sỰ biẾn ĐỔi cỦa giai cẤp cÔng nhÂn viỆt nam dƯỚi tÁc … _ pham van giang.pdf ·...
TRANSCRIPT
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHẠM VĂN GIANG
SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIAI CẤP
CÔNG NHÂN VIỆT NAM DƯỚI TÁC ĐỘNG
CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ
CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHẠM VĂN GIANG
SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIAI CẤP
CÔNG NHÂN VIỆT NAM DƯỚI TÁC ĐỘNG
CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ
CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Mã số: 62 22 03 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS.TS. TRẦN VĂN PHÒNG
2. PGS.TS. NGUYỄN VĂN LÝ
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả
Phạm Văn Giang
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI 6
1.1. Những nghiên cứu liên quan đến lý luận về giai cấp công nhân và sự biến đổi của
giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế 6
1.2. Những nghiên cứu đề cập đến thực trạng và giải pháp đối với sự biến đổi của
giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế 17
1.3. Khái quát kết quả có giá trị tham khảo từ các công trình đã nghiên cứu và vấn đề
luận án tiếp tục nghiên cứu làm rõ 26
Chương 2: SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM DƯỚI
TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 29
2.1. Giai cấp công nhân và giai cấp công nhân Việt Nam 29
2.2. Hội nhập quốc tế và sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam 51
Chương 3: SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM DƯỚI
TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ
VẤN ĐỀ ĐẶT RA 70
3.1. Thực trạng biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập
quốc tế hiện nay 70
3.2. Một số vấn đề đặt ra từ sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam dưới
tác động của hội nhập quốc tế hiện nay 100
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY BIẾN ĐỔI TÍCH
CỰC, NGĂN NGỪA VÀ HẠN CHẾ BIẾN ĐỔI TIÊU CỰC CỦA GIAI CẤP
CÔNG NHÂN VIỆT NAM DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ
HIỆN NAY 114
4.1. Quan đểm định hướng phát huy biến đổi tích cực, ngăn ngừa và hạn chế biến đổi
tiêu cực của giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế
hiện nay 114
4.2. Một số giải pháp chủ yếu phát huy biến đổi tích cực, ngăn ngừa và hạn chế biến
đổi tiêu cực của giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế
hiện nay 121
KẾT LUẬN 148
CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 154
PHỤ LỤC 164
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Dân số và lực lượng lao động trong các doanh nghiệp (2000 - 2014) 72
Bảng 3.2: Thu nhập bình quân của công nhân trong các doanh nghiệp (2005 - 2014) 83
Bảng 3.3: Lộ trình tăng lương tối thiểu vùng (2013 - 2017) 88
Bảng 3.4: Tình hình đình công, ngừng việc tập thể (2008 - 2015) 90
Bảng 3.5: Thu nhập giữa lao động quản lý, kỹ thuật viên so với công nhân sản xuất 95
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX cùng
với quá trình xâm lược và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Trong suốt quá
trình cách mạng, thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp
công nhân Việt Nam là lực lượng lãnh đạo, đồng thời là động lực chủ yếu trong
công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây cũng như trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định: “Xây dựng giai cấp công nhân lớn
mạnh cả về số lượng và chất lượng; là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội
tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội” [26, tr.80]. Hiện nay, sau 30 năm thực hiện đường lối đổi
mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, giai cấp công nhân nước ta không ngừng lớn
mạnh, là lực lượng quan trọng, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Giai cấp công nhân lao động cần cù, sáng tạo, sản xuất ngày càng
nhiều sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cho xã hội và xuất khẩu với chất lượng và hiệu
quả ngày càng cao. Với số lượng chỉ chiếm 13,4% dân số cả nước và 22,6% lực
lượng lao động xã hội, nhưng giai cấp công nhân nước ta đã đóng góp hơn 60%
tổng sản phẩm xã hội và hơn 70% ngân sách nhà nước. Do đó, chăm lo xây dựng và
phát triển giai cấp công nhân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong tình hình
mới là hết sức quan trọng.
Quá trình đổi mới đất nước đã và đang thúc đẩy nước ta hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng. Hiện nay, hội nhập quốc tế trong bối cảnh “cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, tác
động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước” [26, tr.67]. Điều đó đã và đang tác
động đến sự chuyển biến mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội nước ta, trong đó giai
cấp công nhân có sự biến đổi nhanh trên nhiều phương diện cả tích cực lẫn tiêu cực,
làm bộc lộ những mặt mạnh cũng như những hạn chế trong quá trình hội nhập.
2
Quá trình hội nhập quốc tế đã thúc đẩy giai cấp công nhân nước ta phát triển
nhanh về số lượng, chất lượng được nâng cao, đa dạng về cơ cấu, đời sống vật chất
và tinh thần ngày càng được cải thiện. Mặt khác, hội nhập quốc tế cũng đang làm
cho giai cấp công nhân nước ta có nhiều biến động, không còn thuần nhất. Số lượng
công nhân trong thành phần kinh tế nhà nước ngày càng giảm, số lượng công nhân
trong các thành phần kinh tế ngoài nhà nước tăng nhanh. Sự phân tầng, phân hóa
trong nội bộ giai cấp công nhân ngày càng sâu sắc và có những biểu hiện phức tạp.
Bên cạnh xu hướng phân tầng, phân hóa về số lượng và chất lượng, thì các xu
hướng phân tầng, phân hóa về thu nhập, điều kiện việc làm đã và đang tác động khá
mạnh đến quá trình phát triển của giai cấp công nhân nước ta.
Kết quả phân tầng, phân hóa về việc làm và thu nhập của giai cấp công nhân
nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế cũng cho thấy, bên cạnh đời sống của một
bộ phận công nhân đã được cải thiện đáng kể, thì còn có một bộ phận không nhỏ
công nhân chưa được thụ hưởng tương xứng với những thành tựu của công cuộc đổi
mới và những đóng góp của chính mình. Việc làm, đời sống vật chất và tinh thần
của một bộ phận công nhân đang có nhiều khó khăn. Quan hệ lao động trong các
doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài có biểu hiện bức xúc và diễn biến phức tạp.
Trước yêu cầu của hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng chúng ta đang thiếu
nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề.
Tác phong và kỷ luật lao động của công nhân còn nhiều hạn chế, một bộ phận công
nhân chậm thích nghi với quá trình hội nhập. Địa vị chính trị của giai cấp công nhân
chưa được thể hiện đầy đủ. Sự giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân
không đều, sự hiểu biết về chính sách, pháp luật còn nhiều hạn chế. Trong khi đó,
vai trò của tổ chức cơ sở đảng, tổ chức công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội
khác trong các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài đang ngày càng giảm sút nghiêm trọng.
Sự biến đổi đó của giai cấp công nhân nước ta trong điều kiện hội nhập quốc
tế đang đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần được nghiên cứu làm sáng tỏ.
3
Trong đó, việc nghiên cứu làm rõ những biến đổi tích cực và biến đổi tiêu cực của
giai cấp công nhân nước ta dưới tác động của hội nhập quốc tế, từ đó đưa ra định
hướng và giải pháp xây dựng, phát triển giai cấp công nhân nước ta trong giai đoạn
hiện nay là vấn đề vừa mang tính cấp thiết trước mắt vừa có ý nghĩa chiến lược lâu
dài. Xuất phát từ yêu cầu đó, tác giả chọn đề tài: “Sự biến đổi của giai cấp công
nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay” làm luận án tiến sĩ
khoa học triết học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Từ góc nhìn triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm rõ sự biến đổi
của giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế, từ đó xác
định quan điểm định hướng và đề xuất giải pháp nhằm phát huy biến đổi tích cực,
ngăn ngừa và hạn chế biến đổi tiêu cực của giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác
động của hội nhập quốc tế hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt được mục tiêu trên, luận án tập trung làm rõ một số nội dung sau:
Thứ nhất, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, xác định
khoảng trống và tính độc lập trong nghiên cứu của đề tài.
Thứ hai, phân tích một số vấn đề lý luận về sự biến đổi của giai cấp công nhân
Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế.
Thứ ba, phân tích thực trạng và vấn đề đặt ra từ sự biến đổi của giai cấp công
nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay.
Thứ tư, xác định quan điểm định hướng và đề xuất những giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy sự biến đổi tích cực, ngăn ngừa và hạn chế biến đổi tiêu cực của giai
cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt
Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay.
4
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Về nội dụng: Luận án nghiên cứu sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt
Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay từ góc nhìn triết học.
- Về thời gian: Nghiên cứu sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam dưới
tác động của hội nhập quốc tế hiện nay là khoảng thời gian thời kỳ đổi mới đất nước
từ năm 1986 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận của luận án
Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cơ cấu xã hội - giai cấp, về
giai cấp công nhân và giai cấp công nhân Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, nghiên cứu sinh chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp
với từng nội dung của luận án, trong đó chủ yếu sử dụng: phương pháp kết hợp
lôgic - lịch sử, phân tích và tổng hợp, so sánh và đối chiếu, quy nạp và diễn dịch,
chú giải, khái quát hoá, trên cơ sở đó đưa ra nhận xét và kết luận.
5. Những đóng góp về mặt khoa học của luận án
- Phân tích làm rõ thực chất của hội nhập quốc tế và sự biến đổi của giai cấp
công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế.
- Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi của giai cấp công
nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế từ góc nhìn triết học.
- Xác định quan điểm định hướng và đề xuất được một số giải pháp phát huy
sự biến đổi tích cực, ngăn ngừa và hạn chế biến đổi tiêu cực của giai cấp công nhân
Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về lý luận: Luận án làm rõ sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam dưới
tác động của hội nhập quốc tế hiện nay từ góc nhìn triết học. Vì vậy, kết quả của luận
án sẽ là tài liệu tham khảo cho nghiên cứu và giảng dạy chuyên ngành triết học, chủ
nghĩa xã hội khoa học, các ngành khoa học xã hội và nhân văn có liên quan.
5
- Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận án là cơ sở để các nhà lãnh đạo,
quản lý xây dựng các luận cứ khoa học, chủ trương, chính sách đúng đắn đối với
giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các công trình liên quan đến luận án đã công bố,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 9 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Về giai cấp công nhân nói chung, giai cấp công nhân Việt Nam nói riêng được
nhiều ngành khoa học xã hội nghiên cứu như: Triết học, Chủ nghĩa xã hội khoa học,
Lịch sử, Lịch sử Đảng, Xã hội học... Đây là một vấn đề được bàn đến rất nhiều và
cũng có nhiều ý kiến khác nhau trong cách tiếp cận. Gần đây, vấn đề này được bàn
luận khá sôi nổi, đề cập với những mức độ và góc độ khác nhau trong nhiều công
trình khoa học ở cả trong và ngoài nước. Ở đây, chỉ đề cập đến một số công trình,
bài viết tiêu biểu để có cái nhìn tổng quát về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề
tài luận án.
1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LÝ LUẬN VỀ GIAI CẤP
CÔNG NHÂN VÀ SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM DƯỚI
TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ
- Trước hết, những nghiên cứu liên quan đến quan niệm về giai cấp công nhân
và giai cấp công nhân Việt Nam. Công trình “Phong trào công nhân quốc tế -
những vấn đề lịch sử và lý luận” [111]. Đây là một công trình được nghiên cứu
công phu của các nhà khoa học Liên Xô (gồm 8 tập), đã phân tích sự ra đời và hình
thành giai cấp công nhân, về những bước đi đầu tiên của phong trào công nhân trên
con đường trở thành lực lượng xã hội độc lập. Những điều kiện lịch sử của quá trình
trưởng thành của giai cấp công nhân và phong trào công nhân trong thời kỳ chủ
nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc. Sự phát triển của phong trào công
nhân quốc tế ở thời kỳ trước và sau cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga
vĩ đại. Sự phát triển của phong trào công nhân quốc tế ở thời kỳ sau chiến tranh thế
giới thứ hai đến những năm đầu thập kỷ 70 của thế kỷ XX. Đây là thời kỳ phong
trào công nhân ở các nước phát triển không ngừng và tăng cường sự ảnh hưởng của
nó đối với tiến trình phát triển của lịch sử, tuy rằng phong trào cũng có lúc lâm vào
tình trạng khó khăn và diễn biến phức tạp. Ngoài ra, các tác giả cũng phân tích sự
phát triển phong trào cộng sản ở khu vực thế giới phi xã hội chủ nghĩa, những quy
luật và những xu hướng phát triển tiêu biểu có tính đến những điều kiện khu vực và
7
dân tộc đặc trưng cho toàn bộ phong trào. Nhìn chung, trong công trình này các tác
giả đã phân tích lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trên cơ sở những
lập luận, nhận định của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Về vị trí, vai trò của giai cấp công nhân ở các nước tư bản hiện đại được phân
tích qua các bài viết “Giai cấp công nhân vẫn là lực lượng chính trị quan trọng
nhất” của Maicen Nhepsi [89];“Triển vọng phát triển của giai cấp công nhân ở thế
kỷ XXI” của Trushkov [131] đã chỉ ra những mâu thuẫn trong chủ nghĩa tư bản,
nhất là mâu thuẫn giữa lao động và tư bản không những không được giải quyết mà
ngày càng trở nên sâu sắc. Từ đó các tác giả cho rằng, trong xã hội tư bản hiện nay
chỉ có một giai cấp duy nhất đủ khả năng lật đổ giai cấp tư sản, đó là giai cấp công
nhân. Giai cấp công nhân là lực lượng chính trị - xã hội to lớn, họ có tổ chức công
đoàn cũng như chính đảng của mình. Trong quá trình phát triển, giai cấp công nhân
không ngừng sáng tạo hình thành nên văn hóa giai cấp mình, đồng thời làm thay đổi
nền văn hóa tư sản. Vì vậy, trong xã hội tư bản giai cấp công nhân vẫn là lực lượng
chính trị quan trọng nhất.
Trên cơ sở phân tích những vấn đề đặt ra đối với giai cấp công nhân trong thế
giới đương đại, các tác giả khẳng định giai cấp công nhân vẫn và luôn là lực lượng
lao động tiên tiến của xã hội, nhất là trong thế kỷ thứ XXI khi khoa học công nghệ
đang phát triển rất nhanh; là giai cấp chủ thể của bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội.
Đối với giai cấp công nhân Nga hiện nay, qua bài viết “Hệ tư tưởng của giai
cấp công nhân Nga hiện nay” của V.Kh.Belenski [3] chỉ ra rằng, để xác định hệ tư
tưởng của giai cấp công nhân Nga hiện nay là vô cùng khó khăn và phức tạp. Bởi
vì, giai cấp công nhân Nga đang sống trong trạng thái điều kiện kinh tế, chính trị -
xã hội hết sức phức tạp sau sự kiện lịch sử năm 1991. Tuy nhiên, về cơ bản giai cấp
công nhân Nga vẫn mong muốn xây dựng một mô hình xã hội có sự kết hợp giữa
các yếu tố quan hệ thị trường và quan hệ xã hội chủ nghĩa. Họ muốn đi theo một hệ
tư tưởng chủ nghĩa Mác đổi mới, có sự phát triển sáng tạo trong điều kiện mới của
xã hội đương đại.
Về nguồn lực lao động của giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển
hiện nay, bài viết “Đào tạo nghề và việc làm cho thanh niên - vấn đề toàn cầu thế
8
kỷ XXI” của Ivanova S.V và cộng sự [104] đã phân tích vấn đề phát triển hệ thống
giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề ở Nga và một số nước khác như: Bồ Đào Nha,
Pháp, Cộng hòa Séc, Đức, Mỹ, Anh, Tây Ban Nha. Từ đây các tác giả đã chỉ ra thực
tiễn hình thành các hình thức dạy nghề và quan hệ tương tác giữa xã hội, doanh
nghiệp với các cơ sở giáo dục trong đào tạo lực lượng lao động của xã hội ở các
nước tư bản phát triển. Theo các tác giả, trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế hiện nay lực lượng lao động cũng mang tính toàn cầu, giữa các quốc gia có
sự trao đổi và phân công lao động theo hướng chuyên môn hóa. Trong quá trình đó
người lao động tự do di chuyển đến bất cứ đâu để làm việc và trở thành công dân
toàn cầu. Vì vậy, trong thời gian tới vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động,
gắn đào tạo với sử dụng, sự thích ứng và sự chuẩn bị nghề nghiệp cho thanh niên là
nhiệm vụ của mỗi quốc gia, đồng thời là vấn đề mang tính toàn cầu của thế kỷ XXI.
Trong công trình “Vị trí và vai trò của giai cấp công nhân đương đại” của
Liễu Khả Bạch, Vương Mai và Diêm Xuân Chi [2] đã cho rằng, trong điều kiện
phát triển mới giai cấp công nhân cần phát huy vai trò của mình trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc. Qua điều tra thực tế, các tác giả
đã phân tích những biểu hiện mới của giai cấp công nhân. Trong đó có sự tham gia
của công nhân trong quá trình phân chia lợi nhuận với giới chủ. Đặc biệt, điểm đáng
chú ý trong quan niệm về giai cấp công nhân, theo các tác giả khái niệm giai cấp
công nhân hiện nay đã được mở rộng, không chỉ có những người lao động trực tiếp
đứng máy, mà còn các tầng lớp lao động trong nhiều lĩnh vực khác, giai cấp công
nhân đã trở thành một khái niệm đa tầng với nội hàm rộng lớn, là tổng thể thống
nhất bao gồm công nhân phổ thông, thành phần trí thức, nhân viên kỹ thuật và
người quản lý kinh doanh.
Công trình “Giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển từ sau chiến
tranh lạnh đến nay - thực trạng và triển vọng” của Nguyễn Thị Quế, Nguyễn
Hoàng Giáp [99] đã phân tích quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp
công nhân, bối cảnh mới của thời đại ảnh hưởng đến giai cấp công nhân ở các nước
tư bản phát triển. Đó là sự phát triển của khoa học - công nghệ hiện đại; xu thế toàn
cầu hoá; sự phát triển nền kinh tế tri thức; những điều chỉnh của giai cấp tư sản và
9
nhà nước tư bản; sự thay đổi cục diện thế giới sau chiến tranh lạnh và sự vận động
phong trào cộng sản và công nhân ở các nước tư bản phát triển; trào lưu dân chủ xã
hội. Trên cơ sở đó, phân tích thực trạng giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát
triển từ sau năm 1991 đến nay trên những phương diện: sự thay đổi về số lượng, cơ
cấu, chất lượng; trình độ giác ngộ, tổ chức và sự lựa chọn con đường cách mạng dân
chủ hòa bình. Từ đó chỉ ra những đặc trưng cơ bản và triển vọng của giai cấp công
nhân ở các nước tư bản phát triển trong hai thập niên tới vẫn là “động lực tinh thần,
sức mạnh trí tuệ và đạo đức”, là người thực thi bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội. Từ đó rút ra ý nghĩa đối với xây dựng giai cấp công nhân Việt
Nam hiện nay.
Nguyễn Viết Thông với bài viết “Những nhận thức khác nhau về giai cấp và
vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân; phê phán quan điểm phủ nhận sự tồn tại
và vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay” [122], đã đưa
ra dẫn chứng những nhận thức khác nhau về giai cấp công nhân, từ đó đặt vấn đề có
giai cấp công nhân hay không. Từ luận cứ đưa ra tác giả khẳng định, trong thời đại
ngày nay khái niệm về giai cấp công nhân của chủ nghĩa Mác - Lênin còn nguyên ý
nghĩa. Vì thế, hiện nay vẫn tồn tại giai cấp, trong đó có giai cấp công nhân. Trên cơ
sở đó tác giả chỉ ra giai cấp công nhân là ai, ai là công nhân. Cùng với đó, tác giả
phân tích những nhận thức khác nhau về vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Trong khi một số học giả ở nhiều nước Bắc Mỹ và châu Âu phủ nhận sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân, thì ở các nước đang đi theo con đường xã hội chủ nghĩa như
Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Cu Ba khẳng định giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh
đạo cách mạng.
Về giai cấp công nhân Việt Nam, trong công trình “Bác Hồ với giai cấp công
nhân và tổ chức công đoàn” [129] đã tập hợp các bài viết của một số tác giả đề cập
đến quan điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh về giai cấp công nhân và công đoàn Việt
Nam. Đó là vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam vào điều kiện hiện nay; các quan điểm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn; quan điểm Hồ
Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị cho giai cấp công nhân,... Ngoài ra còn trích
10
dẫn những bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công nhân Việt Nam trong
những điều kiện, bối cảnh khác nhau.
Các tác giả Trần Đình Huỳnh với bài viết “Giai cấp vô sản trí thức” [56]; Văn
Tạo với bài viết “Quan điểm mới về giai cấp công nhân Việt Nam qua văn kiện Đại
hội X của Đảng” [107]; Quang Cận với bài viết “Tư duy mới về giai cấp công nhân
và Đảng Cộng sản” [7]; Nguyễn Văn Huyên với bài viết “Suy nghĩ về giai cấp công
nhân và xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam” [54] đều cho rằng, giai cấp công
nhân Việt Nam hiện nay về cơ bản từng bước được trí thức hoá; công nhân đã trở
thành người làm chủ, chí ít là làm chủ đất nước; từ người vô sản, hiện nay công nhân
có sở hữu; giai cấp công nhân đưa khoa học trên đà trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp; giai cấp công nhân Việt Nam có một vị thế quốc tế mới trong quá trình hội nhập.
Trong điều kiện khoa học - công nghệ hiện đại, khái niệm lực lượng sản xuất cũng
cần được mở rộng nội hàm của nó, vì có lực lượng sản xuất bằng cơ bắp, có lực
lượng sản xuất bằng trí tuệ, chất xám. Từ đó các tác giả đều cho rằng, cần phải có
quan niệm mới về giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay theo hướng mở rộng nội
hàm, trong đó trí thức là một bộ phận của giai cấp công nhân Việt Nam.
Bàn về bản chất giai cấp công nhân Việt Nam, trong công trình“Tăng cường
bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay” của Đỗ Ngọc Ninh, Nguyễn Văn Giang [90]; trong bài viết “Để hệ giá trị của
giai cấp công nhân Việt Nam trở thành một hệ giá trị xã hội” của Nguyễn An Ninh
[91] đều cho rằng, bản chất giai cấp công nhân được biểu hiện ở giá trị phổ quát của
lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, cụ thể trên một số khía cạnh cơ bản: lao động, công
bằng, bình đẳng, sự phát triển tự do và toàn diện của công nhân, là tiền đề trở thành
hệ giá trị xã hội. Vì vậy, bản chất giai cấp công nhân gắn với vai trò của Đảng Cộng
sản, xây dựng Đảng là tăng cường bản chất giai cấp công nhân.
Phê phán sự xuyên tạc bản chất giai cấp công nhân của Đảng, bài viết “Bàn về
cái gọi là phê phán bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam”
của Nguyễn Văn Nam [82], đã đưa ra luận cứ phê phán quan điểm sai trái, phản
khoa học của các ý kiến phản bác bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Theo tác
giả, để giữ vững và nâng cao bản chất giai cấp của Đảng cần phải kiên định mục
11
tiêu, lý tưởng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản; nền tảng tư tưởng của Đảng là
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với
nhân dân phải được củng cố vững chắc.
Về sự cần thiết phải có nghiên cứu mới về giai cấp công nhân hiện nay, các tác
giả: Nguyễn Trọng Chuẩn trong bài viết “Cần có nghiên cứu cơ bản về giai cấp công
nhân trong tiến trình phát triển của lịch sử đương đại” [9] và Mạch Quang Thắng
trong bài viết “Nghiên cứu, phát triển lý luận về giai cấp công nhân Việt Nam” [115]
đều đặt ra nhiều vấn đề mới về cách tiếp cận giai cấp công nhân hiện nay. Trên cơ sở
phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, các tác giả đưa ra những dẫn chứng,
lập luận khoa học về tính tất yếu cần phải có nhận thức mới về giai cấp công nhân
hiện nay, khi nền kinh tế tri thức đang hiển hiện và phát triển rất nhanh trong thời đại
toàn cầu hóa. Qua đó các tác giả cho rằng, cần phải tổ chức nghiên cứu về giai cấp
công nhân Việt Nam hiện nay một cách có hệ thống và toàn diện.
- Thứ hai, những nghiên cứu liên quan đến hội nhập quốc tế và sự biến đổi của
giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế.
Đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp về sự biến đổi của giai
cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế. Những nghiên cứu
mới dừng lại sự tác động của hội nhập kinh tế đến sự biến đổi kinh tế - xã hội nói
chung, trong đó có sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam. Liên quan đến nội
dung này có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
Công trình “Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hoá: vấn đề và
giải pháp” [4] đã phân tích một số vấn đề về toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh
tế quốc tế theo cách tiếp cận của các luận thuyết: thuyết trọng thương, thuyết tự do
thương mại, thuyết bảo hộ mậu dịch, thuyết chức năng, thuyết hiện thực, lý luận
Mác - Lênin, lý luận của trường phái phụ thuộc. Từ đó các tác giả cho rằng, hội
nhập kinh tế quốc tế là quá trình chủ động gắn kết nền kinh tế và thị trường của
từng nước với kinh tế khu vực và thế giới thông qua nỗ lực tự do hoá và mở cửa
trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương. Quá trình toàn cầu hoá và
hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tác động đến mọi quốc gia trong phát triển kinh tế, ảnh
hưởng đến đời sống chính trị - xã hội, và một số vấn đề quốc tế nói chung. Đối với
12
Việt Nam, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế được các tác giả chia làm hai giai
đoạn: giai đoạn trước năm 1985 và giai đoạn từ 1986 đến năm 2000. Trên cơ sở
những thành tựu và hạn chế đạt được, các tác giả đưa ra những quan điểm, mục tiêu
định hướng về hội nhập cho Việt Nam trong giai đoạn mới.
Các tác giả trong cuốn sách, “Phong trào chống mặt trái của toàn cầu hoá và
vấn đề đặt ra đối với Việt Nam” [98] đã phân tích khái quát về xu thế toàn cầu hoá,
tác động của toàn cầu hoá đối với các quốc gia - dân tộc. Theo các tác giả, sự ra đời
của phong trào chống mặt trái của toàn cầu hoá là hệ quả tất yếu. Vì vậy cần làm rõ
mục tiêu, tính chất, đặc điểm, nội dung và hình thức của phong trào chống mặt trái
của toàn cầu hoá. Quan điểm của Việt Nam về toàn cầu hoá và phong trào chống
mặt trái của toàn cầu hoá. Những tác động tích cực và tiêu cực của toàn cầu hoá đối
với Việt Nam được biểu hiện trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá,
phân công lao động quốc tế, an ninh quốc gia,... Trên cơ sở đó các tác giả làm rõ
những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá, đưa ra những
khuyến nghị nhằm hạn chế tác động tiêu cực của toàn cầu hoá và việc tham gia
phong trào chống mặt trái của toàn cầu hoá của Việt Nam.
Nguyễn Văn Giàu với bài viết “Hội nhập kinh tế quốc tế: tất yếu khách quan
của đổi mới” [41] đã phân tích kết quả triển khai chủ trương của Đảng về hội nhập
kinh tế quốc tế. Theo đó, hội nhập quốc tế vừa là cơ hội, vừa là thách thức. Mở ra
cơ hội phát triển quan hệ thương mại, thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế theo hướng bền
vững, tạo thay đổi về mặt tư duy phát triển kinh tế cả hai khu vực kinh tế nhà nước
và kinh tế ngoài nhà nước. Tuy nhiên, theo tác giả hiện nay còn một số vấn đề đang
đặt ra đối với Việt Nam như: tính chủ động của nền kinh tế còn hạn chế, mức độ sẵn
sàng của các doanh nghiệp là chưa cao, còn bị động trong quá trình hội nhập. Từ đó
tác giả đưa ra những kiến nghị đối với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam để hội nhập ngày càng chủ động và bền vững.
Trong bài viết “Hội nhập quốc tế của Việt Nam: từ lý thuyết đến thực tiễn”
của Đỗ Sơn Hải [46] đã phân tích hội nhập quốc tế từ góc nhìn lý thuyết tiếp cận
lịch sử của hội nhập quốc tế. Phân tích quan điểm của Đảng ta về hội nhập quốc tế.
Từ góc nhìn thực tiễn, theo tác giả lộ trình hội nhập của Việt Nam đến nay đã đạt
13
được nhiều thành tựu quan trọng, vị trí và vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế
ngày càng được khẳng định. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều hạn chế như:
tính hiệu quả chưa cao; còn bị động, tính chủ động và tính linh hoạt còn hạn chế.
Qua đó, tác giả đưa ra những gợi ý về quá trình hội nhập trong thời gian tới.
Về đầu tư của nước ngoài tại Việt Nam, các tác giả: Nguyễn Mại trong bài viết
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam: thành tựu và những vấn đề đặt ra” [73]
và Ngô Văn Cương trong bài viết “Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam hiện
nay” [12] đều phân tích những tác động trực tiếp của vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam. Theo các tác giả thì có một số tác động chủ yếu: tác động đến
đóng góp vào GDP; tác động đến đóng góp cho xuất khẩu; tác động đến chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; tạo việc làm cho
người lao động; thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó vẫn còn một số vấn đề đặt ra như: chậm
chuyển hướng chính sách thu hút FDI; các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu công
nghệ cao ở các địa phương tương tự nhau nên không tạo ra được lợi thế khác biệt;
việc chuyển dịch cơ cấu vùng lãnh thổ còn chậm; thị trường và đối tác chủ yếu là
doanh nghiệp vừa và nhỏ; hiện tượng các nhà đầu tư nhập khẩu máy móc và công
nghệ lạc hậu vào Việt Nam; tình trạng ô nhiễm môi trường; tranh chấp lao động
trong các doanh nghiệp,... Trên cơ sở đó các tác giả đưa ra định hướng sử dụng có
hiệu quả vốn FDI trong thời gian tới.
Trong công trình “Sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam sau
khi gia nhập WTO” [58] đã phân tích tác động của hội nhập WTO đến phát triển
kinh tế của Việt Nam, như đối với xuất - nhập khẩu, đầu tư nước ngoài, ổn định
kinh tế vĩ mô và thị trường tài chính, hoàn thiện thể chế. Tác động đối với cộng
đồng doanh nghiệp Việt Nam, các tác giả đã làm rõ tình hình phát triển của doanh
nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010; tác động của hội nhập WTO đến năng
suất lao động của doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động và khả năng tiếp cận thị trường
của các doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt, các tác giả đã phân tích hội nhập WTO
tác động đến lao động Việt Nam dưới các góc độ: dân số và lực lượng lao động,
trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật, vấn đề việc làm, tình trạng thất nghiệp và
14
thiếu việc làm, tiền lương và thu nhập, năng suất lao động, điều kiện và quan hệ lao
động, an sinh xã hội.
Công trình “Toàn cầu hoá và tác động đối với sự hội nhập của Việt Nam”
[15] đã tập hợp các bài viết của nhiều tác giả nghiên cứu về toàn cầu hoá và tác
động của nó đến Việt Nam. Trong đó, tập trung vào mấy nhóm chủ đề chính như:
những khái niệm chung về toàn cầu hoá; toàn cầu hoá và những hệ quả của nó; toàn
cầu hoá kinh tế và sự hội nhập của Việt Nam. Ngoài những ý kiến khác nhau, thì
điểm chung mà các tác giả nhận định là toàn cầu hoá đã lan tỏa trong mọi mặt của
cuộc sống kinh tế, xã hội, đây là mối quan tâm của nhiều quốc gia trong quá trình
phát triển. Vì vậy, Việt Nam cần có lộ trình để chủ động trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
Nguyễn Văn Ngừng trong sách “Xu hướng phát triển kinh tế thế giới hiện nay
và tác động đối với an ninh trật tự ở Việt Nam” [86] đã phân tích xu hướng phát
triển của kinh tế thế giới hiện nay là: sự phát triển theo xu hướng toàn cầu hoá và
khu vực hoá; phát triển kinh tế thị trường theo hướng mở là xu hướng chung của
các quốc gia; phát triển kinh tế tri thức là xu hướng tất yếu; cạnh tranh kinh tế ngày
càng gay gắt, khốc liệt; chính phủ can thiệp ngày càng sâu vào hoạt động kinh tế
của các nền kinh tế và vùng lãnh thổ; sự thành lập các liên kết khu vực và liên kết
khu vực ngày càng mạnh mẽ. Từ đó, tác giả phân tích những tác động tích cực và
tác động tiêu cực của kinh tế thế giới đến an ninh trật tự Việt Nam trên các lĩnh vực:
chính trị; kinh tế; văn hoá, đời sống xã hội; quốc phòng, an ninh trật tự.
Trong công trình “Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến năng suất
lao động và trình độ công nghệ của Việt Nam” của Lê Hữu Nghĩa, Lê Văn Chiến
[83] đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của đầu tư trực tiếp nước ngoài như:
khái niệm và các hình thức đầu tư nước ngoài; tác động của FDI đến nền kinh tế
của nước nhận đầu tư. Thực trạng đầu tư trực tiếp của nước ngoài ở Việt Nam
trong thời gian qua với những vấn đề: chính sách đối với đầu tư nước ngoài; thực
trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài; vai trò của nguồn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế - xã hội; những hạn chế trong thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Đánh giá tác động của đầu tư trực tiếp nước
15
ngoài đến năng suất lao động và trình độ công nghệ Việt Nam theo khung phân
tích, mô hình và số liệu; kết quả ước lượng và thảo luận; tác động của đầu tư trực
tiếp nước ngoài thông qua tăng trưởng năng suất các yếu tố tổng hợp của doanh
nghiệp. Trên cơ sở đó, các tác giả đưa ra kiến nghị chính sách để phát huy hiệu
quả của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nâng cao năng suất lao động và trình
độ công nghệ của Việt Nam hiện nay.
Trong công trình “Tác động của toàn cầu hoá đến quá trình phát triển của
một số nền kinh tế chuyển đổi Đông Âu và Việt Nam” [45] đã đề cập đến các đặc
trưng và xu thế vận động của tiến trình toàn cầu hoá trong hai thập niên đầu thế kỷ
XXI. Tác động tích cực và tiêu cực của toàn cầu hoá đến quá trình phát triển của
một số nền kinh tế chuyển đổi trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, trong đó có Việt
Nam. Theo đó, quá trình toàn cầu hoá sẽ tác động đến quá trình phát triển kinh tế -
xã hội Việt Nam, mà ở đó vấn đề đầu tư nước ngoài, việc làm, phát triển nguồn
nhân lực, bảo vệ môi trường,... là những vấn đề cần được quan tâm nhất. Từ đó các
tác giả đã đưa ra những giải pháp mà Việt Nam cần ứng phó trong quá trình toàn
cầu hóa.
Bàn về tác động của hội nhập quốc tế đến chuyển dịch cơ cấu lao động, trong
cuốn sách chuyên khảo “Chuyển dịch cơ cấu lao động trong xu hướng hội nhập
quốc tế” của Phạm Quý Thọ [118] cho rằng, quá trình hội nhập quốc tế tất yếu tác
động đến chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
trong quá trình đó nguồn nhân lực cũng có sự chuyển đổi để đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ mới. Do đó, cùng với quá trình hội nhập thì lao động chuyển từ sản xuất nông
nghiệp từng bước chuyển sang lao động công nghiệp là xu hướng chuyển dịch cơ
bản đối với Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó tác giả tiếp cận sự chuyển dịch cơ
cấu lao động theo lứa tuổi và giới tính, theo vùng và lãnh thổ, theo trình độ văn hoá
và chuyên môn kỹ thuật, theo ngành kinh tế và theo thành phần kinh tế. Từ thực
trạng phân tích tác giả đưa ra các giải pháp kinh tế - xã hội chủ yếu thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu lao động ở Việt Nam theo hướng bền vững.
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu trên đây tiếp cận về giai cấp công
nhân đa chiều, dưới nhiều góc nhìn khác nhau trong quá trình phát triển, biến đổi
16
của giai cấp công nhân quốc tế, cũng như giai cấp công nhân Việt Nam. Điểm
chung của các công trình nghiên cứu trên đây là đều khẳng định trong thời đại ngày
nay mặc dù giai cấp công nhân có nhiều biểu hiện mới như: xu hướng trí thức hoá
công nhân, công nhân toàn cầu, công nhân có cổ phần, đời sống công nhân được cải
thiện và nâng cao cùng quá trình phát triển, giai cấp công nhân có sự đa dạng trong
cơ cấu thành phần và ngành nghề, thành phần xuất thân đa dạng của giai cấp công
nhân,... Nhưng về bản chất, địa vị và vai trò của giai cấp công nhân trong thời đại
ngày nay vẫn không thay đổi, vẫn đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại, đi đầu
trong quá trình xây dựng xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng. Cho nên, những giá
trị lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp công nhân vẫn
còn nguyên ý nghĩa.
Trước xu hướng biến đổi hiện nay của giai cấp công nhân nói chung, giai cấp
công nhân Việt Nam nói riêng, cần phải có những nghiên cứu cơ bản và hệ thống để
có cái nhìn toàn diện về giai cấp công nhân đương đại; đồng thời phát triển lý luận
góp phần làm sáng tỏ về giai cấp công nhân Việt Nam trong điều kiện đổi mới và
hội nhập quốc tế.
Những nghiên cứu về hội nhập quốc tế đều coi toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế
là xu thế tất yếu của thế giới ngày nay. Toàn cầu hoá là xu thế khách quan, còn hội
nhập là khách quan nhưng có tính chủ động của các chủ thể. Trong quá trình đó, các
nước muốn phát triển phải hòa nhập vào quá trình hội nhập của thế giới. Vì vậy, hội
nhập là cơ hội, nhưng cũng nhiều thách thức đặt ra đối với mọi quốc gia dân tộc.
Tuy nhiên, hạn chế của những nghiên cứu trên đây là chưa có công trình nào
đưa ra những luận cứ khoa học xác đáng, nhất là những nhận định của chủ nghĩa
Mác - Lênin về xu hướng biến đổi của giai cấp công nhân trong quá trình phát triển,
để bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận sự tồn tại và vai trò lịch sử
của giai cấp công nhân nói chung, giai cấp công nhân Việt Nam nói riêng.
Khi bàn đến sự tác động của hội nhập quốc tế, những nghiên cứu trên đây mới
chỉ phân tích sự tác động đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Chưa
có công trình nào đề cập trực tiếp tác động của hội nhập quốc tế đến sự biến đổi của
giai cấp công nhân Việt Nam. Nhưng với những tiếp cận trong phân tích cho thấy,
17
tác động của hội nhập quốc tế đến chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế làm biến đổi lực
lượng lao động xã hội. Trong đó, có số lượng lớn lực lượng lao động nông nghiệp
sẽ chuyển sang lao động công nghiệp, với năng suất và chất lượng lao động ngày
càng được tăng lên. Đồng thời, quá trình hội nhập cũng là thách thức đặt ra đối với
lao động Việt Nam. Vì vậy, bên cạnh những tác động tích cực, thì còn có những tác
động tiêu cực đối với nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập đang là vấn đề đặt ra
cần có giải pháp trong thời gian tới.
1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU ĐỀ CẬP ĐẾN THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
ĐỐI VỚI SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM DƯỚI TÁC
ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Liên quan đến thực trạng, quan điểm và giải pháp đối với sự biến đổi của giai
cấp công nhân nước ta trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
quốc tế đã được nhiều nhà khoa học tiếp cận nghiên cứu. Trong số đó có các công
trình và bài viết tiêu biểu sau:
Trong công trình “Xu hướng biến động giai cấp công nhân Việt Nam trong
những năm đầu thế kỷ XXI” của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam [128] đã tập
hợp các bài viết của nhiều tác giả bàn về xu hướng biến đổi của giai cấp công nhân
nước ta trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Trong đó, nội dung chủ yếu tập trung vào những vấn đề như: đặc điểm, thực trạng và
giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay. Các nhân tố khách quan
và chủ quan tác động đến sự biến đổi giai cấp công nhân Việt Nam. Ý thức chính trị
của giai cấp công nhân nước ta - biểu hiện, thực trạng và xu hướng. Toàn cầu hoá và
xu hướng biến động của giai cấp công nhân. Những thách thức đối với xu hướng biến
đổi giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI.
Bùi Thị Thanh Hà với công trình “Công nhân công nghiệp trong các doanh
nghiệp liên doanh ở nước ta thời kỳ đổi mới” [42] đã tiếp cận dưới góc độ xã hội
học, nghiên cứu sự nghiệp đổi mới và sự hình thành nhóm công nhân công nghiệp
trong các doanh nghiệp liên doanh. Đặc điểm của đội ngũ công nhân này về cơ cấu,
điều kiện lao động, quan hệ xã hội, các hoạt động, quan hệ ngoài doanh nghiệp và
một số vấn đề liên quan. Trên cơ sở đó tác giả đưa ra kết luận công nhân trong các
18
doanh nghiệp liên doanh đa phần là lao động nữ; quan hệ giữa công nhân với nhau
có sự biến đổi theo thời gian nhằm thích ứng với cơ chế mới; về cơ bản công đoàn
phát huy được vai trò của mình; các hoạt động, quan hệ ngoài doanh nghiệp bị chi
phối bởi thời gian làm việc và thu nhập tại doanh nghiệp. Bên cạnh đó còn có
những vấn đề đặt ra như: vấn đề dịch chuyển chất lượng nguồn lao động; vấn đề
quản lý lao động; vấn đề mất cân bằng giới trong doanh nghiệp cần phải được quan
tâm tiếp cận nghiên cứu.
Trong các công trình“Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế” của Đại học Quốc gia Hà Nội [16];
“Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước” của Dương Xuân Ngọc [84]; “Giai cấp công nhân Việt Nam - thực trạng và
suy ngẫm” của Trương Giang Long [66] và “Thực trạng giai cấp công nhân Việt
Nam hiện nay” của Nguyễn Thị Quế, Nguyễn Thị Tú Hoa [100] đều phân tích
những nhân tố tác động đến quá trình biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam
hiện nay. Đó là tình hình chính trị thế giới, cách mạng khoa học - công nghệ, sự
phát triển của kinh tế tri thức, quá trình toàn cầu hoá. Trên cơ sở đó, phân tích thực
trạng xu hướng biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước như: số lượng tăng, chất lượng được nâng cao
nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu; cơ cấu đa dạng thành phần và ngành nghề, việc
làm phong phú nhưng thất nghiệp vẫn còn nhiều; thu nhập được cải thiện nhưng vẫn
còn hạn chế và chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu thiết yếu của công nhân; ý thức chính
trị có diễn biến phức tạp,... Trên cơ sở đó các tác giả đưa ra những giải pháp chủ
yếu xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Với công trình “Góp phần xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam từ thực
trạng công nhân Thành phố Hồ Chí Minh” của Nguyễn Đăng Thành [113] đã đề
cập đến tình hình kinh tế, chính trị - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh, đặc điểm,
vai trò của đội ngũ công nhân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Thực trạng, vấn đề
và xu hướng biến đổi đội ngũ công nhân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay về: cơ
cấu và trình độ không đồng đều, thành phần và ngành nghề đa dạng; đời sống còn
nhiều khó khăn; vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội đối với công nhân còn
19
nhiều hạn chế; thực trạng quan hệ lao động của công nhân có diễn biến phức tạp.
Tình hình thực hiện chính sách và pháp luật đối với công nhân chưa được bảo
đảm,... Trên cơ sở đó các tác giả đưa ra quan điểm và giải pháp phát huy vai trò đội
ngũ công nhân Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới, đồng thời đưa ra những
kiến nghị góp phần xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
Trần Văn Chử với bài viết “Đời sống vật chất và tinh thần của công nhân
trong các khu công nghiệp, khu chế xuất” [10] đã phân tích những khó khăn về đời
sống vật chất và tinh thần của công nhân trong các khu công nghiệp, khu chế xuất
hiện nay. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp khắc phục là: khi cấp phép thành lập
các khu công nghiệp, khu chế xuất phải thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các điều kiện
đối với đời sống vật chất và tinh thần của công nhân; gắn quy hoạch tổng thể kinh tế
- xã hội với quy hoạch các khu công nghiệp, khu chế xuất; cải cách chế độ tiền
lương phù hợp với điều kiện sống trong cơ chế thị trường; xây dựng nhà ở cho công
nhân; đổi mới hoạt động của tổ chức công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội
khác trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp tư nhân.
Nguyễn An Ninh trong cuốn sách “Về xu hướng công nhân hoá ở nước ta hiện
nay” [92] đã làm rõ các đặc trưng về xu hướng công nhân hoá. Đó là sự phát triển
giai cấp công nhân chiếm số lượng lớn trong dân cư; giai cấp công nhân quyết định
sự tồn tại và phát triển của xã hội; bản chất giai cấp công nhân được biểu đạt thông
qua lối sống, nhiều giá trị trở thành hệ giá trị xã hội. Tuy nhiên, giai cấp công nhân
nước ta còn nhiều hạn chế, khó khăn và bất cập về số lượng, chất lượng và cơ cấu,
điều kiện sống và sinh hoạt, đang đối diện với hiện tượng phân tầng, phân hoá giàu
nghèo trong nội bộ. Trên cơ sở đó, tác giả đã khảo sát thực tế đời sống công nhân
Thành phố Hồ Chí Minh và phân tích những yếu tố khách quan tác động đến ý thức
chính trị của giai cấp công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Những nghịch lý trong quá trình phát triển giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay,
như: trạng thái tới hạn nguồn lực công nhân nước ta, hệ thống dạy nghề hạn chế
trước yêu cầu cao của môi trường lao động hiện đại và yêu cầu của quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước.
Trong cuốn chuyên khảo “Giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam
trong những năm đầu thế kỷ XXI” của Nguyễn Viết Vượng [139] đã đề cập đến sự
20
ra đời và phát triển của giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam; vai trò
của tổ chức công đoàn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
cũng như trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Toàn
cầu hoá và những tác động của nó tới giai cấp công nhân Việt Nam. Tác động tích
cực như: làm thay đổi cơ cấu giai cấp công nhân trong lực lượng lao động xã hội;
việc làm và thu nhập của người lao động tăng lên; rèn luyện tác phong công nghiệp.
Tác động tiêu cực như: gia tăng nạn thất nghiệp; phân hoá giàu nghèo trong nội bộ
giai cấp công nhân; điều kiện lao động, vệ sinh môi trường, các biện pháp bảo hộ
lao động chưa tốt.
Cuốn sách “Quan hệ lợi ích kinh tế giữa công nhân, nông dân và trí thức ở
Việt Nam hiện nay” của Đặng Quang Định [36] đã phân tích làm rõ một số vấn đề
lý luận về lợi ích kinh tế của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức. Ngoài những đặc điểm riêng quy định lợi ích kinh tế của công nhân, nông dân,
trí thức, về cơ bản giữa công nhân, nông dân và trí thức có chung lợi ích kinh tế.
Trong đó, giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản đại biểu cho lợi ích chung,
tập hợp nông dân và trí thức cùng thực hiện sứ mệnh lịch sử, xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, bên cạnh
sự thống nhất về lợi ích kinh tế, thì còn những điểm thiếu thống nhất trong quan hệ
lợi ích kinh tế giữa công nhân, nông dân và trí thức. Đó là, tình trạng tranh chấp
việc làm; tranh chấp, vi phạm các lợi ích kinh tế; sự chệnh lệch về thu nhập và thụ
hưởng phúc lợi xã hội; những vấn đề nảy sinh trong quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất;
từ đó tác giả làm rõ những vấn đề đặt ra trong quan hệ lợi ích kinh tế giữa công
nhân, nông dân và trí thức; đưa ra một số giải pháp định hướng tăng cường sự thống
nhất kinh tế giữa công nhân, nông dân và trí thức hiện nay.
Trong công trình “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn 2011 -
2020” của Đặng Ngọc Tùng [134] đã phân tích những cơ sở lý luận để xây dựng
giai cấp công nhân Việt Nam theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênnin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và Đảng ta. Phân tích thực trạng của giai cấp công nhân Việt Nam qua 25
năm đổi mới, đó là sự phát triển nhanh về số lượng và chuyển biến cơ cấu đa dạng;
trình độ học vấn, chuyên môn của giai cấp công nhân được nâng cao nhưng còn
21
nhiều hạn chế, bất cập; tình hình việc làm, đời sống, nhà ở, điều kiện làm việc mặc
dù được cải thiện nhưng còn nhiều bất hợp lý và chưa thể đáp ứng nhu cầu tối thiểu
của công nhân hiện nay; đời sống tinh thần, tình cảm giai cấp, ý thức chính trị của
một bộ phận công nhân còn mơ hồ, phai nhạt lý tưởng cách mạng; quan hệ lao động
của công nhân với giới chủ còn nhiều diễn biến phức tạp. Trên cơ sở đó chỉ ra
nguyên nhân và rút ra những bài học kinh nghiêm xây dựng giai cấp công nhân Việt
Nam trong những năm đổi mới. Từ những vấn đề phân tích các tác giả đã đưa ra các
nhóm giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, tầm
nhìn đến năm 2030.
Luận án tiến sĩ “Giai cấp công nhân - giai cấp tiên phong trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Nguyễn Thị Hường [57] đã phân tích vai trò
tiên phong của giai cấp công nhân trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trên các
phương diện: kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng văn hóa. Tác giả đã làm rõ một số
vấn đề đặt ra với vai trò tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay. Đó là,
toàn cầu hóa, kinh tế tri thức do chủ nghĩa tư bản chi phối và chủ nghĩa xã hội chưa
qua thoái trào - thử thách lớn với vai trò tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam
hiện nay; vai trò tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam trong điều kiện ít về số
lượng, cơ cấu chưa hợp lý, chất lượng thấp; thiếu việc làm, thu nhập không ổn đinh,
đời sống thấp; nhiều tổ chức cơ sở đảng yếu kém, không ít cán cán bộ đảng viên thoái
hóa, biến chất và công tác quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước còn nhiều khuyết
điểm. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra quan điểm và những giải pháp chủ yếu nhằm phát
huy vai trò tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn tới.
Trong bài viết “Giải quyết những vấn đề cấp bách của giai cấp công nhân
Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Mạnh Thắng [116] đã làm rõ những vấn đề cấp
bách của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay như: thu nhập thấp, bức xúc về nhà
ở, thiếu việc làm, cường độ lao động cao, nợ bảo hiểm xã hội. Từ đó, tác giả nêu ra
một số giải pháp: đổi mới và hoàn thiện chính sách việc làm; tiếp tục cải cách tiền
lương, tiền thưởng; hoàn thiện chính sách nhà ở, nhà trẻ, trường học; xây dựng hệ
thống Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Bản hiểm thất nghiệp hoàn chỉnh.
