scangate document -...
TRANSCRIPT
THÀNH T ự u KHOA BẢNG VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC NHÀ KHOA BẢNG HUYỆN ĐÔNG SƠN TỈNH THANH HÓA
(1075- 1919)
Đào Tố Uyên*- Lê Thị Tltanlt**
Đône Sơn là một huyện ờ phía Tây Thanh Hóa. nơi đây là mảnh đất có lịch sử
lâu đời. Nen văn hóa Đ ôna Sơn phát triến rực rõ đã sắn liền với sự ra đời của nhà
nước Văn Lang - nhà nước đầu tiên trona lịch sử dân tộc. V ù n e đất "địa linh, nhân
kiệt” này cũng là nơi sản sinh ra các nhà khoa bảng. Dưới thời phong kiến khi chế
độ khoa bảng phát triển thì nơi đây cũng đã đóne; góp cho dân tộc những nhà khoa
bảng lừng danh. Họ đã gánh vác những trọng trách lớn lao của đất nước và để lại
cho hậu thế những tấm gương sáng về tinh thần làm việc, về V chí và cả lòng tự hào dân tộc sâu sắc. Đ e giúp cho độc giả hiểu rõ về các nhà khoa bảnR của huyện Đông
Sơn cũng như vai trò của họ trong lịch sử dân tộc, trong báo cáo nhỏ này chúng tôi muốn đề cập đến những kliía cạnh chính sau đây.
1. Thành tựu khoa bảng của huyện Đông Son tỉnh Thanh Hóa (1075 - 1919)
Đ ôns Sơn từ lâu đã được xem là vù na, đất học nổi tiếng của xứ Thanh. Câu
truyền ngôn nổi tiếng tronạ dân eian ở Thanh Hóa “Thầy đồ Hoằng Hóa, thày khóa
Đông Sơn” đã đi vào lòng người và khơi dậy niềm tự hào về truyền thốne hiếu học
của nhân dân Đôna Sơn nói riêng và nhân dân Thanh Hóa nói chung.
Ngay từ thòi Bắc thuộc, khi chữ Hán được du nhập vào Việt Nam thì quận C ử u Chân với Đông Sơn là lỵ sở đã có những lóp học. Thờ i kỳ phong kiến độc lập
tự chủ, do nhu cầu tuyển đụng quan ỉại của nhà nước phong kiến, giáo dục càng có
điều kiện để mở rộng. Năm 1075, dưới thời vua L ý T h ái Tông, khoa thi đầu tiên đã
được tổ chức để kén chọn người tài và tiếp đó khoa cử là một trong những phương
thức để tuyển dụng quan lại vào bộ máy nhà nước. T ừ năm 1247. nhà Trần đặt lệ
Tam khôi, lấy trạng nguyên, bảng nhãn và thám hoa. Trong các kỳ thi đình dã khuyến khích và động viên phona trào học tập tronẹ cả nước. Sang thời L ê sơ, giáo
dục càng được coi trọng, riêng thời L ê Thánh Tông (1460 - 1497) đã tô chức được
* P G S .T S . K h o a L ịc h sử, T r ư ờ n g Đ ại học S ư p h ạ m Hà N ộ i .
** C ử n h â n , K h o a L ịc h sử , T r ư ờ n g Đ ạ i h ọ c S ư p h ạ m H à N ộ i .
804
THÀNH TỰU KHƠA BẢNG VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC NHÀ KHOA BẢNG.
12 khoa thi hội với 501 người đồ tiến sĩ và 10 người đồ trạne neuyên. Thời M ạc với
65 năm tồn tại cũng đã tổ chức được 22 kỳ thi hội với 485 tiến s ĩ và 13 trạng
nguyên. Ngay cả thời kỳ đất nước bị chia cắt như thế kỷ X V I I , X V I I I , các khoa thi
vần được tố chức để tuyển dụne nhân tài. N ẹay sau khi lên neôi, Quang Trung cũns
rât có ý thức đế xây dựng đội nsũ quan lại có năng lực, phục vụ cho chính quyền
mới. Năm 1790 vua Q uana Trune đã tổ chức kỳ thi ở Nghệ A n để kén chọn neười
tài. Sane thời Neuyền, thi cử cũng là một trong nhữna, phương thức để chọn neười
giỏi, giúp vua trị nước.
