƣợc giới thiệu với vua Ai cập và Chúa mặc khải cho ông ý nghĩa của giấc mộng:
Bảy năm đói kém kinh khủng tiếp theo là bảy năm đƣợc mùa. Vua Aicập chấp
nhận lời giải mộng của Giôsép và đặt ông làm ngƣời phụ trách việc dự trữ lƣơng
thực trong bảy năm đƣợc mùa, và phân phối lƣơng thực trong bảy năm hạn hán
mất mùa.
Khi anh em của Giôsép đến Ai cập mua lúa, Giô sép đã tỏ ra cho họ. Sợ hãi và hối
hận, họ sấp mình xuống trƣớc mặt Giô sép, nhƣng ông nói với họ :
“Bây giờ đừng sầu não và cũng đừng tiếc chi về điều các anh đã bán tôi đặng bị
đày đến xứ này; vì để giữ gìn sự sống các anh, nên Đức Chúa Trời đã sai tôi đến
đây trƣớc các anh. Kìa hai năm rồi trong sứ tôi bị đói kém, và còn năm năm nữa sẽ
không có cày cấy chi, gặt hái chi đƣợc hết. Đức Chúa Trời sai tôi đến đây trƣớc
đặng làm cho các anh còn nối dòng mặt đất và nƣơng một sự giải cứu lớn đặng giữ
gìn sự sống cho anh em. Không, chẳng phải các anh sai tôi đến đây đâu, ấy là Đức
Chúa Trời; Ngài đƣờng đặt tôi làm cha Pharaôn, cai quản cả nhà ngƣời, và trị các
xứ Êdíp tô... Các anh toan hại tôi, nhƣng Đức Chúa Trời lại toan làm điều ích cho
tôi hầu cho sự sống của nhiều ngƣời” (SaSt 45:5-8; 50:20).
Đức Chúa Trời đã chuyển đổi tội ác thành điều thiện! Chúng ta chấp nhận rằng
Chúa có thể làm cho mọi sự hiệp lại làm ích lợi cho chúng ta, nhƣ Kinh Thánh dạy,
nhƣng chúng ta nghĩ rằng Chúa chỉ dùng tất cả những gì xảy đến cho chúng ta, lợi
dụng nó tối đa và chúng lành cho ta qua sự việc đó. Nhƣng Đức Chúa Trời không
bao giờ bị động. Vai trò của Ngài không phải chỉ biến đổi ác thành thiện thôi đâu.
Chính ngài là Đấng khởi xƣớng mọi sự. Chúng ta phải luôn nhớ điều ấy.
Vâng, Đức Chúa Trời nắm tất cả phần sáng trong cái chết của Ê tiên (Cong Cv
7:1-60). Ê tiên là một ngƣời đầy dẫy Thánh Linh và trung thành phục vụ Chúa. Khi
Ê tiên chết, một thanh niên Saulơ thành Tạtsơ, hăm hở bắt bớ Hội Thánh có mặt
trong số các khán giả.
Ê tiên vững tin rằng Chúa là, chủ tình thế vì trong lúc ngƣời ta ném đá ông, ông quì
gối và lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin đừng đổ tội này cho họ”. Và ông chết. Ông biết
rằng những kẻ hành hình ông chỉ nghĩ đến sự ác mà thôi, nhƣng Đức Chúa Trời đã
dự tính đƣợc việc này để gây nên sự thiện.
Bạn có thể nào cảm tạ về việc hạ sát một Cơ Đốc Nhân, và bạn có thể tin rằng Đức
Chúa Trời dùng thảm kịch đó để làm vinh hiển danh ngài không?
Saulơ thành Tạtsơ đã trở thành môn đồ Phaolô, sau một kinh nghiệm cải hoán đặc
biệt trên con đƣờng Đamách. Trong lúc rao giảng Tin Lành, ngƣời đã nếm đủ phần
“tai họa” và “khó khăn”.
Một hôm đến thành Philip, Phaolô và Sila bị vu cáo là phá rối an ninh của thành
phố đó. Họ lột áo xống của các ông, và đánh đòn nhừ tử, rồi họ tống các ông vào
vào khám sâu nhất và cùm chân các ông lại (16:20-24).
Tuy vậy Phaolô và Sila không nghĩ rằng Satan vừa mới thắng một trận và Chúa
bảo họ. Họ xác tín rằng Chúa đã gọi họ đi rao giảng ở thành Philíp và Chúa đã làm
cho mọi sự rốt cuộc thực hiện chƣơng trình toàn hảo của ngài đối với Phaolô và
Sila. Vậy nên họ không hề than vãn, rên rỉ chút nào. Họ cũng xin Chúa cứu giúp
họ. Họ ở trong ngục, với các vết máu khô trên các vết thƣơng đau nhức, không cần
cựa quậy đƣợc, chân bị cùm và họ cầu nguyện hát thi thiên chúc tạ Chúa.
“Lối nữa đêm, Phaolô và Sila đƣơng cầu nguyện, hát ngợi khen Đức Chúa Trời, và
những thủ phạm đều nghe. Bất thình lình có cơn động đất rất lớn, đến nỗi đền ngục
rúng động cùng lúc các cửa mở ra xiềng tù phạm thảy đều tháo cả. Ngƣời đề lao
giật mình thức dậy, thấy các cửa ngục đều mở, tƣởng tù đã trốn hết, bèn rút gƣơm
toan tự giết mình. Nhƣng Phaolô kêu lớn tiếng rằng: Chớ làm hại mình, chúng ta
còn đều ở đây cả. Ngƣời đề lao bèn kêu lấy chân đèn, chạy lại run sợ lắm, gieo
mình nơi chân Phaolô và Sila. Đoạn hai ngƣời ra ngoài và hỏi rằng : Các Chúa ơi
tôi phải làm chi cho đƣợc cứu rỗi. Hai ngƣời trả lời rằng : Hãy tin Đức Chúa Jêsus
thì ngƣơi và cả nhà đều sẽ đƣợc cứu rỗi” (16:25-31).
Đức Chúa Trời đã có một kế hoạch trọn hảo đối với thành Philíp. Ngài phái Phaolô
và Sila đến đó để làm chứng và nhƣng ngƣời này có lòng tin rằng Chúa đang thực
hiện kế hoạch của Ngài dù Ngài dùng hoàn cảnh mà không định trƣớc đƣợc.
Chúng ta luôn luôn muốn tƣởng tƣợng điều Chúa sắp làm chúng ta thấy Ngài hành
động trong một trƣờng hợp nào đó, và khi xảy đến một trƣờng hợp tƣơng tự thì ta
mong đợi ngài can thiệp nhƣ thế. Nhƣng Phaolô thƣờng không đƣợc Chúa làm
phép lạ cho thoát ngục. Đôi khi ông phải ở hàng năm trong tù.
Phaolô gặp nhiều gian truân trong đời ông, nào là bị ném đá tƣởng đã chết rồi, nào
là bị đắm tàu, bị rắn cắn, đau ốm, bị bách hại.. nhƣng không bao giờ ông nghĩ Chúa
không điều khiển mọi biến cố trong cuộc đời ông. Mọi sự đối với ông đều là đề tại
để ông vui mừng và ngợi khen Chúa. Phaolô lô biết rằng đau khổ là tốt cho ông.
Trong nhiều năm tôi phải chịu đựng cơn nhức đầu kinh khủng. Tôi tham khảo
Kinh Thánh, tìm những lời Chúa hứa chữa lành bịnh nhƣng chẳng thấy lý do nào
cho cực hình đó nó vẫn không rời tôi.
Đồng thời tôi bị ray rứt bởi những nghi nan. Luôn luôn tôi để trí mình buông theo
lý luận về nguyên do sự đau khổ của tôi. Tại sao Chúa không làm gì để chữa lành
cho tôi.
Ma quỉ thì thầm: “Mày cầu nguyện cho kẻ khác và họ đƣợc lành. Còn mày, mày
vẫn tiếp tục đau”.
Tôi trằn trọc nhiều đêm trong đau nhức không sao ngủ đƣợc, và các tƣ tƣởng đó
luôn luôn ám ảnh tôi :”Xem kìa, mày khổ sở thật! Nếu Chúa công bình và biết mày
đau khổ bao nhiêu, Ngài sẽ không giận mày nếu mày tự vẫn. Chỉ cần làm thế nào
cho kẻ khác không nghĩ rằng mày tự vận thôi. Không ai sẽ bối rối về việc đó, còn
mày, mày sẽ đƣợc thoát khổ.
Những tƣ tƣởng đó cũng nhƣ các lý lẽ của những bạn hữu Gióp có vẻ hợp lý khi ta
bị khổ đau giày vò, nhƣng kỳ thực đó chỉ là những điều xảo trá do chính Satan cha
của sự lừa dối, đặt bày ra, nó chỉ có thể mon men đến với ta với sự cho phép của
Đức Chúa Trời mà thôi.
Những kẻ cáo tội ta và phá quấy tra buộc nó phải đi xa khi ta đến gần Đức Chúa
Trời và nghe sự thật của Ngài.
Những cơn nhức đầu của tôi không hết ngay đƣợc nhƣng tôi quyết tâm tin rằng
Chúa không thể cho điều gì xảy ra cả nếu nó không sinh ích cho tôi. Vì vậy, chứng
nhức đầu xảy ra cùng nhằm gây ích lợi cho tôi, và mỗi lần tôi lại cảm tạ, ngợi khen
Chúa vì nó, lúc bấy giờ có một điều kỳ diệu xuất hiện. Việc này có vẻ kỳ lạ, nhƣng
chứng nhức đầu lại đem phƣớc hạnh cho tôi. Càng đau, tôi càng cảm tạ, ngợi khen
Chúa, và do đó tôi cảm nhận một niềm vui mới mẻ, sâu xa tràn ngập tất cả ngƣời
tôi.
Mục sƣ Richard Wurmbrend thuật lại những gì xảy đến cho ông trong các trại
giam, khi nổi đau đớn về thể xác và sự đày đọa về tinh thần quá mức chịu đựng. Ba
năm giam giữ một mình và tra tấn đe dọa làm ngƣời bị mất trí. Trong lúc hết sức
chịu đựng, ngƣời vẫn tiếp tục tin cậy Chúa và ngợi khen Ngài vì lòng nhơn từ của
ngài luôn luôn hiện diện. Chính lúc đó niềm hân hoan bắt đầu xâm chiếm toàn thể
ngƣời ông và tràn ngập xà lim của ông.
Đức Chúa Trời đã định trƣớc những đau khổ của ông sẽ đem lại điều tốt lành. Sứ
vụ Richard Wurmbrend bây giờ chiếu tỏa khắp thế giới vì những gì ngƣời đã chịu.
Thi Tv 18:30 chép: “Còn Đức Chúa Trời, các đƣờng lối ngài là trọn vẹn, Lời của
Đức Giêhôva đã đƣợc luyện cho sạch. Ngài là cái khiên cho những kẻ nào nƣơng
náu mình nơi Ngài”.
Đƣờng lối Chúa có thể dẫn ta qua lửa, nhƣng khắp mọi nơi sự hiện diện của Chúa
theo dõi ta và bàn tay Ngài dẫn dắt ta, nhƣ Kinh Thánh đã chép.
Làm sao có thể nghi ngờ đƣợc? Thiên Chúa đã tạo dựng nên ngƣời chiến sĩ với vũ
khí của anh ta, Ngài đã tạo nên bão táp lửa và nƣớc Đại Hồng Thủy. Mọi sự đều
dƣới sự kiểm soát hoàn toàn của Ngài.
Tại sao Chúa lại cho phép một cơn bão táp trên hồ nơi Chúa Jêsus đang đi thuyền
với các môn đồ Ngài vậy? Chỉ để chứng tỏ quyền uy của Ngài trên thiên nhiên
(Mac Mc 4:1-401).
Tại sao Chúa cho phép một ngƣời mù bẩm sinh?
Một hôm cùng đi với Chúa Jêsus, môn đồ Ngài thấy ngƣời mù từ thuở mới sinh.
Họ hỏi ngài rằng: “Thƣa thầy ai đã phạm tội, ngƣời hay cha mẹ ngƣời, mà ngƣời
sanh ra thì mù vậy?” Chúa Jêsus đáp lại: ”Đó chẳng phải tại ngƣời hay tại cha mẹ
ngƣời đã phạm tội, nhƣng để cho những việc Đức Chúa Trời đƣợc tỏ ra trong
ngƣời” (GiGa 9:2-3).
Các môn đồ lý luận theo con ngƣời, còn Chúa Jêsus Ngài nhìn trƣờng hợp này
dƣới sự quan phòng và quyền năng của Đức Chúa Trời.
Chính cách nhìn của chúng ta xác nhận thái độ của chúng ta.
Tôi đã nhận đƣợc hàng trăm lá thƣ của tác giả quyển “Từ tù ngục đến ca ngợi”. Ba
phần tƣ bức thƣ ấy do những ngƣời đã khen ngợi Chúa vì một hoàn cảnh khó khăn
và đã đƣợc những kết quả lạ lùng. Những ngƣời khác cũng kể những hoàn cảnh
giống thế nhƣng họ không tin đƣợc Chúa hành động nên họ không thể khen ngợi
Ngài đƣợc. Chán nản và tuyệt vọng, họ sống trong sự thất bại.
Sự khác biệt không nằm trong hoàn cảnh nhƣng nằm trong phƣơng hƣớng ta đã lựa
chọn. Nhiều ngƣời kể cho tôi nghe về một cái chết của thân nhân hay bạn bè.
Một bà viết: “Tom đau nhiều lắm. Chúng tôi đƣa anh đến những buổi cầu nguyện
trị bệnh trong khắp xứ. Có một lúc anh đã khá và hy vọng của chúng tôi đã trở lại.
Rồi bệnh ung thƣ lại tái phát và sau nhiều tháng đau đớn Tom đã chết trẻ nhƣ vậy?
Anh tin Chúa và muốn phục sự Chúa. Nếu trƣớc hết Chúa muốn chỉ dạy chúng ta
một điều gì, tại sao Tom phải đau đớn nhiều nhƣ thế? Ngợi khen Chúa vì việc đã
xảy ra nhƣ thế, tôi thấy phi lý quá”.
Và đây là một bức thƣ khác:
“Charles đã tiếp nhận Chúa Jêsus chƣa đầy một năm nay. Anh là một chứng nhân
xán lạng của Chúa. Sáu tháng sau anh bị ung thƣ. Anh phải bị mổ hai lần, nhƣng
nhọt ở phổi tái phát. Anh mời các vị trƣởng lão Hội Thánh anh đến xức dầu và cầu
nguyện cho anh. Anh đƣợc lành, khi khám lần sau nhọt biến mất. Charles rất sung
sƣớng và ngợi khen Chúa dữ dội. Ngƣời ta đƣa anh vào bịnh viện để khám, và hai
ngày sau anh chết vì ung thƣ não.
Một Mục Sƣ, bạn của gia đình ấy đáp máy bay đến giảng trong buổi lễ an táng.
Trong chuyến bay ông nói chuyện với ngƣời trẻ tuổi ngồi cạnh ông, kể lại câu
chuyện của Charles và trƣớc khi máy bay hạ cánh, anh ta đã hiến dâng đời sống
anh cho Chúa. Đến Nouvelle Orleas, vị Mục Sƣ đổi máy bay ngồi cạnh thiếu nữ.
Cô hỏi ông đi đâu và ông cũng kể lại câu chuyện anh Charles. Trƣớc khi máy bay
hạ cánh, cô ấy đón nhận Chúa Jêsus làm Đấng Cứu Thế. Lễ an táng là một dịp ca
nợi Chúa tất cả những gì Ngài đã thực hiện trong đời sống của Charles. Ở nhà thờ
ra, có hai ngƣời đàn ông tiếp nhận Chúa Jêsus. Sau đó quan tài của Charles đƣợc
chở bằng máy bay đến nhà Charles để an táng. Trong suốt buổi lễ tôi không rời
mắt khỏi khuôn mặt của quả phụ trẻ tuổi. Bà chiếu tỏa niềm vui và bình an nội
tâm. Trong năm đó bà Charles đã khám phá đƣợc niềm vui khen ngợi Chúa vì mọi
sự. “Sự chết đã bị sự thắng nuốt mất” (ICo1Cr 15:54), bà nói với tôi:”không lý do
gì để than khóc cả, vinh hiển thuộc về Chúa”.
Hai bức thƣ trên đây trình bày những hoàn cảnh giống nhau, nhƣng hai bức thƣ
khác nhau biết bao! Một bức diễn tả sự thất bại, bức kia là sự toàn thắng. Một bức
thì có cái nhìn lý trí, hợp lý hay không, còn bức kia có cái nhìn quay hƣớng về
Đấng Christ.
Vâng Kinh Thánh dạy rằng chúng ta có thể nhìn và suy tƣ nhƣ Đấng Christ: “Hãy
có một tâm tình nhƣ Đấng Christ đã có” (Phi Pl 2:5), và “Phải làm thế nên mới
trong tâm trí mình” (Eph Ep 4:23). Phaolô không để nghị một điều không thể nào
xảy ra đƣợc đâu. Nhƣng những từ ngữ chủ chốt trong hai câu này là “Hãy có” và
“Làm nên mới”. Bởi sức chúng ta, chúng ta không thể nhìn và nghĩ nhƣ Đấng
Christ, nhƣng chính Đức Chúa Trời làm nên mới cách nhìn của chúng ta nếu chúng
ta để cho Chúa làm.
Nếu chúng ta muốn có sự biến cải đó, chúng ta có thể thƣa với Chúa và chờ đợi
Ngài thực hiện. Phần việc của chúng ta là tin rằng Chúa đã làm.
Đavít muốn hiểu rõ Chúa về chính cuộc đời mình, nhƣng ông tự biết rằng không
thể nào thay đổi đƣợc con tim của mình, ông xin với Chúa: “Xin hãy dang xa tôi
con đƣờng dối trá, làm ơn cho tôi biết luật pháp của Chúa; tôi đã chọn con đƣờng
thành tín, đặt mạng lệnh Chúa trƣớc mặt tôi, khi Chúa mở rộng lòng tôi thì tôi sẽ
chạy theo con đƣờng điều răn Chúa” (Thi Tv 119:29-30, 32).
Đavít biết rằng điều duy nhất ta có thể làm đƣợc là muốn con đƣờng tốt. Chính
Chúa cất sự dữ để tạo nên sự thiện và ban cho Đavít một con tim tốt lành.
Đối với chúng ta Chúa cùng sẽ làm nhƣ thế, nếu ta quyết định để Chúa hành động
và nếu chúng vững tin nơi sự biến đổi Chúa đã thực hiện. Dù hoàn cảnh thế nào đi
nữa, ta cũng cứ việc ngợi khen và cảm tạ Chúa đã chọn để cất sự dữ và gây sự
thiện nơi chúng ta, và ban cho chúng ta một quả tim tốt lành.
