tản mạn về nghĩa của mực tàu 墨艚newvietart.com/nguyencungthongtanmanmuctau.pdf ·...

34
1 Tản Mạn Về Nghĩa của "Mực Tàu" 墨艚 (phần 1) Nguyễn Cung Thông 1 Phan Anh Dũng 2 Lịch sử hình thành tiếng Việt bao gồm nhiều giai đoạn đặc biệt, phản ánh giao lưu ngôn ngữ vùng cũng như lịch sử phát triển dân tộc qua nhiều thời kỳ: từ khi giành lại độc lập từ phương Bắc và khai phá vùng đất phương Nam (Nam Tiến). Phần này chú trọng vào phạm trù nghĩa của cụm danh từ "mực tàu" và khuynh hướng thay đổi nghĩa trong văn bản Hán, Nôm và chữ quốc ngữ hiện nay. Tìm hiểu về hai chữ này là một hoạt động rất thú vị nhưng không kém gian nan, và cũng mở ra nhiều vấn đề cần phải khảo cứu thêm nữa trong quá trình hình thành tiếng Việt. Cách ghi âm tiếng TQ trong các bài này dựa vào hệ thống pinyin (Bính âm) phổ thông hiện nay. Các tài liệu viết tắt là TVGT Thuyết Văn Giải Tự (khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), Tập Vận (TV/1037/1067), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), Tự Vị Bổ (TViB/1666), KH (Khang Hi/1716), HNĐTĐ (Hán Ngữ Đại Tự Điển/1986), Thiết Vận (ThV/601), Vận Kinh (VK/1161), VBL (Dictionarium Annamiticum-Lusitanum-Latinum, Alexandre de Rhodes, 1651), VNTĐ (Việt Nam Tự Điển/1931/1954), HV (Hán Việt), BK (Bắc Kinh). Phần này có trọng tâm là nêu ra các liên hệ ngữ âm nhưng không nhất thiết xác định nguồn gốc (Việt cổ hay Hán cổ …) của các trường hợp này. Trước hết, ta hãy nhìn tiếng Việt từ lăng kính lớn hơn của thời gian và sau đó là tìm hiểu chi tiết hơn phạm trù nghĩa của từng chữ mực và tàu cũng như khi mực tàu được dùng chung. 1 Nhà nghiên cứu, Melbourne, Úc. 2 Kỹ sư, chuyên viên nghiên cứu, Trung tâm Công nghệ thông tin Thừa Thiên Huế, Việt Nam

Upload: buidieu

Post on 08-Sep-2018

220 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

1

Tản Mạn Về Nghĩa của "Mực Tàu" 墨艚

(phần 1)

Nguyễn Cung Thông1

Phan Anh Dũng2

Lịch sử hình thành tiếng Việt bao gồm nhiều giai đoạn đặc biệt, phản ánh

giao lưu ngôn ngữ vùng cũng như lịch sử phát triển dân tộc qua nhiều thờikỳ: từ khi giành lại độc lập từ phương Bắc và khai phá vùng đất phươngNam (Nam Tiến). Phần này chú trọng vào phạm trù nghĩa của cụm danh từ"mực tàu" và khuynh hướng thay đổi nghĩa trong văn bản Hán, Nôm vàchữ quốc ngữ hiện nay. Tìm hiểu về hai chữ này là một hoạt động rất thú vịnhưng không kém gian nan, và cũng mở ra nhiều vấn đề cần phải khảocứu thêm nữa trong quá trình hình thành tiếng Việt. Cách ghi âm tiếng TQtrong các bài này dựa vào hệ thống pinyin (Bính âm) phổ thông hiện nay.Các tài liệu viết tắt là TVGT Thuyết Văn Giải Tự (khoảng 100 SCN), NT(Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776),LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), Tập Vận(TV/1037/1067), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (VậnBổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT(Chính Tự Thông/1670), Tự Vị Bổ (TViB/1666), KH (Khang Hi/1716),HNĐTĐ (Hán Ngữ Đại Tự Điển/1986), Thiết Vận (ThV/601), Vận Kinh(VK/1161), VBL (Dictionarium Annamiticum-Lusitanum-Latinum, Alexandrede Rhodes, 1651), VNTĐ (Việt Nam Tự Điển/1931/1954), HV (Hán Việt),BK (Bắc Kinh). Phần này có trọng tâm là nêu ra các liên hệ ngữ âm nhưngkhông nhất thiết xác định nguồn gốc (Việt cổ hay Hán cổ …) của cáctrường hợp này. Trước hết, ta hãy nhìn tiếng Việt từ lăng kính lớn hơn củathời gian và sau đó là tìm hiểu chi tiết hơn phạm trù nghĩa của từng chữmực và tàu cũng như khi mực tàu được dùng chung.

1 Nhà nghiên cứu, Melbourne, Úc.

2 Kỹ sư, chuyên viên nghiên cứu, Trung tâm Công nghệ thông tin Thừa Thiên Huế, Việt Nam

2

1. Sự thay đổi nghĩa của tiếng Việt trong vòng 370 năm (từ thời VBL)

Từ thời VBL ra đời (1651), tiếng Việt đã thay đổi phần nào - đây chỉ là hiện

tượng rất tự nhiên vì số dân gia tăng, sự ổn định sau thời gian khai phá

vùng đất phía Nam (Nam Bộ) cùng với giao lưu ngôn ngữ của các dân tộc

ở Nam Bộ và chữ quốc ngữ đã phát triển và trở thành văn tự chính thức

thay thế chữ Hán và chữ Nôm truyền thống. Vài thí dụ tiêu biểu sau đây

cho thấy một chuỗi kết quả: phạm trù nghĩa có thể hoàn toàn biến mất cho

đến hoàn toàn bảo lưu nghĩa vào thời VBL

- sinh thì (nghĩa là chết/VBL) so với sinh thì (sinh thời, dạng này hiện diện

sau thập bán thế kỷ XIX cho đến nay) nghĩa là lúc còn sống

- nhân danh dùng trong Kinh Thánh (nhân danh cha ...) bây giờ đã mở rộng

nghĩa (nhân danh đạo đức, nhân danh con người ...)

- niễng (niảng - thuyền ghe đi sông) bây giờ không còn dùng nữa

- giáo tiền, giáo gạo (xin tiền, xin bố thí gạo) bây giờ không còn dùng nữa

- bơm (bơm thơm - tóc bờm xờm, bù xù) - bây giờ không còn dùng nữa mà

thay thế bằng nét nghĩa ống (máy) bơm từ kỹ thuật Tây phương nhập vào

- ghe nghĩa là nhiều (VBL) bây giờ không còn dùng nữa, thay bằng danh từ

ghe (tàu)

- nồng nàn (VBL - khinh dễ) bây giờ có nghĩa tích cực, yêu nồng nàn (say

đắm) ...

3

- đích xác nghĩa là vụng về, lôi thôi ... Bây giờ không còn nghĩa tiêu cực này

nữa

- non dạ (VBL - buồn nôn) bây giờ hàm ý thiếu suy nghĩ, còn non nớt ...

- lịch sự (vẫn còn duy trì nghĩa thời VBL) là vết tích của khóa học trong

Quốc Tử Giám thời nhà Minh (những đợt sóng giao lưu ngôn ngữ Việt

Trung)

...v.v...