Trona; suốt 9 thế kỷ , eiáo dục, khoa cử luôn được nhà nước chú trọng, nhân
dân quan tâm. L à vùng đất có truyền thống hiếu học, Đông Sơn có những nhà khoa
bảns nổi tiếng như L ê V ăn Hưu, Nguyễn M ộng Tuân, L ê H y, Nguyễn Văn
N g h i...N g ư ờ i mở đầu cho nền khoa bảng Đông Sơn là L ê Văn Hưu (quê làng Phủ
L ý xã Th iệu Trung) đỗ khoa thi năm 1247 dưới triều vua Trần Thái Tông. T ừ thời
Trần đến năm 1900, truyền thốnẹ khoa cử đó liên tục được tiếp nối và trở thành
truyền thống của vùng đất “khoa cử” Đ ô n s Sơn. Gần 1000 năm dưới thời phong
kiến (từ 1075 khi nhà L ý mở khoa thi đầu tiên đến năm 1919 khoa thi Hán học cuối
cùng được tổ chức), huyện Đông Sơn có 34 neười đỗ đại kh oa1. C ó những xã có
nhiều người đồ cao như Đông Thanh: 7 người trong đó có 1 Thám hoa là Thiều S ĩ
Lâm , Đông Tân: 5 người có 1 Thám hoa là Nguyễn Thế Khanh. Trong các kỳ thi
hương, số lượng người thi và đồ của Đông Sơn cũng luôn có số lượng cao. Theo
thống kê trong sách Thanh Hóa đăng khoa lục thì Đông Sơn có 156 người đỗ hương
Cống (cử nhân), trong đó có những khoa riêng Đông Sơn có 5 người đỗ trở lên2 như
khoa thi năm 1702 có 6 người, năm 1705 là 10 người, năm 1708 là 9 người, năm
1717 là 9 người, năm 1720 có 7 người, năm 1876 có 2 người, năm 1878 có 2 người
và năm 1890 có 2 người3. Trong đó có những xã có nhiều người đỗ đạt cao như
1. Đ ịa g iớ i c ủ a h u y ệ n Đ ô n g S ơ n t r ư ớ c k ia và h iệ n n a y c ó s ự th a y đ ổ i . T ê n h u y ệ n Đ ô n g S ơn
c h ín h th ứ c c ó từ th ờ i T r ầ n . Đ ố n n ă m T h à n h T h á i t h ứ 12 ( 1 9 0 0 ) , n h à N g u y ễ n tách ha i tổ n g
V ậ n Q u y v à Đ ại B ố i n h ậ p v à o h u y ệ n T h ụ y N g u y ê n (n a y là h u y ệ n T h iệ u H óa) . S au cá ch
m ạ n g th á n g 8 n ă m 1 9 45 , h u y ệ n Đ ô n g S ơ n lại c ó m ộ t số t h a y đổ i về đ ịa g iớ i h à n h c h ín h . T ừ
n ă m 1977, h u y ệ n Đ ô n g S ơ n t á c h c á c x ã Đ ô n g H u n g , Đ ô n g H ải, Đ ô n g S o n , Đ ô n g C ư ơ n g và
m ộ t số là n g c ủ a c á c x ã Đ ô n g T â n , Đ ô n g V in h n h ậ p v à o th ị x ã T h a n h H ó a . T á c h 16 x ã c ủ a
h u y ệ n T h iệ u H ó a th u ộ c h ữ u n g ạ n s ô n g C h u n h ậ p vớ i p h ầ n c ò n lại c ủ a h u y ệ n Đ ô n g T h iệ u .
N ă m 1982 đổ i Đ ô n g T h i ệ u t h à n h Đ ô n g S ơ n n h ư cũ . N ă m 1996 th ự c h iệ n N g h ị 7 2 C P n g à y
1 8 /1 1 /1 9 9 6 c ủ a c h ín h p h ủ tá c h 16 x ã c ủ a T h iệ u H ó a t r ư ớ c k ia n ằ m ở h ữ u n g ạ n s ô n g C h u để
th à n h lập h u y ệ n T h iệ u H ó a . T r o n g đ ịa g iớ i c ủ a h u y ệ n n g à y n ay thì Đ ô n g S ơ n có 18 n g ư ờ i
đ ỗ đại k h o a . H iện n a y h u y ệ n Đ ô n g S o n có 2 th ị t r ấ n và 20 xã.
2 . T h e o q u y đ ịn h c ủ a n h à n ư ớ c th ờ i Lê s ơ t r o n g c á c k ỳ th i h ư ơ n g lấy tố i đ a 6 0 n g ư ờ i , thờ i
N g u y ễ n tối đa là 2 6 n g ư ờ i .
3. Đ ịa ch í Thanh H óa , t ậ p 1, N X B V ă n hóa th ô n g t in , H à M ội, t r . 5 3 1-532 .
805
VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉƯ HỘI THẢO QUỐC TÉ LẦN THỨ TƯ
Đông Thanh có 29 neười. Đ ône Ninh có 20 người. Đông Tân có 13 ngườ i... Một số
dòng họ nổi danh vì có nhiều neười đỗ đạt như làne V ạn Lộ c (xã Đông Ninh) khoa
thi Hương năm 1735 có 4 người cùng họ đồ khoa thi là Nguyễn Lệnh Tuân, Nguyễn
Lệnh Tân, Nguvền Lệnh Nho và Nguyễn Lệnh Toán. H ai anh em cũne đỗ năm 1763
như Đồ L ê D ực, Đỗ V ăn T ò n g ...H ọ L ê ở xã Thiệu Trune (nay thuộc huyện Thiệu
Hóa) có Lê V ăn Hưu là người đồ đại khoa, nổi tiếng dưới triều Trần. Theo Lê gia chính phả, con cháu họ L ê đã nối tiếp truyền thốne cha ông nên ra sức học hành
thành tài. Con trai đâu của Lê Văn Hưu là L ê V ăn Chung đậu Thái học sinh được
sung chức T ĩnh quan các. T iếp đó, L ê Văn Nhân tổ thứ 13 đậu sinh đồ, tổ thứ 14 là
Lê Văn Chât đồ hương cống. Ngoài ra họ Đào còn có Đào T iêu đồ nguvên khoa thi
Thái học sinh năm Á t Dậu (1275).
