sỞ giÁo dỤc&ĐÀo tẠo quẢng bÌnh leu bdtx/mi... · 5 đánh giá đúng năng lực...
TRANSCRIPT
1
SỞ GIÁO DỤC&ĐÀO TẠO QUẢNG BÌNH
TÀI LIỆU BỒI DƢỠNG THƢỜNG XUYÊN
DÀNH CHO GIÁO VIÊN MÔN MĨ THUẬT THCS
(Năm học 2016-2017)
2
ĐỊNH HƢỚNG ĐỔI MỚI CHƢƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA SAU
NĂM 2015 VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
Hồ Giang Long1
Đỗ Xuân Hậu2
A. ĐỊNH HƢỚNG VỀ ĐỔI MỚI CHƢƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO
KHOA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
I. ĐỊNH HƢỚNG CHUNG
1. Mục tiêu đổi mới chƣơng trình
Chương trình giáo dục phổ thông nhằm giúp học sinh phát triển khả năng
vốn có của bản thân, hình thành tính cách và thói quen; phát triển hài hoà về thể
chất và tinh thần; trở thành người học tích cực, tự tin, có ý thức lựa chọn nghề
nghiệp và học tập suốt đời; có những phẩm chất tốt đẹp và các năng lực cần thiết để
trở thành người công dân có trách nhiệm, người lao động cần cù, có tri thức và sáng
tạo.
Chương trình giáo dục cấp tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ
sở ban đầu cho sự hình thành và phát triển hài hoà về thể chất và tinh thần, phẩm
chất và năng lực được nêu trong mục tiêu chương trình giáo dục phổ thông; định
hướng chính vào giá trị gia đình, dòng tộc, quê hương, những thói quen cần thiết
trong học tập và sinh hoạt; có được những kiến thức và kỹ năng cơ bản nhất để tiếp
tục học trung học cơ sở.
Chương trình giáo dục cấp trung học cơ sở nhằm giúp học sinh duy trì và
nâng cao các yêu cầu về phẩm chất, năng lực đã hình thành ở cấp tiểu học; tự điều
chỉnh bản thân theo các chuẩn mực chung của xã hội; hình thành năng lực tự học,
1 Chuyên viên Phòng GDTrH
2 Giáo viên THCS Tân Ninh
3
hoàn chỉnh tri thức phổ thông nền tảng để tiếp tục học lên trung học phổ thông, học
nghề hoặc bước vào cuộc sống lao động.
Chương trình giáo dục cấp trung học phổ thông nhằm giúp học sinh hình
thành phẩm chất và năng lực của người lao động, nhân cách công dân, ý thức quyền
và nghĩa vụ đối với Tổ quốc trên cơ sở duy trì , nâng cao và định hình các phâm
chât, năng lưc đa hinh thanh ơ cấp trung hoc cơ sơ ; có khả năng tự học và ý thức
học tập suốt đời, có những hiểu biết và khả năng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với
năng lực và sở thích, điều kiện và hoàn cảnh của bản thân để tiêp tuc hoc lên , học
nghề hoăc bươc vao cuôc sông lao đông.
2. Quan điểm xây dựng chƣơng trình
Trên cơ sở giáo dục toàn diện và hài hoà đức, trí, thể, mỹ, mục tiêu chương
trình giáo dục phổ thông xác định những yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực
của học sinh ở từng cấp học; mục tiêu chương trình môn học xác định những yêu
cầu về kiến thức, kỹ năng, thái độ, hướng đến hình thành những phẩm chất, năng
lực đặc thù môn học và các phẩm chất, năng lực khác ở từng lớp, từng cấp học, coi
đó là cam kết bảo đảm chất lượng của cả hệ thống và từng cơ sở giáo dục, là căn cứ
để chỉ đạo, giám sát và đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông.
Giáo dục phổ thông 12 năm, gồm hai giai đoạn: Giai đoạn giáo dục cơ bản
(gồm cấp tiểu học 5 năm và cấp trung học cơ sở 4 năm) và giai đoạn giáo dục định
hướng nghề nghiệp (cấp trung học phổ thông 3 năm).
Nội dung giáo dục phổ thông bảo đảm tinh giản, hiện đại, thiêt thưc , thực
hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, phù hợp với đặc điểm tâm - sinh lý lứa
tuổi học sinh; giáo dục nhân cách, đạo đức, văn hoá pháp luật và ý thức công dân;
tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hoá, truyền thống và đạo lý dân tộc,
tinh hoa văn hoá nhân loại, giá trị cốt loi và nhân văn c ủa chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh ; dạy ngoại ngữ và tin học theo hướng chuẩn hoá, thiết
4
thực, bảo đảm năng l ực sư dụng của học sinh; giáo dục nghệ thuật và giáo dục thể
chất coi trọng việc định hướng thẩm mỹ và bồi dưỡng hứng thú rèn luyện sức
khoẻ, hoạt động nghệ thuật.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo định hướng phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; tập trung dạy cách học và rèn
luyện năng lực tự học, tạo cơ sở để học tập suốt đời, tự cập nhật và đổi mới tri
thức, kỹ năng, phát triển năng lực; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi
nhớ máy móc; vận dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học một cách linh hoạt,
sáng tạo, phù hợp với mục tiêu, nội dung giáo dục, đối tượng học sinh và điều
kiện cụ thể của mỗi cơ sở giáo dục phổ thông.
Đa dạng hoá hình thức tổ chức học tập, coi trọng cả dạy học trên lớp và các
hoạt động xã hội, trải nghiệm sáng tạo, tập dượt nghiên cứu khoa học. Phối hợp chặt
chẽ giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong các hoạt
động giáo dục.
Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi , kiểm tra và đanh gia chất
lượng giao duc, bảo đảm trung thực, khách quan, góp phần hướng dẫn, điều chỉnh
cách học và cách dạy. Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với
đánh giá cuối kỳ, cuối năm học; đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người
học; đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và của xã hội; thực hiện
đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông ở cấp độ quốc gia, địa phương và tham gia
các kỳ đánh giá quốc tế để làm căn cứ đề xuất chính sách, giải pháp cải thiện chất
lượng giáo dục phổ thông.
Đổi mới phương thức thi và công nhận tốt nghiệp trung học phổ thông theo
hướng giảm áp lực và tốn kém cho xã hội mà vẫn bảo đảm độ tin cậy, trung thực,
5
đánh giá đúng năng lực học sinh, cung cấp dữ liệu làm cơ sở cho việc tuyển sinh
giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.
Chương trình được xây dựng thành một chỉnh thể, nhất quán từ lớp 1 đến lớp
12. Thiết kế chương trình theo hai giai đoạn: Giai đoạn giáo dục cơ bản (gồm cấp
tiểu học và cấp trung học cơ sở) và giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp
(cấp trung học phổ thông).
Tích hợp cao các lĩnh vực giáo dục, các môn học ở tiểu học và trung học cơ
sở để giảm tải, giảm kiến thức hàn lâm, giảm số lượng môn học bằng cách lồng
ghép những nội dung gần nhau của nhiều môn học vào cùng một lĩnh vực hoặc bổ
sung, phát triển môn học tích hợp đã có trong chương trình hiện hành tạo thành
môn học mới. Nội dung các môn học tích hợp được thiết kế theo hướng vẫn giữ
các nội dung chính của các môn học hiện nay nhưng lựa chọn, lồng ghép, sắp xếp
và bố trí các chủ đề, đề tài gần nhau của các môn học này để dễ bổ sung, làm sáng
tỏ cho nhau trong quá trình dạy và học; hình thành các chủ đề dạy học liên môn. Ở
cả ba cấp học đều thực hiện tích hợp trong nội bộ môn học, trong đó tích hợp cả
các chủ đề liên quan đến thực tiễn đời sống.
Phân hoá mạnh ở trung học phổ thông bằng hình thức dạy học tự chọn theo
định hướng: Kết thúc cấp trung học cơ sở là học sinh đã hoàn thành giáo dục cơ
bản; lên trung học phổ thông học sinh được học phân hoá mạnh gắn với định
hướng nghề nghiệp. Mỗi học sinh chỉ học ít môn học và hoạt động giáo dục bắt
buộc, còn lại tự chọn môn học và chuyên đề học tập theo sở trường và nguyện
vọng của cá nhân trong giới hạn khả năng đáp ứng của nhà trường. Các chuyên đề
học tập tự chọn nhằm đáp ứng hiểu biết nâng cao hoặc mở rộng kiến thức các môn
học; cung cấp những hiểu biết và kỹ năng ban đầu như là nhập môn các khoa học
hoặc ngành nghề; giúp học sinh có những thông tin để định hướng và tiếp cận nghề
nghiệp sau trung học phổ thông. Hướng tới việc tổ chức dạy học theo tín chỉ; xét
6
kết quả, chuyển đổi giữa các bậc học, các chương trình giáo dục bằng cách tích luỹ
tín chỉ.
3. Yêu cầu cần đạt về giáo dục
Chương trình giáo dục phổ thông nhằm hình thành và phát triển cho học sinh
những phẩm chất chủ yếu sau:
- Sống yêu thương;
- Sống tự chủ;
- Sống trách nhiệm.
Chương trình giáo dục phổ thông nhằm hình thành và phát triển cho học sinh
những năng lực chung chủ yếu sau:
- Năng lực tự học;
- Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo;
- Năng lực thẩm mỹ;
- Năng lực thể chất;
- Năng lực giao tiếp;
- Năng lực hợp tác;
- Năng lực tính toán;
- Năng lực công nghệ thông tin và truyền thông (ICT).
Việc đánh giá mức độ đạt được các yêu cầu về phẩm chất chủ yếu và năng lực
chung của học sinh từng cấp học được thực hiện thông qua nhận xét các biểu hiện
chủ yếu của các thành tố trong từng phẩm chất và năng lực. Từng cấp học, lớp học
đều có những yêu cầu riêng, cao hơn và bao gồm cả những yêu cầu đối với các cấp
học, lớp học trước đó về từng thành tố của các phẩm chất, năng lực.
Mỗi môn học đều đóng góp vào việc hình thành và phát triển các phẩm chất
chủ yếu và năng lực chung. Các năng lực đặc thù môn học thể hiện vai trò ưu thế
của môn học được nêu ở các chương trình môn học.
7
Chuyển nền giáo dục chú trọng mục tiêu truyền thụ kiến thức một chiều hiện
nay sang nền giáo dục chú trọng hình thành, phát triển toàn diện năng lực và phẩm
chất người học;
Chuyển nền giáo dục nặng về ứng thí, chuộng hư danh sang nền giáo dục
thực học và thực nghiệp;
Chuyển nền giáo dục nặng về dạy chữ sang nền giáo dục chú trọng cả dạy
chữ, dạy nghề và dạy người;
Tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công
dân; phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện,
chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học,
năng lực thực hành và vận dụng kiến thức vào thực tiễn; phát triển khả năng sáng
tạo, tự học và năng lực học tập suốt đời.
Đảm bảo chuẩn hoá,hiện đại hoá, hội nhập quốc tế; đảm bảo tính hoàn chỉnh,
linh hoạt, liên thông, thống nhất trong và giữa các cấp học; tích hợp và phân hoá
hợp lý,có hiệu quả; tinh giản, thiết thực, gắn với thực tiễn, phù hợp với lứa tuổi và
trình độ nhận thức của học sinh; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn;
đề cao yêu cầu hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực học sinh. Nội dung
giáo dục được lựa chọn là những tri thức cơ bản, đảm bảo vừa hội nhập quốc tế,
vừa gắn với thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đề
cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
4. Nguyên tắc đổi mới chƣơng trình, sách giáo khoa
Quán triệt đường lối, quan điểm chỉ đạo của Đảng trong Văn kiện Đại hội
Đảng lần thứ XI, Nghị quyết 29 và các nghị quyết khác của Ban Chấp hành Trung
ương; tuân thủ các quy định của Hiến pháp (Điều 61) và của Luật Giáo dục.
Kế thừa và phát huy những thành tựu và kinh nghiệm thành công của nền
giáo dục Việt Nam.
8
Tham khảo, học hỏi một cách có chọn lọc và có hệ thống kinh nghiệm,
thành tựu giáo dục của các nước, nhất là các nền giáo dục phát triển có điều kiện
tương đồng với Việt Nam.
Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông theo hướng tinh giản, hiện đại,
thiết thực để phát triển phẩm chất và năng lực người học; chú trọng giáo dục lý
tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống; nâng cao năng lực ngoại ngữ, tin học; rèn
luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; phát triển khả năng sáng tạo, ý
thức tự học. Chú trọng và tăng cường các hoạt động trải nghiệm sáng tạo.
Đảm bảo tiếp nối, liên thông giữa chương trình cấp học, lớphọc, giữa các
môn học, hoạt động trải nghiệm sáng tạo.
Khuyến khích cá nhân, tổ chức tham gia biên soạn sách giáo khoa (sách in và
sách điện tử) trên cơ sở chương trình giáo dục phổ thông đã được Bộ Giáo dục và
Đào tạo phê duyệt, sử dụng thống nhất trong toàn quốc.
Một số nguyên tắc cụ thể:
- Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục theo hướng hiện đại; phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo, bồi dưỡng phương pháp tự học, hứng thú học tập,
kỹ năng hợp tác, làm việc nhóm và khả năng tư duy độc lập... Đa dạng hoá hình
thức tổ chức học tập, đồng thời coi trọng cả dạy học trên lớp và hoạt động trải
nghiệm sáng tạo. Chú ý các hoạt động xã hội và tập dượt nghiên cứu khoa học của
học sinh. Tăng cường hiệu quả của các phương tiện dạy học, đặc biệt là công nghệ
thông tin và truyền thông để hỗ trợ đổi mới việc lựa chọn, thiết kế nội dung giáo
dục, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục.
- Đổi mới hình thức và phương pháp thi, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo
dục Đánh giá chất lượng giáo dục phải đổi mới căn bản theo hướng hỗ trợ sự phát
triển phẩm chất và năng lực học sinh; phản ánh mức độ đạt chuẩn chương trình
(của cấp học, môn học); cung cấp thông tin đúng, khách quan, kịp thời cho việc
9
điều chỉnh hoạt động dạy,hướng dẫn hoạt động học nhằm nâng cao dần năng lực
học sinh. Thực hiện đa dạng phương pháp và hình thức đánh giá; đổi mới phương
thức thi và công nhận tốt nghiệp trung học phổ thông theo hướng gọn nhẹ, giảm áp
lực và tốn kém cho xã hội mà vẫn bảo đảm độ tin cậy, trung thực, đánh giá đúng
năng lực học sinh, cung cấp dữ liệu cho việc tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp và
giáo dục đại học.
