quyỀn tỰ do tÍn ngƯỠng, tÔn giÁo theo phÁp luẬt viỆt nam...
TRANSCRIPT
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN NGỌC HUẤN
QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số : 62 38 01 02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Võ Khánh Vinh
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận án là trung thực, có xuất xứ rõ ràng. Kết luận của luận án chưa từng công bố
trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào.
NGHIÊN CỨU SINH
Nguyễn Ngọc Huấn
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
TT Từ viết tắt Nội dung từ viết tắt Ghi chú
1 CPC Danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt về tự do
tôn giáo
2 ECHR
Hiến chương châu Âu về quyền con người
3 EU Liên minh châu Âu
4 ICCPR Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị
5 ICESCR Công ước quốc tế về các quyền Kinh tế, Xã hội và
Văn hóa
6 IGE Viện Liên kết toàn cầu
7 NGO Các tổ chức phi Chính phủ
8 TEU
Hiệp ước của liên minh châu Âu
9 UBND Ủy ban nhân dân
10 UDHR Tuyên ngôn Toàn thế giới về Nhân quyền
MỤC LỤC Trang
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 9
1.1. Tình hình nghiên cứu đề tài 9
1.2. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu đề tài 21
1.3. Cơ sở lý luận và hướng tiếp cận nghiên cứu đề tài 25
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG,
TÔN GIÁO THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
29
2.1. Những vấn đề lý luận về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo 29
2.2. Nội dung quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo 45
2.3. Các điều kiện đảm bảo thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo 61
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VỀ QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG,
TÔN GIÁO THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
73
3.1. Thực trạng pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay
73
3.2. Thực trạng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam 85
3.3. Đánh giá những thành tựu và hạn chế trong việc thực hiện pháp luật về
tôn giáo
101
CHƯƠNG 4: NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO
QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY
112
4.1. Những quan điểm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp
luật Việt Nam hiện nay
112
4.2. Những giải pháp đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp
luật Việt Nam hiện nay
129
KẾT LUẬN 149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 151
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của
con người, thuộc nhóm quyền dân sự và chính trị được ghi nhận trong một số
văn bản chính trị - pháp lý của Liên hợp quốc bao gồm các văn bản mang tính
chất Tuyên ngôn như Hiến chương của Liên hợp quốc năm 1945, Tuyên ngôn
thế giới về nhân quyền năm 1948, Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và
Chính trị năm 1966.
Bất kỳ ai cũng được tự do theo tôn giáo mình thích hoặc không theo
một tôn giáo nào. Theo đạo, chuyển đạo hay bỏ đạo trong khuôn khổ của
pháp luật hiện hành là quyền tự do của mỗi người. Nhà nước Việt Nam thừa
nhận và đảm bảo cho mọi công dân có hoặc không có tín ngưỡng, tôn giáo
đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi; không có sự phân biệt đối xử vì lý do
tín ngưỡng, tôn giáo. Các tôn giáo được nhà nước thừa nhận đều bình đẳng
trước pháp luật. Mọi người cần ý thức tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của người khác, đồng thời chống lại những phần tử lợi dụng tôn giáo
chống lại giai cấp công nhân, lợi ích dân tộc. Nhà nước chủ trương tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân,
bảo đảm mọi sinh hoạt tôn giáo bình thường trong khuôn khổ pháp luật,
nghiêm cấm những âm mưu lợi dụng tôn giáo vì mục đích ngoài tôn giáo.
Trước yêu cầu quản lý nhà nước đối với lĩnh vực tôn giáo; trước sự
phục hồi, phát triển nhanh chóng, phức tạp của các tôn giáo và âm mưu lợi
dụng tôn giáo, nhân quyền chống phá nước ta; trong khi đó pháp luật về tôn
giáo đã bộc lộ những bất cập, yếu kém, thiếu tính đồng bộ, tính thống nhất,
nhiều vấn đề phát sinh trong hoạt động tôn giáo chưa được pháp luật bổ sung,
điều chỉnh; chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước về tôn giáo trong
tình hình mới... Những thiếu sót đó là một trong những nguyên nhân gây ra sự
2
lúng túng, thiếu thống nhất khi xử lý đối với hoạt động tôn giáo vi phạm pháp
luật, làm hạn chế hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này.
Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta được xây dựng dựa trên
quan điểm cơ bản của học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín
ngưỡng, tôn giáo và căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Trong giai đoạn hiện nay, việc bảo
vệ và phát triển quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn được ưu tiên trong
chính sách của Đảng và Nhà nước, trở thành một trong những vấn đề lớn thu
hút sự quan tâm của các cấp, các ngành và cộng đồng quốc tế.
Tôn giáo có ảnh hưởng khá sâu sắc đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã
hội, tôn giáo tham gia thực hiện nhiều chức năng đối với xã hội vừa mang
những ưu điểm và hạn chế; để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, phát
huy những mặt tích cực, hạn chế những tiêu cực, nhà nước cần phải quản lý
hoạt động tôn giáo, đảm bảo cho những hoạt động tôn giáo diễn ra phù hợp sự
phát triển chung của xã hội. Thời gian qua, việc quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo cho thấy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn một số tồn tại
như hiện tượng hạn chế, thu hẹp, thậm chí vi phạm quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo; trong quản lý có nơi còn nóng vội, giản đơn khi giải quyết vấn đề
liên quan đến tôn giáo dẫn đến vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân, làm giảm lòng tin trong bộ phận quần chúng có đạo về chính sách
tôn giáo của Đảng và Nhà nước; có nơi lại thụ động, buông lỏng quản lý dẫn
tới kỷ cương pháp luật không được giữ nghiêm; việc kiểm tra, giám sát và xử
lý các hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn chưa kịp thời,
chặt chẽ và kiên quyết. Nguyên nhân của tình trạng trên còn nhiều, nhưng chủ
yếu là do trong bộ máy nhà nước và ở ngoài xã hội chưa nhận thức đầy đủ,
toàn diện về ý nghĩa, tầm quan trọng và vai trò của quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo, chưa ý thức được sự cần thiết phải tôn trọng và bảo đảm thực hiện
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được pháp luật quy định.
3
Cần tiếp tục nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo, góp phần cung cấp những luận cứ khoa học cho Đảng,
Nhà nước tiếp tục hoạch định và hoàn thiện chủ trương, chính sách, pháp luật
trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu về quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo trên các lĩnh vực khác nhau; đồng thời tạo cơ sở pháp lý để nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đấu tranh chống lại các thế lực lợi dụng
tôn giáo, góp phần giữ vững ổn định chính trị và phát triển kinh tế, xã hội.
Với những lý do nêu trên, chúng tôi chọn đề tài “Quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ
chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật hành chính.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
a. Mục đích nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận pháp luật về tôn giáo và
thực trạng pháp luật về tôn giáo cũng như thực tiễn thực hiện quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, đề xuất các giải pháp bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để thực hiện được mục đích trên, luận án giải quyết các nhiệm vụ sau:
+ Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, nội dung pháp luật về tôn giáo, vai
trò của pháp luật về tôn giáo; tiêu chí hoàn thiện pháp luật về tôn giáo và các
yếu tố bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
+ Đánh giá thực trạng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo dựa
trên quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; những thành
tựu bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
+ Đánh giá thực trạng pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay qua
các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội trong lĩnh vực tôn
giáo hiện hành; phân tích, làm sáng tỏ thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo; trên cơ sở đó rút ra những ưu điểm, nhược điểm và
chỉ rõ nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế.
4
+ Làm rõ sự cần thiết khách quan phải đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo theo pháp luật Việt Nam hiện nay, nêu quan điểm và các giải pháp
hoàn thiện.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu pháp luật về tôn giáo và công cụ pháp lý
để đảm bảo pháp lý cho các tổ chức, cá nhân tôn giáo trong hoạt động tôn
giáo trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Các công cụ pháp lý đó được
thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực tôn giáo và
gắn liền với việc thực hiện pháp luật về tôn giáo, về quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; trong đó
nhấn mạnh việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo phải
gắn liền với cuộc đấu tranh chống những kẻ lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo vì
mục đích ngoài tôn giáo.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian
+ Quốc tế: Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền
cơ bản của con người và được các quốc gia trên thế giới ghi nhận và đảm bảo.
Luận án nghiên cứu quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và đảm bảo quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của công dân được ghi nhận trong hệ thống pháp luật
quốc tế như các công ước, điều ước quốc tế, kinh nghiệm của một số quốc gia
trên thế giới. Trong phạm vi này, tác giả sẽ phân tích nội dung, giới hạn của
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong các công ước quốc tế và thể hiện trong
pháp luật của một số nước trên thế giới. Từ những nghiên cứu, sẽ làm cơ sở
để so sánh, đánh giá pháp luật, thực tiễn pháp luật Việt Nam trong việc đảm
đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.
+ Việt Nam: Pháp luật về tôn giáo có thể được nghiên cứu từ nhiều góc
độ với những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi một luận án không
thể nghiên cứu được hết các vấn đề đó. Luận án nghiên cứu đề tài “Quyền tự
5
do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt Nam hiện nay” dưới góc độ Luật
Hiến pháp và Luật Hành chính. Những nghiên cứu cụ thể được đề cập trong
luận án được giới hạn nhằm hướng đến việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
+ Phạm vi về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu pháp luật và việc
thực hiện pháp luật về tôn giáo trong giai đoạn hiện nay từ thời điểm ban hành
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (2004) đến thời điểm hiện tại. Bên cạnh đó,
luận án cũng khái quát quá trình hình thành và phát triển pháp luật về tôn giáo
ở Việt Nam từ năm 1945 cho đến trước khi ban hành Pháp lệnh tín ngưỡng,
tôn giáo như một sự so sánh để thấy được bước tiến của pháp luật về tôn giáo.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cách tiếp cận nghiên cứu
+ Tiếp cận chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Phân
tích, luận giải các vấn đề lý luận về tôn giáo, thực trạng pháp luật và thực tiễn
thực hiện pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
+ Tiếp cận liên ngành: Tiếp cận vấn đề nghiên cứu quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, pháp luật về tôn giáo dưới góc độ luật học, có sự phối hợp
của nhiều ngành khoa học xã hội nhân văn như khoa học lịch sử, xã hội học,
tôn giáo học...
+ Tiếp cận lịch sử: Quan điểm lịch sử cụ thể được quán triệt trong quá
trình nghiên cứu, đặc biệt xem xét mối quan hệ này qua từng giai đoạn lịch sử
khác nhau. Đồng thời, khi phân tích đánh giá từng mặt của mối quan hệ này
được quán triệt trong những bối cảnh lịch sử và những điều kiện cụ thể nhìn
nhận dưới góc độ logic phát triển.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài luận án “Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt
Nam hiện nay” sử dụng phương pháp tiếp cận liên ngành. Đề tài dựa trên cơ
sở lý luận chính là học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tham
khảo học thuyết chủ quyền nhân dân, học thuyết phân chia quyền lực, lý luận
6
nhà nước và pháp luật; vận dụng cơ sở lý thuyết về phương pháp luận duy vật
biến chứng, duy vật lịch sử, các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước về vấn đề tôn giáo. Luận án còn sử dụng tổng thể các phương pháp
nghiên cứu như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh,
phương pháp thống kê, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp hệ
thống, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp phân tích - dự báo. Nghiên
cứu pháp luật quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và vấn đề bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo làm cơ sở đối chiếu, so sánh pháp luật bảo
vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam với các chuẩn mực quốc tế;
đưa ra những giải pháp bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp
luật Việt Nam hiện nay; cụ thể như sau:
Chương 1: Tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp thống kê, phương
pháp tổng hợp và phương pháp phân tích. Qua thống kê và tổng hợp các công
trình nghiên cứu khoa học trong nước và ngoài nước về những vấn đề có liên
quan đến nội dung luận án, tác giả phân tích những nội dung cơ bản trong các
công trình nghiên cứu đó và đưa ra đánh giá về tình hình nghiên cứu.
Chương 2: Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp tổng
hợp, phương pháp so sánh để đưa ra các quan niệm, bản chất, đặc điểm, lịch
sử hình thành và phát triển về quyền con người; Khái niệm pháp luật tôn giáo,
khái niệm, nguồn gốc, đặc điểm và bản chất quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo;
Nội dung Quyền con người, Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; pháp luật về
tôn giáo cũng như vai trò, nội dung, đối tượng điều chỉnh, các điều kiện đảm
bảo của pháp luật về tôn giáo.
Chương 3: Tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử cụ thể,
phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích,
phương pháp so sánh để đánh giá quá trình hình thành và phát triển của pháp
luật về tôn giáo ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử; thực trạng pháp luật về
tôn giáo ở Việt Nam hiện nay qua các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành,
đặc biệt đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về tôn giáo, từ đó chỉ ra những
7
hạn chế, bất cập và nguyên nhân. Đồng thời, khái quát pháp luật về tôn giáo ở
một số nước trên thế giới để so sánh với pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam.
Chương 4: Luận án sử dụng phương pháp phân tích - dự báo, phương
pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử và phương pháp
thống kê; làm rõ các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước và những
yêu cầu đặt ra từ đó đưa ra các giải pháp bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Đây là công trình chuyên khảo, nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ
thống pháp luật về tôn giáo, về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp
luật Việt Nam hiện nay. Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng
góp mới về khoa học của luận án:
Một là, làm sáng tỏ khái niệm, vị trí của pháp luật về tôn giáo trong hệ
thống pháp luật Việt Nam, làm sáng tỏ vai trò, đặc điểm, nội dung của pháp
luật về tôn giáo. Đặc biệt, làm rõ những yếu tố ảnh hưởng đến việc đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
Hai là, làm sáng tỏ thực trạng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo dựa trên quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; những
nguyên nhân và hạn chế của thực trạng cũng như thực tiễn thực hiện quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Đánh giá những thành tựu bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
Ba là, luận án đưa ra hệ thống các quan điểm và giải pháp đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt Nam hiện nay trên cơ sở
phân tích sự biến đổi của đời sống tôn giáo ở Việt Nam dưới tác động của xu
thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và có tính đến đặc trưng của hoạt
động tôn giáo. Ngoài các giải pháp trước mắt, luận án chú trọng đến các giải
pháp ở tầm chiến lược, lâu dài góp phần xây dựng luật tín ngưỡng, tôn giáo.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa khoa học
8
Luận án nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của
pháp luật về tôn giáo. Kết quả nghiên cứu của luận án làm rõ những vấn đề lý
luận về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, pháp luật về tôn giáo, một lĩnh vực
cần có sự nghiên cứu một cách đầy đủ ở Việt Nam. Luận án cũng góp phần
luận giải tính tất yếu và yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về tôn giáo.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về tôn giáo ở Việt
Nam trong thời gian qua còn bộc lộ một số điểm hạn chế. Điều này xuất phát
từ việc pháp luật về tôn giáo chưa thực sự đồng bộ, thống nhất và việc xã hội,
nhà nước nói chung và ngành quản lý nhà nước về tôn giáo nói riêng do ảnh
hưởng của những yếu tố lịch sử nên đôi khi còn có nhận thức chưa đúng về
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Vì vậy, những kết quả nghiên cứu và những
giải pháp của luận án có ý nghĩa đối với việc đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, hoàn thiện và thực hiện pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay. Luận án còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công
tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, pháp luật về tôn
giáo nói riêng và cho ngành quản lý nhà nước về tôn giáo.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận án gồm 4 chương, 11 tiết
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu.
Chương 2. Cơ sở lý luận về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp
luật Việt Nam hiện nay
Chương 3. Thực trạng về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp
luật Việt Nam hiện nay
Chương 4. Những quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
9
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo
một tôn giáo nào của công dân, đồng thời tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà nước đối với tôn giáo, ngay từ Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa - Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 2013 đều khẳng
định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của
công dân. Hiến pháp năm 2013 tại Điều 24 quy định: “Mọi người có quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo
đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật” [40, tr.17-18].
Những năm gần đây, vấn đề quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo được đảm bảo, khách quan, các cuộc hội thảo trong nước và quốc tế
đã được tổ chức, việc nghiên cứu quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo được coi trọng, các công trình nghiên cứu điển hình như:
+ Hội thảo, Tôn giáo và Pháp quyền ở Đông Nam Á, Hà Nội, 2007, tập
trung thảo luận về các chủ đề then chốt đã được nêu ra tại Hội thảo năm 2006
như so sánh các mô hình quan hệ nhà nước - giáo hội; vấn đề pháp nhân tôn
giáo; tình hình và tiến triển của pháp luật về tôn giáo ở Đông Nam Á. Ngoài
ra Hội thảo còn đề cập đến những vấn đề mới và thời sự hơn như: tôn giáo và
an ninh nhà nước; các vấn đề thuế, tài chính liên quan đến hoạt động tôn giáo;
hoạt động của các tổ chức tôn giáo nước ngoài tại Đông Nam Á; vấn đề tôn
giáo và giáo dục…. Tại Hội thảo, tham luận của các học giả Việt Nam nêu ra
10
những khó khăn và thách thức trong quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo
hiện nay; tham luận của các học giả quốc tế nhấn mạnh những nỗ lực tìm
kiếm mô hình quan hệ nhà nước - giáo hội thích hợp ở Châu Âu, việc quản lý
hoạt động từ thiện của các nhóm tôn giáo ở Hoa Kỳ, tham luận của các học
giả từ các nước Đông Nam Á như Singapore, Phillipines, Thailand, Malaysia
nêu ra những kinh nghiệm thực tế khi nhà nước phải mau chóng giải quyết
các vấn đề liên quan đến tôn giáo trên phương diện pháp luật.
+ Hội thảo, Tôn giáo và pháp quyền Đông Nam Á, Hà Nội, 2011, thảo
luận các vấn đề quan trọng về vai trò của nhà nước trong việc điều hành, quản
lý và tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường, có đóng góp vào
sự ổn định và phát triển của toàn xã hội, tập trung vào các vấn đề: so sánh các
mô hình quan hệ nhà nước - giáo hội; vấn đề pháp nhân tôn giáo, tình hình
hiện tại và tiến triển của pháp luật về tôn giáo ở Đông Nam Á. Hầu hết các ý
kiến đều nhất trí quan điểm chung cho rằng, các nhóm tôn giáo có khả năng
đóng góp vào sự thịnh vượng chung của xã hội, họ dạy con người về đạo lý,
nhân sinh quan và những tiêu chí đạo đức, họ có những chính sách cụ thể
trong việc chăm sóc người nghèo và điều đó giúp giảm bớt gánh nặng tài
chính cho chính quyền địa phương trong việc đảm bảo an sinh xã hội… Tuy
vậy, tất cả những điều đó có thể thành hiện thực nếu tất cả các nhóm tôn giáo
được các chính phủ tạo điều kiện để họ được tự do thực hành các hoạt động
tôn giáo trong xã hội.
+ Giá trị di sản của đa dạng tôn giáo ở Việt Nam và những đóng góp
đối với xã hội Việt Nam, Ban Tôn giáo Chính phủ, Hà Nội, 2015. Đây là tập
kỷ yếu của hai cuộc hội thảo quốc tế, được tổ chức bởi Ban Tôn giáo Chính
phủ hợp tác với phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam, với chủ đề “Giá
trị di sản của đa dạng tôn giáo ở Việt Nam và những đóng góp đối với xã hội
Việt Nam”, được tổ chức ngày 25, 26/9/2013 và chủ đề “Tôn giáo và đời sống
tôn giáo ở Việt Nam - Chia sẻ kinh nghiệm châu Âu và Việt Nam trong việc
đảm bảo tự do tôn giáo” được tổ chức ngày 26, 27/9/2014. Hội thảo có sự
11
tham gia của các chuyên gia đầu ngành về tôn giáo, về luật pháp đến từ các
nước trong Liên minh châu Âu. Hội thảo đã phân tích sự đang dạng tôn giáo ở
Việt Nam cùng những đóng góp của các tôn giáo đối với lịch sử dựng nước
và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Hội thảo phân tích vai trò của nguồn lực
xã hội của tôn giáo trong công cuộc đổi mới của đất nước Việt Nam. Hội thảo
dành thời lượng phân tích những chuyển biến trong đời sống tôn giáo ở Việt
Nam, phân tích những nỗ lực và thành tựu của nhà nước Việt Nam trong việc
đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, khuyến khích các
hoạt động tôn giáo tiến bộ vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân.
1.1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu những vấn đề chung về tôn giáo,
chính sách, pháp luật về tôn giáo
- PGS.TS. Đỗ Quang Hưng, Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt
Nam - Lý luận và thực tiễn, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2008, 447 trang.
Sách đã hệ thống lại những nét chủ yếu về lý luận và thực tiễn trong công tác
tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam, lịch sử nhận thức của Đảng, Nhà
nước về tôn giáo và những phác họa đầu tiên về tiến trình đó, chủ yếu là giai
đoạn từ 1945 đến năm 2005; quá trình Đảng, Nhà nước ta xây dựng và hoàn
thiện đường lối, chính sách tôn giáo qua các giai đoạn lịch sử, đáp ứng đổi
mới về tôn giáo, từ đó đặt ra một số vấn đề gợi mở làm cơ sở cho việc hoàn
thiện pháp luật về tôn giáo trong giai đoạn hiện nay; giúp tác giả có cái nhìn
toàn diện, hệ thống về chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
- GS.TS. Võ Khánh Vinh (chủ biên), Những vấn đề lý luận và thực tiễn
của nhóm quyền dân sự và chính trị, Nxb Khoa học xã hội, 2011, trong đó bài
viết của Nguyễn Hồng Nhung, Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo - Những vấn
đề lý luận và thực tiễn, tác giả đã khái quát quan niệm về tín ngưỡng, tôn
giáo, từ đó đưa ra nội dung và giới hạn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng
như thực tiễn bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các nước trên thế
giới và thực tiễn pháp lý ở Việt Nam. Trong đó tác giả khẳng định, về cơ bản,
bên cạnh việc tạo ra một cơ chế pháp lý tương đối toàn diện bảo đảm quyền tự
12
do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, Đảng và Nhà nước ta đã và đang
không ngừng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của đời sống tâm linh,
phục vụ tốt cho quá trình xây dựng đất nước.
- Một số vấn đề về quyền dân sự và chính trị, tập thể tác giả, chủ biên:
GS.TS. Hoàng Văn Hảo - TS. Chu Hồng Thanh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1997, 288 trang. Sách đề cập đến những vấn đề lý luận quyền con người
về dân sự và chính trị; phân tích quyền con người về dân sự và chính trị trong
các Hiến pháp Việt Nam. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thuộc nhóm
quyền dân sự và chính trị, do vậy cuốn sách là nguồn tư liệu quý giúp tác giả
nghiên cứu trong quá trình thực hiện đề tài.
- Một số công trình khoa học của PGS.TS. Nguyễn Văn Động về quyền
công dân ở Việt Nam có liên quan trực tiếp đến đề tài, giúp tác giả cả về
phương pháp nghiên cứu, học thuật và nội dung nghiên cứu. Các công trình:
Các quyền hiến định về xã hội của công dân ở Việt Nam hiện nay (sách
chuyên khảo), Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2004, 203 trang; Quyền con người,
quyền công dân trong Hiến pháp Việt Nam (sách chuyên khảo), Nxb Khoa
học Xã hội, 2005, 253 trang; Các quyền hiến định về chính trị của công dân
Việt Nam (sách chuyên khảo), Nxb tư pháp, Hà Nội, 2006, 183 trang.
- PGS.TS. Hoàng Thế Liên, Việt Nam với vấn đề quyền con người, Bộ
Tư pháp, Hà Nội, 2005, 368 trang. Cuốn sách giúp tác giả những kiến thức lý
luận và nhận thức đúng đắn, toàn diện vấn đề quyền con người trên bình diện
quốc tế và quốc gia, những thành tựu, những bài học kinh nghiệm trong lĩnh
vực bảo vệ quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; chống lại
những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phục vụ cho các hoạt
động bảo vệ quyền con người.
- TS. Đỗ Minh Hợp (chủ biên), Tôn giáo phương Đông, quá khứ và
hiện tại, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2006, 398 trang; sách đề cập đến lịch sử phát
triển kinh tế - xã hội, chính trị và văn hóa của các xã hội phương Đông; sách
đã trình bày hoàn cảnh, quá trình hình thành các tôn giáo Phương Đông cùng
13
với sự tác động của nó đến xã hội. Cuốn sách đã giúp tác giả thấy rõ những tư
liệu hiện có, những tư liệu gốc về tôn giáo Phương Đông, thấy rõ được đặc
thù và bản chất của các tôn giáo, phân tích sự hoạt động và vị trí trong đời
sống xã hội và con người phương Đông.
- Tuyên ngôn thế giới và hai công ước 1966 về quyền con người, tập thể
tác giả, Trung tâm nghiên cứu quyền con người thuộc Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002, 240 trang. Nội dung cuốn sách đã đề
cập đến những vấn đề cơ bản liên quan trực tiếp đến Tuyên ngôn thế giới về
nhân quyền (1948), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
(1966), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1966);
đồng thời đề cập đến việc áp dụng các nguyên tắc và quy định trong ba văn
kiện đó về thực tiễn trên thế giới và Việt Nam; giúp tác giả củng cố những
kiến thức lý luận về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
- Phạm Khiêm Ích (chủ biên), Quyền con người, các văn kiện quan
trọng, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội 1998, 595 trang; cuốn sách
bao gồm 15 văn kiện quan trọng, tuy khác nhau về thời gian và địa điểm ra
đời, nhưng lại rất giống nhau, nhất quán với nhau trong việc đề cao và bảo vệ
các quyền tự nhiên, không thể bị tước đoạt và thiêng liêng của con người;
sách đã nêu bật được các văn kiện, đồng thời khẳng định mạnh mẽ rằng
không có sự vi phạm nhân quyền nào có thể biện minh được; bởi vậy các
quốc gia trong cộng đồng quốc tế cam kết hoàn thành nghĩa vụ của mình là
thúc đẩy sự tôn trọng ở khắp nơi, thực hiện và bảo vệ tất cả các quyền con
người và các quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người phù hợp với Hiến
chương Liên hợp quốc, các văn kiện khác liên quan tới quyền con người và
luật pháp quốc tế. Sách đã giúp tác giả thẩm thấu được các quyền thừa thưởng
về tự do tôn giáo, các quy định tại các nước thành viên, xác định mối quan hệ
quốc tế trong đó có các luật quy định về hệ thống pháp luật tôn giáo, công
nhận quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
14
- PGS.TS. Thái Vĩnh Thắng, Nhà nước và pháp luật tư sản đương đại,
lý luận và thực tiễn (sách chuyên khảo), Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2008, 418
trang; cuốn sách là sự kết hợp các kiến thức trên các lĩnh vực lý luận nhà
nước và pháp luật, Luật hiến pháp nước ngoài và Luật so sánh, từ đó đưa ra
một cách nhìn toàn diện về nhà nước và pháp luật tư sản.
Ngoài ra, còn có một số công trình khác như: Tôn giáo ở Mỹ, Nghiêm
Văn Thái, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 3/2011; Dấu mốc và kết quả hội
nhập quốc tế về tôn giáo ở Việt Nam; Bùi Quang Nhượng, Tạp chí Công tác
Tôn giáo, số 9/2015; Một số vấn đề đặt ra trong việc vận dụng quan điểm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác vận động tín đồ tôn giáo, Đoàn Thị Thu
Hà, Tạp chí Công tác Tôn giáo, số 7/2016; Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín
ngưỡng, tôn giáo, Tạ Văn Sang và Nguyễn Thị Hằng, Tạp chí Công tác Tôn
giáo, số 8/2016;...
1.1.1.2. Nhóm công trình đề cập đến thực trạng và thực tiễn áp dụng
chính sách, pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam
- Bùi Đức Luận (chủ biên), Quản lý hoạt động tôn giáo, cơ sở lý luận
và thực tiễn, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2005, 111 trang; sách đã đưa ra một số
vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, thực tiễn quản
lý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta hiện nay, nhân
tố mới để thực hiện cải cách hành chính trong quản lý hoạt động tôn giáo.
- Đỗ Quang Hưng, Chính sách tôn giáo và Nhà nước pháp quyền, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014, 567 trang; sách là một công trình khoa học
có giá trị, chứa đựng những kiến giải sâu sắc, có tính mới về lý luận; giúp tác
giả thấy được tính mới về lý luận, tổng kết sâu sắc về thực tiễn đời sống tôn
giáo và thực hiện chính sách tôn giáo ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, trong
xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
- Ngô Hữu Thảo, Công tác tôn giáo - Từ quan điểm Mác - Lênin đến
thực tiễn Việt Nam, Nxb Chính trị Hành chính, Hà Nội 2012, đây là bài viết
đã trình bày một cách có hệ thống quan điểm của các nhà kinh điển Mác -
15
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo cũng như công tác tôn
giáo của hệ thống chính trị và một số vấn đề đặt ra hiện nay.
- Ban Tôn giáo Chính phủ, Tôn giáo và công tác quản lý nhà nước đối
với các hoạt động tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2008, 332 trang. Sách đã
làm rõ lý luận chung của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
tôn giáo, chủ trương, chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta;
kiến thức về các tôn giáo lớn ở Việt Nam và công tác quản lý nhà nước đối
với các tôn giáo đó ở cơ sở; đồng thời, đánh giá thực trạng quy định của pháp
luật, thực trạng công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động
tôn giáo ở nước ta hiện nay. Qua đó, làm rõ nguyên nhân của những thành tựu
và hạn chế của thực trạng trên.
- Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Trường Đại học
Brigham Young Hoa Kỳ, Tài liệu bồi dưỡng kiến thức Nhà nước pháp quyền
và tôn giáo, tư liệu tham khảo, 2012. Tập bài giảng gồm những bài viết chọn
lọc về “Lý luận về Nhà nước pháp quyền và tôn giáo” và phần tư liệu cơ bản
về đường lối, chính sách và pháp luật tôn giáo ở Việt Nam thời kỳ đổi mới.
- Ban Tôn giáo Chính phủ, Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam
(sách trắng), Hà Nội, 2009, 85 trang. Cuốn sách này đã giúp tác giả thấy rõ,
đầy đủ và toàn diện hơn về tình hình tôn giáo và chính sách của Nhà nước đối
với tôn giáo.
- Ban Tôn giáo Chính phủ, Tài liệu Hỏi - Đáp pháp luật liên quan đến
tín ngưỡng, tôn giáo, Hà Nội, 2008, 142 trang. Cuốn sách gồm phần chuyên
Hỏi - Đáp pháp luật về tôn giáo, phần chuyên Hỏi - Đáp về đất sử dụng cho
mục đích tôn giáo, phần chuyên Hỏi - Đáp pháp luật về khiếu nại, tố cáo; đã
giúp tác giả nắm vững những quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo;
quyền và trách nhiệm của tín đồ, nhà tu hành, chức sắc trong hoạt động tôn
giáo; tổ chức tôn giáo; hoạt động của tổ chức tôn giáo; quan hệ quốc tế của tổ
chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc; trách nhiệm của cơ quan quản lý
nhà nước về tôn giáo, Mặt trận Tổ quốc các cấp trong công tác tôn giáo.
16
- Ban Tôn giáo Chính phủ, Các văn bản pháp luật quan hệ đến tín
ngưỡng, tôn giáo, Hà Nội, 2001, 622 trang; Văn bản pháp luật Việt Nam về
tín ngưỡng, tôn giáo, Hà Nội, 2013, 120 trang; Nội dung cuốn sách được trình
bày ngắn gọn, dễ hiểu, đề cập đến những vấn đề cơ bản trong chính sách về
tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
+ Luận án Tiến sĩ, Pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam, những vấn đề lý
luận và thực tiễn, của Đỗ Thị Kim Định, Học viện Khoa học Xã hội, năm
2015. Luận án đã nghiên cứu nội dung pháp luật về tôn giáo, làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về tôn giáo, đánh giá đúng
thực trạng pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam, những yếu tố tác động đến luật
pháp tôn giáo ở Việt Nam, nêu được sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về
tôn giáo ở Việt Nam.
+ Luận án Tiến sĩ, Tôn giáo và luật pháp về tôn giáo trong thời kỳ đổi
mới ở Việt Nam, của Nguyễn Thị Vân Hà, Học viện Khoa học Xã hội, năm
2014. Luận án đã nghiên cứu tiến trình xây dựng, hoàn thiện luật pháp về tôn
giáo ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận chung về tôn giáo và luật pháp, những
yếu tố tác động đến luật pháp tôn giáo ở Việt Nam và hướng tới việc đưa ra
một khung lý thuyết về luật pháp về tôn giáo xung quanh yêu cầu xây dựng
nhà nước pháp quyền, nêu được những thành tựu và hạn chế, chỉ ra được
nguyên nhân trong công tác xây dựng và hoàn thiện luật pháp về tôn giáo ở
nước ta hiện nay. Luận án giúp tác giả thấy được nhận thức về tôn giáo và
công tác tôn giáo, cách hành xử của chính quyền và sự vận hành của tổ chức
tôn giáo, vai trò của nhà nước đối với tôn giáo.
- Nguyễn Khắc Huy, Tiến trình luật pháp tôn giáo ở Việt Nam từ năm
1990 đến nay, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 01/2007. Tác giả đã khái quát
quá trình phát triển của luật pháp về tôn giáo ở Việt Nam từ 1990 đến nay.
Với việc điểm lại nội dung điều chỉnh của các văn bản quy phạm pháp luật
đối với tôn giáo, tác giả đã khẳng định sự ra đời của Pháp lệnh tín ngưỡng,
17
tôn giáo (2004) ghi một dấu mốc lịch sử trên con đường hoàn thiện pháp luật
điều chỉnh lĩnh vực hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
- Tôn giáo và tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, Viện Khoa học xã
hội nhân văn quân sự thuộc Bộ quốc phòng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội,
2005, 218 trang. Sách đã nêu những thông tin khái quát, ngắn gọn và dễ hiểu
một số vấn đề cơ bản về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, sự lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo chống phá cách mạng của các thế lực thù địch và quan điểm,
chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước Việt Nam hiện nay.
- GS.TS. Đỗ Quang Hưng, Bước đầu tìm hiểu về mối quan hệ giữa Nhà
nước và Giáo hội, Viện nghiên cứu tôn giáo, Nxb Tôn giáo, 2003, 377 trang;
sách có nội dung chuyên nghiên cứu về vấn đề quan hệ giữa Nhà nước và
Giáo hội nói chung, với Giáo hội các tôn giáo ở Việt Nam nói riêng; giúp tác
giả thấy được nhiệm vụ đặt ra với giới khoa học và những người làm công tác
nghiên cứu lý luận về vấn đề này, đặc biệt là lý luận Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về tôn giáo, đúc kết những thực tiễn của nước ta, tìm hiểu
những bài học trên thế giới, góp phần cùng với Đảng và nhà nước ta xác lập
và hoàn thiện chính sách đổi mới hiện nay đối với tôn giáo, tín ngưỡng.
- Nguyễn Cao Thanh, Đôi điều phân biệt giữa tín ngưỡng và tôn giáo,
Tạp chí Công tác tôn giáo, số 01, 02/2014. Bài viết nêu nhiều định nghĩa về
tín ngưỡng, tôn giáo, giáo lý và sự thờ phụng, luật lệ, lễ nghi và cách tiếp cận
tín ngưỡng, tôn giáo cần quan tâm; giúp tác giả hiểu được nhiều định nghĩa
cũng như lời phân tích, lý giải về tín ngưỡng, tôn giáo và nhiều vấn đề cần
quan tâm về tín ngưỡng, tôn giáo trong giai đoạn hiện nay.
- Minh Định, Một số vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện Pháp lệnh
tín ngưỡng, tôn giáo, Công tác tôn giáo, 12/2008. Tác giả đã đặt ra một số vấn
đề trong quá trình thực hiện Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo nảy sinh như: một
số nội dung chưa được quy định trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị
định hướng dẫn thi hành; một số quy định trong Pháp lệnh và Nghị định
18
hướng dẫn thi hành chưa phù hợp với thực tiễn hoặc đến nay không còn phù
hợp với thực tiễn.
- Nguyễn Thanh Xuân, Một số tôn giáo ở Việt Nam (tái bản lần thứ
mười), Nxb Tôn giáo, 2012, 574 trang; giúp tác giả hiểu được lịch sử ra đời,
phát triển, giáo lý, luật lệ, lễ nghi, cách thức hành đạo, cơ cấu tổ chức giáo hội
của đạo Phật, đạo Công Giáo, đạo Tin Lành, đạo Hồi, đạo Cao Đài, Phật Giáo
Hòa Hảo và một số tổ chức quốc tế của đạo Phật, đạo Tin Lành, một số dòng
tu, một số trào lưu thần học và các cộng đồng chung của đạo Công Giáo, một
số số liệu cơ bản về tôn giáo trên thế giới và ở Việt Nam.
- ThS. Nguyễn Ngọc Huấn, ThS. Nguyễn Văn Hòa, ThS. Cát Ngọc
Trình, Tìm hiểu pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo và thanh tra chuyên ngành
trong lĩnh vực tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội 2016, 167 trang; cuốn sách
nêu bật được tình hình các tôn giáo hiện nay, tập hợp những câu hỏi vướng
mắc từ các địa phương sau đó biên soạn và trả lời được những câu hỏi theo
dạng hỏi đáp, nêu bật được các văn bản quy phạm pháp luật về tín ngưỡng,
tôn giáo và thanh tra trong lĩnh vực tôn giáo.
- Văn phòng Quốc hội, Thực tiễn và thách thức trong chuyển hóa pháp
luật tại Việt Nam: chia sẻ kinh nghiệm của Liên minh Châu Âu, Nxb Hồng
Đức, Hà Nội 2016, 268 trang. Sách đã nêu bật được kinh nghiệm và thực thi
pháp luật của quốc gia khác phục vụ công tác xây dựng và thực thi pháp luật
của quốc gia mình; sự trao đổi, nhìn nhận, góp phần chia sẻ những kinh
nghiệm pháp luật quốc tế phục vụ cho cải cách pháp luật ở Việt Nam.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Quyền con người bắt nguồn từ bản chất con người và lịch sử xã hội,
Quyền con người là một giá trị cao quý, là kết tinh của nền văn minh nhân
loại; cùng với sự ra đời của Liên hợp quốc, quyền con người đã trở thành một
vấn đề có tính toàn cầu, có tác động ngày càng sâu sắc trong đời sống chính
trị thế giới và ảnh hưởng trực tiếp đến các quốc gia. Những thành tựu pháp lý
về quyền con người hiện nay là sản phẩm của cuộc đấu tranh lâu dài, khó
19
khăn, phức tạp của loài người tiến bộ, chống bất công, áp bức, xây dựng cuộc
sống tự do, bình đẳng. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những
quyền cơ bản của con người thuộc nhóm quyền dân sự và chính trị, được ghi
nhận trong pháp luật quốc tế về quyền con người cũng như trong pháp luật
của nhiều quốc gia trên thế giới.
+ Các tôn giáo và tín ngưỡng ở Mỹ của tác giả Catherine L.Albanese,
do Việt Thư dịch, Nxb Thời Đại, 623 trang, 2012; cuốn sách gồm 2 phần, đề
cập đến tính đa nguyên của tôn giáo, tính thống nhất của tôn giáo ở Hoa Kỳ.
Cuốn sách đã nêu được lục địa Bắc Mỹ có rất nhiều tôn giáo và tín ngưỡng,
mỗi bộ lạc người Indian trên mảnh đất này trước khi người châu Âu đặt chân
đến đều có tín ngưỡng riêng… sau này, người di cư lại mang theo tôn giáo và
tín ngưỡng của mình từ Cựu thế giới đến miền đất mới. Người châu Âu mang
đến đạo Do Thái, đạo Thiên chúa La Mã và đạo Tin Lành, người châu Phi và
châu Á mang đến đạo Hồi, đạo Phật, đạo Hindu cùng nhiều tín ngưỡng khác,
góp phần làm cho các tôn giáo và tín ngưỡng mới phát triển và tô điểm thêm
bức tranh văn hóa phong phú, đa dạng ở lục địa này. Đây là công trình nghiên
cứu lịch sử tôn giáo và tín ngưỡng kết hợp với lịch sử tôn giáo nói chung.
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ là nơi có nhiều tín ngưỡng cùng tồn tại, nhiều cộng
đồng sắc tộc, nhiều đức tin, tập quán thờ phụng và giáo luật đạo đức khác
nhau. Nền văn hóa Hoa Kỳ phát triển mạnh mẽ trên những tác động qua lại
phức tạp giữa tính nhất thể và tính đa nguyên của các tôn giáo và tín ngưỡng
để tạo nên những nét độc đáo của riêng mình mà không giống bất cứ dân tộc,
đất nước nào trên thế giới.
+ Tôn giáo ở Trung Quốc, 100 câu hỏi và trả lời của tác giả Lữ Vân, do
Nguyễn Thị Bạch Tuyết dịch, Nxb Tôn giáo, 199 trang, 2003; sách nêu tín
ngưỡng, tôn giáo là vấn đề cá nhân của các công dân Trung Quốc và với việc
loại bỏ các tàn dư của “Cách mạng Văn hóa 1966-1976”, quan niệm chung
hiện nay là lợi ích cơ bản của những người theo hoặc không theo một tôn giáo
nào là thống nhất trên cả hai lĩnh vực chính trị và kinh tế. Sách đã giúp tác giả
20
thấy được một số nét cơ bản về các tôn giáo ở Trung Quốc, lịch sử và hiện
trạng, có những lời giải thích về chính sách tôn giáo của Trung Quốc, quan
điểm hiện nay về tôn giáo trong giới học thuật và nhiều vấn đề khác liên quan
tới Phật Giáo, Đạo Giáo, Hồi Giáo, Công Giáo, Tin Lành ở Trung Quốc.
+ Predicting religion của José Casanova (Dự báo tôn giáo), 2003. Tôn
giáo ở phương Tây hiện nay đang trải qua những biến đổi nhanh chóng. Cuốn
sách gồm nhiều bài viết của các chuyên gia nghiên cứu về tương lai của tôn
giáo ở thế kỷ XXI. Sự dự báo dựa trên việc phân tích các lĩnh vực tôn giáo
hiện nay từ các hình thức truyền thống Thiên Chúa giáo đến đời sống tinh
thần mới. Cuốn sách gồm 3 phần: 1. Xem xét lại học thuyết thế tục; 2. Dự
đoán Thiên Chúa giáo; 3. Dự đoán những sự lựa chọn.
+ Law and religion in contemporary society của tác giả Phillip
Goodchild, Nhà xuất bản Ashgate, Burlington, 2002. Cuốn sách giới thiệu
mối quan hệ giữa luật pháp tôn giáo trong xã hội hiện nay. Cuốn sách gồm 4
phần chính: 1. Nội dung bàn về tôn giáo và luật pháp tôn giáo ở Anh. Có sự
trung lập giữa các tôn giáo hay sự trung lập giữa tôn giáo và phi tôn giáo hay
không? Phần 2. Các tổ chức tôn giáo và nhà nước. Phần 3. Công xã hoá trong
luật pháp. Phần này bàn về quyền tự do tôn giáo của trẻ em, quy định về hoạt
động tôn giáo ở Mỹ.
+ Popular religion in sixteenth century England của tác giả Christopher
Marsh, Nhà xuất bản Macmillan, London, 1998. Cuốn sách gồm 258 trang,
miêu tả đời sống tôn giáo Anh trong suốt thời kỳ cải cách. Tác giả đã trả lời
những câu hỏi quan trọng và giải thích sự phát triển tôn giáo và nêu rõ vai trò
của người dân đối với giáo hội. Cuốn sách cũng đề cập đến các chủ đề như
việc thực hành tế lễ, các mối quan hệ với tăng lữ, lễ hội, các nhóm tôn giáo,
tôn giáo “ma thuật”, toà án giáo hội.