Về đời sống văn hoá, tinh thần của giai cấp công nhân, trong các công trình:
“Xây dựng và phát triển đời sống văn hoá của giai cấp công nhân Việt Nam - một
22
số vấn đề lý luận và thực tiễn” [88]; “Xây dựng lối sống văn hoá của công nhân
Việt Nam - lý luận và thực tiễn” [121] đều đề cập đến cơ sở lý luận, phương pháp
luận nghiên cứu văn hoá và đời sống văn hoá, lối sống và lối sống văn hoá của giai
cấp công nhân theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng ta. Phân tích một số nhân tố tác động đến đời sống văn hoá của giai cấp công
nhân trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế như: tác động của phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội,
mở rộng giao lưu và hợp tác văn hoá với các nước trên thế giới. Về thực trạng đời
sống văn hoá của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay đa dạng và phong phú,
nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, khó khăn và bất cập về các điều kiện sinh hoạt văn
hoá của công nhân dẫn đến “nghèo” về văn hoá. Trên cơ sở đó, các tác giả đưa ra
một số yêu cầu đối với việc nâng cao đời sống văn hoá cho giai cấp công nhân như:
tạo thêm việc làm, tăng thêm thu nhập, cải thiện các điều kiện về ăn, mặc, ở, sinh
hoạt; yêu cầu về xây dựng hạnh phúc gia đình; nâng cao trình độ học vấn và tay
nghề cho công nhân; phát huy dân chủ trong đời sống công nhân lao động,... Từ đó
các tác giả đưa ra quan điểm và các giải pháp xây dựng, nâng cao đời sống văn hoá
cho giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
Bàn về xu hướng phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam, Nguyễn Trọng
Chuẩn trong bài viết “Xu hướng phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế” [8] đã phân
tích sự biến đổi của giai cấp công nhân hiện đại trên thế giới về trình độ học vấn,
trình độ nghề nghiệp, về quyền sở hữu,... Đặc biệt, tác giả đã rút ra một số nhận
định về xu hướng phát triển của giai cấp công nhân nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá và hội nhập quốc tế, như: giai cấp công nhân sẽ có sự thay đổi lớn
không những về số lượng mà cả về chất lượng, thay đổi về khu vực và ngành nghề,
về quyền sở hữu tài sản; sự thay đổi về cơ cấu kinh tế và sự phát triển của lực lượng
sản xuất xã hội đã làm cho cơ cấu của giai cấp công nhân cũng thay đổi; sự phân
tầng trong công nhân do quyền sở hữu và mức độ sở hữu tài sản khác nhau hoặc
không có quyền đó trong thực tế mang lại; sự mâu thuẫn về lợi ích, khoảng cách
giàu nghèo trong nội bộ, sự không đồng nhất về nhiều mặt của giai cấp công nhân
23
sẽ là những vấn đề đặt ra. Tác giả cho rằng, việc nhận thức rõ các xu hướng này để
có những đối sách thích hợp góp phần làm cho giai cấp công nhân dù trong hoàn
cảnh nào cũng giữ được vai trò tiên phong của mình.
Về xu hướng trí thức hoá công nhân, Bùi Kim Hậu trong công trình “Trí thức
hoá công nhân Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay” [48] cho rằng, trí
thức hoá công nhân Việt Nam là quá trình tác động một cách toàn diện để nâng cao
nhận thức và năng lực hoạt động thực tiễn của công nhân lên trình độ cao, mà trước
hết là học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, ý thức chính trị và tác phong
công nghiệp. Hội nhập kinh tế quốc tế và mối quan hệ giữa trí thức hoá công nhân
với hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay có tác động biện chứng qua lại,
trong đó hội nhập kinh tế quốc tế là điều kiện thuận lợi để trí thức hoá công nhân,
ngược lại trí thức hoá công nhân là điều kiện để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
mang lại hiệu quả cao. Trên cơ sở đó, tác giả phân tích thực trạng trí thức hoá công
nhân Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế đã đạt được những kết quả quan
trọng, nhưng cũng còn nhiều hạn chế, như: trình độ học vấn của công nhân còn
thấp; trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của công nhân còn yếu kém; ý
thức chính trị và tác phong công nghiệp của công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu
hội nhập. Qua đó tác giả chỉ ra nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế và đưa
ra quan điểm, giải pháp đẩy mạnh trí thức hoá công nhân Việt Nam trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Để nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân nước ta trong hội nhập
quốc tế, các tác giả: Dương Xuân Ngọc trong bài viết “Nâng cao ý thức chính trị
cho giai cấp công nhân Việt Nam trước yêu cầu, nhiệm vụ mới” [85]; Dương Văn
Sao với bài viết “Phát huy vai trò của công đoàn trong nâng cao ý thức chính trị và
kỷ luật cho công nhân” [105] đều đề cập đến ý thức chính trị của giai cấp công
nhân Việt Nam biểu hiện trên các mặt: sự giác ngộ về vị trí, vai trò lãnh đạo cách
mạng; sự giác ngộ về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta; sự giác ngộ về vị trí, vai trò của hệ thống chính trị nói chung, cũng như các thành
tố cấu thành hệ thống chính trị; sự nhận thức và thái độ đúng đắn về con đường đổi
mới đất nước; sự hiểu biết và tự giác thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng,
24
pháp luật của Nhà nước; nhận thức sâu sắc về tình hình, đặc điểm của thời đại ngày
nay; sự giác ngộ về chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Để nâng cao ý thức chính trị cho
công nhân, vai trò của tổ chức công đoàn là hết sức quan trọng; do đó, công đoàn
cần đẩy mạnh tuyên truyền cho công nhân lao động, cần chú ý đến đối tượng công
nhân lao động trong khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Đổi mới mạnh mẽ nội dung và
phương thức tuyên truyền giáo dục, trong đó đội ngũ cán bộ công đoàn đóng vai trò
hết sức quan trọng, quyết định đến hiệu quả của công tác tuyên truyền, giáo dục ý
thức chính trị cho giai cấp công nhân Việt Nam.
Về tổ chức cơ sở đảng của giai cấp công nhân, trong công trình “Xây dựng tổ
chức đảng trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giai đoạn hiện nay (Qua
khảo sát ở miền Đông Nam Bộ)” của Huỳnh Thị Gấm [39] đã làm rõ vị trí, vai trò,
tầm quan trọng của tổ chức cơ sở đảng và sự cần thiết xây dựng tổ chức cơ sở đảng
trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiện nay. Phân tích thực trạng của
việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
ở miền Đông Nam Bộ hiện nay. Đó là, ít về số lượng, cơ cấu chưa hợp lý; công tác
xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng đã đạt được một số kết quả nhất định, nhưng
còn nhiều khó khăn, hạn chế và bất cập. Tác giả đã chỉ ra nguyên nhân của những
thành tựu và hạn chế trong công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở miền Đông Nam Bộ, từ đó rút ra những bài học
kinh nghiệm và đề xuất những giải pháp tiếp tục xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở miền Đông Nam Bộ hiện nay.
Bùi Đình Bôn trong bài viết “Nhiệm vụ và giải pháp xây dựng giai cấp công
nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” [6] đã
đưa ra các giải pháp nhằm xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đó là tiếp tục nghiên cứu, bổ sung lý luận về
giai cấp công nhân trong điều kiện mới; quan tâm bồi dưỡng ý thức chính trị, lập
trường giai cấp, lòng tự hào, tự tôn dân tộc cho giai cấp công nhân; chú trọng và
nâng cao chất lượng đào tạo nghề và trình độ học vấn cho công nhân; hoàn thiện hệ
thống chính sách pháp luật nhằm bảo đảm lợi ích cho công nhân; thực hiện quyền
25
làm chủ thực sự của giai cấp công nhân; xây dựng Đảng, công đoàn trong doanh
nghiệp và cơ sở sản xuất kinh doanh; phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý
của Nhà nước và trách nhiệm của toàn xã hội trong quá trình xây dựng giai cấp
công nhân.
Ngoài ra, còn có một số công trình, bài viết khác như: Nguyễn Văn Giang,
“Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay” [40]; Trần
Thị Như Quỳnh, “Công nhân trí thức ở Thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá” [103]; Nguyễn Mạnh Thắng, “Lối sống của công
nhân ở khu công nghiệp, khu chế xuất hiện nay” [117]; Vũ Quang Thọ, “Việc làm,
đời sống của công nhân công nghiệp hiện nay” [120],...
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu và bài viết này đã đề cập, phân tích
thực trạng, đưa ra quan điểm và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt
Nam trong điều kiện hiện nay từ nhiều góc độ tiếp cận. Trong đó, điểm chung
mà các tác giả đề cập là giai cấp công nhân nước ta phát triển nhanh về số
lượng, đa dạng về cơ cấu thành phần và ngành nghề, trình độ học vấn, chuyên
môn mặc dù cao hơn nhiều so với trước đổi mới nhưng vẫn còn hạn chế và bất
cập so với yêu cầu. Năng suất lao động thấp, đời sống vật chất và tinh thần của
công nhân còn rất nhiều khó khăn, bức xúc; ý thức chính trị, tâm tư tình cảm và
điều kiện để bồi dưỡng nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân còn
nhiều hạn chế, khó khăn; trong nội bộ giai cấp công nhân đang có sự phân tầng,
phân hoá giàu nghèo, quan hệ lợi ích của giai cấp công nhân với các giai tầng
khác trong xã hội bên cạnh sự thống nhất thì còn có sự khác biệt và mâu thuẫn;
giai cấp công nhân đang trong quá trình biến đổi và thích ứng với xu hướng hội
nhập quốc tế.
Điểm hạn chế của những nghiên cứu trên đây là chưa có công trình nào
trực tiếp phân tích làm rõ sự biến đổi giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác
động của hội nhập quốc tế hiện nay. Có chăng chỉ đề cập hội nhập quốc tế như
là một trong những nhân tố tác động đến quá trình phát triển của giai cấp công
nhân nước ta trong quá trình đổi mới.
26
1.3. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ CÓ GIÁ TRỊ THAM KHẢO TỪ CÁC CÔNG
TRÌNH ĐÃ NGHIÊN CỨU VÀ VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
LÀM RÕ
Từ những công trình nghiên cứu được đề cập ở trên, có thể rút ra mấy nội
dung sau đây:
Một là, các công trình và bài viết đã nghiên cứu về giai cấp công nhân nói
chung, giai cấp công nhân Việt Nam nói riêng trên nhiều phương diện cả về lý luận
và thực tiễn. Trong đó có một số công trình rất công phu, phân tích sâu, đề cập đến
sự ra đời và phát triển của giai cấp công nhân gắn với quá trình phát triển của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trong nhiều công trình đã đề cập đến quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp công nhân và
sự vận dụng, phát triển lý luận của Đảng ta trong quá trình xây dựng giai cấp công
nhân Việt Nam hiện nay.
Những nghiên cứu này là tài liệu tham khảo để tác giả luận chứng, làm rõ khái
niệm giai cấp công nhân và giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
Hai là, nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến tính tất yếu của toàn cầu hoá
và hội nhập quốc tế. Đặc điểm, tính chất, nội dung và hình thức của hội nhập quốc
tế. Tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam và tác động của nó đến đời sống kinh
tế - xã hội nói chung, đến sự biến đổi của nguồn lực lao động Việt Nam nói riêng.
Đây là những tài liệu tham khảo để tác giả làm rõ thực chất của hội nhập quốc
tế hiện nay, tác động của hội nhập quốc tế đến Việt Nam. Từ đó làm rõ những biến
đổi của giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế.
Ba là, nhiều công trình phân tích thực trạng và xu hướng biến đổi của giai cấp
công nhân Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Các kết quả nghiên cứu này là tài liệu tham khảo quý giá, để tác giả làm cơ sở
phân tích sự biến đổi tích cực và biến đổi tiêu cực của giai cấp công nhân Việt Nam
dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay.
Bốn là, từ thực trạng của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, một số công
trình và bài viết phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn để đưa ra quan điểm và giải
pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
27
Đây là cơ sở tham khảo, để từ thực trạng và những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi
giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế, tác giả xác định
quan điểm định hướng và giải pháp phát huy sự biến đổi tích cực, ngăn ngừa và hạn
chế biến đổi tiêu cực của giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập
quốc tế hiện nay.
Như vậy, đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về giai cấp
công nhân Việt Nam và sự biến đổi của nó trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc
tế với những giá trị tham khảo được ghi nhận. Tuy nhiên, chưa có một công trình
nào nghiên cứu cụ thể và toàn diện về sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam
dưới tác động của hội nhập quốc tế từ góc nhìn triết học. Vì vậy, việc làm rõ những
biến đổi tích cực và biến đổi tiêu cực của giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác
động của hội nhập quốc tế hiện nay, từ đó đưa ra quan điểm định hướng và giải
pháp phát huy sự biến đổi tích cực, ngăn ngừa và hạn chế biến đổi tiêu cực của giai
cấp công nhân dưới tác động của hội nhập quốc tế trong quá trình xây dựng giai cấp
công nhân Việt Nam hiện nay là vấn đề đang được đặt ra một cách cấp thiết cả về lý
luận lẫn thực tiễn. Đề tài luận án“Sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam
dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay” có sự tiếp thu, chọn lọc kết quả
nghiên cứu của các công trình trước đó, đồng thời có những kiến giải riêng về
những vấn đề đang đặt ra từ góc nhìn triết học. Vì vậy, luận án sẽ tập trung làm rõ
một số nội dung sau:
Thứ nhất, phân tích làm rõ khái niệm giai cấp công nhân và quan niệm về giai
cấp công nhân Việt Nam hiện nay. Thực chất của hội nhập quốc tế và sự biến đổi
của giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế.
Thứ hai, phân tích làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi giai
cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay.
Thứ ba, xác định quan điểm định hướng và đề xuất các giải pháp nhằm phát
huy biến đổi tích cực, ngăn ngừa và hạn chế biến đổi tiêu cực của giai cấp công
nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay.
28
Kết luận chương 1
Trong nhiều năm trở lại đây, đã có nhiều công trình tiếp cận nghiên cứu về
giai cấp công nhân giai cấp công nhân nói chung và giai cấp công nhân Việt Nam
nói riêng trên nhiều phương diện, với những mức độ và góc độ tiếp cận khác nhau.
Những nghiên cứu về hội nhập quốc tế và tác động của nó đến sự biến đổi của giai
cấp công nhân Việt Nam, mặc dù chưa đề cập trực tiếp, nhưng qua kết quả nghiên
cứu của một số công trình đã chỉ ra, trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay đã và
đang tác động đến quá trình biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam theo những
chiều hướng khác nhau, có những biến đổi tích cực, đồng thời cũng có những biến
đổi tiêu cực.
Nhìn tổng thể, những nghiên cứu này đã làm rõ được những vấn đề lý luận và
thực tiễn về giai cấp công nhân và giai cấp công nhân Việt Nam. Đề cập phân tích
thực trạng, vấn đề đặt ra, phương hướng và giải pháp đối với quá trình xây dựng và
phát triển giai cấp công nhân Việt Nam trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào trực
tiếp nghiên cứu, đi sâu phân tích làm rõ sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt
Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay. Do vậy, đề tài tác giả lựa chọn
không trùng với bất kỳ công trình khoa học nào đã được công bố. Những công trình
nghiên cứu liên quan đến đề tài được tổng thuật trên đây sẽ cung cấp nhiều dữ liệu,
số liệu cần thiết để tác giả tiếp thu, kế thừa trong quá trình thực hiện luận án.
29
Chương 2
SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ -
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
2.1. GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
2.1.1. Khái niệm giai cấp công nhân
Trong những năm gần đây có rất nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả
trong và ngoài nước bàn về giai cấp công nhân. Tuy nhiên, đang tồn tại nhiều ý kiến
khác nhau xoay quanh khái niệm và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Tùy
theo quan điểm giai cấp, thái độ chính trị và lát cắt xem xét mà người ta đưa ra ý
kiến của mình về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó. Tựu trung lại có hai
loại ý kiến sau:
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, trong thời đại ngày nay giai cấp công nhân
không còn nữa. Những người đưa ra ý kiến này lập luận: ở những nước tư bản chủ
nghĩa phát triển cao, điều kiện kinh tế - xã hội đã thay đổi, công nhân đã có cổ phần,
có thu nhập từ lợi nhuận, đời sống cao cho nên họ đã được “trung lưu hóa” và “tan
biến” vào các giai tầng khác. Sự phát triển của khoa học - công nghệ, giai cấp công
nhân đã “hòa nhập” vào tầng lớp trí thức, bị người máy và các dây chuyền công
nghệ tự động hóa thay thế nên trở thành một bộ phận không đáng kể trong xã hội.
Vì vậy, sứ mệnh lịch sử trong thời đại ngày nay không còn thuộc về giai cấp công
nhân mà thuộc về trí thức.
Loại ý kiến thứ hai cho rằng, giai cấp công nhân vẫn tồn tại và phát triển cùng
lịch sử, nhưng được bổ sung thêm những biểu hiện, đặc trưng mới.
Vậy giai cấp công nhân là gì? gồm những ai? sứ mệnh lịch của của giai cấp công
nhân trong thời đại ngày nay như thế nào?. Để trả lời cho những câu hỏi đó, cần phải
làm rõ sự biến đổi của giai cấp công nhân trong tiến trình phát triển của lịch sử.
Dưới ánh sáng của thế giới quan khoa học và cách mạng, các nhà kinh điển
chủ nghĩa Mác - Lênin luôn đứng trên lập trường duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử để luận giải sự vận động phát triển của xã hội, trong đó có vấn đề giai cấp công
nhân. Theo đó, vào những thập kỷ đầu của thế kỷ XVI, khi giai cấp tư sản bắt đầu
30
bước lên vũ đài chính trị để xác lập địa vị thống trị xã hội, thì chế độ kinh tế của xã
hội tư sản bắt đầu được hình thành trên cơ sở kỹ thuật thủ công của nền kinh tế
phong kiến để lại. Sự xác lập về địa vị chính trị, giai cấp tư sản đồng thời tạo ra
phương thức sản xuất mới - nền sản xuất công nghiệp với một kiểu quan hệ sản xuất
dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Về mặt xã hội, nó tạo ra
đông đảo người lao động lúc này đã được tự do về thân thể, nhưng lại không có tư
liệu sản xuất, muốn tồn tại không có cách nào khác buộc phải bán lao động cho
người nắm giữ tư liệu sản xuất - giai cấp tư sản để kiếm sống, đó là những người
công nhân buổi đầu - đại biểu cho lực lượng sản xuất mới, từ đây chế độ lao động
làm thuê tư bản chủ nghĩa ra đời và trở thành cơ sở tồn tại của xã hội tư bản.
Nền sản xuất công trường thủ công đã thu hút những nạn nhân bị tước đoạt của
quá trình “tích lũy ban đầu” vào quá trình sản xuất theo cách tổ chức kinh tế buổi đầu
của xã hội tư bản, với hai hình thức tổ chức là phân tán và hỗn hợp, trong đó nét nổi
bật là sử dụng rộng rãi việc sản xuất “tại nhà” theo lối sản xuất tư bản chủ nghĩa. Về
vấn đề này V.I.Lênin cho rằng, “lao động làm ở nhà cho nhà tư bản đều tồn tại trong
tất cả các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong công nghiệp, nhưng nó là
đặc trưng nổi bật hơn của công trường thủ công” [60, tr.552 - 553].
Trong điều kiện tổ chức sản xuất đó, địa vị của từng nhóm công nhân riêng
biệt có những điểm khác nhau do thành phần giai cấp không đồng nhất buổi đầu
quy định. Công nhân công trường thủ công lao động trong hình thức tổ chức hỗn
hợp làm việc trong cùng một nơi, bước đầu họ tự cảm thấy rất rõ sự “o ép” của hình
thức tổ chức kinh tế tư bản chủ nghĩa, là công cụ mà C.Mác gọi là “một thủ đoạn
bóc lột văn minh và tinh vi” [71, tr.529] hơn so với các hình thức bóc lột trong các
xã hội có giai cấp trước đó.
Chính mâu thuẫn trong quan hệ sản xuất đã làm xuất hiện những “cuộc đấu
tranh giữa nhà tư bản và người công nhân làm thuê bắt đầu cùng với bản thân các
quan hệ tư bản chủ nghĩa” [71, tr.612]. Mặc dù vậy, những cuộc đấu tranh của công
nhân lúc này vẫn chưa có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản theo đúng nghĩa, vì
bản thân giai cấp công nhân lúc này chưa “thành hình” đầy đủ. Giai cấp công nhân
chưa trở thành một khối đồng nhất, khi những công nhân làm việc “tại nhà” ít nhiều
họ độc lập tương đối về mặt kinh tế, khi trong tay còn có những tư liệu sản xuất của
31
riêng mình. Vì vậy, ngay cả những cuộc đấu tranh công khai vẫn không thể coi đó
là phong trào công nhân. Khi đánh giá về phong trào công nhân thời kỳ này, C.Mác
cho rằng, “cuộc đấu tranh giai cấp còn ở trong trạng thái tiềm tàng, hoặc chỉ mới
bộc lộ ra trong những biểu hiện đơn nhất mà thôi” [71, tr.25]. Bởi vì, “Lúc đầu,
những điều kiện kinh tế đã biến quần chúng nhân dân thành những người lao động.
Sự thống trị của tư bản đã tạo ra cho quần chúng ấy một hoàn cảnh chung, những
lợi ích chung. Vậy là quần chúng ấy đã là một giai cấp đối lập với tư bản, nhưng
chưa phải là một giai cấp vì nó” [68, tr.256].
Như vậy, đặc điểm của giai cấp công nhân ở giai đoạn chủ nghĩa tư bản công
trường thủ công là rời rạc, phân tán trong sản xuất, một “khối người” không đồng
nhất về cơ cấu, điều đó đã gây trở ngại cho việc “hoàn thiện” quan hệ sản xuất, cho
việc khoét sâu sự đối lập giữa lao động và tư bản. Những cuộc đấu tranh đó của công
nhân còn mang tính tự phát, chưa thể hiện quan niệm có ý thức về sự đối lập lợi ích
kinh tế - xã hội giữa thợ và chủ. Vì vậy, một “giai cấp vì nó” chưa được hình thành.
Giai đoạn mới của sự phát triển giai cấp công nhân gắn liền với quá trình phát
triển của chủ nghĩa tư bản trong công nghiệp, được đánh dấu bằng cuộc cách mạng
công nghiệp vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, cụ thể là gắn với sự lan rộng
của sản xuất công xưởng, khi giai cấp công nhân công nghiệp xuất hiện. Thời kỳ
này, giai cấp công nhân công nghiệp khác về căn bản so với công nhân làm thuê
thời kỳ công trường thủ công, họ là những người trực tiếp sản xuất hoàn toàn tách
khỏi tư liệu sản xuất. Những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế - xã hội giữa giai cấp công
nhân với giai cấp tư sản ngày càng sâu sắc đã làm cho giai cấp công nhân thực sự
thấy được bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, từ đó họ từng bước ý thức được
địa vị, vai trò lịch sử của mình là phải đấu tranh lật đổ giai cấp tư sản, xoá bỏ chế độ
tư bản chủ nghĩa để xây dựng chế độ xã hội mới.
Qua những thất bại trong các phong trào thực tiễn đấu tranh, giai cấp công nhân
ngày càng giác ngộ và đạt đến trình độ sáng tạo ra lý luận, đi đến xây dựng tổ chức
chính trị độc lập để tổ chức và lãnh đạo phong trào đấu tranh tự giải phóng giai cấp
mình, đồng thời giải phóng toàn xã hội, thì lúc đó giai cấp công nhân đã trở thành giai
cấp “vì nó”. C.Mác cho rằng, “Trong cuộc đấu tranh - mà chúng ta chỉ nêu lên vài
giai đoạn - quần chúng ấy tập hợp nhau lại, tự hợp thành giai cấp vì nó. Những lợi ích
32
mà nó bảo vệ, trở thành những lợi ích giai cấp. Mà cuộc đấu tranh giữa giai cấp với
giai cấp là một cuộc đấu tranh chính trị.” [68, tr.256]. Do đó, với sự ra đời của chủ
nghĩa Mác và những tổ chức chính trị đầu tiên, thì lúc này giai cấp công nhân mới
chuyển từ đấu tranh “tự phát” lên đấu tranh “tự giác”, mới “định hình” với tư cách là
giai cấp chính trị - xã hội.
Vậy giai cấp công nhân là gì?. Khi định nghĩa về giai cấp công nhân, trong tác
phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản Ph.Ăngghen cho rằng:
Giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng việc
bán lao động của mình, chứ không phải sống bằng lợi nhuận của bất cứ số
tư bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và chết,
toàn bộ sự sống còn của họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao động, tức là
vào tình hình chuyển biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những sự
biến động của cuộc cạnh tranh không gì ngăn cản nổi. Nói tóm lại, giai
cấp vô sản hay giai cấp những người vô sản là giai cấp lao động trong thế
kỷ XIX [68, tr.456].
Ở đây, những dấu hiệu để chỉ giai cấp công nhân đầu thế kỷ XIX đó là: người
lao động, không có của riêng, bị bần cùng hoá và đối lập với chế độ tư bản. Cùng
với quá trình phát triển của lịch sử xã hội, về sau giai cấp công nhân ngày càng có
thêm những biểu hiện mới. Khi “công nghiệp hiện đại đã biến xưởng thợ nhỏ của
người thợ cả gia trưởng thành công xưởng lớn của nhà tư bản công nghiệp,... những
nhà tiểu công nghiệp, tiểu thương nghiệp và người thực lợi nhỏ, thợ thủ công và
nông dân là những tầng lớp dưới của tầng lớp trung đẳng xưa kia, đều rơi xuống
hàng ngũ giai cấp vô sản” [68, tr.606]. Bởi vì, với “số vốn ít ỏi của họ không đủ cho
phép họ quản lý những xí nghiệp đại công nghiệp” [68, tr.606]. Thành thử thành
phần của giai cấp vô sản ngày một đa dạng, đó là vô sản công nghiệp hay vô sản
thành thị, vô sản nông nghiệp và cả công nhân công trường thủ công. Lúc này sức
lao động thực sự trở thành hàng hoá trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Vì vậy, đến năm 1888, trong chú thích cho lần xuất bản bằng tiếng Anh tác phẩm
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Ph.Ăngghen viết: “giai cấp vô sản là giai cấp
những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất các tư liệu sản xuất của bản thân, nên
buộc phải bán sức lao động của mình để sống” [68, tr.596].
33
Đến những thập niên nửa sau thế kỷ XIX, khi lực lượng sản xuất có những bước
phát phát triển mới, thì giai cấp công nhân có sự biến đổi, phân tầng về nghề nghiệp
và trình độ. Trong điều kiện đó khi xem xét quá trình lưu thông của tư bản, C.Mác đã
coi những người làm công tác quản lý, nhân viên văn phòng, nhân viên thương
nghiệp là công nhân làm thuê có chuyên môn lao động cao hơn so với lao động của
những công nhân thông thường (lao động phổ thông). Vì vậy, C.Mác khi bàn về giai
cấp công nhân đã dùng đến những khái niệm “công nhân thương nghiệp” [72, tr.444],
“giai cấp đông đảo những người giám đốc công nghiệp và thương nghiệp” [72,
tr.595]. Trong thư gửi Đại hội quốc tế các sinh viên xã hội chủ nghĩa, Ph.Ăngghen đã
đề cập đến thuật ngữ “giai cấp vô sản lao động trí óc” khi viết:
Các bạn hãy cố gắng làm cho thanh niên ý thức được rằng giai cấp vô sản
lao động trí óc phải được hình thành từ hàng ngũ sinh viên, giai cấp đó có
sứ mệnh phải kề vai sát cánh và cùng đứng trong một đội ngũ với những
người anh em của họ, những người công nhân lao động chân tay, đóng vai
trò quan trọng trong cuộc cách mạng sắp tới đây” [70, tr.613].
Bởi vì:
Sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân còn cần phải có những bác sĩ, kỹ
sư, nhà hóa học, nông học và các chuyên gia khác, vì vấn đề là phải nắm
lấy việc quản lý không phải chỉ bộ máy chính trị, mà còn cả toàn bộ nền
sản xuất xã hội nữa, và ở đây cần những kiến thức vững chắc chứ không
phải những câu xuông xáo oang oang” [70, tr.613 - 614].
Khi lực lượng sản xuất có bước phát triển mới, thì quan hệ sản xuất cũng có
những biến đổi trong quan hệ sở hữu. Vì vậy, đến thời kỳ này C.Mác đã đề cập đến
vấn đề công nhân có sở hữu cổ phần trong các doanh nghiệp, khi hình thức tổ chức
sản xuất ở trình độ cao của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa từng bước được
hình thành. Trong điều kiện đó C.Mác cho rằng, việc công nhân có sở hữu cổ phần
“là điểm quá độ tất nhiên để tư bản lại chuyển thành sở hữu của những người sản
xuất, nhưng không phải với tư cách là sở hữu tư nhân của những người sản xuất
riêng lẽ nữa, mà với tư cách là sở hữu của những người sản xuất liên hiệp, thành sở
hữu xã hội trực tiếp” [72, tr.668]. Nghĩa là sở hữu xã hội hoá, hay xã hội hoá tư liệu
sản xuất để đáp ứng yêu cầu ngày càng phát triển của lực lượng sản xuất.
34
Như vậy, trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về giai cấp công nhân
luôn được mở rộng nội hàm theo quá trình phát triển, từ người thợ thủ công đến
công nhân công nghiệp cơ khí, công nhân trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát
triển, từ những người vô sản không có sở hữu đến công nhân có sở hữu cổ phần.
V.I.Lênin đã bổ sung những thuộc tính mới của giai công nhân trong thời đại
đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản, đặc biệt là trong điều kiện chủ nghĩa xã hội
hiện thực. Theo V.I.Lênin, sự phân chia giai cấp trong xã hội phải dựa vào địa vị và
sự khác nhau của các tập đoàn người trong quan hệ đối với chế độ sở hữu tư liệu
sản xuất, trong quan hệ đối với tổ chức, quản lý sản xuất và trong quan hệ phân phối
sản phẩm. Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, V.I.Lênin đã đưa ra định nghĩa nổi
tiếng về giai cấp, làm tiêu chuẩn để phân chia cơ cấu giai cấp - xã hội, để trên cơ sở
đó nhận thức đúng về giai cấp công nhân:
Người ta gọi giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau
về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch
sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này
được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về
vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về
cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được
hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể
chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị
khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định [63, tr.17 - 18].
Trên cơ sở quan niệm mới về giai cấp như vậy, trong nhiều tác phẩm của mình,
như “Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga”, “Nhà nước và cách mạng”, “Kinh tế
chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản”..., V.I.Lênin khẳng định, sau khi cách
mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp cầm quyền, địa vị
kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân hoàn toàn thay đổi, từ thân phận nô lệ làm
thuê trở thành giai cấp thống trị về chính trị, thông qua đội tiên phong là đảng cộng
sản lãnh đạo toàn xã hội cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại lần đầu tiên trong lịch sử
đã khẳng định nền chuyên chính vô sản, lập nên một kiểu nhà nước mới - nhà nước
xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân và nhân dân lao động lập nên. Đây là sự
35
kiện mà “từ trước cho tới lúc bấy giờ chưa hề có trong lịch sử cách mạng thế giới”
[62, tr.284]. Trong chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân
trở thành giai cấp lãnh đạo, là người làm chủ xã hội.
Như vậy, trong quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, giai cấp công nhân là
những người lao động trong nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại - giai cấp
đại biểu cho lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại. Trong chủ nghĩa tư bản,
giai cấp công nhân không có hoặc không có sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã
hội, để sống buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị giai cấp tư sản bóc lột
giá trị thặng dư, có sứ mệnh xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã
hội mới. Trong chủ nghĩa xã hội giai cấp công nhân là những người làm chủ, lãnh
đạo xã hội thông qua đội tiên phong đảng cộng sản, cùng với nhân dân lao động xây
dựng chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Từ những phân tích trên đây, có thể rút ra nhận xét về khái niệm giai cấp công
nhân như sau:
Thứ nhất, về thuật ngữ, khi phản ảnh về giai cấp công nhân trong những điều
kiện lịch sử - cụ thể, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin thường sử dụng
những thuật ngữ khác nhau, như: “giai cấp công nhân”; “giai cấp vô sản”; “giai cấp
công nhân công nghiệp”; “giai cấp vô sản công nghiệp”; “giai cấp lao động trong
thế kỷ XIX”; “giai cấp công nhân đại công nghiệp cơ khí”; “giai cấp công nhân hiện
đại”; “giai cấp những người lao động làm thuê”, “giai cấp lao động”, “lao động làm
thuê”, “công nhân nông nghiệp”, “công nhân thương nghiệp”, “công nhân khai
khoáng”, “vô sản trí thức”,… Về bản chất, những thuật ngữ này được sử dụng trong
những hoàn cảnh cụ thể khác nhau, nhưng có chung một nội hàm với những đặc
trưng cơ bản, thuộc tính bản chất để biểu thị về giai cấp công nhân hiện đại.
Hiện nay, xét trên phạm vi thế giới, khu vực và từng quốc gia, thì trong tất cả
các thuật ngữ C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã dùng trước đây, thì thuật ngữ
“giai cấp công nhân” và “giai cấp công nhân hiện đại” là phù hợp hơn cả, phản ánh
đầy đủ quy luật phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại. Còn những thuật ngữ như
“giai cấp vô sản”, “giai cấp lao động trong thế kỷ XIX”; “giai cấp công nhân đại
công nghiệp cơ khí”,... mà các nhà kinh điển đã sử dụng thì chỉ còn mang ý nghĩa
lịch sử. Khái niệm “vô sản” chỉ tình trạng giai cấp công nhân bị tước hết tư liệu sản
36
xuất, không có sở hữu nào đã không còn tồn tại theo đúng nghĩa của nó. Nếu dùng
thuật ngữ “giai cấp vô sản” dễ bị hiểu theo nghĩa đen của từ đó.
Thứ hai, về nội dụng, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin dựa trên hai
tiêu chí để nhận diện giai cấp công nhân. Thứ nhất, về nghề nghiệp hay nói cách
khác là về phương thức lao động. Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền sản xuất
công nghiệp ngày càng hiện đại, từ công nhân công trường thủ công đến công
nghiệp cơ khí và công nghiệp trong điều kiện khoa học đã trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp. Do đó, giai cấp công nhân là tập đoàn người lao động trực tiếp hay
gián tiếp, lao động chân tay hay trí óc ở những ngành nghề, lĩnh vực kinh tế khác
nhau trong nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại. Vì vậy, giai cấp công nhân
đại diện cho lực lượng sản xuất hiện đại, phương thức sản xuất tiên tiến, có sứ mệnh
lịch sử sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội, tổ chức, lãnh đạo phong trào cách
mạng xã hội chủ nghĩa, giải phóng giai cấp mình đồng thời giải phóng toàn xã hội
để đi đến xây dựng chế độ xã hội mới. Thứ hai, về địa vị trong quan hệ sản xuất.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất, nên
phải bán sức lao động, đi làm thuê cho nhà tư bản, và bị giai cấp tư sản bóc lột giá
trị thặng dư. Chính vì vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen còn gọi giai cấp công nhân là giai
cấp vô sản. Trong chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là
những người làm chủ xã hội, trong đó, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo thông
qua đội tiên phong là đảng cộng sản để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã
hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Thứ ba, giai cấp công nhân là phạm trù lịch sử, nên trong quá trình phát triển sẽ
có thêm những biểu hiện, đặc trưng mới, chứ không phải giai cấp công nhân chỉ là giai
cấp cách mạng khi nó nghèo khổ, trình độ thấp, không có sở hữu (vô sản) như cách
hiểu hoặc “cố tình hiểu” của một số người. Do đó, khi lực lượng sản xuất ngày càng
phát triển, giai cấp công nhân cũng được nâng cao về trình độ học vấn và chuyên môn,
vì nó là một bộ phận quan trọng cấu thành lực lượng sản xuất. Cho nên, cùng với sự
phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng bổ
sung thêm những thuộc tính mới của giai cấp công nhân - công nhân trí thức.
Ngày nay, ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, hiện tượng công nhân “cổ
cồn”, “cổ trắng”, “cổ hồng” là có thật. Công nhân truyền thống ngày càng giảm đi
37
trong cơ cấu của giai cấp công nhân, xu hướng này đang ngày càng trở thành tất yếu
khi khoa học và công nghệ đang ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Việc rút ngắn khoảng cách giữa nghiên cứu khoa học vào sản xuất đã dẫn đến một
thực tế, các nhà nghiên cứu, sáng chế, các kỹ sư, kỹ thuật viên cao cấp,… gia nhập
vào hàng ngũ giai cấp công nhân ngày càng đông. Đó là những công nhân lao động
trí óc, hay còn gọi là công nhân trí thức. Rõ ràng là, giai cấp công nhân đã mở rộng
vượt ra khỏi phạm trù nghề nghiệp của giai cấp vô sản. Sự thu nhỏ của giai cấp công
nhân công nghiệp có nghĩa là sự lớn lên của giai cấp này ở những ngành nghề mới.
Giai cấp công nhân nếu trước đây chủ yếu lao động bằng công cụ truyền thống, thì
hiện nay ở những nước phát triển chủ yếu là vận hành những dây chuyền sản xuất
công nghiệp hiện đại. Đây là xu hướng vận động tất yếu của lịch sử nói chung và của
giai cấp công nhân nói riêng. Hiện nay khái niệm giai cấp công nhân được mở rộng,
bổ sung thêm nội hàm, đó là công nhân trí thức. Vì vậy, không thể nói giai cấp công
nhân đã “hòa nhập” vào tầng lớp trí thức, bị người máy và các dây chuyền công nghệ
tự động hóa thay thế. Giai cấp công nhân hiện nay vẫn là lực lượng sản xuất hàng đầu
của nhân loại, có sứ mệnh đấu tranh xóa bỏ chế độ áp bức bóc lột, xây dựng chế độ
xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì con người. Cho nên, không có chuyện sứ
mệnh lịch sử hiện nay thuộc về trí thức.
Thứ tư, theo quan điểm của C.Mác, trong nền sản xuất hàng hóa, khi lực lượng
sản xuất phát triển ngày càng mang tính xã hội hóa, thì cổ phần hóa trong tổ chức,
quản lý sản xuất là tất yếu. Chính điều này đã làm cho giai cấp công nhân ngày càng
tiến đến làm chủ tư liệu sản xuất, biến sở hữu của giai cấp tư sản thành sở hữu trực
tiếp cho người lao động, từng bước xã hội hóa sở hữu tư liệu sản xuất do lao động
tạo ra. Tuy nhiên, trong thực tế cổ phần hóa trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại
được giai cấp tư sản thực hiện như là một biện pháp điều chỉnh quan hệ sản xuất,
điều chỉnh cách thức bóc lột, bằng việc nhượng lại cho người lao động một ít cổ
phần. Điều này vừa để giải tỏa xung đột quan hệ giữa chủ với thợ, đồng thời đây
cũng là một hình thức huy động vốn của chủ nghĩa tư bản. V.I.Lênin cho rằng, “sự
dân chủ hoá việc sở hữu cổ phiếu... thực ra chỉ là một trong những phương pháp
tăng thêm uy lực cho bọn đầu sỏ tài chính”[61, tr.439]. Xét trên thực tế số cổ phần
mà người công nhân có nhỏ hơn rất nhiều so với tổng tư bản ứng ra, nên công nhân
38
thường không được tham gia đại hội cổ đông, không được tham gia vào quá trình
phân phối kết quả sản xuất. Vô hình chung giai cấp công nhân bị bóc lột dưới một
hình thức tinh vi hơn trong một điều kiện phát triển mới của chủ nghĩa tư bản.
Thực tế ngày nay hoàn toàn chứng thực những ý kiến của Lênin phê phán
những lý thuyết tư sản - cải lương về “dân chủ hoá tư bản”, mà người ta
nặn ra nhằm tô điểm cho chủ nghĩa đế quốc và làm lu mờ sự thống trị của
các tổ chức độc quyền. Bọn trùm tư bản đang lợi dụng việc lưu hành rộng
rãi những cổ phiếu nhỏ để tăng cường bóc lột và lừa bịp nhân dân, để làm
giàu cho chúng. Trái với những lời tuyên bố của bộ máy tuyên truyền tư
sản nói rằng trong các nước đế quốc chủ nghĩa hiện nay, những cổ phiếu
nhỏ (“nhân dân”), đang lưu hành rộng rãi, trong thực tế chỉ có một số ít
công nhân lành nghề - những đại biểu của cái gọi là tầng lớp công nhân
quý tộc mới có thể mua được cổ phiếu. Chẳng hạn như ở Hợp chủng quốc
Mỹ năm 1958 có khoảng nửa triệu gia đình công nhân có cổ phiếu, nhưng
giá trị của những cổ phiếu đó chỉ chiếm 0,2% tổng giá trị của toàn bộ cổ
phiếu có trong nước. Trong lúc đó chỉ riêng một gia đình Đuy-pông đã có
số cổ phiếu nhiều gấp 10 lần so với số cổ phiếu của toàn thể công nhân
Mỹ cộng lại. Như vậy, thực tế đang đánh đổ những lý thuyết có tính chất
tán dương về việc biến công nhân thành những người sở hữu (người cùng
sở hữu) các xí nghiệp, về việc “làm cho” thu nhập của các nhà tư bản
“đồng đều” với thu nhập của công nhân. Chủ nghĩa tư bản hiện đại có đặc
điểm là cái hố sâu ngăn cách giữa lao động và tư bản, giữa nhân dân và
các tổ chức độc quyền ngày càng sâu sắc thêm [61, tr.665 - 666].
Vì vậy, không phải khi giai cấp công nhân có cổ phần, cổ phiếu thì không còn
bị bóc lột hay “tan biến” vào các giai tầng khác.
Chỉ có điều, hiện nay với khả năng điều chỉnh, chủ nghĩa tư bản đang dung
hòa được phần nào mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp. Do vậy, phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân ở những nước này tạm thời lắng xuống và mang
“sắc thái mới”. Nhưng sự điều chỉnh đó của chủ nghĩa tư bản chỉ đến một giới hạn
nhất định, với “những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn
giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm
39
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng
trở nên sâu sắc... Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới
chủ nghĩa xã hội” [26, tr.68 - 69].
Hiện nay, trước sự thay đổi nhanh chóng của thế giới đương đại, đòi hỏi khi
xem xét, đánh giá về giai cấp công nhân phải đặt nó vào hoàn cảnh lịch sử - cụ thể.
Mặc dù có một số biểu hiện, đặc trưng mới (cấu trúc nghề nghiệp đa dạng, mức
sống tăng, trình độ học vấn, chuyên môn cao,…), nhưng địa vị kinh tế - xã hội của
giai cấp công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay vẫn không thay đổi nếu
xem công nhân là người lao động trong sự phát triển không ngừng; và xét họ trong
quan hệ với giai cấp tư sản, vẫn là tầng lớp xã hội gắn với lực lượng sản xuất hiện
đại trong quan hệ làm thuê cho nhà tư bản. Ở những nước đi theo con đường chủ
nghĩa xã hội, giai cấp công nhân không ngừng phát triển về số lượng và chất lượng,
là những người làm chủ về mọi tiến trình sản xuất của xã hội, thông qua sự lãnh đạo
của đảng cộng sản, tổ chức cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Do đó, để nhận
diện giai cấp công nhân hiện nay, cần có nhận thức mới về các tiêu chí của người
công nhân trong thế giới đương đại, để từ đó thấy được vị trí, vai trò và sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay.
Góp chung vào việc làm sáng tỏ khái niệm giai cấp công nhân, thời gian gần
đây, các học giả trong nước đã đưa ra khá nhiều định nghĩa về giai cấp công nhân.
Trong số đó có thể kể đến định nghĩa của các tác giả trong công trình Một số vấn đề
chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay:
Giai cấp công nhân là giai cấp những người lao động hoạt động sản xuất
trong các ngành công nghiệp thuộc các trình độ kỹ thuật khác nhau, mà
địa vị kinh tế - xã hội tùy thuộc vào chế độ xã hội đương thời: ở các nước
tư bản, họ là những người không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản
xuất, phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị
thặng dư; ở các nước xã hội chủ nghĩa, họ là những người đã cùng nhân
dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác
lao động cho mình [51, tr.97].
Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình các bộ môn khoa học Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh Trong Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học định nghĩa:
40
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển
cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát
triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực
lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản
xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực
lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những
người không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất phải làm thuê cho
giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; ở các nước xã
hội chủ nghĩa, họ là những người cùng nhân dân lao động làm chủ những tư
liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi ích chung của
toàn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của bản thân họ [52, tr.99].
Với hai định nghĩa này, thứ nhất, các tác giả đã dựa vào hai tiêu chí mà C.Mác
và Ph.Ăngghen đưa ra để nhận diện giai cấp công nhân trong chế độ tư bản chủ
nghĩa: về phương thức lao động, phương thức sản xuất, là giai cấp những người lao
động ra đời và phát triển cùng với nền sản xuất đại công nghiệp, hoạt động sản xuất
trong ngành công nghiệp thuộc các trình độ kỹ thuật khác nhau. Về địa vị trong
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân không có hoặc về cơ bản
không có tư liệu sản xuất, phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc
lột giá trị thặng dư; thứ hai, cả hai định nghĩa này đã nêu được địa vị giai cấp công
nhân sau khi giành được chính quyền. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công
nhân cùng với nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng
nhau hợp tác lao động vì lợi ích của chính mình.
Tuy nhiên, hai định nghĩa này chưa phản ánh được một thực tế là trong các
nước xã hội chủ nghĩa hiện nay đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa (như Việt Nam), hoặc phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
(như Trung Quốc), trên thực tế vẫn còn bộ phận công nhân trong doanh nghiệp
ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bị nhà tư bản bóc lột,
không được làm chủ những tư liệu sản xuất.
Trong công trình Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, tác giả Dương Xuân Ngọc định nghĩa:
41
Giai cấp công nhân là một tập đoàn người ổn định, hình thành và phát
triển gắn liền với nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại, với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hóa, quốc tế hóa cao
và rộng lớn; là lực lượng sản xuất cơ bản và tiên tiến của thời đại hiện nay,
là động lực chủ yếu và là lực lượng lãnh đạo quá trình chuyển biến cách
mạng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội ở mỗi quốc gia cũng như
trên phạm vi toàn thế giới. Trong các nước tư bản chủ nghĩa, do không có
hoặc cơ bản không có tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, họ phải bán sức
lao động làm thuê cho giai cấp tư sản và bị bóc lột giá trị thặng dư; trong
các nước xã hội chủ nghĩa, họ cùng với nhân dân lao động làm chủ các tư
liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động sáng tạo vì lợi ích của
xã hội và của giai cấp mình [84, tr.34 - 35].
Định nghĩa này trên cơ sở kế thừa các nhân tố đã định nghĩa trong các công
trình Một số vấn đề chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay và Giáo trình
chủ nghĩa xã hội khoa học. Đồng thời, bổ sung thêm giai cấp công nhân là lực
lượng lãnh đạo quá trình chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội ở mỗi quốc gia cũng như trên phạm vi toàn thế giới.
Trong công trình Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn 2011 -
2020, Đặng Ngọc Tùng định nghĩa:
Giai cấp công nhân hiện đại là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và
phát triển cùng với cách mạng công nghiệp, với nhịp độ phát triển của lực
lượng sản xuất hiện đại có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; lực lượng
sản xuất cơ bản, tiên tiến trong nền sản xuất hiện đại, lao động trong môi
trường công nghiệp, dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hoặc tham gia vào quá
trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã
hội; là giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, động lực chính
của tiến trình lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội [134, tr.65].
Định nghĩa này đã nói lên sự ra đời của giai cấp công nhân gắn với cách mạng
công nghiệp, có tính chất xã hội hóa ngày càng cao. Giai cấp công nhân đại biểu cho
lực lượng sản xuất hiện đại, lao động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ nhằm tạo
ra của cải vật chất, động lực chính của tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa.
42
Việc có nhiều định nghĩa về giai cấp công nhân, chứng tỏ đây là một vấn đề
phức tạp, còn có nhiều quan niệm khác nhau trong cách tiếp cận. Vì vậy, khi bàn về
giai cấp công nhân, cần quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về
giai cấp, đặc biệt là định nghĩa về giai cấp của V.I.Lênin trong tác phẩm Sáng kiến
vĩ đại. Đồng thời phải xuất phát từ sự vận động của thực tiễn để bổ sung và phát
triển thêm những biểu hiện mới phù hợp với thực tế thời đại ngày nay. Theo đó, giai
cấp công nhân hiện nay trước hết và chủ yếu là đông đảo những người lao động trực
tiếp sản xuất trong quy trình công nghiệp (thợ có bậc tay nghề, kỹ thuật viên…);
những người trí thức (kỹ sư, kiến trúc sư, thạc sĩ, tiến sĩ…) trực tiếp lấy sản xuất vật
chất trong công nghiệp và dịch vụ làm nghề chính; và sau nữa là những công nhân,
hướng dẫn viên, nhân viên thương nghiệp, dịch vụ mà lao động với quy trình có
tính chất công nghiệp hiện đại. Công nhân hiện đại có thể làm việc ở nhiều thành
phần kinh tế khác nhau: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài… Với quan niệm đó, theo chúng tôi: Giai cấp công nhân là
một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với nền sản xuất đại
công nghiệp. Là giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại, phương thức sản
xuất tiên tiến, có hệ tư tưởng độc lập, có sứ mệnh tổ chức, lãnh đạo tiến trình cách
mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ở mỗi
nước và trên phạm vi toàn thế giới.
Tất nhiên, có thể đưa ra những định nghĩa khác nhau tùy theo góc độ tiếp cận.
Song định nghĩa trên cho thấy:
- Giai cấp công nhân vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của nền sản xuất công
nghiệp hiện đại. Do đó, nó đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại, phương thức
sản xuất tiên tiến.