Ngoài việc đánh giá năng lực của các cá nhân học sinh, bổ sung thêm các
hình thức đánh giá chất lượng giáo dục ở cấp quốc gia, cấp địa phương và tham gia
các kỳ đánh giá của quốc tế để kiến nghị các chính sách, giải pháp cải thiện chất
lượng giáo dục.
- Đổi mới quản lý quá trình xây dựng và thực hiện chương trình. Chương
trình phải đảm bảo tính khả thi, linh hoạt, phù hợp với yêu cầu và sự phát triển
năng lực của đội ngũ giáo viên; chuẩn hoá dần cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục của
trường phổ thông.
Nội dung giáo dục phải phù hợp với đối tượng học sinh và thời lượng dạy
học: ở cấp tiểu học, học cả ngày ở trường nhưng có hướng dẫn vận dụng cho
những cơ sở giáo dục chỉ có điều kiện dạy học một buổi trong ngày; ở cấp trung
học cơ sở và cấp trung học phổ thông, học một buổi trong ngày nhưng có hướng
dẫn vận dụng cho những cơ sở giáo dục có điều kiện dạy học hai buổi trong ngày.
Dựa trên mục tiêu, chuẩn và nội dung chương trình thống nhất toàn quốc, đảm
bảo quyền linh hoạt của các địa phương và nhà trường. Bộ Giáo dục và Đào tạo
chủ trì xây dựng chương trình giáo dục phổ thông, trong đó có quy định chuẩn đầu
ra, những nội dung cốt loi và yêu cầu bắt buộc (phần cứng) đồng thời dành thời
lượng (khoảng 20%) để các địa phương (sở giáo dục và đào tạo) bổ sung những nội
dung mang tính đặc thù về lịch sử, văn hoá và kinh tế - xã hội của địa phương, các
nhà trường được xây dựng kế hoạch giáo dục phù hợp với nhu cầu và điều kiện của
10
mình.
- Thực hiện chủ trương một chương trình, nhiều sách giáo khoa Bộ Giáo
dục và Đào tạo tổ chức biên soạn, thẩm định và ban hành chương trình giáo dục
phổ thông để sử dụng thống nhất trong toàn quốc.
Dựa trên chương trình thống nhất toàn quốc, khuyến khích các tổ chức, cá
nhân biên soạn nhiều bộ/cuốn sách giáo khoa khác nhau. Bộ Giáo dục và Đào tạo
ban hành các quy định về cấu trúc và tiêu chí đánh giá sách giáo khoa, biên soạn,
thẩm định sách giáo khoa; thành lập Hội đồng thẩm định và tổ chức thẩm định sách
giáo khoa; ban hành quyết định công nhận các bộ/cuốn sách giáo khoa được phép
lưu hành dựa trên kết quả của việc thẩm định.
Đa dạng hoá các tài liệu dạy học; giáo viên và học sinh có thể vận dụng sách
giáo khoa và tư liệu từ nhiều nguồn khác nhau, nhiều cách tiếp cận khác nhau để
đạt được mục tiêu và chuẩn chương trình. Tổ chức nghiên cứu mô hình sách giáo
khoa điện tử để từng bước biên soạn, thử nghiệm và sử dụng ở những nơi có đủ
điều kiện.
II. ĐỊNH HƢỚNG XÂY DỰNG CÁC CHƢƠNG TRÌNH MÔN HỌC
VÀ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KHÁC
Chương trình môn học giai đoạn giáo dục cơ bản bảo đảm trang bị cho học
sinh tri thức phổ thông nền tảng, toàn diện và thực sự cần thiết. Kết thúc giai đoạn
này, học sinh có khả năng tự học, đạt được những phẩm chất và năng lực thiết yếu,
nhất là các năng lực chung, thấy rõ sở trường, năng lực của mình để tự tin tham gia
cuộc sống lao động hoặc tiếp tục học lên.
Ở cấp tiểu học và cấp trung học cơ sở thực hiện lồng ghép những nội dung
liên quan với nhau của một số lĩnh vực giáo dục, một số môn học trong chương
trình hiện hành để tạo thành môn học tích hợp; thực hiện tinh giản, tránh chồng
11
chéo nội dung giáo dục, giảm hợp lý số môn học.
Chú trọng tính thiết thực của các nội dung dạy học và hoạt động trải nghiệm
sáng tạo, cùng với hoạt động tư vấn trường học để giúp học sinh học xong trung học
cơ sở có thể chọn con đường học lên theo giáo dục nghề nghiệp hoặc trung học phổ
thông, góp phần thực hiện yêu cầu phân luồng mạnh sau trung học cơ sở.
Ở cấp trung học phổ thông, chương trình giáo dục bảo đảm phân hoá mạnh:
Học sinh học một số (4) môn bắt buộc, đồng thời được tự chọn các môn học (từ lớp
10) và chuyên đề học tập (từ lớp 11), trong đó có những chuyên đề riêng về hướng
nghiệp. Kết thúc giai đoạn này, học sinh có kiến thức, kỹ năng phổ thông cơ bản
được định hướng theo lĩnh vực nghề nghiệp, phù hợp với năng khiếu và sở thích,
phát triển tiềm năng cá nhân để chuẩn bị tốt cho giai đoạn giáo dục sau phổ thông
hoăc bươc vao cuôc sông lao đông.
Hệ thống môn học giúp cho việc hình thành, phát triển các năng lực chung
của học sinh. Vai trò của mỗi môn học đối với việc hình thành, phát triển năng lực
chung của học sinh được trình bày tại phụ lục 3 kèm theo chương trình tổng thể.
1. Môn học cốt lõi thuộc lĩnh vực giáo dục Ngôn ngữ và văn học
Lĩnh vực giáo dục Ngôn ngữ và văn học giúp học sinh hình thành và phát
triển năng lực giao tiếp, năng lực tư duy sáng tạo, năng lực thẩm mỹ, năng lực cảm
thụ văn học và những phẩm chất tốt đẹp, những quan niệm sống và phép ứng xử
nhân văn; giúp học sinh nhận biết được ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan
trọng và phương tiện tư duy của con người, là công cụ để học tốt tất cả các môn
học; văn học là loại hình nghệ thuật ngôn từ phản ánh đời sống, xã hội và con
người; từ đó có ý thức trau dồi ngôn ngữ, nuôi dưỡng hứng thú đọc sách và khám
phá tác phẩm văn học.
12
Giáo dục ngôn ngữ và văn học giúp học sinh sử dụng ngôn ngữ tự nhiên như
tiếng Việt, ngoại ngữ, tiếng dân tộc, và những phương tiện giao tiếp khác như hệ
thống các hình ảnh, biểu tượng, ký hiệu, công thức, sơ đồ, đồ thị, bảng biểu, động
tác cơ thể,... trong những lĩnh vực giáo dục khác nhau.
Giáo dục ngôn ngữ được thực hiện ở tất cả các môn học, trong đó Tiếng
Việt/Ngữ văn, Ngoại ngữ và Tiếng dân tộc có vai trò chủ đạo. Giáo dục văn học
được thực hiện chủ yếu ở môn học Tiếng Việt/Ngữ văn.
2. Môn học cốt lõi thuộc lĩnh vực giáo dục Toán học
Lĩnh vực giáo dục toán học có ưu thế hình thành và phát triển cho học sinh
năng lực tính toán, năng lực tư duy toán học, năng lực giải quyết các vấn đề toán
học, năng lực mô hình hoá toán học, năng lực giao tiếp toán học (nói, viết và biểu
diễn toán học), năng lực sử dụng các công cụ, phương tiện học toán (đặc biệt là
công cụ công nghệ thông tin và truyền thông); giúp học sinh nhận biết toán học như
là một phương tiện mô tả và nghiên cứu thế giới hiện thực, là công cụ thực hành
ứng dụng trong học tập các môn học khác.
Giáo dục toán học được thực hiện ở nhiều môn học như Toán, Vật lý, Hoá
học, Sinh học, Công nghệ, Tin học,... trong đó môn Toán là môn học cốt loi.
3. Môn học cốt lõi thuộc lĩnh vực giáo dục Đạo đức - Công dân
Lĩnh vực giáo dục đạo đức - công dân giữ vai trò chủ đạo trong giáo dục các
giá trị sống; góp phần hình thành, phát triển cho học sinh những phẩm chất đạo
đức, các năng lực giao tiếp, hợp tác, giải quyết các vấn đề của thực tiễn đời sống,
làm chủ bản thân, thực hiện trách nhiệm công dân,... phù hợp với chuẩn giá trị đạo
đức và quy định của pháp luật.
Tất cả các môn học, nhất là các môn thuộc khoa học xã hội và hoạt động trải
nghiệm sáng tạo đều góp phần giáo dục đạo đức - công dân, trong đó Giáo dục lối
13
sống (cấp tiểu học), Giáo dục công dân (cấp trung học cơ sở) và Công dân với Tổ
quốc (cấp trung học phổ thông) là các môn học cốt loi, bắt buộc.
4. Môn học cốt lõi thuộc lĩnh vực giáo dục Thể chất
Lĩnh vực giáo dục thể chất nhằm giáo dục học sinh có cuộc sống khoẻ mạnh
cả về thể lực và tinh thần, hình thành văn hoá thể chất thông qua việc trang bị cho
học sinh những kiến thức về sức khoẻ và quản lý sức khoẻ, biết thường xuyên tập
luyện phù hợp với bản thân, biết cách thích ứng với các điều kiện sống, lạc quan và
chia sẻ với mọi người.
Giáo dục thể chất được thực hiện ở một số môn học như Thể dục, Sinh học,
Công nghệ, các hoạt động thể thao, trải nghiệm sáng tạo,... trong đó môn học cốt
loi là Thể dục - Thể thao (Thể dục là nội dung học từ lớp 1 đến lớp 9, Thể thao là
hoạt động tự chọn trong môn học (TC3) của học sinh trong nhà trường từ lớp 1 đến
lớp 12); Thể dục và Thể thao nhằm rèn luyện cho học sinh kỹ năng phát triển thể
lực, sức khoẻ bằng những hoạt động thể chất đa dạng như rèn kỹ năng vận động cơ
bản, đội hình, đội ngũ; các bài tập thể dục và bài tập phát triển tố chất thể lực; các
môn thể thao: bơi lặn, vo, vật và các hoạt động thể thao cổ truyền, thể dục nghệ
thuật, khiêu vũ thể thao…; phương pháp phòng chống chấn thương trong hoạt động
thể dục, thể thao.
5. Môn học cốt lõi thuộc lĩnh vực giáo dục Nghệ thuật
Lĩnh vực giáo dục Nghệ thuật có ưu thế hình thành và phát triển cho học sinh
các phẩm chất: nhân ái, khoan dung, tự tin; các năng lực: thẩm mỹ, giao tiếp, hợp
tác, cảm thụ, hiểu biết và thực hành nghệ thuật; định hướng thẩm mỹ, bồi dưỡng
hứng thú cho học sinh khi tiếp xúc với các hoạt động nghệ thuật; giáo dục tình cảm
yêu quý, thái độ tôn trọng, ý thức bảo tồn những giá trị văn hoá, nghệ thuật truyền
thống đồng thời với việc sáng tạo trong quá trình hội nhập và giao thoa văn hoá.
Lĩnh vực giáo dục Nghệ thuật được thực hiện thông qua nhiều môn học và hoạt
14
động trải nghiệm sáng tạo, trong đó có hai môn học cốt loi là Mỹ thuật và Âm
nhạc. Kiến thức cơ bản về Mỹ thuật và Âm nhạc là nội dung học ở giai đoạn giáo
dục cơ bản. Các hoạt động Mỹ thuật, Âm nhạc có nhiều trong hoạt động trải
nghiệm sáng tạo (TC3) ở tất cả các cấp học.
a) Mỹ thuật
- Giai đoạn giáo dục cơ bản:
Nội dung chủ yếu của môn học ở giai đoạn này nhằm hình thành ở học sinh
cảm xúc trước thiên nhiên và đời sống xã hội thông qua việc nhận biết về màu sắc,
đường nét, hình thể và những biến chuyển sinh động của các sự vật, đồ vật, hiện
tượng. Học sinh biết cách thể hiện cảm xúc, tư duy bằng ngôn ngữ tạo hình một
cách đơn giản trên mặt phẳng hai chiều và trong không gian ba chiều.
Phương pháp dạy học chủ yếu là trực quan và thực hành sáng tạo thông qua
các chủ đề học tập phù hợp với tâm lý lứa tuổi, phù hợp điều kiện cơ sở vật chất
của nhà trường, lớp học. Mỗi chủ đề học tập được giải quyết bằng chuỗi các thao
tác tạo hình nhằm hình thành kỹ năng tạo hình cho học sinh thông qua cách nhận
diện, phân tích, xử lý màu sắc, đường nét, hình khối, công nghệ số để thể hiện cảm
xúc cá nhân. Ở cấp tiểu học, tăng cường các hoạt động trải nghiệm sáng tạo nghệ
thuật theo nhóm bên cạnh các hoạt động độc lập cá nhân của học sinh; đa dạng hoá
không gian học tập (học trong và ngoài phạm vi lớp học). Ở cấp trung học cơ sở,
tăng cường các hoạt động cá nhân để học sinh có cơ hội thể hiện tư duy độc lập và
những sáng tạo cá nhân; tạo cơ hội cho học sinh khám phá năng lực tạo hình của
bản thân thông qua các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, các dự án học tập của môn
mỹ thuật hoặc của nhóm các môn học.
Hình thức, phương pháp đánh giá kết quả học tập chủ yếu thông qua kết quả
các dự án học tập được giao; đánh giá xúc cảm thẩm mỹ, năng lực thực hành, sáng
tạo mỹ thuật thông qua cách biểu đạt ngôn ngữ nghệ thuật mang dấu ấn cá nhân của
15
học sinh ở các sản phẩm đơn lẻ trong chuỗi bài tập cũng như kết quả sản phẩm cuối
cùng của nhóm học tập; đánh giá ý thức nghệ thuật của mỗi học sinh thông qua các
hoạt động tập thể, cộng đồng.
- Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp:
Nội dung học tập mỹ thuật giai đoạn này tập trung hướng dẫn cách sử dụng,
xử lý một số chất liệu tạo hình thông dụng như: màu nước, màu bột, sơn dầu, khắc
gỗ, điêu khắc, kỹ thuật số,... Học sinh được học cách phát hiện chủ đề và cách lựa
chọn chất liệu. Mạch nội dung được thiết kế theo các mô đun: mô đun chất liệu để
lựa chọn chủ đề hoặc mô đun chủ đề để lựa chọn chất liệu; hình thành kỹ năng hình
họa căn bản, trong đó tập trung các kỹ thuật, thủ thuật quan sát, ghi nhớ và tái hiện
lại sự vật, con người bằng chất liệu phù hợp.
Phương pháp dạy học chủ yếu là trực quan và thực hành sáng tạo. Tăng
cường cho học sinh giải quyết các nội dung học tập một cách độc lập.
Hình thức, phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập: Kết hợp đánh giá
quá trình với đánh giá tổng kết trong và sau khi học sinh hoàn thành mỗi mô đun.
Trong đó, đánh giá tư duy thẩm mỹ thông qua việc lựa chọn chất liệu, lựa chọn chủ
đề phù hợp, cách biểu đạt cảm xúc và lượng thông tin qua sản phẩm; đánh giá năng
lực tạo hình thông qua cách sử dụng, xử lý chất liệu, sản phẩm tạo được ấn tượng
và cảm xúc cho người xem.
b) Âm nhạc
Nội dung bao gồm các mạch kiến thức và kỹ năng về học hát, chơi nhạc cụ,
tập đọc nhạc, lý thuyết và thường thức âm nhạc. Qua việc học những nội dung đó
giúp học sinh hình thành và phát triển các năng lực thực hành, hiểu biết, cảm thụ,
sáng tạo và ứng dụng âm nhạc.
16
- Giai đoạn giáo dục cơ bản: Học sinh được trải nghiệm, khám phá và thể
hiện bản thân mình trong môi trường âm nhạc, thông qua các hoạt động: ca hát,
nghe nhạc, vận động, nhảy múa, chơi nhạc cụ, tập đọc nhạc, trình diễn, sáng tạo âm
nhạc. Học sinh nhận thức được sự đa dạng của thế giới âm nhạc, mối liên hệ giữa
âm nhạc với văn hoá, lịch sử và các loại nghệ thuật, học sinh có ý thức bảo vệ và
phổ biến các giá trị âm nhạc truyền thống.
- Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp: Học sinh phát triển được năng
khiếu âm nhạc, ứng dụng các kiến thức và kỹ năng âm nhạc vào đời sống. Học sinh
tìm hiểu, tiếp cận với những nghề nghiệp liên quan đến âm nhạc.
Phương pháp dạy học cần sử dụng các phương pháp truyền thống, kết hợp
với phương pháp dạy học Âm nhạc tiên tiến, sử dụng hợp lý nhạc cụ, phương tiện
nghe nhìn và công nghệ thông tin. Hình thức tổ chức dạy học Âm nhạc cần thông
qua các hoạt động trải nghiệm, khám phá, cảm thụ, sáng tạo và ứng dụng âm nhạc.
Đánh giá kết quả học tập cần đảm bảo sự toàn diện về các năng lực, đầy đủ
về các nội dung, chú trọng đánh giá năng lực thực hành âm nhạc; khuyến khích học
sinh tham gia các hoạt động âm nhạc ở trong và ngoài nhà trường.
6. Môn học cốt lõi thuộc lĩnh vực giáo dục Khoa học xã hội
Lĩnh vực giáo dục Khoa học xã hội có ưu thế và ý nghĩa quan trọng đối với
sự phát triển toàn diện cũng như phát triển lâu dài của học sinh; có vai trò nền tảng
trong việc giáo dục tinh thần nhân văn, phát huy tinh thần dân tộc, lòng yêu nước
và xu thế thời đại là đổi mới, sáng tạo; giúp học sinh hiểu biết và nhận thức được
quy luật khách quan về sự phát triển của xã hội loài người; lý giải quan hệ giữa con
người và xã hội, con người và tự nhiên; nhận thức về Việt Nam đương đại cũng
như thế giới ngày nay. Thông qua lĩnh vực giáo dục Khoa học xã hội, học sinh
bước đầu học được cách quan sát và tư duy về xã hội, cuộc sống, coi trọng chứng
cứ và nâng cao năng lực lý giải hiện tượng xã hội, biết cách phân tích và giải quyết
17
vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội trong không gian và thời gian,... Giáo dục Khoa học
xã hội được thực hiện ở nhiều môn học và hoạt động trải nghiệm sáng tạo, trong đó
các môn học cốt loi tiếp nối nhau là: Cuộc sống quanh ta (các lớp 1, 2, 3); Tìm hiểu
Xã hội (các lớp 4, 5); Khoa học xã hội (cấp trung học cơ sở và cấp trung học phổ
thông); Lịch sử, Địa lý (cấp trung học phổ thông).
Nội dung cốt loi của các môn học được tổ chức theo các mạch chính: đại
cương, thế giới, khu vực, Việt Nam và địa phương, bảo đảm cấu trúc sau: quá trình
tiến hoá (thời gian, không gian), sự phát triển của tiến bộ xã hội và nguyên nhân
của hưng thịnh, suy vong qua các thời kỳ; điều kiện tự nhiên, các thành tựu chính
về kinh tế, xã hội, văn hoá, văn minh; cá nhân, các tập đoàn người trong quan hệ
hợp tác, cạnh tranh; đặc điểm dân cư, tình hình phát triển, cơ cấu phân bố nền kinh
tế; một số chủ đề liên môn kết nối tổ hợp các nội dung của lịch sử, địa lý và xã hội;
địa lý tự nhiên (trung học phổ thông).
Nội dung môn Khoa học xã hội ở cấp trung học phổ thông gồm các nội dung
tuyến tính hoặc đồng tâm xoáy ốc với cấp trung học cơ sở. Ở cả hai cấp, ngoài các
mạch kiến thức của các phân môn được sắp xếp gần nhau nhằm soi sáng và liên hệ
lẫn nhau, đồng thời có thêm một số chủ đề liên phân môn mang tính tích hợp mạnh.
7. Môn học cốt lõi thuộc lĩnh vực giáo dục Khoa học tự nhiên
Lĩnh vực giáo dục Khoa học Tự nhiên có ưu thế hình thành và phát triển cho
học sinh các phẩm chất như tự tin, trung thực; các năng lực tìm hiểu và khám phá
thế giới tự nhiên qua quan sát và thực nghiệm; năng lực vận dụng tổng hợp kiến
thức khoa học để giải quyết vấn đề trong cuộc sống, ứng xử với tự nhiên phù hợp
với yêu cầu phát triển bền vững xã hội và môi trường. Lĩnh vực giáo dục Khoa học
Tự nhiên được thực hiện trong nhiều môn học nhưng chủ yếu là các môn học: Cuộc
sống quanh ta (các lớp 1, 2, 3), Tìm hiểu tự nhiên (các lớp 4, 5), Khoa học tự nhiên
(cấp trung học cơ sở) và Khoa học tự nhiên (cho học sinh định hướng khoa học xã
18
hội, lớp 10, 11), các môn Vật lý, Hoá học, Sinh học (cho học sinh định hướng khoa
học tự nhiên cấp trung học phổ thông).
8. Môn học cốt lõi thuộc lĩnh vực giáo dục Công nghệ - Tin học
Lĩnh vực giáo dục Công nghệ - Tin học có ưu thế hình thành và phát triển cho
học sinh các phẩm chất: Trung thực, tự tin; các năng lực giải quyết vấn đề và sáng
tạo, tư duy và làm việc trong thế giới công nghệ kỹ thuật số và thông tin. Giáo dục
Công nghệ - Tin học được thực hiện ở các môn học như Công nghệ, Tin học, Toán
học, Vật lý, Hoá học, Sinh học, Khoa học Tự nhiên..., trong đó các môn học cốt loi
ở cấp tiểu học là Kỹ thuật - Tin học, ở cấp trung học cơ sở là Công nghệ (TC3) và
Tin học (TC3), ở cấp trung học phổ thông là Công nghệ (TC2) và Tin học (TC2).
9. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo dành cho tất cả học sinh từ lớp 1 đến lớp 12
giúp học sinh vận dụng những tri thức , kiên thưc , kỹ năng , thái độ đa hoc tư nha
trường và những kinh nghiệm của bản thân vào thực tiễn cuộc sống một cách sáng
tạo.
Bên canh việc hinh thanh va phat triên cac phẩm chất và năng lưc chung của
chương trình giáo dục, hoạt động trải nghiệm sáng tạo còn tập trung hình thành, phát
triên cac năng lưc đặc thù cho hoc sinh : Năng lưc tô chưc hoat đông , năng lưc tổ
chức và quản lý cuộc sống, năng lực tự nhận thức và tích cực hoá bản thân, năng lưc
đinh hương va lưa chon nghê nghiêp.
Nôi dung hoat đông trải nghiệm sáng tạo gồm phần bắt buộc (bao gồm cả
các hoạt động tập thể ) và tự chọn (TC3), đươc thiêt kê theo nguyên tăc tich hơp ,
hoặc đông tâm kêt hơp vơi tuyên tinh . Nôi dung hoat đông trai nghiêm sang tao
đươc xây dưng thành các chủ đề mang tính chất mở và tương đối độc lập với nhau
dưa trên cac lĩnh vực cua đơi sông kinh tê , sản xuất, khoa học công nghệ, giáo dục,
19
văn hoá, chính trị xã hội,... của đia phương, vùng miền, đất nước va quôc tê để học
sinh và nhà trường lựa chọn, tổ chức thực hiện một cách phù hợp, hiệu quả.
10. Nghiên cứu khoa học kỹ thuật
Nghiên cứu khoa học kỹ thuật (TC1) là hoạt động giáo dục nhằm khuyến
khích học sinh trung học (từ lớp 8 đến lớp 12) nghiên cứu, sáng tạo khoa học, công
nghê, kỹ thuật và vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn
cuộc sống; góp phần hình thành và phát triển cho học sinh các phẩm chất trung thực,
tự trọng, tự tin, có tinh thần vượt khó, chấp hành kỷ luật và pháp luật,...; các năng lực
phát hiện và giải quyết vấn đề, sáng tạo, tự học, giao tiếp, hợp tác, tính toán, ICT,...
Nội dung nghiên cứu khoa học kỹ thuật gắn với thực tiễn cuộc sống như:
khoa học xã hội và hành vi, khoa học động vật, hoá sinh, sinh học tế bào và phân
tử, khoa học thực vật, khoa học máy tính, khoa học trái đất và hành tinh, vật lý và
thiên văn học, khoa học môi trường, kỹ thuật về vật liệu và công nghệ sinh học, kỹ
thuật điện và cơ khí, năng lượng và vận tải, y khoa và khoa học sức khoẻ, vi sinh
vật học,...
Phương pháp, hình thức tổ chức nghiên cứu khoa học kỹ thuật được tiến
hành thông qua các đê tai , dự án học tập, công trình nghiên cứu khoa học, kỹ thuật
của một học sinh hay nhóm học sinh với sự giúp đỡ, hướng dẫn của người hướng
dẫn nghiên cứu; các cuộc thi được tổ chức ở địa phương, quốc gia và tham gia các
cuộc thi quốc tế.
Đánh giá kết quả nghiên cứu tập trung vào khả năng sáng tạo, ý tưởng khoa
học, phong cách nghiên cứu khoa học, kỹ năng thí nghiệm, tính toán, quan sát, thiết
kế, tính rõ ràng, minh bạch,... được cụ thể hoá thành các tiêu chí của các cuộc thi.
11. Chuyên đề học tập
20
Các chuyên đề học tập dành cho học sinh các lớp trung học phổ thông tự
chọn (TC3) nhằm đáp ứng nhu cầu khác nhau của học sinh, trang bị cho học sinh
một số năng lực phù hợp với đặc điểm cá nhân, định hướng nghề nghiệp, giúp học
sinh chuẩn bị học tập giai đoạn giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp có chất
lượng hoặc tham gia lao động xã hội. Thời lượng giáo dục mỗi chuyên đề học tập
khoảng 15 tiết.
Hệ thống các chuyên đề học tập được sắp xếp theo các lĩnh vực đào tạo của
giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp mà học sinh sẽ tiếp tục học lên hoặc đi
vào cuộc sống lao động và bao gồm các loại: chuyên đề học tập mở rộng nhằm
giúp học sinh tiếp tục hoàn thiện hệ thống kiến thức phổ thông cơ bản; chuyên đề
có tính hướng nghiệp và chuyên đề học tập nâng cao nhằm giúp học sinh có những
hiểu biết chung, khái quát (có tính nhập môn), định hướng theo nhóm ngành nghề
của xã hội và của quá trình đào tạo sau trung học phổ thông. Bộ Giáo dục và Đào
tạo công bố danh mục chuyên đề học tập và tài liệu học tập tương ứng; sở giáo dục
và đào tạo căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội, các nghề ở địa phương xây dựng
bổ sung một số chuyên đề học tập phù hợp; số lượng chuyên đề học tập có thể tăng
qua các năm học.
Phương pháp dạy học chuyên đề học tập chủ yếu là khuyến khích học sinh tự
học, làm việc theo nhóm, xêmina, thực hiện dự án học tập, thực hành thí nghiệm ở
phòng học bộ môn, cơ sở sản xuất kinh doanh, cơ quan văn hoá,... Người dạy là
giáo viên đã được học hoặc tự học, được bồi dưỡng về các chuyên đề học tập liên
quan với môn học được đào tạo, giảng viên các trường đại học, cao đẳng, các
doanh nhân, nghệ nhân,...
Các trường trung học phổ thông tập hợp nguyện vọng của học sinh, căn cứ
điều kiện cụ thể và năng lực của trường hoặc liên trường để tổ chức dạy học các
chuyên đề học tập đảm bảo phù hợp, chất lượng, hiệu quả. Khả năng đáp ứng dạy
21
học các chuyên đề học tập của mỗi nhà trường sẽ được tăng cường qua các năm
học.