+ Law and Protestantisme của tác giả JR.John Witte, Nhà xuất bản
Cambridge, New York, 2002. Cuốn sách bàn về luật pháp và tôn giáo. Cuốn
sách gồm 7 phần: 1. Giới thiệu; 2. Luật thần học và luật dân sự trong thời gian
21
trước cải tổ; 3. Pháp luật yêu kẻ thù của mình; 4. Một pháo đài hung mạnh; 5.
Có lẽ các luật gia là những tín đồ Thiên Chúa giáo tốt hơn cả; Từ sách phúc
âm đến luật pháp; 6. Bà mẹ của mọi luật pháp trên trái đất; 7. Trường đạo dân
sự. Những suy nghĩ kết luận.
Từ năm 2006, Viện Nghiên cứu Tôn giáo đã kết hợp với Viện Liên kết
toàn cầu (IGE) của Mỹ tổ chức nhiều cuộc hội thảo tại Hà Nội, Paris, Quảng
Châu bàn về đời sống tôn giáo ở các nước hữu quan, về mối quan hệ giữa nhà
nước và tôn giáo ở khu vực Đông Nam Á, Pháp, Mỹ, Trung Quốc. Các cuộc
hội thảo đã hội tụ được các học giả Việt Nam, châu Âu, Mỹ, Trung Quốc và
các học giả trong khu vực Đông Nam Á. Trong đó có một số bài viết về luật
pháp của các nước về tôn giáo cũng như kinh nghiệm giải quyết vấn đề tôn
giáo như: Tác giả Yushang P.Yao, Luật tôn giáo và sự phát triển của nó ở
Đài Loan; Rik Torfs, Mối quan hệ giữa tôn giáo và nhà nước ở châu Âu
Patrice Rolland, Chính sách phân lập, một hình thức điều chỉnh về mặt pháp
luật sự đa nguyên tôn giáo; Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hiệp Quốc:
Tiêu chuẩn quốc tế về tự do tôn giáo và quy định pháp luật của tác giả Brett
G.Scharffs; Các tính năng tiêu biểu của hiệu lực pháp luật tôn giáo: Một
nhận thức so sánh của W. Cole Durham, Jr, Giáo sư Đại học Luật Susa
Young Gates; Liu Peng, Các hướng quan hệ Giáo hội - Nhà nước ở Trung
Quốc: Các vấn đề về luật pháp tôn giáo; GS. Reginal Reimer, Những đóng
góp của các Hội thánh Cơ Đốc giáo và các tổ chức tôn giáo phi chính phủ
trong cộng đồng Canada - sự ủng hộ của luật pháp và chính phủ đối với các
tổ chức này; Alain Garay, Pháp trị và sự phát triển của tự do tôn giáo.
1.2. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.2.1. Những ưu điểm, những kết quả nghiên cứu mà Luận án sẽ
tiếp tục kế thừa, phát triển
Từ các công trình nghiên cứu đến tôn giáo, chính sách, pháp luật về tôn
giáo và nhận định khái quát về nội dung của các công trình nghiên cứu này,
có thể thấy một số kết quả nổi bật như sau:
22
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu đã khái quát được đặc điểm, tình
hình tôn giáo ở Việt Nam cũng như sự biến đổi của các tôn giáo ở Việt Nam
dưới sự tác động của bối cảnh quốc tế và khu vực. Theo các tác giả, đời sống
tôn giáo ở Việt Nam hiện nay có những biểu hiện tiêu biểu đáng lưu ý như: xu
hướng gia tăng số lượng tín đồ các tôn giáo và sự phân bố lại bản đồ tôn giáo;
sự đa dạng trong hệ thống tôn giáo; hiện tượng cải đạo diễn ra mạnh mẽ, nhất
là vùng dân tộc thiểu số; việc tăng cường xây dựng hệ thống tổ chức hành
chính đạo, kiện toàn đội ngũ nhân sự của các tôn giáo; xu hướng các tôn giáo
ngày càng gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, hoà nhập sâu rộng vào đời sống
kinh tế - xã hội đất nước; văn hoá tôn giáo ngày càng hội nhập với văn hoá
dân tộc, góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; các thế lực thù địch tăng cường lợi dụng vấn đề tôn giáo và dân tộc
để chống phá cách mạng Việt Nam,v.v…
Thứ hai, các công trình nghiên cứu đã cho thấy sự cần thiết quản lý nhà
nước bằng pháp luật đối với lĩnh vực tôn giáo. Quản lý nhà nước bằng pháp
luật nhằm định hướng, tạo thuận lợi cho các tổ chức, tín đồ tôn giáo hoạt động
theo đúng tôn chỉ, mục đích, hiến chương, điều lệ của các tôn giáo phù hợp
với mục tiêu, lợi ích của nhà nước; không lợi dụng hoạt động tôn giáo xâm
hại đến lợi ích nhà nước, trật tự chung xã hội và lợi ích hợp pháp của công
dân; phát huy giá trị tích cực của tôn giáo trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu đã khái quát quá trình hình thành,
phát triển của chính sách tôn giáo ở Việt Nam, nhất là phương diện quản lý
nhà nước cũng được làm rõ: từ việc sớm khẳng định mô hình nhà nước thế
tục về tôn giáo, các nguyên tắc cơ bản khi giải quyết vấn đề tôn giáo, cho đến
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam. Đồng
thời, vạch ra những nét chủ yếu trong việc thực thi chính sách ấy ở thực tiễn
đời sống các tôn giáo trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ cũng như
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
23
Thứ tư, các công trình nghiên cứu đã đưa ra cái nhìn khái quát về sự ra
đời và địa vị pháp lý của “luật pháp về tôn giáo” ở châu Âu; các mối quan hệ
giữa nhà nước với Giáo hội; mối quan hệ giữa luật pháp tôn giáo các nước
trên thế giới với luật pháp về tôn giáo ở Việt Nam; đã đưa ra những nguyên
tắc trong việc xây dựng luật pháp tôn giáo và có cái nhìn đối sánh với pháp
luật về tôn giáo ở Việt Nam.
Thứ năm, các công trình nghiên cứu đã khái quát sự hình thành và phát
triển của pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam qua từng giai đoạn lịch sử và được
đánh dấu bằng sự ra đời của các văn bản quy phạm pháp luật.
1.2.2. Về những vấn đề còn chưa được giải quyết thấu đáo hoặc cần
phải tiếp tục nghiên cứu
Nghiên cứu quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, pháp luật về tôn giáo
trong những năm gần đây đã được các nhà nghiên cứu, các cơ sở nghiên cứu
khoa học và các cơ quan quản lý quan tâm. Tuy nhiên, trong các công trình
nghiên cứu được công bố mới chỉ dừng lại ở việc phân tích khái quát sự đổi
mới về đường lối và chính sách tôn giáo của Đảng và nhà nước ta, còn việc
nghiên cứu trên phương diện lý luận; đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về
tôn giáo chưa được chú trọng. Việc nghiên cứu pháp luật về tôn giáo chủ yếu
chỉ khái quát và điểm lại những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan
hệ xã hội trong lĩnh vực tôn giáo đã được ban hành từ năm 1945 đến nay. Đã
có một vài công trình là luận án tiến sĩ và thạc sĩ nghiên cứu về việc hoàn
thiện pháp luật về tôn giáo ở nước ta và có một vài bài nghiên cứu viết trên
tạp chí có nói về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, nhưng cho đến nay, thực
tiễn quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo cũng như pháp luật về tôn giáo có nhiều
thay đổi, vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt Nam hiện nay là thực sự
cần thiết. Luận án sẽ tiếp tục tập trung vào khoảng nghiên cứu còn trống sau:
Về lý luận: Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền
cơ bản của con người, tuy nhiên việc tiếp cận quyền con người trong đó có
24
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo như là một yêu cầu của quá trình hoàn thiện
pháp luật về tôn giáo chưa có công trình nào đề cập một cách cụ thể. Từ cách
tiếp cận dựa trên quyền, luận án phân tích rõ pháp luật về tôn giáo là công cụ
để bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người và là môi trường
pháp lý thuận lợi để nhà nước đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
- Quan niệm pháp luật về tôn giáo chưa thống nhất, lập luận khoa học
cho các quan niệm trên được đưa ra còn sơ sài; vì vậy, nhiệm vụ đặt ra cho
luận án là: trên cơ sở phân tích một cách khoa học các quan niệm trước đây về
pháp luật tôn giáo để đưa ra quan niệm của mình và đặc biệt nhìn nhận vị trí
của pháp luật về tôn giáo trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Phân tích vai trò
cũng như đặc điểm và chỉ rõ nội dung điều chỉnh của pháp luật về tôn giáo.
- Về đặc điểm của pháp luật về tôn giáo: với việc kế thừa các nghiên
cứu đã được thực hiện, luận án cần triển khai thêm một bước để làm rõ những
đặc điểm của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, bổ sung những đặc điểm mới
chưa được đề cập trong các công trình nghiên cứu trước. Một vấn đề khác
cũng đã được nhà nghiên cứu đề cập nhưng mới chỉ ở mức độ khái quát mà
chưa làm rõ được pháp luật về tôn giáo không phải điều chỉnh tất cả các quan
hệ xã hội trong hoạt động tôn giáo, đối với hoạt động tôn giáo thuần túy, pháp
luật không can thiệp và các tín đồ, chức việc, chức sắc các tôn giáo thực hiện
theo Hiến chương, Đạo quy, giáo lý, giáo luật của mình. Vì vậy luận án cần
phải làm sáng tỏ vấn đề này ở mức cần thiết.
- Mặc dù đã có những công trình nghiên cứu về quyền con người,
quyền công dân, nghiên cứu về pháp luật tôn giáo, một công cụ để đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người, nhưng phân tích và làm rõ
thực trạng đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và đưa ra những giải
pháp để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thì chưa được đề cập. Vì
vậy, luận án đặt ra nhiệm vụ cần phải nghiên cứu các yếu tố tác động đến việc
đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và thực trạng thực hiện quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo; trên cơ sở xác định các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình
25
điều chỉnh, đảm bảo và thực hiện pháp luật về tôn giáo hiện nay, luận án đưa
ra những giải pháp đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật
Việt Nam hiện nay.
Về thực trạng: Quá trình xây dựng và phát triển pháp luật về tôn giáo
qua các giai đoạn lịch sử của nhà nước ta, qua các bản Hiến pháp cũng sẽ
được luận án xem xét cho việc nghiên cứu thực trạng các quy định pháp luật
hiện hành được toàn diện.
Các nghiên cứu được thực hiện đã đề cập một cách khái quát về các
quy định của pháp luật hiện hành về tôn giáo cũng như thực trạng quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo. Tuy nhiên việc phân tích nguyên nhân của những thành
tựu và hạn chế của các quy định pháp luật cũng như việc thực hiện pháp luật
về tôn giáo chưa được nhìn nhận một cách có hệ thống. Vì vậy, luận án sẽ tiếp
tục tìm hiểu thực trạng pháp luật về tôn giáo cũng như thực tiễn thực hiện
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và phân tích rõ nguyên nhân cũng như
những thành tựu và hạn chế để làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp đảm
bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Về giải pháp: Trên cơ sở lý luận cũng như thực trạng pháp luật về tôn
giáo và thực trạng thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, luận án có
nhiệm vụ đưa ra các giải pháp đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo
pháp luật Việt Nam hiện nay.
1.3. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ HƯỚNG TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.3.1. Cơ sở lý luận
Pháp luật về tôn giáo và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề mới
và phức tạp, chưa có sự nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này. Vì vậy, để có
nhận thức đúng đắn về vấn đề này, luận án sử dụng cơ sở lý thuyết như sau:
- Các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất, sự phát sinh
và phát triển của tôn giáo; thái độ của đảng mác xít với các tôn giáo và quan
điểm về nhà nước và pháp luật; một số lý thuyết trong nghiên cứu tôn giáo và
luật pháp được sử dụng như lý thuyết xã hội học tôn giáo, luật học so sánh.
26
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo, tín
ngưỡng, đặc biệt là những dấu ấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc xây
dựng pháp luật về tôn giáo.
- Các quan điểm của Đảng, Nhà nước trong cách nhìn nhận, phân tích
các vấn đề tôn giáo, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
của công dân, sự hình thành và phát triển của pháp luật về quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam từ 1945 đến nay.
- Dựa vào lý thuyết xã hội học thực hiện pháp luật để phân tích thực
tiễn thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; luận án đặc biệt coi trọng các
phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh pháp luật, dự
báo để chọn lọc tri thức khoa học cũng như kinh nghiệm thực tiễn ở trong và
ngoài nước; thông qua các điều kiện, hoạt động thực hiện pháp luật như các
điều kiện chung, chuyên môn và cá nhân nhằm đánh giá quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và pháp luật về tôn giáo, thực trạng những thành tựu và hạn
chế và chỉ ra những nguyên nhân của thành tựu và hạn chế đó để làm cơ sở
cho việc đề xuất các giải pháp đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
1.3.2. Hướng tiếp cận nghiên cứu
Trên cơ sở tập hợp, hệ thống các công trình nghiên cứu có liên quan
đến đề tài luận án đã được thu thập, luận án sẽ kế thừa có chọn lọc trên cơ sở
phân tích, đánh giá các kết quả nghiên cứu đó. Từ đó, đưa ra những quan
điểm của mình về vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu văn bản học khi tiếp cận các khái niệm,
thuật ngữ liên quan đến tôn giáo và luật pháp; phương pháp so sánh để tìm sự
tương đồng, khác biệt và sự tác động qua lại giữa luật pháp về tôn giáo của
một số quốc gia với luật pháp về tôn giáo ở Việt Nam từ đó rút ra những kinh
nghiệm cần thiết; phương pháp nghiên cứu lịch sử, đặt sự phát triển của tôn
giáo và luật pháp về tôn giáo trong dòng chảy của lịch sử, đồng thời nhìn
nhận những biến cố lịch sử xã hội - tôn giáo như là nguyên nhân căn bản tác
động tới tiến trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tôn giáo; phương pháp
27
tổng hợp, thống kê giúp tác giả nắm bắt những giữ liệu về tình hình tôn giáo,
thực trạng thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, các văn bản quy phạm
pháp luật điều chỉnh trực tiếp và có liên quan đến tôn giáo ở Việt Nam.
- Cùng với việc nghiên cứu trực tiếp các quy định pháp luật hiện hành
về tôn giáo, các bản Hiến pháp của nước ta qua các thời kỳ, luận án sẽ xem
xét quá trình thực hiện những quy định này trong thực tiễn để từ đó có những
đánh giá toàn diện về các quy định của pháp luật, làm tiền đề cho các giải
pháp cụ thể trong đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
1.3.3. Khung phân tích để làm rõ lý thuyết
Với mục đích làm sâu sắc thêm pháp luật về tôn giáo cả về phương
diện lý luận và thực tiễn, tác giả cần làm rõ vai trò cũng như những đặc điểm
và nội dung của pháp luật về tôn giáo. Từ đó, làm cơ sở để soi chiếu thực
trạng và thực tiễn thực hiện pháp luật về tôn giáo, những thành tựu, hạn chế
và chỉ ra nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế đó. Để giải quyết được
vấn đề này, tác giả đặt ra giả thuyết như sau:
Hệ thống pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay đã khá hoàn thiện
cơ bản đáp ứng được nhu cầu của cuộc sống, song trước sự biến đổi của xã
hội, của đời sống tôn giáo đã bộc lộ một số điểm hạn chế, bất cập nhất định
do một số quy định thiếu cụ thể, không còn phù hợp với thực tiễn và một số
nội dung mới phát sinh trong hoạt động tôn giáo nhưng chưa có quy định điều
chỉnh; ngoài ra, do nhận thức và cơ chế phối hợp giữa các ngành trong quản
lý nhà nước về tôn giáo nên việc thực hiện pháp luật tôn giáo, đảm bảo quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo vẫn còn những hạn chế cần khắc phục.
Từ đó, tác giả nghiên cứu và giải đáp có hệ thống các câu hỏi như sau:
1. Tín ngưỡng, tôn giáo là gì? Giới hạn và nội dung quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo? Pháp luật về tôn giáo? Vai trò, đặc điểm và nội dung quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo?
28
2. Thực trạng và thực tiễn thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở
Việt Nam từ khi ban hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (2004) cho đến nay;
quy định của pháp luật về tôn giáo? Thực hiện pháp luật về tôn giáo?
3. Tính tất yếu hoàn thiện pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam? Các giải
pháp đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt Nam hiện
nay cho mọi người và tạo môi trường pháp lý thuận lợi để thực hiện quản lý
nhà nước về hoạt động tôn giáo.
Tiểu kết chương 1
Tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo và pháp luật về tôn giáo là một vấn đề mới và đã được quan tâm nghiên
cứu. Tuy nhiên việc tiếp cận quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo như là một yêu
cầu của quá trình hoàn thiện pháp luật về tôn giáo chưa có công trình nào đề
cập một cách cụ thể; các nghiên cứu được thực hiện đã đề cập khái quát về
các quy định của pháp luật hiện hành về tôn giáo; việc phân tích nguyên nhân
của những thành tựu và hạn chế của các quy định pháp luật cũng như việc
thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, pháp luật về tôn giáo chưa được
nhìn nhận một cách có hệ thống. Vì vậy, việc đánh giá thực trạng cũng như
thực tiễn thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo có nhiều điểm không còn
cập nhật với thực tế. Nghiên cứu quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo như một cơ
sở nền tảng để xây dựng và hoàn thiện pháp luật chưa được đề cập, đặc điểm,
nội dung của pháp luật về tôn giáo đã được đề cập nhưng chưa thật rõ.
Từ những nội dung đã được đề cập hay còn bỏ trống kể trên, luận án sẽ
tập trung xem xét, luận giải và làm sáng tỏ cả về lý luận và thực tiễn trong
những chương tiếp theo. Để giải quyết các vấn đề đó, ngoài các phương pháp
nghiên cứu và tiếp cận truyền thống, luận án còn sử dụng cách tiếp cận nghiên
cứu liên ngành.
29
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG,
TÔN GIÁO
2.1.1. Khái niệm
2.1.1.1. Khái niệm tín ngưỡng
Vấn đề tín ngưỡng, hiện nay giới khoa học xã hội còn đang có nhiều ý
kiến khác nhau khi nói tới khái niệm tín ngưỡng, bởi chúng có mối liên hệ và
sự chuyển hóa trong những bối cảnh nhất định. Từ cổ xưa, khi con người xuất
hiện thì cuộc sống của họ luôn phải đấu tranh để sinh tồn và phát triển; họ
phải đấu tranh với thiên nhiên (thời tiết, khí hậu, thiên tai, thú dữ…), đấu
tranh giữa cá thể với cá thể, với cộng đồng người trong một xã hội đầy trắc
trở… Những hiện tượng thiên nhiên (như sấm chớp, bão tố, nước, lửa…),
những hiện tượng xã hội (người giàu, kẻ nghèo, người tốt, kẻ xấu, người làm
vua, kẻ ăn mày,…) họ không thể giải thích được. Từ đó con người đã suy
nghĩ những hiện tượng thiên nhiên, bản thân con người, xã hội là do có những
“đấng siêu nhiên” tạo ra, mình phải cầu, cúng những “đấng siêu nhiên” tác
động cho đời sống con người được tốt hơn. Như vậy niềm tin vào một đấng
siêu nhiên đã hình thành ngày một lan rộng trong hầu hết cộng đồng người
trên thế giới; đó chính là tín ngưỡng.
Theo Từ điển tiếng Việt phổ thông, tín ngưỡng nghĩa là lòng tin và sự
ngưỡng mộ một tôn giáo hay một chủ nghĩa nào đó. Nhìn chung, đa số các
nhà nghiên cứu đều cho rằng: tín ngưỡng có hai nghĩa. Nghĩa rộng, tín
ngưỡng phản ánh niềm tin và sự ngưỡng mộ, sùng kính của con người về một
chủ thuyết, một lực lượng nào đó. Tín ngưỡng tôn giáo chỉ là một dạng của
tín ngưỡng nói chung. Theo nghĩa hẹp, tín ngưỡng là đức tin, niềm tin vào lực
30
lượng siêu nhiên, là một bộ phận cấu thành chủ yếu của tôn giáo. Cơ sở của
tín ngưỡng là niềm tin, sự ngưỡng vọng của con người vào những cái “siêu
nhiên” (hay nói gọn lại là “cái thiêng”) - cái đối lập với cái “trần tục”, cái hiện
hữu mà con người có thể sờ mó, quan sát được.
Có người đồng nhất tín ngưỡng với tôn giáo, có người lại coi tín
ngưỡng nằm dưới tôn giáo trong bậc thang phát triển; tín ngưỡng mang tính
dân gian, gắn với sinh hoạt văn hóa dân gian; trong tín ngưỡng có sự hòa
nhập giữa thế giới thần linh và con người, nơi thờ và nghi lễ còn phân tán,
không có những quy định chặt chẽ; tín ngưỡng thường không có tổ chức hoặc
có tổ chức ở dạng sơ khai nhất; tín ngưỡng cũng không có hệ thống giáo lý
mà chỉ có các vật được tôn thờ bao gồm: hiện tượng thiên nhiên (mưa bão,
sấm chớp, lũ lụt,…), vật thể (nước, lửa, bến nước, núi non, sông biển,…), con
người (người đã mất, người có công với đất nước, với dân, siêu nhân,…),
nhân vật siêu thực (thần thánh, tiên, thượng đế,…); khi nói đến tín ngưỡng
thường nói đến tín ngưỡng của một dân tộc hay một cộng đồng người.
Cũng bàn về khái niệm tín ngưỡng, PGS.TS Nguyễn Đức Lữ cho rằng
“Tín ngưỡng chỉ là niềm tin, đức tin và sự ngưỡng mộ, ngưỡng vọng của con
người vào cái gì đó mà người ta cho là siêu phàm, là cao cả và đẹp đẽ” [9,
tr.30].
Theo tác giả Phương Anh thì “Tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng
vọng về một lực lượng tiên thiên, tuyệt đối hay thần thánh nào đó. Lực lượng
đó có ảnh hưởng đến hành vi của người tin theo, hoặc có thể chi phối đến
hành vi nhưng ở một giới hạn nhất định” [2, tr.15].
Từ những nhận định như trên, có thể định nghĩa khái niệm “tín
ngưỡng” một cách khái quát như sau: Tín ngưỡng là niềm tin, là sự ngưỡng
mộ vào các đấng siêu nhiên hay những người được cho là thần thánh ở thế
giới siêu thực, có sức mạnh tác động vào đời sống hiện tại của con người nên
được tôn thờ.
2.1.1.2. Khái niệm tôn giáo
31
Theo từ điển tiếng việt (Viện ngôn ngữ - 1996): Tôn giáo là hình thái ý
thức xã hội gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và sùng những lực lượng
siêu nhiên cho rằng những lực lượng siêu nhiên quyết định số phận con
người, con người phải phục tùng và tôn thờ. Tôn giáo nảy sinh rất sớm, từ
trong xã hội nguyên thủy. Hệ thống những quan niệm tín ngưỡng hay những
vị thần linh nào đó và những hình thức lễ nghi thể hiện sự sùng bái nào đó.
Theo từ điển Tôn giáo (2001 - Marguerite Mariethiollier): Tôn giáo bao
hàm một mặt, sự tìm kiếm sự thật về nguồn gốc của thế giới và của con người
và những quan hệ của nó với thần thánh. Mặt khác, một tập hợp những tín
ngưỡng, một nhu cầu thương yêu và xúc cảm, một quan hệ hài hòa giữa vũ trụ
vi mô và vũ trụ vĩ mô, nó là sự thể hiện của cái thiêng và sự tổ chức những
nghi thức cá nhân và xã hội.
Nhà triết học duy vật siêu hình cổ Hi Lạp Democrite (460BC-370BC)
đã xem tôn giáo phát sinh từ niềm tin và sự sợ hãi của con người, ông viết:
“Con người thường rơi vào hoàn cảnh khó khăn, họ khó có thể khắc phục
được, họ dao động giữa niềm tin, hy vọng và sự sợ hãi. Con người cần có sự
giúp đỡ. Còn theo nhà triết học Hà Lan Baruch Spinoza (1632-1677) thì tiếp
cận tôn giáo ở khía cạnh tâm lý con người, ông viết: “Các điều kiện sống thực
tế đã hình thành trạng thái tâm lý nhất định. Khi con người lâm vào hoàn cảnh
khó khăn, bế tắc, không tìm được cách giải quyết thì họ tin vào hiện tượng
thần thánh cứu giúp họ”. Còn nhà triết học duy vật người Anh Bettrand Rusell
(1872-1970) cho rằng tôn giáo hình thành bởi ba nỗi sợ hãi của con người: sợ
thiên nhiên, sợ con người với nhau và sợ chính bản thân mình. Nhà triết học
duy tâm biện chứng nổi tiếng Hegel người Đức Geogre Wilhelm Friedrich
Hegel (1770-1831) đã dựa trên suy luận từ tôn giáo để hình thành “tư tưởng
triết học Hegel” ông cho rằng Thượng Đế là sự thể hiện cao nhất của lý tính
hay nói cách khác Thượng Đế chính là tinh thần tuyệt đối.
Với cách nhìn tôn giáo từ góc độ tư tưởng, triết học của các nhà kinh
điển Mác - Lênin. Các định nghĩa “Tôn giáo là tiếng thờ dài của chúng sinh bị
32
áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh
thần của những trật tự không có tinh thần” [134, tr.570]. Ph. Ăng-ghen cho
rằng: “tất cả các tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào đầu óc của
con người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hằng ngày
của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng trần thế đã mang hình
thức những lực lượng siêu trần thế” [135, tr.437].
Gần đây một số nhà nghiên cứu tôn giáo Việt Nam cũng đưa ra những
lý giải hoặc chia sẻ quan điểm của mình về tín ngưỡng, tôn giáo. Từ điển
tiếng Việt, xuất bản năm 1992, đưa ra định nghĩa “Tôn giáo là hình thái ý
thức xã hội gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và sùng bái những lực
lượng siêu tự nhiên, cho rằng những lực lượng siêu tự nhiên quyết định số
phận con người, con người phải phục tùng và tôn thờ”. Giáo sư Đặng Nghiêm
Vạn trong sách Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt Nam, xuất
bản năm 1998 cho rằng: “Tôn giáo là thế giới siêu nhiên vô hình được chấp
nhận một cách trực giác và tác động qua lại hư ảo giữa con người và thế giới
đó nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế, cũng như ở thế giới bên kia trong
những hoàn cảnh lịch sử, địa lý khác nhau, của từng cộng đồng tôn giáo hay
xã hội khác nhau” [109, tr.42]. Năm 1997, trong một nghiên cứu, Phó Giáo sư
Nguyễn Văn Kiệm cho rằng là một tôn giáo phải hội đủ các điều kiện như:
“Một niềm tin vào đấng siêu nhiên có vai trò quyết định đối với vận mệnh của
con người trong cuộc sống hiện tại cũng như cuộc sống bên kia; một hệ thống
lễ nghi đôi khi đơn giản, đôi khi phức tạp, cầu kỳ nhằm giúp tín đồ thường
xuyên gắn bó với niềm tin; một tổ chức nhân sự ít nhiều quy mô về hệ thống
điều hành việc hành đạo của tín đồ; hệ thống luân lý đạo đức cho người tu
hành, đây là thành tố được coi là quan trọng nhất” [2, tr.11].
Trong các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội trong lĩnh vực
tôn giáo ở nước ta chưa có bất cứ một văn bản nào giải thích khái niệm, kể cả
trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất
điều chỉnh trực tiếp lĩnh vực tôn giáo, phần giải thích từ ngữ, khái niệm tôn
33
giáo vẫn bị bỏ ngỏ; do việc giải thích khái niệm tôn giáo khá phức tạp, thậm
chí khó có thể thống nhất, nhưng để có một khái niệm làm công cụ cho việc
nghiên cứu quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt Nam hiện
nay, chúng tôi sử dụng khái niệm tôn giáo theo nghĩa: “Tôn giáo là tín
ngưỡng của những người cùng chung một tổ chức, có hệ thống giáo lý, giáo
luật, lễ nghi và được Nhà nước công nhận”.
2.1.1.3. Khái niệm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Tự do tôn giáo, một giá trị tư tưởng của loài người, được hình thành ở
Châu Âu với các cuộc cách mạng tư sản thế kỷ XVII - XVIII. Những nhà tư
tưởng như John Locke (1632-1645), J.J.Rousseau (1712-1778) đã góp phần
tạo ra lý thuyết về một nhà nước chỉ căn cứ vào nhu cầu và đòi hỏi của con
người vào các “khế ước xã hội” mà thôi, chứ không còn tựa vào những
nguyên tắc tôn giáo nữa [75, tr.20]; đã đặt ra nền móng cho quyền tự do tôn
giáo khi cho rằng, tôn giáo là vấn đề của cá nhân hơn là của xã hội và vai trò
của Nhà nước không phải là khuyến khích tôn giáo mà trái lại, là bảo vệ
quyền của mỗi cá nhân sở hữu niềm tin của họ.
Trong tiến trình vận động của lịch sử, quan niệm về tự do tôn giáo dần
trở lên hoàn thiện hơn: Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 đề cập đến
tự do “tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [125, tr. 96], song chưa nói
cụ thể về tự do tôn giáo; sự đóng góp của Đại cách mạng Pháp năm 1789 và
cách mạng tư sản Châu Âu đã có vai trò rất lớn trong việc giải quyết mối quan
hệ giữa nhà nước và giáo hội; cuộc cách mạng ấy đã tạo ra một quyền lực
bằng chính chủ thể con người. Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền 1789
của Pháp, tại điều 1 có quy định “mọi người sinh ra và sống tự do và bình
đẳng về các quyền” [125, tr.112] và quy định “không ai có thể gây phiền hà
do có ý kiến kể cả tín ngưỡng này khác, miễn là không có biểu hiện gây rối
trật tự công cộng do luật pháp quy định” [125, tr.114], song cũng chưa nói rõ
34
về tự do tôn giáo. Năm 1905, Luật Phân ly nổi tiếng của nước Pháp có nói
đến quyền tự do lương tâm và quyền thực hành thờ phụng (điều 1) với “hạn
chế duy nhất là phải đảm bảo lợi ích công cộng”, Luật Phân ly có đóng góp
đặc biệt quan trọng vì đã tìm ra mô hình thỏa ước đã khẳng định ba nguyên
tắc cơ bản đó là; tách giáo hội khỏi nhà nước, tách nhà trường - hệ thống giáo
dục ra khỏi giáo dục nhà thờ và coi tôn giáo là việc cá nhân của mỗi người.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong văn bản luật quốc tế về tôn giáo
được ghi nhận từ rất sớm trong các văn kiện luật nhân quyền quốc gia và quốc
tế. Ở cấp độ quốc gia, có thể kể đến Luật của Rhode Island 1647 và Hiệp ước
Hòa bình Augsburg 1555 với những quy định liên quan đến “quyền được thừa
hưởng về tự do tôn giáo”. Ở cấp độ quốc tế, quyền này được khẳng định ngay
trong văn kiện quốc tế đầu tiên về nhân quyền là Tuyên ngôn Thế giới về
nhân quyền năm 1948; Điều 18 của Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm
1948 định nghĩa quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo như sau: “Mọi người đều
có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo; quyền này bao gồm
quyền tự do thay đổi tôn giáo và niềm tin, cũng như quyền tự do biểu hiện tôn
giáo hay niềm tin của mình, một mình hay cùng chung nhau, ở nơi công cộng
hay ở nơi riêng tư, bằng thuyết giảng, tục lệ, thờ cúng và làm các nghi lễ”
[125, tr.152]. Cũng theo khoản 1 Điều 18 của Công ước quốc tế về các quyền
Dân sự và Chính trị năm 1966 nêu khái niệm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền
tự do này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình
lựa chọn, tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong tập thể
với nhiều người khác, một cách công khai hoặc thầm kín dưới hình thức thờ
cúng, cầu nguyện, thực hành và giảng đạo” [125, tr.242]. Liên minh châu Âu
(EU) hiểu tự do tín ngưỡng và tôn giáo theo điều 9 và điều 10 Hiến chương
châu Âu về quyền con người (ECHR), cũng như theo “truyền thống hiến pháp
chung cho các thành viên” (điều 6.3 EU), sẽ được chỉ rõ trong đối thoại giữa
cấp độ quốc gia và cấp độ châu Âu. Theo điều 9.1 Hiến chương châu Âu về
35
quyền con người, sau đó được tái khẳng định tại điều 10 Hiến chương châu
Âu về nhân quyền “mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn
giáo; quyền này bao gồm cả tự do thay đổi tôn giáo hoặc tín ngưỡng, và tự do
bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những
người khác, công khai hoặc kín đáo, dưới các hình thức như cầu nguyện,
truyền giảng, thực hành và thực hiện nghi lễ tôn giáo”; theo điều 10, Hiến
chương châu Âu về các quyền cơ bản, “quyền tự do lương tâm được công
nhận, phù hợp với pháp luật quốc gia điều chỉnh việc thực hiện quyền này”;
Liên minh châu Âu hiểu tự do tín ngưỡng, tôn giáo một cách rộng rãi như vậy
để bao gồm đa số hiện tại của các định nghĩa trong các quốc gia. Ví dụ điều
19 của Hiến pháp Bỉ năm 1970, căn cứ vào Hiến pháp năm 1831, đảm bảo
rằng “tự do tôn giáo, thực hành công khai và tự do thể hiện ý kiến của một
người trên tất cả các vấn đề được đảm bảo, nhưng hành vi phạm tội khi tự do
này được sử dụng có thể bị trừng phạt”, trong khi điều 20 quy định rằng
“không ai có thể có nghĩa vụ đóng góp trong bất kỳ cách nào với các hành vi
và nghi lễ của một tôn giáo hoặc thực hiện các ngày nghỉ ngơi”.
Điều 19, Hiến pháp Ý năm 1948 bảo vệ tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở
chừng mực “bất cứ ai cũng có quyền tự do tuyên xưng niềm tin tôn giáo của
họ dưới mọi hình thức, với tư cách cá nhân hoặc với những người khác, và để
thúc đẩy họ và tôn vinh nghi thức ở nơi công cộng hoặc riêng tư, miễn là
chúng không gây hại cho đạo đức xã hội”. Điều 4, Luật Cơ bản của Cộng hòa
Liên bang Đức năm 1949 quy định rằng “tự do của đức tin, của lương tâm và
tự do tín ngưỡng, tôn giáo hay ý thức hệ, sẽ bất khả xâm phạm”. Điều 16 của
Hiến pháp Tây Ban Nha năm 1978 đảm bảo rằng “tự do tư tưởng, tôn giáo và
giáo phái của các cá nhân và cộng đồng được đảm bảo không có bất kỳ giới
hạn trong các cuộc tuần hành của họ trừ khi đó là cần thiết để duy trì trật tự
công cộng được bảo vệ bởi pháp luật”. Hiến pháp của Vương quốc Anh định
nghĩa tự do tín ngưỡng, tôn giáo dựa trên sự kết hợp của điều 9 Hiến chương
châu Âu về quyền con người thông qua đạo luật Nhân quyền năm 1998.
36
Từ các định nghĩa pháp lý của tự do tín ngưỡng, tôn giáo, các cơ quan
của Liên minh châu Âu đã phát triển thêm khái niệm về tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, với các mô tả được cung cấp bởi Hội đồng Liên minh châu Âu vào năm
2009 và nhắc lại trong “hướng dẫn” năm 2013: “Tự do tư tưởng, lương tâm,
tôn giáo, hay tín ngưỡng, áp dụng đồng đều cho tất cả mọi người. Đó là tự do
cơ bản bao gồm tất cả các tôn giáo hay tín ngưỡng, bao gồm cả những gì đã
không được thực hành truyền thống trong một quốc gia cụ thể, niềm tin của
những người thuộc các tôn giáo thiểu số, cũng như niềm tin tôn giáo vô thần
và người vô thần. Tự do bao gồm quyền thực thi, thay đổi hoặc từ bỏ tôn giáo
hay tín ngưỡng của một người, của ý chí tự do của chính mình”.
Ở châu Á, Trung Quốc là một nước có nhiều điểm tương đồng với Việt
Nam cả về văn hóa, phong tục tập quán lẫn thể chế chính trị. Trong quan điểm
đối với tôn giáo, trên phương diện pháp luật, các nội dung liên quan đến tôn
giáo được thể hiện trong Hiến pháp, các luật, pháp lệnh, nghị định, quy định...
Hiến pháp hiện hành của Trung Quốc có một số điều căn bản đề cập tới vấn
đề tín ngưỡng, tôn giáo đó là các điều 30, 33, 34, 36, 38, 51. Tại Nghị định
145 ngày 31/01/1994 của Trung Quốc quy định: “Các nơi hoạt động của tôn
giáo phải đăng ký theo thể thức do Cục Tôn giáo Quốc gia ấn định. Các nơi
đó không thể do người nước ngoài điều khiển. Các nơi thờ tự không được
nhận tiền bạc của các tổ chức và cá nhân từ nước ngoài gửi về. Tiền bạc do
người nước ngoài tặng hoặc dâng cúng phải được tiếp nhận theo luật pháp
quốc gia”; tại điều 251, Luật Hình sự của Trung Quốc quy định: “Nhân viên
các cơ quan nhà nước tước đoạt trái phép quyền tự do tín ngưỡng của công
dân và xâm phạm phong tục tập quán dân tộc thiểu số, tình tiết nghiêm trọng
sẽ bị xử phạt tù giam dưới hai năm”. Điều 77, Luật Dân sự quy định: “Tài sản
hợp pháp của các đoàn thể xã hội, bao gồm cả đoàn thể tôn giáo, được pháp
luật bảo hộ”. Luật giáo dục quy định: “Nhà nước thực hành giáo dục tách rời
tôn giáo. Bất cứ tổ chức hay cá nhân nào cũng không được lợi dụng tôn giáo
để tiến hành các hoạt động cản trở chế độ giáo dục của nhà nước”.
37
Ở Nhật Bản, tại điều 20 Hiến pháp quy định: “Quyền tự do tín ngưỡng
được bảo đảm đối với mọi người. Không một tổ chức nào được hưởng những
đặc ân của chính phủ và không tổ chức tôn giáo nào được sử dụng quyền
chính trị. Không ai có thể bị cưỡng bách tham dự hội họp, lễ nghi tôn giáo.
Chính phủ và công sở không phổ biến nền giáo dục thuộc về tôn giáo và cũng
không có những hành vi tôn giáo”.
Ở Singapore, tại điều 15 của Hiến pháp quy định: “Tự do tôn giáo và
quyền phổ biến tôn giáo của mỗi cá nhân là những quyền tự do cơ bản”. Đây
có thể xem như quan điểm căn bản nhất về tôn giáo, làm nền tảng cho các
quan điểm và chính sách khác. Tại điều 16 khoản 2 và khoản 3 của Hiến pháp
có ghi: “Mỗi nhóm, tổ chức tôn giáo đều có quyền xây dựng của họ và không
có ai bị bắt buộc phải theo học hoặc tham gia vào bất cứ nghi lễ tôn giáo, thờ
tự nào khác ngoài tôn giáo mà họ theo”.
Ở Việt Nam, quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã
được Nhà nước ta ghi nhận ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên, nó thể hiện bản
chất của nhà nước ta là nhà nước dân chủ nhân dân, tôn trọng quyền công
dân, quyền con người. Tư tưởng ấy nó vẫn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong quá
trình lập pháp ở nước ta qua bốn bản Hiến pháp. Tại Điều 24 Hiến pháp năm
2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà
nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được
xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi
phạm pháp luật” [40, tr.17-18]. Điều 1, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo quy
định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo
một tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
công dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy” [10, tr. 5].
Như vậy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được hiểu là một trong
những quyền cơ bản của công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
38
được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Nội dung cơ bản của quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo thể hiện trên những mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất, Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào. Đây là đặc trưng nổi bật trong nội dung quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam, theo đó, mọi người đều có
quyền lựa chọn theo một tôn giáo cụ thể nào đó, có quyền thay đổi tôn giáo và
cũng có quyền không theo một tôn giáo nào. Công dân có quyền tự do hoạt
động tín ngưỡng như thờ cúng tổ tiên, tưởng niệm và tôn vinh những người có
công với đất nước, với dân tộc, với cộng đồng thờ cúng thần thánh, những
biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác
tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hoá và đạo đức xã hội của
dân tộc. Các tổ chức tôn giáo, tín đồ và chức sắc tôn giáo có quyền sinh hoạt
tôn giáo theo giáo lý, giáo luật và lễ nghi của tôn giáo mà mình theo. Khoản
1, Điều 9 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo quy định: “Người có tín ngưỡng, tín
đồ được tự do bày tỏ đức tin, thực hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện
và tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ hội, lễ nghi tôn giáo và học
tập giáo lý tôn giáo mà mình tin theo” [10, tr.9].
Công dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhưng không cản
trở việc thực hiện nghĩa vụ công dân đối với Tổ quốc; hoạt động tín ngưỡng,
tôn giáo phải theo đúng quy định của pháp luật; không được lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan.
Tự do tín ngưỡng, tôn giáo không có nghĩa là hoạt động của tôn giáo
nằm ngoài khuôn khổ pháp luật, đi ngược lại lợi ích của Tổ quốc, của nhân
dân; không có nghĩa là lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại cách mạng.
Tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng không có nghĩa là tự do ép buộc người khác
bỏ đạo hoặc theo đạo. Đây là một quyền cơ bản của con người, cần phải được
tôn trọng và bảo vệ không chỉ trong Hiến pháp, pháp luật mà cả trong thực
tiễn cuộc sống.
39
Thứ hai, Người có tín ngưỡng, tôn giáo và người không có tín ngưỡng,
tôn giáo phải tôn trọng lẫn nhau; không ai được xâm phạm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Không ai có quyền bắt người khác phải từ bỏ
tín ngưỡng, tôn giáo mà họ đang theo, hoặc bắt người khác phải theo một tôn
giáo nào đó. Tín đồ và chức sắc các tôn giáo không tuyên truyền lôi kéo, công
kích, chống đối lẫn nhau. Mọi người đều phải tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của người khác, tôn trọng quyền theo tôn giáo và quyền không theo một
tôn giáo nào của người khác; nghiêm cấm mọi biểu hiện lôi kéo áp đặt, vi
phạm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân. Khoản 2, Điều 9 Pháp
lệnh tín ngưỡng, tôn giáo quy định: “Trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo,
người có tín ngưỡng, tín đồ có trách nhiệm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của người khác; thực hiện
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa
vụ công dân; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo theo đúng quy định của pháp
luật” [10, tr. 9]. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, Nhà nước không
phân biệt đối xử với một tôn giáo nào. Người có tín ngưỡng, tôn giáo và
người không có tín ngưỡng tôn giáo đều bình đẳng như nhau trước pháp luật,
đều có nghĩa vụ, trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ ba, Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công
dân. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân được Nhà nước bảo đảm
bằng pháp luật. Vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân là vi
phạm pháp luật, phải bị xử lý bằng pháp luật. Lợi dụng quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước; kích
động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái với pháp luật,
chính sách của Nhà nước; chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn
giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
công dân, hoạt động mê tín dị đoan,... phải bị xử lý nghiêm minh theo quy
định của pháp luật.
40
Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo có liên quan đến các mối quan hệ xã
hội, nên quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân nằm trong khuôn khổ
pháp luật; tại Điều 8, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, một mặt, khẳng định:
“Không được phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; vi phạm quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân” [10, tr. 9]; mặt khác cũng quy định
phạm vi, giới hạn của quyền ấy: “Không được lợi dụng quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước, kích
động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái pháp luật, chính
sách của Nhà nước, chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây
rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự,
tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân;
hoạt động mê tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác”
[10, tr. 9].