Việc ngợi khen Chúa sẽ phát lộ quyền năng của Đức Chúa Trời trong đời sống
chúng ta vào trong hoàn cảnh vì khen ngợi là tin một cách chủ động. Nếu chúng ta
hoàn toàn tin cậy nơi Đức Chúa Trời, Ngài đƣợc tự do hành động, và luôn luôn
toàn thắng. Có thể là một sự toàn thắng thay đổi đƣợc hoàn toàn hoặc một sự toàn
thắng trong hoàn cảnh. Hoặc là ta khỏi chết không còn nọc độc của nó nữa.
Ngợi khen là luôn chấp nhận và luôn chấp nhận lại những gì Chúa làm trong đời
sống chúng ta. Chúng ta đi vào thái độ ấy bằng động tác ý Chúa, bằng quyết tâm
ngợi khen Chúa bất chấp ta cảm thấy thế nào. Đavít viết :”Trong ngày sợ hãy tôi sẽ
để lòng nhờ cậy nơi Chúa; tôi nhờ Đức Chúa Trời và ngợi khen lời Ngài, tôi để
lòng tin cậy nơi Chúa, ắt sẽ chẳng sợ gì, ngƣời xác thịt sẽ làm chi tôi” (56:3-4).
“Hỡi Đức Chúa Trời, lòng tôi vững chắc, lòng tôi vững chắc; tôi sẽ hát, phải tôi sẽ
hát ngợi khen (57:7).
HẾT THAN VÃN
Gặp một buổi sáng đẹp trời bạn đi chơi, chắc bạn đã hít một hơi không khí mát mẻ
và cảm ơn Chúa vì tạo dựng tuyệt trần của Ngài.
Nhƣng bạn đã làm gì khi ngày mai nhìn qua cửa sổ bạn thấy bầu trời, xám xịt và
mƣa rơi? Bạn có cảm thấy xuống tinh thần hay không? có lẽ bạn không nói lớn ra
nhƣng thật tình, bạn đã cảm thấy gì nào?
Có phải bạn có thói quen chỉ cảm ơn Chúa vì những gì bạn thích, và lằm bằm than
thở, dù chỉ có tí xíu thôi, khi mọi sự không nhƣ ý bạn không? Thật sự, than thở một
chút có hại gì đâu? Điều này không quan trọng lắm nó có thayđổi gì đâu?
Có chứ, nó thay đổi tất cả. Mọi sự đều tùy thuộc cách ta phản ứng đối với những
việc nhỏ trong cuộc sống.
Có những cố vấn hôn nhân sẽ nói với bạn rằng sự đổ vỡ của gia đình thƣờng do
những chuyện bá láp. Chỉ cần có một cái đinh cũng đủ chọc thủng một lớp xe. Một
lỗi kỹ thuật nhỏ cũng làm tan tành một chiếc máy bay khổng lồ. Một sự hiểu lầm
đơn giản có thể gây chiến tranh. Một lời tức giận có thể gây nên một cuộc bắn giết
lẫn nhau. Những điều nhỏ nhặt quan trọng lắm! Chính sự nhỏ nhặt ấy quyết định
cuộc sống hằng ngày của ta, tính gắt gỏng của ta khi ăn sáng và tính nóng nảy của
ta lúc xếp hàng ở quầy siêu thị, chiều thứ sáu ...
Ta dễ càu nhàu đến nổi thƣờng ta không ý thức là mình đang càu nhàu. Nhƣng than
thở là ngƣợc lại với cảm tạ. Những lời lằm bằm trái ngƣợc lại với sự trông cậy.
Trách móc vợ đã để miếng thịt cháy là ngƣợc lại với thái độ âu yếm.
Theo tự điển, than thở là một sự đổ lỗi. Thực sự, bởi các lời lằm bằm oán trách,
chúng ta đỗ lỗi cho Chúa không biết điều khiển các chi tiết trong ngày của chúng
ta. Một thái độ ngợi khen phát lộ quyền năng của Đức Chúa Trời trong đời sống
chúng ta, một thái độ lằm bằm và than thở làm cho quyền năng ấy bị nghẽn lại.
"Lại cũng chớ lằm bằm nhƣ mấy ngƣời trong họ đã lằm bằm mà bị chết bởi kẻ hủy
diệt. Những sự ấy có nghĩa hình bóng, và đã lƣu truyền để khuyên bảo chúng ta là
kẻ ở gần cuối cùng các đời" (ICo1Cr 10:10-11).
Phalô nói về thái độ của dân Ysơraên trong cuộc hành trình về đất hứa. Họ đã làm
gì? Hậu quả khủng khiếp của thái độ của họ ra sao?
"Vả, dân sự bèn lằm bằm, và điều đó chẳng đẹp tai Đức Giêhôva. Đức Giêhôva
nghe, cơn thạnh nộ Ngài nổi lên, lửa của Đức Giêhôva cháy phừng phừng giữa dân
sự và thiêu hóa đầu cùng trại quân" (Dan Ds 11:1)
Môise đã dẫn dân Ysơraên ra khỏi Ai Cập, và Đức Chúa Trời đã ban cho họ những
dấu hiệu đặc biệt về sự hiện diện và chăm sóc của Ngài. Ngài đã rẽ biển đỏ cho họ
đi qua, và Ngài đã cho nƣớc tràn đạo binh Ai Cập đuổi theo họ. Đức Chúa Trời đã
hứa dẫn dân Ngài đến đất hứa. Ngài đã hứa nuôi nấng họ trong sa mạc và xua đuổi
kẻ thù trƣớc mặt họ với điều kiện duy nhất là họ trông cậy nơi Ngài, một trụ mây
đi với họ ban ngày và một trụ lửa đi ban đêm.
Nhƣng Ysơraên không trông cậy nơi Đức Chúa Trời. Họ kêu ca một cách chua
cay, trƣớc hết vì thiếu nƣớc và lƣơng thực rồi vì họ không thích nƣớc Chúa ban và
chán thức ăn Ngài ban cho họ, họ cằn nhằn, thổi phồng những chuyện nhỏ nhặt
nhất ... và hậu quả ra sao?
Đức Chúa Trời đã kiên nhẫn chiều theo những đòi hỏi của con cái khó tính của
Ngài. Ngài chiều nữa, chiều mãi. Ngài thỏa mãn các nhu cầu của họ ... cho đến lúc
rõ ràng rằng họ bất trị! Khi họ chán nản và xin thịt. Chúa trả lời và Ngài sẽ ban thịt
cho họ. Không phải một hai ngày mà cả một tháng: "Cho đến chừng nào thịt tràn ra
lỗ mũi, và các ngƣơi ngán đi, vì các ngƣơi đã bỏ đi Đức Giêhôva ở giữa mình"
(11:20).
Trong bốn mƣơi năm dân Do Thái đã lang thang trong sa mạc và mỗi khi gặp khó
khăn, họ đã kêu ca chua chát và đòi hỏi trở về với nồi thịt Ai Cập.
Tại sao họ phải trải qua bốn mƣơi năm để đi không đầy 300 cây số? Dù có đàn bà,
trẻ con và súc vật, họ vẫn có thể làm cuộc hành trình đó trong vài tuần thôi. Nhƣng
họ lại bị giữ ở sa mạc vì những sự lằm bằm và những sự từ chối không chịu tin
rằng Chúa vẫn giữ lời hứa và đáp ứng mỗi nhu cầu của họ.
Đến nơi biên giới của đất hứa, họ phát hiện rằng những ngƣời to lớn bất thƣờng cƣ
ngụ trong những thành trì kiên cố. Thay vì vui mừng vì những chƣớng ngại và ngợi
khen Đức Chúa Trời đã hứa sẽ xua đuổi quân thù trƣớc mặt họ, họ đã nổi loạn
chống lại Môise và đòi trở về với nồi thịt Aicập. Họ cáo tội Môise đã lừa dối họ.
Trong số những ngƣời đã trong thấy những ngƣời khổng lồ và thành trì kiên cố chỉ
có Giusuê và Calép vẫn tin cậy lời Đức Chúa Trời hứa ban nƣớc đó cho dân
Ysơraên. Nhƣng chẳng ai chịu nghe Giôsuê và Calép cả. Chúa chịu đựng hết nổi,
Ngài thề để cho dân Ysơraên chết ngạt trong lời kêu ca của họ. Không một ai trong
những ngƣời than thở đƣợc đặt chân lên đất hứa. Trái lại toàn thể dân Ysơraên sẽ
lang thang trong sa mạc suốt 40 năm cho đến lúc một thế hệ khác lớn lên, thế hệ
này sẽ vào đất hứa với sự hƣớng dẫn của Giôsuê và Calép, hai ngƣời sống sót trong
cuộc hành trình sa mạc.
Đức Chúa Trời đã kiên nhẫn với họ trong 40 năm mặc dù họ đã hạch xách và thách
đố Ngài, Ngài vẫn tiếp tục làm những phép lạ cho họ. Chúa phán: "... tổ phụ các
ngƣơi thấy công việc ta làm trong 40 năm mà còn thử để dò xét ta! nhơn đó ta giận
dòng dõi này, và phán rằng: lòng chúng nó lầm lạc luôn, chẳng từng biết đƣờng lối
ta" (HeDt 3:9-10).
Chính sự lằm bằm nhỏ nhen của họ đã làm cho họ không thể đƣợc và đất hứa.
Cũng vậy, những sự than van và kêu ca của chúng ta chống lại Chúa trong những
điều nhỏ nhăït có thể làm cho chúng ta không hiểu đƣợc dự định tuyệt hảo của Đức
Chúa Trời đối với đời sống của chúng ta.
"Hỡi anh em, hãy giữ lấy, kẻo ai trong anh em có lòng dữ và chẳng tin trái bỏ Đức
Chúa Trời hằng sống chăng?" (3:12).
Dân Ysơraên đã lằm bằm vì bất tín, chính sự bất tín này là cội rễ tất cả sự than thở
nho nhỏ của chúng ta. Thật vậy, chính sự vô tín đã ngăn cản dân Ysơraên vào
Canaan. Đức Chúa Trời đã có những dự tính to tát hơn nhiều cho họ vào một nơi
nào đó thôi đâu, đất hứa cũng là một nơi an nghĩ trọn vẹn một thái độ trông cậy và
bình an nội tâm hoàn hảo.
"Vậy, đang khi con có lời hứa cho vào sự yên nghỉ Chúa, hãy lo sợ, kẻo trong
chúng ta có ai bị trừ ra chăng. Vì Tin Lành này đã rao truyền cho chúng ta cũng
nhƣ cho họ; những lời họ đã nghe không ích chi hết, vì trong khi nghe, chẳng lấy
đức tin nhận lời đó thuộc về mình. Về phần chúng ta là kẻ đã tin, thì vào sự yên
nghỉ, nhƣ Đức Chúa Trời đã phán rằng: "Nầy là lời thề ta đã lập trong cơn thịnh nộ
chúng nó sẽ chẳng hề vào sự yên nghỉ của ta. Dầu vậy công việc của Ngài đã xong
rồi từ buổi sáng thế" (4:1-3).
Đức Chúa Trời có một nơi an nghỉ hoàn toàn cho ta ngay từ bây giờ. Đó là thái độ
trông cậy hoàn toàn nơi Ngài mà hết thảy chúng ta đểu có thể có đƣợc lòng tin.
Nhƣng muốn đƣợc nhƣ vậy, ta phải từ bỏ tội vô tín của ta, các sự lằm bằm và càu
nhàu của ta. Vô tín là một tội năng đối với Đức Chúa Trời.
Chúa Jesus phán: "Về tội lỗi, vì họ không tin ta" (GiGa 16:9).
Vô tín cũng nhƣ mọi tội khác đều là một hành động dụng ý phản nghịch đối với
Đức Chúa Trời, chúng ta lựa chọn tin hoặc không tin.
Theo tự điển, vô tín là từ chối không chịu tin thì chúng ta chịu trách nhiệm về thái
độ của mình và phải ăn năn. Cũng nhƣ đối với các tội khác. Việc đầu tiên ta phải
làm là xƣng nó ra.
Trong nhiều năm tôi tự hào là không cằn nhằn, nghĩa là tôi không nói lớn lên sự
bất bình của tôi. tôi luôn giữ một bộ mặt tƣơi cƣời, nhƣng bên trong tôi lại là một
ngƣời hay cằn nhằn. Mà bao lâu tôi không tự coi là mình có lỗi đó, thì bấy lâu tôi
chẳng đƣợc thay đổi trong lãnh vực đó.
Tôi nghĩ rằng những sự than vãn của tôi đều chính đáng cả. Tôi cằn nhằn khi tôi
chƣa ngủ đủ và phải dậy sớm thấy mình không khoan khoái dễ chịu. Tôi cằn nhằn
bên trong khi trông thấy đồ đạc để trong phòng lộn xộn; tôi lại cằn nhằn nữa khi
phải ăn sáng vội vã. Tôi cằn nhằn khi có điều gì trục trặc ở văn phòng và ngƣời ta
chƣa làm xong công việc tôi đã giao. Tôi cằn nhằn vì các hóa đơn phải thanh toán,
vì xe hơi tôi không nóng máy, và vì các đèn đỏ trên lộ trình của tôi. Tôi cằn nhằn
khi phải thức khuya để làm việc ... và sáng hôm sau tôi lại cằn nhằn nữa. Mãi cho
đến ngày Thánh Linh chỉ cho tôi thấy điều mà Kinh Thánh nói về việc cảm ơn
Chúa trong mọi trƣờng hợp, tôi mới thấy đƣợc rằng trong bao nhiêu năm qua tôi đã
làm ngƣợc lại điều Chúa dạy nhƣng vẫn không biết mình phạm tội.
Bƣớc đầu tiên của tôi trên con đƣờng thay đổi thái độ là nhìn nhận rằng tôi cằn
nhằn suốt ngày.
Tôi nghĩ rằng nếu chúng ta muốn cởi bỏ tội lỗi của chúng ta, chúng ta phải trị
chúng một cách cƣơng quyết và tận gốc! Trƣớc hết, nhìn nhận chúng, xƣng chúng
ra, xin lỗi Chúa và dốc quyết không sa ngã nữa. Xin Chúa cứu chúng ta thoát khỏi
tội đó và thêm đức tin, sức mạnh để chống trả mọi cám dỗ. Cuối cùng cảm ơn
Chúa và mạnh dạn tiến bƣớc tin rằng Chúa đã làm nhƣ ta xin.
Sau khi quyết định trƣớc mặt Chúa rằng chúng ta không dám cằn nhằn nữa và hứa
cám ơn Chúa về tất cả những gì thƣờng gây bất bình cho ta, ta có thể mong chờ
Ngài hành động.
Ta không thể tự mình biến đổi từ thái độ vô tín hay cằn nhằn của chúng ta thành
thái đôï biết ơn và đầy lòng vui mừng đƣợc. Chỉ có một mình Chúa mới có thể thay
đổi đƣợc chúng ta mà thôi. về phần chúng ta, hãy quyết định không kêu ca nữa và
ngợi khen Chúa. Phần chúng ta là đăm đăm nhìn vào Chúa Jesus và cám ơn Đức
Chúa Trời về những gì Ngài đã làm nơi chúng ta. Thật vậy, chúng ta phải khám
phá rằng Chúa đã đƣa đến đời sống chúng ta những hoàn cảnh để phát lộ tính hay
than thở lằm bằm của chúng ta. Vì thế, khi thấy những hoàn cảnh đó chúng ta hãy
cảm tạ và ngợi khen Chúa vì Ngài dùng những việc trái ý nhỏ nhặt ấy để biến đổi
chúng ta, Trƣớc kia những việc đó làm chúng ta trƣợt bƣớc, bây giờ chúng ta nhận
biết quyền năng của Chúa và Ngài dùng những việc đó làm đức tin của chúng ta
lớn lên.
Việc chấp nhận một cách vui vẻ và biết ơn về mọi sự trái ý nhỏ nhặt xảy đến sẽ
bày tỏ quyền năng của Đức Chúa Trời nơi chúng ta và qua chúng ta. Và rồi ta sẽ
cảm thấy vui thật sự. Nhƣng ta đừng tìm cảm giác đó nhƣ là một dấu chỉ thiết yếu.
Lời ngợi khen và tạ ơn của ta dựa trên đức tin nơi lời Chúa, chứ không dựa trên các
tình cảm của ta.
Một trong những điều mà tôi bực mình trong bao nhiêu năm là tôi không có khiếu
nhạc. Mỗi khi tôi nghe nhạc hay, tôi không thƣởng thức trọn vẹn đƣợc và tôi cứ
tiếc nuối không biết đàn hoặc đơn ca giỏi.
Một hôm đang dự buổi hòa tấu, một câu hỏi bỗng thoáng qua trí tôi: "Con có biết
cám ơn Chúa vì con không biết chơi loại đàn nào cả không?". Tôi biết câu hỏi này
từ chính Thánh linh đến và tôi cảm thấy khó chịu.
Lạy Chúa không, con không nghĩ rằng con biết ơn Chúa.
Vậy con có muốn biết ơn ta không?
Lạy Chúa, vâng. Con muốn và con hiểu rằng đó là điều Chúa muốn cho con. Chúa
có thể ban cho con năng khiếu nhạc và cho phép con phát triển tài năng đó, nếu đó
là ý Chúa. Con cảm ơn Chúa đã làm cho con nhƣ ý muốn Chúa.
Nói thế, tôi tràn ngập một niềm bình an sâu xa và tôi ý thức rằng tôi thực sự sung
sƣớng với con ngƣời thật của tôi.
Đó chính là điều ta muốn con hiểu, Chúa Thánh Linh lại nói trong tôi. nếu con đàn
hát tuyệt vời, con sẽ làm cho một số ngƣời thích thú, nhƣng khi con ngợi khen Đức
Chúa Trời, con làm đẹp lòng chính Ngài.
Đối với Chúa, việc tôi không có khiếu nhạc không bao giờ là một khuyết điểm. Nó
chỉ là một khuyết điểm đối với tôi thôi. Chính tôi là ngƣời không bằng lòng về
cách Chúa đã tạo dựng nên tôi, Ngài bao giờ cũng hài lòng về công trình của Ngài.
Một số ngƣời mất cả đời để tiếc nuối vì mình không có tài năng hoặc khả năng đó
hay không có dịp phát triển nó. Họ phàn nàn và than vãn trong lòng, tin rằng nếu
hoàn cảnh cho phép thì họ đã trở thành minh tinh màn bạc, vô địch thể thao, đại
doanh thƣơng hay bác sĩ.
Riêng bạn có một đề tài nào kêu ca đặc biệt không? Bạn có thể tự nhủ nếu có thể
làm lại bạn sẽ chọn một nghề khác, một chỗ ở khác hay một ngƣời bạn đƣờng khác
không?
