thành duy thức luậntriethocphatgiao.com/files/hk7/tdtl/on.pdf · 2018-11-24 · cấu trúc...
TRANSCRIPT
Cấu trúc thành duy thức luận
Tựa Quy Kỉnh
Phần I. BIỂU HIỆN CỦA THỨC => Ngã và Pháp (kệ 1 và nửa kệ 2)
Phần II. A-LẠI-DA THỨC (nửa sau kệ 2 + kệ 3 + kệ 4)
Phần III. MẠT-NA THỨC (kệ 5, 6, 7)
Phần IV. 6 LIỄU BIỆT CẢNH THỨC (kệ 8 kệ 16 )
Phần V. SỞ BIẾN CỦA THỨC (kệ 17 và kệ 18)
Phần VI. TIẾN TRÌNH SINH TỬ (kệ 19)
Phần VII. BA TỰ TÁNH (kệ 20 kệ 25 )
Phần VIII. NGŨ VỊ: THỂ NGHIỆM CỦA THỨC (kệ 26 kệ 30 )
Phần V. SỞ BIẾN CỦA THỨC (kệ 17 và kệ 18)
I. BIẾN THÁI CỦA THỨC
II. CHỨNG MINH GIÁO NGHĨA DUY THỨC
1. Giáo chứng
2. Lý chứng
3. Các nghi vấn
III. DUY THỨC DUYÊN KHỞI
1. Bốn duyên
2. Mười nhân
3. Năm quả
IV. CHỦNG TỬ VÀ HIỆN HÀNH
BIẾN THÁI CỦA THỨC
Thị chư thức chuyển biến
Phân biệt sở phân biệt
Do thử bỉ giai vô
Cố nhứt thiết Duy thức
17
Thức chuyển hiện làm nên
Phân biệt, bị phân biệt
Do đó đều là không
Tất cả chỉ là thức
• “Chư thức”, chỉ cho ba thức năng biến đã được nói, cùng với
các tâm sở của chúng.
• “Chuyển biến”: Chúng biến tợ thành hai phần kiến và tướng
• “Phân biệt”: Cái được biến thái như là kiến phần, vì nó thu nhận
các yếu tính.
• “Sở phân biệt”: Cái được biến thái như là tướng phần, vì nó
được tiếp nhận bởi kiến phần.
• Do chính lý này, một cách xác định, không có thật ngã và thật
pháp nào tồn tại ngoài thức, vì ngoài cái tiếp nhận (năng thủ)
và cái được tiếp nhận (sở thủ) không còn vật nào khác nữa, và
vì không thật vật nào khác tồn tại ngoài hai hình thái ấy.
• Vì vậy, tất cả hữu vi, vô vi, hoặc thật, hoặc giả, thảy đều không tách
rời khỏi thức. Nói là “duy chỉ” là để phủ nhận thật vật ngoài thức,
chứ không phải phủ nhận các pháp tâm sở vốn không tách rời
thức.
• Vì vậy, tất cả hữu vi, vô vi, hoặc thật, hoặc giả, thảy đều không tách
rời khỏi thức.
• Nói là “duy chỉ” là để phủ nhận thật vật ngoài thức, chứ không phải
phủ nhận các pháp tâm sở vốn không tách rời thức.
Tóm lại, “Thức” tổng quát chỉ cho tám thức (tự tướng của thức)
mà mỗi hữu tình đều có, chỉ cho các tâm sở (tương ưng của thức), chỉ
cho 2 sở biến là tướng và kiến, và Chân như được hiển thị bởi Không
lý. Các pháp như vậy đều không tách rời thức, nên gọi chung là “thức.”
Từ “duy” là để loại bỏ quan niệm của phàm phu cho rằng nhất
định tồn tại sắc có thật bên ngoài các thức.
Vì vậy, tất cả duy chỉ là thức, vì sự tồn tại của cái phân biệt hư
vọng được chứng thực một cách phổ biến. Do vậy mà tránh xa hai cực
đoan tích cực và tiêu cực, chứng thành ý nghĩa Duy thức, khế hội với
trung đạo.
Nghi vấn
3. Há không phải rằng duy thức tính này cũng là không?
1. Nếu duy chỉ là nội thức, xuất hiện thành ảnh tợ như là ngoại
cảnh, há chằng thấy rằng trong thế gian các sự vật thuộc hữu
tình hay phi tình mà xứ sở, thời gian, thân thể, tác dụng hoặc
xác định, hoặc không xác định?