2. So sánh một số từ trong VBL và từ điển của Béhaine và Taberd

2.1 Từ chỉ thuyền bè

Từ điển VBL có khoảng 9000 mục từ, trong đó có 7 từ chỉ thuyền bè

- tàu

- thuyền

- đò

- mảng

- niểng (niảng)

- bè

- tam bản

Sau đó khoảng 120 năm, từ điển Béhaine (1772) với khoảng 29000 mục từ

(so với 31000 mục từ của từ điển Taberd/1838) có 10 từ chỉ thuyền bè

- tàu

4

- thuyền

- đò

- bè

- ghe

- xuồng1

- sõng

- tam bản

- đà (đại trường đà)

- tiểu điếu (ghe tiểu điếu)

Để ý là tiếng Mường Bi (Thanh Hóa) vẫn còn dùng từ mảng chỉ thuyền nhỏ,

không thấy dùng trong Nam Bộ cũng như niểng (VBL). Hai LM Béhaine và

Taberd đều soạn tài liệu của mình từ thời kỳ ở Nam Bộ, so với không gian

và thời gian khi VBL ra đời. Điều này dẫn đến cách gọi các dân tộc đã đến

Nam Bộ khai phá, trong đó có người Trung Hoa - đa phần là Triều Châu

cùng với người Phúc Kiến, Hải Nam, Quảng Đông, Khme, Việt Nam (từ

Đàng Trong hay Đàng Ngoài) ...v.v...

2.2 Từ chỉ người Trung Hoa

Để chỉ nước hay người Trung Hoa, VBL đã dùng các từ:

- Ngô (nước Ngô, thằng Ngô, bí Ngô, xống Ngô)

5

- Đại Minh (không thấy dùng Đại Thanh trong các tác phẩm còn để lại của

de Rhodes)

- Nhà Hán

So với các từ dùng trong từ điển Béhaine và Taberd:

- Ngô

- Đại Minh

- Nhà Hán

- Đại Thanh

- Chệc

- A Chệc

- Tàu

- Khách

Số từ chỉ người TQ đã tăng vọt trong vòng 120 năm từ thời VBL. Khi so

sánh VBL và Béhaine, số phần trăm tăng là 267 (%) cho số từ chỉ người

TH so với khoảng 322 % tổng số từ tăng: một tỷ lệ rất đáng chú ý! Điều này

không làm cho ta ngạc nhiên vì từ khi vua Chân Lạp (1623) cho chúa

Nguyễn di dân Việt đến Prey Kor (Sài Gòn) làm ăn, không lâu sau đó là

các đợt sóng di dân từ Quảng Đông (Minh Hương) khai phá vùng đất2

chằng chịt sông ngòi và bùn lầy này. Với bản tính chuộng buôn bán, người

6

TH cùng dân bản địa đã tạo nên sinh khí mới cho Nam Bộ với tàu bè qua

lại tấp nập. Thành ra, số (danh) từ chỉ người TH dĩ nhiên cũng tăng vọt.

Sau khi đã nhìn bức tranh Nam Bộ một cách tổng quát qua 4 thế kỷ, ta hãy

xem lại phạm trù nghĩa của mực, tàu và cấu trúc "mực tàu" trong cùng giai

đoạn.

3. Mực (hay mức) có nhiều nghĩa

3.1 Mực là một biến âm của mặc HV, thường là chữ mặc bộ thổ 墨 (thanh

mẫu minh 明 vận mẫu đức 德 nhập thanh, khai khẩu nhất đẳng) có các

cách đọc theo phiên thiết

莫北切 mạc bắc thiết (TVGT, ĐV)

密北切,音默 mật bắc thiết, âm mặc (TV, VH, LT, CV, LTCN 六書正?)

莫佩切,音昧 mạc bội thiết, âm muội (TV, LT)

亡北切 vong bắc thiết (TTTH)

TNAV ghi vận bộ 齊微 tề vi - thời TNAV phụ âm cuối tắc (k/c) đã tha hóa

CV (1375) ghi cùng vần 墨 默 嘿 嚜 穆 纆 冒 媢 (mặc mạo)

...v.v...

Giọng BK bây giờ là mò méi so với giọng Quảng Đông mak6 maak6 và các

giọng Mân Nam 客家话:[宝安腔] met8 [梅县腔] met8 [陆丰腔] met8 [客英

字典] met8 [东莞腔] met8 [客语拼音字汇] med6 [海陆丰腔] met8 [沙头角腔]

miet8 [台湾四县腔] met8, giọng Mân Nam/Đài Loan bak8, tiếng Nhật boku

moku và tiếng Hàn mwuk.

7

Để ý vần bắc có thể biến âm thành bấc (gió bấc) so với mặc và *mậc hay

mực.

Mực bộ thổ có nghĩa là đen, tham ô, mực (viết), một hình phạt (bôi mực lên

chữ thích trên mặt), đạo Mặc, một đơn vị đo lường (bằng năm thước). Các

từ cá (con) mực3, chó mực cho thấy cách dùng mực đã phổ thông trong

tiếng Việt như mực (viết).

Chữ Mặc 墨 vốn có một nghĩa cổ là đo, mức độ. Khang Hy Tự Điển dẫn

Tiểu nhĩ nhã và Chu ngữ: 【小爾雅】五尺爲墨,倍墨爲丈。【周語】不過

墨丈尋常之閒。[Tiểu nhĩ nhã] ngũ xích vi mặc, bội mặc vi trượng (năm

thước là một mực, gấp đôi mực là một trượng). [Chu ngữ ] bất quá mặc

trượng tầm thường chi gian (chẳng qua cũng tầm thường trong khoảng một

mực một trượng).

Truyện Kiều có câu "Phong lưu rất mực hồng quần. Xuân xanh xấp xỉ tới

tuần cập kê" rõ ràng mực câu này phải hiểu theo nghĩa "mức", "bậc", phù

hợp với nghĩa cổ ở trên.

Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi cũng có câu "Mực thước thế gian dầu có

phải. Cân xưng thiên hạ lấy đâu tày" (Bảo Kính 172.5) 4

Mực (mức) nước trong ruộng rất quan trọng đối với nhóm cư dân làm nông

nghiệp ở đồng Bằng Bắc bộ thời xưa (có câu “nhất nước nhì phân tam cần

tứ giống"), mực nước thuỷ triều cũng rất quan trọng đối với giao thông

đường thuỷ, mực với nghĩa mức là một từ thuộc nhóm phổ thông bậc nhất

8

trong tiếng Việt, vẫn còn giữ nghĩa cổ của mặc 墨 là mức, độ, trong khi đó ở

Hán ngữ nét nghĩa này có phần mai một, đây là một điều rất đáng lưu ý khi

tìm hiểu lịch sử tiếng Việt, người Việt.

3.2 Mực còn có thể là mặc bộ mịch 纆纆 (thanh mẫu minh 明 vận mẫu đức

德 nhập thanh, khai khẩu nhất đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết

莫北切 mạc bắc thiết (TVGT, ĐV)

密北切,音默 mật bắc thiết, âm mặc (TV, VH, LT, CV, LTCN 六書正?)

莫佩切,音昧 mạc bội thiết, âm muội (TV, LT)

亡北切 vong bắc thiết (NT, TTTH)

TNAV ghi vận bộ 齊微 tề vi

CV (1375) ghi cùng vần 墨 默 嘿 嚜 穆 纆 冒 媢 (mặc mạo)

...v.v...

Giọng BK bây giờ là mò méi so với giọng Quảng Đông mak6 maak6 và các

giọng Mân Nam 客家话:[宝安腔] met8 [梅县腔] met8 [陆丰腔] met8 [客英

字典] met8 [东莞腔] met8 [客语拼音字汇] med6 [海陆丰腔] met8 [沙头角腔]

miet8 [台湾四县腔] met8, tiếng Nhật boku moku.

TVGT ghi mực là sách dã 索也 (dây thừng). Đây là một nghĩa mà rất ít

người biết đến!