Kết thúc mỗi chuyên đề học tập sẽ kiểm tra đánh giá kết quả học tập thông
qua bài kiểm tra hoặc viết tiểu luận, thu hoạch cá nhân hoặc kết hợp kiểm tra kỹ
năng thực hành.
12. Tự học có hƣớng dẫn
Đối với các trường tiểu học thực hiện dạy học hai buổi/ngày, ngoài các môn
học, hoạt động trải nghiệm sáng tạo, ở tất cả các lớp đều có hoạt động tự học có
hướng dẫn. Giáo viên giúp đỡ, hướng dẫn học sinh tự học ở trường, giảm tối đa
việc học ở nhà; góp phần hình thành và phát triển năng lực tự học cho học sinh. Đối
với các trường tiểu học chỉ dạy học một buổi/ngày thì không có điều kiện thiết kế
hoạt động này trong chương trình giáo dục. Các trường căn cứ điều kiện cụ thể để
linh hoạt thực hiện.
B. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
I. DẠY HỌC TÍCH HỢP TRONG CHƢƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ
THÔNG
1. Một số vấn đề chung
- Dạy học tích hợp là giáo viên tổ chức, hướng dẫn để học sinh biết huy động
tổng hợp kiến thức, kỹ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết có
hiệu quả các nhiệm vụ học tập; thông qua nó hình thành những kiến thức kỹ năng
mới; phát triển được những năng lực cần thiết, nhất là năng lực giải quyết vấn đề
trong học tập và trong thực tiễn cuộc sống.
- Ưu điểm của dạy học tích hợp
+ Phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh, nhất là học sinh tiểu học và
trung học cơ sở. Trước mắt các em thế giới là một thể thống nhất: tự nhiên, xã hội
và con người. Thế giới không bị tách ra từng lát cắt.
22
+ Làm cho quá trình học tập gần gũi với cuộc sống của các em. Các chủ
điểm được xây dựng từ những nội dung gắn liền với cuộc sống.
+ Ghép được những kiến thức và kỹ năng có liên quan/gần nhau của các môn
học.
+ Giảm số môn học và giảm tải cho học sinh.
+ Có điều kiện thuận lợi để hình thành và phát triển năng lực cho học sinh.
2. Phƣơng án dạy học tích hợp có thể áp dụng trong chƣơng trình, sách
giáo khoa sau năm 2015
Việc lựa chọn hình thức tích hợp cho chương trình giáo dục phổ thông sau
2015 được thực hiện dựa trên các nguyên tắc sau:
- Hiện đại: Phương án phải phù hợp với xu hướng phát triển chương trình
của thế giới và định hướng phát triển chương trình sau năm 2015 của nước ta.
- Kế thừa và phát triển: Phương án dựa trên cơ sở của chương trình hiện
hành, kế thừa thực tiễn và kết quả nghiên cứu về tích hợp ở Việt Nam.
- Khả thi: Phương án đề xuất phù hợp với năng lực, điều kiện và thời gian
trong bối cảnh chung của nhà trường hiện nay (thời lượng dạy học, xây dựng
chương trình, biên soạn sách giáo khoa, năng lực giáo viên và cán bộ quản lý, cơ sở
vật chất và thiết bị dạy học).
3. Tổ chức các lĩnh vực giáo dục, môn học theo quan điểm tích hợp
trong chƣơng trình giáo dục phổ thông
Có bốn hình thức chính:
- Tích hợp trong nội bộ môn học: Là môn học độc lập, một số nội dung của
các phân môn trong môn học đó được tích hợp lại với nhau.
- Tích hợp đa môn: Các môn học vẫn độc lập, tuy nhiên có những chủ đề như
Môi trường, Sức khoẻ sinh sản, Kỹ năng sống... được lồng ghép vào các môn học
sao cho phù hợp với đặc trưng của môn học đó.
23
- Tích hợp liên môn: Xây dựng môn học mới bằng cách kết hợp hai hay
nhiều môn học với nhau nhưng vẫn có những phần mang tên riêng của từng môn
học và giữa các môn đó có các chủ đề liên môn.
- Tích hợp xuyên môn: Xây dựng môn học mới với cách tiếp cận những vấn
đề từ cuộc sống thực và có ý nghĩa đối với học sinh mà không xuất phát từ các
khoa học tương ứng với các môn học.
4. Định hƣớng phƣơng pháp và hình thức tổ chức dạy học tích hợp
Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học tích hợp cũng không nằm ngoài
định hướng đổi mới phương pháp dạy học. Ở đây xin nhấn mạnh một số yếu tố góp
phần nâng cao chất lượng dạy học tích hợp.
- Trong quá trình dạy học, giáo viên luôn luôn có ý thức và sử dụng các
phương pháp để liên hệ với các nội dung học sinh đã học thuộc các lĩnh vực khác
hoặc các vấn đề đặt ra của đất nước, quốc tế có liên quan tới nội dung bài học. Vận
dụng các phương pháp để học sinh thể hiện những hiểu biết của bản thân về những
vấn đề sẽ được tìm hiểu trong bài mang tính tích hợp. Ví dụ vấn đề Nước và ô
nhiễm nguồn nước, vấn đề Khí hậu và ứng phó với biến đổi khí hậu, vấn đề Nhà
nước và các hình thức nhà nước, vấn đề Hát quan họ với nghệ thuật dân gian...
- Vận dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học (dạy học dự án,
bàn tay nặn bột.) để tạo điều kiện cho học sinh được thực hành vận dụng giải quyết
vấn đề nội dung mang tính tích hợp, tạo điều kiện để các em có cơ hội liên hệ, vận
dụng, phối hợp những kiến thức, kỹ năng của nhiều lĩnh vực vào giải quyết những
vấn đề thực tế của đời sống. Dạy học theo dự án là một phương pháp tốt để dạy
học tích hợp giúp các em không chỉ rèn luyện phương pháp học mà còn vận dụng
kiến thức tổng hợp vào giải quyết các vấn đề trong thực tiễn.
Tăng cường các hình thức học tập ngoài nhà trường như học ở bảo tàng, học ở
24
thực địa nhà máy, đồng ruộng. để giúp các em học tập ở thực tiễn.
Tổ chức các câu lạc bộ liên quan tới các lĩnh vực Ngôn ngữ, Nghệ thuật, Khoa
học Tự nhiên, Khoa học Xã hội. giúp các em vui vẻ, cùng nhau giải quyết những
vấn đề lý thú trong cuộc sống có liên quan đến nhiều lĩnh vực.
Tăng cường các hoạt động giáo dục trải nghiệm, các hoạt động này không chỉ
giúp các em cần phải huy động những kiến thức tổng hợp để ứng xử với những vấn
đề trong cuộc sống mà còn tạo thuận lợi cho sự tham gia, gắn kết, phối hợp của gia
đình, cộng đồng với nhà trường.
- Một số phương pháp cụ thể như: thực nghiệm, học qua làm, động não,
nghiên cứu trường hợp, sơ đồ khái niệm, học tập hợp tác, trò chơi, điều tra, sơ đồ
tư duy, xây dựng mô hình, giải quyết vấn đề, làm việc dự án, ứng dụng công nghệ
thông tin. Ngoài ra, giáo viên cũng cần được khuyến khích sử dụng phối hợp các
phương pháp một cách linh hoạt, sáng tạo để tạo thuận lợi cho các quá trình khám
phá của học sinh.
5. Định hƣớng đánh giá kết quả học tập của học sinh phù hợp với dạy
học tích hợp
Định hướng đánh giá theo quan điểm tích hợp không nằm ngoài đổi mới kiểm
tra, đánh giá.
Một trong những mục đích đánh giá kết quả học tập của học sinh là giúp các
em nhận biết được những mặt mạnh, cải thiện được những mặt hạn chế, nhận ra sự
tiến bộ cũng như thể hiện được khả năng của bản thân, khuyến khích tạo hứng thú,
động cơ học tập, không gây căng thẳng cho các em.
Đánh giá đo mức độ đạt được kiến thức, kỹ năng và thái độ, năng lực của học
sinh. Trong khi đánh giá bổ sung cho quá trình dạy học, nó cũng cung cấp phản hồi
về việc hình thành và tổng kết cho giáo viên, học sinh, nhà trường và phụ huynh.
Đánh giá kết quả học tập của học sinh phù hợp với dạy học tích hợp cũng
25
không nằm ngoài phạm vi của đổi mới mục đích, nội dung và phương pháp đánh
giá. Phần này, xin nhấn mạnh một số yếu tố sau:
- Về mục đích đánh giá không chỉ thiên về đánh giá kiến thức, kỹ năng mà tập
trung vào đánh giá năng lực của học sinh.
- Về nội dung đánh giá thể hiện tính tích hợp trong cách thức sau: đề kiểm
tra, thi gắn liền với những vấn đề thực tiễn gần gũi và có ý nghĩa đối với học sinh.
Muốn giải quyết vấn đề đặt ra, học sinh phải vận dụng kiến thức, kỹ năng của
nhiều môn học.
- Về hình thức kiểm tra, đánh giá giáo viên cần phải vận dụng nhiều hình thức
khác nhau như: viết, vấn đáp, qua quan sát, nhận xét, kiểm tra, toạ đàm, phỏng vấn,
dự án
Các mục tiêu đánh giá của chương trình chi tiết được chia thành ba lĩnh vực
như trong chương trình khung:
- Đánh giá kiến thức, hiểu biết và áp dụng các khái niệm khoa học.
- Đánh giá các kỹ năng và quá trình:
+ Đánh giá đạo đức và thái độ.
+ Đánh giá năng lực.
Phương pháp đánh giá: Đánh giá trong một lớp học dựa trên khám phá có thể
có nhiều hình thức khác nhau, giáo viên có thể sử dụng các phương pháp đánh giá
một cách linh hoạt sao cho có sự phù hợp giữa loại hình đánh giá, mục đích đánh
giá và hoàn cảnh. Cần kết hợp một số hình thức đánh giá sau: Bài kiểm tra viết;
Báo cáo thực hành; Báo cáo kết quả dự án; Kết quả quan sát của giáo viên; Bảng
kiểm; Hồ sơ học tập...
Cần xác định mục tiêu nội dung và xây dựng được bộ công cụ đánh giá (đề
kiểm tra, bảng kiểm, phiếu đánh giá.) đảm bảo đánh giá được các kiến thức, kỹ
26
năng, thái độ, năng lực của học sinh đảm bảo khách quan, công bằng và định
hướng dạy học theo đúng mục tiêu của môn khoa học.
II. TỔ CHỨC DẠY HỌC THEO DỰ ÁN
1. Quan niệm dạy học dự án
Dạy học theo dự án là một hình thức dạy học, trong đó người học thực hiện
một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, có tạo
ra các sản phẩm có thể giới thiệu, báo cáo. Nhiệm vụ này được học sinh thực hiện
với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập
kế hoạch, đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết
quả thực hiện. Làm việc nhóm là hình thức cơ bản của dạy học theo dự án.
2. Đặc điểm của dạy học dự án
Trong các tài liệu về dạy học dự án có rất nhiều đặc điểm được đưa ra. Các
nhà sư phạm khi xác lập cơ sở lý thuyết cho dạy học dự án này đã nêu ra 3 đặc
điểm cốt loi của dạy học dự án: định hướng học sinh, định hướng thực tiễn và định
hướng sản phẩm. Có thể cụ thể hoá các đặc điểm của dạy học dự án như sau:
a) Định hướng thực tiễn: Chủ đề của dự án xuất phát từ những tình huống
của thực tiễn xã hội và đời sống. Nhiệm vụ dự án cần chứa đựng những vấn đề phù
hợp với trình độ và khả năng của học sinh.
b) Có ý nghĩa thực tiễn xã hội: Các dự án học tập góp phần gắn việc học tập
trong nhà trường với thực tiễn đời sống, xã hội. Trong những trường hợp lý tưởng,
việc thực hiện các dự án có thể mang lại những tác động xã hội tích cực.
c) Định hướng hứng thú học sinh: Học sinh được tham gia chọn đề tài, nội
dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân. Ngoài ra, hứng thú của
học sinh cần được tiếp tục phát triển trong quá trình thực hiện dự án.
d) Tính phức hợp: Nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực
hoặc môn học khác nhau nhằm giải quyết một vấn đề mang tính phức hợp.
27
đ) Định hướng hành động: Trong quá trình thực hiện dự án có sự kết hợp
giữa nghiên cứu lý thuyết và vận dụng lý thuyết vào trong hoạt động thực tiễn, thực
hành. Thông qua đó, kiểm tra, củng cố, mở rộng hiểu biết lý thuyết cũng như rèn
luyện kỹ năng hành động, kinh nghiệm thực tiễn của học sinh.
e) Tính tự lực cao của học sinh: Trong dạy học dự án, học sinh cần tham gia
tích cực và tự lực vào các giai đoạn của quá trình dạy học. Điều đó cũng đòi hỏi và
khuyến khích tính trách nhiệm, sự sáng tạo của học sinh. Giáo viên chủ yếu đóng
vai trò tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ. Tuy nhiên mức độ tự lực cần phù hợp với kinh
nghiệm, khả năng của học sinh và mức độ khó khăn của nhiệm vụ.
g) Cộng tác làm việc: Các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm,
trong đó có sự cộng tác làm việc và sự phân công công việc giữa các thành viên
trong nhóm. Dạy học dự án đòi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kỹ năng cộng tác
làm việc giữa các thành viên tham gia, giữa học sinh và giáo viên cũng như với các
lực lượng xã hội khác tham gia trong dự án. Đặc điểm này còn được gọi là học tập
mang tính xã hội.
h) Định hướng sản phẩm: Trong quá trình thực hiện dự án, các sản phẩm
được tạo ra. Sản phẩm của dự án không giới hạn trong những thu hoạch lý thuyết,
mà trong đa số trường hợp các dự án học tập tạo ra những sản phẩm vật chất của
hoạt động thực tiễn, thực hành. Những sản phẩm này có thể sử dụng, công bố, giới
thiệu.
3. Các dạng của dạy học theo dự án
Dạy học theo dự án có thể được phân loại theo nhiều phương diện khác nhau.
Sau đây là một số cách phân loại dạy học theo dự án:
a) Phân loại theo chuyên môn
- Dự án trong một môn học: trọng tâm nội dung nằm trong một môn học.
- Dự án liên môn: trọng tâm nội dung nằm ở nhiều môn khác nhau.