2.1.2. Đặc điểm của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
Tôn giáo là một thực thể khách quan của xã hội, luôn gắn liền với đời
sống chính trị, xã hội, văn hoá của một nước, là nhu cầu tinh thần của đại bộ
phận nhân dân, như C. Mác viết: “ngay trong một nước mà giải phóng chính
trị đã hoàn thành, tôn giáo không những vẫn tồn tại mà còn biểu hiện sức sống
và sức mạnh, thì điều đó chứng tỏ rằng tồn tại của tôn giáo không mâu thuẫn
với tính chất hoàn thiện của nhà nước”. Tôn giáo do con người sáng tạo ra,
sinh ra và tồn tại với xã hội loài người. Để đáp ứng nhu cầu tôn giáo, bất cứ
một nhà nước nào, tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể, nhằm tổ chức mối quan
hệ giữa cái trần tục và cái siêu nhiên, phục vụ cho yêu cầu của chế độ, cũng
phải định ra một thái độ ứng xử đối với tôn giáo cho phù hợp với sự vận hành
của xã hội.
Chủ nghĩa xã hội lại có cùng mục đích với các tôn giáo mong ước xây
dựng một xã hội tốt đẹp, ở đó, cái Thiện thắng cái Ác, con người sống một
cuộc sống hạnh phúc, độc lập, tự do. Hồ Chí Minh, người lãnh đạo Đảng và
Nhà nước ta, đã từng viết: “Chúa Cơ đốc hy sinh để cứu loài người khỏi ách
41
nô lệ và đưa loài người về hạnh phúc, bình đẳng, bác ái, tự do... Chúng ta
kháng chiến cứu nước, thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm, cải cách ruộng
đất, làm cho người cày có ruộng, tín ngưỡng tự do. Như thế là những việc của
Chính phủ và nhân dân ta làm đều phù hợp với tinh thần Phúc Âm. Cho nên,
tôi chúc đồng bào Công Giáo làm trọn chính sách của Chính phủ, cũng là làm
trọn tinh thần của Chúa Cơ Đốc”.
V.I. Lênin cũng không hề có sự phân biệt giữa người có đạo với người
không có đạo. Vấn đề đối với quần chúng lao động là: “Sự thống nhất trong
cuộc đấu tranh cách mạng thực sự đó của giai cấp bị áp bức để sáng tạo nên
một cảnh cực lạc trên trái đất, là quan trọng hơn sự thống nhất ý kiến của
những người vô sản về cảnh cực lạc trên thiên đường”. Nên Lênin kêu gọi cần
kết nạp những người có đạo vào Đảng Dân chủ Xã hội để cùng toàn dân đấu
tranh cho mục đính xã hội chủ nghĩa: “ Chúng ta không những phải sẵn sàng
kết nạp, mà còn cố gắng thu hút vào trong Đảng Dân chủ Xã hội tất cả những
công nhân nào còn tin ở Thượng Đế. Chúng ta nhất định phản đối bất cứ một
sự xúc phạm nhỏ nào đến những tín ngưỡng tôn giáo của họ”.
Hoạt động tôn giáo chủ yếu được diễn ra dưới ba hình thức: Hoạt động
lễ nghi, thờ phụng; Các hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất, phát triển
lực lượng của tôn giáo; Xây dựng, củng cố tổ chức tôn giáo. Ngoài ra, các tổ
chức và cá nhân tôn giáo còn tham gia các hoạt động kinh tế, xã hội khác;
ngoại trừ nhóm các hoạt động lễ nghi, thờ phụng nhằm thỏa mãn nhu cầu của
tín đồ, chức sắc tôn giáo nhà nước không can thiệp, các hoạt động còn lại liên
quan đến lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội được điều chỉnh bởi nhiều
văn bản quy phạm pháp luật khác nhau.
Những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh những hoạt động tôn
giáo hoặc liên quan đến tôn giáo nêu trên đã cấu thành hệ thống chính sách,
pháp luật về hoạt động tôn giáo; chính sách, pháp luật về hoạt động tôn giáo
là một bộ phận quan trọng trong chính sách pháp luật điều chỉnh những quan
42
hệ phát sinh giữa nhà nước với giáo hội và cá nhân tín đồ, chức sắc, nhà tu
hành trong hoạt động tôn giáo Việt Nam.
Hoạt động tôn giáo là một hoạt động có tính đặc thù, những quy định
cấm đoán, bắt buộc cho phép đối với hoạt động tôn giáo phải đảm bảo yêu
cầu vừa không can thiệp vào nội bộ và những hoạt động thuần túy tôn giáo,
vừa phải đảm bảo được cơ sở pháp lý nhằm ngăn chặn, phòng ngừa có hiệu
quả các hoạt động tôn giáo xâm phạm đến lợi ích của nhà nước và nhân dân.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo phản ánh bản chất của chế độ chính
trị - xã hội và trình độ phát triển của xã hội, thường xuyên biến đổi, phát triển
về nội dung và hình thức cùng với sự biến đổi và phát triển không ngừng của
chính trị - xã hội chủ nghĩa, chế độ nhân dân lao động làm chủ bản thân mình
và của xã hội trong xu thế hội nhập và đổi mới của đất nước ta và có một số
đặc điểm về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam như sau:
Một là, nội dung điều chỉnh của pháp luật về tôn giáo liên quan đến
những quyền tự do căn bản của con người như tự do truyền đạo, tự do thể
hiện niềm tin tôn giáo, liên quan đến các vấn đề chính trị, kinh tế - xã hội và
an ninh, trật tự; vì vậy trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tôn
giáo, phải xác định rành mạnh, cụ thể chức năng, thẩm quyền của các cấp, các
ngành trong nhiệm vụ quản lý các hoạt động tôn giáo.
Xét trên bình diện lý luận chung về nhà nước và pháp luật thì pháp luật
về tôn giáo cũng cần phải có những chế định, quy phạm đầy đủ và toàn diện
để điều chỉnh, phản ánh toàn bộ các hoạt động, các mối quan hệ xã hội có liên
quan đến lĩnh vực tôn giáo kể cả những vấn đề phức tạp mới nảy sinh trong
hoạt động tôn giáo của các tôn giáo ở nước ta và những tác động mới của các
tôn giáo từ nước ngoài vào Việt Nam những năm gần đây. Pháp luật thực định
của Việt Nam hiện nay phân chia các ngành luật theo từng lĩnh vực như hình
sự, dân sự, hành chính,... và trong các ngành luật đó đều có chứa đựng các
quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực tôn giáo, do đó việc thể hiện tính toàn
diện của pháp luật về tôn giáo sẽ phức tạp hơn vì phải phân tán các chế định,
43
các quy phạm pháp luật trong từng luật theo lĩnh vực riêng. Điều này cũng
cần phải hoàn thiện trong quá trình xây dựng pháp luật để có thể đưa tất cả
các quy phạm điều chỉnh liên quan đến hoạt động tôn giáo vào luật chuyên
ngành như xây dựng Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
Hai là, pháp luật về tôn giáo bắt buộc hoạt động tôn giáo diễn ra trong
khuôn khổ pháp luật, nhưng không ảnh hưởng đến hoạt động thuần túy tôn
giáo; đối với các hoạt động thuần túy tôn giáo, pháp luật không can thiệp,
điều chỉnh, nhưng về nguyên tắc nhà nước đều quy định: không được lợi dụng
hoạt động tôn giáo để tiến hành các hoạt động chống lại đường lối, chính sách
pháp luật của nhà nước; làm phương hại đến an ninh quốc gia; phá hoại khối
đại đoàn kết dân tộc hoặc tuyên truyền mê tín dị đoan.
Trong pháp luật về tôn giáo đòi hỏi việc xây dựng các chế định và quy
phạm pháp luật phải hết sức chặt chẽ trên cơ sở xác định cụ thể các quan hệ
xã hội, các hành vi liên quan đến lĩnh vực tôn giáo cần phải được nhà nước
quản lý, điều chỉnh bằng pháp luật. Trên cơ sở đó để xây dựng các quy phạm
pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này không được trùng lặp, chồng chéo hay mâu
thuẫn với nhau. Lĩnh vực tôn giáo là lĩnh vực hoạt động liên quan đến nhiều
mặt của đời sống xã hội, nên pháp luật điều chỉnh vấn đề này nằm ở nhiều văn
bản pháp luật khác nhau như luật đất đai, hình sự, dân sự,... Vì vậy đảm bảo
tính đồng bộ của pháp luật về tôn giáo là vô cùng cần thiết.
Ba là, pháp luật về tôn giáo của nước ta còn điều chỉnh hoạt động tôn
giáo ở Việt Nam có yếu tố nước ngoài; do đặc điểm mối quan hệ quốc tế của
các tôn giáo ở Việt Nam nên pháp luật về tôn giáo phải tôn trọng các hoạt
động này, trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc đảm bảo độc lập, chủ quyền đất
nước và phù hợp với chủ trương của nhà nước về hợp tác quốc tế.
Tôn giáo là một lĩnh vực nhạy cảm, dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng
vào mục đích chính trị. Đặc biệt, trong giai đoạn hội nhập, giao lưu quốc tế
hiện nay, nhiều tổ chức, cá nhân tôn giáo vào Việt Nam làm ăn, sinh sống thì
những quy định về tôn giáo lại càng phải phù hợp với những Điều ước quốc tế
44
mà Việt Nam đã tham gia ký kết hoặc gia nhập trong đó có Tuyên ngôn Quốc
tế về Nhân quyền và Công ước Quốc tế về các quyền dân sự, chính trị.
Bốn là, đặc điểm của đối tượng quản lý: Đối tượng của quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo gồm chức sắc, chức việc, tín đồ, nhà tu hành
và các tổ chức tôn giáo; hiện nay, trên địa bàn cả nước hiện có khoảng trên 24
triệu tín đồ, 83.000 chức sắc, 250.000 chức việc, 46 cơ sở đào tạo chức sắc
tôn giáo, 25 ngàn cơ sở thờ tự.
+ Đặc điểm của tín đồ: Tín đồ các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật
về nghĩa vụ và quyền lợi như mọi công dân khác; đa số đồng bào tín đồ các
tôn giáo có lòng yêu nước, tinh thần chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc.
Trong công cuộc đổi mới, đồng bào tín đồ các tôn giáo là một lực lượng quan
trọng góp phần xây dựng đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
công bằng, dân chủ, văn minh. Đồng bào tín đồ các tôn giáo là công dân và là
thành viên của một tổ chức tôn giáo với niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo sâu sắc;
cùng với việc thực hiện nghĩa vụ công dân với Nhà nước, họ còn thực hiện
nghĩa vụ của một tín đồ đối với tổ chức tôn giáo.
+ Đặc điểm của nhà tu hành, chức sắc: Nhà tu hành, trước hết là tín đồ
thuộc một tổ chức tôn giáo nhất định, bởi vậy họ cũng có những đặc điểm
chung của một tín đồ; hiện nay lực lượng nhà tu hành, chức sắc các tôn giáo
khá đông đảo; đa số được tổ chức tôn giáo đào tạo cơ bản, phong chức, phong
phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử. Nhà tu hành, chức sắc có vị trí, vai trò ảnh
hưởng sâu sắc trong đồng bào tín đồ và thường xuyên gần gũi tín đồ, có uy tín
trong đồng bào tín đồ; Họ đại diện ở mức độ khác nhau cho các tổ chức giáo
hội trong quan hệ nội bộ, trong quan hệ xã hội.
+ Đặc điểm của tổ chức tôn giáo: Hệ thống tổ chức, bộ máy của tổ chức
tôn giáo được quy định trong hiến chương, điều lệ, các quy định của tổ chức
và được nhà nước thừa nhận. Tổ chức tôn giáo điều hành hoạt động tôn giáo;
đại diện cho cộng đồng tín đồ trong quan hệ với nhà nước và các tổ chức khác
có liên quan khi giải quyết công việc tôn giáo. Trong mối quan hệ với nhà
45
nước và dân tộc, các tổ chức tôn giáo được nhà nước công nhận đều thể hiện
đường hướng hành đạo gắn bó với tổ quốc, đồng hành cùng dân tộc. Đa số
các tổ chức tôn giáo có mối liên hệ đồng đạo với tổ chức tôn giáo nước ngoài,
tình hình đó đặt ra nhiều vấn đề trong quản lý các hoạt động quan hệ quốc tế
của tổ chức, cá nhân tôn giáo.
2.2. NỘI DUNG QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
2.2.1. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong các văn bản quy
phạm pháp luật
Tôn giáo được xem như là một nguồn của những ý niệm, tư tưởng về
quyền con người; quan niệm về bình đẳng, bắc ái, lòng bao dung, sự vị tha, …
đều là những giá trị cốt lõi trong hệ thống giá trị của các tôn giáo.
Cách tiếp cận dựa trên quyền và quyền tự do tôn giáo là một phương
pháp luận về nhận thức và hành động thực tiễn lấy quyền con người làm tiêu
chí, điểm xuất phát và mục đích của mọi quá trình chính sách và chương
trình; cách tiếp cận dựa trên quyền giúp xác định rõ chủ thể quyền nắm giữ và
chủ thể nghĩa vụ phải tôn trọng, bảo đảm và thực thi. Như vậy, phương pháp
tiếp cận dựa trên quyền trong phát triển là một khung khái niệm chỉ quá trình
phát triển của con người dựa trên những tiêu chuẩn quốc tế về quyền con
người và nhằm thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Quyền tự do tôn giáo -
tiếp cận từ góc độ quyền con người, chỉ ra trước hết các cá nhân và tất cả mọi
người nói chung đều là chủ thể của quyền được bày tỏ và theo, cũng như
không theo một tôn giáo hay tín ngưỡng nào đó; đồng thời, từ góc độ quyền
con người, cho thấy trách nhiệm và nghĩa vụ đối với việc tôn trọng, bảo vệ và
thực thi quyền này trước hết thuộc về nhà nước; nhà nước có trách nhiệm nội
luật hóa các quy định của pháp luật quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo khi tham gia điều ước quốc tế; nhà nước có nghĩa vụ thực thi tất cả các
biện pháp cần thiết để đảm bảo và thúc đẩy quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Mối quan hệ giữa tôn giáo và quyền con người: Quyền con người có
mối liên hệ mật thiết với tôn giáo không phải chỉ vì tôn giáo là nguồn hình
46
thành của quyền con người mà còn bởi vì tôn giáo chính là một sự hiện hữu
của quyền và tự do cơ bản của con người dạng thức biểu đạt, theo và thực
hành một hệ thống giá trị và niềm tin về tín ngưỡng, tôn giáo nhất định. Mối
quan hệ này không chỉ dừng lại ở nhận thức luận hay bản thể luận, mà nó đã
được chuẩn hóa thành những nguyên tắc của hệ thống pháp luật quốc tế hiện
đại, đặc biệt là trong luật nhân quyền quốc tế và thống nhất dưới dạng thức
quyền tự do tôn giáo.
Khung pháp lý quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được thể
hiện trong các văn kiện quốc tế và quốc gia, bao gồm: Hiến chương Liên hợp
quốc, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, Công ước quốc tế về các
quyền Dân sự và Chính trị, Công ước quốc tế về quyền của người bản xứ,
Hiến pháp năm 2013, Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Pháp lệnh tín ngưỡng,
tôn giáo,…
Điều 18 của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 đã
khẳng định: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn
giáo; quyền này bao gồm quyền tự do thay đổi tôn giáo và niềm tin, cũng như
quyền tự do biểu hiện tôn giáo hay niềm tin của mình, một mình hay cùng
chung nhau, ở nơi công cộng hay ở nơi riêng tư, bằng thuyết giảng, tục lệ, thờ
cúng và làm các nghi lễ” [125, tr.152]. Công ước quốc tế về quyền Dân sự -
Chính trị đã tái khẳng định nguyên tắc mọi người đều có quyền tự do, bình
đẳng theo hay không theo tín ngưỡng, tôn giáo (khoản 1, điều 18) [125,
tr.242] và quyền không bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do
lựa chọn một tôn giáo hoặc tín ngưỡng (khoản 2, điều 18) [125, tr. 242] và
nhấn mạnh nghĩa vụ của các quốc gia thành viên trong việc tôn trọng và bảo
đảm việc thực hiện hóa quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đặc biệt là điều 18
(khoản 3) của công ước đã đề cập đến những giới hạn của việc thực hiện
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Những giới hạn chỉ ra cho
thấy việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mỗi công dân phải
trong khuôn khổ của hiến định và luật định cũng như truyền thống văn hóa,
47
bản sắc dân tộc. Về khía cạnh này có thể thấy sự cần thiết đặc biệt của công
tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục về pháp luật quốc tế và quốc gia liên
quan đến tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng, cũng như về quyền và nghĩa vụ
của công dân nói chung. Việc đưa quy định về giới hạn luật định đối với tự do
tín ngưỡng, tôn giáo vào thành một chuẩn mực pháp lý quốc tế đã đủ cho thấy
tầm quan trọng của giới hạn tự do và quyền cũng như tính nghĩa vụ và trách
nhiệm của cá nhân trong khi thực hiện tự do của mình mà không làm ảnh
hưởng đến tự do của người khác, cũng như lợi ích chung của cộng đồng, xã
hội và dân tộc.
Quyền con người luôn bao chứa nghĩa vụ của chủ thể mang quyền ấy
đối với sự tôn trọng quyền của người khác, quyền và lợi ích của cộng đồng;
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng vậy, luôn chỉ ra nghĩa vụ và trách
nhiệm trong việc thực hiện quyền ấy của mỗi cá nhân. Tính giới hạn của các
quyền, nghĩa vụ là việc thực hiện quyền hay tự do của mỗi người phải trên cơ
sở của việc tuân thủ các chuẩn mực của pháp luật và đạo đức mà xã hội ấy
cho phép, cũng là một trong những đặc trưng cơ bản của quyền và pháp luật
quốc tế và quốc gia quy định. Điều 29 của Tuyên ngôn Thế giới về nhân
quyền nhấn mạnh “1. Cá nhân phải có những bổn phận đối với cộng đồng, chỉ
trong đó nhân cách của mình mới có thể phát triển tự do và đầy đủ; 2. Trong
việc thực hiện các quyền và hưởng thụ các tự do của mình, mọi người chỉ bị
giới hạn bằng luật pháp nào nhằm bảo đảm thừa nhận và tôn trọng các quyền
và các tự do của người khác và nhằm thỏa mãn những yêu cầu đúng đắn của
đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ” [125,
tr.158]. Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị tại khoản 2, điều 18,
khoản 2 điều 21, 22 quy định cụ thể về nghĩa vụ, trách nhiệm của cá nhân đối
với người khác và cộng đồng trong khi thực hiện quyền của mình.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân được bảo đảm tương
đối đầy đủ trong pháp luật, chính sách và thực tiễn ở nước ta. Việt Nam là
một quốc gia thành viên của nhiều công ước quốc tế quan trọng về quyền con
48
người, đáng chú ý là hai Công ước quốc tế năm 1966 (Công ước quốc tế về
các quyền Dân sự và Chính trị, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế - xã
hội và văn hóa). Việt Nam đã nội luật hóa những quy định liên quan đến
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo vào trong pháp luật quốc gia.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của
con người được Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên
hợp quốc ghi nhận. Nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo còn tồn tại lâu dài cùng với
sự phát triển của xã hội loài người chừng nào những nguồn gốc làm phát sinh
ra nó chưa giải quyết được. Suốt quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, xây
dựng đất nước, Đảng và nhà nước ta luôn khẳng định và bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo, coi đó là một quyền cơ bản của công dân. Hiến pháp
năm 1946 quy định “Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng” (Điều
10). Quyền tự do tín ngưỡng đã được tách thành một điều riêng với nội dung
được quy định rõ tại Điều 26 Hiến pháp năm 1959: “Công dân nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa có các quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo
một tôn giáo nào”. Hiến pháp năm 1980, tại Điều 68 quy định “Công dân có
quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai
được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”.
Hiến pháp năm 1992 bổ sung thêm 3 quy định mới là “Các tôn giáo đều bình
đẳng trước pháp luật”, “Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được
pháp luật bảo hộ” và “Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo”
những quy định mới này khẳng định chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà
nước ta về tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Hiến pháp năm 2013 đã có những sửa
đổi rất quan trọng về chủ thể của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ
là của “công dân” Việt Nam mà là của “mọi người”, ghi nhận quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của con người, được Nhà
nước tôn trọng và đảm bảo, bổ sung nguyên tắc về việc hạn chế quyền con
người trong các trường hợp nhất định, theo đó quyền tự do tín ngưỡng, tôn
49
giáo là quyền con người, nên quy định hạn chế quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo phải được quy định bằng luật.
Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội; bên cạnh các quy định trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm
pháp luật chuyên biệt, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn được cụ thể hóa
trong nhiều bộ luật, luật quan trọng khác của Nhà nước như; Bộ luật hình sự,
Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật bầu cử
đại biểu quốc hội, Luật tổ chức chính phủ, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân, Luật giáo dục, Luật đất đai,…
Dưới góc độ của pháp luật về dân sự, thì các tổ chức tôn giáo, tín đồ
các tôn giáo cũng là các loại chủ thể của pháp luật dân sự. Luật dân sự điều
chỉnh rất nhiều khía cạnh của các chủ thể, từ địa vị pháp lý, quan hệ tài sản,
về thừa kế đến quan hệ hợp đồng về tài sản. Đối với cá nhân là tín đồ các tôn
giáo, Điều 47 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định “1. Cá nhân có quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào; 2. Không ai
được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo
để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp
pháp của người khác” [17, tr.26].
Tổ chức, cá nhân tôn giáo cũng là chủ thể của pháp luật về hình sự.
Trong đấu tranh phòng chống tội phạm, để bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của công dân, khoản 1 điều 129 Bộ Luật hình sự năm 1999 (được sửa
đổi, bổ sung năm 2009) quy định “1. Người nào có hành vi cản trở công dân
thực hiện quyền hội họp, quyền lập hội phù hợp với lợi ích của nhà nước và
của nhân dân, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn
giáo nào đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi
phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù
từ ba tháng đến một năm” [93, tr.119,120]. Bảo vệ chính sách đại đoàn kết
toàn dân tộc, điểm c khoản 1 điều 87 Bộ luật quy định “người nào có một
trong những hành vi sau đây nhằm chống chính quyền nhân dân, thì bị phạt tù
50
từ năm năm đến mười lăm năm: gây chia rẽ người theo tôn giáo với người
không theo tôn giáo, chia rẽ các tín đồ tôn giáo với chính quyền nhân dân, với
các tổ chức xã hội” [93, tr.95]. Bên cạnh việc bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo, bảo vệ chính sách đoàn kết toàn dân tộc, Bộ luật còn quy định tội
hành nghề mê tín, dị đoan: “1. Người nào dùng bói toán, đồng bóng hoặc các
hình thức mê tín, dị đoan khác gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt
hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích
mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng,
cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm; 2.
Phạm tội làm chết người hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị
phạt tù từ ba năm đến mười năm; 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ
ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng”.
Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, Luật hôn nhân và gia đình năm
2000, có hiệu lực năm 2001 quy định nhiều vấn đề liên quan đến việc kết hôn
như nguyên tắc kết hôn, điều kiện kết hôn, quan hệ tài sản giữa vợ và chồng.
theo đó, khoản 2 điều 2 quy định nguyên tắc kết hôn “ 2. Hôn nhân giữa công
dân Việt Nam thuộc các dân tộc, các tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với
người không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài
được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ”. Về đăng ký kết hôn, điều 11 của
Luật quy định việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thực hiện, mọi nghi thức kết hôn không theo quy định của luật
đều không có giá trị pháp lý và không được pháp luật bảo hộ.
Trong lĩnh vực đất đai, Luật đất đai điều chỉnh những quan hệ xã hội
hình thành trong lĩnh vực bảo vệ, quản lý, sử dụng đất. Tổ chức tôn giáo là
một chủ thể sử dụng đất được Luật đất đai điều chỉnh. Điều 99 Luật đất đai
năm 2003 quy định “1. Đất do cơ sở tôn giáo sử dụng gồm đất thuộc chùa,
nhà thờ, thánh thất, thánh đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo,
trụ sở của tổ chức tôn giáo, các cơ sở khác của tôn giáo được Nhà nước cho
phép hoạt động. 2. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
51
căn cứ vào chính sách tôn giáo của Nhà nước và quỹ đất của địa phương,
quyết định diện tích đất giao cho cơ sở tôn giáo [90, tr.116,117].
Tổ chức, cá nhân tôn giáo là chủ thể của pháp luật hành chính. Pháp
luật hành chính quy định những nguyên tắc, hình thức và phương pháp quản
lý nhà nước, xác định quy chế pháp lý của chủ thể quản lý nhà nước, quy định
các vấn đề cụ thể của quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội
nói chung và lĩnh vực tôn giáo nói riêng. Theo đó, pháp luật hành chính điều
chỉnh mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với tổ chức, cá nhân
tôn giáo. Và các cơ quan nhà nước có quyền đặt ra các quy định hành chính
để tổ chức, cá nhân tôn giáo thực hiện, mặt khác có quyền xử lý vi phạm hành
chính khi có hành vi vi phạm. Để tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt trong
công tác tôn giáo và quản lý nhà nước về tôn giáo, hướng dẫn các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan trong quản lý, sử dụng biểu mẫu về thủ tục hành
chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số
01/2013/TT-BNV, ngày 25/03/2013 về việc ban hành và hướng dẫn sử dụng
biểu mẫu về thủ tục hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Tố tụng hình sự tiến hành
theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt
dân tộc nam, nữ, tín ngưỡng, tôn giáo,... bất cứ người nào phạm tội đều bị xử
lý theo pháp luật”.
2.2.2. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo qua các quy định cụ thể về
hoạt động tôn giáo
Cùng với việc khẳng định trong Hiến pháp, trong các bộ luật, Nhà nước
Việt Nam còn ban hành các Nghị định, pháp lệnh nhằm thể chế hóa đường
lối, chủ trương, chính sách đảm bảo cho công dân thực hiện quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và các tôn giáo được bình đẳng trước pháp luật.
Nghị định 69/NĐ-CP, Nghị định 26/1999/NĐ-CP quy định cụ thể:
“Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo; nghiêm cấm sự
52
phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; công dân theo tôn giáo hoặc
không theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, được hưởng mọi quyền
công dân và có trách nhiệm thực hiện mọi nghĩa vụ công dân”. Nghị định
cũng quy định rõ: “Mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,
mọi hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống lại Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân, phá hoại sự
nghiệp đoàn kết toàn dân, làm hại đến nền văn hóa lành mạnh của dân tộc và
hoạt động mê tín dị đoan đều bị xử lý theo pháp luật”.
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ra đời năm 2004 quy định rất rõ những
chính sách cụ thể:
- Đối với hoạt động tín ngưỡng của người có tín ngưỡng và hoạt động
tôn giáo của tín đồ, nhà tu hành, chức sắc: Người có tín ngưỡng, tín đồ được
tự do bày tỏ đức tin, thực hành các lễ hội, lễ nghi và học tập giáo lý tôn giáo;
tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn
giáo của người khác; thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không cản
trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động tín ngưỡng, tôn
giáo đúng pháp luật.
Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo sẽ bị đình chỉ nếu: xâm phạm an ninh
quốc gia, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự công cộng hoặc môi trường; tác
động xấu đến đoàn kết nhân dân, đến truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân
tộc; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người
khác; có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng khác.
- Đối với tổ chức tôn giáo và hoạt động của tổ chức tôn giáo: Các tổ
chức tôn giáo có đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, có tôn chỉ, mục
đích, có Hiến chương, Điều lệ, Đạo quy phù hợp với pháp luật, có cơ cấu tổ
chức hợp lý và bộ máy nhân sự đảm bảo tốt về hai mặt đạo và đời, được xem
xét và để được phép hoạt động. Sau này Pháp lệnh và Nghị định số 22/NĐ-
CP, Nghị định số 92/2012/NĐ-CP đã quy định rõ hai bước đăng ký và công
nhận đối với tổ chức tôn giáo.
53
- Đối với các hoạt động về tổ chức: Các tổ chức tôn giáo hợp pháp về
tổ chức, được tiến hành các hoạt động như tổ chức đại hội, hội nghị, mở
trường đào tạo chức sắc, phong chức, phong phẩm, bầu cử, suy cử, bổ nhiệm
và thuyên chuyển chức sắc,….
- Đối với việc tôn giáo tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội: Các
chức sắc, nhà tu hành được hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội như mọi công
dân. Việc tổ chức lao động, sản xuất làm dịch vụ để tự túc của chức sắc, nhà
tu hành theo đúng chính sách pháp luật của Nhà nước được khuyến khích.
Các hoạt động từ thiện nhân đạo được khuyến khích.
- Đối với tài sản thuộc cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo: Tài sản hợp pháp
thuộc cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Đất có các công trình
tôn giáo, tín ngưỡng sử dụng được phép hoạt động, sử dụng lâu dài. Cơ sở tín
ngưỡng, tổ chức tôn giáo được quyên góp, nhận tài sản hiến, tặng, cho trên cơ
sở tự nguyện của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước theo quy định
của pháp luật.
Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo cơ sở là di tích lịch sử - văn hóa, danh
lam thắng cảnh được bảo đảm bình thường như các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo
khác; việc quản lý, sử dụng, cải tạo, nâng cấp thực hiện theo pháp luật
Việc xuất bản, in, phát hành kinh, sách, báo, tạp chí,… về tín ngưỡng,
tôn giáo; kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa phẩm tín ngưỡng, tôn
giáo; sản xuất đồ dùng phục vụ hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, thực hiện theo
pháp luật.
- Đối với hoạt động xã hội của tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành,
chức sắc: Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để tổ chức tôn giáo tham
gia nuôi dạy trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; hỗ trợ cơ sở chăm sóc sức khỏe
người nghèo, người tàn tật, người nhiễm HIV/AIDS; hỗ trợ phát triển cơ sở
giáo dục mầm non, tham gia các hoạt động từ thiện nhân đạo. Chức sắc, nhà
tu hành với tư cách công dân được khuyến khích tổ chức hoạt động giáo dục,
y tế, từ thiện nhân đạo.
54
- Đối với hoạt động quốc tế của tôn giáo: Nhà nước tôn trọng mối quan
hệ quốc tế của các tôn giáo. Quan hệ quốc tế của các tôn giáo phải tôn trọng
chủ quyền, pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và thông
lệ quốc tế. Những quan hệ với tư cách cá nhân được thực hiện bình thường
như mọi công dân. Những quan hệ với tư cách thành viên hoặc có mối quan
hệ về cơ cấu tổ chức của các tôn giáo quốc tế thì phải được sự chấp thuận của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam liên quan với luật
pháp quốc tế: tại điều 38, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo khẳng định: “Trong
trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết
hoặc gia nhập có quy định khác với quy định của Pháp lệnh này thì thực hiện
theo quy định của điều ước quốc tế” [10, tr.20].
Những nội dung cơ bản của các tôn giáo trước pháp luật nói trên đã
được thực thi nghiêm túc trong đời sống thực tiễn ở Việt Nam. Trên thực tế,
những năm qua, Đảng, Nhà nước ta luôn tạo điều kiện cho các hoạt động tôn
giáo được diễn ra thuận lợi. Các tôn giáo được tự do hoạt động trong khuôn
khổ của pháp luật. Nhà nước luôn đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người dân, đảm bảo bình đẳng
giữa các công dân không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng trong thực hiện
quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm công dân. Tín đồ của các tôn giáo đã được
nhà nước công nhận được tự do sinh hoạt tín ngưỡng tại gia đình và các cơ sở
thờ tự hợp pháp. Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo, khi vi
phạm luật pháp của Nhà nước đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật.
Các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước thừa nhận luôn được đối xử
công bằng, bình đẳng trước pháp luật. Các chức sắc tôn giáo được tự do
truyền đạo, giảng đạo theo quy định, được phong chức, phong phẩm, bổ
nhiệm, thuyên chuyển, được tạo điều kiện học tập nâng cao trình độ theo hiến
chương, điều lệ của tôn giáo và quy định của pháp luật. Một số tôn giáo ở
Việt Nam hiện nay đã có trường đào tạo người chuyên hoạt động tôn giáo. Số
55
lượng chức sắc, nhà tu hành tôn giáo được đào tạo trong và ngoài nước không
ngừng gia tăng qua các năm; hầu hết các tôn giáo đều được xuất bản các ấn
phẩm tôn giáo như sách, báo, băng, đĩa phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt đạo.
Cơ sở thờ tự của các tôn giáo được Nhà nước bảo hộ, được trùng tu, sửa chữa,
xây dựng, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo chính đáng của nhân dân, phù
hợp với điều kiện của đất nước và đúng quy định của pháp luật. Các tôn giáo
đều được nhà nước tạo điều kiện thuận lợi mở rộng giao lưu quốc tế.
Phạm vi điều chỉnh pháp luật về tôn giáo: Việc xác định phạm vi điều
chỉnh pháp luật về tôn giáo là cần thiết vì đây là cơ sở của việc hình thành nội
dung pháp luật về tôn giáo. Mục đích điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh pháp
luật về tôn giáo phụ thuộc vào đối tượng mà nó điều chỉnh, đó là các nhóm
quan hệ chủ yếu sau:
Nhóm quan hệ thứ nhất: điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa Nhà
nước và các tổ chức, cá nhân tôn giáo.
Đây là nhóm quan hệ cơ bản nhất được pháp luật về tôn giáo điều
chỉnh. Nhà nước là người nắm quyền lực, có quyền đặt ra các quy định buộc
các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật phải tuân theo, có quyền kiểm tra,
giám sát và xử lý vi phạm khi có các hành vi vi phạm xảy ra. Các tổ chức, cá
nhân tôn giáo được Nhà nước bảo hộ khi hoạt động đúng khuôn khổ pháp luật
và bị xử lý khi có hành vi vượt khỏi hành lang pháp lý quy định. Cụ thể:
Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo
hoặc không theo một tôn giáo nào của công dân. Công dân có tín ngưỡng, tôn
giáo hoặc không có tín ngưỡng tôn giáo cũng như có tín ngưỡng, tôn giáo
khác nhau phải tôn trọng lẫn nhau; bình đẳng trước pháp luật, được hưởng
mọi quyền công dân và có trách nhiệm thực hiện mọi nghĩa vụ công dân.
Đối với chức sắc, nhà tu hành, Nhà nước bảo đảm cho họ được thực
hiện các chức trách, chức vụ tôn giáo, được hoạt động kinh tế, văn hóa - xã
hội, được khen thưởng khi có những đóng góp cho đất nước và xã hội.
56
Các tổ chức tôn giáo khi được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân,
được nhân danh mình tham gia các quan hệ xã hội, được thực hiện các hoạt
động tôn giáo theo quy định của pháp luật như được tổ chức hội nghị, đại hội,
phong chức, phong phẩm, bầu cử, suy cử, thành lập trường đào tạo, mở lớp
bồi dưỡng, in ấn, xuất bản kinh sách, đồ dùng việc đạo... và chịu trách nhiệm
trước Nhà nước về các hoạt động này.
Nhà nước khuyến khích các hoạt động của tổ chức, cá nhân tôn giáo vì
lợi ích của Tổ quốc và nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân
tôn giáo tham gia vào quá trình xã hội hóa các mặt của đời sống xã hội như
giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo.
Bên cạnh việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,
khuyến khích, tạo điều kiện cho tổ chức tôn giáo hoạt động, Nhà nước cũng
yêu cầu các tổ chức, cá nhân tôn giáo thực hiện một số nghĩa vụ nhất định
như: không được lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hòa
bình, độc lập, thống nhất đất nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến
tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính sách của Nhà nước; chia rẽ nhân
dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại
đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở
việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực
hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Chức sắc, nhà tu hành có nghĩa vụ động viên tín đồ thực hiện các nghĩa
vụ công dân; chịu trách nhiệm về các hoạt động tôn giáo thuộc phạm vi quyền
hạn của mình.
Tổ chức tôn giáo phải đăng ký, được sự chấp thuận, công nhận của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đối với một số hoạt động như: Đăng ký chương
trình hoạt động tôn giáo hành năm, hoạt động của hội đoàn, dòng tu, tu viện
và các tổ chức tu hành tập thể khác của tôn giáo, nhận người vào tu, phong
chức, phong phẩm, thuyên chuyển nơi hoạt động tôn giáo của chức sắc, nhà tu
hành; thành lập, chia, tách, hợp nhất các tổ chức tôn giáo trực thuộc, tổ chức
57
hội nghị, đại hội, thành lập trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn
giáo, các cuộc lễ của tôn giáo diễn ra ngoài cơ sở tôn giáo và công nhận tổ
chức tôn giáo.
Ngoài ra còn có một số hoạt động khác do tổ chức tôn giáo thực hiện
phải tuân thủ các quy định của pháp luật chuyên ngành như:
Việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng công trình tôn giáo phải thực hiện
theo quy định của pháp luật về xây dựng. Khi thay đổi mục đích sử dụng các
công trình thuộc cơ sở tôn giáo phải có sự chấp thuận của Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh.
Việc quản lý, sử dụng, cải tạo, nâng cấp công trình thuộc cơ sở tín
ngưỡng, tôn giáo là di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh thực hiện
theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa và pháp luật có liên quan.
Đất xây dựng nơi thờ tự và các công trình tôn giáo, đất canh tác để sinh
lợi nuôi sống chức sắc, nhà tu hành được Nhà nước giao cho các tổ chức tôn
giáo theo quy định của pháp luật đất đai. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước
giao đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, được Nhà nước bảo hộ
khi quyền sử dụng đất hợp pháp bị xâm hại; có nghĩa vụ sử dụng đất đúng
mục đích được giao.
Về việc giải quyết vấn đề nơi thờ tự và những tài sản khác của tôn giáo
do lịch sử để lại: nhà, đất và các tài sản khác của tôn giáo mà Nhà nước trưng
thu, trưng mua hoặc tổ chức, cá nhân tôn giáo đã hiến tặng cho chính quyền,
tổ chức đoàn thể thì không đặt vấn đề trả lại; các trường hợp khác thực hiện
theo quy định của pháp luật đất đai, pháp luật dân sự, các Nghị quyết của
Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chỉ thị 1940/CT-TTg, ngày
31/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về nhà, đất liên quan đến tôn giáo.
Việc xuất bản, in, phát hành các loại kinh, sách, báo, tạp chí và các xuất
bản phẩm khác về tín ngưỡng, tôn giáo; kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu văn
hóa phẩm về tín ngưỡng, tôn giáo; sản xuất đồ dùng phục vụ hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo được thực hiện theo quy định của pháp luật.
58
Việc thành lập trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo
phải được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ. Việc chiêu sinh của
trường đào tạo tôn giáo phải thực hiện theo nguyên tắc công khai, tự nguyện
của thí sinh và điều lệ hoạt động của trường đã được phê duyệt. Nội dung
giảng dạy không được trái pháp luật, chủ trương, chính sách của Nhà nước.
Môn học về lịch sử Việt Nam, pháp luật Việt Nam là các môn học chính khóa
trong chương trình đào tạo.
Đối với hoạt động tài chính, tổ chức tôn giáo được tổ chức quyên góp,
nhận tài sản hiến, tặng, cho trên cơ sở tự nguyện của tổ chức, cá nhân trong
nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài. Việc tổ chức quyên góp phải công khai,
rõ ràng mục đích sử dụng và trước khi quyên góp phải thông báo với Ủy ban
nhân dân nơi tổ chức quyên góp.
Nhóm quan hệ thứ hai: điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong nội bộ tổ
chức tôn giáo.
Trong hoạt động tôn giáo, các tổ chức, cá nhân tôn giáo trong cùng một
tổ chức đôi khi làm phát sinh quan hệ. Đây là những quan hệ xã hội phát sinh
trong nội bộ tổ chức tôn giáo. Về nguyên tắc, Nhà nước không can thiệp vào
công việc nội bộ của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo có toàn quyền quyết
định công việc nội bộ của mình. Tuy nhiên, tổ chức tôn giáo cũng là một tổ
chức xã hội, chịu sự điều chỉnh của Nhà nước, cá nhân tôn giáo không chỉ là
một tín đồ mà họ còn là công dân của Nhà nước, vì vậy họ không thể thoát ly
khỏi sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước cần phải điều chỉnh để đảm bảo cho
lợi ích chung của toàn xã hội. Đặc biệt trong những trường hợp cần thiết,
những mối quan hệ xã hội này có ảnh hưởng đến yêu cầu quản lý chung của
Nhà nước, Nhà nước buộc phải can thiệp để đảm bảo sự ổn định xã hội (ví dụ
mâu thuẫn nội bộ tổ chức tôn giáo).
Nhóm quan hệ thứ ba: điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các tổ
chức tôn giáo với nhau, giữa tổ chức tôn giáo với các tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp và các tổ chức khác.
59
Hoạt động tôn giáo ngoài làm phát sinh mối quan hệ giữa tổ chức, cá
nhân tôn giáo với Nhà nước, giữa cá nhân trong cùng một tổ chức tôn giáo
còn phát sinh mối quan hệ giữa các tổ chức tôn giáo với nhau, giữa các tổ
chức tôn giáo với các tổ chức khác được Nhà nước thừa nhận. Các mối quan
hệ xã hội này là các mối quan hệ bình đẳng, không có sự phân biệt đối xử.
Điều 70 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) cũng khẳng định “Các
tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật” và Điều 1 pháp lệnh tín ngưỡng, tôn
giáo một lần nữa lại nhắc lại nguyên tắc đó. Khi các tổ chức tôn giáo được
công nhận tư cách pháp nhân cũng là thời điểm phát sinh các quyền và nghĩa
vụ nhất định, được tham gia các quan hệ xã hội theo quy định của pháp luật
và được pháp luật bảo hộ.
Nhóm quan hệ thứ tư: điều chỉnh các quan hệ phát sinh có yếu tố nước
ngoài.
Ở nước ta các tôn giáo lớn đều có quan hệ với các tổ chức, cá nhân tôn
giáo nước ngoài, đặc biệt là giáo hội Công Giáo, Phật Giáo, Hồi Giáo,... Xuất
phát từ chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các mối
quan hệ quốc tế, Việt Nam sẵn sàng thiết lập quan hệ ngoại giao với các quốc
gia, xác lập mối quan hệ với các tổ chức quốc tế có liên quan đến tôn giáo
trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau, bình đẳng, các bên cùng có lợi, phù hợp với pháp luật mỗi
bên, pháp luật và thông lệ quốc tế. Với tinh thần đó, các tổ chức, cá nhân tôn
giáo được ra nước ngoài học tập, chữa bệnh, thăm thân, dự hội nghị, hội thảo
theo quy định của pháp luật. Mặt khác, pháp luật về tôn giáo cũng có các quy
định cho phép tổ chức, cá nhân tôn giáo nước ngoài vào Việt Nam để thăm,
dự hội nghị, giúp đỡ tổ chức tôn giáo hợp pháp ở Việt Nam. Khi vào Việt
Nam các tổ chức, cá nhân tôn giáo phải tuân thủ các quy định của pháp luật
Việt Nam về xuất, nhập cảnh và pháp luật khác có liên quan. Nghiêm cấm tổ
chức, cá nhân tôn giáo nước ngoài và quốc tế vào Việt Nam để hoạt động
60
truyền đạo, lập tổ chức tôn giáo mới hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của
các tôn giáo ở Việt Nam.
Người nước ngoài khi vào Việt Nam phải tuân thủ pháp luật Việt Nam;
được mang theo xuất bản phẩm tôn giáo và các đồ dùng tôn giáo khác để
phục vụ nhu cầu của bản thân theo quy định của pháp luật Việt Nam; được
tạo điều kiện sinh hoạt tôn giáo tại cơ sở tôn giáo như tín đồ tôn giáo Việt
Nam; được mời chức sắc tôn giáo là người Việt Nam để thực hiện các lễ nghi
tôn giáo cho mình; tôn trọng quy định của tổ chức tôn giáo ở Việt Nam.