Ta có thể tìm thấy cách dùng chữ 墨 mực (viết) thông với dây đo mực 墨

(mực viết) hay mực/mức 纆 (dây đo) đã dùng tương đương trong thư tịch

Hán cổ - được ghi nhận bởi học giả nhà Hán Dương Hùng 揚雄 (53 TCN -

9

18 SCN) trong Giải Trào 解嘲, một chuyên gia (cũng như là tác giả)

"Phương Ngôn". Thật ra trước Dương Hùng một chút Sử Ký cũng có dùng

mặc 墨 (mực) thay cho mặc 纆 (dây), 史记·南越列傳論》: "成敗之轉, 譬

若糾墨。" Sử kí - Nam Việt liệt truyện luận: thành bại chi chuyển , thí

nhược củ mặc. Đáng chú ý là trong Quốc Ngữ (thế kỷ XI TCN đến thế kỷ

VIII TCN) đã ghi mực 墨 là dây đo của thợ mộc, cũng như Thái Huyền.

4. Tàu có nhiều nghĩa

4.1 Đóng tàu (VBL – trang 207, 727)

Tàu chỉ thuyền bè, một dạng chữ Nôm là dùng tào HV 艚 - đây là một chữ

hiếm trong tiếng Trung (Quốc) hiện đại với tần số dùng 555 trên

430747376 (Unicode 825A). Chữ tào 艚 (thanh mẫu tùng/tòng 從, vận mẫu

hào 豪, bình thanh, khai khẩu nhất đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết

như sau

昨勞切 tạc lao thiết (QV)

昨槽切 tạc tào thiết (NT)

財勞切 tài lao thiết (TV, LT, VH, CV, TVi) -音曹 âm tào (TTTH, TVi)

CV ghi cùng vần 曹 槽 嶆 艚 漕 嘈 螬 (tào) và vận bộ hào 爻

才豪切 tài hào thiết (CTT) -舟名 chu danh (CTT)

…v.v…

Giọng BK bây giờ là cáo so với giọng Quảng Đông cou4 và các giọng Mân

Nam 客家话:[台湾四县腔] cau2 co2 [宝安腔] cau2 [海陆丰腔] cau2 co2 [客

10

英字典] cau2 [梅县腔] cau2 [客语拼音字汇] cau2 (tsau2) co2 潮州话:zo,

tiếng Nhật sou zou và tiếng Hàn co.

Một điểm đáng chú ý là có nhiều từ Hán cổ gần âm *tao để chỉ tàu (thuyền)

như

Tao (sưu) 艘 (chỉ chung các loại thuyền) có các cách đọc sau (thanh mẫu

tâm 心, vận mẫu hào 豪)

蘇刀反 tô đao phản (LKTG)

蘇刀切 tô đao thiết (NT, QV, TTTH)

蘇彫切 tô điêu thiết (QV)

先彫切,音蕭 tiên điêu thiết, âm tiêu (TV, VH, LT)

蘇遭切 tô tao thiết (QV, TV, LT, TVi)

蘇曹切,音騷 tô tào thiết, âm tao (VH, TVi)

蘇后切 tô hậu thiết (TG 字鑑)

疏鳩切,音搜 sơ cưu thiết, âm sưu (TVi, CV)

疏鉤切,音搜 sơ câu thiết, âm sưu (CTT)

…v.v…

Giọng BK bây giờ là sōu xiāo sāo so với giọng Quảng Đông sau1 sau2 và

các giọng Mân Nam [Kwangtung] seu1 seu3 siau1 [Hailu] seu1 seu3 siau1

[Siyan] seu1 seu3 siau1 [Meixian] seu1 [Bao'an] siu1.

11

Đao 舠 là từ hiếm với tần số dùng là 30 trên 237243358, so với thuyền 船 là

106175 trên 434717750, chu 舟 là 22693 trên 434717750 … Ngay cả chữ

đao 刀 đã từng có nghĩa là thuyền con (Kinh Thi. Bài số 61 河廣 Hà quảng:

誰謂河廣、曾不容刀 - Thùy vị Hà quảng, tằng bất dung đao - Ai nói sông

Hà rộng, từng không chứa nổi cái thuyền nhỏ !).

Đao có các cách đọc (thanh mẫu đoan 端 vận mẫu hào 豪):

Âm đao 音刀 (LKTG)

Âm điêu 音貂 (LKTG)

都牢切 đồ lao thiết (QV) – âm đao 音刀

都勞切 đồ lao thiết (TV, VH, LT)

都高切 đồ cao thiết (CV, TVi, CTT)

丁勞切 đinh lao thiết (NT)

都聊切 đồ liêu thiết (QV, TTTH)

先彫切 tiên điêu thiết (TV)

丁聊切 đinh liêu thiết (TVi, LT)

…v.v…

Có khả năng tàu (bè) liên hệ đến đao 舠 - Nguyễn Trãi 阮廌 từng viết:

“Cảng khẩu thính triều tạm hệ đao 港口聽潮暫繫舠" (Lâm cảng dạ bạc 淋港

夜泊), tạm dịch ‘nơi cửa biển nghe thủy triều, tạm buộc thuyền con’.

4.2 Tàu voi, tàu ngựa (VBL - trang 727, 728)

12

Tàu còn có nghĩa là nhà chứa (chuồng) như tàu voi, tàu ngựa ... Tàu

(chuồng) có thể liên hệ đến tào bộ mộc 槽 (thanh mẫu tinh/tùng 精從 vận

mẫu hào 豪 bình thanh, khai khẩu nhất đẳng) có các cách đọc theo phiên

thiết

昨牢切 tạc lao thiết (TVGT)

昨勞切 tạc lao thiết (ĐV, QV) - QV ghi tiểu vận tào 曹

才刀切 tài đao thiết (QV)

音曹 âm tào (LKTG)

徂毫切 tồ hào thiết (NT, TTTH)

財勞切,音曹 tài lao thiết, âm tào (TV, VH, LT, CV, TVi)

QV phiên thiết còn dùng vần cửu 九, TV phiên thiết còn dùng vần tiêu 焦 -

dẫn đến một khả năng là âm ao (lao, đao) của tào có thể thu hẹp độ mở

miệng để cho ra dạng tàu (giọng Bắc), vào khoảng thế kỷ X về sau.

作曹切 tác tào thiết (ĐV, QV) - QV ghi tiểu vận tao 糟

臧曹切,音遭 tang tào thiết, âm tao (TV, LT, TViB)

TNAV ghi vận bộ 蕭豪 tiêu hào

CV ghi cùng vần 曹 槽 嶆 艚 漕 嘈 螬 (tào)

在刀翻 tại đao phiên (BH 佩觿)

才毫切, 音曹 tài hào thiết, âm tào (CTT)

...v.v...

13

Giọng BK bây giờ là cáo so với giọng Quảng Đông cou4 và các giọng Mân

Nam 客家话:[梅县腔] cau2 co2 [海陆丰腔] co2 cau2 [客英字典] cau2 [台湾

四县腔] co2 cau2 [客语拼音字汇] cau2 co2 [宝安腔] cau2 [东莞腔] cau2 潮

州话:zo5, giọng Mân Nam/Đài Loan cho5, tiếng Nhật sou và tiếng Hàn

co.

Với các nghĩa khác nhau và riêng biệt của mực và tàu như trên, ta thử tìm

hiểu nghĩa của hai chữ "mực tàu".