Bạn có thể chấp nhận rằng bạn ở đúng chỗ mà Đức Chúa Trời muốn cho bạn
không ? Rằng Ngài không bỏ qua một chi tiết nào không? Rằng Ngài có thể can
thiệp khi bạn làm điều bạn xem là "điều ngu xuẩn xủa đời bạn" không?
Dĩ nhiên có những sự lựa chọn sai lầm. Chúng ta đã bàn về trách nhiệm của chúng
ta trong các sự lựa chọn và hậu quả của chúng. Nhƣng Đức Chúa Trời hứa làm cho
mọi sƣ ïgây ích cho ta, kể cả sự lầm lạc của ta, nếu ta tin tƣởng nơi Ngài.
Có thể đức chúa trời muốn kéo bạn ra khỏi địa vị hoặc công việc hiện tại của bạn.
Điều cốt yếu bây giờ là bạn vui vẻ chấp nhận điều đó và cám ơn Đức Chúa Trời.
Thật vậy, nếu ta cám ơn Chúa vì mọi khó khăn, tuân theo Thánh ý Ngài mỗi bƣớc,
lúc đó Chúa có thể đặt ta nơi Ngài muốn.
Bạn hãy nhớ lại rằng Ngài đã khiến Siru, một ông vua ngoại bang dấy lên đúng nơi
và đúng lúc Ngài muốn, trong lúc chính ông ta cũng chƣa biết Chúa. Nếu Chúa
muốn hôm nay bạn ở một nơi khác, hãy biết chắc rằng Ngài đã đặt bạn tại nơi đó
rồi. Hãy cảm tạ Ngài về hoàn cảnh của bạn đi.
Nếu Đức Chúa Trời dùng Thánh Linh của Ngài chỉ cho bạn thấy sự lầm lạc của
bạn đã làm cách đây 15 năm, khi bạn có ý lựa chọn điều trái ngƣợc với ý của Ngài
về đời bạn, bây giờ bạn hãy xƣng tội, xin lỗi Chúa, cám ơn Ngài và xin Ngài
hƣớng dẫn bạn để đền bù lại sự thiệt hại có thể gây ra cho kẻ khác. rồi bạn hãy
hoàn toàn phó thác cuộc đời còn lại trong tay Chúa. Ngay từ bây giờ, hãy tin rằng
chính Chúa lo cho bạn. Hãy tiếp tục cảm tạ Chúa và ngợi khen Chúa vì các hoàn
cảnh hiện tại của đời bạn hoàn cảnh cụ thể thực đó, trong các chi tiết nhỏ nhặt.
Có lẽ bạn sẽ khám phá ra rằng quyền năng của Chúa sẽ nhanh chóng kéo bạn ra
khỏi hoàn cảnh hiện tại, hoặc là bạn sẽ nhận thấy quyền năng của Ngài biến đổi
bạn ngay trong hoàn cảnh đó. Dù xảy ra điều gì nữa, cũng hãy tiếp tục cảm tạ
Chúa. Chính Ngài nắm giữ mọi sự.
Một ngày nọ, có một thƣơng gia tín hữu hiến dâng đời mình cho Đấng Christ một
cách sâu xa hơn, và ít lâu sau, ông bị mất chỗ quản lý, một địa vị quan trọng và
đƣợc lƣơng cao. Ông ta đi tìm công việc khác, nhƣng việc hạn chế nhân viên gây
nhiều ngƣời thất nghiệp trong ngành kỹ nghệ. Gia đình ông gặp nhiều khó khăn về
tài chánh và trong lúc các hóa đơn chồng chất lên nhau và dƣờng nhƣ những lời
cầu xin không đƣợc chấp nhận, ông càng lo lắng. Ông ta thất nghiệp đƣợc một
năm, thì một chiều thứ bảy, ông ta nghe tôi nói chuyện về sự cần thiết phải cảm tạ
Chúa về mọi sự. Bỗng dƣng ông ta hiểu rằng Đức Chúa Trời có những lý do của
Ngài để không tìm ra việc làm cho ông, và ông cảm ơn Chúa vì sự thất nghiệp và
vì nỗi khó khăn xảy đến cho ông và gia đình ông trong thời gian thất nghiệp đó.
Suốt ngày Chúa Nhật ông vẫn tiếp tục ngợi khen Chúa và ông nhận thấy các nỗi lo
âu và bực tức của ông về địa vị của ông giảm đi, nhƣờng chỗ cho một niềm vui thật
sự.
Sáng thứ hai, điện thoại reo thật sớm. Một ông giám đốc hỏi ông có thể đến cộng
tác với ông ta không.
Thƣa ông, tôi sẳn sàng, ngƣời tín đồ trả lời.
Khi nào ông có thể bắt đầu đƣợc?
Thƣa ngày mai.
Vậy, ông đến văn phòng tôi lúc 9 giờ, sẳn sàng bắt tay vào việc nhé!
Công việc mới của ông đƣợc lƣơng cao hơn và hơn nữa ông có dịp tiếp xúc với
nhiều thƣơng gia. Nhƣ vậy, ông có thể làm chứng cho Chúa và đƣa họ đến với
Chúa Jesus, tiếp nhận Ngài làm Cứu Chúa đời mình.
Chính ông ta đã kể cho tôi:
Bao lâu tôi còn lo sợ và chua xót địa vị của tôi, bấy lâu tôi ngăn cản Chúa thể hiện
điều Ngài đã dự định cho tôi. Nhƣng hễ tôi tin cậy Ngài và ngợi khen Ngài thì đời
sống hiện tại của tôi, Ngài có thể làm chủ đời tôi và đặt tôi ở nơi Ngài muốn.
Một cô giáo trẻ tuổi nghỉ hè ở miền núi, khi văn phòng gởi giấy mời cô đi dự buổi
họp phân công tác cho năm học mới, nhƣng cô không nhận đƣợc tấm giấy đó, vì
vậy cô không đến họp, và chỗ của cô đƣợc giao cho một ngƣời khác.
Nghỉ hè về cô mất chỗ làm.
Phản ứng đầu tiên của cô là hoảng hốt trở về nhà cha mẹ cô ở tiểu bang khác. hai
tuần sau là nhập học và không có thêm chân giáo viên nào trong vùng , cô còn phải
thanh toán tiền học phí khá nặng.
Nhƣng cô vừa đọc quyển: “Từ ngục tù đến ca ngợi”, và cô hiểu rằng hoàn cảnh của
cô cho cô dịp thực hiện điều cô đã học. Cô trấn an đƣợc phản ứng hoảng hốt của
mình và cảm ơn Chúa đã cho phép cô mất chỗ làm và đã có một kế hoạch hoàn hảo
cho cô.
Trong hai ngày ca tụng Chúa, trong lúc chấn áp mọi cám dỗ tuyệt vọng. Ngày thứ
ba, một bà láng giềng gọi cô từ bên kia bờ rào vƣờn cô:
Cô phải dạy trong một trƣờng Tin Lành,bà ấy nói với cô, sao cô không gọi điện
thoại cho ông Hiệu Trƣởng trƣờng con trai tôi?
Cô liền điện thoại và rất ngạc nhiên biết rằng chỗ dạy trẻ con 6 tuổi bổng dƣng còn
trống. Cô đến trình diện và đƣợc nhận.
“Tôi ý thức rằng Chúa có thể can thiệp vì tôi đã tin cậy Chúa đến nổi ngợi khen
Ngài”, cô kể cho tôi nghe vậy. “Nếu tôi nghe theo bản năng sợ hãi của tôi và chạy
đến gặp cha mẹ tôi, có lẻ tôi còn thất nghiệp và sẽ trách Chúa là không lo cho tôi”.
Công việc mới của cô thích hợp với cô hơn chỗ cũ nhiều. Bây giờ trong lớp của cô,
cô có thể làm chứng cho đức tin của cô, và cầu nguyện một cách tự do với những
đứa trẻ có vấn đề.
Đức Chúa Trời có một kế hoạch và một nơi hoàn hảo cho cô giáo trẻ tuổi cũng nhƣ
cho nhà thƣơng gia tín hữu nọ. Ngài đã đóng cửa những chỗ làm cũ của họ và Ngài
đã mở cửa tốt đẹp khi tin cậy Ngài và ngợi khen Ngài vì sự thất nghiệp của họ.
Sự lo sợ, chua xót, than vãn, oán trách làm trì trị việc thực hiện kế hoạch của Đức
Chúa Trời trên chúng ta. kế hoạch của Chúa đƣợc đo đúng từng giây, từng phút
một cách hoàn hảo, nhƣng ta phải hiểu rằng nó luôn luôn trùng hợp với kế hoạch
của ta đâu.
Tôi luôn tự hào về sự đúng giờ giấc của tôi về khả năng quản lý tốt “Thời gian của
Chúa”. tuy vậy, một hôm tôi ở trong một chuyến máy bay đi El - Paso (tiểu bang
Texaa), nơi tôi phải nói chuyện với một nhóm thƣơng gia. Tôi nôn nóng nhìn kim
đồng hồ của tôi, gần 14 giờ 30 trong lúc tôi dự trù đến nơi vào lúc 14 giờ. Tôi tự
hỏi xem điều tốt lành nào có thể bắt nguồn từ việc tôi đến trễ đó không.
Lạy Chúa, tại sao Chúa cho phép nhƣ vậy? Tôi hỏi một cách hơi bực tức.
Thay vì trả lời,Chúa lại hỏi tôi:
Con có biết ơn vì đi trễ không?
Vấn đề không nằm ở đó, tôi trả lời. Chính những ngƣời lƣơng thiện này mời con
đến, họ đài thọ phí tổn cho con, và trông mong con đến đúng giờ, và chính họ sẽ
phải học biết ơn.
Mà con có biết ơn không? Tƣ tƣởng vẫn kiên trì.
Bổng chốc sự thật đánh động tôi. Thật ra tôi không lo lắng bao nhiêu cho những
ngƣời tham dự buổi họp đó. chính bản thân tôi cảm thấy phật ý. Chính tôi không
tin rằng Đức Chúa Trời làm chủ hoàn cảnh. Chính vì tôi lo lắng và kì kèo về cách
Chúa quản lý thì giờ của tôi”.
Con xin lỗi Chúa, tôi thì thầm. Con tin thật Chúa biết quản lý thì giờ của con hay
hơn chính mình con. Nếu Chúa cho phép con phải đến trễ, tức là điều đó nằm trong
kế hoạch hoàn hảo của Chúa, con cám ơn Chúa về điều đó. Con phó thác cho Chúa
việc quản lý thì giờ của con và con tin cậy Chúa về kết quả.
Tôi ngã lƣng trên ghế máy bay và thở phào một cái. Đồng hồ của tôi chỉ 14 giờ 45
nhƣng tôi hoàn toàn bình an. Cùng lúc đó cô chiêu đãi viên đi qua ... đồng hồ của
cô ngay trƣớc mắt tôi : nó chỉ 13 giờ 45!
Tôi chồm dậy:
Thƣa cô, đồng hồ cô 13 giờ 45, cô có chắc chắn là đúng giờ không?
Thƣa ông đúng ạ. Chúng tôi mới vào một tuyến giờ khác và bây giờ là 13 giờ 45.
Tôi reo mừng trong lòng :
Cám ơn Chúa đã dạy tôi không nên lo giờ.
Máy bay tiếp tục bay. Khi đến 14 giờ tôi cảm thấy lại lo lắng nữa. Đến 14 giờ 15
chúng tôi sắp sửa hạ cánh xuống El-paso và dƣờng nhƣ tôi phải trễ vài phút.
Lạy Chúa con tiếc là đã nóng nảy, tôi thì thầm. Nhƣng con chƣa bao giờ đi trễ một
cuộc họp nào mà con không hiểu đƣợc tại sao Chúa cho phép điều đó xảy ra và cho
con hôm nay.
Con biết ơn không?
Thƣa Chúa chắc rồi! Con muốn biết ơn. Cám ơn Chúa vì bây giờ là 14 giờ 20 và
cám ơn Chúa vì nơi con đến.
Khi ra khỏi máy bay, đồng hồ tôi chỉ 14 giờ 25 tôi móc chƣơng trình buổi họp
trong túi ra xem lại địa chỉ và mắt tôi rơi vào giờ họp là 14 giờ 30.
Tôi lao vào bến taxi gần nhất. Lạy Chúa hay quá! Tôi kêu lên trong lòng. Chúa đã
dạy con biết trông cậy vào Chúa về cách quản lý thì giờ của con mà khỏi thiệt thòi
ai cả. Thật ra Chúa luôn luôn hành động nhƣ thế. Ta tƣởng rằng ngƣời khác có lẽ
sẽ chịu hậu quả của lỗi lầm chúng ta, nhƣng Chúa cũng điều khiển hoàn cảnh đời
sống họ nữa, và Ngài cũng thƣơng yêu họ nhƣ thƣơng yêu chúng ta.
Ngƣời lái xe nhìn tôi nhƣ thể hỏi:
Thƣa ông muốn đi đâu?
Đến El-paso Kilton, tôi trả lời còn hổn hển. Lái xe cho tôi đến đó nhanh nhất.
Ông ta bật cƣời và chỉ phía bên đƣờng :
Ồ đấy ngay trƣớc mặt ông đấy ạ!
Khi đi ngang qua ngƣỡng cửa của phòng đại hội, tôi liếc nhìn đồng hồ: đúng 14 giờ
30. Ngƣời ta đang hƣớng về khán đài, và tôi nhẹ nhàng đi sau họ về phía ghế của
tôi.
Thời khóa biểu của Chúa chính xác một cách không thể sai đƣợc! Êm dịu thay
đƣợc biết rằng chúng ta đƣợc ở trong đó!
Bạn hãy phó thác cho Chúa việc tổ chức thì giờ của bạn. Chúa sẽ lo liệu cho bạn
đến đúng nơi và đúng lúc nếu bạn tin cậy Chúa. Chƣơng trình của Chúa hoàn toàn
cho những buổi hẹn cũng nhƣ cho mỗi phút trong đời ta, Chúa không áp đặt thời
khóa biểu của Chúa trên ta đâu, nhƣng nếu chúng ta dâng cho Chúa ngày giờ của
chúng ta Ngài sẽ biết làm cho chúng ta đến nơi Chúa muốn theo giờ của Chúa.
Điều này không muốn nói rằng ta có thể ngồi nghĩ trong ghế bành của ta và nói:
“Nếu Chúa muốn cho ta đến đó, thì Ngài cứ lo sao cho tôi đến đó. Tôi cứ việc ở
đây, ngủ yên cho tới lúc Chúa chở tôi đi nơi khác”.
Chúng ta có phần việc của ta, nhƣng không nên tính toán từng giây từng giờ của
chúng ta. Chúng ta làm hết sức mình: dậy đúng giờ buổi sáng, chuẩn bị đúng giờ
đến các buổi hẹn, rồi cám ơn Chúa vì tất cả những gì xảy đến ngoài ý muốn chúng
ta, dù cho có thể xảy ra việc ta không nghe đồng hồ báo thức, ta trễ vì một sự bất
ngờ hay bị giữ lâu giờ một đứa con cần đến sự chăm sóc hoặc một ngƣời hàng xóm
nói chuyện lâu.
Khi Chúa dạy ta trông cậy vào Ngài và ngợi khen Chúa trong tất cả mọi sự. Ngài
theo đuổi hai mục đích: bày tỏ quyền năng của Ngài trong hoàn cảnh đó, và dùng
chúng ta để thu hút ngƣời khác đến với Chúa.
Trong một thời gian tôi làm việc với một nhạc trƣởng chuộng sự hoàn hảo. Mỗi khi
tiết mục của bài hát trong sự thờ phƣợng đều đƣợc sắp đặt trƣớc và thực hiện một
cách chính xác, nhƣng vị nhạc trƣởng đó làm việc trong căng thẳng đến nỗi ông ta
truyền nó cho các ca sĩ. Họ hát rất hay nhƣng không có niềm vui.
Một hôm ngƣời ấy đến bàn giấy tôi và nói chuyện.
Anh Bob à, tôi nói với ông ta, tôi thiết tƣởng anh sẽ thoải mái hơn và vui vẻ dạy
cho ca đoàn anh hát nếu anh cám ơn Chúa vì tất cả mọi điều xảy đến cho anh.
Anh ta nhìn tôi một lát rồi thú thật với tôi :
Đã sáu tháng nay tôi quan sát ông. Ban đầu tôi tƣởng rằng : Ông muốn tỏ ra bề mặt
vui vẻ bên ngoài, không ai có thể tỏ ra vui tƣơi mãi nhƣ vậy đƣợc. Ông ấy mỉm
cƣời rồi nói tiếp : Đôi khi tôi phạm lỗi trong lúc điều khiển nhƣng bao giờ ông
cũng phản ứng một cách vui vẻ ... Tôi không thể hiểu đƣợc ông làm thế nào, nhƣng
tôi ao ƣớc đƣợc nhƣ ông.
Chúng tôi nói chuyện nhƣ vậy cho đến giờ tập hát, và Bob nhanh nhẹn ra khỏi bàn
giấy của tôi anh ta không có thì giờ chuẩn bị và tôi tự nghĩ anh ta sẽ phản ứng nhƣ
thế nào trƣớc hoàn cảnh bất ngờ đó.
Sau này anh kể với tôi : “Tôi bắt đầu căng thẳng khi nghĩ đến các dụng cụ, nhƣng
tôi bỗng nghĩ ra đó là hoàn cảnh mà chúng ta đã bàn về vấn đề ngợi khen; tôi liền
ngợi khen Chúa. Ngay lúc đó 4 ca sĩ đến, họ đến sớm trƣớc giờ tập hát và hỏi tôi
có việc gì cho họ phụ với không. Đó là lần đầu tiên từ bao nhiêu tháng tôi điều
khiển ca đoàn này”.
Tôi sửng sốt, “Cám ơn Chúa”. Tôi thốt lên trong lòng ; “Chúa lo liệu thật nhanh
chóng”.
Suốt buổi đó Bob lơ lửng trên chín tầng mây, anh ta chƣa bao giờ ý thức rằng Chúa
chân thành lo lắng cho các chi tiết của đời anh và quyền năng của Chúa tỏ ra ngay
khi anh Bob hết căng thẳng và nói cám ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh. Cuộc khám
phá đó đã biến đổi Bob trong việc dạy hát của anh.
Chẳng bao lâu sau đó, lúc đơn ca anh ca vấp nhiều chỗ, thƣờng thƣờng việc đó làm
anh tuyệt vọng. Nhƣng thay vì ráng lên cao ở mỗi nốt cao, anh ta ngợi khen Chúa
đã cho phép những khuyết điểm đó. Kết quả là anh cảm thấy những niềm vui của
anh lớn lên mỗi khi anh hát, và đối với chúng tôi những kẻ nghe anh, thấy gƣơng
mặt anh chiếu tỏ hạnh phúc và giọng hát của anh diễn tả một chiều hƣớng mới của
niềm vui.