Để bảo vệ chủ quyền quốc gia, pháp luật quy định các tổ chức, cá nhân
tôn giáo mời tổ chức, người nước ngoài vào Việt Nam hoặc triển khai chủ
trương của tổ chức tôn giáo nước ngoài ở Việt Nam; mời chức sắc, nhà tu
hành là người nước ngoài giảng đạo tại cơ sở tôn giáo của Việt Nam phải
được sự chấp thuận của Ban Tôn giáo Chính phủ. Hoạt động viện trợ của cá
nhân, tổ chức tôn giáo nước ngoài hoặc có liên quan đến tôn giáo nước ngoài
phải thực hiện theo chế độ quản lý viện trợ của Việt Nam và thông qua các cơ
quan được Chính phủ Việt Nam giao phụ trách quản lý công tác viện trợ.
Pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam biểu hiện sự tương quan phù hợp
giữa qui định của pháp luật với trình độ phát triển của kinh tế, xã hội và tình
hình phát triển của các tôn giáo ở nước ta, cụ thể: Việt Nam là quốc gia đa tôn
giáo, đại đa số tín đồ các tôn giáo đều là nhân dân lao động, có tinh thần yêu
nước và có nhiều đóng góp cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thời
gian gần đây các tôn giáo ở nước ta phát triển mạnh, gia tăng cả về số lượng tín
đồ và số lượng các tổ chức tôn giáo, điều này làm ảnh hưởng đến tình hình
kinh tế - xã hội, an ninh, trật tự của đất nước; Đảng và Nhà nước ta luôn thực
hiện nhất quán chính sách tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân
dân, các tôn giáo hợp pháp và hoạt động phù hợp với đạo đức, truyền thống,
thuần phong mỹ tục của dân tộc được Nhà nước bảo hộ, Nhà nước xử lý
nghiêm minh các trường hợp lợi dụng tôn giáo chống lại độc lập, chủ quyền
61
của đất nước; pháp luật về hoạt động tôn giáo phải phù hợp với chính sách đối
ngoại của Nhà nước, bảo đảm yêu cầu hội nhập và giao lưu quốc tế.
2.3. CÁC ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG,
TÔN GIÁO
2.3.1. Bảo đảm về chính trị
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo bằng việc đề ra đường lối, chủ
trương, bằng công tác cán bộ và được thể hiện qua các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng; và chỉ khi đường lối, chính sách của Đảng được thể chế hóa thành pháp
luật thì nó mới trở thành phương tiện của Nhà nước, có sức mạnh cưỡng chế
buộc các cơ quan, tổ chức phải thi hành.
Để thực hiện sự lãnh đạo của mình, Đảng cần phải xây dựng một hệ
thống tư tưởng thật sự khoa học; một tổ chức chặt chẽ, quản lý có chất lượng
cao; nâng cao các yêu cầu đối với việc lựa chọn và phân công cán bộ, tăng
cường các biện pháp trong công tác giáo dục chính trị, rèn luyện đạo đức cách
mạng chống chủ nghĩa cá nhân; kiên quyết khắc phục sự suy thoái về tư
tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên.
Pháp luật nói chung và pháp luật về tôn giáo nói riêng chính là sự phản
ánh, cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo đảm
cho sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện có hiệu quả trên quy mô toàn xã
hội. Vì vậy, để pháp luật về tôn giáo ngày càng hoàn thiện, Đảng cần đề ra
các chủ trương, chính sách về tôn giáo thật sự đúng đắn, sáng suốt.
Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phân biệt
dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa,
nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ
hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử Đại biểu Hội đồng Nhân dân, đại
biểu Quốc hội theo quy định của pháp luật. Như vậy, quyền công dân nói
chung và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng được bảo đảm bằng thể
chế chính trị của nền dân chủ. Việc thể chế hóa đường lối, chính sách của
Đảng về tôn giáo, bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện có hiệu
62
quả trên quy mô toàn xã hội; là phương tiện để nhà nước quản lý về tôn giáo
đồng thời là phương tiện để tổ chức, cá nhân tôn giáo được hoạt động bình
đẳng, ổn định và được pháp luật bảo hộ. Đảng ta là lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội. Điều 4, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đảng Cộng sản Việt
Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội” [40, tr.9]. Nhà nước là trung tâm của quyền lực và là trụ
cột của hệ thống chính trị mang tính nhân dân sâu sắc, và chỉ khi đường lối,
chính sách tôn giáo của Đảng được thể chế hóa thành pháp luật thì nó mới trở
thành phương tiện của nhà nước, có sức mạnh cưỡng chế buộc các cơ quan, tổ
chức phải thi hành; qua đó, mọi người dân có cơ hội nắm bắt cụ thể đường lối
chủ trương của Đảng, mặt khác cũng là cơ sở để Đảng kiểm tra, đánh giá việc
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của cán bộ, công chức và cơ quan
nhà nước theo Điều 8 Hiến pháp năm 2013 “Các cơ quan nhà nước, cán bộ,
công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên
hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu giám sát của Nhân dân;
kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu,
hách dịch, cửa quyền” [40, tr.11].
Thực tế cho thấy, những năm qua chủ trương, chính sách của Đảng về
tôn giáo đã được quan tâm và có nhiều thay đổi, có những bước đột phá lớn
đáp ứng kịp thời tình hình thực tiễn. Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng
về tôn giáo đã được thể chế hóa thành pháp luật và đi vào cuộc sống. Đời
sống của đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo đã thay đổi một cách rõ rệt “phần
xác ấm no”, “phần hồn thong dong”, làm cho họ ngày càng yên tâm, tin tưởng
vào sự lãnh đạo của Đảng.
Trong hoạt động bảo đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,
các cơ quan nhà nước cần quan hệ chặt chẽ với các tổ chức xã hội, đặc biệt là
63
những thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc các cấp,
phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị
và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân
dân cùng nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động
viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và
pháp luật. Sự phát triển toàn diện của nền dân chủ đòi hỏi sự tham gia đông
đảo của công dân vào công việc của nhà nước. Hoạt động kiểm tra, giám sát
của các tổ chức xã hội và công dân đối với hoạt động của cơ quan nhà nước,
đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước cũng là điều kiện bảo đảm về
chính trị cho việc thực hiện các quyền công dân nói chung và quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo nói riêng.
2.3.2. Bảo đảm về tư tưởng
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề đoàn kết lương
giáo, đoàn kết dân tộc, chủ trương giải quyết hài hòa giữa lợi ích của bộ phận
với toàn thể, giữa cá nhân với xã hội. Một mặt, Người chủ trương triệt để tôn
trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, thể chế hóa
quyền đó thông qua hệ thống pháp luật của nhà nước, yêu cầu cơ quan nhà
nước và công dân thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật và mặt
khác, Chính phủ phải có trách nhiệm thường xuyên chăm lo đời sống mọi mặt
của đồng bào có đạo; với tinh thần đoàn kết lương giáo, hòa hợp dân tộc, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã tập hợp được đông đảo chức sắc, tín đồ các tôn giáo hết
lòng phấn đấu cho sự nghiệp cứu nước, kiến quốc, từ đó xóa dần những định
kiến, mặc cảm do lịch sử để lại và âm mưu chia rẽ tôn giáo của một số thế
lực; Người cho rằng, đoàn kết lương giáo là đoàn kết lâu dài và toàn diện, là
vấn đề chiến lược; với thái độ chân tình, cởi mở, bao dung và luôn thấu hiểu
nỗi trăn trở, suy tư của đồng bào; Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho thế hệ
sau những di sản tư tưởng quý báu, trong đó có tư tưởng về tín ngưỡng, tôn
giáo; những lời di huấn, các bài viết, những cử chỉ, hành động cũng như
phong cách ứng xử của Người đối với các tôn giáo nói chung và đối với tín
64
đồ, giáo sĩ, nhà tu hành của đạo Công Giáo nói riêng là những bài học quý
báu. Tư tưởng đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc và tôn trọng, bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tự do không tín ngưỡng là nội dung cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo.
Công tác tôn giáo phải được làm thường xuyên, phải được nghiên cứu
sâu sắc tình hình thực tế, hiểu rõ phong tục tập quán, truyền thống tín ngưỡng,
tôn giáo của nhân dân; việc thực hiện khoa học, chặt chẽ, có chất lượng cao,
nâng cao năng lực cán bộ, tăng cường các biện pháp giáo dục chính trị, rèn
luyện đạo đức cách mạng đối với cán bộ, đảng viên; Quan tâm quần chúng tín
đồ, tôn trọng và thực hiện đầy đủ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhưng
cương quyết xử lý những phần tử lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo vi phạm pháp
luật. Vì vậy công tác tôn giáo không chỉ góp phần giữ gìn ổn định chính trị,
xã hội mà cần phải biết phát hiện, phát huy những yếu tố có ý nghĩa về văn
hóa, đạo đức trong công tác tôn giáo, động viên được người có đạo tham gia
các phong trào cách mạng, tham gia vào quá trình xây dựng đời sống mới,
góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
2.3.3. Bảo đảm về kinh tế, văn hóa, xã hội
2.3.3.1. Bảo đảm về kinh tế
Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta xác định nhiệm vụ phát triển kinh tế
- xã hội là trung tâm, phải đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường... coi đó là tiền đề vật chất
để thực hiện và bảo đảm quyền con người nói chung và quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo nói riêng. Mục đích của chính sách kinh tế nhà nước là phát
triển dân sinh, dân giàu, nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật
chất, tinh thần của nhân dân trên cơ sở giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát
huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật
chất, kỹ thuật, mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế, khoa học kỹ thuật và giao
lưu với thị trường thế giới. Trong các quyền về kinh tế, quyền được kinh
65
doanh là một quyền lớn của công dân trong nền kinh tế thị trường; khi một
nền kinh tế phát triển, ổn định là điều kiện quan trọng, đời sống nhân dân sẽ
có nhiều thuận lợi, việc đó sẽ ảnh hưởng tới việc bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo; đối với nước ta, bằng đường lối phát triển kinh tế nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà
nước ta ngày càng tạo ra những điều kiện cần thiết để thực hiện các quyền
được pháp luật thừa nhận. Đó chính là những tiền đề, điều kiện bảo đảm về
kinh tế để mọi công dân thực hiện tốt các quyền công dân của mình trong đó
có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
2.3.3.2. Bảo đảm về văn hóa
Đề cương Văn hóa năm 1943 của Đảng đề ra chiến lược phát triển nền
văn hóa Việt Nam theo hướng dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa, đặt
nền tảng cho chính sách văn hóa; bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong
lĩnh vực văn hóa thể hiện sâu sắc khi Đảng xác định trách nhiệm của mình
trong việc nâng cao trình độ thẩm mỹ, năng lực sáng tạo và hưởng thụ thành
quả văn hóa của nhân dân, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, có tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại; tạo ra
đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú, đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân
chủ tiến bộ và luôn hướng tới xây dựng con người phát triển toàn diện về
chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng
đồng, lối sống văn hóa, hài hòa trong từng gia đình, cộng đồng xã hội; đảm
bảo quyền tự do sáng tạo của cá nhân, khuyến khích, hỗ trợ lao động sáng tạo,
đánh giá cao giá trị tinh thần và giá trị thực tiễn của sản phẩm sáng tạo,... nền
văn hóa như vậy sẽ góp phần bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
2.3.3.3. Bảo đảm về xã hội
Xã hội ta là xã hội vì con người, đặt con người vào vị trí trung tâm của
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, lấy việc nâng cao chất lượng cuộc sống
làm mục tiêu phục vụ và thực hiện các chính sách xã hội theo quan điểm phát
huy nhân tố con người, bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa
66
vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống
vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm
lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội. Kết hợp sự trợ
giúp của nhà nước với việc phát triển các quỹ từ thiện xã hội, quỹ đền ơn đáp
nghĩa, nhằm giúp đỡ có hiệu quả người được hưởng chính sách xã hội, nạn
nhân chiến tranh, thiên tai, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, những
người tàn tật và người già không nơi nương tựa,... là những điều kiện, biện
pháp thực hiện nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được thực
hiện trên thực tế, góp phần tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật
của cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân. Quá trình nhận thức về quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước phát triển phù hợp với quy
luật khách quan và thực tiễn cách mạng Việt Nam nhằm thực hiện tốt quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo trên đất nước Việt Nam và thực hiện tốt các quyền
con người do pháp luật quốc tế quy định.
2.3.4. Bảo đảm về pháp lý
Tất cả mọi người đều có quyền sống (trừ trường hợp bị Tòa án tuyên
phạt tử hình theo quy định của pháp luật), tất cả mọi người đều có quyền được
đối xử bình đẳng, không bị phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính,
ngôn ngữ, tôn giáo hoặc nguồn gốc xã hội; Trong quan hệ dân sự, các bên đều
bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã
hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp để
đối xử không bình đẳng với nhau. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp
luật, trước Tòa án, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín
ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp; mọi cơ quan, tổ chức đều
bình đẳng, không phụ thuộc vào hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và những
vấn đề khác; các đương sự đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng
dân sự, Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mình. Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không
phân biệt nam nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội;
67
nghiêm trị những người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lợi
dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; người phạm tội dùng thủ đoạn xảo
quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng.
Khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng
phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường
thiệt hại gây ra. Để bảo vệ dân tộc, bảo vệ lợi ích cộng đồng, bảo vệ công dân,
pháp luật Việt Nam nghiêm cấm lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để
phá hoại hòa bình, độc lập, kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh,
chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công
cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản của
người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, hoạt động mê
tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Ở góc độ Hiến pháp, quyền con người cần được long trọng công bố
trong Hiến pháp; trong bản Hiến pháp cần thể hiện rõ cam kết của nhà nước,
các cơ quan nhà nước, công chức, viên chức nhà nước về bảo đảm, bảo vệ
quyền con người; quyền con người không thể được đảm bảo, bảo vệ trong một
quốc gia mà quyền lực công cộng bị giới hạn, không được kiểm soát. Giới hạn
quyền lực công chính là quyền con người; quyền lực công phải bị giới hạn,
được giới hạn để đảm bảo, bảo vệ quyền con người. Một khi quyền lực không
bị giới hạn sẽ dẫn đến tình trạng độc đoán, chuyên quyền, lạm quyền, xâm
phạm các quyền con người, quyền công dân. Bởi vậy, bên cạnh việc khẳng
định quyền con người, cam kết bảo đảm, bảo vệ quyền con người từ phía nhà
nước, Hiến pháp phải tạo ra được cơ chế kiểm soát việc tổ chức và thực hiện
quyền lực nhà nước theo những nguyên tắc tiến bộ đã được thừa nhận chung
trên thế giới [112, tr.10].
Sau Hiến pháp, các luật trong từng lĩnh vực cần thể hiện rõ yêu cầu bảo
đảm, bảo vệ quyền con người trong các lĩnh vực của đời sống xã hội; cần đặc
biệt chú ý: khi soạn thảo các văn bản luật, các cơ quan quản lý nhà nước (các
Bộ, Chính phủ) thường nghiêng về góc độ muốn tạo thuận lợi cho mình trong
68
hoạt động quản lý, không loại trừ cả trường hợp về bảo vệ lợi ích của ngành,
của nhóm mà họ đã đưa ra các quy định hạn chế, ngăn cản người dân tiếp cận
các quyền của mình. Để hạn chế nguy cơ này, trong ban soạn thảo cần thu hút
các chuyên gia từ nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau; trong quá trình soạn thảo
cần tham vấn chuyên gia; các dự thảo cần đăng tải công khai để người dân đề
đạt, thể hiện ý kiến của mình; các dự thảo luật cần được thẩm tra kỹ tại các ủy
ban của Quốc hội và tại các phiên họp toàn thể của Quốc hội. Các đại biểu
Quốc hội có ý thức trách nhiệm cao trước cử tri, trước nhân dân cần cân nhắc
chu đáo, thận trọng khi biểu quyết thông qua luật.
Trong khuôn khổ pháp lý về bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã hình thành nhưng quá trình xây dựng và hoàn
thiện các thể chế vẫn cần được tiếp tục. Luật bầu cử cần được sửa đổi để cử
tri thực hiện được quyền tự do lựa chọn đại biểu xứng đáng, để họ có thể thực
hiện quyền bãi nhiệm những đại biểu không hoàn thành nhiệm vụ; cần tiếp
tục và soạn thảo và thông qua luật tiếp cận thông tin để đảm bảo quyền được
thông tin của mọi người trong xã hội; luật trưng cầu dân ý cũng là một đạo
luật cần thiết để các công dân trực tiếp thực hiện được quyền phúc quyết,
quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; luật tín ngưỡng, tôn giáo
cũng vô cùng quan trọng để mọi người hưởng quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo. Để các quyền hiến định trong Hiến pháp năm 2013 được thi hành hiệu
quả trong thực tiễn và đi vào cuộc sống, cần luật hóa các quy định này. Liên
quan đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, cần hoàn thiện pháp luật về quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo và xây dựng, thông qua luật tín ngưỡng, tôn giáo.
Các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được Hiến pháp trao cho tất cả
mọi người được làm gì để đáp ứng nhu cầu, lợi ích chính đáng của mình và
đòi hỏi nhà nước, xã hội phải làm gì để bảo đảm cho họ được hưởng thực sự
và sử dụng đúng đắn các quyền ấy. Trong toàn bộ những bảo đảm về quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo mà nhà nước và xã hội xây dựng thì bảo đảm về pháp
lý là quan trọng nhất, nó phản ánh bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
69
Trong khoa học pháp lý thường có hai khái niệm “cơ chế pháp lý” và
“bảo đảm pháp lý”. Tuy nhiên, nội dung khái niệm “bảo đảm pháp lý” rộng
hơn nội dung khái niệm “cơ chế pháp lý”, những quy định pháp luật nội dung
và những quy định pháp luật hình thức về việc bảo đảm các quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của mọi người; chủ thể pháp luật mang quyền, nghĩa vụ
pháp lý cụ thể tham gia vào quá trình bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo; hoạt động của chủ thể pháp luật đó theo thủ tục, trình tự pháp luật quy
định nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Bảo đảm pháp lý quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng là một khái niệm pháp lý, nhưng nội dung của
nó khá rộng, bao quát gần như toàn bộ đời sống pháp luật của nhà nước và xã
hội, trong đó tư tưởng chính trị - pháp lý, văn hóa pháp lý và cách thức tổ
chức bộ máy nhà nước nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
không chỉ được tôn trọng trong nhận thức, mà còn được thực hiện hóa trên
thực tế. Nó được xem như là toàn bộ những tiền đề, điều kiện, môi trường
pháp lý thuận lợi do nhà nước, xã hội tạo ra trên cơ sở pháp luật để công dân
được hưởng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo một cách thực sự, đầy đủ và sử
dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo một cách đúng đắn trong các lĩnh vực
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là tiền đề về tư tưởng, chính
trị, pháp luật, tổ chức thực hiện của bộ máy nhà nước nói chung và cơ quan
quản lý nhà nước về tôn giáo nói riêng nhằm bảo đảm và thực hiện để công
dân được hưởng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Bảo đảm pháp lý thực hiện
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân được xem ở hai phương diện
khác nhau: Phương diện thứ nhất đó là chế độ pháp lý chính trị, trong đó
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo tồn tại cùng với các quyền và nghĩa vụ khác
của công dân và được tổ chức thực hiện; Phương diện thứ hai là cơ chế hoạt
động của các cơ quan nhà nước tổ chức thực hiện quyền công dân.
Bảo đảm pháp lý mang tính ý thức, tư tưởng gồm những quan điểm, tư
tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, của Hồ Chí Minh về giải phóng con người
70
và các biện pháp chủ yếu nhằm đem lại cho con người một cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc; đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng, hội nhập
quốc tế; ý thức pháp luật của cán bộ, công chức và nhân dân về quyền con
người, quyền tự to tín ngưỡng, tôn giáo.
Đảm bảo pháp lý về phương diện pháp luật thực định gồm pháp luật nội
dung và pháp luật hình thức, do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện
trên cơ sở nhu cầu khách quan của xã hội Việt Nam hoặc các công ước quốc
tế mà nhà nước Việt Nam đã ký kết hay tham gia. Pháp luật nội dung xác lập
quyền, nghĩa vụ công dân, Nhà nước, các tổ chức kinh tế và các tổ chức chính
trị - xã hội trong các lĩnh vực xã hội. Còn pháp luật hình thức quy định trình
tự, thủ tục, hình thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ ấy.
Đảm bảo về mặt tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trong lĩnh
vực tôn giáo gồm cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước nói chung, cơ cấu tổ chức
các cơ quan chuyên trách những vấn đề kinh tế, văn hóa, khoa học, công
nghệ, xã hội; thể hiện trên ba lĩnh vực xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện
pháp luật, bảo vệ pháp luật nhằm bảo đảm cho các quyền công dân nói chung,
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng được thực hiện trên thực tế; hoạt
động của các cơ quan nhà nước trong trường hợp họ tham gia vào các quan hệ
pháp luật cụ thể liên quan tới việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Như vậy, tất cả các quy định của pháp luật thực hiện về quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và phương thức hoạt động của các cơ quan nhà nước nhằm
bảo đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và ý thức pháp luật của
công dân nói chung, của cán bộ và công chức nói riêng. Pháp luật tạo ra cơ sở
pháp lý bảo đảm cho công dân thực hiện quyền cơ bản về tự do tín ngưỡng,
tôn giáo. Pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo gồm pháp luật nội dung và pháp
luật hình thức, do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện trên cơ sở nhu cầu
khách quan của xã hội Việt Nam hoặc các công ước quốc tế mà Nhà nước
Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Pháp luật nội dung xác lập quyền, nghĩa
71
vụ của công dân, nhà nước, các tổ chức kinh tế xã hội và tổ chức chính trị xã
hội trong lĩnh vực xã hội; còn pháp luật hình thức quy định trình tự, thủ tục,
hình thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ ấy. Để bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ quy định quyền
tự do tín ngưỡng tôn giáo mà còn ấn định trách nhiệm giải quyết, nghiêm cấm
mọi hành vi cản trở việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Tiểu kết chương 2
Từ khi hình thành khái niệm về tự do tín ngưỡng, đưa ra thông tin về
các chuẩn tắc pháp lý về vấn đề này đã góp phần hình thành các phẩm chất
công dân của cá nhân, làm sáng tỏ cái chung và cái riêng trong chính sách về
vấn đề tôn giáo của các đảng phái khác nhau và của các phong trào khác
nhau. Tự do tín ngưỡng được lý giải khi có tính đến lịch sử hình thành khái
niệm, kinh nghiệm thế giới trong việc bảo đảm các quyền con người; văn bản
pháp luật sử dụng quan niệm luật học về tự do tín ngưỡng, hình thành những
luận điểm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được minh chứng ở mỗi
bản Hiến pháp, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được kế thừa và phát triển
trong từng điều kiện hoàn cảnh của đất nước; quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo ngày càng được mở rộng và cụ thể hơn. Cách tiếp cận dựa trên quyền
con người đối với tôn giáo chỉ ra việc thực hiện quyền tự do tôn giáo không
tách rời việc thực hiện các quyền và tự do cơ bản của mỗi người nói chung.
Quyền tự do tôn giáo không phải là một quyền tuyệt đối mà có tính giới hạn.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của
con người, thuộc nhóm quyền dân sự và chính trị được ghi nhận trong một số
văn bản chính trị - pháp lý của Liên hợp quốc bao gồm các văn bản mang tính
chất Tuyên ngôn như Hiến chương của Liên hợp quốc năm 1945, Tuyên ngôn
thế giới về nhân quyền năm 1948, Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và
Chính trị năm 1966.
72
Nội dung của pháp luật về tôn giáo tập trung điều chỉnh mối quan hệ
giữa nhà nước và các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam; điều chỉnh quan hệ giữa
Nhà nước với các cá nhân chức sắc, tín đồ, nhà tu hành trong hoạt động tôn
giáo ở Việt Nam; pháp luật về tôn giáo có vai trò rất quan trọng trong việc thể
chế hóa đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước; là phương tiện
bảo vệ các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, là phương tiện đấu
tranh, ngăn ngừa các hoạt động lợi dung tôn giáo xâm phạm an ninh quốc gia,
trật tự an toàn xã hội.
Tuy nhiên, nước ta hiện nay đang trong quá trình xây dựng và hoàn
thiện Luật pháp về tôn giáo nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo;
nhà nước ta không ngừng nghiên cứu, đánh giá thực trạng về quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt Nam hiện nay, bổ sung và từng bước
hoàn thiện một cách có hệ thống các văn bản pháp lý nhằm đưa ra các quan
điểm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; đưa ra những giải pháp bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt Nam hiện nay góp
phần cho cơ quan chức năng có những căn cứ để xây dựng luật tín ngưỡng,
tôn giáo; ngoài những quy định chung, thì việc thể chế hóa, cụ thể hóa quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo tạo điều kiện cho việc thực hiện quyền được tốt
bấy nhiêu.
73
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG VỀ QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG,
TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Nhà nước Việt Nam đã xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật để
đảm bảo quyền con người được tôn trọng và thực hiện một cách đầy đủ nhất.
Quyền con người, khi đã được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận, sẽ trở thành
ý chí chung của toàn xã hội, được xã hội tuân thủ và được pháp luật bảo vệ.
Ngay sau khi giành được độc lập năm 1945, quyền con người, quyền công
dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa và sau đó tiếp tục được khẳng định, mở rộng trong các Hiến pháp
năm 1959, 1980, 1992, 2013. Hiến pháp Việt Nam năm 1992, văn kiện pháp
lý của Nhà nước Việt Nam, đã ghi nhận một cách trang trọng, rõ ràng và toàn
diện các quyền con người (tại các điều 2 và điều 50) và nội dung quyền này
đã được thể hiện xuyên suốt trong các chương, mục của Hiến pháp, đặc biệt
được nêu tập trung tại chương 5 về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân. Các quyền con người quy định trong Hiến pháp đã không ngừng được cụ
thể hóa trong các văn bản pháp quy của Việt Nam.
Trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước ta hiện nay
thì việc nghiên cứu, tìm hiểu và áp dụng pháp luật quốc tế để đảm bảo tính
tương thích giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế về nội dung mà
Việt Nam đã tham gia là một nguyên tắc không thể thiếu trong việc xây dựng
pháp luật. Điều đó đã được thể hiện qua tính tương thích, phù hợp giữa các
quy định của pháp luật Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo qua các văn kiện
Đại hội Đảng và qua các điều khoản trong Hiến pháp năm 2013, Bộ Luật Dân
sự, Hình sự, Hôn nhân và Gia đình,… và đặc biệt là qua Pháp lệnh tín
74
ngưỡng, tôn giáo, văn bản có trị pháp lý cao nhất điều chỉnh trực tiếp đến lĩnh
vực tín ngưỡng, tôn giáo của Nhà nước ta. Toàn bộ những nội dung Pháp lệnh
được thể chế hóa từ điều 70 Hiến pháp năm 1992 và bảo đảm tính tương thích
với quy định của điều 18 của Công ước quốc tế. Để đảm bảo nguyên tắc ứng
xử với pháp luật quốc tế mà nước ta đã gia nhập, trong quá trình xây dựng
Pháp lệnh các nhà làm luật đã có quy định về việc áp dụng Điều ước quốc tế
khi xây dựng nội dung trong Pháp lệnh trái với Công ước quốc tế, điều này
được quy định tại Điều 38 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo “Trong trường hợp
điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia
nhập có quy định khác với quy định của Pháp lệnh này thì thực hiện theo quy
định của điều ước quốc tế đó” [10, tr.20].
Loài người luôn đấu tranh nhằm giải phóng con người, xây dựng một
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong thời gian dài dân tộc Việt Nam bị
nước ngoài đô hộ, phải gánh chịu những hy sinh to lớn để giành độc lập dân
tộc và tự do của Tổ quốc. Bằng cuộc đấu tranh bất khuất, kiên cường qua
nhiều thế kỷ, dân tộc Việt Nam đã khẳng định rằng quyền thiêng liêng, cơ bản
nhất của con người là quyền được sống trong độc lập, tự do, quyền được tự
quyết định vận mệnh của mình. Đây cũng chính là nguyên tắc có tính nền
tảng về quyền tự quyết dân tộc đã được khẳng định trong Hiến chương Liên
hợp quốc và tại Điều 1 của cả hai công ước quốc tế cơ bản nhất của Liên Hợp
quốc về quyền con người: công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn
hóa và công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị.
Nhà nước Việt Nam luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước. Nhà nước Việt Nam khẳng định
con người là trung tâm của các chính sách kinh tế - xã hội, thúc đẩy và bảo vệ
quyền con người là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững, bảo đảm
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Mọi chủ
trương, đường lối, chính sách của Việt Nam đều nhằm phấn đấu cho mục tiêu
75
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, tất cả vì con
người và cho con người.
Chính phủ Việt Nam cho rằng, việc bảo đảm và thúc đẩy quyền con
người trước hết là trách nhiệm và quyền hạn của mỗi quốc gia. Do khác biệt
về hoàn cảnh lịch sử, chế độ chính trị, trình độ phát triển, giá trị truyền thống
văn hóa.... nên cách tiếp cận về quyền con người của mỗi quốc gia có thể
khác nhau; Việt Nam ủng hộ việc tăng cường hợp tác quốc tế trong các lĩnh
vực quyền con người trên cơ sở đối thoại bình đẳng, xây dựng, tôn trọng và
hiểu biết lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, vì mục
tiêu chung là thúc đẩy và bảo vệ ngày càng tốt hơn các quyền con người. Việt
Nam cũng cho rằng không nước nào có quyền sử dụng vấn đề quyền con
người làm công cụ can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia, gây đối
đầu, gây sức ép chính trị, thậm chí sử dụng vũ lực hoặc làm điều kiện trong
quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại... với nước khác.
Các quyền con người chỉ có thể được tôn trọng và bảo vệ trong một
môi trường hòa bình, an ninh, bình đẳng và phát triển bền vững, trong đó các
giá trị nhân bản được tôn trọng và bảo vệ.
3.1.1. Pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo trước đổi mới
Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa đã khẳng định quyền tự do tín ngưỡng là một trong năm quyền cơ
bản của công dân “quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội
họp, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại trong nước và đi ra nước ngoài”. Tại mục
B, chương II, Hiến pháp năm 1946 đã xác định: “Mọi công dân Việt Nam có
quyền tự do tín ngưỡng”, với việc tuyên bố tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng
của công dân, Hiến pháp năm 1946 đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc thực hiện
chính sách đối với tôn giáo trong phạm vi cả nước. Trong lễ ra mắt công khai
Đảng ta sau Đại hội II (1951) ở Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
“chúng tôi xin nói thêm hai điểm, nói rõ để tránh hiểu nhầm: một là, vấn đề
tôn giáo thì Đảng Lao động Việt Nam hoàn toàn tôn trọng quyền tự do tín
76
ngưỡng của mọi người” (Báo Nhân dân, 25/03/1951); các nguyên tắc cơ bản
trong chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam là đoàn kết, bình đẳng,
tương trợ để các dân tộc thiểu số tiến kịp với trình độ chung của đất nước,
nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (1951) đã viết: “Các dân tộc ở
Việt Nam đều được bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, phải đoàn kết giúp
đỡ lẫn nhau để kháng chiến và kiến quốc” [14, tr.44].
Sắc lệnh 133/SL ngày 20/11/1953 về trừng trị âm mưu bọn phản quốc
quy định: “Kẻ nào vì mục đích phản quốc, gây hiềm khích để phá hoại sự
đoàn kết kháng chiến của các dân tộc trong nước, các tầng lớp nhân dân, các
tôn giáo, các đảng phái và đoàn thể dân chủ, chia rẽ nhân dân với Chính phủ,
sẽ bị phạt tù từ 10 năm trở xuống. Nếu tội nặng, sẽ bị phạt tù từ 10 năm trở
lên, chung thân hoặc sẽ bị tử hình”
Sắc lệnh 197/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 19/12/1953 ban bố
Luật Cải cách ruộng đất. Về vấn đề ruộng đất của các tôn giáo tại chương III,
điều 25 của Bộ luật này quy định những đối tượng được chia trong đó có nhà
chung, nhà chùa, từ đường và các cơ quan tôn giáo được để lại một phần
ruộng để dùng vào việc thờ cúng.
Có thể nhận thấy, gian đoạn từ 1945 đến 1954 là giai đoạn khó khăn
của cách mạng, Nhà nước công nông đầu tiên của chúng ta phải đối phó với
rất nhiều công việc, song rất cố gắng xây dựng các quy phạm điều chỉnh lĩnh
vực tín ngưỡng, tôn giáo và tuyên bố về quyền cơ bản của công dân trong đó
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được thể hiện xuyên suốt qua các bản Hiến
pháp sau này. Đã nhất quán chiến lược Đại đoàn kết toàn dân trong đó có
đoàn kết đồng bào lương giáo; đoàn kết toàn dân, không phân biệt nòi giống,
gái trai, giai cấp, bảo vệ tôn trọng cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo là những nơi
thiêng liêng, nhạy cảm; bất cứ tôn giáo nào đều phải được tôn trọng không ai
được xâm phạm; nghiêm cấm phá hủy những đền, đình, chùa, miếu hoặc
những nơi thờ tự khác như cung điện, thành quách, cấm phá hủy bi ký, đồ vật,
văn bằng, chiếu sắc, giấy má, sách vở có tính chất tôn giáo. Những cơ sở vật
77
chất khác của tổ chức tôn giáo như bãi tha ma, nghĩa địa, nhà cửa của các
đoàn thể tôn giáo, trụ sở, nhà cứu tế, cứu bần, bệnh viện, nhà thương, trường
học tôn giáo đều được miễn thuế đất vĩnh viễn.
Sau năm 1954, trong điều kiện đất nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược: miền Bắc tiến lên Chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục thực hiện Cách
mạng dân tộc dân chủ kháng chiến chống Mỹ xâm lược. Ngày 31/12/1959,
quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân được ghi rõ hơn so với Hiến pháp năm
1946 “Công dân nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa có quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào” (điều 26). Ngoài Hiến pháp
năm 1959, Nghị quyết Quốc hội ngày 26/03/1955 về vấn đề tôn giáo; tiêu
biểu có các Chỉ thị như: Chỉ thị số 91/CT ngày 17/09/1954; Sắc lệnh 234/SL
ngày 14/06/1955 về vấn đề tôn giáo; Sắc lệnh số 101SL/L.003 ngày
20/05/1957 quy định về tự do hội họp; Thông tư số 12/TTg ngày 12/01/1957
về một số điểm cụ thể sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất; Thông tư số
51/TT-ĐC ngày 31/05/1958 về việc lập hội và hội họp đối với tôn giáo;
Thông tư 60/TTg ngày 11/06/1964 về việc thi hành chính sách tôn giáo; Chỉ
thị 88/CT-TTg ngày 26/04/1973 về việc chấp hành chính sách trong bảo vệ
chùa thờ Phật và tăng ni đạo Phật.
Cùng với việc khẳng định những nguyên tắc cơ bản đối với tôn giáo
trong Hiến pháp, Nhà nước ta đã thể chế hóa quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
qua những văn bản quy phạm pháp luật như Sắc lệnh số 234/SL, ngày
14/06/1955, Sắc lệnh của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa do Chủ tịch
Hồ Chí Minh ký và ban hành “Việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là quyền
lợi của nhân dân. Chính phủ luôn tôn trọng và giúp đỡ nhân dân thực hiện.
Chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo
phải tuân theo pháp luật của Nhà nước như mọi tổ chức khác của nhân dân.
Việc bảo vệ tự do tín ngưỡng bắt buộc phải trừng trị những kẻ đội lốt tôn giáo
gây rối loạn”. Trong quan hệ nội bộ tôn giáo, điều 13 Sắc lệnh 234/SL quy
định nguyên tắc: “chính quyền không can thiệp vào công việc nội bộ của các
78
tổ chức tôn giáo”. “Riêng về Công Giáo quan hệ giữa Giáo hội với Tòa thánh
La Mã là vấn đề của nội bộ của đạo Công Giáo”. Về tổ chức tôn giáo được
xuất bản và phát hành kinh bổn tôn giáo, mở trường đào tạo những người
chuyên hoạt động tôn giáo; được mở trường tư thục song phải giảng dạy theo
chương trình của Chính phủ; được tổ chức các cuộc hành lễ nơi thờ cúng và
không phải xin phép; được hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội; các tổ chức tôn
giáo phải tuân theo pháp luật của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như
mọi tổ chức khác của nhân dân; những cơ sở tôn giáo như nhà thờ, đền, chùa,
miếu, thánh đường, thánh thất, các đồ thờ, các trường giáo lý của tôn giáo
được nhà nước bảo hộ. Đối với đất đai trong cải cách ruộng đất, khi nhà nước
trưng thu, trưng mua của tôn giáo sẽ để lại cho nhà thờ, nhà chùa, thánh thất
một số diện tích đảm bảo cho việc thờ cúng và sinh sống của những nhà tu
hành; ruộng đất mà Giám mục, Linh mục, Nhà sư, Mục sư phát canh thu tô
như địa chủ thì đều do nhà nước quản lý và không bồi hoàn tiền. Trong quan
hệ với nhà tu hành nước ngoài, pháp luật quy định các nhà tu hành người
ngoại quốc được Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa cho phép thì
được giảng đạo như các nhà tu hành Việt Nam và phải tuân theo pháp luật của
nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng kêu gọi các tôn giáo hãy xoá bỏ hiềm
khích, đoàn kết cùng toàn dân lo cho nền độc lập của nước nhà vì “Công Giáo
hay không Công Giáo, Phật Giáo hay không Phật Giáo đều phải nỗ lực đấu
tranh cho nền độc lập của nước nhà. Nhiệm vụ của toàn thể chúng ta là phải
giữ vững nền độc lập, toàn thể đồng bào ta không chia lương giáo, đoàn kết
chặt chẽ, quyết lòng kháng chiến để giữ gìn non sông, Tổ quốc và cũng để giữ
gìn tín ngưỡng tự do”.
Trải suốt chiều dài lịch sử dân tộc, đại đa số đồng bào các tôn giáo ở
Việt Nam đều có lòng yêu nước, đã có nhiều đóng góp tích cực cho sự nghiệp
đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc; nhiều người đã lập
công lớn nêu tấm gương sáng cho các thế hệ sau, đồng bào các tôn giáo luôn
79
luôn là một bộ phận không thể tách rời trong cộng đồng các dân tộc Việt
Nam. Trước những năm 1975 một số Giáo hội ở miền Bắc đã tự nguyện hiến
đất xây dựng trường học, đây là việc làm tự nguyện vô cùng trân trọng của tín
đồ, chức sắc các tôn giáo vì sự nghiệp chung của đất nước, họ đã tự nguyện
hiến đất, giúp chính quyền xây dựng trường học để dạy chữ cho con em nhân
dân, trong đó có con em đồng bào theo tôn giáo.
Kế thừa Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 đã bổ sung: “Công
dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà
nước” (điều 60); Nghị quyết 297/NQ-HĐBT, ngày 11/11/1977 của Hội đồng
Chính phủ về một số chính sách đối với tôn giáo; Bộ Luật hình sự năm 1985;
Nghị định số 184/HĐBT ngày 18/11/1989 ban hành văn bản quy định về quản
lý các đoàn của ta ra nước ngoài và các đoàn nước ngoài vào nước ta; Nghị
định số 56/HĐBT ngày 30/05/1989 quy định chi tiết Pháp lệnh nghĩa vụ lao
động công ích, có ghi nhận việc miễn nghĩa vụ đối với người giữ chức sắc tôn
giáo chuyên nghiệp. Sắc lệnh 234/SL thực hiện đến hết ngày miền Nam giải
phóng, đất nước thống nhất, sau đó được thay bằng Nghị quyết 297/NQ-
HĐBT, ngày 11/11/1977 của Hội đồng Chính phủ về một số chính sách đối
với tôn giáo; Kế thừa tư tưởng của Sắc lệnh 234/SL, Nghị quyết số 297/NQ-
HĐBT nêu rõ năm nguyên tắc cơ bản của chính sách tôn giáo là: “Chính phủ
đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng của nhân
dân. Các nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo đều được hưởng mọi quyền lợi và
phải làm mọi nghĩa vụ của người công dân. Các tôn giáo và mọi công dân
theo đạo hoặc không theo đạo đều bình đẳng trước pháp luật. Các tôn giáo
phải tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và chủ trương, chính sách, thể lệ của Nhà
nước trong mọi lĩnh vực hoạt động của mình. Những kẻ lợi dụng tôn giáo để
phá hoại nền độc lập của Tổ quốc, chống lại chế độ Xã hội chủ nghĩa, phá
hoại khối đoàn kết toàn dân, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân, chống lại
chính sách và pháp luật của Nhà nước sẽ bị pháp luật nghiêm trị”.
80
Nội dung các văn bản pháp luật trên là sự kế thừa Sắc lệnh 234/SL
ngày 14/06/1955 và các văn bản pháp luật ban hành trước đó, đồng thời bổ
sung một số nội dung mới: quy định cụ thể những hoạt động tôn giáo phải xin
phép nhà nước; trách nhiệm của những nhà tu hành, những người hoạt động
tôn giáo đối với xã hội; quy định chi tiết việc quản lý, sử dụng cơ sở thờ tự;
tiêu chuẩn những người được tuyển chọn để đào tạo các trường, lớp tôn giáo,
nội dung giảng dạy và sự quản lý của nhà nước đối với những người phụ trách
giảng dạy trong các trường này; quy định về quản lý nhà nước trong hoạt
động phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển người hoạt động tôn giáo; quy
định về việc xuất khẩu văn hóa phẩm, đồ dùng việc đạo; quy định về quan hệ
quốc tế giữa các tổ chức, cá nhân tôn giáo trong nước với các tổ chức quốc tế
và nước ngoài; quy định của Ủy ban Nhân dân các cấp trong việc quản lý nhà
nước đối với hoạt động của các tôn giáo và trách nhiệm của Ban Tôn giáo Phủ
Thủ tướng trong việc hướng dẫn các tôn giáo cũng như hướng dẫn việc thực
hiện của các cấp chính quyền.
3.1.2. Pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo thời kỳ đổi mới
Những năm gần đây, trước những thay đổi của tình hình trong nước và
thế giới, phù hợp với xu thế hội nhập, công tác tôn giáo được Đảng và Nhà
nước rất quan tâm và coi đó là một nhiệm vụ chính trị đặc biệt. Năm 1986,
Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đến năm
1990, Đảng Cộng sản Việt Nam có sự đổi mới trong chính sách đối với tôn
giáo qua Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị Ban
chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) về tăng cường công tác tôn giáo trong
tình hình mới, xác định “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng,
tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có
nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”, và cũng nêu rõ “Tôn
giáo là lĩnh vực mà kẻ địch đặc biệt chú trọng lợi dụng để phá hoại sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta”. Qua thời gian thực hiện chính sách và tổng kết
thực tiễn, đồng thời nhằm bổ sung những vấn đề mới phù hợp thực tại đất
81
nước và quốc tế; quan điểm chính sách của Đảng ta đối với tín ngưỡng, tôn
giáo tiếp tục được khẳng định và phát triển thêm một bước mới phù hợp với
sự nghiệp đổi mới đất nước, ngày 12/03/2003, Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp
hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã ban hành nghị quyết số 25-NQ/TW về
công tác tôn giáo; Đó là: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một
bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền
sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật”. Những quan điểm của
Đảng ta từ ngày thành lập đến nay chứng minh rằng Đảng coi quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo là một nhu cầu quan trọng của con người, là một trong
những quyền công dân, quyền chính đáng của con người.
Sau khi có các Nghị quyết về công tác tôn giáo của Đảng, các văn bản
quy phạm pháp luật của Nhà nước đã thể chế hóa tư tưởng đổi mới với tôn
giáo. Trước hết phải kể đến Hiến pháp năm 1992 đã thể hiện tư tưởng đổi mới
về tôn giáo của Đảng. Tại Điều 70 chương V về quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân khẳng định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp
luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ.
Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. Cùng
với việc khẳng định trong Hiến pháp, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
69/NĐ-CP, ngày 21/03/1991 về các hoạt động tôn giáo, sau đó là Nghị định
số 26/NĐ-CP, ngày 19/04/1999 về các hoạt động tôn giáo. Đặc biệt sau khi
Đảng có Nghị quyết số 25/NQ-TW, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI đã
ban hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ngày 18/06/2004 và Chính phủ ban
hành Nghị định số 22/NĐ-CP, ngày 01/03/2005 hướng dẫn thi hành một số
điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định số 92/2012/NĐ-CP,
82
ngày 08/11/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp
lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (thay thế Nghị định số 22/NĐ-CP).
Nghị định 69/NĐ-CP, Nghị định 26/NĐ-CP đều khẳng định nguyên tắc
của chính sách tôn giáo trong thời kỳ đổi, thể hiện thái độ đúng đắn của Đảng
và Nhà nước ta đối với tôn giáo và được thể hiện như: đối với nhu cầu sinh
hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân thì Nhà nước tôn trọng và đảm bảo;
đối với những hoạt động tôn giáo vì lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân thì
khuyến khích; đối với những hành vi lợi dụng tôn giáo vì mục đích xấu thì
đều bị nghiêm cấm và xử lý theo pháp luật.
Sau khi Nghị quyết số 25-NQ/TW về công tác tôn giáo được ban hành,
các tỉnh, thành phố đều xây dựng chương trình hành động; nhiều tỉnh, thành
phố có Nghị quyết chuyên đề về công tác tôn giáo, thành lập Ban chỉ đạo
công tác tôn giáo để chỉ đạo thống nhất trong hệ thống chính trị thực hiện
công tác tôn giáo:
Nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền, các cơ quan quản lý về công
tác tôn giáo được nâng lên, trong xử lý những vấn đề liên quan đến tôn giáo
đã vận dụng linh hoạt hơn các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước vào hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương, giải quyết tương đối kịp
thời các nhu cầu chính đáng về sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào;
tạo điều kiện giúp đỡ các giáo hội, chức sắc sinh hoạt tôn giáo đúng pháp luật,
đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của tất cả chức sắc, chức việc, tín
đồ và đồng bào có đạo.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức
xã hội tích cực vận động đồng bào các tôn giáo thực hiện phương châm sống
“tốt đời, đẹp đạo”, chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, tham gia phát triển kinh tế - xã hội, củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, thực hiện tốt cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư”. Các đoàn thể đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
83
nước trong đồng bào tôn giáo, tích cực phát triển đoàn viên, hội viên, tăng
cường xây dựng lực lượng nòng cốt cho phong trào quần chúng ở địa phương.
Công tác quản lý Nhà nước có chuyển biến, đã từng bước xây dựng và
hoàn thiện khung pháp lý về tôn giáo. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban
hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ngày 18/06/2004; Chính phủ có Nghị
định số 22/NĐ-CP ngày 01/03/2005 Hướng dẫn thi hành một số điều của
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; rồi Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg ngày
04/02/2005 của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin
lành; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 1940/CT-TTg ngày
31/12/2008 về nhà, đất liên quan đến tôn giáo, Nghị định số 92/2012/NĐ-CP
ngày 08/11/2012 Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo,… và nhiều văn bản hướng dẫn của Nhà nước và các bộ,
ban, ngành liên quan, tiếp tục khẳng định rõ “Công dân có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo theo hoặc không theo một tôn giáo nào”. Các chính sách,
pháp luật đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt, sâu sắc của Đảng, Nhà nước Việt
Nam đến nhu cầu tín ngưỡng của tín đồ, chức sắc các tôn giáo, làm cho quần
chúng nhân dân, tín đồ và các chức sắc tôn giáo yên tâm phấn khởi tích cực
thực hiện tốt cả “việc đạo, việc đời” tin tưởng vào chính sách tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, tích cực tham gia các phong
trào thi đua yêu nước, lao động sản xuất phát triển kinh tế - xã hội, đấu
tranh ngăn chặn những hoạt động lợi dụng tôn giáo góp phần bảo đảm an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Cho đến hôm nay, những quan điểm
đường lối công tác tôn giáo của Đảng, Nhà nước Việt Nam đề ra vẫn còn
mang tính thời sự sâu sắc. Đường lối đã làm chuyển biến và hướng các tôn
giáo về mục tiêu cách mạng Việt Nam là xây dựng đất nước “Dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Quá trình tư tưởng này
thể hiện sự đúng đắn của đường lối, quan điểm chỉ đạo công tác tôn giáo
của Đảng, Nhà nước nhằm phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân
84
tộc, đoàn kết tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Nghị định số 92/NĐ-CP và Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo đều khẳng
định nguyên tắc của chính sách tôn giáo trong thời kỳ đổi mới là:
+ Nhà nước đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự
do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, nghiêm cấm sự phân biệt đối
xử vì lý do tôn giáo hoặc tín ngưỡng.
+ Mọi công dân theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo đều bình
đẳng trước pháp luật; được hưởng mọi quyền công dân và có trách nhiệm
thực hiện mọi nhiệm vụ công dân.
+ Các tôn giáo hoạt động tuân thủ Hiến pháp và Luật pháp của Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
+ Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích chính đáng và hợp pháp của
tín đồ được đảm bảo.
+ Mọi hoạt động mê tín dị đoan được bài trừ, mọi hành vi lợi dụng
tôn giáo để phá hoại nền độc lập, chống lại nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, phá hoại chính sách đại đoàn kết toàn dân làm hại đến nền
văn hóa lành mạnh của dân tộc, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân đều
bị xử lý theo pháp luật.
Như vậy, Nghị định số 92/NĐ-CP và Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo
đều thể hiện thái độ đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đối với tôn giáo:
Một là, đối với nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân thì
được Nhà nước tôn trọng và đảm bảo;
Hai là, đối với hoạt động tôn giáo vì lợi ích của tổ quốc và của nhân
dân thì khuyến khích;
Ba là, đối với những hành vi lợi dụng tôn giáo vì mục đích xấu thì đều
bị nghiêm cấm và xử lý theo pháp luật.
Hệ thống pháp luật trên là công cụ pháp lý quan trọng để đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo
85
của công dân, giúp các cơ quan nhà nước nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; đã cụ thể hóa một cách hữu hiệu, tích
cực đường lối chủ trương của Đảng đối với công tác tôn giáo trong thời kỳ
mới, đồng thời toát lên tinh thần dân chủ đối với hoạt động tôn giáo, đáp ứng
yêu cầu của cải cách hành chính trong quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn
giáo, đồng thời đảm bảo được tính tương thích của luật pháp quốc tế điều
chỉnh về quyền con người trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đặc
biệt là những điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, ký kết hoặc gia
nhập.
Sự phối kết hợp giữa các bộ, ban, ngành và địa phương đã tạo được sự
thống nhất trong việc thực hiện quản lý Nhà nước đối với tôn giáo, giảm bớt
các thủ tục hành chính rườm rà. Các bộ, ban, ngành chủ động cùng với Ban
chỉ đạo Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ triển khai chủ trương công tác
đối với đạo Tin Lành, đề xuất chủ trương công tác đối với những vấn đề tôn
giáo. Hướng dẫn, giúp đỡ các tổ chức tôn giáo Đại hội nhiệm kỳ theo Hiến
chương, Điều lệ của tổ chức tôn giáo theo quy định của pháp luật.
Chính phủ và các địa phương đã giải quyết kịp thời, đúng quy định
pháp luật về nhu cầu hoạt động tôn giáo và một số nhu cầu chính đáng của
các tổ chức, cá nhân tôn giáo, như phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm,
thuyên chuyển chức sắc các tôn giáo; cho xây mới và cải tạo nhiều cơ sở thờ
tự. Nhiều tỉnh, thành đã tích cực giải quyết việc lập hồ sơ, xét cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho các tôn giáo; tạo điều kiện thuận lợi để các tôn
giáo sinh hoạt bình thường, đúng theo tinh thần Nghị quyết hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VII (khóa IX) về Công tác tôn giáo.
3.2. THỰC TRẠNG QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO Ở
VIỆT NAM
3.2.1. Những thành tựu
Trong những năm qua, pháp luật về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo không ngừng được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện; những văn bản quy
86
phạm pháp luật có điều chỉnh lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo không những tăng
nhanh về số lượng, mà còn phong phú và đa dạng về hình thức; đã có rất
nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định, thông tư, chỉ thị được
ban hành; nội dung các văn bản luôn được chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện cho
phù hợp với tình hình thực tiễn. Trên cơ sở Nghị quyết 25/NQ-TW về công
tác tôn giáo, Quốc hội, Chính phủ đã thể chế hóa Nghị quyết của Đảng thành
các quy phạm của pháp luật, các kế hoạch, giải pháp, cơ chế bảo đảm thực
hiện, tạo cơ sở pháp lý cho công dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo như: Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004; Nghị định số
22/2005/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của pháp lệnh tín ngưỡng,
tôn giáo; Chỉ thị số 01/2001/CT-TTg về một số công tác đối với đạo Tin
Lành; Chỉ thị 1940/CT-TTg về nhà đất, liên quan đến tôn giáo; Nghị định số
92/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng,
tôn giáo…
Quốc hội, Chính phủ đã ban hành và sửa đổi 16 văn bản quy phạm
pháp luật liên quan đến lĩnh vực tôn giáo như: Luật đất đai 2003; Nghị quyết
số 23/2003/QH11 của Quốc hội về nhà đất do Nhà nước quản lý, bố trí sử
dụng trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách
cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01/07/1991; Nghị quyết số 775/NQ-QH
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cụ thể hóa Nghị quyết 23/2003/QH11 của
Quốc hội về xây dựng, thanh tra và giải quyết khiếu nại tố cáo, về đăng ký hộ
khẩu… hệ thống chính sách mới được ban hành, sửa đổi, bổ sung có tác động
tích cực trong việc đảm bảo nhu cầu sinh hoạt tôn giáo, quản lý nhà nước về
tôn giáo theo pháp luật.
Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách chăm lo đến
đời sống của bà con tín đồ các tôn giáo, các bộ, ban, ngành, đoàn thể và các
địa phương đã cụ thể hóa nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
bằng nhiều chương trình hành động và kế hoạch thực hiện phát triển kinh tế -
xã hội, phát triển văn hóa… tạo điều kiện thuận lợi cho các sinh hoạt tín
87
ngưỡng, tôn giáo như: Bộ Kế hoạch và Đầu tư triển khai thực hiện chương
trình “nâng cao hiệu quả đầu tư của dự án chương trình mục tiêu quốc gia đối
với vùng đông tín đồ tôn giáo, vùng dân tộc, miền núi có tôn giáo”; Bộ Giáo
dục và Đào tạo triển khai đề án “Chương trình giáo dục, bồi dưỡng đội ngũ
giáo viên giảng dạy bộ môn Giáo dục công dân trong các trường, lớp đào tạo
chức sắc tôn giáo và hoạt động của các tổ chức, cá nhân tôn giáo tham gia xã
hội hóa giáo dục”; Thanh tra Chính phủ “Tổng kết tình hình khiếu nại về tôn
giáo hoặc liên quan đến tôn giáo và đề xuất phương án giải quyết”; Bộ Công
an triển khai đề án “Đấu tranh với các hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo phá
hoại khối đại đoàn kết dân tộc, gây rối trật tự công cộng, xâm hại an ninh
quốc gia”; Bộ Ngoại giao và Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam triển
khai “Quy chế quản lý đối với các tổ chức phi chính phủ tôn giáo và liên quan
đến tôn giáo trong lĩnh vực viện trợ”; Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch sơ kết
cuộc vận động “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa”, rút kinh nghiệm chỉ
đạo xây dựng mô hình làng, xã văn hóa “Sống tốt đời, đẹp đạo” trong vùng
đông tín đồ tôn giáo; xây dựng đề án “Giữ gìn, phát huy truyền thống thờ
cúng tổ tiên, tôn vinh người có công với Tổ quốc, dân tộc và nhân dân, bài trừ
mê tín dị đoan” và Quy chế “Quản lý việc xuất bản kinh sách, sản xuất và
kinh doanh sách tôn giáo và đồ dùng việc đạo”; Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội triển khai xây dựng “Quy định quản lý đối với các cơ sở từ thiện
nhân đạo do các tôn giáo quản lý; quy chế quản lý làm việc các tổ chức tôn
giáo tham gia các hoạt động từ thiện nhân đạo”…
Nhờ có chính sách tín ngưỡng, tôn giáo đúng đắn và được bổ sung theo
sự phát triển của xã hội nên quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn được mở
rộng và đảm bảo. Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo được xây dựng trên cơ sở kế
thừa Sắc lệnh 234/SL và được đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn qua nhiều giai
đoạn cách mạng thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
tín ngưỡng, tôn giáo. Những quy định cụ thể trong Pháp lệnh cũng như trong
Nghị định số 22/NĐ-CP ngày 01/03/2005 Hướng dẫn thi hành một số điều
88
của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định 92/2012/NĐ-CP, ngày
08/11/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh
tín ngưỡng, tôn giáo (thay thế Nghị định 22/NĐ-CP), một mặt tạo cơ sở pháp
lý đảm bảo cho mọi công dân thực hiện quyền cơ bản về tự do tín ngưỡng, tôn
giáo; mặt khác nhằm nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này.
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân về tự do tín ngưỡng, tôn giáo được
quy định rõ ràng hơn, thông thoáng hơn và cởi mở hơn. Công dân có quyền
theo hoặc không theo một tôn giáo nào; được bày tỏ đức tin của mình; được
thực hiện các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh
hoạt tôn giáo, học tập giáo lý, đạo đức tôn giáo. Mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật. Nhà nước đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; bảo hộ
cơ sở vật chất, tài sản của các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo như chùa, nhà thờ,
thánh đường, thánh thất, điện, đền, trụ sở của tổ chức tôn giáo, trường lớp tôn
giáo; kinh bổn và các đồ dùng thờ cúng của tín ngưỡng, tôn giáo. Trong
những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn, có ý nghĩa quan
trọng trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trên các mặt sinh
hoạt tôn giáo của tín đồ, hoạt động của chức sắc, tính pháp lý và những hoạt
động của các tổ chức tôn giáo.
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ra đời là một minh chứng rõ ràng và
một lần nữa tiếp tục khẳng định nguyên tắc nhất quán trong chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Pháp lệnh phân biệt tín ngưỡng và tôn giáo (chương II) nên lễ hội về tín
ngưỡng được phục hồi. Tính ra, cả nước có hơn 8.000 lễ hội trong đó lễ hội
cách mạng chỉ có 4%, tôn giáo 16%, như vậy 80% là lễ hội dân gian, tập
trung chủ yếu về mùa xuân. Tính ra bình quân, mỗi ngày hơn 30 lễ hội. Có
những lễ hội ở cấp Quốc gia như lễ hội Đền Hùng, có lễ hội của vùng miền
như quan họ Bắc Ninh hay lễ hội Đền Trần nhưng cũng có lễ hội chỉ diễn ra ở
phạm vi làng, xã.
89
Các chủ trương, chính sách của Đảng về tôn giáo đã được thể chế hóa
bằng pháp luạt đầy đủ hơn, việc đầu tư cho công tác quản lý nhà nước về tôn
giáo được tăng cường hơn.
Năng lực và trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước
về tôn giáo ở các cấp tiếp tục được nâng lên qua hoạt động thực tiễn công tác
và qua công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo.
Các tôn giáo đã được nhà nước công nhận tiếp tục hoạt động ổn định
theo hướng tuân thủ pháp luật, các tôn giáo tập trung củng cố tổ chức, tăng
cường các sinh hoạt tôn giáo trong các ngày lễ lớn, tổ chức học tập giáo lý,
đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xây dựng và tu bổ cơ sở thờ tự, hoạt động từ
thiện nhân đạo, phát triển tín đồ và tham gia các sinh hoạt giao lưu quốc tế; đa
số chức sắc, tín đồ tích cực tham gia các hoạt động xã hội, gắn bó với dân tộc
theo phương châm “tốt đời, đẹp đạo”.
3.2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
Nói đến thực hiện pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là nói
đến quá trình đổi mới với những thành tựu to lớn về các mặt kinh tế, văn hóa,
xã hội; trong quá trình đó, đổi mới về chính sách đối với tôn giáo đã đưa lại
những thành tựu rất quan trọng, làm thay đổi căn bản đời sống tôn giáo ở Việt
Nam; đời sống tôn giáo ở Việt Nam thể hiện trên các mặt sinh hoạt tôn giáo
của tín đồ, hoạt động của chức sắc, tính pháp lý và những hoạt động của tổ
chức tôn giáo, như: đại hội, hội nghị, phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm,
bầu cử, suy cử, thuyên chuyển nơi hoạt động tôn giáo của chức sắc, nhà tu
hành, thành lập trường đào tạo, in xuất bản kinh sách, sửa chữa, xây dựng cơ
sở thờ tự, tham gia các hoạt động từ thiện xã hội, thực hiện các mối quan hệ
với các tổ chức tôn giáo quốc tế…
3.2.2.1. Về công nhận tổ chức tôn giáo
Trước đổi mới chỉ có bốn tổ chức được nhà nước công nhận gồm: Giáo
hội Phật Giáo Việt Nam được công nhận năm 1981; Hội đồng Giám mục Việt
90
Nam được công nhận năm 1980; Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc)
được công nhận năm 1958; Ban Quản trị các Thánh đường Hồi giáo thành
phố Hồ Chí Minh năm 1983 (thực ra đây chỉ là đầu mối quản lý được lập ra
để tiếp nhận viện trợ của Ngân hàng Phát triển Hồi Giáo - IDB, sau này, năm
1992 đổi thành Ban Đại diện Cộng đồng Hồi Giáo thành phố Hồ Chí Minh).
Từ khi đổi mới đến nay có thêm 35 tổ chức được công nhận; nếu chia
theo thời gian thì từ khi đổi mới về công tác tôn giáo được đánh dấu bằng
nghị quyết số 24 (1990) đến khi Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ra đời (2004),
Nhà nước công nhận 11 tổ chức tôn giáo, trong đó có 09 tổ chức của đạo Cao
Đài, cụ thể như sau:
Hội thánh Cao Đài Tiên Thiên được Ban Tôn giáo của Chính phủ ra
Quyết định số 51/QĐ-TGCP, ngày 29/07/1995.
Hội thánh Cao Đài Chiếu Minh Long Châu được Ủy ban nhân dân tỉnh
Cần Thơ ra Quyết định số 1562/QĐ-CT.HC.96, ngày 27/07/1996.
Hội thánh Cao Đài Minh Chơn đạo được Ban Tôn giáo của Chính phủ
ra Quyết định số 39/QĐ-TGCP, ngày 02/08/1996.
Hội thánh Truyền Giáo Cao Đài được Ban Tôn giáo của Chính phủ ra
Quyết định số 40/QĐ-TGCP, ngày 24/09/1996.
Hội thánh Cao Đài Tây Ninh được Ban Tôn giáo của Chính phủ ra
Quyết định số 10/QĐ-TGCP, ngày 09/05/1997.
Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo được Ban Tôn giáo của Chính phủ
ra Quyết định số 26/QĐ-TGCP, ngày 08/08/1997.
Hội thánh Cao Đài Bạch Y Liên Đoàn Chơn Lý được Ủy ban nhân dân
tỉnh Kiên Giang ra Quyết định số 2363/QĐ-UB, ngày 08/07/1998.
Ban Đại diện Phật Giáo Hòa Hảo được Ban Tôn giáo của Chính phủ ra
Quyết định số 21/QĐ-TGCP, ngày 11/06/1999.
Hội thánh Cao Đài Chơn Lý được Ban Tôn giáo của Chính phủ ra
Quyết định số 16/QĐ-TGCP, ngày 14/03/2000.
91
Hội thánh Cao Đài Cầu Kho Tam Quan được Ban Tôn giáo của Chính
phủ ra Quyết định số 199/QĐ-TGCP, ngày 28/04/2000.
Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) được Ban Tôn giáo của
Chính phủ ra Quyết định số 15/QĐ-TGCP, ngày 16/03/2001.
Điều đáng quan tâm là các lần công nhận tổ chức tôn giáo nói trên của
Nhà nước ta, có trường hợp văn bản nói rõ là công nhận tư cách pháp nhân
như với các tổ chức Cao Đài, nhưng cũng có trường hợp không nói trực tiếp
như với Giáo hội Phật Giáo Việt Nam, Ban Đại diện Phật Giáo Hòa Hảo,…
nhưng ai cũng hiểu công nhận về tổ chức tức là công nhận tư cách pháp nhân.
Riêng Hội đồng Giám mục Việt Nam thành lập năm 1980, vì đặc thù về tổ
chức của tôn giáo này nên Nhà nước không ra văn bản chính thức công nhận
tư cách pháp nhân, nhưng nhà nước ta đã chấp thuận quá trình vận động và tổ
chức đại hội thành lập.
Sau khi có Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (2004) đến nay, nhà nước đã
xem xét cấp đăng ký hoạt động và công nhận cho 23 tổ chức tôn giáo theo
thời gian như sau:
Ban Đại diện Cộng đồng Hồi Giáo tỉnh An Giang được Ủy ban nhân
dân tỉnh An Giang ra Quyết định số 2775/QĐ-UBND, ngày 17/12/2004.
Hội đồng Sư cả Hồi Giáo Bà-Ni tỉnh Ninh Thuận được Ủy ban nhân
dân tỉnh Ninh Thuận ra Quyết định số 4106/QĐ-UBND, ngày 01/10/2007.
Hội Truyền Giáo Cơ Đốc Việt Nam được Ban Tôn giáo Chính phủ ra
Quyết định số 175/QĐ-TGCP, ngày 22/10/2007.
Minh Lý đạo - Tam Tông Miếu được Ban Tôn giáo Chính phủ ra Quyết
định số 195/QĐ-TGCP, ngày 01/10/2008.
Giáo Hội Phật Đường Nam Tông Minh Sư Đạo được Ban Tôn giáo
Chính phủ ra Quyết định số 196/QĐ-TGCP,ngày 01/10/2008.
Tổng Hội Báp-Tít Việt Nam (Ân điển - Nam Phương) được Ban Tôn
giáo Chính phủ ra Quyết định số 109/QĐ-TGCP, ngày 07/05/2008.
92
Hội đồng Tinh thần Baha’i Việt Nam được Ban Tôn giáo Chính phủ ra
Quyết định số 150/QĐ-TGCP, ngày 14/07/2008.
Hội thánh Báp - Tít (Nam Phương) được Ban Tôn giáo Chính phủ ra
Quyết định số 199/QĐ-TGCP, ngày 03/10/2008.
Tịnh Độ Cư Sỹ Phật Hội Việt Nam được Ban Tôn giáo Chính phủ ra
Quyết định số 207/QĐ-TGCP, ngày 27/11/2008.
Hội thánh Tin Lành Trưởng lão Việt Nam được Ban Tôn giáo Chính
phủ ra Quyết định số 234/QĐ-TGCP,ngày 04/12/2008.
Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm Việt Nam được Ban Tôn giáo Chính phủ ra
Quyết định số 235/QĐ-TGCP, ngày 04/12/2008.
Hội thánh Mennonite Việt Nam được Ban Tôn giáo Chính phủ ra
Quyết định số 12/QĐ-TGCP, ngày 05/02/2009.
Bửu Sơn Kỳ Hương được Sở Nội vụ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu công nhận
ngày 25/03/2009.
Hội thánh Phúc Âm Ngũ Tuần Việt Nam được Ban Tôn giáo Chính
phủ cấp Giấy Chứng nhận số 12/GCN-TGCP, ngày 24/09/2009.
Pháp Môn Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi được Ban Tôn giáo
Chính phủ chấp thuận đăng ký hoạt động ngày 15/12/2009.
Hội thánh Liên Hữu Cơ Đốc Việt Nam được Ban Tôn giáo Chính phủ
ra Quyết định số 84/QĐ-TGCP,ngày 14/06/2010.
Đạo hội Tứ Ân Hiếu Nghĩa được Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang ra
Quyết định số 1114/QĐ-UBND, ngày 16/06/2010.
Ban Đại diện Cộng Đồng Hồi Giáo tỉnh Tây Ninh được Ủy ban nhân
dân tỉnh Tây Ninh ra Quyết định số 710/CV-UBND, ngày 01/10/2010.
Giáo hội Cao Đài Việt Nam (Bình Đức) được Ban Tôn giáo Chính phủ
ra Quyết định số 90/QĐ-TGCP, ngày 01/07/2011.
Hội đồng Chức Sắc Chăm Bà-la-môn tỉnh Ninh Thuận được Ủy ban
nhân dân tỉnh Ninh Thuận ra Quyết định số 1192/QĐ-UBND, ngày
18/06/2012.
93
Ban Đại diện Cộng Đồng Hồi Giáo tỉnh Ninh Thuận được Ủy ban nhân
dân tỉnh Ninh Thuận ra Quyết định số 1232/QĐ-UBND,ngày 22/06/2012.
Hội đồng Sư Cả Hồi Giáo Bà-Ni tỉnh Bình Thuận được Ủy ban nhân
dân tỉnh Bình Thuận ra Quyết định số 2161/QĐ-UBND,ngày 31/10/2012.
Hội đồng Chức Sắc Chăm Bà-La-Môn tỉnh Bình Thuận được Ủy ban
nhân dân tỉnh Bình Thuận ra Quyết định số 2605/QĐ-TGCP, ngày
19/12/2012.
Ban Đại diện Lâm Thời Giáo hội Các Thánh Hữu Ngày Sau của Chúa
Giê-xu Ki-tô Việt Nam được Ban Tôn giáo Chính phủ ra Quyết định số
132/QĐ-TGCP, ngày 30/05/2014.
Đến hết năm 2015, tất cả có 39 tổ chức tôn giáo có địa vị pháp lý hoạt
động ở Việt Nam, trong đó có 36 tổ chức và 01 Pháp Môn được công nhận,
02 tổ chức được cấp đăng ký. Mỗi tổ chức tôn giáo khi được cấp đăng ký
cũng như được công nhận đều tuân thủ đúng trình tự pháp lý và đủ các điều
kiện quy định của pháp luật, các tổ chức tôn giáo đều tiến hành nắm lại thực
lực tín đồ chức sắc, cơ sở tôn giáo, phạm vi hoạt động, tiến hành tổ chức Đại
hội Đại biểu thông qua Hiến chương (Điều lệ), đường hướng hành đạo và bầu
cơ quan lãnh đạo Giáo hội để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Trong quá
trình này, Ban Tôn giáo Chính phủ phối hợp chặt chẽ với các ngành chức
năng và địa phương hướng dẫn, giúp đỡ các tổ chức tôn giáo tháo gỡ những
vướng mắc, tồn tại, thực hiện theo đúng quy định của nhà nước.
3.2.2.2. Về việc mở trường đào tạo chức sắc
Trước đổi mới chỉ có một số cơ sở đào tạo chức sắc của Phật Giáo,
Công Giáo. Từ khi đổi mới tới nay đã có 16 trường đào tạo chức sắc trình độ
đại học. Cụ thể: 04 Học viện của Phật Giáo gồm Học viện Phật Giáo Hà Nội,
Học viện Phật Giáo Huế, Học viện Phật Giáo thành phố Hồ Chí Minh, Học
viện Phật Giáo Nam Tông Khơ-me; 07 Đại Chủng viện của Công Giáo gồm
Đại Chủng viện Thánh Giu-se Hà Nội, Đại Chủng viện Vinh Thanh Nghệ An,
Đại Chủng viện Huế (Thừa Thiên - Huế), Đại Chủng viện Sao Biển Nha
94
Trang (Khánh Hòa), Đại Chủng viện Thánh Giu-se thành phố Hồ Chí Minh,
Đại Chủng viện Thánh Quí (Cần Thơ), Đại Chủng viện Thánh Giu-se Xuân
Lộc (Đồng Nai); 03 của Tin Lành gồm Viện Thánh Kinh thần học thành phố
Hồ Chí Minh của Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam), Trường Kinh
Thánh Hà Nội của Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc), Trường Kinh
Thánh Đà Nẵng của Hội Truyền Giáo Cơ Đốc Việt Nam; 01 Học viện Truyền
Giáo Cao Đài tại Đà Nẵng của đạo Cao Đài và 01 Trường của Phật Giáo Hòa
Hảo; ngoài ra còn có 40 trường Cao đẳng và Trung cấp. Như vậy cho đến
năm 2015, các tôn giáo ở Việt Nam có gần 60 cơ sở đào tạo chức sắc với tổng
số trên dưới 10.000 học viên đang theo học. Cũng từ khi đổi mới tới năm
2014, có khoảng 1.000 chức sắc các tôn giáo đi tu học nước ngoài ở bậc thạc
sỹ, tiến sỹ, nhiều nhất là Phật Giáo (650 người).
3.2.2.3. Sinh hoạt tôn giáo của tín đồ
Trước hết nói về sự phục hồi và tăng trưởng về tín đồ cùng chức sắc
các tôn giáo ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay.
Năm 1985, số tín đồ là 14 triệu, số chức sắc là 35 ngàn; năm 1990, số
lượng tín đồ là 15 triệu, số chức sắc là 38 ngàn; năm 2000, số lượng tín đồ là
20 triệu, số lượng chức sắc là 55 ngàn; năm 2005, số lượng tín đồ các tôn giáo
là 22 triệu tín đồ, số lượng chức sắc là 70 ngàn; năm 2010 số lượng tín đồ là
23 triệu, số lượng chức sắc là 80 ngàn; năm 2014, số lượng tín đồ là 24 triệu,
số lượng chức sắc là 87 ngàn. Như vậy, số lượng tín đồ các tôn giáo tăng
nhanh vào những năm từ 1990 đến khoảng 2005, sau đó đến nay số tín đồ tân
tòng các tôn giáo không nhiều mà chủ yếu tăng theo cơ học [12].
Về sinh hoạt tôn giáo, tín đồ các tôn giáo đều thực hiện các sinh hoạt
tôn giáo bình thường tại gia đình và nơi thờ tự theo nghi lễ truyền thống của
tôn giáo mình. Một số sinh hoạt của một số tôn giáo, nhất là những tôn giáo
có phạm vi địa phương, mới ra đời hoặc mới truyền vào, vì lý do nào đó trước
đây không thực hiện thì từ khi đổi mới đến nay đều được phục hồi. Đặc biệt
thời gian gần đây, nhiều sinh hoạt tôn giáo diễn ra quy mô lớn kéo dài thời
95
gian mà trước đây không thực hiện được. Ví dụ như Hội Thánh Cao Đài Tây
Ninh khi công nhận tư cách pháp nhân trong dịp Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung
(Rằm tháng Tám - 1997) có đến hơn 200.000 người tham dự; Ban Đại diện
Phật Giáo Hòa Hảo ra mắt trong dịp Lễ Khai đạo (1999) có khoảng 500.000
lượt người tham dự; Đại lễ Vesak 2008 tại Hà Nội có hàng chục ngàn tăng ni,
Phật tử và 4.000 khách quốc tế từ 74 quốc gia và vùng lãnh thổ tới dự; Lễ hội
La Vang của Giáo hội Công Giáo hàng năm đều thu hút đến hàng trăm ngàn
lượt người hành hương, riêng lễ Khai mạc Năm Thánh của Giáo hội Công
Giáo (2009) tại Sở Kiện, Hà Nam là nơi gặp gỡ của 100.000 người đến dự từ
mọi miền của đất nước và khách quốc tế; Lễ Kỷ niệm 100 Tin Lành đến Việt
Nam (2011) ở Đà Nẵng, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh thu hút hàng vài
chục ngàn lượt tín đồ, chức sắc và khách quốc tế tới tham dự và gần đây là
Đại lễ Vesak 2014 tại Bái Đính, Ninh Bình thu hút hơn 10.000 Phật tử tham
dự, trong đó có 1.150 khách quốc tế đến từ 95 quốc gia và vùng lãnh thổ…
3.2.2.4. Về việc xây dựng, sửa chữa nơi thờ tự
Trước đổi mới hầu như không có hoạt động này, từ khi đổi mới đến
nay, hầu hết các cơ sở thờ tự của các tôn giáo (hơn 21.000/26.000 cơ sở
chiếm 80%) được sửa chữa, trong đó có đến 1/3 được trùng tu sửa chữa ở quy
mô lớn và khoảng hơn 2.000 cơ sở được xây mới. Chỉ tính trong năm 2010 và
2011 cả nước có 500 cơ sở tôn giáo được xây mới, 600 cơ sở tôn giáo được
trùng tu qui mô lớn. Thời gian gần đây, trên căn bản nhu cầu về nơi thờ tự,
chính quyền các địa phương đã cấp quyền sử dụng đất cho các tổ chức tôn
giáo xây dựng cơ sở tôn giáo; đồng thời có 3.277 cơ sở thờ tự của các tôn
giáo được nâng cấp, xây dựng mới, 6.595 cơ sở tôn giáo được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất; điển hình như chính quyền Hà Nội đã cấp hơn 10ha
xây dựng Học viện, chính quyền thành phố Đà Nẵng cấp 5.000 m2 xây dựng
trụ sở của Hội Truyền Giáo Cơ Đốc Việt Nam, 10.000 m2 mở rộng Tòa giám
mục Đà Nẵng; chính quyền thành phố Cần Thơ cấp 11ha xây dựng Học viện
Phật Giáo Nam tông Khơ-me; chính quyền Quảng Trị cấp thêm 15 ha mở
96
rộng khuôn viên Trung tâm hành hương Đức mẹ La Vang; chính quyền tỉnh
Thừa Thiên Huế cấp 10ha xây dựng Thiền Viện Bạch Mã và 26,5 ha xây
dựng Học viện Phật Giáo Huế; chính quyền thành phố Hải Phòng cấp 10.000
m2 xây dựng nhà hưu dưỡng cho các linh mục, tu sỹ của Giáo phận Hải
Phòng; chính quyền Ninh Bình cấp 15.000m2 xây dựng Trung tâm Mục vụ
Giáo phận Phát Diệm,…
3.2.2.5. Về in ấn xuất bản
Trước đổi mới, gần như không có hoạt động xuất bản kinh sách tôn
giáo, nếu có thì thực hiện xuất bản theo quy chế nhất thời ở ba nhà xuất bản:
Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Thuận Hóa,
Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin. Từ khi đổi mới, đặc biệt là từ năm 1999-
khi Nhà xuất bản Tôn giáo thành lập (1999) đến năm 2014 có khoảng 4.000
đầu sách được xuất bản, với số lượng hàng chục triệu bản (riêng Kinh Thánh
xuất bản gần 01 triệu bản. 5 năm đầu tiên hoạt động của Nhà xuất bản tôn
giáo (1999-2004) đã xuất bản được 714 tựa sách, 4.200.000 bản in, trong đó
sách Phật Giáo hơn 490 đầu sách, Công Giáo gần 205 đầu sách, Tin Lành gần
45 đầu sách và hơn 205 văn hóa phẩm như lịch, băng, đĩa liên quan đến tôn
giáo. Trong 5 năm trở lại đây (2010-2015), nhà xuất bản tôn giáo đã cấp phép
xuất bản 5.979 xuất bản phẩm (trong đó đầu sách tôn giáo 3.989 = 14.367.000
bản in, văn hóa phẩm 902 xuất bản phẩm = 1.978.653 bản in, 1.580.000 đĩa
VCD, CD, MP3…)
Cho đến năm 2015, ở Việt Nam có 15 tờ báo và tạp chí của các tổ chức
tôn giáo đang hoạt động, trong đó có những tờ báo, tạp chí có uy tín như: Văn
hóa Phật Giáo, Nghiên cứu Phật học, Khuông Việt, Phật Giáo Nguyên Thủy,
Giác Ngộ (của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam), Hiệp Thông (của Giáo hội
Công Giáo Việt Nam), Người Công Giáo Việt Nam (của Ủy ban Đoàn kết
Công Giáo Việt Nam), Công Giáo và Dân Tộc (của Ủy ban Đoàn kết Công
Giáo thành phố Hồ Chí Minh), Mục Vụ, Thông Công (của Tin Lành), Cao
97
Đài (của đạo Cao Đài), Hương Sen (Phật Giáo Hòa hảo),… Ngoài ra còn
nhiều trang Thông tin điện tử của các tổ chức tôn giáo đang hoạt động.
3.2.2.6. Về hoạt động quốc tế của các tổ chức, cá nhân tôn giáo
Từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, các hoạt
động quốc tế của các tôn giáo được mở ra trên nhiều tuyến, nhất là các quan
hệ về phương diện tổ chức giữa tổ chức tôn giáo ở Việt Nam với các tổ chức
tôn giáo thế giới, như Công Giáo, Tin Lành, Hồi Giáo, Cao Đài… Ngoài các
hoạt động quốc tế bình thường mang tính tổ chức hoặc giao lưu với các tổ
chức tôn giáo quốc tế, các tôn giáo ở Việt Nam tham gia rất tích cực các hội
nghị, các diễn đàn tôn giáo ở khu vực và quốc tế.
Trong tình hình các thế lực thù địch trong và ngoài nước luôn tìm cách
đưa vấn đề nhân quyền, tự do tôn giáo ở Việt Nam ra xem xét tại các diễn đàn
quốc tế, tại Quốc hội một số nước phương Tây và Nghị viện châu Âu cũng
như một số các tổ chức quốc tế khác (như Ủy ban Nhân quyền, Ủy ban Kinh
tế xã hội Liên Hiệp quốc) công tác đối ngoại đã được sự quan tâm chỉ đạo
chặt chẽ của Ban Bí thư, Bộ Chính trị và Chính phủ; Nhà nước đã tổ chức một
số đoàn công tác của Chính phủ, của các tổ chức tôn giáo ra nước ngoài tham
gia việc tuyên truyền bảo vệ chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước và giải
quyết những vấn đề liên quan đến tôn giáo ở nước ngoài; đã chú ý nâng cao
chất lượng các đoàn ra nước ngoài công tác…, đồng thời tranh thủ các đoàn
nước ngoài vào nước ta như đoàn Đại sứ quán Iran, đoàn Đại sứ quán Mỹ,
đoàn Liên Minh Châu Âu, đoàn Giáo hội Mormom Quốc tế, đoàn Ủy ban
Trung ương Mặt trận Lào xây dựng đất nước… tuyên truyền về đời sống tín
ngưỡng, tôn giáo phong phú ở Việt Nam và chính sách tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của Đảng và nhà nước; công tác đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi
dụng hoạt động tôn giáo để chống phá Đảng và Nhà nước đã được duy trì
thường xuyên qua hoạt động phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Công an, Văn
phòng Ban Chỉ đạo nhân quyền và các ban ngành liên quan.
98
Theo một thống kê không chính thức của Ban tôn giáo Chính phủ, từ
năm 2005 đến năm 2013 có tất cả 205 đoàn khách tôn giáo nước ngoài vào
Việt Nam hoạt động tôn giáo, cụ thể: năm 2005, 2006 có 20 đoàn; năm 2007
có 24 đoàn; năm 2008 có 15 đoàn; năm 2010 có 33 đoàn; năm 2011 có 35
đoàn; năm 2012 có 43 đoàn; năm 2013 có 22 đoàn. Cũng theo thống kê này,
trong khoảng thời gian từ năm 2005 đến năm 2013 có 1.343 đoàn thuộc tổ
chức, cá nhân tôn giáo ở Việt Nam tham gia hoạt động quốc tế ở nước ngoài,
cụ thể: năm 2005 có 150 đoàn; năm 2006 có 139 đoàn; năm 2007 có 163
đoàn; năm 2008 có 116 đoàn; năm 2009 có 169 đoàn; năm 2010 có 114 đoàn;
năm 2011 có 167 đoàn; năm 2012 có 66 đoàn; năm 2013 có 259 đoàn [12].
3.2.2.7. Về vấn đề tôn giáo đặc thù ở Tây bắc và Tây Nguyên, Tây
Nam Bộ.
Trong khoảng vài chục năm trở lại đây, đạo Tin Lành phát triển quá
nhanh trong đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và Tây Bắc đã gây ra sự
xung đột giữa văn hóa tín ngưỡng bản địa với văn hóa, lối sống Tin Lành gây
ra sự mất ổn định xã hội. Năm 1975 ở Tây Nguyên chỉ có 55.000 người theo
đạo Tin Lành, đến năm 2010 tăng lên 550.000 người. Trước tình hình trên,
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều văn bản giải quyết, trong đó có Chỉ thị số
01/CT-TTg, ngày 04/02/2005 của Thủ tướng Chính phủ Về một số công tác
đối với đạo Tin Lành. Từ năm 2005, nhờ sự kết hợp triển khai chính sách phát
triển kinh tế, văn hóa xã hội với việc thực hiện tốt chính sách tôn giáo - trên
cơ sở tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân,
các địa phương ở Tây Nguyên, Tây Bắc đã thực hiện bình thường hóa sinh
hoạt tôn giáo bằng việc các điểm nhóm Tin Lành theo làng bản đăng ký sinh
hoạt tôn giáo với chính quyền cơ sở.
Ở Tây Nam Bộ, có một bộ phận đông đảo đồng bào dân tộc Khmer
theo Phật Giáo Nam Tông. Nhưng do đời sống kinh tế của đồng bào còn
nhiều khó khăn nên đời sống tôn giáo cũng bị ảnh hưởng và cần được Đảng
và Nhà nước quan tâm. Ngày 26/02/2004, Thủ tướng Chính phủ có ý kiến về
99
chủ trương cụ thể về Phật Giáo Nam Tông Khmer qua thông báo số 122/TB-
CP và đã được các địa phương và các ngành chức năng nỗ lực thực hiện. Năm
2006, Học viện Phật giáo Nam Tông Khmer được Thủ tướng Chính phủ cho
phép thành lập tại thành phố Cần Thơ. Cùng với việc thành lập và đào tạo của
Học viện, các địa phương đã chấp thuận việc mở các lớp học tiếng Pali ở các
chùa, mở một số trường trung cấp Pali. Duy trì các lớp tiếng Khmer và bổ túc
văn hóa, Anh văn, tin học cho tăng sỹ Phật Giáo Nam Tông Khmer và thanh
thiếu niên dân tộc Khmer. Ngoài ra, còn có rất nhiều tăng sỹ theo học các
trường đại học, cao đẳng trường dạy nghề ngoài đời và du học tại nước ngoài
với học thạc sỹ, tiến sỹ. Kinh sách được triển khai in ấn rộng rãi với sự hỗ trợ
của nhà nước. Các chùa đều được trùng tu, tôn tạo khang trang, đảm bảo được
nét kiến trúc đặc thù Phật Giáo Nam Tông và văn hóa dân tộc Khmer.
3.2.2.8. Các tổ chức tôn giáo tham gia các phong trào thi đua yêu
nước, các hoạt động xã hội hóa về y tế, giáo dục, từ thiện nhân đạo.
Hoạt động từ thiện, xã hội được các tổ chức, cá nhân tôn giáo quan tâm
và tham gia tích cực, thông qua các hoạt động tôn giáo các tổ chức, cá nhân tôn
giáo đã vận động, quyên góp được hàng ngàn tỷ đồng để làm công tác từ thiện,
giúp đỡ những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, không nơi nương tựa, những
gia đình bị thiệt hại nặng do thiên tai, bão lũ gây ra; các trường lớp mẫu giáo,
nhà trẻ, trung tâm, các phòng khám chữa bệnh miễn phí do các tổ chức, cá nhân
tôn giáo tổ chức, đảm nhận đã giúp hàng chục ngàn bệnh nhân có hoàn cảnh
khó khăn, trẻ mồ côi, không nơi nương tựa, góp phần giảm bớt khó khăn trong
cuộc sống; điển hình trong lĩnh vực từ thiện xã hội như: Phật Giáo có 126 Tuệ
Tĩnh Đường, 115 phòng thuốc chẩn trị y học hoạt động ổn định, kinh phí phục
vụ đã khám, chữa bệnh và phát thuốc; Tịnh Độ Cư Sỹ Phật Hội Việt Nam có
206 phòng thuốc Nam phước thiện; Công Giáo hiện có 100 trạm xá, phòng
phát thuốc, bệnh viện, 25 cơ sở cho người mắc bệnh phong hoạt động ổn
định; Các Hội thánh Cao Đài đã mở được 93 cơ sở phòng thuốc nam khám
100
chữa bệnh từ thiện, 135 cơ sở bốc thuốc, 02 cơ sở chăm sóc chữa bệnh lâu dài
tại cơ sở, có 11 cơ sở chăm sóc người già.