- Giai cấp công nhân có hệ tư tưởng độc lập đó là chủ nghĩa Mác-Lênin, có đội
tiên phong của nó là Đảng Cộng sản. Điều này thể hiện bản chất và tính tiên phong
cách mạng của giai cấp công nhân.
- Dù ở chế độ xã hội nào, với địa vị của mình giai cấp công nhân có sứ mệnh
lịch sử xóa bỏ chế độ áp bức bóc lột, xây dựng thành công chế độ xã hội mới - chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ở mỗi nước và trên toàn thế giới.
43
2.1.2. Quan niệm về giai cấp công nhân Việt Nam
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX gắn
liền với quá trình xâm lược và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Ngay từ khi
ra đời giai cấp công nhân Việt Nam đã chứng tỏ là giai cấp tiên tiến. Trong bối cảnh
lịch sử dân tộc lúc bấy giờ, khi bàn về giai cấp công nhân Việt Nam, Hồ Chí Minh
cho rằng: “chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn
gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và
kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người
lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam” [80, tr.9].
Vậy ai là giai cấp công nhân?. Hồ Chí Minh cho rằng, “tất cả những người
không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động mà sống, là công nhân. Bất kỳ họ
lao động trong công nghệ hay trong nông nghiệp, bất kỳ họ làm nghề gì, cũng đều
thuộc về giai cấp công nhân” [77, tr.211 - 212]. Trong đó, Người đặc biệt nhấn
mạnh vai trò của công nhân lao động trong lĩnh vực công nghiệp, đây là lực lượng
chủ lực, tiêu biểu cho giai cấp công nhân, “chủ chốt của giai cấp ấy, là những công
nhân ở các xí nghiệp như: nhà máy, hầm mỏ, xe lửa, vân vân... Những công nhân
thủ công nghệ, những người làm thuê ở các cửa hàng, những cố nông, vân vân,...
cũng thuộc về giai cấp công nhân. Nhưng chỉ công nhân công nghệ là hoàn toàn đại
biểu cho cái đặc tính của giai cấp công nhân” [77, tr.212].
Do ra đời trong điều kiện của một đất nước thuộc địa, nữa phong kiến, phương
thức sản xuất nông nghiệp chiếm ưu thế, nên ngoài những đặc điểm chung với giai
cấp công nhân thế giới, giai cấp công nhân Việt Nam còn có những nét đặc trưng
riêng: đa số xuất thân từ nông dân; ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc; ít về số
lượng, trình độ học vấn và chuyên môn thấp. Mặc dù vậy, giai cấp công nhân Việt
Nam vẫn đủ khả năng để lãnh đạo cách mạng đi đến thắng lợi:
Công nhân Việt Nam tuy tuổi còn trẻ, song ra đời trước giai cấp tư sản. Số
lượng ít (gần 5% trong dân số); nhất là từ khi kháng chiến kiến quốc, một
số phân tán và một số ít đổi nghề. Nhưng sau đó một phần đã tập hợp lại
trong vùng bị tạm chiếm và số lượng công nhân vùng tự do cũng tăng lên.
Còn nhiều quan hệ với nông dân, giai cấp công nhân Việt Nam chưa được
thuần tuý lắm, trình độ học vấn tương đối thấp, nhưng đủ sức lãnh đạo
cách mạng đến thắng lợi [17, tr.80].
44
Sự lãnh đạo của giai cấp công nhân nước ta thông qua đội tiên phong là Đảng
Cộng sản Việt Nam. Để phát huy vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân phải gắn
liền với sự nghiệp xây dựng đảng cách mạng, ngược lại xây dựng đảng cách mạng
phải đi liền với xây dựng giai cấp công nhân ngày càng lớn mạnh. Vì vậy, “đảng
cách mạng phải hiểu rằng phong trào nông dân, cho dù có quy mô to lớn tới đâu đi
nữa cũng không mong gì giành được những thắng lợi quyết định nếu như giai cấp
công nhân không hành động” [74, tr.414]. Do đó, xây dựng đảng chính là xây dựng
giai cấp công nhân ngày càng lớn mạnh để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách
mạng. Giai cấp công nhân là cơ sở chính trị - xã hội cho sự ra đời của đảng, khi
đảng ra đời sẽ được tổ chức, lãnh đạo phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân,
nếu “công nhân không có sự lãnh đạo của Đảng thì không làm cách mạng thành
công được, không thắng lợi được” [78, tr.295]. Thông qua chính đảng của mình giai
cấp công nhân tập hợp lực lượng, tổ chức, lãnh đạo phong trào thực hiện mục tiêu
giải phóng dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Mặc dù trong bối cảnh lúc bấy giờ vẫn còn nhiều ý kiến nghi ngờ về khả năng
lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam, khi cho rằng: ở Việt Nam không thể
thực hiện cuộc cách mạng vô sản, vì giai cấp công nhân ít về số lượng. Khác với
giai cấp công nhân ở các nước tư bản, ra đời từ nền sản xuất công nghiệp chính
quốc, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ quá trình xâm lược thuộc địa của đế
quốc, sản xuất manh mún. Trước những băn khoăn đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ:
Lãnh đạo được hay không, là do đặc tính cách mạng, chứ không phải do
số người nhiều ít của giai cấp. Giai cấp công nhân có chủ nghĩa Mác -
Lênin. Trên nền tảng đấu tranh, họ xây dựng nên Đảng theo chủ nghĩa
Mác - Lênin là Đảng Lao động Việt Nam. Đảng đề ra chủ trương, đường
lối, khẩu hiệu cách mạng, lôi cuốn giai cấp nông dân và tiểu tư sản vào
đấu tranh, bồi dưỡng họ thành những phần tử tiên tiến [77, tr.212].
Khi giai cấp công nhân giành được chính quyền, phải tiến hành xây dựng chế
độ xã hội mới - chủ nghĩa xã hội. Chế độ xã hội mới phải thể hiện được tính ưu việt
của nó, giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động phải thực hiện được
vai trò làm chủ xã hội, làm chủ sản xuất. Muốn làm được điều đó thì phải đẩy mạnh
cải tiến quản lý xí nghiệp, công nhân phải thực sự tham gia vào quản lý, phải thể
45
hiện được mình là đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại, tạo ra được nhiều của
cải với chất lượng cao, giá thành rẻ, quản lý hiệu quả: “muốn thực hiện được vai trò
làm chủ, giai cấp công nhân phải quản lý tốt kinh tế, quản lý tốt xí nghiệp, làm cho
năng suất lao động không ngừng nâng cao, của cải xã hội ngày càng nhiều với phẩm
chất tốt, giá thành hạ” [81, tr.564]. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu giai cấp công nhân
phải luôn phấn đấu rèn luyện về năng lực, nâng cao trình độ để thực sự xứng đáng
là người làm chủ. Muốn nâng cao năng lực thì phải cố gắng học tập, ý thức làm chủ
không phải chỉ tỏ rõ tinh thần hăng hái lao động, mà còn tỏ rõ ở tinh thần say mê
học tập để không ngừng nâng cao năng lực làm chủ của mình. Khi đi lên chủ nghĩa
xã hội sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trì óc dần được xoá bỏ, có
chăng chỉ là sự khác nhau ở trình độ đào tạo. Do đó, Hồ Chí Minh mong muốn
“công nông hoá trí thức, trí thức hoá công nông”. Nghĩa là công nông cần học tập
văn hóa và nâng cao trình độ tri thức của mình, trí thức cần gần gũi công nông và
học tập tinh thần, nghị lực, sáng kiến và kinh nghiệm của công nông. Một khi khoa
học công nghệ ngày càng phát triển, thì người công nhân “phải có trình độ kỹ thuật
rất cao không kém gì kỹ sư” [78, tr.224].
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh vấn đề trí thức hóa giai cấp công nhân
đã được Người đặc biệt quan tâm, và coi đây là xu thế phát triển tất yếu khi lực
lượng sản xuất ngày càng phát triển. Đây là điều kiện để giai cấp công nhân thực
hiện vai trò làm chủ của mình trong sản xuất, cũng như lãnh đạo xã hội trong quá
trình thực hiện cách mạng.
Quán triệt tinh thần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh vào xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam, trong suốt quá trình cách mạng
Đảng ta luôn quan tâm chăm lo xây dựng giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh
cả về số lượng và chất lượng, xứng đáng với vai trò giai cấp tiên phong trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, trong quá trình đổi mới và hội nhập
quốc tế, giai cấp công nhân nước ta có sự biến đổi nhanh trên nhiều phương diện,
không còn thuần nhất, phát triển nhanh về số lượng và chất lượng, đa dạng về cơ cấu,
phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo trong nội bộ ngày càng sâu sắc.
Trước sự biến đổi đó, khi bàn về giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay có
nhiều ý kiến cho rằng: với quá trình cổ phần hóa hiện nay, những công nhân đã có sở
46
hữu cổ phần và có thu nhập từ lợi nhuận doanh nghiệp đã trở thành ông chủ, không
còn là giai cấp công nhân nữa. Cũng có ý kiến cho rằng, công nhân Việt Nam hiện
nay đang làm thuê chứ không phải làm chủ; lãnh đạo xã hội hiện nay thuộc về trí thức
chứ không phải là giai cấp công nhân. Những người đưa ra ý kiến này lập luận rằng:
giai cấp công nhân là giai cấp vô sản, không có tư liệu sản xuất, nên bộ phận công
nhân hiện nay có sở hữu cổ phần thì không còn là giai cấp công nhân nữa, quá trình
này đang làm cho giai cấp công nhân ngày càng “teo đi”. Nói giai cấp công nhân Việt
Nam làm chủ là không đúng, vì nhìn vào thực tiễn công nhân trong các khu công
nghiệp, khu chế xuất là đang làm thuê, bị bóc lột giá trị thặng dư không khác gì so
với giai cấp công nhân ở các nước tư bản. Nói giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo
là áp đặt, vì đội ngũ lãnh đạo các cấp ở Việt Nam hiện nay là trí thức chứ không phải
là công nhân.
Những quan niệm trên đây là phiến diện, siêu hình, thiếu cơ sở khoa học, mơ
hồ về lập trường tư tưởng. Việc công nhân có sở hữu cổ phần là xu thế phát triển tất
yếu của nền sản xuất hàng hóa, có cổ phần không làm mất đi bản chất của giai cấp
công nhân, mà trái lại nó phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của công nhân trong sản
xuất. Như phân tích ở trên, khi bàn về công nhân trong các công ty cổ phần - sự
phát triển cao nhất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác đã cho rằng: việc công
nhân sở hữu cổ phần “là điểm quá độ tất nhiên để tư bản lại chuyển thành sở hữu
của những người sản xuất,...với tư cách là sở hữu của những người sản xuất liên
hiệp thành sở hữu xã hội trực tiếp” [72, tr.668].
Vì vậy, sở hữu vừa là mục tiêu, động lực, vừa là phương tiện, công cụ để đạt
được mục tiêu tổng thể. Do đó, “đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa
bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản” [68, tr.615]. Vì vậy,
cùng là sở hữu nhưng sở hữu trong chủ nghĩa xã hội khác sở hữu tư bản chủ nghĩa.
Sở hữu của công nhân trong chủ nghĩa xã hội với tư cách là cách thức tổ chức lao
động sản xuất, nhằm huy động mọi nguồn lực cho sự phát triển của sản xuất.
Trong chủ nghĩa xã hội, sở hữu là để phát huy tinh thần sáng tạo và làm chủ
của công nhân, dùng quyền sở hữu của mình làm giàu cho bản thân, gia đình và đất
nước. Còn trong chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản lại đem quyền sở hữu đi bóc lột
sức lao động của người khác, nên sở hữu tư sản thành tư bản, vì tư bản là giá trị
47
mang lại giá trị thặng dư bị nhà tư bản chiếm không của người lao động: “chủ nghĩa
cộng sản không tước bỏ của ai cái quyền chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ
nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của
người khác” [68, tr.618]. Cho nên, khi nói về công nhân có sở hữu cổ phần ở nước
ta không nên đánh đồng với sở hữu tư sản, sở hữu của công nhân trong chủ nghĩa tư
bản, không lầm lẫn mục tiêu với công cụ. Người công nhân có cổ phần chứng tỏ nó
đang khẳng định mình để đi tới chỗ thủ tiêu mình với tư cách là giai cấp vô sản. Vì
vậy, giai cấp công nhân nước ta hiện nay có thể bao gồm cả những người có sở hữu
thuộc các hình thức khác nhau mà pháp luật thừa nhận. Không vì họ có sở hữu mà
đưa họ ra ngoài giai cấp công nhân.
Có một thực tế hiện nay, khi mà các đơn vị sản xuất kinh doanh không tồn tại
một cách độc lập và khép kín, mà trong hoạt động sản xuất kinh doanh, có nhiều loại
hỗn hợp, đan kết với nhau, xu hướng liên kết, liên doanh ngày càng phát triển cả
trong nước và ngoài nước. Trong mỗi nhà máy, xí nghiệp, công ty, có những dây
chuyền sản xuất và bộ phận liên kết với các đơn vị sản xuất thuộc các thành phần
kinh tế khác nhau. Những đơn vị sản xuất ấy vừa có mặt ở thành phần kinh tế này,
vừa nằm trong thành phần kinh tế khác, khó có sự phân biệt một cách rạch ròi giữa
các thành phần kinh tế. Bởi thế, người công nhân trong các đơn vị sản xuất này cũng
không thuần khiết thuộc một thành phần kinh tế nhất định, mà họ có thể hiện diện ở
hai hoặc nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Họ có thể vừa là công nhân trong khu
vực kinh tế nhà nước, vừa làm ở khu vực kinh tế tư nhân hoặc cá thể, hộ gia đình.
Trong bối cảnh đó, nếu xét riêng từng cá nhân, trong từng công ty, nhà máy, xí
nghiệp thì hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của công nhân vẫn thường xuyên xảy
ra. Đây cũng là đặc điểm của nền kinh tế thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Nhưng nếu xét giai cấp công nhân trong tính tổng thể với tư cách là giai cấp làm
chủ đất nước, thì địa vị và vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân vẫn không hề
thay đổi. Cho nên, không thể nhìn bộ phận để đánh giá cái toàn thể. Hơn nữa, ngày
nay khi chủ nghĩa tư bản đã “toàn cầu hóa” nền kinh tế, thì khái niệm làm thuê cũng
có tính tương đối. Nhiều người có tư liệu sản xuất nhưng vẫn là người làm thuê khi
xét nó trong những mối quan hệ khác nhau, vừa là ông chủ trong mối quan hệ với
người lao động làm thuê cho mình, nhưng lại trở thành người làm thuê cho những
48
doanh nghiệp, ông chủ khác. Trong chủ nghĩa xã hội, khi giai cấp công nhân đã
giành được chính quyền, thì nó trở thành những người làm chủ ở các mức độ khác
nhau về các quá trình sản xuất nói riêng và xã hội nói chung.
Vì vậy, lãnh đạo cách mạng thuộc về giai cấp công nhân Việt Nam, chứ
không phải là trí thức như ý kiến đưa ra trên đây. Trong bất cứ thời đại nào, trí
thức cũng đóng vai trò quan trọng trong xã hội. Ngày nay, khi khoa học đang ngày
càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thì trí thức là những người đi đầu
trong việc phát triển các lý thuyết khoa học và công nghệ, khoa học quản lý, khoa
học quân sự, khoa học xã hội, giáo dục nâng cao dân trí… Nhưng trong xã hội, trí
thức chưa bao giờ là một giai cấp, bởi vì nó không đại biểu cho một phương thức
sản xuất, không phải là một lực lượng kinh tế, chính trị độc lập trước các giai cấp
và tầng lớp xã hội khác. Do đó, nó không có hệ tư tưởng riêng, chỉ đi theo và chịu
ảnh hưởng hệ tư tưởng của giai cấp mà nó phục vụ. Vì thế, trong xã hội có giai
cấp, trí thức bao giờ cũng thuộc về giai cấp này hay giai cấp khác (thường thì
thuộc về giai cấp cầm quyền).
Trong xã hội có giai cấp, thì lãnh đạo xã hội bao giờ cũng thuộc về một giai cấp
nhất định - thông qua chính đảng, nhà nước và các tổ chức của nó. Ở bất cứ xã hội có
giai cấp nào, quyền lực bao giờ cũng nằm trong tay giai cấp thống trị, giai cấp này đã
tạo ra đội ngũ trí thức cho giai cấp mình để thực hiện vai trò lãnh đạo của nó đối với
xã hội. Với những điều kiện đó, trí thức với tư cách là một tầng lớp xã hội không thể
nào là lực lượng lãnh đạo cách mạng thay cho giai cấp công nhân.
Ở nước ta hiện nay, xét về phương thức lao động cá nhân, thì có những người
lãnh đạo và quản lý là trí thức. Nhưng đó là những trí thức của giai cấp công nhân,
họ đã đứng vào hàng ngũ của giai cấp công nhân, có cùng lợi ích với giai cấp công
nhân, và quan trọng nhất là họ đã được tổ chức bởi đội tiền phong của giai cấp công
nhân - Đảng Cộng sản Việt Nam. Do đó, họ đã trở thành một bộ phận của giai cấp
công nhân, đứng trên lập trường giai cấp công nhân, phục vụ sự nghiệp của cả dân
tộc theo đường lối chính trị của giai cấp công nhân. Họ không lấy tư cách là đại
diện của tầng lớp trí thức để lãnh đạo và quản lý.
Cũng phải nói thêm rằng, hoạt động quản lý và hoạt động lãnh đạo là hai hoạt
động khác nhau, mỗi hoạt động đều mang những đặc trưng riêng. Nếu lãnh đạo bao
49
giờ cũng thuộc về một giai cấp nhất định và chính đảng của nó, thì hoạt động quản
lý là lao động trí óc. Hay nói cách khác hoạt động lãnh đạo bắt nguồn từ địa vị kinh
tế - xã hội của giai cấp quyết định, còn quản lý thì bắt nguồn từ sự phân công lao
động xã hội: lao động quản lý hay lao động thừa hành. Do đó, có thể khẳng định
rằng, hoạt động quản lý là vô cùng quan trọng, song trong quan hệ với hoạt động
lãnh đạo, thì lãnh đạo quyết định quản lý; bởi vì, lãnh đạo quyết định phương hướng
phát triển của các giai đoạn quản lý. Cho nên, những ai vươn lên nhận thức được
tính tất yếu sự vận động của lịch sử để đứng vào hàng ngũ giai cấp công nhân đều
thuộc về hoặc mang bản chất giai cấp công nhân.
Vì vậy, giai cấp công nhân càng phát triển, thì phạm vi hoạt động càng mở
rộng, chứ không phải thu hẹp lại. Với bản chất của mình, dù ở thành phần kinh tế
nào thì giai cấp công nhân luôn đi đầu trong việc đẩy mạnh sản xuất, tham gia quản
lý, đấu tranh chống các hiện tượng đi ngược lại lợi ích của giai cấp, dân tộc, góp
phần quyết định thành công con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Vậy, giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay là ai?. Những ai được coi là giai
cấp công nhân Việt Nam?. Để trả lời cho những câu hỏi đó chúng ta phải dựa trên
cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp công nhân hiện đại
để xác định. Trên cơ sở những tiêu chí cơ bản chung để phân biệt giai cấp công
nhân (khái niệm loại) với giai cấp nói chung (khái niệm chủng) như: phương thức
lao động, địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong đời sống chính trị - xã
hội của đất nước, những đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân để có thể nêu lên
được khái niệm giai cấp công nhân Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
Ngoài những nét đặc thù do điều kiện lịch sử xã hội quy định, là một bộ phận
của giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân Việt Nam cũng có những đặc
trưng cơ bản: giai cấp công nhân hình thành và phát triển cùng với quá trình phát
triển của nền sản xuất công nghiệp - đó là lao động sản xuất vật chất gắn với các
quy trình công nghiệp hiện đại, là lực lượng sản xuất cơ bản và tiên tiến của xã hội;
có lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích cơ bản của nhân dân lao động và của dân
tộc; là giai cấp có hệ tư tưởng tiên tiến, khoa học là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, có đội tiên phong là Đảng cộng sản Việt Nam; có ý thức tổ chức, kỷ
luật cao, có tinh thần triệt để cách mạng; có khả năng tổ chức và lãnh đạo dân tộc
50
thực hiện tiến trình cách mạng đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, không thể hiểu giai
cấp công nhân Việt Nam hiện nay một cách máy móc, phiến diện như hiểu về giai
cấp công nhân ở thế kỷ XIX; hoặc giai cấp công nhân Việt Nam những năm đầu thế
kỷ XX, hoặc là hiểu theo cách “nhìn” như giai cấp công nhân ở các nước tư bản
phát triển cao. Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay bao gồm:
- Những người lao động chân tay và trí óc, trực tiếp hoặc gián tiếp sản xuất ra
của cải vật chất trong quy trình công nghiệp hiện đại (lao động phổ thông, thợ có
bậc tay nghề, kỹ thuật viên, kỹ sư,… trong các nhà máy, xí nghiệp).
- Những người lao động trong lĩnh vực lâm nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp
thực sự lao động với quy trình công nghiệp hiện đại (ở các nông - lâm - ngư trường).
- Những công nhân, kỹ thuật viên, lao động dịch vụ với quy trình làm việc có
tính chất công nghiệp hiện đại.
- Những trí thức (kỹ sư, kiến trúc sư, thạc sĩ, tiến sĩ) không trực tiếp giảng dạy,
nghiên cứu, sáng tác mà lấy việc sản xuất trong công nghiệp làm nghề chính, lấy
sản xuất kinh doanh theo những quy trình công nghệ hiện đại làm nghề chính.
Xét trên bình diện chung, hiện nay sự phát triển của giai cấp công nhân nước ta
đang có sự đan xen, chuyển dịch giữa các giai tầng rất phức tạp, sự phân biệt chỉ
mang tính tương đối. Vì vậy, giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay là những người
lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh
doanh và dịch vụ công nghiệp hoặc có tính chất công nghiệp, lao động trong các loại
hình sản xuất kinh doanh thuộc doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài nhà
nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra còn có một bộ phận lao
động Việt Nam đang làm việc theo hợp đồng trong các doanh nghiệp ở nước ngoài.
Cũng có ý kiến đặt ra, vậy đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, cán bộ, công
chức làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước có thuộc về giai cấp công
nhân Việt Nam không?. Về vấn đề này Đảng ta chỉ rõ, việc phân định thành phần
giai cấp và tầng lớp xã hội chủ yếu gắn với tính chất công việc đang làm của mỗi
người. Do vậy, giữa thành phần giai cấp, tầng lớp xã hội xuất thân và hiện tại của
mỗi người, ở mỗi thời điểm, tùy tính chất công việc đang làm, mà có thể đồng nhất
hoặc không đồng nhất. Đã là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam thì về nguyên tắc
mang bản chất giai cấp công nhân, là thành viên của đội tiên phong giai cấp công
51
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc, phục vụ lợi
ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc; nhưng tùy thuộc vào
công việc đang làm hiện tại của mỗi người, có thể là công nhân, nông dân, trí thức,
công chức, quân đội, công an hoặc chủ doanh nghiệp..., mà xác định cụ thể thuộc
giai cấp hoặc tầng lớp xã hội nào [29, tr.24 - 25].
Từ quan niệm đó, Đảng ta đã đưa ra khái niệm giai cấp công nhân Việt Nam
như sau: “Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát
triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương
trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh
doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp” [29, tr.43]. Quan niệm này được chúng
tôi xem là cơ sở, công cụ cho việc nghiên cứu “Sự biến đổi của giai cấp công nhân
Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay”.
2.2. HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
VIỆT NAM
2.2.1. Hội nhập quốc tế
Khái niệm hội nhập xuất phát từ tiếng Anh là integration, dịch ra theo tiếng
Việt nghĩa là “liên kết”. Trong Từ điển ngoại giao Liên Xô (cũ), integration trong
lĩnh vực chính trị hay kinh tế là quá trình tham gia của một quốc gia vào cộng đồng
quốc tế rộng lớn, như Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC), Hội đồng Tương trợ kinh
tế (SEV), hoặc quá trình liên kết của nhiều quốc gia ở mức độ cao [dẫn theo 46,
tr.56]. Theo nghĩa này thì integration liên quan tới quá trình tham gia của quốc gia
này vào các cơ chế, định chế quốc tế với số lượng ít nhất 3 thành viên trở lên.
Hội nhập quốc tế là kết quả tất yếu khách quan của quá trình toàn cầu hoá, do
sự phát triển của lực lượng sản xuất mang tính xã hội hoá ngày càng cao. Hội nhập
là sự tham gia có tính tự giác (có đường lối, chủ trương, kế hoạch) của chủ thể
(quốc gia, cộng đồng, cá nhân) vào quá trình toàn cầu hoá để đạt được mục đích
nhất định của mình theo những nội dung và cấp độ khác nhau.
Có nhiều mức độ khác nhau của hội nhập quốc tế, mức thấp nhất là mở rộng
hợp tác với bên ngoài, tức là tham gia vào hệ thống quan hệ quốc tế. Mức cao nhất
là trở thành một thành viên có trách nhiệm, có vị trí và vai trò xứng đáng trong cộng
đồng quốc tế. Có thể nói, hội nhập quốc tế là giai đoạn phát triển cao hơn về chất so
52
với việc phát triển các quan hệ hợp tác quốc tế. Về thực chất, hội nhập quốc tế là
quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh để thực hiện lợi ích quốc gia, dân tộc trong các
mối quan hệ nhiều mặt, đa dạng, song phương, đa phương với các chủ thể khác
nhau trong cộng đồng quốc tế.
Trong giai đoạn hiện nay, hội nhập quốc tế luôn có một vai trò hết sức to lớn,
quan trọng đối với mỗi quốc gia, dân tộc. Sự thành công hay thất bại của nó đều có
tác động, ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực tới quá trình ổn định, xây dựng, bảo vệ và
phát triển đất nước của mỗi quốc gia. Việc hội nhập quốc tế có chất lượng, hiệu quả
sẽ giúp cho các quốc gia, dân tộc vừa có điều kiện để mở rộng quan hệ hợp tác làm
ăn kinh tế với các nước, đồng thời lại vừa có điều kiện để giữ vững nền độc lập, tự
chủ của quốc gia, dân tộc. Qua đó tạo tiền đề để thực hiện lợi ích quốc gia, xây
dựng và phát triển đất nước.
Như vậy, có thể hiểu hội nhập quốc tế là tiến trình một quốc gia theo đuổi lợi
ích, mục tiêu của mình thông qua việc tự giác, chủ động hợp tác, liên kết sâu rộng
vào cộng đồng chung. Đó là quá trình hợp tác và mở rộng các mối quan hệ giữa
quốc gia này với quốc gia khác, giữa quốc gia với các tổ chức quốc tế theo các cấp
độ và phạm vi khác nhau (song phương, đa phương, khu vực, toàn cầu), trên tất cả
các lĩnh vực (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh,...) và chủ
động chấp nhận, tuân thủ, tham gia xây dựng các luật chơi chung, chuẩn mực
chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế.
Đối với Việt Nam, tư tưởng hội nhập quốc tế đã được định hình trong chính
sách đối ngoại của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngay từ khi mới ra đời.
Trong thư gửi Liên hợp quốc (1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Đối với
các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính cách mở cửa và hợp tác
trong mọi lĩnh vực” [75, tr.470]. Tuy nhiên, do chiến tranh với những điều kiện
khách quan và chủ quan khác nhau nên quá trình hội nhập chưa đi vào thực chất.
Bước vào thời kỳ đổi mới, đứng trước yêu cầu cấp bách phải nhanh chóng
vượt ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá thế bao vây cấm vận của
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại và
hội nhập quốc tế, trước hết trong lĩnh vực kinh tế ngày càng được bổ sung, hoàn
thiện, đồng thời được thực hiện tích cực hơn. Đại hội VI của Đảng (1986) mở ra
53
bước ngoặt trong tư duy và thực tiễn hội nhập quốc tế của Đảng, Nhà nước ta. Nghị
quyết Đại hội VI đã xác định nội dung chính của chính sách kinh tế đối ngoại trước
hết bao gồm: đẩy mạnh xuất nhập khẩu, tranh thủ vốn viện trợ và vay dài hạn,
khuyến khích đầu tư trực tiếp của nước ngoài,... Theo hướng này, Luật Đầu tư nước
ngoài được thông qua (1987), tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi để mở rộng quan hệ
kinh tế quốc tế, phục vụ phát triển kinh tế, khai thác những tiềm năng nội lực của
đất nước.
Mặc dù vậy, phải đến Đại hội lần thứ VIII (1996) khái niệm hội nhập quốc tế
mới được Đảng ta chính thức sử dụng, nhưng dưới một nội hàm hẹp hơn là hội nhập
kinh tế quốc tế, với chủ trương “xây dựng một nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình
hội nhập kinh tế khu vực và thế giới” [23, tr.37]. Đến Đại hội IX (2001) có thêm
những bước tiến trong quá trình hội nhập, khi Đảng ta xác định: “chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả
hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa” [24, tr.120].
Để cụ thể hoá quan điểm về hội nhập của Đại hội, Bộ Chính trị đã ra Nghị
quyết số 07 - NQ/TW ngày 27 - 11 - 2001 Về hội nhập kinh tế quốc tế. Trong đó
làm rõ hơn mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, nội dung và nhiệm vụ của hội nhập kinh tế
quốc tế. Về mục tiêu, Nghị quyết chỉ rõ rằng: “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” [33, tr.1].
Đại hội X của Đảng (2006) phát triển hơn nữa trong nhận thức về hội nhập,
không chỉ chủ động hội nhập, mà còn phải tích cực hội nhập, hội nhập không chỉ kinh
tế, mà còn mở rộng trên các lĩnh vực khác: “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác” [25, tr.112]. Tổng kết 20
năm đổi mới, Đại hội X nêu ra năm bài học lớn, trong đó có bài học thứ ba về hội
nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Theo đó, hội nhập kinh
tế quốc tế là yêu cầu khách quan; phải chủ động, có lộ trình với bước đi tích cực,
vững chắc, không do dự chần chừ, nhưng cũng không được nóng vội, giản đơn.
Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 07 - 11 - 2007 Việt Nam chính thức là
thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), dấu mốc quan trọng của quá trình
54
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, đồng thời mở ra một giai đoạn mới, nền kinh
tế Việt Nam hội nhập sâu và toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới. Để chỉ đạo quá
trình hội nhập trong trong điều kiện mới, tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương khóa X, Đảng ta đã ra nghị quyết Về một số chủ trương, chính sách lớn
để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới. Trong đó nhấn mạnh, “giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ, hội nhập vì lợi ích đất nước, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” [28, tr.45].
Trên cơ sở đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đánh dấu bước phát triển mới trong chủ
trương hội nhập quốc tế với sự khẳng định:
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp
tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia,
dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác
tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần
vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế
giới [26, tr.83 - 84].
Chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” đã thể hiện tầm nhìn
chiến lược toàn diện của Đảng. Đây không chỉ là sự chủ động, tích cực hội nhập
riêng ở lĩnh vực kinh tế và một số lĩnh vực khác, mà là sự tích cực mở rộng hội
nhập với quy mô toàn diện, trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,
quốc phòng - an ninh... Bước phát triển này trong nhận thức về tư duy đối ngoại của
Đảng, phản ánh những nhu cầu cấp thiết đối với sự nghiệp cách mạng nước ta trong
bối cảnh quốc tế mới.
Để hiện thực hoá quan điểm hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, ngày 10 - 4 -
2013 Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 22 - NQ/TW Về hội nhập quốc tế. Trong đó
khẳng định mục tiêu của hội nhập quốc tế là: Phải nhằm củng cố môi trường hoà
bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và
bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; quảng bá
55
hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng
hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự
nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới [34, tr.2].
Qua 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, mở của hội nhập quốc tế. Tại đại hội
lần thứ XII của Đảng(2016), trên cơ sở đánh giá những thành tựu đạt được, Đảng đã
chỉ ra những hạn chế và đưa ra phương hướng, nhiệm vụ cần thực hiện để hội nhập
quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả hơn. Trong đó nhấn mạnh:
Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế. Bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ
thống chính trị, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn
kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực
cạnh tranh của đất nước; hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các
lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế; hội nhập là quá trình
vừa hợp tác vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình
huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu, bất lợi [27, tr.154 - 155].
Như vậy, quá trình hội nhập quốc tế của nước ta ban đầu chỉ chú trọng hội
nhập kinh tế, đến nay chủ động và tích cực hội nhập toàn diện trên mọi lĩnh vực.
Đây là định hướng chiến lược lớn của Đảng nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì lợi ích của quốc gia dân tộc.
Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị dưới sự
lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Mọi cơ chế, chính sách phải phát
huy tính chủ động, tích cực và khả năng sáng tạo của tất cả các tổ chức, cá nhân,
khai thác hiệu quả các tiềm năng của toàn xã hội, của các tầng lớp nhân dân, bao
gồm cả cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hội nhập quốc tế phải trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và
thúc đẩy quá trình hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hiện đại
hoá kết cấu hạ tầng, nâng cao sức mạnh tổng hợp và năng lực cạnh tranh quốc gia;
đồng thời gắn kết chặt chẽ với việc tăng cường mức độ liên kết giữa các vùng,
miền, khu vực trong nước.
56
Hội nhập quốc tế là toàn diện trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn
hoá, quốc phòng, an ninh, nhưng trong đó hội nhập kinh tế vẫn là trọng tâm. Do đó,
hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp
phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia,
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, thúc đẩy phát triển văn hoá, xã hội.
Hội nhập trong tất cả các lĩnh vực phải được thực hiện đồng bộ trong một chiến
lược hội nhập quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và
năng lực của đất nước.
Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, nó sẽ đưa lại cho
nước ta nhiều cơ hội để phát triển, nhưng cũng có không ít khó khăn, thách thức đặt
ra. Những cơ hội và thách thức có mối quan hệ qua lại và có thể chuyển hóa lẫn
nhau. Cơ hội có thể trở thành thách thức nếu không được tận dụng kịp thời. Thách
thức có thể biến thành cơ hội nếu chúng ta chủ động ứng phó thành công. Vì vậy,
trong quá trình hội nhập sẽ có sự đan xen giữa những mặt tích cực và tiêu cực tác
động đến quá trình xây dựng, phát triển của đất nước nói chung, đến sự biến đổi của
giai cấp công nhân nước ta nói riêng với những mức độ và phạm vi khác nhau, cần
chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, phát huy những tác động tích cực,
ngăn ngừa và hạn chế những tác động tiêu cực.
2.2.2. Sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam
Theo Từ điển Triết học của Nhà xuất bản Tiến Bộ, Mát-xcơ-va, biến đổi bao
hàm mọi sự vận động và sự tác động qua lại, sự chuyển hóa từ trạng thái này sang
trạng thái khác [135, tr.39]. Còn theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học,
biến đổi là động từ dùng để chỉ sự thay đổi thành khác trước [137, tr.64]. Có nghĩa
là sự thay đổi của sự vật, hiện tượng trong quá trình vận động, phát triển có thêm
những dấu hiệu, đặc trưng mới được bổ sung so với thời điểm trước đó. Do đó, sự
biến đổi của giai cấp công nhân là quá trình vận động, biến đổi của giai cấp công
nhân về số lượng, chất lượng, cơ cấu, đặc điểm, tính chất, vai trò, tổ chức, nghề
nghiệp, giới,... do tác động bởi nhiều yếu tố trong quá trình phát triển cùng với sự
phát triển của xã hội.
Ở đây chúng tôi tiếp cận sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác
động của hội nhập quốc tế với những nội dung cơ bản: sự biến đổi về số lượng và
57
cơ cấu; sự biến đổi về chất lượng; sự biến đổi việc làm và đời sống, từ đó nó làm
biến đổi giai cấp công nhân nói chung. Trong đó, sự biến đổi về số lượng và cơ cấu
là sự tăng giảm về số lượng giai cấp công nhân nói chung, trong từng thành phần,
ngành nghề kinh tế nói riêng; đặc điểm và cơ cấu xã hội của giai cấp công nhân
trong từng thành phần và ngành nghề kinh tế. Sự biến đổi về chất lượng, đó là trình
độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp, tác phong và kỷ luật lao động, ý thức và lập
trường giai cấp, tổ chức hoạt động của giai cấp công nhân. Sự biến đổi việc làm và
đời sống của giai cấp công nhân, đó là cơ hội việc làm, thu nhập, điều kiện sống của
công nhân; những khó khăn, thách thức đặt ra đối với giai cấp công nhân trong quá
trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
2.2.2.1. Sự biến đổi về số lượng và cơ cấu của giai cấp công nhân Việt Nam
dưới tác động của hội nhập quốc tế
Trước đổi mới với nền kinh tế khép kín, vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá
tập trung, bao cấp, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể với hai thành
phần kinh tế chủ yếu: kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Trong điều kiện đó, cơ
cấu giai tầng xã hội nói chung, cũng như cơ cấu giai cấp công nhân nước ta tương
đối thuần nhất. Cùng với quá trình đổi mới thì mở cửa và hội nhập quốc tế ngày
càng được đẩy mạnh, đã tác động đến sự chuyển đổi thể chế và cơ cấu nền kinh tế.
Từng bước xuất hiện và phát triển nhanh các thành phần kinh tế mới (kinh tế tư
nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài). Cơ cấu nền kinh tế chuyển dịch theo
hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông
nghiệp. Sự chuyển đổi thể chế và cơ cấu nền kinh tế đã tác động làm cho phân hệ cơ
cấu xã hội - giai cấp nước ta chuyển biến rõ nét, trong đó giai cấp công nhân nước
ta có sự phát triển nhanh về số lượng và đa dạng về cơ cấu.
Khi xuất hiện thành phần kinh tế tư nhân đã tạo ra một luồng sinh khí mới
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Cơ cấu nền kinh tế có sự chuyển biến mạnh,
phát triển theo hướng công nghiệp hoá do kinh tế tư nhân chủ yếu đầu tư sản xuất
kinh doanh trong các lĩnh vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ.
Lợi thế nổi bật của kinh tế tư nhân là có thể thu hút lực lượng lao động đông
đảo, đa dạng, phong phú, ở mọi trình độ từ lao động thủ công đến lao động chất
lượng cao, ở tất cả mọi vùng, miền, mọi tầng lớp dân cư..., góp phần quan trọng
58
trong việc giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động. Hiện nay, theo thống
kê khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước đang có gần 400.000 doanh nghiệp, chiếm
hơn 95% số doanh nghiệp cả nước. Hàng năm, khu vực kinh tế này đóng góp gần
50% GDP và 39% tổng đầu tư toàn xã hội, giải quyết khoảng 60% việc làm cho
người lao động trong doanh nghiệp [127, tr.261; 270]. Ngoài ra còn có số lượng
đông đảo lực lượng lao động gián tiếp phục vụ cho khu vực kinh tế này.
So với khu vực kinh tế nhà nước, thì tỷ lệ thu hút lao động trên vốn của kinh tế
tư nhân thường cao hơn. Để tạo ra một việc làm doanh nghiệp tư nhân mất khoảng
70 - 100 triệu đồng, trong khi đó đối với doanh nghiệp nhà nước mất 210 - 280 triệu
đồng, cao gấp 3 lần doanh nghiệp tư nhân. Cũng theo Giáo sư David Dapice - Đại
học Harvard (Mỹ) nhận định, trong giai đoạn 2000 - 2002, Việt Nam có 1,75 triệu
việc làm được tạo ra từ kinh tế tư nhân với số vốn đầu tư khoảng 4,7 tỷ USD, bình
quân 2.700 USD cho một việc làm. Cũng trong thời kỳ này, đầu tư cho khu vực
doanh nghiệp nhà nước ước khoảng 4 tỷ USD, nhưng số việc làm trong doanh
nghiệp nhà nước về cơ bản không đổi [11, tr.191 - 192].
Với chủ trương “hoàn thiện thể chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi
phát triển kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một
động lực quan trọng của nền kinh tế” [27, tr.107 - 108]. Thời gian tới kinh tế tư
nhân sẽ có nhiều chuyển biến, phát triển nhanh cả về số lượng, chất lượng và quy
mô, tạo đà cho thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cùng
với quá trình đó sẽ tác động đến chuyển đổi cơ cấu lao động theo hướng công
nghiệp hoá cùng quá trình phát triển của thành phần kinh tế tư nhân ở nước ta.
Quá trình mở cửa hội nhập quốc tế thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài từng bước được phát triển. Kể từ năm 1987 khi Luật Đầu tư nước ngoài được
thông qua đến hết năm 2014, Việt Nam thu hút được tổng vốn đăng ký FDI lên đến
254,3 tỷ USD với 17.520 dự án đầu tư trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Riêng năm
2015, giá trị vốn FDI thực hiện đạt 14,5 tỷ USD [110, tr.7]. Hàng năm, bình quân
vốn FDI thực hiện chiếm khoảng 25% vốn đầu tư xã hội, góp phần to lớn vào quá
trình thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Tác động lớn nhất của FDI phải kể đến đó là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá. Khu vực FDI chiếm khoảng 45% tổng giá trị sản xuất công
59
nghiệp, góp phần hình thành một số ngành chủ lực của nền kinh tế như: công nghệ
thông tin, dầu khí, hoá chất, xe máy, ô tô, thép, điện và điện tử dân dụng, công
nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, da giày, dệt may. Các doanh nghiệp FDI cũng
chiếm tỷ trọng lớn trong những ngành công nghệ cao như: khai thác dầu khí, công
nghiệp điện tử, viễn thông, thiết bị văn phòng, máy tính. Đối với khu vực dịch vụ,
FDI nâng cao chất lượng dịch vụ của các ngành như: ngân hàng, bảo hiểm, kiểm
toán với các phương thức hiện đại trong thanh toán, tín dụng, thẻ. FDI trong lĩnh
vực du lịch, khách sạn, văn phòng cho thuê, bất động sản..., đã làm thay đổi diện
mạo của một số đô thị lớn và các vùng kinh tế ven biển.
Khi xuất hiện các doanh nghiệp FDI ở một địa phương nào đó, thì sẽ có sự
huy động nhân công, thu mua nguyên liệu tại chỗ, tạo ra việc làm cho lao động phụ
trợ trước, trong và sau quá trình sản xuất. Hiện nay, khu vực FDI tạo việc làm cho
khoảng trên 3 triệu lao động trực tiếp và nhiều lao động gián tiếp. Trong đó có hàng
vạn công nhân lành nghề, kỹ sư và cán bộ quản lý trình độ cao, góp phần hình thành
đội ngũ lao động đông về số lượng, cao về chất lượng. Chính vì vậy, năng suất lao
động của khu vực FDI luôn cao hơn các khu vực kinh tế khác, khi chỉ khoảng 4%
tổng số lao động trong nền kinh tế nhưng khu vực FDI tạo ra 20% GDP.
Sự xuất hiện và phát triển nhanh của thành phần kinh tế tư nhân và thành phần
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng đồng thời sẽ tác động đến sự chuyển biến cơ
cấu của thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Trong đó đáng chú ý là sự sụt
giảm nhanh về số lượng và quy mô của doanh nghiệp nhà nước, cùng với đó là lực
lượng lao động trong doanh nghiệp nhà nước ngày càng giảm, trong khi lực lượng lao
động trong thành phần kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển
nhanh và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu lực lượng lao động xã hội. Nguyên nhân cơ
bản là do quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, doanh nghiệp nhà nước đang
trong quá trình sắp xếp, đổi mới, đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa, nên số lượng và
quy mô các doanh nghiệp nhà nước ngày càng giảm dần. Những doanh nghiệp là ăn
không hiệu quả, thua lỗ cũng từng bước bị giải thể nên làm cho đội ngũ công nhân
trong thành phần kinh tế nhà nước ngày càng giảm nhanh.
Bên cạnh sự đa dạng thành phần kinh tế, thì hội nhập quốc tế còn tác động làm
chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, những ngành nghề truyền thống đang ngày càng bị thu
60
hẹp, thay vào đó là phát triển các ngành nghề sản xuất mới, ngành dịch vụ, cơ cấu nền
sản xuất công nghiệp từng bước chuyển đổi sang phát triển những ngành nghề có hàm
lượng giá trị gia tăng cao để tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Quá trình này làm xuất
hiện những bộ phân công nhân lao động trong các lĩnh vực sản xuất mới, có cơ cấu
ngày càng phong phú đa dạng về trình độ, lứa tuổi, giới tính, nguồn gốc xuất thân.
Từ sự đa dạng về cơ cấu thành phần và ngành nghề trong nền kinh tế thị trường,
nó đang tạo nên sự đa dạng cơ cấu xã hội giai cấp công nhân nước ta, mà ở đó vị thế,
vai trò và lợi ích của từng bộ phận công nhân là khác nhau. Biểu hiện rõ nhất là lợi
ích giữa các bộ phận công nhân trong các thành phần, ngành nghề kinh tế không phải
lúc nào cũng đồng nhất. Về nguyên tắc, mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước
pháp luật về quyền và nghĩa vụ. Nhưng trong thực tiễn không phải ở đâu và lúc nào
các thành phần kinh tế cũng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo quy định. Đặc biệt là
cách thức tổ chức lao động và phân phối kết quả sản xuất của doanh nghiệp ngoài nhà
nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều đó làm cho vị thế, vai trò và
lợi ích của bộ phận công nhân trong các thành phân kinh tế này khác với công nhân
trong thành phần kinh tế khác, thậm chí trong cùng một thành phần kinh tế, một
ngành cũng có sự khác biệt rất lớn về lợi ích. Sự khác nhau về lợi ích đôi khi sẽ dẫn
đến mâu thuẫn nội bộ và không loại trừ khả năng xung đột, chứa đựng mầm móng
của sự phân tầng, phân hoá làm suy yếu giai cấp công nhân nước ta.
Khi quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế càng sâu rộng, thì quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng hiện diện khắp toàn cầu. Trong đó, những nước
kém phát triển hay đang phát triển là một trong những đối tác chủ yếu nhập khẩu tư
bản. Điều đó, tất yếu sẽ dẫn đến mâu thuẫn lợi ích giữa những nhà tư bản nước
ngoài với công nhân lao động của nước sở tại. Với thể chế chính trị khác nhau giữa
các quốc gia, không dễ để đi đến một sự đồng nhất trong hợp tác kinh tế - chính trị.
Cái cốt lõi trong quá trình đó là vì lợi ích của các doanh nghiệp, rộng hơn là vì lợi
ích quốc gia dân tộc. Do đó, với các đối tác đến từ các nước tư bản, trong quan hệ
lao động nó hiện diện rất rõ nét quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đó là quan hệ
chủ - thợ, dựa trên bóc lột sức lao động của người công nhân làm thuê. Người lao
động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ là lao động thừa hành,
không có quyền trong quản lý, điều hành sản xuất.
61
Một trong những lý do để các doanh nghiệp FDI đầu tư vào nước ta đó là khai
thác nguồn nhân công giá rẻ. Cái mà nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đó là lợi
nhuận, cho nên họ sẽ tìm mọi cách, thậm chí bất chấp quy định luật pháp trong quan
hệ thuê và sử dụng lao động để bóc lột được nhiều nhất khối lượng giá trị thặng dư.
Trong khi đó vì nhiều lý do khác nhau trong quan hệ đối tác, thường các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ít nhiều được ưu tiên trong quá trình thu hút đầu tư
sản xuất kinh doanh. Vì vậy, họ có quyền quyết định những vấn đề cốt yếu nhất khi
thuê công nhân lao động.
Vì vậy, với những ưu thế như thị trường, tài nguyên, nhân công,... là sức hút
rất lớn đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nhưng trong hội nhập
việc giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
cũng là bài toán nan giải, trong đó bộ phận công nhân trong doanh nghiệp ngoài nhà
nước, nhất là trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiện đang bị phân tầng,
phân hoá về quyền và lợi ích, khi chưa được hưởng tương xứng với những đóng
góp của chính mình, địa vị kinh tế, chính trị - xã hội chưa được phát huy đầy đủ.
2.2.2.2. Sự biến đổi về chất lượng của giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác
động của hội nhập quốc tế
Ngày nay thế giới đang chứng kiến cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và
kỷ nguyên thông tin đang phát triển như vũ bão trên thế giới đã làm biến đổi sâu sắc
công cụ lao động, phương thức sản xuất, tạo nên năng suất lao động cao chưa từng
thấy trong lịch sử nhân loại. Tốc độ các phát minh khoa học ngày càng gia tăng,
vòng đời công nghệ và khoảng cách giữa phát minh và ứng dụng ngày càng ngắn,
“toàn cầu hoá và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá
trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức” [26, tr.183].
Cách mạng khoa học - công nghệ đã làm thay đổi rất lớn nền sản xuất nhân
loại, từ công cụ lao động đến đối tượng lao động, từ cách thức sản xuất đến phương
thức quản lý. Công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới,
công nghệ điện tử, điều khiển học,... đang là những nhân tố cốt lõi trong nền kinh tế
tri thức. Thực tế đã cho thấy, trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức nước nào có
khả năng sáng tạo ra công nghệ mới, ứng dụng nhanh và hiệu quả những thành tựu
khoa học - công nghệ, thì nước đó sẽ thành công trong việc đi tắt đón đầu, chớp lấy
62
thời cơ trong chiến lược phát triển. Với đà phát triển của khoa học - công nghệ như
hiện nay, lợi thế cạnh tranh nhất định sẽ thuộc về quốc gia nào có năng lực khoa
học - công nghệ. Bởi thực tế chỉ cần 1 đến 2 năm là đủ để loại một mặt hàng ra khỏi
thị trường thế giới, từ 3 đến 5 năm đủ để thay thế một công nghệ mới.
Sự phát triển của khoa học - công nghệ đang làm cho hàm lượng tri thức trong
các sản phẩm được sản xuất ra chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Theo một tính toán
mới đây cho thấy: nếu trước đây, hàm lượng về vật chất như năng lượng, nguyên
liệu, máy móc, thiết bị, vốn và về lao động chiếm 75% - 85% trong sản phẩm, thì
nay hàm lượng về vật chất chỉ còn 25% - 30% trong sản phẩm. Ngược lại, hàm
lượng về trí tuệ trước đây chỉ chiếm 15% - 25% thì nay tăng lên 75 - 85% trong sản
phẩm, các nhân tố khác rút xuống còn 15% - 25%. Theo xu hướng phát triển đó,
trong cơ cấu lực lượng lao động xã hội đã xuất hiện bộ phận lao động mới - công
nhân trí thức. Theo thống kê của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), ở các nước công
nghiệp phát triển 60% - 70% lực lượng lao động xã hội là công nhân trí thức. Ở Bắc
Mỹ và một số nước Tây Âu, kinh tế tri thức chiếm 45% - 70% GDP [99, tr.195].