5. Phạm trù nghĩa của "mực tàu"

5.1 Dựa vào tài liệu "Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa"

CNNAGN5 dùng "mực tàu" một lần trong phần "Mộc công bộ đệ thập bát";

phần này ghi nhận các dụng cụ của thợ mộc như rìu, cưa, khoan, bay, đẽo,

bào, chạm, đục, thước, búa và "mực tàu":

Mực tàu có hiệu Đốc Thằng thẳng ngay

(CNNAGN Mộc công - Bộ đệ thập bát)

"Mực tàu" ở đây chỉ một dụng cụ của thợ mộc vì đề mục đã xác định rõ là

"Mộc công bộ", có lý hơn so với nghĩa thường hiểu (hiện nay) là mực (viết)

của người Tàu (người Trung Hoa). Nếu mực trong mực tàu là mực viết/vẽ,

thì đây chỉ là cách dùng đơn giản hóa trong tổ hợp "mực tàu" chỉ dụng cụ

gồm ba thành phần chính: (a) mực (b) dây (thằng) và (c) tàu (hũ chứa,

máng chứa mực). Mực hay chất lỏng có pha màu đều có thể xài cho dụng

cụ này - ngay cả nước cũng có thể dùng trong trường hợp này - miễn là khi

14

"nảy mực tàu"/VBL ta có thể thấy vết hay lằn trên gỗ cho giai đoạn tới như

cưa hay bào ... Có lúc cũng chẳng cần chất lỏng để ghi dấu vì có thể dựa

vào sợi dây căng để thực hiện giai đoạn tới (cưa/đẽo), hay có thể dùng

phấn/bột màu thay cho chất lỏng. Mực ở phần này tương ứng với mặc HV

墨. Trích một cách nảy "mực tàu" từ trang

http://www.kyomachiya.net/hazimeni/yogo/images/sumitsubo2.gif

Vài chi tiết đáng chú ý liên quan đến "mực tàu":

- theo truyền thuyết cổ đại của TQ, Lỗ Ban thời Xuân Thu (770-476) đã chế

ra các dụng cụ như "mực tàu", cưa, khoan ...v.v...

- trong giai đoạn bang giao với nhà Minh, tiếng Tagalog (thổ ngữ của Phi-

Luật-Tân, một ngôn ngữ thuộc họ Nam Đảo/Austronesian) có nhập "mực

tàu" vào với dạng baktaw, xem chi tiết trang này

http://www.wikiwand.com/en/List_of_loanwords_in_Tagalog

Hình một "mực tàu" (mặc hồ) cổ với dây đã bị tháo bỏ - trích từ trang

http://catalog.digitalarchives.tw/item/00/32/a2/c8.html

Hai thành phần chính là mực và dây (thằng) hiện diện trong cách gọi "mực

thằng" là dây đo trong từ điển Béhaine (1772), Taberd6 (1838)

Taberd – trang 481

15

Lưu ý trong CNNAGN dùng chữ tào 曹 là quan lại, bọn lũ … chứ không

dùng chữ tào 槽 là cái máng hay tàu ngựa. Đây không hẳn là cách viết ghi

âm "tào" dùng 曹 thay 槽, vì chữ tào vốn có nghĩa cổ là "quần" tức bọn, lũ,

đàn. Dạng cổ của chữ tào là hai chữ đông 東東 đặt trên chữ viết 曰, tượng

hình đàn gia súc tập hợp một chỗ (quanh cái máng ?), như vậy cũng có liên

quan đến nghĩa "tàu ngựa" :

Nguồn: http://www.zdic.net/z/1b/sw/66F9.htm

5.2 "Mực tàu" trong VBL

VBL liệt kê khá đầy đủ các dụng cụ của thợ mộc như trong CNNAGN: như

rìu, cưa, đẽo, bào, chạm, khoan, thước (kẻ), búa, dùi đục, mực tàu. LM de

Rhodes dùng "mực tàu" hai lần trong các tác phẩm còn để lại (VBL, Phép

Giảng Tám Ngày, Tường Trình về Đàng Trong):

VBL – trang 501/502 ghi "nảy mực tàu" mô tả rất đúng động tác “nảy mực”

của thợ mộc, tiếng Việt có thành ngữ "cầm cân nảy mực".

VBL – trang 728

LM de Rhodes đã hiểu được hàm ý của cách dùng "mực tàu" phần nào khi

giải thích là "mực thợ mộc dùng kẻ đường thẳng trên gỗ" - so với các cách

giải thích khác, như "thoi mực" (VBL, trang 488) hay "bát Ngô" (VBL, trang

29/30, de Rhodes ghi rõ ràng là dùng bởi người Tàu (tiếng La Tinh là da

china, hay Sinas); ông sẵn sàng ghi ‘nguồn’ trong VBL như Nhân sâm (từ

Cao Ly), Đại Hồng (tơ lụa từ Damas), mẩn (loại gạo từ Nhật Bản), chữ (văn

16

chương Trung Hoa, chữ Trung Hoa) ...v.v... Nhắc lại ở đây là trong VBL,

tàu chỉ được dùng trong các ngữ cảnh không chỉ người Trung Hoa:

- tàu (thuyền bè, đóng tàu - VBL trang 727)

- tàu voi, tàu ngựa (VBL - trang 727/728)

- tàu nhà (VBL - trang 728)

- mực tàu (VBL - trang 728)

- đi tàu (vượt biển - VBL trang 876)

- thụt gỗ tàu hút nước (VBL - trang 788)

- thế tàu (VBL - trang 754)

Bây giờ thì hầu như không ai hiểu được thành ngữ7 "Thẳng mực tàu, đau

lòng gỗ" vì không biết đến dụng cụ đặc biệt kẻ đường thẳng (mực tàu) như

trên. Đây là nghĩa cổ hơn trong hai nét nghĩa đã từng được Béhaine (1772)

và Taberd (1838) ghi nhận về "mực tàu":

(a) Amussis8 (dây, thước đo)

(b) Atramentum sinicum (mực viết/vẽ của người Trung Hoa)

Nghĩa (a) rất phù hợp với các dữ kiện trong CNNAGN và VBL. Nghĩa (b) là

cách hiểu của đa số trong tiếng Việt hiện đại.

Nhìn xa hơn nữa, tiếng Nhật dùng "mặc hồ" 墨壷 hay sumitsubo - sumi là

than hay mực (tiếng Nhật) so với tiếng Trung (Quốc) là "mặc đẩu" 墨斗

"mặc tuyến đẩu" 墨線斗 hay "mặc bình" 墨坪. Các cách gọi dụng cụ thợ

17

mộc này đều tương ứng với cách gọi "mực tàu" như đã phân tách bên trên.

Chính người Nhật cũng thừa nhận "mực tàu" (mặc hồ) hay sumitsubo có

gốc từ TQ - xem trang mạng của thành phố Sanjo (三条市 Tam Điều Thị)

http://www.city.sanjo.niigata.jp/chiikikeiei/markinginkpot.html

Học giả Trương Vĩnh Ký9 cũng từng giải thích về chữ cordeau (tiếng Pháp)

là "mực tàu"

Cordeau sm. Dây giăng mức; dây đo; mực tàu (trang 458 - Petit

Dictionnaire francais annamite)

Rõ ràng, tàu trong hai chữ "mực tàu" (dụng cụ thợ mộc) không có nghĩa là

người/nước Trung Hoa trong các tài liệu đã trích, hơn nữa chú ý tới dấu

phảy mà LM des Rhodes đã đặt ở mục từ "tàu, mực tàu" cho thấy mực tàu

có thể gọi tắt là cái "tàu" càng xác định rõ tàu ở đây không liên quan gì đến

người/nước Trung Hoa ! Do đó, mực tàu là một dữ kiện quan trọng cho thấy

quá trình tiến hóa của tiếng Việt, đặc biệt là phạm trù nghĩa của chữ tàu.

Các danh từ chỉ người Trung Hoa đáng chú ý vì đây là những dấu ấn ngôn

ngữ và lịch sử, cũng như là cánh cửa hé mở cho ta thấy phần nào tư tưởng

của dân Việt trong xã hội của thời đại tương ứng.

5.3 "Tàu" chỉ người Trung Hoa

Người TH thường được gọi là Hán nhân/Đường nhân dựa vào hai thời đại

cực thịnh của văn hóa TH. Người Nhật vẫn dùng Đường nhân 唐人 hay

Tōjin, so với Hoa kiều 華僑.