Danh sách đỗ đại khoa huyện Đông Son, tinh Thanh Hóa (1247- 1844)'
S T T Ho tên Năm đâu Đòi vua Quê quán
1 Lê Văn Hưu 1247 Trần Thái Tông Phủ Lý-Thiệu Trung
2 Đào Tiêu 1275 Trần Thánh Tông Phủ Lý-Thiệu Trung->J Lê Giác 1331 Trần Hiến Tông Phủ Lý-Thiệu Trung
4 Lê Quát 1345 Trần Dụ Tông Phù Lý-Thiệu Trung
5 Lê Giốc 1363 Trần Dụ Tông Phủ Lý-Thiệu Trung
6 Nguyễn Mộng Tuân 1400 Hồ Quý Ly Viên Khê- Đông Anh
7 Trần Văn Thiện 1463 Lê Thánh Tông Phủ Lý-Thiệu Trung
8 Lưu Ngạn Quang 1481 Lê Thánh Tông Viên Khê- Đông Anh
9 Trần Hữu Nho 1490 Lê Thánh Tông Cổ Đô- Thiêu Đ ô
10 Thiều Quý Linh 1505 Lê Uy Mục Y Xá- Đông Tân
11 Lê Văn Hiến 1508 Lê U y Mục Đại Bối- Thiệu Giao
12 Ngô Văn Thông 1508 Lê Uy Mục Sơn Viện- Đông Lĩnh
13 Lê Bá Khuê 1508 Lê Uy Mục Bố Vệ- Đông Vệ
14 Lê Ngọc Bích 1508 Lê Uy Mục Bố Vệ- Đông Vệ
15 Lê Bá Khang 1511 Lê Tương Dực Phủ Lý- Thiệu Trung
1. T ro n g v ăn b ia g h i tê n c á c vị đ ỗ từ p h ó b ả n g đ ế n t r ạ n g n g u y ê n . T ừ k h o a Đ in h M ùi (1 2 4 7 )
đến k h o a G iá p T h ìn ( 1 8 4 4 ) c ó 27 k h o a th i thì Đ ô n g S o n c ó 47 n g ư ờ i đỗ. T u y nh iê n t ro n g b ả n g th ố n g kê n à y c h ú n g tô i ch ỉ th ô n g kê c á c vị c ó đ ẩ y đ ủ h ọ tên và q u ê q u á n . N g o à i ra m ộ t
số vị c h ư a rõ q u ê q u á n h o ặ c c h ư a c h ín h x á c n ă m c h ú n g tô i k h ô n g đ ư a v à o v ă n b ản này.
806
THÀNH TỰU KHOA BẢNG VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC NHÀ KHOA BẢNG.
16 Nguyễn Văn Nghi 1554 Lê Trung Tông Ngọc Bội- Đông Thanh
17 Nguyễn Văn Phong 1602 Lê Kính Tông Ngọc Bội- Đông Thanh
18 Lê Khả Trù 1628 Lê Thần Tông Phúc Thọ- Đông Thanh
19 Lè Biện 1631 Lê Thần Tông Phủ Lý- Thiệu Trung
20 Nguyễn Đăng 1631 Lê Thần Tông Ngọc Bội- Đông Thanh
21 NguyễnThế Khanh 1637 Lê Thần Tông Phù Lưu- Đông Tân
22 Cao Cử 1646 Lê Thần Tông Ngọc Đồi- Đông Thanh
23 Vũ Kiêm 1646 Lê Thần Tông Phủ Lý- Thiệu Trung
24 Lê Vinh 1656 Lê Thần Tông Đông Tân
25 Lại Đăng Tiệp 1661 Lê Thần Tông Phù Lưu- Đông Tân
26 Lê Liêu (Liệu) 1661 Lê Thần Tông Hữu Bộc- Đông Ninh
27 Lê Hy 1664 Lê Huyền Tông Thạch Khê- Đông Khê
28 Thiều S ĩ Lâm 1670 LêHuyền Tông Phúc Thọ- Đông Thanh
29 Lê Khả Trinh 1676 Lê Hy Tông Phúc Thọ, Đông Thanh
30 Lê Di Tài 1676 Lê Hy Tông Đông Tân
31 Trần Đăng Phụ 1676 Lê Hy Tông Đại Khánh- Thiệu
Khánh
32 Trần Bá Tân 1736 Lê Ý Tông Yên Hoạch- Đông Tân
33 Lê Thế Quán 1842 Thiệu Trị Bái Giao- Thiệu Giao
34 Lê Thế Thứ 1844 Thiệu Trị Ngọc Đôi- Đông Thanh
Nguồn: Văn bia văn chi Đông Sơn.
2. Vai trò của các nhà khoa bảng huyện Đông Sơn dưới thòi phong kiến
2.1. Trên lĩnh vực chính trị, quăn sự và ngoại giao
2.1.1. Chính trịMột đặc điểm quan trọng của lịch sử Việt Nam là dựng nước luôn đi đôi với giữ
nước. Xây dựng đất nước vững mạnh, phát triển về mọi mặt chính là cơ sở, là tiền đề để kháng chiến chống ngoại xâm thắng lợi. Các nhà khoa bảng chính là những người giúp vua đưa ra những quyết sách đúng đắn để xây dựng vào bảo vệ Tổ quốc.