Đối với Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập đã nhanh chóng tiếp
cận với những thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến của thế giới. Với mục tiêu
đón nhận những thành tựu khoa học của nhân loại để đi tắt đón đầu trong quá trình
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hiện nay Đảng ta chỉ rõ: “Cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển kinh tế tri
thức cùng với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế là một thời cơ để phát
triển” [26, tr.71]. Theo đó, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với chủ
trương tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, coi chất lượng,
năng suất, hiệu quả, cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều
sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tiến hành thực hiện ba khâu đột phá, trong đó có
phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, cùng với phát
triển và ứng dụng khoa học - công nghệ để hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Trong định hướng và thực thi chiến lược phát triển kinh tế, kinh tế tri thức
bước đầu được định vị ở trung tâm trong hệ tọa độ kinh tế Việt Nam. Tư duy lãnh
đạo, quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô từng bước tiệm cận với kinh tế tri thức. Quá trình
tái cơ cấu nền kinh tế bước đầu đi đúng hướng, đạt được những kết quả nhất định.
63
Tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ ngày càng tăng, tương ứng tỷ
trọng ngành nông nghiệp giảm dần trong cơ cấu kinh tế tổng thể. Tỷ lệ lao động qua
đào tạo tăng dần qua các năm: từ 40% năm 2010 lên 49% năm 2014 và đạt khoảng
51,6% năm 2015 [27; 52]. Đầu tư khoa học - công nghệ ngày càng được chú trọng,
năng suất lao động ngày càng được thu hẹp với các nước trong khu vực và thế giới.
Hội nhập quốc tế đã và đang từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp
và cả nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh, tạo tư duy kinh doanh mới, thúc đẩy
sản xuất kinh doanh. Khi hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng trên nhiều
cấp độ, góp phần thúc đẩy quá trình tham gia vào mạng sản xuất, chuỗi giá trị toàn
cầu, nâng cao giá trị gia tăng của nền kinh tế. Do đó, muốn đứng vững và thắng thế
trong cạnh tranh, buộc các doanh nghiệp nhanh chóng cập nhật, đổi mới dây chuyền
sản xuất hiện đại để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hoá. Hơn nữa
trong thời kỳ bùng nổ của khoa học - công nghệ như hiện nay, doanh nghiệp lại cần
phải nhanh chóng chuyển giao khoa học - công nghệ, đổi mới dây chuyền sản xuất
hiện đại. Theo đó, lẽ tất yếu - giai cấp công nhân - lực lượng vận hành dây chuyền
sản xuất ấy cũng phải có trình độ khoa học tương ứng. Đây chính là động lực thúc
đẩy mỗi người công nhân không ngừng vươn lên hoàn thiện chuyên môn nghiệp vụ,
kỹ năng nghề nghiệp để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và hội nhập quốc tế. Hiện nay số lượng công nhân nước ta có trình độ học vấn và
trình độ chuyên môn nghề nghiệp còn thấp so với mặt bằng chung của các nước
phát triển, nhưng rõ ràng với quá trình mở cửa và hội nhập đang làm cho giai cấp
công nhân nước ta có sự chuyển biến nhanh chóng về chất lượng theo hướng hiện
đại. Theo quy luật phát triển của kinh tế tri thức sẽ tạo nên một lực lượng lao động
mới để đáp ứng yêu cầu của sản xuất, đó là công nhân trí thức.
Hội nhập quốc tế còn tạo điều kiện để giai cấp công nhân nước ta hình thành
tác phong và kỷ luật lao động công nghiệp. Do xuất thân từ nền sản xuất nông
nghiệp lạc hậu, phương thức sản xuất manh mún, lại trải qua một thời gian khá dài
trong cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, nên tư tưởng, nhận thức, tập quán, thói
quen, tính bảo thủ, trì trệ vẫn còn hiện diện khá rõ nét trong đời sống tinh thần của
một bộ phận không nhỏ công nhân nước ta. Vì vậy, quá trình hội nhập giai cấp công
nhân có điều kiện tham gia, hòa nhập vào đời sống chính trị quốc tế, đồng thời nó
64
cũng yêu cầu người công nhân phải năng động, sáng tạo, nhạy bén trong cách nghĩ
và làm, trong hợp tác và cạnh tranh với các quốc gia trên thế giới.
Hội nhập quốc tế sẽ tăng cường giao lưu kinh tế, văn hoá, từ đó giai cấp công
nhân có điều kiện để học hỏi phương thức, kỹ năng lao động, phương thức sống của
các nước có nền kinh tế phát triển. Những phương thức sản xuất tiên tiến và hiện đại
của thế giới sẽ mở mang và nâng cao tầm hiểu biết cũng như phương thức hoạt động
trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, khắc phục tầm tư duy và thao tác của nền sản xuất
nông nghiệp, thủ công. Cùng với đó người công nhân có cơ hội tiếp thu các hệ tư
tưởng tiến bộ, cách tư duy năng động, chuẩn mực đạo đức, lối sống văn minh hiện đại
của các quốc gia phát triển, nhờ đó đã góp phần hạn chế, loại bỏ được những yếu tố
tiêu cực trong đời sống tinh thần của công nhân, làm cho tư tưởng, nhận thức của
công nhân năng động, nhạy bén, cởi mở, linh hoạt, phù hợp với yêu cầu thời đại.
Tuy nhiên, mặt trái của hội nhập cũng chứa đựng những tác động khó lường
làm giảm tính tích cực chính trị của một bộ phận công nhân. Sự khác biệt về thể
chế chính trị và văn hoá, lối sống cũng đem đến cho nước ta những dòng văn hoá
không lành mạnh, những tư tưởng đa chiều, tác động làm phân hoá nội bộ giai cấp
công nhân. Nhiều hiện tượng tiêu cực tác động vào đời sống xã hội, trong khi “công
nhân nước ta không đồng đều về nhận thức xã hội, giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính
trị, ý thức tổ chức và kỷ luật lao động” [29, tr.30]. Do đó, trong một nền kinh tế
rộng mở, các yếu tố đa văn hoá mang tính toàn cầu sẽ tác động đến ý thức đạo đức,
niềm tin chính trị của công nhân lao động, việc tiếp nhận và xử ý như thế nào cho
phù hợp với văn hoá bản địa là một điều không hề dễ dàng.
Hiện nay, chủ nghĩa tư bản đang khẳng định được sức mạnh về kinh tế, đang
cho thấy khả năng điều chỉnh để tồn tại của nó. Trong khi đó, chủ nghĩa xã hội đang
tạm thời thoái trào, các nước nghèo, các nước đang phát triển đang phải đối diện với
nhiều khó khăn, thách thức. Trước tình hình đó có không ít ý kiến, quan điểm xét
lại, thái độ hoài nghi, dao động xuất hiện ở nước ta đã làm cho một bộ phận nhân
dân, trong đó có cả công nhân rơi vào ảo tưởng, mơ hồ, thậm chí bàng quang, thờ ơ
trước những luận điệu xuyên tạc sai trái của các thế lực thù địch.
Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế làm xuất hiện và phát tán một cách
nhanh những luồng tư tưởng, văn hoá phẩm độc hại, các chuẩn mực đạo đức, lối
65
sống lai căng, thực dụng, vị kỷ bằng nhiều con đường khác nhau dễ dàng xâm nhập
vào nước ta, theo thời gian nó sẽ tác động gây ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống văn
hoá của xã hội nói chung, của giai cấp công nhân nói riêng.
Càng hội nhập sâu rộng thì nguy cơ xa rời văn hoá truyền thống, coi thường
những giá trị tinh hoa của dân tộc, đánh mất bản sắc dân tộc càng hiện rõ trong một
bộ phận công nhân. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch không ngừng lợi dụng để thực
hiện chiến lược “diễn biến hoà bình” bằng nhiều thủ đoạn hiểm độc, tinh vi. Trong
đó đối tượng chủ yếu chúng nhắm tới là thanh niên công nhân, những người còn rất
trẻ, phần lớn xuất thân từ nông thôn ra thành thị tìm việc làm, hòng làm cho họ mất
định hướng trong nhận thức, tư tưởng, lung lạc ý chí, niềm tin, làm suy thoái đạo
đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng, mục tiêu chủ nghĩa xã hội. Từ đó, làm suy yếu vai
trò, sức mạnh của giai cấp công nhân, cản trở sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Hội nhập quốc tế cũng tác động đến thể chế chính trị, nhất là khi nước ta gia
nhập vào các tổ chức thương mại tư do thế hệ mới. Trong quá trình đó buộc chúng
ta phải tuân theo những định chế, cam kết mà các tổ chức thương mại này đưa ra về
quan hệ lao động. Cùng với đó là các nhà nhà đầu tư đến từ các nước tư bản chủ
nghĩa, do khác biệt ý thức hệ, nên quan niệm về các vấn đề chính trị, xã hội có sự
khác biệt. Do đó, hội nhập càng sâu rộng thì tổ chức đảng và các tổ chức chính trị -
xã hội của công nhân khó có điều kiện phát huy hết vai trò. Điều này làm cho giai
cấp công nhân, nhất là bộ phận công nhân lao động trong các khu công nghiệp, khu
chế xuất không có điều kiện và môi trường để tham gia các hoạt động chính trị, xã
hội, làm cho công nhân xa dần nhu cầu chính trị.
Như vậy, do sự tác động thuận nghịch của hội nhập quốc tế, giai cấp công
nhân nước ta vừa có thời cơ để nâng cao chất lượng về trình độ học vấn, trình độ
chuyên môn, hình thành tác phong và kỷ luật lao động, tiếp nhận, phát triển lành
mạnh các giá trị văn hóa tiến bộ, hiện đại. Song cũng đối mặt với không ít nguy cơ,
thách thức, nhất là nguy cơ về suy thoái tư tưởng đạo đức, lối sống, phai nhạt bản
sắc văn hoá dân tộc, phai nhạt lý tưởng cách mạng, ảnh hưởng đến vai trò tiên
phong của giai cấp công nhân trong quá trình đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
66
2.2.2.3. Sự biến đổi việc làm và đời sống của giai cấp công nhân Việt Nam
dưới tác động của hội nhập quốc tế
Bước vào thế kỷ XXI, thế giới đang chứng kiến quá trình toàn cầu hoá diễn ra
ngày càng mạnh mẽ, tác động đến sự phát triển của tất cả các nước. Toàn cầu hoá
trước hết và chủ yếu là toàn cầu hoá kinh tế, đồng thời nó tác động đến đời sống tinh
thần, quyết định xu thế phát triển của các lĩnh vực khác như văn hoá, chính trị, xã hội.
Do đó, hiểu một cách chung nhất, toàn cầu hoá kinh tế là xu hướng tất yếu biểu hiện
sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất do phân công lao động quốc tế diễn ra
ngày càng sâu rộng trên phạm vi toàn cầu dưới tác động của cách mạng khoa học -
công nghệ và tích tụ, tập trung sản xuất, dẫn tới hình thành nền kinh tế toàn thế giới.
Quá trình quốc tế hoá sản xuất đã dẫn đến sự phân công và hợp tác lao động
mang tính toàn cầu. Sự trao đổi hàng hoá, mở rộng thị trường vượt ra ngoài biên giới
quốc gia, hình thành các mối quan hệ mang tính quốc tế, thúc đẩy mở rộng quy mô
sản xuất, gia tăng sản lượng cho nền kinh tế các nước, đồng thời cũng làm tăng lên sự
ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trong quá trình phát triển. Sự phát
triển của nền kinh tế theo quy mô ngày càng lớn, tính chuyên môn hoá càng cao, thì
phân công và hợp tác quốc tế về lao động ngày càng được đẩy mạnh. Ngược lại,
chính sự phân công và hợp tác quốc tế về lao động tạo điều kiện để mở rộng quy mô
sản xuất, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm cho các nước tham gia vào chuỗi giá
trị toàn cầu. Điều này cho phép khắc phục hạn chế về thị trường nguyên liệu, vật liệu
và thị trường tiêu thụ sản phẩm, mở rộng quy mô sản xuất đạt đến mức hợp lý nhất,
từ đó có thể hạ thấp chi phí sản xuất và làm tăng lên về lượng sản phẩm. Ngoài ra nó
còn góp phần đẩy nhanh tốc độ đổi mới kỹ thuật và công nghệ sản xuất, gia tăng
chủng loại sản phẩm. Sản xuất chuyên môn hoá quốc tế giúp các nhà sản xuất tập
trung nguồn lực cốt lõi vào thiết kế sản phẩm mới và chế tạo các bộ phận quan trọng.
Nhìn một cách khái quát, quốc tế hoá sản xuất là kết quả phát triển vượt bậc của
lực lượng sản xuất, thúc đẩy tốc độ phát triển và trình độ xã hội hoá lực lượng sản xuất,
mở rộng thị trường, giao lưu hàng hoá, dịch vụ, sức lao động thông thoáng hơn do
giảm bớt hàng rào thuế quan. Dòng đầu tư và chuyển giao công nghệ dưới nhiều hình
thức giúp các nước tiếp cận nguồn vốn, công nghệ mới từ nước ngoài, làm sâu sắc
thêm phân công lao động quốc tế, có lợi cho cả bên đầu tư và bên tiếp nhận đầu tư.
67
Cùng với quá trình quốc tế hoá sản xuất, thì xu thế khu vực hoá tiếp tục diễn
ra ngày càng mạnh mẽ. Liên kết kinh tế khu vực diễn ra từ thấp đến cao, từ khu vực
ưu đãi thuế quan, đến khu vực mậu dịch tự do, đồng minh thuế quan, thị trường
chung hay cộng đồng kinh tế, liên minh kinh tế. Giữa khu vực hoá và quốc tế hoá
sản xuất vừa có sự thống nhất vừa có mâu thuẫn. Các tổ chức kinh tế khu vực tự do
hoá bên trong nhưng bảo hộ nghiêm ngặt với bên ngoài. Tuy nhiên, xu hướng của
khu vực hoá là từng bước phá vỡ tính hạn hẹp để vươn rộng ra không gian toàn cầu.
Sự mở rộng này sẽ từng bước tiệm cận quốc tế hoá.
Trước xu thế phát triển chung đó, Việt Nam cũng đã tích cực tham gia vào
chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, hình thành sự phân công và hợp tác về lao động với
các nước trên thế giới, số lượng lao động ra nước ngoài làm việc ngày càng tăng
qua từng năm, ngược lại chúng ta cũng đón nhận sự di chuyển lao động từ các nước
vào nước ta làm việc. Đây là xu thế tất yếu, cho nên trong thời gian đến chất lượng
nguồn nhân lực đóng vai trò rất quan trọng, là một trong những nhân tố quyết định
đến hiệu quả quá trình hội nhập quốc tế của nước ta. Vì vậy, Đảng ta nhận định:
Toàn cầu hoá về kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình
thức biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách
thức đan xen rất phức tạp. Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày
càng lớn. Quá trình quốc tế hoá sản xuất và phân công lao động diễn ra
ngày càng sâu rộng. Việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn
cầu đã trở thành yêu cầu đối với các nền kinh tế [26, tr.96 - 97].
Đến nay Việt Nam có quan hệ kinh tế - thương mại với hơn 160 nước và 70
vùng lãnh thổ, là thành viên hầu hết các tổ chức khu vực và quốc tế quan trọng. Cho
nên, việc tham gia vào quá trình sản xuất, đáp ứng chuỗi giá trị toàn cầu là đòi hỏi
khách quan. Hiện nay với việc các quốc gia ASEAN trở thành một Cộng đồng kinh
tế thống nhất được kỳ vọng sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho tăng trưởng trong khu vực.
Khi cộng đồng kinh tế mới ra đời, với mức lương của Việt Nam đang gần tiệm cận
mức lương trung bình của khu vực, hội nhập kinh tế có nghĩa là người lao động có
thể đi làm việc ở nước ngoài và người nước ngoài có thể đến làm việc ở Việt Nam.
Trong hội nhập các rào cản pháp lý về di chuyển pháp nhân, thể nhân được nới
lỏng, các quan hệ kinh tế, đối ngoại, lao động được thiết lập, tạo điều kiện cho lao
68
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, góp phần nâng cao thu nhập, ổn định cuộc
sống. Đây là một bộ phận cấu thành quan trọng của chương trình việc làm quốc gia,
là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước.
Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế sâu rộng, nhu cầu tiếp nhận
lao động của các nước rất lớn, là cơ hội để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả
việc đưa người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
nhằm giải quyết việc làm, tạo thu nhập, phân công lại lao động, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, tăng thu ngoại tệ và góp phần phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội
nhập quốc tế [32, tr.1].
Trong quá trình đó sẽ có những tác động đến một số lượng lao động có tay
nghề sẽ ra nước ngoài để đi tìm những công việc có thu nhập cao hơn. Ngược lại,
cũng có những lao động nước ngoài đến Việt Nam làm việc. Điều đó đang tạo ra sự
cạnh tranh về việc làm giữa lao động trong nước và lao động ngoài nước. Vì vậy,
hội nhập sẽ tạo ra nhiều cơ hội việc làm, nâng cao thu nhập, đời sống giai cấp công
nhân có cơ hội được cải thiện, nhưng đồng thời cũng không ít khó khăn, thách thức
đặt ra đối với công nhân Việt Nam khi tham gia vào quá trình quốc tế hoá sản xuất,
phân công lao động khu vực và quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng. Những lao
động trẻ, khỏe, có trình độ sẽ có nhiều cơ hội việc làm, thu nhập cao, ngược lại
những lao động lớn tuổi, không có trình độ, tay nghề thấp đứng trước nguy cơ thất
nghiệp khi bị các dây chuyền sản xuất hiện đại thay thế và sự cạnh tranh lao động
đến từ các quốc gia trên thế giới. Quá trình này làm cho sự phân hóa giàu nghèo
trong nội bộ giai cấp công nhân nước ta ngày càng doãng ra.
Kết luận chương 2
Dưới ánh sáng của thế giới quan khoa học và cách mạng, các nhà kinh điển
chủ nghĩa Mác - Lênin đã luận giải sự ra đời và phát triển của giai cấp công nhân
trong quan hệ với quá trình vận động và phát triển của xã hội. Theo đó, giai cấp
công nhân là sản phẩm của nền sản xuất đại công nghiệp, đại biểu cho lực lượng sản
xuất hiện đại. Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người
bán sức lao động, bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư. Do đó, giai cấp công
69
nhân có sứ mệnh xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội mới - chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Trong chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân cùng
với nhân dân lao động là những người làm chủ, thông qua đội tiên phong - Đảng
Cộng sản, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo, đồng thời là động lực chủ yếu
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, trong bối cảnh khoa học - công nghệ đang ngày càng trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, chủ nghĩa tư bản đã có sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất.
Điều đó đang làm cho giai cấp công nhân biến đổi và có thêm những đặc trưng và
biểu hiện mới. Nhưng về bản chất vẫn không thay đổi, giai cấp công nhân trong chủ
nghĩa tư bản vẫn bị áp bức, bóc lột dưới một hình thức tinh vi hơn. Do đó, những
luận giải của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của
nó hiện nay vẫn còn nguyên giá trị.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã vận dụng quan điểm điển chủ nghĩa Mác
- Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân vào điều kiện cụ thể nước ta. Từ
đó khẳng định, chỉ có giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong - Đảng Cộng sản
Việt Nam đủ khả năng và điều kiện để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng
dân tộc và xây dựng thành công chế độ chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình đổi mới đất nước chúng ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng, toàn diện. Trong đó, hội nhập kinh tế vẫn là trọng tâm. Trong quá trình đó có
những nhân tố tác động làm cho giai cấp công nhân nước ta biến đổi nhanh trên
nhiều phương diện, cả tích cực lẫn tiêu cực. Đó là, sự biến đổi về số lượng và cơ
cấu, làm cho giai cấp công nhân nước ta phát triển nhanh về số lượng, đa dạng về
cơ cấu thành phần và ngành nghề, mặt khác, nó cũng tạo ra sự khác biệt về vai trò
và lợi ích của từng bộ phận công nhân; sự biến đổi về chất lượng, giai cấp công
nhân có điều kiện nâng cao trình trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp, hình
thành tác phong và kỷ luật lao động, lối sống hiện đại, mặt khác hội nhập cũng tác
động làm giảm tính tích cực chính trị của một bộ phận giai cấp công nhân nước ta;
sự biến đổi về việc làm và đời sống, giai cấp công nhân có nhiều cơ hội việc làm,
nâng cao thu nhập, đời sống ngày càng được cải thiện, nhưng đồng thời có nhiều
khó khăn, thách thức đặt ra đối với công nhân nước ta khi hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng.
70
Chương 3
SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY -
THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
Giai cấp công nhân Việt Nam đã có gần một thế kỷ ra đời và phát triển với tư
cách là một giai cấp độc lập. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên
phong của giai cấp công nhân, chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng
thành và đủ khả năng lãnh đạo phong trào cách mạng. Cùng với quá trình phát triển
của lịch sử dân tộc, giai cấp công nhân Việt Nam luôn khẳng định được vai trò tiên
phong trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây cũng như trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Hiện nay, trong quá trình đổi mới, mở cửa, dưới tác động của hội nhập quốc tế
giai cấp công nhân nước ta đang có sự biến đổi nhanh trên nhiều phương diện, trong
đó có những biến đổi tích cực, đồng thời cũng có những biến đổi tiêu cực cần được
nhận diện để có giải pháp xây dựng giai cấp công nhân nước ta trong giai đoạn cách
mạng hiện nay.
3.1.1. Những biến đổi tích cực của giai cấp công nhân dưới tác động của
hội nhập quốc tế
3.1.1.1. Giai cấp công nhân nước ta phát triển nhanh về số lượng, đa dạng
về cơ cấu thành phần và ngành nghề
Trước đổi mới, trong điều kiện nền kinh tế khép kín, vận hành theo cơ chế tập
trung quan liêu, bao cấp, giai cấp công nhân nước ta ít về số lượng, tương đối thuần
nhất, chủ yếu là công nhân lao động trong thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế
tập thể. Trong quá trình đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế, với chủ trương phát
triển kinh tế nhiều thành phần đã tạo bước chuyển quan trọng đối với cơ cấu nền kinh
tế. Ngoài sự phát triển của kinh tế tư nhân, thì xuất hiện và phát triển nhanh thành
phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và đang ngày càng trở thành bộ phận quan
71
trọng của nền kinh tế. Cơ cấu ngành chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các ngành
công nghiệp - xây dựng và dịch vụ, ngành nông nghiệp giảm dần trong cơ cấu nền
kinh tế tổng thể. Nếu năm 1990 tỷ trọng của khu vực công nghiệp - xây dựng chỉ là
22,67%, dịch vụ là 38,59%, còn nông nghiệp chiếm 38,74%; thì đến năm 2000 tỷ lệ
đó là: công nghiệp - xây dựng 36,73%, dịch vụ 38,74%, nông nghiệp 24,53%; đến
năm 2010: công nghiệp - xây dựng 38,23%, dịch vụ 42,88%, nông nghiệp 18,89% và
năm 2013: công nghiệp - xây dựng 38,3%, dịch vụ 43,3%, nông nghiệp chỉ còn
18,4%. [55, tr.103]. Từ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế tác động đến sự biến đổi về cơ
cấu lực lượng lao động xã hội phát triển tích cực theo hướng công nghiệp hoá. Chẳng
hạn, giai đoạn 2011 - 2013, tỷ trọng lao động của ngành công nghiệp - xây dựng
trong tổng số lao động xã hội tăng từ 12,1% lên 21,1%; lao động trong các ngành
dịch vụ tăng từ 19,7% lên đến 32%; còn lao động trong các ngành nông nghiệp, lâm
nghiệp và thủy sản giảm từ 68,2% xuống còn 46,9% [55, tr.143].
Từ sự chuyển biến cơ cấu lao động xã hội, đang làm cho lực lượng công nhân
lao động công nghiệp và dịch vụ phát triển nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu:
“công nhân nước ta đang tiếp tục tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu theo
ngành nghề và thành phần kinh tế. Trong đó, số công nhân trong khu vực kinh tế tư
nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh và chiếm tỷ trọng
ngày càng lớn” [29, tr.29]. Theo số liệu thống kê cho thấy, nếu trước 1986 công
nhân nước ta có khoảng 3,38 triệu người, chiếm 16% lực lượng lao động xã hội; thì
đến năm 2000 số lượng công nhân nước ta tăng lên 3.536,7 nghìn người; đến năm
2005 tăng lên 6.077,3 nghìn người; đến năm 2010 tăng lên 9.830,9 nghìn người; và
đến cuối 2014 tăng lên 12.135,0 nghìn người, chiếm 13,4% dân số và 22,6% lực
lượng lao động xã hội. Trong đó, có 1.537,6 nghìn công nhân làm việc trong doanh
nghiệp nhà nước (chiếm 12,7%); 7.148,4 nghìn công nhân làm việc trong các doanh
nghiệp ngoài nhà nước (chiếm 58,9%); và 3.449,0 nghìn công nhân làm việc trong
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (chiếm 28,4%). Số công nhân nữ là
5.473,3 nghìn người, chiếm 45,1% tổng số công nhân lao động trong doanh nghiệp
[124; 125; 127; 134].
72
Bảng 3.1: Dân số và lực lượng lao động trong các doanh nghiệp (2000 - 2014)
Đơn vị: nghìn người
Tiêu chí 2000 2005 2010 2013 2014
Dân số cả nước 77635,4 82392,1 86947,4 89759,5 90728,9
Tổng số lao động xã hội 37609,6 44904,5 50392,9 53245,6 53748,0
Tổng số lao động trong DN 3536,7 6077,3 9830,9 11565,9 12135,0
a) LĐDN nhà nước 2088,5 2037,7 1691,8 1660,2 1537,6
b) LĐDN ngoài nhà nước 1040,9 2819,0 5983,0 6854,8 7148,4
c) LĐDN có vốn ĐTNN 407,6 1220,6 2156,1 3050,9 3449,0
Nguồn: Tổng cục Thống kê, [124, tr.121;125, tr.214;127, tr.270].
Từ số liệu thống kê cho thấy: nếu so với năm 2000, thì đến năm 2014 số lượng
công nhân trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp tăng hơn 3,4 lần. Trong đó,
công nhân trong doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng hơn 6,9 lần; công nhân trong
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 8,5 lần.
Sự xuất hiện và phát triển nhanh của bộ phận công nhân khu vực doanh nghiệp
ngoài nhà nước trong quá trình đổi mới và hội nhập thể hiện rất rõ. Nếu như năm
2000 mới chỉ có 35.004 doanh nghiệp với 1.040,9 nghìn công nhân; thì đến năm
2005 có 98.833 doanh nghiệp với 2.819,0 nghìn công nhân; đến năm 2010 có
268.831 doanh nghiệp với 5.983,0 nghìn công nhân; và đến cuối năm 2014 khu vực
này tăng lên 388.232 doanh nghiệp với 7.148,4 nghìn công nhân. Trong đó, công
nhân trong doanh nghiệp tư nhân là 483,1 nghìn người; công nhân trong công ty
hợp danh 3,8 nghìn người; trong công ty trách nhiệm hữu hạn 3.764,6 nghìn người;
trong công ty cổ phần có vốn nhà nước 405,2 nghìn người; trong công ty cổ phần
không có vốn nhà nước 2.491,7 nghìn người. Số công nhân nữ là 2.687,0 nghìn
người, chiếm 37,6% tổng số công nhân trong doanh nghiệp ngoài nhà nước và
chiếm gần 50% tổng số công nhân nữ của cả nước [124; 125; 127]. Số lượng công
nhân khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước chủ yếu tăng nhanh ở các tỉnh, thành
phố phát triển mạnh về công nghiệp và dịch vụ như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà
Nội, Hải Phòng, Đồng Nai, Bình Dương, Đà Nẵng.
73
Kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành (12 - 1987), thì khu vực kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài xuất hiện. Cùng với đó là xuất hiện và phát triển nhanh
bộ phận công nhân lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nếu
tính từ năm 2000 khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài mới chỉ có 407,6 nghìn
công nhân lao động trong 1.525 doanh nghiệp; thì đến năm 2005 tăng lên 1.220,6
nghìn công nhân lao động trong 3.697 doanh nghiệp; đến năm 2010 tăng lên
2.156,1 nghìn công nhân lao động trong 7.248 doanh nghiệp; và đến cuối năm 2014
tăng lên 3.449,0 nghìn công nhân lao động trong 11.046 doanh nghiệp. Trong đó, số
công nhân làm việc trong doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là 3.164,4
nghìn người; công nhân làm việc trong công ty liên doanh với nước ngoài là 285,6
nghìn người. Số công nhân nữ là 2.337,1 nghìn người, chiếm 67,8% tổng số công
nhân trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và chiếm 42,7% tổng số công
nhân nữ của cả nước [124; 125; 127]. Ngoài ra, còn có hàng trăm nghìn lao động
gián tiếp phục vụ cho khu vực kinh tế này. Nhìn chung, đại đa số bộ phận công
nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở độ tuổi còn trẻ, có sức
khỏe, có trình độ học vấn và chuyên môn khá cao.
Theo Bộ Kế hoạnh và Đầu tư, tính đến cuối năm 2015 cả nước đã hình thành
304 khu công nghiệp, trong đó có 206 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động. Các
khu công nghiệp, khu chế xuất này thu hút hàng triệu công nhân lao động, trong đó
chủ yếu là công nhân trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Với xu hướng
hội nhập hiện nay, trong thời gian tới đội ngũ công nhân trong thành phần kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài sẽ còn có nhiều biến động.
Trong khi số lượng công nhân khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước, khu vực
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh, thì ngược lại, số lượng công
nhân khu vực doanh nghiệp nhà nước lại có xu hướng giảm đi. So với năm 2000, thì
đến năm 2014 số công nhân trong doanh nghiệp nhà nước giảm hơn 1,36 lần. Nếu
năm 2000 có 5.759 doanh nghiệp với 2.088,5 nghìn công nhân; thì đến năm 2005
giảm còn 4.086 doanh nghiệp với 2.037,7 nghìn công nhân; đến năm 2010 còn
3.281 doanh nghiệp với 1.691,8 nghìn công nhân; và đến năm 2014 chỉ còn 3.048
doanh nghiệp với 1.537,6 nghìn công nhân. Trong đó, số công nhân nữ là 449,2
74
nghìn người, chiếm 29,2% tổng số công nhân trong doanh nghiệp nhà nước và
chiếm 8,2% tổng số công nhân nữ của cả nước [124; 125; 127]. Có nhiều nguyên
nhân dẫn đến thực trạng này, song nguyên nhân chủ yếu là trong quá trình chuyển
sang cơ chế thị trường, nhiều xí nghiệp và cơ sở sản xuất quốc doanh trước đây
quen “bám” vào cơ chế bao cấp, sản xuất kinh doanh kiểu cấp phát, từ đó dẫn đến
việc thiếu tính năng động và sáng tạo, kỹ thuật và công nghệ lạc hậu. Vì vậy, khi
chuyển sang cơ chế mới không kịp thời thích ứng, nhiều nhà máy, xí nghiệp làm ăn
thua lỗ, sản xuất đình đốn, công nhân không có việc làm hoặc làm việc cầm chừng.
Trước tình hình đó, một số công nhân có trình độ và tay nghề khá giỏi đã rời bỏ nhà
máy, xí nghiệp sang làm việc ở những cơ sở kinh tế tư nhân, liên doanh, có vốn đầu
tư nước ngoài.
Ngoài ra, trong quá trình hội nhập quốc tế, các xí nghiệp, nhà máy và cơ sở
sản xuất kinh doanh buộc phải tổ chức, sắp xếp lại lao động sản xuất, đầu tư trang
thiết bị và công nghệ tiên tiến hiện đại, hạch toán chi phí sản xuất một cách cụ thể,
lấy năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế làm thước đo cho sự phát triển. Trong
quá trình đó, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một trong những biện pháp để
nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Tính đến hết năm 2014 tổng số
doanh nghiệp đã được cổ phần hoá là 4.065 doanh nghiệp. Chỉ riêng giai đoạn 2011
- 2013, cả nước đã sắp xếp được 180 doanh nghiệp, trong đó đã cổ phần hoá 99
doanh nghiệp và 81 doanh nghiệp được sắp xếp theo các hình thức khác. Trung bình
mỗi năm sẽ có khoảng 216 doanh nghiệp được cổ phần hoá, khiến cho việc đẩy
nhanh tiến độ đang được đặc biệt quan tâm [87]. Điều này cũng đồng thời tác động
đến sự sụt giảm về số lượng công nhân trong thành phần kinh tế nhà nước.
Mặc dù quá trình cổ phần hoá tuy diễn ra còn chậm so với mục tiêu, yêu
cầu đề ra, nhưng những kết quả đạt được bước đầu là đáng khích lệ, và chứng
minh rằng, chủ trương cổ phần hoá là một bước đi đúng hướng, góp phần thúc
đẩy sản xuất, và điều quan trọng là phát huy tinh thần làm chủ của người công
nhân lao động. Cũng từ quá trình này, hiện nay trong giai cấp công nhân Việt
Nam xuất hiện bộ phận công nhân có sở hữu cổ phần, cổ phiếu, có thu nhập là lợi
nhuận từ doanh nghiệp.
75
Công nhân có cổ phần, cổ phiếu không chỉ là kết quả của quá trình cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước, mà còn là kết quả của sự xuất hiện nhiều loại hình
doanh nghiệp, công ty cổ phần ngoài nhà nước với hình thức sở hữu hỗn hợp. Điều
này đang trở thành xu hướng phát triển tất yếu khi thể chế kinh tế thị trường ngày
càng hoàn thiện, nó không chỉ phát huy vai trò làm chủ trực tiếp của giai cấp công
nhân đối với tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất kinh doanh tại các công ty, xí
nghiệp, doanh nghiệp, mà vai trò tiên phong, vai trò lãnh đạo của giai cấp công
nhân cũng được củng cố, giữ vững, chứ không phải giai cấp công nhân sẽ “teo đi”
hay trở thành “ông chủ” như ý kiến đã phân tích ở trên khi bàn về lý luận giai cấp
công nhân Việt Nam hiện nay.
Quan hệ sản xuất trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế đang cho thấy.
Hiện nay khi mà các đơn vị sản xuất kinh doanh không tồn tại một cách độc lập và
khép kín, mà trong hoạt động sản xuất kinh doanh có nhiều loại hỗn hợp, đan kết
với nhau, xu hướng liên kết, liên doanh ngày càng phát triển cả trong nước và ngoài
nước. Trong mỗi nhà máy, xí nghiệp, công ty, có những dây chuyền sản xuất và bộ
phận liên kết với các đơn vị sản xuất thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
Những đơn vị sản xuất ấy vừa có mặt ở thành phần kinh tế này, vừa nằm trong
thành phần kinh tế khác, khó có sự phân biệt một cách rạch ròi giữa các thành phần
kinh tế. Bởi thế, người công nhân trong các đơn vị sản xuất này cũng không thuần
khiết thuộc một thành phần kinh tế nhất định. Mặt khác, khi sản xuất công nghiệp
vẫn đang trong quá trình sắp xếp lại, việc làm và đời sống của công nhân không ổn
định, thì vấn đề nêu trên càng rõ nét. Người công nhân không chỉ có mặt trong một
thành phần kinh tế nhất định, mà họ có thể hiện diện ở hai hoặc nhiều thành phần
kinh tế khác nhau. Họ có thể vừa là công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước, vừa
làm ở khu vực kinh tế tư nhân hoặc cá thể, hộ gia đình.
Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thì sự phân công và hợp tác lao
động cũng được đẩy mạnh. Do đó, trong cơ cấu giai cấp công nhân nước ta còn có
một bộ phận công nhân đang sống và làm việc ở nước ngoài, với khoảng hơn 600
nghìn người [106, tr.1]. Nhìn chung, lao động Việt Nam được thị trường chấp nhận,
đa số nỗ lực, chủ động học tập, sáng tạo và cần cù trong lao động, được chủ sử dụng
76
lao động tin tưởng. Đối với bộ phận công nhân này, được tiếp xúc và làm việc trong
môi trường công nghiệp hiện đại. Vì vậy, trong quá trình lao động tạo thu nhập để
cải thiện và ổn định đời sống gia đình, họ có điều kiện để học tập, rèn luyện chuyên
môn, tay nghề, nâng cao tác phong công nghiệp..., khi về nước, bộ phận công nhân
này có điều kiện làm việc tốt trong các doanh nghiệp đang ngày càng đổi mới theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Sự đa dạng trong cơ cấu giai cấp công nhân nước ta hiện nay, ngoài sự tác
động của chính sách kinh tế nhiều thành phần, còn có sự tác động do chuyển dịch
cơ cấu ngành nghề. Với sự phát triển của khoa học và công nghệ, những ngành nghề
mới đòi hỏi kỹ thuật cao như: công nghiệp dầu khí - hoá dầu, điện tử, tin học, vật
liệu mới,... đang dần được phát triển.
Do sự biến động trong cơ cấu ngành nghề, phần nào đó đã dẫn đến sự đảo lộn
bậc thang giá trị ngành nghề. Nhiều ngành trước đây được coi là “then chốt”, thì
nay do sự chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, chuyển hướng chiến lược công nghiệp
hoá từ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng sang lấy công nghiệp hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu làm trọng tâm, nên những ngành công nghiệp truyền thống không
còn chiếm ưu thế như trước đây. Trong cơ cấu ngành kinh tế của nước ta hiện nay
đang vận động theo xu hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp
và xây dựng, đặc biệt là đẩy mạnh phát triển các ngành dịch vụ. Với cơ cấu kinh tế
như vậy, sẽ xuất hiện ngày càng đông bộ phận công nhân làm việc trong các ngành
nghề mới như: dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn, tin học,
kỹ thuật,… Theo số liệu thống kê, hiện nay cơ cấu giai cấp công nhân nước ta theo
các ngành kinh tế là: công nhân làm việc trong các ngành công nghiệp chiếm
46,1%; ngành xây dựng chiếm 15%; ngành thương mại, dịch vụ chiếm 25,9%;
ngành vận tải chiếm 4,7%; các ngành khác chiếm 8,3% [127, tr.271 - 276].
Vì vậy, bên cạnh đội ngũ công nhân lâu năm, đã xuất hiện đội ngũ công nhân
trong các ngành nghề mới. Số công nhân mới này đa phần là lớp công nhân trẻ, có
sức khỏe, có trình độ học vấn, có khả năng tiếp thu công nghệ hiện đại, kỹ thuật tiên
tiến và áp dụng vào quá trình sản xuất.
77
Nhìn chung, xu hướng biến đổi trên đây của giai cấp công nhân là khách quan,
mang tính quy luật đối với tất cả các nước, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thế
giới hiện nay. Với lộ trình hội nhập quốc tế của nước ta, thời gian tới giai cấp công
nhân nước ta sẽ có sự biến đổi rất nhanh về số lượng và cơ cấu, xuất hiện ngày càng
nhiều lực lượng lao động trong các ngành nghề công nghiệp mới và hiện đại.
3.1.1.2. Giai cấp công nhân nước ta được nâng cao về trình độ học vấn,
chuyên môn nghề nghiệp, đang hình thành tác phong và kỷ luật lao động theo
hướng hiện đại
Xuất phát từ một nền sản xuất nông nghiệp, thủ công là chủ yếu nên trình độ
học vấn, chuyên môn nghề nghiệp, tính kỷ luật và tác phong lao động công nghiệp
của giai cấp công nhân của nước ta còn nhiều hạn chế, chậm thích ứng với quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Quá trình hội nhập quốc tế đã tiếp nhận
những thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào sản xuất đang làm
cho nền kinh tế nước ta đang chuyển biến nhanh theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Trong điều kiện đó, nhà nước, doanh nghiệp và bản thân người công nhân
cũng nhận thức rõ tầm quan trọng của việc nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn
nghề nghiệp để đáp ứng yêu cầu của hội nhập, tạo động lực để giai cấp công nhân
phát triển ngày càng cao về chất lượng.
Về trình độ học vấn của giai cấp công nhân nước ta, nếu trước đổi mới chỉ có
57,5% công nhân có trình độ phổ thông cơ sở, đa số là lao động phổ thông không
qua đào tạo, thì đến năm 2008, theo kết quả điều tra trong các doanh nghiệp có 80%
công nhân có trình độ trung học cơ sở và trung học phổ thông. Đến năm 2013, có
70,2% tổng số công nhân có trình độ trung học phổ thông, 26,8% có trình độ trung
học cơ sở và 3,1% có trình độ tiểu học [121, tr.52, 53, 61].
Do yêu cầu chất lượng lao động của các ngành nghề kinh tế trong hội nhập,
nên công nhân lao động trong các ngành nghề dịch vụ và thương mại có trình độ
học vấn trung học phổ thông cao hơn các lĩnh vực lao động khác, chiếm 84,6%.
Trong khi đó công nhân lao động trong các ngành thuộc nông, lâm, thủy sản tỷ lệ có
trình độ học vấn trung học phổ thông tương đối thấp, chỉ chiếm gần 50%. Nếu xét
trình độ học vấn trung học phổ thông theo loại hình doanh nghiệp, thì công nhân lao
78
động trong các loại hình doanh nghiệp dường như tương đương nhau, lần lượt:
doanh nghiệp ngoài nhà nước là 70,7%; doanh nghiệp nhà nước là 70,2%; doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 69,7% [121, tr.61].
Như vậy, cùng với quá trình hội nhập quốc tế tỷ lệ công nhân có trình độ trung
học cơ sở và trung học phổ thông chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong cơ cấu. Mặc dù
vậy, so với yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế thì trình độ học vấn của giai cấp
công nhân nước ta còn hạn chế, ảnh hưởng đến tiếp nhận khoa học, kỹ thuật và
công nghệ hiện đại.
Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, việc chuyển giao, tiếp nhận
và ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học vào sản xuất đang tác động đến việc nâng
trình độ chuyên môn nghề nghiệp cho công nhân nước ta. Đối với các doanh nghiệp
có dây chuyền sản xuất hiện đại, họ rất chú trọng đến việc tuyển dụng và đào tạo
nhân lực có trình độ chuyên môn cao. Vì vậy, không ít doanh nghiệp, nhất là doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, sau khi tuyển lao động phần lớn các doanh nghiệp
dành một khoảng thời gian nhất định để đào tạo hoặc đào tạo lại lao động theo nhu
cầu sản xuất.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài rất chú trọng đầu tư nghiên cứu
và ứng dụng khoa học vào sản xuất. Tỷ lệ tham gia của doanh nghiệp FDI cao hơn
nhiều so với doanh nghiệp trong nước, chẳng hạn: năm 2000 là 19% so với 5%;
năm 2004: 12,41% so với 3,43% và năm 2010: 10,9% so với 2,5%. Chi phí trung
bình cho một cán bộ nghiên cứu của doanh nghiệp FDI cao hơn mức trung bình của
các doanh nghiệp trong nước: năm 2000 là 135,69 triệu đồng so với 103,36 triệu
đồng; năm 2009: 1.340,34 triệu đồng so với 190,75 triệu đồng [73, tr.17]. Điều này
cũng cho thấy, lực lượng lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có
điều kiện để được tiếp cận nhanh hơn các ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản
xuất, qua đó được đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp.
Cùng với đó công tác đào tạo nhân lực cũng có những bước chuyển mạnh
nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động xã hội và của chính bản thân các
doanh nghiệp. Vì vậy, cùng với hội nhập quốc tế thì số công nhân qua đào tạo
chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong cơ cấu giai cấp công nhân nước ta. Qua kết quả
79
khảo sát của Viện Công nhân và Công đoàn năm 2014 cho thấy, tỷ lệ công nhân
chưa qua đào tạo chỉ chiếm 8,8%; công nhân được đào tạo tại doanh nghiệp chiếm
48,0%; công nhân có trình độ trung cấp chiếm 17,9%; công nhân có trình độ cao
đẳng chiếm 6,6% và có trình độ đại học chiếm 17,4%. Như vậy, tỷ lệ công nhân
được đào tạo trước khi vào làm việc chiếm khoảng 42%. Nếu phân theo ngành
nghề, thì tỷ lệ công nhân được đào tạo chuyên môn trong các ngành nghề dịch vụ và
thương mại chiếm 57,2%; trong các ngành xây dựng, vận tải chiếm 50,7%; trong
các ngành cơ khí, điện tử chiếm 40,95; trong ngành dệt may chiếm 28,9% và thấp
nhất là ngành da giày chỉ chiếm 20,4% [trích theo 121, tr.62]. Mặc dù số công nhân
đã qua đào tạo chuyên môn nghiệp vụ không phải lớn, nó chưa đáp ứng được nhu
cầu thực tế của nền kinh tế, nhưng so với trước đổi mới thì kết quả này đang phản
ánh sự tác động tích cực của hội nhập quốc tế đến quá trình nâng cao chất lượng
giai cấp công nhân nước ta là rất rõ nét.
Hội nhập quốc tế càng sâu rộng các chuyên gia nước ngoài cũng tham gia trực
tiếp vào các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế nước ta. Quá trình phân công và
hợp tác quốc tế về lao động sẽ tạo cơ hội nâng cao chất lượng lao động, đặc biệt là
lao động có trình độ cao. Sự phát triển về công nghệ và trang thiết bị sản xuất, cùng
với các hoạt động trao đổi chuyên gia giữa các nước với Việt Nam, sẽ làm cho trình
độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động khi được đào tạo chuyển giao và trình
độ khoa học công nghệ của đất nước ngày càng cao, là điều kiện để chiếm lĩnh và
làm chủ các công nghệ, thiết bị tiên tiến trên thế giới.
Ngoài ra, để vận hành được các dây chuyền sản xuất công nghệ hiện đại nhập
từ nước ngoài, giai cấp công nhân nước ta cũng từng bước được nâng cao trình độ
tin học và ngoại ngữ. Theo kết quả khảo sát của Viện Công nhân và Công đoàn cho
thấy: có 19,82% số công nhân được hỏi trả lời có trình độ ngoại ngữ A,B,C. Trong
đó, tiếng Anh là 12,62%; tiếng Nga: 4,53%; tiếng Pháp: 0,47%; tiếng Đức: 0,4%;
tiếng Trung Quốc: 0,83% [trích theo 84, tr.135]. Việc học ngoại ngữ và tin học ngày
càng được người công nhân quan tâm, đặc biệt là đối với công nhân có trình độ học
vấn cao thì tỷ lệ tham gia học ngoại ngữ càng nhiều. Theo khảo sát của Viện Công
nhân và Công đoàn, có 28,0% tốt nghiệp trung học phổ thông đi học thêm ngoại
80
ngữ; 5,1% công nhân tốt nghiệp tiểu học học ngoại ngữ; tương tự, có 25,3% công
nhân tốt nghiệp trung học phổ thông đã học thêm tin học; 7,7% công nhân tốt
nghiệp tiểu học theo học tin học [trích theo 48, tr.89].
Điều đáng chú ý trong quá trình hội nhập, khi các ngành nghề mới xuất hiện
đang làm cho tuổi đời bình quân của công nhân nước ta biến đổi theo hướng ngày
càng trẻ hoá. Theo đó, nhóm công nhân từ 18 đến 30 tuổi chiếm 36,4%. Đặc biệt,
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài công nhân dưới 25 tuổi chiếm
43,4%; từ 26 đến đến 35 tuổi chiếm 34,7%; từ 36 đến 45 tuổi chiếm 14%. Chính vì
tuổi đời trẻ, nên tuổi nghề của công nhân cũng thấp và chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu:
tuổi nghề dưới 1 năm chiếm 6,9%; từ 1 đến 5 năm chiếm 30,6%; từ 6 đến 10 năm
chiếm 16,4%; từ 11 đến 15 năm chiếm 10,5%; từ 16 đến 20 năm chiếm 16,8%; từ
21 đến 25 năm chiếm 13,3%; trên 25 năm chiếm 5,5% [100, tr.30]. Với tuổi đời còn
trẻ công nhân sẽ có nhiều thuận lợi để học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghề
nghiệp trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt của nền kinh tế trong hội nhập
quốc tế hiện nay.
Hội nhập quốc tế không chỉ tác động đến nâng cao trình độ học vấn và chuyên
môn nghề nghiệp cho giai cấp công nhân nước ta, mà nó còn rèn luyện cho giai cấp
công nhân tính kỷ luật, tác phong lao động, thích ứng với các thể chế quy định quốc
tế. Giai cấp công nhân nước ta từng bước “cởi bỏ” được thói quen lao động của nền
sản xuất nông nghiệp, thủ công; tính kỷ luật, kỷ cương về giờ giấc, tác phong lao
động ngày càng theo hướng hiện đại. Trong doanh nghiệp người công nhân ngày
càng coi trọng các hợp đồng kinh tế, lấy hiệu quả, năng suất và chất lượng làm
thước đo; tính tự giác, tự chịu trách nhiệm ngày càng được thể hiện rõ.
Giai cấp công nhân có điều kiện để học hỏi phương thức, kỹ năng lao động,
phương thức sống của các nước có nền kinh tế phát triển. Những phương thức sản
xuất tiên tiến và hiện đại của thế giới sẽ mở mang và nâng cao tầm hiểu biết cũng
như phương thức hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, khắc phục tầm tư
duy và tấm lý trông chờ ỷ lại sự bao cấp. Cùng với đó người công nhân có cơ hội
tiếp thu các hệ tư tưởng tiến bộ, cách tư duy năng động, chuẩn mực đạo đức, lối
sống văn minh hiện đại của các quốc gia phát triển, nhờ đó đã góp phần hạn chế,
81
loại bỏ được những yếu tố tiêu cực trong đời sống tinh thần của công nhân, làm cho
tư tưởng, nhận thức của công nhân năng động, nhạy bén, cởi mở, linh hoạt, phù hợp
với yêu cầu thời đại.