2. Duyên do gì Thế Tôn nói mười hai xứ?
4. Nếu thể của các sắc xứ cũng là thức, do bởi nhân duyên gì
mà thức hiển hiện như là tợ sắc tướng, vận hành thành một
dòng tương tục đồng nhất loại và bền vững?
8. Đã có cảnh dị biệt, sao có thể nói là duy chỉ có thức?
6. Nói rằng khi tỉnh giấc, sắc, thảy đều như cảnh trong chiêm
bao, không lìa thức. Như khi tỉnh giấc chiêm bao, ta biết đó duy
chỉ là tâm, nhưng vì sao khi giác tỉnh, lại không biết rằng cảnh
sắc mà ta đang thấy duy chỉ là thức?
7. Ngoại sắc thật sự không tồn tại, nhưng cũng có thể nói nó
không phải cảnh bên trong thức. Như tâm của người khác, há
không phải là đối tượng của ta?
5. Ngoại cảnh, sắc các thứ, được hiện chứng một cách phân
minh, được nhận thức bằng hiện lượng, sao lại bác bỏ là không
tồn tại?
DUY THỨC DUYÊN KHỞI
Thị chư thức chuyển biến
Phân biệt sở phân biệt
Do thử bỉ giai vô
Cố nhứt thiết Duy thức
17
Thức chuyển hiện làm nên
Phân biệt, bị phân biệt
Do đó đều là không
Tất cả chỉ là thức
SỞ BIẾN CỦA THỨC: chủng tử và hiện hành
Do Nhứt Thiết Chủng thức
Như thị như thị biến
Dĩ triển chuyển lực cố
Bỉ bỉ phân biệt sanh
18
Vì Thức Nhất Thiết Chủng
Nên mọi cách chuyển hiện
Nhờ sức triển chuyển ấy
Mọi thứ phân biệt sanh
Nếu duy chỉ là thức, hoàn toàn không có các duyên ngoại tại, do
đâu mà phát sinh các hiện tượng sai biệt?
Thức, hạt giống của tất cả, do tác động hỗ tương, tiến hành biến thái
như vậy, như vậy. Do bởi đó, xuất hiện cấu trúc phân biệt thế này,
thế kia
TIẾN TRÌNH SANH TỬ
Do chư nghiệp tập khí
Nhị thủ tập khí câu
Tiền Dị thục ký tận
Phục sanh dư quả thục
19
Do tập khí của các nghiệp, Cùng với tập khí của hai
loại năng thủ và sở thủ (về danh ngôn và ngã chấp),
Nên khi thân mạng của kiếp trước (tiền dị thục) đã
chết đi,
Thì nối tiếp sinh khởi thân mạng của kiếp sau.
Vì tập khí của nghiệp
Và tập khí nhị thủ
Khi dị thục trước hết
Các dị thục sau sinh.
BA TỰ TÁNH: Biến kế chấp
Do bỉ bỉ Biến kế
Biến kế chủng chủng vật
Thử Biến kế sở chấp
Tự tánh vô sở hữu
20
Do tánh Biến kế chấp nên lầm chấp
(nhận thức sai) các sự vật.
Tính Biến kế chấp nầy bản chất nó
không thật.
Do chủ thể biến kế
Có đối tượng biến kế
Tự tính biến kế chấp
Vốn là không thật có.
BA TỰ TÁNH: Y tha khởi – Viên thành thật
Y tha khởi tự tánh
Phân biệt duyên sở sanh
Viên thành thật ư bỉ
Thường viễn ly tiền tánh
21
Tánh Y tha khởi là do các duyên (các yếu tố) sai khác
mà phát sinh.
Tánh Viên thành thật là tự nó sẵn có ngay trong tánh
Y tha khởi. Nó thường rời xa tánh Biến kế chấp.
Tự tính y tha khởi
Do phân biệt duyên sinh
Tự tính viên thành thật
Là lìa hẳn tính trước
BA TỰ TÁNH: Y tha khởi – Viên thành thật
Cố thử dữ Y tha
Phi dị phi bất dị
Như vô thường đẳng tánh
Phi bất kiến thử, bỉ
22
Viên thành cùng Y tha, Chẳng khác, chẳng
phải khác,
Như vô thường của sự vật cùng với sự vật
Nếu ai chưa liễu đạt Viên thành thì không thấu
triệt Y tha.
Nên nó cùng y tha
Không khác, không không khác
Như các tính vô thường
Không này cũng không kia.