Đóng góp của các nhà khoa bảng huyện Đông Sơn trên lĩnh vực chính trị trước hết phải kể đến Bảng nhãn Lê Văn Hưu. Ông đỗ đại khoa khi vừa tròn 17 tuổi - năm Đinh Mùi (1247). Năm đó ông đỗ Bảng nhãn và được bổ làm chức Kiểm pháp quan
807
VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUÓC TÉ LÀN THỨ T ư
trong quân đội nhà Trần, ông từne là môn khách dưới trướng Trần Quang K hải -
một tướng trong quân đội nhà Trần, trực tiếp tham eia chống quân M ông - Nguyên
lần thứ nhất (1256) và lần thứ hai (1285). Lê Văn Hưu là người có tài, có đức. Khi
ra làm quan ông được các vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tôna;, Trần Nhân Tông
giao cho nhiều trọng trách lớn. Năm 24 tuổi ông eiữ chức Hàn lâm viện thị độc.
Năm 45 tuổi ông giữ chức B inh bộ Thượng thư. Đen 50 tuổi kiêm giữ chức Trưởng
quan tu sử ký. V ớ i lòna yêu nước sâu sắc, lại là người am hiểu nhiều về lịch sử, có
những hiếu biết uyên bác trên các lĩnh vực; ông đã đi nhiều nơi trên đất nước để tìm
hiểu, nghiên cứu tình hình thực tiễn nước nhà. L ê Văn Hưu đã hoàn thành bộ Đại Việt s ử ký gồm 30 quyển c h é p từ Triệu Vũ Đế đến L ý Chiêu Hoàng hơn 1000 năm.
Đây là bộ sử thành văn đầu tiên của dân tộc, nó đặt cơ sở cho sự phát triển của khoa
học lịch sử V iệt Nam . Năm Bính Ngọ (1366) được thăng Hữu Bộc xạ và cuối đời
giữ chức Nhập nội hành khiển thượng thu' hữu bật.
Sau L ê V ăn Hưu, một nhà khoa bảng tiếp nối của đất Đông Sơn có đóng góp
quan trọng cho vương triều Trần là L ê Quát. Lê Quát là nhân vật lỗi lạc cuối đời
Trần. L ê Quát thi đỗ Thái học sinh, đời vua Trần M inh Tông (1314- ỉ 329). Năm
Đại Khánh thứ 10 (1323), đời vua Trần Minh Tông, ông được bổ dụng làm quan với
chức Bộc X ạ. Đến năm Ất Dậu đời Trần Dụ Tông (1345), L ê Quát đỗ Trạng
nguyên. Năm 1366, ông được thăng Thượng thư hữu bật Nhập nội hành khiển. Trải
qua các triều vua M inh Tông, Hiến Tông, Dụ Tông ông được triều đình trọng dụng.
Những đóng góp của ồng trong buổi suy vi của nhà Trần (cuối thế kỷ X IV ) đã được
Phan Huy Chú xếp vào là một trong mười người phò tá có công lao tài đức như Mạc Đĩnh C h i, Nguyễn Trung Ngạn, Phạm Sư M ạnh...
Sang thời H ồ, vùng đất Đông Sơn lại xuất hiện một bậc danh s ĩ khác là
Nguyễn Mộng Tuân. Năm 21 tuổi ông thi đỗ Thái học sinh (kỳ thi năm Canh Thìn
1400) đời Hồ Q uý L y niên hiệu Thánh Nguyên nẹuvên niên. Quân M inh xâm lược
Đại Việt, ông lui về ở ẩn một thời gian. Đầu thế kỷ XV khi Lê Lợi dựng cừ khởi nchĩa ở Lam Sơn, Nguvễn Mộng Tuân đã tìm đến L ê L ợ i và được L ê L ợ i tin dùng.
Sau đại thắng quân M inh ngày 15 tháng 4 năm 1428, Lê L ợ i lên ngôi Hoàng đế,
Nguyễn Mộng Tuân được phona, tước Á hầu giữ chức K h u mật đại sử. ô n g trở
thành một trong những vị quan có đóne góp quan trọne tronơ vương triều Lê sơ, Đời L ê Thái Tông, ông giữ chức Trune thư lệnh rồi Kh inh xa đô úy. Đ ờ i L ê Nhân
Tône ông giữ chức T ả Nạp ngôn, rồi Tri quân dân Bắc đạo, cùng B ì n h chương Lê
Thụ đi đánh Chiêm Thành, trở về được vinh phone là V in h lộc đại phu. Nguyễn
Mộng Tuân là người cương trực, khẳng khái và thanh liêm. Ông từng là giám khảo
các kỳ thi tiến s ĩ khoa Nhàm Tuất (1442) với vai trò là Truna Thư sảnh, Trung Thư
thị lang và kỳ thi năm Mậu Thìn (1448). N g u y ễ n M ộne Tuân cũng từng tiếp các
808
THÀNH TỰU KHOA BÁNG VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC NHÀ KHOA BẢNG.