3.2.2.9. Về khiếu nại, tố cáo
Trước những diễn biến phức tạp của các vụ việc khiếu kiện, khiếu nại
của các tổ chức, cá nhân tôn giáo về đất đai, cơ sở thờ tự có nguồn gốc tôn
giáo, Ban Tôn giáo Chính phủ chủ trì phối hợp với các bộ, ngành Trung ương
và địa phương liên quan trong việc thống nhất kế hoạch xử lý và trình xin ý
kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về những giải pháp xử lý các vụ việc
khiếu kiện, tranh chấp đất đai của các tổ chức tôn giáo. Kết quả tổng hợp từ
báo cáo các tỉnh, thành phố năm 1996 đến năm 2014 cho thấy cả nước có hơn
3.000 vụ khiếu kiện liên quan đến vấn đề tôn giáo. Đáng chú ý là từ năm 2001
đến nay, vấn đề khiếu kiện của các tôn giáo có chiều hướng ngày càng gia
tăng, số lượng vụ việc xuất hiện nhiều hơn, trong đó khiếu kiện tranh chấp đất
đai tôn giáo và cơ sở thờ tự của tôn giáo là vấn đề phức tạp nhất.
Đi sâu hơn, nhiều báo cáo công tác hàng năm của Ban Tôn giáo Chính
phủ đưa ra nhận xét: tính chung trong cả nước, số đơn thư khiếu kiện có nội
dung về nhà đất, cơ sở thờ tự tôn giáo từ năm 1996 đến năm 2005 và đặc biệt
là những năm gần đây luôn chiếm khoảng trên 60% trong tổng số các vụ
khiếu kiện liên quan tôn giáo. Một số tỉnh, thành phố có tỷ lệ khiếu kiện liên
quan đến đất đai, cơ sở thờ tự tôn giáo cao như Hà Nội (105/113 vụ chiếm
92,92%, chủ yếu của Phật Giáo), thành phố Hồ Chí Minh (63/68 vụ chiếm
87,7%, chủ yếu của Công Giáo),… riêng 8 tỉnh, thành phố khu vực Tây Nam
bộ có 308 vụ việc, số vụ việc nhiều và phức tạp nhất thuộc về đạo Công Giáo,
Phật Giáo, Phật Giáo Hòa Hảo. Cụ thể: Công Giáo 105 vụ, chiếm 33,76%;
Phật Giáo 89 vụ, chiếm 28,89%; Phật Giáo Hòa Hảo 59 vụ, chiếm 19,15%;
Cao Đài 35 vụ, chiếm 11,36%; Tin Lành 21 vụ, chiếm 6,81%; trong đó có
206 vụ việc đã được giải quyết tạm ổn, hiện còn 102 vụ chưa giải quyết được
do không có hồ sơ đầy đủ hoặc do chính quyền và đơn vị sử dụng không đúng
mục đích, không có hiệu quả nên khi đối thoại với tôn giáo khó thuyết phục
101
được họ. Có 29 vụ được xác định là nổi cộm, dễ phát sinh thành điểm nóng
như ở các tỉnh: An Giang 05 vụ, Vĩnh Long 02 vụ, Tiền Giang 02 vụ, Sóc
Trăng 02 vụ, Bạc Liêu 01 vụ, Cà Mau 05 vụ, Đồng Tháp 03 vụ, Kiên Giang
03 vụ, Hậu Giang 02 vụ và Cần Thơ 02 vụ.
Việc giải quyết đơn thư, khiếu nại, tố cáo được các địa phương xem xét
kịp thời, nhiều tỉnh, thành phố Ban Tôn giáo đã phối hợp với các cơ quan liên
quan của tỉnh và chính quyền cơ sở rà soát, phân loại từng vụ việc tham mưu
cho Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định xử lý những việc giải quyết được, những
việc không có cơ sở giải quyết, bước đầu giữ ổn định tình hình, giảm bớt
khiếu kiện kéo dài, về cơ bản kết luận giải quyết được các tổ chức, cá nhân
tôn giáo chấp thuận.
Như vậy, đời sống tôn giáo ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay có sự
thay đổi rất căn bản theo chiều hướng ngày càng tiến bộ và tích cực. Điều đó
chứng tỏ chủ trương và chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước
Việt Nam ngày càng được quần chúng tín đồ và chức sắc tin tưởng, ủng hộ và
tham gia công cuộc đổi mới. Từ đó góp phần vào sự ổn định tình hình chính
trị và phát triển đất nước. Những chuyển biến trong đời sống tôn giáo ở Việt
Nam là bằng chứng khẳng định Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền không tự do tín ngưỡng, tôn giáo
của mọi người; qua đó bác bỏ những luận điệu xuyên tạc tình hình tôn giáo và
chính sách tôn giáo ở Việt Nam.
3.3. ĐÁNH GIÁ NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG
VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TÔN GIÁO
3.3.1. Những thành tựu trong việc thực hiện pháp luật về quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Qua nghiên cứu pháp luật về tôn giáo hiện hành, có thể rút ra một số ưu
điểm của pháp luật về tôn giáo nói chung và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
nói riêng như sau:
102
+ Quan điểm, đường lối nhất quán của Đảng được thể chế hóa thành
chính sách, pháp luật của Nhà nước được quan tâm tổ chức thực hiện với sự
quan tâm của cả hệ thống chính trị; nhận thức về tín ngưỡng, tôn giáo của cán
bộ trong hệ thống chính trị được nâng lên; chúng ta đã khắc phục được một
bước nhận thức lệch lạc, phiến diện về tôn giáo trong cán bộ, đảng viên, trong
hệ thống chính trị và trong nhân dân, nên đã tạo ra được xu thế đồng hành
cùng dân tộc, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng
và văn minh.
+ Pháp luật về tôn giáo đã quán triệt, vận dụng sáng tạo những quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng ta về vấn đề tôn giáo.
Ở các giai đoạn, đặc biệt là giai đoạn hiện nay, pháp luật về tôn giáo
thể hiện nhất quán chính sách của Đảng, nhà nước ta luôn tôn trọng và bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối
xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; đồng thời trừng trị nghiêm khắc những hành
vi lợi dụng tôn giáo phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá sự
nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước.
+ Pháp luật về tôn giáo góp phần quan trọng trong việc củng cố sự đoàn
kết, phát huy sức mạnh nội lực của toàn dân tộc trong phát triển kinh tế và giữ
vững ổn định chính trị xã hội.
Pháp luật về tôn giáo không chỉ tạo ra hành lang pháp lý cho các hoạt
động tôn giáo mà còn là phương tiện đấu tranh hữu hiệu để bảo vệ quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo; góp phần tích cực vào việc đoàn kết đồng bào các tôn
giáo, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo trong khối đại
đoàn kết toàn dân tộc; tuyên truyền vận động tín đồ các tôn giáo thực hiện tốt
các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước. Vì vậy, pháp
luật về tôn giáo đã đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với việc vận động tín
đồ, chức sắc các tôn giáo sống tốt đời, đẹp đạo, cùng toàn dân phát triển kinh
tế và giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Chúng ta đã xây dựng được khối đại
103
đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết giữa những người có tín ngưỡng, tôn giáo và
không tín ngưỡng, tôn giáo xây dựng đất nước.
+ Pháp luật về tôn giáo là công cụ sắc bén đấu tranh với mọi âm mưu,
hoạt động lợi dụng tôn giáo chống lại Đảng, nhà nước ta.
Các thế lực thù địch luôn lợi dụng tôn giáo để chống lại Đảng, nhà
nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Khách thể mà chúng nhằm phá
hoại là khách thể đặc biệt, đó là sự bền vững của chế độ, là độc lập chủ quyền
của đất nước; và điều nguy hiểm hơn khi âm mưu đó được che đạy, đội lốt
dưới danh nghĩa tôn giáo. Nhận thức được âm mưu thâm độc đó của các thế
lực thù địch, ngay từ khi nước nhà độc lập và trong suốt quá trình xây dựng
và bảo vệ tổ quốc, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, nhà nước ta luôn nâng
cao tinh thần cảnh giác, đặt ra các nhiệm vụ chống lại các âm mưu nhằm chia
rẽ đồng bào lương, đồng bào giáo, lợi dụng nhân quyền, tôn giáo để vu khống
nhà nước ta. Quan điểm này được nhà nước tiếp tục khẳng định trong Hiến
pháp, các văn bản pháp quy làm cơ sở pháp lý cho các cơ quan chức năng
triển khai các hoạt động phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với mọi âm mưu lợi
dụng tôn giáo để phá hoại độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
+ Đã tạo ra xu thế chủ đạo trong quần chúng tín đồ và chức sắc là hành
đạo, quản đạo và truyền đạo trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật và tuân
thủ sự quản lý của Nhà nước. Đảng, Chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể
quần chúng đã quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của giáo dân, từ đó
tạo được lòng tin đối với chức sắc và tín đồ các tôn giáo.
+ Kinh tế - xã hội vùng đồng bào các tôn giáo có bước phát triển vượt
bậc, tạo niềm tin vào đường lối đổi mới, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước.
3.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
3.3.2.1. Những hạn chế
104
Bên cạnh bức tranh khả quan nêu trên, tình hình bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam cũng bộc lộ một số hạn chế thiếu sót nhất
định:
- Một số địa phương, cấp ủy Đảng, chính quyền và một số cán bộ làm
công tác tôn giáo chưa nhận thức đầy đủ chủ trương, chính sách đổi mới của
Đảng, Nhà nước đối với tôn giáo trong thời kỳ đổi mới nên chưa tranh thủ
được tín đồ và chức sắc các tôn giáo. Trong quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo vừa có biểu hiện cứng nhắc, vừa có biểu hiện buông lỏng, chưa
kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm với những hành vi sai trái của một số
người lợi dụng tôn giáo vi phạm pháp luật.
- Một số quy định của pháp luật còn bất cập, chưa phù hợp với hoàn
cảnh thực tế dẫn đến chưa phát huy được sức mạnh của toàn dân trong đó có
đồng bào có đạo trong việc cùng nhà nước tham gia giải quyết những vấn đề
xã hội như việc hạn chế tổ chức tôn giáo trong việc tham gia xã hội hóa trong
các lĩnh vực y tế, giáo dục, từ thiện nhân đạo.
- Một số quy định về sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài còn chưa
phù hợp, chưa đáp ứng được nhu cầu của người nước ngoài theo tôn giáo khi
vào Việt Nam sinh sống, học tập và làm việc như việc bảo đảm nhu cầu sinh
hoạt tôn giáo riêng của người nước ngoài khi mà cơ sở tôn giáo tương ứng ở
Việt Nam chưa bảo đảm về cơ sở vật chất hoặc có sự khác biệt về văn hóa,
tôn giáo.
- Tình trạng lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và
Nhà nước vì mục đích chính trị gây phương hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc
hoặc có những hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hành nghề mê tín,
dị đoan, trục lợi cá nhân còn diễn ra ở một số địa phương dưới các hình thức
khiếu kiện đông người, kéo dài, gây áp lực với chính quyền, gây rối trật tự
công cộng và an toàn xã hội.
- Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về tự do tín ngưỡng, tôn
giáo chậm được thể chế; Hiến pháp xác định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
105
là quyền cơ bản của công dân; Hiện nay quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
chưa được thể chế hóa bằng một đạo luật, mới chỉ dừng lại ở Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành và văn bản hướng
dẫn thi hành; chưa bổ sung các chính sách, biện pháp để giải quyết những vấn
đề còn bất cập trong các văn bản luật hiện hành như: sinh hoạt tôn giáo của
người nước ngoài tại Việt Nam, hoạt động từ thiện xã hội, nhân đạo của các
tổ chức tôn giáo, cá nhân tôn giáo, tín ngưỡng; các chế tài xử lý các vi phạm
trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo.
- Trình độ và nhận thức của một bộ phận cán bộ nhà nước về quyền con
người nói chung và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng còn yếu, thể
hiện rõ nét là chưa nắm được quy định của các điều ước quốc tế về quyền con
người mà Việt Nam là thành viên, đôi khi nắm chưa vững chính sách của nhà
nước, quy định của pháp luật Việt Nam, vì vậy, có lúc còn để xảy ra vi phạm
hoặc những hành động cố ý hoặc vô ý vi phạm các quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo. Việc nghiên cứu, tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên chưa được quan tâm đầy đủ, hiệu quả công tác tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật có
chỗ, có nơi còn thiếu và yếu; việc đối ngoại chưa kịp thời và hiệu quả, khiến
dư luận quốc tế chưa hiểu đúng và đầy đủ về tình hình tôn giáo và công tác
tôn giáo trong nước.
- Một bộ phận không nhỏ tín đồ các tôn giáo ở nước ta còn nhận thức
hạn chế, hiểu chưa đúng và đầy đủ những quan điểm, chính sách tôn giáo của
Đảng, Nhà nước; chưa nhận thức rõ được nghĩa vụ và quyền lợi của một tín
đồ tôn giáo cũng như công dân của đất nước, họ dễ bị kích động, lôi kéo. Việc
quản lý chức sắc, chức việc xuất cảnh ra nước ngoài cũng như việc nắm bắt
các tổ chức tôn giáo người Việt ở nước ngoài để phân loại, vận động được đặt
ra nhưng thực hiện còn chậm.
- Việc tổng kết thực tiễn công tác tôn giáo để từ đó đề xuất các giải
pháp chính sách, hướng dẫn bổ sung các quy định về quản lý nhà nước đối
106
với các hoạt động tôn giáo còn chậm. Tình hình tôn giáo đặt ra nhiều vấn đề
mới cần phải tháo gỡ nhưng lại thiếu các quy định hướng dẫn của các cơ quan
có thẩm quyền, việc thực hiện một số văn bản hướng dẫn, chỉ đạo chưa thật
nghiêm túc, triển khai chậm và chưa đầy đủ; chưa tạo được sự thống nhất cao
trong công tác quản lý, hạn chế hiệu lực và hiệu quả các văn bản như: thực
hiện Chỉ thị số 1940/2008/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về nhà, đất tôn
giáo; việc tạo thuận lợi cho các tổ chức tôn giáo hoán đổi cơ sở cũ, hoặc hợp
lý hóa nguồn đất do tổ chức tôn giáo mua hoặc hiến tặng còn chậm; việc cấp
đất cho tổ chức tôn giáo xây dựng chùa, học viện còn không đồng đều; việc
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các cơ sở tôn giáo mới có một số
địa phương triển khai tốt, còn một số địa phương triển khai còn chậm hoặc chỉ
giải quyết từng vụ việc.
- Chế độ thông tin giữa Ban Tôn giáo Chính phủ và các tỉnh, thành phố
được cải thiện một bước, nhưng cũng còn nhiều hạn chế, nhất là khâu xử lý
thông tin từ cơ sở chuyển đến chưa kịp thời; thông tin về chủ trương, chính
sách mới, về tình hình tôn giáo trong cả nước và ở nước ngoài, cần phải cải
tiến hơn nữa về nội dung thông tin báo cáo.
- Công tác lãnh đạo, điều hành ở một số nơi chưa thật sâu sát, thiếu tính
kế hoạch, nặng về giải quyết sự vụ, sự việc, chưa chú trọng việc tổng kết,
đánh giá và tham mưu cho lãnh đạo địa phương trong việc chỉ đạo, phối hợp
giữa các ban, ngành đoàn thể và Ban Tôn giáo tỉnh, thành phố.
- Quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng, pháp luật Việt Nam hiện vẫn còn
khoảng cách so với luật nhân quyền quốc tế, thể hiện ở một số khía cạnh cơ
bản sau:
Hiến pháp năm 2013 chưa có quy định về quyền tự do tư tưởng, tự do
niềm tin lương tâm. Đây là những quyền đóng vai trò nền tảng của quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo. Đặc điểm cơ bản của nhóm những quyền tự do này là
không thể bị đình chỉ thực hiện, kể cả trong tình trạng khẩn cấp của quốc gia.
107
Pháp luật Việt Nam chưa phân biệt giữa tự do tư tưởng, niềm tin lương
tâm, tôn giáo hoặc tín ngưỡng, với tự do thể hiện tôn giáo hay tín ngưỡng.
Theo luật nhân quyền quốc tế, quyền tự do thể hiện tôn giáo, tín ngưỡng có
thể bị hạn chế, song các quốc gia không được phép áp đặt bất kỳ giới hạn nào
đối với tự do tư tưởng, niềm tin lương tâm, tự do được tin hoặc theo một tôn
giáo hoặc tín ngưỡng theo lựa chọn của mình; những quyền tự do này được
bảo vệ vô điều kiện.
Luật quốc tế cho phép hạn chế quyền tự do bày tỏ tôn giáo, tín ngưỡng
chỉ với điều kiện những hạn chế đó được pháp luật quy định và là cần thiết để
bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc các
quyền và tự do cơ bản của người khác. Trong khi đó, khoản 2 Điều 14 Hiến
pháp năm 2013 và Điều 15 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo 2004 quy định một
phạm vi rộng hơn nhiều các hành vi có thể dẫn đến đình chỉ hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo, đó là: xâm phạm an ninh quốc gia, ảnh hưởng nghiêm trọng
đến môi trường; tác động xấu đến đoàn kết nhân dân, đến truyền thống văn
hóa tốt đẹp của dân tộc; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự,
tài sản của người khác; có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng khác…
Các khái niệm này nội hàm quá rộng và trừu tượng, dẫn đến nguy cơ tùy nghi
diễn giải và hạn chế quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong thực tế.
Pháp luật chưa quy định rõ một số điều kiện khác được nêu trong luật
nhân quyền quốc tế, cụ thể như những hạn chế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo chỉ có thể được áp dụng cho những mục đích đã được nêu ra trong luật,
phải liên quan trực tiếp và phù hợp với nhu cầu cụ thể mà những hạn chế đó
đã được xác nhận. Các hạn chế cũng không được áp đặt vì mục đích phân biệt
đối xử, hoặc áp dụng mang tính phân biệt, và những đối tượng đặc biệt, ví dụ
như tù nhân, vẫn tiếp tục được hưởng các quyền về biểu thị tôn giáo hoặc tín
ngưỡng trong khả năng cao nhất có thể phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn.
3.3.2.2. Nguyên nhân
108
- Việc quán triệt, thực hiện các văn bản của Đảng, Nhà nước liên quan
đến tôn giáo, tín ngưỡng còn thiếu sót, lệch lạc. Phần lớn các văn kiện của
Đảng về chủ trương công tác tôn giáo trong tình hình mới đều là tài liệu “Tối
mật” hoặc “Mật”, do đó số cán bộ biết và nắm vững nội dung còn rất ít, hạn
chế tới công tác triển khai và kết quả đạt được.
- Công tác nghiên cứu cơ bản về tôn giáo, tín ngưỡng nói chung và đời
sống của từng tôn giáo nói riêng chưa được chú ý và đầu tư thỏa đáng; hiểu
biết của các cấp, các ngành về tôn giáo, tín ngưỡng còn hạn chế. Công tác
tổng kết thực tiễn về tôn giáo và công tác tôn giáo chưa được đầu tư thỏa
đáng; chủ trương, chính sách về tôn giáo chưa theo kịp tình hình thực tiễn.
- Công tác truyền thông tôn giáo, thông tin tuyên truyền chủ trương,
chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước còn yếu; việc đấu tranh trên các mặt
tư tưởng về tôn giáo vừa yếu lại vừa lúng túng; trong khi các phần tử cực
đoan trong các tôn giáo vẫn tiếp tục có sự câu kết trong và ngoài nước, tìm
mọi cách tập hợp lực lượng chống đối, khai thác những sơ hở thiếu sót trong
công tác quản lý nhà nước về tôn giáo để xuyên tạc tình hình tôn giáo và
chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta..
- Công tác tôn giáo ngày càng phức tạp, việc lợi dụng vấn đề tôn giáo
vào mục đích chính trị của các thế lực thù địch thông qua các tổ chức phi
chính phủ (NGO) liên quan đến tôn giáo viện trợ tài chính, lôi kéo số chống
đối trong các tôn giáo; trong khi đội ngũ làm công tác tôn giáo trong cả nước
còn yếu, bộ máy làm công tác tôn giáo thiếu ổn định, thiếu cán bộ làm công
tác tôn giáo tại cấp xã, phường, phần lớn chưa được chuyên môn hóa và có
chính sách đãi ngộ hợp lý; sự phối hợp và trao đổi thông tin giữa các ngành,
các cấp chức năng liên quan đến công tác tôn giáo còn mang tính hình thức,
ứng xử với công tác tôn giáo có xu hướng nghiêng về an ninh chính trị và có
lúc, có nơi còn bị phân biệt đối xử.
- Một số quy định còn chưa được thể chế trong Pháp lệnh tín ngưỡng,
tôn giáo và các văn bản hướng dẫn thi hành dẫn đến việc bảo đảm và thực
109
hiện còn nhiều hạn chế; thiếu chế tài xử lý khi có vi phạm nên hạn chế hiệu
quả quản lý nhà nước đối với tôn giáo; có sự bất cập và chưa đồng bộ giữa
chính sách, pháp luật về tôn giáo với chính sách, pháp luật đất đai, xây dựng,
tài chính... đã làm khó cho công tác quản lý nhà nước về tôn giáo (chưa xác
định được tư cách pháp nhân của tổ chức tôn giáo sau khi được công nhận nên
hạn chế sự tham gia của tổ chức tôn giáo trong lĩnh vực giáo dục - y tế, hay
việc quy định đất tôn giáo do nhà nước giao không thu tiền đã loại trừ tổ chức
tôn giáo ra khỏi đối tượng được mua, nhận hiến - tặng quyền sử dụng đất).
- Về luật pháp chưa đồng bộ, còn có lĩnh vực quản lý chưa được cụ thể
hóa bằng các quy định của pháp luật nên khi thực hiện còn lúng túng, tùy tiện,
có nơi quá chặt chẽ, có lúc, có nơi buông lỏng quản lý. Việc triển khai các chủ
trương, chính sách pháp luật về tôn giáo còn chậm và thiếu đồng bộ, tạo kẽ hở
cho các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc, vu cáo Nhà nước, gây mất ổn
định an ninh, chính trị, xã hội.
- Một số cấp ủy đảng, chính quyền và cán bộ làm công tác tôn giáo
chưa thực hiện tốt việc hướng dẫn, vận động chức sắc và tín đồ tôn giáo, thiếu
linh hoạt trước những vấn đề nhạy cảm về chính trị nên việc giải quyết các vụ
việc liên quan đến tôn giáo chưa dứt điểm và kém hiệu quả.
- Hoạt động của các tôn giáo trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số
được các tôn giáo tăng cường hơn, truyền đạo trái phép còn tiếp diễn, trong
khi an ninh chính trị, đời sống và dân trí của nhân dân còn thấp. Việc chia
tách, sát nhập tổ chức giáo hội cơ sở, xây dựng cơ sở thờ tự, nhập tu và
thuyên chuyển chức sắc và truyền đạo trái pháp luật đang có sự gia tăng, điển
hình là Đạo Tin Lành phát triển nhanh về tín đồ trên phạm vi rộng cả ở vùng
nông thôn, đô thị, đặc biệt là đối tượng sinh viên các trường Đại học và trong
vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nghệ An và ở
vùng sâu, vùng xa khó ngăn cản.
110
Tiểu kết chương 3
Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với tôn
giáo được hình thành, phát triển ngày càng hoàn thiện hơn trong cả một quá
trình. Nhận thức vấn đề tôn giáo, quan điểm chính sách tôn giáo của Đảng và
Nhà nước ta trước và sau thời kỳ đổi mới cũng vậy. Những nghiên cứu về bối
cảnh lịch sử trước đổi mới, trong thời kỳ đổi mới cho phép chúng ta hiểu sâu
hơn những biến chuyển trong nhận thức về các chủ trương, chính sách được
hình thành qua mỗi thời kỳ. Đó cũng là cơ sở để chúng ta nhận thức được
chính sách nhất quán, những bước chuyển đổi lớn của chính sách tôn giáo
hiện nay, những thành tựu, những hạn chế và những bài học kinh nghiệm bổ
ích trong quá trình thực thi chính sách tôn giáo, từ đó mà nâng cao hiệu quả
công tác tôn giáo và quản lý nhà nước đối với tôn giáo trong thời gian tới.
Nhờ sự minh bạch và cởi mở về chủ trương, chính sách tự do tín
ngưỡng, tôn giáo mà đông đảo cá nhân và tổ chức quốc tế đã thừa nhận nhà
nước Việt Nam ngày càng thực hiện và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, kết quả là các tôn giáo ở Việt Nam được sống trong đời sống tâm linh
tín ngưỡng và đời sống xã hội; chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo đều tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước, tích cực tham gia thực hiện
thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ mới. Mọi công
dân đều có quyền tự do lựa chọn tín ngưỡng, tôn giáo của mình, các tôn giáo
hoạt động theo pháp luật, đồng thời không làm ảnh hưởng đến đời sống và
đoàn kết cộng đồng, đến an ninh quốc gia và trật tự xã hội. Cho nên, ngày
14/11/2006, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công bố đưa Việt Nam ra khỏi danh sách
các nước “cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo”.
Cùng với việc đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục các văn bản
pháp luật liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo tới toàn thể nhân dân; cần có sự
phối kết hợp giữa nhà nước và nhân dân; đầu tư thỏa đáng cho việc thực hiện
các giải pháp; các giải pháp phải được thực hiện đồng bộ, kịp thời, nội dung,
111
hình thức và cách thức thực hiện các giải pháp cần được thường xuyên cải
tiến, đổi mới, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các giải pháp;
động viên khen thưởng kịp thời những cá nhân, tổ chức thực hiện tốt các giải
pháp; phê phán, xử lý kịp thời các trường hợp không thực hiện…
Cần tiếp tục nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo một cách toàn diện hơn và đầy đủ hơn, góp phần cung
cấp những luận cứ khoa học cho Đảng, nhà nước tiếp tục hoạch định và hoàn
thiện chủ trương, chính sách, pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu về tự do tín ngưỡng, tôn giáo
trên các lĩnh vực khác nhau; tiếp tục đưa ra những giải pháp chung và những
giải pháp đảm bảo pháp lý bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo
pháp luật Việt Nam hiện nay góp phần cho cơ quan chức năng có những căn
cứ để nâng Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo lên thành luật tín ngưỡng, tôn giáo;
đồng thời tạo cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước,
đấu tranh chống các thế lực lợi dụng tôn giáo, góp phần giữ vững ổn định
chính trị và phát triển kinh tế, xã hội.
112
CHƯƠNG 4
NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO
QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM ĐẢM BẢO QUYỀN TỰ DO TÍN
NGƯỠNG, TÔN GIÁO THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1.1. Những quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Năm 1986, đất nước bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện trên các mặt
kinh tế, văn hóa, xã hội với Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV.
Đổi mới chính sách tôn giáo là một nội dung rất quan trọng trong đường lối
đổi mới của Đảng và nhà nước ta. Tuy nhiên, tôn giáo là vấn đề rất quan trọng
và rất khó, cần phải tổng kết từ thực tiễn, nên đến năm 1990, Đảng và Nhà
nước ta có chính sách đổi mới về tôn giáo qua Nghị quyết 24-NQ/TW ngày
16/10/1990 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng với tựa đề Về
tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới. Sau 13 năm thực hiện chính
sách đổi mới tôn giáo, tổng kết thực tiễn, đồng thời xem xét những vấn đề
mới nẩy sinh, đặt trong hoàn cảnh thế giới có nhiều thay đổi quan trọng, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW
ngày 12/03/2003 về công tác tôn giáo. Nghị quyết số 25-NQ/TW là sự phát
triển nâng cao và hoàn chỉnh Nghị quyết số 24-NQ/TW trở thành quan điểm
chính thức về đổi mới đối với công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Tư
tưởng đổi mới thể hiện qua các nội dung chủ yếu sau:
- Về phương hướng: hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo trong giai
đoạn mới phải nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và
113
bảo vệ vững chắc tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
- Về quan điểm, chủ trương:
Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn
giáo bình thường theo đúng pháp luật; các tôn giáo hoạt động trong khuôn
khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật; người có tín ngưỡng cũng như các
tín đồ tôn giáo được tự do bày tỏ đức tin, thực hiện các nghi thức thờ cúng,
cầu, nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt phục vụ lễ hội, lễ nghi tôn
giáo và học tập giáo lý tôn giáo mà mình tin theo.
Hai là, Đảng và nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết
dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào
theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá
trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công
với tổ quốc và nhân dân. Đồng thời nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo
để hoạt động mê tín, dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của nhà
nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an
ninh quốc gia.
Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng.
Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là
điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi
công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây
dựng và bảo vệ tổ quốc.
114
Công tác vận đồng quần chúng các tôn giáo phải động viên đồng bào
nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất tổ quốc;
thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc
phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó
có đồng bào các tôn giáo.
Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Nước ta hiện nay có trên hai mươi triệu tín đồ, chức sắc, nhà tu hành
của các tôn giáo phân bố ở mọi vùng miền địa phương trong cả nước. Công
tác tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và nhiều cấp,
nhiều ngành.
Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị do
Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo là
lực lượng tham mưu nòng cốt. Tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo cần
được củng cố, kiện toàn, nhất là ở những địa bàn trọng điểm có đông đồng
bào tôn giáo. Công tác tôn giáo thực chất là công tác vận động quần chúng.
Công tác quản lý nhà nước đối với các tôn giáo và đấu tranh chống việc lợi
dụng tôn giáo để chống đối chế độ, chỉ thành công nếu làm tốt công tác vận
động quần chúng.
Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi tín đồ đều có quyền tự do
hành đạo tại gia đình và cơ sở hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Các tổ chức tôn giáo được nhà nước thừa nhận được hoạt động theo
pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào
tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng
cơ sở thờ tự tôn giáo của mình theo đúng quy định của pháp luật.
Việc truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân
thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo,
hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo.
4.1.2. Những quan điểm có tính nguyên tắc về vai trò của Hiến
pháp trong việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
115
Vai trò của Hiến pháp bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo phải
được tiến hành dựa trên các nguyên tắc sau:
Một là, đề cao vai trò của Hiến pháp nước ta trong việc bảo đảm quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo được dựa trên các quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về việc quan tâm tới mọi mặt đời sống của con người nhằm phát
huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quyền con người là khả năng tự nhiên “thiên bẩm” bất khả xâm phạm,
không thể bị tước đoạt và tuyệt đối thiêng liêng của con người được sống,
được tự do, ấm no, hạnh phúc; là một giá trị được thừa nhận chung trên toàn
thế giới và được tất cả các quốc gia tôn trọng, bảo vệ [27, tr.97]. Có thể thấy,
phát huy nhân tố con người là toàn bộ hoạt động của Đảng cộng sản Việt
Nam, Nhà nước Việt Nam và toàn xã hội trong việc tạo ra những điều kiện,
tiền đề mọi mặt để con người có thể đem hết tài năng, trí tuệ của mình cống
hiến cho đất nước và chính là hoạt động thực tiễn của con người nhằm phát
huy vai trò của mình trong xã hội; ngay trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội lần thứ
VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra các tiêu chí xác định xã hội xã
hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng, trong đó có tiêu chí: “Con người
được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo
lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện cá nhân”. Đồng thời, Đảng ta nêu hướng chủ yếu của chính sách xã hội
là “phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về
quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã
hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu
trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng
xã hội”. Nhằm cụ thể hóa và thực hiện tư tưởng của Cương lĩnh, Báo cáo
Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Chăm lo cho con
người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người, tôn trọng và thực
116
hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết gia
nhập” và xác định mục tiêu thực hiện các chính sách xã hội là “hướng vào
phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo
động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng xuất lao động xã hội, khuyến
khích nhân dân làm giàu hợp pháp”.
Quyền con người, nhân tố con người, phát huy nhân tố con người gắn
bó chặt chẽ, thống nhất với nhau, lệ thuộc vào nhau; quyền con người là cơ sở
để tạo nên nhân tố con người, còn nhân tố con người là điều kiện cho phát
huy nhân tố con người, phát huy nhân tố con người là điều kiện đảm bảo
quyền con người và nhân tố con người. Với tư cách là Nhà nước của dân, do
dân, vì dân, Nhà nước ta thể chế hóa các quan điểm nói trên của Đảng trong
luật cơ bản bằng những quy định về quyền, nghĩa vụ công dân và bảo đảm
của Nhà nước, tạo cơ sở pháp lý để các đạo luật, bộ luật khác tiếp tục bổ sung
hoặc cụ thể hóa các quy định Hiến pháp đó. Như vậy, Hiến pháp là phương
tiện pháp lý chủ yếu nhất để đưa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
vào cuộc sống. Tuy nhiên, để các quy phạm Hiến pháp về quyền công dân có
tính khả thi cao thì trước khi xây dựng các quy phạm hiến pháp ấy, nhà nước
cần tổ chức nghiên cứu rất kỹ càng, sâu sắc, toàn diện, hiện trạng lĩnh vực
quan hệ xã hội mà Đảng đề cập và mức độ nhu cầu, đòi hỏi pháp luật hóa
chúng. Bên cạnh đó, Hiến pháp còn là công cụ chính trị - pháp lý sắc bén để
bảo vệ các quan điểm của Đảng về quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo, đấu tranh chống lại những luận điểm xuyên tạc, sai trái của các thế
lực thù địch xoay quanh vấn đề nhân quyền ở nước ta. Muốn vậy, Hiến pháp
phải vừa mở rộng các quyền và những lợi ích hợp pháp của công dân phù hợp
với chủ trương, chính sách của Đảng về con người, phát huy nguồn lực con
người và trình độ phát triển mọi mặt của xã hội, vừa cần quy định đầy đủ
những bảo đảm của Nhà nước cho các quyền và những lợi ích hợp pháp ấy.
117
Hai là, gắn vai trò của Hiến pháp nước ta trong việc bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân.
Trong Hiến pháp Việt Nam, nguyên tắc này luôn được ghi nhận một
cách trang trọng tại chương đầu về chế độ chính trị (Điều 1 Hiến pháp năm
1946, Điều 4 Hiến pháp năm 1959, Điều 6 Hiến pháp năm 1980, Điều 2 Hiến
pháp năm 1992, Điều 2 Hiến pháp năm 2013) và được thể hiện ở các chương
khác về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, về chế độ chính trị, văn hóa,
khoa học, giáo dục, tổ chức bộ máy nhà nước,... trong việc xác lập và đảm
bảo các quyền về xã hội của công dân, nguyên tắc này thể hiện ở chỗ: là tổ
chức quyền lực chính trị của nhân dân, Nhà nước không chỉ có quyền xác lập
một cách đầy đủ, cụ thể, rõ ràng những quyền về xã hội của công dân, mà còn
có nghĩa vụ tạo mọi điều kiện thuận lợi về mọi mặt cho công dân thực sự
được hưởng và sử dụng đúng đắn các quyền đó; không ngừng mở rộng các
quyền ấy phù hợp với trình độ phát triển của xã hội; mọi chủ trương, chính
sách, pháp luật trực tiếp liên quan đến sự sống, ăn, ở, vui chơi, giải trí, nghỉ
ngơi, bảo hiểm xã hội, chăm sóc sức khỏe, hạnh phúc cá nhân của công dân,...
[44, tr. 37].
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì
dân là Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật và nhằm thực
thi pháp luật; quyền lực Nhà nước luôn thống nhất nhưng có sự phân công và
phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp vì lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân; giữa nhà nước với công dân có mối quan hệ bình đẳng về quyền, nghĩa
vụ và trách nhiệm pháp lý; công dân được hưởng các quyền và những lợi ích
hợp pháp; Hiến pháp là cơ sở pháp lý chủ yếu nhất, quan trọng nhất trong việc
xác lập và bảo đảm quyền công dân, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; còn
mọi người dân cũng coi Hiến pháp là vũ khí có hiệu lực nhất để bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi chúng bị xâm hại. Nhà nước tôn trọng
118
và thực hiện nghiêm chỉnh các điều ước quốc tế về quyền con người mà mình
đã ký kết hoặc tham gia.
Quyền công dân và nghĩa vụ công dân là hai mặt không thể tách rời,
mặt này không thể tồn tại nếu thiếu mặt kia; mọi công dân Việt Nam, không
phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ
văn hóa, nghề nghiệp, thời gian cư trú, đều bình đẳng với nhau về quyền và
nghĩa vụ; thực tế cho thấy, quyền công dân chỉ có thể được đảm bảo trên cơ
sở công dân thực hiện nghĩa vụ, bởi vì chính sự thực hiện nghĩa vụ ấy là sự
phát triển của cá nhân mình và tạo điều kiện cần thiết cho sự phát triển của cá
nhân khác.
Ba là, nâng cao vai trò của Hiến pháp nước ta trong việc bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo phải gắn liền với quá trình hoàn thiện hệ
thống pháp luật trong thời kỳ đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế.
Trước hết cần hoàn thiện những quy định trong Hiến pháp và luật về
các quyền xã hội của công dân theo hướng xác định rõ hơn những đảm bảo
của nhà nước cho các quyền xã hội được tuyên bố, sau đó hoàn thiện cả nội
dung và hình thức các văn bản quy phạm pháp luật khác được ban hành để
thực hiện Hiến pháp và luật [44, tr.98]. Nội dung các văn bản quy phạm pháp
luật nhằm đạt được các tiêu chuẩn: toàn diện, đồng bộ, khoa học, thực tiễn.
Hệ thống pháp luật nước ta đang trong quá trình phát triển, hoàn thiện; tính
toàn diện của hệ thống pháp luật thể hiện ở chỗ: có đầy đủ các ngành luật để
điều chỉnh hầu hết những lĩnh vực quan hệ xã hội quan trọng nhất, cơ bản
nhất; mỗi ngành luật có đầy đủ các chế định luật ấy; mỗi chế định luật có đầy
đủ các quy phạm pháp luật điều chỉnh chế định ấy; mỗi quy phạm pháp luật
có đủ ba bộ phận cấu thành là giả định, quy định, chế tài. Tính đồng bộ của hệ
thống pháp luật thể hiện ở sự xếp đặt các quy phạm pháp luật trong mỗi chế
định luật. Các chế định luật trong một ngành luật, các ngành luật và các văn
bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật theo trình tự chặt chẽ và kết
cấu lôgíc, khoa học cả về nội dung và hình thức; ở sự không mâu thuẫn,
119
chồng chéo giữa các quy phạm pháp luật trong một chế định luật, giữa các
chế định luật trong một ngành luật, giữa các ngành luật và giữa các văn bản
quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật nói chung. Hệ thống pháp luật
có tính khoa học là một hệ thống pháp luật, trong đó có các quy phạm pháp
luật được xây dựng trên cơ sở thực tiễn, tức là xuất phát từ nhu cầu, đòi hỏi từ
thực tiễn chứ không phải do ý chí chủ quan của cá nhân, tổ chức nào và nó có
khả năng giải quyết được những vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội của hiện tại
và cả các vấn đề đó trong tương lai gần.
Việc xây dựng và ban hành những văn bản quy phạm pháp luật cần
tuân theo những nguyên tắc và chu trình do pháp luật quy định như các văn
bản quy phạm pháp luật khác, nhằm đảm bảo cả về nội dung lẫn hình thức,
cũng như về mặt kỹ thuật xây dựng văn bản. Các quy phạm pháp luật về
quyền công dân được tập hợp trong một hệ thống thống nhất, gồm các quy
phạm hiến pháp (nói cách khác là các quy phạm cơ bản), các quy phạm luật
(nói cách khác là các quy phạm luật thông thường) và các quy phạm dưới
luật, trong đó có các quy phạm hiến pháp giữ vị trí hàng đầu và có ý nghĩa
quan trọng nhất. Các quy phạm luật và các quy phạm dưới luật về quyền công
dân, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo phải được ban hành phù hợp với các
quy định hiến pháp về quyền con người, quyền công dân. Mỗi loại quy phạm
pháp luật về quyền con người, quyền công dân được chứa đựng trong hiến
pháp - Luật cơ bản của Nhà nước, có nhiệm vụ xác lập các quyền cơ bản của
công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Các quy phạm pháp
luật về quyền con người, quyền công dân được chứa đựng trong các đạo luật,
bộ luật, có nhiệm vụ bổ sung những quyền công dân khác mà các quy định
hiến pháp chưa xác lập, hoặc cụ thể hóa các quyền cơ bản của công dân mà
các quy phạm pháp luật đã xác lập. Còn các quy phạm dưới luật về quyền
công dân chứa đựng trong các quy phạm pháp luật dưới luật chỉ nhằm thực
hiện các quy phạm hiến pháp và các quy phạm luật về quyền công dân chứ
120
không tạo ra các quyền mới của công dân hay không cụ thể hóa các quyền
công dân mà các quy định hiến pháp và các quy phạm pháp luật đã quy định.
Bốn là, cần đẩy mạnh vai trò của hiến pháp nước ta trong việc đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo với xây dựng và phát triển nền dân chủ Xã
hội chủ nghĩa trong điều kiện mới, phát triển và hội nhập.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa chúng ta đang xây dựng, phát triển có ba
đặc trưng cơ bản nhất là: hệ thống chính trị luôn được tổ chức và hoạt động vì
lợi ích của nhân dân; quyền làm chủ của nhân dân luôn được bảo đảm và phát
huy; các quyền và những lợi ích hợp pháp khác của công dân luôn được bảo
đảm và mở rộng phù hợp với trình độ phát triển và khả năng của xã hội. Như
vậy ở đây chúng ta thấy một điểm chung thống nhất trong ba thành tố quan
trọng nhất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là tất cả cho con người, vì con
người và nó hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc, mục tiêu của hiến pháp Việt
Nam. Nâng cao vai trò hiến pháp của nước ta trong việc đảm bảo quyền công
dân, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo phải được gắn liền với đổi mới tổ chức,
nội dung, hình thức, phương pháp hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam,
không ngừng đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong tất cả
các lĩnh vực đời sống xã hội và bảo đảm, mở rộng các quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân.
Một trong những biện pháp đổi mới hệ thống chính trị nước ta là dân
chủ hóa các quan hệ giữa các tổ chức thành viên theo hướng phân định rõ
chức năng, nhiệm vụ giữa Đảng và Nhà nước, sao cho Đảng lãnh đạo Nhà
nước nhưng không làm thay Nhà nước, còn Nhà nước phát huy hết hiệu lực
của mình nhưng vẫn tuân theo đường lối, chính sách của Đảng; Đảng lãnh
đạo các tổ chức xã hội và Nhà nước quản lý các tổ chức xã hội nhưng Đảng
và Nhà nước không can thiệp vụn vặt, quá cần thiết vào tổ chức và hoạt động
của các tổ chức xã hội, còn các tổ chức xã hội luôn phát huy tinh thần chủ
động, sáng tạo trong tổ chức và hoạt động của mình nhưng vẫn chịu sự lãnh
đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Chính đây là điều kiện chính trị
121
quan trọng để công dân thực hiện đúng đắn, có hiệu quả quyền làm chủ của
mình và thực sự được hưởng đầy đủ các quyền, lợi ích chính đáng mà hiến
pháp và pháp luật đã quy định.
Bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và mở rộng các quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân trong bối cảnh đổi mới, mở cửa và hội nhập
quốc tế là việc làm không đơn giản, đòi hỏi phải tính toán đầy đủ các khả
năng, điều kiện cụ thể và những nhân tố chủ quan, khách quan. Nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa đang tạo ra cho công dân những
khả năng và cơ hội như nhau để phát triển sản xuất, kinh doanh, vừa làm giàu
cho bản thân, gia đình mình, vừa góp phần làm giàu cho xã hội. Bằng kế
hoạch, chính sách, pháp luật, thông tin, tuyên truyền, giáo dục... Nhà nước
bảo đảm nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật trong kinh tế
và các lĩnh vực xã hội khác. Cơ chế kinh tế thị trường đã và đang đem lại
nhiều lợi ích cho xã hội, cũng như làm này sinh nhiều vấn đề xã hội cần giải
quyết, như sự phân tầng xã hội và phân hóa giàu nghèo, thất nghiệp, ô nhiễm
môi trường, tệ nạn xã hội, trong đó sự phân tầng xã hội và phân hóa giàu
nghèo là gay gắt nhất. Tuy nhiên nếu biết đánh giá đúng nó và điều chỉnh
được nó thì sẽ hạn chế được mặt tiêu cực liên quan đến bất bình đẳng xã hội
và phát huy được mặt tích cực liên quan tới phân công lao động xã hội. Sự
phân tầng xã hội và sự phân hóa giàu nghèo ở nước ta hiện nay không phải là
kết quả của việc tước đoạt tư liệu sản xuất của nhân dân lao động rồi bần cùng
hóa để tập trung tư liệu sản xuất và giá trị thặng dư vào tay một số ít người,
làm cho họ giàu thêm mãi, bởi vì những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội đã
thuộc về nhân dân lao động. Nhà nước là Nhà nước của dân, do dân, vì dân;
công dân là người làm chủ trong xã hội; sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu
nghèo được nhà nước điều chỉnh để hạn chế tiêu cực của nó, điều hòa lợi ích
giữa các thành viên trong xã hội, tạo điều kiện và cơ hội thuận lợi cho mọi
người có thể làm giàu chính đáng.
122
Năm là, gắn nâng cao vai trò của hiến pháp nước ta trong việc bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo với quá trình hội nhập pháp luật quốc gia
với pháp luật quốc tế về quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Trong xu thế hòa bình, hòa hợp và hợp tác bình đẳng vì những mục tiêu
cao cả của thời đại hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, cho
nên nhiều nội dung của quyền con người đã vượt quá giới hạn của một quốc
gia và đang đòi hỏi phải có sự phối kết hợp giữa các quốc gia cũng như những
nỗ lực chung của cả cộng đồng thế giới để bảo đảm quyền con người, quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Bởi vậy, hội nhập pháp luật quốc gia với hội nhập
quốc tế về quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là xu thế tất yếu
trong quan hệ Nhà nước liên quan đến việc bảo vệ quyền con người, quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo. Các điều ước quốc tế về quyền con người mà Nhà
nước Việt Nam ký kết hoặc tham gia và các văn bản quy phạm pháp luật của
nhà nước ta nhằm cụ thể hóa các điều ước đó là một đảm bảo pháp lý quan
trọng cho việc thực hiện quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở
trong nước và ở ngoài nước, cũng như người nước ngoài đến nước ta sinh
sống, công tác, học tập, du lịch, kinh doanh.... việc hòa nhập pháp luật quốc
gia với pháp luật quốc tế về quyền con người được thực hiện dưới ba hình
thức chủ yếu là tiếp tục ký kết hoặc tham gia các điều ước quốc tế về quyền
con người; hợp tác quốc tế về quyền con người; hợp tác quốc tế để bảo vệ
quyền con người và “nội luật hóa” các điều ước đó phù hợp với khả năng,
điều kiện, hoàn cảnh xã hội.
4.1.3. Những quan điểm cần quán triệt trong việc hoàn thiện pháp
luật về tôn giáo
Để những hạn chế, bất cập của pháp luật về tôn giáo được khắc phục,
đáp ứng được yêu cầu “Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền
sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn
giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Phát
123
huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Động viên, giúp
đỡ đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn giáo sống “tốt Đời, đẹp Đạo”. Các
tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ.
Quá trình hoàn thiện pháp luật về tôn giáo phải tuân thủ những quan
điểm sau:
Thứ nhất, pháp luật về tôn giáo phải quán triệt, thể chế đầy đủ những
quan điểm, chủ trương, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà
nước thể hiện trong các Nghị quyết của các kỳ Đại hội (Đại hội IX, Đại hội
X); Nghị quyết số 24/NQ-TW, ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị về tăng
cường công tác tôn giáo trong tình hình mới; Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày
12/03/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá IX về công tác tôn
giáo, đặc biệt là những quan điểm, chính sách, nhiệm vụ, giải pháp giải quyết
vấn đề tôn giáo ở nước ta trong thời kỳ mới và Nghị quyết số 48-NQ/TW,
ngày 24/05/2005 của Bộ Chính trị (khoá IX) về Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
Cụ thể là những quan điểm như: tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với
sự nghiệp xây dựng xã hội mới; nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công
tác vận động quần chúng, công tác đối với con người; làm tốt công tác tôn
giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng;
nghiêm cấm việc ép buộc công dân theo đạo, bỏ đạo hoặc lợi dụng quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước,
kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh, chia rẽ nhân dân, chia rẽ các
dân tộc, chia rẽ tôn giáo, gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng,
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ của công dân.
Thứ hai, pháp luật về tôn giáo phải được xây dựng trên cơ sở tổng kết
sâu rộng quá trình thực hiện chính sách pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo và
124
các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan; kế thừa, phát triển những
quy định còn phù hợp, mang tính khả thi được xã hội thừa nhận; khắc phục
những hạn chế, bất cập, thiếu tính khả thi và không phù hợp với tình hình
thực tiễn; bổ sung những quy định mới mà thực tiễn quản lý nhà nước về tôn
giáo đang đặt ra nhưng chưa có những quy định của pháp luật điều chỉnh.
Thứ ba, khi xây dựng pháp luật về tôn giáo phải bảo đảm tính tương
thích với pháp luật quốc tế điều chỉnh về quyền con người trong đó có quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đặc biệt là những điều ước quốc tế mà Việt Nam
đã tham gia ký kết hoặc gia nhập. Bên cạnh đó cần đảm bảo tính kế thừa và
tiếp thu có chọn lọc pháp luật về hoạt động tôn giáo của các nước. Đặc biệt là
trong điều kiện hiện nay, khi các quốc gia trên thế giới đều có xu hướng xích
lại gần nhau, khi sự cạnh tranh và hội nhập quốc tế đã trở thành vấn đề toàn
cầu thì một hệ thống pháp luật phù hợp với các qui tắc, thông lệ quốc tế, hội
nhập được với pháp luật khu vực sẽ tạo những tiền đề pháp lý rất lớn cho sự
mở cửa quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh cũng như
bảo đảm quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo một cách có
nguyên tắc và an toàn. Tuy nhiên, việc hoàn thiện pháp luật về tôn giáo, sự
tiếp thu pháp luật của các nước cũng cần có sự chọn lọc kinh nghiệm lập pháp
của các nước về quản lý nhà nước đối với tôn giáo.
Thứ tư, pháp luật về tôn giáo phải là công cụ đảm bảo sự bình đẳng
giữa các tôn giáo
Nước ta là nước có nhiều tôn giáo cùng tồn tại, có tôn giáo nội sinh và
có cả tôn giáo ngoại nhập. Các tôn giáo cùng tồn tại, phát triển, hòa đồng dưới
cái nôi văn hóa chung của dân tộc. Trong quan hệ với các tôn giáo, Nhà nước
tách khỏi giáo hội, các tôn giáo là những tổ chức xã hội chịu sự quản lý của
nhà nước, không một tôn giáo nào được coi là quốc đạo. Ngay từ khi mới
giành được chính quyền và qua các thời kỳ cách mạng, Đảng, Nhà nước ta
luôn quan tâm, đối xử bình đẳng với các tôn giáo, kể cả các tôn giáo có một
bộ phận chức sắc, tín đồ cấu kết với kẻ thù chống lại nhân dân. Đảng và Nhà
125
nước luôn nhất quán nguyên tắc “Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật”
[89, tr.51].
Sự bình đẳng giữa các tôn giáo trước hết là bình đẳng trong sinh hoạt,
trong hoạt động tôn giáo. Các tôn giáo khi được Nhà nước thừa nhận đều
được bảo hộ, có các quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong hoạt động truyền
đạo, quản đạo, hành đạo, phát triển tín đồ và mở rộng tổ chức. Được Nhà
nước tạo điều kiện có nơi thờ tự, xuất bản kinh sách, các ấn phẩm tôn giáo và
đồ dùng việc đạo. Bên cạnh các quyền, các tôn giáo cũng phải có nghĩa vụ
thực hiện hoạt động tôn giáo theo quy định của pháp luật, tôn trọng chính
quyền nhà nước, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của người khác. Sự bình
đẳng giữa các tôn giáo còn là sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ ở các lĩnh
vực khác của đời sống xã hội, chẳng hạn tham gia các hoạt động kinh tế, văn
hóa, xã hội theo quy định của pháp luật.
Để đảm bảo sự bình đẳng giữa các tôn giáo, pháp luật về tôn giáo phải
tạo ra được hành lang pháp lý với những quy định thực sự bình đẳng cho các
tôn giáo hoạt động. Tuy nhiên, sự bình đẳng giữa các tôn giáo cũng chỉ hiểu ở
mức độ tương đối, không phải “cào bằng”, quyền và nghĩa vụ của các tôn
giáo còn tùy thuộc vào khả năng thực hiện của mỗi tôn giáo, vào yêu cầu thực
tiễn.
Thứ năm, pháp luật về tôn giáo vừa phải đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân,
vừa là phương tiện đấu tranh với hoạt động lợi dụng tôn giáo xâm phạm an
ninh quốc gia.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn
giáo là một trong những quyền cơ bản của công dân và được Hiến Pháp năm
2013 ghi nhận. Quyền này còn được Công ước quốc tế về các quyền dân sự
và chính trị của Liên hợp quốc quy định. Ở nước ta, tín ngưỡng, tôn giáo là
nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Trong suốt quá trình đấu tranh
cách mạng, giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn
126
khẳng định và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Nghị
quyết số 25/NQ-TW, ngày 12/03/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa IX về công tác tôn giáo khẳng định “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu
tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”, “... Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với
công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và
chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây
rối, xâm phạm an ninh quốc gia” và Điều 24, Hiến pháp năm 2013 ghi nhận
“Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật” [40, tr.17,18]. Điều 1,
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo cũng quy định “Công dân có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào” [10, tr. 5]. Đây là
những cơ sở pháp lý quan trọng để quán triệt quan điểm này. Nội dung của
quan điểm này đòi hỏi:
Phải thực sự tôn trọng đức tin của các tôn giáo. Các cá nhân đều có
quyền tin ở Chúa, Phật, Thánh, Thần,... và họ có thể cầu khấn, hiến tế miễn là
không làm ảnh hưởng đến người khác, đến an ninh trật tự xã hội.
Quyền tin theo hoặc không theo một tôn giáo, quyền thay đổi tôn giáo
cũng cần phải được tôn trọng. Mọi hành vi cản trở, ép buộc, gây khó dễ đều bị
coi là vi phạm và bị xử lý theo pháp luật.
Tôn trọng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật.
Điều này thể hiện phải phân biệt và ứng xử được đối với những hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo chính đáng, hợp pháp với những hành vi lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo hoạt động trái pháp luật hay những hoạt động mê tín dị
đoan.
Phải giúp cho các tôn giáo phát huy được những mặt tích cực thể hiện
trong các giáo lý, giáo luật của tôn giáo. Tính hướng thiện, từ bi, bác ái... của
127
tôn giáo phải được khơi dậy. Tạo điều kiện cho các tôn giáo tham gia ngày
càng tích cực, cùng với Nhà nước giải quyết những vấn đề xã hội như cứu trợ
thiện tai, chăm sóc bệnh nhân phong, HIV,...
Bên cạnh việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho nhân dân
còn phải giúp cho quần chúng tín đồ từng bước xóa bỏ những đức tin mù
quáng, luật lệ khắt khe trong tôn giáo. Chính sách, pháp luật của Nhà nước
phải làm cho mọi người có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc, phát triển toàn
diện về thể chất, tinh thần,... thì những niềm tin lệch lạc trong tôn giáo mới có
thể bị đẩy lùi, những luật lệ hà khắc mới bị dỡ bỏ.
Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo phải thể hiện sự đối xử công
bằng giữa người có tín ngưỡng, tôn giáo và người không có tín ngưỡng, tôn
giáo.
Những năm qua, các thế lực thù địch luôn tìm cách can thiệp, vin cớ
nhà nước ta vi phạm dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo nhằm đưa nước ta
trở lại danh sách “CPC”. Chúng luôn kích động một số phần tử xấu trong các
tôn giáo gây mất ổn định chính trị, xã hội tạo cớ can thiệp, phá hoại độc lập,
chủ quyền và an ninh quốc gia của nước ta. Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày
16/10/1990 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) chỉ
rõ: Còn một số phần tử xấu trong các Giáo hội đã lợi dụng tín ngưỡng để lôi
kéo tín đồ chống lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Các thế lực phản
động quốc tế hiện nay đang tập trung sức chống phá cách mạng Việt Nam.
Chúng tìm mọi cách tác động vào các tôn giáo, tiếp tay cho những phần tử
xấu trong các Giáo hội hòng gây nên những biến động phản cách mạng, kích
động quần chúng có đạo chống lại Đảng và Nhà nước ta.
Từ những nội dung trên, đòi hỏi hệ thống pháp luật về tôn giáo phải
vừa đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín
ngưỡng, tôn giáo của công dân, vừa là phương tiện đấu tranh với mọi hành vi
lợi dụng tôn giáo chống lại Đảng, Nhà nước và hoạt động xâm phạm an ninh
quốc gia.
128
Thứ sáu, pháp luật về tôn giáo vừa không can thiệp vào công việc nội bộ
tôn giáo, vừa đảm bảo mọi hoạt động tôn giáo diễn ra trong khuôn khổ pháp luật.
Các tôn giáo hợp pháp hoạt động tại Việt Nam đều được Nhà nước bảo
hộ, tôn trọng và không can thiệp vào công việc nội bộ. Đây là nguyên tắc nhất
quán và sự không can thiệp vào công việc nội bộ ở đây được hiểu là công việc
nội bộ hoàn toàn mang tính thuần túy tôn giáo, theo đúng Hiến chương, Đạo
quy, Đường hướng hành đạo, giáo lý, giáo luật của Giáo hội và không trái với
đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc cũng như không trái với những quy
định của pháp luật. Nói cách khác, các tôn giáo phải hoạt động thuần túy tôn
giáo, không được lợi dụng danh nghĩa tôn giáo để làm những việc phi tôn
giáo, vi phạm pháp luật. Để đáp ứng yêu cầu không can thiệp vào công việc
nội bộ tôn giáo, đòi hỏi pháp luật không được quy định điều chỉnh những vấn
đề thuần túy thuộc nội bộ tôn giáo.
Từ quan điểm này, khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tôn giáo
phải vừa thể hiện nguyên tắc Nhà nước tôn trọng và không can thiệp vào công
việc nội bộ của các tôn giáo, vừa phải điều chỉnh mọi hoạt động tôn giáo theo
hướng các hoạt động đó diễn ra trong khuôn khổ của pháp luật. Trong trường
hợp giữa quy định của giáo lý, giáo luật có sự xung đột với các quy định của
pháp luật thì vì lợi ích chung của cả cộng đồng dân tộc, vì lợi ích của tổ quốc
và trước hết tín đồ các tôn giáo là công dân vì vậy các tôn giáo trước hết phải
tuân thủ, chấp hành theo các quy định của pháp luật. Mọi công dân, mọi tổ
chức khi sinh sống và làm việc trên lãnh thổ Việt Nam đều phải sống và làm
việc theo pháp luật, kể cả các tổ chức, tín đồ các tôn giáo.
Thứ bảy, khi xây dựng pháp luật về tôn giáo còn phải đặt trong tổng thể
các chính sách kinh tế - xã hội và văn hoá của nhà nước, thực sự gắn kết giải
quyết việc Đạo trong toàn bộ việc Đời.
“Đảng và Nhà nước ta không chỉ chú ý phần “con người tôn giáo”
(phần hồn thong dong) của tín đồ các tôn giáo mà còn chú ý cả phần “con
người công dân” (phần xác ấm no) của họ”. Từ những chính sách trong việc
129
ấn định ngày Tết, kỷ niệm ngày lịch sử và tôn giáo (18/12/1946); giải quyết
vấn đề ruộng đất của các tôn giáo trong cải cách ruộng đất giai đoạn 1953-
1955; cho đến vấn đề rộng hơn là cái nhìn khoan dung, nhân văn của Đảng,
Nhà nước ta đối với vấn đề tôn giáo; và cho đến nay, Đảng, Nhà nước ta đã có
hàng loạt chính sách kinh tế - xã hội, tăng cường đầu tư, nâng cao mức sống
về vật chất và tinh thần cho đồng bào các tôn giáo, đặc biệt đồng bào dân tộc ở
vùng sâu, vùng xa. Hiệu quả to lớn của các chính sách này, về cơ bản đã góp
phần quyết định cho sự ổn định và phát triển đất nước. Vì vậy, khi xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về tôn giáo phải đặt trong tổng thể các chính sách kinh tế -
xã hội; hoàn thiện các quy phạm pháp luật liên quan.
4.2. NHỮNG GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG,
TÔN GIÁO THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
4.2.1. Giải pháp về nhận thức
Hoàn thiện pháp luật nói chung, pháp luật về tôn giáo nói riêng nhằm
thể chế hóa các quan điểm của Đảng về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo là nhiệm vụ trọng tâm; thể hiện trách nhiệm của quốc gia đối với việc
thực hiện tuyên ngôn nhân quyền của Liên hợp quốc, Công ước quốc tế về
quyền dân sự và chính trị. Những năm gần đây, đời sống của nhân dân thay
đổi từng ngày theo hướng tích cực, đời sống tâm linh cũng phong phú, đa
dạng; sự thay đổi đó đòi hỏi pháp luật cũng phải thay đổi, thường xuyên được
cập nhật, hoàn thiện để thực sự trở thành hành lang pháp lý vững chắc cho
bảo đảm quyền công dân nói chung và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói
riêng; cần làm tốt một số giải pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm chỉ đạo của cấp
ủy Đảng, chính quyền, các ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể đối
với công tác tôn giáo:
Xác định rõ trách nhiệm cụ thể của cấp ủy, chính quyền, cán bộ các
cấp, các ngành nhất là đối với cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về tôn
giáo trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về tôn giáo. Thực hiện có hiệu
130
quả chủ trương, chính sách và các chương trình đầu tư phát triển kinh tế - xã
hội, an ninh quốc phòng của Đảng, Nhà nước, quan tâm đúng mức đối với các
vùng trọng điểm: Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, không ngừng nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần và dân trí cho đồng bào theo đạo và đồng bào
không theo đạo, chăm lo giải quyết những lợi ích trong đó có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo.
Hai là, đẩy mạnh công tác tham mưu, từng bước hoàn thiện cơ chế,
chính sách đối với công tác tôn giáo: tích cực tham gia xây dựng các văn bản
pháp luật về tôn giáo, đồng thời bổ sung kịp thời những chính sách đối với tôn
giáo ở những vùng, miền khác nhau. Trước mắt, làm tốt công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về tôn giáo để thống nhất nhận thức về công tác
tôn giáo trong hệ thống chính trị, trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tập
trung tuyên truyền sâu rộng Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Nghị định của
Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn
giáo; Chỉ thị 01/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với
đạo Tin Lành; các địa phương đảm bảo tốt thông tin hai chiều, tập trung giải
quyết kịp thời những vấn đề vướng mắc, nảy sinh trong công tác tôn giáo
như: đất đai, cơ sở thờ tự, tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.
Ba là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp
luật cho người dân ở vùng đồng bào có đạo:
Ở các vùng đồng bào có đạo, nhất là vùng nông thôn, vùng miền núi,
vùng sâu, vùng xa, trình độ dân trí còn thấp, đời sống kinh tế còn khó khăn,
sự hiểu biết pháp luật và tìm hiểu pháp luật chưa thực sự được quan tâm nên
họ vẫn còn tin vào những thủ tục lạc hậu, sự đấu tranh những điều phi lý và
những quyền bị xâm hại chưa cao; pháp luật là bảo đảm từ phía nhà nước và
sự hiểu biết pháp luật của đồng bào có đạo là những điều kiện bảo đảm cho
công dân luôn có ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, tôn trọng quyền
của người khác và bảo vệ chính đáng những quyền lợi của bản thân mình khi
bị xâm hại. Chính vì vậy cần làm tốt công tác thông tin pháp luật, điều đó có ý
131
nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình hình thành, phát triển ý thức pháp
luật và văn hóa pháp lý; thông tin pháp luật tốt sẽ làm cho người dân có kiến
thức pháp luật, sự hiểu biết pháp lý để một mặt họ điều chỉnh hành vi theo
quy định của pháp luật, mặt khác biết sử dụng công cụ pháp luật để tự bảo vệ
trong những trường hợp cần thiết. Thông tin pháp luật tốt cũng giúp cho các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật,
kịp thời phát hiện ra những thiếu sót, bất cập của các quy định pháp luật để
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Vì vậy, tất cả các văn bản pháp quy, các quy
định của nhà nước được truyền tải đầy đủ, chính xác, kịp thời thông qua các
trang thông tin pháp luật, các sách báo pháp lý, thông qua giáo dục, phim ảnh
có nội dung pháp lý, qua các hội nghị tuyên truyền phổ biến, các ấn phẩm về
pháp luật… đến toàn thể nhân dân nói chung và tín đồ, chức sắc các tôn giáo
nói riêng.
Bốn là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt
động tín ngưỡng, tôn giáo
Tôn giáo là một thực thể của xã hội, tồn tại khách quan, lâu dài cùng
với sự phát triển của xã hội; quá trình tồn tại, phát triển của tôn giáo có ảnh
hưởng không nhỏ đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc; trong công
cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, đòi hỏi phải quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo và tăng cường quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này.
Để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cần phát huy những mặt
tích cực, hạn chế những tiêu cực; nhà nước cần quản lý hoạt động tín ngưỡng,
tôn giáo, bảo đảm cho các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra phù hợp với
sự phát triển chung của xã hội. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
đối với hoạt động tôn giáo không đồng nhất với việc hạn chế quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân được nhà nước bảo hộ; hoạt động lợi dụng
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để thực hiện những hành vi trái pháp luật sẽ
bị xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật.
132
Năm là, tăng cường công tác kiểm tra giải quyết những trở ngại pháp
lý và thực tiễn; cần thực hiện chủ trương, các kết luận của Bộ Chính trị, Ban
Bí thư Trung ương Đảng và Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ đối với công tác
tôn giáo hiện nay. Xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, nhất là đối
với vùng đồng bào dân tộc, vùng đông tôn giáo.
Cũng như nhiều quốc gia, các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam có khả năng
không nhỏ trong các hoạt động giáo dục (giáo dục công cộng, không kể giáo
dục tôn giáo nội bộ), y tế (nhất là loại y tế cộng đồng), từ thiện và truyền
thông.
Sáu là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội
phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng tuyên truyền sâu rộng các chủ
trương, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước trong chức sắc, tín đồ các
tôn giáo. Vận động chức sắc, tín đồ sống “tốt Đời, đẹp Đạo” thực hiện quyền
lợi và nghĩa vụ công dân, tích cực tham gia phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
an ninh quốc phòng và thực hiện cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Hướng dẫn các tôn giáo hoạt động đúng
pháp luật, phát huy những giá trị văn hóa đạo đức lành mạnh, hướng thiện của
các tôn giáo phù hợp với văn hóa truyền thống dân tộc.
4.2.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật
4.2.2.1. Giải pháp nâng cao vai trò của Hiến pháp trong việc đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
- Tiếp thu kinh nghiệm lập pháp của các nước tiên tiến trên thế giới và
các chuẩn mực pháp lý quốc tế về tôn giáo: Nguyên tắc cơ bản này đặt ra
những yêu cầu và đảm bảo tính kế thừa của việc tiếp tục đổi mới và hoàn
thiện các quy định của pháp luật về tôn giáo; hoàn thiện pháp luật về tôn giáo
phải được thực hiện trên cơ sở đánh giá, tổng kết sâu rộng quá trình thực hiện
chính sách, pháp luật về tôn giáo và các văn bản quy phạm pháp luật khác có
liên quan; kế thừa phát triển những quy định còn phù hợp, mang tính khả thi
được xã hội thừa nhận; tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm lập pháp của
133
các nước tiên tiến trên thế giới nhằm đảm bảo tính tương thích giữa pháp luật
Việt Nam và pháp luật quốc tế về quyền con người, trong đó có quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo mà Việt Nam đã tham gia ký kết hoặc gia nhập.
- Đảm bảo sự phù hợp với Hiến pháp và sự đồng bộ của hệ thống pháp
luật Việt Nam: Hiến pháp năm 2013 là đạo luật cơ bản của Nhà nước, đạo
luật gốc đặt ra những quy định có tính chất nền tảng của chế độ Nhà nước,
chế độ xã hội, tổ chức bộ máy nhà nước, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân, đồng thời là cơ sở pháp lý rất quan trọng để xác định toàn bộ hệ thống
pháp luật nước ta. Việc chi tiết, cụ thể hóa hiến pháp bằng các văn bản pháp
luật khác phải được thực hiện trên cơ sở hiến pháp và phải đảm bảo điều kiện
là tất cả các văn bản pháp luật đó luôn phù hợp với hiến pháp, không được
trái với hiến pháp. Bên cạnh đó, pháp luật về tôn giáo có mối quan hệ chặt chẽ
với các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật nước ta; do vậy, việc hoàn
thiện pháp luật về tôn giáo phải được tiến hành trên cơ sở hoàn thiện một cách
đồng bộ và có hệ thống các ngành luật khác có liên quan.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giải thích, giáo dục Hiến
pháp nói chung, các quy phạm Hiến pháp về quyền con người, quyền tự to tín
ngưỡng, tôn giáo nói riêng để mọi người nhận thức đúng đắn, đầy đủ, sâu sắc,
thống nhất hơn nữa giá trị, vai trò của Hiến pháp trong việc đảm bảo quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo.
- Tổ chức tốt việc thực hiện các quy phạm hiến pháp hiện hành về
quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và sự đảm bảo của nhà
nước ta. Công tác tổ chức đưa các quy phạm hiến pháp và sự đảm bảo của nhà
nước ta về quyền con người và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo vào cuộc
sống là việc khó khăn, phức tạp, cần có sự tham gia, giúp đỡ của toàn xã hội;
bởi vậy, cần xã hội hóa công tác này nhằm phát huy sức mạnh của toàn xã hội
cho việc “vật chất hóa” các quy phạm hiến pháp và sự đảm bảo của nhà nước
về quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Nội dung của công tác
tổ chức thực hiện gồm: tuyên truyền, phổ biến, giải thích, giáo dục các quy
134
phạm hiến pháp và sự đảm bảo của nhà nước; động viên, thuyết phục, đồng
bộ các biện pháp pháp lý nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho họ như tăng
cường tuyên truyền, phổ biến, giải thích và giáo dục pháp luật; đẩy mạnh
công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật; xử lý kịp thời, nghiêm
minh, nhanh chóng mọi hành vi vi phạm pháp luật.
- Bảo vệ có hiệu quả các quy phạm pháp luật hiện hành và sự đảm bảo
của Nhà nước về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
- Thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh và thống nhất các quy phạm hiến
pháp hiện hành về quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
- Thường xuyên kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện pháp luật về
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và xử lý mọi vi phạm pháp luật một cách kịp
thời, nghiêm minh, nhanh chóng.
4.2.2.2. Xây dựng Luật về tín ngưỡng, tôn giáo
Nghị quyết Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa IX) đã đề ra phương hướng xây dựng Luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
Luật tín ngưỡng, tôn giáo là văn bản Luật có đối tượng điều chỉnh đặc thù, đa
dạng; phạm vi điều chỉnh rộng, phức tạp liên quan đến quyền con người,
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (liên quan đến đời sống tâm linh, tinh thần)
của mọi người, đặc biệt của các tổ chức, cá nhân tôn giáo. Quá trình xây dựng
luật cần phải đáp ứng được các nguyên tắc vừa đảm bảo quyền con người,
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân phù hợp với các công ước
quốc tế về lĩnh vực này mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập, đồng thời vừa
đảm bảo quản lý nhà nước về tôn giáo phù hợp với hệ thống pháp luật chung
của Việt Nam.
Tuy nhiên, qua tổng kết 10 năm thực hiện Pháp lệnh và các văn bản
quy định chi tiết thi hành, bên cạnh những thành tựu đạt được, có thể thấy vẫn
còn những bất cập trong các quy định của Pháp lệnh chưa phù hợp với tình
hình hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và có những vấn đề phức tạp phát sinh,
cụ thể:
135
- Đất đai, tài sản của các cơ sở tôn giáo bị biến động do trải qua nhiều
chế độ chính trị khác nhau nên trở thành vấn đề rất phức tạp; tình trạng khiếu
kiện liên quan đến đất đai, tài sản của các cơ sở tôn giáo có xu hướng ngày
càng tăng, hình thành điểm nóng ở nhiều nơi.
- Điều 11 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo giới hạn quyền hành đạo
(giảng đạo, truyền đạo, thực hiện nghi lễ tôn giáo) của các chức sắc tôn giáo
và nhà tu hành tại các cơ sở tôn giáo mà họ phụ trách; nếu hành đạo ở nơi
khác thì phải có sự chấp thuận của UBND cấp huyện nơi thực hiện. Trong
thực tế, quy định này là không cần thiết và không có tác dụng trong việc ngăn
ngừa những hành vi lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá Nhà
nước, vì việc ngăn ngừa những hành động đó đã được đề cập trong một loạt
quy định của pháp luật hành chính và hình sự. Ngược lại, quy định này gây
khó khăn cho việc thực hiện quyền hành đạo của các chức sắc tôn giáo và nhà
tu hành và bị coi là không phù hợp với tinh thần tự do tôn giáo của luật nhân
quyền quốc tế.
- Công tác tôn giáo được coi là nhiệm vụ của các ngành các cấp, nhưng
vì không quy trách nhiệm cụ thể cho chủ thể nào nên dễ dẫn đến chồng chéo,
hoặc bị bỏ trống. Hiện tại Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 chỉ quy
định trách nhiệm của chính quyền và Mặt trận Tổ quốc các cấp có trách
nhiệm phối hợp giải quyết nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân (Điều
7) nhưng không nêu vấn đề vi phạm và xử lý các hành vi vi phạm Pháp lệnh
của các cơ quan, cán bộ nhà nước, trong khi trên thực tế, những vi phạm như
vậy về mặt lý thuyết có thể xảy ra.
- Quy định điều kiện phải có sinh hoạt ổn định từ 20 năm trở lên và
không vi phạm pháp luật thì một tổ chức tôn giáo mới được công nhận (Điều
16 Pháp lệnh, Điều 8 Nghị định số 92/2012/NĐ-CP) là chưa hợp lý, vì một tổ
chức tôn giáo mới khó có thể đảm bảo những điều kiện như vậy để được công
nhận là một tôn giáo hợp pháp. Sự giới hạn này cũng không phù hợp với tinh
136
thần của luật nhân quyền quốc tế về tự do tôn giáo, tín ngưỡng. Thêm vào đó,
việc phân cấp thẩm quyền công nhận tổ chức tôn giáo còn chung chung.
Một số vấn đề phát sinh trong thực tiễn chưa được quy định trong Pháp
lệnh như: vấn đề tổ chức tôn giáo ở Việt Nam gia nhập tổ chức tôn giáo quốc
tế; việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử cho người có
quốc tịch nước ngoài hoạt động cho tổ chức tôn giáo ở Việt Nam; việc người
nước ngoài vào tu tại cơ sở tôn giáo ở Việt Nam, hoạt động của cơ sở đào tạo
tôn giáo không thuộc hệ thống quốc dân, vấn đề tư cách pháp nhân của tổ
chức tôn giáo,… chưa được quy định, ảnh hưởng đến tổ chức, cá nhân tôn
giáo trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo như quy định tại điều
24 của Hiến pháp năm 2013.
Về trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo
chưa được quy định cụ thể trong Pháp lệnh, ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này và hoạt động của tổ chức, cá nhân tôn
giáo.
Những hạn chế, bất cập nêu trên đặt ra yêu cầu cấp thiết phải xây dựng
một văn bản có giá trị pháp lý cao hơn thay thế Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn
giáo, đó là xây dựng Luật tín ngưỡng, tôn giáo; đây là một chủ trương đúng
đắn, cần thiết trong việc hoàn thiện pháp luật về tôn giáo; qua nghiên cứu và
thực tiễn, tôi đề xuất khi xây dựng Luật về tín ngưỡng, tôn giáo phải đáp ứng
những điều cơ bản sau:
+ Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín
ngưỡng, tôn giáo của công dân; quyền theo, thay đổi hoặc từ chối theo một
tôn giáo.
+ Quy định về các nội dung liên quan đến hoạt động tín ngưỡng bao
gồm hoạt động tín ngưỡng, lễ hội tín ngưỡng; người đại diện, ban quản lý cơ
sở tín ngưỡng; đăng ký hoạt động tín ngưỡng hàng năm; hoạt động tín
ngưỡng tại cơ sở tín ngưỡng; tổ chức lễ hội tín ngưỡng. Đây là quy định nhằm
đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của người dân, bước đầu hướng dẫn cho cơ
137
sở tín ngưỡng được bầu, cử người đại diện, ban quản lý, đăng ký hoạt động
tín ngưỡng hàng năm để quản lý, duy trì hoạt động của cơ sở.
+ Quy định cụ thể về điều kiện đăng ký sinh hoạt tôn giáo; đăng ký
hoạt động tôn giáo, thẩm quyền cấp đăng ký hoạt động tôn giáo, hoạt động
của tổ chức sau khi được cấp đăng ký và thu hồi đăng ký nếu tổ chức vi phạm
các quy định, nhất là đối với các tôn giáo mới cần phải đăng ký hoạt động tôn
giáo.
+ Quy định về thẩm quyền công nhận tổ chức tôn giáo; điều kiện, thẩm
quyền chấp thuận thành lập, chia tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo
trực thuộc; điều kiện, thẩm quyền chấp thuận thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo,
thông báo hoạt động của cơ sở đào tạo, tuyển sinh của cơ sở đào tạo, người
nước ngoài theo học tại cơ sở đào tạo tôn giáo ở Việt Nam.
+ Bảo đảm các hoạt động tôn giáo của các tổ chức, cá nhân tôn giáo
diễn ra bình thường trên cơ sở vừa quan tâm giải quyết một cách hợp lý nhu
cầu tín ngưỡng của nhân dân, vừa hướng dẫn các tổ chức tôn giáo hoạt động
trong khuôn khổ pháp luật.
+ Bổ sung các quy định về quan hệ quốc tế của tổ chức tôn giáo, tổ
chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ. Khẳng định
nguyên tắc quyền được thực hiện các hoạt động quốc tế liên quan đến tôn
giáo, quyền được mời tổ chức, cá nhân là người nước ngoài vào Việt Nam để
thực hiện các hoạt động tôn giáo, hoạt động quốc tế liên quan đến tôn giáo,
quyền được tham gia hoạt động tôn giáo, đào tạo tôn giáo ở nước ngoài,
quyền tham gia các tổ chức tôn giáo quốc tế.
+ Quy định về việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
người nước ngoài sinh sống và làm việc ở Việt Nam; theo đó, xác định quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền của mọi cá nhân, người nước ngoài sinh
sống, làm việc tại Việt Nam được Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo đảm.
Các quyền này bao gồm quyền sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài tại cơ
sở tôn giáo hoặc các địa điểm hợp pháp khác; vào tu tại cơ sở tôn giáo; giảng
138
đạo của chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài tại cơ sở tôn giáo ở Việt
Nam hoặc các địa điểm hợp pháp khác; theo học tại cơ sở đào tạo những
người chuyên hoạt động tôn giáo ở Việt Nam.
+ Bảo đảm sự hài hòa giữa đời sống tôn giáo với đời sống xã hội; giữa
tôn giáo với nhà nước; giữa tôn giáo này với tôn giáo khác; giữa tôn giáo với
tín ngưỡng dân gian; giữa các quy định của pháp luật với các quy định của
giáo lý, giáo luật của các tôn giáo và thông lệ, tập quán quốc tế.
Khuyến khích các tôn giáo đồng hành cùng dân tộc, hoạt động tôn giáo
vì lợi ích của Tổ quốc và nhân dân, tham gia phát triển kinh tế, xã hội vì lợi
ích chung của đất nước.
+ Quy định về nguyên tắc quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo;
về thanh tra, khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến tôn
giáo; xử lý vi phạm pháp luật về tôn giáo. Đây chính là các quy định về trách
nhiệm của nhà nước trong việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
mọi người.
+ Quy định cụ thể các chính sách về tôn giáo thể hiện chủ trương Nhà
nước khuyến khích và tạo điều kiện bảo đảm cho các hoạt động tôn giáo vì lợi
ích công cộng, lợi ích cộng đồng, lợi ích quốc gia; bảo hộ tài sản hợp pháp
của tổ chức tôn giáo, cơ sở tôn giáo và các cơ sở khác của tổ chức tôn giáo
được Nhà nước cho phép hoạt động; bảo đảm hoạt động tôn giáo diễn ra bình
thường, đồng thời kiên quyết đấu tranh chống mọi âm mưu, thủ đoạn của các
thế lực thù địch trong và ngoài nước tìm cách lợi dụng tôn giáo chống lại Tổ
quốc, dân tộc và cách mạng.
+ Về đối tượng điều chỉnh: đối tượng điều chỉnh của Luật về tín
ngưỡng tôn giáo gồm các đối tượng sau: Công dân Việt Nam là tín đồ các tôn
giáo; người Việt Nam định cư ở nước ngoài và tín đồ các tôn giáo là người
nước ngoài đang cư trú hợp pháp tại Việt Nam. Các tổ chức tôn giáo đã được
nhà nước công nhận tư cách pháp nhân, các tổ chức đã được cấp đăng ký hoạt
động tôn giáo và các tổ chức chưa được công nhận để hoạt động. Các tổ chức
139
tôn giáo nước ngoài có quan hệ với tổ chức tôn giáo Việt Nam theo quy định
của tổ chức tôn giáo hoặc lịch sử truyền đạo ở Việt Nam, các tổ chức phi
chính phủ (NGO) của các tôn giáo hoặc của các tổ chức quốc tế liên quan đến
tôn giáo trong quá trình hoạt động tại Việt Nam.
+ Về phạm vi điều chỉnh: phạm vi điều chỉnh của Luật tín ngưỡng, tôn
giáo ở nước ta vừa nhằm giải quyết hài hòa những vấn đề do lịch sử để lại với
những vấn đề đã, đang và sẽ đặt ra, vừa phải toàn diện, điều chỉnh được tất cả
những vấn đề tôn giáo có liên quan đến Nhà nước, xã hội; theo đó, Luật về tín
ngưỡng, tôn giáo cần lựa chọn phạm vi điều chỉnh chủ yếu tập trung vào các
vấn đề:
Tôn giáo với nhà nước: đây là mối quan hệ đặc biệt quan trọng, trong
mối quan hệ này các quy phạm pháp luật phải đảm bảo nhà nước là người đặt
ra các quy phạm buộc mọi tổ chức, cá nhân tôn giáo phải hoạt động trong
khuôn khổ của pháp luật, chịu sự quản lý của nhà nước, đồng thời nhà nước
có trách nhiệm bảo hộ cho các tôn giáo hoạt động trên thực tế, không can
thiệp vào công việc nội bộ của các tôn giáo.
Tôn giáo với dân tộc: các quy định của Luật phải đảm bảo các tôn giáo
đồng hành cùng dân tộc; không làm phương hại đến lợi ích của dân tộc, phải
đặt lợi ích của dân tộc, của tổ quốc lên trên hết, bảo vệ lợi ích dân tộc và chủ
quyền quốc gia.
Giữa tôn giáo này với tôn giáo khác: các quy định của Luật phải đảm
bảo sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật giữa các tôn giáo. Các
tôn giáo phải tôn trọng lẫn nhau, đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất,
chống mâu thuẫn, xung đột tôn giáo, duy trì bản sắc của từng tôn giáo trong
văn hóa Việt Nam.
Tôn giáo với xã hội: các quy định của Luật phải đảm bảo quyền của các
tôn giáo tham gia vào quá trình phát triển kinh tế, xã hội và xây dựng, bảo vệ
tổ quốc, bên cạnh đó nhà nước tạo điều kiện để các tôn giáo thích nghi với xã
hội hiện đại trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo
140
Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những giá trị văn hóa, đạo đức tôn
giáo phải được phát huy trong việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, trong quản lý xã hội.
+ Phương pháp điều chỉnh của Luật về tín ngưỡng, tôn giáo: là một lĩnh
vực chính trị nhạy cảm, vì vậy phương pháp điều chỉnh của Luật bên cạnh
phương pháp mệnh lệnh, còn có cả phương pháp mềm dẻo giáo dục, thuyết
phục. Các quy định của Luật phải xác định rõ cách thức tác động, xác định rõ
những hoạt động tôn giáo được nhà nước khuyến khích và những hoạt động
bị ngăn cấm; những hoạt động phải đăng ký; những hoạt động được phép;…
Trong dự thảo Luật tín ngưỡng, tôn giáo trình Quốc hội tới đây đã có
những điều chỉnh thể hiện tinh thần đổi mới theo đúng quy định của Hiến
pháp, các công ước quốc tế Việt Nam đã tham gia ký kết và cũng giải quyết
tốt hơn nhu cầu của người dân đối với tín ngưỡng tôn giáo.
Điểm đầu tiên phải nói rằng dự thảo Luật đã mở rộng phạm vi chủ thể
của quyền tín ngưỡng tôn giáo. Trước đây chúng ta quy định là công dân có
quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo thì nay quy định là mọi người để khẳng định
đây là quyền con người chứ không phải là quyền công dân như trước.
Điểm thứ hai là trước đây, việc đăng ký sinh hoạt tôn giáo được coi là
điều kiện để xem xét công nhận tổ chức tôn giáo nhưng nay việc đăng ký sinh
hoạt tôn giáo chỉ để coi là nhu cầu của người dân, không được coi là điều kiện
công nhận tổ chức tôn giáo nên toàn bộ tiến trình để công nhận tổ chức tôn
giáo từ 23 năm nay giảm xuống chỉ còn 10 năm.
Điểm thứ ba là điều chỉnh lại thẩm quyền về việc chấp thuận các hoạt
động lớn của các tôn giáo như vấn đề mở trường, phong chức, phong phẩm, tổ
chức hội nghị, đại hội của các tôn giáo, thẩm quyền đó được điều chỉnh cho
phù hợp để làm sao giải quyết nhanh gọn theo đúng tinh thần cải cách hành
chính.
Điểm thứ tư là bổ sung một số quy định liên quan tới sinh hoạt tôn giáo
cho người nước ngoài. Đây là điểm hoàn toàn mới. Người nước ngoài có thể
141
được phép tổ chức sinh hoạt tôn giáo riêng và được mời các tổ chức, cá nhân
tôn giáo từ nước ngoài vào để thực hiện các sinh hoạt tôn giáo, được tham gia
các khóa đào tạo, các lớp bồi dưỡng cũng như các trường đào tạo ở Việt Nam,
được phong chức, phong phẩm nếu họ có phục vụ các hoạt động tôn giáo ở
Việt Nam.
Như vậy, đối với người nước ngoài, các sinh hoạt và việc tổ chức hoạt
động tôn giáo của họ cũng gần như các công dân Việt Nam.
Dự thảo Luật cũng bổ sung các hoạt động xã hội của các tổ chức tôn
giáo, phát huy vai trò của các tôn giáo, đặc biệt trên các lĩnh vực hoạt động xã
hội. Với quy định này, các hoạt động xã hội sẽ được mở rộng theo quy định
của pháp luật có liên quan để các tổ chức tôn giáo có thể tham gia một cách
tích cực, đặc biệt là các hoạt động y tế, nhân đạo từ thiện được khuyến khích
thực hiện.