Với trình độ của giai cấp công nhân ngày càng được nâng cao, đã từng bước
“hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức” [29, tr.44]. Đây là bộ
phận đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập,
đồng thời sự lãnh đạo của giai cấp công nhân từng bước được trí thức hóa. Theo số
liệu thống kê, công nhân trí thức hiện chiếm khoảng 10,1% tổng số công nhân. Bộ
phận công nhân này chủ yếu lao động ở một số ngành, lĩnh vực sản xuất mới như:
công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ tự động hóa, công nghệ laser,
công nghệ vật liệu mới, công nghệ xây dựng cầu đường, cơ khí điện tử, khai thác
dầu khí, điện lực, hàng không,...[44]. Đây đang là xu hướng tất yếu trong quá trình
phát triển của giai cấp công nhân nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế. Giai cấp
công nhân đang ngày càng chứng tỏ được vai trò lãnh đạo, đi tiên phong trong sự
nghiệp đẩy mạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, sớm đưa nước
ta trở thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy,
để đáp ứng yêu cầu của thời đại, nhất là khi thế giới đang bước vào giai đoạn phát
triển kinh tế tri thức, trong thời gian tới tất yếu giai cấp công nhân nước ta phải
được nâng cao về chất lượng do sự tự thân vận động của giai cấp công nhân, đồng
thời phải có chính sách đào tạo của Đảng và Nhà nước ta.
3.1.1.3. Giai cấp công nhân nước ta có nhiều cơ hội việc làm, đời sống vật
chất và tinh thần ngày càng được cải thiện
Hội nhập quốc tế tạo ra cơ hội đầu tư, tăng trưởng kinh tế từ đó tạo ra việc làm
và nâng cao thu nhập cho công nhân lao động. Trong thời gian qua, nhờ những cải
cách và điều chỉnh cơ chế để hội nhập vào “sân chơi chung” nền kinh tế thế giới và
khu vực, nên khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu có
sự chuyển biến mạnh mẽ, và là những khu vực tạo nhiều việc làm nhất cho người
lao động.
Đặc điểm trong thời kỳ hội nhập vừa qua, các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam chủ yếu là vì có nguồn lao động dồi dào, giá rẻ. Chính vì vậy số lao động Việt
82
Nam trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài liên tục tăng lên hằng năm
theo quá trình phát triển đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam. Nếu như năm 1995
chỉ có gần 210 nghìn lao động, thì đến năm 2000 đã tăng lên gần 410 nghìn lao
động. Bình quân trong thời kỳ 2001 - 2006, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài đã tạo thêm khoảng 110 nghìn việc làm mỗi năm. Đến năm 2010 số lao động
trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên gần 2.200 nghìn người; và
đến đến năm 2014 là gần 3,5 triệu việc làm trực tiếp, chiếm khoảng 28,4 tổng số lao
động trong các doanh nghiệp [124; 125; 127]. Ngoài ra, còn có số lao động gián tiếp
trong khu vực dịch vụ và các ngành phụ trợ. Theo kết quả điều tra và tính toán của
Ngân hàng thế giới (WB), thì cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho từ 2 đến 3
lao động gián tiếp. Nếu tính từ năm 2002 đến năm 2008, trung bình số lao động làm
việc trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tăng khá mạnh, khoảng 33%/năm.
Tỷ lệ tăng này xấp xỉ tỷ lệ tăng lao động tại khu vực doanh nghiệp tư nhân
(34,96%) và cao hơn nhiều so với khu vực doanh nghiệp nhà nước (giảm
5,53%/năm) [45, tr.253]. Như vậy, nhìn nhận một cách khách quan, các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp ngoài nhà nước là nguồn tạo ra
việc làm quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế nước ta thời kỳ hội nhập.
Với lộ trình hội nhập hiện nay, trong thời gian tới việc làm cho công nhân sẽ
tiếp tục tăng nhanh, nhất là ở những ngành nghề đòi hỏi trình độ cao, lao động kỹ
thuật. Chẳng hạn, theo Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường
lao động Thành phố Hồ Chí Minh, từ năm 2015 đến 2025 mỗi năm Thành phố cần
khoảng 270 nghìn lao động. Trong đó, nhu cầu lao động trình độ cao, lao động kỹ
thuật là 229,5 nghìn người (chiếm 85%), còn lao động chưa qua đào tạo chỉ 40,5
nghìn người (chiếm 15%) [130].
Không chỉ tạo việc làm, hội nhập còn hình thành thị trường lao động theo cơ
chế thị trường, cho phép người lao động được chủ động trong việc lựa chọn nghề
nghiệp, môi trường làm việc phù hợp với từng điều kiện của người lao động. Trong
hội nhập sự cạnh tranh về việc làm và thu nhập cũng hết sức gay gắt, cho nên để giữ
chân người lao động ở lại, các doanh nghiệp trong nước cũng phải từng bước điều
chỉnh mức lương cho phù hợp với mặt bằng chung của thị trường hàng hoá sức lao
83
động. Vì vậy, hội nhập càng sâu rộng tạo ra cơ hội việc làm càng nhiều, thu nhập và
đời sống của công nhân lao động không ngừng được cải thiện.
Với những lợi thế của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài về khoa học -
công nghệ, khả năng quản lý hiện đại, đang làm cho khu vực kinh tế này có năng
suất lao động cao, chất lượng sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của thị trường trong
và ngoài nước. Vì vậy, thu nhập những người công nhân lao động trong khu vực
kinh tế này cũng từng bước được cải thiện và nâng cao. Qua thống kê cho thấy, nếu
như năm 2005 thu nhập bình quân của công nhân trong doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài chỉ là 1.810 nghìn đồng/tháng, thì đến năm 2010 tăng lên 4.252 nghìn
đồng/tháng, và đến năm 2014 là 6.955 nghìn đồng/tháng. Thu nhập cao hơn mức
thu nhập bình quân chung của các doanh nghiệp cả nước (6.289 nghìn đồng/tháng).
Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài thu nhập của công nhân còn cao hơn, với
thu nhập bình quân là 10.332 nghìn đồng/tháng [125; 127].
Bảng 3.2: Thu nhập bình quân của công nhân trong các doanh nghiệp (2005 - 2014)
Đơn vị: nghìn đồng
Tiêu chí 2005 2010 2012 2013 2014
DN nhà nước 2146 6233 8033 8432 9245
DN ngoài nhà nước 1238 3420 4398 4733 5327
DN có vốn ĐTNN 1810 4252 5996 6768 6955
Nguồn: Tổng cục Thống kê, [125, tr.311;127, tr.367].
Hội nhập quốc tế không chỉ tạo ra nhiều và sự đa dạng việc làm cho lao động
trong nước, mà nó còn tạo cơ hội việc làm cho người lao động đi làm việc ở ngoài
nước. Khi các rào cản pháp lý về di chuyển pháp nhân, thể nhân được nới lỏng, các
quan hệ kinh tế, đối ngoại, lao động được thiết lập sẽ tạo điều kiện cho lao động
Việt Nam ra nước ngoài làm việc. Thời gian qua hệ thống pháp luật về việc đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài không ngừng được bổ sung hoàn thiện để
phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt
giữa các nước, chúng ta vẫn hình thành được hệ thống thị trường xuất khẩu lao
động phong phú và đa dạng, số lao động ra nước ngoài làm việc ngày càng nhiều.
Giai đoạn từ năm 2001 - 2005, bình quân mỗi năm Việt Nam đã đưa được khoảng
84
60 nghìn người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Giai đoạn 2006 - 2010 bình quân
mỗi năm chúng ta đưa được khoảng 80 nghìn người đi lao động nước ngoài. Riêng
năm 2014 đưa được hơn 91 nghìn người đi nước ngoài lao động, chiếm hơn 5%
tổng số lao động được giải quyết việc làm mỗi năm [50, tr.84 - 85]. Theo số liệu của
Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội, thì hiện có khoảng hơn 600 nghìn lao động
Việt Nam đang làm việc tại trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm
ngành nghề các loại (đây là số lao động chính thức - có giấy phép).
Hiện nay, có bốn hình thức để người lao động đi làm việc ở nước ngoài: qua
doanh nghiệp dịch vụ hoặc tổ chức sự nghiệp được phép đưa người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài; qua doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu, đầu tư ra
nước ngoài; qua doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc dưới hình thức thực
tập sinh nâng cao tay nghề; và đi làm việc theo hợp đồng cá nhân. Người lao động
chủ yếu làm việc ở thị trường các nước: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc (Đài
Loan), Malayxia, Bắc Phi - Trung Đông. Ngoài ra, bước đầu thử nghiệm ở một số thị
trường khác thuộc châu Âu như: Síp, Cộng hòa Séc, Phần Lan, Anh, Pháp, Italia, Bồ
Đào Nha, Ban Lan, Rumani, Manta và Xlôvakia. Trong đó, lao động tập trung đông
nhất thuộc các quốc gia như Trung Quốc (Đài Loan): 90 nghìn người, Malayxia là 88
nghìn người, Hàn Quốc 63 nghìn người, Nhật Bản: 18 nghìn người [5, tr.18].
Trong quá trình lao động được tiếp xúc với công nghệ hiện đại của các nước
tiên tiến, là cơ hội để người lao động được đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn,
khả năng sử dụng ngoại ngữ, học được tác phong làm việc trong môi trường công
nghiệp, ý thức chấp hành pháp luật, kỷ luật lao động được nâng cao. Cùng với đó,
người lao động đi làm việc nước ngoài có thu nhập ổn định và cao hơn lao động
cùng ngành nghề trong nước. Trung bình thu nhập khoảng 6,5 - 7,5 triệu đồng/tháng
ở thị trường Li-bi, UAE, A-rập Xê-út, Ma Cao; khoảng 15 - 22 triệu đồng/tháng ở
thị trường Hàn Quốc, Nhật Bản và các nước Tây Âu. Tính bình quân mỗi năm,
người lao động Việt Nam ở nước ngoài gửi về nước từ 1,6 tỷ đến 2 tỷ USD. Đây là
một con số khá ấn tượng khi nhìn vào bức tranh chung nền kinh tế nước nhà. Vì
vậy, khi đi xuất khẩu lao động, người lao động có điều kiện để nâng cao thu nhập,
cuộc sống ngày càng ổn định hơn. Một khảo sát gần đây đối với người lao động đi
85
làm việc ở nước ngoài trở về nước cho thấy: trong số 1.450 người lao động được
phỏng vấn, có 86,48% cho biết mức sống hộ gia đình của họ được cải thiện tốt hơn.
Đặc biệt, gần 100% số lao động trở về từ Nhật Bản và Hàn quốc và gần 90% số lao
động trở về từ Đài Loan đã khẳng định điều đó [50, tr.85].
Như vậy, quá trình hội nhập quốc tế đã tạo ra thị trường lao động phong phú,
đa dạng cả trong và ngoài nước, góp phần quan trọng vào giải quyết việc làm, tăng
thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người công nhân lao động. Nhưng
đồng thời hội nhập cũng đang đặt ra không ít thách thức cho lao động Việt Nam
trong quá trình gia nhập vào thị trường lao động ngày càng mang tính toàn cầu, mà
ở đó có sự cạnh tranh gay gắt về trình độ và năng suất lao động.
3.1.2. Những biến đổi tiêu cực của giai cấp công nhân dưới tác động của
hội nhập quốc tế
3.1.2.1. Lợi ích và vai trò của một bộ phận công nhân chưa được phát huy
đầy đủ
C.Mác từng cho rằng, xét đến cùng mọi hoạt động của con người là theo đuổi
lợi ích. Trong các lợi ích, thì lợi ích vật chất đóng vai trò quyết định, nó thỏa mãn
những nhu cầu vật chất trước khi thỏa mãn các nhu cầu khác. Có nghĩa là, trước hết
“người ta phải sống đã rồi mới làm ra lịch sử”. Vì vậy, trong quá trình đổi mới và
hội nhập quốc tế hiện nay, việc chăm lo đời sống, bảo vệ lợi ích chính đáng của giai
cấp công nhân, của người lao động là mục tiêu cụ thể của quá trình xây dựng xã hội
vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đóng góp của giai cấp công nhân cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội là rất
lớn. Mặc dù chỉ chiếm 13,4% dân số và 22,6% lực lượng lao động xã hội, nhưng
đóng góp hàng năm của công nhân cho đất nước chiếm hơn 60% tổng sản phẩm xã
hội và hơn 70% ngân sách nhà nước. Hiện nay, trong quá trình hội nhập quốc tế,
cùng với tăng trưởng kinh tế và phát triển thị trường lao động, số lao động có việc
làm ổn định ngày càng tăng. Đặc biệt, sau khi nhà nước ta đã có những bổ sung, sửa
đổi Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư mới, các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc
loại hình doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
tăng nhanh góp phần giải quyết việc làm cho hàng trăm ngàn lao động mỗi năm.
Mặc dù vậy, vẫn còn có những hạn chế, bất cập trong việc phân phối, giải quyết
86
chính sách xã hội cho người công nhân, vai trò làm chủ của một bộ phận công nhân
chưa được phát huy, dẫn đến:
Lợi ích của một bộ phận công nhân được hưởng chưa tương xứng với
những thành tựu của công cuộc đổi mới và những đóng góp của chính
mình; việc làm, đời sống vật chất và tinh thần của công nhân đang có
nhiều khó khăn, bức xúc, đặc biệt là ở bộ phận công nhân lao động giản
đơn tại các doanh nghiệp của tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài [29, tr.46].
Giai cấp công nhân về bản chất là người làm chủ đất nước, thông qua Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xã hội. Do đó, trên bình diện phổ quát, với tư cách là
giai cấp chủ thể của một chế độ xã hội, thì giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp
làm chủ, lãnh đạo, đã và đang khẳng định được sứ mệnh, vai trò tiên phong trong quá
trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nhưng trong quan hệ kinh tế, nếu xét trong
từng điều kiện và mối quan hệ cụ thể thì một bộ phận công nhân nước ta hiện nay
đang làm thuê với những mức độ khác nhau, đặc biệt là đội ngũ công nhân trong
thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Mặt trái của quá trình hội nhập quốc tế
đang làm cho “địa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa thể hiện đầy đủ” [29,
tr.45]. Do đặc thù sở hữu trong nền kinh tế thị trường, nên phần lớn công nhân trong
các doanh nghiệp ngoài nhà nước, đặc biệt là trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài không có tư liệu sản xuất, sở hữu tư liệu sản xuất thuộc về giới chủ. Do
đó, vai trò làm chủ sản xuất của bộ phận công nhân trong các loại hình doanh nghiệp
này chưa được phát huy. Phần lớn công nhân nước ta hiện nay vẫn là lao động làm
công ăn lương. Công nhân trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là những
lao động làm thuê cho giới chủ nước ngoài. Vì vậy, lợi ích của bộ phận công nhân
trong những khu vực kinh tế này chưa được thụ hưởng tương xứng với thành quả lao
động, người công nhân luôn bị động, tồn tại tâm lý làm thuê ở không ít người, nhiều
vấn đề bức xúc đang nảy sinh trong cuộc sống và trong quan hệ lao động.
Theo khảo sát của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về những vấn đề công
nhân quan tâm, bức xúc cho thấy: có 46,9% công nhân bức xúc về tiền lương, thu
nhập; 6,9% bức xúc về việc làm không ổn định; 17,6% bức xúc về nhà ở; 11,1%
bức xúc về nhà giữ trẻ; 11,8% bức xúc về trường học cho con; 10,4% bức xúc vì
87
không có thời gian nghỉ ngơi; 3,9% bức xúc về điều kiện lao động không an toàn
lao động; 12,2% bức xúc môi trường làm việc ô nhiễm; 6,6% bức xúc trang bị bảo
hộ lao động thiếu; 15,2% bức xúc không có khu vui chơi giải trí; 1,6% bức xúc
không được tham gia bảo hiểm xã hội; 3,2% bức xúc không được đào tạo, bồi
dưỡng [trích theo 116, tr.37].
Như đã đề cập ở trên, hội nhập quốc tế đã góp phần nâng cao thu nhập và ổn
định cuộc sống cho giai cấp công nhân nói chung. Nhưng đối với từng công nhân
hay bộ phận công nhân thì chưa hẳn như vậy. Có một bộ phận công nhân, nhất là
công nhân lao động giản đơn trong các khu công nghiệp, khu chế xuất thu nhập
chưa tương xứng với kết quả lao động. Tiền lương của một bộ phận công nhân nhận
được chưa đáp ứng được nhu cầu sống tối thiểu. Theo Điều 91 của Bộ luật Lao
động quy định: “Mức lương tối thiểu là mức lương thấp nhất trả cho người lao động
làm công việc giản đơn nhất, trong điều kiện lao động bình thường và phải bảo đảm
nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ...” [102, tr.65]. Nhưng
thực tế với mức lương như hiện nay thì chưa thể đáp ứng được yêu cầu như Bộ luật
Lao động đề ra, tiền lương của người lao động còn thấp, “lương tối thiểu chưa đảm
bảo đủ mức sống tối thiểu” [27, tr.256].
Theo kết quả khảo sát tại các khu công nghiệp ở Hà Nội, Hải Dương, Đà
Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương cho thấy: không kể tăng ca, thì thu
nhập của người công nhân phần lớn chỉ từ 3 đến 4 triệu đồng (Hà Nội: 3,496 triệu
đồng; Hải Dương: 3,589 triệu đồng; Đà Nẵng 3,5 triệu đồng; Thành phố Hồ Chí
Minh: 3,5 triệu đồng; Bình Dương: 3,9 triệu đồng) [1; 47; 120; 136]. Trong khi đó,
theo khảo sát của Viện Công nhân và Công đoàn mức chi tiêu trung bình cho nhu
cầu sinh hoạt tháng của công nhân là 4,1 triệu đồng/tháng. Với mức chi tiêu trung
bình hiện nay, nếu tính mọi chi phí sinh hoạt, tiền thuê nhà, điện, nước thì tiền
lương mới chỉ tạm đủ nuôi sống bản thân ở mức tối thiểu nhất, không có chi phí để
tái sản xuất sức lao động mở rộng và tích lũy về lâu dài. Vì vậy, kết quả khảo sát về
so sánh giữa thu nhập và chi tiêu cho thấy: có 19,9% số người lao động được hỏi
cho rằng thu nhập không đủ sống; 31,3% phải chi tiêu tằn tiện và rất tiết kiệm;
40,7% vừa đủ trang trải cho cuộc sống; chỉ có 8% cho biết có tích luỹ [114].
88
Để đảm bảo lợi ích của người công nhân, hàng năm nhà nước đã cho thực hiện
lộ trình tăng lương tối thiểu, quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao
động làm việc ở các loại hình doanh nghiệp. Trong hơn 9 năm gần đây (2008 -
2017), sau 10 lần điều chỉnh tiền lương tối thiểu, thì doanh nghiệp trong nước tăng
bình quân trên dưới 26,16%/năm, còn doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng
bình quân chỉ khoảng 16,87%/năm. Với mức tăng lương đó chưa theo kịp với mức
tăng giá tư liệu sinh hoạt, nên tăng lương không theo kịp để bù tăng giá. Chẳng hạn,
năm 2010, tiền lương của người lao động trong các loại hình doanh nghiệp là 3,2
triệu đồng/người/tháng, tăng 0,3 lần so với năm 2009. Trong đó doanh nghiệp nhà
nước có mức lương bình quân là 3,8 triệu đồng, tăng 8,6%; doanh nghiệp cổ phần
có vốn đầu tư trong nước là 3,3 triệu đồng, tăng 10%; doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài là 3 triệu đồng, tăng 11,1%; dân doanh là 2,7 triệu đồng, tăng 12,5%.
Song, chỉ số giá sinh hoạt tăng ở mức 11,75%, nên tiền lương danh nghĩa chỉ bảo
đảm được một phần tiền lương thực tế của người lao động [43].
Phần lớn công nhân nước ta hiện nay là lao động trong các khu công nghiệp,
khu chế xuất, nên thu nhập chủ yếu là tiền lương. Việc quy định mức lương tối
thiểu, một mặt buộc doanh nghiệp phải áp dụng để đảm bảo lợi ích của công nhân,
mặt khác đây là cơ sở tham khảo để các doanh nghiệp thực hiện phân phối cho phù
hợp với điều kiện sống chung và dựa trên hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên,
để tăng lương tối thiểu đáp ứng điều kiện sống thực tế của người công nhân đang là
vấn đề được đặt ra, đã được bàn đến rất nhiều, nhưng dường như giữa các cơ quan
chức năng đại diện cho các bên liên quan chưa có được tiếng nói chung.
Bảng 3.3: Lộ trình tăng lương tối thiểu vùng (2013 - 2017)
Đơn vị: nghìn đồng
Tiêu chí 2013 2014 2015 2016 2017
Vùng I 2.350.000 2.700.000 3.100.000 3.500.000 3.750.000
Vùng II 2.100.000 2.400.000 2.750.000 3.100.000 3.320.000
Vùng III 1.800.000 2.100.000 2.400.000 2.700.000 2.900.000
Vùng IV 1.650.000 1.900.000 2.150.000 2.400.000 2.580.000
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ nguồn Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
89
Đối với công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người
lao động bị “o ép” đủ thứ, thời gian và cường độ lao động cao hơn nhiều so với mức
quy định. Mỗi năm công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
phải làm thêm từ 500 đến 600 giờ, trong khi Bộ Luật Lao động quy định rõ người
lao động không được phép làm thêm quá 200 giới/năm, trường hợp đặc biệt cũng
không quá 300 giờ/năm. Việc công nhân phải làm thêm giờ một phần là do yêu cầu
của doanh nghiệp khi có các đơn hàng mới buộc phải tăng ca để đáp ứng nguồn
hàng. Quan trọng hơn, để đảm bảo thu nhập trang trải cho cuộc sống buộc người
công nhân không còn cách nào khác là phải tăng ca, làm thêm giờ. Vì vậy, người
lao động dường như không có thời gian để nghỉ ngơi và tham gia các hoạt động thể
thao, văn hóa tinh thần. Hiện tượng “vắt cạn sức lao động” của giới chủ cũng đang
cho thấy hệ quả không nhỏ, đó là “tuổi thọ lao động” của một bộ phận công nhân
nước ta đang bị suy giảm. Nhiều công nhân ở độ tuổi 40 không còn đủ thể lực và trí
lực để làm việc trong dây chuyền sản xuất công nghiệp. Nếu tình trạng này vẫn tiếp
diễn, dự báo trong khoảng một đến hai thập niên nữa, chúng ta sẽ phải đối diện với
một vấn đề xã hội lớn. Sẽ xuất hiện một lực lượng lớn công nhân ở độ tuổi lao
động, nhưng không còn sức lao động, gánh nặng về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất
nghiệp, chính sách an sinh và công bằng xã hội sẽ gia tăng và gay gắt hơn nhiều.
Trong quan hệ lao động đang còn nhiều vấn đề bức xúc, nhất là trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Việc các doanh nghiệp vi phạm các cam
kết trong hợp đồng lao động vẫn còn xảy ra thường xuyên, ảnh hưởng rất lớn đến
đời sống hiện tại và tương lai của người công nhân. Theo một kết quả điều tra dư
luận xã hội gần đây cho thấy: có 41% công nhân bị nợ lương hoặc chậm trả lương;
36,3% bị cắt giảm lương, thưởng; 30,3 doanh nghiệp không có việc làm hoặc việc
làm không ổn định; 29,3% có nguy cơ thiếu hoặc mất việc làm [116, tr.36].
Ngoài ra, trong quản lý có nhiều quy định quá khắt khe đối với người lao
động, quan hệ giữa người sử dụng lao động với người lao động còn mang tính mệnh
lệnh chủ - thợ, thậm chí trong nhiều doanh nghiệp có những quy định về giờ giấc vi
phạm đến những quyền riêng tư thiết yếu của con người. Để phản đối những quyết
định bất lợi của giới chủ, thời gian gần đây các cuộc bãi công, ngừng việc tập thể
90
của công nhân diễn ra trên phạm vi rộng và có nhiều diễn biến phức tạp, ảnh hưởng
đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống của chính người
công nhân lao động.
Bảng 3.4: Tình hình đình công, ngừng việc tập thể (2008 - 2015)
Doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp ngoài nhà nước
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Năm
Số vụ đình công Số vụ % Số vụ % Số vụ %
2008 762 0 0,00 170 22,31 592 77,69
2009 342 4 1,17 75 21,93 263 76,90
2010 507 3 0,59 81 15,98 423 83,43
2011 993 7 0,70 256 25,78 730 73,51
2012 601 4 0,67 145 24,13 452 75,20
2013 384 2 0,52 122 31,77 260 67,70
2014 303 1 0,33 96 31,68 206 67,99
6 th 2015 205 1 0,49 83 40,49 121 59,02
Tổng số 4097 22 0,54 1028 25,09 3047 74,37
Nguồn: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam [121, tr.76]
Hiện nay, có đến hơn 70% công nhân trong các khu công nghiệp, khu chế xuất
là lao động ngoại tỉnh, làm việc chủ yếu trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài hoặc liên doanh với nước ngoài đang chịu sức ép về nhà ở. Phần lớn công
nhân trong các khu công nghiệp không có nhà ở, phải đi thuê trọ bên ngoài, với
những chỗ ở sinh hoạt hết sức chật hẹp, cũ và xuống cấp. Chẳng hạn, ở Hà Nội, Hải
Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai mới chỉ giải quyết được
khoảng 10% số công nhân có nhu cầu về nhà [1]. Từ đó nảy sinh vấn đề: một là,
công nhân phải chi một khoản không nhỏ so với thu nhập để trang trải cho thuê nhà
(khoảng 20%); hai là, chỗ ở chung chật chội, không đảm bảo vệ sinh và an ninh,
trung bình mỗi phòng trọ chỉ từ 2 đến 3 m²/người.
Trong các khu công nghiệp còn thiếu các công trình phúc lợi xã hội phục vụ
cho nhu cầu đời sống hàng ngày của công nhân như: nhà trẻ, trường học, nhà sinh
hoạt cộng đồng, khu vui chơi giải trí. Hầu hết các khu công nghiệp chưa xây dựng
91
thiết chế văn hóa - xã hội phục vụ công nhân lao động, các công trình văn hoá, thể
thao, vui chơi giải trí còn thiếu, chủ yếu dành cho đối tượng có thu nhập cao, lao
động gián tiếp. Đại bộ phận công nhân ở các nhà trọ không có phương tiện nghe
nhìn, sách báo và các điều kiện để hưởng thụ văn hoá tinh thần. Theo kết quả khảo
sát, điều tra của tác giả Vũ Quang Thọ về đời sống văn hoá công nhân trong doanh
nghiệp tại 13 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cho thấy: 60% công nhân không
xem ti vi, nghe đài; 85% không đọc sách báo; 80% không tập thể dục, thể thao; 80%
không tham gia sinh hoạt đoàn thể; 65% không tham gia các hoạt động văn nghệ
quần chúng [121, tr.93].
Một vấn đề nữa đang đặt ra đối với công nhân trong các khu công nghiệp, đó
là công nhân có tuổi đời rất trẻ (chủ yếu là dưới 30 tuổi), chưa lập gia đình, đa phần
là nữ công nhân. Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra, vấn đề tình yêu, hôn nhân gia
đình, sinh đẻ và chăm sóc nuôi dạy con cái,... đều đang là những vấn đề thực sự
đáng lo ngại. Công nhân nữ dường như không có điều kiện để lập gia đình, từ đây
đã để lại nhiều hệ quả xấu trong quan hệ tình yêu và hôn nhân, kéo theo đời sống
công nhân ngày càng khó khăn và không có tương lai. Vì vậy, công nhân trong các
khu công nghiệp hiện nay còn được miêu tả với cuộc sống bốn không: không tích
lũy, không nhà ở, không hạnh phúc riêng và không sức khỏe.
3.1.2.2. Sự phân tầng xã hội, phân hoá giàu nghèo trong nội bộ ngày càng
sâu sắc, ảnh hưởng đến tính thống nhất, đoàn kết của giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân Việt Nam được tổ chức bởi đội tiền phong là Đảng Cộng
sản Việt Nam, với hệ tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây
là giai cấp có tính thống nhất, đoàn kết cao. Nhưng trong điều kiện hội nhập quốc
tế, dưới tác động của kinh tế thị trường thì đối với từng người công nhân, thậm chí
từng nhóm công nhân thì chưa hẳn là như vậy, mà đang “có sự chênh lệch cao và
phân hoá về thu nhập giữa các bộ phận công nhân; số công nhân lao động tay chân
đơn giản có vị thế yếu trên thị trường lao động, có thu nhập thấp và nhiều khó khăn
trong đời sống, cần được quan tâm nhiều hơn” [29, tr.30].
Do sự tác động của nền kinh tế nhiều thành phần đã làm xuất hiện sự phân
tầng, phân hoá giàu nghèo trong nội bộ giai cấp công nhân. Hiện nay, những công
92
nhân làm việc trong các thành phần kinh tế khác nhau, lợi ích mang lại cho họ cũng
khác nhau. Sự khác biệt đầu tiên dễ nhận thấy nhất của công nhân trong các thành
phần kinh tế là thu nhập. Theo kết quả thống kê về tiền lương bình quân trên cả
nước năm 2014 cho thấy: doanh nghiệp nhà nước là 9.245 nghìn đồng/tháng; doanh
nghiệp ngoài nhà nước 5.327 nghìn đồng/tháng; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài 6.955 nghìn đồng/tháng [127, tr.367].
Nhìn tổng thể, sự khác nhau về thu nhập và các quyền lợi khác của giai cấp
công nhân nước ta hiện nay có thể phân ra làm ba nhóm. Nhóm thứ nhất, là những
người lao động thuộc khu vực nhà nước, do nhà nước quản lý thì chủ yếu được
hưởng lương ngân sách. Nhóm thứ hai, là những người lao động ở khu vực ngoài
nhà nước, được hưởng lương trên cơ sở hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Nhóm thứ
ba, là lao động ở các công ty, xí nghiệp liên doanh với nước ngoài, hoặc khu vực
100% vốn đầu tư nước ngoài.
Mặc dù vậy, ở ba khu vực kinh tế này lợi ích của người lao động là khác nhau.
Ở khu vực kinh tế nhà nước, do đặc thù sở hữu, dường như được ưu đãi hơn, thu
nhập ổn định, người công nhân được đảm bảo về các chế độ chính sách, được quan
tâm giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm lao động, hợp đồng lao động, trợ
cấp lao động, khen thưởng, thi đua,... quan hệ lao động về cơ bản là tốt. Ở khu vực
kinh tế ngoài nhà nước, nhìn chung người công nhân vẫn phải chịu lương thấp,
trong khi các chế độ, chính sách không được bảo đảm, điều kiện lao động không tốt,
người sử dụng lao động còn vi phạm pháp luật trên một số lĩnh vực đối với người
lao động, sẵn sàng chấm dứt hợp đồng lao động khi không có nhu cầu sử dụng,
trong lao động họ chịu sự giám sát chặt chẽ của ban quản lý. Do vậy, thời gian lao
động rất khắt khe, làm ảnh hưởng đến khả năng lao động và đời sống của người
công nhân. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, do sự tác động của cơ chế thị
trường, để thu hút nguồn lao động có chất lượng cao, đặc biệt là ở những ngành
nghề mới, ngành nghề đòi hỏi lao động có trình độ chuyên môn cao, nên khu vực
kinh tế này đã có những chính sách đãi ngộ nhằm thu hút lao động nhưng vẫn còn
rất hạn chế. Đối với khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thì có nhiều biểu hiện
xấu hơn. Tình trạng vi phạm quyền lợi của người công nhân nhiều hơn, khối lượng
công việc và tính chất lao động nhiều và vất vả hơn, quan hệ giữa người lao động
93
với người sử dụng lao động theo mệnh lệnh và chấp hành, tính chất bóc lột sức lao
động và sự vi phạm đối với lợi ích của người lao động được thể hiện rõ.
Hiện nay, trong hội nhập xu thế xã hội hoá là hướng tất yếu của quan hệ sản
xuất hiện đại. Song để có nó, trước tiên phải thừa nhận và tạo ra những điều kiện
phù hợp cho nhiều hình thức sở hữu, cái mà hiện nay ở nhiều nơi đang tạo đà cho
sản xuất. Trong những hình thức sở hữu ấy, không phải lúc nào lợi ích của người
lao động, của tập thể lao động và của xã hội cũng đồng nhất. Do đó, hiện nay ở
nước ta đang có sự khác biệt về thu nhập giữa những công nhân có cổ phần ở các
công ty, nhà máy, xí nghiệp có thu nhập cao với công nhân không có cổ phần, thu
nhập thấp, dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo trong nội bộ người lao động.
Người công nhân có cổ phần nhiều sẽ có cổ tức lớn, dẫn đến điều kiện sinh
hoạt tốt hơn những người không có cổ phần hoặc có ít cổ phần. Nếu công nhân có
cổ phần nhiều có quyền được tham gia quản lý công ty thông qua việc tham gia họp
đại hội cổ đông, được biểu quyết để quyết định những vấn đề quan trọng của công
ty, doanh nghiệp. Ngược lại, người công nhân không có cổ phần thì không có những
quyền lợi đó. Trong những năm gần đây, quá trình cổ phần hoá đang diễn ra mạnh
mẽ, tỷ lệ công nhân có cổ phần trong các công ty, nhà máy, xí nghiệp ngày càng
nhiều. Do đó, lúc đầu chỉ là sự khác nhau về thu nhập, về sau nó sẽ dẫn đến những
mâu thuẫn lợi ích, ảnh hưởng đến tính thống nhất trong nội bộ giai cấp công nhân.
Do tác động của kinh tế thị trường trong quá trình hội nhập, cho nên đang tạo
ra sự phân hoá sức lao động trong giai cấp công nhân nước ta. Hiện nay, ở nước ta
cung về sức lao động lành nghề đang nhỏ hơn cầu rất nhiều. Ngược lại, cung về lao
động giản đơn lại vượt xa cầu, đang tạo nên sự cạnh tranh trên thị trường sức lao
động. Vì vậy, sẽ có người bán được hàng hoá sức lao động “được giá”, có người
chấp nhận bán, song “bị ép giá” và có người không được thị trường chấp nhận. Do
đó, sẽ có sự khác biệt rất lớn về thu nhập giữa công nhân có trình độ chuyên môn,
tay nghề cao (công nhân trí thức) với công nhân có trình độ chuyên môn, tay nghề
thấp (công nhân truyền thống). Trong khi bộ phận công nhân có trình độ chuyên
môn, tay nghề cao được làm việc trong những môi trường tốt, thu nhập cao, ổn
định, các phúc lợi xã hội được đảm bảo đầy đủ, thì công nhân truyền thống gắn trực
94
tiếp với quá trình sản xuất, làm việc ở những môi trường độc hại, thu nhập thấp,
phúc lợi xã hội không được bảo đảm đầy đủ.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, thì việc ứng dụng
khoa học vào sản xuất ngày càng được đẩy mạnh. Máy móc hiện đại càng được ứng
dụng thì bộ phận công nhân có trình độ càng được trọng dụng, đặc biệt là ở một số
ngành nghề mới đòi hòi nhiều về trình độ chuyên môn tay nghề. Cho nên, sẽ có sự
chênh lệch về thu nhập, dẫn đến sự phân tầng giữa công nhân có thu nhập cao ở các
ngành độc quyền, những ngành nghề mới (dầu khí, điện lực, viễn thông, tin học,
công nghệ thông tin, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm,...) với công nhân có thu nhập
thấp ở những ngành nghề truyền thống, lao động nặng nhọc. Theo thống kê cho
thấy, công nhân lao động trong ngành khai khoáng có thu nhập trung bình
9.040.000 đồng/tháng. Đặc biệt, công nhân trong lĩnh vực khai thác dầu thô và khi
đốt tự nhiên thu nhập 37.485.000 đồng/tháng. Công nhân lao động trong dịch vụ tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm thu nhập bình quân 15.173.000 đồng/tháng. Trong khi
đó, công nhân lao động trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo thu nhập bình
quân 5.266.000 đồng/tháng. Công nhân lao động trong ngành xây dựng thu nhập
bình quân 4.807.000 đồng/tháng. Trong một số lĩnh vực sản xuất có mức thu nhập
rất thấp như: chế biến và sản xuất các sản phẩm từ gỗ thu nhập chỉ có 3.926.000
đồng/tháng; xây dựng nhà các loại thu nhập 4.656.000 đồng/tháng [126, tr.330 -
335]. Theo một kết quả nghiên cứu gần đây, tác giả Nguyễn An Ninh cũng đưa ra
nhận định: “hiện đã có sự phân hoá về thu nhập giữa công nhân lành nghề bậc cao
với công nhân bậc thấp lao động giản đơn, giữa công nhân làm việc trong các ngành
nghề mũi nhọn, chủ lực với các ngành bình thường, giữa công nhân làm việc trong
các doanh nghiệp đang trên đà phát triển vững mạnh và các doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ” [92, tr.71]. Với xu hướng của sự đòi hỏi trí thức hoá công nhân thì sự khác
biệt này sẽ còn dẫn đến sự phân tầng, phân hoá trong nội bộ giai cấp công nhân
nước ta sâu sắc hơn trong thời gian tới.
Hiện nay, trong giai cấp công nhân nước ta còn có một bộ phận không có việc
làm hoặc mất việc làm (vì tinh giản biên chế, nhất là ở khu vực kinh tế nhà nước do
quá trình cải cách, sắp xếp, cổ phần hoá..., trong khi chưa bố trí được việc làm cho
95
họ) dẫn đến mất thu nhập, đời sống bị đảo lộn. Khi tình trạng mất việc làm xảy ra
thì đời sống của công nhân và gia đình gặp nhiều khó khăn. Trong quá trình đó,
nhiều công nhân bị mất quan điểm, lập trường, lao vào làm ăn phi pháp, vi phạm
pháp luật. Tình trạng tranh giành việc làm, tranh giành lợi ích diễn ra phổ biến đã
làm cho nội bộ giai cấp công nhân có sự phân hoá rõ nét.
Ngoài ra, hiện tượng phân tầng thu nhập của giai cấp công nhân nước ta còn
được thể hiện trong mối tương quan giữa những người làm công tác quản lý và kỹ
thuật viên so với thu nhập của những người lao động khác, nhất là trong doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường có độ chênh lệch từ 7 đến 8 lần, thậm chí
có những doanh nghiệp chênh lệch từ 14 đến 15 lần. Điều này đã dẫn đến sự phân
hoá giàu nghèo ngày càng doãng ra trong nội bộ giai cấp công nhân. Trong thời
gian tới, khi thị trường lao động giữa các nước trong khu vực được thiết lập, thì sự
dịch chuyển lao động giữa các nước sẽ dẫn đến phân hoá mạnh mẽ giữa lao động
chất lượng cao với lao động phổ thông. Khi tính cạnh tranh của thị trường lao động
được mở rộng thì sự phân hoá thu nhập càng biểu hiện rõ nét.
Bảng 3.5: Thu nhập giữa lao động quản lý, kỹ thuật viên so với công nhân sản xuất
Đơn vị: lần
Tiêu chí 2006 2007 2008 2009 2010
Lao động quản lý 4,58 5,11 5,26 6,73 7,91
Kỹ thuật viên 2,41 2,54 1,46 2,84 2,76
Nguồn: Eric D. Ramstetter, 2013 [67, tr.39]
Vậy sự phân tầng, phân hoá trong giai cấp công nhân nước ta hiện nay đang
phản ánh điều gì?. Thứ nhất, không phải tất cả mọi sự phân tầng, phân hoá trong
giai cấp công nhân đều đáng lo ngại. Có một số mặt, lĩnh vực sự phân tầng này là sự
kích thích cho quá trình phát triển của giai cấp công nhân, làm cho bản thân mỗi
người công nhân phải nỗ lực phấn đấu đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng.
Hiện nay, chúng ta đang hướng đến thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động,
không thể vì sự “thống nhất” của giai cấp công nhân mà trở lại việc phân phối bình
quân, cào bằng như trước đây, nó sẽ làm “thui chột” một động lực chính đáng của
người lao động.
96
Hơn nữa, hiện nay với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
hội nhập quốc tế cũng cần có những nhóm lao động vượt trội về trình độ và năng
lực lao động để có thể ứng dụng những thành tựu khoa học vào sản xuất. Đây là
nhóm lao động sẽ đi đầu trong một số lĩnh vực công nghệ cao, nhằm giải quyết
những vấn đề nảy sinh trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì
vậy, sự phân tầng ở mặt tích cực của nó còn là dấu hiệu phát triển về chiều sâu của
công nhân nước ta trên tất cả mọi lĩnh vực công nghệ, trình độ học vấn, tay nghề và
giác ngộ giai cấp.
Thứ hai, mặc dù sự phân tầng, phân hoá giàu nghèo trong nội bộ giai cấp công
nhân nước ta là khách quan, phản ánh quy luật của nền kinh tế thị trường trong điều
kiện hội nhập. Nhưng nếu sự phân tầng, phân hoá giàu nghèo không có sự kiểm soát
và điều chỉnh thì lại là hết sức lo ngại. Bởi vì, mặt trái của nền kinh tế thị trường
trong điều kiện hội nhập sẽ đẩy nhanh quá trình phân hoá giàu nghèo, phân tầng xã
hội, tạo ra “hố sâu ngăn cách”, bất bình đẳng về thu nhập và hưởng thụ các giá trị
phúc lợi, dẫn đến xung đột lợi ích, gây bất ổn xã hội. Trong đó, với giai cấp công
nhân sự phân tầng, phân hóa sẽ ảnh hưởng đến tính thống nhất, đoàn kết, trong khi
giai cấp công nhân đang đấu tranh cho sự tiến bộ và công bằng xã hội. Đây là mặt
tiêu cực cần phải được nhận diện và quan tâm đúng mức để có giải pháp điều chỉnh
sự biến đổi của giai cấp công nhân nước ta trong quá trình hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng.
3.1.2.3. Trong hội nhập quốc tế, lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị, lý
tưởng cách mạng của một bộ phận công nhân bị phai nhạt, ảnh hưởng đến vai
trò tiên phong của giai cấp công nhân nước ta
Thực tiễn đã và đang diễn ra trên đất nước ta chứng minh rằng, sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân Việt Nam là một yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách
mạng, là nhân tố hàng đầu có ý nghĩa quyết định bảo đảm cho công cuộc đổi mới
phát triển đúng hướng. Thực tế ấy còn được khẳng định, trong điều kiện của nước ta
chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam - đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của dân tộc, tập hợp trong hàng ngũ của mình hàng
triệu những người con ưu tú của dân tộc, là lực lượng duy nhất có khả năng tổ chức,
lãnh đạo nhân dân ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; mà mục tiêu trước mắt
97
là hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để sớm đưa nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Tuy nhiên, do ra đời và phát triển trong một nước nông nghiệp lạc hậu, tâm lý,
thói quen và tác phong lao động gắn liền với nền sản xuất nhỏ còn in đậm trong một
bộ phận giai cấp công nhân nước ta. Hơn nữa, trong quá trình phát triển, giai cấp
công nhân thường xuyên tiếp nhận vào đội ngũ của mình những thành phần mới.
Những người lao động mới gia nhập giai cấp công nhân phần lớn là từ nông dân, họ
còn trẻ tuổi đời, ít tuổi nghề nên ý thức lập trường giai cấp còn nhiều hạn chế. Vì
vậy, “công nhân nước ta không đồng đều về nhận thức xã hội, giác ngộ giai cấp,
bản lĩnh chính trị, ý thức tổ chức và kỷ luật lao động” [29, tr.30].
Hiện nay, dưới tác động của hội nhập quốc tế, giai cấp công nhân nước ta
đang có nhiều biến đổi, năng động, chủ động hơn, cố gắng nâng cao năng lực,
hướng tới hiệu quả công việc ngày càng cao hơn. Nhưng mặt trái của hội nhập quốc
tế đang làm cho chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cục bộ, bản vị địa phương, thực dụng,
cơ hội cũng có điều kiện phát triển nhanh chóng. Những đặc điểm nổi trội của nó là:
chỉ quan tâm đến lợi ích vật chất, hưởng lạc, coi nhẹ giá trị truyền thống, lối sống
đạo đức, giá trị tinh thần nói chung; chỉ lo vun vén cá nhân, gia đình, họ tộc, địa
phương, đơn vị hơn là chăm lo cho lợi ích chung của giai cấp, thậm chí làm hại lợi
ích cộng đồng; chỉ chăm lo đến lợi ích trước mắt, coi nhẹ, thậm chí làm hại đến lợi
ích cơ bản, lâu dài. Tình hình đó đang diễn ra trong một bộ phận xã hội cũng như
trong một bộ phận giai cấp công nhân. Không ít công nhân còn chưa nhận thức đầy
đủ để thể hiện bản chất và vị trí của mình; ý chí phấn đấu, ý thức tổ chức kỷ luật,
tính tiên phong gương mẫu của một bộ phận công nhân giảm sút. Một số công nhân
trẻ còn bị ảnh hưởng bởi các tệ nạn xã hội, buông lỏng rèn luyện, sống buông thả,
phai nhạt lý tưởng, suy thoái về đạo đức, lối sống xa rời bản chất tốt đẹp của giai
cấp công nhân.
Qua kết quả khảo sát của Viện Công nhân và Công đoàn về lối sống của giai
cấp công nhân nước ta hiện nay cho thấy: công nhân có lối sống buông thả, thực
dụng (27,9%); ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân (22%); phai nhạt lý tưởng, giá trị sống
(13,6%); có biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống (18,7%); có thái độ bi quan, chán
đời (12,9%); vô cảm trước bất công thường ngày xảy ra (20,3%); ứng xử, giao tiếp
98
kém (25,5%); lối sống gấp, trụy lạc (8,1%); đua đòi lãng phí (29,4%). Từ những kết
quả khảo sát cũng chỉ ra, nhiều công nhân vi phạm kỷ luật lao động như: không sử
dụng thiết bị bảo hộ lao động (45,2%); đi muộn, về sớm (24,8%); lấy đồ của công
ty (11,8%); nghỉ làm tự do không xin phép (25,6%); không hoàn thành định mức
công việc (25,6%); không chấp hành kỷ luật lao động (19,3%) [dẫn theo 117, tr.58].
Như vậy, một bộ phận công nhân hiện nay đang bị lệch chuẩn về lối sống so với
những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và của hệ giá trị giai cấp công nhân,
gây ảnh hưởng đến doanh nghiệp và hình ảnh người công nhân Việt Nam trong quá
trình hội nhập quốc tế.
Trong thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài với kỷ luật lao động ít
nhiều có biểu hiện cưỡng bức. Các nhà quản lý nước ngoài đã mang theo cách điều
hành công việc của những nước lấy quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa làm
chủ đạo, lợi ích của giới chủ luôn đặt lên hàng đầu. Ngoài ra, còn có sự du nhập một
số thói quen không phù hợp với tâm lý và phong tục của người Việt Nam trong điều
hành sản xuất, do đó đã dẫn đến những “va chạm” với công nhân. Chính điều này
làm cho người công nhân bước đầu chỉ chú trọng đến công việc, mang tính đối phó
vì lợi ích, nhưng về lâu dài làm cho công nhân phai nhạt chính trị, từng bước xa dần
nhu cầu chính trị.
Những nghiên cứu trong thời gian gần đây đối với công nhân trong các doanh
nghiệp đã phản ánh một thực tế: một bộ phận công nhân nhận thức chính trị chưa
ngang tầm với sứ mệnh lịch sử giao phó, nhiều người coi công việc tại nhà máy, xí
nghiệp như là một cách mưu sinh, chứ chưa phải là một nghề nghiệp, và quan trọng
hơn là họ chưa coi đó là một sự nghiệp. Vì vậy, cùng với những hạn chế trong tác
phong lao động công nghiệp, do xuất thân từ nông nghiệp và chưa qua đào tạo, thì ý
thức tổ chức, kỷ luật lao động của bộ phận công nhân này cũng rất hạn chế. Chẳng
hạn, họ tham gia đình công một cách tự phát, không đúng quy trình pháp luật trong
những trường hợp tranh chấp lao động, họ tham gia vào công nghiệp bằng những
hợp đồng ngắn hạn, mang tính thời vụ và dễ dàng phá bỏ hợp đồng theo ý muốn,...
Theo thống kê của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh
năm 2015 cho thấy: trong 5 năm gần đây nhất, bình quân mỗi năm Thành phố giải
quyết được khoảng 200 nghìn việc làm, nhưng mỗi năm cũng phải đối diện với vấn
99
đề là hơn 50 nghìn lao động nghỉ việc, luân chuyển nghề hoặc ra khỏi dây chuyền
sản xuất. Điều này đã và đang làm cho giai cấp công nhân luôn có sự dao động về
số lượng.
Thêm vào đó, hiện nay một bộ phận không nhỏ công nhân không ý thức được
địa vị và vai trò của mình. Qua điều tra của tác giả Cao Văn Biền cho thấy, chỉ có
23,5% tự hào làm công nhân; 58,4% bằng lòng với vị trí hiện tại; 4,5% cảm thấy
thân phận làm thuê bị coi rẻ; 9,0% chẳng thích thú gì với thân phận của mình [dẫn
theo 16, tr.317]. Cũng từ một cuộc khảo sát gần đây của tác giả Mạch Quang Thắng
đối với công nhân ba miền (Bắc, Trung, Nam) cho thấy, hầu hết công nhân không
nhận mình thuộc giai cấp lãnh đạo xã hội, họ chỉ nhận mình là những người làm
công ăn lương, cố gắng làm tốt công việc để tăng thêm thu nhập nhằm cải thiện
cuộc sống [115, tr.32]. Công nhân làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài đã xuất hiện tâm lý làm thuê ở không ít người. Tâm lý này được thể
hiện rõ ở phong cách làm việc, chỉ chú trọng đến “công việc”, làm trọn phận sự, thụ
động và ít chú trọng đến các lĩnh vực chính trị - xã hội, coi những hoạt động đó là
của ban chuyên trách. Nhận thức như vậy, cho nên có “một bộ phận công nhân chưa
thiết tha phấn đấu vào Đảng và tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã
hội” [29, tr.46]. Lý do vì sao công nhân không muốn vào Đảng, thì kết quả khảo sát
của tác giả Vũ Quang Thọ cho biết: 34,6% công nhân cho biết vì kỷ luật nghiêm
của Đảng; 38,1% vì phải đóng đảng phí; 18,7% sợ bị phân biệt đối xử; 17,9% vì
không có lợi ích cá nhân; 16,6% vì ngại phấn đấu rèn luyện; 15,1 vì ngại học lý
luận, nghị quyết của Đảng; 12,1% vì mất nhiều thời gian hội họp [121, tr.121]. Đây
là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho tỷ lệ đảng viên và cán bộ lãnh
đạo xuất thân từ công nhân còn thấp.