18

Tóm tắt các cách giải thích nguồn gốc chữ Tàu (nước/người Trung Hoa):

5.3.1 Chỉ người (dân) đi tàu sang VN hay giặc tàu ô10 – tàu hay tào 艚 là

chữ hiếm chỉ thuyền bè … Chữ tào chỉ hiện diện sớm nhất là từ thời Ngọc

Thiên (năm 543 SCN) nên giải thích được các cách dùng thuyền nhân,

hàng nhân, chu nhân … chứ không thấy dùng *tào nhân, thêm vào đó là

chữ Nôm thường dùng thanh phù tào 曹 để chỉ tàu11 (thuyền) hay tàu

(TQ). Liên hệ tàu (voi, ngựa) và tào 槽 cũng phù hợp với các dữ kiện trên.

5.3.2 Tàu có thể liên hệ đến Tào Tháo 曹操 (155-220) – theo Vương Duy

Trinh/VDT (trong "Thanh Hóa Quan Phong") cho rằng Tào là tiếng gọi nước

Ngụy của Tào Tháo. VDT đỗ cử nhân năm 1870 và làm tổng đốc Thanh

Hóa.

5.3.3 Tàu có thể là quan12 (một nghĩa cổ của tào 曹) - người Việt gọi

những người Hán qua Giao Chỉ (làm quan) thời kỳ Bắc thuộc.

5.3.4 Tàu có thể là xe (như cách dùng tiếng Việt tàu bay, tàu hỏa, tàu thủy,

tàu khí …) hay dùng danh từ tào 艚 như động từ tào 漕 (di chuyển bằng

đường thủy) – chỉ một phương pháp di chuyển đến Giao Chỉ thời trước.

5.3.5 Tàu có thể liên hệ đến Tiều: các đợt di dân đến VN từ vùng Đông

Nam TQ như dân Triều Châu 潮州 (Triều 潮 vần tiêu 宵, giọng Mân Nam

đọc là tiau5, tio5 với âm đầu T-) chẳng hạn, cũng như nhà Trần từng có

nguồn gốc đánh cá thuộc Mân tộc (từ tỉnh Phúc Kiến), do đó hai danh từ

19

tàu và nước có phạm trù nghĩa rất đặc biệt và có vị trí quan trọng trong văn

hóa ngôn ngữ VN (‘một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ’).

5.3.6 Tàu có thể là một biến âm của đậu hay đẩu. So sánh các cách dùng

đậu hủ 豆腐 còn gọi là đậu phụ, tàu hủ; tàu vị yểu (nước tương), chè tàu

(táu) soạn ... Đẩu hay đấu 斗 có thể liên hệ đến tẩu (cái tẩu hút thuốc).

Tương quan giữa phụ âm đầu hữu thanh (đ) và vô thanh (t) vẫn còn thấy

trong tiếng Mường (Bi) như tà (đã), tach (đặt), tai (đai), tang (đang), tản

(đoàn), tảnh (đánh), tào (đào), tau (đau), tắp (đắp), tẩu (đấu), tenh

(đinh) ...v.v... Có thể tàu liên hệ đến *tao/*đao (tàu bè – xem phần 4.1 bên

trên) hay đậu (vì người Tàu rất chuộng các món đậu/đậu nành).

Tóm lại, cách dùng "mực tàu" là một trường hợp cho thấy sự thay đổi nghĩa

trong tiếng Việt từ thời CNNAGN/VBL đến thời Béhaine và Taberd, hay chỉ

trong vòng 120 năm qua con chữ La Tinh. Hiểu nghĩa cổ hơn của "mực tàu"

(hay mực thằng) thì ta có thể cảm thông phần nào hàm ý của thành ngữ

"thẳng mực tàu, đau lòng gỗ".

6. Phụ chú và phê bình thêm

Phần này không hoàn toàn theo cách ghi tài liệu (Bibliography) tham khảo

APA hay MLA vì bao gồm các phê bình thêm về đề tài, tài liệu và tác giả để

người đọc có thể tra cứu thêm chi tiết và chính xác. Các tài liệu tham khảo

chính của bài viết này là cuốn từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là

Việt-Bồ-La) in lại bởi NXB Khoa Học Xã Hội (1991); có thể tra từ điển này

trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?

20

id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=

frontcover#v=onepage&q&f=false

1) Xuồng có khả năng là biến âm của thuyền, một dạng chữ Nôm là (bộ)

chu hợp với chữ đồng hài thanh 艟 (thật ra chữ đồng này là một chữ Hán

cổ nghĩa là chiến thuyền/mông đồng 艨艟, có thể đọc là đồng, *xung/sùng

hay tràng). Chữ thuyền 船舩 (thanh mẫu thuyền 船 vận mẫu tiên 仙 bình

thanh, hợp khẩu tam đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết

食川切,音膞 thực xuyên thiết, âm thuần (TVGT, ĐV, QV, TV, LT, LTCN 六

書正?)

市專切 thị chuyên thiết (NT, TTTH)

時專反 thì chuyên phản (NTLQ 玉篇零卷)

食專切 thực chuyên thiết (LT, TTTH)

淳線切 thuần tuyến thiết (TG 字鑑)

食專乀 thực chuyên phật (TNTTĐTA 精嚴新集大藏音

重圓切 trọng viên thiết (CV)

TNAV ghi thanh mẫu xuyên 穿 vận bộ 先天 tiên thiên

CV ghi cùng vần 先椽傳遄篅船 (tiên chuyên truyền thuyên thuyền)

重圓切, 音椽 trọng viên thiết, âm chuyên (TVi)

殊倫切, 音純 thù luân thiết, âm thuần (TVi)

重員切, 音椽 trọng viên thiết, âm chuyên (CTT)

21

音純 âm thuần (CTT)

舩: 床全切, 音船 thuyền, sàng toàn thiết, âm thuyền (*soàng > xuồng)

(TViB)

...v.v...

Giọng BK bây giờ là chuán yán so với giọng Quảng Đông syun4 syun2 và

các giọng Mân Nam 客家话:[陆丰腔] son3 [沙头角腔] son2 [客英字典]

son2 [海陆丰腔] son2 [梅县腔] shon2 [台湾四县腔] son2 [宝安腔] son2 [东莞

腔] son2 [客语拼音字汇] son2, giọng Mân Nam/Đài Loan chun5, tiếng Nhật

sen và tiếng Hàn sen.

Từ thời CV (1375), phụ âm đầu lưỡi tắc đã trở thành phụ âm ngạc và xát

hóa trong tiếng Việt để cho ra các dạng xuồng và xõng, tương ứng với các

dạng Mân Nam (Triều Châu) đọc âm thuyền. Điều này còn phù hợp với

cách phiên thiết của Tự Vị Bổ (sàng toàn thiết 床全切). Các dạng này chỉ

xuất hiện sau thời VBL (1651), cho thấy ảnh hưởng của âm Mân Nam ở

Nam Bộ trong giai đoạn Nam Tiến cuối cùng trong lịch sử dựng nước Việt.

2) Bản đồ Nam Kỳ (1829) cho thấy mạng lưới sông ngòi và đầm lầy phức

tạp, do đó phương tiện di chuyển chính thường là tàu bè - trích từ trang

https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%A1c_C%E1%BB%ADu

3) con (cá) mực/octopus tiếng Trung (Quốc) còn là bát trảo ngư, bát đái

ngư, bất thị ngư, chương ngư, ô tặc, mặc ngư, hoa chi, mặc đẩu ngư 墨斗

魚 (so với cách gọi mực tàu là mặc đẩu) ... Octopus (con mực) tiếng Anh có

22

gốc Hi Lạp oktopous (okto- là tám, pous là chân) cũng giống như cách gọi

bát trảo ngư của tiếng Hán dựa vào hình thể loài vật. Cách gọi con mực

của tiếng Việt cũng dựa vào một đặc tính của loài vật này là túi mực trong

cơ thể, khi gặp nguy hiểm thì phun ra để dễ tẩu thoát (tiếng HV là ô

tặc/giặc đen hay mặc ngư).