28
- Dự án ngoài môn học: Là các dự án không phụ thuộc trực tiếp vào các môn
học, ví dụ dự án chuẩn bị cho các lễ hội trong trường.
b) Phân loại theo sự tham gia của học sinh: Dự án cho nhóm học sinh, dự án
cá nhân. Dự án dành cho nhóm học sinh là hình thức dự án dạy học chủ yếu.
c) Phân loại theo sự tham gia của giáo viên: dự án dưới sự hướng dẫn của
một giáo viên, dự án với sự cộng tác hướng dẫn của nhiều giáo viên.
d) Phân loại theo quỹ thời gian: Có thể phân chia như sau:
- Dự án nhỏ: thực hiện trong một số giờ học, có thể từ 2-6 giờ học.
- Dự án trung bình: dự án trong một hoặc một số ngày, nhưng giới hạn là
một tuần hoặc 40 giờ học.
- Dự án lớn: dự án thực hiện với quỹ thời gian lớn, tối thiểu là một tuần (hay
40 giờ học), có thể kéo dài nhiều tuần.
đ) Phân loại theo nhiệm vụ
Dựa theo nhiệm vụ trọng tâm của dự án, có thể phân loại các dự án theo các
dạng sau:
- Dự án tìm hiểu: là dự án khảo sát thực trạng đối tượng.
- Dự án nghiên cứu: nhằm giải quyết các vấn đề, giải thích các hiện tượng, quá
trình.
- Dự án thực hành: có thể gọi là dự án kiến tạo sản phẩm, trọng tâm là việc
tạo ra các sản phẩm vật chất hoặc thực hiện một kế hoạch hành động thực tiễn,
nhằm thực hiện những nhiệm vụ như trang trí, trưng bày, biểu diễn, sáng tác.
- Dự án hỗn hợp: là các dự án có nội dung kết hợp các dạng nêu trên.
Các loại dự án trên không hoàn toàn tách biệt với nhau. Trong từng lĩnh vực
chuyên môn có thể phân loại các dạng dự án theo đặc thù riêng.
4. Tiến trình thực hiện dạy học theo dự án
29
Dựa trên cấu trúc của tiến trình phương pháp, người ta có thể chia cấu trúc của
dạy học theo dự án làm nhiều giai đoạn nhỏ hơn. Sau đây trình bày một cách phân
chia các giai đoạn của dạy hoc theo dự án theo 5 giai đoạn.
a) Chọn đề tài và xác định mục đích của dự án: Giáo viên và học sinh cùng
nhau đề xuất, xác định đề tài và mục đích của dự án. Cần tạo ra một tình huống
xuất phát, chứa đựng một vấn đề, hoặc đặt một nhiệm vụ cần giải quyết, trong đó
chú ý đến việc liên hệ với hoàn cảnh thực tiễn xã hội và đời sống. Cần chú ý đến
hứng thú của học sinh cũng như ý nghĩa xã hội của đề tài. Giáo viên có thể giới
thiệu một số hướng đề tài để học sinh lựa chọn và cụ thể hoá. Trong trường hợp
thích hợp, sáng kiến về việc xác định đề tài có thể xuất phát từ phía học sinh. Giai
đoạn này được mô tả thành hai giai đoạn là đề xuất sáng kiến và thảo luận sáng
kiến.
b) Xây dựng kế hoạch thực hiện: Trong giai đoạn này học sinh với sự hướng
dẫn của giáo viên xây dựng đề cương cũng như kế hoạch cho việc thực hiện dự án.
Trong việc xây dựng kế hoạch cần xác định những công việc cần làm, thời gian dự
kiến, vật liệu, kinh phí, phương pháp tiến hành và phân công công việc trong nhóm.
c) Thực hiện dự án: Các thành viên thực hiện công việc theo kế hoạch đã đề
ra cho nhóm và cá nhân. Trong giai đoạn này học sinh thực hiện các hoạt động trí
tuệ và hoạt động thực tiễn, thực hành, những hoạt động này xen kẽ và tác động qua
lại lẫn nhau. Kiến thức lý thuyết, các phương án giải quyết vấn đề được thử nghiệm
qua thực tiễn. Trong quá trình đó sản phẩm của dự án và thông tin mới được tạo ra.
d) Thu thập kết quả và công bố sản phẩm: Kết quả thực hiện dự án có thể
được viết dưới dạng thu hoạch, báo cáo,... Trong nhiều dự án các sản phẩm vật chất
được tạo ra qua hoạt động thực hành. Sản phẩm của dự án cũng có thể là những
hành động phi vật chất, chẳng hạn việc biểu diễn một vở kịch, việc tổ chức một
sinh hoạt nhằm tạo ra các tác động xã hội. Sản phẩm của dự án có thể được trình
30
bày giữa các nhóm học sinh, có thể được giới thiệu trong nhà trường hay ngoài xã
hội.
đ) Đánh giá dự án: Giáo viên và học sinh đánh giá quá trình thực hiện và kết
quả cũng như kinh nghiệm đạt được. Từ đó rút ra những kinh nghiệm cho việc thực
hiện các dự án tiếp theo. Kết quả của dự án cũng có thể đuợc đánh giá từ bên ngoài.
Hai giai đoạn cuối này cũng có thể được mô tả chung thành giai đoạn kết thúc dự
án.
Việc phân chia các giai đoạn trên đây chỉ mang tính chất tương đối. Trong
thực tế chúng có thể xen kẽ và thâm nhập lẫn nhau. Việc tự kiểm tra, điều chỉnh
cần được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của dự án. Với những dạng dự án
khác nhau có thể xây dựng cấu trúc chi tiết riêng phù hợp với nhiệm vụ dự án. Giai
đoạn 4 và 5 cũng thường được mô tả chung thành một giai đoạn (giai đoạn kết thúc
dự án).
Như vậy, dạy học dự án là một hình thức dạy học quan trọng để thực hiện
quan điểm dạy học định hướng vào người học, quan điểm dạy học định hướng hoạt
động và quan điểm dạy học tích hợp. Dạy học dự án góp phần gắn lý thuyết với
thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội, tham gia tích cực vào việc
phát triển năng lực làm việc tự lực, năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết các vấn
đề phức hợp, tinh thần trách nhiệm và khả năng cộng tác làm việc của học sinh.
Những đặc trưng và ưu điểm của dạy học dự án rất phù hợp với đặc trưng của mô
hình trường học mới THCS.
Để tận dụng những ưu điểm của dạy học dự án vào mô hình trường học mới
THCS, đồng thời giúp học sinh làm quen dần với hoạt động nghiên cứu khoa học
dành cho học sinh trung học, giáo viên bộ môn cần xây dựng một số dự án học tập
(tối thiểu 2 dự án/phân môn/lớp), tập trung vào các chủ đề liên môn với nội dung
giáo dục liên quan đến các vấn đề thời sự của địa phương, đất nước, ví dụ: Giáo dục
đạo đức, pháp luật; Bảo vệ và sử dụng hiệu quả các nguồn nước; Biến đổi khí hậu và
31
phòng chống thiên tai; Bảo vệ và phát triển bền vững môi trường sống; Giới và bình
đẳng giới; An toàn giao thông; Sử dụng năng lượng hiệu quả; Ứng dụng kiến thức,
kỹ năng trong chương trình học vào thực tiễn; ... Trong tài liệu hướng dẫn giáo viên
có gợi ý một số dự án dạy học để giáo viên tham khảo xây dựng các dự án dạy học
của môn học/HĐGD. Tùy điều kiện thực tế, các bài học theo dự án này được bổ sung
vào kế hoạch dạy học và hoạt động giáo dục của nhà trường.
III. CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HỌC CHO HỌC
SINH
1. Các hình thức hoạt động nhóm
a. Hoạt động cá nhân : Loại hoạt động này yêu cầu HS thực hiện các bài tập /
nhiệm vụ một cách độc lập nhằm tăng cường khả năng làm việc độc lập của HS.
Nó diễn ra khá phổ biến, đặc biệt là với các bài tập / nhiệm vụ có yêu cầu khám
phá, sáng tạo hoặc rèn luyện đặc thù. GV cần đặc biệt coi trọng hoạt động cá nhân
vì nếu thiếu nó, nhận thức của HS sẽ không đạt tới mức độ sâu sắc và chắc chắn
cần thiết, cũng như các kĩ năng sẽ không được rèn luyện một cách tập trung.
b. Hoạt động cặp đôi và hoạt động nhóm : Loại hoạt động này nhằm giúp HS
phát triển năng lực hợp tác, tăng cường sự chia sẻ và tính cộng đồng. Thông
thường, hình thức hoạt động cặp đôi được sử dụng trong những trường hợp các bài
tập / nhiệm vụ cần sự chia sẻ, hợp tác trong nhóm nhỏ gồm hai em (ví dụ : kể cho
nhau nghe, nói với nhau một nội dung nào đó, đổi bài cho nhau để đánh giá
chéo),... ; còn hình thức hoạt động nhóm (từ ba em trở lên) được sử dụng trong
trường hợp tương tự, nhưng nghiêng về sự hợp tác, thảo luận với số lượng thành
viên nhiều hơn.
c. Hoạt động chung cả lớp : Hình thức hoạt động này phù hợp với số đông
HS, nhằm tăng cường tính cộng đồng, giáo dục tinh thần đoàn kết, sự chia sẻ, tinh
thần chung sống hài hoà. Hoạt động chung cả lớp thường được vận dụng trong các
tình huống sau : nghe GV hướng dẫn chung ; nghe GV nhắc nhở, tổng kết, rút kinh
32
nghiệm ; HS luyện tập trình bày miệng trước tập thể lớp,... Khi tổ chức hoạt động
chung cả lớp, GV tránh biến giờ học thành giờ nghe thuyết giảng hoặc vấn đáp vì
như vậy sẽ làm giảm hiệu quả và sai mục đích của hình thức hoạt động này.
d. Hoạt động với cộng đồng : Hoạt động với cộng đồng là hình thức hoạt
động của HS trong mối tương tác với xã hội, bao gồm các hình thức, từ đơn giản
như : nói chuyện với bạn bè, hỏi người thân trong gia đình,... đến những hình thức
phức tạp hơn như : tham gia bảo vệ môi trường, tìm hiểu các di tích văn hoá, lịch
sử ở địa phương,...
2. Tiến trình hoạt động nhóm
Ở các lớp học theo mô hình Trường học mới, HS ngồi học theo nhóm. Tuy
nhiên, không phải lúc nào HS cũng hoạt động theo nhóm. HS vẫn làm việc cá nhân,
theo cặp trong nhóm. Các hình thức làm việc trong nhóm được thay đổi thường
xuyên căn cứ vào yêu cầu của tài liệu Hướng dẫn học và thiết kế hoạt động của
GV.
a. Làm việc cá nhân : Trước khi tham gia phối hợp với bạn học trong các
nhóm nhỏ, cá nhân luôn có một khoảng thời gian với các hoạt động để tự lĩnh hội
kiến thức, chuẩn bị cho các hoạt động đóng vai hay thảo luận trong nhóm. Phổ biến
nhất có thể kể đến các hoạt động như đọc mục tiêu bài học, đọc văn bản, giải bài
toán để tìm kết quả,...
Cá nhân làm việc độc lập nhưng vẫn có thể tranh thủ hỏi hay trả lời bạn
trong nhóm, vẫn thực hiện các yêu cầu của của nhóm trưởng (nếu có) để phục vụ
cho các hoạt động cá nhân.
Tần suất của các hoạt động cá nhân trong nhóm rất lớn và chiếm ưu thế hơn
so với các hoạt động khác. Làm việc cá nhân giúp HS có thời gian tập trung tự
nghiên cứu, tự khám phá kiến thức, tự chuẩn bị những gì cần thiết trước khi sử
dụng nó để có những hoạt động khác cùng cả nhóm. Trong quá trình làm việc cá
nhân, gặp những gì không hiểu, HS có thể hỏi bạn ngồi cạnh hoặc nêu ra trong
33
nhóm để các thành viên khác cùng trao đổi và nếu nhóm không giải quyết được vấn
đề thì nhóm trưởng có thể nhờ GV hỗ trợ.
b. Làm việc theo cặp (hai HS) : Tuỳ theo hoạt động học tập, có lúc HS sẽ
làm việc theo cặp trong nhóm. GV lưu ý cách chia nhóm sao cho không HS nào bị
lẻ khi hoạt động theo cặp. Nếu không, GV phải cho đan chéo giữa các nhóm để
đảm bảo tất cả HS đều được làm việc. Làm việc theo cặp rất phù hợp với các công
việc như : kiểm tra dữ liệu, giải thích, chia sẻ thông tin ; thực hành kĩ năng giao
tiếp cơ bản (ví dụ như nghe, đặt câu hỏi, làm ro một vấn đề), đóng vai.
Làm việc theo cặp sẽ giúp HS tự tin và tập trung tốt vào công việc nhóm.
Quy mô nhỏ này cũng là nền tảng cho sự chia sẻ và hợp tác trong nhóm lớn hơn
sau này.
Làm việc chung cả nhóm : Trong các giờ học của mô hình Trường học mới
luôn có các hoạt động cả nhóm cùng hợp tác. Ví dụ, sau khi HS tự đọc một câu
chuyện, trưởng nhóm sẽ dẫn dắt các bạn trao đổi về một số vấn đề của câu chuyện
đó ; hoặc sau khi một cá nhân trong nhóm đã đưa ra kết quả của một bài toán, nhóm
sẽ cùng trao đổi nhận xét, bổ sung về cách giải bài toán đó ; hoặc là HS trong nhóm
sẽ cùng thực hiện một dự án nhỏ với sự chuẩn bị và phân chia công việc ro ràng,...
Nhóm là hình thức học tập phát huy rất tốt khả năng sáng tạo nên hình thức này dễ
phù hợp với các hoạt động cần thu thập ý kiến và phát huy sự sáng tạo. Điều quan
trọng là HS cần phải biết mình làm gì và làm như thế nào khi tham gia làm việc
nhóm.
c. Làm việc cả lớp : Khi HS có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh một vấn
đề hoặc có những khó khăn mà nhiều HS không thể vượt qua, GV có thể dừng
công việc của các nhóm lại để tập trung cả lớp làm sáng tỏ các vấn đề còn băn
khoăn hoặc bàn cãi. Lưu ý rằng những tình huống như vậy không xuất hiện thường
xuyên trong lớp học.