Ngoài ra, còn có một bộ phận công nhân hoài nghi, không tin tưởng vào
đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, mơ hồ về
lập trường giai cấp, nhìn thấy một vài biểu hiện về mức sống của một số nhà tư bản
đã vội ca ngợi, không tin tưởng vào chủ nghĩa xã hội. Một bộ phận công nhân
không quan tâm đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh, đã làm dối, làm ẩu; không coi
trọng quy trình kỹ thuật, quy tắc an toàn lao động; chủ nghĩa thực dụng và coi
100
thường kỷ cương, phép nước, bất chấp nhân phẩm, đạo đức, làm đủ mọi việc, miễn
là có lợi cho bản thân.
Hội nhập quốc tế không chỉ tác động tiêu cực đến ý thức chính trị của công
nhân lao động trực tiếp trong các công ty, nhà máy, xí nghiệp mà còn tác động đến
những công nhân làm công tác lãnh đạo, quản lý. Trong đó, có một bộ phận không
nhỏ bị suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác
nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội thực dụng,
chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng. Đây là điều đáng lo
ngại, bởi đây là thành phần ưu tú, hạt nhân, đi đầu trong tổ chức và lãnh đạo giai
cấp công nhân. Ngoài ra, còn xuất hiện hành vi móc nối giữa một số cán bộ lãnh
đạo, quản lý với các tập đoàn kinh tế, tập đoàn thương mại có tính chất quốc tế. Do
đó, đã có sự thỏa hiệp vô nguyên tắc, thậm chí mất định hướng chính trị, có hại cho
đất nước. Đây là một trong những nguy cơ lớn nhất, trực tiếp quyết định đến sự
thành công hay thất bại của công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa và
có thể làm cho các nguy cơ khác ở nước ta ngày càng diễn biến phức tạp hơn. Vấn
đề này cần phải có biện pháp giải quyết, ngăn chặn kịp thời nếu không nó sẽ ảnh
hưởng nghiêm trọng đến vai trò tiên phong của giai cấp công nhân nước ta trong
điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.
3.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TỪ SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIAI CẤP CÔNG
NHÂN VIỆT NAM DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
3.2.1. Sự sụt giảm số lượng công nhân trong thành phần kinh tế nhà nước
và vai trò nòng cốt của đội ngũ công nhân này trong quá trình phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế đã và đang tác
động đến sự biến đổi của giai cấp công nhân nước ta theo những chiều hướng khác
nhau. Từ một giai cấp thuần nhất đã phát triển ngày càng đa dạng thành phần,
ngành nghề. Cùng với quá trình phát triển nhanh của thành phần kinh tế tư nhân và
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thì đội ngũ công nhân trong các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế này cũng tăng lên nhanh chóng. Ngược lại, số lượng
công nhân trong thành phần kinh tế nhà nước sụt giảm nhanh, từ đó đang đặt ra vấn
đề là liệu đội ngũ công nhân trong thành phần kinh tế nhà nước có còn giữ vai trò
101
nòng cốt, đi đầu trong nền kinh tế nhiều thành phần, khi chúng ta xác định “kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước định
hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần
kinh tế cùng phát triển” [25, tr.83].
Mặc dù về nguyên lý vẫn chỉ ra rằng, không phải cứ giai cấp công nhân nhiều
về số lượng thì kinh tế nhà nước giữ được vai trò chủ đạo, hay ngược lại ít về số
lượng thì kinh tế nhà nước không thể hiện và phát huy được vai trò. Lịch sử phát
triển của cách mạng và của giai cấp công nhân nước ta đã chỉ rõ điều đó. Mặt khác
cũng cần thấy rằng, doanh nghiệp nhà nước chỉ là một phần cấu thành kinh tế nhà
nước, trong đó bộ phận công nhân trong doanh nghiệp nhà nước cũng chỉ là bộ phận
cấu thành giai cấp công nhân Việt Nam với tư cách là giai cấp chỉnh thể.
Tuy nhiên, trên phương diện tác động tương quan trong điều kiện hiện nay,
doanh nghiệp nhà nước là bộ phận quan trọng, cốt yếu nhất của thành phần kinh tế
nhà nước, nhưng “doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, chưa thể hiện
được vai trò là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước” [27, tr.99]. Do đó, nếu vai
trò của doanh nghiệp nhà nước và đội ngũ công nhân trong các doanh nghiệp này
không thể hiện được vai trò tiên phong, dẫn dắt các thành phần kinh tế và đội ngũ
công nhân trong các thành phần kinh tế khác thì nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến vai
trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước, và đây lại là điều cần phải được quan
tâm đúng mức.
Thực tiễn trong thời gian qua cho thấy, thành phần kinh tế nhà nước đã có
những đóng góp rất quan trọng cho quá trình phát triển chung của đất nước, đã thể
hiện được vai trò điều tiết nền kinh tế. Nhưng so với mục tiêu và yêu cầu thì chưa
đạt được như kỳ vọng, nhất là trong vấn đề quản lý, hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Dù nắm những ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh then chốt của nền kinh tế, với
nhiều ưu thế hơn so với các thành phần kinh tế khác, nhưng kinh tế nhà nước đang
cho thấy hiệu quả chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của mình, đang đặt ra
nhiều vấn đề đối với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong điều kiện hiện nay.
Trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, sự dịch chuyển lao động
theo quy luật cung - cầu đã và đang tác động đến nguồn nhân lực trong các doanh
nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước. Đã có một bộ phận không nhỏ công
102
nhân lao động đã rời bỏ doanh nghiệp nhà nước để chuyển sang làm việc cho các
doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, mà ở đó
có sự năng động, hiệu quả trong sản xuất kinh doanh và được đãi ngộ tốt hơn.
Chẳng hạn, theo số liệu của Tổng cục thống kê trong 5 năm từ 2005 đến 2012 đã có
28.514 người chuyển từ khu vực kinh tế nhà nước sang các khu vực kinh tế ngoài
nhà nước [13, tr.86]. Điều đáng nói ở đây là hiện tượng “chảy máu tài năng”, khi
phần lớn những lao động rời bỏ doanh nghiệp nhà nước là những người có trình độ
chuyên môn cao, có nhiều kinh nghiệm. Điều này nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quá
trình phát triển của kinh tế nhà nước.
Quá trình tổ chức, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước được thực hiện trong
thời gian qua bên cạnh những kết quả đạt được, thì đang cho thấy nhiều vấn đề đặt
ra. Một số doanh nghiệp không có khả năng phát triển sẽ bị sát nhập hoặc giải thể.
Một số doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa không phát huy được vai trò tự chủ trong
điều kiện không có sự bao cấp của nhà nước, nên làm ăn thua lỗ. Hệ quả phải phá
sản hoặc tồn tại theo dạng cầm chừng không có lối thoát. Tất cả điều đó ảnh hưởng
đến việc làm và thu nhập của công nhân lao động. Cũng có không ít doanh nghiệp
nhà nước sau khi cổ phần hoá đang xuất hiện xu hướng bị “tư nhân hoá”, khi các
nhà đầu tư lớn nắm hầu hết mọi quyền hành từ quản lý sản xuất đến phân phối kết
quả lao động. Nhiều doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá quá trình sản xuất mang lại
lợi nhuận cao, đáng lẽ thu nhập của người lao động cũng phải được hưởng tương
ứng. Nhưng trên thực tế có một số doanh nghiệp đang đi ngược lại với mục tiêu và
nhiệm vụ, khi thu nhập của người lao động bị cắt giảm, thấp hơn nhiều so với trước
khi được cổ phần hóa. Quan hệ lao động có phần phức tạp hơn, các quyền lợi khác
của người lao động bị vi phạm nhưng không có cơ chế để bảo vệ, cho nên đã xuất
hiện không ít sự phản ứng của công nhân bằng việc đình công, lãn công để phản đối
ban quản lý các doanh nghiệp. Thời gian tới khi hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng, tất yếu phải thực hiện đầy đủ các nguyên tắc của nền kinh tế thị trường khi
tham gia vào “sân chơi” khu vực và quốc tế. Trong quá trình đó việc tổ chức, sắp
xếp lại doanh nghiệp nhà nước sẽ được thực hiện một cách “quyết liệt” hơn nhằm
tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng, công khai, minh bạch và hiệu quả trong quá trình hội
nhập. Điều này cũng dự báo sắp tới bên cạnh sự sụt giảm nhanh về số lượng công
103
nhân trong thành phần kinh tế nhà nước, thì đời sống và địa vị của công nhân trong
các doanh nghiệp sau cổ phần hoá đang đứng trước nhiều khó khăn và thách thức.
Hơn nữa, hiện nay tùy theo điều kiện môi trường xã hội, lĩnh vực nghề nghiệp
mà trình độ phát triển của giai cấp công nhân nước ta cũng không giống nhau, có bộ
phận tiên tiến giác ngộ hơn, có bộ phận chậm tiến, lạc hậu hơn. Sự khác nhau giữa
các bộ phận công nhân ở các mặt cũng đồng thời là sự khác nhau về vai trò và ảnh
hưởng của các bộ phận đó trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong đó, công
nhân lao động trong khu vực kinh tế nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng, là đội
ngũ nòng cốt của giai cấp công nhân nước ta. Bộ phận công nhân này được tổ chức
chặt chẽ, giáo dục rèn luyện và trưởng thành trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, nên nó có ý thức chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần dân tộc, ý thức tổ chức kỷ
luật cao hơn so với các bộ phận công nhân còn lại. Vì vậy, mặc dù xu hướng gia tăng
số lượng công nhân khu vực kinh tế ngoài nhà nước, khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài và sự giảm đi về số lượng công nhân khu vực kinh tế nhà nước thời gian
qua là sự phản ánh khách quan quy luật kinh tế thị trường trong giai đoạn đầu của
thời kỳ quá độ. Đây là sự biến đổi hợp quy luật, song nếu cứ để xu hướng đó tiếp tục
kéo dài một cách tự phát thì đến một lúc nào đó đội ngũ công nhân khu vực kinh tế
nhà nước sẽ chỉ là một bộ phận không đáng kể trong giai cấp công nhân nước ta. Điều
đó tất yếu sẽ ảnh hưởng đến vai trò nòng cốt của bộ phận công nhân khu vực kinh tế
nhà nước và tính chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến
lúc đó, sự chủ đạo của kinh tế nhà nước, cũng như vai trò then chốt của bộ phận công
nhân khu vực kinh tế nhà nước sẽ khó có thể giữ được.
Nhìn chung, xu hướng sụt giảm đội ngũ công nhân thành phần kinh tế nhà
nước trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế là tất yếu. Sự
sụt giảm này cho thấy xu thế phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần và ít nhiều
nó tác động đến vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Bước đầu nó sẽ tác động đến
vai trò kinh tế của nhà nước, nhưng nếu không được kiểm soát sẽ tác động đến yếu
tố chính trị, tác động đến tâm trạng chung của xã hội, của bản thân người công nhân
lao động và ảnh hưởng đến vai trò tiên phong của đội ngũ công nhân trong thành
phần kinh tế nhà nước trong điều kiện hội nhập hiện nay.
104
3.2.2. Nguy cơ thất nghiệp của một bộ phận công nhân gia tăng khi hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng
Hội nhập quốc tế đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người công nhân lao
động, nhưng cũng có một thực tế ngược lại, đó là tình trạng dư thừa lao động đang
xảy ra ở một số ngành nghề. Do “sức ép” lao động di cư từ nông thôn ra thành thị
tìm việc làm trong các khu công nghiệp tăng mạnh, dẫn đến cạnh tranh việc làm
trong nội bộ người lao động. Quá trình hội nhập nhiều doanh nghiệp nhà nước buộc
phải đổi mới, sắp xếp lại, tinh giản biên chế. Nhiều doanh nghiệp khi không còn sự
bảo hộ của nhà nước đã và đang đứng trước nguy cơ phá sản tạo ra tình trạng mất
việc làm hoặc việc làm không ổn định. Xu hướng sử dụng máy móc và công nghệ
hiện đại trong sản xuất với trình độ tự động hóa cao dẫn đến dư thừa lao động. Cùng
với đó việc di chuyển lao động trong nội bộ các công ty đa quốc gia theo cam kết di
chuyển lao động, nên một số ngành nghề đòi hỏi lao động trình độ cao sẽ sử dụng
chuyên gia nước ngoài và công nhân nước ta đứng trước nguy cơ bị mất việc làm do
trình độ tay nghề thấp.
Hội nhập quốc tế tất yếu một nền sản xuất công nghiệp hiện đại phải được
hình thành, do quá trình chuyển giao, nhập khẩu các máy móc thiết bị hiện đại.
Trong quá trình đó vai trò chủ thể của giai cấp công nhân phải được phát huy, đi
đầu trong mọi tiến trình sản xuất. Để làm được điều đó giai cấp công nhân phải có
trình độ học vấn và chuyên môn nghề nghiệp cao nhằm đáp ứng những yêu cầu mới
của thời đại.
Nếu nhìn vào những nước có nền công nghiệp phát triển chúng ta thấy, hầu hết
công nhân ở đó có trình độ học vấn, chuyên môn rất cao. Chẳng hạn, Nhật Bản 90%
công nhân có trình độ đại học hoặc tương đương, ở Anh, Pháp là trên 80%. Trong khi
đó ở nước ta trình độ và cơ cấu chất lượng giai cấp công nhân còn nhiều hạn chế:
Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng,
cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm
trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác
phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; đa phần công
nhân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống [29, tr.45].
105
Trình độ văn hoá và tay nghề của công nhân thấp đã ảnh hưởng không tốt đến
việc tiếp thu khoa học - kỹ thuật, đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm. Khả
năng cạnh tranh của lao động trong thị trường lao động quốc tế bị hạn chế. Theo
đánh giá của Ngân hàng thế giới (WB) năm 2014 về chất lượng lao động được tính
theo thang điểm 10, thì chất lượng lao động Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm, xếp thứ
11/12 nước châu Á tham gia xếp hạng của WB. Trong khi Hàn Quốc đạt 6,91 điểm,
Ấn Độ là 5,76 điểm, Malaysia là 5,59 điểm, Thái Lan 4,94 điểm... Còn theo kết quả
khảo sát của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) vào tháng 9 - 2014 cho thấy, năng
suất lao động của công nhân Việt Nam thuộc vào nhóm thấp nhất của khu vực, chỉ
bằng 1/5 lao động của công nhân Malayxia, 2/5 Thái Lan, 1/15 Xinggapo, 1/11
Nhật Bản, 1/10 Hàn Quốc [53, tr.2]. Trong số các nước thuộc ASEAN, năng suất
lao động của công nhân Việt Nam chỉ cao hơn lao động Campuchia và Lào.
Theo tính toán của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với tốc độ tăng năng suất lao động
như hiện nay, thì phải đến năm 2038 năng suất lao động của Việt Nam mới bắt kịp
Philippines, năm 2069 chúng ta mới bắt kịp được Thái Lan. Nhưng cần lưu ý các
nước không dừng lại để chờ Việt Nam, do đó chúng ta cần có đối sách để nâng cao
chất lượng nhân lực, góp phần nâng cao năng suất lao động trong quá trình cạnh
tranh thời hội nhập.
Đến nay chúng ta chưa có được một đội ngũ thợ lành nghề ở các ngành công
nghiệp chủ chốt, tình trạng thiếu công nhân lành nghề, thiếu những người có khả
năng thao tác tổng hợp và sáng tạo trong các cơ quan doanh nghiệp là phản ánh kết
quả của một nền công nghiệp chậm phát triển. Trong khi đó có nhiều ngành nghề mới
đang đòi hỏi trình độ học vấn và chuyên môn cao của công nhân nhưng chưa thể đáp
ứng. Chẳng hạn, một công trình quốc gia cần đến 100 thợ hàn bậc 7, có đến hơn 200
công nhân dự tuyển, nhưng đối tác chỉ chấp nhận được có 5 người [92,tr.101].
Bên cạnh đó, công nhân nước ta hiện nay còn rất hạn chế về trình độ ngoại
ngữ, kỹ năng sống và làm việc trong điều kiện đa văn hoá, nên rất khó khăn trong
tiếp nhận khoa học - công nghệ để hoà nhập vào môi trường làm việc hiện đại. Thực
tiễn trong những năm qua đã ghi nhận rằng, nhiều thiết bị hiện đại nhập từ nước
ngoài về nhưng do không làm chủ được bí quyết công nghệ và do công nhân không
đủ trình độ vận hành thiết bị nên buộc phải thuê lao động nước ngoài. Điều này
106
không chỉ gây ra rất nhiều tốn kém về tiền của, mà còn ảnh hưởng rất lớn đến việc
làm của công nhân lao động.
Đã có rất nhiều lao động nước ngoài đến Việt Nam làm việc, cạnh tranh trực
tiếp với công nhân Việt Nam. Trong điều kiện đó, đã có không ít công nhân trình độ
thấp bị mất việc làm hoặc phải tìm công việc khác. Nếu tính từ năm 1996 đến năm
2009, thì số lao động nước ngoài vào làm việc ở nước ta tăng gần 20 lần, từ 2.799
người lên 55.428 người, trong đó chủ yếu là lao động quản lý và chuyên gia kỹ
thuật [38, tr.69 - 70]. Còn theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,
tính đến tháng 5 - 2016 lao động nước ngoài đang làm việc tại Việt Nam là 82.585
người. Ngoài ra chưa kể hàng chục ngàn lao động không phép vào nước ta làm việc
đang có xu hướng diễn ra ngày càng phức tạp.
Thời gian tới khi các dự án lớn đầu tư vào nước ta, nếu không có kế hoạch đón
nhận và đào tạo đón đầu, thì sẽ tạo ra sự thiếu hụt nghiêm trọng về lao động khi các
dự án đi vào sản xuất. Người lao động sẽ mất cơ hội làm việc tại các doanh nghiệp
có vốn đầu tư ngước ngoài, khi không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng đặt ra.
Trong khi đó, hiện nay công tác đào tạo nhân lực phục vụ cho quá trình công nghiệp
hoá và hội nhập quốc tế đang còn rất nhiều hạn chế, bất cập. Trong khi chất lượng
đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động, thì sự phân bố chỉ tiêu
đào tạo không theo nhu cầu thực tế của xã hội, các cơ sở đào tạo đang bị “thương
mại hoá”, vì lợi nhuận hơn là thực hiện chức năng xã hội.
Chất lượng giáo dục đào, đào tạo, nhất là giáo dục đại học và đào tạo nghề
cải thiện còn chậm; thiếu lao động chất lượng cao. Hệ thống giáo dục còn
thiếu tính liên thông, chưa thật hợp lý và thiếu đồng bộ. Công tác phân
luồng và hướng nghiệp còn hạn chế. Đổi mới giáo dục, đào tạo có mặt còn
lúng túng. Tình trạng mất cân đối trong cơ cấu ngành nghề và trình độ đào
tạo khắc phục còn chậm, công tác đào tạo chưa gắn chặt chẽ với nhu cầu
xã hội [27, tr.248 - 249].
Thành thử nguồn lực lao động qua đào tạo của nước ta vừa thiếu lại vừa thừa,
hệ quả tỷ lệ thất nghiệp của những người đã qua đào tạo ngày càng cao. Trong số
10,77 triệu người lao động đã qua đào tạo có chứng chỉ, văn bằng hiện nay, thì trình
107
độ đại học trở lên có 4,47 triệu người (chiếm 41,51%), trình độ cao đẳng có 1,61
triệu người (chiếm 14,99%), trình độ trung cấp 2,92 triệu người (chiếm 27,11%),
trình độ sơ cấp có 1,77 triệu người (chiếm 16,39%). Theo đó trình độ đại học/cao
đẳng/trung cấp/sơ cấp tương ứng theo tỷ lệ: 1/0,35/0,65/0,4 [138]. Trong khi đó,
theo kinh nghiệm của các nước có nền công nghiệp phát triển, những người lao
động trực tiếp (trình độ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng) phải nhiều hơn rất nhiều lần so
với lao động gián tiếp (đại học). Điều này đang cảnh báo sự mất cân đối về cơ cấu
lao động qua đào tạo giữa các bậc đào tạo ở nước ta. Đây là một trong những
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng thất nghiệp của lao động đã qua đào tạo ở
nước ta trong thời gian qua. Theo số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
(tháng 12 - 2015), cả có 225.500 người có trình độ từ đại học trở lên đang thất
nghiệp, chiếm 20% số lao động thất nghiệp và trở thành nhóm có tỷ lệ thất nghiệp
cao nhất trong các bậc trình độ chuyên môn [14, tr.57]. Ngoài ra, theo Bản tin cập
nhật thị trường lao động quý I năm 2016 cho biết, còn có 114.000 người có trình độ
đại học trở lên lao động giản đơn ở những lĩnh vực sản xuất không cần trình độ.
Nếu không có biện pháp điều chỉnh kịp thời nguy cơ này được dự báo là sẽ còn gia
tăng khi Việt Nam hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC).
Trong điều kiện thế giới đã bước vào thời kỳ phát triển kinh tế tri thức, sản
phẩm lao động được tạo ra với hàm lượng chất xám ngày càng cao, sự cạnh tranh
“nhân lực chất lượng cao giữa các nước ngày càng gay gắt” [27, tr.72 - 73], thì vai
trò của nguồn nhân lực, mà trực tiếp là người công nhân lao động sẽ đóng vai trò
quyết định. Trong thời gian tới, quá trình quốc tế hoá sản xuất với sự phân công và
hợp tác lao động diễn ra ngày càng sâu rộng giữa các nước trong khu vực và trên
thế giới, khi chúng ta “thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN và
WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với
tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn trước” [27, tr.73 - 74], thì những rào
cản về thị trường lao động được gở bỏ, sự cạnh tranh lao động giữa các nước càng
trở nên gay gắt. Hiện ASEAN đã có Hiệp định về di chuyển tự nhiên nhân lực, có
thỏa thuận công nhận lẫn nhau về chứng chỉ lành nghề của cơ quan chính thức đối
với 8 ngành nghề được tự do chuyển dịch: kiểm toán, kiến trúc, kỹ sư, nha sĩ, bác sĩ,
108
y tá, điều tra viên và du lịch. Việc công nhận trình độ lẫn nhau về kỹ năng nghề sẽ
là một trong những điều kiện rất quan trọng trong việc thực hiện dịch chuyển lao
động giữa Việt Nam với các nước trong khu vực.
Tuy nhiên, theo dự báo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), khi tham gia
AEC, số việc làm của Việt Nam sẽ tăng lên 14,5% vào năm 2025. Nhưng do trình
độ phát triển không đồng đều dẫn đến việc lao động có tay nghề chủ yếu di
chuyển vào thị trường Xinggapo, Malayxia và Thái Lan. Vì vậy, những lao động
được chứng nhận về trình độ, kỹ năng sẽ được di chuyển tự do hơn. Đây sẽ là
thách thức cho Việt Nam vì chưa có được đội ngũ công nhân lành nghề hùng hậu,
buộc phải chấp nhận nguồn lao động di cư đến từ các nước khác có trình độ cao
hơn. Báo cáo mới nhất của Tổ chức Lao động quốc tế công bố tháng 7 năm 2016
cho thấy Việt Nam có đến 86% lao động trong các ngành dệt may và giày dép có
nguy cơ cao mất việc dưới tác động của những đột phá về công nghệ do cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại. Tỷ lệ này sẽ chuyển thành con số thiệt hại
tuyệt đối rất lớn vì dệt may và giày dép lại là các ngành đang tạo việc làm cho
nhiều lao động (khoảng gần 2,3 triệu người) [96, tr.3]. Thời gian tới, nếu trình độ
của người lao động nước ta không được cải thiện để đáp ứng yêu cầu hội nhập, thì
nguy cơ thất nghiệp của một bộ phận lao động, nhất là lao động giản đơn sẽ ngày
một gia tăng, dẫn đến nguy cơ thua ngay trên “sân nhà” là điều khó tránh khỏi, cần
có dự báo và biện pháp giải quyết.
3.2.3. Trong hội nhập quốc tế, công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức chính
trị, tư tưởng cho giai cấp công nhân còn nhiều hạn chế, khó khăn và bất cập
Để giai cấp công nhân nước ta phát huy được vai trò tiên phong trong điều
kiện hội nhập quốc tế, bên cạnh xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng,
chất lượng, cơ cấu hợp lý, thì nâng cao giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị vững
vàng là vấn đề hệ trọng. Trong quá trình đó, mục tiêu cần hướng đến là xây dựng
giai cấp công nhân có tinh thần đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung với tinh thần
yêu nước, nhân ái, nghĩa tình; có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh; lao động
chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích
của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội; thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết,
109
nâng cao trình độ chuyên môn. Tuy nhiên, trong hội nhập quốc tế bên cạnh những
mặt tích cực, thì mặt tiêu cực đang tác động làm cho ý thức chính trị của giai cấp
công nhân nước ta bị giảm sút nghiêm trọng đang là vấn đề đặt ra cần được quan
tâm giải quyết.
Mặc dù trong thời gian qua Đảng và Nhà nước đã rất chú trọng đến công tác
tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho giai cấp công nhân với nhiều biện
pháp và hình thức khác nhau, bước đầu đã có những chuyển biến tích cực, phần lớn
giai cấp công nhân nước ta ý thức được địa vị và vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình.
Tuy nhiên, so với mục tiêu và yêu cầu nhiệm vụ đặt ra đối với công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng cho công nhân trong điều kiện hội nhập quốc tế thì những kết
quả đạt được còn hết sức hạn chế, công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư
tưởng cho công nhân lao động chưa thực sự đi vào thực chất của cuộc sống.
Đi vào tìm hiểu nguyên nhân của sự hạn chế cho thấy. Trong quá trình hội
nhập công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho giai cấp công nhân chưa bám sát thực
tiễn những vấn đề chính trị, xã hội trong nước và quốc tế đặt ra, chậm đổi mới nội
dung, phương thức; đội ngũ làm công tác giáo dục chính trị, tư tưởng còn hạn chế
cả về số lượng và khả năng chuyên môn, dẫn đến thiếu sức hút đối với công nhân
lao động. Trong hợp tác đầu tư với nước ngoài dường như chỉ tập trung cho phát
triển kinh tế, còn công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho giai cấp công nhân chưa
được quan tâm đúng mức. Cho nên, việc tạo lập hành lang pháp lý, công tác tuyên
truyền, vận động doanh nghiệp tích cực tham gia và tạo điều kiện cho các hoạt động
chính trị - xã hội của công nhân còn nhiều hạn chế. Vì vậy, trên thực tế các doanh
nghiệp chỉ quan tâm đến lợi ích kinh tế, không chú trọng công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng cho công nhân lao động.
Mặc dù, trong các điều luật của Hiếp pháp, Luật Đầu tư, Bộ luật Lao động,
Luật Công đoàn, Luật Doanh nghiệp..., chúng ta đều đã quy định quyền, trách
nhiệm, nghĩa vụ của các nhà đầu tư khi tham gia vào đời sống kinh tế, chính trị của
Việt Nam. Nhưng những quy định đó chưa thật chặt chẽ, nên các nhà đầu tư nước
ngoài không ngần ngại tìm mọi cách để lách luật. Nhìn bề ngoài các nhà đầu tư
thường tỏ ra không quan tâm đến đời sống chính trị, theo kiểu “việc ai nấy làm”
110
miễn sao công việc kinh doanh thuận lợi. Nhưng thực chất họ hiểu rất rõ những quy
định về vai trò của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đối với người công nhân lao
động. Trong khi đó, vì mục đích thu hút đầu tư cho nên đôi lúc chúng ta cũng có
phần ưu ái đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Trong thời gian qua, chịu sự tác động lớn của khủng hoảng kinh tế thế giới,
không ít doanh nghiệp sau thời gian hoạt động không hiệu quả phải ngừng sản xuất.
Tình hình biến động lao động trong doanh nghiệp thường xuyên xảy ra đã ảnh
hưởng nhiều đến công tác tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp luật cho người
lao động. Thêm vào đó, điều kiện và cơ sở vật chất cho công tác giáo dục ý thức
chính trị, tư tưởng cho giai cấp công nhân còn nhiều khó khăn. Trong các doanh
nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hầu hết không
có hội trường sinh hoạt cộng đồng cho công nhân. Trong khi đó trình độ học vấn,
nhận thức xã hội của người lao động không đồng đều, khả năng người lao động tự
đọc, nghiên cứu tài liệu bằng hình thức tờ rơi, sổ tay, tự xem thông báo còn nhiều
hạn chế, cho nên nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục ý thức chính trị, tư tưởng, pháp
luật cho công nhân hiện nay còn rất khó khăn và hạn chế.
Để công nhân có điều kiện tham gia vào hoạt động chính trị - xã hội, thì vai
trò của tổ chức cơ sở đảng và các tổ các tổ chức chính trị - xã hội là rất quan trọng.
Tuy nhiên, trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài việc thành lập và hoạt động của tổ chức cơ sở đảng và các tổ chức chính
trị - xã hội là hết sức hạn chế, khó khăn trong hoạt động. Hầu hết các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp ngoài nhà nước chưa có chi bộ đảng cơ
sở, tỷ lệ đảng viên được kết nạp hàng năm trong công nhân rất thấp. Hiện nay “cả
nước mới chỉ có 1,2% doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
cổ phần và doanh nghiệp FDI có chi bộ đảng, với số đảng viên chỉ bằng 0,84% tổng
số đảng viên của cả nước. Từ năm 2006 đến nay, tỷ lệ đảng viên mới là công nhân
trong tổng số đảng viên mới được kết nạp chưa năm nào vượt quá 10%” [133, tr.4].
Đối với doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hóa nhiều tổ chức cơ sở đảng
trong doanh nghiệp cũng tồn tại và hoạt động một cách mờ nhạt, không thể hiện
được vai trò hạt nhân chính trị, thậm chí có nơi chi bộ chỉ tồn tại như “câu lạc bộ”
của những người chung nỗi lo thất nghiệp. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến vai trò,
111
tâm tư tình cảm của giai cấp công nhân nếu không được nhìn nhận và có biện pháp
giải quyết kịp thời.
Để thành lập tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên
hiệp thanh niên Việt Nam trong các doanh nghiệp hiện chưa có cơ sở pháp lý rõ
ràng. Quy định luật pháp về việc thành lập và hoạt động của tổ chức đảng ở doanh
nghiệp cũng chưa cụ thể, nên hầu hết chi ủy, chi bộ đảng trong các doanh nghiệp rất
lúng túng trong việc lãnh đạo, chỉ đạo nội dung, phương thức hoạt động của đoàn
thanh niên. Chẳng hạn, Điều 6 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 có quy định về tổ
chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp, song còn chung chung. Chức năng thực tế của
chi bộ trong các loại hình doanh nghiệp chưa có văn bản cụ thể hướng dẫn nên hoạt
động của các tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp, nhất là trong doanh nghiệp
ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động không hiệu
quả. Đa số thanh niên công nhân trong doanh nghiệp đều là đoàn viên công đoàn,
nên cũng xuất hiện xu hướng muốn sáp nhập về mặt hoạt động của hai tổ chức này.
Những trở ngại nói trên đang làm cho tổ chức đoàn thanh niên trong doanh nghiệp
đang vấp phải rất nhiều khó khăn, thậm chí có nguy cơ dừng hoạt động.
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng,
có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng, đồng
thời có nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật, ý thức chính trị, tư tưởng
cho giai cấp công nhân . Điều này đã được hiến định rõ trong Hiến pháp:
Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân
và của người lao động được hình thành trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho
người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội;
tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ
chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa
vụ của người lao động; tuyên truyền vận động người lao động học tập,
nâng cao trình độ kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc [101, tr.12 - 13].
Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động của công đoàn hiện nay còn rất nhiều hạn
chế, chưa phát huy được hết vai trò và nhiệm vụ của mình. Đội ngũ cán bộ công
112
đoàn của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn
thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, chưa đủ khả năng để có thể bình đẳng trao đổi
trực tiếp với chủ doanh nghiệp. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm
công tác công đoàn chưa đáp ứng được thực tế, nội dung, phương thức hoạt động
còn nặng về bề nổi, mang tính phong trào, nên chưa thu hút được đông đảo người
lao động. Nhiều vấn đề nảy sinh trong tổ chức và hoạt động của các tổ chức đảng,
công đoàn chưa được nhận thức làm rõ, nên hiệu quả hoạt động chưa cao.
Đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên trong các doanh nghiệp hiện chủ yếu
là kiêm nhiệm với người làm công tác công đoàn. Thời gian và khả năng nghiên
cứu còn hạn chế, chưa tập trung nghiên cứu, chưa cập nhật các thông tin và quy
định mới hiện hành, trình độ và khả năng tuyên truyền còn hạn chế. Mặt khác, trong
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vai trò của tổ chức công đoàn rất mờ
nhạt. Hầu hết các doanh nghiệp không cho hoặc không muốn cho thành lập tổ chức
công đoàn vì nó ảnh hưởng đến lợi ích của doanh nghiệp, thậm chí giới chủ còn coi
tổ chức công đoàn là “đối trọng” với mình. Nếu công đoàn được thành lập, thì
những cán bộ làm công tác công đoàn được giới chủ “mua chuộc” và dường như họ
gắn lợi ích của mình với lợi ích giới chủ doanh nghiệp. V.I.Lênin từng nói về thủ
đoạn này là “...tạo ra ngay cả trong công nhân, những hạng người được hưởng đặc
lợi, và có xu hướng tách những hạng người này ra khỏi quảng đại quần chúng vô
sản” [61, tr.512]. Thành thử lợi ích của công nhân chẳng những không được bảo vệ,
mà công tác giáo dục ý thức pháp luật, ý thức chính trị, tư tưởng cũng không được
quan tâm.
Trong thời gian tới hội nhập quốc tế sâu rộng hơn, bên cạnh tác động đến thể
chế kinh tế, thì thể chế chính trị cũng bị ảnh hưởng, mà trước hết là vai trò của tổ
chức công đoàn trong các doanh nghiệp. Khi các hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới được ký kết và thông qua, đặc biệt là Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP) đi vào thực chất, theo quy định người lao động có quyền thành lập tổ chức
đại diện quyền lợi cho riêng mình và đăng ký với các cơ quan chức năng quản lý
nhà nước, tổ chức này độc lập với tổ chức công đoàn. Trong trường hợp này người
lao động và tổ chức đại diện của họ nếu nhận thấy công đoàn hiện tại hoạt động
không hiệu quả, thì họ có quyền không gia nhập công đoàn. Đây là một thách thức
113
rất lớn đối với tổ chức công đoàn trong thời gian sắp tới. Trong khi tổ chức đại diện
người lao động chỉ đơn thuần bảo vệ các lợi ích vật chất và tinh thần cơ bản của
người lao động, chứ không có chức năng, nhiệm vụ giáo dục chính trị, tư tưởng giai
cấp công nhân. Do đó, công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức chính trị, tư tưởng cho
giai cấp công nhân vốn đã hạn chế, khó khăn, sắp tới lại càng khó khăn hơn nếu như
không có cơ chế quản lý hiệu quả.
Kết luận chương 3
Dưới tác động của hội nhập quốc tế làm giai cấp công nhân nước ta biến đổi
nhanh trên nhiều phương diện cả tích cực lẫn tiêu cực. Biến đổi tích cực đó là: giai
cấp công nhân nước ta phát triển nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu thành phần
và ngành nghề; được nâng cao về trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp, đang
hình thành tác phong và kỷ luật lao động theo hướng hiện đại; có nhiều việc làm,
đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được cải thiện.
Mặt khác, hội nhập quốc tế cũng làm giai cấp công nhân nước ta biến đổi tiêu
cực. Đó là, lợi ích và vai trò của một bộ phận công nhân, nhất là công nhân lao động
trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
chưa được phát huy đầy đủ; sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo trong nội bộ
ngày càng sâu sắc, ảnh hưởng đến tính thống nhất, đoàn kết của giai cấp công nhân
nước ta; lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị, lý tưởng cách mạng của một bộ phận
công nhân bị phai nhạt.
Từ sự biến đổi của giai cấp công nhân nước ta dưới tác động của hội nhập
quốc tế đang đặt ra một số vấn đề như: sự sụt giảm số lượng đội ngũ công nhân
trong thành phần kinh tế nhà nước, ảnh hưởng đến vai trò nòng cốt của đội ngũ
công nhân này trong quá trình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nguy cơ thất nghiệp của một bộ phận công nhân, nhất là công nhân lao động giản
đơn gia tăng khi hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Công tác tuyên truyền, giáo
dục ý thức chính trị, tư tưởng cho giai cấp công nhân, nhất là đội ngũ công nhân
trong doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn
nhiều hạn chế, khó khăn và bất cập.
114
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY BIẾN ĐỔI TÍCH CỰC,
NGĂN NGỪA VÀ HẠN CHẾ BIẾN ĐỔI TIÊU CỰC
CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM DƯỚI TÁC ĐỘNG
CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
4.1. QUAN ĐỂM ĐỊNH HƯỚNG PHÁT HUY BIẾN ĐỔI TÍCH CỰC, NGĂN
NGỪA VÀ HẠN CHẾ BIẾN ĐỔI TIÊU CỰC CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
VIỆT NAM DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
4.1.1. Trong hội nhập quốc tế cần chú trọng xây dựng giai cấp công nhân
phát triển về số lượng, chất lượng và cơ cấu hợp lý
Giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo cách mạng trong suốt gần 90 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn,
chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam không ngừng lớn mạnh, đóng vai trò quyết
định trong mọi chặng đường cách mạng của lịch sử dân tộc. Trong điều kiện hội
nhập quốc tế hiện nay, để phát huy được vai trò tiên phong thì cần phải xây dựng
giai cấp công nhân phát triển toàn diện về mọi mặt.
Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, phát triển nhanh về số lượng, nâng
cao chất lượng, có cơ cấu đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; ngày càng
được trí thức hoá: có trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp
cao, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện
đại trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức; thích ứng nhanh với cơ chế thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế; có giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị
vững vàng, có tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động cao [29, tr.50].
Cùng với quá trình hội nhập quốc tế thì một nền sản xuất công nghiệp hiện đại
chắc chắn sẽ được hình thành ở nước ta, điều đó cũng đồng nghĩa phải có lực lượng
lao động đủ về số lượng, cao về chất lượng phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, trước hết phải quan tâm xây dựng giai cấp công nhân
phát triển nhanh về số lượng để đáp ứng nhu cầu lao động cho các doanh nghiệp
115
trong quá trình hội nhập. Đây là một trong những điều kiện để thu hút các doanh
nghiệp nước ngoài đầu tư vào nước ta. Với dân số đông và đang bước vào thời kỳ
cơ cấu “dân số vàng”, nên lực lượng lao động dồi dào đang trở thành một trong
những lợi thế cạnh tranh của nước ta trong quá trình hội nhập. Phát triển giai cấp
công nhân về số lượng đồng thời đạt được hai mục tiêu, đáp ứng yêu cầu sản xuất
của nền kinh tế, mặt khác góp phần giải quyết việc làm và cơ cấu lại lực lượng lao
động xã hội.
Hội nhập quốc tế trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức là thời cơ để đưa
đất nước phát triển nhanh, thoát khỏi tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu
vực và trên thế giới. Để thực hiện nhiệm vụ đó, nhất thiết phải có chiến lược phát
triển hợp lý, đi tắt đón đầu, tiếp thu được những thành tựu khoa học - công nghệ đã
đạt được của các nước tiên tiến, từng bước làm cho nền kinh tế tăng trưởng cao và
phát triển bền vững. Trong quá trình đó giai cấp công nhân phải đáp ứng được yêu
cầu về chất lượng để ứng dụng và vận hành những dây chuyền sản xuất công nghiệp
hiện đại. Vì vậy, Đảng ta yêu cầu “chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn
mạnh phải gắn chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế” [29, tr.48].
Trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, đòi hỏi trình độ
học vấn và chuyên môn nghề nghiệp của giai cấp công nhân phải được đào tạo bài
bản để đáp ứng yêu cầu của nền sản xuất ngày càng hiện đại. Nếu không có sự chuẩn
bị tốt nhất về nguồn nhân lực, thì quá trình phân công và hợp tác quốc tế về lao động
sẽ gặp nhiều khó khăn trong cạnh tranh ở cả trong và ngoài nước. Với những hạn chế
về trình độ chuyên môn của công nhân nước ta như đã phân tích ở trên, trong thời
gian tới cần phải “đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân,
không ngừng trí thức hoá công nhân là một nhiệm vụ chiến lược” [29, tr.48].
Thêm vào đó, dưới tác động của quá trình hội nhập đang làm cho đội ngũ công
nhân trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài đa phần là trẻ về tuổi đời, ít về tuổi nghề, phần lớn công nhân là người ngoại
tỉnh và từ nông thôn vào các đô thị lớn làm việc, cho nên trình độ chuyên môn và
116
tác phong lao động công nghiệp còn nhiều hạn chế. Để khắc phục những hạn chế đó
trong hội nhập quốc tế, thời gian tới cần “quan tâm xây dựng thế hệ công nhân trẻ
có học vấn, chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao, ngang tầm khu vực và quốc
tế” [29, tr.48]. Đây là nhiệm vụ vừa có tính cấp bách, vừa có tính lâu dài trong chiến
lược xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
Hội nhập quốc tế sẽ phát triển những ngành nghề mới đòi hỏi trình độ cao.
Trong khi đó hiện nay chúng ta chưa có được đội ngũ công nhân lành nghề, có trình
độ chuyên môn sâu, với khả năng thao tác tổng hợp, đang “thiếu nghiêm trọng các
chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề” [29, tr.45]. Ở những
ngành nghề hiện đại, phần lớn chúng ta đang phải thuê lao động nước ngoài. Vì vậy,
phải đào tạo được đội ngũ đông đảo công nhân có trình độ cao (công nhân trí thức)
để đáp ứng yêu cầu của những ngành nghề mới trong quá trình hội nhập.
Trong quá trình hội nhập quốc tế cũng đang cho thấy sự biến đổi đa dạng về
cơ cấu của giai cấp công nhân, nhưng đồng thời cũng tạo ra sự bất hợp lý về cơ cấu,
đang tạo ra sự mất cân đối trong phát triển kinh tế và phân hóa trên thị trường lao
động, dẫn đến lực lượng lao động vừa thiếu vừa thừa, tạo nên sự cạnh tranh không
lành mạnh, mâu thuẫn giữa các bộ phận công nhân và giữa các nhà sử dụng lao
động. Do đó cần phải phát triển giai cấp công nhân có cơ cấu hợp lý về trình độ,
ngành nghề, lứa tuổi, giới tính, vùng miền nhằm đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Xây dựng giai cấp công nhân phát triển toàn diện là vấn đề cần thiết, cấp bách
chung, nhưng trong đó phải chú ý xây dựng, phát triển lực lượng nòng cốt từ đội
ngũ công nhân khu vực kinh tế nhà nước. Cần phải tiếp tục giữ vững, củng cố và
phát triển đội ngũ công nhân khu vực kinh tế nhà nước, phát huy thế mạnh vốn có
của nó để làm cơ sở, nòng cốt cho việc xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam. Có
như vậy mới có thể phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế
nhiều thành phần, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã
lựa chọn.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sự phát triển đất nước theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá tất yếu sẽ diễn ra xu hướng trình độ học vấn, tay nghề gắn
117
liền với trẻ hoá đội ngũ công nhân ngày một tăng lên. Sự xuất hiện những ngành
nghề mới, những phương tiện kỹ thuật, máy móc, công nghệ hiện đại đòi hỏi phải
có đội ngũ công nhân có trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp cao, đủ năng
lực sử dụng, vận hành các thiết bị, công nghệ hiện đại. Do đó, việc tăng nhanh về số
lượng với một cơ cấu tổ chức hợp lý theo một cơ chế hoạt động khoa học là điều
kiện để giai cấp công nhân nước ta phát huy cao nhất sức mạnh và vị thế vốn có của
mình trong quá trình hội nhập quốc tế.
4.1.2. Kết hợp giữa phát triển kinh tế với chăm lo đời sống vật chất và
tinh thần cho giai cấp công nhân trong hội nhập quốc tế
Chăm lo cho đời sống vật chất và tinh thần cho giai cấp công nhân trong điều
kiện hội nhập quốc tế là nhiệm vụ rất quan trọng. Trong thời gian qua đời sống vật
chất và tinh thần của giai cấp công nhân nước ta đã được cải thiện nhiều, nhưng so
với những thành tựu đạt được của công cuộc đổi mới, thì đời sống của giai cấp công
nhân nói chung, đặc biệt bộ phận công nhân khu vực kinh tế ngoài nhà nước, công
nhân lao động giản đơn còn nhiều khó khăn, vất vả, chưa được hưởng tương xứng
với kết quả đóng góp cho doanh nghiệp và cho sự nghiệp đổi mới đất nước.
Để phát triển đất nước tất yếu phải đẩy nhanh quá trình hội nhập quốc tế. Tuy
nhiên bên cạnh những yếu tố tích cực mang lại, thì mặt trái của nó đang làm cho
giai cấp công nhân nước ta khó khăn hơn trong cuộc sống, đang ảnh hưởng tiêu cực
đến địa vị và vai trò của giai cấp công nhân trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Hội nhập quốc tế đang tạo ra sự cạnh tranh gay gắt trong
sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng tạo ra sự cạnh tranh và phân hoá thị trường sức
lao động. Từ đây nó sẽ dẫn đến sự phân tầng, phân hoá giàu nghèo trong nội bộ giai
cấp công nhân, ảnh hưởng đến tính ổn định và thống nhất cao của giai cấp công
nhân nước ta. Vì vậy, trong quá trình hội nhập quốc tế nhằm thúc đẩy phát triển
kinh tế, thì phải chú trọng, quan tâm đến việc đảm bảo lợi ích đầy đủ cho giai cấp
công nhân, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho giai cấp công
nhân. Giải quyết hài hoà mối quan hệ lợi ích giữa người lao động với người sử dụng
lao động, tạo sự đồng thuận trong quan hệ lao động là điều kiện cần thiết để xây
dựng giai cấp công nhân trong hội nhập quốc tế:
118
Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội và chăm lo xây dựng giai cấp công nhân; đảm bảo
quan hệ hài hoà lợi ích giữa công nhân, người sử dụng lao động, nhà nước
và toàn xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
công nhân, quan tâm giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc, cấp bách
của giai cấp công nhân [29, tr.48].
Trong hội nhập quốc tế giữa các thành phần kinh tế cần tạo ra sự công bằng và
bình đẳng trong điều kiện sản xuất kinh doanh, cũng như phân phối kết quả lao
động. Do đặc thù sở hữu nên trong thời gian qua người lao động trong các thành
phần kinh tế khác nhau có quyền và lợi ích khác nhau, nhất là đội ngũ công nhân
lao động trong các thành phần kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
chịu nhiều thiệt thòi. Trong thời gian tới, hội nhập quốc tế càng sâu rộng, cần phải
có biện pháp để giải quyết tốt đời sống vật chất và tinh thần, tạo ra sự công bằng và
bình đẳng trong xây dựng và phát triển giai cấp công nhân, “tạo cơ hội để mọi
người có việc làm và cải thiện thu nhập. Bảo đảm tiền lương, thu nhập công bằng,
đủ điều kiện sống và tái sản xuất sức lao động” [27, tr.136]. Để làm được điều đó,
trước hết phải sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các luật liên quan đến quyền và lợi ích
của người lao động cho phù hợp với môi trường của hội nhập và điều kiện phát triển
chung của đất nước: “sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật về tiền lương, bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp,... để bảo vệ quyền lợi, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân” [27, tr.160] theo đúng lộ trình chiến
lược hội nhập, quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
4.1.3. Chú trọng, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho giai
cấp công nhân trong hội nhập quốc tế
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công hay không tùy thuộc vào vai
trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam giai cấp
công nhân lãnh đạo xã hội, đồng thời là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong quá trình đó phẩm chất chính trị của giai
cấp công nhân luôn đóng vai trò quyết định. Tuy nhiên, trong hội nhập quốc tế hiện
nay đang tác động đến sự biến đổi ý thức chính trị giai cấp công nhân nước ta, bên
119
cạnh bộ phận công nhân vẫn giữ vững được bản chất cách mạng, thì có bộ phận
chịu tác động và ảnh hưởng bởi lối sống tiêu cực, thực dụng theo lối sống tư sản. Vì
vậy, trong hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì:
Cần phải nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp và bản lĩnh chính trị,
ý thức công dân, tinh thần dân tộc, gắn bó thiết tha với sự nghiệp cách
mạng của Đảng, của dân tộc, với chế độ xã hội chủ nghĩa, ý chí vươn lên
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tinh thần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tinh
thần phấn đấu vươn lên ngang tầm thời đại trong điều kiện phát triển kinh
tế tri thức và hội nhập kinh tế quốc tế, quyết tâm chiến thắng trong cạnh
tranh, tinh thần đấu tranh xây dựng, tác phong công nghiệp và kỷ luật lao
động, lương tâm nghề nghiệp,...cho công nhân [29, tr.57 - 58].
Để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho giai cấp công
nhân trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, cần đổi mới nội dung, phương
thức giáo dục. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát
huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
Trong đó, cần đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính
trị - xã hội, nhất là tổ chức công đoàn trong tiến trình hội nhập quốc tế. Đổi mới tổ
chức, hoạt động của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của
tình hình mới; tạo điều kiện về nguồn lực đủ mạnh để bảo đảm hiệu quả các hoạt
động đại diện, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người
lao động, thu hút người lao động và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp
tham gia Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối
với các tổ chức của người lao động nằm ngoài hệ thống của Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị từ
Trung ương đến cơ sở [35].
Thông qua đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước điều chỉnh quá trình phát triển của giai cấp công nhân. Các tổ chức chính trị -
xã hội, mà trực tiếp là tổ chức công đoàn phải phát huy đầy đủ vai trò của mình
trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của giai cấp công nhân.