Liên hệ của anh Bob đối với ca đoàn cũng thay đổi nhiều. Thƣờng anh chào nói
một tiếng : “Chào các bạn” cách buồn bã, bây giờ anh rộng miệng cƣời và nói vui
vẻ “Chào anh em ! Hôm nay đẹp quá nhỉ!”.
Buồn bã không phải một tội cho đến lúc ta ý thức rằng đó là cách diễn tả trái ngƣợc
với một đức tin hạnh phúc và đầy hy vọng, tức là một thái độ vô tín.
Ai trong chúng ta cũng biết những câu nói sau đây “Vâng chúng ta hết thảy đều có
những ngày không may mắn, những lúc thăng trầm” chúng ta nói và không suy
nghĩ những nguy hiểm lắm vì nhƣ vậy có nghĩa là những “Thăng trầm” đó là đời
sống Cơ Đốc Nhân trung bình, Kinh Thánh nói rằng hoàn cảnh bên ngoài có thể
thay đổi, tốt hay xấu, nhƣng thái độ bên trong (nội tâm) của chúng ta phải có thái
độ luôn luôn hoan lạc trong Đấng Chist.
Tháng Phao Lô ở trong tù đã viết : “Vì tôi hễ gặp cảnh ngộ nào cũng thỏa lòng ở
vậy. Tôi biết chịu nghèo hèn, cũng biết đƣợc dƣ dật trong mọi sự và mọi nơi, tôi đã
tập cả, dù no hay đói, dù dƣ hay thiếu cũng đƣợc. Tôi làm đƣợc mọi sự nhờ năng
lực của Chúa ban cho” (Phi Pl 4:11-13).
Chúng ta thƣờng ít thấy lỗi của mình khi chúng ta thiếu lòng biết ơn trong những
điều nhỏ nhặt. Nhƣng một hôm tôi đã học một bài học thích đáng.
Buổi sáng ấy chúng tôi rất bận việc trong văn phòng tuyên uý ở Jort Benninb, và
mọi việc đều không chạy. Ngƣời phụ trách không đến và những ngƣời kia có vẻ
không biết phải làm gì. điện thoại reng, giấy tờ chất đống, và tôi bắt đầu bực tức
với ngƣời vắng mặt. Dĩ nhiên điều đó không làm cho anh ta đến và không làm cho
hoàn cảnh tốt hơn. Tôi càu nhàu trong lòng một phần lớn trong ngày hôm đó.
Hôm sau ngƣời ấy trở lại kể cho chúng tôi biết anh ấy phải đi bệnh viện để khám
nghiệm và ở đấy họ báo cho anh biết là anh có một nhọt ung thƣ trong sống mũi;
khiếp đảm bởi tin đó, anh về nhà và đi nằm, mà cũng không cần biết mình có đủ
sức dậy hay không.
Tôi đã bị lƣơng tâm cắn rứt. Tôi làm to chuyện vì một chút trễ nãi không quan
trọng trong công việc của tôi, thay vì cảm ơn Chúa cho ngƣời vắng mặt. Hôm đó
những sự lằm bằm của tôi đã làm ngăn cản tôi làm nhiệm vụ dẫn tình yêu và quyền
năng của Chúa hành động nơi bệnh nhân đó.
Điều quan trọng là ta phải tập phản ứng bằng đức tin và lời ngợi khen trong bất cứ
hoàn cảnh nào, dù hậu quả có trông thấy đƣợc hay không. Ta càng tập nhấn nút
ngợi khen thay vì nút hoảng hốt, đời sống và thái độ của ta bởi đó càng biến đổi dù
nguyên nhân bên ngoài có bi đát hay không, không quan trọng.
Một hôm, một ngƣời đi làm về và lái xe trên con đƣờng đóng băng cứng. Không
biết rõ tình hình của lòng đƣờng, anh ấy đã trƣợt tại ngã ba và đụng một chiếc xe
khác. không ai bị thƣơng nhƣng hai chiếc xe bị hƣ nặng. Ngƣời lái xe gây tai nạn
đó rất bực tức về sự thiếu ý thức của mình. bỗng nhiên anh ta nhớ lại những gì anh
ta đã đƣợc học gần đây về việc ngợi khen Chúa về mọi sƣ.
Cảm ơn Chúa về tai nạn ấy, anh tự nhủ.
Tức thì anh nghe một tiếng nhỏ khác vừa thì thầm trong tai anh :
Đồ ngu ! Mày vừa phạm một lỗi lớn, mày còn muốn làm nặng thêm bằng cách giả
đò hài lòng về việc đó à ?
Chúa đã hứa làm mọi sự để gây ích cho tôi, anh ấy trả lời.
Mày chẳng bao giờ xem thấy sự gì tốt từ một chuyện nhƣ vậy đâu?
Nhƣng anh ấy vừa kiên trì.
Có chứ nếu tôi vẫn cứ cảm ơn Chúa về việc ấy.
Anh tiếp tục cảm ơn Chúa vì tai nạn mặc dù chẳng có gì thay đổi cả. Ngƣời lái xe
kia không đƣợc dẫn đến Đấng Chist mà lại đến gara, không ai có vẻ chú ý đến bộ
mặt vui tƣơi của anh.
Vậy anh có lợi gì mà cƣ xử nhƣ thế không?
Trong chính ngày đó, một cái nhìn lạ lùng bắt đầu xảy đến nơi ngƣời anh ấy. Anh
ta càng cám ơn Chúa, anh lại cảm thấy đầy một niềm bình an chƣa từng có. Vào
khoảng 12 giờ trƣa, anh ta lại cảm thấy đầy một niềm vui khác thƣờng, muốn cƣời
dòn lên. Và mỗi lần anh nói lên lòng tri ân đối với Chúa, vì tai nạn, anh cảm thấy
giải toả đƣợc một cái gì : Nhƣ thế nút thắt đƣợc gỡ ra trong nội tâm anh.
Trƣớc kia anh là một Cơ Đốc Nhân trung bình, nhƣng từ ngày đó đời sống anh đã
biến đổi. Anh đã đi sâu vào một chiều hƣớng mới của đời sống khải hoàn trong
Chúa Jesus , và điều ấy nhờ quyết tâm của anh muốn nhìn nhận bàn tay Chúa trong
điều mà thoạt nhiên anh tƣởng là một sự lầm lẫn ngu xuẩn và rủi ro.
Một ngƣời khác đã nghe nói về sự ngợi khen trong mọi sự và đã hứa với Chúa sẽ
cám ơn Ngài về mọi sự xảy đến cho anh kể từ đó.
Anh cùng gia đình đi nhóm về dƣới một trận bão tuyết và nhiệt độ dƣới không độ
C. họ về đến nhà khuya khoắt và khi họ bƣớc qua cửa, họ ý thức rằng có việc gì
trục trặc đây : Nhà lạnh ngắt và hệ thống sƣởi không chạy nữa.
Tất cả gia đình leo lên thang gác, còn ngƣời cha chạy xuống hầm nhà để kiểm tra
lại máy đun nƣớc. Ôâng ta không biết gì về hệ thống sƣởi cả và không biết nguyên
nhân việc hỏng máy đó.
Ông ta đứng ngây ra đó, đăm đăm nhìn máy đun nƣớc lạnh ngắt và im bặt và phản
ứng đầu tiên của ông là xin Chúa giúp ông làm cho nó chạy đƣợc. với trời lạnh nhƣ
thế, chắn ông phải đƣa gia đình đi nơi khác trong đêm nay.
Thình lình có ý nghĩ xảy đến với ông :
Con có biết ơn bây giờ không?
Ông phải nhìn nhận rằng trƣớc tình hình giá lạnh của căn nhà và nghĩ đến gia đình
ông phải run lên vì rét, ông quá xúc động khiến ông không thể cám ơn Chúa vì
hoàn cảnh đó.
Lạy Chúa, con rất tiếc, con đã quên biết ơn, ông cầu nguyện nhƣ vậy. Nhƣng con
biết ơn Chúa đã định trƣớc điều này vì ích lợi cho con, vậy con cám ơn Chúa vì
máy đun nƣớc này trong tình trạng hiện tại của nó.
Lúc đó ông nghe rất rõ gợi ý này trong trí : “Con hãy xem cái quạt”.
Cái quạt? Con không biết nó nằm đâu nữa.
Con hãy nhìn sau tấm kim khí, phía tay phải, có tiếng trả lời nhƣ thế.
Ông ta nhìn thấy một cái vặn ốc và bắt đầu tháo ốc của một tấm thiết. Bỗng chốc
cảnh tƣợng có vẻ lạ lùng làm sao, có phải do trí tƣởng tƣợng của ông chăng? Cái
quạt có thật ở sau tấm thiếc này không? Ông ta đang nghĩ nếu Chúa đang giúp ông
trực tiếp nhƣ vậy thì ông phải tiếp tục làm.
Các ngón tay của ông cóng lên vì rét, nhƣng tấm thiếc đã bật ra và ông trông thấy
cái quạt.
Rồi bây giờ phải làm gì nữa đây? Ông ta suy nghĩ.
Con hãy tìm dây chỉ của cái quạt, nó đã bị cháy.
Trời tối quá không sao thấy đƣợc gì bên trong lò đun nƣớc. Ông kiếm một cây đèn
và soi ở lỗ lò. Ông ta phân biệt đƣợc dây chỉ của cái quạt đang lơ lửng trên không.
Ông đƣa nó vào trục chánh của quạt và rút tay ra. Lò đun nƣớc vẫn im lìm.
Rồi làm gì nữa đây ?
Con hãy bật nƣớc lên. Ông nghe có tiếng nói. Ông vừa mới bật nút thì lò đun lửa
đã đỏ rực, ông vội vàng chạy lên cầu thang kể lại cho gia đình nghe việc Chúa vừa
mới ban phƣớc cho họ ra sao qua kinh nghiệm lò đun nƣớc hỏng đó.
Nếu ông ta không ngợi khen Chúa trong trƣờng hợp éo le đó thì cả gia đình đã phải
khốn đốn nhiều. Bởi vì cái lò đun nƣớc bị tắt đó, Chúa đã cho ông cơ hội học biết
một cách cụ thể rằng lời ngợi khen gây nên quyền năng và sự điều khiển của Đức
Chúa Trời.
Câu chuyện cái lò đun nƣớc đó đáng dấu một bƣớc ngoặc trong cuộc đời ngƣời ấy.
Từ đó ông bắt đầu nghe tiếng Chúa trong mọi hoàn cảnh và ngày nay ông có một
sự nhạy cảm hiếm có đối với các sự cảm động của Thánh Linh. Một lỗ tai lắng
nghe tiếng Chúa đã làm cho ông ta trở thành dụng cụ ơn Chúa.
Bƣớc đầu của ông là một động tác đức tin : tin rằng một lò đun nƣớc bị tắt vào một
buổi tối bão tuyết là một cách diễn tả sự chăm sóc của Chúa đối với ông và gia
đình ông. Có thể ông bị mất dịp tiên đó, nhƣng chắc chắn Chúa sẽ ban cho ông dịp
khác. Tất cả chúng ta đây đều có dịp nhận ra bàn tay của Chúa trong các hoàn cảnh
đời sống hằng ngày của chúng ta, nhƣng chúng ta bỏ mất biết bao nhiêu dịp rồi !
Kết quả các phản ứng của chúng ta dồn dập lên nhau và giúp nhau lớn lên càng tin
ta càng dễ tin hơn. Cũng vậy mỗi khi ta để cho sự vô tín phủ nhận sự hiện diện và
tình yêu của Đức Chúa Trời trong một hoàn cảnh khó khăn các hậu quả tiêu cực
chồng chất lên nhau và ta càng khó huy động ý chí của ta để tin, dù là một chút
thôi, ta càng lằm bằm và kỳ kèo, ta càng lún sâu trong vũng bùn thất bại. Các sự
kêu ca nhỏ của ta thêm dồn đến nỗi trở thành một núi than vãn.
Một cô y tá tín hữu vừa trải qua những năm khổ sở. Cô ấy viết cho tôi : “Khi nào
cũng là chuyện không đâu, đã làm cho tôi bực tức và chán nản. Đời sống của tôi
càng ngày càng khổ sở. Tôi xin ơn Chúa giúp cho tôi nhƣng chẳng thấy gì cả. Tôi
bắt đầu uống thuốc bổ để có sức buổi sáng, và uống thuốc để ngủ buổi tối. Mỗi
sáng tôi sợ đối diện với một ngày mới. Tôi không còn quét dọn nhà cửa đƣợc nữa.
Ở bệnh viện tôi bị đè bẹp dƣới sức nặng của dịch vụ đối với bệnh nhân.
Mỗi ngày lại tệ hại hơn trƣớc. Rốt cuộc tôi không làm những việc nhỏ nhặt nhất
mà mấy tháng trƣớc tôi làm dễ dàng. Tôi lâm vào sự chán nản tuyệt vọng đến nỗi
tôi xin Chúa cho tôi chết đi cho rảnh. Cuộc sống đã trở thành địa ngục thực sự đối
với tôi”.
Rồi hôm đó, cô ấy đọc truyện “Từ ngục tù đến ca ngợi”, cô viết cho tôi. : “Thật
nhƣ là tia hy vọng đã hừng lên trong tôi” ! Cô ấy quyết định ngợi khen Chúa vì
mọi sự và kể một danh sách dài những đề tài tạ ơn, bắt đầu từ những gì đã gây
căng thẳng tinh thần cô. Chẳng bao lâu cô đã trông thấy kết quả.
Từ ngày Chúa Jesus vào trong lòng tôi, có sự thay đổi biết bao trong đời tôi ! Đó là
tất cả những gì tôi có thể nói lên bây giờ. Không còn sợ thất bại nữa! Tôi không để
cho mình bị bực tức và bối rối nhƣ trƣớc nữa. Điều gì có vẽ không xuôi chảy, tôi
chỉ ngƣớc mắt lên và thƣa : “Lạy Chúa, cám ơn Chúa” và điều đó làm cho tôi vui
lên.
Bạn có bị bao vây bởi những điều tƣởng nhƣ là núi lầm than hoặc những hang
chuột chù khó chịu, cách giải quyết vẫn thế thôi. Bạn hãy xƣng thú các sự lằm
bằm, ta thán của bạn nhƣ là một tội và hứa với Chúa sẽ bắt đầu biết ơn Chúa.
Nếu bạn dốc quyết nhƣ vậy và kiên trì trong đức tin. Chúa sẽ ban cho bạn sức thực
hiện điều đó. Một khi bạn đã dấn thân, các cơ hội tạ ơn Chúa sẽ chắc chắn đến bất
chấp ít nhiều.
Trong một cuộc tĩnh tâm gần Jort Bengning, vài ngƣời lính trẻ hứa cám ơn Chúa
về mọi sự. Ngày hôm sau một ngƣời trong nhóm họ đƣợc tin bác anh ta, ngƣời anh
thƣơng yêu nhất, đã mất vì tai nạn máy kéo vì ông ta là một nông dân. Ý nghĩa đầu
tiên của anh là : “Kìa mày hãy nhìn xem điều gì đã xảy ra ! mày đã quyết định ngu
xuẩn là bất cứ điều gì cũng ngợi khen Chúa. Và Bác mày không đƣợc trở lại nữa !.
Nhƣng ngay khi ngƣời lính trẻ ý thức đƣợc tƣ tƣởng ấy từ đâu đến và chống lại cơn
cám dỗ kêu ca về cái chết của bác anh ta, thay vì than thở, anh đã cầu nguyện :
“Lạy Chúa, Chúa biết con yêu bác con đến mức nào rồi, nhƣng Chúa còn yêu mến
con nhiều hơn nữa. Chắc chắn có lý do thích đáng để bác con chết. Con cám ơn
Chúa và ngợi khen Chúa đã làm điều tốt nhất cho bác con”. Sau khi cầu nguyện
anh đƣợc an tâm về cái chết của bác anh, nhƣng anh không thể không lo lắng cho
ngƣời anh họ của anh mới vừa tiếp nhận Chúa Jesus làm cứu Chúa của mình. Anh
ấy sẽ phản ứng nhƣ thế nào trƣớc sự ra đi của thân phụ mình ? Ngƣời lính trẻ xin
nghỉ phép để đi đƣa đám hầu nâng đỡ tinh thần của anh họ mình, nhƣng anh không
đƣợc giấy phép.
Lạy Chúa con chấp nhận, anh thƣa. Chúa biết rất rõ anh con, vậy con cám ơn Chúa
vì không đi đƣợc.
Anh định điện thoại cho Cha mẹ anh để nhờ nhắn anh họ đến phòng điện thoại.
Anh ngạc nhiên làm sao khi chính giọng của anh họ mình bên kia đƣờng dây :
Em mạnh khỏe chứ ?
Còn anh thì sao ? Ngƣời lính ngơ ngác hỏi.
Cám ơn Chúa, anh ấy trả lời. Cả nhà đều quá sung sƣớng vì ba anh đã tiếp nhận
Chúa trƣớc vài ngày trƣớc khi xảy ra tai nạn. Ba có thì giờ tuyên xƣng với mọi
ngƣời những gì Chúa làm cho ba. Chúng tôi chắc chắn rằng ý Chúa muốn ba lên
thiên đàng ngay bây giờ.
Ngƣời lính này trở về thuật lại cho những ngƣời khác về việc đó. Một trong những
ngƣời tham dự buổi họp mặt ấy, vợ của một mục sƣ tuyên uý hứa với Chúa sẽ ngợi
khen Ngài vì tất cả những gì xảy đến trong đời bà.
Ngay tối hôm đó trên xe về nhà, bà có cơ hội đầu tiên để ngợi khen Chúa. Từ 18
năm lái xe, bà chƣa bao giờ bị phạt cả. Lần này một cảnh sát lƣu thông bắt bà đậu
xe và lập biển bản vì bà đã băng qua ngã tƣ trái phép.
Bà tốn công giải thích cho ông cảnh sát là ông lầm. Một chiếc xe khác giống chiếc
xe của bà đã không chịu dừng và qua mặt bà trong lúc chính bà đã dừng lại. Ông
cảnh sát không chịu tin bà và bà sắp nổi giận ta thán về nỗi bất công bà phải gặp.
Bỗng nhiên bà nhớ đến lời hứa sẽ biết ơn Chúa trong mọi sự.
Lạy Chúa, bà cầu nguyện, con tin đó là ý Chúa, con cám ơn Chúa về kinh nghiệm
đó.
Bà lập tức ý thức một niềm vui tràn ngập. Ngày hôm sau bà trở lại kể câu chuyện
đó cho chúng tôi nghe.