đoàn sứ bộ của các nước, đặc biệt ône còn được mời vào dạy vua học ở tòa K inh
Diên, và từng giữ chức T ế Tửu Quốc Tử giám, được vua trọng ban cho lề ưu đãi
tuôi già. Nhưng cuối đời Nguyễn M ộna Tuân vẫn khôns tránh được hậu họa. Do đó
hậu duệ của Nguyễn Mộng Tuân đã chuyển đến làng Phủ L ý Nam xã Thiệu Trung,
huyện Th iệu Hóa sinh sốne kể từ cuối thế kỷ X V và đổi tên lót từ Nguyễn M ộne
sang Nguyền Xuân kể từ đó.
Sang thời Lê Trung hưng, các nhà khoa bảng Đông Sơn như Nguyễn Văn
Nghi. L ê H y cũng có những đóng góp quan trọng. N euyễn V ăn Nghi đỗ Bảng nhãn
đời L ê Trung Tông. M ùa xuân Đinh T ỵ đời Thiên Hựu (1557), ông được lên chức
cấp sự Hộ khoa kiêm quản lý tài chính. Năm 1560, ông giữ chức Đône các hiệu thứ,
năm 1565 làm tham chính Nghệ A n. Năm 1569, ông giữ chức T ả thị lang Bộ Lạ i.
Năm 1570, Nguyễn V ăn N ghi được thăng Tuyên lực cône thần, Đông các học sĩ,
tước Phúc Ấ m . Đen năm Q uý Dậu, niên hiệu G ia Thái năm thứ nhất (1573), ône
được đổi làm Tả thị lang Bộ Binh, Tổng K í lục kiêm Tự quận công chính Đinh.
Năm Canh Thìn đời Quang Hưng (1580), ông giữ chức T ả thị lang bộ L ạ i, vào hầu
giảng K in h D iên, kiêm Đông các học sĩ. Trong suốt cuộc đời làm quan, Nguyễn
Văn Nghi đã có những đóng góp lớn lao cho triều đinh cũng như cho đất nước. V ì
vậy khi ông mất được vua truy tặng Thượng thư bộ B inh gia Thái bảo. K h i viết về
ông, Phan H uy Chủ đã nhận xét: “Ông là bậc danh nho đồ cao được ba vua trị ngộ,
đức nghiệp và tiếng tăm hơn cả các nho thần thời đầu Lê Trung hưng” 1. Trong Văn bia Nguyễn Văn nghi có đoạn: “Ông là bậc đại khoa, ngồi cao chốn triều trung,
được khí thiêng do trời đất chung đúc, được tôn lên làm phúc thần. Vinh hoa chồng chất, phúc đức cao dầy. Phúc cho nước, phúc cho dân, phúc cho con cháu, phúc cho
đồng đ ớ i... công danh chói lọi, rạng rỡ muôn đời, con chúa được hưởng tiếng thơm
lâu đời với dương thế”2.
Một nhà khoa bảng nổi tiếng khác của Đông Sơn là L ê H y. Ông đồ Đồng tiến
s ĩ xuất thân năm G iáp T h ìn 1664 đời vua L ê Huyền Tông - năm đó ông mới 18 tuổi.
Trong khoảng 30 năm đầu từ khi đỗ đại khoa, L ê H y đã được giao nhiều trọng
trách. Th ờ i gian đầu là các chức như H ình khoa đô cấp sự trung, T h ị nội dưới thời
chúa Trịnh Tạc. Sau khi Đ ịnh vương Trịnh Căn lên ngôi chúa (1682), trong 10 năm
Lê Hy liên tục được giao làm Tả thị lang bộ Binh, bộ Lễ rồi bộ Lại. Năm Quý Dậu (1693) thăng chức Tham tụng, Thượng thư bộ H ình rồi lên làm trấn thủ trấn Cao
Bằng. Cùng năm đó ông vâng mệnh đi sứ Trung Q uốc 3 năm. Năm M ậu Dần
(1698) thăng chức Thượng thư bộ Binh, đặc tiến phong K im tử V in h lộc Đại phu,
1. P h an H u y C h ú , L ịch triều hiến chương loạ i ch í, tập 1, N X B K h o a h ọ c x ã h ộ i , H à N ộ i , tr .382 .
2 . Vãn bia Nguyễn Văn N g h i, T à i liệu lưu t rữ tạ i sỏ ' văn h ó a t ỉn h T h a n h H óa .