4) Nguyễn Trãi Quốc Âm Từ điển. Trần Trọng Dương, NXB Từ điển Bách

khoa, Hà Nội 2014.

5) "Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa" 1985 Trần Xuân Ngọc Lan phiên âm và

chú giải - NXB Khoa Học Xã Hội (Hà Nội) - Viện Khoa Học Xã Hội (Thành

Phố HCM).

8) Amussis: tiếng La Tinh có nghĩa là dây đo (cordeau, règle, équerre -

tiếng Pháp). Cách dùng ê ke để chỉ cây thước vẫn hiện diện trong tiếng

Việt (từ thời Pháp thuộc).

9) Petit dictionnaire francais annamite 1884 J. B. P Trương Vĩnh Ký - NXB

Imprimerie de la Mission, a Tan Đinh, 1884 (Sai Gòn)

10) Quan điểm tàu (thuyền) chỉ người/nước Trung Hoa có lẽ khởi đầu từ

Gia Định Báo (số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16/2/1870):

"…An-nam ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là vì khách thường đi tàu qua

đây, lại dùng tàu chở đồ hàng hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu,

hàng Tàu, đồ Tàu v.v... Từ Ba-Tàu có cách giải thích như sau: Ba có nghĩa

là ba vùng đất mà chúa Nguyễn cho phép người Hoa làm ăn và sinh sống:

vùng Cù Lao Phố (Đồng Nai), Sài Gòn-Chợ Lớn, Hà Tiên, từ Tàu bắt

23

nguồn từ phương tiện đi lại của người Hoa khi sang An Nam, nhưng dần từ

Ba Tàu lại mang nghĩa miệt thị, gây ảnh hưởng xấu...".

Ý này lặp lại bởi các học giả sau này trong các từ điển về tiếng Việt như

Huỳnh Tịnh Của: ‘… Người An Nam thấy tàu khách qua lại nhiều, lấy đó là

nước Tàu …’ (trang 348, ĐNQATV/1895), Génibrel (1899), J. Bonet

(1899) ... Cũng theo Lê Ngọc Trụ ("Tầm Nguyên Tự Điển Việt Nam" 1993):

‘… Tàu: chỉ người Trung Hoa, xuất xứ do ta gọi giặc tàu ô Tàu < tào 艚 …’

11) Âm phục nguyên *tau/*tu cho các dạng chữ Hán cổ để chỉ tàu (thuyền)

còn có thể liên hệ đến đò (tiếng Việt) hay duk (tiếng Khme/Stiêng/Chrâu,

chiếc ghe), du:k (tiếng Bahna, chiếc thuyền) mà một dạng tiếng Việt là nốc

(đ > n), tiếng Mường (Bi) đốc là đò. Tiếng Hán (cổ) khi nhập các âm này

vào thường tha hóa phụ âm cuối c (k). Khả năng nguồn gốc phương Nam

của tàu (thuyền) không nằm trong phạm vi bài viết này. Xem thêm chi tiết

trang 623/195 về ngữ căn của chu và thuyền HV, "ABC Etymological

Dictionary of Old Chinese" - tác giả Axel Schuessler - NXB University of

Hawai'i Press (Honolulu, 2007).

12) Xem thêm chi tiết về bài viết của học giả An Chi trên Bách Khoa Tri

Thức trang này http://www.bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/4324-4324-

633778021918593750/

Hoi-dap-Dong-Tay/Tai-sao-nguoi-Viet-Nam-lai-goi-nguoi-Trung-Hoa-la-Tau.htm

hay Người Lao Động (22/11/2014) trang http://nld.com.vn/tieng-viet-tinh-tuy/

co-sao-goi-nguoi-trung-quoc-la-tau-20141122214910842.htm

24

Tản Mạn Về Nghĩa của "Mực Tàu" 墨艚

(phần 2)

Nguyễn Cung Thông3

Phan Anh Dũng4

Tiếp theo bài 1 "Tản mạn về nghĩa của mực tàu", phần này (bài 2) bàn sâu hơn về phạm trù nghĩa của mực và tàu qua các văn bản Hán Nôm với lăng kính văn hóa và ngôn ngữ mở rộng. Dựa vào các dữ kiện từ văn bản Hán Nôm, phạm trù nghĩa của mực (tiếng Việt) và tàu(tiếng Việt) đã từng có nhiều nét nghĩa mà hầu như ngày nay ít ai biết đến, hay chỉ còn vết tích trong một số từ kép. Một khuyết điểm của chữ La Tinh (chữ quốc ngữ) cũng có thể dễ dàng nhận ra khi mực chỉ mực viết, ghi bằng chữ Hán 墨 mặc bộ thổ, so với mực là dây ghi bằng chữ Hán 纆 mặc bộ mịch. Chữ mặc bộ thổ có tần số dùng là 25920 trên 434717750 so với chữ mặc bộ mịch (dây) có tần số dùng là 39 trên 237243358 (chữ hiếm). Cách ghi âm tiếng TQ hiện đại trongcác bài này dựa vào hệ thống pinyin (Bính Âm) phổ thông hiện nay. Các tài liệu viết tắt là TVGT Thuyết Văn Giải Tự (khoảng 100 SCN),

3 Nhà nghiên cứu, Melbourne, Úc.

4 Kỹ sư, chuyên viên nghiên cứu, Trung tâm Công nghệ thông tin Thừa Thiên Huế, Việt Nam

25

NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), Tập Vận (TV/1037/1067), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB(Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), Tự Vị Bổ (TViB/1666), KH (Khang Hi/1716), HNĐTĐ (Hán Ngữ Đại Tự Điển/1986), Thiết Vận (ThV/601), Vận Kinh (VK/1161), VBL (Dictionarium Annamiticum-Lusitanum-Latinum, Alexandre de Rhodes, 1651), PGTN (Phép Giảng Tám Ngày), VNTĐ (Việt Nam Tự Điển/1931/1954), HV (Hán Việt), Trung Quốc (TQ), BK (Bắc Kinh), tiếng Pháp (P.), tiếng Anh (A.). Phần này có trọng tâm là nêu ra các liên hệ ngữ âm nhưng không nhất thiết xác định nguồn gốc (Việt cổ hay Hán cổ …) của các trường hợp này.

1. Quá trình tiến hóa tự nhiên từ cụ thể sang trừu tượng trong ngôn ngữ

Nhìn rộng ra các ngôn ngữ khác, như tiếng Anh/Pháp có từ line (ligne P.) chỉ đường thẳng, dây và có gốc từ tiếng La Tinh linea nghĩa là sợi dây (thằng HV). Thời Trung Cổ, line tiếng Anh còn là dây để đo khi xây nhà hay mức độ, cho thấy văn hóa phương Tây phần nào triển khai từ khái niệm thẳng qua dây (đo):

on the right lines (đúng đường) hàm ý đúng hướng, đúng luật so với out of line (ra khỏi đường) hàm ý không đúng phép tắc

come of a good line sinh ra từ dòng (đường) tốt - con dòng cháu giống

official line đường lối chính thức (chính sách)

fall into line ngã /rơi (đi) vào đường chính, theo đúng (làm theo) lề lối

front line đường (tuyến) đầu, mặt trận

on the line trong tình trạng cân bằng (đường thẳng), trong tình trạng nguy hiểm

26

...