120
Đồng thời, bản thân người công nhân cũng phải nỗ lực phấn đấu, khẳng định vai trò
tiên phong của mình trong thực tế lao động sản xuất. Do đó:
Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị, của toàn xã hội và sự nỗ lực vươn lên của bản thân mỗi người
công nhân, sự tham gia đóng góp tích cực của người sử dụng lao động;
trong đó sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước có vai trò quyết
định, công đoàn có vai trò quan trọng trực tiếp trong chăm lo xây dựng
giai cấp công nhân [29, tr.49].
Giai cấp công nhân lớn mạnh, thì Đảng và Nhà nước mới vững mạnh và là
điều kiện đảm bảo cho thành công của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Vì vậy, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, thực chất cũng là góp phần xây
dựng Đảng và Nhà nước vững mạnh. Đây là mối quan hệ biện chứng không thể tách
rời. Cho nên “xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn liền với xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xây dựng tổ chức
công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ chức chính trị - xã
hội khác trong giai cấp công nhân vững mạnh” [29, tr.49].
Trong thời gian tới hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cần phải có lộ trình
để xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, có giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị
vững vàng; có ý thức công dân, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu cho tinh
hoa văn hoá của dân tộc; nhạy bén và vững vàng trước những diễn biến phức tạp
của tình hình thế giới và những biến đổi của tình hình trong nước. Giai cấp công
nhân phải có tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết, hợp tác quốc tế; thực hiện sứ
mệnh lịch sử của giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng
Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, trong các doanh nghiệp cần chú trọng, tăng cường
công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho giai cấp công nhân, phải thành lập tổ chức
cơ sở đảng, công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp
Thanh niên Việt Nam. Đồng thời phải tạo lập cơ chế để tổ chức cơ sở đảng và các
tổ chức chính trị - xã hội hoạt động hiệu quả. Đây vừa là cơ sở vừa là điều kiện để
nâng cao công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho giai cấp công nhân trong điều
kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
121
4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT HUY BIẾN ĐỔI TÍCH CỰC,
NGĂN NGỪA VÀ HẠN CHẾ BIẾN ĐỔI TIÊU CỰC CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
VIỆT NAM DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
4.2.1. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế gắn
với phát triển kinh tế tri thức theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Sự ra đời và phát triển của giai cấp công nhân gắn với quá trình ra đời và phát
triển của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, “các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu
vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm
của bản thân nền đại công nghiệp” [68, tr.610]; “công nhân cũng là phát minh của
thời đại mới, giống như máy móc vậy... Công nhân Anh là đứa con đầu lòng của
nền công nghiệp hiện đại” [69, tr.11]. Như vậy, giai cấp công nhân là sản phẩm,
đồng thời là chủ thể của nền sản xuất đại công nghiệp.
Giai cấp công nhân Việt Nam mặc dù ra đời từ nền sản xuất công nghiệp
thuộc địa, ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, nhưng cùng với quá trình phát triển
giai cấp công nhân nước ta cũng mang những đặc điểm chung của giai cấp công
nhân quốc tế. Vì vậy, sự phát triển của nền sản xuất công nghiệp là điều kiện cho
quá trình phát triển của giai cấp công nhân nước ta, ngược lại sự phát triển của
giai cấp công nhân - đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại lại là điều kiện để
thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây là mối qua hệ biện
chứng không thể tách rời, trong đó giai cấp công nhân là chủ thể của quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đến lượt nó nền sản xuất công nghiệp
hiện đại là tiền đề, điều kiện để giai cấp công nhân phát triển ngày càng lớn mạnh,
xứng đáng giai cấp đi tiên phong trong quá trình xây dựng chế độ xã hội mới - chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa công sản.
Sẽ không có giai cấp công nhân đủ mạnh để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng,
nếu giai cấp công nhân không được phát triển về số lượng và chất lượng. Do đó,
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế gắn với
phát triển kinh tế tri thức, sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại, và xa hơn đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước công nghiệp
hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, nhiệm vụ của giai cấp công
122
nhân. Đồng thời với quá trình đó sẽ là điều kiện để giai cấp công nhân phát triển
nhanh về số lượng và chất lượng. Vì vậy, trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng hiện nay chúng ta phải tận dụng tốt những thời cơ thuận lợi, vượt
qua khó khăn, thách thức do hội nhập quốc tế mang lại để đi tắt đón đầu, rút ngắn
quá trình công nghiệp hoá, phát huy tác động tích cực và hạn chế những tác động
tiêu cực đến quá trình phát triển của giai cấp công nhân nước ta - giai cấp chủ thể
của phương thức sản xuất.
Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng là điều kiện để chúng ta tiếp cận thị
trường quốc tế, tiếp nhận những thành tựu khoa học - công nghệ, kỹ năng quản trị
hiện đại. Điều đó đòi hỏi phải có đội ngũ công nhân phát triển đủ về số lượng,
đảm bảo về chất lượng, đa dạng về ngành nghề. Mặt khác, hội nhập quốc tế thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, cơ cấu lại ngành nghề, thành
phần kinh tế, tổ chức, phân công lại lao động xã hội. Trong quá trình đó để phát
huy sự biến đổi tích cực, hạn chế sự biến đổi tiêu cực của giai cấp công nhân nước
ta cần thực hiện một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá và hội nhập quốc tế gắn với
phát triển các ngành nghề sử dụng nhiều lao động để phát triển giai cấp công
nhân về số lượng, đa dạng về cơ cấu ngành nghề.
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện hội nhập quốc tế
hiện nay chúng ta cần phải căn cứ vào điều kiện cụ thể của đất nước, phát huy lợi
thế so sánh, nhất là lợi thế về nguồn lực lao động trong quá trình hội nhập. Cho
nên hiện nay cần phải “tiếp tục phát triển một số ngành công nghiệp sử dụng nhiều
lao động” [27, tr.92]. Thực hiện nhiệm vụ này vừa giải quyết được việc làm cho
lao động, vừa đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng hiện
đại, sử dụng nguồn lực lao động ở mọi trình độ, phân bố hợp lý lao động giữa các
vùng miền, thành phần, ngành nghề kinh tế.
Để phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động cần phải phát huy hiệu quả
nguồn lực từ tất cả các thành phần kinh tế. Trong đó tạo điều kiện để kinh tế tư
nhân phát triển nhanh cả về số lượng và quy mô, để kinh tế tư nhân trở thành
123
một trong những động lực quan trọng phát triển đất nước. Đối với các doanh
nghiệp đầu tư vào các ngành nghề sử dụng nhiều lao động nhà nước cần ban
hành các cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để các
doanh nghiệp phát triển sản xuất. Kinh tế tư nhân phát triển thì các ngành sản
xuất công nghiệp và dịch vụ cũng phát triển nhanh cả về số lượng, quy mô và
chất lượng. Hiện nay, kinh tế tư nhân đang tạo ra khoảng 60% việc làm trong
lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Do đó, cần phải khuyến khích và tạo điều kiện
thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển chính là góp phần đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Qua đó giai cấp công nhân có điều kiện
phát triển nhanh về số lượng và chất lượng, việc làm, thu nhập và đời sống của
công nhân cũng ngày càng ổn định, góp phần xoá bỏ đói nghèo, từng bước khắc
phục sự phân tầng xã hội, phân hoá giàu nghèo trong nội bộ giai cấp công nhân
nước ta.
Đổi mới chính sách để thu hút và phát triển các dự án lớn, sử dụng nhiều lao
động đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Thực tiễn trong thời gian qua cho thấy,
lợi thế của chúng ta khi thu hút các nhà đầu tư nước ngoài là nguồn nhân lực dồi
dào. Đặc biệt sắp tới khi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới được thông
qua và có hiệu lực, thì có rất nhiều ngành sản xuất mà chúng ta có lợi thế, trong đó
có những ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động mà đối tác nước ngoài đang
muốn được đầu tư sản xuất kinh doanh như: da giày, dệt may, chế biến thủy sản,
sản xuất các thiết bị phụ trợ,... Ngoài ra, cần khuyết khích các doanh nghiệp đầu tư
vào phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại, hướng tới xây dựng
một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền
vững, có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao nhằm tạo ra nhu cầu
rộng lớn và phát huy về lợi thế lương thực, thực phẩm, cây trồng công nghiệp của
nước ta. Điều này sẽ góp phần giải phóng sức lao động nông nghiệp, chuyển dịch
cơ cấu lao động từ lao động nông nghiệp sang lao động trong các lĩnh vực công
nghiệp và dịch vụ, là điều kiện để giai cấp công nhân nước ta phát triển nhanh về
số lượng, hợp lý về cơ cấu theo vùng miền.
124
Thứ hai, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế gắn với
chuyển đổi mô hình tăng trưởng, chú trọng phát triển chiều sâu, phát triển kinh tế
tri thức.
Cần nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trong quá trình tham gia
vào chuỗi sản xuất giá trị toàn cầu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh
tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công
nghệ, đổi mới và sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so
sánh và chủ động hội nhập quốc tế. Mặt khác, thu hút đầu tư nước ngoài vào những
ngành công nghệ cao, trình độ quản lý hiện đại, là điều kiện để giai cấp công nhân
nước ta phát triển về chất lượng.
Các dự án nước ngoài đầu tư vào nước ta lâu nay chủ yếu là khai thác tài
nguyên lao động, cho nên chủ yếu phát triển theo chiều rộng, công nghệ lạc hậu,
hạn chế phát triển những ngành có hàm lượng khoa học cao. Hiện nay cần “nâng
cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chú trọng chuyển giao công
nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và thị trường tiêu thụ sản phẩm; chủ động lựa chọn
và có chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư nước ngoài có trình độ quản lý và
công nghệ hiện đại, có vị trí hiệu quả trong chuỗi giá trị toàn cầu, có liên kết với
doanh nghiệp trong nước” [27, tr.108]. Vì vậy, bên cạnh thu hút đầu tư vào những
ngành sử dụng nhiều lao động, thì cần ưu tiên các dự án đầu tư vào những ngành
nghề có giá trị gia tăng cao, qua đó chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần chuyển
dịch cơ cấu lao động, tạo điều kiện để giai cấp công nhân phát triển nhanh về số
lượng, nâng cao trình độ tay nghề, trình độ quản lý đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
của nền sản xuất công nghiệp hiện đại. Do đó cần “rà soát, sửa đổi pháp luật, chính
sách để thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, nhất là các dự án công nghệ cao, thân thiện
môi trường, sản phẩm có giá trị gia tăng và tỷ lệ nội địa hóa cao…, sử dụng nhiều
lao động” [27, tr.292 - 293].
Thứ ba, đẩy mạnh phát triển nghiên cứu và tiếp cận nhanh những thành tựu
khoa học - công nghệ tiên tiến để đưa vào sản xuất.
Phát huy nội lực và tranh thủ những điều kiện thuận lợi do ngoại lực mang lại
để đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng và tiếp cận nhanh với sự tiến bộ của khoa học -
125
công nghệ thế giới để sản xuất được những sản phẩm cạnh tranh trong điều kiện hội
nhập là nhiệm vụ quan trọng hiện nay. Điều này sẽ làm biến đổi cơ cấu sản xuất
theo hướng hiện đại, qua đó cũng làm cho giai cấp công nhân có điều kiện để phát
triển về số lượng và chất lượng, cơ cấu giai cấp công nhân cũng biến đổi theo
hướng trí thức hoá công nhân. Bộ phận công nhân lao động trí óc ngày càng tăng,
lực lượng lao động chân tay giảm dần trong cơ cấu giai cấp công nhân nước ta.
Như vậy, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế gắn với
phát triển kinh tế tri thức sẽ thúc đẩy sự phát triển kết hợp giữa những ngành sản
xuất công nghiệp truyền thống với những ngành sản xuất công nghiệp hiện đại.
Chính từ quá trình này sẽ làm cho giai cấp công nhân nước ta không những phát
triển nhanh về số lượng, mà còn đòi hỏi công nhân phải được nâng cao trình độ học
vấn, trình độ chuyên môn nghề nghiệp, hình thành tác phong và kỷ luật lao động
hiện đại để nắm bắt và làm chủ được khoa học - công nghệ tiên tiến.
Thứ tư, chú trọng phát triển đội ngũ công nhân trong thành phần kinh tế nhà
nước thực sự trở thành lực lượng nòng cốt của giai cấp công nhân nước ta.
Trong quá trình hội nhập vừa qua nó đã tác động làm sụt giảm nhanh số lượng
công nhân trong thành phần kinh tế nhà nước, trong khi công nhân trong các thành
phần kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh về số
lượng và chất lượng. Điều này ít nhiều ảnh hưởng đến vai trò nòng cốt của đội ngũ
công nhân trong thành phần kinh tế nhà nước, đến vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước và ảnh hưởng đến quá trình phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa của
nước ta. Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì việc giải quyết mối quan hệ “giữa
tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa” [27,
tr.80] là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Quy luật kinh tế thị trường trong điều
kiện hội nhập quốc tế sẽ tác động đến chuyển đổi thể thế kinh tế theo thị trường,
mặt khác nó cũng tác động đến thể chế chính trị định hướng xã hội chủ nghĩa do
Đảng và nhân dân ta lựa chọn. Do đó, trong hội nhập cần phân định rõ mục tiêu,
phương tiện và công cụ để đạt được mục tiêu. Trong đó, chủ nghĩa xã hội là mục
tiêu hướng đến, còn kinh tế thị trường là vừa là mục tiêu vừa là công cụ, phương
tiện để đạt được mục tiêu chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, trong điều kiện phát triển kinh
126
tế thị trường xây dựng giai cấp công nhân nước ta phát triển nhanh về số lượng,
chất lượng, đa dạng cơ cấu thành phần, ngành nghề là nhiệm vụ quan trọng, cấp
bách nói chung, nhưng trong quá trình đó cần phải chú trọng đến xây dựng, phát
triển đội ngũ công nhân trong thành phần kinh tế nhà nước, vì đây là lực lượng nòng
cốt của giai cấp công nhân nước ta trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thời gian tới quá trình cơ cấu và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước sẽ còn tác
động đến nhiều hơn nữa đội ngũ công nhân trong thành phần kinh tế nhà nước, nhưng
sẽ dần đi vào ổn định. Khi các doanh nghiệp nhà nước đã được cơ cấu, sắp xếp lại
chắc chắn sẽ đưa lại hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn. Với vị trí của mình trong
cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần, doanh nghiệp nhà nước cần phải đi đầu trong
việc ứng dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ, khoa học quản lý để
nâng cao hiệu quả và năng suất lao động, đồng thời phải mở rộng về quy mô sản xuất
để tăng tính cạnh tranh trong điều kiện hội nhập quốc tế. Quá trình đó sẽ góp phần ổn
định, từng bước phát triển đội ngũ công nhân trong thành phần kinh tế nhà nước cả về
số lượng và chất lượng. Khi đó kinh tế nhà nước sẽ phát huy được hiệu quả vai trò
chủ đạo, điều tiết nền kinh tế và đội ngũ công nhân trong doanh nghiệp nhà nước
xứng đáng là lực lượng nồng cốt, đi đầu trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
4.2.2. Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo, nhất là đào tạo nghề góp
phần từng bước trí thức hoá giai cấp công nhân đáp ứng yêu cầu của hội nhập
quốc tế
Chất lượng của giai cấp công nhân đóng vai trò rất quan trọng, quyết định đến
sự thành công của quá trình hội nhập. Như đã phân tích ở trên, dưới tác động của
hội nhập quốc tế, giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển biến tích cực cả
về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế, thì
giai cấp công nhân nước ta còn rất hạn chế về trình độ học vấn, đặc biệt là trình độ
chuyên môn nghề nghiệp, thiếu đội ngũ công nhân có trình độ cao để đáp ứng yêu
cầu sản xuất của các ngành nghề hiện đại. Vì vậy, Đảng ta yêu cầu phải “quan tâm
giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất
127
lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề
nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động cho công nhân” [27, tr.160]. Do đó,
hiện nay và trong tương lai chúng ta cần phải có giải pháp mang tầm chiến lược để
đào tạo được đội ngũ công nhân phát triển toàn diện về số lượng, nâng cao chất
lượng với một cơ cấu hợp lý về ngành nghề, trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật,
trình độ quản lý, lứa tuổi, giới tính, vùng miền, góp phần tạo sự phát triển cân đối,
bền vững kinh tế - xã hội.
Sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang đòi hỏi phải
đào tạo được người lao động phát triển toàn diện, cao về trí tuệ, khỏe về thể chất, có
nhân cách, đạo đức trong sáng, có trình độ chuyên môn nghề nghiệp giỏi. Xuất phát
từ yêu cầu đó, Đảng và Nhà nước ta đã rất chú trọng đến đào tạo nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho quá trình phát triển đất nước và
hội nhập quốc tế, “phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân;
gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học,
công nghệ” [26, tr.106]. Vì vậy, công tác đào tạo nhân lực bước đầu đã có những
chuyển biến tích cực, đặc biệt hệ thống các trường nghề của nước ta đã được củng
cố và phát triển mạnh mẽ, mạng lưới đào tạo nghề đã phủ kín toàn quốc. Cơ sở vật
chất đã được đầu tư nâng cấp, nhất là các trường nghề chất lượng cao, góp phần
quan trọng đào tạo nhân lực kỹ thuật, đáp ứng năng lực cạnh tranh của người lao
động và của quốc gia.
Tuy nhiên, công tác giáo dục đào tạo nói chung, đào tạo nghề nói riêng vẫn
còn nhiều yếu kém, bất cập. Trong đó “hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên
thông giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lý
thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất kinh
doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục
đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc” [27, tr.114]. Sự kết nối giữa đào tạo với việc
sử dụng lao động ở các doanh nghiệp còn hạn chế. Chất lượng và cơ cấu nhân lực
chưa đáp ứng yêu cầu và nhu cầu của thị trường lao động, nhất là ở các khu công
nghiệp, khu chế xuất. Trên thực tế, nhiều lao động sau khi đào tạo không đáp ứng
128
được tay nghề của các doanh nghiệp, do đó nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không tham gia vào quá trình đào tạo nghề của
nước ta và cũng không muốn nhận sinh viên tốt nghiệp, mặc dù các doanh nghiệp
luôn thiếu lao động kỹ thuật. Nhiều doanh nghiệp tự đào tạo lao động, vì thiếu tin
tưởng vào chất lượng của các cơ sở đào tạo mà chúng ta đang có. Hệ thống dạy
nghề đào tạo lao động xuất khẩu chưa được tập trung, số lượng lao động đi nước
ngoài làm việc theo hợp đồng hiện nay chủ yếu vẫn là lao động chưa qua đào tạo.
Để khắc phục những hạn chế đó, đào tạo được đội ngũ công nhân đáp ứng được yêu
cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế trước mắt cần thực
hiện một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo nguồn nhân
lực nói chung, đối với giai cấp công nhân nói riêng theo yêu cầu của sự nghiệp đổi
mới và hội nhập quốc tế.
Từ kinh nghiệm của các nước có nền công nghiệp phát triển trên thế giới cho
thấy, yếu tố quyết định đến quá trình phát triển kinh tế là đào tạo nguồn nhân lực
gắn với chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế. Đào tạo những người lao động gắn với công
việc, chú trọng trang bị kỹ năng làm việc thực tế, gắn đào tạo với sử dụng, hiệu quả
công việc. Trong khi đó, chúng ta trong quá trình hội nhập quốc tế đã tác động
mạnh đến chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, nhưng trong đào tạo nhân lực chậm đổi
mới, không theo kịp đổi mới cơ cấu kinh tế. Nội dung, chương trình và phương
pháp đào tạo bất hợp lý, lạc hậu so với xu thế phát triển của thế giới. Vì vậy, khi hội
nhập quốc tế càng sâu rộng thì đòi hỏi phải đổi mới để đào tạo được đội ngũ công
nhân chất lượng cao đáp ứng những ngành nghề sản xuất hiện đại. Để làm được
điều này cần phải có sự đánh giá một cách tổng thể từ giáo dục phổ thông đến giáo
dục nghề nghiệp, đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo.
Nội dung, chương trình đào tạo phải được đổi mới toàn diện, cơ bản, thiết
thực, bảo đảm tính khoa học, cập nhật, cần đưa các nội dung của cách mạng khoa
học - công nghệ vào chương trình giảng dạy. Chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo
ngoại ngữ, kỹ năng sống và làm việc trong điều kiện đa văn hoá để công nhân hội
nhập quốc tế. Đầu tư nội dung, chương trình đào tạo chất lượng cao để tập trung
129
đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, chuyên gia cán bộ khoa học công nghệ trình
độ cao, nhà quản lý giỏi, có khả năng tiếp thu nhanh cái mới trong điều kiện hội
nhập quốc tế.
Đổi mới phương pháp đào tạo theo phương châm gắn lý thuyết đi đôi với thực
hành, từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất
người học, phù hợp với từng đối tượng. Cần trang bị kỹ năng để người học phát huy
khả năng sáng tạo, biến quá trình đào tạo thành khả năng tự đào tạo.
Thứ hai, tăng cường đầu tư cho đào tạo và đào tạo lại đội ngũ công nhân đủ
về số lượng, đảm bảo về chất lượng, có cơ cấu hợp lý.
Để thực hiện được những nội dung trên thì cần phải ý thức đầy đủ về vai trò
của giáo dục đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu để từ đó
có sự đầu tư tương xứng. Trước hết phải đầu tư cho sự nghiệp phát triển giáo dục
đào tạo nói chung để nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, phát hiện và bồi dưỡng
nhân tài cho đất nước. Cùng với đó tăng cường đầu tư để đào tạo và đào tạo lại đội
ngũ công nhân đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, công
nhân có trình độ cao, làm chủ được các ngành sản xuất có công nghệ tiên tiến.
Xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển dạy nghề một cách đồng bộ, đổi mới
hệ thống dạy nghề theo nhu cầu thị trường lao động trong nước và quốc tế nhằm đảm
bảo sự cân đối giữa đào tạo với phát triển kinh tế, giữa đào tạo với sử dụng.
Cần rà soát và quy hoạch lại các cơ sở dạy nghề trong cả nước. Những cơ sở
đào tạo nghề nào không đảm bảo chất lượng, không thực hiện đúng chức năng, nhiệm
vụ đào tạo cần phải tiến hành đổi mới, thậm chí giải thể. Chú ý quy hoạch các cơ sở
đào tạo nghề gắn với các vùng kinh tế trọng điểm và các địa phương có khu kinh tế,
khu công nghiệp để đảm bảo cung cấp đủ công nhân tại chỗ cho doanh nghiệp.
Cần phải mở các trường đào tạo đội ngũ công nhân trẻ, công nhân xuất thân từ
nông thôn, tạo nguồn bổ sung phong phú, có chất lượng, nhằm tạo được nguồn nhân
lực có chất lượng đáp ứng không chỉ nhu cầu sản xuất hiện tại mà còn chuẩn bị cho
những ngành công nghiệp mới trong quá trình hội nhập. Khuyến khích, tạo điều
kiện để công nhân tự học tập nâng cao trình độ tay nghề, đào tạo lại đội ngũ công
nhân chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Đây là một nhiệm vụ
130
khó khăn, đòi hỏi phải có sự đầu tư trên quy mô lớn, từ chiến lược giáo dục đào tạo,
dạy nghề đến mô hình, phương thức thực hiện.
Thứ ba, thực hiện tốt công tác định hướng nghề nghiệp trong đào tạo nhân lực.
Để thực hiện nhiệm vụ này cần “tăng cường quản lý nhà nước về nguồn nhân
lực, gắn kết cung - cầu. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo điều kiện hỗ trợ
dịch chuyển lao động và phân bố lao động hợp lý, hiệu quả” [27, tr.297]. Thực hiện
tốt khả năng dự báo nhu cầu ngành nghề hiện tại và xu thế phát triển trong tương
lai. Trên cơ sở đó các cơ sở đào tạo xây dựng chiến lược phát triển dạy nghề theo
nhu cầu ngành nghề thực tế của xã hội. Đẩy mạnh công tác hướng nghiệp, nhất là từ
cấp học phổ thông, để học sinh lựa chọn đúng nghề nghiệp phù hợp với năng lực
bản thân và nhu cầu của xã hội, tránh tình trạng lãng phí trong đào tạo nhân lực như
hiện nay.
Thứ tư, đẩy mạnh xã hội hoá trong đào tạo, chú trọng phối hợp giữa doanh
nghiệp với cơ sở đào tạo và nhà nước để đào tạo nhân lực.
Nhà nước cần tập trung đổi mới các cơ sở đào tạo nghề theo hướng xã hội hoá
và hiện đại hoá. Từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách xã hội hoá đào tạo để
không chỉ nhà nước làm công tác đào tạo mà là toàn xã hội tham gia công tác đào
tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
quốc tế.
Để khắc phục sự mất cân đối giữa cung - cầu trong đào tạo nhân lực, các cơ sở
đào tạo cần phải hướng đào tạo gắn với việc làm, đào tạo với sử dụng, đào tạo theo
nhu cầu xã hội. Trong quá trình đào tạo cần “thực hiện liên kết chặt chẽ giữa các
doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo và nhà nước để phát triển
nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội” [26, tr.130].
Cần đẩy mạnh công tác đào tạo nghề trong doanh nghiệp với cả ba cấp trình
độ (sơ cấp, trung cấp, cao đẳng nghề), trong đó chú trọng loại hình đào tạo trung
cấp và cao đẳng nghề. Thông qua mô hình này công nhân vừa được trang bị lý
thuyết chuyên môn vừa được thực hành trực tiếp trên các dây chuyền sản xuất hiện
đại. Để làm được điều này nhà nước cần khuyến khích, tạo điều kiện để các doanh
nghiệp tham gia trực tiếp đào tạo nghề phục vụ cho nhu cầu sản xuất. Cần hỗ trợ
131
các cơ sở dạy nghề trong doanh nghiệp về vốn, địa điểm, cơ sở vật chất, trang thiết
bị dạy nghề, miễn thuế thu nhập từ dạy nghề và các ưu đãi khác.
Nhà nước cần ban hành cơ chế để “đẩy mạnh dạy nghề và gắn kết đào tạo với
doanh nghiệp” [27, tr.297]. Doanh nghiệp cùng với các cơ sở đào tạo cùng tham gia
liên kết đào tạo nghề.. Thực hiện nhiệm vụ này vừa đào tạo được đội ngũ công nhân
gắn với nhu cầu thực tế doanh nghiệp, vừa giúp các cơ sở đào tạo khắc phục những
khó khăn trong đào tạo, nhất là cơ sở thực hành, gắn lý thuyết đào tạo với thực tiễn
sản xuất. Vì vậy, nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý, đầu mối trung gian cần
khuyến khích và hỗ trợ mô hình này phát triển để từng bước khắc phục những hạn
chế và bất cập trong công tác đào tạo nhân lực hiện nay.
Thứ năm, nâng cao chất lượng đào tạo đối với đội ngũ công nhân đi lao động
ở nước ngoài.
Việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài là một chủ trương lớn của Đảng
và Nhà nước ta, góp phần giải quyết việc làm, phân công lại lực lượng lao động xã
hội, nâng cao tay nghề, thu nhập, ổn định đời sống cho người lao động. Thời gian
qua hiệu quả của xuất khẩu lao động là rất rõ nét, người lao động không những có
thu nhập tốt hơn, mà còn có điều kiện tiếp cận, học hỏi về trình độ tay nghề, kỹ
năng sống và làm việc trong môi trường hiện đại, sau khi về nước lực lượng lao
động này sẽ tiếp cận nhanh với môi trường công nghiệp hiện đại của đất nước.
Trong điều kiện hội nhập hiện nay, phải “tăng cường quản lý, mở rộng thị trường và
nâng cao hiệu quả đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài” [27, tr.276]. Do
đó, để đáp ứng yêu cầu thị trường lao động quốc tế về chất lượng lao động với tính
cạnh tranh ngày càng cao, thì lực lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài cần được
đào tạo bài bản, chú trọng nâng cao chất lượng tay nghề theo chuẩn quốc tế, trang bị
trình độ ngoại ngữ, kỹ năng sống và làm việc để công nhân lao động nước ta chủ
động trong hội nhập vào thị trường lao động quốc tế và khu vực.
Thứ sáu, thực hiện hợp tác quốc tế về đào tạo nhân lực, góp phần đào tạo
được đội ngũ công nhân theo chuẩn quốc tế.
Cần hiện thực hoá quan điểm “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát
triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội
132
nhập quốc tế để phát triển đất nước” [31, tr.121]. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và
hội nhập quốc tế, giáo dục đào tạo đã vượt ra khỏi biên giới về địa lý, ngôn ngữ và
văn hoá. Các chương trình đào tạo trên thị trường quốc tế ngày càng phong phú về
nội dung và hình thức, từ hợp tác đào tạo tại nước ngoài dưới những hình thức khác
nhau đến liên kết đào tạo tại nước sở tại. Một số nước phát triển đi trước đã nhận
thấy vai trò của hợp tác quốc tế về đào tạo nhân lực nên đã mở cửa giao lưu với thế
giới để hợp tác, liên kết đào tạo nhân lực phục vụ cho quá trình phát triển đất nước.
Hiện nay chất lượng của giai cấp công nhân nước ta đang còn rất hạn chế về
trình độ chuyên môn nghề nghiệp, kỹ năng quản lý, chưa đáp ứng được tiêu chuẩn
hội nhập quốc tế. Trước thực trạng đó, việc đẩy mạnh hợp tác, liên kết đào tạo quốc
tế, đặc biệt là với các nước có khoa học - công nghệ tiên tiến, có nền giáo dục phát
triển được xem là giải pháp hiệu quả để đào tạo được đội ngũ công nhân đáp ứng
yêu cầu hội nhập quốc tế hiện nay.
4.2.3. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật
nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của giai cấp công nhân
trong quá trình hội nhập quốc tế
Hệ thống chính sách, pháp luật là những quy định mang tính pháp lý nhằm bảo
đảm quyền lợi và nghĩa vụ đối với người lao động, là một nội dung quan trọng gắn
liền với người lao động. Trong quá trình hội nhập quốc tế của nước ta cùng với việc
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hệ thống chính
sách, pháp luật về lao động cũng được đổi mới, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Việc
tạo ra hành lang pháp lý đã tạo điều kiện quan trọng cho việc hình thành và phát
triển thị trường lao động, góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động. Chất lượng nguồn
nhân lực từng bước được nâng cao đáp ứng nhu cầu của thị trường, doanh nghiệp;
tiêu chuẩn lao động cơ bản được bảo đảm, quan hệ lao động hình thành và hướng
đến sự hài hòa ổn định; vấn đề an sinh xã hội, nhất là việc bảo đảm ổn định cuộc
sống cho các đối tượng yếu thế, bị tác động bởi quá trình công nghiệp hoá và hội
nhập quốc tế được đặt ra và quan tâm thực hiện.
Hiện nay, trong hội nhập bên cạnh những tác động tích cực đến quá trình phát
triển của giai cấp công nhân nước ta, thì tác động tiêu cực làm cho lợi ích, địa vị và
133
vai trò của giai cấp công nhân chưa được phát huy đầy đủ, đang tạo ra sự phân
tầng xã hội, phân hoá giàu nghèo trong nội bộ giai cấp công nhân. Trong đó, có
một bộ phận công nhân, nhất là đội ngũ công nhân trong các doanh nghiệp ngoài
nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, lao động giản đơn chưa được
đảm bảo về quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng, quyền làm chủ của công nhân
chưa được phát huy đầy đủ. Mặc dù Đảng và Nhà nước cũng đã quan tâm đến việc
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho giai cấp công nhân, bằng việc xây
dựng, ban hành nhiều chính sách, pháp luật. Tuy nhiên, những chính sách, pháp
luật hiện hành đang bọc lộ nhiều hạn chế, bất cập, không đáp ứng được những
thay đổi của tình hình phát triển kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế. Có nhiều
biểu hiện coi trọng thu hút đầu tư và vai trò người sử dụng lao động, nên chưa
thực sự quan tâm thích đáng đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của công nhân lao động. Việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật đối với
giai cấp công nhân còn nhiều thiếu sót, thiếu chế tài cần thiết và xử lý không
nghiêm những tổ chức, cá nhân vi phạm.
Vì vậy, để ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục tác động tiêu cực của hội nhập
quốc tế đến sự biến đổi của giai cấp công nhân nước ta, thì bên cạnh coi trọng phát
triển kinh tế cần quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho giai cấp công
nhân. Trong đó cần phải “bảo đảm việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện
làm việc, nhà ở, các công trình phúc lợi phục vụ cho công nhân; sửa đổi, bổ sung
các chính sách, pháp luật về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm
thất nghiệp,... để bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của công
nhân” [27, tr.160]. Trước mắt cần phải thực hiện mấy nhiệm vụ chủ yếu sau:
Thứ nhất, hoàn thiện và thực hiện hiệu quả chính sách việc làm cho công nhân.
Đây là vấn đề người công nhân quan tâm nhất, là một vấn đề xã hội bức xúc.
Hiện nay, trong xã hội hiện tượng công nhân không có việc làm hoặc việc làm
không ổn định đang xảy ra ở tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là những lao động phổ
thông. Về lâu dài, cùng với tăng trưởng kinh tế và phát triển sản xuất, thì việc làm
cho giai cấp công nhân phải từng bước được giải quyết, nhằm “tạo cơ hội để mọi
người có việc làm và nâng cao thu nhập” [27, tr.136].
134
Trước mắt, cần phải đẩy mạnh triển khai và thực hiện tốt chương trình quốc
gia về giải quyết việc làm, đồng thời tổ chức thực hiện kiểm tra, giám sát việc thi
hành Luật Lao động ở tất cả các doanh nghiệp, nhất là tại các doanh nghiệp ngoài
nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Cần phát triển thị trường lao động theo hướng phong phú, đa dạng để sử dụng
lao động ở mọi trình độ, ngành nghề khác nhau, mở ra khả năng thu hút để thị
trường lao động phát triển.
Hoàn thiện chính sách, pháp luật tạo điều kiện để mọi cá nhân, tổ chức, thành
phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh một cách thuận lợi nhất để tạo nhiều việc
làm, phát triển thị trường lao động.
Xây dựng hệ thống chính sách tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho thanh
niên khởi nghiệp, đặc biệt là sinh viên mới tốt nghiệp ra trường để họ vận dụng
những kiến thức đã học vào thực tiễn sản xuất kinh doanh. Điều này có ý nghĩa vừa
phát huy mọi tiềm năng của nguồn nhân lực vào phát triển kinh tế - xã hội, vừa tạo
ra nhiều cơ hội việc làm cho công nhân lao động.
Mở rộng dịch vụ tư vấn lao động, việc làm có sự quản lý của nhà nước đến từng
địa phương để người lao động dễ tiếp cận. Phát triển và quản lý tốt các sàn giao dịch
việc làm ở các vùng đô thị có khu công nghiệp, khu chế xuất phát triển. Đa dạng hóa
các kênh giao dịch việc làm trên thị trường, kết nối liên thông, trực tuyến giữa các vùng
miền để người công nhân có nhiều cơ hội tiếp cận tìm việc làm phù hợp.
Mở rộng thị trường lao động ngoài nước, đơn giản hoá các thủ tục và điều kiện
xuất khẩu lao động để đưa người lao động ra nước ngoài làm việc.
Phát triển và thực hiện hiệu quả quỹ hỗ trợ giải quyết việc làm. Hiện nay, quy
mô của quỹ còn nhỏ, mới chỉ đáp ứng được 20% nhu cầu về giải quyết việc làm.
Cần phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của quỹ, đồng thời có chính sách đẩy
mạnh hỗ trợ vay vốn giải quyết việc làm ở cơ sở.
Thứ hai, hoàn thiện chính sách tiền lương phù hợp, đảm bảo sự công bằng
trong phân phối thu nhập cho công nhân lao động.
Chính sách tiền lương phải được thực hiện theo nguyên tắc phân phối theo thị
trường, đồng thời phải tính đến bảo đảm lợi ích cho những lao động yếu thế trên thị
135
trường lao động, nhằm từng bước khắc phục sự phân hoá giàu nghèo, phân tầng xã
hội trong công nhân hiện nay.
Cần nghiên cứu để ban hành Luật Tiền lương tối thiểu, nâng lương tối thiểu
đối với khu vực sản xuất kinh doanh phải bảo đảm mức sống tối thiểu của người
lao động. Quy định các quy tắc xây dựng thang lương, bảng lương để người lao
động và người sử dụng lao động có cơ sở xác định tiền lương hợp lý. Trong đó,
phải “bảo đảm tiền lương, thu nhập công bằng, đủ điều kiện sống và tái sản xuất
sức lao động” [27, tr.136]. Mặc dù thời gian qua hàng năm chúng ta đều thực
hiện tăng mức lương tối thiểu vùng, làm cơ sở để doanh nghiệp trả lương tương
xứng cho người lao động. Nhưng việc tăng lương này đang cho thấy sự bất cập,
nó chỉ có ý nghĩa tăng số tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp. Trên thực tế, tiền lương ở nhiều doanh nghiệp không thay đổi, vì đã trên
mức tổi thiểu. Nhiều doanh nghiệp khó khăn, nên chỉ trả tương đương với mức
lương tối thiểu vùng hoặc điều chỉnh tăng lương theo quy định, nhưng lại cắt
giảm một số phụ cấp cho người lao động. Do đó, đời sống của người lao động
không có sự thay đổi nhiều sau tăng lương tối thiểu, thậm chí có nơi còn khó
khăn hơn, vì sự tăng giá của tư liệu sinh hoạt. Giữa doanh nghiệp, người lao
động và nhà nước chưa có tiếng nói chung trong thỏa thuận tăng lương tối thiểu.
Vì vậy, pháp luật phải có quy định chặt chẽ để điều chỉnh chính sách tiền lương
và thu nhập cho công nhân, “thực hiện điều chỉnh mức lương cơ sở, mức lương
tối thiểu theo lộ trình phù hợp, bảo đảm mức sống tối thiểu của người lao động”
[27, 301]. Phân phối tiền lương và thu nhập cho công nhân phải bảo đảm nguyên
tắc quan hệ hài hoà lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động. Người
lao động phải được trả lương và thu nhập thoả đáng, nhưng cũng phải đặt trong
mối tương quan với sự phát triển của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế. Đây
vừa là lợi ích của người lao động, đồng thời cũng là lợi ích của doanh nghiệp,
khi người lao động đủ sống và tái sản xuất được sức lao động thì năng suất lao
động và hiệu quả công việc sẽ được đảm bảo.
136
Thứ ba, đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong doanh nghiệp, nhất là
trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Như đã phân tích ở trên, do đặc thù sở hữu nên trong thực tế địa vị và vai trò
làm chủ của phần lớn công nhân nước ta hiện nay chưa được phát huy. Điều này
đang ảnh hưởng rất lớn đến quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân nước ta. Do đó, trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng, phát huy quyền làm
chủ của từng người lao động nói riêng, của giai cấp công nhân nói chung là rất quan
trọng. Điều này nó vừa thể hiện địa vị, vai trò làm chủ, lãnh đạo của giai cấp công
nhân vừa bảo đảm quyền và lợi ích cho người lao động. Phát huy quyền làm chủ
của công nhân còn là nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cơ quan nhà nước
và công tác quản lý doanh nghiệp.
Vì vậy, để phát huy vai trò làm chủ của công nhân lao động, nhà nước cần tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật, nhằm phát huy quyền dân chủ
trực tiếp, dân chủ đại diện của công nhân, để công nhân được biết, được bàn, được
thông tin những vấn đề liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của công nhân. Pháp
luật phải hướng đến xây dựng quan hệ lao động hài hoà, đồng thuận, ổn định và tiến
bộ trong doanh nghiệp là vấn đề vừa có tính chiến lược lâu dài vừa mang tính cấp
bách hiện nay.
Công cụ hiệu quả nhất để xây dựng quan hệ lao động hài hoà, đồng thuận,
phát huy quyền làm chủ của công nhân là thực hiện cơ chế thoả thuận giữa các bên.
Đó là cơ chế thoả thuận dàn xếp, hợp tác trực tiếp giữa người sử dụng lao động với
người lao động (hoặc tổ chức đại diện người lao động) một cách chính thức, công
khai, dân chủ và thường xuyên, nhằm đạt được mục tiêu chung trong từng giai đoạn
phát triển của doanh nghiệp. Nếu làm được như vậy, thì sẽ phát huy được vai trò
làm chủ của công nhân, đặc biệt là đối với công nhân trong doanh nghiệp ngoài nhà
nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Để cụ thể hóa nội dung này, trước
hết cần thực hiện những vấn đề cơ bản sau:
Một là, tiếp tục xây dựng, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quan hệ
lao động nhằm tạo sân chơi bình đẳng, thúc đẩy quan hệ đối thoại, thương lượng,
137
thoả thuận giữa các bên về quan hệ lao động theo đúng nguyên tắc thị trường cung -
cầu về hàng hoá sức lao động.
Thời gian qua quan hệ lao động trong các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp
ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang tồn tại nhiều bất
hợp lý, việc vi phạm hợp đồng lao động của giới chủ doanh nghiệp đối với công
nhân lao động đang còn diễn ra nhiều và có diễn biến phức tạp. Vì vậy, để giải
quyết những vấn đề bức xúc của công nhân, nhà nước cần phải can thiệp bằng việc
bổ sung và sửa đổi các điều luật cho phù hợp với thực tiễn trong nước và hội nhập
quốc tế.
Hai là, nâng cao vai trò năng lực đại diện của các bên trong quan hệ tranh
chấp lao động, trong phân phối lợi ích kết quả sản xuất. Hàng năm các tổ chức đại
diện cho người lao động và người sử dụng lao động tổ chức các cuộc họp, gặp gỡ để
trao đổi, thoả thuận những vấn đề trong quan hệ lao động, đặc biệt là thoả thuận về
tiền lương, tiền thưởng, những chế độ và phúc lợi xã hội khác theo ngành nghề của
công nhân.
Ba là, đẩy mạnh phát triển đoàn viên và công đoàn cơ sở trong các doanh
nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Xây dựng tổ chức công đoàn lớn mạnh có đủ năng lực đại diện thực sự cho
người lao động trong thương lượng, đàm phán quan hệ lao động, bảo vệ lợi ích của
người lao động khi có tranh chấp xảy ra.
Bốn là, nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của Ủy ban Quan hệ lao động,
chú trọng cơ chế tham khảo các bên trong việc xây dựng luật pháp, chính sách lao
động, đảm bảo cân bằng lợi ích của các bên.
Trên cơ sở quy định của pháp luật thì nhà nước cần phải tổ chức thực hiện và
xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của công nhân. Bởi vì thực tế cho thấy ở đâu và khi nào vai trò của nhà
nước hiện diện và thể hiện rõ thì ở đó các doanh nghiệp thực hiện đầy đủ và bảo
đảm các quyền lợi cho công nhân, quan hệ lao động hài hòa. Ngược lại, ở đâu vai
trò quản lý nhà nước bị buông lỏng thì có sự quan hệ lao động phức tạp, mà ở đó
hầu hết lợi ích của người lao động bị vi phạm.
138
Thứ tư, hoàn thiện và phát triển hệ thống an sinh xã hội, mở rộng phúc lợi xã
hội cho công nhân.
Dưới tác động của kinh tế thị trường trong điều kiện hội nhập quốc tế, sự phân
hoá giàu nghèo dẫn đến phân tầng xã hội trong nội bộ giai cấp công nhân là khó
tránh khỏi. Tuy nhiên, để sự phân hoá, phân tầng diễn ra trong sự hợp lý thì cần
phải có các chính sách để hạn chế và khắc phục nhằm tạo ra sự công bằng, thống
nhất trong nội bộ giai cấp công nhân nước ta. Trong đó cần chú trọng phát triển hệ
thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội.
Chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cho công nhân cần chú trọng
hướng đến đối tượng là công nhân lao động giản đơn, khó khăn, yếu thế trên thị
trường lao động, để trợ giúp họ về việc làm, thu nhập, chổ ở, giáo dục, sức khỏe,...
Trong đó cần quan tâm đến chính sách hỗ trợ nhà ở, đây đang là vấn đề bức xúc,
khó khăn nhất của công nhân. Chổ ở ổn định thì công nhân mới có điều kiện để gắn
bó với công việc, với sự nghiệp mình đang theo đuổi. Vì vậy, cần quy định rõ trách
nhiệm của nhà nước, của người sử dụng lao động và người lao động trong phát triển
nhà ở. Nhà nước cần có chính sách miễn giảm tiền thuê, mua nhà ở hợp lý cho công
nhân, nhất là đối với công nhân nhập cư trong các khu công nghiệp tập trung. Có
chính sách vay vốn ưu đãi cho các doanh nghiệp vay xây dựng nhà ở cho công
nhân, tạo điều kiện về đất đai, quy hoạch và các thủ tục khác để các cá nhân, tổ
chức thuộc các thành phần kinh tế tham gia phát triển nhà ở cho công nhân.
Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cần có quy định cam kết
về xây dựng nhà ở cho công nhân như là một trong những điều kiện để cấp phép
cho đầu tư sản xuất kinh doanh. Nhà ở cho công nhân có thể được phân theo các
hạng mục khác nhau cho phù hợp với từng đối tượng và nhu cầu của công nhân lao
động, có thể là căn hộ nhỏ, khu chung cư, nhà ở ký túc xã,... Hạn chế tình trạng
công nhân không có nơi ở ổn định và phải đi thuê trọ bên ngoài như hiện nay.
Thứ năm, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
Cần đa dạng hoá và mở rộng loại hình, đối tượng tham gia các loại bảo hiểm.
Nghiên cứu loại hình bảo hiểm xã hội do doanh nghiệp tổ chức theo nguyên tắc tự
nguyện và cơ chế thoả thuận giữa các bên trong doanh nghiệp.
139
Nghiên cứu phát triển loại hình bảo hiểm xã hội tư nhân, xây dựng chính sách
bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, phát triển và tiến tới bảo hiểm y tế
toàn dân.
Bổ sung, sửa đổi các chế độ bảo hiểm xã hội còn bất hợp lý; điều chỉnh lương
hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội theo cơ chế tạo nguồn, độc lập tương đối với chính
sách tiền lương, giảm dần phần hỗ trợ từ ngân sách nhà nước; đảm bảo cân đối thu
chi bảo hiểm xã hội trên cơ sở mức “đóng - hưởng” tăng lên theo lộ trình của Luật
Bảo hiểm xã hội. Truy thu đầy đủ nợ đọng bảo hiểm xã hội, áp dụng các biện pháp
đầu tư hiệu quả từ quỹ bảo hiểm xã hội để bảo toàn và tăng trưởng bền vững quỹ.
Nghiên cứu tách bảo hiểm xã hội đối với khu vực hành chính sự nghiệp và khu
vực doanh nghiệp, đề bảo hiểm xã hội khu vực doanh nghiệp phát triển phù hợp với
cơ chế thị trường, tạo cơ hội cho công nhân lựa chọn tham gia nhiều loại hình bảo
hiểm, nhất là các loại hình bảo hiểm tự nguyện khác.
Thực hiện hiệu quả quy định về bảo hiểm thất nghiệp đối với người lao động.
Quy định cụ thể đối tượng tham gia, mức đóng góp, chế độ hưởng trợ cấp theo
hướng giải quyết nhanh gọn, đúng pháp luật để người lao động dễ tiếp cận.
Thứ sáu, xây dựng, ban hành và thực hiện hiệu quả quy định về xây dựng thiết
chế văn hoá - xã hội cho công nhân trong doanh nghiệp.
Trước những khó khăn, bức xúc về các điều kiện phục vụ đời sống văn hoá
tinh thần của giai cấp công nhân, nhất là công nhân trong các doanh nghiệp ngoài
nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thì xây dựng thiết chế văn hoá
- xã hội cho công nhân trong doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng, nhằm bảo
đảm đời sống văn hoá tinh thần cho giai cấp công nhân trong quá trình hội nhập
quốc tế. Vì vậy, phát triển khu công nghiệp phải đi đôi với việc phát triển các công
trình văn hoá - xã hội phục vụ công nhân. Nhà nước cần phải ban hành tiêu chí cụ
thể về xây dựng thiết chế văn hoá - xã hội tại các khu công nghiệp, đồng thời phải
tạo ra điều kiện và yêu cầu các doanh nghiệp phải quán triệt, thực hiện hiệu quả.
Thiết chế văn hoá - xã hội phải bảo đảm được các yêu cầu như: xây các công trình
văn hoá, thể thao, nhà sinh hoạt cộng đồng, nhà trẻ, trường học, các khu vui chơi
giải trí, trang bị đầy đủ các phương tiện nghe nhìn, sách báo, những tài liệu tham
140
khảo liên quan đến đời sống và việc làm của công nhân, tạo điều kiện để công nhân
có thời gian và môi trường tham gia các sinh hoạt văn hoá, văn nghệ, thể thao.
4.2.4. Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng
cho giai cấp công nhân trong quá trình hội nhập quốc tế
Nâng cao giác ngộ chính trị cho giai cấp công nhân vừa là đòi hỏi bức thiết,
đồng thời là việc làm thường xuyên. Đặc biệt, trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, giao lưu quốc tế càng
được mở rộng, đối tác ngày càng đa dạng và phức tạp, thì việc nâng cao ý thức giác
ngộ chính trị cho giai cấp công nhân trở thành vấn đề có tính cấp thiết, nhằm làm
cho giai cấp công nhân luôn là lực lượng cách mạng, giữ vững bản sắc văn hoá dân
tộc. Muốn thế, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, đảm bảo tính thống
nhất về nội dung và nhận thức từ trung ương xuống địa phương, cơ sở, từ tổ chức
Đảng đến cơ quan Nhà nước, công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác. Quá
trình đó cần có nhiều lực lượng tham gia, phải bằng nhiều phương pháp và hình
thức đa dạng, sử dụng tổng hợp các biện pháp chính trị, tư tưởng, kinh tế, pháp luật,
hành chính sao cho phù hợp với từng đối tượng công nhân. Thông qua đó, giáo dục,
rèn luyện, xây dựng giai cấp công nhân về ý thức công dân, lòng yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao bản lĩnh chính trị, tinh
thần cảnh giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến
hoà bình” của các thế lực thù địch. Xây dựng cho công nhân có lối sống văn hoá, có
ý chí vươn lên, thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, có quyết tâm chiến thắng trong cạnh
tranh, làm giàu cho bản thân, gia đình và xã hội, góp phần xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc.