34
Như vậy, việc lựa chọn hình thức làm việc nào : cá nhân, cặp đôi, nhóm hay
cả lớp đều phụ thuộc vào yêu cầu của các loại hình hoạt động và luyện tập. Tài liệu
Hướng dẫn học chỉ là một gợi ý cho việc tổ chức các hình thức hợp tác này, GV
cần lưu ý là không phải luôn tuân theo một cách máy móc thiết kế có sẵn của tài
liệu. Tùy vào tình hình chung của cả lớp và thiết kế của cá nhân, GV có sự thay
đổi, ứng dụng linh động và phù hợp, đảm bảo tính hiệu quả cho bài học và sự hứng
thú cho HS.
Tránh dạy học đồng loạt theo hướng định lượng thời gian, bắt HS theo kịp
tiến độ một cách khiên cưỡng, thông báo chung hoặc ghi các nội dung trên bảng
trong khi hầu hết HS đã hiểu và làm được ; chốt kiến thức trong từng phần nhỏ ;
cho HS giơ tay phát biểu quá nhiều gây mất thời gian ; thay vì dạy cả lớp như hiện
hành thì lại dạy cho nhiều nhóm nên việc giảng giải lặp đi lặp lại ở các nhóm khác
nhau ; sử dụng câu hỏi phát vấn nhiều và vụn vặt,...
3. Vai trò của các thành viên trong hoạt động nhóm
Để tránh việc tổ chức hoạt động nhóm mang tính hình thức trong khi thảo
luận nhóm, cần phân ro vai trò của cá nhân, nhóm trưởng, GV. Cụ thể là :
a. Cá nhân : tự đọc, suy nghĩ, giải quyết nhiệm vụ, có thể hỏi các bạn trong
nhóm về những điều mình chưa hiểu ; khi các bạn cũng gặp khó khăn như mình thì
yêu cầu sự trợ giúp của GV ; thực hiện các yêu cầu của nhóm trưởng và yêu cầu
của GV.
b. Nhóm trưởng : thực hiện các nhiệm vụ của cá nhân như những bạn khác ;
bao quát nhóm xem các bạn có khó khăn gì không ; phân công các bạn giúp đỡ
nhau ; tổ chức cho cả nhóm thảo luận những vấn đề khó khăn ; thay mặt nhóm để
liên hệ với GV và xin trợ giúp ; báo cáo tiến trình học tập nhóm ; điều hành chốt
kiến thức trong nhóm. Nhóm trưởng tạo cơ hội để mọi thành viên tự giác trong tự
học, tích cực tham gia các hoạt động nhóm. Đối với các bạn nhút nhát thiếu tự tin,
cần được khuyến khích nói nhiều, trao đổi nhiều, thể hiện nhiều trong hoạt động
35
nhóm. Không để tình trạng một số thành viên làm thay, làm hộ các thành viên khác
trong nhóm. GV lưu ý phân công HS luân phiên nhau làm nhóm trưởng.
c. Thư kí của nhóm : thực hiện các nhiệm vụ của cá nhân như các bạn khác ;
là người ghi chép hoặc vẽ lại những nội dung trao đổi hoặc kết quả công việc của
nhóm. Việc ghi chép này giúp nhóm tổng hợp công việc mình đã thực hiện, trao đổi
với các nhóm khác hoặc chia sẻ trước cả lớp. Để việc tổng hợp ý kiến, công việc
của nhóm được thú vị và hấp dẫn. GV có thể cùng các em sáng tạo ra nhiều hình
thức trình bày như tranh hoá hoặc sơ đồ hoá với các hình ảnh ngộ nghĩnh. Thư kí
còn là người đánh dấu vào bảng tiến độ công việc để giúp nhóm trưởng báo cáo
GV. GV lưu ý phân công HS luân phiên nhau làm thư kí.
4. Vai trò của giáo viên trong tổ chức hoạt động nhóm
- Chọn luân phiên các nhóm trưởng, thư kí nhóm để giúp GV triển khai các
hoạt động học tập.
- Xác định và phân công nhiệm vụ cho các nhóm một cách cụ thể và ro ràng.
- Đứng ở vị trí thuận lợi để dễ dàng quan sát các nhóm HS làm việc và có thể
hỗ trợ kịp thời cho các nhóm. Không nên dành thời gian làm việc ở một nhóm quá
lâu, đứng một chỗ ở khu vực bàn GV.
- Giúp đỡ HS, gợi mở để HS phát huy tìm tòi kiến thức mới, hỗ trợ cho cả
lớp, hướng dẫn HS báo cáo sản phẩm. Khi cần tạo tình huống để học tập, GV có
thể gọi HS còn yếu ; khi cần biểu dương khích lệ học tập, GV có thể gọi HS khá
giỏi thay mặt nhóm để báo cáo ; giao thêm nhiệm vụ cho những HS hoàn thành
trước nhiệm vụ (giao thêm bài tập hoặc yêu cầu hướng dẫn các bạn khác,...).
- Vừa hướng dẫn học tập cho một nhóm, vừa kết hợp quan sát, đánh giá và
thúc đẩy các nhóm khác làm việc. Việc chỉ định HS phát biểu, trình bày báo cáo,...
phải được cân nhắc phù hợp với nội dung hoạt động, đối tượng HS, không tập trung
vào một số HS trong lớp, trong nhóm.
36
- Tránh dạy học đồng loạt theo hướng định lượng thời gian. HS hoặc nhóm
HS đã hoàn thành nhiệm vụ của một hoạt động nào đó, trong khi chưa hết giờ GV
giao thêm nhiệm vụ học tập hoặc nhiệm vụ giúp các bạn khác, nhóm bạn khác chưa
hoàn thành.
- Việc trợ giúp HS cần có độ sâu, giao nhiệm vụ cần cụ thể chi tiết, phân
phối thời gian hợp lí, linh hoạt để trợ giúp cho HS. Cần huy động được sự trợ giúp
của HS khá giỏi, các nhóm đã hoàn thành nhiệm vụ trong lớp để trợ giúp HS và các
nhóm chậm hơn, yếu hơn.
IV. VÀI NÉT VỀ MÔ HÌNH TRƢỜNG HỌC MỚI VÀ DẠY HỌC
THEO MÔ HÌNH TRƢỜNG HỌC MỚI
1. Mô hình trƣờng học mới là gì?
Mô hình trường học mới khởi nguồn từ Côlômbia, vốn dùng để dạy học
trong những lớp ghép ở vùng miền núi khó khăn, theo nguyên tắc lấy học sinh làm
trung tâm. Mô hình này vừa kế thừa những mặt tích cực của mô hình trường học
truyền thống, vừa có sự đổi mới căn bản về mục tiêu đào tạo, nội dung chương
trình, tài liệu học tập, phương pháp dạy – học, cách đánh giá, cách tổ chức quản lí
lớp học, cơ sở vật chất phục vụ cho dạy – học…
So với mô hình truyền thống nặng về truyền thụ kiến thức có tính áp đặt, mô
hình trường học mới khắc phục được nhược điểm này, đảm bảo sự hài hòa giữa dạy
chữ và dạy làm người. Đây là giải pháp đổi mới toàn diện, có tính hệ thống, bao
gồm: Đổi mới cách dạy, cách học, cách đánh giá, cách thức tổ chức quản lý lớp
học, quản lý nhà trường và đổi mới sự tham gia của cha mẹ học sinh, cộng đồng.
Điểm nổi bật của mô hình này là đổi mới về các hoạt động sư phạm, một
trong những hoạt động đó là đổi mới về cách thức tổ chức lớp học. Theo mô hình
của trường học mới, quản lí lớp học là “Hội đồng tự quản học sinh”, các “ban”
trong lớp, do học sinh tự nguyện xung phong và được các bạn tín nhiệm. Sự thành
37
lập cũng như hiệu quả hoạt động của “Hội đồng tự quản học sinh”, các “ban” rất
cần sự tư vấn, khích lệ, giám sát của giáo viên, phụ huynh, sự tích cực, trách nhiệm
của học sinh. “Hội đồng tự quản học sinh” là một biện pháp giúp học sinh được
phát huy quyền làm chủ quá trình học tập, giáo dục. Học sinh có điều kiện hiểu rõ
quyền và trách nhiệm trong môi trường giáo dục, được rèn các kĩ năng lãnh đạo, kĩ
năng tham gia, hợp tác trong các hoạt động.
2. Quá trình nghiên cứu và thực nghiệm mô hình trƣờng học mới ở Việt
Nam
Từ năm học 2011-2012, Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai mô hình trường
học mới đối với cấp tiểu học với mục tiêu là đổi mới đồng bộ các hoạt động sư
phạm trong nhà trường; bảo đảm cho học sinh được tự quản, tự tin trong học tập,
chiếm lĩnh được kiến thức, kỹ năng qua tự học và hoạt động tập thể; phù hợp với
điều kiện về năng lực đội ngũ giáo viên, thiết bị giáo dục của hầu hết các trường
học Việt Nam, đồng thời có giải pháp thu hút các gia đình và cộng đồng tích cực
tham gia cùng nhà trường thực hiện chức năng giáo dục. Qua ba năm triển khai ở
cấp tiểu học đã khẳng định trường học mới là một kiểu mô hình nhà trường hiện
đại, tiên tiến, phù hợp với mục tiêu đổi mới và đặc điểm của giáo dục Việt Nam.
Đến năm học 2014-2015 đã có 1447 trường tiểu học trên phạm vi toàn quốc có học
sinh học hết lớp 5 theo mô hình này. Từ 1447 trường được hỗ trợ qua dự án, đã có
nhiều trường tự đảm bảo các điều kiện để triển khai áp dụng mô hình trường học
mới. Năm học 2015-2016, cả nước có trên 3700 trường triển khai áp dụng mô hình
này.
Nhằm tạo điều kiện cho học sinh THCS học theo mô hình trường học mới,
nhất là những học sinh đã học theo mô hình trường học mới cấp tiểu học, Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã chỉ đạo 6 tỉnh (Lào Cai, Hà Giang, Hòa Bình, Khánh Hòa, Đắk
38
Lắk, Kon Tum) triển khai thực nghiệm thành công mô hình ở 48 lớp 6 của 24
trường THCS
Từ năm học 2015-2016, Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục triển khai thực điểm mô
hình trường học mới ở lớp 7 tại 6 tỉnh nói trên với các học sinh đã hoàn thành chương
trình lớp 6; đồng thời nhân rộng chương trình lớp 6 ra 63 tỉnh, thành phố trong cả nước.
Hiện nay đã có hơn 1600 trường THCS đăng kí tham gia triển khai mô hình trường
học mới đối với lớp 6 năm học 2015-2016.
3. Đặc điểm nổi bật của mô hình trƣờng học mới trung học cơ sở
Mô hình trường học mới THCS được triển khai dựa trên sự phối hợp giữa
hoạt động học tập cá thể với sự tương tác học sinh - học sinh và học sinh - giáo
viên; hướng học sinh đến sự phát triển toàn diện, không chỉ hoạt động lĩnh hội kiến
thức mà còn rèn luyện khả năng vẫn dụng kiến thức vào thực tế sinh động, năng lực
tự học, kỹ năng sống, tự phục vụ bản thân, tự quản tập thể, bồi dưỡng hứng thú học
tập để học tập suốt đời. Mô hình trường học mới THCS chú trọng phát huy năng
lực riêng của từng học sinh, không ứng xử một cách đồng loạt bằng cách quan tâm
đến từng học sinh ngay trong quá trình học, kịp thời động viên kết quả đạt được,
phát hiện những điểm mạnh để khuyến khích, những khó khăn để hướng dẫn, trợ
giúp; đánh giá sự tiến bộ của từng học sinh theo yêu cầu giáo dục, không so sánh
học sinh này với học sinh khác. Những đặc điểm nổi bật của mô hình trường học
mới THCS so với mô hình trường học hiện nay là:
- Hoạt động học của học sinh được coi là trung tâm của quá trình dạy học.
Học sinh tự thiết lập tiến độ và các bước đi cho quá trình học tập, với một chương
trình tự học theo từng bước và tăng cường sự ưu việt của hoạt động nhóm. Học sinh
được khuyến khích, tạo cơ hội tham gia tích cực vào các hoạt động học tập, đặc biệt
là hoạt động theo nhóm và tự học. Từ đó, các em có thể khám phá và chiếm lĩnh kiến
thức, kỹ năng mới; đồng thời phát triển nhiều phẩm chất và năng lực quan trọng như:
tính chủ động, tự tin, khả năng suy nghĩ độc lập, năng lực tư duy phê phán và tư duy
39
sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác. Giáo viên
tận dụng khả năng tổ chức các hoạt động để giúp học sinh vận dụng kiến thức, kĩ
năng vào cuộc sống.
- Tài liệu hướng dẫn học tập được thiết kế cho học sinh hoạt động, học
nhóm, tự học; dùng chung cho giáo viên, học sinh và cha mẹ học sinh. Trong tài
liệu, cấu trúc các hoạt động học tập theo các chủ đề; cung cấp kiến thức học kết
hợp hướng dẫn phương pháp, hình thức học và phương pháp tư duy; nội dung học
lồng ghép với các bước của các hoạt động học tập.
- Giáo viên duy trì một môi trường học tập cởi mở, thân thiện, hiệu quả và đóng
vai trò là người hướng dẫn học, quan tâm đến sự khác biệt trong việc tiếp thu kiến
thức của học sinh. Thông qua tổ chức các hoạt động của Hội đồng tự quản học sinh,
góc học tập, góc cộng đồng,… và hoạt động nhóm để hỗ trợ tích cực cho học tập và
giáo dục học sinh. Từ đó học sinh được tự chủ, có trách nhiệm với hoạt động học tập
của mình; rèn luyện, phát triển khả năng giao tiếp và lãnh đạo; nâng cao các phẩm
chất và phong cách con người.
- Nhà trường thiết lập mối liên hệ chặt chẽ với cha mẹ học sinh và cộng đồng,
trong đó các thành viên của gia đình được tham gia vào quá trình giáo dục và các dự
án học tập tại cộng đồng.
- Đánh giá học sinh thường xuyên theo quá trình học tập nhằm kiểm tra và
hướng dẫn phương pháp học tập có hiệu quả cho học sinh. Coi trọng việc học sinh
tự đánh giá, đánh gia lẫn nhau và đánh giá của cha mẹ học sinh, cộng đồng. Kết
hợp đánh giá kiến thức, kỹ năng với đánh giá năng lực và phẩm chất của học sinh.