BA TỰ TÁNH: Ba vô tánh
Tức y thử tam tánh
Lập bỉ tam Vô tánh
Cố Phật mật ý thuyết
Nhứt thiết pháp vô tánh
23
Từ nơi ba tánh này
Thiết lập ba Vô tánh,
Mật ý Phật muốn bảo
Tất cả pháp Không tánh.
BA TỰ TÁNH: Ba vô tánh
Sơ tức Tướng vô tánh
Thứ Vô tự nhiên tánh
Hậu do viễn ly tiền
Sở chấp ngã pháp tánh
24
Trước hết là Tướng vô tánh, kế đến
là Vô tự nhiên tánh, và sau cùng (là
Thắng nghĩa vô tánh), vì nó rời xa
tánh Biến kế chấp vào ngã và pháp
ở trước.
Cái đầu là vô tánh
Vì tự thân là không
Cái nhì là vô tánh
Vì không tự có được
Duy thức thật tánh
Thử chư pháp thắng nghĩa
Diệc tức thị Chân như
Thường như kỳ tánh cố
Tức Duy thức thật tánh
25
Đấy tức là Thắng nghĩa tánh của các
pháp, cũng tức là Chân như, bởi vì
bản tánh nó vốn chân thật; Đấy
chính là thực tánh của Duy thức.
Cái ba là vô tánh
Vì thắng nghĩa các pháp
Vẫn là tánh chân như
Và thật tánh duy biểu
Duy thức thật tánh
Nãi chí vị khởi thức
Cầu trú Duy thức tánh
Ư nhị thủ Tùy miên
Du vị năng phục diệt
26
Người tu hành khi thức tánh chưa phát hiện,
muốn cầu được an trụ (liễu đạt) Duy thức tánh,
nhưng Tùy miên của hai thứ năng thủ và sở thủ
vẫn chưa trừ diệt được (nên chưa thể chứng
được Duy thức tánh)..
Khi còn chưa an trú
Trong thể tánh duy biểu
Thì tùy miên nhị thủ
Vẫn chưa thể phục diệt.
Duy thức thật tánh
Hiện tiền lập thiểu vật
Vị thị Duy thức tánh
Dĩ hữu sở đắc cố
Phi thật trú Duy thức
27
Trong khi tu hành mà còn thấy có đối tượng chứng
đắc, và cho đó là Duy thức tánh;
Hì vì còn có đối tượng sở đắc, nên chưa phải đích
thực an trụ (liễu ngộ) Duy thức tánh (Chân như tánh).
Dù bảo trú thức tánh
Nhưng nếu còn đối tượng
Thì vẫn chưa thật trú
Vì còn có sở đắc.
Vô sở đắc
Nhược thời ư sở duyên
Trí đô vô sở đắc
Nhĩ thời trú Duy thức
Ly nhị thủ tướng cố
28
Nếu khi ai đối với đối tượng sở duyên, quán trí không
còn thấy có đối tượng sở đắc. Bấy giờ người ấy mới
thực an trụ (liễu ngộ) Duy thức tánh, vì đã xa lìa hai
tướng năng thủ và sở thủ.
Nhưng khi nơi đối tượng
Trí không thấy sở đắc
Thì thật trú thức tánh
Vì nhị thủ đã lìa.
Đắc vô đắc
Vô đắc bất tư nghì
Thị Xuất thế gian trí
Xả nhị thô trọng cố
Tiện chứng đắc Chuyển y
29
Trí tuệ khi ly khai được với đối tượng sở đắc là trí tuệ
thần diệu không thể suy lường nổi, đấy là trí Xuất thế
gian, vì đã xả bỏ hai thứ thô trọng chướng (phiền não
chướng và sở tri chướng), nên chứng được hai quả
Chuyển y (Bồ đề và Niết bàn).
Là vô tâm, vô đắc
Nên là trí xuất thế
Chuyển đổi được sở y
Nhờ lìa hai thô trọng.
Đại Mâu Ni
Thử tức Vô lậu giới
Bất tư nghì Thiện, Thường
An lạc, Giải thoát thân
Đại Mâu Ni danh pháp
30
Đấy là quả vị Vô lậu bất tư nghì,
Là Thiện, là Thường,
Là An lạc, là Pháp thân giải thoát
Gọi là bậc Đại Mâu Ni.
Là cảnh giới vô lậu
Bất tư nghì, thiện, thường
An lạc, giải thoát thân
Ấy pháp Mâu Ni lớn.