Kỳ diệu thay, phải không ạ? Bà nhận xét. Chúng ta không cần sợ ngƣời ta lợi dụng
mình, hoặc đối xử bất công đối với mình nữa. Ngay cả những trƣờng hợp đó nữa
cũng có thể trở thành một nguồn vui và sức mạnh khi chúng ta nhìn thấy trong đó
bàn tay của Chúa và ta cám ơn Chúa.
Vâng, có nhiều ngƣời khác thu hút đến cùng Chúa khi chúng ta chúc tụng Ngài.
Nếu chúng ta càu nhàu và phàn nàn một cách chua cay về muôn nghìn sự trái ý
trong cuộc sống hàng ngày nhƣ những ngƣời chƣa tin Chúa thì họ sẽ kết luận rằng
có đức tin hay không có đức tin cũng chẳng có khác nhau gì cả. Nếu họ không thể
trông thấy trong cuộc sống tầm thƣờng mỗi ngày của chúng ta có sự hiện diện của
Đấng Chist gây nên một sự khác biệt thật sự, làm sao ta có thể hy vọng rằng họ tin
chúng ta khi ta nói với họ rằng họ cần đến Chúa Jesus ?
Không phải những gì ta nói, nhƣng con ngƣời của chúng ta và việc làm của chúng
ta thu hút kẻ khác đến với đời sống của Đấng Chist mà chúng ta đƣợc sở hữu.
Không gì bày tỏ chúng ta cho bằng cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Ta phản
ứng thế nào trƣớc sự chậm trễ và khó khăn trong công tác, những sự vội vàng,
những sự gặp gỡ tình cờ mỗi ngày ? Ta có hành động thế nào mà không ai thấy
đƣợc là ta khác sao? Hay là cách phản ứng của chúng ta khiến họ suy nghĩ và nhận
xét : “Ngƣời này không giống nhƣ ngƣời khác. Họ có cái gì mà tôi không có”.
Hai ông bà nọ đọc quyển “Từ ngục tù đến ca ngợi” và cả hai đều xác định rằng
Chúa muốn họ thực sự biết ơn Ngài về mọi sự. Một hôm khoảng 2 giờ 30’ sáng, họ
bị đánh thức bởi một tiếng kính vỡ rất lớn. Ông ta nhìn ra cửa sổ thấy tất cả các
kính xe hơi của ông đều bị vỡ tan do một băng thanh niên vừa chạy trốn qua góc
phố. Hai ông bà đều đồng ý rằng Chúa đã ban cho họ một dịp ngợi khen Ngài. Họ
quỳ gối gần giƣờng của họ và tạ ơn về điều mới xảy ra.
Sáng hôm sau ngƣời chồng lái xe ra gara và giải thích đầu đuôi câu chuyện.
Ngợi khen Chúa, ông ấy nói. Tôi chắc chắn Chúa có một kế hoạch kỳ diệu với sự
ấy.
Ông chủ gara lắc đầu :
Nếu việc đó xảy ra cho tôi, tôi làm đến cùng để bọn cƣớp ranh con đó phải bồi
thƣờng cho tôi.
Ngƣời thân chủ mỉm cƣời đáp lại :
Không cần thiết ông bạn ạ, chính Chúa lo việc này, tôi không còn lo lắng.
Ông chủ gara trố mắt nhìn và nói :
Tôi tin Chúa đã bao nhiêu năm nhƣng chƣa bao giờ tôi nghe nói phải ca ngợi chúa
vì sự phá hoại cả !
Họ tiếp tục bàn luận nhƣ vậy và ngƣời thân chủ bàn đến việc phép báptem trong
Thánh Linh và quyền năng của Chúa đƣợc thi thố bởi lòng ngợi khen.
Xin ông đừng nói nữa ! Ông chủ gara hét lên. Ngƣời ta nói với tôi nhiều về phép
Báptem bằng Thánh Linh đến nỗi tôi phát ngán. Một thân chủ của tôi đều nói toàn
điều đó thôi. Nhƣng xin ông nói tiếp tục với tôi về sự ngợi khen. Điều này xem
chừng hấp dẫn đấy !
Ngƣời thân chủ giải thích rằng theo ý ông, hai đề tài chỉ là một thôi, vì cả hai đều
liên quan đến sự phó thác tin tƣởng hoàn toàn nơi Đức Chúa Trời. Cuối cùng ngƣời
chủ gara bằng lòng đến dự buổi họp đó, chính ông ta cũng chấp nhận Báptem bằng
Thánh Linh.
Sau đó ông đã quyết định ngợi khen Chúa vì mọi sự và dẫn đầu danh sách là cái
gara của ông. Thật vậy, từ hai năm nay việc làm của ông sa sút.
Chiều hôm sau, một trong những ngƣời làm công với ông đến báo tin thất vọng.
An ấy vừa bị tai nạn và xe vận tải của họ bị hỏng. Điều này có thể làm cho cơ
nghiệp của ông bị sụp đổ. Ông chủ gara bèn nhìn ngƣời làm công trẻ tuổi của ông,
xanh xao và run rẩy đang chờ đợi ông nổi trận lôi đình, nhƣng ông chủ lại nhoẻn
một nụ cuời tƣơi tắn, ôm vai ngƣời thanh niên và nói với ông ấy :
Ta ngợi khen Chúa vì tai nạn này, và hãy tin rằng Chúa sẽ làm cho nó sinh lợi cho
chúng ta.
Ngƣời ta làm thủ tục thông thƣờng nơi công ty bảo hiểm và ông chủ gara ngạc
nhiên thấy số tiền bồi thƣờng đã giúp ông thanh toán cả các hoá đơn khẩn cấp nữa.
Tai nạn trên đây đã đánh dầu một bƣớc ngoặc trong diễn tiến của cơ nghiệp ông ta.
Ông thu lợi đƣợc nhiều. Trong đời sống ông chủ gara, sự thay đổi lại còn rõ hơn
nữa. Bây giờ ông đƣợc hƣởng một niềm vui và bình an càng ngày càng lớn trong
mỗi lãnh vực của đời sống. Dần dần nhiều thân chủ trông thấy niền vui chiếu tỏa
của ông cũng đƣợc biết Chúa Jesus nữa.
Khi niềm vui của Đấng Chist đƣợc biểu lộ trong đời sống chúng ta, nó thu hút kẻ
khác đến với Chúa.
Một tối sau một buổi họp khuya khoắt, tôi vào quán ăn để gọi một ly sữa. Tƣơi
cƣời cô hầu bàn biến mất sau nhà bếp và một lúc sau trở ra, vẻ phật ý.
Thƣa ông, rất tiếc những tủ lạnh đã khóa và tôi không thể dọn sữa cho ông đƣợc.
Phản ứng hồn nhiên của tôi là : “Lạy Chúa cám ơn Chúa”.
Cô hầu bàn nhìn tôi tỏ vẻ ngạc nhiên:
Tại sao ông nói vậy.
Tôi đã tập cám ơn Chúa vì mọi sự vì tôi nghĩ rằng Chúa làm mọi sự gây ích cho ta
nếu ta để Chúa hành động.
Ông theo tôn giáo nào? Cô hỏi có vẻ không tin .
Giáo phái John Wesley (Methodist)
Tôi theo giáo phái Báptist, nhƣng chƣa bao giờ họ cám ơn Chúa vì những chuyện
này cả.
Cô có phải là một tín đồ Báptish chân chính không?
Cô ngần ngừ:
À, tôi nghĩ vậy, nhƣng không chắc lắm.
Cô có thể hoàn toàn chắc chắn điều đó. Chúa Jesus đã đến trong thế gian để ban sự
sống cho chúng ta. Tất cả những gì ta phải làm là xin Ngài tha thứ tội lỗi chúng ta
và tin rằng Ngài tha thứ. Cô có muốn tôi cầu nguyện để xin Chúa ban cho cô ơn
không?
Ồ, thƣa ông, tôi thật lòng muốn, cô vồn vã trả lời.
Lúc đó chúng tôi cuối đầu, tôi đặt tay trên vai cô và ở đó, trong quán ăn bây giờ
vắng khách, hơn nửa đêm một chút, tôi đã xin Chúa ban đức tin cho cô và cho cô
sự xác tín rằng mình có sự sống đời đời trong Chúa Jesus.
Nƣớc mắt tuôn tràn cô nói:
Đây là lần đầu tiên trong đời cảm thấy nhƣ vậy. Giống nhƣ thể một gánh nặng vừa
trút khỏi vai tôi. Tôi chắc chắc mình là môn đồ của Đấng Christ ngay bây giờ.
Muốn cám ơn Chúa vì đã không mua đƣợc ly sữa có thể xem nhƣ không quan
trọng. Tuy nhiên khi chúng ta tập quen ca ngợi Chúa về một điều nhỏ nhặt. Chúa
dùng lời ca tụng của ta để thu hút những nguời mệt mỏi và cùng cực đến với Ngài.
và Ngài có thể biến đổi những lo âu lớn nhƣ núi của họ thành dòng suối an lạc và
bình an.
Một hôm ngồi trong phòng đợi của một sân bay, chờ lên máy bay, một ngƣời lạ
mặt bỗng đụng cặp xách tôi để bên cạnh tôi, trên một cái bàn thấp. Vì tôi để cặp
mở nên các thứ trong đó đều rơi xuống đất, giấy tờ bay tứ phía, và bàn chãi đánh
răng của tôi rơi ra khỏi hộp nằm dƣới đất đầy bụi.
Tôi dẹp ngay ý muốn nói những lời tức giận với anh chàng vụn về kia và thì thầm
trong lòng: “Vâng, con lạy Chúa, con cám ơn Chúa về điều mới xảy đến, con biết
Chúa có lý do đích đáng để cho phép điều ấy”.
Rất lúng túng, ngƣời lạ mặt xin lỗi và vội vã nhặt các đồ đạc của tôi đã tung ra. Khi
tôi nhặt giúp ông ta, ông ấy ngẩng đầu lên, vừa nhìn tôi vừa hỏi:
Ông không nhớ tôi sao?
Thƣa ông có lẻ ạ.
Ông âý giải thích cho tôi rằng chúng tôi đã gặp nhau trong chốc lát cách đây mấy
tháng, và bây giờ ông ấy vừa mới đi qua sân bay, mệt nhọc và chán nản, ông xin
Chúa dẫn ông đến một ngƣời giúp ông ta.
Tôi đã trông thấy ông và tôi muốn dời chỗ cặp xách của ông để có thể ngồi gần
ông. Ông ấy nói tiếp, bây giờ tôi chắc chắn rằng chính Chúa dẫn tôi đến với ông.
Ông có thể giải thích cho tôi nghe làm sao ông có thể giữ bình tĩnh nhƣ vậy, khi tất
cả các đồ đạc của ông rơi xuống đất hay không?
Tôi vui mừng biết bao khi nói với ông rằng nếu chúng ta yêu mến Đức Chúa Trời,
Ngài có thể làm mọi sự gây ích cho chúng ta , và những dịp vừa rồi là những dịp
cảm tạ Chúa và trông thấy hành động.
Ngƣời ấy rất đỗi ngạc nhiên và đặt nhiều câu hỏi nữa. Khi đến giờ tôi phải lên máy
bay, ông ấy đề nghị với tôi:
Tôi có thể mời ông đến thăm tôi ở Jort Landerdale đƣợc không? Bao giờ ông rãnh?
Bấy giờ đếnn lƣợt tôi ngạc nhiên vì tôi đã có xin Chúa cho tôi có dịp đi Jort
Landerdale, tôi đã nghe nói nhiều công trình Chúa thực hiện ở đây trong đời sống
của nhiều tín hữu.
Ngày xƣa Thánh Phaolô đã viết cho các tín hữu ở thành Philíp: “Phàm việc gì chớ
nên lằm bằm và lƣỡng lự, hầu cho anh em ở giữa dòng dõi hung ác ngang nghịch
đƣợc trở nên con cái của Đức Chúa Trời, không vết, không tì, không chỗ trách
đƣợc, lại giữ dòng dõi ấy giữ lấy đạo sống chiếu sáng nhƣ đuốc trong thế gian ...
Hỡi anh em, hãy vui mừng trong Chúa! Tôi chẳng hề sợ phiền mà lại viết những
điều này cho anh em nữa, vì điều đó ích lợi cho anh em” (Phi Pl 2:14-15; 3:1).
Chính nhờ không than vãn và bởi niềm vui vủa chúng ta trong Đấng Christ mà
chúng ta có thể chiếu rạng nhƣ đuốc sáng và bày tỏ lời sự sống trong thế giới đen
tối và lạnh lẽo này. Điều này đúng với Thành Philíp ngày trƣớc và còn đúng với
hiện nay nữa. Vậy ta ngừng than thở và hãy ca tụng Chúa vì sự tối tăm và sự dữ
đang bao vây chúng ta. Ta hãy làm nhƣ thế và ta sẽ thấy ánh sáng của Đức Chúa
Trời chọc thủng tối tăm.
NIỀM VUI NƠI CHÚA
Nêhômi nói cùng dân chúng: “Chớ buồn thảm, vì sự vui vẻ của Đức Giêhôva là
sức lực của các ngƣơi” (NeNe 8:10).
Không lạ gì Chúa Jesus đã nhắc đi nhắc lại cho các môn đồ hiểu rằng Ngài đã đến
không những để đem sự cứu rỗi bằng sự chết trên thập tự giá mà còn ban cho các
môn đồ niềm vui mãnh liệt nơi Ngài nữa.
Chúa nói cùng các môn đồ: “Đến bây giờ các ngƣơi chƣa từng nhơn danh ta mà
cầu xin điều chi hết. Hãy cầu xin đi, các ngƣơi sẽ hầu cho sự vui mừng của các
ngƣơi đƣợc trọn vẹn” (GiGa 16:24).
Niềm vui của Chúa thuộc về chúng ta, chúng ta chỉ việc cầu xin Ngài niềm vui ấy.
Trƣớc khi bắt giữ Chúa Jesus đã cầu nguyện: “Nhƣng bây giờ con về cùng Cha, và
đƣơng khi còn ở thế gian, con nói những điều đó, hầu cho trong lòng họ đƣợc đầy
dẫy sự vui mừng của con” (GiGa 17:13).
Mọi Cơ Đốc Nhân đã đƣợc tái sanh điều hiểu rằng ơn cứu rỗi là một hồng ân
nhƣng không, biết rằng mình đã đƣợc tái sanh bởi Thánh Linh ngay khi đón nhận
Chúa Jesus Đấng Cứu Thế bằng đức tin. hơn nữa một số tín hữu đã khám phá ra
rằng món quà của Đức Chúa Trời đem đến cho chúng ta không những là ơn tái
sanh mà còn cho chúng ta nhận lãnh phép báptem trong Thánh Linh. Ít ai trong
chúng ta kinh nghiệm rằng ngay lúc đó Chúa Jesus cũng ban cho chúng ta niềm vui
nơi Ngài. Chúng ta phải xin và lãnh nhận trong đức tin niềm vui ấy nhƣ phần còn
lại của món quà đƣợc ban tặng.
Nếu quả thực niềm vui của Chúa là sức mạnh của chúng ta, thì điều dĩ nhiên là
chúng ta không đạt đến niềm vui ấy bằng quá trình của một đời sống thiêng liêng
nhƣ một loại kem ngƣời ta trang trí trên mặt cái bánh. Đó là điều chúng ta cần phải
có ngay trong bƣớc đầu của đời sống thuộc linh để nâng đỡ và củng cố chúng ta
trong nhiệm vụ rao truyền Tin Lành khắp thế gian.
Phaolô đã viết cho tín hữu Côrinhtô: “Không phải chúng tôi muốn cai trị đức tin
anh em, nhƣng chúng tôi muốn giúp thêm sự vui vẻ của anh em, và anh em đứng
vững vàng trong đức tin” (IICo 2Cr 1:24).
Phaolô không có ý là ông sẽ làm cho các tín hữu vui vẻ bằng cách thay đổi điều
kiện sống của họ. Ông chỉ muốn nhắc nhở họ về niềm vui họ đã nhận lãnh. Ông
muốn họ tập sống trong hân hoan biết trao đổi niềm vui mà Thánh Linh đã đặt để
trong tâm hồn họ.
Phaolô biết rằng đối với một số tín hữu việc làm chứng một cách tích cực cho niềm
vui thì phải gặp nhiều thử thách và đau khổ, chỉ có ở trong Chúa Jesus mới có sự
hoan lạc.
“Duy Đức Thánh Linh đã báo trƣớc cho tôi rằng ngay từ thành này sang thành
khác, dây xích và hoạn nạn đang đợi tôi đó. Nhƣng tôi chẳng kể sự sống mình làm
quí miễn chạy cho xong cuộc đua và chức vụ tôi đã nhận lãnh nơi Đức Chúa Jesus,
để làm chứng về Tin Lành của ơn Đức Chúa Trời” (Cong Cv 20:23-24).
Nếu Chúa Jesus đã ban cho chúng ta niềm vui của Ngài thì tại sao phần đông tín
hữu lại sống cuộc đời quá buồn thảm?
Chúa Jesus đã cầu nguyện đề niềm vui của Ngài đƣợc trọn vẹn với chúng ta, điều
ấy có nghĩa không đủ khả năng để tự tạo cho mình niềm vui, cũng không thể tự
cứu lấy chúng ta hay là làm cho lòng mình tràn đầy niềm vui và bình an. Nhƣng
điều chúng ta có thể làm đƣợc là sự tự nguyện chấp nhận và tin vào Chúa Jesus đã
làm những gì cho chúng ta và để cho Ngài gieo vào trong chúng ta niềm vui trọn
vẹn của Ngài.
Trong cuộc sống hằng ngày, điều đó có nghĩa là chúng ta dứt khoát cố gắng sống
vui, bất chấp mọi tình cảm bằng cách tin rằng Chúa đang hoạt động. Ngài biến đổi
âu sầu thành niềm vui trong sáng nhƣ Ngài đã hứa.
Tình yêu thƣơng, sự vui mừng, bình an và hoa quả của Thánh Linh nơi chúng ta.
Chúa Jesus đã giải thích cho các môn đồ biết phải vun trồng hoa quả ấy nhƣ thế
nào.
“Nhƣ Cha đã yêu thƣơng ta thể nào, ta cũng yêu thƣơng các ngƣơi thể ấy; hãy cứ ở
trong sự yêu thƣơng của ta. Nếu các ngƣơi vâng giữ các điều răn của ta, thì cũng ở
trong sự yêu thƣơng ta, cũng nhƣ chính ta đã vâng giữ các điều răn của Cha ta và
cứ ở trong sự yêu thƣơng Ngài” (GiGa 15:9-10).
Chúng ta vui không vì hoàn cảnh hạnh phúc nhƣng vì chúng ta đƣợc biết điều răn,
luật pháp của Chúa Jesus, chúng ta tuân giữ và nhƣ thế chúng ta cứ ở trong Ngài.