809
VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUÓC TÉ LÀN THỨ T ư
Tham tụng Thượng thư bộ Lạ i. L à người thẳne thắn cương trực, ône luôn giữ vững
kỷ cương, phép nước trong côn^ việc, đúng như n?ười đời ca ngợi: “Ông được nhà
chúa tin dùng, làm việc nhà nước hàng 10 năm, không một lờ i nào là khôna; được
chúa nghe, từ triều đình tới nơi đồne nội đều sợ ône là người nghiêm nghị” 1
Một T iến s ĩ trên đất Đông Sơn cũne có những đóne góp trên lĩnh vực chính
trị. giúp vua trị nước là V ũ K iêm (Vũ tướng côns ). Ông đỗ khoa thi năm Bính
Tuất, đời Phúc T h ái (1646). ông làm quan chức Đề lợi neự sử thượng bảo tự khanh
rồi Hiến sát sứ H ải D ươne, Thái Neuvên tả tham chinh Sơn Tây, Nehệ An. V ớ i
cương v ị của m ình, V ũ tướng côna cũng đã có những đóng góp xứng đáng vào công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
2 .1 .2 . Q u â n s ự
Trên lĩnh vực quân sự, một trong những người có công lớn ở Đông Sơn phải
kể đến là L ê G iố c - con trai của quan hành khiến Lê Quát. L ê G iố c đậu Hoàng giáp
đời Trần D ụ Tông (1363), sau đưọ'c cử làm tuyên phủ sứ Nghệ A n đời vua Trần
Nghệ Tông và sau là chức Đ ại doãn kinh đô Thăng Long. K h i L ê G iố c được bố làm
quan cũng là lúc vương triều Trần đang trên đường suy vong, quân Chiêm thừa cơ
vào đốt phá tận kinh đô Thăng Long. Mùa hạ tháng 5 năm M ậu Ngọ (1387) quân
Chiêm Thành sau khi cướp phá Nghệ An đã vượt sôag Đ ại Hoàng (vùng N inh Bình,
Nam Đ ịnh), đánh thẳng vào kinh sư, bắt người cướp của. L ê G iốc đã cùng quan
quân chống đỡ nhưng thế yếu, ông bị quân Chiêm bắt rồi bị giết nhưng ông vẫn một
lòng trung nghĩa với triều đình. Nhà thờ họ L ê B á ở xã Thiệu Trung còn giữ được
đôi câu đối ca ngợi khí tiết của Lê G iốc như sau:
“M ạ tặc thưởng thiên thanh vạn đại
Trung thần nghĩa sĩ bạch tam quang”
N ạhĩa là:
“L ờ i mắng giặc còn vang tận trời xanh còn lưu muôn thuở
Người bầy tôi truna chết vì nghĩa sáng tựa trăng sao”
2 .1 .3 . N g o ạ i %iao
Thực hiện đường lối ngoại eiao nhằm giữ vững độc lập. chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nêu cao chính nghĩa, đặt hoà hiếu lên trên hết là một nhiệm vụ rất khó
khăn của một nước nhỏ ỉuôn phải đối phó với những âm mưu bành trướng thôn tinh
của nước lớn. Trong v iệc banơ 2Ĩao dưới thời phong kiến, ngoài những lễ nghi như
triều cống theo lệ, sính lễ, xin phons vương, chúc mừng Thiên tử lên ngôi hay chia
1. Lê Xuân Kỳ, Danh nhân họ Lê Thanh Hóa, tập 1, NXR Văn học, Hà Nội, 2007, tr.532.
810
THÀNH TỰU KHOA BẢNG VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC NHÀ KHOA BẢNG.
buồn, thì một công việc ngoại giao quan trọng của các sứ thần là giải quyết những tranh chấp về đất đai, đấu tranh giữ gìn toàn vẹn lãnh thổ không để cho các biên
thần của Th iên triều lấn chiếm vùng biên giới của nước ta. V ì vậy những quan lại
được cử làm ngoại giao hay đi sứ đều là những neười giỏi, “trí dũng song toàn” .
Những nhà ngoại giao Đại V iệt chứng tỏ họ là đại diện cho một quốc gia văn hiến
luôn chứng tỏ cho Th iên triều biết nước ta cũns là một nước văn hiến không kém gì
Truna Hoa. C ác nhà ngoại ẹiao hầu hết là những người đã đỗ đại khoa, nhiều người
là trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa. Họ đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ của triều
đình giao phó.
Đất Đông Sơn cũng đóng góp cho nhữna; nhà ngoại giao tài giỏi như Thiều
Q uy L in h đỗ đệ nhị giáp tiến s ĩ đời L ê U y M ục năm 27 tuổi được cử đi sứ nhà
M inh. L ê H y - một danh s ĩ đời L ê Huyền Tông với chức Thượng thư B ộ binh, ông
được cử đi sử sang nhà Thanh. Trần B á Tân đồ Tiến s ĩ năm 1736 đời L ê Ý Tông và
đ ư ợ c c ử đ i s ứ n h à T h a n h . N h ữ n g n h à n g o ạ i g i a o Đ ạ i V i ệ t t r o n g đ ó c ó n h ữ n g n h à
ngoại giao sinh ra trên đất Đông Sơn đã không làm nhục mệnh vua, giữ gìn được
quốc thể, bảo vệ được lợi ích dân tộc.
2.2. Trên lĩnh vực văn hóa
Nếu như trên lĩnh vực chính trị, quân sự và ngoại giao đất Đông Sơn - Thanh
H óa đã cống hiến cho đất nước những bậc danh nho hiền tài thì trên lĩnh vực văn
hóa họ cũng đã có những đóng góp quan trọng.