Hiện nay, trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, bên cạnh bộ
phận công nhân vẫn giữ vững bản chất cách mạng, thì có một bộ phận công nhân xa
rời lý tưởng cách mạng, suy thoái về đạo đức, lối sống. Trong khi đó nội dung,
phương thức và điều kiện để thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư
tưởng cho giai cấp công nhân còn nhiều hạn chế, khó khăn, bất cập, cần được đổi
mới để nâng hiệu quả, nhằm nâng cao lập trường giai cấp, bảo đảm tính thống nhất
về chính trị, tư tưởng cho giai cấp công nhân nước ta.
141
Trước hết, đổi mới nội dung và hình thức giáo dục chính trị, tư tưởng cho giai
cấp công nhân.
Lâu nay công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho công nhân còn nặng về lý
thuyết, thiếu sự gắn bó giữa lý luận với thực tiễn, nhất là những vấn đề đặt ra trong
đời sống vật chất và tinh thần của giai cấp công nhân trong sự biến đổi chung của
đời sống xã hội. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả, trước hết cần phải đổi mới nội dung
và hình thức giáo dục, không phải bằng những bài lý luận chung chung, mà phải
trên cơ sở thông tin giáo dục, hướng dẫn khoa học để xây dựng niềm tin khoa học
vững chắc cho công nhân, để cho giai cấp công nhân nhận thức rõ rằng: sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội có thành công hay không hoàn toàn phụ thuộc vào nỗ lực
của bản thân mỗi công nhân cũng như của giai cấp công nhân.
Đổi mới nội dung và hình thức thức tuyên truyền, giáo dục cần đa dạng hóa,
linh hoạt, mềm dẻo khi áp dụng các hình thức. Giáo dục không dừng lại ở lý thuyết,
mà phải bằng nghệ thuật tuyên truyền với nhiều hình thức phong phú, hấp dẫn, sinh
động. Do đó, người làm công tác tuyên truyền, giáo dục phải năng động tìm tòi, lựa
chọn những hình thức cho phù hợp với từng đối tượng. Như tổ chức các đợt học
tập; tổ chức tọa đàm trao đổi; tổ chức tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với công nhân lao
động; giao lưu gặp gỡ các gương điển hình tiên tiến trong lao động sản xuất,... goài
ra, có thể soạn thảo và phát hành tờ rơi, với những nội dung thật ngắn gọn, cô động,
sinh động, dễ hiểu để người đọc dễ tiếp cận, nhất là đối với công nhân có trình độ
văn hóa hạn chế.
Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho giai cấp công nhân
phải tiến hành thường xuyên, bền bỉ, không hình thức, bám sát thực tiễn, chú trọng
vào nội dung trọng tâm đang cần tuyên truyền, giáo dục. Ngoài ra, cần gắn công tác
tuyên truyền, giáo dục, vận động với thực hiện các biện pháp kinh tế, động viên về
mặt vật chất, tinh thần đối với công nhân lao động có ý chí phấn đấu, rèn luyện
nâng cao lập trường tư tưởng, có ý thức giai cấp, tinh thần dân tộc, chấp hành tốt
nội quy và kỷ luật lao động.
Đổi mới nội dung và hình thức thức giáo dục chính trị, tư tưởng cần có sự chú
ý đến từng đối tượng công nhân trong những điều kiện cụ thể khác nhau, mà trước
142
hết là phải giáo dục cho công nhân khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Bởi những khu vực kinh tế này đang ngày càng
tập trung đông đảo công nhân, lao động trẻ, phần lớn xuất thân từ nông thôn, giác
ngộ về chính trị, am hiểu về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước, ý thức giai cấp, ý thức dân tộc, tính tổ chức kỷ luật và tác phong lao
động công nghiệp còn nhiều hạn chế. Mặt khác, cần chú ý tính khác biệt, đặc thù
giữa các đối tượng công nhân trong từng loại hình cơ sở sản xuất, sự khác biệt về
trình độ, tâm lý, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp để có biện pháp, hình thức tuyên
truyền, giáo dục cho phù hợp.
Ngoài ra, cần phải đẩy mạnh công tác giáo dục đối với đội ngũ cán bộ đảng
viên, đặc biệt là những người lãnh đạo, làm công tác quản lý. Bởi vì đây là lực
lượng đi đầu trong việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước, để làm cho toàn thể công nhân lao động tin theo, ủng hộ đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Thứ hai, tiếp tục kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức
chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp của giai cấp công nhân trong doanh nghiệp,
nhất là trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài.
Các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp, chính đáng của giai cấp công nhân, cũng như đối với việc tuyên
truyền giáo dục chính trị, tư tưởng. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập quốc tế thì
vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp nói chung, đặc biệt
là trong doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
còn nhiều hạn chế, mờ nhạt. Do đó, để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng cho giai cấp công nhân cần phải xây dựng, kiện toàn và phát huy vai
trò của các tổ chức chính trị - xã hội, mà trước hết là vai trò của tổ chức công đoàn,
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ chức xã hội nghề nghiệp khác.
Cần phải đổi mới tổ chức công đoàn, để “nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ
chức công đoàn, thực sự đại diện quyền lợi cho người lao động, giải quyết kịp thời
các tranh chấp” [27, tr.301]. Phải sửa đổi, bổ sung Luật Công đoàn cho sát với thực
143
tiễn, có tính khả thi cao, phù hợp với những quy định của Hiến pháp, Bộ luật Lao
động, Luật Doanh nghiệp và các văn bản pháp luật liên quan. Xác định rõ vị trí,
chức năng, quyền và cơ chế đảm bảo để công đoàn thực hiện tốt chức năng trong
quá trình hội nhập quốc tế. Quan trọng hơn, trên cơ sở những quy định của luật
pháp, phải yêu cầu, động viên các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài nhà
nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải cho thành lập và tạo điều kiện
để công đoàn hoạt động hiệu quả theo đúng chức năng, nhiệm vụ. Thời gian tới, khi
các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới được thông qua và có hiệu lực, thì vai trò
của công đoàn phải được giữ vững và phát huy, nếu không sẽ mất dần vai trò của
mình với tư cách là tổ chức bảo vệ quyền lợi và tuyên truyền giáo dục chính trị, tư
tưởng cho công nhân lao động.
Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động của tổ chức công đoàn
các cấp để công đoàn ngày càng xứng đáng là tổ chức bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của người lao động. Ở các doanh nghiệp đông công nhân cần phải
thành lập cán bộ công đoàn chuyên trách, nghiên cứu việc cơ cấu đại diện công
đoàn vào thường vụ cấp ủy ở những nơi có nhiều khu công nghiệp, đông công nhân.
Công đoàn cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục công nhân nâng
cao giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, ý thức tự lực, tự cường, tinh thần cảnh giác
cách mạng, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa; tập hợp trí tuệ công nhân, phối
hợp với các tổ chức đại diện quyền lợi cho công nhân trong doanh nghiệp để tham
gia xây dựng, bổ sung, sửa đổi và thực hiện chính sách, pháp luật.
Công đoàn cần chủ động trong việc phối hợp với các thành viên của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, trước hết là với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Phát triển mạnh mẽ quan
hệ phối hợp này, công đoàn sẽ có thêm điều kiện thuận lợi để thu hút, tập hợp đông
đảo hơn vào đội ngũ của mình những người lao động theo giới tính, lứa tuổi, ngành
nghề để tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quá trình tổ chức thực hiện nghị quyết của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Công đoàn cần chủ động mở rộng quan hệ với các tổ chức công đoàn trên thế
giới và trong khu vực để chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm, đồng thời để khẳng định vị
144
trí và vai trò của công đoàn để công đoàn các nước trên thế giới và khu vực hiểu,
ủng hộ, hợp tác với Công đoàn Việt Nam trong sự nghiệp vì quyền lợi của công
nhân lao động, vì sự lớn mạnh của giai cấp công nhân Việt Nam trong điều kiện hội
nhập quốc tế.
Các cấp công đoàn cần tập trung xây dựng cho được đội ngũ cán bộ, nhất là
cán bộ làm công tác tuyên truyền, giáo dục đảm bảo về số lượng, đồng bộ về cơ
cấu, có trình độ văn hóa cao, trình độ chuyên môn nghề nghiệp giỏi, phẩm chất đạo
đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng. Biết hy sinh, tâm huyết với nghề, sống sâu
và hiểu đời sống công nhân, biết tường tận đời sống công nhân, biết xác định một
cách chắc chắn, bất cứ vấn đề nào, lúc nào tâm trạng của quần chúng, nhu cầu,
nguyện vọng, những suy nghĩ thực sự của công nhân,… Biết chiếm được lòng tin
cậy, chỗ dựa vững chắc của công nhân lao động bằng một thái độ hữu ái đối với
công nhân bằng cách quan tâm thỏa mãn những nhu cầu của công nhân.
Đối với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên
Việt Nam cần đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức trong các
doanh nghiệp. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, đa dạng hóa các loại hình,
hình thức tập hợp, vận động thanh niên làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động Đoàn và Hội. Đây là vấn đề khó
cần phải có cơ chế khuyến khích động viên để cho đoàn viên thấy được lợi ích thiết
thân khi tham gia vào các hoạt động này.
Hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp
Thanh niên Việt Nam trong các doanh nghiệp cần tập trung vào việc tạo điều kiện,
không ngừng nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp, cổ
vũ và khơi dậy tiềm năng sáng tạo trong thanh niên là công nhân. Để làm được điều
đó cần thường xuyên nắm bắt tâm tư, nguyện vọng để phối hợp với tổ chức công
đoàn bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích, tư vấn hỗ trợ về mặt pháp lý bảo vệ thanh
niên công nhân.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế sẽ thúc đẩy hình thành các tổ chức xã hội
nghề nghiệp như hiệp hội ngành nghề, câu lạc bộ sáng tạo khoa học - công nghệ,
câu lạc bộ truyền nghề của công nhân, các câu lạc bộ sở thích của công nhân... Vì
145
vậy, bên cạnh khuyến khích tạo cơ chế và điều kiện để các tổ chức hội này được
thành lập và hoạt động hiện quả, thì Đảng và Nhà nước cần phải định hướng các
tổ chức xã hội nghề nghiệp của công nhân hoạt động đúng tôn chỉ mục đích. Đồng
thời biết khai thác để lồng ghép các hoạt động của hội hướng vào việc tuyên
truyền về nội dung đường lối, chủ trường của Đảng và chính sách pháp luật của
Nhà nước.
Thứ ba, đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
trong doanh nghiệp, nhất là trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bằng việc xây dựng, củng cố hệ thống
chính trị cơ sở trong các loại hình doanh nghiệp, trong đó quan tâm đến các loại
hình doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cần
hoàn thiện tổ chức cơ sở đảng theo hướng gắn tổ chức cơ sở đảng với lãnh đạo thực
hiện nhiệm vụ chính trị và lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội, chú trọng kết nạp
đảng viên trong công nhân, nhất là trong những doanh nghiệp chưa có tổ chức đảng,
chưa có đảng viên. Để thực hiện được nhiệm vụ này cần làm tốt những nội dung
chủ yếu sau:
Một là, nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành và cán bộ, đảng viên về vị
trí, tầm quan trọng của tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp đối với việc phát
triển kinh tế - xã hội, đối với xây dựng và phát triển giai cấp công nhân. Trên cơ sở
đó chỉ đạo thực hiện kiên quyết, bổ sung quy định chế tài cụ thể, đủ mạnh trong các
luật để thực hiện nghiêm túc việc thành lập, hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng
tại các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Đồng thời coi trọng tuyên
truyền, vận động, thuyết phục, khuyến khích các chủ doanh nghiệp tư nhân và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiểu đúng, đầy đủ, đồng hành, ủng hộ, tạo
điều kiện để tổ chức đảng được thành lập và hoạt động thuận lợi, hiệu quả.
Hai là, trên cơ sở chức năng và nhiệm vụ, xuất phát từ điều kiện cụ thể của
doanh nghiệp, đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện nghiêm quy chế hoạt động của
tổ chức cơ sở đảng. Qua đó để thu hút và tạo điều kiện để công nhân tham gia sinh
hoạt đảng, phát hiện và bồi dưỡng những đoàn viên ưu tú kết nạp vào Đảng, nhất là
146
trong doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là
nhiệm vụ hết sức quan trọng trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.
Ba là, mở rộng dân chủ trong sinh hoạt đảng ở cơ sở, không ngừng đổi mới và
nâng cao sinh hoạt chi bộ trong các doanh nghiệp để chất lượng sinh hoạt đảng ngày
càng đảm bảo và nâng cao chất lượng. Tránh tình trạng sinh hoạt đảng mang tính
hình thức, chiếu lệ; phát huy vai trò và trách nhiệm của mỗi đảng viên để sinh hoạt
đảng ở cơ sở thực sự là môi trường sinh hoạt chính trị tư tưởng hiệu quả.
Bốn là, có chính sách động viên về vật chất, khuyến khích về tinh thần đối với
đội ngũ cán bộ đảng ở doanh nghiệp. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao năng lực, phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, nhiệt tình, tâm huyết và kỹ
năng công tác cho cán bộ đảng ở doanh nghiệp, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của tổ chức đảng, góp phần xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh.
Năm là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng cấp trên đối với
tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp. Sự lãnh đạo của Đảng phải thực hiện
phương châm hướng về cơ sở, phục vụ cơ sở, cùng cơ sở tháo gỡ những khó khăn
vướng mắc, nhất là những tổ chức cơ sở đảng yếu kém. Đồng thời khắc phục bệnh
quan liêu, hành chính của cấp ủy cấp trên.
Việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh, tăng cường sự lãnh đạo của
đảng trong công nhân vừa có tính nguyên tắc, vừa có ý nghĩa quyết định đến tăng
cường sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, nâng cao giác ngộ chính trị cho giai cấp
công nhân là điều kiện cơ bản, quan trọng bảo đảm cho việc thực hiện vai trò tổ
chức, lãnh đạo của giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước và hội nhập quốc tế.
Kết luận chương 4
Để phát huy sự biến đổi tích cực, ngăn ngừa và hạn chế sự biến đổi tiêu cực
của giai cấp công nhân nước ta dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay, chúng
ta cần nắm vững, quán triệt và thực hiện tốt các quan điểm cơ bản: 1. Trong hội
nhập quốc tế cần chú trọng xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, chất
lượng và cơ cấu hợp lý; 2. Kết hợp giữa phát triển kinh tế với chăm lo đời sống vật
147
chất và tinh thần cho giai cấp công nhân trong hội nhập quốc tế; 3. Chú trọng, tăng
cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho giai cấp công nhân trong hội nhập
quốc tế.
Trên cơ sở quán triệt các quan điểm cơ bản trên đây, cần thực hiện đồng bộ
các nhóm giải pháp chủ yếu. Đó là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội
nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo, nhất là đào tạo nghề góp phần từng bước
trí thức hoá giai cấp công nhân đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế. Hoàn thiện
và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật nhằm đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của giai cấp công nhân trong quá trình hội nhập quốc tế. Đổi
mới và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho giai cấp công
nhân trong quá trình hội nhập quốc tế.
Những định hướng và giải pháp nêu trên phải được nhận thức và triển khai
đồng bộ mới phát huy tối đa sự biến đổi tích cực và ngăn ngừa, hạn chế sự biến đổi
tiêu cực để xây dựng giai cấp công nhân ngày càng lớn mạnh, xứng đáng đi tiên
phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
148
KẾT LUẬN
1. Giai cấp công nhân là phạm trù lịch sử, có quá trình ra đời, tồn tại và phát
triển. Những luận giải của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp công nhân và sự vận
động, biến đổi của nó cùng quá trình phát triển xã hội đến nay vẫn còn nguyên ý
nghĩa. Mặc dù giai cấp công nhân hiện nay đã có thêm những biểu hiện, đặc trưng
mới, nhưng về bản chất vẫn là giai cấp cách mạng, đại biểu cho lực lượng sản xuất
hiện đại, có sứ mệnh xoá bỏ chế độ áp bức, bóc lột, xây dựng chế độ xã hội mới -
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tiếp
nhận, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn nước ta để chỉ rõ địa vị và vai trò của giai
cấp công nhân Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng. Thông qua đội tiên phong
Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo, đồng thời là
động lực chủ yếu của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc trước đây cũng như
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay. Trong quá trình đổi mới và
hội nhập quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam có sự biến đổi nhanh trên nhiều
phương diện. Vì vậy, vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh để làm rõ sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay là
nhiệm vụ rất quan trọng.
2. Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, mở rộng quan hệ đối ngoại
và hội nhập quốc tế là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Từ nhận thức đến
thực tiễn hội nhập quốc tế thời gian qua đã đạt được những thành tựu quan trọng, có
ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hiện nay,
hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng sâu rộng và toàn diện trên tất cả các lĩnh
vực: kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh. Trong đó trọng tâm
vẫn là hội nhập kinh tế quốc tế, hội nhập các lĩnh vực khác phải tạo điều kiện thuận
lợi cho hội nhập kinh tế phát triển. Trong quá trình đó đã và đang tác động đến sự
chuyển biến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó có sự biến đổi của giai
cấp công nhân nước ta.
3. Quá trình hội nhập quốc tế nó đã và đang tác động làm giai cấp công nhân
nước ta biến đổi nhanh trên nhiều phương diện, có những biến đổi tích cực, đồng
149
thời cũng có những biến đổi tiêu cực. Đó là, quá trình chuyển đổi thể chế và cơ cấu
nền kinh tế theo hướng phát triển kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hoá
làm cho giai cấp công nhân nước ta phát triển nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu
thành phần và ngành nghề. Sự tiếp nhận và chuyển giao khoa học - công nghệ, sự
hình thành và phát triển kinh tế tri thức, giai cấp công nhân nước ta được nâng cao
trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp, hình thành tác phong và kỷ luật lao
động theo hướng hiện đại. Sự phân công và hợp tác quốc tế về lao động diễn ra
ngày càng sâu rộng giữa các nước trong khu vực và trên thế giới đã tạo ra nhiều cơ
hội việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho giai cấp công nhân.
Mặt khác, hội nhập quốc tế cũng đồng thời có những tác động làm giai cấp công
nhân nước ta biến đổi tiêu cực như: lợi ích và vai trò của một bộ phận công nhân,
nhất là công nhân lao động giản đơn, công nhân lao động trong doanh nghiệp ngoài
nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa được phát huy đầy đủ. Sự
phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo trong nội bộ ngày càng sâu sắc, ảnh hưởng
đến tính thống nhất, đoàn kết của giai cấp công nhân nước ta. Lập trường giai cấp,
bản lĩnh chính trị, lý tưởng cách mạng của một bộ phận công nhân bị phai nhạt, chịu
ảnh hưởng của lối sống tiêu cực, thực dụng chủ nghĩa, đánh mất đi bản sắc văn hoá
dân tộc, bản chất tốt đẹp của giai cấp công nhân làm ảnh hưởng đến vai trò tiên
phong của giai cấp công nhân trong quá trình đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
4. Từ sự biến đổi của giai cấp công nhân nước ta dưới tác động của hội nhập
quốc tế đang đặt ra một số vấn đề như: sự sụt giảm về số lượng của đội ngũ công
nhân trong thành phần kinh tế nhà nước với vai trò nòng cốt của đội ngũ công nhân
này và vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong điều kiện phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nguy cơ thất nghiệp gia tăng đối
với một bộ phân công nhân, nhất là công nhân lao động giản đơn khi hội nhập quốc
tế ngày càng sâu rộng. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho giai cấp công nhân,
nhất là công nhân trong doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài còn nhiều hạn chế, khó khăn và bất cập.
5. Trên cơ sở phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi của
giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay, luận án
150
đã xác định quan điểm định hướng nhằm phát huy biến đổi tích cực, ngăn ngừa và
hạn chế biến đổi tiêu cực của giai cấp công nhân nước ta dưới tác động của hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng. Đó là, trong hội nhập quốc tế phải chú trọng xây dựng
giai cấp công nhân phát triển về số lượng, chất lượng và cơ cấu hợp lý. Kết hợp
phát triển kinh tế với chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho giai cấp công nhân
trong hội nhập quốc tế. Chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho giai cấp
công nhân trong hội nhập quốc tế.
6. Từ những định hướng trên, luận án đã đưa ra một số giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy biến đổi tích cực, ngăn ngừa và hạn chế biến đổi tiêu cực của giai
cấp công nhân nước ta dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay. Đó là, đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế
tri thức theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo,
nhất là đào tạo nghề góp phần từng bước trí thức hoá giai cấp công nhân đáp ứng
yêu cầu của hội nhập quốc tế. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách,
pháp luật nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của giai cấp công
nhân trong quá trình hội nhập quốc tế. Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác giáo
dục chính trị, tư tưởng cho giai cấp công nhân trong quá trình hội nhập quốc tế.
Những giải pháp nêu trên phải được nhận thức và triển khai đồng bộ, phối hợp
chặt chẽ, có sự lãnh đạo và quản lý thống nhất để tạo điều kiện phát huy tổng hợp
các nhân tố khách quan và chủ quan, nội lực và ngoại lực nhằm xây dựng giai cấp
công nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
151
CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ
1. Phạm Văn Giang (2010), “Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay - sự đa dạng
thành phần, ngành nghề và định hướng phát triển”, Tạp chí Lý luận chính trị,
(11), tr.61 - 65.
2. Phạm Văn Giang (2010), “Về sự phân tầng của giai cấp công nhân Việt Nam hiện
nay - vấn đề đặt ra và giải pháp khắc phục”, Tạp chí Lao động và Công đoàn,
(7), tr.8 - 9, 39.
3. Phạm Văn Giang (2011), “Góp phần nhận diện giai cấp công nhân Việt Nam hiện
nay”, Tạp chí Triết học, (2), tr.61 - 67.
4. Phạm Văn Giang (2011), “Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự hình thành
và phát triển của giai cấp công nhân và thời đại ngày nay”, Tạp chí Lao động
và Công đoàn, (3), tr.10 - 11.
5. Phạm Văn Giang (2011), “Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân dưới ánh sáng
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, (6), tr.9 - 10.
6. Phạm Văn Giang (2011), “Hướng nghiệp - giải pháp quan trọng trong quá trình
đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, (7), tr.9 - 11.
7. Phạm Văn Giang (2011), “Giai cấp công nhân trong điều kiện phát triển kinh tế tri
thức”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, (8), tr.6 - 7.
8. Phạm Văn Giang (2012), Xu hướng vận động của giai cấp công nhân Việt Nam
trong quá trình đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Phạm Văn Giang (2012), “Hợp tác quốc tế về đào tạo nhân lực trong bối cảnh toàn
cầu hoá và hội nhập quốc tế”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế - Hội nhập:
cơ hội và thách thức, Đại học Thương mại Hà Nội, Nxb Thống kê, Hà Nội,
tr.303 - 310.
10. Phạm Văn Giang (2012), “Đội ngũ công nhân Bình Định trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, (4) tr.14 - 15, 37.
11. Phạm Văn Giang (2012), “Nguồn lực lao động và vấn đề giải quyết việc làm
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở miền Trung”, Tạp chí Lý luận
chính trị, (8), tr.64 - 69.
152
12. Phạm Văn Giang (2012), “Để giai cấp công nhân xứng đáng đi tiên phong trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, (11),
tr.6 - 7, 33.
13. Phạm Văn Giang (2012), “Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội XI của Đảng”, Tạp chí Phát triển nhân lực, (4), tr.51 - 55.
14. Phạm Văn Giang (2013), “Quản lý nhà nước về liên kết đào tạo nhân lực có yếu
tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và kiến nghị”, Tạp chí Lao
động và Công đoàn, (5), tr.12 - 14.
15. Phạm Văn Giang (2013), “Đào tạo nhân lực cho Vùng kinh tế trọng điểm miền
Trung trong giai đoạn hiện nay - thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Sinh hoạt lý
luận, (6), tr.61 - 66.
16. Phạm Văn Giang (2013), “Vai trò của nhà nước đối với liên kết đào tạo giữa nhà
trường với doanh nghiệp ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lao động và Công
đoàn, (12), tr.10 - 11.
17. Phạm Văn Giang (2014), “Bản chất giai cấp công nhân của chế độ chính trị - những
điểm mới trong Hiến pháp 2013”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (6), tr.18 - 21, 80.
18. Phạm Văn Giang, Trần Văn Phòng (2015), “Một số vấn đề thực tiễn và lý luận về
giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (3), tr.23 - 28.
19. Phạm Văn Giang (2015), “Quan hệ giữa tính giai cấp và tính dân tộc - những điểm
mới trong Hiến pháp năm 2013”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (4), tr.34 - 37.
20. Phạm Văn Giang (2015), “Sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam trong quá
trình hội nhập quốc tế hiện nay”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, (5), tr.6 - 7.
21. Phạm Văn Giang (2015), “Thực trạng liên kết đào tạo nhân lực ở các tỉnh duyên
hải miền Trung”, Tạp chí Lý luận chính trị, (9), tr.57 - 61.
22. Phạm Văn Giang (2015), “Để phát huy vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam
trong quá trình hội nhập quốc tế”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (5), tr.13 - 17, 45.
23. Phạm Văn Giang, Trần Văn Phòng (2015), “Liên minh công - nông - trí thức ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, (10), tr.8 - 9.
153
24. Phạm Văn Giang (2015), “Hội nhập quốc tế - từ lý luận đến thực tiễn ở Việt
Nam”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, (12), tr.8 - 9.
25. Phạm Văn Giang (2016), “Xu hướng biến đổi và vai trò của giai cấp công nhân
Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (2), tr.54 - 59.
26. Phạm Văn Giang (2016), “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (6), tr.54 - 58.
27. Phạm Văn Giang (2016), “Hội nhập quốc tế - nội hàm và định hướng của Việt
Nam”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận (5), tr.44 - 47.
28. Phạm Văn Giang (2016), “Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa
học xã hội Việt Nam, (11), tr.81 - 87.
29. Phạm Văn Giang (2016), “Để đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của hội
nhập quốc tế hiện nay”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, (11), tr.10 - 11.
30. Phạm Văn Giang (2016), “Cơ cấu và phân tầng xã hội của giai cấp công nhân
Việt Nam qua 30 năm đổi mới”, Tạp chí Thông tin khoa học Lý luận chính trị,
(9,10), tr.71 - 79.
154
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngọc Anh và các Cộng sự (2014), “Đời sống công nhân khu công nghiệp, khu chế
xuất”, Hồ sơ sự kiện, Chuyên san Tạp chí Cộng sản, (8), tr.3 - 13.
2. Liễu Bạch, Vương Mai và Diêm Xuân Chi (2008), Vị trí và vai trò của giai cấp công
nhân đương đại”, Nxb Công nhân Trung Quốc, Người dịch: Nguyễn Ngọc
Lân, hiệu đính Nguyễn Thanh, Nxb Lao động, Hà Nội.
3. V.Kh.Belenski (2009), “Hệ tư tưởng của giai cấp công nhân Nga hiện nay”, Bản
dịch đăng trên Thông tin chủ nghĩa xã hội - lý luận và thực tiễn, (23).
4. Bộ Ngoại giao Việt Nam (2002), Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu
hoá: vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Bộ Ngoại giao Việt Nam (2011), Báo cáo tổng quan về tình hình di cư của công dân
Việt Nam ra nước ngoài, Hà Nội.
6. Bùi Đình Bôn (2008), “Nhiệm vụ và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt
Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” Tạp chí Lý
luận chính trị, (2), tr.32 - 37.
7. Quang Cận (2007), “Tư duy mới về giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản”, Tạp chí
Cộng sản, (8), tr.40 - 45.
8. Nguyễn Trọng Chuẩn (2009), “Xu hướng phát triển của giai cấp công nhân Việt
Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá theo hướng hiện đại và hội
nhập quốc tế”, Tạp chí Triết học, (5), tr.3 - 9.
9. Nguyễn Trọng Chuẩn (2013), “Cần có nghiên cứu cơ bản về giai cấp công nhân
trong tiến trình phát triển của lịch sử đương đại”, Tạp chí Phát triển nhân lực,
(5), tr.9 -13.
10. Trần Văn Chử (2007), “Đời sống vật chất và tinh thần của công nhân trong các khu
công nghiệp, khu chế xuất”, Tạp chí Lý luận chính trị, (9), tr.53 - 55.
11. Lương Minh Cừ, Vũ Văn Thư (2011), Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân ở Việt
Nam hiện nay - một số nhận thức về lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
12. Ngô Văn Cương (2015), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam hiện nay”, Tạp
chí Lý luận chính trị, (7), tr.43 - 46.
155
13. Phạm Ngọc Dũng (chủ biên) (2012), Chảy máu chất xám - từ lý luận đến thực tiễn
ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Vũ Tiến Dũng (2016), “Một số giải pháp tăng cường liên kết đào tạo giữa trường
đại học và doanh nghiệp”, Tạp chí Lý luận chính trị, (5), tr.56 - 60.
15. Đại học Quốc gia Hà Nội (2003), Toàn cầu hoá và tác động đối với sự hội nhập
của Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.
16. Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 37, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 43, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 47, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
156
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành
Trung ương khoá XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Chỉ thị số 16-CT/TW của Ban Bí thư Về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đưa người lao động và chuyên
gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị Về
hội nhập kinh tế quốc tế, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị Về
hội nhập quốc tế, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Nghị quyết số 06-NQ/TW của Ban Chấp hành
Trung ương Về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ
vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới, Hà Nội.
36. Đặng Quang Định (2010), Quan hệ lợi ích kinh tế giữa công nhân, nông dân và trí
thức ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Nguyễn Tài Đông (2009), “Giai cấp công nhân Trung Quốc - một số vấn đề lý luận
và thực tiễn” Tạp chí Triết học, (10), tr.47 - 53.
38. Phan Huy Đường (chủ biên) (2012), Quản lý nhà nước về lao động nước ngoài
chất lượng cao ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Huỳnh Thị Gấm (chủ biên) (2013), Xây dựng tổ chức đảng trong doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài giai đoạn hiện nay (Qua khảo sát ở miền Đông Nam
Bộ), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Nguyễn Văn Giang (chủ biên) (2009), Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân
trong giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
157
41. Nguyễn Văn Giàu (2014), “Hội nhập kinh tế quốc tế: tất yếu khách quan của đổi
mới”, Tạp chí Cộng sản (chuyên đề cơ sở), (12), tr.9 - 4.
42. Bùi Thị Thanh Hà (2003), Công nhân công nghiệp trong các doanh nghiệp liên
doanh ở nước ta thời kỳ đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
43. Đặng Thanh Hà (2011), “Thực trạng đời sống công nhân khu công nghiệp”, Báo
Nhân dân, ngày 9 - 8 - 2011.
44. Lê Thanh Hà (2014), “Công nhân trí thức nguồn nhân tài trong sản xuất”, Tạp chí
Tri thức và phát triển, (9).
45. Nguyễn An Hà (chủ biên) (2015), Tác động của toàn cầu hoá đến quá trình phát
triển của một số nền kinh tế chuyển đổi Đông Âu và Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
46. Đỗ Sơn Hải (2014), “Hội nhập quốc tế của Việt Nam: từ lý thuyết đến thực tiễn”,
Tạp chí Cộng sản, (1), tr.55 - 59.
47. Kim Hằng (2014), “Chăm lo đời sống công nhân tại Thành phố Hồ Chí Minh: chưa
tương xứng với đóng góp lớn”, Hồ sơ sự kiện, Chuyên san Tạp chí Cộng sản,
(8), tr.20 - 21.
48. Bùi Thị Kim Hậu (2012), Trí thức hoá công nhân Việt Nam trong hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Nguyễn Thị Kim Hoa (2013), Tính tích cực chính trị của công dân Việt Nam trong
xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Nguyễn Thanh Hòa (2014), “Đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài góp
phần tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo và thực hiện an sinh xã hội”, Tạp chí
Cộng sản (12), tr.83 - 87.
51. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình các bộ môn khoa học Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (1996), Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác-Lênin
trong thời đại ngày nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình các bộ môn khoa học Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2003), Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Vũ Xuân Hùng (2016), “Nhân lực chất lượng cao”, Báo Nhân dân cuối tuần, ngày
12 - 6 - 2016.
158
54. Nguyễn Văn Huyên (2007), “Suy nghĩ về giai cấp công nhân và xây dựng giai cấp
công nhân Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị, (11), tr.72 -76.
55. Đinh Thế Huynh (chủ biên) (2015), 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015.
56. Trần Đình Huỳnh (2011), “Giai cấp vô sản trí thức”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (11),
tr.7 - 9.
57. Nguyễn Thị Hường (2012), Giai cấp công nhân - giai cấp tiên phong trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
58. Đoàn Duy Khương (chủ biên) (2013), Sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp
Việt Nam sau khi gia nhập WTO, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Nguyễn Văn Lan (2004), Phong trào công nhân ở các nước tư bản hiện nay - thực
trạng và triển vọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 3, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
61. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 27, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
62. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 35, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
63. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
64. Hạ Long (2014), “Phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam - cơ hội và thách thức”,
Tạp chí Cộng sản (chuyên đề cơ sở), (11), tr.56 - 60.
65. Thái Văn Long (2006), “Giai cấp công nhân trong điều kiện cách mạng khoa học -
công nghệ”, Tạp chí Lý luận chính trị, (6), tr.37 - 42.
66. Trương Giang Long (2007), “Giai cấp công nhân Việt Nam - thực trạng và suy
ngẫm”, Tạp chí Cộng sản, (12), tr.34 - 39.
67. Phạm Thị Lý (2015), “Thị trường lao động Việt Nam trong cộng đồng kinh tế
ASEAN: cơ hội và thách thức”, Tạp chí Khoa học chính trị, (1 + 2), tr.34 - 41.
68. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. C.Mác, Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 22, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
71. C.Mác, Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
72. C.Mác, Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 25, phần I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
159
73. Nguyễn Mại (2014), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam: thành tựu và
những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Cộng sản (chuyên đề cơ sở), (12), tr.15 - 19.
74. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
76. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
77. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
78. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
79. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
80. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
81. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
82. Nguyễn Văn Nam (2014) “Bàn về cái gọi là phê phán bản chất giai cấp công nhân
của Đảng Cộng sản Việt Nam”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (5), tr.32 - 37.
83. Lê Hữu Nghĩa, Lê Văn Chiến (đồng chủ biên) (2014), Tác động của đầu tư trực
tiếp nước ngoài đến năng suất lao động và trình độ công nghệ của Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Dương Xuân Ngọc (2004), Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
85. Dương Xuân Ngọc (2008), “Nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân Việt
Nam trước yêu cầu, nhiệm vụ mới”, Tạp chí Lý luận chính trị, (4), tr.11 - 16.
86. Nguyễn Văn Ngừng (2010), Xu hướng phát triển kinh tế thế giới hiện nay và tác
động đối với an ninh trật tự ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
87. Nguyễn Nhâm (2014), “Để đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước”, http://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 4 - 7 - 2014.
88. Nguyễn Văn Nhật (chủ biên) (2010), Xây dựng và phát triển đời sống văn hoá của
giai cấp công nhân Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
89. Maicen Nhepsi (2005) “Giai cấp công nhân vẫn là lực lượng chính trị quan trọng
nhất”, Bản dịch đăng trong Chuyên đề Thông tin - Ban tuyên giáo Thành ủy
Thành phố Hồ Chí Minh, (12), tr.11 - 16.
160
90. Đỗ Ngọc Ninh, Nguyễn Văn Giang (đồng chủ biên) (2008), Tăng cường bản chất
giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
91. Nguyễn An Ninh (2007), “Để hệ giá trị của giai cấp công nhân Việt Nam trở thành
một hệ giá trị xã hội”, Tạp chí Triết học, (10), tr.34 - 40.
92. Nguyễn An Ninh (2007), Về xu hướng công nhân hoá ở nước ta hiện nay, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93. Phùng Hữu Phú và các Cộng sự (2016), Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm đổi
mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
94. Vũ Văn Phúc, Nguyễn Duy Hùng (chủ biên) (2012), Phát triển nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
95. Tiểu Phương, Kiều Hương và Thái Sơn (2014), “Nâng cao vai trò các tổ chức đảng
trong doanh nghiệp cổ phần hoá”, Báo Nhân dân, ngày 29 và 30 - 10 - 2014.
96. Trần Đại Quang (2016), “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư - thời cơ phát triển
và các thách thức an ninh phi truyền thống”, Báo Nhân dân, ngày 04 - 10 - 2016.
97. Đào Duy Quát, Cao Đức Thái (2002), Biến đổi cơ cấu giai cấp trong chủ nghĩa tư
bản hiện đại, Nxb Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
98. Nguyễn Thị Quế, Nguyễn Hoàng Giáp và Mai Hoài Anh (đồng chủ biên) (2008),
Phong trào chống mặt trái của toàn cầu hoá và vấn đề đặt ra đối với Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
99. Nguyễn Thị Quế, Nguyễn Hoàng Giáp (đồng chủ biên) (2010), Giai cấp công nhân
ở các nước tư bản phát triển từ sau chiến tranh lạnh đến nay - thực trạng và
triển vọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
100. Nguyễn Thị Quế, Nguyễn Thị Tú Hoa (2013), “Thực trạng giai cấp công nhân
Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (6), tr.29 - 34.
101. Quốc hội Việt Nam (2013), Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
102. Quốc hội Việt Nam (2015), Bộ luật Lao động, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
161
103. Trần Thị Như Quỳnh (2011), Công nhân trí thức ở Thành phố Hồ Chí Minh thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Luận án tiến sĩ Triết học, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
104. Ivanova S.V và các cộng sự (2014), “Đào tạo nghề và việc làm cho thanh niên -
vấn đề toàn cầu thế kỷ XXI”, Bản dịch đăng trên Thông tin những vấn đề lý
luận, (11), tr.10 - 20.
105. Dương Văn Sao (2014), “Phát huy vai trò của công đoàn trong nâng cao ý thức
chính trị và kỷ luật cho công nhân”, Tạp chí Lý luận chính trị, (7), tr.13 - 17.
106. Thái Sơn (2016), “Giải quyết việc làm cho lao động xuất khẩu về nước”, Báo
Nhân dân, ngày 18 - 10 - 2016.
107. Văn Tạo (2006) “Quan điểm mới về giai cấp công nhân Việt Nam qua văn kiện
Đại hội X của Đảng”, Tạp chí Cộng sản, (5), tr.43 - 46.
108. Văn Tạo (2008), Đổi mới tư duy về giai cấp công nhân - kinh tế tri thức và công
nhân tri thức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
109. Tạ Ngọc Tấn (chủ biên) (2010), Một số vấn đề về biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
110. Tạ Ngọc Tấn (2016), “Mô hình phát triển của Việt Nam - thời cơ và những thách thức
đặt ra trong bối cảnh thế giới hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị (4), tr.3 - 12.
111. Tập thể tác giả (2004 - 2011), Phong trào công nhân quốc tế - những vấn đề lịch
sử và lý luận, gồm 8 tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
112. Nguyễn Đăng Thành (2007), “Về một số nghịch lý xuất hiện trong quá trình phát
triển giai cấp công nhân thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”,
Tạp chí Lý luận chính trị, (2), tr.30 - 35.
113. Nguyễn Đăng Thành (chủ biên) (2008), Góp phần xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam từ thực trạng công nhân Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
114. Tất Thảo, Việt Lâm (2015), “Tăng lương tối thiểu vùng: người lao động phải sống
được bằng lương!”, Báo Lao động, ngày 26 - 8 - 2015.
115. Mạch Quang Thắng (2014), “Nghiên cứu, phát triển lý luận về giai cấp công nhân
Việt Nam”, Tạp chí Khoa học chính trị, (2), tr.31 - 35.
162
116. Nguyễn Mạnh Thắng (2014), “Giải quyết những vấn đề cấp bách của giai cấp
công nhân Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (4), tr.36 - 40.
117. Nguyễn Mạnh Thắng (2015), “Lối sống của công nhân ở khu công nghiệp, khu
chế xuất hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (7), tr.56 - 59.
118. Phạm Quý Thọ (2006), Chuyển dịch cơ cấu lao động trong xu hướng hội nhập
quốc tế, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
119. Vũ Quang Thọ (2015), “Không thể đem năng suất lao động ra mặc cả”, Báo Lao
động, ngày 19 - 10 - 2015.
120. Vũ Quang Thọ (2015), “Việc làm, đời sống của công nhân công nghiệp hiện nay”,
Tạp chí Lao động và Công đoàn, (7), tr.28 - 30.
121. Vũ Quang Thọ (chủ biên) (2015), Xây dựng lối sống văn hoá của công nhân Việt
Nam - lý luận và thực tiễn, Nxb Lao động, Hà Nội.
122. Nguyễn Viết Thông (2013), “Những nhận thức khác nhau về giai cấp và vai trò
lãnh đạo của giai cấp công nhân; phê phán quan điểm phủ nhận sự tồn tại và
vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay”, Tạp chí Lao
động và Công đoàn, (519), tr.6 - 10.
123. Lê Văn Toàn (2012), Phân tầng xã hội ở Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
124. Tổng cục Thống kê (2006), Niên giám thống kê 2005, Nxb Thống kê, Hà Nội.
125. Tổng cục Thống kê (2014), Niên giám thống kê 2013, Nxb Thống kê, Hà Nội.
126. Tổng cục Thống kê (2015), Niên giám thống kê 2014, Nxb Thống kê, Hà Nội.
127. Tổng cục Thống kê (2016), Niên giám thống kê 2015, Nxb Thống kê, Hà Nội.
128. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2001), Xu hướng biến động giai cấp công
nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb Lao động, Hà Nội.
129. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2010), Bác Hồ với giai cấp công nhân và tổ
chức công đoàn, Nxb Lao động, Hà Nội.
130. Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động Thành phố
Hồ Chí Minh (2014), Dự báo nhu cầu nhân lực Thành phố Hồ Chí Minh năm
2015 đến năm 2020 - 2025 và dự báo ngành nghề hội nhập Cộng đồng kinh tế
ASEAN sau 2015, Thành phố Hồ Chí Minh.
163
131. Trushkov (2007), “Triển vọng phát triển của giai cấp công nhân ở thế kỷ XXI”,
Bản dịch đăng trên Thông tin những vấn đề lý luận, (17), tr.1 - 5.
132. Nguyễn Thanh Tuấn (2007), “Vận dụng quan điểm lịch sử của chủ nghĩa Mác -
Lênin để xác định giai cấp công nhân Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị
(8), tr.3 - 6.
133. Đặng Ngọc Tùng (2011), “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh,
xứng đáng là giai cấp tiên phong, đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, (2), tr.4 - 6.
134. Đặng Ngọc Tùng (chủ biên) (2011), Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam giai
đoạn 2011-2020, Nxb Lao động, Hà Nội.
135. Từ điển Triết học (1975), Nxb Tiến Bộ, Mát-xcơ-va.
136. Đặng Vân (2014), “Đời sống công nhân các khu công nghiệp ở Đà Nẵng: thực
trạng và những vấn đề đặt ra”, Hồ sơ sự kiện, Chuyên san Tạp chí Cộng sản,
(8), tr.32 - 33.
137. Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
138. Lan Vũ (2015), “Nguồn nhân lực Việt Nam trước ngưỡng cửa hội nhập”, Báo
Nhân dân, ngày 10 và 11 - 11 - 2015.
139. Nguyễn Viết Vượng (2010), Giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam
trong những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
164
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
Cơ cấu công nhân phân theo vùng lãnh thổ (2010 - 2014)
Đơn vị: nghìn người
Tiêu chí 2010 2011 2012 2013 2014
Đồng bằng sông Hồng 2849,8 3498,7 3547,6 3753,5 3853,9
Trung du và miền núi phía Bắc 525,3 579,1 607,4 626,6 689,1
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 1192,4 1261,1 1305,2 1334,1 1403,2
Tây Nguyên 236,8 232,5 244,5 244,6 237,8
Đông Nam Bộ 3904,7 4165,5 4198,6 4319,7 4640,0
Đồng bằng sông Cửu Long 700,2 795,4 813,2 869,7 949,1
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2015 [127, tr.277 - 278].
Phụ lục 2
Số lượng công nhân nữ phân theo loại hình doanh nghiệp (2010 -2014)
Đơn vị: nghìn người
Tiêu chí 2010 2011 2012 2013 2014
Tổng số 4182,4 4692,8 4844,7 5148,2 5473,3
Doanh nghiệp nhà nước 542,2 520,3 507,9 519,9 449,2
Doanh nghiệp ngoài nhà nước 2199,6 2457,8 2505,7 2572,9 2687,0
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1440,6 1714,7 1831,2 2055,4 2337,1
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2015 [127, tr.279].
165
Phụ lục 3
Trình độ học vấn của công nhân phân theo ngành, nghề sản xuất kinh doanh
Đơn vị: %
Tiêu chí Nông, lâm,
thủy sản
Dệt may,
da giày
Điện,
nước,
mỹ nghệ
Vật liệu
xây dựng,
cơ khí
Thương
mại
dịch vụ
Tốt nghiệp tiểu học 15,1 3,2 0 6,8 2,3
Tốt nghiệp THCS 28,8 36,9 12 22,9 19,2
Tốt nghiệp THPT 47,9 51 80,4 59,4 72,1
Không trả lời 8,2 8,9 7,6 10,9 6,5
Tổng số 100 100 100 100 100
Nguồn: Viện Công nhân và Công đoàn, 2009 [Dẫn theo 48]
Phụ lục 4
Độ tuổi của công nhân phân theo ngành, nghề sản xuất kinh doanh
Đơn vị: %
Tiêu chí Nông, lâm,
thủy sản
Dệt may,
da giày
Điện,
nước,
mỹ nghệ
Vật liệu
xây dựng,
cơ khí
Thương
mại
dịch vụ
Dưới 18 tuổi 0 0 0 0,4 0,2
Từ 18 đến 25 tuổi 8,2 29,2 5,7 23,3 26,5
Từ 26 đến 35 tuổi 32,9 39,5 46,8 36,2 43,7
Từ 35 đến 50 tuổi 49,3 20,4 32,3 28,2 22,4
Trên 50 tuổi 2,7 9,5 4,6 2,7
Không trả lời 6,8 10,2 5,7 7,4 4,6
Tổng số 100 100 100 100 100
Nguồn: Viện Công nhân và Công đoàn, 2009 [Dẫn theo 48].
166
Phụ lục 5
Tổng thu nhập của công nhân phân theo loại hình doanh nghiệp (2010 - 2014)
Đơn vị: tỷ đồng
Tiêu chí 2010 2011 2012 2013 2014
Tổng số 465782 592419 698484 788571 892348
Doanh nghiệp nhà nước 125071 150597 155584 168335 171470
Doanh nghiệp ngoài nhà nước 237176 297835 352109 383744 448351
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 103535 143987 190791 236492 272528
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2015 [127, tr.358].
Phụ lục 6
Thu nhập bình quân tháng của công nhân phân theo vùng (2010 - 2014)
Đơn vị: nghìn đồng
Tiêu chí 2010 2011 2012 2013 2014
Đồng bằng sông Hồng 4215 4650 5162 5608 6184
Trung du và miền núi phía Bắc 2955 3339 3890 4248 5063
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 2789 3385 3925 4212 4591
Tây Nguyên 3027 3828 4632 4424 4473
Đông Nam Bộ 4422 5071 5823 6547 6935
Đồng bằng sông Cửu Long 2736 3507 4128 4354 4754
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2015 [127, tr.374 - 375].
167
Phụ lục 7
Ý kiến công nhân bức xúc về tiền lương theo loại hình doanh nghiệp
Đơn vị: %
Tiêu chí Doanh nghiệp
nhà nước Doanh nghiệp
ngoài nhà nước
Doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài
Lương thấp 64,6 46,5 67,3
Làm thêm giờ quá nhiều 15,3 4,3 9,1
Định mức lao động (mức khoán) cao 13,7 4,2 8,7
Trả lương không công bằng 7,1 6,2 8,7
Trả lương không đúng sức lao động bỏ ra 13,5 8,1 9,8
Trả lương không công khai, minh bạch 5,4 6,2 4,5
Không điều chỉnh nâng lương định kỳ 19,7 19,5 11,7
Nguồn: Viện Công nhân và Công đoàn, 2014 [Dẫn theo 121]
Phụ lục 8
Nhận thức của công nhân về hội nhập quốc tế phân theo loại hình doanh nghiệp
Đơn vị: %
Tiêu chí Doanh nghiệp
nhà nước Doanh nghiệp
ngoài nhà nước
Doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài
Xóa nhòa ranh giới quốc gia 50,2 53,5 56,8
Cạnh tranh, mở rộng thị trường 55,0 48,8 46,7
Phụ thuộc thị trường bên ngoài 16,5 16,8 18,0
Cần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc 50,4 44,7 42,0
Quyền lực nhà nước bị thách thức 8,4 6,6 6,5
Nguồn: Vũ Quang Thọ, 2014 [121, tr.106 - 108].
168
Phụ lục 9
Giá trị sống của công nhân phân theo loại hình doanh nghiệp
Đơn vị: %
Tiêu chí Doanh nghiệp
nhà nước Doanh nghiệp
ngoài nhà nước Doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài
Lòng yêu nước 51,3 46,8 47,3
Lòng vị tha 30,0 26,5 26,9
Đức hy sinh 27,4 22,6 23,4
Cần cù lao động 70,3 66,7 71,5
Tiết kiệm, không hoang phí 59,8 55,2 55,6
Nguồn: Viện Công nhân và Công đoàn, 2014 [Dẫn theo 121]
Phụ lục 10
Đánh giá lối sống tiêu cực của công nhân phân theo thành phần xuất thân
Đơn vị: %
Tiêu chí Địa phương Nhập cư
Có lối sống buông thả, thực dụng 27,2 29,1
Ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân 22,4 22,0
Tâm lý hưởng lạc, chạy theo đồng tiền 30,1 30,7
Phai nhạt lý tưởng, giá trị sống 13,4 14,5
Có biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống 19,2 18,5
Có thái độ bi quan, chán đời 12,1 14,0
Vô cảm trước bất công thường ngày xảy ra 18,4 23,7
Ứng xử, giao tiếp kém 25,0 27,0
Lối sống gấp, trụy lạc 8,2 8,2
Đua đòi, lãng phí 28,9 31,1
Nguồn: Viện Công nhân và Công đoàn, 2014 [Dẫn theo 121]