Giêrêmi viết rằng: “Tôi vừa nghe những lời Ngài thì đã ăn lấy rồi, Lời Ngài là sự
vui mừng hớn hở của lòng tôi vậy” (Gie Gr 15:16)
Đavít đã học đƣợc bí quyết của sự hoan lạc: “Khá lâu việc Đức Giêhôva cách kính
sợ và mừng rỡ cách run rẩy” (Thi Tv 2:11)...” Bây giờ đầu tôi sẽ đƣợc ngƣớc cao
lên hơn các kẻ thù nghịch vây quanh tôi, trong trại Ngài tôi sẽ dâng của lễ bằng sự
vui vẻ, tôi sẽ hát mừng và ca tụng Đức Chúa Trời” (27:6).
Trong một thời gian dài tôi tƣởng đã nếm đƣợc niềm vui trong sự toại nguyện và
an toàn. Bây giờ tôi mới hiểu niềm vui không phát xuất từ tình cảm, nhƣng nó
đƣợc giải thoát bởi ý chí và đó là một trong những yếu tố của đời sống ca ngợi.
Ƣớc chi niềm vui của mỗi ngƣời công chính vƣơn lên nhƣ lời chúc tụng Đức Chúa
Trời: “Hỡi ngƣời công bình hãy vui vẻ nơi Đức Giêhôva , sự ngợi khen đáng cho
ngƣời ngay thẳng: (33:1)”.
Niềm vui lòng biết ơn, lời ca ngợi không thể tách rời nhau. quyết tâm cảm tạ và
ngợi Chúa trong mọi sự sẽ đƣa đƣợc trọn vẹn nếu chúng ta chƣa quyết tâm vui
sống trong mọi hoàn cảnh.
Một bà tín hữu lớn tuổi đã từng kinh nghiêm về cuộc sống phong phú trong Thánh
Linh, đã nhiều năm phụng sự Chúa một cách hăng say, đã gặp phải trở ngại vì
chứng sƣng khớp xƣơng. Những năm đau khổ đã làm bà mất đi mọi thú vui để
sống. Một công việc cực nhỏ cũng trở nên cực hình đối với bà, và bà sống trong
cuộc khủng hoảng tinh thần ngày càng tăng. Bà nghĩ rằng Chúa có thể làm cho bà
hết bịnh và bà đã tham gia nhiều buổi cầu nguyện cho các bịnh nhân, nhƣng không
có gì thay đổi cả. Tình trạng bịnh lý ngày càng trầm trọng. Sau đó bà nghe nói đến
hiệu quả của quyền năng Đức Chúa Trời khi ngƣời ta biết ca ngợi Ngài trong mọi
sự và bà cũng quyết tâm thử. Điều đó không phải là dễ vì bà đau nhức đêm ngày.
Nhƣng bà nhất định cảm tạ Chúa với tất cả lòng thành về mọi mặt của cuộc sống ,
kể cả sự đau nhức.
Một hôm trong khi di chuyển một cách khó khăn trong nhà bếp, bà mất thăng bằng
và làm rơi xuống đất một cái mâm dày. Không còn cách nào để bà cúi xuống lƣợm
lên lại vì những ngón tay đã trở nên cứng đơ và cái lƣng đau nhức. Thƣờng khi
một việc xảy ra nhƣ vậy bà hay than thở về số phận của bà. Nhƣng lần này bà nhớ
lại lời hứa là ca ngợi Chúa. Bà cầu nguyện: “Cảm tạ Chúa đã để con làm rơi chiếc
mân xuống đất. Con tin rằng điều đó ích lợi cho con”.
“Trong chớp nhoáng bà thấy sự hiện diện của nhiều nhân vật bên cạnh bà trong
nhà bếp. Cho đến lúc đó bà vẫn cô đơn, nhƣng bây giờ bà có bạn rồi. Rất ngạc
nhiên, bà cảm thấy đƣợc các thiên sứ vây xung quanh. Bà biết rằng các thiên sứ
hoan hỉ vì bà. Bỗng nhiên bà hiểu: “Ta nói cùng các ngƣơi, trƣớc mặt các thiên sứ
của Đức Chúa Trời cũng vậy, sẽ mừng rỡ cho kẻ có tội ăn năn” (LuLc 15:10).
Vâng, bà là một tội nhân đã đƣợc cứu chuộc, lòng bà đƣợc thay đổi một cách
nhiệm màu. Trong nhiều năm bà đã than vãn về số phận của bà, đã trách Chúa để
bà đau khổ, đã van nài xin Chúa chữa lành và đã nghĩ thầm là Chúa bỏ rơi bà. Cuối
cùng bà đã nghĩ ra rằng những lời than vãn đó nẩy mần từ sự thiếu tin cậy Chúa và
bây giờ các thiên sứ hoan hỉ vì niềm tin của bà khá vững mạnh để bà có thể ca ngợi
Chúa trong cuộc sống bất hạnh của bà.
Bà cảm thấy một niềm vui xâm nhập căn nhà bếp và tràn ngập trong tâm hồn bà.
Thanh thản trong lòng, bà chân thành cảm tạ Chúa đã để bà gặp nhiều đau khổ và
đau khổ này đem lại cho bà niềm vui ấy.
Một thời gian ngắn, bà tham gia buổi cầu nguyện cho các bịnh nhân, bà tấn tới
trông niềm tin cậy. Bà ý thức đƣợc rằng căn bịnh đó đã làm tê liệt niềm tin của bà.
Nhƣng từ nay đức tin của bà không còn dựa trên cảm giác, cƣờng độ đau khổ
không còn ảnh hƣởng trên niềm tin của bà nữa. Chiều ngày hôm ấy bà đã đƣợc
khỏi bệnh trong phút chốc. Mọi đau nhức không còn nữa, những khớp xƣơng cong
queo đã đƣợc chữa lành.
Do bản tính tự nhiên, chúng ta thƣờng hay lệ thuộc vào thói quen. Từ lâu chúng ta
để cho giác quan điều khiển hành động chúng ta. Nhƣng Chúa Jesus đã ngự trị
trong lòng chúng ta để niềm vui của Ngài nên trọn vẹn nơi chúng ta.
Sự phấn khởi không thể phát xuất từ những cảm xúc, kể cả những lý luận của
chúng ta mà nó phát xuất từ nơi tâm linh, chỗ Thánh Linh khởi động. Chính tại đó
ý chí ngự trị; chúng ta cần để ý chí quyết định hành động của chúng ta. Thay vì bắt
ý chí thối lui trƣớc tình cảm, chúng ta có thể phản ứng vui vẻ trƣớc mọi hoàn cảnh
với lời ca ngợi tạ ơn. Dần dần chúng ta sẽ bớt lệ thuộc vào tình cảm và kiên trì
trong đƣờng hƣớng đó chúng ta sẽ khám phá rằng niềm vui phát xuất từ ý chí, từ
tâm linh sẽ lan tràn đến tình cảm của chúng ta.
Những gì ban đầu là một sự vâng phục Lời Đức Chúa Trời, sau càng sẽ tạo nên
tâm hồn chúng ta đã cảm nghiệm đƣợc từ trƣớc.
Khi chúng ta hoàn toàn tuân phục thánh ý Chúa, mọi cản trở sẽ đƣợc quét sạch,
chúng ta đƣợc nhồi luyện, tu bổ, biến đổi thành của lễ quý giá tôn vinh Đức Chúa
Trời. Chính lúc ấy chúng ta sẽ thể hiện niềm vui trọn vẹn của Chúa nơi chúng ta.
Trong gần 20 năm, tôi bị đau dạ dày. Nhiều thức ăn gây cho tôi phiền toái. Tôi đi
khám bịnh và uống đủ loại thuốc, nhƣng vô hiệu. Tôi cầu nguyện và cố gắng tin
vào Chúa để đƣợc Ngài chữa nhƣng cũng không kết quả. Nhiều ngƣời cầu nguyện
cho tôi, kể cả những tín hữu nổi tiếng về kết quả đã đạt đƣợc trong công tác cầu
nguyện hay các bạn tôi, nhƣng bệnh tình vẫn không thay đổi.
Tôi dựa vào lời hứa của Chúa Jesus trong Tin Lành Mác 16, theo đó thì không có
một chất độc nào có thể hại tôi và tôi thuờng dùng những món ăn ngƣời ta đã dọn.
Nhƣng luôn luôn tai họa luôn xảy ra, tôi cảm thấy đau nhức không ngủ đƣợc và tôi
lại thƣơng hại mình vì gặp nhiều khốn khổ.
Sau hết, tôi nhất quyết chấp nhận trong đức tin là tôi sẽ đƣợc lành bệnh nhờ sự chết
của Chúa Jesus trên thập tự giá và triệu chứng của căn bịnh sẽ biến mất khi Chúa
muốn. Trong những năm kế tiếp, dựa trên sự vững tin ấy, tôi ca ngợi Chúa về mọi
ơn lành. Mà Chúa ban cho qua mọi thử thách nầy.
Trƣớc khi tôi đƣợc giãi ngũ, bác sĩ quyết định giãi phẩu dạ dày. Nhƣng họ không
thể giải thích đƣợc sự đau nhức mà tôi phải chịu đựng từ lâu, và chẳng có cách gì
để tình trạng tốt hơn. Nằm trên giƣờng bệnh tại bệnh viện, sau giãi phẩu, cơn đau
tăng đến cực độ. Thuốc men và những viên an thần đều vô hiệu nghiệm. Thời gian
qua tôi không sao ngủ đƣợc tƣởng chừng nhƣ sự đen tối của căn phòng đè nặng
trên tôi. Tôi hình dung là mình chỉ cần quơ tay là đụng ngay quyền lực của sự dữ
đang bao vây . Tôi chống trả lại cơn cám dỗ lùi bƣớc trƣớc thế lực của sự sợ hãi.
Tôi không muốn chết, nhƣng sự run sợ khi nghĩ rằng tôi sẽ tiếp tục sống trong tình
trạng bi đát nhƣ vậy.
Trong khi sự tối tăm có vẻ dày đặc hơn bao giờ hết, tôi kêu lên cùng Chúa: “Lạy
Chúa, mặc cho những gì đang diễn ra, kể cả khốn khổ, con cảm tạ Ngài đã cho con
kinh nghiệm này. con biết rằng Chúa sẽ dùng nó để làm nên một việc tuyệt diệu”.
Tức thì sự đen tối của căn phòng bị đánh tan đi bởi một ánh sáng chói lòa, rực rỡ
hơn mặt trời. Ánh sáng ấy cũng rực rỡ nhƣ ánh sáng mà tôi đƣợc trông thấy mấy
năm trƣớc đây và Thánh Linh giải thích cho tôi. Đó là câu chuyện của cụm mây
đen bay ngang qua đồng cỏ xanh tƣơi, bên trên cụm mây có ánh sáng chói lòa: đó
là trạng thái hân hoan chan hòa hạnh phúc mà Chúa Jesus đã đạt đƣợc cho chúng
ta. Nhƣng để đạt đƣợc trạng thái đó, chúng ta phải trèo lên một chiếc thang băng
ngang qua cụm mây đen tối của đau khổ. Tiến vào trong cụm mây ấy không thể
nào dùng giác quan nhƣ tai, mắt, chân tay để định hƣớng. Chỉ có thể bƣớc lên mỗi
bậc của chiếc thang ấy bằng đức tin và lời ca ngợi Chúa mà thôi. khi tiến lên dần
dần thì sẽ đƣợc giải thoát khỏi sự chế ngự của giác quan, cảm xúc và ta sống dựa
vào Chúa. Chiếc hang của lời ca ngợi sẽ nâng chúng ta lên và đem chúng ta vào cõi
thiên đàng, chỗ đã dành cho chúng ta, bên cạnh Chúa Jesus.
Trong khi nằm trên giƣờng bệnh, chìm đắm trong ánh sáng tuyệt diệu ấy, bổng
nhiên tôi cảm nghiệm ánh sáng ấy trở nên thật.
Trong những năm sống trong đức tin rằng Chúa dùng sự đau khổ. Thời gian vƣợt
qua cụm mây tối tăm và bất ổn, để đem lợi ích đến cho tôi. nếu không có cụm mây
ấy, tôi không bao giờ biết rời bỏ giác quan tình cảm. Từ nay tôi chân thành ngợi
khen Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống trông cậy vào Đức Chúa Trời? Làm
thế nào để tôi có thể sống khác hơn niềm vui trọn vẹn ấy?
Khi rời bệnh viện, tôi cũng khám phá ra sự chăm sóc của Chúa đối với dạ dày của
tôi: những thức ăn thƣờng khi làm cho tôi đau nhức trong nhiều giờ bây giờ không
còn gây xáo trộn nào cả và tôi hoàn toàn tự do nếm những trái táo, trái dâu, trái
chuối, những loại kem và những thức ăn ngon khác mà tôi phải kiên cử từ lâu.
Chúa đã chọn cách cũng cố đức tin của tôi bằng cách hƣớng dẫn tôi sống Lời Chúa
trong khi đó nhiều bệnh nhân đƣợc lành bệnh tức khắc khi tôi cầu nguyện cho họ.
Lời ca ngợi đã làm cho quyền năng của Đức Chúa Trời đƣợc hiệu nghiệm trong
việc chữa trị, sự lành bệnh tự nó chỉ có giá trị tƣơng đối mà thôi. Cho đến khi nào
chúng ta còn bận tâm về con ngƣời chúng ta và ƣớc muốn đƣợc chữa lành để đƣợc
giải thoát sự đau đớn của thể xác, thì khi ấy chúng ta không sống trong sự thật, và
đối với chúng ta những mối bận tâm nhƣ vậy làm hạn chế Chúa và đặt lại vấn đề
chƣơng trình của Chúa đối với chúng ta.
Trong nhiều năm tôi đã run sợ khi nghĩ đến răng của tôi sẽ bị hƣ hết. Một hôm nha
sĩ cho tôi biết là nƣớu răng của tôi bị nhiễm độc, chân răng sẽ bị hƣ dần, sự quan
xác về mấy tấm phim đã đƣợc xác nhận định sự thật phủ phàng ấy; Răng sẽ từ từ
rụng hết.
Tôi tuyệt vọng khi rời khỏi phòng nha sĩ. Lẽ dĩ nhiên tôi phải ca ngợi Chúa về tất
cả những gì xảy đến cho tôi, nhƣng điều này không làm tôi hài lòng lắm.
Cảm tạ Chúa, cảm tạ Ngài đã để răng của con lâm vào tình trạng này. Con tin chắc
rằng Chúa biết hơn con những gì thích hợp cho con, vì thế con ca ngợi Chúa.
Khi đang cầu nguyện, tôi cảm thấy lòng biết ơn gia tăng, và khi tôi gặp một ngƣời
bạn, tôi liền cho ngƣời ấy biết một cơ hội đến với tôi để tôi cảm tạ Chúa.
Ngƣời ấy hỏi: “Anh có cầu nguyện để đƣợc chữa lành không?”
Tôi trả lời: “Không! tôi vừa hiểu đƣợc rằng sự rụng răng không phải là một điều
bất hạnh vì điều đó không thể xảy ra nếu Chúa không cho phép”
Còn tôi, tôi nghĩ rằng Chúa muốn cho răng của anh đƣợc hoàn toàn tốt, anh ấy trả
lời nhƣ vậy, và đặt nhẹ bàn tay lên vai tôi và cầu nguyện: “Cảm tạ Chúa đã để cho
răng anh Merlin bị hƣ nhƣ vậy. Chúng con ca ngợi Chúa để danh Ngài đƣợc tôn
vinh, chúng con xin Chúa đụng đến Merlin và chữa lành cho anh”
Ba ngày sau, tôi trở lại nha sĩ. Tôi quan sát ông khi ông đang xem chăm chú những
tấm phim mới. Ông có vẻ bực dọc. Ông đặt phim xuống và khám lại răng. Ông lắc
đầu và lẩm nhẩm một điều gì. Tôi nghĩ thầm “Có lẽ tệ hơn những gì ông đang dự
đoán chăng !”.
Sau cùng, ông lùi lại một bƣớc nhìn tôi từ đầu đến chân và hỏi:
Ông đã làm gì cho bộ răng của ông?
Không làm gì hết!
Thế thì tôi không thể hiểu đƣợc!
Cái nhìn của ông nha sĩ lƣớt từ tấm phim cũ đến tấm phim mới.
Chân răng hoàn toàn tốt, và nƣớu răng không bị nhiễm độc, cũng không sƣng, tóm
tắt là tất cả đều tốt.
Tôi hân hoan trong lòng. Thật tuyệt diệu khi thấy Chúa chữa lành cho tôi! Nhƣng
đó chƣa phải là chiến thắng tốt đẹp nhất. Mối lo sợ phải mang bộ răng giả đã làm
cho tôi hao mòn nay biến mất. Tôi hiểu rằng có răng tốt hay không, điều đó không
thành vấn đề, điều thiết yếu là sự giao thông trọn vẹn với Chúa và niềm tin vào sự
chăm sóc của Chúa trên từng mọi chi tiết của cuộc đời tôi với tất cả tình yêu của
Ngài.
Một bà ở New Hampshire vừa viết thơ cho tôi. Bà sống với cậu con trai còn niên
thiếu. Bà bị tê liệt phải nằm trên giƣờng đau đớn nhiều sau hai lần giải phẫu.
Bà ấy viết: “Ngợi khen Chúa vì lòng trung tín của Ngài. Tôi tuyệt vọng sau lần giải
phẫu thứ hai, khi tôi nhận đƣợc quyển “Từ ngục tù đến ca ngợi”, tôi nhất quyết ca
ngợi Chúa về căn bịnh của tôi và luôn hƣớng nhìn lên Chúa Jesus. Từ đó dù cơn
đau nhức vẫn không giảm xuống nhƣng tôi vẫn tìm hiểu Chúa một cách thỏa lòng.
Vài bạn hữu tôi đã nói rằng Chúa để tôi đau khổ để trừng phạt tôi. Nhƣng tôi biết
rằng điều đó không đúng sự thật. Chúa Jesus không bao giờ hạch tội tôi, ngƣợc lại
Ngài luôn luôn bộc lộ tình thƣơng trong những tháng gần đây. Ngài dùng lời của
Ngài vạch rõ cho tôi thấy những điều cần phải biến mất trong cuộc sống của tôi,
trong con ngƣời của tôi: những tƣ tƣởng hoặc tình cảm không xuất phát từ Chúa
Jesus.
Trong tình yêu tuyệt diệu của Ngài, Chúa đã tha thứ cho tôi và chữa lành mọi vết
tích đau thƣơng trong tâm hồn tôi.
Tôi học hỏi việc cảm tạ Chúa trong khi gặp khó khăn, kể cả khi đau khổ. Tôi yêu
mến Chúa Jesus hết lòng. Tôi không biết Chúa dẫn dắt tôi thế nào, nhƣng tôi sung
sƣớng tìm niềm vui trong bệnh tật, và đi theo con đƣờng đó vì Chúa, và nhƣ thế tôi
ca ngợi Chúa hết lòng.