2.2.1. Văn học
Trên lĩnh vực văn học đầu tiên phải kể đến L ê Quát. Những sáng tác của ông
trên đường đi tham quan hay tiễn bạn như bài Tống công Phạm Sir Mạnh Bắc sứ, bài văn viết khi đi qua chùa Th iên Phúc ở B ắc G iang về Phật g iáo ... L ê Quát cũng
là bạn học của Phạm Sư M ạnh. Đ ôi bạn văn chương đã để lại cho hậu thế những tác
phẩm có giá trị, làm phong phú cho kho tàng văn thơ Lý - Trần. Sau khi ông mất dân làng lập đền thờ ông với đôi câu đối:
“V ăn thơ nức tiếng người đời ai cũng biết
Đ ức hiếu trung còn lưu mãi về sau!”
Bên cạnh L ê Quát, N guyễn M ộng Tuân cũng là nhà thơ, phu nổi tiếng, v ề thơ,
hiện còn 143 bài của ông chép trong các sách Việt âm thi tập, Tinh tuyên chư gia luật thi, Toàn Việt thi lục... R iêng về phú, ông có tới 41 bài trên tổng số 108 bài phủ
chữ Hán chép trong Quần hiền phủ tập. V ớ i số lượng thơ phú đứng hàng đầu so với
các tác gia đương thời, N guyễn M ộng Tuân giữ một v ị trí quan trọng trong nền văn
học thế kỷ X V và góp phần xác định diện mạo, đặc điểm tiến trình phát triển chung
811
VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUÓC TÉ LÀN THỨ T ư
của lịch sử văn học dân tộc. Những sáne tác của Nguyễn M ộna Tuân được tiến
hành qua hai thời kỳ: trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và trong thời kỳ hòa bình của
thời L ê sơ. T h ờ i kỳ khởi nghĩa Lam Sơn, ône là người chứng kiến trực tiếp chứng
kiến những năm tháng gian khổ của cuộc khởi nghĩa, các bài Phú núi Chí Linh, Phủ L a m S ơ n , N g u y ễ n M ộ n g T u â n g ó p t h ê m t i ế n g n ó i n g ợ i c a c u ộ c c h i ế n đ ấ u m ư ờ i n ă m
gian khố chống giặc M inh cũng như khẳng định một nền thái bình muôn thưở của
nước nhà.
Trong cảm hứng hướng về thiên nhiên, Nguyễn M ộng Tuân thường gắn với ý
thức tụng ca vương triều, coi vẻ đẹp đất trời chính là sự hòa hợp với lòng người và
một thời thịnh trị. Trong thơ văn Nguvễn Mộng Tuân ône không chỉ ca ngợi và đề
cao nhà vua mà còn nhấn mạnh vai trò bề tôi, những kẻ hiền tài đã góp phần quyết
định dựng xây vương triều. Đồng thời ông cũng nhấn mạnh vai trò của nhân dân.
Nguyễn M ộng Tuân cũne bày tỏ tình cảm sâu nặng với bạn bè. Đặc biệt ôna, có hai
bài thơ tặng N guyễn Trã i với những lời chân thành, tri âm tri kỷ. Ôní3 cũng cảm
thông sâu sắc trước một tài năng và nhân cách. Có thể nói trên lĩnh vực văn học
Nguyễn M ộng Tuân xứng đáng đế người đương thời và hậu thế ca tụng. V ớ i 41 bài
phú, Nguyễn M ộng Tuân được xếp vào hàng tác gia đứng đầu về số lượng dưới thời
trung đại.
2.2.2. Sử học
V iệt N am là một nước có lịclì sử lâu đời. V ì vậy ngay từ thời phong kiến, các
triều đại đã chú ý và quan tâm đến v iệc chép sử. Th ờ i Trần bộ Đ ạ i V iệ t s ứ k ý do
Bảng nhãn L ê V ăn Hưu biên soạn gồm 30 quyển đã hoàn thành là bộ sử thành văn
đầu tiên của nước nhà. T iếp sau L ê V ăn Hưu là nhà sử học Phan Phu T iên vói Đại Việt sử ký' tục biên. Ngô S ĩ L iê n thời L ê Sơ, Vũ Quỳnh, Phạm Công Trứ rồi L ê H v
và Nguyễn Q uý Đ ức bộ Đại Việt sử ký toàn thư đã hoàn thành. C ó thể nói, vai trò
của L ê H y đối với v iệc biên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư như giới sử học nhận
định: “Từ khi L ê V ăn Hưu viết xong Đợi Việt sứ ký (1272) cho đến lúc nhóm L ê
H y, hoàn thành Đại Việt sử ký toàn thư năm Chính Hòa ( ỉ 697) quá trình này kéo
dài 425 năm. Người đặt cơ sờ đầu tiên là L ê Văn Hưu và người tập lại thành cuối
cùng là Lê Hy” 1.
B ộ Đại Việt sử ký toàn thư là một công trình lập đại thành do nhiều nhà sử học
của các đời v iên soạn, từ L ê V ăn Hưu đời Trần, qua Phan Phu T iên , Ngô S ĩ L iên ,
V ũ Quỳnh thời L ê sơ đến Phạm Công Trứ . L ê H y thời L ê Trung hưng cùng nhữne,
cộng sự của họ. Đ ây là bộ quốc sử có giá trị, lần đầu tiên được khắc in toàn bộ và
1. N g ô S ĩ L iên v à c á c s ử th ầ n t r iề u Lê, Đ ạ i Việt sử kỷ toàn thư, tậ p 1, N X B V ăn h ó a th ô n g t in .
H à N ộ i , 2 0 0 4 , t r .3 6
812
THÀNH TỰU KHOA BẢNG VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC NHÀ KHOA BẢNG.
công bố vào năm Đ inh Sửu, niên hiệu Chính Hòa thứ 8 đời Lê H y Tông tức năm
1697. Đại Việt sử ký toàn thư cũng là thành tựu văn hóa của Đại V iệt, là kho tư liệu
phong phú về lịch sử nước nhà mà cho đến ngày nay và mãi mai sau vẫn còn
nguyên giá trị.