Trong dự thảo Luật, có chương liên quan đến thanh tra, kiểm tra. Đây
là hoạt động lâu nay các tổ chức tôn giáo cũng như là chính quyền địa phương
rất mong muốn có cơ quan thanh tra, kiểm tra về quá trình thực hiện chính
sách tôn giáo.
Một điểm cũng đáng chú ý, đó là dự thảo Luật đã có quy định về việc
liên quan đến tạm đình chỉ, đình chỉ và thu hồi các quyết định thành lập liên
quan đến các tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc cũng như các cơ sở
đào tạo mà trước đây chúng ta chưa có quy định này. Những cá nhân, tổ chức
liên quan tới vi phạm các quy định pháp luật, các điều cấm thì có thể tạm đình
chỉ, đình chỉ, thu hồi quyết định để các tổ chức tôn giáo hoạt động tốt hơn.
4.2.2.3. Thực hiện cụ thể chính sách, pháp luật liên quan đến quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo
- Về tổ chức tôn giáo
+ Tiếp tục công nhận các tổ chức tôn giáo có đủ điều kiện theo quy
định của pháp luật.
142
+ Đổi mới chính sách về tổ chức tôn giáo như: đăng ký và công nhận tổ
chức tôn giáo; hoạt động của Hội đoàn dòng tu và các hình thức tu hành tập
thể khác; thành lập trường đào tạo, bồi dưỡng những người chuyên hoạt động
tôn giáo; thành lập, chia tách; sáp nhập và hợp nhất tổ chức tôn giáo trực
thuộc; sinh hoạt tôn giáo ở ngoài cơ sở thờ tự.
+ Chấp thuận cho các tổ chức tôn giáo được hoạt động trên lĩnh vực y
tế và giáo dục và Chấp thuận cho các tổ chức tôn giáo đã được nhà nước công
nhận xuất bản các tạp chí để phản ánh các hoạt động tôn giáo và xã hội.
- Về chính sách đất đai tín ngưỡng, tôn giáo
+ Giữ nguyên hiện trạng đối với những cơ sở tôn giáo đã có, chỉ được
xây dựng thêm, mở rộng khi có nhu cầu cần thiết, được Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh cho phép; nghiêm cấm việc xây dựng tràn lan làm nảy sinh nhiều vấn đề
về an ninh phức tạp gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước.
+ Một số cơ sở do chiến tranh tàn phá, nay thực sự có nhu cầu xin phục
hồi lại thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, giải quyết. Nếu nhu cầu mà
chính đáng và diện tích đất có cơ sở tôn giáo mà nhà nước chưa giao cho ai
thì cho phép xây dựng lại trên nền đất cũ và phải phù hợp với quy hoạch.
+ Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét giải quyết, giao đất cho cơ sở tôn
giáo sử dụng trong những trường hợp như: thay đổi quy mô sử dụng, di dân
hình thành các khu dân cư mới; nhà nước thu hồi đất để phục vụ vào mục đích
quốc phòng, an ninh, lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia và phát triển kinh tế.
+ Phối hợp với các bộ, ngành ở Trung ương xây dựng, đề xuất, ban
hành văn bản hướng dẫn giải quyết một số vấn đề tồn đọng, vướng mắc về
chính sách quản lý nhà nước như: Quản lý nhà nước về đất đai, cơ sở thờ tự
liên quan đến tôn giáo, về quản lý hội đoàn, dòng tu của đạo Công Giáo, quản
lý chức sắc, nhà tu hành, trường lớp tôn giáo, về hoạt động từ thiện xã hội. Bổ
sung các quy định về quản lý nhà nước đối với hoạt động của một số tôn giáo
cho sát hợp với thực tiễn và luật pháp.
- Về đối ngoại và quan hệ quốc tế của các tổ chức, cá nhân tôn giáo
143
+ Quan tâm xây dựng đối ngoại về tôn giáo trong khối ASEAN, đặc
biệt là hai nước láng giềng Lào và Campuchia. Chú trọng quan hệ quốc tế của
Phật Giáo Việt Nam với Phật Giáo thế giới, nhất là Phật Giáo các nước láng
giềng, đưa Phật Giáo Việt Nam trở thành một trong những trung tâm quy tụ
Phật Giáo thế giới; của các tổ chức Tin Lành với khu vực Tây Âu, Bắc Âu,
Bắc Mỹ và Hàn Quốc; của Hồi Giáo Việt Nam với Hồi Giáo khu vực Đông
Nam Á trong điều kiện Việt Nam là thành viên ASEAN.
+ Tiếp tục duy trì quan hệ bình thường giữa Giáo hội Công Giáo Việt
Nam với Vatican, tiếp tục đối nội, đối ngoại của Việt Nam trong lĩnh vực tín
ngưỡng, tôn giáo và các lĩnh vực khác trong quan hệ quốc tế.
+ Phối hợp với các bộ, ngành tham gia các hội nghị quốc tế và giao lưu
quốc tế, đấu tranh trên lĩnh vực nhân quyền và tôn giáo qua đó khẳng định
chính sách của Đảng, Nhà nước ta cũng như việc thực hiện và đảm bảo quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo của chức sắc, tín đồ ở Việt Nam.
+ Hướng dẫn các tổ chức, cá nhân tôn giáo trong quan hệ với các tổ
chức, cá nhân tôn giáo nước ngoài, sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài ở
Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam, góp phần tuyên truyền chính sách
tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam với thế giới.
+ Tổ chức một số đoàn nghiên cứu, trao đổi về chính sách tôn giáo và
tuyên truyền về tự do tôn giáo ở Việt Nam, tạo sự hiểu biết và ủng hộ của
chính giới và nhân dân các nước.
- Về sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài.
+ Đáp ứng các nhu cầu tôn giáo cơ bản của những người nước ngoài
đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam như: địa điểm sinh hoạt tôn giáo;
chức sắc hướng dẫn việc đạo, kinh sách, đồ dùng trong việc đạo và các quyền
sinh hoạt hợp pháp khác như tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam.
+ Chấp thuận cho người nước ngoài theo tôn giáo thuê địa điểm sinh
hoạt tôn giáo nếu họ có nhu cầu, đặc biệt là ở các khu công nghiệp và đô thị.
Xây dựng kế hoạch lâu dài và quy hoạch quỹ đất ở các địa phương nhằm cho
144
người nước ngoài có tôn giáo vào Việt Nam sinh sống và làm việc thuê và kể
cả là người Việt Nam khi có nhu cầu thì cũng cho thuê. Nếu đáp đứng được
các điều kiện thì xem xét cho xây dựng nơi thờ tự riêng.
+ Tăng cường công tác kiểm tra các ngành, các cấp, các tổ chức và cá
nhân trong nước, các tổ chức và cá nhân nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ
Việt Nam trong việc tuân thủ và chấp hành các quy định pháp luật về hoạt
động tôn giáo.
- Về các tổ chức phi chính phủ liên quan đến tôn giáo (NGO tôn giáo)
tại Việt Nam: Bổ sung, hoàn thiện văn bản pháp luật để nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước đối với các hoạt động của tổ chức phi chính phủ nước ngoài
liên quan đến tôn giáo. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa
phương trong công tác đối với hoạt động của tổ chức phi chính phủ đang hoạt
động tại Việt Nam. Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức phi chính phủ
thực hiện các hoạt động từ thiện, nhân đạo, y tế… đồng thời kiên quyết đấu
tranh với những hoạt động tôn giáo trái pháp luật.
- Về chính sách an ninh trong tôn giáo
+ Các Vụ chuyên môn của Ban Tôn giáo Chính phủ phối hợp chặt chẽ,
thường xuyên với Ban Tôn giáo các tỉnh, thành phố nắm bắt kịp thời các
thông tin vi phạm các quy định của pháp luật về hoạt động tôn giáo, tổng hợp
tham mưu đề xuất biện pháp xử lý và ngăn chặn kịp thời các vi phạm. Đổi
mới công tác phòng ngừa, đấu tranh với các hoạt động xâm phạm chủ quyền,
an ninh quốc gia dưới chiêu bài nhân quyền, tự do tôn giáo.
+ Đổi mới nội dung, hình thức vận động quần chúng, tín đồ trong
phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở vùng có tôn giáo. Tuyên truyền
chủ trương, đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước cho nhân dân
được biết và hiểu rõ, đặc biệt là những vùng có đông người theo tôn giáo;
đồng thời tuyên truyền, phổ biến, nắm vững và tranh thủ hàng ngũ chức sắc
tăng cường tiếp xúc đối thoại, đấu tranh phê phán những sai phạm, những âm
mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo.
145
4.2.3. Xây dựng các điều kiện đảm bảo
4.2.3.1. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giải thích, giáo dục pháp
luật về tín ngưỡng, tôn giáo cho cán bộ và nhân dân:
Thực hiện bình đẳng tôn giáo, củng cố, xây dựng khối đại đoàn kết giữa
đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng
bào không theo tôn giáo, từ đó tập hợp, động viên, giáo dục người dân có tín
ngưỡng, tôn giáo trở thành lực lượng cách mạng tham gia sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc do Đảng lãnh đạo.
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về tín ngưỡng, tôn
giáo cho đối tượng là chức sắc, tín đồ các tôn giáo là không thể thiếu. Làm tốt
được công tác này sẽ giúp cho chúng ta quyết định được những lĩnh vực pháp
luật cần phổ biến, hình thức, nội dung phổ biến cho phù hợp. Các tài liệu
dùng để tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo
cần ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ và nên biên soạn thành một cuốn theo dạng hỏi
đáp. Trong quá trình triển khai tuyên truyền, phổ biến, giải thích, giáo dục
pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo nên tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ
của các tổ chức tôn giáo, của những người đứng đầu giáo hội tôn giáo; chú
trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ báo cáo viên nắm vững nghiệp vụ về tôn
giáo, giỏi làm công tác vận động quần chúng vùng đồng bào có đạo.
4.2.3.2. Tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm minh những
hành vi vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo
Đảm bảo cho mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hoặc
không theo một tôn giáo nào, quyền thể hiện đức tin, tại gia đình, cơ sở thờ tự
và một phần tại nơi công cộng theo quy định của pháp luật; chống mọi biểu
hiện của hoạt động tôn giáo cực đoan, tà đạo, hoạt động mê tín, dị đoan gây
mất đoàn kết dân tộc, tôn giáo và các hoạt động làm ảnh hưởng đến quyền tự
do khác của công dân trong khi thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Trên thực tế, ở chỗ này, chỗ kia vẫn xảy ra tình trạng một số các cơ
quan trong bộ máy nhà nước và nhân dân cũng có lúc vi phạm pháp luật. Hậu
146
quả của vấn đề này làm xuất hiện hai nguy cơ đe dọa quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo hợp pháp, vừa buông lỏng việc quản lý tôn giáo theo luật định, vừa
hạn chế quá mức những nhu cầu tôn giáo hợp lý của đồng bào có đạo, tạo ra
sự căng thẳng không cần thiết giữa tôn giáo và chính quyền. Cần phối hợp
chặt chẽ giữa các loại kiểm tra - kiểm tra của Đảng, của nhà nước, của tổ chức
xã hội và nhân dân. Tăng cường chất lượng và hiệu quả giám sát của cơ quan
quyền lực nhà nước đối với các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức và công
dân trong việc thực hiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
Các lực lượng vũ trang công an, quân đội cần làm tốt chức năng tham
mưu cho Đảng, Nhà nước về chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo; chủ
động ngăn ngừa và đấu tranh chống âm mưu, hoạt động lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo của các thế lực thù địch; đảm bảo an ninh, an toàn xã hội, thực hiện
chính sách đoàn kết dân tộc tạo sự ổn định và phát triển; đưa các hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo tuân thủ pháp luật, đồng hành với dân tộc, tích cực tham gia
công cuộc đổi mới, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Cần nâng cao năng lực chuyên
môn, nghiệp vụ và tinh thần trách nhiệm trước công việc của đội ngũ cán bộ,
công chức làm công tác tôn giáo, có chính sách đãi ngộ thỏa đáng cho họ,
đồng thời xử lý nghiêm minh cán bộ thoái hóa, biến chất, cố tình vi phạm
pháp luật; phối kết hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành, các cơ quan có liên
quan nhằm kịp thời phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật và xử lý
nghiêm minh các vi phạm đó, huy động sức mạnh của toàn xã hội vào việc
phòng, chống vi phạm về tín ngưỡng, tôn giáo.
4.2.3.3. Tập trung vào công tác xây dựng bộ máy làm công tác quản lý
nhà nước về tôn giáo từ Trung ương đến địa phương.
Cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam đã có lịch sử 60
năm, kể từ khi Nghị định số 566/TTg ngày 02/8/1955 của Thủ tướng Chính
phủ về việc thành lập Ban Tôn giáo Trung ương, cơ quan chuyên trách quản
lý nhà nước về tôn giáo; Tuy nhiên, tới thời điểm này, đội ngũ quản lý nhà
nước về tôn giáo tính chuyên nghiệp, năng lực chuyên môn ở một số nơi còn
147
hạn chế; để có thể củng cố và tạo ra một đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về
tôn giáo mang tính chuyên nghiệp, nâng cao hiệu quả quản lý và chuyên môn
cao cần thực hiện một số việc:
Một là, nâng cao tính chuyên môn trong quản lý nhà nước về tôn giáo,
quản lý nhà nước về tôn giáo luôn xác định là một phần trong lĩnh vực công
tác tôn giáo do Đảng lãnh đạo, với phương pháp chính là vận động quần
chúng tôn giáo thực hiện chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và pháp
luật của Nhà nước.
Hai là, đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về tôn
giáo tinh thông nghề nghiệp, gắn bó chuyên môn; quản lý nhà nước về tôn
giáo là một ngành nhưng không được đặt đúng tầm, bởi thế, ngành quản lý
nhà nước về tôn giáo không có được vị thế cần thiết. Để giải quyết tồn tại trên
cần có sự điều chỉnh đối với quản lý nhà nước về tôn giáo, tăng cường tính
độc lập, bản lĩnh trong xử lý, giải quyết nhiệm vụ chuyên môn. Nâng cao
năng lực cán bộ thông qua thi tuyển, tuyển chọn, đào đạo về chuyên môn
trong và ngoài nước với các chuyên ngành đặc biệt chú ý như Luật học, Tôn
giáo học, Xã hội học, Lịch sử học, Nhân học, Văn hóa học… để phục vụ
ngành quản lý nhà nước về tôn giáo; củng cố tổ chức theo hướng chuyên sâu
về chuyên môn, gắn chặt trách nhiệm với công việc, nhiệm vụ được giao.
Ba là, tiếp tục đề xuất với Chính phủ cho ngành quản lý nhà nước về
tôn giáo được hưởng phụ cấp đặc thù; Đảng và Nhà nước quan tâm hơn nữa
tới ngành quản lý nhà nước về tôn giáo, tạo sự an tâm công tác, đảm bảo cuộc
sống để tránh việc những công chức, viên chức sau khi đã công tác ở ngành
quản lý nhà nước về tôn giáo được vài năm thì đã xin chuyển công tác hoặc
bỏ ra làm việc bên ngoài.
148
Tiểu kết chương 4
Hiện nay đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Luật pháp về tôn
giáo nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; nhà nước ta không
ngừng nghiên cứu, bổ sung và từng bước hoàn thiện một cách có hệ thống các
văn bản pháp lý. Mặc dù đã có những khung hình phạt cụ thể đối với các hành
vi xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; xong chúng ta vẫn cần phải
nâng Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo lên thành luật; ngoài những quy định
chung, thì việc càng thể chế hóa, cụ thể hóa bao nhiêu quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo càng tạo điều kiện cho việc thực hiện quyền ấy được tốt bấy
nhiêu. Các văn bản pháp lý này phù hợp với các điều khoảng về tự do tôn
giáo trong các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, ký kết.
Cùng với việc đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục các văn bản
pháp luật liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo tới toàn thể nhân dân; cần có sự
phối kết hợp giữa nhà nước và nhân dân; đầu tư thỏa đáng cho việc thực hiện
các giải pháp; các giải pháp phải được thực hiện đồng bộ, kịp thời, nội dung,
hình thức và cách thức thực hiện các giải pháp cần được thường xuyên cải
tiến, đổi mới, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các giải pháp;
động viên khen thưởng kịp thời những cá nhân, tổ chức thực hiện tốt các giải
pháp; phê phán, xử lý kịp thời các trường hợp không thực hiện…
Mục tiêu hoàn thiện pháp luật về tôn giáo nhằm hướng đến việc tạo môi
trường pháp lý thuận lợi nhất để mọi người thực hiện quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của mình. Để đạt được mục tiêu này, những giải pháp đã được đề
cập, hướng đến là nâng cao nhận thức về tôn giáo và công tác quản lý nhà
nước về tôn giáo; sửa đổi, bổ sung những quy định pháp luật về tôn giáo hiện
hành xây dựng Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
149
KẾT LUẬN
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của
con người, thuộc nhóm quyền dân sự và chính trị được ghi nhận trong một số
văn bản chính trị - pháp lý của Liên hợp quốc. Pháp luật về tôn giáo là một bộ
phận của hệ thống pháp luật; trong đó quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được
pháp luật Việt Nam ghi nhận và bảo đảm tương đối đầy đủ. Pháp luật một mặt
thừa nhận và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, mặt khác nghiêm cấm
các hành vi lợi dụng tôn giáo gây phương hại đến lợi ích xã hội, lợi ích công
dân hoặc chia rẽ sự đoàn kết giữa những người có đạo với những người không
có đạo hoặc những người có đạo với nhau.
Tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, một trong những quyền cơ bản của con người đã được các nước trên thế
giới quan tâm và ghi nhận trong các quy tắc pháp lý của quốc gia và quốc tế
và được đảm bảo thực hiện trên thực tế. Việt Nam cũng như hầu hết các quốc
gia trên thế giới đều ghi nhận và đảm bảo thực hiện quyền này trong hệ thống
pháp luật của mình. Pháp luật về tôn giáo ra đời một lần nữa khẳng định chính
sách nhất quán của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với
tôn giáo, tạo môi trường pháp lý quan trọng trong việc bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo, không những đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo đang
diễn ra rất phong phú ở nước ta mà còn thích ứng với những điều ước quốc tế
mà Việt Nam đã tham gia ký kết hoặc gia nhập trong đó có Tuyên ngôn Quốc
tế về Nhân quyền và Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị,
đồng thời là bước tiến quan trọng trong việc xây dựng mối quan hệ ổn định,
bền vững giữa Nhà nước và các tổ chức tôn giáo.
Về mặt lý luận, luận án đã đưa ra khái niệm, vị trí của pháp luật về tôn
giáo, vai trò của pháp luật về tôn giáo, cũng như mối quan hệ giữa pháp luật
và tôn giáo; tiêu chí hoàn thiện pháp luật về tôn giáo; đồng thời phân tích đặc
điểm, nội dung và các yếu tố bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
150
Về thực tiễn, bằng việc đánh giá thực trạng bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo dựa trên quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước; những thành tựu bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay; đánh giá thực trạng pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay qua
các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội trong lĩnh vực tôn
giáo hiện hành; phân tích, làm sáng tỏ thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
Dựa trên thực trạng thực hiện pháp luật về tôn giáo cũng như thực hiện
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; qua đó, đánh giá những ưu điểm, nhược
điểm và chỉ rõ nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế và sự biến đổi
của tình hình tôn giáo hiện nay; luận án đã làm rõ sự cần thiết khách quan
phải đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt Nam hiện
nay và kiến nghị những quan điểm và giải pháp đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
Hiện nay đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Luật pháp về tôn
giáo nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; nhà nước ta không
ngừng nghiên cứu, bổ sung và từng bước hoàn thiện một cách có hệ thống các
văn bản pháp lý. Mặc dù đã có những khung hình phạt cụ thể đối với các hành
vi xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; xong chúng ta vẫn cần phải
nâng Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo lên thành luật; ngoài những quy định
chung, thì việc càng thể chế hóa, cụ thể hóa bao nhiêu quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo càng tạo điều kiện cho việc thực hiện quyền ấy được tốt bấy
nhiêu. Các văn bản pháp lý này phù hợp với các điều khoảng về tự do tôn
giáo trong các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, ký kết./.
151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU THAM KHẢO TRONG NƯỚC
1. ThS. Thái Văn Anh, Tín ngưỡng, tôn giáo và niềm tin tôn giáo ở Việt
Nam dưới góc độ tâm lý học, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, số 03/2015.
2. Phương Anh (1997), Mấy vấn đề về tôn giáo và quan điểm của các
nhà kinh điển về tôn giáo, Tạp chí Nghiên cứu Phật học.
3. Lưu Bành, Luật pháp tôn giáo Trung Quốc: tiến trình lịch sử và
những phát triển gần đây, Nghiên cứu Tôn giáo, số 3/2007.
4. Ban chỉ đạo nhân quyền của Chính phủ (2009), Những quy định của
pháp luật Việt Nam về Quyền con người, Hà Nội.
5. Ban Tôn giáo Chính phủ (2006), Các văn bản pháp luật quan hệ đến
tín ngưỡng tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
6. Ban Tôn giáo Chính phủ (2008), Tài liệu Hỏi - Đáp pháp luật liên
quan đến tín ngưỡng tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
7. Ban Tôn giáo Chính phủ (2009), Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở
Việt Nam (sách trắng), Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
8. Ban Tôn giáo Chính phủ (2008), Tôn giáo và công tác quản lý nhà
nước đối với các hoạt động tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
9. Ban Tôn giáo Chính phủ (2012), Văn bản của Đảng và Nhà nước về
tín ngưỡng tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
10. Ban Tôn giáo Chính phủ (2013), Văn bản Pháp luật Việt Nam về tín
ngưỡng tôn giáo; Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
11. Ban Tôn giáo Chính phủ (2008), Tôn giáo và công tác quản lý nhà
nước đối với các hoạt động tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
12. Ban Tôn giáo Chính phủ, Số liệu thống kê qua các thời kỳ, Tài liệu
lưu trữ, H.2014
13. Ban Tôn giáo Chính phủ (2015), Ban Tôn giáo Chính phủ, 60 năm
xây dựng và trưởng thành (1955-2015), Nxb Tôn giáo.
14. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2000), Vấn đề dân tộc và
chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Giáo dục
152
15. Ban Tôn giáo Chính phủ, Hội đồng Lý luận Trung ương, Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đề tài Khoa học cấp Nhà nước KX
04.19/11-15, Hội thảo Khoa học Tôn giáo và Nhà nước Pháp quyền Xã hội
Chủ nghĩa, Hà Nội, tháng 12/2013.
16. Bộ Tư pháp (2005), Việt Nam với vấn đề quyền con người, Nxb Tư
Pháp, Hà Nội.
17. Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. ThS. Đồng Ngọc Châu, Về thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo ở nước ta hiện nay, Tạp chí Công tác tôn giáo - Ban Tôn giáo Chính phủ,
Số 8/2009.
20. PGS.TS. Đại Tá Trần Nam Chuân, Hoàn thiện pháp luật về tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam trong tình hình mới, Tạp chí Công tác tôn giáo -
Ban Tôn giáo Chính phủ, số 4/2012.
21. PGS.TS. Trần Nam Chuân, Thực hiện chính sách tôn giáo ở Việt
Nam hiện nay, Tạp chí Công tác tôn giáo - Ban Tôn giáo Chính phủ, Số
9/2010.
22. Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1953), Những văn bản
của Đảng và Nhà nước liên quan đến tôn giáo (1945-2003), Cục tham mưu
An ninh, Bộ Công an, Hà Nội.
23. Các cương lĩnh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1998.
24. Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ban hành chính sách tôn
giáo, Sắc lệnh số 234/SL, ngày 14/6/1955.
25. PGS.PTS. Đỗ Minh Cương, PTS. Mạc Văn Tiến (1996), Góp phần
đổi mới và hoàn thiện chính sách bảo đảm xã hội ở nước ta hiện nay, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
153
26. Nguyễn Văn Dũng, Bước đầu tìm hiểu vị trí của tôn giáo trong đời
sống chính trị - xã hội Hoa Kỳ nửa sau thế kỷ XX, Tạp chí nghiên cứu tôn
giáo, số 7/2007.
27. TS. Nguyễn Văn Động (2004), Các quyền hiến định của công dân
và bảo đảm pháp lý ở nước ta, Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, Số 1/2004.
28. TS. Nguyễn Văn Động (2004), Các quyền hiến định về xã hội của
công dân ở Việt Nam hiện nay (sách chuyên khảo), Nxb Tư Pháp, Hà Nội.
29. Đại học quốc gia Hà Nội - khoa Luật (2007), Giáo trình lý luận
chung về nhà nước và pháp luật.
30. TS. Nguyễn Văn Động (2004), Quyền con người, quyền công dân
trong Hiến pháp Việt Nam (sách chuyên khảo), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
31. Nguyễn Văn Dũng, Chính sách mới đối với thế giới Islam giáo của
Chính quyền Barack Obama, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 3/2009.
32. PGS.TS. Nguyễn Hồng Dương (2012), Quan điểm đường lối của
Đảng về tôn giáo và những vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính
trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy
Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4 (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
38. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5 (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
154
39. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Nxb
Lao Động, Hà Nội.
40. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
41. Hội thảo, Tôn giáo và Pháp quyền ở Đông Nam Á, Hà Nội, 2007.
42. Hội thảo: Đa dạng tôn giáo: So sánh Pháp - Việt, Hà Nội, 2007.
43. Hội thảo, Tôn giáo và pháp quyền Đông Nam Á, Hà Nội, 2011,
44. Nguyễn Thị Vân Hà (2014), Tôn giáo và luật pháp về tôn giáo
trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ ngành Tôn giáo học.
45. Lê Đức Hạnh (2009), Quyền con người trong tín ngưỡng tôn giáo;
Tạp chí nghiên cứu tôn giáo, số 6.
46. GS.TS. Hoàng Văn Hảo, PTS. Chu Hồng Thanh (1997), Một số vấn
đề về quyền dân sự và chính trị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. PGS.TS. Hoàng Văn Hảo (1997), Hiến pháp Việt Nam và vấn đề
quyền con người, quyền công dân, Tạp chí Luật học.
48. Mai Thanh Hải (2002), Từ điển Tôn giáo, Nxb Từ điển Bách Khoa,
Hà Nội.
49. TS. Nguyễn Thị Hiền, Khái niệm tôn giáo nhìn từ góc độ nhân học,
Nghiên cứu tôn giáo, số 10/2012,
50. Nguyễn Ngọc Huấn, Giáo luật Cao Đài Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ,
Tạp chí Công tác Tôn giáo - Ban Tôn giáo Chính phủ, số 05/2012, tr.41-44.
51. Nguyễn Ngọc Huấn, Những đặc điểm chính trong Truyền giáo đạo
Cao Đài, Tạp chí Công tác Tôn giáo - Ban Tôn giáo Chính phủ, số 8/2012,
tr.47-50.
52. ThS. Nguyễn Ngọc Huấn, Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong
các văn bản chính trị, pháp lý quốc tế, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, số
8/2014, tr.46-52.
53. ThS. Nguyễn Ngọc Huấn, Cơ sở lý luận quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo, Tạp chí Thanh tra Chính phủ, số 11/2015, tr.47-49.
155
54. ThS. Nguyễn Ngọc Huấn, Thủ tướng Võ Văn Kiệt với Công Giáo ở
Việt Nam, Tạp chí Công tác tôn giáo - Ban Tôn giáo Chính phủ, số 12/2015,
tr.3 và tr.9.
55. ThS. Nguyễn Ngọc Huấn, Một số nội dung cần quan tâm trong xây
dựng và hoàn thiện pháp luật về tôn giáo, Tạp chí Thanh tra Chính phủ, số
01/2016, tr.25-27.
56. ThS. Nguyễn Ngọc Huấn, Tìm hiểu về Tân pháp đạo Cao Đài, Tạp
chí Cao Đài, số 06/2016, tr.12-16.
57. ThS. Nguyễn Ngọc Huấn, ThS. Cát Ngọc Trình, ThS. Nguyễn Văn
Hòa, Tìm hiểu pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo và thanh tra chuyên ngành
trong lĩnh vực tôn giáo, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội, 8/2016, 167 trang.
58. Nguyễn Khắc Huy, Tiến trình luật pháp tôn giáo ở Việt Nam từ
năm 1990 đến nay, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 1/2007.
59. TS. Nguyễn Hoàn (2008), Để một Việt Nam phẳng, Nxb Lao động,
Hà Nội.
60. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2005), cuốn các văn
kiện của Đảng và Nhà nước về cải cách bộ máy nhà nước, Nghị quyết số 48-
NQ/TW, ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị (khóa IX) về Chiến lược xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020, Hà Nội.
61. TS. Đỗ Minh Hợp (2006), Tôn giáo học nhập môn, Nxb Tôn giáo,
Hà Nội.
62. TS. Đỗ Minh Hợp (2006), Tôn giáo Phương Đông, quá khứ và hiện
tại, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
63. GS.TS. Đỗ Quang Hưng (2008), Vấn đề tôn giáo trong cách mạng
Việt Nam lý luận và thực tiễn, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
64. GS.TS. Đỗ Quang Hưng (2003), Bước đầu tìm hiểu về mối quan hệ
giữa Nhà nước và Giáo hội, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
65. GS.TS. Đỗ Quang Hưng (2014), Chính sách tôn giáo và Nhà nước
pháp quyền, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
156
66. Nguyễn Quang Hưng (2007), Công giáo Việt Nam thời kỳ Triều
Nguyễn (1802-1883), Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
67. GS.TS. Đỗ Quang Hưng, Sự ra đời và địa vị pháp lý của Luật pháp
về Tôn giáo, Tạp chí Công tác tôn giáo- Ban Tôn giáo Chính phủ, Số 11/2008.
68. GS.TS. Đỗ Quang Hưng, Mấy nhận định tổng quát về đời sống tôn
giáo ở Việt Nam hiện nay và mối quan hệ giữa nhà nước và giáo hội, Tạp chí
Công tác tôn giáo - Ban Tôn giáo Chính phủ, Số 07/2012.
69. Nguyễn Thái Yên Hương, Nguyễn Quốc Lộc (2005), Can thiệp
nhân đạo trong chính sách đối thoại của Mỹ, Nxb Thế giới.
70. Phạm Khiêm Ích (1998), Quyền con người các văn kiện quan trọng,
Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội.
71. Lưu Trọng Khang, Thực tiễn và kinh nghiệm cơ bản về chính sách
tôn giáo của Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Tân Cương, Nghiên cứu Tôn
giáo, số 2/2001.
72. Nguyễn Hữu Khiển (2001), Quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo trong điều kiện xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền Việt Nam
hiện nay, Nxb Công an nhân dân.
73. Trần Thanh Lâm, Tôn giáo và quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo, Quản lý nhà nước, số 9/1999.
74. Bùi Đức Luận (2005), Quản lý hoạt động tôn giáo, cơ sở lý luận và
thực tiễn, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
75. Bùi Đức Luận, Những bước tiến trong việc thể chế hoá chủ trương,
chính sách về tôn giáo ở nước ta trong thời gian gần đây, Nghiên cứu Tôn
giáo, 1/2003.
76. PGS.TS. Nguyễn Đức Lữ (2007), Lý luận về tôn giáo và chính sách
tôn giáo ở Việt Nam (tài liệu tham khảo), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
77. PGS.TS. Nguyễn Đức Lữ (2011), Lý luận về tôn giáo và chính
sách tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
157
78. PGS.TS. Nguyễn Đức Lữ (2005), Những đặc điểm cơ bản của một
số tôn giáo lớn ở Việt Nam và Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt
Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
79. Nguyễn Đức Lữ (1999), Tín ngưỡng và tôn giáo - đôi nét phác
thảo, Thông tin lý luận.
80. PGS.TS. Trung tướng Nông Văn Lưu, An ninh với đảm bảo tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, Tạp chí Công tác Tôn giáo - Ban Tôn giáo
Chính phủ, số 7/2012.
81. PGS.TS. Hoàng Thế Liên (2005), Việt Nam với vấn đề quyền con
người, Bộ Tư pháp, Hà Nội.
82. PGS.TS. Nguyễn Văn Minh (2013), Tôn giáo, tín ngưỡng các dân
tộc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
83. ThS. Võ Khánh Minh, Tình hình nghiên cứu giáo dục quyền con
người ở nước ta và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, Tạp chí
Nhân lực Khoa học xã hội, số 03/2015.
84. GS.TS Lê Hữu Nghĩa, PGS.TS Nguyễn Đức Lữ (2003), Tư tưởng
Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
85. Nguyễn Hồng Nhung, Chính sách tôn giáo của Nhà nước Việt Nam
trong những năm 1990 - 2004, Nghiên cứu Tôn giáo, 4/2011.
86. Những Nghị quyết cơ bản dẫn đến thắng lợi Cách mạng tháng Tám,
Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1983.
87. PGS.TS. Trần Sỹ Phán, Về xây dựng và phát triển con người Việt
Nam hiện nay, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, số 03/2015.
88. Phủ thủ tướng, Nghị quyết 297-CP, ngày 11/11/1977 của Hội đồng
Chính phủ về một số chính sách đối với tôn giáo.
89. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp
năm 1980, 1992, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
90. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000), Luật
đất đai 2003, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
158
91. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật
đất đai, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
92. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000), Luật
hôn nhân và gia đình.
93. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Bộ
luật hình sự (sửa đổi, bổ sung 2009), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
94. TS. Trần Đăng Sinh, Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
95. Bùi Ngọc Sơn, Những tác động của Nho giáo đối với việc xây dựng
nhà nước pháp quyền của Việt Nam, Nhà nước và pháp luật, số 11/2002.
96. Tuyên ngôn thế giới và hai công ước 1966 về quyền con người, tập
thể tác giả, Trung tâm nghiên cứu quyền con người thuộc Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002.
97. GS.PTS. Trịnh Quốc Tuấn (1996), Bình đẳng dân tộc ở nước ta
hiện nay, vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
98. PGS. Chu Hồng Thanh (1997), Quyền con người và luật quốc tế về
quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
99. Nguyễn Cao Thanh, Tìm hiểu cơ sở xã hội và tư tưởng của cuộc cải
cách tôn giáo ở châu Âu thế kỷ XVI, Tạp chí Công tác tôn giáo - Ban Tôn giáo
Chính phủ, số 6/2008.
100. Nghiêm Văn Thái, Tôn giáo ở Mỹ, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo,
số 3/2011.
101. PGS.TS. Ngô Hữu Thảo, Vấn đề xây dựng luật pháp tín ngưỡng,
tôn giáo ở Việt Nam, Tạp chí Công tác tôn giáo - Ban Tôn giáo Chính phủ, Số
4-5/2006.
102. Ngô Hữu Thảo (2012), Công tác tôn giáo - Từ quan điểm Mác -
Lênin đến thực tiễn Việt Nam, Nxb Chính trị Hành chính, Hà Nội.
103. PGS.TS. Thái Vĩnh Thắng (2008), Nhà nước và pháp luật tư sản
đương đại (sách chuyên khảo), Nxb Tư Pháp, Hà Nội.
159
104. TS. Nguyễn Thị Thuận (2010), Luật quốc tế những điều cần biết,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
105. TS. Trần Minh Thư (2005), Tìm hiểu Pháp luật Việt Nam về tôn
giáo, tín ngưỡng, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
106. Trung tâm Khoa học về Tín ngưỡng và Tôn giáo (1996), Trích tác
phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
107. Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Trường Đại học
Brigham Young Hoa Kỳ, Lớp bồi dưỡng kiến thức tôn giáo và Pháp quyền,
tài liệu tham khảo, Hà Nội, 11/2012.
108. ThS. Nguyễn Thị Bạch Tuyết (2006), Giáo hội Công giáo Trung
Quốc, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
109. GS. Đặng Nghiêm Vạn (1998), Những vấn đề lý luận và thực tiễn
tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
110. GS. Đặng Nghiêm Vạn, (2001), Lý luận về tôn giáo và tình hình
tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
111. GS.TS. Võ Khánh Vinh (2011), Quyền con người, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
112. GS.TS. Võ Khánh Vinh (2010), Quyền con người, tiếp cận đa
ngành và liên ngành luật học, tập 1, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
113. GS.TS. Võ Khánh Vinh (2011), Cơ chế đảm bảo và bảo vệ Quyền
con người, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
114. GS.TS. Võ Khánh Vinh (2011), Những vấn đề lý luận và thực tiễn
của nhóm quyền dân sự và chính trị, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
115. GS.TS. Võ Khánh Vinh (2012), Xã hội học pháp luật, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
116. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2004), Tạp chí Nghiên cứu tôn
giáo: Về tôn giáo và tôn giáo ở Việt Nam (sách tham khảo), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
160
117. Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự (2008), Tôn giáo và tự do
tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
118. GS.TS. Nguyễn Hữu Vui (1994), Những vấn đề tôn giáo hiện nay,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
119. TS. Nguyễn Thanh Xuân (2012), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb
Tôn giáo, Hà Nội.
120. TS. Nguyễn Thanh Xuân (2012), Những chuyển biến trong đời
sống tôn giáo ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, Tạp chí Công tác tôn giáo - Ban
Tôn giáo Chính phủ, 2012.
TÀI LIỆU THAM KHẢO NƯỚC NGOÀI
121. Các tôn giáo và tín ngưỡng ở Mỹ của tác giả Catherine
L.Albanese, do Việt Thư dịch, Nxb Thời Đại, 2012.
122. C.Evans, Tự do tôn giáo theo Công ước châu Âu về Nhân quyền,
Nhà xuất bản Đại học Oxford, 2001.
123. Diane Morgan, Triết học và tôn giáo phương Đông do Lưu Văn
Hy biên dịch, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2006.
124. Detlef Pollack (2008), Religion Change of Religion Perspectives
Offered by the Socilogy of Religion trong cuốn The Role of religion,
Routledge London.
125. Droits Dr L’homme Human Rights, Documents Fondamentaux
Fundamental Documents, Quyền con người, các văn kiện quan trọng, Viện
Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội, 1998.
126. Encyclopédie des Jeunes (1995), Les Religions du Monde,
Larousse, Paris.
127. Hamilton, M.B, The Sociology of Religion (2nd Edition, 2001).
128. M.D.Evans, Tự do tôn giáo và luật pháp quốc tế ở châu Âu, Nhà
xuất bản Đại học Cambridge, 1997 (tái bản 2008).
129. L.M. Hammer, Nhân quyền quốc tế về tự do tín ngưỡng: Một số
giải pháp áp dụng và phát triển, Ashgate, Aldershot, 2001.
161
130. Law and Protestantisme của tác giả JR.John Witte, Nhà xuất bản
Cambridge, New York, 2002.
131. Law and religion in contemporary society của tác giả Phillip
Goodchild, Nhà xuất bản Ashgate, Burlington, 2002.
132. Mel Thomson (2004), Triết học tôn giáo, do TS. Đỗ Minh Hợp
dịch, sách tham khảo, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
133. Michael Perry (1988), Morlity, Politics and Law, Oxford
Univ,Press.
134. Mác, Ăng-ghen, Lênin bàn về tôn giáo và chủ nghĩa vô thần
(2001), do Trần Khang, Lê Cự Lộc dịch, sách tham khảo, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
135. Mác, Ăng-ghen, toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1995.
136. Mác, Ăng-ghen, toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1994.
137. N. Lermer, Tôn giáo, tín ngưỡng thế tục và nhân quyền (tái bản
lần hai), Martinus Nijhoff, Leiden, 2006.
138. Joseph Hannah, Local Non - Government Organizations in
Vietnam: Development, Civil Society and State-society Relations.
139. J.D. van der Vyver & J.Witte (biên tập), Quyền con người về tôn
giáo trên góc độ toàn cầu: Góc độ pháp lý, Martinus nijhoff, Boston, 1996.
140. J.P.Bastian, F.Champion, K.Rousselet (2001), La globaliation du
religieux, ed.L’Harmattan, Paris.
141. Jacques Sutter, Retour du religieux, La documentation Francaise,
2/1991.
142. John Renard, Tri thức tôn giáo - qua các vấn nạn và giải đáp, Nxb
Tôn giáo, Hà Nội, 2004.
143. Jurgen Habermas (2006), Religion in the Public Sphere.
144. Kumarian Press (2000), Religion and Development, Ottawa,
Canada.
162
145. K. Wald (2003), Religion and Politics in the United States, 4th
ed., Lanham, Md: Rowman & littlefild.
146. Popular religion in sixteenth century England của tác giả
Christopher Marsh, Nhà xuất bản Macmillan, London, 1998.
147. Predicting religion của José Casanova (Dự báo tôn giáo), 2003.
148. Primoz Manfreda, Turkeey’s Role in the Arab Spring, A reurgent
Turkey steps up its regional role.
149. Richand S.Sloma, Để là nhà quản lý thành công, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội, 1993.
150. Rik Torfs, Mối quan hệ giữa tôn giáo và nhà nước ở châu Âu
151. Religions in the Modern World, London, Nxb Routledge, 2001.
152. Robert R.Blankem, Jame S.Mouton, Lãnh đạo, chìa khóa của sự
thành công, Trung tâm Thương mại xuất bản, Hà Nội, 1993.
153. Tahir Mahmood, Mấy vấn đề tôn giáo và luật pháp ở Ấn Độ,
Nghiên cứu Tôn giáo, 1/2007.
154. TS. Trác Tân Bình - người dịch Trần Nghĩa Phương, Lý giải tôn
giáo, Nxb Hà Nội, 2007.
155. Yushang P.Yao, Luật tôn giáo và sự phát triển của nó ở Đài
Loan;
156. W.Coler Durham, Tiến trình và bối cảnh hiện tại của luật pháp
tôn giáo tại Đông Nam Á: một cách nhìn so sánh, Tạp chí Nghiên cứu Tôn
giáo, số 01, 02/2007.
157. W.Coler Durham, JR. and Brett G. Scharffs (2014), Luật pháp và
tôn giáo, tiếp cận so sánh quốc gia, quốc tế, do Đặng Hoàng Nam, Phạm
Quốc Thành, Phan Tường Vân, Phan Hương Giang, Hồ Hoàng Thái dịch.
158. W.C.Durham, B.G.Scharffs, Law and Religion, National,
Intermational, and Comparative Perspectives, Wolters Kluwer, New York,
2010.
163
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1. Nguyễn Ngọc Huấn, Giáo luật Cao Đài Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Tạp chí Công
tác Tôn giáo - Ban Tôn giáo Chính phủ, số 05/2012.
2. Nguyễn Ngọc Huấn, Những đặc điểm chính trong Truyền giáo đạo Cao Đài, Tạp
chí Công tác Tôn giáo - Ban Tôn giáo Chính phủ, số 08/2012.
3. ThS. Nguyễn Ngọc Huấn, Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong các văn bản
chính trị, pháp lý quốc tế, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, số 08/2014.
4. ThS. Nguyễn Ngọc Huấn, Cơ sở lý luận quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Tạp
chí Thanh tra Chính phủ, số 11/2015.
5. ThS. Nguyễn Ngọc Huấn, Thủ tướng Võ Văn Kiệt với Công Giáo ở Việt Nam,
Tạp chí Công tác tôn giáo - Ban Tôn giáo Chính phủ, số 12/2015.
6. ThS. Nguyễn Ngọc Huấn, Một số nội dung cần quan tâm trong xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về tôn giáo, Tạp chí Thanh tra Chính phủ, số 01/2016.
7. ThS. Nguyễn Ngọc Huấn, Tìm hiểu về Tân pháp đạo Cao Đài, Tạp chí Cao Đài,
số 06/2016.
8. ThS. Nguyễn Ngọc Huấn, ThS. Cát Ngọc Trình, ThS. Nguyễn Văn Hòa, Tìm
hiểu pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo và thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực tôn giáo,
Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội, 167 trang, 8/2016.