Có thể tôi phải trở lại bệnh viện để giải phẫu lần thứ ba. Tôi cảm tạ Chúa vì tôi xác
tín rằng điều đó sẽ đem ích cho tôi. Tôi biết Chúa có thể cho tôi khỏi bệnh, và tôi
cảm tạ Ngài đã lựa chọn cho tôi trong tình thƣơng của Ngài”
Bức thƣ tràn đầy niềm vui và lòng biết ơn! Cho dù thân thể còn đang bị cơn đau
dày vò, nhƣng bà ấy đã kiểm nghiệm rằng đời sống tình cảm, đời sống nội tâm của
bà đã đƣợc đổi mới. Bà đã đi vào trong sự hiệp thông tuyệt vời với Đức Chúa Trời
qua Chúa Jesus. Tất cả mọi điều khác, kể cả sự lành bệnh điều trở nên phụ thuộc.
Sống liên hiệp với Đức Chúa Trời trong Chúa Jesus là cứu cánh mà sứ đồ Phaolô
nhắm đến. Chúa Jesus biết rằng mục đích của Ngài khi thành nhục thể là để phá vỡ
bức tƣờng tội lỗi gây ra, để Đấng Cứu Thế có thể tái hợp với loài thọ tạo nhƣ ý
Ngài đã định từ thời nguyên thủy.
Trƣớc khi chết trên thập tự giá, Chúa Jesus đã cầu xin cho chúng ta “Ấy chẳng
phải vì họ mà con cầøu xin thôi đâu, nhƣng cũng vì kẻ đã nghe lời họ mà tin đến
con nữa, để cho ai nấy hiệp làm một, nhƣ Cha trong Con và Con ở trong Cha, lại
để cho họ cũng ở trong chúng ta, để thế gian tin rằng chính Cha đã sai con đến.
Con đã ban cho họ sự vinh hiển mà Cha đã ban cho con, để cho họ hoàn toàn hiệp
làm một, và cho thế gian biết chính Cha đã sai con đến và Cha đã yêu thƣơng họ
cũng nhƣ cha đã yêu thƣơng con. Cha ơi. Con muốn con ở đâu thì những kẻ Cha
đã giao cho con cũng ở đó với Con, để họ ngắm xem sự vinh hiển của Con, là vinh
hiển Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu con trƣớc khi sáng thế. Hỡi Cha công
bình, thế gian chẳng từng nhận biết Cha, song Con nhận biết Cha, và những kẻ này
nhận rằng chính Cha đã sai con đến. Con đã tỏ danh Cha ra cho họ. Con sẽ lại tỏ ra
nữa, để cho tình yêu thƣơng của Cha dùng để yêu thƣơng Con ở trong họ, và chính
mình con cũng ở trong họ nữa. (GiGa 17:20-26).
Chúa Jesus đã cầu nguyện nhƣ thế và chúng ta cũng sẽ tin chắc rằng chúng ta sẽ ở
cùng Chúa Jesus tại thiên đàng. Chúa ở cùng chúng ta, trong Ngài chúng ta trở nên
một với Đức Chúa Trời.
Khi chúng ta bắt đầu thấu hiểu ý nghĩa sâu xa của sự kiện đã hoàn tất thì mọi việc
sẽ đƣợc đặt đúng vị trí của nó trong cuộc sống chúng ta.
Cho đến bây giờ những hoàn cảnh bên ngoài đã lấn áp sự hiệp một của chúng ta
với Chúa Jesus và đã làm cho chúng ta lƣu tâm rất nhiều đến chúng. Từ nay chúng
ta hiểu rằng những hoàn cảnh đó đƣợc hoàn toàn sắp xếp theo kế hoạch của Đức
Chúa Trời. Đấng dẫn dắt cuộc đời chúng ta.
Cho dù chúng ta chƣa hiểu dự định đó, chúng ta phải hiểu biết rằng Chúa Jesus là
Chúa và là Thầy, và chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời có dự án và dự án đó luôn
luôn tốt đẹp
Từ khi xuất bản quyển “Từ ngục tù đến ca ngợi”, tôi nhận đƣợc nhiều thƣ từ cá
nhân từ các trại giam gởi đến, một tù nhân viết :
Tôi bị kết án tử hình, tôi biết rằng tôi phải chết. Từ lâu tôi không có một hy vọng
nào cho cuôïc sống đời sau. Sự sợ sệt đã chế ngự trong mọi tƣ tƣởng của tôi và tôi
cảm thấy bị Chúa và loài ngƣời ruồng bỏ. Khi đọc quyển “Từ ngục tù đến ca ngợi:,
thì tâm trí tôi hình nhƣ bừng sáng lên. Tôi tin sự hiện hữu của Chúa là có thật và
Ngài đang hoạt động trong cuộc sống để đƣa ta đến sự tiếp nhận con Ngài làm vị
cứu tinh của mình.
Tôi duyệt lại quá khứ nghèo nàn của tôi và nhận thấy rằng không có gì xảy ra
ngoài ý thánh của Chúa cả. Phải có tất cả những biến cố đó để tôi bắt đầu tìm kiếm
Ngài. Tôi đã làm điều đó và trong chớp nhoáng tôi hiểu rằng Chúa cho phép để
làm cho mọi việc quy về lợi ích cho tôi và làm sáng danh Ngài. Bây giờ có thể nói
là tôi hoàn toàn tự do, tràn đầy bình an và niềm vui của Ngài.
Một tội nhân khác viết :
“Tôi đã ghét mọi sự và mọi ngƣời. Mặc dù cố gắng nhiều, tôi vẫn không thể tìm
thấy một lý do nào để vui sống. Rồi tôi nhận đƣợc quyển “Từ ngục tù đến ca ngợi”,
sau khi đọc qua một lần tôi cảm thấy cuốn sách ấy phi lý.
Nhƣng càng suy nghĩ, tôi càng muốn bắt đầu cảm tạ Chúa về cuộc sống hƣ đốn của
tôi. Suy cho cùng tôi đã ở dƣới đáy vực thẳm, tôi đã mất mát gì ? Từ những gì xảy
ra trong đời tôi diễn lại trong tâm trí, tôi bắt đầu duyệt lại các sự kiện đó. Tất cả
đều nằm trong chƣơng trình của Chúa.
Đối với tôi, hành động có vẻ điên rồ, nhƣng tôi cố gắng đi đến cùng. Từ đó có một
cái gì đang xảy ra trong tôi. Tôi tin chắc rằng Chúa chăm sóc cách riêng về sự thất
bại của tôi. Chúa đã quan tâm đến tôi. Nhiều điều xảy ra trong dĩ vãng đã vạch ra
một con đƣờng trong ký ức tôi. Trƣớc đó, những sự kiện đó có vẻ thảm khốc, bây
giờ tôi hiểu rằng Chúa để tất cả mọi việc đó xảy ra để lôi cuốn tôi về với Ngài và
cho tôi thấy rằng tôi cần đến Ngài.
Tôi ca ngợi Chúa trong mỗi chi tiết cuộc đời. Tôi cảm Ngài thế cho những ngƣời
đã ghét tôi, đối xử tệ bạc đối với tôi, nói xấu và phản bội tôi.
Tôi cảm thấy tràn đầy bình an, Chúa đã cho tôi quên mọi kỷ niệm đau thƣơng. Tôi
không còn thấy những bức tƣờng của nhà tù đang bao vây tôi nữa. Thay vào đó, sự
bình an của Chúa đã chế ngự tôi. Những bức tƣờng những song sắt không còn làm
cho tôi nghĩ rằng tôi là một tù nhân. Tôi đƣợc tự do trong Chúa, Vinh danh Chúa !
Tôi vừa nhận đƣợc một bức thƣ khác của một tù nhân ở Sở công an miền tây nƣớc
Mỹ.
“Ngợi khen Chúa ! sự tham gia vào nhóm kinh thánh buổi chiều ở phòng nhóm
chúng tôi không ngừng gia tăng. Tuần qua 03 ngƣời đã tiếp nhận Chúa Jesus làm
cứu Chúa của họ. Hãy tƣởng tƣợng xem điều đó sẽ nhƣ thế nào nếu mỗi tuần bên
trong các bức tƣờng có ba linh hồn trở về với Chúa Jesus ? (Lá thƣ thứ hai báo cho
tôi biết trong tháng kế tiếp có 12 ngƣời đã hoán cải và bốn ngƣời trong nhóm đã
nhận Báptem trong Thánh Linh). Chúng tôi đáng giá cao những lời cầu nguyện của
anh em ở Jort Benning. Hơn bao giờ hết, Chúa đã bày tỏ sự hiện diện của Ngài nơi
lao xá của chúng tôi ... Chúa đã nhận lời cầu xin của chúng tôi, và một ngày kia
chúng tôi sẽ thấy một số lớn tù nhân trở về với Chúa Jesus . Quyển “Từ ngục tù
đến ca ngợi” quả là một hồng phúc. Chúng tôi rất vui mừng khi nghĩ đến việc
chúng tôi sẽ dùng đến máy ghi âm để có thể ở bên trong bốn bức tƣờng theo dõi và
vận dụng những lời giảng dạy của anh em tín hữu ở bên ngoài.
Chúa thật vĩ đại! Đã tám năm qua, tôi bƣớc qua cửa của nơi này với bản án tù từ 10
đến 80 năm về tội cƣớp bóc có vũ khí. Tôi đã cố gắng thử mọi chƣơng trình cải
huấn, nhƣng khi ngƣời ta thả tự do tạm cho tôi, tôi say rƣợu liên miên trong 3
tháng 25 ngày cho đến khi ngƣời ta bắt tôi vào tù lại. Tôi đã cố gắng để thay đổi,
nhƣng không kết quả.
Sau đó, từ sáu tháng nay, trong chớp mắt, Chúa Jesus đã biến đổi tôi nhƣ lời Kinh
Thánh: “Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là ngƣời đƣợc dựng nên mới,
những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới!” (IICo 2Cr 5:17).
Từ khi Chúa Jesus đã thanh tẩy đời sống tôi. Ngài đã chiếu sáng những hẽm hốc
tối tăm đầy mạng nhện. Ngợi khen Chúa! Không ai có thể đề nghị một chƣơng
trình cải huấn nào bằng Chúa Jesus. không ai có thể thay đổi đƣợc lòng ngƣời, chỉ
Chúa Jesus mới làm đƣợc điều ấy mà thôi.
Tôn vinh Jesus tuyệt vời! Ngài đã đổ trên tôi tình yêu nồng ấm của Ngài. Ngày nầy
qua ngày nọ, niềm vui sống của tôi với Chúa càng đậm.
Cảm tạ Chúa đã đến gặp chúng con trong lời cầu nguyện, để gia tăng sự tỉnh thức
giữa những tù nhân, và để cũng cố đức tin ở những ngƣời đã tiếp nhận Ngài ...
Ngƣời anh em đó đã sống và ca ngợi Chúa trong những hoàn cảnh đen tối và khó
khăn cũng nhƣ hoàn cảnh nhiều nguời trong chúng ta. Tuy thế, đối với ngƣời ấy có
một sự biến đổi hoàn toàn. Ngƣời ấy cảm nghiệm đƣợc niềm vui sống nơi Chúa và
mọi điều khác đều trở nên phụ thuộc trong cuộc sống. Ông ấy đã tập sống vui vẻ,
cầu nguyện không ngừng và cảm tạ Chúa trong mọi việc. Bởi chính điều đó là điều
Chúa muốn cho những ai thuộc về Chúa (ITe1Tx 5:16-18).
Hãy xem John Wesley đã bắt đầu viết thƣ nhƣ thế nào? “Hãy luôn luôn vui vẻ, một
tình trạng hạnh phúc liên tục trong Đức Chúa Trời. Hãy cầu nguyện không thôi, đó
là thành quả của hai hành động trên, đó là sự toàn thiện của Cơ đố nhân. Chúng ta
không thể nhắm xa hơn và chúng ta cũng không thể mãn nguyện trong những gì
kém hơn điều đó. Chúa đã đặt niềm vui ấy cũng nhƣ đã mang sự cứu chuộc. Chúng
ta sung sƣớng trong tình thƣơng của Chúa vì đã đƣợc cứu chuộc. Lời tạ ơn không
thể tách rời lời cầu nguyện đích thực, nó đƣợc gắn liền một cách chặt chẽ. Một
ngƣời cầu nguyện liên tục, cho dù sống trong hạnh phúc hay đau khổ vẫn cứ ca
ngợi Chúa không ngớt. Ngƣời ấy chúc tụng Chúa trong mọi sự, lúc thịnh vƣợng
cũng nhƣ khi khốn khổ, vì ngƣời ấy xem việc đó nhƣ đến từ bàn tay của Chúa và
đón nhận vì danh Ngài; ngƣời ấy không lựa chọn, không khƣớc từ, không ƣa
chuộng, cũng không loại bỏ, tiêu chuẩn duy nhất là phù hợp với thánh ý của
Chúa”.
Vui sống mãi trong Chúa, nhìn mọi hoàn cảnh từ nơi Ngài đến và cảm tạ đó là sự
toàn thiện của một Cơ đốc nhân.
Không có gì là ngẫu nhiên trong chƣơng trình của Chúa đối với cuộc sống chúng
ta. Không có gì, hoàn toàn không có gì, kể cả những gì lạ thƣờng, phi lý hay xấu xa
có thể xảy ra, không có gì xảy ra ngoài sự ƣng thuận của Đức Chúa Trời.
Một bà đã thuật cho tôi một câu chuyện lạ lùng tiêu biểu cho chân lý ấy.
Bà chỉ có một bàn tay khi sinh ra. khi bà bắt đầu hiểu bà khác trẻ em khác, bà luôn
luôn choàng một chiếc khăn quàng cánh tay cụt để che dấu tật nguyền. Bà luôn
luôn ý thức một cách đau đớn điều đó, và khi là thiếu nữ, bà hay uống rƣợu để
quên đi sự đau khổ ấy.
Bà đã 56 tuổi khi viết thƣ cho tôi:
“Cách đây sáu tháng khi tôi đi thăm chị tôi, tôi đƣợc nghe một cuộn băng nói về sự
ngợi khen Chúa trong mọi vấn đề hay mọi rủi ro của cuộc đời. Trong khi nghe ông
tôi cảm tƣởng nhƣ bị một trận đòn. Tôi ngã bệnh. Sau khi trong nhiều năm đã trách
Chúa để cho tôi đau khổ, tôi không thể ca ngợi Chúa bây giờ. Lạy Chúa, con cám
ơn Chúa đã giải thoát con khỏi những cơn nghiện rƣợu, nhƣng con không thể cám
ơn Chúa về điều con đau khổ.
Tuy thế, mặc dù tôi cố gắng, tôi cũng không thể xua đuổi khỏi tâm trí tôi sự cảm tạ
Chúa. Nó theo dõi tôi đêm ngày. Cuối cùng tôi thét lên “Lạy Chúa, sao Chúa
không để con an tâm? con đã làm hết sức cho Chúa, nhƣng điều đó thì không thể
đƣợc!” Nhƣng không làm sao tôi tìm đƣợc sự bình an. Để chấm dứt, tôi nghe cuộn
băng lại một lần nữa và lần này tôi ghi lại những điều mà tôi chƣa chú ý đến: Ông
đã nói là anh lính trẻ và cô vợ đã thú thất rằng không thể cám ơn Chúa về tấm thảm
kịch đang đe dọa họ, nhƣng sau cùng thử ngợi khen Chúa. mọi sự dƣờng nhƣ trở
nên dễ dàng. Lúc đó tôi gần nhƣ đồng ý để thử đƣợc an tâm. Tôi nói với Chúa rằng
tôi cũng đồng ý để thử trong khi đó tôi cũng chắc rằng tôi không làm đƣợc. khi tôi
nói lên lời ấy thì dƣờng nhƣ gánh nặng tôi mang trên vai từ bao nhiêu năm bỗng
rơi xuống. Tôi bắt đầu ngợi khen Chúa, nƣớc mắt chảy dài, nhƣ trong Thi thiên có
câu “Niềm vui thiên quốc tràn ngập tâm hồn tôi” Tôi hân hoan trong khi đó Chúa
lại nói với tôi: “Hãy chờ đợi, ta chƣa xong chuyện với con đâu”. Tôi sững ngƣời.
Chúa còn đòi hỏi tôi điều gì nữa? Tôi vừa mới làm một việc hy sinh tột bực, tôi
vừa cảm tạ Chúa về tật nguyền mà suốt cả đời tôi chán ghét ! nhƣng tôi nghe một
cách rõ ràng trong lòng tôi giờ này:
Bây giờ con đừng choàng khăn quanh cánh tay con nữa.
Trong một giây tôi cảm thấy chết điếng trong ngƣời.
Không, lạy Chúa, điều ấy quả sức con, đừng bắt con làm điều đó.
Cho đến khi nào con còn giấu tay con, con chƣa thực sự biết ơn. Con cản thấy xấy
hổ.
Lời oán trách đó làm tôi ứa lệ, nhƣng phải công nhận điều đó đúng sự thật.
Con muốn thử, nhƣng chính Chúa sẽ giúp con làm đƣợc điều đó.
Cơ hội đầu tiên đến khi tôi dự một cuộc họp. Tôi mặc quần áo, và một cách tự
động, tôi định lấy chiếc khăn quàng. Tức khắc tôi nghe lời nhắc nhở” “Không!
không, chớ lấy cái đó:
Lạy Chúa, con đồng ý, con muốn ra đi mà không có chiếc khăn, nhƣng con không
hứa là không trở về tìm nó.
Lần đầu tiên trong đời, tôi rời nhà mà không có chiếc khăn che đậy cánh tay cụt.
Khi vừa đóng cửa nhà, mọi xấu hổ, mọi lúng túng hay mặc cảm biến mất. Lần đầu
tiên trong đời, tôi cảm nghiệm thế nào là tự do đích thực. Tôi hiểu rằng Chúa yêu
mến tôi với con nguời của tôi”.
Chúa đã đặt để mọi hoàn cảnh trong cuộc sống với ý định để chúng ta tham gia vào
sự thực hiện chƣơng trình đầy tình thƣơng của Ngài đối với chúng ta. Chúa đã để
bà ấy sinh ra có một bàn tay vì Chúa thƣơng bà. Chúa đã để cho Satan giày vò
Gióp bởi vì Chúa thƣơng ông. Chúa đã để Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập tự giá
vì thƣơng con Ngài và chúng ta. Đức Chúa Trời đã để cho quyền lực sự dữ có vẻ
chiến thắng bề ngoài, theo cái nhìn của chúng ta, nhƣng thật sự kế hoạch hoàn hảo
của Chúa hoàn tất ngay trong điều ấy để Cứu chuộc thế gian.