N hư vậy hai nhà khoa bảnẹ Đông Sơn là L ê Văn Hưu và L ê H y đã có công
đóng góp lớn lao cho nền sử học nước nhà. Một người được xem là đặt nền móng
của nền sử học L ê V ăn Hưu), một người đã RÓp công để hoàn thành một công trình
sử học còn lưu truyền đến muôn đời (Lê Hy).
N hìn lại hơn 1000 năm dưới thời phong kiến độc lập, tự chủ, đất Đ ông Sơn đã
góp phần vào tronẹ truyền thống khoa bảng của nước nhà. M ảnh đất này xứng đáng
được coi là niềm tự hào của xứ Thanh nói riêng và của dân tộc V iệt Nam nói chung.
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hôm nay, các thế hệ con cháu của
nhân dân Đông Sơn đã và đang tiếp bước truyền thống hiếu học của cha ông để giữ
vững và phát huy tốt nhất những thành quả của giáo dục trong việc xây dựng quê
h ư ơ n g , c ù n g n h â n d â n c ả n ư ớ c đ ạ t đ ư ợ c n h ữ n g k ỳ t í c h t r o n g q u á t r ì n h h ộ i n h ậ p
quốc tế và khu vực.
Tài liệu tham khảo
1. Đ ạ i Việt sử ký toàn thư , t ậ p 1-2 , 2 0 0 4 , N x b V ă n h ó a - T h ô n g t i n , H à N ộ i .
2 . B ù i H ạ n h c ẩ n ( c b ) , 2 0 0 2 , Trạn g nguyên, tiến sĩ, hương cốn g Việt Nam, N x b V ă n
h ó a - t h ô n g t in , H à N ộ i .
3. P h a n H u y C h ú , 1 9 9 2 , L ịc h triều hiến ch ươn g loạ i ch í, t ậ p 1 -2 , N x b K h o a h ọ c x ã
h ộ i , H à N ộ i
4 . Đ ịa c h í Thanh H ỏ a , t ậ p 1-2 , 2 0 0 1 , N x b V ă n h ó a - t h ô n g t in , H à N ộ i .
5. Đ ịa c h í Đ ỏn g S ơ n , 2 0 0 6 , N x b K h o a h ọ c x ã h ộ i , H à N ộ i .
6 . Đ i n h X u â n L â m , 2 0 0 7 , “ Đ ị a c h í h u y ệ n Đ ô n g S ơ n t ỉ n h T h a n h H ó a ” , Tạp c h í
nghiên cứ u lịch sử , s ố 11, t r . 7 3 - 76 .
7. P h ạ m T h ị Q u y ( c b ) , 2 0 0 7 , D anh nhân họ L ê Thanh H óa- t ậ p 1, N x b V ă n h ọ c ,
Hà Nội.
8. P h ạ m V ă n T ấ n ( c b ) , 2 0 1 0 , Đ ịa ch í huyện Thiệu H ó a , N x b K h o a h ọ c x ã h ộ i ,
H à N ộ i .
9. Đ ặ n g Đ ứ c T h i , 1 9 9 4 , L ê Văn H ư u - N hà sử học đầu tiên cùa nư ớc ta, N x b T h à n h
phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
10. N g u y ễ n Đ ứ c T h ọ , N g u y ễ n T h ú y N g a , 1 9 9 3 , C á c nhà khoa bảng Việt Nam (1075-
1919), N x b V ă n h ọ c , H à N ộ i .
813
VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUỐC TÉ LÀN THỨ TƯ
ì ì . K h o a bản g B ẳ c B ộ và Thanh H ỏ a (qua tà i liệu m ộc bản triều N guyễn), N X B C h í n h trị q u ố c gia, Hà N ộ i , 2 0 1 1 .
Tu liệu điền dã
12. Gia phả dòng họ Nguyễn Xuân ở làng Phủ L ý (Thiệu Trung, Thiệu Hóa).
13. G i a p h ả d ò n g h ọ L ư u ở l à n g V i ê n K h ê ( Đ ô n g A n h , Đ ô n g S ơ n ) .
14. Văn bia Văn chỉ huyện Đông Sơn - Người dịch Nguyễn Hữu Chế (cộng tác viên
V i ệ n N g h i ê n c ứ u H á n N ô m - In t r o n g Đ ịa c h í Đ ô n g Sơ n - 2 0 0 6 ) .
15. Văn bia Nguyễn Văn Nghi - Tài liệu lưu trữ tại Sở văn hóa tỉnh Thanh Hóa
16. Lê Hy- Bản dịch chữ Hán do Tiến sĩ Đinh Công V ỹ - Viện Nghiên cứu Hán Nôm
dịch tháng 8/2000.
814