- Giáo viên có vị trí mới, được bồi dưỡng thường xuyên để nâng cao trình độ
và năng lực nghề nghiệp, đáp ứng vai trò quan trọng là người hướng dẫn, tổ chức
và quyết định trong các hoạt động học tập, giáo dục, đánh giá học sinh và phối hợp
với cha mẹ học sinh và cộng đồng.
4. Yêu cầu chung về kế hoạch bài học
40
Để đảm bảo các nguyên tắc tổ chức hoạt động học trong mô hình trường học
mới, mỗi bài học thường được xây dựng dựa trên một chủ đề dạy học, nhằm giải
quyết một vấn đề/nhiệm vụ học tập tương đối hoàn chỉnh, từ việc hình thành kiến
thức, kĩ năng mới đến vận dụng chúng vào giải quyết những vấn đề gắn với thực
tiễn. Kế hoạch tổ chức hoạt động học của học sinh trong mỗi bài học cần đảm bảo
các yêu cầu sau:
1. Chuỗi hoạt động học của học sinh thể hiện ro tiến trình sư phạm của
phương pháp dạy học tích cực được áp dụng trong toàn bộ bài học. Nhìn chung, tiến
trình hoạt động học của học sinh theo các phương pháp dạy học tích cực đều phù hợp
với tiến trình nhận thức chung: huy động những kiến thức, kĩ năng của mình để giải
quyết tình huống/câu hỏi/vấn đề/nhiệm vụ học tập; nhận thức được sự chưa đầy đủ
về kiến thức, kĩ năng của mình; xuất hiện nhu cầu và học tập để bổ sung, hoàn thiện
kiến thức, kĩ năng mới; vận dụng kiến thức, kĩ năng mới để tiếp tục giải quyết tình
huống/câu hỏi/vấn đề/nhiệm vụ học tập ban đầu và các tình huống/câu hỏi/vấn
đề/nhiệm vụ học tập mới...
Ví dụ: Trong dạy học ở trường THCS, để xây dựng một kiến thức cụ thể cho
học sinh, tiến trình hoạt động giải quyết vấn đề được mô tả như sau: đề xuất vấn đề
- suy đoán giải pháp - khảo sát lí thuyết và/hoặc thực nghiệm - kiểm tra, vận dụng
kết quả. Theo đó, chuỗi hoạt động học của học sinh phù hợp với tiến trình sư phạm
của phương pháp dạy học giải quyết vấn đề sẽ bao gồm:
a) Hoạt động khởi động: Từ nhiệm vụ cần giải quyết, học sinh huy động kiến
thức, kĩ năng đã biết và nảy sinh nhu cầu về kiến thức, kĩ năng còn chưa biết,
nhưng hi vọng có thể tìm tòi, xây dựng được; diễn đạt nhu cầu đó thành câu hỏi.
b) Hoạt động hình thành kiến thức và Hoạt động luyện tập: Để giải quyết vấn
đề đặt ra, học sinh cần phải học lí thuyết hoặc/và thiết kế phương án thực nghiệm,
tiến hành thực nghiệm, thu lượm các dữ liệu cần thiết và xem xét, rút ra kết luận.
41
Kiến thức, kĩ năng mới được hình thành giúp cho việc giải quyết được câu hỏi/vấn
đề đặt ra.
c) Hoạt động vận dụng: Trên cơ sở kiến thức, kĩ năng mới được hình thành,
học sinh vận dụng chúng để giải quyết các tình huống có liên quan trong học tập và
cuộc sống hàng ngày.
d) Hoạt động tìm tòi, mở rộng: Học sinh tiếp tục tìm tòi và mở rộng kiến
thức thông qua các nguồn tư liệu, học liệu, khác nhau; tự đặt ra các tình huống có
vấn đề nảy sinh từ nội dung bài học, từ thực tiễn cuộc sống, vận dụng các kiến thức, kĩ
năng đã học để giải quyết bằng những cách khác nhau.
2. Mỗi hoạt động học tương ứng với một nhiệm vụ học tập giao cho học
sinh, thể hiện ro: mục đích, nội dung, phương thức hoạt động và sản phẩm học tập
mà học sinh phải hoàn thành. Quá trình tổ chức mỗi hoạt động học của học sinh
được thực hiện theo các bước như sau:
a) Chuyển giao nhiệm vụ: Việc chuyển giao nhiệm vụ có thể được thực hiện
thông qua nhiều hình thức khác nhau: lời nói trực tiếp của giáo viên; tài liệu, học
liệu..., đảm bảo tất cả học sinh quan tâm đến nhiệm vụ đặt ra, sẵn sàng nhận và tự
nguyện thực hiện nhiệm vụ học tập.
b) Thực hiện nhiệm vụ: Học sinh hoạt động độc lập, tự chủ, trao đổi, tìm tòi
cách thức để vượt qua khó khăn giải quyết nhiệm vụ. Trong quá trình đó, khi cần
phải có sự định hướng của giáo viên.
c) Tranh luận, khái quát hóa, vận dụng tri thức mới: Dưới sự hướng dẫn của
giáo viên, học sinh trình bày, tranh luận, bảo vệ sản phẩm học tập đã hoàn thành. Giáo
viên bổ sung, chính xác hóa và khái quát hóa kiến thức cho học sinh.
3. Thiết bị dạy học và học liệu được sử dụng trong bài học phải đảm bảo sự
phù hợp với từng hoạt động học đã thiết kế. Việc sử dụng các thiết bị dạy học và
học liệu đó được thể hiện ro trong phương thức hoạt động học và sản phẩm học tập
tương ứng mà học sinh phải hoàn thành trong mỗi hoạt động học.
42
4. Phương án kiểm tra, đánh giá trong quá trình dạy học phải đảm bảo sự
đồng bộ với phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực được sử dụng. Cần tăng
cường đánh giá về sự hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh
thông qua quá trình thực hiện các nhiệm vụ học tập, thông qua các sản phẩm học
tập mà học sinh đã hoàn thành; tăng cường hoạt động tự đánh giá và đánh giá đồng
đẳng của học sinh.
5. Cấu trúc tài liệu Hƣớng dẫn học và phƣơng thức dạy học
5.1. Nguyên tắc xây dựng tài liệu Hướng dẫn học
Theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh, quá trình
dạy học theo mô hình trường học mới, học sinh được phát huy tối đa vai trò dân
chủ trong học tập và thi đua lành mạnh. Theo đó, việc xây dựng tài liệu Hướng dẫn
học được thực hiện theo nguyên tắc như sau:
- Về nội dung, tài liệu Hướng dẫn học các môn học được biên soạn theo các chủ
đề tích hợp để có thể tổ chức hoạt động học tích cực và tự lực của học sinh. Hoạt động
học mỗi chủ đề có thể và cần phải được thực hiện một cách linh hoạt ở trong lớp,
ngoài lớp, trong trường, ở nhà và cộng đồng. Số tiết phân phối cho mỗi chủ đề là số
tiết dành để tổ chức các hoạt động trên lớp, cùng với các hoạt động học ở ngoài lớp
học tạo thành chuỗi hoạt động học theo tiến trình sư phạm của phương pháp dạy học
tích cực được sử dụng.
Đối với các môn Khoa học tự nhiên, Khoa học xã hội và Hoạt động giáo dục,
ngoài các chủ đề tích hợp trong các phân môn, có một số chủ đề tích hợp liên môn
được xây dựng từ các nội dung dạy học trùng nhau hoặc có liên quan chặt chẽ với
nhau trong các phân môn.
- Về phương pháp dạy học, tài liệu Hướng dẫn học được biên soạn theo các
phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực, thể hiện ở các hoạt động học tích cực, tự
lực và sáng tạo của học sinh. Trong mỗi chủ đề, các hoạt động học được thiết kế theo
tiến trình sư phạm của phương pháp dạy học được sử dụng, phù hợp với đặc thù môn
43
học và nội dung học tập. Tuy có những điểm khác nhau nhưng nhìn chung chuỗi
hoạt động học của mỗi chủ đề đều phải tuân theo con đường nhận thức chung là: từ
một vấn đề mới đòi hỏi phải học thêm kiến thức, kĩ năng mới để giải quyết; có thêm
kiến thức, kĩ năng mới cần tiếp tục tìm tòi, mở rộng và vận dụng vào thực tiễn; khi
vận dụng kiến thức, kĩ năng vào thực tiễn lại nảy sinh vấn đề mới... Theo tiến trình
đó, mỗi hoạt động học, học sinh được giao một nhiệm vụ học tập cụ thể để có thể tự
học một cách tích cực, tự lực và sáng tạo, trong đó có sự kết hợp hài hòa giữa hoạt
động cá nhân, cặp đôi, nhóm nhỏ và toàn lớp.
- Về đánh giá, mỗi hoạt động học của học sinh được biên soạn trong tài liệu
Hướng dẫn học đều phải thể hiện ro sản phẩm học tập mà học sinh phải hoàn thành.
Trong quá trình tổ chức hoạt động học của học sinh, giáo viên quan sát, phát hiện
những khó khăn mà học sinh gặp phải để có biện pháp hỗ trợ phù hợp; hướng dẫn
học sinh hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau để thực hiện nhiệm vụ học tập; nhận xét, đánh giá
quá trình và sản phẩm học tập của học sinh, qua đó đánh giá về sự hình thành và
phát triển năng lực của học sinh.
5.2. Mô hình cấu trúc bài học
Trong mỗi bài học của tài liệu Hướng dẫn học của môn học/HĐGD luôn đảm
bảo 5 hoạt động cơ bản sau:
a) Hoạt động khởi động
Mục đích của hoạt động này là tạo tâm thế học tập cho học sinh, giúp học sinh ý
thức được nhiệm vụ học tập, hứng thú học bài mới. Giáo viên sẽ tạo tình huống học
tập dựa trên việc huy động kiến thức, kinh nghiệm của bản thân học sinh có liên quan
đến vấn đề xuất hiện trong tài liệu hướng dẫn học; làm bộc lộ "cái" học sinh đã biết,
bổ khuyết những gì cá nhân học sinh còn thiếu, giúp học sinh nhận ra "cái" chưa biết
và muốn biết thông qua hoạt động này. Từ đó, giúp học sinh suy nghĩ và xuất hiện
những quan niệm ban đầu của mình về vấn đề sắp tìm hiểu, học tập.
44
Lưu ý: Nhiệm vụ học tập được giao cho học sinh trong hoạt động "Khởi
động" cần đảm bảo rằng học sinh không thể giải quyết trọn vẹn với kiến thức, kĩ
năng cũ mà cần phải học thêm kiến thức, kĩ năng mới trong các hoạt động "Hình
thành kiến thức" và "Luyện tập" để hoàn thiện. Có thể hình dung 3 hoạt động này
đã đáp ứng đầy đủ mục tiêu dạy học theo chương trình, sách giáo khoa hiện hành,
cần đảm bảo cho tất cả học sinh đều thực hiện được.
b) Hoạt động hình thành kiến thức
Mục đích của hoạt động này là giúp học sinh lĩnh hội được kiến thức, kỹ năng
mới và đưa các kiến thức, kỹ năng mới vào hệ thống kiến thức, kỹ năng đã có của bản
thân. Giáo viên sẽ giúp học sinh xây dựng kiến thức, kĩ năng mới của bản thân trên
cơ sở đối chiếu kiến thức, kinh nghiệm sẵn có với những hiểu biết mới; kết nối/sắp
xếp kiến thức, kĩ năng cũ và mới dựa trên việc phát biểu, viết ra các kết luận/khái
niệm/công thức mới…
c) Hoạt động luyện tập
Mục đích của hoạt động này là giúp học sinh củng cố, hoàn thiện kiến thức,
kỹ năng vừa lĩnh hội được. Giáo viên sẽ yêu cầu học sinh thực hiện các nhiệm vụ,
làm các bài tập cụ thể giống như các nhiệm vụ, bài tập trong bước hình thành kiến
thức, để diễn đạt được đúng kiến thức hoặc mô tả đúng kĩ năng đã học bằng ngôn
ngữ theo cách của riêng mình, từ đó áp dụng trực tiếp kiến thức, kĩ năng đã biết để
giải quyết các tình huống/vấn đề trong học tập.
d) Hoạt động vận dụng
Mục đích của hoạt động này là giúp học sinh vận dụng được các kiến thức,
kĩ năng để giải quyết các tình huống/vấn đề mới, không giống với những tình
huống/vấn đề đã được hướng dẫn hay đưa ra những phản hồi hợp lí trước một tình
huống/vấn đề mới trong học tập hoặc trong cuộc sống. Giáo viên sẽ hướng dẫn học
sinh kết nối và sắp xếp lại các kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết thành công
tình huống/vấn đề tương tự tình huống/vấn đề đã học. Đây có thể là những hoạt
45
động mang tính nghiên cứu, sáng tạo, vì thế cần hướng dẫn học sinh tranh thủ sự
hướng dẫn của gia đình, địa phương để hoàn thành nhiệm vụ học tập. Trước một vấn
đề, học sinh có thể có nhiều cách giải quyết khác nhau.
đ) Hoạt động tìm tòi mở rộng
Mục đích của hoạt động này là giúp học sinh không bao giờ bằng lòng, thỏa
mãn với những gì đã học và hiểu rằng ngoài những kiến thức được học trong nhà
trường còn rất nhiều điều có thể và cần phải tiếp tục học tập, học tập suốt đời. Giáo
viên cần khuyến khích học sinh tiếp tục tìm tòi và mở rộng kiến thức ngoài lớp học.
Học sinh tự đặt ra các tình huống có vấn đề nảy sinh từ nội dung bài học, từ thực tiễn
cuộc sống, vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết bằng những cách
khác nhau.