Không ai biết rõ điều ấy hơn Chúa Jesus. Vài bạn đọc đã viết cho tôi nói rằng Chúa
Jesus trên thập tự giá đã than: “Đức Chúa Trời tôi ôi, Đức Chúa Trời tôi ôi, sao
Ngài lìa bỏ tôi”. Nghĩ rằng Chúa Jesus đang than vãn là nguợc lại với những gì
Ngài đã loan báo về sự chết của Ngài: không ai có thể thấu hiểu mọi chƣơng trình
cứu chuộc thế gian bằng chính Chúa Jesus. Ngài thƣờng đề cập với các môn đồ về
sự chết và sự sống lại của Ngài, Ngài đã dẫn chứng các đoạn Thi thiên, trích dẫn
các lời tiên tri dự đoán về sự hy sinh của Ngài trên thập tự giá, và khích lệ môn đồ
về những gì sẽ xảy đến.
“Các ngƣơi từng nghe ta nói rằng: ta đi và trở lại cùng các ngƣơi. Nếu các ngƣơi
yêu mến ta, thì sẽ vui mừng vì điều ta đi đến cùng Cha, bởi vì Cha tôn trọng hơn
ta” (GiGa 1428).
Ngài cũng đã nói rằng không ai có thể cƣớp lấy mạng sống của Ngài nếu Ngài
không đồng ý.
“Nầy, tại sao Cha yêu ta; ấy vì ta phó sự sống mình để đƣợc lấy lại. Chẳng ai cất sự
sống ta đi, nhƣng ta tự phó cho: ta có quyền phó sự sống và có quyền lấy lại: ta đã
lãnh mạng lệnh này nơi Cha ta” (10:17-18).
Các môn đồ biết trọn vẹn chân lý ấy, nhƣng khi bắt đầu lại gặp trở ngại họ phản
ứng lại sự chiến thắng bên ngoài của sự dữ, họ xông xáo che chở Chúa Jesus khi
quân lính đến bắt Ngài.
Chúa Jesus đã ngăn cản họ : “Hãy nạp gƣơm vào vỏ, vì hễ nếu ai cầm gƣơm thì sẽ
chết vì gƣơm. Ngƣơi tƣởng ta không thể xin cha ta lập tức cho ta hơn mƣời hai đạo
thiên sứ sao? Nếu vậy, thế nào cho ứng nghiệm lời Kinh Thánh đã chép rằng việc
này tất phải xảy đến?” (Mat Mt 26:52-54).
Chúa Jesus biết rằng lời Đức Chúa Trời phải đƣợc ứng nghiệm. Không một hoàn
cảnh nào,một hành động nào của chúng ta có thể cản trở lời Chúa trở thành sự thật.
Chính Chúa Jesus cũng đã tuân phục lời Đức Chúa Trời, cho dù chính Ngài là một
ngôi lời nhập thể.
Dân Do Thái tập họp xung quanh thập tự giá thừa hiểu những đoạn Cựu Uớc loan
báo Đấng cứu thế sẽ bị đóng đinh vì tội lỗi của họ. Khi Chúa Jesus thốt lên : “Đức
Chúa Trời trời tôi ơi, Đức Chúa Trời trời tôi ơi, sao Ngài lìa bỏ tôi” Ngài đã dùng
lời dẫn đầu trong Thi Tv 22:1-31, một bài ca ngợi và chiến thắng để nói về sự đóng
đinh và sự trị vì của Đấng Cứu Thế.
Cơn hấp hối của Chúa Jesus trên thập tự giá là thật, những cây đinh đâm thấu bàn
tay Ngài, làm Ngài cũng đau đớn nhƣ chúng ta nếu chúng ta ở địa vị Ngài. Nhƣng
Chúa Jesus biết rằng sự đau đớn ấy không phải là sự chiến thắng của Satan và
quyền lực của sự dữ ở trên Ngài, nhƣng sự đau đớn ấy nằm trong chƣơng trình của
Đức Chúa Trời. Chúa Jesus ca ngợi Đức Chúa Trời vì qua cực hình ấy, Ngài đem
lại sự chiến thắng cuối cùng trên sự dữ đến thế gian.
Chúa Jesus đã kêu: “Đức Chúa Trời tôi ôi, Đức Chúa Trời tôi ôi, sao Ngài lìa bỏ
tôi ...” và Thi thiện tiếp tục:
Nhơn sau Ngài đứng xa không giúp đỡ tôi và chẳng nghe lời rên xiết tôi? ...
Còn Chúa là thánh Ngài là Đấng ngự giữa sự ngợi khen của Ysơraên, tổ phụ chúng
tôi nhờ cậy nơi Chúa,
Họ nhờ cậy, Chúa bèn giải cứu cho ...
Họ kêu cầu cùng Chúa, và đƣợc giải cứu;
Họ nhờ cậy nơi Chúa, không bị hổ thẹn.
Nhƣng tôi là một con trùn chớ chẳng phải ngƣời đâu,
Là điều ô nhục của loài ngƣời, và vật khinh dễ của dân sự,
Hễ kẻ nào thấy tôi đều nhạo cƣời tôi, trề môi, lắc đầu mà rằng:
Ngƣời phó thác mình cho Đức Giêhôva, Ngài khá giải cứu ngƣời vì Ngài yêu
ngƣời!...
Có nhiều bò đực bao quanh tôi, những bò đực hùng mạnh của Satan vây phủ tôi,
chúng nó há miệng ra cùng tôi, khác nào sƣ tử hay cắn xé và gầm thét.
Tôi bị đổ ra nhƣ nƣớc các xƣơng cốt tôi đều rời rã, trái tim tôi nhƣ sáp, tan ra trong
mình tôi, sức lực tôi khô nhƣ miếng gốm, và lƣỡi tôi dính nơi ổ gà; Chúa đã để tôi
nằm trong bụi tro sự chết.
Vì những chó bao quanh tôi, một lũ hung ác bao phủ tôi, chúng nó đâm lủng tay và
chân tôi ...
Chúng nó chia nhau áo sống tôi, bắt thăm về áo dài tôi ...
Tôi sẽ rao truyền danh Chúa cho anh em tôi, và ngợi khen Chúa giữa hội chúng.
Hỡi các ngƣơi kính sợ Đức Giêhôva, hãy ngợi khen Ngài;
Ô hết thảy dòng dõi Ysơraên, hãy kính sợ Ngài, vì Ngài không khinh bỉ chẳng gớm
ghiếc sự hoạn nạn của kẻ khốn khổ, cũng không dấu mặt Ngài cùng ngƣời;
Nhƣng khi ngƣời yêu cầu cùng Ngài, thì bèn nhậm lời.
Sự ngợi khen của tôi tại giữa hội lớn do Chúa mà ra; tôi trả xong sự hứa nguyện tôi
trƣớc mặt kẻ kính sợ Chúa.
Kẻ hiền từ sẽ ăn và đƣợc no nê; những ngừơi tìm Đức Giêhôva sẽ ngợi khen Ngài.
Nguyện lòng các ngƣơi đƣợc sống đời đời.
Bốn phƣơng thế gian sẽ nhớ và trở lại cùng Đức Giêhôva: các họ hàng muôn dân
sẽ thờ lạy trƣớc mặt Ngài. vì nƣớc thuộc về Ngài, Ngài cai trị trên muôn dân.
Một dòng dõi sẽ hầu việc Ngài ngƣời ta sẽ kể dòng dõi ấy là dòng dõi của Chúa.
Dòng dõi ấy sẽ đến rao ra sự công bình của Ngài thuật cho dân tộc sẽ sanh ra rằng
Đức Giêhôva đã làm việc ấy (Thi Tv 22:1-31).
Một trong những bản dịch mới nhất Kinh Thánh, bản Ampli ied Bible, đã thêm vào
hàng cuối thi thiên này chữ “đã hoàn tất”, lời nói cuối cùng của Chúa Jesus trƣớc
khi trút linh hồn trên thập tự giá. (GiGa 19:30).
Nhiều lần Chúa Jesus đã nhắc đến Tiên tri Êsai, ngƣời đã tiên đoán một cách chính
xác về cuộc sống, cái chết cũng nhƣ sự ngự trị vì của Ngài: nhƣng Ngài đã vì tội
lỗi của chúng ta mà bị vết, vì sự gian ác của chúng ta mà bị thƣơng, bởi sự sửa phạt
Ngài chịu, chúng ta đƣợc bình an, bởi lằn roi Ngài chúng ta đƣợc lành bệnh. Chúng
ta thảy đều nhƣ chiên đi lạc ai theo đƣờng nấy. Đức Giêhôva đã làm cho tội lỗi của
hết thảy chúng ta đều chất trên ngƣời. Ngƣời bị hiếp đáp, nhƣng khi chịu sự khổ
chẳng hề mở miệng. Nhƣ chiên con bị bắt đến hàng làm thịt, nhƣ chiên câm ở
trƣớc mặt kẻ hớt lông, ngƣời chẳng từng mở miệng. Bởi sự ức hiếp và xử đoán,
nên sự sống ngƣơi đã bị cất, trong những kẻ đồng thời với ngƣời có ai suy xét rằng
ngƣời đã bị dứt khỏi đất kẻ sống, vì là cớ tội lỗi dân ta đáng chịu đánh phạt? Ngƣời
ta đã đặt mồ ngƣời với những kẻ ác, nhƣng khi ngƣơi chết, ngƣời đƣợc chôn với kẻ
giàu, dầu ngƣời chẳng hề làm điều hung dữ và chẳng có sự dối trá trong miệng
(EsIs 53:5-9).
Đức Giêhôva lấy làm vừa ý mà làm tổn thƣơng ngƣời, và khiến gặp sự đau khổ.
Sau khi đã dâng mạng sống ngƣời làm của lễ chuộc tội, ngƣời sẽ thấy dòng dõi
mình, những ngày ngƣời sẽ thêm dài ra, và ý chỉ Đức Giêhôva nhờ tay ngƣời đƣợc
thịnh vƣợng. Ngƣời sẽ thấy kết quả của sự khốn khổ linh hồn mình, và lấy làm
thỏa mãn. Tôi tớ công bình của ta sẽ lấy sự thông biết về mình làm cho nhiều
ngƣời đƣợc xƣng công bình, và ngƣời sẽ gánh lấy tội lỗi họ. Vậy nên, ta sẽ chia
phần của ngƣời đồng với ngƣời lớn. Ngƣời sẽ chia của bắt với những kẻ mạnh vì
ngƣời đã đổ mạng sống mình cho đến chết, đã bị kể vào hạng kẻ dữ, đã mang lấy
tội lỗi của nhiều ngƣời và cầu thay cho những kẻ bị phạm tội” (EsIs 53:10-12).
Chúa Jesus biết rằng cái chết của Ngài không đi ngƣợc lại với chƣơng trình của
Đức Chúa Trời, nhƣng trái lại. Ngài hoàn tất chƣơng trình ấy. Môn đồ không hiểu
điều đó. Đối với họ sự đóng đinh ấy kết thúc những ƣớc mơ và hy vọng của họ. Họ
đã quên lời Chúa Jesus “Chẳng khác gì với các ngƣơi đang ở trong cơn đau đớn,
nhƣng ta sẽ thấy các ngƣơi, thì lòng các ngƣơi vui mừng, và chẳng ai cƣớp lấy sự
vui mừng của các ngƣơi đƣợc” (GiGa 16:22).
Họ không chờ đợi gặp lại Chúa và khi đƣợc tin Chúa không còn ở trong phần mộ,
họ nghĩ ngay là ngƣời ta cắp xác của Ngài.
Cùng ngày ấy, hai môn đồ từ Giêrusalem về Emmaus, họ bàn chuyện về cái chết
của Chúa Jesus, khi Chúa Jesus đột ngột hiện diện với họ, nhƣng họ không nhận
biết Ngài.
Ngài thấy họ lo lắng nên hỏi: “Các ngƣơi đƣơng đi đƣờng nói chuyện gì cùng nhau
vậy?”
“Có phải ông là khách lạ ở Giêrusalem sao mà không hay việc gì xảy đến tại đó
các mấy bữa nay sao?”, một trong hai ngƣời tên Cơlêôba trả lời. Và Chúa Jesus đã
nghe họ thuật lại câu chuyện của Jesus Naxarét tuyệt diệu đã làm nhiều phép lạ mà
họ tƣởng rằng đã tìm thấy nơi ngƣời Đấng Cứu Thế mà Ysơraên trông đợi, nhƣng
bây giờ những ngƣời lãnh đạo tôn giáo đã nộp ngƣời vào tay ngƣời La mã và
ngƣời ta đã đóng đinh ngƣời. Hai ngƣời vừa thuật lại nhƣ vừa chứng kiến bi kịch
của thời đại. Và điều lạ hơn nữa là xác của ông Jesus đã sống lại. Còn về phía các
môn đồ, họ tin chắc rằng tin tức cuối cùng là một câu chuyện thần thoại.
Chúa Jesus trả lời: “Hỡi những kẻ dại dột, có lòng chậm tin lời các đấng tiên tri
nói! Há chẳng phải Đấng Christ chịu thƣơng khó thể ấy mới vào đƣợc sự vinh hiển
mình sao? Đoạn Ngài bắt đầu từ Môise kế đến mọi Đấng tiên tri cắt nghĩa cho hai
ngƣời đó những lời chỉ về Ngài trong cả Kinh Thánh” (LuLc 24:25-27)
“Đang khi Ngài ngồi ăn cùng hai ngƣời, thì lấy bánh chúc tạ, đoạn bẻ ra cho họ.
Mắt họ bèn mở ra, mà nhìn biết Ngài, nhƣng Ngài thoạt biến đi không thấy” (LuLc
24:30-31).
Sau cùng họ tin! từ lâu họ dừng lại ở những gì bên ngoài và không đủ khả năng để
thấu hiểu diễn tiến của chƣơng trình tuyệt hảo của Đức Chúa Trời.
Môn đồ thấy Thầy của họ bị đóng đinh, một sự chiến thắng bề ngoài của sự ác trên
sự thiện, và họ kết luận Chúa đã ruồng bỏ họ trong khi đó nếu họ tin ở lời Chúa do
các tiên tri loan báo thì những biến cố đó đã chứng minh sự hiện hữu của Đức
Chúa Trời ở giữa họ đang hoàn tất chƣơng trình của Ngài.
Chúng ta cũng vậy, giống các môn đồ, khi thử thách và đau khổ xảy đến, phản ứng
đầu tiên của chúng ta là: “Lạy Chúa, sao nở bỏ con”
Ngƣng Chúa Jesus đã nói: “Ta đã bảo các ngƣơi những điều đó, hầu cho các ngƣơi
có lòng bình an trong ta. Các ngƣơi sẽ có sự hoạn nạn trong thế gian, nhƣng hãy cứ
vững lòng , ta đã thắng thế gian rồi” (GiGa 16:33).
Nếu chúng ta thật lòng tin vào lời Chúa Jesus những điều xảy đến cho chúng ta đều
chứng minh rằng Chúa ở cùng chúng ta, và chúng ta sẽ ca ngợi và cảm tạ Ngài,
thay vì than vãn và giận dỗi.
Chúng ta lắc đầu khi đánh giá tình trạng của thế giới hôm nay và chúng ta nghĩ
rằng: “Tất cả đều chứng tỏ rằng Chúa không làm điều gì lớn lao, Ngài đã buông
xuôi tất cả”
Nhƣng Chúa Jesus đã nói rằng chúng ta phải biết là có chiến tranh, động đất, đói
kém những vụ nổi dậy phản loạn, dịch lệ, ô nhiễm ... và có thể lập một danh sách
dài ... đó là hình ảnh chính xác về thế giới chúng ta với sự hứa hẹn là tình trạng này
có thể tệ hơn nữa.
Nhƣng Ngài tiếp tục: “Chừng nào các việc đó khởi xảy đến, hãy đứng thẳng lên,
ngƣớc đầu vì sự giãi cứu của các ngƣơi gần tới” (LuLc 21:28) Chúa Jesus đã mời
gọi các môn đồ hân hoan về cái chết của Ngài. nếu họ đã tin lời Ngài, họ đã nếm
đƣợc sự vui mừng, thay vì đau buồn. Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy lạc quan
trong thử thách.
Phierơ viết: “Dầu bây giờ anh em không thấy Ngài, nhƣng tin Ngài, lấy sự vui vẻ
không thể nói đƣợc và đầy vinh hiển và mừng rỡ cả thể (IPhi 1Pr 1:8)
Bạn sẽ tin vào ai? Bạn sẽ sống buồn bã suốt cuộc đời nhƣ hai môn đo àEmmaus, lo
âu và để hoàn cảnh bên ngoài đè nặng trên bạn, xác tín rằng Chúa rất xa bạn sao?
Hay bạn sẽ mở mắt nhìn và tạ ơn.
Hãy đón nhận bánh, lời Chúa sự sống, sự bình an, niềm vui mà Chúa ban tặng. Hãy
nhìn nhận rằng Chúa Jesus ở gần bạn và Chúa dùng mọi biến cố trong cuộc đời để
đáp ứng nhu cầu của bạn.
Những gì bạn cho rằng Đức Chúa Trời bỏ rơi, thì trong thực tế đó là phƣơng tiện
mà trong tình thƣơng của Ngài, Ngài đã dùng để lôi kéo bạn đến với Ngài, và đề
cho niềm vui của bạn đƣợc nên trọn vẹn.
Hãy mở mắt nhìn và ca ngợi Chúa, Chúa yêu thƣơng bạn và Chúa ngự trong lời ca
ngợi của dân Ngài.
“Tôi sẽ chúc tụng Đức Giêhôva luôn luôn,
Sự ngợi khen Ngài hằng nơi miệng tôi.
Linh hồn tôi sẽ khoe mình về Đức giehôva,
Những ngƣời hiền từ sẽ nghe và vui mừng.
Hãy cùng tôi tôn trọng Đức Giêhôva,
Chúng ta hãy cùng nhau tôn cao danh của Ngài.
Tôi đã tìm cầu Đức Giêhôva, Ngài đáp lại tôi,
Giải cứu tôi khỏi các điều sợ hãi.
Chúng ngữa trông Đức Giêhôva thì đƣợc chói sáng,
Mặt họ chẳng hề bị hổ thẹn
Kẻ khốn cùng này có kêu cầu, Đức Giêhôva nhận lời.
Giải cứu ngƣời khỏi các điều gian truân.
Thiên sứ Đức Giêhôva đóng trại chung quanh những kẻ kính sợ Ngài, và giải cứu
họ.
Khá nếm thử xem Đức Giêhôva tốt lành dƣờng bao?
Phƣớc cho ngƣời nào nƣơng náu mình nơi Ngài!
Hỡi các Thánh của Đức Giêhôva, hãy kính sợ Ngài
Vì kẻ nào kính sợ Ngài chẳng thiếu thốn gì hết.
Thi Tv 34:1-9