Trong thế giới điện toán ngày nay, line còn có nghĩa là đường dây điện (thoại) hay mạng (Internet) . Càng ngày càng nhiều hoạt động online (dùng mạng/Internet) như tra cứu, viết bài, mua sắm, liên lạc trực tiếp (Skype), học hành, đọc báo, nghe nhạc ...

bad line đường dây không tốt so với good line (đường dây nối tốt, tín hiệu rõ)

offline (hors ligne P.) ra khỏi đường dây, không có nối đường dây - giới công nghệ thông tin trong nước thường dùng từ “gặp gỡ offline” để chỉ việc gặp mặt trực tiếp, không qua mạng

online (en ligne P.) dùng mạng/trên mạng như online bank là ngân hàng trên mạng

...v.v...

Trong khi đó văn hóa Á Đông lại hỗn hợp mực và dây đo (trong cách dùng thằng1 mực 繩墨so với chừng mực tiếng Việt) để dẫn đến khái niệm quy củ2, lề lối, pháp luật. Mực đã chiếm vai trò chủ động (so với dây thẳng) trong các cách dùng giữ mực, ra mực, cầm mực, coi mực, mực mẹo (mực hàm ý lề lối, phép tắc), có mực (không phải là có mực viết mà có nghĩa là có lề lối/ quy tắc) … Tiếng Việt từng dùng nhiều từkép dùng mực chỉ thể thức, khuôn phép mà bây giờ ít thấy dùng nữa, vết tích còn lại trong cách dùng chỉ trạng thái như rất mực3, một mực. Trong khuynh hướng phát triển trên, văn hóa Tây phương đã dùng những từ khác nhau để chỉ mực nước: như level (tiếng Anh) và niveau (tiếng Pháp), đều có nguồn gốc La Tinh libra (cái cân, hàm ý thăng bằng). Khuynh hướng mở rộng nghĩa từ cụ thể đến trừu tượng còn thấy trong tiếng Anh: như chữ law (pháp luật) có gốc Ấn Âu *legh nghĩa là đặt xuống, để xuống (có tính chất cố định,không thay đổi) và các từ liên hệ là lay lie (nằm xuống) và law (pháp luật). Luật lệ tiếng Anh còn là là rule (règle P.) có gốc là tiếng La Tinh regula: nghĩa là cây gậy thẳng, thước kẻ ... Trong truyền thống Hán

27

văn, mặc (mực viết) mở rộng nghĩa để chỉ văn chương, màu đen và tham ô (tiêu cực) như mặc lại 墨吏 là quan chức tham ô (Tả Truyện). Quá trình mở rộng nghĩa trong tiếng Việt lại khác hẳn, mực hàm ý quycủ, khuôn phép (tích cực), theo lề lối - phù hợp với nét nghĩa mực là dây (đường thẳng) viết bằng bộ mịch. Điều này cũng phần nào cho thấy một khuyết điểm của con chữ La Tinh so với loại chữ ô vuông (Nho): không phân biệt được rõ nguồn chính xác của từ mực. Do đó ta thường gặp các từ kép như thằng mặc, mặc xích (mực thước) ... để làm rõ nghĩa mặc (mực) hơn. Vấn đề trở nên phức tạp khi mực bộ thổ (mực viết) từng được dùng như mực (dây) bộ mịch, ghi nhận trong tác phẩm Giải Trào 解嘲 của học giả Dương Hùng 揚雄 (53 TCN -18 SCN). Có thể vì khả năng lẫn lộn trên mà tiếng Việt sau này đã thêm từ mức (thanh sắc - so với mực thanh nặng - td. quá mức) để chỉ mức độ, trùng hợp với dạng mức là một loại cây có gỗ mịn dùng để làm con dấu.

2. “Mực tàu có hiệu đốc thằng thẳng ngay”

Câu trên trích từ Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa - bản chụp lại từ trang 334 cuốn "TỪ ĐIỂN SONG NGỮ HÁN VIỆT: CHỈ NAM NGỌC ÂM GIẢI NGHĨA" (CNNAGN) của TS Hoàng Thị Ngọ (NXB Văn Học 7/2016).

28

Để ý chữ Nôm mực (mặc) trong CNNAGN là dị thể hiện diện thời nhà Tống (960-1279), một điểm đáng được đào sâu để tìm hiểu thêm chính xác thời điểm CNNAGN ra đời, nhưng không nằm trong phạm vi bài viết nhỏ này.

Khái niệm thẳng (ngay) ghi khá rõ trong CNNAGN, cũng như VBL nhắc đến dụng cụ kẻ đường thẳng trên gỗ (trang 728). Đốc thằng4 trong CNNAGN (mực tàu có hiệu đốc thằng thẳng ngay) lại được NgũThiên Tự5 ghi rõ là dây tàu, rất phù hợp với nghĩa mực ghi bằng bộ mịch (nghĩa là dây) và tàu là dụng cụ đựng mực hình giống chiếc tàu. Ý này còn được bảo lưu qua thành ngữ "Thẳng mực tàu đau lòng gỗ" (Béhaine/Taberd 1772/1838, Huỳnh Tịnh Của/1895, Génibrel/1899). Vì đã ghi nghĩa của mực Tàu vào thời mình là encre de Chine, LM Gustave Hue/1937 cảm thấy quan tâm đến nghĩa của "mực tàu" trongthành ngữ trên nên mở ngoặc chua thêm dây đo (du cordeau)! Đáng

29

chú ý là thành ngữ trên chỉ còn 6 chữ "mực thẳng mất lòng (cây) gỗ cong" (VNTĐ/1931/1954), chữ tàu đã biến mất nhưng nội dung khôngthay đổi: điều này cho thấy mực đóng vai trò chủ chốt trong cụm từ mực tàu. Các dị bản của thành ngữ trên: cây vạy ghét mực tàu ngay, dây mực mất lòng cây gỗ cong ...v.v... Học giả Trương Vĩnh Ký (1886)thì ghi rõ ràng hơn

Cordeau sm. dây giăng mức, dây đo, mực tàu

Génibrel (1899) cũng ghi nghĩa của kéo mực là

Tirer le cordeau, tracer une ligne (kéo dây đo, kẻ đường thẳng) (Génibrel - trang 470)

Cần chú ý là vào thời Béhaine (1772) đến thời Taberd (1838) "mực tàu" vẫn còn hai nghĩa chính

amussis, atramentum sinicum

amussis là dây đo, thước kẻ (thẳng) và atramentum (mực) sinicum (Trung Hoa)

Nét nghĩa cổ hơn (dây đo) ăn khớp hoàn toàn với định nghĩa của mựctàu trong CNNAGN và VBL. Không phải ngẫu nhiên mà CNNAGN lại xếp mực tàu vào mục dụng cụ thợ mộc (Mộc công bộ đệ thập bát) và Ngũ Thiên Tự xếp đốc thằng vào mục Công (Phụ công khí - đệ cửu tiết). Trong đó liệt kê các đồ nghề của thợ mộc như bay, bào, đục, khoan, cưa ... và dĩ nhiên mực tàu. Cũng nên thêm ở đây là thành ngữ bốn chữ "Văn phòng tứ bảo" 文房四寶 hiện diện thời Nam Bắc Triều (420-589) hay là bút, mực, giấy và nghiên. Mực (viết) là một trong bốn đồ quý của làng văn, chứ không phải của thợ mộc. Sau khi phân tích chữ mực, chúng ta hãy xem lại chữ tàu.

30

3. Tàu không có nghĩa là người/nước Trung Hoa vào thời CNNAGN và VBL

Khi viết về thoi mực, LM de Rhodes không ngần ngại ghi là thoi (thỏi)mực của Tàu (TQ, VBL trang 774), nhưng khi viết về mực tàu thì ông lại không nhắc đến TQ. Một lý do dễ hiểu là tàu trong mực tàu, theo cách tiếp cận ngôn ngữ sắc sảo của de Rhodes, vào thời kỳ bấy giờ không có nghĩa đó. Các cách dùng tàu trong CNNAGN và VBL đều không có ý chỉ người Tàu (Trung Quốc) hay nước Tàu (theo kiểu hiểungày nay). Thí dụ như

Tức bát cả thay tàu Ngô (CNNAGN - Chu xa bộ đệ thập nhị)

...