Lưu ý: Hoạt động "Vận dụng" và "Tìm tòi, mở rộng" là các hoạt động giao
cho học sinh thực hiện ở ngoài lớp học, giáo viên không tổ chức dạy học hoàn toàn
trên lớp. Vì vậy nội dung các hoạt động này trong tài liệu Hướng dẫn học chỉ là
những yêu cầu, định hướng và gợi ý về phương pháp thực hiện, mô tả sản phẩm
học tập phải hoàn thành,... để học sinh tự phát hiện, lựa chọn tình huống thực tiễn
nhằm vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học được trong bài học; tìm tòi mở rộng thêm
theo sở thích, sở trường, hứng thú của mình. Các hoạt động này hết sức cần thiết và
quan trọng, giúp cho việc phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh, cần phải
tổ chức thực hiện đầy đủ và hiệu quả. Tuy nhiên, giáo viên cần hiểu ro rằng không
được/không nên yêu cầu tất cả học sinh phải thực hiện giống nhau đối với các hoạt
động này; sản phẩm học tập của mỗi học sinh/nhóm học sinh trong các hoạt động
này có thể không giống nhau.
Hoạt động "Vận dụng" và "Tìm tòi, mở rộng" có bản chất là hoạt động trải
nghiệm của học sinh, có thể được thực hiện trong phòng thí nghiệm ở trường, tại viện
bảo tàng, các địa danh lịch sử văn hóa hoặc tìm hiểu và giải quyết các tình huống
thường gặp trong cuộc sống hàng ngày, ở nhà và cộng đồng. Trong mỗi bài học, tùy
46
vào nội dung kiến thức, cần gợi ý cho học sinh quan sát, phát hiện những hiện tượng,
sự kiện, tình huống, vấn đề có liên quan trong hoạt động sống hàng ngày để vận dụng
kiến thức đã học vào giải quyết. Những hoạt động đó bắt đầu từ các nhiệm vụ học tập
như:
- Thực hiện thí nghiệm trong phòng thí nghiệm của nhà trường để chứng
minh cho kiến thức đã học;
- Tìm kiếm tư liệu và minh chứng để chứng minh cho một kiến thức đã học
hoặc làm ro về một sự kiện, một di tích hay một di sản...
- Xác định một vấn đề để báo cáo sau một chuyến tham quan thực tế, đọc
một bài văn hay xem một bộ phim khoa học;
- Sáng tác một điệu nhảy, một bài hát, một điệu nhạc; viết và thể hiện một
bài thuyết trình; sáng tác và thể hiện một tiểu phẩm;...
- Vận dụng kiến thức đã học để giải thích các tình huống thực tiễn.
V. THAM KHẢO KINH NGHIỆM VỀ GIÁO DỤC MĨ THUẬT PHỔ
THÔNG CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI
Đổi mới giáo dục nhằm hướng tới phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là
nguồn nhân lực có chất lượng cao, trong đó bao gồm: kiến thức, kỹ năng và thái độ.
Ba yếu tố nói trên có ý nghĩa quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu phát triển của
xã hội và hòa nhập với thế giới.
Giáo dục Mỹ thuật phổ thông là một bộ phận không thể thiếu của giáo dục
toàn diện trong hệ thống giáo dục quốc dân. Trong đổi mới nội dung, chương trình,
phương pháp tổ chức dạy học và đánh giá trong giáo dục nói chung và giáo dục Mỹ
thuật phổ thông nói riêng, một mặt, cần có sự kế thừa và phát huy những ưu điểm
của chương trình giáo dục hiện tại. Mặt khác, cần thiết phải coi trọng việc tiếp cận
và học tập kinh nghiệm của nền giáo dục hiện đại thế giới và khu vực. Từ đó, làm
cơ sở để định hướng xây dựng chương trình giáo dục phù hợp với thực tiễn xã hội
và cho cả những giai đoạn tiếp theo. Bởi vậy, nội dung bài viết sẽ đề cập tới một số
47
nét cơ bản về giáo dục Mỹ thuật của một số nước tiến tiến trên thế giới mà người
viết đã có dịp tìm hiểu và tiếp cận thông qua thực tiễn công tác của bản thân.
1. Về xác định vị trí môn học
Giáo dục Mỹ thuật là một bộ phận hợp thành của giáo dục toàn diện, bởi
vậy giáo dục Mỹ thuật trong nhà trường phổ thông được xem là môn học cơ bản –
không thể thiếu. Là một môn học bắt buộc trong hệ thống giáo dục nói chung, giáo
dục phổ thông nói riêng (từ bậc học Tiểu học đến Trung học phổ thông). Điều này
được thể hiện ở cấu trúc chương trình các môn học và thời gian học sinh được học
Mỹ thuật trong nhà trường phổ thông ở một số quốc gia như sau:
* Hệ thống môn học trong chương trình giáo dục của các nước thuộc
OECD3:
1. Đọc viết và Văn học;
2. Toán;
3. Khoa học;
4. Tìm hiểu xã hội;
5. Ngoại ngữ;
6. Công nghệ;
7. GD thể chất;
8. Nghệ thuật (Bao gồm cả
Mỹ thuật và Âm nhạc);
9. Tôn giáo;
10. Thực hành và kỹ năng nghề
* Hệ thống môn học từng cấp học của các nước thuộc INCA4:
- Cấp Tiểu học:
1. Ngôn ngữ và Văn học;
2. Toán;
3. Khoa học Tự nhiên;
4. Khoa học Xã hội;
5. Nghệ thuật;
6. GD thể chất
7. Kỹ năng sống
3 Các nước thuộc OECD (Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế) gồm:
- Khu vực Châu Âu: Anh, Áo, Ba Lan, Bỉ, Bồ Đào Nha, Đan Mạch, Đức, Estonia, Hà lan,
Hungary, Hy Lạp, Iceland, Ireland, Luxembourg, Pháp, Phần Lan, Cộng hòa séc, Slovakia, Slovenia,
Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Na Uy, Ý.
- Khu vực Châu Mỹ: Canada, Hoa Kỳ, Chile, Mexico.
- Khu vực Châu Á: Hàn Quốc, Israel, Nhật Bản.
- Khu vực Châu Đại Dương: New Zealand, Úc.
4 INCA thuộc các nước Colombia, Ecuador, Peru, Chile.
48
- Cấp Trung học cơ sở
1. Ngôn ngữ và Văn học;
2. Toán;
3. Khoa học Tự nhiên;
4. Khoa học Xã hội;
5. Ngoại ngữ;
6. Nghệ thuật;
7. GD thể chất;
8. Kỹ năng sống
- Cấp Trung học phổ thông:
1. Ngôn ngữ và Văn học;
2.Toán;
3. Ngoại ngữ;
4. Khoa học Tự nhiên;
5. Khoa học Xã hội;
6. Nghệ thuật;
7. GD thể chất;
8. Giáo dục công dân
* Số giờ học sinh được học Mỹ thuật trong tuần:
- Indonexia: 2 tiết/ tuần - Hàn Quốc: 2 tiết/tuần
- Austradia: 3 tiết/ tuần - Liên Bang Đức: 2 tiết/ tuần
- Nhật Bản: 2 tiết/ tuần - Cộng hòa Litva: 2 tiết/ tuần…
* Các môn học được liên thông từ bậc Tiểu học đến Trung học phổ thông:
1. Ngôn ngữ và Văn học; 2.Toán;
3. Khoa học Tự nhiên; 4. Khoa học Xã hội;
5. Nghệ thuật 6. GD thể chất
2. Về mục tiêu môn học
Mục tiêu cốt loi và cơ bản của giáo dục thẩm mỹ, giúp học sinh/ người học
có kiến thức và kỹ năng cơ bản về cái đẹp và biết vận dụng sáng tạo những hiểu
biết về cái đẹp vào cuộc sống học tập, sinh hoạt hàng ngày, hay nói các khác là
giáo dục Mỹ thuật hướng tới hình thành và phát triển năng lực thẩm mỹ cho học
sinh – là những người có nhiệm vụ sáng tạo văn hóa - Văn hóa là nền tảng, là bản
sắc dân tộc và là cầu nối với cộng đồng thế giới. Học sinh được học, tiếp cận và
49
sáng tạo văn hóa thông qua các cách thể hiện tạo hình khác nhau, trên các chất liệu
khác nhau, cách biểu đạt khác nhau… và ở nhiều không gian khác nhau.
Theo đó, giáo dục Mỹ thuật kích thích hình thành, phát triển các năng lực cá
nhân của học sinh (năng lực nhận thức; năng lực kỹ năng và kỹ thuật; năng lực biểu
đạt; năng lực giao tiếp; năng lực đánh giá). Đồng thời, bồi dưỡng, giáo dục nhân
cách và các phẩm chất đạo đức, hành vi, lối sống theo chuẩn mực trong đời sống
văn hóa xã hội của dân tộc và quốc tế.
3. Về kết cấu nội dung trọng tâm của chƣơng trình
Chương trình được xây dựng theo hướng tiếp cận chủ đề và theo phương
thức đồng tâm (bao gồm nghĩa rộng và nghĩa hẹp). Trong đó, cốt loi của chương
trình là gắn kết kiến thức thực tiễn và mang tính ứng dụng cao trong giáo dục; chú
trọng tới giáo dục, rèn luyện, nâng cao kỹ năng sống; lồng ghép nội dung mang tính
giáo dục các giá trị sống cho học sinh – kỹ năng thích ứng với thực tiễn xã hội. Hay
nói cách khác là nội dung chương trình được xây dựng chú trọng đáp ứng nhu cầu
thực tiễn xã hội - theo hướng phát triển đầu ra và phát triển năng lực cho học sinh
(bao gồm năng lực chuyên biệt và năng lực cốt loi);
Bên cạnh đó, hệ thống kiến thức của chương trình thể hiện ro tính tích hợp và
liên thông với các môn học khác, với các bậc học khác, đảm bảo tính liên tục và
phát triển.
4. Phƣơng pháp dạy - học chủ yếu
Albert Einstein (1879 – 1955) đã từng nói: “Chỉ có trải nghiệm mới là hiểu
biết, còn tất cả các thứ khác chỉ là thông tin”. Tổ chức dạy học theo chu trình trải
nghiệm là phương pháp dạy học được coi trọng và phổ biến ở tất cả các bậc học,
các môn học trong hệ thống giáo dục (từ bậc học Mầm non tới Đại học, không
riêng dạy học Mỹ thuật); Đồng thời, quan tâm tới vận dụng các lý thuyết và nghiên
cứu về đặc điểm phát triển trí tuệ của từng cá nhân học sinh/ người học, trên cơ sở
đó kích thích phát triển tối đa các năng lực của học sinh (năng lực nhận thức; năng
50
lực kỹ năng và kỹ thuật; năng lực biểu đạt; năng lực giao tiếp; năng lực đánh giá)
thông qua nhiều hình thức tổ chức dạy học khác nhau. Đặc biệt, luôn tạo điều kiện
và tổ chức các hoạt động để học sinh “vừa học vừa chơi” tự học, tự khám phá trong
nhiều không gian và môi trường sáng tạo thẩm mỹ của quá trình giáo dục, qua đó
học sinh bộc lộ cá tính một cách tự nhiên và thể hiện những sáng tạo của riêng
mình theo những chuẩn mực văn hóa của xã hội và cộng đồng, góp phần làm cho
đời sống văn hóa xã hội phát triển lành mạnh và bền vững.
5. Phƣơng thức tổ chức dạy học chủ yếu
Phát triển phương thức dạy học tiếp cận chủ đề/ chủ điểm và liên thông, liên
kết các chủ đề/ chủ điểm theo một quá trình. Trên cơ sở nội dung tổng quát của
chương trình, giáo viên/ người dạy hoàn toàn được lựa chọn nội dung cụ thể, chi
tiết cho từng bài học, sao cho đảm bảo được mục tiêu chung của môn học, bậc học
(bao gồm mục tiêu cho cả người dạy và người học) và phù hợp với năng lực học
tập của học sinh, phù hợp với điều kiện dạy – học cụ thể của mỗi nhà trường và địa
phương. Đặc biệt, chú trọng tới đặc điểm văn hóa địa phương - nơi cư trú của học
sinh và kết hợp các yếu tố văn hóa truyền thống với văn hóa hiện đại trong xu thế
hội nhập và phát triển của bối cảnh xã hội.
6. Cách thức đánh giá kết quả dạy – học
* Về đánh giá giáo viên/ người dạy
Lãnh đạo nhà trường không lên lớp dự giờ với mục đích để đánh giá giáo
viên/ người dạy, mà khuyến khích, tạo điều kiện và cho phép học sinh/ người học/
phụ huynh được đánh giá giáo viên/ người dạy.
* Về đánh giá học sinh/ người học
Coi trọng kết hợp đánh giá sản phẩm cụ thể với đánh giá cả quá trình học
tập và sáng tạo của học sinh/ người học; bên cạnh đó, luôn luôn quan tâm tới đánh
giá để khuyến khích học sinh/ người học, đánh giá để làm sao người học/ học sinh
có thể phát triển được các năng lực (cốt loi và chuyên biệt); đánh giá để kích thích
51
học sinh/ người học ham học, hứng thú học và tiếp tục sáng tạo. Quá trình đánh giá
phải chú trọng tới lượng kiến thức mà học sinh/ người học thu nhận được. Kết hợp
với việc phải theo doi hành vi, thái độ của học sinh/ người học thông qua quá trình
sáng tạo mỹ thuật. Đồng thời, phối hợp với các công cụ đánh giá khác nhau, cách tổ
chức đánh giá khác nhau và sự hài hòa giữa đánh giá định tính với đánh giá định
lượng… Đặc biệt, phát triển mô hình đánh giá và học tập đồng đẳng trong quá trình
giáo dục Mỹ thuật nói riêng, dạy học nói chung của hệ thống giáo dục ở các nhà
trường.
Giáo dục Mỹ thuật là môn học cần được dạy – học có nề nếp, liên tục và
phù hợp với đặc điểm, chức năng, nội dung của nó, để quá trình tiếp nhận, thưởng
thức, đánh giá, thể hiện thẩm mỹ và sáng tạo văn hóa của học sinh/ người học thực
sự mang lại hữu ích cho mỗi cá nhân người học nói riêng và cộng đồng xã hội nói
chung.
Trên đây đề cập tới một vài kinh nghiệm về giáo dục Mỹ thuật của các
nước tiên tiến trên thế giới, hy vọng sẽ mang tới một hướng tiếp cận từ thực tiễn
giáo dục Mỹ thuật của một số nước tiên tiến trong khu vực và thế giới, từ đó góp
phần là cơ sở gợi ý, định hướng cho xây dựng nội dung chương trình, phương thức
tổ chức dạy – học và đánh giá trong giáo dục Mỹ thuật phổ thông Việt Nam sau
năm 2015.