Tàu voi có hiệu tượng tàu (CNNAGN - Cung thất bộ đệ thập nhất)

...v.v...

Để chỉ nước hay người Trung Hoa, VBL đã dùng các từ:

- Ngô (nước Ngô, thằng Ngô, bí Ngô - cũng hiện diện trong CNNAGN)

- Đại Minh (không thấy dùng Đại Thanh trong các tác phẩm còn để lại của de Rhodes)

- Nhà Hán (Xem thêm bài 1 về hiện tượng tên người/nước TQ gia tăng bội phần trong từ điển Béhaine/Taberd, Huỳnh Tịnh Của từ thời VBL)

Vấn đề sẽ sáng tỏ phần nào hơn khi xem sự khác biệt của cách dùng mực tàu và tàu mực, như học giả Génibrel ghi lại trong nét nghĩa thứ5 trong 7 nét nghĩa được liệt kê:

31

Một phần trang 730 "Dictionnaire annamite français" của

Génibrel (1899)

Tóm lại, các dữ kiện từ CNNAGN và VBL/PGTN, cũng như từ các cách ghi nhận của Béhaine/Taberd và các học giả gần đây hơn như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Génibrel đều cho thấy mực tàu không chỉ có nghĩa là mực (viết) của người Tàu (TQ) như cách hiểu hiện đại. Mực và tàu có phạm trù nghĩa rộng (xem bài 1), nghĩa dây đo (kẻ đường thẳng của thợ mộc) của mực tàu đã mai một - phản ánhquá trình tiến hóa tự nhiên của ngôn ngữ - luôn thay đổi và mang theophần nào dấu ấn của lịch sử. Cách gọi người TQ là Hán, Đường, Ngô, Đại Minh, Đại Thanh và khách, chệc, tàu, xẩm ... cho thấy vết tích trong ngôn ngữ của nhiều đợt giao lưu theo thời gian, đặc biệt là giai đoạn cuối cùng của quá trình Nam Tiến trong lịch sử mở nước và giữ nước của dân tộc ta.

4. Phụ chú và phê bình thêm

Phần này không hoàn toàn theo cách ghi tài liệu (Bibliography) tham

khảo APA hay MLA vì bao gồm các phê bình thêm về đề tài, tài liệu

và tác giả để người đọc có thể tra cứu thêm chi tiết và chính xác. Các

tài liệu tham khảo chính của bài viết này là Đại Nam Quốc Âm Tự

Vị (Huỳnh Tịnh Của - NXB Sài Gòn 1895), Dictionnaire annamite

français của Génibrel (1899), Dictionarium Anamitico Latinum

(Béhaine…Taberd 1773…1838), Petit dictionnaire francais annamite

32

của J. B. P Trương Vĩnh Ký - NXB Imprimerie de la Mission, a Tân

Đinh, 1884 (Sai Gòn), cuốn từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi

là Việt-Bồ-La) in lại bởi NXB Khoa Học Xã Hội (1991); có thể tra từ

điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn (xem thêm phụ chú 2)

http://books.google.fr/books?

id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false .

Người đọc cần tham khảo cuốn "Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa" do

TS Trần Xuân Ngọc Lan phiên âm và chú giải - NXB Khoa Học Xã Hội

(Hà Nội, 1985). Ngoài ra, để cho liên tục và rõ ý, bạn đọc có thể xem

bài viết “Tản mạn về nghĩa của mực tàu 墨艚 (phần 1 ở trên)

1) Chữ thằng 繩 (thanh mẫu thuyền 船 vận mẫu chưng 蒸 bình/khứ

thanh, khai khẩu tam đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết

食陵切 thực lăng thiết (TVGT, QV)

神陵反 thần lăng phản (NTLQ 玉篇零卷, LKTG)

神氷反 thần băng phản (NTLQ 玉篇零卷)

神仍反 thần nhưng phản (LKTG) (A)

市并切 thị tịnh thiết (NT, TTTH)

神陵切,音乗 thần lăng thiết, âm thặng/thừa (TV, VH, LT, CV)

以證切,音孕 dĩ chứng thiết, âm dựng (TV, LT, TVi) (A)

弭盡切,音泯 nhị tận thiết, âm mẫn (TV, LT)

石證切,音乗 thạch chứng thiết, âm thặng/thừa (TV, LT) (A)

33

乗融切 thăng dung thiết (VB)

時征切,音成 thì chính thiết, âm thành (TVi)

神融切, 音崇 thần dung thiết, âm sùng (TVi)

TNAV ghi thanh mẫu 審 thẩm, vận bộ 庚青 canh thanh - dương bình

CV ghi cùng vần 庚 繩 澠 譝 憴 (canh, thằng) - bình thanh

CV cũng ghi cùng vần 孕 繩 鱦 媵 (dựng thằng dắng)- khứ thanh

湥人切,音神 thốc nhân thiết, âm thần (CTT) ...v.v...

Giọng BK bây giờ là shéng, mǐn, yìng, shèng so với giọng Quảng

Đông sing4 sing2 và các giọng Mân Nam 客家话:[陆丰腔] shun3 [沙头角

腔] sin2 [客英字典] shin2 shun2 [海陆丰腔] shin2 [梅县腔] shun2 shin2 [台湾

四县腔] siin2 [东莞腔] sin2 [宝安腔] sin2 [客语拼音字汇] sin2, tiếng Nhật là

jou bin you và tiếng Hàn là sung. Các cách đọc phiên thiết của thằng

(A) cho thấy khả năng thằng đọc thành thừng mà vết tích còn trong

cách dùng dây thừng (so với thăng ~ thưng, mặc ~ mực …). Một điểm

đáng ghi nhận là QV/LKTG/NT/TTTH/TVi ghi nghĩa của thằng là 直也

trực dã (so với thí dụ ở phần trên về nghĩa của chữ line tiếng Anh).

2) Quy củ 規矩 khuôn tròn và thước vuông, nghĩa mở rộng chỉ mẫu

mực, khuôn phép (từng dùng trong Lễ Thư - Lễ Kí)

3) Alexandre de Rhodes (1651) Dictionarium Annamiticum Lusitanum

et Latinum (thường gọi là từ điển Việt Bồ La) bản dịch của Thanh

Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính - NXB Khoa Học Xã Hội

(1991). LM de Rhodes cũng viết cuốn Phép Giảng Tám Ngày

34

(Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum - 1651), trong đó

"rất mực" được dùng 10 lần như "có mẹ nào khi đói rất mực" (các

trang 259, 155, 157, 190, 245, 231, 221, 218, 216, 201) , ‘quá mực’

(trang 217) Tuy nhiên VBL chỉ ghi nét nghĩa mực (viết – VBL trang

488) và mực tàu để kẻ đường thẳng (VBL trang728) và ghi "rứt mực"

(VBL - trang 664).

4) Thằng đốc 繩督 từng có nghĩa là thẳng thắng, hiện diện trong tác

phẩm Tân Đường Thư (Vương Quân Khuếch truyện) của Âu Dương

Tu (1007-1072) và thời Minh có Trầm Đức Phù (1578-1642) cũng

dùng cụm từ này. Cụm từ đốc thằng trong CNNAGN là một chỉ dấu

cần tìm hiểu thêm để xác định thời điểm CNNAGN xuất hiện.

5) Vũ Văn Kính/Khổng Đức biên soạn (2002) Ngũ Thiên Tự - NXB

Văn Hóa Thông Tin, Thành Phố HCM. Trang 24 ghi đốc thằng - dây

tầu